Cả hai giáo xứ Phú Trung và Tân Trang đều là cái nôi nuôi dưỡng đức tin cho gia đình ông bà cố. Vì thế, lễ tang của ông cố (năm 2009) là dịp gia đình biểu lộ lòng biết ơn với giáo xứ nhà Phú Trung, nay lễ tang của bà cố được gia đình bày tỏ lòng biết ơn tại giáo xứ Tân Trang. Gia đình đã đọc lời cám ơn mà chính ông cố đã viết vào ngày lễ Chư Thánh năm 2008, và cũng là tâm tình của bà cố nói lên lời cám ơn hôm nay: “Tôi tri ân các đấng bậc trong Giáo Hội đã giáo huấn, vun trồng và nuôi dưỡng đức tin cho gia đình và họ đạo tôi. Nhờ ân huệ này mà chúng tôi được trở nên con cái Thiên Chúa, là anh em với mọi người. Ơn huệ độc nhất vô nhị. Tôi cám ơn quý anh chị em đã cùng tôi sống trong những cộng đoàn lớn nhỏ để cùng nhau thực hiện công tác làm chứng cho Tin Mừng tới những anh em khác. Xin cám ơn quý vị trong HĐMVGX, các đoàn thể Công Gíao Tiến hành Tân Trang, Phú Trung. Gia đình tôi được tham gia việc phục vụ trong hai giáo xứ với quý vị suốt từ năm 1974 đến nay, qua mọi thăng trầm vui buồn. Phần tôi và con cái tôi được học hỏi rất nhiều gương sáng trong tinh thần phục vụ cộng đoàn của quý vị. Tôi cũng cảm ơn các con, các cháu, anh chị em nội ngoại, mỗi khi vợ chồng chúng tôi đau yếu, nằm bệnh viện, mọi người mau mắn đến thăm hỏi, săn sóc cho chúng tôi, với cả tâm tình phụ mẫu tử, ông bà, cậu mợ, chú bác… Những người ở xa, từ miền Bắc, miền Trung cũng gọi điện thoại thăm hỏi và cầu nguyện cho chúng tôi mau bình phục. Tôi cám ơn quý bác sĩ, có vị là bạn thân của tôi, có vị trong tình bằng hữu với các con tôi. Xin cám ơn anh chị em y tá đã tận tình săn sóc tôi, lúc bệnh tật, hoặc trong giờ cấp cứu hay nằm bệnh viện. … chúng tôi cũng xin anh chị em, con cháu, bằng hữu xa gần, hãy tha thứ lỗi lầm cho chúng tôi, mà chúng tôi đã làm phiền lòng mọi người bằng cách này hay cách khác”. Được biết gia đình đã nhận được số tiền phúng điếu là 32.000.000 đồng, và theo ý nguyện của ông bà cố, gia đình sẽ dùng số tiền này vào công việc bác ái. Đưa tiễn bà cố đến nơi an nghỉ cuối cùng ở đất thánh giáo xứ Trung Chánh – Hóc Môn, trên đường về ngồi trên xe buýt, nhớ lại khuôn mặt hiền hậu, thánh thiện của bà cố trên giường bệnh, tôi nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh sớm đưa linh hồn bà cố Maria về vui hưởng hạnh phúc Nước Trời.
BÀI CHIA SẺ TRONG THÁNH LỄ AN TÁNG Lm GB NGUYỄN VĂN THÔNG (của Lm Gioan Nguyễn Lợi, 7 tháng 7, 2011, Nhà Thờ Thánh Barbara, Quận Cam) Kính thựa cha chủ tế, kính thưa đức ông, kính thưa linh mục quản nhiệm và tất cả anh em linh mục; kính thưa gia đình thân quyến của cha Thông va tất cả anh chị em.
Tôi xin được gọi cha Gioan Baotixita Nguyễn văn Thông là cha Thông cho thân mật, vì chúng tôi đã sống gần nhau quá, và cái gì cũng là cha Thông!... Tôi đã đề nghị dùng Phụng vụ Lời Chúa của lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, vì cha Thông kính yêu của chúng ta rất tôn sùng Thánh Tâm và Lòng Thương Xót. Trong những ngày cuối cùng, ngài đã chứng tỏ tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Vậy, Bài Đọc là Thư thứ nhứt của Thánh Gioan (1Ga 4:7-16); chính đoạn này đã là mạch văn của Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu của Đức Giáo Hoàng của chúng ta. Trong phần nhất, ngài đã nói về tình yêu của Thiên Chúa theo ngôn ngữ Hy Lạp, là ngôn ngữ của bản văn này; có ba từ để diễn tả Tình yêu. Anh chị em cho tôi trưng tiếng Hy Lạp, không phải vì tôi giỏi Hy Lạp, nhưng vì Đức Thánh Cha đã dùng: Philia, tình bạn; Eros, tình đăm mê; và Agapê tình yêu, tạm dịch vậy. - Về tình bạn (Philia):
Chúa Giêsu dĩ nhiên đã gọi chúng ta, và nhất là cha Thông trong chức vụ linh mục, là bạn của Ngài (Ga 15:15). - Về tình đăm mê (Eros):
Ngài đã đắm mê cha Thông và tất cả chúng ta, tới mức độ giáng trần làm người, sống một đời tầm thường và nghèo khó, nhất là chấp nhận chết trên Thập Giá trong khổ nhục. - Agapê (tình yêu) thì sao?
Chính đây là Tình Yêu của Thiên Chúa và trong Thánh Thư này đã có định nghĩa rồi. Tình yêu này, tình Agapê, là tình Thiên Chúa yêu chúng ta TRƯỚC (1 Ga 4:10). Agapê, Tình Thiên Chúa yêu chúng ta trước, với những bước đi trước, rất năng động, với nhiều sáng kiến. Chúa Cha đã yêu trước và đã thông truyền bản tính Thần Linh cho Chúa Con. Rồi Chúa Cha và Chúa Con cũng đi trước và thông truyền Tình Yêu Agapê cho Chúa Thánh Thần. Và cả Ba Vị ở trong tình yêu đi trước: luôn luôn yêu thương nhau. Nói theo hình ảnh được các Thánh Giáo Phụ dùng, Ba Ngôi luôn ôm nhau, luôn hôn nhau, luôn thương yêu nhau và cùng nhau hoạt động. Vì sao chúng ta phải đào sâu Agapê? Tại vì, Tình Yêu của Thiên Chúa, Tình Yêu Agapê này, với những bước đi trước, phải được thực hiện nơi chúng ta, như hôm nay chúng ta tề tựu đây vì yêu thương cha Thông, vì kính mến ngài; Nếu Agapê được diễn tả qua tình yêu của chúng ta đối với nhau, thì bấy giờ Tình Yêu Agapê của Thiên Chúa đạt tới tuyệt hảo (1Ga 4:12). Khi chúng ta yêu nhau bằng tình yêu, mà chúng ta thường dịch tình yêu này là Bác Ai (Caritas, Charity), với những bước đi trước theo mẫu gương của Ba Ngôi, thì bấy giờ chúng ta mới nhận thức được mục tiêu của kế hoạch cứu độ: Thiên Chúa, khi sáng tạo chúng ta, cũng đi trước. Trong thần học, người ta trước đây tranh cải nhau, đặt vấn nạn: có thể đã có một bản tính con người tự nhiên nguyên ròng, không có chất thần linh hay không? Công đồng Vatican II cùng với các thánh Giáo phụ đã khẳng định và giáo huấn này được nhắc nhở trong cuốn Giáo lý: Con người khi được sáng tạo đã là một bước đi trước của Thiên Chúa tình yêu Agapê: Thiên Chúa đã đi bước trước và tự ý ban cho chúng ta được sống ở trần gian này. Nhưng còn thêm một bước đi trước nữa: khi sáng tạo con người, Thiên Chúa đã ban ngay cùng lúc cho chúng ta có khát vọng thần linh, Thiên Chúa đã ban ngay cùng lúc cho chúng ta có khuynh hướng thần linh. Ngài đã đi nhiều bước trước! Vì thế, con người chúng ta luôn khao khát về Ngài (GLGHCG#27). Hôm nay, cha Thông của chúng ta không những khao khát về với Thiên Chúa, mà ngài thật sự đang ở trong Thiên Chúa của tình Agapê: chính cha Thông, hôm nay nhờ ánh sáng Chúa Thánh Thần, đang cảm nghiệm được Thiên Chúa đã yêu ngài trước: Thiên Chúa đã ban cho cha Thông sống cuộc đời con người, và nhất là khi làm linh mục; vì Chúa Giêsu đã khẳng định: Ngài chọn chúng ta, chứ không phải chúng ta chọn Ngài (Ga 15:16). Chúa chọn, nghĩa là Chúa đã đi bước trước, với tình Agapê. Cuộc đời cha Thông có quá nhiều gian truân. Chúng ta tạm gát qua chuyện ở Việt Nam; ngay tại Mỹ, chúng ta cũng tạm gát qua một phần. Tôi chỉ xin nói tới những lúc tôi được cận kề ngài tại Phanat Nikhom, Trại Tị nạn Thái Lan; ngài làm mục vụ tại Mỹ một thời gian rồi về hưu. Và về hưu nhiều lần. Lần thứ nhứt,
ở với tôi; rồi tạm thời lại đi làm mục vụ, rồi lại về hưu với tôi: anh em ở với nhau, giúp đở nhau. Ngài rất ít nói và chịu đựng quá nhiều. Phải nói về những lần ngài kiên nhẵn ở trong nhà thương và chúng tôi đi thăm để chăm sóc phụ đôi chút. Về lại nhà, ngài được chúng tôi chăm sóc chu đáo hơn: Ngài sẵn sàng chấp nhận cảnh huống của mình. Nhưng có một lần, tôi xin tâm sự, có một lần ngài khóc. Tôi hỏi: Sao vậy? Ngài trả lời: Không biết có lành được không. Sau đó, ngày khác, ngài khóc thêm một lần nữa. Tôi mới nói với ngài: Cha Thông ơi, mình có niềm tin; nếu không lành, mình về với Chúa, mình hưởng hạnh phúc, mình đạt được đích điểm của đời người. Nhưng şau đó, tôi hối hận. Vì sao? Một cha bạn, cũng là ân nhân của ngài, một lần kia tâm sự với tôi qua điện thoại: Hôm nay tôi đau bụng quá, tôi cảm thấy khó chịu, rồi nghĩ tới cha Thông; chắc ngài đau đớn lắm! Nhờ vậy, về sau tôi quan sát: những lúc nằm trên giường, ngài nhìn vào Thập Giá; khi nào ngủ được thì ngủ; nhưng mở mắt ra là nhìn Thập giá. Có những lần nghe ngài cầu nguyện: Chúa ơi, cứu con với; Chúa ơi, cứu con với! Hôm nay, cha Thông đang ở trong sự an nghỉ và hạnh phúc nhờ Tình Yêu bước trước của Thiên Chúa. Chúng ta tất cả đều là tội nhân, chúng ta hình dung cha Thông của chúng ta ở trước mặt Chúa: ngài cũng xin lỗi Chúa điều này điều kia, như đứa con hoang đàng đã dọn sẵn một cáo trạng của chính mình. Nhưng Thiên Chúa của Agapê, với những bước trước, qua hình ảnh người bố nhân từ đã chận ngay đứa con hoang đàng, không để con mình xưng hết tội; bố nhân từ ban ngay lệnh tổ chức yến tiệc linh đình để ăn mừng con mình trở về Nhà Cha. Cha Thông hôm nay cũng được cảm nhận tình yêu Agapê của Thiên Chúa: xưng thú chưa hết tội mình thì Thiên Chúa của Agapê, của bước trước, bảo: Thôi, biết rồi; nhất là giai đoạn sau này, con đau khổ quá nhiều, mà con vẫn giữ niềm tin; con cầu nguyện vắn tắt lắm (như Hồng Y Phanxicô Xaviê Thuận kế lại đời lao tù và được Đức Thánh Cha trích dẫn: Có những lúc cầu nguyện không nổi nữa, không có sức cầu nguyện, không có can đảm cầu nguyện, nhưng bám vào những lời nguyện vắn tắt, những kinh vắn tắt, để cầu nguyện; cha Thông của chúng ta đã sống tâm trạng của Hồng Y Phanxicô Xaviê). Và rồi Chúa Giêsu nói với cha Thông: Bây giờ Ta cho Chúa Thánh Thần soi sáng để con thấy rõ nhe! Chúng mình tưởng tượng: bấy giờ cha Thông thấy rõ, thấy thật rõ: thì ra, ngài đang ở trên vai của Chúa Giêsu, của Chúa Giêsu Mục Tử: Chủ Chiên Giêsu đang vác ngài về Quê Trời! Đó là tinh thần của Phúc Âm theo Thánh Mátthêu (Mt 11:25-30) mà chúng ta vừa công bố: t Teo phong tục Do thái, người chăn chiên phải đi trước đàn chiên, người chăn chiên phải có tình yêu Agapê với những bước trước, với nhiều sáng kiến, để sẵn sàng đấu tranh với mọi nghịch cảnh hầu bảo vệ đàn chiên. Và Đấng Chăn Chiên này có một điểm lạ kỳ: Ngài thích làm ra những cái ách. Mà ách thì thường thường để cho bò ngựa trâu cùng kéo, cùng hè nhau mà kéo; còn Ngài là Đấng Chăn Chiên làm ra những cái ách sẵn cho những con chiên của mình. Ách của Ngài chỉ là loại ách đôi. Tất nhiên, Ngài kéo và Ngài để một chỗ trống. Ngài bảo: Hãy tới để mang lấy ách của Ta, vì ách của Ta êm ái và gánh của Ta nhẹ nhàng. Vì sao? Vì Chúa Giêsu Kitô cũng có biệt danh Emmanuel (Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta): Ngài cùng kéo vì muốn đồng hành với chúng ta, nhất là trong những thử thách! Ngài biết cuộc đời của chúng ta luôn luôn phải đi qua đau khổ; tránh mọi khó khăn, tránh mọi đau khổ, không được! Ngược lại, phải làm sao cho những đau khổ ấy trở thành những lúc mà chúng ta cảm thấy Emmanuel với chúng ta, Chủ Chiên với chúng ta, để rồi chúng ta đưa cổ vào cái ách của Ngài: Ngài cùng đi, Ngài cùng kéo, cho nên Ngài bảo: ách của Ngài êm ái, gánh của Ngài nhẹ nhàng! Tại vì Ngài yêu chúng ta rất nhiều nên Ngài kéo hết mình: lực kéo chính là lực của Ngài; chúng ta chỉ dựa theo mà kéo thôi, cho nên ách của Ngài trở thành ách chung của Ngài và của chúng ta và luôn là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng. *** Tới đây, tôi xin kết thúc với câu chuyện của Mục Tử Nhân Lành mặn mà tình Agapê: Ngài vác cha Thông về Nhà Cha, mà vác một cách êm ái nhẹ nhàng. Một ngày kia, tổng giám mục Fulton Sheen đã giảng về Mục Tử Nhân Lành, đang vác chúng ta đi về Thiên Đàng. Và đó là hình ảnh rất quen thuộc của giáo hữu bị bách hại đang sống đời hầm trú tại Rôma; chính Đức Thánh Cha, trong những sách về Phụng vụ của Ngài, thường nói, mỗi lần chúng ta dự Phụng vụ, như hôm nay cùng với cha Thông, là chúng ta xin Chúa Giêsu đưa chúng ta lên vai của Ngài. Thế là Chúa Giêsu vác chúng ta về Thiên Đàng. Hôm nay cha Thông được vác những bước cuối cùng, còn chúng ta thì có thể Chúa Giêsu Kitô bảo: thôi, Ta vác mỗi ngày hay là mỗi tuần một lần, sau đó Ta thả cho đi. Hôm sau hoặc tuần sau, trở lui lại để Ta vác tiếp lên vai và ban thần lực của Thánh Thần Tình yêu Agapê. Đó là ý nghĩa của mỗi Thánh Lễ. Tổng giám mục Fulton Sheen đã kể câu chuyện này, trong một bài giảng, mà ngay Crystal Cathedral Palace cũng đã cho phát lại. Ngài rất thân với mục sư Robert Schuller. Tổng giám mục tâm sự: có một lần tôi ngắm nhìn một bức họa, họa một người không to lớn lắm, nhưng đang gồng mình gánh một người nằm trên vai. Người này mập lắm. Có lẽ quên “diet” nên rất là mập. Người cổng người mập ẩy đang gồng mình nhiều lắm; nhưng phía sau, trên thân thể của người mập đang nằm trên vai, có dòng chữ: Người này nặng lắm, nhưng... là em tôi. Người này nặng lắm nhưng là em tôi! Chúng ta đã khiến cho Chúa Giêsu Kitô phải vác chúng ta, là đàn em của Ngài. Chúng ta nặng lắm; cha Thông cũng như mỗi người chúng ta phải khiêm tốn tự nhận là nặng. Nhưng Chúa Giêsu Kitô xác định: Đối với Ngài, vẫn êm ái nhẹ nhàng, vì Ngài đang gánh, đang vác em cưng của Ngài! Ngài vác, Ngài gánh với tình Agapê, với những bước trước của Tình Yêu Thiên Chúa, với những bước trước đầy năng động để đưa chúng ta đi, tình yêu với nhiều sáng kiến để giúp chúng ta thắng vượt khó khăn nếu biết tựa vào tình yêu Agapê được thông ban cho chúng ta qua Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần đã đi bước trước, khi ban cho chúng ta đức Tin đức Cậy đức Mến qua Bí tích Rửa Tội; và rồi, để đức Tin Cậy Mến có thể hoạt động, tình yêu của Chúa Thánh Thần lại đi thêm một bước trước: Ngài khởi động đức Tin Cậy Mến bằng ơn soi sáng, bằng ơn thúc giục. Chúng ta tiến lên rước Chúa Giêsu, chúng ta thỏ thẻ với Ngài: đáng lẽ chúng con cầu nguyện cho chúng con mỗi người hay là cho những nhu cầu của gia đình, v.v... Nhưng hôm nay chúng con xin cầu nguyện riêng cho cha Thông. Và khi cầu nguyện cho cha Thông, chúng con không xin Chúa thứ tha tội lỗi, tại vì chúng con biết Agapê đi bước trước, luôn sẵn sàng tha thứ. Chúng con xin Chúa cho chúng con kết hiệp với cha Thông để tạ ơn Chúa vì Tình Yêu với những bước trước của Chúa đối với ngài, và hiểu ngầm đối với mỗi người chúng con; xin Chúa cho chúng con được sống sao cho xứng đáng là những người Kitô hữu với Bác ái đi bước trước đầy năng động, để rồi Tình Yêu Agapê của Thiên Chúa trở thành tuyệt hảo nơi Bác ái năng động của chúng con, để rồi lương dân thấy Bác ái năng động Kitô giáo, là tình yêu Agapê với bước trước của Thiên Chúa đang sinh hoa kết quả đáng được tìm hiểu và yêu mến, để rồi Gandhi không còn có lý do mà nói: Phục Đức Kitô nhưng không phục Kitô-hữu; hoặc một văn hào khác đã nói: Người làm chậm bước tiến của các vị thừa sai chính là các Kitô-hữu! Khi nói như vậy, văn sĩ tỏ ra chưa có thần học bao nhiêu hoặc chưa mấy lạc quan; đáng lẽ văn sĩ phải thêm một câu: cầu mong sao tất cả Kitô-hữu sống tình yêu Agapê với năng động đầy sáng kiến, với tình Bác ái bộc phát, sinh động, không đợi mọc mời, không chờ van xin, với rất nhiều bước đi trước, như đã được quan sát ở cuộc sống Bác ái năng động của những chứng tá Tin Mừng, Mẹ Têrêxa, chẳng hạn. Có thế, chúng ta sẽ chinh phục thế giới cho Chúa Giêsu Kitô của chúng ta, để mọi người nếm được hạnh phúc chân thật của Ngài ngay ở gian trần này, vì Agapê của Thiên Chúa Tình yêu đang đạt được sự tuyệt hảo trong cuộc sống Kitô-hữu đầy Bác ái năng động. Cha Thông kính mến, Tôi xin đại diện tất cả những người đã giúp cha với tình yêu đi trước. Tôi rất cảm động vì sự hiện diện của các cha tại đây tới mức độ không còn ghế, phải lấy ghế thêm. Anh chị em thấy không? Thôi, không khen các cha kẻo có người cho là anh em linh mục chúng tôi nịnh nhau. Tôi chỉ tâm sự một chút về giáo dân. Khi cha Thông và tôi xuống đây, người ta tự động giúp. Giáo dân tự động giúp. Dĩ nhiên, có những lúc rất khó khăn, phải thế này thế kia. Nhưng chung chung, thật đúng là Agapê với những bước trước, đến nỗi có những câu nói làm tôi nhớ mãi khi về lại Bellingham gần Seattle. Trở lại đây, chính những câu nói như sau khiến tôi vừa quí mến giáo dân và vừa hãnh diện cho các anh em linh mục mình: Thương cho cha Thông suốt cả cuộc đời phục vụ trong chức linh mục như vậy, mà vào những tháng cuối cùng kể như “homeless”; thương cho linh mục lo cho giáo dân mà tới những giây phút cuối cùng hơi gặp khó khăn! Rồi khi biết tôi giúp cha Thông thì giáo dân vừa giúp cha Thông vừa giúp tôi để tôi có sức phục vụ cha Thông. Anh chị em giáo dân đã tự động, rồi tranh nhau nữa, để giúp đỡ. Anh chị em thấy không? Đó là Agapê của Thiên Chúa đang đạt được sự tuyệt hảo, đó là Agapê đã trở thành Caritas, Charity, Bác ái sinh động với nhiều bước đi trước. Cho nên tôi rất hãnh diện đã gặp được những Kitô-hữu như vậy tại quận Cam này; và chắc là tôi có thể kết luận từ đó: giáo dân quận Cam chung chung tốt như vậy! Chúng ta xin Thiên Chúa cho chúng ta luôn tiếp tục sống Agapê, sống Bác ái với bước trước đầy năng động; nói như thánh Phaolô, chúng ta xin luôn là những Kitô hữu hăng say làm việc thiện (Gal 6:9). Cha Thông kính yêu, nhớ cầu nguyện cho chúng tôi được ơn ấy nhe!
Trời sáng nay và mấy ngày nay âm u và mưa bão. Dường như trời đất cũng đang biểu lộ lòng thương tiếc trước sự ra đi của Cha cố Gioan B. Vòa lúc 17 giờ 00, ngày 03 tháng 8 vừa qua, Chúa gọi ngài về nhà Chúa, kết thúc hàng trình 84 năm dương thế, 54 năm Linh mục. Mặc dù trời mưa bão, số Linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân vẫn tuôn về dự Thánh lễ An táng khá đông đủ. Nhà thờ ngày thường vốn rộng nay không đủ cho người tham dự, phải làm thêm mái vòm. Đúng như chương trình, 8 giờ 30 bắt đầu Thánh lễ An táng Cha cố Gioan B. Thân Văn Vinh tại Giáo xứ Thiết Nham, hạt Phước Lý. Thánh lễ An táng do Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Chinh, Giám mục Xuân Lộc chủ sự, cùng đồng tế có Đức ông Vinh Sơn – Tổng đại diện, cha Viện phụ Đan viện Xitô Khiết Tâm- Phước Lý, quý cha Quản hạt, với hơn 70 Linh mục trong và ngoài Giáo Phận, một số đông đảo quý tu sĩ nam nữ, thân nhân và anh chị em Giáo dân thuộc giáo xứ Thiết Nham và các giáo xứ trong hạt Phước Lý. Mở đầu Thánh lễ, Đức cha Đaminh lược qua cuộc đời Mục tử của cha cố Gioan B. với những trọng trách được giao và ở nhiệm vụ nào ngài cũng hoàn thành xuất sắc. Đức cha nêu bật gương sáng Mục tử như lòng Chúa mong muốn của cha cố Gioan B. luôn vui tươi, sống gắn bó với sứ vụ với đoàn chiên, luôn đón nhận và sống ý Chúa đến hơi thở cuối cùng. Cha giáo Phêrô Nguyễn Thanh Sơn phụ trách chia sẻ Lời Chúa. Trong bài giảng khởi đi từ thân phận mỏng giòn của con người, bi quan bế tắc trước cái chết, ngài làm nổi bật giá trị Cứu độ sự chết của Chúa Giêsu trong sức mạnh Tình yêu. “Sức mạnh đó không đến từ quyền lực thống trị mà xây đắp bằng Tình yêu. Tình yêu làm rạng ngời vinh quang từ bóng tối của thất bại ê chề; Tình yêu làm nảy mầm sự sống từ đáy thẳm sự chết. Thập giá Đức Kitô là một minh chứng hùng hồn cho sức mạnh vô biên của Tình yêu ấy…”. “Đây là điều mà Cha cố Gioan B. của chúng ta cảm nghiệm sâu xa – nhất là trong những chặng cuối cuộc hành trình trần thế của mình. Giữa một thế giới mà tiền bạc và sở hữu đang được nhiều người xem là một thứ đảm bảo duy nhất, giữa một xã hội mà bằng cấp và địa là một phương tiện để tiến thân thì Cha cố chọn cho mình một nền tảng vững chắc khác. 84 năm làm con Chúa, 54 năm làm Linh mục, từ chủng viện Alberto Nam Định đến những năm dài miệt mài tu học ở Hồng Kông, Genova, Roma; từ Long Xuyên đến Đà Lạt, Xuân Lộc cùng với tháng ngày tận tụy với giảng dạy, đào tạo và phục vụ, và ngót 1/3 cuộc đời đau yếu trên giường bệnh, cuộc đời Cha là một minh chứng cho sức mạnh Tình yêu và niềm hy vọng…” Cuộc đời của Cha Gioan B. phải đối diện với nhiều bệnh tật, nhất là trong những năm cuối đời của Cha cố, đó như một Hiến tế Thập giá góp phần nhiều cho việc làm sáng danh Chúa và mưu ích các Linh hồn. “Cha đã học nơi Chúa Giêsu cách sống thế nào để biến đổi thập giá thành Thánh giá”. Từ cuộc đời ngời sáng niềm tin vào sức mạnh Tình yêu Thiên Chúa, Cha cố Gioan B. đã để cho chúng ta nhiều bài học cho đời Mục tử, sống Đức tin. Chẳng hạn, bằng cuộc đời âm thầm lặng lẽ, thánh thiện của Cha cố Gioan B. là một bài học lớn về tinh thần phục vụ trong khiêm tốn yêu thương; Với cuộc sống luôn biết vui đón nhận mọi thử thách, đau khổ của Cha cố giúp ta biết khám phá ra những điều kỳ diệu và lớn lao về Hồng ân Chúa ẩn chứa trong cuộc sống tưởng chừng như vô vị, tẻ nhạt… Bài giảng kêt thúc với ước mong ngọn lửa tin yêu và hy vọng đã được thắp sáng nơi cuộc đời Cha cố Gioan B. vẫn tiếp tục cháy mãi, sáng mãi trong suốt hành trình hiện tại của mỗi chúng ta. Trước khi Thánh lễ An táng kết thúc, cha Quản hạt Phước Lý công bố bản Di chúc của Cha cố Gioan B. được làm tại Thiết Nham. Một lần nữa, bản Di chúc làm nổi sáng vị Mục tử nhân lành, sống đơn sơ khó nghèo và đầy tín thác vào Chúa. Mở đầu bản di chúc là lời tán tạ Hồng ân Chúa, tuyên xưng Đức tin Tông truyền; kế đến là lời xin lỗi tri ân quý Đức cha, Cha Bảo trợ, quý Cha, qúy Tu sĩ cùng cộng đoàn Dân Chúa và với tất cả những ai ngài quen biết… Cuối lời di chúc, cha cố hẹn gặp lại nhau ở nhà Cha trên trời. Cha Quản hạt, trong tâm tình Tạ ơn xin đại diện cho anh em Linh mục đoàn và Giáo dân hạt Phước Lý, cách riêng giáo xứ Thiết Nham cùng gia đình Linh tông huyết tộc của Cha cố G.B, xin dâng lên Đức cha, Đức ông, Cha Viện phụ, quý Cha Quản hạt, quý Cha đồng tế, quý Tu sĩ nam nữ, cùng mọi người lời tri ân cảm tạ. Sau bài cám ơn của cha Quản hạt, linh cữu Cha cố Gioan B. được đưa đến phần mộ trong khuôn viên nhà thờ. Đức ông Vinh Sơn, Tổng đại diện cử hành nghi thức tiễn biệt. Đức cha Đaminh cùng tất cả Anh Em Linh mục đồng tế, Tu sĩ nam nữ và một số Giáo dân đại diện (phần đông giáo dân còn lại đứng tại chỗ trong Nhà thờ tiễn biệt) cùng tiễn đưa cha cố Gioan B đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau nghi thức tiễn biệt tại phần mộ, những cánh hoa yêu thương và trân trọng Cha cố được trao gởi về lòng đất mẹ với cha cố Gioan B. Kính yêu như lời cầu nguyện trao dâng Linh hồn Cha cố Gioan.B cho lòng nhân hậu của Chúa. Lời cuối sau gởi cha cố Gioan B kính yêu, sau Thánh lễ An Táng Kính thưa Cha cố G.B, Nhìn vào bảng Tiểu sử của Cha cố, chúng con thật ngưỡng mộ về hành trình học thức - học vị của Cha; song điều chúng con ngưỡng mộ hơn cả là hành trình 54 năm Linh mục của Cha luôn tỏa sáng hình ảnh vị Mục tử- Người Tôi Trung theo Chúa. Chúng con cảm ơn Chúa, cảm ơn Cha đã chọn về Gia đình Giáo hạt Phước Lý sống đời mục tử, nêu gương sáng Thánh Thiện đến hơi thở cuối cùng, và cha đã đóng góp phần nhiều cho gia đình Giáo hạt, nhất là trong những năm dưỡng bệnh của Cha. Quả thế, cha luôn đón nhận trong vui tươi mọi gánh nặng bệnh tật, tuổi tác, không phải một vài ngày mà là hành trình nhiều năm tháng. Trong Đức tin, chúng con nhận ra nơi Cha như Hiến tế đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Thập giá của và cho Giáo hội- Giáo Phận và cách riêng với Giáo hạt Phước Lý chúng con. Thưa Cha cố G.B kính yêu. Đứng trước sự ra đi về nhà CHA trên Trời của Cha cố, cho chúng con cảm nghiệm sống động sinh ký tử quy của phận người mong manh. Hành trình dương thế 84 Năm của Cha cố kể như đạt quá ngưỡng Thượng Thọ mà ai cũng mong mỏi, ấy thế mà sao qúa ngắn ngủi. Cha đã cho chúng con cảm nghiệm sâu sắc: Nhà Cha trên trời mới là quê hương đích thực chúng con phải hướng tới. “CON SẼ CHÚC TỤNG CHÚA ĐẾN MUÔN ĐỜI” (Tv 82,2). Câu tâm niệm Cha chọn sống, cả cuộc đời gắn bó và đã tỏa sáng trong cuộc đời của Cha nay tiếp tục và mãi mãi nơi Vĩnh phúc Thiên đàng. Ở bên Tòa Chúa xin Cha luôn nhớ đến Giáo Phận- Giáo hạt- giáo xứ Thiết Nham thân yêu của chúng con. ------------------- Tin ảnh: Ban Truyền thông Hạt Phước Lý
1. Mười cô trinh nữ được cắt cử đi đón chàng rổ từ phương xa đến dự tiệc cưới, hẳn là những người được chọn lựa rất phù hợp với nghi thức đón rưức trang trọng này như: ăn mặc đẹp và cầm đèn sáng trong tay. Xét về hình thức bên ngoài thì mười cô như một: hấp dẫn như nhau, có đèn sáng trong tay như nhau, cùng chờ chàng rể như nhau...Và cuối cùng: khi chàng rể đến muộn, thì cùng thiếp ngủ đi như nhau! Duy có một cái khác, mà chỉ khi chàng rể đến mới phát hiện ra, đó là: năm cô khôn ngoan thì mang dầu thêm để châm vào đèn, còn năm cô không khôn ngoan thì không mang dầu dự trữ theo khiến đèn tắt ngủm! Đi mua dầu về thì quá trễ, họ bị gạt ra khỏi nơi hoan lạc. 2. Cuộc sông của người Kitô hữu cũng vậy. Tất cả chúng ta sông đời thường ngày giống nhau: tất cả cùng phải làm ăn bon chen để có cơm no áo ấm, có hạnh phúc cho gia đình: vợ chồng, con cái, có thăng tiến cộng đoàn, xã hội, đất nước.. Nhưng người Kitô hữu khôn thì còn biết lo cái khác nữa như năm cô trinh nữ khôn ngoan: trong khi bận tâm lo cho bản thân và gia đình được hạnh phúc đời này, thì đồng thời vẫn không quên mưu tìm hạnh phúc đời sau, không quên tích góp vào quĩ tiết kiệm sinh lợi đời đời bằng thứ của cải thiêng liêng: kinh nguyện, thánh lễ hằng ngày, hy sinh, chia sẻ, tự chế, từ tâm, phục vụ lẫn nhau và xây dựng Giáo hội. 3. Chẳng biết ngày nào chàng rể là Vua Giêsu sẽ đến xét xử, nhưng nhất định có ngày đó cho mọi người, có thể còn lâu, mà cũng có thể gần, và rất gần nữa là khác! Xin Chúa cho chúng ta biết sông xứng đáng, lúc nào cũng sẩn sàng đón Chúa, để cái chết không còn là một nỗi đe dọa đáng sợ, nhưng là biến cố chúng ta có thể đón nhận cách bình thản và phấn khởi. Amenế (Trích Chết - Mầu Nhiệm Vượt Qua tr. 34)
GIẢNG: Kính thưa ông bà anh chị em, Cùng với ông Tôma, chúng ta tất cả đã được chìm mình trong dòng nước tái sinh, đã nhận lấy cây đèn của đức tin và thề nguyền để bước đi theo Chúa Kitô, ánh sáng cứu độ. Ngọn đèn đức tin ấy được trao phó cho ta chăm nom, gìn giữ, duy trì để nó luôn sáng rực cho đến khi Con Thiên Chúa đến gặp chúng ta vào ngày Ngài vĩnh thăng. Tâm tình ấy được nhắc nhở với chúng ta qua hình ảnh của mười cô trinh nữ hôm nay. Nhận lấy nhiệm vụ đón chàng rể, các cô phải luôn biết rằng không ai biết được giờ chàng rể đến. Chính vì thế, họ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Tỉnh thức để canh chừng kẻo vì mê mệt mà ngủ thiếp đi. Sẵn sàng để khi chàng rễ đến đã có đèn cháy sáng với dầu đầy bìng trong tay. Điều mà chúng ta thấy bài Phúc Am hôm nay là ít nhất đã có ½ tức một nữa các cô đã không sẵn sàng và tỉnh thức. Mọi chuyện sẽ trở thành muộn màng và vô nghĩa khi chàng rễ đến thăm và khi cửa phòng đã đóng chặt lại. Rõ ràng chỉ những ai luôn biết mang đến sớm và đầy bình, kẻ ấy mới được dự phần tiệc cưới hân hoan cùng chàng rễ. Với bà Maria, chúng ta có thể tin chắc chắn, khi chúng hoài nghi về sự chuẩn bị cho ngày ra đi của mình. Suốt một năm qua, bà đã xưng tội, rước lễ mỗi tuần. Đặc biệt trong lần cuối cùng vào ngày thứ 2 trước khi đi cấm phòng, bà như đã được ơn để biết rằng giờ ra đi về nhà Cha đã gần. Vì thế bà đã xưng tội và lãnh các phép sau cùng với một tâm hồn thánh thiện và sốt sắng. Cho đến lúc cuối đời, bà vẫn một niềm kiên trung và tuyên xưng đức tin vào Chúa. Niềm tin ấy bà đã tuyên xưng trong suốt cả cuộc đời mình. Đó là một niềm tin đã được thử thách, được trưởng thành qua mọi thăng trầm nghịch cảnh của cuộc sống. Thật vậy giữa những phong ba bão táp của cuộc sống trần gian, của cuộc đời làm vợ, làm mẹ và làm bà, giữa những vất vả gánh nặng của gia đình, những hy sinh trong cuộc đời âm thầm phục vụ và ngay cả những lúc cuộc đời dường như hất hủi, bỏ rơi, đó là khi bà sống những ngày tháng cuối đời ở mảnh đất Xuân Đường, khó khăn, phức tạp và thiếu thốn vật chất và đặc biệt tinh thần này, lòng bà vẫn không chút nghi ngờ, ngọn đèn đức tin của bà luôn được gần gũi, chăm nom để không một phút giây tắt lịm, đen tối. Vì vậy, trong một năm cuối đời, Chúa đã dành cho bà sự ưu ái qua sự hiện diện của vị chủ chăn trong Giáo xứ. Như năm cô trinh nữ khôn ngoan, đã không hề ngủ thiếp đi và nhất là không vì ơ hờ mà chểnh mảng việc châm dầu vào đèn, đón chờ chàng rễ đến. Cả cuộc đời, bà luôn thắp sáng niềm tin yêu, cậy mến. Vì thế giờ Chúa đến, bà đã sẵn sàng để ra tiếng gọi của Chúa, về nhà Cha để hưởng hạnh phúc sau cả một đời đã trung thành với đức tin của mình. Kính thưa ông bà anh chị em. Cái chết của bà Matta lần nữa giúp chúng ta cảm nghiệm sâu xa lời Chúa dạy hôm nay. Như bà Matta, chúng ta phải luôn biết sống trong sự tỉnh thức và sẵn sàng với đèn cháy sáng trong tay. Đây là việc cần thiết mà có lẽ người thời nay, do cuộc sống vất vả khó khăn đã không mấy quan tâm và chuẩn bị. Chớ gì chúng ta biết rút ra cho mình một kinh nghiệm để kiểm điểm lại cách sống của chúng ta. Chúng ta đã biết châm dầu vào đèn bằng cách siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và thực hiện các việc bác ái yêu thương như Chúa mời gọi không? Giữa những chiều giông to gió lớn của những cám dỗ giàu sang địa vị, đam mê dục vọng, chúng ta có biết giữ những ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng bằng việc triệt để vâng nghe theo Giáo huấn của Giáo Hội chưa! Xin cho chúng ta biết nhìn ra qua cách sống của bà Maria, lời mời gọi để chuẩn bị cho ngày ra đi của mình. Xin cho chúng ta luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng để khi Chúa đến, chúng ta cũng như bà Matta đã có được ngọn đèn cháy sáng đón Chúa Kitô và vào hưởng hạnh phúc vinh quang Ngài muôn đời. Amen.
Một người đã từng bị cá voi nuốt vào bụng có thể nào kể lại tai nạn chính mình đã gặp được không? Theo suy luận khoa học chắc là không. Nhưng câu chuyện sau đây lại chứng minh trái ngược hẳn. Hồ sơ chính thức của hải quân Anh có ghi rõ ràng bằng chứng về vụ này. Nạn nhân là Janec Barlay, một thuỷ thủ người Anh đã bị cá voi nuốt nhưng đã sống lại để kể về câu chuyện này. Anh ta nhớ lại lúc con tàu hất tung khỏi mặt biển, người anh ta bị hất lên cao và lúc rơi xuống, anh ta nhìn thấy một cái miệng khổng lồ và dễ sợ đang chờ đón anh. Anh kêu thét lên khi lọt vào chiếc miệng đó, thân hình cảm thấy cực kỳ đau đớn, khi lướt qua những chiếc răng, tuy nhỏ nhưng thật sắc của con vật. Rồi anh thấy người như bị trôi tuột xuống một cái hang tối om. Anh cố gắng vùng vẩy và cảm thất bị nghẹt thở, chân tay đấm đá lung tung rồi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi tỉnh lại cả tháng sau đó trong phòng riêng thuyền trưởng. Như vậy là Janes Barlay đã ở trong bụng cá voi suốt 15 giờ. Kết quả là những ngọn tóc trên đầu, những sợi lông trên khắp thân hình đều bị mất, da dẻ như bị nhuộm màu trắng bệch trông dễ sợ và cặp mắt gần như bị mù loà suốt đời. Nếu như sự trở về của Janes Barlay từ trong bụng cá voi đã trở thành một sự kiện quá lạ lùng, hy hữu thì việc người đã chết, được phục sinh với cuộc sống lại càng là một điều khó tin hơn nữa. Thế nhưng điều mà con người không có khả năng nhận thức thì thật sự đã xảy ra nơi Đức Kitô Con Thiên Chúa. Để giải thoát và dẫn đưa con người vào một cuộc sống mới, Con Thiên Chúa đã đi vào con đường hy sinh tự hiến. Cái chết trên thập giá đã từng báo trước không làm cho các tông đồ bớt lo âu và khủng hoảng. Thế nhưng đúng như lời Ngài đã nói, không đủ 3 ngày sau, từ trong mồ đá lạnh lẻo Ngài đã phục sinh. Biến cố ấy đã được chứng nhận bởi những lần hiện ra ở những không gian, thời gian và bởi nhiều người khác nhau. Nó xác thật đến nỗi suốt 20 thế kỷ nay, có biết bao nhiêu đoàn người sẵn sàng dâng hiến đời mình để minh chứng cho chân lý ấy : một chân lý không chỉ liên quan đến Đức Kitô, nhưng đến với mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô trong thư gửi Rôma đoạn 5 đã hé mở cho chúng ta niềm hy vọng khi nói : “Nếu bởi tội một người mà mọi người khác phải chết, thì ơn Thiên Chúa và ơn Cứu độ do một người là Đức Kitô ban cho mọi người còn dồi dào và đầy dẫy gấp bội. Ơn cứu độ ấy được cụ thể ra nơi sự phục sinh mà Thiên Chúa dành cho từng người, những kẻ đã liên kết với Người qua Bí Tích Rửa Tội : “Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, anh chị em đã được an táng với Đức Kitô, và trong phép Rửa Tội ấy, anh em cũng được sống lại với Người”. (Col). Giáo huấn của Thánh tông đồ, mở ra cho tất cả chúng ta và đặc biệt ông Phaolô, một niềm an ủi và hy vọng thật lớn lao. Thật vậy, từ khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội được tháp nhập với Đức Kitô, ông Phaolô đã không ngừng sống đời hiến tế. Đây là cuộc hiến tế không đổ máu nhưng đâu phải vì thế mà kém phần gay gắt và quyết liệt. Cả cuộc đời ông là một chuỗi những nghèo khổ cay cực trong vất vả và thiếu thốn. Trong cái bi kịch của cuộc đời, ông vẫn vươn lên để sống vì luôn trông cậy vào Chúa. Hơn nửa, bên cạnh nổi tủi cực phần xác, ông còn mang bên mình bao nổi dằn vặt xâu xé bởi con bởi cháu. Tôi ít có dịp gặp ông, nhưng trong những lần gặp gỡ, câu chuyện thường xoay quanh vấn đề làm sao cho con cháu, luôn đi trong con đường đạo đức thánh thiện. Niềm tin phục sinh đó không chỉ giúp ông vượt qua những thảm trạng cuộc đời, nhưng còn giúp ông vươn tới sự kết hiệp thâm sâu với Thiên Chúa. Vì thế Chúa đã nhận lời để đến với ông ngay trước giờ ông giả từ cuộc đời, như là dấu chỉ của một bảo đảm Chúa dành cho người đầy tớ trung tín. Hôm nay, ông Phaolô từ giả gia đình, những người con, người cháu mà ông đã cả đới gắn bó yêu thương. Ong cũng từ giã cộng đoàn chúng ta, và ngôi nhà thờ giáo xứ, là nơi mà ông đã từng nhiều ngày hợp cùng cộng đoàn để tế lễ. Giờ đây, ông đang cùng chúng ta để thực hiện một thánh lễ cuối cùng, mà của lễ là chính thân xác và cuộc đời hơn 80 năm của một ngưới tôi tớ. Xin cho ông đạt đến niềm hạnh phúc phục sinh của một người con đã hằng tín trung với Chúa. Xin cùng khơi thêm niềm tin nơi cộng đoàn chúng ta, để ngay giữa những sầu cay của cuộc đời nhân thế, chúng ta luôn hướng về Chúa, tháp nhập một cách trọn vẹn vào cuộc tử nạn của Ngài, qua nổi buồn vui từng ngày, với hy vọng ngày mai sẽ được sum vầy cùng ông Phaolô trong một cuộc sống vinh quang bất diệt. Amen.
Để nói lên rằng cuộc sống đời này chỉ là tạm bợ và tất cả sẽ dạy cho những người hay chạy theo bã phù hoa phú qúi, lo tìm kiếm danh vọng của cải vật chất, người ta thường hay kể lại câu chuyện : Ở bên Mỹ, có một bà già ăn mày. Suốt cả ngày, bà lang thang qua các nhà ga, bệnh viện, trường học, công viên để xin tiền những kẻ qua lại. Sau cả một ngày vất vả chắt chiu, tối về, bà trở lại căn hầm hiu quạnh và lạnh giá của mình, cẩn thận cất những đồng bạc đã kiếm được vào hộp sắt. Một ngày kia, người ta không còn thấy bà ra khỏi nhà, một người hàng xóm đế xem thì thấy bà đã chết tự bao giờ. Mắt bà vẫn mở và tay bà chỉ về một góc nhà. Người ta đã đào lên theo hướng tay của bà, và khám phá ra một món tiền lớn : trên 100 ngàn dollars. Qủa là một cái chết bất hạnh, đối với một bà già trong cảnh đơn côi hiu hắt. Nhưng còn bất hạnh hơn nhiều. Khi mà bà, đã không hề mang theo được gì, sau khi đã cả đời chắt chiu, tích góp. Cái chết đã đột ngột đến với bà, cướp đi tất cả, làm tan vở tất cả. Đúng như lời sách Huấn ca đã viết: Phù hoa nối tiếp phù hoa Sự đời tất cả chỉ là phù hoa. Nếu như bà già bất hạnh kia, đã phải sống và chết trong sự đơn côi, trong nỗi mất mát oan nghiệt thì hôm nay, cái chết của ông Tôma lại là một cuộc ra đi đem lại cho ông, và tất cả những ai sống như ông một niềm hân hoan và hy vọng. Đây là niềm hy vọng và sung sướng của một người đầy tớ trung tín, của một con chiên ngoan hiền, của một người môn đệ nhiệt thành, của một Gioan nóng bỏng lửa mến yêu. Ta hãy cùng nhau đọc lời thánh Phaolô trong thư gửi Rôma hôm nay : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kito, phải chăng là gian truân cùng khốn, bắt bớ, đói khát, trần truồng hiểm nguy, gươm giáo. Trong mọi thử thách ấy, chúng ta đã toàn thắng nhờ Đấng đã yêu chúng ta”. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian và ban Con Một của Ngài cho thế gian, để ai tin Ngài không phải lui đi nhưng được sống đời đời. Từ ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đã không ngừng rao giảng kêu mời con người trở lại với Thiên Chúa. Qua cái chết trên thập giá, Ngài đã đóng đinh vào thập giá mọi tội lỗi từng người chúng ta của ông Gioan và thanh tẩy, cho chúng ta được tháp nhập sâu xa vào nhiệm thể với Ngài. Cũng từ đấy, ngọn lửa yêu mến mà Ngài trao vào tay của ông Gioan đã không ngừng được gìn giữ, bảo vệ và làm cho sáng tỏa, qua ơn gọi đời Kitô, trong sứ mạng làm Cha, làm chồng và ông của mình. Ai lại không biết rằng , suốt bao nhiêu năm qua, với gánh nặng của một gia đình đông con, ông đã vững tay lèo lái, vất vả chèo chống, để con thuyền của một gia đình vượt qua ngàn sóng gió, hiểm nguy mà một người bình thường mấy ai có thể gánh vác được? Tình thương của ông chỉ dừng lại ở miếng cơm manh áo cho con cái mà còn qua nỗ lực cố gắng dạy bảo, chăm sóc cho con cái, cái chết của ông đã không phải tự dưng mà đến, nếu như ông không vì lo lắng cho con cái được có nơi ăn chốn ở và dạy dỗ nên người. Và trong lúc mọi người miệt mài lo tìm kiếm nhu cầu hưởng thụ, cuộc sống đầy dư sung túc, ông lại lo tìm kiếm nước trời, qua nẻo đường phục vụ tha nhân, và cộng đoàn Giáo xứ. Đáp lại lời mời gọi chủ chăn, ông đã gia nhập ban quản giáo rồi ban điều hành họ Mân Côi. Ong đã từng tâm sự với tôi : Bà nhà con nói : Ong cứ việc đi lo việc Chúa, cơm hai bữa tôi lo cho ông đầy đủ. Từ ngày ông tham gia, gia đình trẻ được nhắc nhở nề nếp hơn, họ Mân Côi có nhiều khởi sắc hơn. Bổn phận và trách nhiệm trực gác của ông luôn chu toàn. Ngay trong ngày ông qua đời, ông dặn người anh em đồng sự rằng : ông xin cho tôi buổi sáng, trưa tôi về sở trực nhà thờ thay cho ông. Như Gioan tông đồ, ông đã không chỉ góp phần nhỏ bé của mình vào trong việc chung, , mà còn động viên khích lệ con cái tham gia sinh hoạt giới trẻ của Giáo xứ. Ba người con gái của ông đều tham gia vào ca đoàn và tông đồ của Giáo xứ. Lửa mến của ông đã lan toả sáng con cái, từ đó truyền tiếp sức nóng và hơi ấm cho giáo xứ Xuân Đường, nơi còn quá nhiều những tâm hồn lạnh băng và chai cứng, quá nhiều hờ hững và khó khăn. Hôm nay ông về bên Chúa, không phải để an nghỉ nhưng tiếp tục sứ mạng của một người đầy tớ trung tín, của người môn đệ nhiệt thành, của một con chiên ngoan hiền, và của một Gioan say lửa yêu mến. Xin hãy tiếp tục cầu nguyện cho chúng tôi, và hãy thắp lên nơi chúng tôi ánh sáng của niềm tin yêu Chúa và Giáo hội, để noi gương ông sống phục vụ và quên mình trong từng tháng ngày đời trần thế. Hôm nay, ông đã ra đi theo tiếng gọi để trình diện với Chúa. Cái chết đã phơi bày tất cả sự thật. Mà cái sự thật bất ngờ nhất, như bài Tin mừng hôm nay, là phần thưởng cao quý mà Chúa dành cho người đã biết hết lòng yêu mến phục vụ Chúa và anh em : “Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống, Ta không có chỗ trú các ngươi cho trọ, Ta trần trụi các ngươi đã cho mặc, Ta đau ôm các ngươi đã viếng thăm”. Phải chăng là lời cầu chúc mà cộng đoàn Giáo xứ muốn dành cho ông, cho một người con rất đáng mến, đáng trân trọng đó cũng là phần thưởng mà Chúa muốn dành cho người môn đệ trung tín sau đã cả đời phục vụ Chúa Kitô trong gia đình, ngoài xã hội và nơi cộng đoàn Giáo xứ thân thương yêu dấu này. Amen.
Có nhiều tiếng để chỉ cái chết của một người; nhưng động từ “QUA ĐỜI” có một ý nghĩa đặc biệt đối với những người có niềm tin vào cuộc sống đời sau, tin con người khác các con vật khác, vì con người vừa có phần xác, vừa có phần linh hồn. Đối với loài vật, chết là hết không còn gì nữa; nhưng đối với con người, chết chỉ là qua cuộc đời này để sang một cuộc đời khác. Trong tiếng Anh cũng thường dùng từ “Pass Away” và trong Kinh Tiền Tụng về Lễ Cầu Hồn cho những người đã qua đời, có câu “Nơi Chúa Kitô, niềm hy vọng sống lại vinh phúc đã chiếu tỏa trên chúng tôi, để những ai buồn sầu về số phận chắc chắn phải chết, cũng được an ủi, vì Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Đối với các tín hữu của Chúa, sự sống thay đổi, chứ không mất đi, và khi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chổ cư ngụ vĩnh viễn trên trời.” Trong sách Kinh Thánh Cựu Ước, có câu “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với những người không hiểu biết, thì hình như các Ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta là đi vào chỗ tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an…Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các Ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏa ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau… (Sách Khôn Ngoan 3: 1-9). Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói; “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống…” (Phúc Âm Gioan 11: 25…) Sự sống lại trong nước Chúa của chúng ta sau cái chết là nhờ vào cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Lên Trời vinh hiển của Chúa Kitô. Trong Thánh Lễ an táng, trước khi rước quan tài người quá cố lên gần Cung Thánh, có nghi thức làm phép xác ở cuối nhà thờ, vị chủ tế rẩy nước thánh trên quan tài và đọc : “ Xin Chúa làm phép thi thể của…. Với nước thánh nhắc nhở Bí Tích Rửa Tội, như Thánh Phaolô viết: tất cả chúng ta đã được rửa tội trong Chúa Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người… Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hiệp nhất với Người trong sự sống lại giống như vậy.” Các Bài Đọc Sách Thánh trong ba Lễ ngày lễ các linh hồn đều lưu ý chúng ta về chủ điểm: “Sự sống thay đổi chứ không mất đi” nhờ vào cuộc Tử Nạn, sự Sống Lại và Lên Trời vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô. Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chính là lúc chúng ta cũng chết đi với tội lỗi và sống lại với Chúa Kitô trong cuộc sống mới, một cuộc sống không còn nô lệ với tội lỗi, với đam mê xác thịt, nhưng được sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Vậy trong tháng 11 là tháng cuối cùng của Niên Lịch Phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các vị đã qua đời. Trong đó, có những vị đã được nên Thánh và chúng ta kính chung vào ngày 1/11 hằng năm (Tất cả các vị đã được lên Nước Chúa đều là Thánh, dù mỗi ngày trong suốt năm phụng vụ của Giáo Hội đều có lễ kính một vị thánh đặc biệt nào đó để chúng ta có dịp suy ngẫm về cuộc sống tuyệt vời của các Ngài nơi trần gian, mà tạ ơn Chúa cho các Ngài, và noi theo đời sống hy sinh, bác ái, thánh thiện của các Ngài, nhất là cái chết anh hùng của các Thánh Tử Đạo - Như các Thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông của chúng ta). Còn có những vị đã qua đời mà chưa được lên Nước Chúa, vì chưa được thanh luyện xứng đáng, chưa đền bù xứng đáng những lỗi phạm về phép công bằng, và phải thanh luyện nơi luyện tội, thì Giáo Hội cầu nguyện chung vào ngày 2/11 và khuyến khích chúng ta cầu nguyện nhiều cho các vị trong suốt tháng Linh Hồn; dù chúng ta vẫn cầu nguyện hằng ngày cho các linh hồn, và trong mỗi Thánh lễ đều có phần kinh đọc cầu cho các Linh Hồn trong các Kinh nguyện Thánh Thể. Việc dâng lễ Kinh các Thánh và cầu cho các Linh Hồn nơi luyện tội là thuộc mầu nhiệm liên kết giữa Giáo Hội trên Thiên Quốc (Giáo Hội Chiến Thắng), Giáo Hội nơi Luyện Tội (Giáo Hội đau khổ) và Giáo Hội Trần Thế (Giáo Hội chiến đấu). Vậy sự chết dù là điều chắc chắn xẩy ra cho mọi người chúng ta và thường xẩy ra lúc chúng ta không ngờ. Dẫu vậy, chúng ta không bi quan, sợ hãi, nhưng đặt tin tưởng nơi Chúa Phục Sinh. Miễn là chúng ta hãy luôn sống sẵn sàng: thánh hóa bản thân, tôn thờ Chúa và hết lòng phục vụ Chúa qua những người nghèo khó, bịnh tật, những người cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngày phán xét, Chúa sẽ phân xử chúng ta theo những việc bác ái, yêu thương mà chúng ta đã làm trong suốt cuộc đời chúng ta: “ Khi Cha đói, các con đã cho Cha ăn; khi Cha khát, các con đã cho Cha uống; khi Cha mình trần, các con đã cho Cha áo mặc…”(Matthêu 25:31-46).
Đức Giám Mục Vincent Nguyễn Văn Long, Giám mục phụ tá Melbourne chủ tế và linh mục Anthony Nguyễn Hữu Quảng, chính xứ và chủ nhiệm Dân Chúa Úc Châu chia sẻ giảng lễ tại nhà thờ St Margaret Mary’s Brunswick. Trước một cộng đoàn đông đảo có tới 500 người tham dự, kính cẩn và thương tiếc cho người ra đi và ủi an người ở lại. Sau đây là bài giảng của lễ an táng: Đức Cha Vincent Long chủ tế và 6 linh mục đồng tế lễ an táng Đức Cha Vincent Long rảy nước Thánh quanh quan tài
SỰ HIỆN DIỆN CỦA THÀY GIÊSU Bài giảng lễ an táng anh Anphongsô Phạm Văn Hiệp Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb Có lẽ rất nhiều lần chúng ta đã nghe bài phúc âm Chúa phục sinh Lazarô, nhưng điều chung tôi muốn chia sẻ trong thánh lễ an táng Anphonsô Phạm Văn Hiệp hôm nay là câu nói của Martha và Maria: ”Thưa Thầy, nếu Thày có mặt ở đây em con đã không chết?” Câu hỏi này anh Hiệp cũng như chị Hạnh dù chưa phải là người Kitô hữu bằng danh nghĩa nhưng bằng trái tim chị đã là người Kitô hữu từ khi kết hôn với anh Hiệp năm 1981 tại Biên Hòa Việt Nam. Anh chị đã tự hỏi Chúa Giêsu nhiều lần, đặc biệt khi người con gái duy nhất cua anh chi là Huy Hoàng tất tưởi ra đi trong một tai nạn bi thương lúc đang trên đường về từ một công tác tông đồ “tổ chức trại hè” cho nhóm trẻ của St Vincent de Paul Melbourne! Rồi trong thời gian anh Hiệp đối diện với cơn bệnh hiểm nghèo, chắc nhiều lần anh đã tự hỏi Chúa và ba tuần trước đây khi ông cụ Giuse Phạm Văn Lạc, ba anh qua đời: “Tại sao ba con chết? Tại sao lại là con mang chứng bệnh trầm kha này?” và hôm nay chị Hạnh có quyền thân thưa với Chúa: “Nếu Thày có mặt ở đây thì chồng con đã không chết?” Hoặc bà má và các anh chị cũng có thể thân thưa với Chúa Giêsu và hờn dỗi Ngài như Marta và Maria “Nếu Thày có mặt ở đây thì em con đã không chết!” Là người con của Chúa chúng ta xác tín và tin chắc lúc nào Chúa chẳng có mặt trong cuộc đời chúng ta, thế tại sao đau khổ và chết chóc vẫn triền miên xảy ra! Hình như Chúa vắng bóng? Tại sao Ngài im lặng? Thật là nhiệm mầu khó hiểu… Tuy vậy dù đời ta có khổ đau chất chồng thế nào đi nữa, chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện đỡ nâng và gần gũi với chúng ta, vì chính Ngài đã trải qua mọi khổ đau cùng cực nhất của phận người và chết tất tưởi Thập gía để có thể nói: “Thày yêu chúng con”. Như Marta và Maria, chúng ta cũng hy vọng thưa lại với Chúa ”Con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” và ”Con biết, em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Nhờ đó, Chúa Giêsu đã mặc khải một chân lý: ”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin không?” Câu hỏi ấy Chúa hỏi chị Marta 2000 năm trước. Hôm nay giờ này, cũng là câu hỏi ấy, Chúa đang hỏi mỗi người chúng ta, đặc biệt hỏi chị Hạnh. Chúng ta có dám phó thác trả lời như Marta: ”Thưa Thầy, có. Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian” không? Nói về Chúa thì cũng nên nói về Phật. Trong đời sống của Đức Phật, người ta có kể lại mẩu chuyện: Một hôm Đức Phật đang ngồi với các môn đệ, bỗng có một vị thần hiện đến và bảo: - Người còn muốn sống đến bao lâu nữa? Hãy xin một ngàn năm và một ngàn năm sẽ ban cho ngươi. Đức Phật trả lời một cách ngượng nghịu: -Tôi chỉ xin 8 năm nữa thôi. Khi vị thần ấy biến đi rồi, các môn đệ buồn rầu trách Đức Phật: -Thưa thày, sao thày không xin cho sống thêm một ngàn năm nữa? Thày thử nghĩ xem, thày sẽ giúp ích cho biết bao thế hệ nữa. Đức Phật mỉm cười trả lời: -Nếu ta sống thêm một ngàn năm nữa, thì ta sẽ chỉ lo lắng đến việc kéo dài đời sống mình hơn là đi tìm sự khôn ngoan của cuộc sống. Vậy làm thế nào để tìm được sự khôn ngoan của cuộc sống và chiếm hữu được sự sống trường sinh? Ai trong chúng ta đã chẳng một lần nghe nói và chứng kiến sự chết? Có điều là người ta thường không thích nghĩ về cái chết. Nhiều người cho rằng không nói, không bàn về cái chết, thì nó sẽ không xảy ra! Chẳng hạn như nhà tỷ phú Mỹ William Randoph Hearst, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood trước thế chiến thứ hai, đã cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ "chết" trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra thì bị đuổi việc. Ông thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng đó! Rồi cuối cùng Hearst cũng chết, để lại một toà lâu đài rộng lớn, bây giờ trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở California. Ngược lại, người Việt cha ông ta thời xưa cũng như nay có thói quen lo hậu sự cho chính mình. Cha ông mình thường nhắc "sinh ký tử quy", sống gửi thác về. Nên khi còn sống đã sắm sẵn một cỗ quan tài, huyệt mộ đủ thứ. Ngày nay có người còn đi mua huyệt đầu tư nữa! Anh Hiệp trong thời gian mang bệnh đã không sợ nói về sự chết… Dù anh và tất cả chúng ta đều tha thiết xin Chúa chữa lành… Khi bác sĩ đưa anh lên lầu 8 nằm cùng cái phòng mà 3 tuần trước ba anh đã nằm và đã yên bình ra đi… Anh cười nói: “Có lẽ bác sĩ đưa lầm mình vào đây… Mình còn ăn uống được, đi đứng được…” Rồi anh tự trấn an tuần tới bác sĩ mới họp lại để trị bệnh anh ra sao? Dù đau đớn không đi quay phim được thì nằm trên giường với cái note book anh đã cắt ráp phim chị Hạnh thâu “Đàng Thánh Gía” đưa về. Anh nói với tôi: “Con ráng làm cho xong để cha đưa lên net…” Chết là gì? Chết rồi đi về đâu? Chết là chấm tận cuộc sống. Thánh Phaolô cho “Chết là cánh cửa im lìm chúng ta cần bước qua để vào cõi vĩnh hằng”. Sự chết là bài học giúp chúng ta sống tròn đây yêu thương, tha thứ cảm thông với mọi người. Đó là trường dậy ta sống trọn vẹn tin yêu hy vọng vào Chúa và vào Giáo Hội, đem lại cho chúng ta sự sống đời đời như Đức Kitô đã hứa. Đối với những kẻ không tin thì chết là hết! Là cái chung cuộc chẳng ai muốn đi tới. Nếu thế thì cái chết đáng sợ lắm, vì nó chấm dứt và xé tung tất cả những ước mơ, những vun góp của đời ta. Cát bụi trở về bụi cát, không còn gì để đi tiếp. Trái lại trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết, tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi là “Nước Thiên Đàng”, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn. Dầu vậy trong chuyến đi này, chúng ta cần được thanh luyện, như vàng thử lửa, vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần chúng ta đã không sống trong ân sủng của Ngài, chúng ta đã để những quyến luyến danh vọng chức quyền trần thế chiếm ngự trái tim ta, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của ta. Chúng ta sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi chúng ta cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và lỗi lầm. Hai ngày trước đại lễ lòng Chúa thương xót, chúng tôi vào thăm anh, anh còn nói với chúng tôi “con đau lắm nhưng con ráng xin bác sĩ cho về dự lễ Lòng Chúa thương xót!” Thế nhưng 4.30 sáng ngày 27/4 chị Hạnh điện thoại cho chúng tôi nói “anh con yếu lắm mời cha vào xức dầu cho anh con”. Thông thường các linh mục ít ai chịu đi xức dầu vào các giờ giấc thế này… Đang ngon giấc, thế mà chúng tôi chẳng hỏi han gì có gấp hay không? Để sáng mai được không? Chúng tôi đã trả lời ngắn gọn “cha sẽ tới ngay!”. Chúng tôi đã tới ban bí tích xức dầu và bí tích hòa giải ân xá mà Giáo Hội ban cho linh mục quyền ban cho người đã hôn mê bất tỉnh… Lúc tới anh còn có thể nhận ra chúng tôi và nhấp miệng lời cám ơn… Chúng tôi đã chợt nghĩ “anh chọn ngày đại lễ hôm nay để về với Đấng anh tin yêu và truyền bá…” Tự kinh nghiệm thì chúng tôi nghĩ anh chưa ra đi được! Dù hơi tàn nhưng sắc diện anh vẫn còn tươi tỉnh. Ấy vậy mà chưa đầy ba tiếng sau chúng tôi nghe tin anh đã vĩnh viễn ra đi… làm chúng tôi bàng hoàng… nhưng chúng tôi tạ ơn Chúa là chúng tôi đã tới với anh không chần chừ đắn đo… Biết Chết Để Biết Sống Anh đã chấp nhận và sửa soạn ra đi nên trong những ngày cuối nằm tại căn phòng định mệnh, anh luôn tươi cười cám ơn bạn bè tới thăm viếng cầu kinh hoặc nhắn nhủ cháu này cháu kia phải cố gắng này nọ… Ai mà chẳng phải chết, nhưng liệu chúng ta có thể ra đi trong thanh thản an bình, hay ra đi trong sợ hãi, dằn vặt, tiếc nuối! Phải chăng những người dám đối diện với cái chết thì biết cách sống hơn? Có lẽ muốn sống tốt hơn, phải hiểu cái chết. Chúng ta hãy đừng để quá muộn, vì có những điều muốn sửa lại cũng chẳng được, vì sẽ chẳng còn thời gian. Lạy Chúa, Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai. Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa. Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều, Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy, Thì con lại chưa làm gì cả. Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian, Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn. Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình, Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết? Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa, Không biết Chúa có nhận ra con hay không, Hay là Chúa bảo "đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác". Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật, Con xin Chúa sự khôn ngoan, Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại, Trong ân nghĩa của Chúa, Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa, Sẽ không như hai người xa lạ. Nhưng là hai người rất thân quen. Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến, Và giang đôi tay đón con vào lòng. Niềm tin và hi vọng Kitô giáo về sự chết đã được Phụng vụ diễn tả như sau: Đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì có chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Mỗi lần đọc kinh Kính mừng chúng ta vẫn thường xin Mẹ: " Cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử". Hãy nhớ mãi lời nhắn nhủ của cha Charles de Foucault: “Hãy sống ngày hôm nay như con sắp ra pháp trường tử đạo", Để kết thúc bài chia sẻ, chúng tôi xin mượn lời cuea Linh mục Michael Quang Nguyễn Trung Tây đã tâm sự: Sáng Chúa Nhật 27/4 vừa qua, tôi nhận được tin anh Phạm Văn Hiệp nhắm mắt lại ngủ say giấc ngủ thiên đàng. 27/4, ngày Đại Lễ Lòng Thương Xót Chúa cũng đúng ngày Giáo Hội có thêm hai vị thánh, Gioan XXIII và Gioan Phaolô II. Tôi bồi hồi khi nhận được tin, dù biết rằng chuyện sẽ đến rồi cũng đã đến. Như vậy là trong khoảng một thời gian thật ngắn, anh Hiệp và thân phụ, cả hai xác gửi cõi trần, hồn nhẹ bay cao. Nhớ tới anh Hiệp, tôi vẫn nhớ một người bạn chưa bao giờ làm tôi phiền hà dù chỉ là một lời nói, một cộng sự viên đắc lực nhiệt thành của Nguyệt san Dân Chúa Úc Châu. Nhớ tới anh Hiệp, tôi vẫn nhớ tới người có nụ cười tươi, nụ cười dễ bật trên môi. Khi anh Hiệp cười, với tôi, dù đang không vui trong lòng, tâm tôi rộn rã. Thôi nhé anh Anphongsô Phạm Văn Hiệp, ngủ yên giấc ngủ của tuổi trung niên, ngủ yên giấc ngủ thiên đàng. Ở cõi thiên, anh mỉm cười, và cười tươi mãi. Ở trên cõi thiên, gặp lại cháu Julia Huy Hoàng và người cha thân yêu của anh, xin anh nguyện cầu cho chị, cho mẹ và các em các cháu của anh. Xin anh cũng nhớ chúng tôi nữa.
Thánh lễ an táng và tiễn biệt cha cố Phanxicô Xaviê Trần Hòa đã diễn ra vào lúc 09 giờ ngày 10/7/2014, tại nhà thờ Phát Diệm Phú Nhuận, do Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn, chủ tế. Đồng tế với ngài có Đức ông Borgia Trần Văn Khả, cha Giuse Phạm Bá Lãm, đại diện quý cha gốc Phát Diệm, và hơn 50 linh mục trong và ngoài giáo phận. Trước Thánh lễ, Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi nói: Chết là chia ly nhưng với niềm tin và hiệp thông trong Hội Thánh, chết là đoàn tụ. Hôm nay, cha Phanxicô Xaviê của chúng ta trở về với Thiên Chúa, với nguồn cội của mình, và tất cả chúng ta từ nhiều phương xa quy tụ về đây cùng tiễn đưa ngài lên đường trở về với Chúa. Cuộc gặp gỡ này nói lên tình hiệp thông sâu xa của Hội Thánh, cũng nói lên sự hiệp nhất của Giáo hội. Sự hiệp thông này thể hiện qua lời cầu nguyện trong Thánh lễ chúng ta sắp cử hành, đó là cái chết của Đức Kitô; với cái chết đó, Ngài đã quy tụ tất cả về với Chúa trong Thánh lễ này, cùng với lời cầu nguyện, chúng ta tin chắc linh hồn cha cố Phanxicô Xaviê sẽ về với nhan Thánh Chúa; và từ trời, ngài sẽ giúp lời cầu nguyện cho chúng ta. Trong Thánh lễ này, chúng ta dâng lời cảm tạ cho ngài trong suốt hành trình 52 năm linh mục với biết bao hồng ân. Đồng thời, cũng giúp lời cầu nguyện cho ngài xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm thiếu sót, để ngài được trong sạch, xứng đáng muôn đời bên Chúa. Trong bài giảng lễ, Đức cha đã chia sẻ: Tất cả chúng ta đều thương tiếc và nhớ đến hình ảnh cha cố Phanxicô Xaviê như người mục tử năng động. Ngài là một vị truyền giáo đắc lực, rất nhiệt thành đem Lời Chúa đến cho anh chị em lương dân. Ngày hôm nay, Hoa Châu trở thành một giáo xứ đông đúc Kitô hữu. Ngài sống rất đơn sơ bình dị, khó nghèo trong cung cách. Sự gần gũi của ngài khiến mọi người thương mến. Ngài trở thành người cha đầy lòng nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ những người khó khăn.
Bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong Thánh lễ cầu nguyện cho các hồng y và giám mục qua đời trong năm 2011 (3-11-2012) Minh Đức chuyển ngữ Thưa quý anh em đáng kính, Anh chị em thân mến,
Bầu khí các Thánh thông công và việc tưởng niệm các tín hữu đã qua đời đang hiện diện và sống động trong trái tim của chúng ta, mà phụng vụ trong ít ngày vừa qua đã giúp chúng ta cảm nghiệm cách mạnh mẽ. Đặc biệt, khi đi viếng phần mộ, chúng ta làm mới lại mối dây liên kết với những người thân yêu đã rời bỏ chúng ta. Nghịch lý thay, cái chết lại bảo tồn những gì cuộc sống không thể giữ được. Những người quá cố của chúng ta đã sống như thế nào, yêu thương điều gì, lo sợ và hy vọng những gì, từ bỏ những gì, chúng ta sẽ khám phá được một cách rất đặc biệt những điều ấy từ những ngôi mộ. Những ngôi mộ ấy cũng giống như tấm gương cho biết đời sống của họ, thế giới của họ. Chúng mời gọi chúng ta và đưa chúng ta đến chỗ tái lập cuộc đối thoại mà sự chết làm cho bị khủng hoảng. Như vậy, các nghĩa trang là nơi tập họp, nơi đó người sống gặp được người thân của mình đã chết và cùng với họ tái khám phá mối dây hiệp thông mà cái chết không thể bẻ gãy. Và ở tại Roma đây, trong các nghĩa trang lạ thường là các hang toại đạo, chúng ta cảm thấy - không như ở nơi nào khác, mối dây liên kết sâu xa với Kitô giáo cổ đại, mà chúng ta cảm thấy rất gần gũi. Khi chúng ta bước vào hành lang của các hang toại đạo - cũng như hành lang trong những nghĩa trang của các thành phố và quốc gia chúng ta - là như bước qua một ngưỡng cửa phi vật chất và đi vào hiệp thông với những người bị giam cầm bên trong, với quá khứ của họ, dệt bằng những niềm vui và nỗi buồn, mất mát và hy vọng. Sở dĩ như thế vì cái chết vẫn còn liên quan đến con người ngày hôm nay như thời đó, và nếu như nhiều điều trong quá khứ đã trở nên xa lạ với chúng ta, thì cái chết vẫn là như nhau. Đối mặt với thực tế này, con người ở mọi lứa tuổi đều tìm kiếm một tia sáng đem lại hy vọng, tiếp tục nói về cuộc sống, và việc thăm viếng nghĩa trang cũng thể hiện mong muốn này. Nhưng người Kitô hữu chúng ta trả lời vấn nạn về cái chết như thế nào? Thưa với đức tin vào Thiên Chúa, với một cái nhìn của niềm hy vọng vững chắc, đặt nền tảng trên cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Và rồi cái chết sẽ mở ra cho sự sống, sự sống đời đời, sự sống ấy không phải là gia hạn hiện tại đến vô hạn, nhưng là điều gì hoàn toàn mới. Đức tin của chúng ta dạy chúng ta rằng sự bất tử thật sự mà chúng ta mong ước không phải là một ý tưởng, một khái niệm, nhưng là mối quan hệ hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa hằng sống: đó là được ở trong tay của Ngài, trong tình yêu của Ngài, và nên một với Ngài cùng với tất cả anh em chị em mà Ngài đã tạo dựng và cứu chuộc, với toàn thể thụ tạo. Như thế, niềm hy vọng của chúng ta dựa trên tình yêu của Thiên Chúa toả sáng từ Thập Giá của Chúa Kitô, và vang lên trong lòng chúng ta lời Chúa Giêsu nói với người trộm lành: “Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,43). Đó là cuộc sống trọn vẹn: cuộc sống trong Thiên Chúa, một cuộc sống mà bây giờ chúng ta chỉ có thể thấy được thấp thoáng như như bầu trời xanh nhìn qua màn sương mù. Anh em thân mến, trong bầu khí của đức tin và cầu nguyện, chúng ta tụ họp chung quanh bàn thờ để dâng lên Hy tế Thánh Thể để cầu nguyện cho các hồng y, tổng giám mục và giám mục, đã kết thúc cuộc sống trần thế trong năm qua,. Đặc biệt, chúng ta nhớ đến những người anh em yêu quý là các Đức Hồng y John Patrick Foley, Antonio Bevilacqua, José Sánchez, Ignace Moussa Daoud, Luis Aponte Martinez, Rodolfo Quezada Toruño, Eugenio de Araujo Sales, Phaolô Thiện Quốc Tỉ, Carlo Maria Martini và Fortunato Baldelli. Chúng ta cũng nhớ đến tất cả các tổng giám mục và giám mục đã qua đời, xin Thiên Chúa nhân từ, đầy lòng thương xót và công bằng (x. Tv 114) ban cho các ngài phần thưởng đời đời đã hứa cho các tôi tớ trung tín của Tin Mừng. Nhìn lại chứng tá của các anh em đáng kính của chúng ta, chúng ta có thể nhận ra nơi họ là những môn đệ “hiền lành”, “thương xót”, “có tâm hồn trong sạch”, “xây dựng hòa bình” mà chúng ta đã nghe trong đoạn Tin Mừng (x. Mt 5,1-12): đó là các người bạn của Chúa, tin tưởng vào lời Chúa hứa, ngay giữa những khó khăn và bách hại, họ vẫn vui sống đức tin, và bây giờ đang sống trong nhà Chúa mãi mãi, hưởng phần thưởng trên trời, tràn đầy hạnh phúc và ân sủng. Thật vậy, các mục tử mà chúng ta nhớ đến trong ngày hôm nay đã trung thành và yêu thương phục vụ Giáo Hội, có khi phải đối mặt với những thử thách cam go, để bảo đảm luôn quan tâm và chăm sóc đoàn chiên được giao phó cho các ngài. Tài năng và công việc đa dạng của các ngài là một ví dụ về sự siêng năng chăm lo, sự khôn ngoan và nhiệt thành tận tuỵ vì Nước Thiên Chúa, đem lại những đóng góp có giá trị cho thời hậu công đồng, là thời gian canh tân trong toàn Giáo Hội. Các mục tử, trước hết là tín hữu, rồi tiếp đến là những thừa tác viên, được gần gũi Bàn tiệc Thánh Thể hằng ngày, là nơi các ngài được nếm trước những điều Chúa đã hứa trong “Bài Giảng Trên Núi”: được ban Nước Trời và tham dự bữa tiệc của Giêrusalem Thiên quốc. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài được hưởng những gì Chúa đã hứa. Lời cầu nguyện của chúng ta được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng chắc chắn rằng “chúng ta không phải thất vọng” (Rm 5,5), như Chúa Kitô đã bảo đảm, những ai muốn sống kinh nghiệm cái chết trong xác thịt để chiến thắng cái chết bằng sự Phục sinh diệu kỳ. “Sao lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Ngài không còn ở đây nữa, nhưng đã sống lại rồi” (Lc 24,5-6). Sứ điệp này của các thiên thần vào buổi sáng Phục Sinh ở ngôi mộ trống, đã đến với chúng ta qua các thời đại, và cho cộng đoàn phụng vụ chúng ta lý do chính để hy vọng. Thật vậy, “Nếu chúng ta đã chết với Chúa Kitô - Thánh Phaolô ám chỉ đến Phép Rửa để nhắc nhở chúng ta - chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người” (Rm 6,8). Chính qua cùng một Chúa Thánh Thần, mà tình yêu của Thiên Chúa đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta, để bảo đảm rằng niềm hy vọng của chúng ta không vô ích (x. Rm 5,5). Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót đã ban Con Một của Ngài chịu chết vì chúng ta trong khi chúng ta còn là tội nhân. Thế thì khi chúng ta được nên công chính nhờ máu của Ngài, ắt chúng ta sẽ nhờ Ngài mà được cứu độ hơn nữa (x. Rm 5,6-11)! Sự công chính của chúng ta dựa trên đức tin nơi Chúa Kitô. Ngài là “Đấng công chính” mà Kinh Thánh đã báo trước, nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Ngài - vượt qua ngưỡng cửa sự chết, mà mắt chúng ta được nhìn thấy Thiên Chúa, được chiêm ngưỡng dung nhan Ngài (x. Giop 19,27a). Khi còn ở dương thế, Con Thiên Chúa luôn được Mẹ Rất Thánh của Người đồng hành. Chúng ta tôn kính Mẹ là thụ tạo duy nhất Vô nhiễm nguyên tội và là Đấng đầy ân sủng. Những người anh em hồng y, giám mục mà chúng ta tưởng nhớ ngày hôm nay, đã được Đức Trinh Nữ Maria yêu thương đặc biệt và các ngài đã đáp lại tình yêu ấy bằng tình con thảo. Giờ đây chúng ta phó thác linh hồn các ngài cho lòng từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ chuyển cầu và giới thiệu các ngài vào vương quốc vĩnh cửu của Chúa Cha, được vây quanh bởi rất nhiều tín hữu mà các ngài đã dâng tặng cuộc sống cho họ. Với ánh mắt yêu thương, xin Mẹ Maria dõi nhìn các ngài, bây giờ các ngài đang ngủ giấc bình yên, chờ đợi phục sinh. Và chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của chúng ta cho các ngài, hy vọng một ngày kia được gặp lại và đoàn tụ vĩnh viễn với các ngài trên Nước Trời. Amen.
Ông Freud nói rằng tình yêu và sự chết liên hệ vớí nhau. Nhưng ông hiểu tình yêu là giới tính. Thỏa mãn giới tính mang đến sự chết dần dần. Ðiều đó đúng. Thưa qúi vị, Khi mất an toàn vĩnh hằng, người ta tìm bù lại bằng an toàn thời gian nơi vật chất. Khi linh hồn trở nên nghèo nàn thiêng liêng, sẽ tìm giàu có trong của cải. Nhưng càng giàu có vật chất, càng sao lãng con đường siêu nhiên. Muốn giàu có siêu nhiên ngươì ta phải biết lắng nghe Lời Chuá Giêsu: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ (Mt 5,3). Ngài còn tuyên bố tiền bạc là đối thủ chính thức cuả Thiên Chúa vì nó có khả năng cung cấp mọi thứ con ngươì cần thiết giống như Thiên Chuá vậy. Cho nên nếu cứ yêu chuộng vật chất, con ngươì không còn ham thích đàng thiêng liêng nữa. Ðó là thảm cảnh của các linh hồn tân thời. Nghèo không phải là nguyên nhân mất hạnh phúc và cãi cọ. Nguyên nhân đích thật của nó là lòng ham muốn những tiện nghi mà tiền bạc có thể mua. Hai vợ chồng nghèo chịu khó làm ăn đâu mất hạnh phúc? Khi họ ham muốn tài sản, lúc ấy đưa nhau ra toà ly dị. Một thày dòng nghèo khó vui vẻ thân thiệt hơn một tỷ phú keo kiệt. Cho nên những ai chủ trương kinh tế giải quyết mọi vấn đề, quên rằng:
1. Hai ông bà trong vườn địa đàng hưởng nền kinh tế hoàn hảo nhất, vậy mà tội lỗi vẫn lẻn vào được lòng trí họ. 2. Nghèo khó là cơ hội tốt để cái tổ nếp sống bê tha. 3. Cái gây nên bất ổn là dục vọng chiếm hữu chứ không phải thiếu thốn. Lòng tham vô đáy của con ngươì khiến đương sự trở nên bất hạnh. Cho nên họ tìm đủ mọi mánh khoé để chiếm đoạt. Ðộng lực chính của nó là cảm giác an toàn. Một khi an toàn thiêng liêng đã đổ vỡ, bị đuổi ra khỏi điạ đàng, ngươì ta cũng bị đuổi ra khỏi đời sống an toàn tâm linh. Con người trở nên trống rỗng và bấp bênh. Người ta tìm kiếm an toàn vật chất để bù lại. Nhưng cái chết lấy đi sự an toàn này, do đó ngươì ta sợ hãi thần chết. Tâm lý chung của con ngươì tân thời là như vậy. Ngược lại ngươì tín hữu tin cậy vào Thiên Chúa nên không sợ chết, vì an toàn của họ là ở nơi Thiên Chúa, không ở nơi vật chất. Các thánh tử đạo vui vẻ ra pháp trường vì tin tưởng Thiên Chúa đang chờ đón. An toàn vĩnh cửu của họ được đảm bảo vững chắc. Như vậy cái sợ của người thế tục là tha nhân chứ không phải Thiên Chúa. Tha nhân có khả năng phá hủy an toàn của mình. Người tin Chúa không sợ tha nhân bẻ gãy an toàn nội tâm. Do đó họ dễ dàng thi hành bác ái và hoà hợp được với người khác. Ngược lại ngươì không tin coi ngươì khác là mối đe dọa, là kẻ thù đáng sợ. Họ tiêu diệt nhau bằng lời nói hoặc gươm đao. Chiến tranh giữa các ý thức hệ là một chứng cớ rõ ràng. Người không tin tiêu diệt tính bất tử của linh hồn mình. Cho nên họ dễ dàng phá hủy điều đó nơi kẻ khác. Ðối với họ tránh thai, nạo thai, chết êm dịu là lẽ đương nhiên, không cần suy nghĩ. Ông Freud nói rằng tình yêu và sự chết liên hệ vớí nhau. Nhưng ông hiểu tình yêu là giới tính. Thỏa mãn giới tính mang đến sự chết dần dần. Ðiều đó đúng. Nó không những đem lại cái chết cá nhân, nhưng còn cho cả nòi giống, nếu như người ta ích kỷ, chỉ muốn hưởng thụ thỏa mãn mà không tính đến trách nhiệm. Ngươì có đức tin cũng tin tình yêu và sự chết liên kết. Nhưng ở nghiã Chúa Giêsu đã nêu gương chết đi cho kẻ khác được sống, hy sinh bản thân để mưu cầu hạnh phúc cho thiên hạ. Thứ tình yêu này chinh phục sự chết bằng một cuộc sống lại vinh hiển. Cho nên thế gian khiếp sợ giáo lý của Chúa Giêsu. Họ khiếp sợ những điều mà Chuá dạy bảo đừng sợ. Ngài dạy bảo đừng sợ vua chúa, quan quyền, những kẻ chỉ giết được phần xác. Hoặc đừng sợ bấp bênh kinh tế: Chim trời, cá biển Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, hoặc tương lai bất định vì lo lắng có làm cho đời mình ngắn đi hay dài hơn được phân ly nào đâu? Nhưng chúng ta nên sợ Ðấng có thể ném cả linh hồn lẫn xác xuống điạ ngục (Mt 6,25). Chúng ta phải tìm kiếm nước trời và lòng kính tôn Thiên Chuá. Ðiều mà thế gian mù tịt. Thế gian cố gắng biến cái chết thành bản kịch hài hước. Họ trang điểm xác chết như đang ngủ và gọi là đi xa, hay khuất núi. Họ nói có sinh thì phải có tử như ngọn nến thắp sáng rồi tắt đi. Họ quên rằng ánh sáng ấy còn lan mãi trong vũ trụ với tốc độ 300.000 cây số một giây? Ánh sáng ấy còn tồn tại ở đâu đó trong không gian bao la. Cuộc sống con người mau qua như trái cây, phát sinh, lớn lên, chín và rụng. Nhưng mầm sống của nó tồn tại mãi mãi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người ta còn so sánh đời sống con người như súc vật, chết đi là hết dù có sợ sệt đến mấy. Tuy nhiên súc vật đâu có ý thức được mình chết. Ðiều mà con ngươì biết rõ ràng. Sự khác biệt giữa con người có trí khôn và súc vật vô tri là ở điểm này. Vậy thì hệ qủa là ở chỗ nào? Ở chỗ, tâm trí người ta đứng ở bên ngoài cái chết, xem xét nó, nhìn vào nó, siêu việt hơn nó và thắng được nó nhờ vào một cuộc sống lại. Con người không vĩnh viễn chết. Chỉ ngủ một giấc ngàn thu như Chúa xác nhận. Chúng ta sợ hãi cái chết là bởi vì phần nào cảm nhận được sự bất tử. Súc vật không có cảm giác đó, cho nên nó chết tự nhiên khi cuộc đời chấm dứt. Ngược lại chúng ta nghi ngờ rằng mình đã đánh mất tính vĩnh hằng của bản thân. Chết không nằm trong cuộc sống Chúa ban cho. Ðiều chi đó đã chen vào làm cho người ta phải chết. Khát vọng sống mãi của chúng ta không thể bị dập tắt nếu không có yếu tố ngoại lai này. Theo ngôn ngữ tôn giáo: Thiên Chúa không làm nên sự chết nơi con người. Vậy thì phải tìm nó ở một nơi khác. Kinh thánh mạc khải yếu tố ngoại lai này là tội lỗi. Khi Thiên Chúa dựng nên con người là cho nó chia sẻ cuộc sống vĩnh cửu của mình. Nhưng tội lỗi đã bẻ gãy chương trình của Thiên Chuá. Cho nên con người hôí tiếc sự mất mát này. Ðáng lý họ có sự sống vĩnh hằng, nhưng thực tế không có. Cuộc đời con người không có tất cả ân huệ Thượng đế ban. Do vậy, họ khắc khoải khôn nguôi. Vì tội lỗi, cuộc đời họ không hoàn toàn am hợp với bản vẽ Thiên Chúa phác họa. Họ đã phung phí tài năng, thời gian vào những hoạt động xấu xa, phản lại Ngài. Nhiều khi ý thức về tội lỗi trở nên sắc bén, đè nặng lương tâm con người và dẫn đến tự vẫn. Người môn đệ Chúa nên giúp đỡ những linh hồn này lấy lại tin cậy vào lòng thương xót vô bờ của thượng đế. Thực ra việc suy gẫm về sự chết dẫn đưa đến những sự thật vĩ đại và hy vọng lớn lao. Thứ nhất, đối với người tín hữu, caí chết là dấu chỉ sự dữ hiện diện trong thế gian. Không thể chối cãi sự kiện, nếu còn lương tâm ngay thật. Chỉ những lương tâm hư hỏng mới khước từ. Bởi vì sự dữ cho nên nhân loại mới phải chết, không có sự dữ loài người sống mãi. Thánh Phaolô nói: "Tiền công của tội lỗi là sự chết". Nhưng chết không chỉ trong lĩnh vực thân xác, mà còn tâm linh và luân lý nữa. Chết về phần linh hồn gọi là cái chết thứ hai. Sách khải huyền viết: "Ta biết việc các ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, nhưng thực ra đã chết" (3,1). Cái chết đầu tiên Kinh thánh nói tới là cái chết tâm linh. Nó liên quan đến tội lỗi, ông bà chống lại Thiên Chuá. Và nó xuất hiện như hình phạt. Cái chết thứ hai là thân xác: Cain giết Aben em mình, chống lại nhân loại. Vậy có hai hình thức sống thì cũng có hai hình thức chết. Linh hồn là sự sống của thân xác. Linh hồn lià khỏi xác, thân xác chết. Ơn thánh là sự sống của linh hồn. Mất ơn thánh linh hồn chẳng còn sống. Chúa Giêsu nói đến sự kiện đó khi tuyên bố: Ðừng sợ những kẻ giết được thân xác. Nhưng hãy sợ Ðấng giết cả linh hồn lẫn thân xác. Như vậy hiện nay trên thế giới vô số thân xác còn sống mà linh hồn đã chết. Khi người ta chết cả thân xác và linh hồn không chi cứu vãn được. Trường hợp là tuyệt vọng. Tuy nhiên đức tin Công Giáo coi sự chết là thảm kịch, đồng thời là hình phạt và nhờ đức tin người ta có thể chiến thắng. Chúa Giêsu đã uống cạn chén đắng của tử thần và đã trỗi dậy khi Phục Sinh. Ngài thông cảm với nhân loại và ban ơn cứu rỗi cho những ai có lòng tin. Dù sự chết có mạnh mẽ đến mấy, tàn phá hết mực và độc ác thế nào đi nữa thì vẫn chịu thua trước đức tin của kẻ có đạo. Cuộc chiến thắng của Chúa Giêsu là vĩnh viễn và là gia sản chung cho cả nhân loại. Những ai tin tưởng vào Ngài sẽ được ban chiến thắng này. Mặt khác, cái chết còn nhiều ý nghĩa nữa. Nếu không có cái chết, sự dữ ở thế gian sẽ tồn tại vô tận. Nhưng cái chết kịp thời ngăn chặn không để cái ác vượt qua khỏi nấm mồ. Nêron, Tần Thuỷ Hoàng, vua chúa Ai Cập, Thiệu Trị, Tự Ðức không thể tác hại mãi sau khi qua đời. Các ông buộc phải chấm dứt hành vi gian ác lúc suôi tay nhắm mắt. Người ta kể chuyện Alexandre đại đế trối lại cho triều đình khi chôn cất ông, thì để hai tay buông thõng ra ngoài quan tài, chứng minh ông không làm chi được nữa cho các đôí thủ. Như vậy cái chết là một dấu chỉ mạnh mẽ quyền năng Thiên Chúa trên thế giới và trên sự dữ, nó chấm dứt mọi sự dữ ở bất cứ hình thức nào: Ðộc ác, gian tà, thù nghịch, kiêu căng, mánh khoé v. v.. Ðó là lý do tại sao Thiên Chúa đặt một thiên thần cầm gươm lửa canh gác địa đàng, sau khi con người phạm tội, kẻo con ngươì vĩnh viễn hóa sự dữ của mình trong đó. Thiên Chúa chỉ cho phép tính bất tử của sự thiện, chứ không phải của tội lỗi. Của sự thật chứ không phải của gian tà. Sách Khải Huyền mô tả bẩy tai ương tiêu diệt sự dữ trong ngày tận thế, để nhắc nhớ họ rằng sự dữ không tồn tại mãi mãi, các cơn bách hại tín hữu của ông đang chịu đựng sẽ có ngày chấm dứt. Sẽ có trời mới và đất mới. Vì những cái cũ đã qua đi. Phán xét là điều cần thiết để tỏ bày công chính và hư hỏng, công nghiệp và tội lỗi. Phán xét cá nhân ở giây phút người ta tắt thở. Phán xét thế giới khi thời gian hết hạn gọi là tận thế. Lúc ấy giá trị của cuộc đời được lượng định và thưởng phạt. Chẳng lẽ thế giới này với tất cả gian ác của nó cứ tồn tại mãi mà không có ngày tội phúc phân minh? Sự vô nghĩa của cuộc đời phải có ngày tỏ lộ. Nếu không, công minh chính trực chẳng có ý nghiã gì? Lý trí tự nhiên đòi hỏi ngày tận thế và phán xét. Chỉ những ai trí khôn không bình thường mới chối bỏ sự kiện. Chúa Giêsu đã mặc khải điều này vài lần trong Phúc Âm. Vậy mà nhiều linh hồn sống và hành xử như không có tận thế, không có phán xét chung và riêng. Họ tối tăm biết bao! Cần phải nhắc nhở họ luôn. Sách khải huyền nói đến việc phản Kitô xuất hiện. Có nghĩa nhân loại sẽ từ chối những giá trị Ðấng Cứu Thế rao giảng. Không chấp nhận giáo lý siêu nhiên, chỉ quan tâm những điều thoáng qua. Không coi sự chết của tín hữu là chiến thắng tử thần, nhưng chỉ là một ý nghĩa, một biến cố. Hậu qủa là các nền văn minh, các quốc gia và cả thế giới sẽ chịu chung số phận của thành phố Giêrusalem, bị quân đội Lamã phá hủy bình điạ năm 70 CN. Vì không nhận ra ngày giờ Thiên Chuá viếng thăm. Vậy thì khi làm cho sự chết chấm dứt mọi gian ác, Thiên Chúa khẳng định quyền bính của mình vượt lên trên tàn phá của tội lỗi. Ðây là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu trả lời ông quan độc ác Phi-la-tô. Ông ta hỏi: phạm nhân không biết rằng ta có thẩm quyền kết án ông sao? Chúa nói: "Ông chẳng có quyền nào trên tôi nếu từ trời không ban cho". Tức quyền tối thượng thuộc về Thiên Chúa, chứ không phải loài người? Vì vậy một lần thánh vịnh nói: Ðấng ngự trên trời cao nhìn xuống, thấy thế bật cười. Ngài chế riễu chúng". Chế riễu vì nhân loại ngây ngô, tự cho mình quyền phép mà mình không hề có. Tâm lý phì cười nói rõ rằng: Sự ngớ ngẩn khiến người ta phì cười thí dụ: Người phu quyét đường ăn vận y phục vua chúa. Anh hề giả tảng quan chức to, các tên độc tài thế gian bày trò làm thần thánh, hoặc thiên hạ toan tính vĩnh cửu hoá cái dữ của mình. Vậy chết là điều cần thiết để chấm dứt mọi gian ác trong vũ trụ. Tuy nhiên nếu không có thuốc chữa thì chết lại là điều vô lý. Vũ trụ sẽ đóng kín chính mình, một hệ thống bế tắc. Ðúng ra nó phải xoay vần mở cửa cho tương lai. Vậy thì phục sinh là câu trả lời căn bản, cần thiết và hợp lý. Không những nó cống hiến chiến thắng cho loài người, mà còn vĩnh viễn tiêu diệt sự dữ. Kinh thánh nói: Khi chết Ngài đã phá hủy tử thần (Mortem moriendo destruxit). Từ ngày Chúa sống lại, lên trời và ban Thánh Thần xuống thì nhân loại có hy vọng lớn. Chúng ta được phục hồi điạ vị làm con Thiên Chúa, được tình yêu Ngài bao bọc qua các bí tích. Nghĩa là được cứu chuộc khỏi cửa điạ ngục, hoàn toàn tự do trong ơn thánh. Dĩ nhiên ơn bất tử phần xác phải đợi đến ngày phán xét chung. Nhưng nhờ đức tin chúng ta trực cảm cái chết của mình không hề là mối tuyệt vọng, ngược lại, phục vụ mục tiêu cao cả, là cuộc sống lại vinh hiển. Tại sao người ta ưa chọn cái chết anh hùng hơn tầm thường? Tử đạo, liệt sĩ hơn tai nạn xe hơi, tàu thủy, tuy cả hai hình thức chết đều dễ sợ như nhau? Phải chăng cái chết anh hùng cao cả hơn, vinh hiển hơn? Ðúng là tính vĩnh hằng ban cho sự chết một ý nghĩa đáng khát khao. Chết là tận cùng của mọi sự dữ. Người ta có thể nhìn xem chân lý này trên gương mặt những người vừa mới qua đời. Gương mặt ấy bình an hơn lúc còn sống. Tất cả các cảm giác xấu xa như hận thù, ghen ghét, điên loạn, bất hòa đếu tan biến trên gương mặt. Và cũng chẳng ai để bụng trả thù họ. Trước thi hài người chết, tất cả đều tốt đẹp. Người ta ca tụng, thưởng nhớ. Mọi phẩm chất tốt đẹp đều được đẩy về phiá trước, cái xấu lui lại phía sau và quên lãng. Sự sống tỏ lộ cặn bã của tính nết; cái chết mạc khải điều cao thượng. Sự chết có sức mạnh bộc lộ cái tốt ra ngoài. Do đó sự chết liên kết chặt chẽ với điều tốt. Ấy là xin trình bày nhận xét chung. Những trường hợp ngoại lệ xin nhường ý kiến qúi vị. Thí dụ cái chết của những tên độc tài gian ác khét tiếng. Ngoài ra cái chết còn bao gồm tình yêu. Ðúng hơn tình yêu luôn đòi hỏi sự chết. Bất cứ những ai chấp nhận yêu đương, đều chấp nhận hy sinh, tức cái chết nho nhỏ. Người thanh niên tặng chiếc nhẫn vàng cho cô gái anh ta yêu, chứ không phải nhẫn sắt, nhẫn chì, nhẫn nhôm, nhẫn giả vì anh ta yêu cô gái. Giá cái nhẫn vàng là một hy sinh. Vượt lên trên những hy sinh nhỏ như vậy là cái chết cho tổ quốc hoặc nước trời. Những ai bám víu vào vật chất, chạy trốn hy sinh là kẻ hèn nhát, không xứng đáng với tình yêu cao cả. Vì vậy Chúa dạy: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống mình vì bạn hữu". Chúa Giêsu là gương mẫu của thứ tình yêu này. Ngài thí mạng sống vì nhân loại. Vậy nêú chúng ta sẵn sàng chấp nhận cái chết, chúng ta tỏ lòng yêu mến Chúa. Từ chối hy sinh là chúng ta từ chối Ngài, hoặc chỉ yêu mến Ngài bằng môi miệng. Chẳng phải mọi cái chết đều giống nhau: suôi tay, nhắm mắt. Trái lại nó có tính chất hoàn toàn khác biệt và cá nhân. Khi linh hồn lià khỏi thân xác, chết bộc lộ bản ngã đích thật của từng ngươì, lột sạch mọi che đậy và giả hình. Linh hồn đứng trước tòa án Thiên Chúa trần trụi như thực chất. Nếu không có nhân đức như tấm áo che thân, người ta cảm thấy xấu hổ cực độ, giống như Ađam và Evà trong địa đàng. Sau khi phạm tội hai ông bà nhận ra mình trần truồng, phải lấy lá che thân và đi ẩn. Như vậy, có mối liên hệ hữu cơ giữa tội lỗi và trần truồng ở giây phút phán xét, dù trong vườn địa đàng hay trong cuộc sống thường nhật. Những linh hồn thiếu ơn thánh thường tìm bù lại bằng y phục diêm dúa sặc sỡ, hoặc ăn vận thiếu đoan trang. Ðó là tâm lý chung. Ngày nay xã hội sa đọa cho nên người ta ăn mặc lố lăng, hở ngực, hở mông, hở rốn. Nhưng linh hồn nhân đức không làm như vậy, vì tâm hồn họ đầy đủ ơn thánh. Còn một thay đổi khác nữa khi linh hồn lià khỏi xác. Ðó là sự bình đẳng trước toà thẩm phán Thiên Chúa. Khi sống, người ta có thể thuộc giai cấp xã hội khác nhau: Người giàu kẻ nghèo. Người sang kẻ bần cùng. Có những kẻ được hưởng đặc ân xã hội như vua chúa, quan quyền hoặc tôn giáo linh mục, giám mục, tu sĩ, đức ông. Có những người đẹp đẽ, tài ba, kẻ khác xấu xí, méo mó, đen đủi. Nhưng trước toà án, phán xét theo công trạng của mình mà thôi. Ðể dễ hiểu, chúng ta so sánh với các tài xé xe hơi. Họ lái đủ mọi kiểu xe: đẹp xấu, 20 mã lực, 100 mã lực. Nhưng khi vi phạm luật giao thông, thì được xét xử theo luật đó, bất kể kiểu dáng hay loại xe. Cũng vậy, những linh hồn được lượng giá theo trách nhiệm đôí với bổn phận, chứ không theo giai cấp, điạ vị xã hội, học thức hay ngu tối. Người ta sẽ đứng tách riêng ra một mình chứ không thuộc phe nhóm nào. Cũng không luật sư, trạng sư bào chữa. Không biện minh lý do nào khác. Không bênh vực giảm nhẹ. Chỉ có một tiếng nói duy nhất: đó là lương tâm. Nó sẽ bày tỏ thực chất của linh hồn. Thánh vịnh 139 viết: Lạy Chuá, Ngài dò xét con, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa. Ði lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét. Mọi đường nẻo con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt lên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết." Vậy cần chi phải biện hộ? Chết sẽ bày tỏ tính độc đáo của mỗi tư cách: khiêm nhường, kiêu căng, giả hình, chân thật, tội lỗi, trong trắng. Triết học kinh điển gọi là Incommunicabile (không chia sẻ được). Nó duy nhất cho mỗi tính cách cá nhân. Pascal nói: "Chẳng có gì quan trọng cho một người bằng tình trạng linh hồn họ. Chẳng có chi đáng khiếp sợ hơn số phận đời đời". Chết đối chiếu bản thân với chính mình, không ảo tưởng, không lừa dối trong khả năng sáng suốt nhất của trí tuệ. Linh hồn thực sự nhìn rõ bản chất của chính mình, nhận ra qúa khứ, hiện tại, tương lai. Trí nhớ sẽ giải bày hết mọi kinh nghiệm linh hồn trải qua, nết tốt, thói xấu, trách nhiệm đã chu toàn, bổn phận thiếu sót, việc lành, điều gian ác, kinh sách đã đọc, bác ái, ích kỷ, tham lam, kiêu căng, đam mê, nhất nhất đều được tỏ bày như các vi trùng dưới ống kính hiển vi. Không thiếu một chi tiết nhỏ nào trong cuộc sống của đương sự. Thật dễ sợ nếu người ta ý thức rõ sự kiện. Làm thế nào được khả năng đôí diện với cái chết? Một biến cố chắc chắn và không thể chối từ? Nó sẽ xẩy ra cho mỗi cuộc đời? Câu trả lời tùy vào niềm tin. Người không tin trả lời khác với các tín hữu. Người ngoại đạo mỗi lúc sống tiến gần đến cái chết. Ngược lại kẻ có đạo từ cái chết lui về cõi sống. Ngươì vô đạo tỏ vẻ quên đi cái chết của mình, nhưng thật ra, càng trở về già càng lo lắng sợ hãi. Các tín hữu chiêm ngắm cái chết để cố gắng sống tốt lành. Do đó, càng về già càng hy vọng vào Thiên Chúa, quê hương đích thực. Kẻ không tin chỉ có hai kinh nghiệm: Sống và chết. Nơi các tín hữu có ba: Sống, chết và vĩnh hằng. Ðạo lý Công giáo luôn khuyến khích người ta suy tưởng về cái chết, ngõ hầu sống tốt hơn. Ðiều này mang lại hiệu qủa thiết thực. Bởi vì mặc dầu người ta chẳng thể sống lại qúa khứ, nhưng có thể thăng tiến về tương lai. Mỗi lần cố gắng sống tốt lành chúng ta tự nghĩ: như vậy ngõ hầu mai ngày chết công chính. Tư tưởng này không có nơi những kẻ vô đạo. Bí quyết thắng cái chết của người tín hữu gồm hai điểm: 1/ Suy tưởng sự chết. 2/ Diễn tập chết bằng hy sinh hãm mình. Mục tiêu của việc suy gẫm cái chết là chinh phục sợ hãi chết, bằng cách trực diện với nó thường xuyên trong tư duy. Qua việc nếm trước cái chết trong trí khôn, chúng ta có cơ hội chiêm ngưỡng cõi đời đời. Chính Chúa Giêsu đã đi con đường đó khi Ngài khởi sự sống từ cây Thánh Giá lùi lại hang Belem. "Con Chiên đã bị giết từ nguyên thủy trời đất". Ta đến để thí mạng sống cho thế gian." Mục tiêu đời Ngài là cây Thánh Giá chuộc tội nhân loại. Ðể thực hiện mục tiêu ấy Ngài sinh xuống hang BeLem. Như vậy nhờ năng tưởng nhớ sự chết, chúng ta suy nghĩ cao thượng hơn và loại bỏ được những cái nhìn thấp hèn trần tục, nhất là ảo tưởng rằng thế gian này không có luân lý. Mọi thứ đều là vật chất và hưởng thụ. Chắc hẳn ngày nay, bất luận cá nhân nào cũng được nghe về châm cứu. Phương pháp chữa bệnh này chẳng là gì khác ngoài dùng kim kích thích các huyệt trên thân thể làm cho các cơ năng hoạt động trở lại. Cũng vậy suy gẫm về sự chết ảnh hưởng tốt trên cảm quan thiêng liêng. Nó phá vỡ tính thiển cận rằng trên đời này chỉ có sung sướng xác thịt mà thôi. Người ta phải tìm kiếm an toàn trong tiền bạc, nhà cửa, quyền lực. Tôn giáo dành cho những kẻ yếu thế, ủy mị chứ không phải cho các người hùng mạnh. Ðó là một lầm tưởng tai hại, có khả năng lừa dối vô số người nông cạn. Khi suy tưởng về cái chết của mình, thành trì ích kỷ của con người bị bắn phá tan tành. Chính Chúa Giêsu tuyên bố: được lời lãi cả thế gian, mà thiệt mất mạng sống mình, nào được ích chi? Lúc sinh vào thế gian, chúng ta nắm tay vơ vét và gây hấn. Nhưng khi nhắm mắt, hai tay mở ra buông suôi, mọi sự đều phân tán, chỉ còn: Opera enim illorum sequentur illos ( những công việc họ làm đi theo họ). Cho nên suy niệm về cái chết có ích cho mỗi linh hồn. Chúng ta bớt ích kỷ, bớt tham lam thu tích, thi hành yêu thương bác aí nhiều hơn. Do đó, bớt lo lắng về số phận đời đời. Tâm trí được mở ra cho viễn tượng rộng lớn bao la. Ðiểm thứ hai, diễn tập chết cũng giảm bớt sợ hãi. Các nhà khổ tu mỗi sáng thường ngồi bên miệng huyệt để suy gẫm, nhờ đó, suốt ngày họ sống thánh thiện hơn. Ngày nay ít linh hồn thực hiện như vậy. Nhưng Hội Thánh khuyên thực hành khổ chế: ăn chay, hãm mình, hy sinh tập tành trước những cái chết nho nhỏ (morti - ficatio). Ðúng ra mỗi cái chết đều là một kiệt tác của đời sống. Kiệt tác không thể hoàn thành trong một ngày. Nó đòi hỏi năm tháng dài lâu. Người nghệ sĩ dùng tràng đục, đẽo gọt dần dần và khoé leó. Cuối cùng với tài ba ông hoàn thành tác phẩm và trình bày cho quần chúng. Kiệt tác của cuộc đời cũng không thể đạt tới trong giây lát. Nó đòi hỏi 10,20,30,50,100 năm hy sinh lao động cực nhọc. Giờ phán xét, hình ảnh giống Thiên Chúa của linh hồn được vén màn cho thế giới chiêm ngưỡng. Tu sĩ Don Scotus, dòng Phanxico, nổi tiếng suốt đời ăn chay phạt xác thực hành khổ chế. Lúc chết người ta ghi trên bia mộ ông: "Bis Mortuus, Semel Sepultus" ( chết hai lần, chôn cất một lần). Ước chi người ta cũng có thể ghi như vậy trên bia mộ chúng ta. Thực ra, khi chúng ta can đảm chết cho điều hạ cấp, thì điều thượng cấp lớn hơn lên trong linh hồn, thí dụ chết cho tính ích kỷ, thì rộng lượng lớn lên, chết cho ty tiện thì bác ái lớn lên, chết cho kiêu căng thì khiêm tốn nẩy nở, chết cho đam mê nhục dục thì thanh sạch trong trắng phát triển, chết cho hận thù thì yêu thương lan tỏa. Cho nên muốn sống thánh thiện, thì xin ghi nhớ: chinh phục cái chết trong từng ý nghĩ, lời nói, việc làm bằng tư duy khẳng định cõi vĩnh cửu. Các tác giả đạo đức thường khuyên nhủ: làm mọi sự như thể là giây phút cuối cùng. Hơn nữa, nếu chúng ta đối xử với người còn sống như thể họ đã chết, lúc ấy tính tốt của họ sẽ lộ rõ. Còn đối với những kẻ đã qua đời như các ngươì còn sống thì lời cầu nguyện của chúng ta sốt sắng hơn. Ðức tin vào luyện ngục giúp hăng hái làm việc đền tội thay cho các linh hồn. Bởi khi họ còn sống chúng ta đã không chu toàn bổn phẩn yêu mến. Lòng hối hận thúc đẩy đền bù bằng hy sinh, hãm mình và cầu khẩn. Tháng này là tháng các linh hồn hẳn các tín hữu chẳng thể lơ là trách nhiệm. Thắp nhang trên mộ họ không đủ, còn đòi hỏi khổ chế cho họ nữa, phép công thẳng của Ðức Chúa Trời chẳng thiên tư, tây vị ai. Thương yêu họ là cứu linh hồn họ thoát khỏi chốn luyện hình đau đớn. Ðức tin công giáo còn dạy: chết là sinh vào cõi vĩnh hằng. Một ngày sinh nhật mới, hạnh phúc và chân thật hơn. Khác với thói tục thế gian, Giáo Hội luôn chúc phúc cho con cái mình khi họ bước vào cuộc sống đời đời. Phụng vụ gọi là sinh nhật trên trời (Natalitia in coelo) chỉ trừ ba lễ: Giáng Sinh Chúa Cứu Thế (25,12), sinh nhật Ðức Mẹ (8.9), sinh nhật Thánh Gioan Tiền Hô (24.6). vì ba lễ này thể hiện ý nghĩa ơn thánh đổ vào trần gian. Thánh Gioan khỏi tội khi còn nằm trong bụng mẹ. Ðức Maria thụ thai tinh tuyền và dĩ nhiên Chúa Giêsu mang đời sống thần linh xuống cho nhân loại - Ba ngoại lệ không mâu thuẫn với qui luật chung: sự sống qua cái chết, thiêng liêng qua hy sinh hãm mình. Nhưng làm sáng tỏ qui luật ấy: ơn thánh Chúa Cứu rỗi linh hồn nhân loại. Mất mạng sống trần tục để được sống muôn đời. Linh hồn chỉ bằng lòng lên thiên đàng khi đã đền bù mọi lỗi lầm. Lúc ấy linh hồn nhận ra mình không còn dính bén thế gian. Nhưng yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực mình (Mc 12,30). Cõi phúc đời đời là như vậy. Amen (Theo The Fear of death của ÐHY Fulton J.Sheen) Fr Thomas Tuý, OP dịch
Nghe từ “Vĩnh Biệt” tự nhiên lòng chúng ta chùng xuống. Sao mà thấy xa vời và não lòng quá. Lời vĩnh biệt làm cho lòng xôn sao rụng rời. Một bước hẫng mất mát. Sự hiện diện bị cắt đứt. Không còn gặp nhau nữa. Ra đi mãi mãi ngàn thu. Không phải một Thu mà ngàn Thu. Mỗi độ Thu về, lá cây đổi mầu vàng úa và rụng xuống. Cảnh Thu thật buồn. Từng chiếc, từng chiếc lá khô héo và rụng bay theo chiều gió. Lá thu rơi vĩnh biệt. Từ những lá già đến những lá non mới trổ đều lần lượt ra đi để cành cây trơ trụi. Không có lúc khởi đầu thì cũng chẳng có kết thúc. Không có sinh thì không có tử. Không có lúc chào đời thì không có lúc lìa đời. Không có mối liên hệ thì cũng chẳng có giây phút vĩnh biệt. Liên hệ càng sâu đậm, sự chia ly càng buồn đau. Sự vĩnh biệt chia cách nào mà con tim không rướm máu. Sinh ra là sự khởi đầu. Chết là đến cùng đích. Sống là cuộc lữ hành. Lữ hành trần thế làm cho chúng ta đi từ trạng thái này đến trạng thái khác. Từ non nớt đến trưởng thành. Từ dại khờ đến sự hiểu biết. Từ yếu đuối đến mạnh sức. Từ sự cô đơn đến tình yêu nồng ấm. Từ vui mừng đến lòng biết ơn. Từ khổ đau đến sự cảm thương và từ sợ hãi đến niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Chúa Kitô sống lại là niềm xác tín và là hy vọng của chúng ta. Chúng ta đang sống nhưng chúng ta không hiểu về mầu nhiệm của sự sống. Hết sống là đi vào cõi chết. Sách Giảng Viên nói rằng có sự ấn định thời gian cho mọi sự: Một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy (Gv 3,2-4). Trong cuộc lữ hành dưới thế, mọi người đều trải qua những phát triển căn bản như nhau. Rồi từng người cũng từ từ tách ra khỏi cuộc đồng hành. Giống như khi chúng ta bước lên chuyến tàu và mỗi người xuống một trạm khác nhau. Ai cũng phải xuống trạm. Trạm cuộc đời cũng thế, không ai có thể bỏ cái trạm sau cùng là sự chết. Có biết bao người khắc khoải đi tìm ý nghĩa của sự chết. Nhiều người không biết rằng sau khi chết, số mệnh mỗi người sẽ ra sao? Chết có phải là hết không? Nếu không, chúng ta sẽ đi về đâu? Trải dài suy tư mọi thời để tìm giải đáp, con người vẫn còn bị bế tắc trước mầu nhiệm của sự chết. Văn minh khoa học giúp con người nghiên cứu học hỏi về sự sống để giúp giữ gìn sức khỏe và chữa lành những bệnh tật, nhưng khi đã tắt thở thì con người đành bó tay. Khoa học chỉ có thể trả lời cho vấn đề sự sống, sự chết về khía cạnh thực nghiệm và thể chất. Mầu nhiệm của sự chết vẫn là một điều bí ẩn của niềm tin. Ai trong chúng ta cũng có một chút kinh nghiệm về sự chết mòn. Sự chết của một tế bào, của một sợi tóc rụng xuống và sự chết dần chết mòn của trí khôn quên xót và xác thân hao gầy, đuối sức mỗi ngày. Nhưng không một ai có thể chia sẻ kinh nghiệm của cái chết hoàn toàn khi đã tắt thở lìa đời. Một khắc giây cách biệt muôn đời giữa sự sống và sự chết. Hai thế giới sống chết tách biệt ngàn trùng. Không có chiếc cầu nối liên hệ. Chết là chấm dứt và là vĩnh biệt. Đứng trước cái chết của người thân, chúng ta mới thực sự cảm thấy sự mất mát, đau lòng, tiếc nuối và thương nhớ là dường nào. Hy vọng là nguồn sống của mỗi người chúng ta. Những người thân thuộc trong gia đình, anh chị em bạn bè và ân nhân tạo thành mỗi liên hệ gần. Càng gần thì càng thân. Thân thuộc thì không muốn chia lìa xa cách. Chúng ta chỉ muốn nói lời tạm biệt, hẹn gặp lại và mong có dịp lại cùng xum họp. Đâu ai muốn cắt bỏ đoạn tuyệt và nhất là nói lời vĩnh biệt. Vĩnh biệt như một bước hẫng. Thôi, người thân đã ra đi và ra đi mãi mãi. Kể từ nay chúng ta không gặp nhau, thấy nhau hay truyện trò với nhau được nữa. Chấm hết rồi. Biết rằng không sớm thì muộn, ai ai cũng phải ra đi. Có những người ra đi để lại muôn ngàn nhớ thương. Có những người ra đi đã gây sự sầu héo, đơn côi giá lạnh và héo hon cho mảnh hồn còn lại. Sự ra đi đơn côi làm cho nhiều người lo lắng sợ hãi. Trong niềm tin của Kitô hữu, chúng ta tin tưởng rằng chết không phải là hết. Chết chỉ là qua đời. Chết là ra đi vào một thế giới khác. Chết là qui tiên. Chết là tạ thế. Chết là sự tách biệt giữa linh hồn và thể xác. Mỗi người bước vào đời một mình và cũng sẽ ra đi một mình. Cuộc ra đi rất xa không ngày trở lại. Chết là ra đi về nhà Cha. Muốn hưởng hạnh phúc vĩnh cửu phải bước qua cửa ngõ của sự chết. Nói chung, ai cũng sợ phải chết. Cho dù chúng ta tin rằng có chết đi mới được lên thiên đàng nhưng chẳng ai muốn chết sớm. Yêu mến thiên đàng nhưng chúng ta vẫn muốn sống. Mỗi lần đi cầu nguyện viếng xác, nhìn xác không hồn nằm đó lạnh lẽo. Của cải trần gian trở thành vô nghĩa. Tình đời bon chen xuôi ngược, giờ đây chỉ có hai bàn tay trắng lạnh cóng. Sau ít ngày thân xác sẽ tiêu tan và trở về cát bụi. Người ra đi là đi vào giấc ngủ ngàn thu. Họ không còn vấn vương bụi trần. Họ vào đời với hay bàn tay trắng và cũng ra đi thanh thản chẳng mang theo chi. Người chết ra đi vĩnh biệt nhưng người sống vẫn tiếp tục cuộc sống với bao thăng trầm. Chúng ta biết rằng cho dù có mặt của chúng ta hay không, tầu vẫn chạy chuyến đi chuyến về mỗi ngày. Mặt trời vẫn vươn lên mỗi buổi sáng và lặn xuống khi chiều về. Xã hội và môi trường chung quanh cứ tiếp tục vận hành. Trong niềm tin Kitô Giáo, chúng ta được ngụp lặn trong tình yêu của Thiên Chúa. Dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Chúa tạo dựng con người có hồn có xác giống hình ảnh của Chúa. Thiên Chúa ban cho con người có tình yêu liên đới để con người được sống trong tình yêu và chết trong tình yêu. Chính Đấng làm chủ sự sống đã hiến mình trên thập giá để diệt trừ sự chết. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa như hạt lúa mì bị chôn vùi và hư nát rồi mới sinh bông hạt. Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24). Chúa Kitô chịu chết để đem lại sự sống cho con người. Chúa phán: Đức Giê-su liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11,25). Như vậy, đối diện với sự chết chúng ta không còn phải qúa sợ hãi. Sự chết là cửa dẫn chúng ta vào sự sống đời đời. Chúng ta đã có Chúa Giêsu dẫn đường về quê trời. Chính Chúa Giêsu đã hứa: Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (Ga 14,2). Tin lời Chúa hứa, chúng ta vững bước trong mọi hoàn cảnh dù sống dù chết. Sau khi lìa cõi trần, chúng ta sẽ được diện kiến với chính là Đấng mà chúng ta tôn thờ. Ngài sẽ đón nhận chúng ta vào nhà Cha trên trời. Nhớ rằng hành trang về nhà Cha không phải là vàng bạc châu báu ở đời, cũng không là danh vọng trần thế mà là bảo chứng của tình yêu. Bao nhiêu yêu thương chúng ta đã chia sẻ. Bao nhiêu việc lành và phúc đức đã thực hiện. Khi trở về cõi phúc, chúng ta phải chuẩn bị món qùa quý báu dâng Chúa. Chúa không nhận của cải vật chất nhưng Chúa sẽ đón nhận một tâm hồn khắc khoải yêu thương. Chúa sẽ lấp đầy tình yêu trong trái tim rộng mở. Vui sướng biết bao khi được Chúa lại đến đón chúng ta về: Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (Ga 14,3). Tháng Các Linh Hồn là thời gian giúp chúng ta suy nghĩ về chính cuộc đời của mình. Cầu nguyện cho các linh hồn là chúng ta đang cầu nguyện cho chính chúng ta. Rồi một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ tới đích cùng của cuộc đời. Ngày đó đến bất chợt như chớp sáng lòe từ chân trời này đến chân trời kia. Chúng ta không biết chính xác ngày giờ. Cách tốt nhất là chúng ta luôn trong tư thế chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng. Ngày đó chắc chắn sẽ đến và sẽ là ngày vui mừng xum họp. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh là nguồn hy vọng duy nhất của cuộc lữ hành trần thế này. Chúa Kitô là Chúa của sự sống. Nước của Chúa là nước của kẻ sống. Chúng ta sẽ gặp nhau lại trong Nước của Chúa, nơi đó sẽ không còn khóc lóc, than van, sợ hãi, đau khổ và chia ly. Nước Chúa là nơi xum họp trong an vui hạnh phúc. Nơi đó không có từ ngữ Vĩnh Biệt mà là yêu thương hợp nhất. Lạy Chúa, con suy tư về sự chết nhưng con vẫn sợ chết. Con muốn được tham dự bàn tiệc Nước Trời nhưng con không muốn dứt tiệc tùng nơi trần thế. Con muốn lên thiên đàng nhưng con lại cứ bám víu của cải trần gian. Con muốn làm điều tốt nhưng con lại cứ sa vào dịp tội. Cuộc lữ hành trần thế còn nhiều chông gai và thử thách. Chúng con vẫn tiếp tục được sống. Sự sống là qùa tặng Chúa ban. Thiên Chúa có quyền quyết định số phận của mỗi người. Sự sống dài hay ngắn hoàn toàn nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng con xin vâng ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Chúng con chỉ biết dâng lời cảm tạ và ngợi khen Chúa đã cho chúng con sống ngày hôm nay trọn vẹn trong tình yêu của Chúa.
Theo một câu chuyện thần thoại Hy lạp. Sivil là một người phục vụ trong đền thờ. Khi được hỏi muốn được thưởng công thế nào cho xứng đáng với công phục vụ của mình, Sivil đã trả lời như sau: - Xin cho tôi được trường sinh bất tử. Thế là bà đã được như ý. Tất cả mọi người thân, bạn bè quen biết đều lần lượt ra đi. Bao nhiêu thế hệ đến rồi đi. Bao nhiêu nền văn minh xuất hiện rồi biến mất. Sivil vẫn tồn tại trước bao đổi thay ấy. Nhưng dĩ nhiên, dù không chết, thân của Sivil mỗi ngày cũng tàn tạ, nếp nhăn của thời gian cũng từ từ hiện lên trên mái tóc khuôn mặt của bà. Bất tử nhưng bà vẫn không tránh khỏi bệnh tật ngày càng gia tăng theo năm tháng. Không chết nhưng thân xác của bà ngày càng khô héo và nhỏ lại đến độ cuối cùng bà có thể chui vào một trong cái chai nhỏ. Chính trong cái chai nhỏ ấy mà một hôm có một người đã khám phá ra bà. Giờ đây, khi được hỏi, bà mong mỏi điều gì, bà Sivil trả lời: - Tôi chỉ muốn chết. Sivil đã xin được bất tử, bà đã được như ý. Giờ đây bà chỉ còn một nỗi khao khát là được chết. *** Quí vị và các bạn thân mến, Ðông Tây, kim cổ, ở đâu và thời đại nào con người cũng tha thiết được trường sinh bất tử. Muốn được sống mãi nên cho dù có khốn khổ cơ cực đến đâu cũng không ai muốn chết. Nhưng càng thêm tuổi thì càng thêm chồng chất đau thương. Trường sinh bất tử mà không được trẻ mãi là một gánh nặng. Chính vì thế mà đối với các tín hữu Kitô, sự sống trường sinh bất tử mà Thiên Chúa hứa ban cho con người không diễn ra trên trái đất này. Trái lại trường sinh bất tử chỉ đến trong cuộc sống mai hậu mà thôi. Ðể đạt được sự sống vĩnh cửu ấy, con người phải trải qua đau khổ và sự chết. Ðể được sống trường sinh, con người phải mất đi cuộc sống tại thế này. Ðó là định luật được ghi khắc sâu trong bản tính con người. Toàn bộ cuộc sống của người Kitô được xây dựng trong niềm tin và cuộc sống mai hậu ấy. Tuy nhiên, không vì hướng đến cuộc sống mai hậu ấy mà họ xao nhãng đối với cuộc sống tại thế này. Trái lại, chỉ biết rằng: hạt giống của sự sống vĩnh cửu được gieo vãi và nẩy mầm ngay trên mảnh đất cuộc sống chóng qua này mà họ lại càng ra sức làm việc và sống như thế nào để hạt giống ấy được trổ sinh tươi tốt trong ngày mùa sau hết. Chính vì ý thức rằng: không thể đi vào cuộc sống vĩnh cửu mà không sống cuộc sống tại thế này một cách sung mãn. Cho nên họ đón nhận từng giây phút chóng qua trên cõi đời này như một chuẩn bị cần thiết cho cuộc sống mai hậu. Ðây chính là tinh thần lạc quan đích thực của Kitô hữu. Người thực sự sống niềm tin của mình luôn biết nhận ra vĩnh cửu trong khoảnh khắc chóng tàn, luôn biết cảm nghiệm được hạnh phúc trong mất mát khổ đau, luôn biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu qua những của cải tạm bợ. Mùa chay, chuẩn bị tâm hồn để mừng mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, các tín hữu Kitô được mời gọi để sống tinh thần lạc quan ấy: Chay tịnh, Cầu nguyện, Sám hối và nhứt là thực thi Bác Ái. Ước gì những thực hành này khơi dậy trong chúng ta niềm vui sống và tinh thần lạc quan đích thực của Kitô giáo. Lạy Chúa, xin cho chúng con trong khi mưu tìm cuộc sống tại thế này luôn biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Xin cho cuộc sống vĩnh cửu mà Chúa hứa ban cho chúng con trở thành động lực thúc đẩy chúng con xây dựng nước Chúa qua những thực tại chóng qua ở đời này. Amen. R. Veritas
Ngày 19/6/2009 vừa qua tại nguyện đường Các Thánh Tử Đạo VN tại San Jose. Các linh mục, giáo dân, cựu chủng sinh gốc giáo phận Long Xuyên, giáo dân gốc Lạng Sơn, Thái Bình đã tổ chức thánh lễ để ghi ơn và cầu nguyện cho Đức cha Micae Nguyễn khắc Ngữ, nguyên giám mục chính toà tiên khởi, giáo phận Long Xuyên vừa thất lộc ngày 10/6/2009. Hưởng thọ 101 tuổi. Sau đây là bài cám ơn của đại diện Ban tổ chức. Kính thưa quí cha đồng tế, Kính thưa toàn thể quí vị đang hiện diện trong nguyện đường ấm cúng này. Chúng ta vừa kết thúc bài ca hiệp lễ với điệu nhạc du dương đầy tâm tình để dâng lời tạ ơn cho Đức cha Micae rất yêu quí của chúng ta: “Biết lấy gì cảm mến Biết lấy chi báo đền. Hồng Ân Chúa cao vời, Chuá đã làm cho tôi.” Quả thực cuộc hành trình đương thế 100 năm của Đức cha Micae Nguyễn khắc Ngữ là một chuổi dài những Hồng Ân của Thiên Chúa tuôn đổ trên Đức cha. Kính thưa quí cha và quí vị, Qua những lời dẫn nhập đầu lễ và những lời chia sẻ trong bài giảng; quí cha đã nhắc lại cho chúng con những công lao to lớn của Đức cha Micae trong việc điều hành và phát triển giáo phận Long Xuyên cũng như tình yêu của ngài dành cho giáo phận và từng thành phần dân Chúa dưới quyền ngài coi sóc. Nhưng đấy mới chỉ là cái nhìn đối với giáo phận. Nhưng con muốn lợi dụng giây phút này để bổ túc thêm với quí cha và quí vị một cách ngắn gọn những công lao của Đức cha Micae đối với Giáo hội hoàn vũ, nói chung, và đặc biệt với Giáo hội Việt Nam nói riêng.
NHỮNG ĐÓNG GÓP VỚI GIÁO HỘI HOÀN VŨ – Chắc quí vị cũng đã biết Đức cha Micae của chúng ta là một trong những Nghị phụ* hiếm hoi của Công Đồng Vatican II còn sót lại trên toàn thế giới. Ngài được bổ nhiệm làm giám mục năm 1964, khi mới 51 tuổi. Và 4 năm sau, năm 1964, khi Đức giáo hoàng Gioan XXIII tuyên bố triệu tập Công đồng thì Đức cha Micae của chúng ta mới 55 tuổi. Có lẽ, thời bấy giờ, ngài là một trong những Nghị phụ trẻ nhất của Giáo hội Việt Nam đi tham dự công nghị Công đồng Vatican II. Tôi còn nhớ lại thời gian đó, mỗi lần đi công nghị về, ngài đều sang chủng viện để chia sẻ với chúng tôi những tin tức của Công đồng, và theo ngài, các Nghị phụ đã làm việc rất hăng say và tích cực: những cuộc bàn luận rất sôi nổi về các vấn đề của Giáo hội, các văn kiện của công đồng. Có rất nhiều ý kiến khác biệt giữa các Nghị phụ. Đã có những tranh luận rất thẳng thắn và gay gắt, từng vấn đề được đưa ra bàn thảo và mổ sẻ phân tích rất kỹ lưỡng. Từng câu, từng chữ trong các văn kiện được cân nhắc cẩn trọng. Và rồi như chúng ta đã biết, như trong ngày lể Ngũ Tuần, với tác động và soi sáng của Chúa Thánh Thần trên các Nghị phụ; Công đồng Vatican II đã như một cơn lốc canh tân và biến đổi bộ mặt của Giáo hội và từ đó tác động và ảnh hưởng sâu xa đến thế gìới trần gian. Riêng đối với Giáo hội Việt Nam Đức cha Micaei là một trong 2 Nghị phụ sau cùng của Công đồng Vatican II. Vị khác là Đức cha Tôma Nguyễn văn Thiện giám mục giáo phận Vĩnh Long hiện đang nghỉ hưu tại Pháp.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO GIÁO HỘI VIỆT NAM.
Có một chi tiết trong phần tiểu sử của Đức cha Micae mà ít người chúng ta để ý tới. Đó là năm 1957 ngài được Hội Đồng Giám Mục Viêt Nam thời bấy giờ giao trọng trách Đặc ủy phó Công Giáo Tiến Hành Việt Nam, đồng thời là Tổng tuyên úy đầu tiên của phong trào Nghiã Binh Thánh Thể. Phong trào Nghiã Binh Thánh Thể đã được du nhập vào Việt Nam từ năm 1929 do các cha dòng Tên và trong thời gian từ năm 1929 đến năm 1938 phong trào này phát triển mạnh mẽ tại các giáo phận miền Bắc Cuộc di cư năm 1954, đã làm cho phong trào Nghiã Binh Thánh Thể phát triển hơn nữa tại miền Nam. --------------- -Xin xem website Wikipedia http://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_Tr%C3%A0o_Thi%E1%BA%BFu_Nhi_Th%C3%A1nh_Th%E1%BB%83 -------------- Với đường lối và kinh nghiệm khi coi chủng viện Mỹ Sơn (1940-1943) thuộc giáo phận Lạng Sơn. Ngài đã áp dụng những sinh hoạt của Hướng Đạo vào phong trào Nghiã Binh Thánh Thể,- và sau này cũng một đường lối ấy ngài đã cho phép lập các đoàn Hướng Đạo trong các chủng viện và Đại chủng viện của giáo phận Long Xuyên. Việc áp dụng những sinh hoạt Hướng Đạo vào đoàn Nghiã Binh Thánh Thể khiến sinh hoạt linh động hơn, vui tươi hơn thích hợp với tuổi trẻ hơn và vì thế phong trào Nghiã Binh Thánh Thể đã phát triển rầm rộ và lan rộng. Tuy nhiên những mục đích giáo dục về Đạo Đức và Giáo lý, việc hy sinh cầu nguyện và viếng Thánh Thể vẫn được gìn giữ và tuân thủ một cánh nghiêm ngặt. Sau này phong trào Nghiã Binh Thánh Thể được đổi thành Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể. Có nhiều người trong quí vị, nhất là những quí vị ở tầm tuổi tôi; chúng ta cũng đã có một thời từng là đoàn viên Thiếu Nhi Thánh Thể, sau chúng ta là con chúng ta, và bây gìờ có nhìều quí vị đang có cháu nội hoặc cháu ngoại đang sinh hoạt trong phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể. Và cứ thế hết thế hệ này đến thể hệ khác sẽ còn tiếp nối nhau sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể. Một điều mà chúng ta không thể chối cãi là những gì chúng ta đã lãnh hội được khi còn sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể đã phần nào giúp cho đời sống đức tin và sống đạo của chúng ta rất nhiều Trên Vietcatholic ngày 14/6/09 có đưa một bản tin: 5000 ngàn Thiếu Nhi Thánh Thể hành hương Năm Thánh đến với Đức Mẹ TàPao http://www.vietcatholic.net/News/Html/68208.htm 5000 em Thiếu Nhi Thánh Thể này đại diện cho 34, 000 ngàn em Thiếu Nhi Thánh Thể thuộc giáo phận Phan Thiết. Nếu chúng ta lấy 34 ngàn của Phan Thiết là con số trung bình thì với 26 giáo phận của Việt Nam thử hỏi con số đoàn viên Thiếu Nhi Thánh Thể trên toàn quốc bây giờ sẽ là bao nhiêu? Một con số không tưởng tượng nổi. Và chúng ta còn phải tính thêm đến tất cả các em của các Cộng đoàn Công giáo Việt Nam trên toàn thế giới nữa, hễ chổ nào có Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tị nạn là chổ đó có đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể như vậy con số sẽ là bao nhiêu?!!!! Không đếm được,hay một con số khổng lồ!!! Tôi cũng cần phải thêm vào đây là kể từ tháng 8 năm 1974* đến nay điạ phận Long Xuyên đã đóng góp cho Giáo hội 6 vị Giám mục, có những vị gốc Long Xuyên và cũng có những vị đã từng có thời gian tu học tại giáo phận Long Xuyên. Chỉ một vài nét đơn sơ đó thôi chúng ta cũng đã thấy công lao của Đức cha Micae đối với Giáo hội Viêt Nam to lớn và lâu dài đến cỡ nào.
ĐỜI SỐNG RIÊNG TƯ Tôi thiết nghĩ ngoài những công lao của Đức cha Micae với Giáo hội và Giáo phận, chúng ta cũng nên nói đôi điều về cuộc sống riêng tư của Đức cha Micae. Ngài là một vị giám mục đạo đức tốt lành, đầy tình yêu thương và nhân hậu. Khắc kỷ, hy sinh, và cần kiệm với chính mình nhưng lại rộng rãi và độ lượng với mọi người. Đức Tổng giám mục Giuse Ngô quang Kiệt.trong bài giảng lễ Thượng Thọ của Đức cha Micae đã kể cho mọi người biết: “…tài sản quí giá nhất của ngài là chiếc máy đánh chữ củ kỹ….” – ( trích: Kỷ yếu Viết Về Cha – Toà giám mục Long Xuyên phát hành) Còn Đức cha Giuse Trần xuân Tiếu tự nhận “là người láng giềng của ngài” cho biết: “….ngài (ĐC Micae) tự quét nhà, lau nhà và giặt giũ lấy cho mình, không phiền hà người khác - khi nghỉ hưu (có những lúc) ngài ngồi chẻ tăm cho cả nhà dùng …” – Sđd Đặc biệt ngài rất tiết kiệm và rất thương các cha, nhất là các cha coi các xứ đạo hẻo lánh xa xôi và túng thiếu. Có bao nhiêu tiền ngài dốc hết để xây dựng điạ phận và ban lể cho các cha ở những xứ đạo nghèo túng, các phong bì tiền lể là những bao xi măng do ngài tự làm hoặc các phong thơ đã được ngải lộn trái ra để xài lại. Có cha trong điạ phận còn giữ lại những phong thơ đó như một kỷ vật. Nếu phải dùng một lời nào đó để nòi về ngài trong lãnh vực này thì, theo tôi, có lẽ câu nói: “Tôi chỉ còn lại nhữn gì tôi đã cho đi” là thích hợp hơn cả. Kính thưa quí cha và quí vị, Để kết thúc, con xin được thay mặt cho toàn thể anh chị em trong Ban tổ chức xin chân thành cám ơn quí cha và toàn thể quí vị đã đến với chúng con và dành cho chúng con những giây phút quý báu này để tỏ lòng Ghi Ơn và Cầu Nguyện cho Đức cha khả kính và mến yêu của chúng con. Con tin chắc Đức cha Micae của chúng con hiểu thấu được sự hy sinh và lòng yêu mến của quí cha và quí vị.dành cho ngài. Để đền ơn quí cha và quí vị Ngài sẽ cầu bầu cho quí cha và quí vị khi ngài ở bên ngai Chúa. Chúng con đồng bái tạ ------------ Chú thích – 1 - Nghị phụ - danh từ chuyên môn của Giáo hội, để chỉ các vị Hồng Y, Tổng giám mục và Giám mục khi tham dự Công đồng. 2 - Khởi đầu với Đức cha Đaminh Nguyễn văn Lãng được toà thánh bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Xuân Lộc ngày 11/8/1974 (tạ thế 22/2/1988). Lúc đó ngài đang là giáo sư Đại chủng viện Tôma Long Xuyên ĐC J.B. Bùi Tuần, (30/4/1975) – giáo sư ĐCV Tôma, LX. ĐC Giuse Trấn xuân Tiếu (18/6/1999)– thư ký ĐC Micae, giáo sư ĐCV Tôma, LX Đức tổng giám mục Giuse Ngô quang Kiệt (18/6/1999), thư ký toàn giám mục LX Đức cha Giuse Vũ duy Thống (14/7/2001) - tiểu chủng sinh CV Tẻrêsa, LX. (1964-1972) Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm (15/10/2008)- Đại chủng sinh ĐCV Tôma LX, (1973-1976) Ban Tổ Chức
*** TƯỜNG THUẬT THÁNH LỄ AN TÁNG CHA GIOAN B. NGÔ VĂN BAO: Xuân Lộc – Lúc 08:30, thứ bảy ngày 03.08.2013, thánh lễ an táng cha Gioan B. Ngô Văn Bao đã được cử hành tại Giáo xứ Russeykeo, giáo phận Xuân Lộc. Thánh lễ do Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, giám mục Xuân Lộc chủ sự. Cùng dâng thánh lễ có Đức Cha phụ tá Giuse Đinh Đức Đạo, Đức Ông - Tổng Đại Diện Vinh Sơn Đặng Văn Tú, Cha Tổng Đại Diện giáo phận Bà Rịa, Cha cố Giuse (Nghĩa phụ của Cha Gioan B) quý Cha quản hạt và khoảng 200 linh mục trong và ngoài Giáo phận, một số đông tu sĩ nam nữ thuộc các dòng tu, quý thầy chủng sinh và khoảng hơn 3.000 người là thân nhân, anh chị em giáo dân và anh chị em thuộc các tôn giáo bạn cũng đến tham dự thánh lễ tiễn đưa cha Gioan B. Trước thánh lễ, cha chánh xứ Lang Minh đã đọc tóm tắt tiểu sử của cha Gioan B. và hành trình đức tin của ngài: - Sinh ngày 25/07/1955: Tại Long Thành, Đồng Nai - 1961 - 1966: Học sinh cấp 1 Trường Tiểu Học Long Thành - 1967 - 1969: Học sinh cấp 2 Trường Trung Học Long Thành - 1970 - 1973: Học sinh cấp 3 Trường Nông Lâm Súc, Bình Dương - 1974: Sinh viên Đại học Luật Sài Gòn - Sau 30/04/1975: Giáo viên tiểu học Trường Tiểu Học Văn Hải, Long thành - 1977 - 1979: Tu sinh - 1980 - 1991: Chủng Sinh - 1992 - 1995: Giúp xứ Xuân Bắc - 1995 - 1999: Giúp xứ Suối Cát - 25.01.1999: Thụ phong linh mục do Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật - 1999 - 2001: Phó xứ Suối Cát - 2002 - 2013: Chánh Xứ Russeykeo - Đã an nghỉ trong Chúa ngày 18.07.2013 (nhằm ngày 11 tháng 06 năm Quý Tỵ) Tại San Jose, California, Hoa Kỳ, Hưởng Dương 58 tuổi, 14 năm linh mục(1999 – 2013) Khi ca đoàn và cộng đoàn hát Ca nhập lễ, đoàn đồng tế từ phòng khách nhà xứ tiến vào nhà thờ. *** Mở đầu thánh lễ,
Đức cha chủ tế Đaminh đã ngỏ lời chào tới quý linh mục, tu sĩ nam nữ, anh chị em giáo dân đã đến tham dự thánh lễ và Ngài nêu gương sáng về cuộc đời cha Gioan B: Đầy thử thách gian nan trong cuộc sống nhưng luôn lạc quan và phó thác đời mình cho Chúa. Ngài đã đi đến cùng và hoàn thành sứ mạng phục vụ Dân Chúa một cách xuất sắc trong thiên chức linh mục của ngài. Trong bài giảng lễ, Cha quản hạt Xuân Lộc Đaminh Ngô Công Sứ đã dựa vào Tin mừng Gioan 12,23-28: “Đã đến giờ con người được tôn vinh" để chia sẻ với cộng đoàn. ----------------------
Khi nói về cha Gioan B., Ngài nói: “Cha Gioan B. Ngô văn Bao đã trải qua những ngày cuối đời trong sự giằng co giữa cái sống và cái chết, giữa ước muốn được tiếp tục sống để hoàn thành việc phục vụ còn dang dở và tiếng Chúa khẩn cấp mời gọi ra đi. Cha không muốn đầu hàng căn bệnh hiểm nghèo và đã cố gắng hết sức để chiến đấu đến cùng. Nhiều tháng trước khi tổ chức lễ mừng 150 năm thành lập giáo xứ Russeykeo, Phnong Pênh- Xuân Lộc Ngài đã tìm mọi cách để chữa bệnh hết Sàigòn, Đà Nẵng và cuối cùng là bệnh viện Elisabeth, Singapore. Và hình như Ngài cảm thấy giờ đã gần lắm rồi nên ngày 3/7 vào thuốc ở Singapore và 19/7 sang Hoa Kỳ, với quyết tâm phải chữa những cục u di căn quái ác đang mọc lên khắp cơ thể. Nhưng cuối cùng thì con người dù có quyết tâm đến mấy cũng không thể chống lại sự tàn ác lạnh lùng của bệnh tật. Nó im lặng đến với Ngài trong đêm vắng thứ năm 18-07-2013, tại San Jose. Cha Gioan B. cũng chẳng ngờ khi sắp lên máy bay Ngài bảo: mình đi 3 tuần sẽ về. Mà thật hôm nay đúng 3 tuần, ngài trở về để nằm yên mãi mãi trong lòng đất Russeykeo, Xuân Lộc này. Nơi đây Ngài đã phục vụ 11 năm trong trong trách vụ chánh xứ. Là một chủ chăn thân thiện và hiền lành, những ưu tư việc qui tụ đoàn dân và xây dựng cho họ những đền thờ thiêng liêng và cả đền thờ vật chất còn dang dở, là lo lắng số một cho những năm đầu Ngài ở đây. Rồi tháp chuông, và nhà xứ xen lẫn với những củng cố mục vụ, và đan quyện với những lo lắng căn bệnh ung thư rình rập từ 6,7 năm nay. Đời vị linh mục mà phục vụ và đau bệnh cứ tiếp nối nhau như qúa trình của hạt lúa, gieo vãi, thu gặt và lại tiếp tục gieo vãi và thu gặt. Thêm thời gian là thêm nhiều là chan chứa mồ hôi là thành quả chín vàng. Ẩn dụ hạt lúa là như vậy, mầu nhiệm đời linh mục là như vậy. Những cố gắng trong vô vọng thành vết đòng đâm thâu trái tim nhỏ chảy giọt máu và nước cuối cùng yêu thương. Ngài nói với anh em linh mục hạt Xuân Lộc trong dịp tĩnh tâm tháng 5 tại Russeykeo: mình phải bày ra nhiều việc để công việc cứ dở dang, và Chúa phải cho mình sống để hoàn tất. Cái chất khôi hài cố hữu mang dáng dấp của một nỗi khát khao cống hiến mãi hoài cho Giáo Hội. Và ngài lại xây tường rào, tổ chức lễ mừng thành lập giáo xứ 150 năm và lên kế hoạch xây nhà giáo lý… Thế nhưng không được rồi. Chúa lại muốn thế khác Hôm nay, chúng ta họp mặt đông đảo trong ngôi nhà thờ này, để đưa tiễn Ngài về nơi vinh phúc, nơi mà chúa Giêsu đã hứa cho những ai thuộc về Ngài. Vì bệnh tật, lâu nay Ngài đã trở thành “Một đóa hoa vô thường”. Ngài thích Triết học, ngài say mê Triết đông, nên có lẽ thích hợp là phải hình tượng đời Ngài thành “đóa hoa vô thường”: “Từ đó ta nằm đau, từ đó ta nằm đêm. Nở đóa hoa vô thường”, vô thường bởi vì Cha cứ đau bệnh, cứ nhà thương và nhà xứ, cứ làm việc và thương mến những người dân chân chất Nam bộ của Việt kiều Campuchia, thức trong những giấc ngủ chập chờn, vui buồn với những giọt nước mắt khi đầy khi vơi, và nụ cười lúc tươi lúc héo. Vâng từ đó Cha cứ nằm đau. Đau về thể xác đã đành, nhưng còn đau khổ vì những thao thức chưa hoàn tất : một nhà giáo lý cho giáo xứ, và cả một trung tâm mục vụ của giáo phận mà Đức Cha đã tín nhiệm đặt tại đây ngay chân núi Chứa Chan này: bao giờ mới nhìn thấy??? Phận mình cứ có những lo lắng, rồi lại trống vắng trong nghiệp số ốm đau và nói gì được với những người thân yêu, những người giáo dân bận bịu, vắng vẻ ít khi gần kề. Đối với Cha, có thể nói chỉ còn “đêm ta nằm bóng tối che ngang, đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm gọi thì thầm, gọi thì thầm, gọi thì thầm…” Nay thì tiếng gọi trăm năm, là tiếng Chúa gọi đã đến, không gọi thì thầm, mà gọi rõ ràng, chính xác và Cha đã ra đi, như một Eleazar để lại cho “ những người trẻ và cả dân tộc một gương sáng anh hùng và một ký ức đạo đức” Đóa hoa vô thường nay đã tàn, nhưng hương thơm của nó vẫn như còn phảng phất đâu đây chung quanh chúng ta. Mặc dầu, ít người biết về Cha, nhưng khi nói về cái chết của Cha sẽ đánh thức dậy trong chúng ta những ấn tượng đẹp về một đời linh mục, một đời Đức Tin khó mà quên. Linh mục được sai đi làm việc của Chúa: Mình cứ trồng, cứ tưới, còn Chính Ngài mới làm cho cây trái mọc lên. Với những kỷ niệm ấy, và với niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh, chúng ta được an ủi vì đôi chân của Cha những ngày qua bước chầm chậm siêu vẹo, thì nay đã dừng bước tại cửa đền thánh Giêrusalem trên trời, và miệng lưỡi lâu nay không nói được tròn đầy rõ ràng, nay đã có thể cất tiếng tạ ơn dâng lời ca tụng, và chuyển cầu cho tất cả chúng ta.” ------------- Trước khi kết húc thánh lễ. Cha quản hạt Xuân Lộc công bố di chúc của Cha Gioan B. Bản Di chúc được viết vào ngày 01 tháng 01 năm 2007. Xin chúc tụng Thiên Chúa, đã thương cho con sống hồng ân đời linh mục. Xin cảm tạ mẹ Maria và thánh Gioan Bt đã nâng đỡ ơn gọi và sứ vụ của con. Xin cám ơn quý Đức Cha, quý cha, quí tu sĩ, thân nhân, ân nhân và mọi người đã khích lệ, giúp đỡ, cộng tác cùng đồng hành cộng tác với con trong cuộc lữ hành trần thế để tôn vinh danh Chúa. Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho mọi người. Xin tha lỗi và thêm lời cầu nguyện cho con. Linh Mục Gioan B. Ngô Văn Bao ----------------------------- Thay mặt Tòa Giám Mục, linh mục đoàn hạt Xuân Lộc và gia đình linh tông, huyết tộc cha Gioan B. Cha Quản hạt Xuân Lộc dâng lời cám ơn, Ngài nói: “Chúng con hết sức xúc động dâng về Đức Cha Đaminh, Giám mục Giáo Phận, Đức Cha Phụ tá Giuse, Đức Ông Vinh Sơn, Tổng Đại Diện, tâm tình tri ân và lòng quý mến. Vì tình thương mục tử quý Đức Cha và Đức ông đã dành biết bao thương mến và tín nhiệm cho cha Gioan B. khi Ngài còn sống, lúc đang điều trị bệnh và đặc biệt lúc Ngài đã qua đời. Chúng con ghi nhớ tình cảm đặc biệt và lời cầu phúc lành mà Đức Cha Olivier, và quý giáo phận Phnông Pênh, Campuchia đã dành cho Ngài trong những ngày qua. Xin tri ân tình hiệp thông đầy thương mến mà quý Cha quản hạt, quý Cha cố, quý Cha trong và ngoài giáo phận dành cho cha Gioan B. Xin cám ơn quý bề trên các dòng tu, quý tu sĩ nam nữ, đặc biệt các cộng đoàn dòng tu trong giáo hạt Xuân Lộc, và quý thầy Đại chủng viện Xuân Lộc . Cũng không thể nào quên sự hiện diện nghĩa tình ruột thịt của bà con trong gia đình thân tộc, gia đình linh tông, của anh chị em đồng hương Russeykeo khắp nơi và các ban hữu xa gần đã dành cho cha Gioan B. làm cho chúng tôi vô cùng cảm kích và xin chia sẻ với quý vị niềm hy vọng Kitô giáo trong nỗi mất mát đau thương này. Xin cám ơn các giáo xứ trong giáo hạt Xuân Lộc, đặc biệt các giáo xứ Xuân Bắc, Suối Cát nơi cha Gioan B. đã từng phục vụ. - Cám ơn bà con các giáo xứ quê nhà Văn Hải, Long Thành, và đồng hương Vĩnh Phúc, Thái Bình. Cũng chẳng thể kể ra đây hết được những con người, những đoàn thể đã đến thăm viếng giúp đỡ cha Gioan B. trong thời gian đau bệnh, và đặc biệt trong những ngày nghe tin ngài qua đời, mọi người đã dành cho Ngài những lời cầu nguyện, những nghĩa cử quý mến và sự hiện diện chân tình. Cha Gioan B. sống đơn giản và hiền lành. Lớn lên trong một gia đình lao động, phận số cứ long đong nổi trôi theo thời cuộc, cả đời chất đầy những cố gắng và gian khổ âm thầm vất vả như con ong hút nhụy đắng làm mật, để làm nên thành quả cho đời mình. Người ta bảo số phận không mỉm cười với Ngài, vì nhiều nỗi khát khao cứ mãi gào trong thinh lặng mà chẳng thấy trả lời đến năm 44 tuổi mới thụ phong linh mục, 58 tuổi đã chết . Lẽ ra với sức tuổi trung niên đầy nhiệt tình, Ngài phải đi tiếp đường dài lịch sử của Russeykeo đã 150 năm thế mà cái chết lại chấm dứt sứ vụ cách phũ phàng ngay vào thời điểm có biết bao ước vọng cống hiến. Đêm thứ Năm, ngày 18/7/2013 vừa qua, Ngài ra đi vội vã, âm thầm như sợ ai đó sẽ biết tại San Jose, Hoa Kỳ. Theo kết quả xét nghiệm của cảnh sát, Ngài qua đời vì bệnh ung thư máu. Một căn bệnh chưa hề nghĩ tới. Lúc đón Ngài về giữa lòng giáo xứ Russeykeo, mở nắp quan tài, chúng con xúc động vô vàn con người gầy guộc đó đã cho đi tất cả rồi, không còn gì nữa, không còn gì để mang kể cả bộ lễ phục trắng mặc trên mình cũng là của người xứ lạ. Nói đến đây, chúng con muốn biểu lộ lòng tri ân rất quý trọng, và lời cám ơn thật đặc biệt đến Đức Giám mục giáo phận San Jose, đến cha Phêrô Huỳnh Lợi, cha Phêrô Phan Thế Lực và các giáo xứ Đức Mẹ LaVang, giáo xứ Saint Mary Goretti, đến các cha và tu sĩ miền Tây Hoa Kỳ, đã quảng đại đón nhận cha Gioan B., và tận tình giúp đỡ Cha Đaminh Phạm Ngọc Thủy, đưa người anh em Xuân Lộc của mình trở về với giáo phận. Lời cám ơn trân trọng và thật đặc biệt, xin kính gửi đến quý ban ngành đoàn thể, quý vị trong chính quyền, mặt trận, Công An tỉnh Đồng Nai, huyện Xuân Lộc, và địa phương xã Suối Cát, cùng mọi người đã góp phần công sức cho việc tổ chức lễ an táng hôm nay. Thay cho Cha Gioan B. Cũng xin để chúng con được nói lên lời tạ lỗi về những thiếu xót, những buồn lòng ai mà lúc còn sống, có thể cha Gioan B. đã làm. Cầu mọi người bao dung, tha thứ để Ngài được thanh thản ra đi và được hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa. Cũng xin cho Ngài được chào Đức Cha, quý Đức Ông, anh em linh mục, những người thân trong gia đình và cộng đồng Dân Chúa lần cuối cùng. Chúng con tin rằng Ngài vẫn còn mãi trong lời cầu nguyện và tình cảm sâu lắng của tất cả chúng ta, vì những người giảng sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như những vì sao chiếu sáng … mãi … mãi … trên bầu trời, và trong trái tim của mỗi người.” Sau lời cám của Cha Quản hạt Xuân Lộc, Linh cữu Cha Gioan B. được các anh em Linh mục di đến phần mộ. Khi linh cữu được đưa ra cuối nhà thờ, rất đông anh chị em đã đứng tiễn biệt cha Gioan B. trong nước mắt và sự ngậm ngùi nhớ thương. Ngài được an táng tại Đền Đức Mẹ giáo xứ Russeykeo bên cạnh ngôi mộ của Cha Cố Gioakim Hồ Quang Luật. Đức Ông Vinhsơn, Tổng Đại Diện cửu hành nghi thức từ biệt. Xin phó dâng linh hồn Cha Gioan B. cho Chúa và xin Mẹ Maria cầu bầu trước Tòa Chúa cho Cha Gioan B. được nghỉ an muôn đời trong Nước Chúa. Ban Truyền Thông Giáo Hạt Xuân Lộc
Đoan Hùng VietCatholic News (23 Sep 2009 08:31) Sáng ngày 22-9-2009, vào hồi 8g30, tại nhà thờ GX Châu Bình Thủ Đức, thánh lễ an táng cố Linh Mục Phêrô-Tuần Nguyễn Cao Hiên đã diễn ra trong bầu khí trang nghiêm, sốt sắng và cảm động. Thánh lễ do Đức cha Vincent Nguyễn Văn Bản, Giám Mục Chính Tòa Ban Mê Thuột, học trò cũ của cố Linh Mục Phêrô, làm chủ tế. Cùng đồng tế có các cha: Giuse Trương Đình Hiền, chánh xứ Tuy Hòa, hạt trưởng giáo hạt Phú Yên, đại diện cho Đức cha Phêrô Nguyễn Soạn, GM GP Qui Nhơn, cha Tổng Phụ trách 2 dòng Đức Mẹ Đồng công Cứu chuộc, Đức Ông Đinh Đức Đạo, cùng với hơn 50 Linh Mục thuộc GP Qui Nhơn, dòng Đồng công và các cha linh tông huyết tộc bằng hữu xa gần... Tham dự thánh lễ có rất đông các thầy dòng Đồng công, nam nữ tu sĩ các dòng, anh chị em CCSLSQN, đại diện giáo dân các giáo xứ thuộc GP Qui Nhơn mà cố Linh Mục đã từng phục vụ, giáo dân GX Châu Bình cùng bà con thân bằng quyến thuộc của cố Linh Mục Phêrô... -------------------- BÀI CHIA SẺ LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ AN TÁNG CHA PHÊRÔ TUẦN NGUYỄN CAO HIÊN Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Đứng trước cái chết của người thân, trước sự chia xa vĩnh viễn với cuộc đời dương thế của những người đã từng chung sống, đã từng chiến đấu và làm việc, đã từng đồng lao cộng khổ… trong lòng mỗi người chúng ta đều dậy lên một thứ tình cảm mất mát, đau thương, một nổi xót xa của sinh ly tử biệt. Đã mang thân phận người là phải đi qua “chiếc cầu bi thương” đó. Và phải chăng, đó chính là một trong những “dư quả” của tội Nguyên Tổ mà ngay từ những trang đầu, Thánh Kinh đã cắt nghĩa bằng ngôn ngữ của một lời tuyên án: “Ngày nào ngươi ăn trái cây nầy, ngươi sẽ phải chết” (St 2,17) Tuy nhiên, trong cái chết của người Kitô hữu, đặc biệt trong cử hành Phụng vụ Tang lễ của những người tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, lại toát lên một vẻ khác thường: Niềm hân hoan của cuộc hành hương về nhà cha, nổi vui của ngày đoàn tụ... “Khi Chúa thương gọi tôi về, lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ…”. Đặc biệt, chính trong trích đoạn Lời Chúa của Sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe, không chỉ loan báo một tín thư an ủi nhưng là một khẳng định, một tuyên tín của tin yêu và hy vọng: “Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa…Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy…Những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn”. (BĐ 1) Phải chăng, đó là một cắt nghĩa rõ nét và chính xác của mầu nhiệm cứu độ trong Chúa Kitô, mầu nhiệm “Vượt Qua từ cõi chết đến sự sống vĩnh hằng” mà dụ ngôn “hạt lúa mì gieo vào lòng đất thối rửa đi sẽ sinh nhiều bông hạt” lại là một cách diễn tả khác của Tin Mừng như chúng ta vừa nghe. Vâng, đối với chúng ta, những người được dìm xuống trong dòng nước tái sinh của nhiệm tích Thánh Tẩy, để được chỗi dậy cùng với Đấng Phục Sinh, chết chính là cuộc hồi hương tìm về tổ ấm, là đĩnh đạc đi vào quê hương hằng sống để sống hạnh phúc miên viến, là cuộc tiến bước vào nhà cha, căn nhà chính Đấng Cứu Độ đã ra công dọn sẵn: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em…để Thầy ở đâu anh cũng sẽ ở đó” (Ga 14,3). Và cách riêng, cái chết của một linh mục, một linh mục thánh thiện đạo đức, đã hoàn tất sứ vụ của mình, như cha cố Phêrô Tuần Maria Nguyễn Cao Hiên của chúng ta đây, lại càng làm cho dấu chỉ nầy trở nên đầy thuyết phục và rõ nét. Tuy nhiên, để trả giá cho cái ngày chung cuộc tuyệt vời hôm nay, cha Phêrô Tuần Maria đã phải trãi qua một cuộc hành trình dương thế đầy nhiêu khê và phấn đấu của 87 năm cuộc sống làm “Ecce Homo” và 59 năm cuộc đời của một “Alter Christus”. Sau đây là những “cột mốc” trên cuộc hành trình thăm thẳm đó: Sinh ngày: 05/02/1922 Nguyên quán: Tân Mỹ, Quỳnh Lang, Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Cha: Đaminh Nguyễn Văn Thứ, Mẹ: Maria Nguyễn Thị Yên 1934 – 1937: Học Trường Tập, Trung Linh. 1937 – 1941: Tiểu Chủng Viện Ninh Cường. 1941 – 1943: Học Đại Chủng Viện Xuân Bích, Hà Nội. 1943 – 1944: Giúp Tiểu Chủng Viện Ninh Cường. 1945 – 1950: Học Đại Chủng Viện Quần Phương, Bùi Chu. 16- 04- 1950: Thụ phong Linh Mục. 1950 – 1954: Phụ tá Trường Tập, Ninh Cường, Bùi Chu. 1954 – 1955: Linh hướng công binh Bùi Chu - Phát Diệm tại Nha Trang. 1955 – 1956: Văn phòng giám mục di cư tại Sài Gòn. 1956 – 1959: Giám đốc khu B Latinh (Tiểu Chủng Viện), Tân Phước, Sài Gòn. 1960 – 1963: Nhập Dòng Đồng Công, Thủ Đức, Sài Gòn. 1963 – 1964: Linh hướng Dòng Lasan tại Qui Nhơn. 1964 – 1966: Cha phó Chính Tòa, Qui Nhơn. 1966 – 1969: Linh hướng Tiểu Chủng Viện Qui Nhơn. 1969 – 1971: Cha sở Qui Hải, giáo phận Qui Nhơn. 1971 – 1997: Cha sở Tịnh Sơn, giáo phận Qui Nhơn. 8/1997 – 11/1997: Cha sở Mằng Lăng, giáo phận Qui Nhơn. 11/1997 – 4/1998: về lại giáo xứ Tịnh Sơn, giáo phận Qui Nhơn. 1998 – 2001: Cha sở Đông Mỹ, giáo phận Qui Nhơn. 2001 – 2002: Hưu dưỡng tại nhà hưu Làng Sông Qui Nhơn. 2002 – 2005: Hưu dưỡng tại nhà hưu Giáo Phận Qui Nhơn. 2005 – 2007: Hưu dưỡng tại trụ sở Bùi Chu, Sài Gòn, và linh hướng các thầy thần học tại TGM Bùi Chu. 2007 – 2009: Hưu dưỡng tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Thủ Đức. 19- 9- 2009: Qua đời tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Thủ Đức, Tp. HCM. Lúc 19 giờ 15 ----------------------- Kính thưa cộng đoàn, Để đánh giá sự thánh thiện, hoàn hảo của cha Phêrô Tuần Maria, có lẻ cách diễn tả của cố linh mục Phêrô Bùi Huy Bích là thích hợp, khi ngài chia sẻ với một linh mục trẻ đang phụ tá cha Phêrô, cha Giuse Lê Thu Thâu: “Thâu ơi, tao cá mầy. Mầy có thắng 5 con ngựa cũng không theo kịp ngài đâu !”. Chúng ta tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội, Giáo Phận có được một linh mục tuyệt vời như thế. Rồi đây, trong những chuyện kể về ngài, chúng ta sẽ được sẻ chia nhiều giai thoại, nhiều bài học quí giá để làm hành trang cho cuộc đời linh mục và cho tất cả những ai muốn sống trọn vẹn những chân lý của Tin Mừng; nhất là Tin Mừng về bác ái hy sinh, Tin mừng về khiêm hạ phục vụ, Tin mừng về khó nghèo trinh khiết, Tin mừng về tình yêu nồng cháy đối với Chúa Giêsu Thánh Thể và tình yêu chân tình huynh đệ đới với những người nghèo… Có một từ ngữ ngắn gọn của Ngài mà anh em linh mục Qui Nhơn hay nhắc đó là “Đủ xài”…Trong một tại nạn xe trên tuyến đường mục vụ cho một họ đạo vùng sâu trở về, chân ngài bị thương khá nặng. Người ta hỏi ngài: “Có sao không cha?”. Ngài chỉ mĩm cười thanh thản trả lời: “Đủ xài”. Với cha, “đủ xài” phải chăng đó chính là “đủ chút hy sinh nhỏ bé dâng cho Chúa và dâng hiến cho đoàn chiên”, là “đủ sự chịu đựng và can đảm để tiếp tục dấn thân phục vụ”; là “đủ nhận ra những khó nghèo, đau khổ, thiếu thốn, yếu đuối của đoàn chiên để quảng đại biết cho đi và khoan dung tha thứ”; là “biết đủ giới hạn của thân phận người mõng dòn, yếu đuối để sẵn sàng phó thác trong tin yêu khiêm hạ”, là “đủ tìm thấy nụ cười và niềm vui trong chính nổi đau trong tâm hồn và trên thân xác”, đặc biệt những cơn đau dữ dằn của căn bệnh ung thư giai đoạn cuối… Một cuộc sống như thế, thì một cái chết làm sao mà không đẹp được. Điều nầy làm chúng ta nhớ lại câu chuyện của cha thánh Gioan Maria Vianney, vị thánh linh mục được Giáo Hội dùng làm điểm qui chiếu canh tân đời sống linh mục trong Năm Linh mục này… Một ngày kia, sau nhiều giờ miệt mài với hối nhân nơi tòa giải tội, cha thánh Vianney trở về với những bước chân kiệt sức và té ngã trên cầu thang. Giáo dân hay được chạy đến và hô hoán lên: “Cha bị bệnh, đi kêu bác sĩ gấp!”. Ngài chỉ khoác tay, ôn tồn bảo: “Kêu linh mục chứ không kêu bác sĩ”…Và sau khi được lãnh các bí tích sau hết, ngài đã ôn tồn nói với vị linh mục trẻ: “Đẹp làm sao cái chết của một linh mục hoàn tất trách nhiệm của mình”. Ở gữa chúng ta hôm nay, hình như cũng đang có một Viaaney của thời đại đã hoàn tất trách nhiệm mục tử cách hoàn hảo và đã chết một cái chết đẹp tuyệt vời. “Thưa Cha Phêrô, Cho dù lời thánh vịnh nào đó vẫn thường nhắc nhở chúng con về cái hữu hạn, bé bỏng, mỏng manh, dễ mất hút, lãng quên của cuộc đời: “Một cơn gió thoảng, đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích...” xin Cha hãy tin rằng, Giáo Phận Qui Nhơn nầy, cộng đoàn Dòng Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc nầy, bao thế hệ học sinh và cháu con nầy, những người nghèo hèn khốn khổ nầy…sẽ không bao giờ quên Cha trong lời kinh, trong thánh lễ, trong những nhắc nhớ nhau thực hiện những gương lành, những bài học, những lời huấn đức, những dặn dò của cha trối lại đâu ! Xin Cha hãy luôn nhìn về Giáo Phận, đặc biệt, nhìn đến và nguyện cầu cho Đức Cha Giáo Phận đang đau bệnh, luôn nhìn đến chúng con, các chủng sinh, tu sĩ, các linh mục học trò, các thế hệ Kitô hữu đã được Cha ban các bí tích và nuôi dạy trong mái trường Giáo Hội…để một ngày không xa, chúng ta sẽ đoàn tụ trong nổi vui ngút ngàn vì tất cả được Đức Kitô Phục Sinh “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21); và đó cũng là ngày lời tiên tri ngày nào của Đấng Cứu Thế sẽ dứt khoát hện thực miên viễn: “Hạt lúa mục nát đi sẽ sinh nhiều bông hạt”. Chúng con xin bái biệt Cha. Amen. Sau thánh lễ là nghi thức phó dâng và tiễn biệt do cha Tổng Phụ trách 2 dòng Đức Mẹ Đồng công Cứu chuộc chủ sự. Sau đó đoàn rước đi bộ đưa linh cửu cha Phêrô ra nghĩa trang của nhà dòng cách đó chừng hơn một km. Tại đây, Linh Mục Giuse Trương Đình Hiền chủ sự nghi thức hạ huyệt kết thúc tiến trình lễ Tang.
Thánh Lễ An Táng Bà cố Maria, thân mẫu của Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân HÀ NỘI - Vào lúc 7g30 ngày 04 tháng 06 năm 2009 tại Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội, quý Đức Cha, quý Cha, quý Tu Sỹ nam nữ, cùng đông đảo bà con giáo dân giáo phận Hà Nội, Lạng Sơn và một số giáo phận khác đã hiệp ý dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho linh hồn Bà cố Maria Trần Thị Xuân, Thân Mẫu của Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân Giám mục giáo phận Lạng Sơn. Bà cố được Chúa gọi về lúa 21 giờ 30 ngày 1 tháng 6 năm 2009 tại nhà riêng sau một thời gian chia sẻ thập giá với Đức Kitô trên dường bệnh. Hưởng thọ 81 tuổi. Để bày tỏ lòng biết ơn và yêu mến Bà Cố Maria, hiệp thông và phân ưu với cố ông và Đức cha Giuse cùng với toàn thể gia đình, đông đảo các Linh mục, Tu sỹ nam nữ, đại diện các Dòng tu, các thành phần dân Chúa đã đến viếng và cầu nguyện cho bà cố trong hai ngày 2 và 3 tháng 6. Đặc biệt, được sự ưu ái của Đức tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân đã dâng Thánh Lễ tại gia để cầu nguyện cho thân mẫu của mình. Thánh Lễ thật ấm cúng và cảm động, trước sự hiện diện của linh mục đoàn giáo phận Lạng Sơn, quý cha đồng môn, các linh mục tu sỹ và đại diện giáo dân giáo phận Lạng Sơn, Đức cha Giuse đã ngậm ngùi tỏ bày lòng tri ân của mình đối với người mẹ, một người đã để lại những dấu ấn trên cuộc đời, nhân cách, đức tin, và hành trình ơn gọi của ngài cho đến hôm nay. Thánh Lễ an táng diễn ra đúng vào dịp thường huấn Linh mục các giáo phận thuộc giáo tỉnh miền Bắc được tổ chức tại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội, Đức Tổng Giuse đã mời gọi linh mục đoàn sẻ chia và hiệp dâng Thánh Lễ với đức cha Giuse Đặng Đức Ngân để cầu nguyện cho bà cố Maria. Đồng tế với Đức cha Giuse còn có 6 Giám mục, gần 200 Linh mục, đông đảo các Tu Sỹ nam nữ thuộc các dòng khác nhau. Đây quả là một niềm khích lệ và an ủi lớn đối với cố ông và toàn thể tang quyến đặc biệt là đối với Đức Cha Giuse, Giám mục giáo phận truyền giáo miền núi. Sau đây là bài giảng của Đức Tổng Giuse ngô Quang Kiệt:
Người Do thái rất yêu chuộng lề luật. Đặc biệt là nhóm Biệt phái, được coi là hàng ngũ ưu tú của dân Do thái lại càng giữ luật một cách nghiêm ngặt. Luật đạo Do thái rất nhiều và rất tỉ mỉ. Có luật ăn chay cầu nguyện đã đành, còn có luật phải rửa tay và rửa bát đĩa nữa. Những luật lệ vốn đã phức tạp lại được qui định rất chi li. Chẳng hạn trong ngày nghỉ không được làm việc gì kể cả tuốt một bông lúa mà ăn. Giữa một rừng luật rậm rạp như thế người Do thái cảm thấy vừa sợ hãi vừa bối rối. Sợ hãi vì luật quá chi li nên khó mà giữ cho trọn vẹn. Không giữ trọn vẹn thì sợ bị trừng phạt. Bối rối vì giữa trăm ngàn thứ luật chồng chéo nhau luôn luôn có mâu thuẫn. Khi gặp mâu thuẫn không biết giải quyết thế nào vì không biết luật nào là chính luật nào là phụ. Nên hôm nay ông kinh sư này mới đến hỏi Chúa một câu hỏi rất quan trọng đối với người Do thái thời ấy: “Giới răn nào là trọng nhất”. Nhân câu hỏi này Chúa Giêsu công bố cho mọi người biết điều luật quan trọng hàng đầu và là điều cốt lõi trong đạo đó là: “Yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực”. Nhưng Chúa lại thêm một điều nữa cũng quan trọng không kém đó là: “Yêu tha nhân như chính mình”. Ông kinh sư này hiểu được Lời Chúa nên đã tán đồng: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúa Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như thế thì bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”. Ông không còn xa Nước Thiên Chúa vì ông đã đi vào điều cốt lõi của đạo. Biết đi tìm điều cốt lõi thì dễ đi đến đích điểm. Thiên Chúa là Tình Yêu. Biết yêu mến thì đã ở gần Thiên Chúa rồi. Có thể nói Cụ Cố Maria là người đi vào cốt lõi của đạo khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Tám mươi mốt năm tại thế, phần lớn cuộc đời Cụ Cố trải qua nhiều hoàn cảnh khó khăn. Trong tất cả những hoàn cảnh khó khăn đó, Cụ Cố luôn ưu tiên lựa chọn Chúa. Nếu phải lựa chọn giữa Chúa và địa vị xã hội, Cụ Cố luôn sẵn sàng từ bỏ địa vị để có Chúa. Nếu phải lựa chọn giữa Chúa và một đời sống dễ dàng với đầy đủ tiện nghi vật chất hơn, Cụ Cố vẫn sẵn sàng chấp nhận đời sống thiếu thốn tiện nghi để trung thành với Chúa. Cụ Cố luôn lựa chọn chịu thiệt thòi mà được ở trong Chúa hơn là được nhiều lợi lộc mà phải ở ngoài Chúa. Không có lý luận gì phức tạp, Cụ chỉ đơn sơ yêu mến Chúa trên hết mọi sự nên sẵn sàng từ bỏ mọi sự để được yêu mến Chúa. Ưu tiên lựa chọn Chúa nên Cụ Cố Maria luôn tìm thánh ý Chúa. Nhiều lần thấy Cụ không được khỏe, tôi hỏi thăm thì Cụ trả lời: Mọi sự đều ở trong thánh ý Chúa. Khi Đức cha Giuse Lạng sơn được Tòa Thánh bổ nhiệm, tôi hỏi Cụ có vui không, Cụ trả lời: Xin vâng thánh ý Chúa. Yêu mến Chúa trên hết mọi sự nên dù vui dù buồn Cụ đều tìm thánh ý Chúa mà không bao giờ tìm ý riêng. Tin tưởng vào ơn Chúa Quan Phòng nên mọi sự dù vui dù buồn đối với Cụ đều ở trong thánh ý Chúa. Và Cụ vui lòng chấp nhận tất cả. Ưu tiên lựa chọn Chúa nên Cụ Cố Maria luôn gìn giữ gia đình trong Chúa. Không chỉ lo cho bản thân nhưng Cụ Cố Maria còn lo cho con cháu luôn ở trong Chúa, lo cho tất cả mọi người trong gia đình đi theo con đường của Cụ, luôn ưu tiên chọn Chúa, luôn nhiệt thành với việc nhà Chúa và luôn hăng say phục vụ. Cụ Cố Maria ra đi là một mất mát lớn cho chúng ta. Vì hôm nay vẫn còn nhiều người chưa phân biệt điều gì là chính điều gì là phụ trong đời sống đạo. Chỉ lo giữ những điều phụ thuộc mà chưa đi vào cốt lõi của đạo là yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì hôm nay với trào lưu tiêu thụ và hưởng thụ, nhiều người đã lựa chọn danh vọng, địa vị, chức quyền hơn lựa chọn Chúa và thánh ý Chúa. Vì hôm nay với trào lưu cá nhân chủ nghĩa, nhiều gia đình không còn giữ được nề nếp, không còn trên kính dưới nhường và nhất là không còn giữ được truyền thống đạo đức gia đình. Trong hoàn cảnh đó, Cụ Cố Maria luôn là một mẫu gương cao quí của cộng đoàn, một tông đồ nhiệt thành của Giáo hội và một người bảo vệ hữu hiệu truyền thống gia đình Kitô giáo đạo đức. Tiếc thương Cụ Cố Maria, tôi cầu mong cho tinh thần tốt đẹp của Cụ được tiếp nối vững bền nơi con cháu của Cụ và nơi tất cả chúng ta. Lạy Chúa, xin thương đón nhận linh hồn Cụ Cố Maria của chúng con. Amen. Thánh Lễ diễn ra trong ngậm ngùi tiếc thương nhưng hơn hết là tâm tình tri ân Cha Nhân Lành. Tri ân về cuộc đời của một con người, một hành trình trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu, điều mà Đức Tổng Giuse đã gợi nhắc trong bài giảng của mình. Tấm gương về sự kiên trung trong đời sống đức tin bất chấp những sóng gió và thăng trầm của thời cuộc, tấm gương về sự hy sinh và quản đại của một người mẹ đã sinh thành dưỡng dục và trao tặng người con của mình cho Hội Thánh Việt Nam. Đáp lại tình thương và sự ưu ái của mọi người, Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân đại diện cho thân phụ và đại gia đình nói lên lòng tri ân đối với quý Đức Cha, quý Cha, quý tu sỹ nam nữ cùng toàn thể cộng đồng dân Chúa: Trọng kính Đức Tổng Giuse, trọng kính Quý Đức Cha, quý Cha Tổng Đại Diện, quý Cha Bề trên Dòng quý Tu sĩ Nam nữ, quý Chủng sinh và quý Ông bà anh chị em thân mến. Trong những ngày này, gia đình chúng con thật buồn đau: Mẹ của chúng con là Bà cố Maria Trần Thị Xuân, đã được Chúa gọi về hồi 21h30 tối ngày 01 tháng 06 năm 2009 tại nhà riêng, hưởng thọ 81 tuổi. Đây thực sự là Đại tang cho Gia đình chúng con, với hành trình Ơn gọi Đức tin kiên trung vào Thiên Chúa và Giáo hội của một Kitô hữu sống qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử Giáo hội với xã hội: với tình yêu mến của một người vợ, người mẹ, người bà đã ghi vào tâm lòng con cháu chúng con giá trị của đức ái, là tình yêu với Thiên Chúa trong đời sống gia đình; với ơn gọi bồn phận của người Mẹ, đã cùng ông cố giúp gia đình trở nên vườn ươm của ơn gọi làm người, ơn gọi làm Kitô hữu, ơn gọi tu trì và ơn gọi gia đình; càng làm cho chúng con thấy sự biệt ly người Mẹ để lại khoảng trống vắng lớn lao trong cuộc đời con cái chúng con. Xin thay mặt cho toàn thể đại gia đình, chúng con xin chân thành cám ơn Đức Hồng Y Gioan Baotixita, Tổng Giám mục Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh đã gửi lời phân ưu và cử Cha Tổng Đại Diện và quý Cha ra phân uu tại gia đình và tham dự tang lễ hôm nay. Gia đình chúng con xin chân thành tri ân Đức Tổng Giuse, với tâm tình mục tử rất ân tình với cá nhân con và gia đình chúng con: từ khi mẹ chúng con đau bệnh, đã luôn hỏi han thăm viếng, và khi mẹ chúng con được Chúa gọi về; đã quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất để con và đại gia đình thu xếp công việc thật tốt đẹp; và ngày hôm nay đã nhận lời chia sẻ trong thánh lễ với tâm tình thật cảm động, khích lệ và đỡ nâng gia đình chúng con. Gia đình chúng con xin chân thành tri ân quý Đức Cha trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, khi nghe tin đã điện thoại, gửi lời phân ưu, tới viếng và phân ưu tại gia đình. Đặc biệt hôm nay quý Đức Cha Giáo phận Hải Phòng, Đức Cha Giáo phận Hưng Hóa, Đức Cha Phụ tá Giáo phận Bùi Chu, Đức Cha Phụ tá Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Đức Cha Phụ tá Tổng Giáo phận Hà-Nội hiện diện trong thánh lễ này biểu lộ những ân tình huynh đệ và sẻ chia với gia đình chúng con. Gia đình chúng con xin chân thành cám ơn quý Đức Ông tại Roma, quý Cha từ nhiều nước trên thế giới, từ nhiều Giáo phận tại Việt-Nam; quý Cha Bề trên Dòng, nhiều Dòng tu nam nữ đã hiệp dâng thánh lễ, cầu nguyện và gửi lời phân ưu với gia đình chúng con. Gia đình chúng con xin chân thành cám ơn quý Cha Tổng Đại Diện, quý Cha Bề trên, quý Cha thuộc 9 giáo phận miền Bắc về Thường huấn tại Đại Chủng viện Hà-nội, vì tình mến đã cầu nguyện, phân ưu và hôm nay cùng hiệp dâng thánh lễ đồng tế cầu nguyện cho Mẹ chúng con. Gia đình chúng con xin cám ơn quý Bề trên Dòng, quý Tu sĩ Nam nữ, quý Chủng sinh quý Ông Bà anh chị em từ nhiều giáo phận, từ nhiều giáo xứ của Giáo phận Hà-Nội đã tới phúng viếng tại gia đình chúng con và hôm nay hiện diện thật đông đảo biểu lộ tình mến lớn lao. Xin cảm ơn Cha Tổng Đại Diện Giáo phận Lạng sơn, quý Cha, quý Tu sĩ Nam nữ quý Ông bà anh chị em của Giáo phận Lạng sơn từ tất cả các giáo xứ trong Giáo phận, từ các xứ xa xôi như Hà Giang, các xứ tại Cao Bằng, các xứ tại Lạng sơn đểu về phân ưu với gia đinh chúng con. Gia đình chúng tôi xin chân thành cám ơn các cấp Chính quyền từ Trung Ương, tới địa phương như Thủ đô Hà-nội, tỉnh Lạng Sơn, tỉnh Cao Bằng, Quận Hoàn Kiếm và Phường Hàng Trống đã tới phân ưu tại gia đình và tạo mọi điều kiện cho tang lễ cử hành tốt đẹp. Với giáo xứ Chính tòa Hà-nội, là nơi của những kỷ niệm của đặc biệt với Mẹ con: nơi sinh sống và hoạt động tại giáo xứ, nơi kỷ niệm ngày cưới, nơi chúng kiến con trai được thụ phong Linh mục, nơi kỷ niệm 50 năm ngày cưới, và hôm nay là thánh lễ cuối cùng của Bà Cố thật cảm động. Xin cám ơn Cha xứ, Cha phó Giáo xứ Chính tòa Hà-Nội, cùng các Hội đoàn trong Giáo xứ đã thương mến Bà Cố và gia đình chúng con, đã tới phân ưu và giúp đỡ tận tình trong thánh lễ này. Xin cám ơn Cha xứ Sở Hạ và giáo họ Bằng Sở, là nơi mẹ con được trao gửi thân xác, đã tận tình giúp đỡ và chuẩn bị để đón mẹ con thật chu đáo và ân tình. Chúng con cũng xin cám ơn các Hội đoàn, Hội kèn, Hội trống, và ca đoàn đã phục vụ trong Thánh lễ hôm nay. Một lần nữa gia đình chúng con xin chân thành tri ân và cảm tạ Đức Tổng Giuse, quý Đức Cha, quý Cha Tổng Đại Diện, quý Cha Bề trên Dòng, quý Tu sĩ Nam nữ, quý Chủng sinh, quý Ông bà anh chị em. Xin kính chúc tràn đầy Thánh Ân và Bình an của Chúa Giêsu Kitô, xin tiếp tục cầu nguyện cho Mẹ chúng con là Bà Cố Maria. Trong lúc tang gia bối rối, chắc không thể tránh được những thiếu xót, gia đình chúng con xin được lượng thứ. Gia đình chúng con sẽ mai táng mẹ chúng con tại vườn thánh Giáo họ Bằng sở; vì tình thương gia đình chúng con xin kính mời những ai có điều kiện đi cùng gia đình chúng con tiễn đưa Bà Cố chúng con tới nơi an nghỉ cuối cùng. Toàn thể gia đình chúng con xin cúi đầu bái tạ. Sau Thánh Lễ, linh cữu của Bà cố Maria được mai táng và an nghỉ tại Vườn Thánh Giáo họ Bằng Sở, Hà nội. Kính xin quý vị tiếp tục cầu nguyện cho linh hồn Bà cố Maria sớm được hưởng tôn nhan Chúa.
Lm Giuse Đinh lập Liễm I. LỜI CHÚA. 1. Sách Sáng thế. Sau khi Adam Evà ăn trái cấm trái lệnh Chúa. Thiên Chúa ra hình phạt cho ông bà và con cháu, một trong các hình phạt là phải chết :”Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19). 2.ThánhPhaolô . Trước cái chết thánh Phaolô tông đồ rất lạc quan. Ngài không sợ chết,Ngài vui đón nhận nó và coi nó như một hồng ân, khi Ngài nói với tín hữu Philipphê :”Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21) vì chết là giải thoát khỏi thân xác, khỏi nơi giam hãm thế gian này để về với Chúa trên quê hương Nước Trời (x. Pl 3,20; 2Cr 5,6-7). 3.Bài Tin Mừng. Chết là một điều hiển nhiên, là một công lệ, không ai có thể thoát khỏi tay thần chết và thần chết đến thật bất ngờ. Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi Ngài đến bất cứ lúc nào. Thái độ chúng ta phải có là luôn tỉnh thức. Ngài phán :”Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về và thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em : chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ” (Lc 12,35-38).
Trên thế giới này có biết bao vĩ nhân, biết bao anh hùng cái thế đã sống trước chúng ta. Còn đâu một César của đế quốc La mã, còn đâu Alexandre đại đế của Hy lạp, còn đâu Tần thũy Hoàng của Trung hoa vĩ đại, còn đâu Thành Cát Tữ Hãn của Mông cổ, còn đâu Trần hưng Đạo, Lê Lợi. Quang Trung của Việt nam ? Tất cả đã vang bóng một thời và nay chỉ còn trong sử sách, đúng như cổ nhân đã nói : Nhân sinh tự cổ thùy vô tử Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn thiên Trường) Con người từ cổ ai không chết Để lại lòng son rạng sử xanh.
2.Trong đời sống hằng ngày Trên thế giới ngày nay và chung quanh chúng ta mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết : không phân biệt giàtrẻ, lớn bé, nam nữ, người trí thức hay người bán khai, thậm chí có những đứa trẻ đã chết khi chưa lọt lòng mẹ. Ai ai ccũng phải nhận lấy cái lưỡi hái của tử thần vì thần chết là người thợ không ngủ trưa và không một chút thương hại. Bởi thế người ta nói : Rắn già rắn lột, Người già chui tuột vô săng. Truyện : thủy thủ và nhà kinh doanh. hân chuyến tham quan con tàu buôn lớn, một nghà doanh nghiệp hỏi người thủy thủ: - Ông của anh làm nghề gì và chết ở đâu ? Người thủy thủ thưa : - Ông của tôi làm nghề thủy thủ và chết vì đi biển. Nhà doanh nghiệp lại hỏi : - Vậy cha của anh làm nghề gì và chết ở đâu ? Người thủy thủ thưa : - Cha tôi cũng làm nghề thủy thủ và cũng chết vì đi biển. Nhà doanh nghiệp bỡ ngỡ hỏi : - Thế mà anh dám làm nghề thủy thủ, và hằng ngày đi biển sao ? Người thủy thủ hỏi lại nhà doanh nghiệp : - Xin hỏi : Ông của ngài làm nghề gì và chết ở đâu ? Nhà doanh nghiệp trả lời : - Ông tôi làm doanh nghiệp và chết trên giường. Người thủy thủ lại hỏi : - Vậy cha của ngài làm nghề gì và chết ở đâu ? Nhà doanh nghiệp trả lời : - Cha tôi cũng làm doanh nghiệp và chết ở giường. Người thủy thủ tỏ vẻ bỡ ngỡõ và hỏi : - Thế mà ông dám làm nghề kinh doanh, và mỗi đêm dám ngủ trên giường sao ? Câu truyện trên đây nhắc ta : mọi người sang, hèn, giầu, nghèo, giỏi dốt, ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì rồi cũng có ngày phải bỏ cõi đời này để trở về thế giới bên kia. 3.Thái độ của ta Chúa Giêsu đã nhắc nhở ta về sự chết, về việc Chúa đến bất ngờ vào ngày giờ ta không ngờ. Chúa sẽ đến với ta bất ngờ như kẻ trộm. Cho nên thái độ của ta là phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ Chúa đến. Muốn cho giờ chết được êm ái, nhẹ nhàng, thanh thản, không phải bồn chồn lo lắng, cần phải dọn mình luôn. Các thánh nhân đã nhận lấy cái chết một cách bình tĩnh và vui tươi vì cho giờ chết là kết thúc cuộc lữ hành trần gian để về bên Chúa hưởng vinh phúc đời đời : Như đôi chim tìm về khe đá, Người lữ khách vui tới quê nhà. (Thánh vịnh 78,16)
Tục ngữ Việt nam có câu :”SINH DỮ TỬ LÀNH”. Khôâng biết anh chị em nghĩ thế nào ? Theo tôi nghiên cứu thì dân gian người ta tin tưởng rằng : đêm nằm mơ, nếu mơ sự sinh đẻ thì đó là điềm xui; còn mơ đến sự chết thì đó là dấu lành. Không biết đấy có phải là mê tín dị đoan không, nhưng người ta cứ tin như vậy, nên mới có câu : sinh dữ tử lành. Trường hợp của ông (bà) X cũng đúng với ý nghĩ của nhiều người vì ông đã qua một thời gian dài (80 tuổi) ở trần gian, ông đã phải chịu bao khổ đau, bệnh tật hành hạ.... nay mọi sự đã chấm dứt. Giờ chết là giờ giải thoát, là giờ sinh ra trong Nuớc Trời.
Chúng ta tưởng nhớ đến ông X hôm nay, cầu nguyện cho ông và nhân dịp này chúng ta phải ghi nhớ và luôn suy niệm Lời Chúa :”Các con hãy sẵn sàng vì không biết giờ nào, ngày nào Con Người sẽ đến” (Mt 24,44). Giáo xứ Kim phát Đà lạt
Người xưa thường nói: “Sinh ký,tử quy”,nghĩa là sống gởi thác về.Cuộc sống con người ở đời này chỉ là tạm bợ.Trần gian là nơi ta sống đợ ở nhờ, để rồi sẽ ra đi,về cõi vĩnh hằng. Hôm nay 19.08.2008, Thánh Lễ An Táng Cha Giuse Nguyễn Tiến Huynh được cử hành tại Nhà Thờ Vinh An - Phan Thiết. Đức Giám Mục Giáo phận, linh mục đoàn, các linh mục học trò từ nhiều Giáo phận, cùng đông đảo tu sĩ nam nữ, thân nhân, giáo dân các giáo xứ đã hiệp dâng Thánh Lễ và tiễn đưa linh cửu của Ngài đến an nghĩ tại nghĩa trang linh mục giáo phận. Cha Giuse đã bước qua ngưỡng cửa sự chết để về với Thiên Chúa sau khi đã đi qua 78 năm tuổi đời,50 năm linh mục. -Cha Giuse Nguyễn Tiến Huynh sinh ngày 30/8/1930 tại Giáo xứ Hoà Ninh, Hạt Hướng Phương, tỉnh Quảng Bình, Giáo Phận Vinh.Thân phụ là cụ cố Giuse Nguyễn Hội. Thân mẫu là cụ cố Maria Lê Thị Tạo. -Từ 1939 – 1950 học tại trường tập Xuân Phong và chủng viện Xã Đoài.Từ 1950 – 1953 học tại Thiên Hựu Huế. Từ 1953 – 1958 du học tại Pháp. Văn bằng: Tiến sĩ tâm lý tại Đại Học Sorbone.Năm 1958 lãnh chức linh mục tại Paris do Đức Hồng Y Feltin. -Từ 1975 gia nhập Giáo Phận Phan Thiết, phục vụ các giáo xứ Chính Toà, Vinh Phú, Rạng. Hai năm học tập cải tạo 1980 – 1982. -Với học vị cao, sau khi về nước và những năm sau đó cha Giuse được mời dạy tại Viện Đại Học Huế, trường Thiên Hựu Huế, Đại Chủng Viện Xuân Bích, ĐCV Sài Gòn, ĐCV Vinh Thanh, ĐCV Nicolas. -Ngày 2/5/2008 nghỉ bệnh tại nhà hưu Giáo Phận. Ngày 17/ 8 được Chúa gọi về. Trong nổi đớn đau của bệnh tật hành hạ thân xác, Cha Giuse có những xao xuyến âu lo. Nhưng Ngài vẫn an nhiên, bình thản đón nhận những thử thách cuối cùng của đời người,với niềm tin với lòng mến vào Đức Kitô. Ngài ra đi, được an nghĩ trong Chúa như lời sách Khải Huyền đã nói: “ Ngay từ bây giờ,phúc thay những người đã chết mà được chết trong Chúa ! Thần Khí phán: phải, họ sẽ được nghĩ ngơi,không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo họ” ( Kh 14,13). Cố linh mục Giuse đã hoàn thành cuộc đời trong tuổi thọ đáng kính,dù có bệnh tật cuối đời,nhưng phận người là sinh lão bệnh tử.Cuộc đời Giáo sư, Mục tử trong hành trình phục vụ 50 năm, cha Giuse đã góp phần đào tạo bao thế hệ linh mục và chăm sóc các đàn chiên Chúa trao. Đó là hành trang theo Ngài về cùng Đấng Hằng Sống. Chính Đức Giêsu đã bước qua ngưỡng cửa sự chết,Người đã sống lại, chiến thắng tử thần và trao ban sự sống mới cho nhân loại.Mỗi người con cái Chúa cũng bước qua ngưỡng cửa sự chết mới có thể đi vào sự sống vĩnh hằng trong Nhà Cha. Khi nói về cái chết của mình, Đức Giêsu dùng kiều nói: “ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha” ( Ga 16,28).Cái chết như vậy là ngưỡng cửa bước qua để hội ngộ,người ra đi để rồi gặp gỡ Đấng sinh thành nên mình.Đó là một cuộc trở về Nhà Cha thật sự.Sự chết là khởi đầu một sự sống mới,sự sống vĩnh hằng trong Nhà Cha.Phụng vụ diễn tả: Đối với các tín hữu Chúa,sự sống này thay đổi chứ không mất đi,khi thân xác tan rã trở về bụi đất,thì con người lại có một nơi ở mới do Chúa dựng nên,đó là ngôi nhà vĩnh cửu trên trời,không do tay người phàm làm ra ( 2 Cor 5,1).Quan tài là chiếc áo,là nhà tạm cho thân xác yếu hèn hay hư nát của con người cư ngụ để chờ ngày phục sinh trong quyền năng vinh hiển của Chúa Cha.Thánh Phaolô nói lên niềm hy vọng lớn lao: gieo xuống thì hư nát mà trỗi dậy thì bất diệt,gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang,gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẻ,gieo xuống là thân thể có sinh khí mà trỗi dậy là thân thể có thần khí ( 1 Cor 15,42 – 44). Thay mặt linh mục đoàn giáo phận, Đức Ông JB Lê Xuân Hoa nói lời tiễn biệt thật cảm động. Thưa cha Giuse thân mến! Chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi, cha sẽ nằm xuống trong lòng đất Mẹ tại nghĩa trang linh mục Giáo Phận. Thay lời cho linh mục đoàn hiện diện, thay mặt cho những anh em xa vắng, xin trân trọng gởi đến cha lời tiễn biệt … Tiễn biệt chứ không phải là vĩnh biệt. Vì sớm muộn gì anh em cũng gặp nhau trong nước Chúa và thân xác chúng ta sẽ lại được gần nhau trong nghĩa đĩa linh mục tại Vinh An. Nay sự ra đi của cha hôm nay không khỏi để lại một chỗ trống vắng trong linh mục đoàn và thiếu đi một tay thợ lành nghề trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Phận. Chúng con kính nhớ cha, thương tiếc cha, cùng với anh chị em giáo hữu cầu nguyện thật nhiều cho cha để cha sớm được đón nhận lòng khoan nhân của Chúa, để cha mau được hưởng ánh sáng tôn nhan Ngài. Vì “Lạy Chúa nếu Chúa chấp tội nào có ai đứng vững được chăng”. Thưa cha Giuse, với 78 tuổi đời và 50 năm linh mục, làm sao tránh được ít nhiều bóng tối trong cuộc sống. Nhưng ánh sáng đời cha vẫn chan hoà vì cha đã nhiều năm hy sinh cho giáo dân và dày công giáo dục đào tạo các linh mục tương lai cho các Giáo Phận. Phải chăng đó cũng là những bài học quý giá cha để lại cho chúng con. Chúng con cám ơn Chúa, cám ơn cha. Trong quá trình làm việc chung với cha, hẳn chúng con không khỏi có những khuyết điểm lỗi lầm làm phiền lòng cha. Xin cha bỏ qua cho anh em và con cái. Trong mầu nhiệm hiệp thông và ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô, xin cha cầu xin với Chúa với Đức Mẹ, Thánh Giuse cho mọi thành phần dân Chúa kiên quyết duy trì và phát huy lòng đạo đức, sự hiệp nhất và bình an … Thay lời cho ĐGM Giáo Phận, cho linh mục đoàn và anh chị em giáo dân, xin thân ái gởi lời phân ưu và chia sẻ tâm tình với các thân nhân trong gia đình và gia tộc của cha. Xin cho mọi người vui lòng chấp nhận ý Chúa. Sự sống thay đổi chứ không mất đi. Mọi người sẽ lại gặp nhau trong nước Chúa nếu biết sống với Chúa cho Chúa và ra đi trong Chúa. Xin kính tiễn biệt cha Giuse thân yêu. Cha Giuse đã ra đi và bước vào thế giới của lòng mến. Mọi người ở lại trong thế giới của lòng tin. Người sống và kẻ chết vẫn gặp nhau trong mầu nhiệm hiệp thông Giáo hội. Đức Giêsu là Đường (Ga 14,6),là Cửa(Ga10,9) dẫn đưa Cha Giuse vào sự sống thật muôn đời và sự sống ấy cũng chính là Người vì “ Người là sự sống lại và là sự sống”, những ai tin vào Người thì “dù đã chết cũng sẽ được sống” ( Ga 11,25).Từ nay Cha Giuse vĩnh viễn thuộc về Chúa,hiện hữu trong Chúa. Chính trong khát vọng về nguồn cội của mình mà thi sĩ Tagore đã nói lên lời kinh tha thiết: Như đàn hạc hoài hương Bay thẳng về tổ ấm Trên đỉnh núi vút cao Nguyện đời con phiêu diêu Qua vùng trời thăm thẳm Lên tận chốn thiên đường (x Gitanjali,103) Dự một lễ tang,cảm nghiệm rằng mỗi người rồi cũng sẽ chết,thân xác tan rã trở về cát bụi.Chúng ta tự hỏi: những gì còn lại để mình mang theo vào thế giới bên kia xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu có Đấng Hằng Sống ngự trị ? Có một bia một khắc 3 câu: Những gì tôi đã tích trữ nay không còn nữa. Những gì tôi đã mua sắm nay người khác sử dụng. Những gì tôi cho đi nay là của tôi. Cuộc đời “cho đi” 50 năm mục tử của Cha Giuse in đậm nét yêu thương qua những nẻo đường phục vụ.Hành trang quý báu ấy đưa Ngài vào Nhà Cha hưởng niềm vui Nước Trời.
Có một câu chuyện vui về phù thủy Mundaca. Ông nổi tiếng nhất trên thế giới vì có thể làm cho người chết được trở về sống lại trên trần gian này. Một hôm, ông đến đọc thần chú trước ngôi mộ của một người nổi tiếng nhất trong vùng đã qua đời từ nhiều thế kỷ trước. Ngôi mộ mở ra và một vị sang trọng bước ra cúi mình chào vị phù thủy và nói: - Xin cám ơn Ngài rất nhiều vì đã làm phép mầu cho tôi được trở lại từ cõi chết, đó là Ngài thực hiện một công việc hết sức quan trọng cho những người cùng thời với Ngài. Thế giới sẽ sống an vui và hạnh phúc hơn với công việc tôi sắp làm. Ngài có biết không, ngày xưa tôi sinh ra trong một dòng dõi sang trọng, tôi đã dùng hết sự giàu sang của mình để thực hiện những điều lợi ích cho mọi người chung quanh tôi sinh sống. Vì thế, giờ đây tôi được trở về trần gian, tôi sẽ dùng hết những việc tốt khi xưa để xây dựng hạnh phúc cho mọi người. Nói xong những lời trên, người sang trọng vừa sống lại đó hăng hái bước về thành phố, nơi quê hương của mình sinh trưởng. Nhưng chỉ sau một ngày, phù thủy Mundaca đã thấy người vừa được sống trở lại gặp ông và năn nỉ: - Xin hãy vui lòng đưa tôi trở về lòng đất. Nhà phù thủy với giọng rất ngạc nhiên hỏi: - Nhưng tại sao ông lại muốn chết trở lại? Người sang trọng trả lời: - Khi tôi trở về lại nơi tôi sinh sống, không ai biết tôi là ai cả, và cũng không có ai tin lời tôi nói. Tôi đã cố gắng nhắc lại cho họ về những điều tốt tôi đã làm cho mọi người khi trước, nhưng cũng không ích lợi gì. Dân tôi sinh sống ngày nay không còn nhớ gì nữa cả, đền đài kỷ niệm mà xưa tôi đã xây nên để ghi nhớ những gì tôi đã làm, nay không còn nữa. Giờ đây tôi mới hiểu câu nói: "Mọi vinh quang và vinh dự của con người đều chóng qua, tất cả chỉ là hư vô mà thôi". Nói xong những lời trên, người sang trọng xin nhà phù thủy cho về lại cõi chết. *** Câu chuyện vui trên trình bày một quan điểm sống trần tục và vinh quang. người sang trọng kia lúc còn sống đã làm những điều tốt cho anh chị em mình để có tiếng tốt, để danh tánh được khắc ghi trên bia mộ lưu danh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những toan tính trần tục. Người khi được từ cõi chết trở về, danh tiếng từ thời trước bị lãng quên không còn nữa. Người sang trọng kia không còn đủ nghị lực để tạo lập sự nghiệp mới mà bi quan muốn trở về với cõi chết. Nếu chúng ta sống cõi đời này chỉ có một quan niệm trần tục như vậy thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng trống rỗng bi quan. Mỗi người chúng ta cần xét lại quan điểm sống của mình theo ánh sáng lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta cần xác tín rằng: tôi được sinh ra trên trần gian này để thi hành sứ mạng yêu thương: yêu thương phục vụ Thiên Chúa, và yêu thương phục vụ anh chị em. Những việc lành tốt để chứng tỏ tình yêu thương đối với Thiên Chúa dầu có được người đời biết hay không? có nhìn nhận hay không? không phải là quan trọng. Điều quan trọng là tôi có thật lòng làm vì yêu mến Chúa hay không, và việc yêu mến Chúa và phục vụ anh chị em một cách thiết thực hữu hiệu một cách có thể. *** Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương cho chúng con noi theo. Là một vị Thiên Chúa, Chúa đã không màng chi đến việc sinh xuống trần gian làm người thấp hèn, để trở nên giống mọi người. Dầu con người có biết ơn và tin nhận Chúa hay không. Chúa thực hiện những dấu lạ, những hành động tốt để mời gọi chúng con, nhưng không bao giờ ép buộc cúng con phải tin Chúa. Chúa luôn thi ân cao cả cho dầu những chống đối khước từ. Xin giúp con sống theo gương mẫu của Chúa. Amen.
Lễ an táng anh Anphongsô Phạm Văn Hiệp, một cộng sự viên của Vietcatholic va Dân Chúa Úc Châu 2/5/2014 Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb5/2/2014 Đức Giám Mục Vincent Nguyễn Văn Long, Giám mục phụ tá Melbourne chủ tế và linh mục Anthony Nguyễn Hữu Quảng, chính xứ và chủ nhiệm Dân Chúa Úc Châu chia sẻ giảng lễ tại nhà thờ St Margaret Mary’s Brunswick. Trước một cộng đoàn đông đảo có tới 500 người tham dự, kính cẩn và thương tiếc cho người ra đi và ủi an người ở lại. Sau đây là bài giảng của lễ an táng: Đức Cha Vincent Long chủ tế và 6 linh mục đồng tế lễ an táng Đức Cha Vincent Long rảy nước Thánh quanh quan tài ------------------------------ SỰ HIỆN DIỆN CỦA THÀY GIÊSU Bài giảng lễ an táng anh Anphongsô Phạm Văn Hiệp Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb
Có lẽ rất nhiều lần chúng ta đã nghe bài phúc âm Chúa phục sinh Lazarô, nhưng điều chung tôi AnTáng 181
Có lẽ rất nhiều lần chúng ta đã nghe bài phúc âm Chúa phục sinh Lazarô, nhưng điều chung tôi muốn chia sẻ trong thánh lễ an táng Anphonsô Phạm Văn Hiệp hôm nay là câu nói của Martha và Maria: ”Thưa Thầy, nếu Thày có mặt ở đây em con đã không chết?” Câu hỏi này anh Hiệp cũng như chị Hạnh dù chưa phải là người Kitô hữu bằng danh nghĩa nhưng bằng trái tim chị đã là người Kitô hữu từ khi kết hôn với anh Hiệp năm 1981 tại Biên Hòa Việt Nam. Anh chị đã tự hỏi Chúa Giêsu nhiều lần, đặc biệt khi người con gái duy nhất cua anh chi là Huy Hoàng tất tưởi ra đi trong một tai nạn bi thương lúc đang trên đường về từ một công tác tông đồ “tổ chức trại hè” cho nhóm trẻ của St Vincent de Paul Melbourne! Rồi trong thời gian anh Hiệp đối diện với cơn bệnh hiểm nghèo, chắc nhiều lần anh đã tự hỏi Chúa và ba tuần trước đây khi ông cụ Giuse Phạm Văn Lạc, ba anh qua đời: “Tại sao ba con chết? Tại sao lại là con mang chứng bệnh trầm kha này?” và hôm nay chị Hạnh có quyền thân thưa với Chúa: “Nếu Thày có mặt ở đây thì chồng con đã không chết?” Hoặc bà má và các anh chị cũng có thể thân thưa với Chúa Giêsu và hờn dỗi Ngài như Marta và Maria “Nếu Thày có mặt ở đây thì em con đã không chết!” Là người con của Chúa chúng ta xác tín và tin chắc lúc nào Chúa chẳng có mặt trong cuộc đời chúng ta, thế tại sao đau khổ và chết chóc vẫn triền miên xảy ra! Hình như Chúa vắng bóng? Tại sao Ngài im lặng? Thật là nhiệm mầu khó hiểu… Tuy vậy dù đời ta có khổ đau chất chồng thế nào đi nữa, chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện đỡ nâng và gần gũi với chúng ta, vì chính Ngài đã trải qua mọi khổ đau cùng cực nhất của phận người và chết tất tưởi Thập gía để có thể nói: “Thày yêu chúng con”. Như Marta và Maria, chúng ta cũng hy vọng thưa lại với Chúa ”Con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” và ”Con biết, em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Nhờ đó, Chúa Giêsu đã mặc khải một chân lý: ”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin không?” Câu hỏi ấy Chúa hỏi chị Marta 2000 năm trước. Hôm nay giờ này, cũng là câu hỏi ấy, Chúa đang hỏi mỗi người chúng ta, đặc biệt hỏi chị Hạnh. Chúng ta có dám phó thác trả lời như Marta: ”Thưa Thầy, có. Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian” không? Nói về Chúa thì cũng nên nói về Phật. Trong đời sống của Đức Phật, người ta có kể lại mẩu chuyện: Một hôm Đức Phật đang ngồi với các môn đệ, bỗng có một vị thần hiện đến và bảo: - Người còn muốn sống đến bao lâu nữa? Hãy xin một ngàn năm và một ngàn năm sẽ ban cho ngươi. Đức Phật trả lời một cách ngượng nghịu: -Tôi chỉ xin 8 năm nữa thôi. Khi vị thần ấy biến đi rồi, các môn đệ buồn rầu trách Đức Phật: -Thưa thày, sao thày không xin cho sống thêm một ngàn năm nữa? Thày thử nghĩ xem, thày sẽ giúp ích cho biết bao thế hệ nữa. Đức Phật mỉm cười trả lời: -Nếu ta sống thêm một ngàn năm nữa, thì ta sẽ chỉ lo lắng đến việc kéo dài đời sống mình hơn là đi tìm sự khôn ngoan của cuộc sống. Vậy làm thế nào để tìm được sự khôn ngoan của cuộc sống và chiếm hữu được sự sống trường sinh? Ai trong chúng ta đã chẳng một lần nghe nói và chứng kiến sự chết? Có điều là người ta thường không thích nghĩ về cái chết. Nhiều người cho rằng không nói, không bàn về cái chết, thì nó sẽ không xảy ra! Chẳng hạn như nhà tỷ phú Mỹ William Randoph Hearst, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood trước thế chiến thứ hai, đã cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ "chết" trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra thì bị đuổi việc. Ông thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng đó! Rồi cuối cùng Hearst cũng chết, để lại một toà lâu đài rộng lớn, bây giờ trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở California. Ngược lại, người Việt cha ông ta thời xưa cũng như nay có thói quen lo hậu sự cho chính mình. Cha ông mình thường nhắc "sinh ký tử quy", sống gửi thác về. Nên khi còn sống đã sắm sẵn một cỗ quan tài, huyệt mộ đủ thứ. Ngày nay có người còn đi mua huyệt đầu tư nữa! Anh Hiệp trong thời gian mang bệnh đã không sợ nói về sự chết… Dù anh và tất cả chúng ta đều tha thiết xin Chúa chữa lành… Khi bác sĩ đưa anh lên lầu 8 nằm cùng cái phòng mà 3 tuần trước ba anh đã nằm và đã yên bình ra đi… Anh cười nói: “Có lẽ bác sĩ đưa lầm mình vào đây… Mình còn ăn uống được, đi đứng được…” Rồi anh tự trấn an tuần tới bác sĩ mới họp lại để trị bệnh anh ra sao? Dù đau đớn không đi quay phim được thì nằm trên giường với cái note book anh đã cắt ráp phim chị Hạnh thâu “Đàng Thánh Gía” đưa về. Anh nói với tôi: “Con ráng làm cho xong để cha đưa lên net…” Chết là gì? Chết rồi đi về đâu? Chết là chấm tận cuộc sống. Thánh Phaolô cho “Chết là cánh cửa im lìm chúng ta cần bước qua để vào cõi vĩnh hằng”. Sự chết là bài học giúp chúng ta sống tròn đây yêu thương, tha thứ cảm thông với mọi người. Đó là trường dậy ta sống trọn vẹn tin yêu hy vọng vào Chúa và vào Giáo Hội, đem lại cho chúng ta sự sống đời đời như Đức Kitô đã hứa. Đối với những kẻ không tin thì chết là hết! Là cái chung cuộc chẳng ai muốn đi tới. Nếu thế thì cái chết đáng sợ lắm, vì nó chấm dứt và xé tung tất cả những ước mơ, những vun góp của đời ta. Cát bụi trở về bụi cát, không còn gì để đi tiếp. Trái lại trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết, tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi là “Nước Thiên Đàng”, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn. Dầu vậy trong chuyến đi này, chúng ta cần được thanh luyện, như vàng thử lửa, vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần chúng ta đã không sống trong ân sủng của Ngài, chúng ta đã để những quyến luyến danh vọng chức quyền trần thế chiếm ngự trái tim ta, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của ta. Chúng ta sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi chúng ta cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và lỗi lầm. Hai ngày trước đại lễ lòng Chúa thương xót, chúng tôi vào thăm anh, anh còn nói với chúng tôi “con đau lắm nhưng con ráng xin bác sĩ cho về dự lễ Lòng Chúa thương xót!” Thế nhưng 4.30 sáng ngày 27/4 chị Hạnh điện thoại cho chúng tôi nói “anh con yếu lắm mời cha vào xức dầu cho anh con”. Thông thường các linh mục ít ai chịu đi xức dầu vào các giờ giấc thế này… Đang ngon giấc, thế mà chúng tôi chẳng hỏi han gì có gấp hay không? Để sáng mai được không? Chúng tôi đã trả lời ngắn gọn “cha sẽ tới ngay!”. Chúng tôi đã tới ban bí tích xức dầu và bí tích hòa giải ân xá mà Giáo Hội ban cho linh mục quyền ban cho người đã hôn mê bất tỉnh… Lúc tới anh còn có thể nhận ra chúng tôi và nhấp miệng lời cám ơn… Chúng tôi đã chợt nghĩ “anh chọn ngày đại lễ hôm nay để về với Đấng anh tin yêu và truyền bá…” Tự kinh nghiệm thì chúng tôi nghĩ anh chưa ra đi được! Dù hơi tàn nhưng sắc diện anh vẫn còn tươi tỉnh. Ấy vậy mà chưa đầy ba tiếng sau chúng tôi nghe tin anh đã vĩnh viễn ra đi… làm chúng tôi bàng hoàng… nhưng chúng tôi tạ ơn Chúa là chúng tôi đã tới với anh không chần chừ đắn đo… Biết Chết Để Biết Sống Anh đã chấp nhận và sửa soạn ra đi nên trong những ngày cuối nằm tại căn phòng định mệnh, anh luôn tươi cười cám ơn bạn bè tới thăm viếng cầu kinh hoặc nhắn nhủ cháu này cháu kia phải cố gắng này nọ… Ai mà chẳng phải chết, nhưng liệu chúng ta có thể ra đi trong thanh thản an bình, hay ra đi trong sợ hãi, dằn vặt, tiếc nuối! Phải chăng những người dám đối diện với cái chết thì biết cách sống hơn? Có lẽ muốn sống tốt hơn, phải hiểu cái chết. Chúng ta hãy đừng để quá muộn, vì có những điều muốn sửa lại cũng chẳng được, vì sẽ chẳng còn thời gian. Lạy Chúa, Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai, Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa. Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều, Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy Thì con lại chưa làm gì cả. Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian, Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn. Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết? Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa Không biết Chúa có nhận ra con hay không, Hay là Chúa bảo "đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác" Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật, Con xin Chúa sự khôn ngoan Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại Trong ân nghĩa của Chúa Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa, Sẽ không như hai người xa lạ Nhưng là hai người rất thân quen. Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến Và giang đôi tay đón con vào lòng. Niềm tin và hi vọng Kitô giáo về sự chết đã được Phụng vụ diễn tả như sau: Đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì có chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Mỗi lần đọc kinh Kính mừng chúng ta vẫn thường xin Mẹ: " Cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử". Hãy nhớ mãi lời nhắn nhủ của cha Charles de Foucault: “Hãy sống ngày hôm nay như con sắp ra pháp trường tử đạo". Để kết thúc bài chia sẻ, chúng tôi xin mượn lời cuea Linh mục Michael Quang Nguyễn Trung Tây đã tâm sự: Sáng Chúa Nhật 27/4 vừa qua, tôi nhận được tin anh Phạm Văn Hiệp nhắm mắt lại ngủ say giấc ngủ thiên đàng. 27/4, ngày Đại Lễ Lòng Thương Xót Chúa cũng đúng ngày Giáo Hội có thêm hai vị thánh, Gioan XXIII và Gioan Phaolô II. Tôi bồi hồi khi nhận được tin, dù biết rằng chuyện sẽ đến rồi cũng đã đến. Như vậy là trong khoảng một thời gian thật ngắn, anh Hiệp và thân phụ, cả hai xác gửi cõi trần, hồn nhẹ bay cao. Nhớ tới anh Hiệp, tôi vẫn nhớ một người bạn chưa bao giờ làm tôi phiền hà dù chỉ là một lời nói, một cộng sự viên đắc lực nhiệt thành của Nguyệt san Dân Chúa Úc Châu. Nhớ tới anh Hiệp, tôi vẫn nhớ tới người có nụ cười tươi, nụ cười dễ bật trên môi. Khi anh Hiệp cười, với tôi, dù đang không vui trong lòng, tâm tôi rộn rã. Thôi nhé anh Anphongsô Phạm Văn Hiệp, ngủ yên giấc ngủ của tuổi trung niên, ngủ yên giấc ngủ thiên đàng. Ở cõi thiên, anh mỉm cười, và cười tươi mãi. Ở trên cõi thiên, gặp lại cháu Julia Huy Hoàng và người cha thân yêu của anh, xin anh nguyện cầu cho chị, cho mẹ và các em các cháu của anh. Xin anh cũng nhớ chúng tôi nữa.
Con người ta sinh ra, ai thoát khỏi: sinh, lão, bệnh, tử? Theo thuyết của nhà Phật, thì đó là AnTáng 182
Con người ta sinh ra, ai thoát khỏi: sinh, lão, bệnh, tử? Theo thuyết của nhà Phật, thì đó là 4 giai đoạn của cuộc đời mà người nào cũng phải trải qua. Sinh, Trụ, Hoại, Diệt là định luật của tạo hóa, không có cách chi thay đổi được. Cây cối đâm chồi nảy lộc vào muà xuân, xanh tốt xum xuê trong mùa hè, lá héo vàng vào mùa thu, đến mùa đông thì lá vàng rơi rụng, chỉ còn trơ trụi cành cây. Rồi tới mùa xuân năm sau, cây lại đâm chồi nảy lộc. Cái chu kỳ sinh, trụ, hủy, diệt cứ tiếp nối nhau, không ngưng nghỉ. Ðời người là bể trầm luân, cõi thế gian đầy những ưu tư phiền não. Vạn vật đều bị chi phối bởi luật vô thường.. Vừa mới sinh Ra cất tiếng khóc oa oa chào đời. Rồi lớn lên, bước vào đời với bao nhiều mộng đẹp. Thoắt một cái, mái tóc đã điểm sương, mắt đã mờ, lưng đã mỏi, 2 chân đã chậm chạp. Rồi cuối cùng, là hai tay buông xuôi, đi vào lòng đất, bỏ lại trên thế gian tất cả các thứ mà cả đời phải bôn ba vất vả mới làm ra được.. Ðời người như giấc mộng. Người ngoại quốc cũng có câu: Life is too short. (cuộc đời quá ngắn) Thế mà, con người ta khi còn sức khỏe thì mải mê kiếm tiền, lo củng cố địa vị, danh vọng, không có thì giờ để hưởng đời đúng nghĩa. Cũng ít ai sửa soạn tâm tư để đón nhận những cái vô thường của tuổi gìa,. Ðến khi mái tóc đã điểm sương, da đã nhăn, mắt đã mờ, chân đã chậm thì mới giật mình, rồi buồn phiến, thất vọng, nuối tiếc. Khi đó, bao nhiêu tiền của cũng trở thành vô dụng. Ăn uống thì phải kiêng thứ này, cữ thứ kia vì đường lên cao, cholesterol lên cao. Ăn đồ cứng không được vì hàm răng cái rụng, cái lung lay. Ði chơi xa thì không dám vì sức khỏe kém, đầu gối đau nhức. Nghe nhạc, xem phim cũng không được vì tai đã nghễng ngãng, mắt đã kèm nhèm. Người VN mình vốn cần kiệm, chăm làm, chắt bóp để có của ăn của để. Làm việc thì liên miên quên cả cuối tuần, bất kể ngày lễ hay ngày Tết. Làm thì nhiều, mà ít dám vui chơi huởng thụ như người Âu Mỹ..Suốt đời cặm cụi, ăn nhịn để dành, mua cái nhà cái cửa để một mai khi chết thì để lại cho con cháu. Sống như vậy quả là thiệt thòi. Người xưa đã nói:
Một năm được mấy tháng xuân Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa Và: Chẳng ăn, chẳng mặc, chẳng chơi Bo bo giữ lấy của trời làm chi Bẩy mươi chống gậy ra đi Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi Con người có tham vọng, có nhu cầu nên mới bon chen. Suốt đời cứ miệt mài lo tìm kiếm những thứ vô thường mà quên mất chữ “nhàn”. Những thứ vô thường này là nguyên nhân đưa đến lo âu, căng thẳng, mất ăn, mất ngủ. Và nếu kéo dài có thể đưa đến bệnh tâm thần: Ông Cả ngồi trên sập vàng Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo Ông bếp ngồi cạnh đống tro Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm Hoặc là: Ðời người sống mấy gang tay Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm Hoặc là Ăn con cáy, đêm ngáy o..o Còn hơn ăn con bò, mà lo mất ngủ. Người xưa tuổi thọ kém, ngay tới vua chúa cũng chỉ sống tới khỏang 50 tuổi. Tới 60 tuổi đã ăn mừng “lục tuần thượng thọ. Còn tới 70 tuổi, thì thực là hiếm hoi. Bởi vậy mới có câu: “nhân sinh thất thập cổ lai hy (tức là, người ta có mấy ai mà sống được tới 70). Ngày nay nhờ khoa học tiến bộ. Con người được sống trong điều kiện vật chất vệ sinh, và thoải mái hơn. Những phát minh của ngành Y, Dược đã giúp nhân loại vượt qua được các bệnh hiểm nghèo, mà người xưa kêu là bệnh nan y như bệnh lao, bệnh phong cùi, bệnh suyễn. Ngày nay người ta sống tới 80, 90 tuổi không phải là ít. Tuy nhiên sống lâu chưa phải là hạnh phúc. Hạnh phúc là luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, biết tận hưởng cuộc sống. Muốn vậy thì cần phải giữ cho thân tâm được an lạc. Tâm thân an lạc là biết vui với những cái trong tầm tay của mình, chấp nhận những điều mình không thể nào tránh khỏi. Sống hòa hợp vui vẻ với mọi người xung quanh, không chấp nhất, tỵ hiềm. Lớn tuổi thì không làm ra tiền, nhưng cũng may, ở những nước tân tiến đều có khoản tiền trợ cấp cho người gìà để có thể tự lực mà không cần nhờ cậy vào con cháu. Các cụ gìà nên mừng vì sang được xứ này, thay vì ấm ức với số tiền quá khiêm nhượng, không thể tiêu pha rộng rãi như bạn bè. Gìà thì phải chịu đau nhức, mắt mờ, chân chậm, đừng nên than thân trách phận, cau có, gắt gỏng, đã không làm được gì hơn mà còn tạo sự áy náy, thương cảm cho những người xung quanh. Ở đời mỗi người một cảnh, vui với cảnh của mình, không suy bì, thèm muốn, ganh ghét với những người xung quanh. Biết đủ thì đủ (Tri túc, tiện túc). Người ta bảo trên 65 tuổi, mỗi ngày sống là một phần thưởng cho thêm (bonus) của thượng đế. Vậy thì hãy nên vui vẻ, tận hưởng những ân sủng mà không phải ai cũng có được. Ðời sống của mình vui tươi hay buồn thảm là tùy thuộc vào thái độ của mình đối với cuộc SỐNG
Người ta tính ngày đứa trẻ sinh ra, và chuẩn bị ngày sinh cho một đứa trẻ, nhưng ngày chết thì “bất kỳ”, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chúng ta đã được sinh ra, nhưng như Đức Giêsu Kitô Phục sinh, chúng ta sẽ không bao giờ chết nữa. Kính thưa quý ông bà anh chị em, Chúng ta rất thường gặp bạn bè. Buổi chiều, khi gặp họ, ta cảm thấy cần phải hỏi xem họ có khỏe không. Thăm hỏi là một bổn phận của người biết sống, là một luật của người có giáo dục. Hỏi thăm, luôn luôn hỏi thăm sức khỏe của người khác là một dấu chỉ yêu thương. Nhưng chúng ta sẽ chẳng hỏi thăm ai điều gì nữa cả. Bởi vì hỏi thăm như vậy, cũng có nghĩa là chịu sự thất bại trước thời gian, chúng tôi mới gặp nhau hôm qua đó, giờ đây, tôi lại phải hỏi thăm anh ta như thế nào. Biết đâu, trong thời gian đó, tất cả lại đã chẳng có thể xảy ra cho anh ta. Chẳng hạn như trúng số, hay con ong đốt, nên bị sốt rét, và phải nằm nghỉ. Đây không phải chỉ là kiểu diễn tả “tô màu” mà thôi đâu. Bởi nghĩ cho cùng, cả đến lời chào hỏi trìu mến, yêu thương hay lịch sự, cũng là một cử chỉ “chịu trận” nữa. Chúng ta chấp nhận cái bất lực của mình, và không thắng nổi thời gian đang qua đi trên cát bụi, trên đá tảng, trên mặt đất, trên cây cỏ, hoa lá và trên con người. Con người đã chỉ tạo ra không biết bao nhiêu là thứ thuốc. Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ diệt trừ được bệnh ung thư, nhưng tất cả những sáng kiến, những kỷ thuật làm cho con người trẻ lại, hủy bỏ dấu vết thời gian trên con người, đều là ảo tưởng cả. Cuộc sống ồn ào, náo nhiệt của con người đổi mới, gia tăng, lớn lên, trào dâng, rồi rút đi như nước thủy triều. Nhưng nó cứ đi và đi mãi. Đây đó trên thế giới, có một người sống lâu trổi vượt trên mọi người thật đấy, và sự kiện này làm chúng ta phấn khởi, tưởng rằng đã tìm được kẻ chiến thắng thời gian. Nhưng thời gian, cầm lấy cây bút và viết tên người ấy trên trang giấy lịch sử. Thế là tên người ấy đi vào dĩ vãng. Chiếc đồng hồ là lời kết án chúng ta. Cái kim nhỏ của nó như là ngón tay của thời gian. Nó đánh dấu một điểm, rồi một điểm khác tiếp theo, và không để chúng ta lý luận, đó là vũ điệu của thời gian, liên tục, không mệt nỏi, không hốt hoảng vội vã, rất bình thản và không thương tiếc. Chiếc đồng hồ đánh dấu giây phút, giờ ngày, tháng năm. Chúng ta có thể vất nó đi không? Nếu vất nó đi, thì những buổi bình minh và hoàng hôn, mặt trời, trăng sao, và toàn vũ trụ, sẽ lại thế chỗ của nó. Chỉ có người có lòng tin là biết rằng thời gian chỉ là “căn phòng đợi”, trước khi con người bước vào cuộc sống bất diệt. Chỉ người có lòng tin mới biết rằng, chúng ta đã được sinh ra, nhưng cũng giống như Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giời chết. Đức cố Giám mục Giuse đã sống hết mình cho niềm tin của mình. Niềm tin hồn nhiên lúc còn trẻ, niềm tin ý thức khi là thanh niên, sinh viên, niềm tin sâu xa khi là linh mục, niềm tin kiên định khi là Giám mục, niềm tin không gì lay chuyển những năm tháng dài bệnh tật và thử thách. Chính niềm tin ấy đã làm cho ngài không bao giờ chết. Vì như Chúa nói: “Ai tin vào ta sẽ không phải chết bao giờ”.
Đức Cha Fulton J. Sheen trong tác phẩm “Trên đỉnh caoThập Giá” đã kể rằng: Sau khi bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Địa Đàng và gánh chịu hình phạt lao dịch, A-đam đã phải vất vả khổ cực tìm kiếm của ăn. Cái chết của A-ben là cái chết đầu tiên của nhân loại. Khi Nguyên tổ phạm tội, Địa Đàng đã đóng ngõ cài then. Đau khổ và sự chết đã tràn vào thế giới và chảy dọc theo thời gian. Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Sống và chết là hai thái cực đối chọi nhau. Sự sống và sự chết là một kỳ công của Thiên Chúa. Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào ngăn cản được sự chết. Thế giới càng văn minh thì Tử Thần càng xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Có cái chết êm đềm thư thái, có cái chết đau đớn khốn khổ, muốn chết không được, muốn sống không yên. Càng chạy trốn Tử Thần, thì Tử Thần càng đến gần. Càng tránh đau đớn thì đau đớn càng nhiều. Con người có sinh ắt có tử. Đó là định luật của Đấng tạo hóa đã an bài, không ai biết được mình sẽ ra đi vào ngày giờ tháng năm nào và ở đâu. Con người không chọn và không đinh được ngày giờ ra đi. Chưa ai có kinh nghiệm bản thân về sự chết dầu đã nhiều lần chứng kiến sự ra đi của nhiều người, thì cũng vẫn là người ngoại cuộc. chứng kiến chưa phải là kinh nghiệm Sự chết là một huyền nhiệm, con người không thể hiểu và chia sẻ với người khác. Trong sự chết con người hoàn toàn cô đơn, nó không hẹn ngày, không chỉ giờ cho ai cả. No không ấn định năm tháng, cũng chẳng đếm xỉa gì đến tuổi tác, nó đến bất ngờ làm chúng ta kinh ngạc. Sự sống và sự chết là hai thái cực đối chọi nhau. Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Con người không thể làm ra được sự sông cũng như không tài nào ngăn đợc sự chết Cái chết như một huyền nhiệm, một cõi đi về đi ngày tái ngộ trong cõi vĩnh hằng. Một giai đoạn kết thúc thời kỳ hành hương để bước vào bến bờ mong đợi. Đứng trước cái chết của người htân, trước sự chia xa vĩnh viễn với cuộc đời dương thế của những người đã từng chung sống… Đức Kitô đã đi vào trần gian trong thân phận con người. Người đã kinh qua khổ đau khiếp người bằng cái chết thập giá là phục sinh. Người đã tiêu diệt nguồn gốc sự chết, đem lại cho người một cái nhìn, một quan niệm mới mẻ và đầy hy vọng (Ep 5, Col 2, 12 3, 1, rm 4, 25 5, 9 6,9-11; 7, 4) Cái chết của Đức Kitô đã trở nên của lễ hiến dâng trọn vẹn, một lế hy sinh tuyệt hảo. Tất cả sự cay đắng chua xót, tất cả sự lo âu phiền muộn của sự chết đã trở thành phẩm vật tặng hiến cao quí, và giờ chết trở thành giờ chiến thắng, giờ khởi điểm của hạnh phúc trường sinh. Đó là niềm hy vọng kitô giáo, vì tin vào lời Chúa Kitô : “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy thì dù đã chết cúng sẽ được sống, và ai sống và tin vào thầy thì sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11, 25-26 1 Ga 3, 14. Sự sống thay đổi chớ không mất đi. Đối với Ki-tô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi ( Rm 5, 12; 6, 23 ). Nhưng Thiên Chúa, “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: Thầy là sự sống lại và là sự sống. Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống. Sinh sắp tới, Đức Giê-su sẽ hoàn tất măc khải này. Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Đấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Ki-tô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết ( 1 Cr 15, 14 ). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Đức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” ( 1 Pr 2, 24 ). Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Đức Giê-su không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Ki-tô đã được Thần Khí hoá ( Rm 8, 11; 1 Pr 3, 18 ), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa ( Rm 6, 10 ) Niềm tin vào Đức Giê-su, Đấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Với niềm hy vọng và tin tưởng như thế… Tuy nhiên, trong cái chết của người Kitô hữu, đặc biệt trong cử hành Phụng vụ Tang lễ của những người tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, lại toát lên một vẻ khác thường: Niềm hân hoan của cuộc hành hương về nhà cha, nổi vui của ngày đoàn tụ... “Khi Chúa thương gọi tôi về, lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ…”. Đặc biệt, chính trong trích đoạn Lời Chúa của Sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe, không chỉ loan báo một tín thư an ủi nhưng là một khẳng định, một tuyên tín của tin yêu và hy vọng: “Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa…Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy…Những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn”. (BĐ 1) Phải chăng, đó là một cắt nghĩa rõ nét và chính xác của mầu nhiệm cứu độ trong Chúa Kitô, mầu nhiệm “Vượt Qua từ cõi chết đến sự sống vĩnh hằng” mà dụ ngôn “hạt lúa mì gieo vào lòng đất thối rửa đi sẽ sinh nhiều bông hạt” lại là một cách diễn tả khác của Tin Mừng như chúng ta vừa nghe. Vâng, đối với chúng ta, những người được dìm xuống trong dòng nước tái sinh của nhiệm tích Thánh Tẩy, để được chỗi dậy cùng với Đấng Phục Sinh, chết chính là cuộc hồi hương tìm về tổ ấm, là đĩnh đạc đi vào quê hương hằng sống để sống hạnh phúc miên viến, là cuộc tiến bước vào nhà cha, căn nhà chính Đấng Cứu Độ đã ra công dọn sẵn: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em…để Thầy ở đâu anh cũng sẽ ở đó” (Ga 14,3). Và cách riêng, cái chết của một linh mục, một linh mục thánh thiện đạo đức, đã hoàn tất sứ vụ của mình, như cha cố Phêrô Tuần Maria Nguyễn Cao Hiên của chúng ta đây, lại càng làm cho dấu chỉ nầy trở nên đầy thuyết phục và rõ nét. Tuy nhiên, để trả giá cho cái ngày chung cuộc tuyệt vời hôm nay, cha Phêrô Tuần Maria đã phải trãi qua một cuộc hành trình dương thế đầy nhiêu khê và phấn đấu của 87 năm cuộc sống làm “Ecce Homo” và 59 năm cuộc đời của một “Alter Christus”. chúng ta sẽ được sẻ chia nhiều giai thoại, nhiều bài học quí giá để làm hành trang cho cuộc đời linh mục và cho tất cả những ai muốn sống trọn vẹn những chân lý của Tin Mừng; nhất là Tin Mừng về bác ái hy sinh, Tin mừng về khiêm hạ phục vụ, Tin mừng về khó nghèo trinh khiết, Tin mừng về tình yêu nồng cháy đối với Chúa Giêsu Thánh Thể và tình yêu chân tình huynh đệ đới với những người nghèo… Giới hạn của thân phận người mõng dòn, yếu đuối để sẵn sàng phó thác trong tin yêu khiêm hạ”, là “đủ tìm thấy nụ cười và niềm vui trong chính nổi đau trong tâm hồn và trên thân xác”, đặc biệt những cơn đau dữ dằn của căn bệnh ung thư giai đoạn cuối… Và sau khi được lãnh các bí tích sau hết, ngài đã ôn tồn nói với vị linh mục trẻ: “Đẹp làm sao cái chết của một linh mục hoàn tất trách nhiệm của mình”. Trong nổi đớn đau của bệnh tật hành hạ thân xác, Cha Giuse có những xao xuyến âu lo. Nhưng Ngài vẫn an nhiên, bình thản đón nhận những thử thách cuối cùng của đời người,với niềm tin với lòng mến vào Đức Kitô. Ngài ra đi, được an nghĩ trong Chúa như lời sách Khải Huyền đã nói: “ Ngay từ bây giờ,phúc thay những người đã chết mà được chết trong Chúa ! Thần Khí phán: phải, họ sẽ được nghĩ ngơi,không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo họ” ( Kh 14,13). Cố linh mục Giuse đã hoàn thành cuộc đời trong tuổi thọ đáng kính,dù có bệnh tật cuối đời,nhưng phận người là sinh lão bệnh tử.Cuộc đời Giáo sư, Mục tử trong hành trình phục vụ 50 năm, cha Giuse đã góp phần đào tạo bao thế hệ linh mục và chăm sóc các đàn chiên Chúa trao. Đó là hành trang theo Ngài về cùng Đấng Hằng Sống. Chính Đức Giêsu đã bước qua ngưỡng cửa sự chết,Người đã sống lại, chiến thắng tử thần và trao ban sự sống mới cho nhân loại.Mỗi người con cái Chúa cũng bước qua ngưỡng cửa sự chết mới có thể đi vào sự sống vĩnh hằng trong Nhà Cha. Khi nói về cái chết của mình, Đức Giêsu dùng kiều nói: “ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha” ( Ga 16,28).Cái chết như vậy là ngưỡng cửa bước qua để hội ngộ,người ra đi để rồi gặp gỡ Đấng sinh thành nên mình.Đó là một cuộc trở về Nhà Cha thật sự.Sự chết là khởi đầu một sự sống mới,sự sống vĩnh hằng trong Nhà Cha.Phụng vụ diễn tả: Đối với các tín hữu Chúa,sự sống này thay đổi chứ không mất đi,khi thân xác tan rã trở về bụi đất,thì con người lại có một nơi ở mới do Chúa dựng nên,đó là ngôi nhà vĩnh cửu trên trời,không do tay người phàm làm ra ( 2 Cor 5,1).Quan tài là chiếc áo,là nhà tạm cho thân xác yếu hèn hay hư nát của con người cư ngụ để chờ ngày phục sinh trong quyền năng vinh hiển của Chúa Cha.Thánh Phaolô nói lên niềm hy vọng lớn lao: gieo xuống thì hư nát mà trỗi dậy thì bất diệt,gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang,gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẻ,gieo xuống là thân thể có sinh khí mà trỗi dậy là thân thể có thần khí ( 1 Cor 15,42 – 44).
Tuổi già là một ân huệ. Kinh Thánh đã ca tụng tuổi già vì tuổi già là hồng ân của Thiên Chúa, là phúc lành của Chúa (x. St 11,10-32 ; Kn 4, 7-15), người già được kính trọng bởi “người đầu bạc thì khôn ngoan”. Sách Châm ngôn cũng nói :”Đầu bạc là một triều thiên vinh dự” (Cn 16,31)3. Thánh vịnh cũng ca tụng :”Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta : già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn, để loan truyền rằng : Chúa thực là ngay thẳng, là núi đá cho tôi ẩn náu, nơi Người chẳng có chút bất công” (Tv 92,13-16). Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng nói :”Được sống đến tuổi già là một ân huệ. Không phải vì tất cả mọi người có thể sống đến tuổi này, nhưng vì trước hết, tuổi già cho chúng ta khả năng đánh giá quá khứ, được hiểu và sống mầu nhiệm Phục sinh một cách sâu xa hơn, và được trở nên kho tàng kinh nghiệm quý báu cho Giáo hội”.
Quan niệm chung. Không hiểu sao cả người Trung hoa và người Việt nam lẫn người của Kinh Thánh đều lấy cái mốc 70. Người Trung hoa và Việt nam thì nói :”Nhân sinh thất thập cổ lai hy” nghĩa là hiếm ai sống được bảy mươi tuổi. Còn Kinh Thánh thì nói : Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, Mạnh giỏi chăng là được tám mươi, Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi. (Tv 89, 10)
TUỔI GIÀ VÀ ĐẠO ĐỨC. Con người sinh ra, sống và phải già đi, đó là lẽ thường trong cuộc sống con người, nhưng tuổi già phải có một cái gì để lại, không lẽ nói như thi sĩ Nguyễn công Trứ :”Không lẽ tiêu lưng ba vạn sáu”. Vì thế George Granville nói :” Tuổi trẻ là mùa của yêu thương, Tuổi già là mùa của ĐẠO ĐỨC. Và Sully Prudhomme gọi tuổi già là “tuổi cứu thoát” (âge sauveur). Tuổi già có thể trở thành một giai đoạn qúi nhất của cuộc đời. Có người nói :”Chúa định cho sức mạnh và vẻ đẹp của tuổi trẻ là ở thể chất. Nhưng sức mạnh và vẻ đẹp của tuổi già là trong tâm linh. Dần dần chúng ta mất sức mạnh và vẻ đẹp tạm thời để tập trung vào sức mạnh và vẻ đẹp tồn tại mãi mãi. Ta nên sống thế nào để đến khi thân xác ta không còn tươi trẻ nữa, ta có thể nói rằng những năm già yếu là những năm vàng son của cuộc đời”. Phải làm một cái gì để lại cho hậu lai, đừng để cho cuộc sống mình trôi đi trong vô ích. Người Ấn độ có một câu ngạn ngữ rất hay :”Trước khi chết, nếu anh trồng được một cây để lại, thì đời anh kể là đã có ích”. Cây đây có thể hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng chúng ta nên để ý đến nghĩa bóng của nó, nghĩa là chúng ta phải sống để làm ích cho người khác, nếu chỉ biết sống co cụm lại, chỉ biết tìm lợi ích cho bản thân mình thì cuộc đời mình sẽ trở nên vô ích. Cây đây phải hiểu là cây đức hạnh, phải có một cuộc sống gương mẫu để lại cho con cháu : Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời mai sau. (Ca dao) Chúng ta không có tài liệu nói về cuộc đời của hai Đấng, nhưng cứ theo nguyên tắc “xem quả biết cây” thì chắc chắn hai vị thánh đã có một đời sống thánh thiện mới có thể đem lại cho chúng ta một con người thánh thiện như vậy, vì : Cây xanh thì lá cũng xanh, Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Mừng cây rồi lại mừng cành, Cây đức lắm chồi, người đức lắm công. ( Ca dao)
Điều bí ẩn nhất về thân phận con người là sự chêt. Không những con người băn khoăn day dứt vì thân xác phải đau khổ và hao mòn dần, mà còn hơn nữa băn khoăn vì sợ phải bị tiêu diệt vĩnh viễn. Con người xét đoán thật đúng theo linh tính của lòng mình, khi khiếp sợ và lẩn tránh sự hủy diệt hoàn toàn và ra đi vĩnh viễn của bản thân. Con người chống lại sự chết vì mang trong mình mầm mống của vĩnh cửu không thể bị thu gọn lại trong vật chất mà thôi. Mọi cố gắng lớn lao của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể xoa dịu nổi mối lo âu của con người: cuộc sống thể xác có kéo dài đến mấy cũng không thỏa mãn được khát vọng sống mãi vẫn hằng tiềm ẩn sâu xa trong lòng người. Khi mọi trí tưởng tượng đều bất lực trước sự chết thì Hội Thánh, nhờ được mặc khải chiếu soi, khẳng định rằng con người đã được dựng nên để đạt tới cùng đích hạnh phúc, sau khi vượt qua giới hạn cuộc đời khổ ải. Hơn nữa, đức tin Ki-tô giáo còn dạy rằng sự chết về thể xác mà lẽ ra con người đã có thể tránh nếu không phạm tội, vẫn có thể được khắc phục, khi nhờ Đấng Cứu Tinh quyền năng và lân tuất, con người lấy lại được ơn cứu độ đã mất do lỗi của mình. Quả vậy, Thiên Chúa đã và đang kêu gọi con người hết mình gắn bó với Người, nhờ tham dự vào sự sống thần linh bất diệt. Chiến thắng ấy, Đức Ki-tô đã đạt được khi sống lại, nhờ giải thoát con người cho khỏi chết bằng cái chết của mình. Vậy, bằng những luận chứng vững chắc, đức tin Ki-tô giáo đem lại câu trả lời cho bất cứ ai đang băn khoăn suy nghĩ về số phận tương lai của mình, đồng thời cũng cung cấp cho khả năng thông hiệp với các anh em thân mến đã lìa đời trong Đức Ki-tô, khi cho chúng ta hy vọng rằng họ đã đạt được sự sống đích thực nơi Thiên Chúa. Quả vậy, người Ki-tô hữu cần phải chống lại sự dữ ngay cả khi chịu đựng gian nan thử thách, và phải chấp nhận cả cái chết nữa. Nhưng vì được dự phần vào mầu nhiệm Vượt Qua, được nên đồng hình đông dạng với cái chết của Đức Ki-tô, được củng cố nhờ đức cậy, họ tiến lên đón nhận ơn phục sinh. Điều nói trên đây không chỉ có giá trị đối với các tín hữu của Đức Ki-tô, mà còn có giá trị đối với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, những người được ơn thánh tác động vô hình trong tâm hồn. Quả vậy, vì Đức Ki-tô đã chết cho mọi người, và ơn gọi cuối cùng của mọi người chỉ là một, nghĩa là ơn được Thiên Chúa kêu gọi, nên chúng ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua ấy, theo cách mà Thiên Chúa biết. Đó là phẩm chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người mà các tín hữu đã được mặc khải Ki-tô giáo soi sáng cho. Vì vậy, nhờ Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, điều bí ẩn về sự đau khổ và về cái chết được làm cho sáng tỏ; điều bí ẩn đó sẽ đè bẹp chúng ta, nếu chúng ta không có Tin Mừng của Người. Đức Ki-tô đã sống lại, Người đã lấy cái chết của mình mà hủy diệt cái chết và ban cho chúng ta sự sống, để một khi trở nên những người con trong Người Con, thì nhờ Thánh Thần, chúng ta kêu lên: Áp-ba! Cha ơi!
Lm. Đaminh Nguyễn Đức Hạnh, S.J. Ga 14:1-6 14:1 Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 14:2 Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 14:3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 14:4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi”. 14:5 Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” ***
Thế giới chúng ta đang sống hiện đang có khoảng 7 tỉ người. 7 tỉ người là 7 tỉ hoàn cảnh và phận sống khác nhau, người sang, kẻ hèn; người khỏe mạnh, kẻ đau yếu; người hạnh phúc, kẻ buồn phiền, người đang an nhàn, thư thái, kẻ đang vất vả, long đong. Nhưng dù cho cuộc sống, hoàn cảnh sống có khác biệt nhau thế nào chăng nữa, thì mọi người cùng chia sẻ một mẫu số chung: đó là cái chết. Điều mà mọi phận người phải đối diện, dù có muốn hay không. Tuy vậy, quan điểm nhìn về cái chết của con người rất khác nhau. Quan điểm ấy ảnh hưởng rất nhiều đến thái độ và cung cách sống ở đời của mỗi người. Với những anh chị em không tin vào cuộc sống đời sau, thì cái chết là sự vô nghĩa cuối cùng của cuộc sống. Đó là dấu chấm hết cưỡng bách và phũ phàng của phận người, mà bản thân người sắp chết cũng như những người thân yêu phải chấp nhận trong sự bất lực tuyệt đối. Vậy nên, những giọt nước mắt chảy ra trong ngày tang lễ của những người không có niềm tin là những giọt nước mắt của chia ly, đau khổ và tuyệt vọng. Điều này rất dễ dẫn đến lối sống: mọi chờ mong, kiếm tìm cuộc đời sẽ dừng lại trên mặt đất này. Cuộc sống dễ bám víu những vật chất, hưởng thụ, hoan lạc trần thế, chăm lo cho ích lợi nhỏ bé của bản thân, và rất khó mở ra với cuộc đời. Nếu thực sự kiếp con người chỉ là thế, thì thật đáng buồn và nghèo nàn biết bao! Nhưng đó không phải là quan điểm, là thái độ sống của những người có niềm tin, đặc biệt là niềm tin của những Kitô hữu. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc Đức Giêsu công bố một mặc khải đầy hy vọng khi Người nói với các môn đệ về cái chết của chính Người. Đức Giêsu khởi đầu mặc khải bằng sứ điệp của bình an và hy vọng. Sự bình an chỉ có được khi tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu. “Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy!.. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở… Thầy đi để dọn chỗ cho anh em… để Thầy ở đâu, anh em sẽ ở đó với Thầy.” Đức Giêsu nói về cái chết của mình cách nhẹ tênh. Vì với Người, cái chết chỉ là một bước chuyển tiếp, chứ không là ngõ cụt. Đời này: hữu hạn và qua đi, đời sau: vĩnh cửu, trường tồn. Cuộc sống đời sau trở thành nơi hẹn hò mà các môn đệ của Đức Giêsu được gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Với niềm tin ấy, giọt nước mắt nếu có chảy ra trong ngày tang lễ của người Kitô hữu, sẽ không là giọt nước mắt của khổ đau và tuyệt vọng, nhưng là nước mắt của hoan lạc và khích lệ. Sứ điệp mặc khải của Đức Giêsu ban cho người ai tin vào Người một thái độ sống khác hẳn. Nó mời gọi họ không quay vào với nhu cầu bản thân, mà mở ra với cuộc đời. Trần thế không phải là nơi định cư, mà chỉ là chốn lữ hành để đạt đến cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Cái chết không phải như một sự cuộc chia ly làm tan nát cõi lòng, nhưng chỉ như hạt giống phải gieo vào lòng đất để trổ sinh một vụ mùa bất tận. Cái chết của một người có và sống niềm tin còn là một lời mời gọi những người thân yêu còn đang sống, biết sống tốt lành những cương vị Thiên Chúa trao cho mình. Để có thể gặp lại người thân yêu, mà có khi, mình đã phải chia tay trong nước mắt. Nơi gặp gỡ này, vĩnh viễn không còn chia lìa, không còn xa cách, chẳng còn khổ đau. Như vậy, cái chết trở thành niềm vui, vì qua ngưỡng cửa ấy, mọi người bước vào nơi hò hẹn. Sứ điệp đó lại một lần nữa vang vọng với mỗi người chúng ta hôm nay, vì chúng ta cùng có mặt nơi đây để đưa tiễn một người cha, người thầy, người bạn, người thân yêu chúng ta về cùng Thiên Chúa: Cha Giuse Đỗ Quang Chính. Cha vừa khép lại lịch sử của 1 đời tông đồ phong phú, đầy nhiệt huyết, năng động và nhiều hoa trái. Với 83 năm tuổi đời, 54 năm phục vụ trong chức linh mục, cha đã cử hành các bí tích, linh hướng, cho linh thao, nghiên cứu, viết sách, thuyết trình, dạy học, cho nhiều chủng viện, đại học, dòng tu nam nữ, thuộc đối tượng khác nhau, ở những miền khác nhau của đất nước. Riêng bản thân con, một người con nhỏ có được rất nhiều kỷ niệm với cha. Được chính cha giới thiệu vào dòng Tên vào những năm đầu của thập niên 90, được cha linh hướng trong hơn 2 năm, có cơ hội học và sống cùng với cha tại Hiển Linh, khi cha làm giáo sư rồi làm Viện Trưởng Học Viện Dòng Tên 1999-2001, trong những năm học triết và thần học. Giai đoạn này không còn thời điểm sung sức của cha nữa, nhưng đời sống của cha lại cho thế hệ của chúng con 1 ấn tượng rất đẹp. Khi cử hành các bí tích, các giờ cầu nguyện, con người cha toát lên nét thánh thiện của người kết hợp sâu xa với Đức Kito. Cha cần cù trong công việc, sâu sắc trong suy tư, cẩn trọng trong lời nói, đơn giản trong lối sống, khôn ngoan trong khuyên dạy, khiêm tốn khi phải nói về mình, hồn hậu trong giao tiếp. Cha luôn giữ cho mình được sự an bình. Những ai gặp khó khăn khủng hoảng, khi gặp cha đều được cha lắng nghe, giúp phân tích có tình có lý, cho lời khuyên xác đáng, khiến sự việc bỗng trở nên sáng tỏ, nhẹ nhàng. Năm 2006, vì lý do sức khỏe, cha nghỉ hưu hoàn toàn. Từ 2008, cha đau liệt trên gường bệnh. Cuộc đời cha bước qua 1 giai đoạn khác: Giai đoạn chia sẻ thập giá với Đức Kito. Về Không Gian: khi còn khoẻ mạnh, không gian phục vụ của cha xa rộng bao nhiêu. Những ngày cuối đời, không gian ấy nhỏ lại bấy nhiêu. Lúc đầu còn quanh quẩn trong cộng đoàn nhà hưu. 4 năm cuối đời, không gian cuộc đời của cha chỉ còn là chiếc giường bệnh nhỏ. Nhà nguyện, nơi cha vẫn hằng lui tới, chỉ cách phòng cha có vài bước chân, đã trở thành quá xa. Không gian thu hẹp lại đến mức cô đơn, như quê hương bắt buộc của cha. Nhưng, nhờ niềm tin mạnh liệt, cha đón nhận tất cả trong bình an. Về Thời Gian: khi còn khỏe mạnh, thời gian trước kia của cha rộng mở. Cha lên kế hoạch cho mình tính theo năm rộng, tháng dài. Những ngày cuối đời, cha đếm thời gian từng giờ, từng phút. Thời gian như mòn mỏi. Sự sống của cha mong manh như lá úa chờ rụng xuống. Cha biết Chúa sẽ đến, nhưng ngày nào giờ nào, cha không biết. Cha chờ đợi với rất nhiều đau đớn của bệnh tật, mà không 1 lời than trách. Sự chịu đựng đau đớn, bệnh tật cách kiên cường đó đã nêu gương sáng lớn cho anh em trong dòng. Cuối cùng, lúc 3:30 chiều Chúa Nhật ngày 05/02/2012, sau 4 năm đau liệt, xét thấy những khổ đau cha chịu đã quá đủ, Chúa đã gọi cha về, khép lại lịch sử 1 đời người dài 83 năm, 54 năm linh mục, 46 năm sống đời thánh hiến trong dòng Tên. Cuộc sống không quá khắc nghiệt với cha nhưng cũng không nhiều ưu đãi. Những biến động của thời cuộc, có lúc đã đưa cha vào những hoàn cảnh rất khó khăn, không hù hợp với ơn gọi tu trì. Cha đã cố gắng sống tròn trịa niềm tin của mình ngang qua bao thăng trầm của thời cuộc, thăng trầm của đời riêng. Cha đã đi đến cùng đường và vẫn giữ vững đức tin. Vào đời trong tư cách một Kitô hữu, và ra đi cũng trong tư cách ấy. Giờ đây, cha đã hoàn tất cuộc hành trình khó nhọc trên trần thế này, để đi vào cõi vĩnh hằng. Chúng ta, những người bạn, người cộng sự, thân quen, học trò, và những người anh em dòng Tên Việt Nam xin chân thành cám ơn cha. Cuộc đời cha là 1 quà tặng cho chúng ta. Cha là quà tặng cho anh em dòng Tên Việt Nam. Cuộc đời cha toát lên lời kinh quảng đại của thánh tổ Phụ I Nhã: cuộc đời cho đi mà không tính toán, chiến đấu không ngại thương tích, làm việc không tìm nghỉ ngơi, hiến thân mà không chờ phần thưởng nào hơn là được biết mình đang thi hành Ý Chúa. Trong thánh lễ tiễn biệt này, chúng ta cùng cầu chúc cha đi được yên bình, cùng cầu nguyện cho đôi tai cha được nghe câu nói ngọt ngào của Thiên Chúa hằng sống, Đấng mà suốt cả cuộc đời cha đã kiếm tìm và phụng sự: “hỡi người tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng hạnh phúc với chủ ngươi.” Xin cha, từ trong cung lòng yêu thương của Thiên Chúa, nhớ cầu nguyện cho Quê Hương, giáo hội Việt Nam nơi cha suốt đời phục vụ; cầu nguyện cho dòng Tên Việt Nam, nơi cha hơn nửa đời gắn bó, cầu nguyện cho mọi người thân quen xa gần. Chúng ta cùng cầu nguyện cho chính chúng ta, người còn đang phải hoàn tất cuộc hành trình lịch sử đời mình, biết sống tốt lành, tận tụy với cuộc sống này, với những trách nhiệm Chúa đã trao riêng. Để khi giây phút kết cục đời chúng ta đến, cũng chính là lúc chúng ta được thưa Amen cuối cùng ở trần thế này, và được cùng với cha Giuse, hát tiếng Hallêluia đầu tiên trên thiên quốc, để ngợi ca lòng thương xót và tình Chúa yêu thương. Amen.
Ðời người không đáng là bao, và tất cả những gì có cùng có hạn đều chẳng đáng là bao. Sẽ đến lúc mà một người xem ra rất lớn lao đối với ta sẽ không còn nữa, lúc mà người ấy sẽ như một em bé chưa được sinh ra, lúc mà người ấy không còn nữa. Người ta có sống trên đời này lâu dài bao nhiêu, cho đi một nghìn năm, thì rồi cũng đến ngày hết hạn. Chỉ có thời gian tôi sống mới làm cho tôi khác với những gì chưa xuất hiện bao giờ, nhưng cái khác biết này cũng quá nhỏ nhoi, vì cuối cùng tôi cũng sẽ hòa tan vào cái gì không có, và rồi sẽ đến ngày chẳng những hình như tôi đã có, và tôi có sống được bao lâu đi nữa thì cũng chẳng đáng kể là bao, vì tôi sẽ không còn nữa. Tôi bước vào cuộc đời với định luật là phải ra khỏi đời này, tôi đến đóng vai trò của tôi, tôi đến để trình diễn như mọi người: rồi sau đó, tôi phải biến đi. Tôi đã thấy nhiều người đi qua trước tôi, rồi những người khác sẽ thấy tôi đi qua; rồi chính những người này cũng hiến cho những người đến sau họ một cảnh tượng tương tự; và cuối cùng tất cả mọi người đều sẽ đến hoà mình trong cái hư vô. Cuộc đời tôi sống được tám mươi tuổi là cùng; cho được một trăm tuổi đi nữa, đã có một lúc tôi chưa có! Và đến một lúc tôi sẽ không còn nữa! Và thời gian tôi sống, tôi chiếm một chỗ quá ít ỏi trong vực thẳm vĩ đại của thời gian! Tôi chẳng là gì cả; cái khoảng thời gian ngắn ngủi đó không thể làm cho tôi khác biệt nhiều với cái hư vô mà tôi phải đi đến. Tôi đã đến trong cuộc đời để cho thêm một con số, mà rồi người ta cũng chẳng biết làm gì với tôi; và vở hài kịch sẽ được diễn xuất chẳng kém hơn, một khi tôi sẽ trở vào hậu trường sân khấu. Vai trò tôi phải diễn xuất thì quá nhỏ nhoi trên đời này, và quá ít quan trọng đến nỗi, khi tôi nhìn kỹ, tôi có cảm tưởng là một giấc mộng đã thấy tôi có ở đây, và tất cả những gì tôi thấy cũng chỉ là điều hão huyền: “Bộ mặt thế gian này đang biến đi.” (1 Cor 7, 9). Ðường đời tôi đi chỉ được tám mươi năm là cùng, và để đi đến đó, tôi phải vượt qua biết bao nhiêu hiểm nguy, biết bao nhiêu bệnh tật, v.v..? Vì đâu mà cuộc hành trình ấy đã không ngừng ở mỗi giây phút? Tôi đã không nhận ra bao nhiêu lần tôi phải ngừng sao? Tôi đã thoát chết ở cuộc gặp gỡ này ở cuộc gặp gỡ nọ: nói tôi thoát chết là nói sai; tôi tránh được hiểm nguy này, nhưng không phải tránh được cái chết: cái chết đang giăng nhiều cạm bẫy đủ loại trước mặt chúng ta; nếu tránh được cạm bẫy này, chúng ta lại rơi vào cạm bẫy khác; cuối cùng chúng ta phải rơi vào hai cánh tay của thần chết. Giống như tôi trông thấy một cây to bị gió đánh nghiêng ngả, có nhiều lá rụng xuống từng lúc; có những lá cầm cự được lâu hơn, có những lá khác chịu đựng được ít hơn: mà nếu có những lá cầm cự qua được cơn giông tố, thì luôn luôn mùa đông sẽ đến làm cho chúng héo đi và rụng xuống đất, hoặc như trong một cơn bão lớn những người này bất thần bị ngạt thở, những người khác nằm trôi trên mảnh ván chịu buông xuôi theo làn sóng; và lúc mà họ tưởng đã thoát khỏi mọi hiểm nguy, sau khi đã cầm cự được khá lâu, thì một ngọn sóng đẩy họ đập vào một tảng đá ngầm, thế là tan xác. Cũng vậy, một số đông người chạy cùng một con đường đời, chỉ có vài người mới chạy được đến cùng; nhưng sau khi đã tránh được những cuộc tấn công khác nhau của thần chết, đã đến được cuối cuộc hành trình mà họ đã vươn tới giữa biết bao nhiêu nguy hiểm, họ lại gặp ngay thần chết và rút cục ngã quỵ ở cuối hành trình: đời họ vụt tắt như cây nến đã tiêu hao hết chất đốt của nó. Cuộc đời tôi sống được tám mươi năm là cùng; và trong tám mươi năm ấy, có bao nhiêu năm được gọi là đáng kể trong cuộc sống của tôi? Giấc ngủ thật giống như cái chết; thời thơ ấu là cuộc sống của một con vật. Bao nhiêu thời gian của thời thanh xuân, tôi muốn xoá đi? Và khi tôi có tuổi, tôi còn muốn xoá đi bao nhiêu nữa! Thử tính xem tất cả thời gian ấy thu lại còn được cái gì? Vậy tôi sẽ đếm được những gì? Vì tất cả những thứ ấy sẽ không còn nữa. Thời gian mà tôi cảm thấy thoả thích, thời gian mà tôi có được vài danh vọng chăng? Nhưng thời gian ấy đã quá thưa thớt trong cuộc sống của tôi biết bao! Nó tựa như những cái đinh được đóng vào một bức tường dài, trong một khoảng tường nào đó: có lẽ bạn nói là những cái đinh đó chiếm nhiều chỗ quá, thu nhặt lại thì chúng chẳng chiếm được cả lòng bàn tay. Nếu tôi loại đi khỏi đời tôi giấc ngủ, các bệnh tật, các nỗi lo âu và bây giờ tôi thử tính tất cả thời gian mà tôi có được vài thoả thích hoặc vài danh vọng, thì cái thời gian đó đưa tới được cái gì? Nhưng các thoả thích ấy, tôi có được cùng một lúc không? Tôi được nó có khác gì hơn là những thoả thích vụn vặt? Nhưng tôi có được những thoả thích ấy mà không vướng một lo âu nào, và nếu có lo âu, tôi sẽ đặt những thoả thích ấy vào thời gian mà tôi quý trọng hay vào thời gian mà tôi không kể đến? Và khi đã không có được thời gian ấy cùng một lúc thì ít ra tôi có được thời gian thoả thích ấy tức khắc không? Chẳng phải nỗi lo âu luôn luôn chia tách hai lần thoả thích ra sao? Chẳng phải nỗi lo âu luôn luôn gieo trở ngại để ngăn cản các lần thoả thích không nối liền với nhau sao? Nhưng các thoả thích ấy còn để lại gì cho tôi? Những thú vui chính đáng thì chỉ là một kỷ niệm vô ích; những thú vui bất chính thì lại là một mối ân hận, là một sự ràng buộc dẫn tới hỏa ngục hoặc là phải sám hối, v.v… A! Ta rất có lý mà nói rằng ta sống cho qua thời giờ! Thật vậy, ta sống cho qua thời giờ và ta qua đi với nó! Tất cả con người tôi thu gọn trong một giây lát; và đó là điều phân cách tôi khỏi cái hư vô; giây lát ấy trôi qua, tôi bắt lấy giây lát khác; giây lát này trôi qua sau giây lát khác, tôi nối kết giây lát này với giây lát kia, cố gắng làm cho mình an tâm, mà tôi không nhận thấy rằng những giây lát ấy đang từ từ lôi cuốn tôi đi với chúng, và tôi sẽ thiếu thời gian, chứ không phải thời gian thiếu tôi. Cuộc đời tôi là thế đó; và điều đáng ghê sợ là nó trôi qua đi đối với tôi, chứ trước mặt Chúa, nó vẫn tồn tại. Nhưng sự việc này liên quan đến tôi. Cái gì thuộc về tôi, nhưng cái tôi có tùy thuộc vào thời gian,vì chính bản thân tôi cũng tuỳ thuộc vào thời gian; nhưng cái tôi có thì thuộc về Chúa, trước khi tôi xuất hiện; nó tùy thuộc Thiên Chúa trước khi tùy thuộc thời gian; thời gian không thể lôi nó ra từ thế giới của mình, vì thế giới ấy ở trên thời gian; đối với Chúa, những cái đó vẫn tồn tại và được kể vào kho tàng của Người. Ðiều gì tôi sẽ đặt vào trong kho tàng ấy, tôi sẽ tìm thấy lại, điều gì tôi làm trong thời gian, sẽ từ thời gian mà đi vào vĩnh hằng; vì lẽ rằng thời gian nằm trong cái vĩnh hằng và dưới cái vĩnh hằng, cũng dẫn đến vĩnh hằng. Tôi chỉ được hưởng những giây lát của cuộc sống này trong lúc nó trôi qua; khi chúng trôi qua rồi, tôi phải chịu trách nhiệm như thể chúng vẫn còn tồn tại. Nói như vậy chưa đủ các giây lát ấy đã qua, tôi không còn nghĩ đến nữa. Chúng đã trôi qua, quả thế, đối với tôi, nhưng không phải thế, đối với Thiên Chúa; và Người sẽ đòi tôi phải trả lẽ. Vậy, hỡi linh hồn tôi, cuộc đời này có phải là cái gì đáng kể lắm không? Và nếu cuộc đời này chẳng đáng kể là bao, vì nó sẽ qua đi, thì những thú vui không kéo dài cả đời sống và sẽ qua đi trong chốc lát có nghĩa lý gì? Nó có đáng để ta bị đoạ đày không? Nó có đáng để ta bỏ ra bao nhiêu công lao vất vả, để ta tỏ bày bao sự khoe khoang không? Lạy Chúa, con hết lòng quyết tâm suy nghĩ về cái chết, mỗi ngày, trước mặt Chúa, ít nữa trước khi đi ngủ và lúc mới thức dậy. Với suy tưởng này: “Tôi có ít thời gian, nhưng lại có nhiều điều phải làm, có thể tôi còn có ít thời gian hơn tôi tưởng,” tôi sẽ ngợi ca Chúa đã lôi kéo tôi ra nơi đây để nghĩ đến việc ăn năn thống hối, và tôi sẽ thu xếp công việc của tôi, để nghĩ đến việc xưng tội, đến những việc đạo đức cách nghiêm chỉnh, với nhiều can đảm và cần mẫn; suy nghĩ không phải đến những gì qua đi, mà đến những gì còn tồn tại.
Tin tức đau thương dồn dập xảy ra trên quê hương Việt Nam thân yêu, tại các tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình và các tỉnh lân cận. Trong tháng qua nơi những vùng nghèo khổ nhất của đất nước đã xảy ra thiên tai bão tố và trận lụt chết người, ruộng vườn nhà cửa, trầu bò súc vật bị cuốn trôi theo dòng nước. Đầu tháng mười, trận bão lụt thứ nhất đã cướp mất 64 mạng người và thiệt hại về của cải thì vô kể. Rồi tuần vừa qua từ ngày 25 tháng 10, 2010, nước lũ lại ngập tràn lần nữa, đã kéo theo cả chiếc xe đò gồm 18 người chết ngộp chìm trong xe và trong vài ngày qua tổng cộng là 59 người đã ra đi và trên 150 ngàn ngôi nhà bị ảnh hưởng tàn phá lũ lụt. Chúng ta biết mỗi một mạng người là một sự sống, họ có gia đình, họ hàng, thân tộc và có một cuộc đời. Thiên tai bão lụt đã cắt đứt sự sống và giây liên đới ràng buộc con người. Làm sao chúng ta có thể diễn tả và cảm thông được nỗi đau đớn mất mát này. Người chết ra đi trong giá lạnh, người còn thì trắng tay. Trong tháng Các Linh Hồn, chúng ta dùng đôi phút suy gẫm về sự đau khổ và sự chết.
1. Sợ Chết Thiên Chúa cho con người được có sự sống và hiện hữu trên thế gian. Đây là một hồng ân vô cùng cao quý. Mỗi người chúng ta được mở mắt chào đời và được đồng hành với nhân loại trong một khoảng thời gian và không gian. Không một thụ tạo nào được sống mãi. Có sinh thì có tử. Có lúc bắt đầu rồi sẽ có lúc kết thúc. Chúng ta không đi ra ngoài quy luật tự nhiên này. Chúng ta không thể bám víu vào cái thế giới hay thay đổi và sẽ qua đi này. Vũ trụ chung quanh luôn thay đổi, mọi loài thụ tạo cũng thay đổi không ngừng. Muôn vật đều xuôi theo một dòng chảy. Sự sống này nối tiếp sự sống khác. Thiên Chúa đã sắp đặt thời gian cho mỗi loại thụ tạo. Con người chúng ta được chia sẻ sự sống từ chính Thiên Chúa. Ngài chính là nguồn của mọi sự sống. Sự sống truyền sinh sự sống. Sự sống của nguyên tổ được nối kết từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự sống là một dây chuyền không ngừng nghỉ. Sự sống sẽ không chết nhưng con người sẽ chết. Chúng ta đi vào đời với thân xác vật chất này, rồi sẽ có ngày chúng ta ra đi và thân xác sẽ tan biến. Chúng ta ai cũng muốn sống và sống lâu, nhưng ước muốn sống đời đó chỉ có trong cõi đời sau. Truyện kể có một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ông ném bó củi xuống đất và than vãn: Cuộc sống cơ cực quá, tôi không chịu nổi nữa rồi. Ước gì thần chết rước tôi đi. Vừa nói xong, thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều chi? Ông già kinh sợ nói: Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai được không? Đôi khi chúng ta nguyền rủa cuộc đời vì sự lam lũ, khổ cực và bất công nhưng chúng ta vẫn muốn sống. Vì sự sống là một món qùa. Món qùa chỉ riêng cho chúng ta. Mỗi con người có một định mệnh và số vận riêng, không có ai giống ai. Bởi thế, đừng khi nào chúng ta so sánh hơn thiệt trong sự sống với người khác.
2. Giờ Nào Ngày Nào Con người bắt đầu được hiện hữu là một ân huệ. Chúng ta biết không phải mọi sự sống đã bắt đầu đều được sinh ra và nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Có hàng triệu triệu thai nhi bị giết chết ngay khi còn trong trứng nước trong cung lòng của người mẹ. Sự sống mới khởi đầu nhưng đã bị tiêu diệt, thật là không may mắn. Có những người được sinh ra, lớn lên và sống một cuộc đời dài trên 100 năm. Thí dụ: Ông cụ Shigechiyo Izumi người Nhật sống tới 120 tuổi 237 ngày hay bà cụ Jeanne Calment người Pháp sống tới 122 tuổi 164 ngày. Dù con người có hiện hữu một giây một phút hay 120 năm, so với đời đời thì cũng chẳng là chi. Thiên Chúa hằng hữu đời đời, Chúa muốn chia phần sự sống với các loài thụ tạo, đặc biệt với con người. Như thế chúng ta hãy quý trọng từng giây, từng phút Chúa ban cho để sống trọn vẹn kiếp người. Không ai có quyền trên sự sống của con người, chỉ mình Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành. Con người không làm nên sự sống mà chỉ nhận lãnh và cộng tác với Thiên Chúa trong tiến trình hình thành và phát triển.Tác giả sách Xuất Hành đã ghi rõ: Ai xúc phạm đến sự sống của người khác, họ có lỗi trước mặt Thiên Chúa. Ai đánh cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết. Ai bắt cóc người, dù đã bán đi hay còn giữ trong tay, thì phải bị giết chết. Kẻ nào nguyền rủa cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết (Xh 21:15-17). La Fontaine kể chuyện ngụ ngôn: Một ông cụ già đang cuốc đất trồng cây. Chợt có ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói: Cụ lẩm cẩm quá, già rồi còn trồng cây gì nữa. Thôi cụ ơi, việc đó để cho tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa. Ông cụ trả lời: Chắc gì lão chết trước và chắc gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu chứ! Trẻ và già không khác chi nhau về truyện sự chết. Thời gian sau, ba cậu vì công việc, kẻ đi lính, người đi kinh doanh và kẻ lái xe hàng. Cả ba đều chết cả hoặc vì ngộ nạn hoặc chết trận. Cụ già buồn và khóc thương ba người bạn trẻ.
3. Sẵn Sàng Ông Job trong đau khổ đã thốt lên: Quả thật, con biết Ngài bắt con quay về cõi chết, về nhà hội ngộ của tất cả nhân sinh (Job 30:23). Sự chết đến thật bất ngờ, mấy ai biết chắc chắn giờ mình sẽ ra khỏi thế gian. Trong lịch sử nhân loại, chúng ta nhận biết rằng mỗi người có sự chết khác nhau. Có khi chết riêng mình vì già nua, bệnh hoạn hay tai nạn hoặc bị giết. Có những cuộc chết đồng loạt qua những tai ương của thiên nhiên hoặc do chiến tranh con người gây nên. Nhìn qua vài biến cố xảy ra chung quanh chúng ta, chúng ta hiểu được ý nghĩa của sự sống. Trong 20 năm qua đã có 43 cuộc động đất lớn, mỗi cuộc động đất đã chết đi nhiều người. Những trận động đất lớn đã gây thiệt hại vô kể về của cải, nhà cửa và nhân mạng: Ngày 20 tháng 6, 1990, một trận động đất, địa chấn 7.4 tại Iran có 50,000 người chết. Ngày 17 tháng 8, 1999 trận động đất tại Turkey, địa chấn 7.6 có 17,118 người chết. Ngày 26 tháng 1, 2001, động đất ở Peru có 20,023 người tử thương. Ngày 26 tháng 12, 2003 động đất tại Miền Nam Iran, số tử vong là 31,000 người. Ngày 26 tháng 12, 2004 động đất và sóng thần cướp đi 227,898 tại Sumatra. Ngày 8 tháng 10 năm 2005, cuộc động đất tại Pakistan có 80,361 người chết. Ngày 12 tháng 5, năm 2008 động đất tại Sichun, Trung Quốc, có 87,587 người chết Ngày 12 tháng 1, 2010 động đất tại Haiti có khoảng 200 ngàn người đã ra đi. Và mới đây nhất ngày 25 tháng 10, 2010, sóng thần tại Indonesia đã cướp đi gần 500 mạng sống con người. Trên đây là một vài con số tiêu biểu của những biến cố mà con người ra đi đồng loạt không được chuẩn bị. Chúng ta nên biết rằng luật sinh tồn và chuyển động của thiên nhiên vẫn tiếp diễn. Các nhà khoa học có thể học biết được phần nào sự diễn tiến trong thiên nhiên nhưng tất cả các cuộc động đất đã xảy ra đều là những biến cố bất ngờ. Nên chúng ta luôn trong tư thế tỉnh thức Truyện kể rằng có một binh sĩ người Pháp bị trọng thương nằm điều trị trong quân y viện. Anh ta càng ngày càng kiệt sức. Một đêm kia viên y tá trực phòng anh đang mơ màng ngủ gật, bỗng nghe anh lính hét lên: Có tôi đây. Không hiểu gì, người trực ban đến bên giường người hấp hối hỏi: Anh muốn gì? Anh trả lời: Tôi không muốn chi hết. Nhưng tôi nghe trên trời có tiếng điểm danh, thiên thần kêu tới tên của tôi, tôi liền thưa: Có tôi đây. Sau đó, anh đã thở hắt ra và trút linh hồn.
4. Sinh Ký Tử Quy Ai trong chúng ta cũng đã chứng kiến những cảnh chết chóc trong gia đình hoặc những người chung quanh. Sự chết có ý nghĩa gì đối với những người còn sống. Người chết đã chết, nhắm mắt xuôi tay, không thể làm gì được nữa. Cuộc đời tạm này kể là chấm dứt. Nhưng sự chết đó ảnh hưởng đến nhiều người khác. Đối với người sống, người đã chết càng thân, càng gần thì càng cảm thấy đau đớn như cắt da cắt thịt. Nỗi đau thứ nhất là sự chia cắt giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, ông bà, chú bác, cô dì và những người thân. Thứ đến là chia cắt sống chết giữa mối quan hệ tình cảm và tương quan mà chúng ta đã cùng sống và cùng chia xẻ trong hành trình. Thứ ba là sự mất mát đáng buồn của những người đã ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta. Thật vậy, có nhiều người chết nằm đó nhưng chúng ta không có những cảm thương giống nhau. Sự thương nhớ và đau buồn còn tùy thuộc vào mức độ liên hệ tình cảm và sự thân thích. Nhưng sự chết nào cũng là sự mất mát và trống vắng trong gia đình. Vợ mất chồng, chồng mất vợ, con cái mất cha mẹ, cha mẹ mất đi con cái, anh chị em mất nhau, đây là nỗi đau. Thường chúng ta thấy nơi những vòng hoa phúng điếu ghi lại những tâm tình thương nhớ và đau buồn: Vô Cùng Thương Tiếc, Thành Kính Phân Ưu hay Nhớ Thương Mãi Mãi… Người sống khi sống muốn gần bên nhau, khi chết cũng muốn được chôn cất cạnh bên. Có biết bao nhiêu vợ chồng đã sắm sẵn cho mình những chiếc mộ đôi để được bên nhau đời này và đời sau. Bà Ruth ngày xưa cũng đã có tư tưởng ở bên nhau khi mãn phần: Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất. Xin Chúa phạt con thế này và thêm thế kia nữa, nếu con lìa xa mẹ mà không phải vì cái chết! "(Ruth 1:17). Trong một xứ nọ, có một thiếu nữ đau bệnh nặng. Theo lời bác sĩ, bệnh tình của cô không thể chữa trị vì cô bị sưng màng óc tới kỳ cuối. Sau khi sốt sáng đón nhận các bí tích cuối cùng, cô đã trả lời một cách tuyệt diệu như sau với cha xứ khi cha hỏi cô còn ước ao gì? Cô thưa: Con muốn đau đớn nhiều hơn rồi chết. Cô thường lập đi lập lại ước muốn này. Một ngày kia người bạn của cô gợi những ý tưởng đạo đức về cái chết, cô nói: Tôi còn muốn chịu đau đớn nhiều hơn nữa để bù lại các tội lỗi tôi đã phạm và rồi chết liền để tránh khỏi phạm thêm những tội mới. Và sau những cơn đau đớn khủng khiếp, cô đã tắt thở cách nhẹ nhàng và ra đi bình an.
5. Luôn Tỉnh Thức Chết không phải là hết mà là qua đời. Qua đời này tới đời kia. Truyện kể có một cha xứ sống với một giáo xứ đồng quê. Ngài đã giữ lại tất cả các thống kê lý lịch và chi tiết của mỗi người trong xứ đạo. Để thuyết phục có sự sống đời đời sau khi người ta chết như lời Chúa Giêsu đã hứa. Trong sổ ghi danh, mỗi khi có người trong xứ qua đời, ngài đã không xóa tên khỏi sổ. Ngài chỉ đơn giản ghi chú “đổi địa chỉ”. Đã chuyển sống một nơi khác. Những người thân ra đi, họ không biến mất nhưng là đi trước chúng ta. Chúng ta không còn phải nhìn cái chết như sự tận diệt mà là một con đường mới dẫn chúng ta về nhà Cha của chúng ta. Tổ phụ Isaác cũng không có luật trừ. Ông biết ngày giờ ông sẽ phải ra đi. Sách Sáng Thế Ký diễn tả: Ông Isaác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông bèn gọi Êxau, con trai lớn của ông, ông nói: "Con ơi!" Cậu thưa: "Dạ, con đây." Ông nói: "Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào (Stk 27:1-2). Sự sẵn sàng tỉnh thức luôn là mời gọi khẩn thiết cho mọi người. Sự chết không trừ một ai, già trẻ lớn bé, khỏe mạnh hay bệnh họan. Mỗi người đều có thể đối diện với cái chết bất cứ khi nào. Truyện kể về cậu Berchman đang hăng say chơi banh với chúng bạn. Cha xứ tiến đến hỏi các cậu: Nếu một giờ nữa Chúa đến gọi chúng con ra khỏi thế gian, chúng con sẽ làm gì bây giờ. Một cậu thưa: Con sẽ chạy về nhà xin lỗi mẹ con, vì con đi đá banh mà không xin phép mẹ. Cậu khác nói rằng: Con sẽ chạy vào nhà thờ cầu nguyện và xin cha giải tội. Đến lượt Gioan Berchman nói: Con sẽ cứ tiếp tục chơi banh cho tới khi Chúa đến gọi con. Mọi việc trong ngày con đã hoàn tất và giờ này là giờ chơi banh của con.
6. Ra Đi Một Mình. Chết là một chuyến đi xa nhất, không ai có kinh nghiệm về sự chết. Ra đi không bao giờ trở lại. Chuyến đi xa mà cũng cô đơn nhất. Ra đi một mình và để lại đàng sau tất cả gia đình, con cháu, người thân thuộc và để lại tất cả của cải mà mình đã nỗ lực gom nhặt từng ngày. Chết là một chia ly phũ phàng nhất trong các lọai chia ly. Vì thế, ít người dám nghĩ đến hay nói đến cái chết và hầu như ai cũng tìm cách tránh né về cái chết. Chấp nhận cái chết hay không, mỗi người đều phải đối diện hằng ngày. Cái chết vẫn xảy ra hằng ngày và gặp gỡ từng người. Ai có thể nói rằng tôi sẽ sống tới ngày mai. Chúng ta không biết cái gì sẽ xảy ra trong giây phút tới. Hãy phó thác đời mình trong sự quan phòng của Chúa. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta có can đảm đón nhận và chuẩn bị cái chết xứng đáng không? Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phúc Sinh, chúng ta đã chứng kiến biết bao những anh hùng dám chấp nhận cái chết để làm chứng niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Các Đấng Tử Đạo đã oai phong anh dũng chấp nhận cái chết vì Nước trời. Như thế, các Ngài đâu có sợ cái chết.
Ở Thành Strasbourg bên Nước Đức, hiện có một chiếc đồng hồ vĩ đại cổ thời đặt trên một tháp cao. Đồng hồ được kiến trúc một cách thần kỳ. Cứ 15 phút thì xuất hiện trên mặt số một cậu bé gõ chuông. 30 phút thì xuất hiện một thanh niên. 45 phút xuất hiện một cụ già ra gõ chuông và đúng 1 giờ thì thần chết xuất hiện gõ chuông. Đúng 12 giờ đêm, Chúa Giêsu và các Tông đồ lần lượt xuất hiện để phán xét. Thời gian nhắc nhở cho mỗi người chúng ta, thời gian là món qùa vô giá. Chúng ta hãy sống và sống cho có ý nghĩa từng phút giây trong đời. Chúng ta đừng hoang phí thời gian Chúa ban mà không sinh hoa quả.
7. Chuẩn Bị Hành Trình Chúng ta được sinh ra làm người và được làm con Chúa, đây là một hạnh phúc tuyệt vời. Qua niềm tin, chúng ta được nhận biết rõ về ý nghĩa của cuộc đời. Sống ở đời là để nhận biết Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã tạo dựng muôn loài. Sống để yêu thương anh chị em đồng loại và xây dựng một xã hội tốt đẹp để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời. Đây là mục đích tối quan trọng cho mỗi một thành viên trong cộng đoàn nhân lọai. Chúng ta không thể ích kỷ tìm danh lợi hay thu góp của cải cho riêng mình mà phải biết chia sẻ cho nhau. Lời lãi được cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích chi, thánh Luca nhắc nhở chúng ta: Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? (Lc 9:25). Chúng ta cần có thái độ khôn ngoan thật, sự khôn ngoan trong Chúa Thánh Thần. Truyện kể một ông vua tự cho mình là người khôn ngoan. Vua thường chễ diễu những người ngu đần khờ dại. Nhà vua hay nhạo cười và diễu cợt người khác. Một ngày kia, vua trao cho anh khờ một chiếc gậy. Vua nói: Hãy cầm lấy chiếc gậy này cho tới khi anh tìm ra được một người ngu dại hơn anh. Năm tháng trôi qua, Vua chuẩn bị băng hà. Gia đình, quan quyền, chức sắc, đầy tớ và anh khờ cũng đứng xung quanh giường của vua. Vua nói: Trẫm gọi mọi người đến để chia tay, trẫm sẽ phải ra đi vĩnh viễn. Trẫm đã đi một hành trình dài và trẫm sẽ không trở lại nữa. Anh khờ bước tới và nói: Thưa Hoàng Đế, xin hỏi một câu trước khi vua ra đi. Trong quá khứ, bất cứ nơi nào vua muốn đến, vua đã sai tới các cận vệ và lính tráng để chuẩn bị cho chuyến du hành. Tôi có thể hỏi: Vua đã sẵn sàng chuẩn bị cho chuyến du hành cuối cùng này chưa. Vua trả lời: Alas, trẫm chưa chuẩn bị chi cả. Rồi anh khờ nói: Vua hãy cầm lấy cây gậy này, cuối cùng tôi đã tìm được người ngu đần và dại khờ hơn chính tôi. Ông vua cho mình là khôn ngoan một đời, nhưng thật dại khờ khi đối diện với tử thần. Thánh Matthew đã viết: Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? (Mt 16:26).
Sự đáp trả của con người chỉ đẹp lòng Thiên Chúa khi họ biết vâng phục hòan tòan. Một của lễ được Thiên Chúa chấp nhận là khi người ta dâng hiến với thái độ tự nguyện và yêu mến. Cuộc sống con người là một hy lễ liên tục từng giây từng phút ; khi họ có ý thức cao thì tất cả mọi sự đều có giá trị. Thánh Phaolô đã nói: “ Mọi sự đều có lợi cho những kẻ có lòng mến”. Ai đó đã một lần có của lễ dâng cho Thiên Chúa sẽ hiểu được tâm tình và ước muốn của mình ra sao. Và hẳn nhiên họ cũng phải chuẩn bị cho mình có một tâm hồn xứng đáng khi đến với Chúa. “ Nếu anh đến dâng của lễ mà sực nhớ người anh em đang có chuyện bất bình với mình, thì hãy để của lễ lại, đi làm hòa với người anh em đã”. Thiên Chúa luôn muốn cho con người làm đẹp lòng Ngài. Đấy cũng là lý do làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa và có giá trị thực sự. Một cách nào, cái chết của người thân yêu chúng ta cũng là điều đẹp lòng Chúa. Nên người công chính dù có chết non, cũng được an nghỉ. Vì tuổi thọ đáng kính không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi”( Kn 4, 7-8) ; “Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương. Và họ sống giữa những kẻ tội lỗi, nên được Thiên Chúa dời đi nơi khác”(c.10). Như vậy, chính Thiên Chúa là Đấng chủ động đón nhận cái chết của con người như một hy lễ, đặc biệt là cái chết của người công chính. Chúng ta vẫn nói rằng:“Hoa thơm Chúa hái về sớm”. “Thế gian”, theo ý nghĩa của Kinh thánh còn mang một nội dung xấu xa, tội lỗi và là kẻ thù của Thiên Chúa nữa. Nên Chúa Giê-su đã nói cho các môn đệ biết rằng : “ Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”(Ga15, 18). Và Ngài còn nêu rõ quan điểm của mình hơn trong lời cầu nguyện cho các môn đệ trước khi chịu chết: “ Con không cầu nguyện cho thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian…”(Ga 17, 9.15 – 16). Vì vậy được Thiên Chúa gìn giữ trong thế gian này trước những thế lực của sự ác, sự tội là một điều phúc. Ngược lại, được Thiên Chúa cất ra khỏi thế gian “kẻo sự gian tà biến đổi lòng họ, hoặc sự gian dối lừa đảo linh hồn họ”(Kn 4, 11) cũng là điều rất phúc. Ở đây chúng ta lại bắt gặp một sự tách biệt dứt khóat, có thể là đọan tuyệt với thế gian nữa, vì cái nghĩa hòan tòan xấu xa của nó. Hy lễ trong sự chết phải trở thành của lễ hòan tòan thánh thiện, được tách biệt khỏi những cái phàm tục của thế gian để từ nay chỉ thuộc trọn về Chúa mà thôi ( thánh - theo nghĩa của Thánh Kinh). Có thể, chúng ta không chọn lựa để chết hoặc chẳng xứng đáng chút nào so với sự thánh thiện của Thiên Chúa nhưng trước hết, vì Ngài muốn đón nhận chúng ta như một của lễ và chính Ngài khởi xứng điều này. Thiên Chúa nhìn thấy nơi sự chết của con người chúng ta là một sự hy sinh cuối cùng trong cuộc sống của họ. Sự hy sinh ấy thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn khi họ dâng nó như một hy lễ. Cái chết đã gom góp tất cả mọi sự hy sinh khác trong đời về cho Chúa trong một của lễ duy nhất. Nếu như người ki-tô hữu ý thức rằng họ được sinh ra trong trần gian để làm theo ý Chúa thì bản thân sự chết muốn diễn tả điều ấy một cách rõ ràng nhất, bởi sống chết nơi ta thuộc quyền Thiên Chúa. Nếu như người ki-tô hữu muốn tìm thánh ý Thiên Chúa trong đời thì không gì rõ hơn bằng sự vâng phục trước cái chết của mình. Cuộc tôn vinh Thiên Chúa Cha của Đức Giê-su đi đến đỉnh cao của nó, khi Ngài vượt qua tất cả mọi trở ngại và thử thách trong cuộc đời và nhất là trong cuộc thương khó, để cuối cùng Ngài thốt lên được: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” ( Lc 23, 46), đấy mới là của lễ trọn vẹn. Như vậy, mạng sống con người chỉ có giá trị khi nó được hòan lại cho Thiên Chúa là chủ tể sự sống. Đây là một sự thách đố về niềm tin nơi người ki-tô hữu khi phải đương đầu với đau thương, mất mát. Chính vì thế, để trở thành một hy tế hòan hảo qua sự chết là một điều khó khăn và họ gặp phải một sự giằng co không nhỏ. Dẫu vậy, trong sự đón nhận của Thiên Chúa là một yếu tố căn bản để hy lễ ấy có giá trị thực sự và giá trị đời đời nữa. Từ đó, chúng ta dám buông thả tất cả cho Thiên Chúa lôi cuốn để cuối cùng tan biến trong Ngài như thực tại của cái chết nơi các yếu tố vật chất vậy. Sự chết từ nay trở thành một điều quí hóa trước mặt Thiên Chúa vì nó không vô nghĩa nhưng được thăng hoa giá trị nhờ cái chết của Đức Giê-su Ki-tô trong hy lễ cuối cùng của Ngài.
Ngủ là một nhu cầu rất quan trọng và không thể thiếu của con người. Ngủ để lấy lại sức khỏe thân xác và tinh thần. Y học cho rằng giấc ngủ là loại thuốc bổ nhất trong các lọai thuốc bổ. Sau một giấc ngủ người ta cảm thấy thỏai mái và bớt đi sự căng thẳng, mệt mỏi nào đấy. Giấc ngủ chính là một nhu cầu nghỉ ngơi của con người, nên một danh nhân đã nói: Tôi không bao giờ đứng khi có thể ngồi và không bao giờ ngồi khi có thể nằm. Trong tất cả mọi nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, thì giấc ngủ là quan trọng nhất. Ta tự xét lấy cuộc đời mình bỏ ra bao nhiêu thời gian để làm việc, còn bao nhiêu thời gian đề ngủ? Không riêng gì con người chúng ta, mà muôn loài cũng đều phải ngủ. Thế nhưng giấc ngủ ảnh hưởng rất lớn đối với sự hoạt động tinh thần và cả cuộc sống con người . Thiên Chúa ban cho con người có một giấc ngủ.Và sự chết là một giấc ngủ dài nhất! Sự chết đưa con người vào giấc ngủ gần như là thiên thu mà người ta gọi là an nghỉ. Một tình trạng hoàn toàn tĩnh đúng nghĩa về mọi phương diện.Tình trạng này đưa con người thoát ra khỏi mọi sự chi phối khác trong vũ trụ nhưng họ vẫn tồn tại trong vũ trụ. Thế nên ta mới nói rằng: chết không phải là hết. Cũng như giấc ngủ của ta là để tiếp tục sống và làm việc cho những ngày tiếp theo, còn hơn thế nữa là muốn nó hay và tốt hơn ngày qua. Sự chết bảo đảm cho con người một giấc ngủ để đi vào thế giới màu nhiệm, thần thánh. Trong thế giới ấy không có một thứ vật chất nào nhưng lại rất đẹp và làm cho người ta thỏa mãn được mọi khát vọng khác, chẳng khác gì những giấc mơ, trong đó chúng ta thấy mình có đủ thứ mình chưa có bao giờ nhưng chỉ là một thứ thuộc lãnh vực tinh thần mà thôi! Chính nó giúp cho giấc ngủ của ta được sâu hơn. Kinh nghiệm cho thấy giấc ngủ ngon là giấc ngủ có mơ màng và không có giấc ngủ nào mà không có mơ, chỉ tội khi thức dậy ta không còn nhớ nữa thôi. Sự chết đưa con người vào giấc ngủ triền miên mà người ta cứ phải mơ màng hoài, tức là khát vọng điều chưa đạt được. Người ta mơ về một thực tại có thật chứ không phải là huyền ảo nữa. Người ta khát vọng điều đã gắn chặt vào bản chất của họ mà bây giờ họ đang tiến lại gần nó để nhận ra nó một cách rõ ràng nhất. Hóa ra giấc ngủ ấy là điều chính đáng và rất tốt đẹp để con người thực hiện được những cơn mơ mộng không thực tế trong cuộc đời này. Vì thế người ta cần phải ở trong giấc ngủ ấy lâu dài để chìm đắm rồi chiêm ngưỡng được những thực tại này bằng sự nhận biết của linh hồn.Tuy nhiên người ta không thể hạnh phúc trọn vẹn nếu cứ mơ màng và khát vọng triền miên trong giấc ngủ! Thành thử ra họ phải được đánh thức dậy. Đã ngủ thì phải thức dậy. Đức Giê-su trước khi làm cho con gái ông Giai-rô sống lại đã nói : “Đừng khóc! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Rồi Người cầm tay nó, lên tiếng gọi: “Này bé, chỗi dậy đi!” (Lc 8, 49-56). Đức Giê-su đã quan niệm sự chết là một giấc ngủ nghĩa là một việc hết sức bình thường và việc thức dậy cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Nó chỉ là một sự nghỉ ngơi của thân xác. Dẫu sao, thì ta phải luôn nhìn nó trong quyền năng của Thiên Chúa. Từ cái nhìn này, nó làm cho sự chết của ta tràn đầy hy vọng. Giấc ngủ của sự chết đang chờ đợi Thiên Chúa đánh thức, chờ Thiên Chúa cho phục sinh. Đó chính là lúc Thiên Chúa thổi Thần Khí của Ngài vào để họ có sự sống mới. Sự sống sau giâc ngủ cũng như sự phục sinh sau cái chết có một sức mạnh lạ thường và mới mẻ hòan tòan bởi nó đã được biến đổi từ trong nội tại. Giấc ngủ trong sự chết chưa đầy ba ngày của Đức Giê-su chứng minh điều ấy. Ngài là Người tiên khởi khai mào cho một sự sống mới để mở một con đường hy vọng sống lại cho tất cả mọi kẻ chết an giấc từ bao đời nay. Như vậy, việc thức giấc của Đức Giê-su thật quan trọng và việc thức giấc này nói lên rằng đây là lúc Ngài ra tay thực thi quyền năng phi thường của mình, cũng như đã có một lần đức Giê-su ngủ trên thuyền các môn đệ lúc bị cuồng phong bão táp; sau khi thức dậy Ngài đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng (Lc 8, 22 – 25). Con người chúng ta không thể tự mình sống lại nhưng nhờ vào sức mạnh quyền năng của Thiên Chúa. Đấy là niềm xác tín cơ bản khi chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính “Tôi tin xác lòai người ngày sau sống lại”. Rõ hẳn trong lời tuyên xưng này cho ta hiểu về một giấc ngủ của kẻ chết là có thời hạn chứ không vô thời hạn. Và số phận của kẻ chết nằm trong một chương trình đã được qui họach hẳn hoi. Dầu sao, khi còn đang sống trong thời gian thì chúng ta vẫn cảm thấy như là một sự chờ đợi vô hạn, nhưng khi quan niệm nó là một giấc ngủ như Đức Giê-su thì tự nhiên ta sẽ có một cảm nghiệm và một sự tin tưởng khác.
Ít khi người ta vui nếu biết cái chết đang đến với mình hoặc đến với người mình thân thương nhất. Nhưng cũng không thiếu người đi tìm niềm vui qua cái chết một cách rất tiêu cực, vì họ muốn thỏa mãn tất cả trong cái chết ấy. Ngược lại cũng không thiếu người có niềm vui rất tích cực khi nghĩ đến giờ chết của mình và sẵn sàng đón nhận nó bất cứ lúc nào. Đây là những người có được tâm tình trong thánh vịnh 121 của vua Đa vít: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa Và giờ đây Giêrusalem hỡi, Cửa nội thành, ta đã dường chân”. Đây là thứ tâm tình đặc biệt của kẻ đi hành hương đền thánh Chúa. Tâm tình trước ngày lễ hội. Tâm tình khắc khoải vì chưa được ở trong đền thánh Chúa là Giêrusalem, nơi mà chính Thiên Chúa đang hiện diện giữa dân Người. Vì thế, mà thánh Augustinô cũng đã nói lên nỗi lòng mình với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con khát khao mãi cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”. Người Kitô hữu chúng ta phải mặc lấy những tâm tình này trong cuộc đời mình, khi mà biết bao những khát vọng khác đang làm điên đảo cuộc sống và mục tiêu tối hậu của ta. Cuộc đời người Kitô hữu chúng ta là một chuyến hành hương về nhà Cha là thành Giêrusalem thiên quốc. Người ta phải chuẩn bị một cách không ngơi nghỉ cho chuyến hành hương này bằng những tâm tình (lời cầu nguyện) và thái độ (việc làm) khi còn ở tại thế. Thành đô thiên quốc sẽ là điểm dừng chân cuối cùng trong cuộc hành hương. Đây là một đông lực thúc đẩy và thu hút người Kitô hữu rất mạnh mẽ. Vì ngay cả đền thờ Giêrusalem bên nước Do thái nhiều người chúng ta mơ ước xem thấy mà cũng chưa được ! Trong cuộc đời vua Đavít và nhiều người Do thái khác, hẳn đã nhiều lần họ thực hiện chuyến hành hương lên đền thờ Giêrusalem chứ không phải một lần. Thế nhưng mỗi lần họ nghe người ta rủ nhau lên đền thờ ấy thì lòng họ lại ngầm ngập niềm vui. Giêrusalem có một sức cuốn hút lạ lùng không phải do những vẻ đẹp của kiến trúc, không phải do tính chất chính trị, tôn giáo hay bề dày lịch sử mà nơi ấy có sự hiện diện sống động của Thiên Chúa qua hòm bia giao ước. Và thực tế Giavê Thiên Chúa hay hiện ra ngỏ lời với con Người (Lc 1, 8 – 22 ; 2,25 – 26) trong những trường hợp đặc biệt. Suốt cuộc đời người Kitô hữu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa ngỏ lời nhiều lần qua đền thờ Giêrusalem tại thế là hội thánh. Và giờ đây họ còn đang khát khao một đền thờ Giêrusalem khác trên trời theo Lời Chúa đã hứa. Nỗi khát khao ấy được biến thành hiện thực khi họ kinh qua sự chết, trong lúc con nặng lòng với tâm tình lên đền và niềm tin sắt đá. Cuộc hành hương lên đền thánh được bắt đầu mang đậm màu sắc tâm linh nó khởi đi từ trong cõi lòng họ chứ không phải là những bước chân. Cuộc hành hương có các thánh và các thiên thần cùng dẫn đi theo, không những thế các ngài còn bầu cử cho ta nữa. Vì vậy, kẻ đi hành hương cảm thấy rất an tâm và sao lại không mặc lấy tâm tình vui mừng được. Niềm tin tưởng ấy giúp người ki-tô hữu sống với những thực tại trần gian này nhưng luôn mang một nỗi khát vọng chờ mong được hòan tất cuộc hành hương đời mình. Và dĩ nhiên cuộc hành hương ấy chỉ phù hợp và thỏa mãn cho kẻ có sự gắn bó tha thiết với Thiên Chúa.
“Sống gởi, thác về”. Đúng, Bà cố Maria đã sống gởi thân xác ở trần gian này trong một quãng đời người 58 năm và nay Chúa gọi Bà cố về với Chúa. Trong ngày tiễn đưa Bà cố về gặp Đấng là Tình Yêu, là Hạnh Phúc tuyệt đối của đời mình, chúng ta không chỉ cầu cho Bà cố ra đi tốt đẹp, bình an và nghỉ yên trong Chúa, mà còn có dịp suy nghĩ về cuộc sống chết này và chuẩn bị cho cuộc ra đi gặp Chúa của chúng ta mai ngày nữa.
Giảng lễ: I. Con người ham sống, sợ chết. Con người ta, nói chung, đều ham sống và sợ chết. 1. Ham cuộc sống ở đời này: Có khi đời ban cho quá nhiều đặc ân đặc lợi, bổng lộc như đang sở hữu nhiều của cải, vị cao chức trọng, cuộc sống an nhàn hưởng thụ, khoái lạc vv… thành ra chết sớm thì tiếc xót vô cùng. Chẳng hạn vua Êzêkia trong bài đọc 1 chúng ta vừa nghe. Khi Chúa sai tiên tri Isaia đến nói với vua rằng: “Ông chẳng sống được bao lâu nữa đâu, sẽ chết thôi. Vậy lo mà thu xếp việc nhà việc nước đi thôi”. Nghe vậy vua đau đớn quay mặt vào tường, khóc nức khóc nở, có lúc gào to lên nữa. Nước mắt lã chã đầm đìa vì nuối tiếc cuộc sống tại thế này. 2. Bởi vậy, người ta sợ chết lắm: cứ nghĩ chết là hết, là chấm tận mọi sự, lìa bỏ mọi người thân yêu. Người ta cho cái chết là sự tàn bạo khủng khiếp nhất đối với thân phận một con người. Chết người đau xót ngàn vạn lần cháy nhà, mất của. Người ta còn truy tầm cả nguyên nhân cái chết và thường ra là đổ vạ cho bệnh tật. Nhất là những thứ bệnh trọng, trầm kha không thể cứu chữa. Như ung thư chẳng hạn: Bác sĩ, Khoa học vẫn bó tay… Sách thánh nói rằng vua Êzêkia lâm trọng bệnh nguy tử là do một chỗ bị ung nhọt. Cái nhọt nào đến nỗi chết vậy? Tôi nghi là bệnh ung thư. 3. Nhưng nói cho cùng, bệnh tật dù nặng đến đâu đi chăng nữa, nhằm nhò gì với Chúa. Sinh thời Chúa Giêsu chữa đủ mọi loại bệnh tật: mù, câm, điếc, què, băng huyết… kể cả quỉ ám, kể cả hấp hối hay “lăn quay” ra rồi như con gái ông Zairô; nằm trong quan tài như con trai bà goá thành Naim hay muốn thối rữa trong mồ như Lazarô. Chúa muốn là chữa khỏi bệnh, Chúa muốn là cho hồi sinh sống lại ngay lập tức. 4. Thế nên bài đọc 1 còn muốn kín đáo nhắn nhủ chúng ta rằng: trước cái chết, đừng sợ. Hãy tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Ngài là Đấng cầm quyền sinh tử, Đấng làm chủ sự sống và sự chết. Sống chết là ở trong tay Ngài. “Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ sống”. Chúa nói với Martha như vậy. Chúa biết rõ chúng ta tham sinh uý tử, ham sống sợ chết; nên trước những giòng nước mắt và lời cầu nguyện thảm thiết của vua Êzêkia, Chúa đã cho ông sống thêm 15 năm tại thế nữa. Còn che chở thành trì và vua khỏi rơi vào tay vua Assur xâm lăng. Thế mới biết Chúa thật độ lượng, thương xót chúng ta vô cùng. Bà cố Maria cũng bị bệnh, trọng bệnh; nhưng Chúa vẫn để bà tỉnh táo và có thời giờ chuẩn bị tốt cho sự ra đi quyết liệt của mình. Phải chăng đấy cũng là một ân huệ, một cách tỏ lòng thương xót của Chúa. Về điều này, chắc chắn con cháu chúng ta không hề ân hận. Đối với Kitô hữu, đức tin nơi Chúa dạy cho biết chết không phải là hết. Bởi chết không phải là đích điểm tàn lụi, mà lại là bước khởi đầu của một cuộc gặp gỡ, của cuộc hưởng kiến hạnh phúc với Thiên Chúa.
II. Chết là gặp gỡ. Đời người mãi là một hành trình không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa. Chết là trở về, là gặp lại vĩnh viễn và bất khả phân ly với Đấng là Tạo Hoá, là Nguồn Cội của mọi loài. 1. Có điều, chết không hẹn giờ: Chàng rể là Chúa Kitô có khi đến chậm, nhưng lại đến thình lình, nên bắt buộc các cô phù dâu phải chuẩn bị thôi. Các cô khờ dại luýnh quýnh cả lên do thiếu chuẩn bị tốt. Sống là chờ đợi ngày giờ ra đi, và ra đi vì có ước nguyện, có hẹn hò gặp Đấng vô hình, Đấng mà cuộc sống tại thế này ta chưa hề giáp mặt. Vậy nên, muốn cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp, đúng thì cần chuẩn bị cho cuộc ra đi. Tôi tin Bà cố đã làm được điều đó. Đây là điểm chúng ta có thể vui mừng với Bà cố. 2. Hai môn đệ trên đường Emmaus thoáng nhận ra Chúa, nhưng rồi Người lại hẹn gặp nơi khác. Hẹn gặp là lẽ tất nhiên, một khi đã tin nhờ biết rõ Đấng đã chết nay sống lại rồi. Đấng ấy là Đấng Cứu độ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, sự chết và nỗi sợ hãi. Chết để bước vào đời sống mới, đời sống phục sinh; nên chết là lúc khai mở cuộc sống bất diệt. Nó hoàn toàn khác biệt và cao cấp so với sự sống quá tầm thường, hữu hạn ở đời này, nên chẳng thiệt gì mà tiếc nuối cuộc đời này. Người khuất đi sẽ thay hình đổi dạng, chứ không hề bị tiêu diệt. Họ mặc chiếc áo mới được giặt trong máu Con Chiên chuộc tội, để đi vào cõi hạnh phúc đời đời. Đối với người tin và trung tín với Chúa, ngày chết lại là ngày “Sinh nhật Nước Trời”, như lời Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói trên giường hấp hối: “Tôi không chết, nhưng đang bước vào cõi sống”. Theo sau quan tài, chúng ta hay nghe kẻ than người khóc; nhưng dưới ánh sáng đức tin, tôi nghĩ bản thân người quá cố lại vui. Biết đâu giờ này Bà cố vui, vui thực sự vì thấy sống ở đời như thời gian thai nghén, chờ đợi trong quặn đau; giây phút chết đi là cuộc “vượt cạn” lần cuối, để sự sống vĩnh cửu bắt đầu sinh ra. Thế nên, Vua Êzêkia, khi cầu nguyện với Chúa, đã khéo nhắc Chúa rằng “Xin Chúa nhớ cho, cả đời con đã trung tín và thành tâm bước đi trước Nhan Chúa”. Tôi nghĩ đây cũng là lời cầu nguyện của Bà cố khi ra đi, khi chuẩn bị gặp Chúa : cuộc gặp của người con trọn đời trung tín với Chúa đến hơi thở cuối cùng. Ai bền vững trong đức tin sẽ được cứu rỗi.
III.Gặp Đấng là Tình Yêu: điểm tựa cuối cùng xua tan sợ hãi. Tìm và mong khắc khoải gặp Chúa thì khi được gặp sẽ sung sướng dường nào. Bởi cuộc gặp gỡ này không còn phân ly bao giờ nữa với Đấng là Hạnh Phúc đích thực. Trong bài Tin Mừng, tôi mê nhất lời này: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa câu: Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông chẳng lên án kẻ vô tội”. Chúa khác chúng ta lắm, khác các ông biệt phái Do thái tối ngày chỉ dò xét, hạch sách, bắt bẻ, lên án kết tội. Chúng ta vừa nghe họ bắt bẻ các môn đệ Chúa lỗi luật ngày Sabát… Chúng ta cũng hay chấp nhất, kết tội nhau. Còn Chúa, Chúa khẳng định Chúa là Tình Yêu, Người chỉ muốn lòng nhân từ. Nên trước tội nhân bị tố cáo, Chúa sẵn lòng tha: “Tội con đã được tha. Con về đừng phạm tội nữa”. Tin vào lòng nhân từ của Chúa, cũng có nghĩa là tin vào Ơn tha thứ cứu độ. “Đức Tin của con đã cứu con”. Chúa thường động viên những kẻ vững lòng tin nơi Chúa như thế. Ta không có lý do gì để sợ tội mình không được tha. Cũng không có lý do gì để sợ bị tiêu diệt, mất phần linh hồn, ngoại trừ cố chấp trong tội và cố tình bỏ Chúa. “Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ sống và ai sống mà tin Ta sẽ không chết đời đời”. Tình yêu độ lượng của Chúa thôi thúc Chúa xử sự với chúng ta như vậy. Đang khi người Do thái cứ nghĩ rằng muốn làm nguôi ngoai lòng Chúa, thì cứ bám luật mà sống, cứ dâng lễ tế thật nhiều như thể lắm quà biếu xén, đút lót, hối lộ, Chúa sẽ mềm lòng bỏ qua tha hết cho họ. Thật ra làm thế là coi thường Chúa, xúc phạm đến tình thương vô cùng của Chúa và còn là dựa vào công trạng bổng lộc của mình nữa. Chúa đâu bắt lỗi Đavit và thuộc hạ, ngay cả khi họ phạm luật đã ăn bánh tiến trong Đền Thờ, thứ bánh chỉ dành cho tư tế. Bởi cảm nghiệm được sâu xa lòng nhân từ xót thương tha thứ của Chúa, Thánh Augustinô đã nói: “Tôi sống mà tâm hồn cứ khắc khoải mong chờ mãi, cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”. Các Thánh đâu có sợ chết! Hôm nay chúng ta dâng lễ An táng, để tiễn đưa Bà cố Maria về Bến Hẹn là chính Chúa. Tôi tin Bà cố sẽ được hưởng lòng nhân từ thứ tha cứu độ của Chúa. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện với Chúa Cha thế này: “Con muốn rằng Con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con” (Ga 17, 24). Khi Chúa về cùng Cha, Chúa vẫn muốn sự có mặt của Bà cố Maria, của tôi, của chúng ta, của hết mọi người. Bao lâu ta chưa về trời, thì bấy lâu trong lòng Chúa vẫn có hình bóng ta, vẫn hẹn hò và chờ đợi ta. Bà cố hôm nay đi trước chúng ta và bên Chúa hưởng bình an, Bà cố lại mong chờ hẹn ngày sẽ gặp lại con cháu và chúng ta trong Chúa là Hạnh Phúc của tất cả.
Ai trong chúng ta có mặt trên trần gian này đều có một người mẹ, trong người mẹ chúng ta được cưu mang, qua người mẹ chúng ta được sinh ra và nhờ người mẹ chúng ta được nuôi dưỡng, giáo dục lớn lên trong xã hội. Trên bình diện đức tin, Thiên Chúa cũng ban cho nhân loại một người mẹ. Trong Mẹ chúng ta được cưu mang. Theo như tư tưởng thánh Mông-pho nói: “ Khi Đức Mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế là đầu Nhiệm thể, đồng thời cũng cưu mang chúng ta là những chi thể trong cùng Nhiệm thể ấy”; qua Mẹ chúng ta sinh ra từ dưới chân thánh giá qua lời trối của Chúa Giêsu: “Hỡi Bà, đây là con Bà”, và nhờ Mẹ cộng tác với Chúa Thánh Thần, chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong nguồn ơn thánh. Chân lý này được Công Đồng Vaticanô II minh xác trong Hiến Chế Lumen Gentium số 62: “Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, Đức Tin, Đức Cậy, và Đức Ái nồng nhiệt để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng Ngài thật là Mẹ chúng ta”. Công Đồng còn xác quyết: “Với tình mẫu tử, Mẹ Maria chăm sóc những anh em của Chúa Giêsu đang lữ hành trên dương thế, đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc Quê Trời”. Thưa anh em, Thiên Chúa đã ban cho người phụ nữ nào cũng có tấm lòng người mẹ, nhưng để trở thành người mẹ, thì người phụ nữ đó phải cưu mang, sinh hạ, dưỡng nuôi và giáo dục. Tất cả những công việc này khiến người mẹ phải hi sinh, lo lắng kể từ khi mang thai cho đến khi đứa con trưởng thành. Cho nên tục ngữ ca dao Việt nam có những vần thơ diễn tả: Ngày đêm mẹ ẵm, mẹ bồng, Bên ướt mẹ nằm, bên ráo cho con. Miếng ăn miếng mặc mẹ lo, Làm sao con được ấm lo mẹ mừng. Cũng vì con, chính vì con, Mỗi ngày mẹ một gầy mòn tấm thân. Trong lịch sử nhân loại cho thấy khi đứa con gặp hoạn nạn, có những người mẹ hy sinh tấm thân mình để cứu sống con. Mẹ Maria hi sinh cho chúng ta gấp bội. Mẹ nghèo khó nhưng Đức Mẹ có một kho tàng cao quý nhất đó là Chúa Giêsu, Đấng ban nguồn ơn sủng. Mà vì yêu, Mẹ sẵn sàng hi sinh trao cho chúng ta. Hay nói cách khác, Mẹ chính là người mẹ hiền ban cho chúng ta tấm bánh cứu độ là Chúa Giêsu, để nuôi sống linh hồn chúng ta. Anh em thân mến, Gắn liền với việc nuôi dưỡng là việc giáo dục con cái nên người. Trên bình diện đức tin, Đức Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, nhưng Đức Mẹ và Chúa Thánh Thần đã hoá nên một căn nguyên đào tạo các tín hữu, sinh sản các linh hồn thánh thiện. Nương theo giáo huấn của Hội thánh, Dòng Đức Mẹ Đồng công đã tôn nhận: Mẹ Maria là Từ mẫu đã cưu mang, sinh thành, dưỡng dục. Mẹ chính là vị sáng lập, chủ động mọi sinh hoạt của Dòng. Mẹ chỉ huy dẫn dắt và huấn luyện mọi phần tử Dòng trong việc nên thánh. Chính vì thế, mà Đâng Sáng lập ngay từ rất lâu năm đã cho Hội dòng cử hành lễ Mẹ huấn thánh với mục đích: Thứ nhất, để noi gương Giáo hội tuyên nhận mẫu quyền của Mẹ đã huấn luyện từng phần tử của Dòng trên đường thánh thiện. Thứ hai, để ghi ơn tấm lòng từ mẫu, bằng cách sống đáp lại tình Mẹ với lòng hiếu thảo. Người con hiếu thảo là người biết vâng lời Mẹ dạy. Con ơi muốn nên thân người, Lắng tai nghe lấy những lời mẹ khuyên. Mẹ khuyên chúng ta điều gì? Mẹ khuyên chúng ta hãy tin vào Lời Chúa. Ngày xưa, khi nghe lời sứ thần, Mẹ tin vào Lời Chúa “bào thai trong lòng mình là Con Đức Chúa Trời”. Thì bây giờ mỗi lần rước lễ, chúng ta hãy tin thật Chúa Giêsu ngự trong bí tích Thánh Thể. Mẹ khuyên chúng ta hãy làm điều Chúa dạy. Điều Chúa dạy khi lập bí tích Thánh Thể: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Thì mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc thánh. Hãy vững tin vào quyền năng Chúa, Đấng đã biến nước lã thành rượu ngon, thì cũng làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu của Ngài để nuôi sống linh hồn chúng ta. Mẹ khuyên chúng ta: Hãy ăn năn cải thiện đời sống; tương ứng với Lời Chúa dạy: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng. Mẹ khuyên chúng ta. Hãy siêng năng lần hạt Mân Côi; Lời Chúa dạy: Hãy cầu nguyện luôn đừng bao giờ chán. Mẹ khuyên chúng ta. Hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ; điều răn thứ bốn Chúa dạy: Hãy thảo kính cha mẹ. Và trải qua muôn thế hệ, Mẹ không ngừng hiện ra dân này nước nọ, Mẹ khuyên lơn dạy dỗ cho cộng đoàn cũng như cho từng cá nhân. Nhiều khi thấy con cái hư từ mất nết làm cho Mẹ phải đổ nước mắt ra. Thưa anh em, Người mẹ trong gia đình không khóc vì thiếu sữa cho con bú; không khóc vì làm ăn thua lỗ; không khóc vì không đủ tiền để lo cho con ăn học… nhưng chắc chắn một điều làm cho người mẹ khóc đó là những đứa con không vâng mẹ. Những đứa con hứa với Mẹ mà không giữ lời. Lạy Mẹ huấn thánh, xin thương tha thứ những lầm lỗi thiếu sót của chúng con trong đời sống tận hiến. Xin Mẹ thương tỏ ra Mẹ là Mẹ thật của chúng con và làm cho chúng con đáng được gọi là con thật của Mẹ. Amen.
1. Một bé gái hỏi mẹ rằng bà ngoại mới chết hiện đang ở đâu. Mẹ đáp:-Bà đang ở với Chúa Giêsu trên Thiên đàng. Hôm sau bà mẹ nói chuyện với bạn, tỏ ý đau buồn nhắc đến mẹ mình mới mất. Bé gái ngạc nhiên hỏi mẹ:-Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó ở đâu, có phải không mẹ? Mẹ đáp:-Phải. Bé hỏi:-Mẹ biết là bà ngoại đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là bà mất ? Bà mẹ chợt tỉnh, không đau buồn nữa mà ý thức rằng mẹ mình đang vui vẻ bên Chúa. (Trích Truyện hay ý đẹp 3, trang 246).
2. Kính thưa Quí Ông Bà, Anh Chị Em, a) Chết không phải là mất, mà chết là đi về, về với Đấng Tạo-Hoá-Cội-nguồn, nơi mình phát xuất ra; chết là về Thiên đàng hưởng hạnh phúc với Chúa. Người trộm lành,-ta quen gọi là trộm lành-đã là trộm, sao lại lành được? Lành không phải vì anh ta lành thánh vô tội (chính vì tội mà anh ta bị đóng đinh), cũng không phải vì anh “điếc không sợ súng”, bị án đóng đinh mà hiên ngang không sợ chết; nhưng vì anh ta biết sám hối và cậy trông vào Ơn Cứu độ của Chúa. Chính Chúa trên Thánh giá tha tội và ban hạnh phúc Nước Trời cho anh: “Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ hưởng phúc trên Thiên đàng với Ta”. Lành vì được phúc của Chúa. Sau chết được về cõi phúc đời đời, gọi là Thiên đàng; chết rồi hưởng mặt Chúa, ở với Chúa sau khi được tha thứ. Gọi đấy là lành, vì chiếm được phúc thật. b) Thánh Phaolô ý thức điều đó rất rõ, nên ngài nói: “Đối với tôi sống là Đức Kitô, chết là một mối lợi!”. Nghĩa là gì ? Sống là do Chúa, bởi Chúa, nhờ Chúa mà có; vì Chúa mà sống. Chết là được Chúa, về với Chúa, “chiếm lĩnh” Chúa hoàn toàn nên là một mối lợi. Ngài còn nói: “Nếu Chúa muốn ngài tiếp tục sống ở trần gian này mà có ích cho anh em, thì ngài vâng ý Chúa mà sống. Còn nếu Chúa đưa về với Chúa, thì đấy là một phúc lợi cho ngài”. Chúng ta hay than vãn, buồn sầu trước cái chết hoặc trước một số phận. Có khi vì chúng ta chưa ý thức rõ rệt điều đó; hoặc là có ý thức, nhưng đức tin chúng ta chưa đủ vững mạnh để tuyệt đối cậy dựa vào Chúa. Một khi có Chúa mà Chúa là tất cả, là hạnh phúc tuyệt đối của ta thì sống hay chết không thành vấn đề phải lo âu. Sống mà sống trong Chúa, có Chúa là sống tốt, sống đẹp. Đáng ca tụng, đáng sống. Chết mà có Chúa, được Chúa là chết vinh quang, chết hạnh phúc. Còn sống mà không có Chúa thì chết quả là mất thực sự: mất Chúa, mất hạnh phúc. Là Kitô hữu, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. “Khi nào Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”. “Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin ta dầu có chết cũng sẽ sống và ai sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ”. Nếu vậy, chết đâu phải là mất mát để ta đáng phải mãi buồn.
Mấy ngày ngày ở giáo xứ Tây Hải của tôi có một tai nạn để lại cho chúng tôi biết bao suy tư. Anh Tôma Ngô Quang Trung, sinh năm 1980. Mãi đến năm 31 tuổi (2011) anh mới lập gia đình, sau năm năm ho có với nhau 2 con trai, đứa lớn 5 tuổi, đứa nhỏ 2 tuổi. Nghề điện là nghề anh yêu thích, anh làm điện trước khi vào công ty điện lực Đồng Nai. 13 năm trong nghề với một tay thợ lành nghề thì hôm nay một dòng điện bị dò rỉ đã đi qua người anh và thần chết đã xuất hiện ngay sau đó, sinh nghề tử nghiệp. Anh bỏ lại sau lưng tất cả : người bố bệnh thận yếu đuối quanh năm, vợ trẻ con thơ, giáo xứ, bạn bè, đồng nghiệp.
1. Câu chuyện kể về cái chết của anh : ca trực của anh vào lúc 19g00 ngày 11/10, công ty điện lực lại kêu anh tăng cường cho các anh em đang di dời một cột điện chìa ra đường vào lúc 16g00. Trời mưa nhiều trong những ngày bão, tấc cả các anh em đều ướt sũng khi làm việc ngoài trời. Sau khi đã xong việc, anh phát hiện vẫn còn một luồng điện nhỏ tê tê người, anh lại leo lên cột điện trở lại tìm chỗ dò điện để tránh gây hoạ cho người khác. Không ngờ luồng điện đó đi vào người đang ướt sũng và giật làm anh gục ngay trên cột điện. Các anh em vội lấy cây ngắt cầu giao điện, đưa anh xuống. Anh chỉ kịp mở mắt nhìn mọi người muốn nói gì đó rồi tắt lịm không một lời trăn trối ngày ngày sinh nhật lần thứ 2 của con mình.. Lạ một điều, trên người anh không có dấu hiện gì của người chết vì điện. Pháp y đến mổ tử thi, lấy chúc thực phẩm trong bao tử cũng không phát hiện điều gì nghi ngại. Anh em ban điện chỉ biết khóc thương cho một bạn đồng nghiệp của mình đã nằm xuống đang làm công tác. Vào nghề này nhiều rủi ro và đã làm là chấp nhận, hôm nay một người anh em đã nằm xuống. Toàn ban điện quyên tiền, đến phúng điếu, cho người ở lại với xác anh, khiêng quan tài anh đến nhà thờ và đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng.
2. Câu chuyện về đời sống của anh mới đáng phục : Với gia đình, anh là người chồng lý tưởng, là người cha tốt. Mỗi sáng anh ra mua chúc cháo ngoài chợ về bón cho con ăn ở sân nhà thờ, sau đó đi làm lo cho vợ và các con đã là hình ảnh quen thuộc với mọi người ở đây. Anh bảo với vợ và các con rằng, nghề điện là nghề anh yêu thích, nên anh sẽ không bỏ khi vợ đề nghị anh chuyển nghề gỗ của gia đình vợ. Vợ anh cũng biết đó là nghề vất vả, nguy hiểm nhưng là sở thích của chồng nên cũng để cho chồng tham gia. Chị không ngờ rằng điều đó lại đến với chồng của mình một cách nghiệt ngã. Đám tang chồng, chị lên đọc Lời Chúa và bài cám ơn cho thấy chị là người can đảm, có tư duy nhưng biến cố này đã làm cho chị quỵ xuống nhiều lần trước quan tài chồng. Với cộng đoàn anh là một chuyên viên khi về giáo xứ tôi đã cậy nhờ đến anh, đưa anh tham gia vào việc của cộng đoàn. Rất sẵn lòng và chẳng thuộc về phe ai, anh tham gia như một thành viên của giáo xứ, anh thực tâm làm việc cho Chúa trong lòng cộng đoàn giáo xứ Tây Hải. Đường điện ánh sáng chung của cộng đoàn được anh thiết kế cho khắp xóm, đổi dòng điện 3 pha cho cộng đoàn và lo điện nghĩa trang... là những dấu ấn để lại cho mọi người hưởng dùng. Với tôi anh còn là người bạn mỗi khi tôi hỏi khi cần, nhất là khi cần cho cộng đoàn và những người nghèo khổ : nhà tạm lánh cần có nguồn điện, tôi nói anh, anh cũng lấy tất cả các hồ sơ về làm, tôi chỉ việc ký tên, rồi anh xuống đi đường dây vào. Khi cần đổi điện 3 pha cho cộng đoàn và nhà tạm lánh, anh cũng làm như thế. Anh có mặt lúc làm đèn điện Noen, anh có mặt lúc gói bánh chưng cho người nghèo... những chương trình vui buồn của cộng đoàn đều thấy anh tham gia.
3. Anh đã ra đi và những gì còn lại Anh ra đi thật dễ dàng và đơn giản, nhưng để lại biết bao suy nghĩ cho tôi và mọi người. Một trẻ với 2 con nhỏ luôn là điều người ta suy nghĩ về anh. Điều lo ngại nhất chị tâm sự với tôi là việc giáo dục 2 cháu trai, chúng còn quá nhỏ, chúng chẳng biết gì. Vợ con biết sống thế nào khi không có anh, đường đi phía trước còn bao tăm tối biết đi thế nào? Tình thương dành trọn vẹn cho con cái, tình thương vượt lên trên niềm vui và hạnh phúc của người mẹ sẽ là chìa khoá gìn giữ con cái. Lòng yêu thương, tôn trọng, hỗ trợ, cầu nguyện của mọi người nhất là của gia đình chồng là trợ lực hữu hiệu cho người mẹ đơn thân giữ vững gia đình. Tôi và cộng đoàn mất đi một chuyên viên, một người chịu trách nhiệm về điện và mất đi một người bạn đáng quý. Những dấu ấn anh đã để lại lại là lời nhắc nhở cho mọi người tiếp tục sống, sống tốt cho Chúa, cho cộng đoàn và mọi người. Điều gì làm cho cuộc đời có ý nghĩa, cuộc đời còn gì lại sau khi đã nhắm mắt xuôi tay... ai chẳng xao xuyến điều ấy. Cuộc sống nơi anh cho thấy tình yêu gia đình, tình thương đồng nghiệp, những chia sẻ với cộng đồng và trên hết là niềm tin vào Chúa đã làm cho chúng ta trở nên vững vàn và có ý nghĩa. Sống và sống có ý nghĩa còn hơn sống qua đi trong ích kỷ và hưởng thụ. Sống dấn thân vì không biết ngày mai có còn không để cống hiến làm cho đời sống luôn sẵn sàng và đầy chất lượng. Chúa không tính những đồng tiền chúng ta tích luỹ, Chúa tính những đồng tiền cho đi. Chúa không tính số lượng chúng ta có mà là chất lượng trong những gì chúng ta sử dụng. Cuộc đời con người quá ngắn ngủi, hởi thở con người quá mong manh, không thuộc về chúng ta, không ai làm chủ được. Ông Gióp bảo chúng ta "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi : xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (G1, 21) và "Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao ?" (G 2,10) thật chí lý. Thánh Phaolô lại bảo : "Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa" (Rm 14,8) Anh đã bỏ mọi người ra đi, để lại bao luyến tiếc và lỗ hổng cho gia đình và cả cộng đoàn thây cũng chơi vơi. Viết cho một con chiên của cộng đoàn và cũng là người bạn trong khi nghe bài hát See You Again của Charlie Puth tôi cầu mong ánh sáng chói loà dẫn anh vào Thiên Quốc - nơi tôi hẹn gặp lại bạn, cầu mong những thiếu sót nơi anh sẽ được những người còn lại bù đắp và được Chúa khoan hồng, cầu mong những gì tốt lành anh để lại nơi chúng ta được trân trọng và nhân rộng lên, cầu mong vợ con của anh luôn mạnh khoẻ và bình an khi họ không có anh bên cạnh trong những ngày tháng dài còn lại. Lm Giuse Nguyễn Văn Tịch
Thứ năm - 14/04/2016 22:57 Thánh lễ an táng Cố linh mục Đa-minh Mai Ngọc Lợi đã được cử hành sáng nay ngày 12/04/2016 tại khuôn viên nhà thờ Đức Hưng giáo hạt Chư Prông do Đức Cha Alôsiô Nguyễn Hùng Vị Giám mục Giáo phận Kontum Chủ tế. Đức nguyên Giám mục Micae Hoàng Đức Oanh giảng lễ.
VỊ MỤC TỬ HIỀN HÒA QUẢN HẠT CHƯ PRÔNG GIÁO PHẬN KONTUM Thánh lễ an táng Cố linh mục Đa-minh Mai Ngọc Lợi đã được cử hành sáng nay ngày 12/04/2016 tại khuôn viên nhà thờ Đức Hưng giáo hạt Chư Prông do Đức Cha Alôsiô Nguyễn Hùng Vị Giám mục Giáo phận Kontum Chủ tế. Đức nguyên Giám mục Micae Hoàng Đức Oanh giảng lễ. Đức nguyên Giám mục Phê-rô Trần Thanh Chung hầu như hiện diện suốt tuần nay, đầy tràn tình thương mến thương Cha Cố Đa-minh, người bạn chăn chiên thân thiết gạo cội trên cánh đồng truyền giáo Kontum. Đoàn đồng tế giờ đây với hơn 130 Linh mục và trong suốt một tuần quàng xác Cha Cố (06/04-12/04/2016) đã có tổng cộng hơn 200 Linh mục với nhiều giềng mối giao hảo thân thương quy tựu về để thắp cho Ngài nén hương ca tụng Chúa và hy lễ tạ ơn. -------------------------------- Đàn chiên hợp nhất trong Đức Ki-tô
Bài ca nhập lễ sốt sắng: “Nào về đây gặp gỡ Đức Ki-tô. Người là Đấng trung gian Đất Trời. Người liên kết chúng ta nên một, một Chủ chiên và một đàn chiên.” Quả đúng là một Chủ chiên và một đàn chiên hợp nhất trong Đức Ki-tô khi hơn 5.000 giáo dân chật kín vòng trong vòng ngoài khuôn viên nhà thờ. Những gương mặt già nua tóc bạc còn nhớ như in thuở 1957, có một vị Linh mục trẻ 31 tuổi về làm Cha phó xứ Thanh Bình. Đến năm 1959, Ngài được đặt làm Cha chánh xứ Đức Hưng với chỉ một vài giáo dân, không nhà thờ. Nhưng cái tâm và cái tầm của người Mục Tử đã sớm bén duyên không chỉ là một Dinh điền Đức Hưng, nằm về phía Tây – Tây Nam Pleiku, trong địa bàn hành chánh quận Lệ Thanh (nay thuộc Đức Cơ), cách Pleiku khoảng 36km với khoảng 15.000 khẩu, mà còn là cả 29 Dinh điền với tổng diện tích gần 30.000 ha với tổng số 34.952 dân. Bởi vì: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”(Ga 10,16). Đơn sơ, hiền hòa và vui vẻ là cây gậy linh diệu của vị Mục Tử Đa-minh Đức Cha Alôsiô ngỏ lời đầu Thánh lễ: “Sự sống chỉ thay đổi chứ không mất đi, với 90 năm cuộc đời, Cố linh mục Đa-minh đã sống đơn sơ, hiền hòa và vui vẻ với hết mọi người. Giờ đây chúng ta cùng dâng Thánh lễ cầu nguyện cho Cha Cố. Xin Thiên Chúa là Đấng công minh và giàu lòng thương xót sớm ban phần thưởng Nước Trời cho Cha Cố”. Các nhân đức đơn sơ, hiền hòa và vui vẻ là cây gậy chỉ huy linh diệu mà vị Mục Tử Đa-minh đã thao luyện và sử dụng thành thạo trong suốt 59 năm thu phục dẫn dắt đoàn chiên. Tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào Đức Cha Micae giúp ôn lại cuộc đời truyền giáo trầm hùng của vị Mục Tử dạn dày kinh nghiệm trên miền Tây nguyên: “Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, qua Di chúc chúng ta vừa nghe, qua Kinh Thánh, qua anh chị em đã được gặp những chi tiết trong cuộc đời của Cố linh mục Đa-minh Mai Ngọc Lợi, cũng như qua tiểu sử đầu Thánh lễ và đặc biệt hơn nữa, tôi biết đêm hôm qua anh chị em đã dành những giây phút canh thức bên cạnh Cha Cố để cùng suy gẫm những kỳ công Chúa đã thực hiện trong suốt cuộc đời 90 năm, đặc biệt 59, gần 60 năm tại đất Chư Prông này. Thật đúng như bài Tin Mừng hôm nay, Cha Cố được ví như một hạt lúa miến gieo xuống lòng đất ba-zan này trong suốt 59 năm vừa qua, và hạt giống đó cứ từ từ biến dạng để rồi hôm nay mục nát hoàn toàn và trở thành hạt giống phục sinh. Và những kết quả của những thời gian qua cũng là những kết quả của hạt lúa miến Mai Ngọc Lợi đã gieo xuống và sẽ còn nhiều kết quả hơn nữa trong thời gian sắp tới. Như vậy, đời sống Cha Cố Đa-minh Mai Ngọc Lợi quả thật rập khuôn theo cuộc đời của Chúa Giê-su đã vào đời làm người nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, để đem ơn cứu độ cho bản thân mình cũng như cho nhiều người khác. Cả cuộc đời Cha Cố đã được tóm gọn trong lời giới thiệu của Đức Giám mục Chủ tế hôm nay: Một Mục Tử hiền lành tận tình phục vụ và hăng say loan báo Tin Mừng cho đến hơi thở cuối cùng”. Vị Mục Tử sống tình hiệp nhất với Mục Tử đoàn Cha Phê-rô Nguyễn Vân Đông Tổng Đại Diện Giáo Phận Kontum đọc bài từ biệt: “Kính thưa Cha Cố Đa-minh, con xin thay mặt anh em Linh mục đoàn Giáo phận Kontum nói lên lời từ biệt Cha. Con chắc chắn rằng tất cả: Giám mục, anh em Linh mục chúng con trong Giáo phận Kontum này, ai cũng đem lòng yêu mến và kính phục Cha. Cha ơi, Cha có biết không? Cha luôn là gương tốt cho anh em Linh mục chúng con mọi mặt của đời sống Mục Tử. Trong suốt 59 năm làm Cha xứ của xứ Đức Hưng này, Cha đã hết lòng phục vụ cho con chiên của mình, và cho cả những người không thuộc đàn chiên của mình. Cha đã không bao giờ phân biệt lương giáo”. …và nhuốm mùi chiên “Thuở xa xưa, thời khó khăn, Cha từng là một thầy thuốc bất đắc dĩ và chúng con biết Cha đã cứu rất nhiều người. Cha cũng đã từng là thợ máy rành nghề, sẵn sàng giúp ngay khi có người cần đến. Nhớ lại, với chiếc xe Honda 67 cũ kỹ, Cha đã không ngại ngần đi chợ ở thị xã Pleiku để mua giúp mọi thứ hàng hóa cho những người trong xứ. Con có nghe kể rằng, vì đi chợ nhiều lần, nên có bà bán hàng đã tò mò hỏi thăm: “Bác ơi, chớ bác gái đâu mà bác phải đi chợ mãi thế?”, Cha đã vui vẻ trả lời: “Bà ấy hy sinh rồi!” Khi xưa một mình Cha âm thầm lo lắng phục vụ cho những xứ đạo mà bề trên giao cho Cha, nay cả hơn chục Linh mục mới lo được cũng ngần ấy xứ đạo đó. Riêng tại Đức Hưng, Cha là người thành lập giáo xứ, là Cha sở tiên khởi và duy nhất trong suốt 59 năm, điều này hiếm thấy trong Giáo Hội và là độc nhất trong Giáo phận Kontum”. Đàn chiên tan tác vì sói dữ chiến cuộc đã được Vị Mục Tử nhân lành phục hồi Trong phần đầu lễ, Cha Quản Hạt Chư Prông Đa-minh Nguyễn Xuân Hùng đã đọc tiểu sử Cha Cố Đa-minh: “Cuộc chiến lại tiếp diễn, ngày càng khốc liệt hơn, Dinh điền tan vỡ, giáo dân tan tác, anh em Linh mục rời địa sở, Cha sở Đa-minh vẫn gắn kết với đàn chiên, vẫn hiện diện với giáo dân như một chứng nhân lịch sử của Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 hay Mùa Xuân 1975… Cha Cố Đa-minh bắt đầu và lại bắt đầu xây dựng lại”. Để cho chiên được sống và sống dồi dào “Cha Cố Đa-minh là mẫu gương của một Mục Tử ‘không chịu bó tay’ trước thời cuộc. Bị cấm cách, bị ràng buộc, Cha vẫn tìm đường tiến vào những vùng đất mới để tìm con chiên và nuôi sống họ. Cấm đến nhà thờ thì Cha đến nhà dân. Cấm dâng lễ thì Cha làm lễ giỗ…, giỗ từ nhà này đến nhà khác. Cứ như thế, Cha đã đặt nền cho những cộng đoàn tín hữu mới: Thanh Bình, Hoàng Ân, Hoàng Tiến…, rồi Thăng Đức, Thanh Hà, Phú Mỹ”. Giờ Ân phúc: Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình… Giây phút linh thiêng lưu luyến trước huyệt mộ này, Cha Quản Hạt Chư Prông một lần nữa đọc bài cám ơn: “Trong bầu khí thánh thiện và trang nghiêm của Thánh lễ an táng, cho phép con được thay lời cho gia đình huyết tộc, linh tông, giáo xứ Đức Hưng, gia đình Giáo Hạt Chư Prông, và đặc biệt con xin thay lời cho Đức Cha Đa-minh Mai Thanh Lương cám ơn quý Đức Cha trong Giáo Phận Kontum đã yêu thương đón nhận, nâng đỡ, và đồng hành với Cha Cố Đa-minh để Ngài có được mảnh đất tốt ươm gieo Tin Mừng trong suốt hành trình 59 năm qua”. Hai điểm nhấn trong bản di chúc mà Cha Tổng Đại Diện đã đọc lúc nãy giờ lại vang lên: “Chúng con không biết diễn tả như thế nào tâm tình của mình, chỉ biết nói lại chính tâm nguyện trong Di chúc của Cha Cố Đa-minh:‘Hẹn gặp nhau trên nước Thiên Đàng’”. Và ngỏ lời với các cấp chính quyền xã Thăng Hưng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia-lai: “Chúng tôi xin cám ơn Quý vị đã đến viếng thăm, và nhất là đã giúp cho Cha Cố Đa-minh của chúng tôi hoàn thành tâm nguyện cuối cùng là ‘Sống và chết tại mảnh đất này’”. Nghi thức và nghĩa cử cuối cùng, Đức Cha Alôsiô làm phép ngôi mộ và rải cho Cha Đa-minh nắm cát đầu tiên, chiếc hòm đơn sơ xinh xắn như hạt lúa mì nằm yên dưới lòng huyệt mộ tỏa sáng lung linh. Hơn 5.000 người lương giáo ngắm nhìn di ảnh và lần lượt rải lên mộ Ngài nắm cát tri ân. Đẹp rạng ngời trái tim của “Vị Mục Tử như lòng Chúa ước mong” giờ đây nép mình bên Tượng Đài Thánh Tâm Chúa Giê-su, lời nguyện khắc hai bên quan tài Ngài như dòng thơ điệu nhạc vút bay cao: “Hồn con nay vươn lên Chúa, Chúa ơi!”, “Con tin, con cậy vào Ngài, Chúa ơi!” Thánh lễ an táng Cha Cố diễn ra sao mà bình an linh thánh quá, Giáo phận Kontum chúng con xin cảm tạ ơn Chúa vì đời sống thánh thiện của Vị Mục Tử nhân lành. Và còn lời ước hẹn nào đẹp hơn lời ước hẹn của vị Mục Tử đã trọn vẹn sống chết vì đoàn chiên: Hẹn gặp nhau trên Thiên Đàng.
Đến giờ chết mới hay chức quyền, danh vọng đời này giả trá. Philipphê II là vua Iphanho, khi gần chết, gọi Hoàng thái Tử đến trước mặt, đoạn cởi long bào ra chỉ vào ngực mình đầy giòi bọ cắn rúc nhức nhối: “Hoàng thái Tử con ơi, hãy xem đây để biết thân phận người đời chết ra thế nào, và mọi sự sang trọng thế gian này đến lúc cùng là thế nào”. Ông Thêôđorê giải thích: Sự chết chẳng vị của cải, không nể chức quyền. Đứa quần rách áo ôm, hay Đấng đai mang cẩm bào thảy đều nên mồi cho giòi bọ rúc rỉa thối tha như nhau. Vậy mọi người, đến khi chết, dầu cho là Đấng làm Vua cũng chẳng đem theo được vật gì xuống huyệt, phải bỏ mọi sự sang trọng vinh hiển nơi giường mình tắt thở, như lời Ca vịnh: “Khi chết chẳng lấy được gì đi hết ; sự sang trọng cũng chẳng theo mình được xuống mồ” (Tv 48, 18). Cái chết làm chúng ta hoá ra trơ trụi. Chết là sự bóc lột tàn nhẫn nhất. Lúc ấy, lòng con người chẳng còn ham hố chi những sự ở đời, dù là vợ con, công danh, sự nghiệp, tiền của. Kẻ vô tín, không tin ở đời sau, thấy cái chết là sự chấm tận phũ phàng. Như lời Thánh Kinh: “Đối với mắt người đời, chết là như đi vào cõi tiêu diệt”. Thánh Antoine kể rằng lúc Hoàng Đế Alexandre Cả băng hà, có một quân tử kia la lên: “Kìa người hôm qua đạp đất dưới chân, nay bị đất vùi lên mình. Hôm qua cả bầu trời không phỉ tình, nay bảy tấc đất đã đủ dư ; hôm qua là đại tướng có vô số binh lính, trị khắp thiên hạ, nay chỉ có mấy âm công khiêng đi vùi lấp dưới mồ. Thôi, hãy nghe Lời Chúa phán: “Hỡi con người, thân con chỉ là một nắm bụi tro, còn khoe khoang nỗi chi?” (Hc 10, 9). Sao cuộc sống cứ mãi dốc tâm dốc lực mua công danh, sự nghiệp chốn đời này. Chết đến, mọi sự chẳng còn, mọi mưu mô toan tính đều hỏng mất hết, như lời Thánh Kinh: “Đến ngày ấy, mọi sự đo lường đều trật cả” (Tv 15, 4).
2. Hãy sống lành để chết lành, vì mọi việc lành sẽ theo ta về đời sau. Thánh Phaolô tu rừng, đánh dẹp xác thịt 60 năm trong hang núi. Đến giờ chết được êm ái hơn Hoàng đế Cicéron thống trị Lamã. Thánh Phêlixê tu dòng khó khăn, cả đời hãm mình ép xác hèn hạ cực khổ, đến giờ giã từ thế gian, được an nhàn khôn xiết. Trong khi Henri VIII là vua nước Anh, trót đời ngự ngai vàng bệ ngọc sang trọng lẫy lừng, đến giờ chết khốn cực vô cùng. Vậy để chết lành, ngay từ bây giờ ở đời này, phải tập từ bỏ. Từ bỏ tội lỗi, đam mê xác thịt, quyền lực danh vọng, địa vị. Sự từ bỏ ấy được Thánh Phaolô ví là có vợ hãy ở như không có, có của sống như không có gì. Phải luyện tập từ bỏ để ra đi được bình an, không nuối tiếc. Chỉ có ân phúc việc lành mới theo ta về đời sau. Hãy sống bác ái phục vụ Chúa trong tha nhân. Mt 25 nói rằng giờ chết Chúa sẽ hạch hỏi, thẩm xét chúng ta về các việc lành, việc bác ái đối với anh em. Coi đó là làm cho chính Chúa : “Xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta mình trần cho mặc…”. Kẻ ở đời quen chịu thua ma quỉ cám dỗ, để nó lấn hiếp mình; trong giờ lâm chung sao trông thắng nó được ? Giờ ấy phải có thần lực mới đổi lòng được. Thế mà cả đời tội lỗi, sống ích kỷ sao mong giờ chết Chúa ban ơn chống trả. Có đức tin, phải biết chuẩn bị chết lành. Hãy tập từ bỏ mọi sự và ma quỉ, dâng mình cho Chúa.
Cuộc đời là phù vân. Đó là một chân lý mà mỗi người chúng ta đều nhìn nhận. Không có gì trong cuộc đời là bền vững, là vĩnh cửu. Tất cả đều tàn phai theo thời gian. Tiền tài, danh vọng và sắc đẹp rồi cũng sẽ có một ngày vuột ra khỏi tầm tay của chúng ta. Thế nhưng, mỗi người lại sống cuộc đời gọi là phù vân này rất khác nhau. Có người nghĩ cuộc đời quá ngắn nên tranh thủ hưởng thụ bằng cuộc sống ăn chơi sa đoạ. Có người lại "tối mày tối mặt" để tích lũy cho mình thật giầu có. Có người tìm công danh. Có người trau truốt cho sắc đẹp. Có người đi tìm tình bạn. Có bao nhiêu người là có bấy nhiêu cách sống khác nhau. Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng gọi những kẻ giàu có là ngu dại. Cái ngu dại của người phú hộ trong dụ ngôn là không thể nhìn xa hơn cái kho lẫm mà ông tự xây cất để giam hãm mình vào; cái ngu dại của ông là không biết mình có đem theo được của cải nào sau khi chết hay không? Kẻ ngu dại nói chung là kẻ sống mà không biết mình đang đi về đâu, không biết đâu là ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Kẻ ngu dại là kẻ lấy phương tiện cuộc sống làm cùng đích đời người; họ chạy theo quyền lợi, danh vọng, tiền bạc, họ chối bỏ tiếng lương tâm để làm điều phi pháp; họ chà đạp người khác để đạt danh vọng, quyền bính. Cuộc sống hiện tại có thể là một cạm bẫy. Những giành giựt mưu sinh có thể biến chúng ta thành kẻ ngu dại, chỉ nhìn thấy chén cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống. "Cái khó không những bó cái khôn", mà còn trói buộc lòng quảng đại của chúng ta. Hôm ấy có người trong đám đông nói với Người: "Thưa Thầy xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Không hiểu thói quen thời bấy giờ có thể chúng ta thấy hành động của người ấy lố bịch. Ai lại đưa vấn đề chia gia tài ra nói với Ðức Giêsu! Và lại đưa ra khi Người đang ở giữa quần chúng như thế! Ở đây Người không phải là vị tiên tri đang rao giảng Lời Chúa sao? Người đâu có đến để làm thẩm phán hay trọng tài trên của cải vật chất? Nhưng người kia đã theo thói quen thời bấy giờ, thời mà pháp luật và việc thi hành pháp luật khá uyển chuyển. Pháp luật dạy gia tài cha mẹ để lại thì phải chia cho con cái và người con cả có quyền được nhiều hơn. Nhưng lòng tham của người này có thể khiến việc phân chia không được công bằng và kịp thời. Người con cả có thể trì hoãn việc phân chia để có thì giờ ăn huê lợi, hoặc có thể không chia đủ phần cho các em. Những người này có thể đem nội vụ ra kiện cáo trước pháp luật. Nhưng thường khi sự thủ tục phức tạp và tốn phí, người ta có thể xin những người có uy tín trong xã hội giúp đỡ. Các tiên tri ở trong số những người này. Và uy tín của Chúa Giêsu bấy giờ có khả năng sắp đặt những câu chuyện như thế. Tuy nhiên, Người lại không phải là hạng người như vậy. Ðang lúc ở giữa đám đông rao giảng Tin Mừng cứu độ. Người càng muốn tránh những thái độ thông thường khiến người ta có thể lầm về sứ mạng của mình. Hơn nữa, ở đây, căn cứ vào những lời Người nói tiếp theo, kẻ đứng ra kiện cáo có vẻ là con người tham lam, ít ra thánh Luca đã hiểu như vậy. Người dùng câu chuyện này làm tiền đề đi vào giáo huấn của Chúa. Chính giáo huấn này mới là cốt yếu. Chúng ta phải để ý đến giáo huấn này, chứ đừng đứng lại trong câu chuyện chia gia tài kia và thắc mắc vô ích. Ðó chỉ là cớ và khởi điểm cho một huấn thị về đời sống đạo đức. Thấy có kẻ để hở ra lòng tham lam của cải, Ðức Giêsu quay ra nói với quần chúng: "Hãy coi chừng, hãy lo giữ mình khỏi mọi thứ tham lam vì không phải ai được sung túc là đời sống kẻ ấy được bảo đảm đâu". Rồi Chúa Giêsu kể ví dụ về người phú hộ tưởng có nhiều của là được hạnh phúc vững bền, bởi vì nhỡ đêm nay chết, mọi điều người ấy đã sửa soạn sẽ về tay ai? Không nghĩ xa như vậy, thì thật là ngốc, không khôn ngoan như tác giả các sách khôn ngoan nói chung và như tác giả sách Giảng viên nói riêng, và vì ngốc như vậy, kẻ phú hộ ở đây được mô tả với những lời lẽ không được gây thiện cảm. Quả vậy, còn nhớ trong sách Giảng viên, ta đã thấy con người khôn suy nghĩ được đồng hóa với Salomon, với con người đã lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ở dưới ánh dương. Còn ở đây kẻ phú hộ được mô tả suy tính trong lòng mình: "Ta phải làm gì? Ta phải phá các lẫm cũ đi, xây những lẫm to hơn, chất lúa má vào đó, rồi sẽ nhủ hồn ta rằng: hồn ơi mày có chán của cải, nghỉ đi, ăn đi, hưởng đi". Tất cả nói lên một lòng dạ bẩn thỉu, ích kỷ, không biết nghĩ gì tới người khác và xã hội. Tác giả Luca theo Chúa Giêsu, ghét những tâm lý như vậy; và không thể chấp nhận được những kẻ làm giàu để hưởng thụ. Chúa tể của hạng người này là cái bụng! Khốn cho kẻ giàu có! Họ cậy có chắc của cải, tưởng là bảo đảm được đời sống. Nhưng đồ ngốc, ngay đêm nay, người ta (tức là Thiên Chúa) đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã sửa soạn kia sẽ về tay ai?". Dĩ nhiên người này sẽ được dùng, nhưng còn ngươi sẽ thế nào? Kết luận Chúa Giêsu bảo người ta: "Như thế đó, kẻ lo cất cho mình mà không biết làm giàu nơi Thiên Chúa". Người muốn nói không nên chỉ lo cất cho mình; mà nhất là phải biết làm giàu nơi Thiên Chúa nữa. Người cũng không lên án việc làm ăn ở đời. Người đòi chúng ta phải biết nghĩ đến tha nhân và xã hội nữa khi làm ăn. Và nhất là Người dạy chúng ta phải chất chứa công phúc trước mặt Chúa. Phải chăng Ðức Giêsu đã chẳng trả lời cho thắc mắc xao xuyến của tác giả sách Giảng viên. Ông lo lắng về tương lai sau khi lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ở dưới ánh dương; thì Ðức Giêsu bảo đang khi sống ở đời này chúng ta phải biết làm giàu nơi Thiên Chúa. Những tích trữ này, mối mọt không làm gì được, như lời sách Tin Mừng Mátthêu đã viết. Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài. Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất. Của cải trần thế là phương tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh. Con người dùng những sản phẩm do mình tạo ra để phục vụ đời sống. Con người không thể lệ thuôc làm tôi tớ cho của cải vật chất. Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu" (Lc 12, 15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất. Của cải không thể bảo đảm kéo dài đời sống hạnh phúc. Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn. Biết rằng ai cũng cần có tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh hướng đi. Hướng đi của những người có niềm tin phải là hướng đi về những giá trị của Tin Mừng và cùng đích của cuộc đời. Giữa chợ đời tranh chấp bon chen, người có niềm tin sẽ bị xem là kẻ mát mát, khờ dại, nhưng điều người đời cho là khờ dại chính là lẽ khôn ngoan, là luận lý của Thiên Chúa. Dù phải vất vả để lội ngược dòng để trung thành với những giá trị Nước Trời, chúng ta cũng hãy can đảm tiến bước và tín thác vào Chúa.
1. Cuộc sống ở đời này - cuộc sống của thân xác chúng ta - thật mong manh, ngắn ngủi: a) Thánh Kinh nói: “Đời người như hoa sớm nở chiều tàn”. Có những em bé chết yểu khi chưa nhìn rõ mặt cha, khi chưa cất tiếng gọi mẹ. Có những thanh niên đương độ xuân thì đã nằm xuống nơi chiến địa, trên công trường. Thánh Thomas tiến sĩ chết : 49 tuổi; Nguyễn Huệ: 40 tuổi; Hàn mạc Tử: 28 tuổi; Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: 24 tuổi ; Thánh nữ Maria Goretti: 12 tuổi và Chúa Giêsu: 33 tuổi. Ngay cả chúng ta lúc này đang ngồi đây có gì là bảo đảm? Ngày mai, hay biết đâu chỉ vài giờ sau một cơn bệnh tật (trúng gió) hay một tai nạn sẽ cướp mất ngay lập tức sự sống thân xác này. b) Người sống 70, 80 đã là thọ. Ông Cậu tôi sống góp mặt với đời được 61 tuổi đã là quí và cũng không thoát khỏi một thông lệ: cơn bệnh quái ác đã vùi dập số mạng. Ông Cậu tôi ý thức rõ: đời người quả mong manh, vắn vỏi. c) Thế nên, người ta thèm sống, sợ chết. Ai cũng tham sinh uý tử. Người ta không ngớt “chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu”. Trăm năm đời người có là gì so với thực vật: cây bách cây tùng (hàng mấy trăm năm). So với động vật: con rùa (sống hàng bao thế kỷ). Cụ già tóc bạc da mồi vẫn ham sống, sợ chết. Đức Hồng Y Mercier sống 74 tuổi, khi thấy sự chết đến gõ cửa phòng, đã buồn rầu khóc than: “Ôi đau đớn thay, phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”. Có người sống lâu gia tăng công trạng như vua Đavit; cũng có người sống lâu chất chứa tội ác như vua Salômon. Có người qua đi muôn đời nhắc nhớ, tiếc nuối; có người còn sống đã khối kẻ oán hận rủa hờn. Khoa học cố lắm cũng không ngăn con người khỏi chết, có chăng chỉ kéo dài cuộc sống thêm được chút ít thời gian nữa: năm 1850, trung bình con người sống đến 40 tuổi; năm 2000: hơn 60 tuổi. Vậy phải chăng sống lâu không quan trọng bằng sống lành? Phải chăng chết vinh hơn sống nhục? Phải chăng sống ngọt sống bùi, dẫu ngắn ngủi cũng cao quí hơn, đáng ước ao hơn là sống dai dẳng mà sống khê sống sượng! Cha ông vẫn nói: Thà rằng ăn nửa quả hồng, Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè !
2. Ông Cậu tôi chắc chắn giờ này hiểu rõ đời sống không hệ ở thời gian vắn dài, nhưng là ở phẩm chất của cuộc sống. Ông hiểu rõ lời Phúc Âm: “Ai ham sống, sẽ mất sống” (Ga 12, 25). Còn ai mất mạng sống đời này vì Ta, tức vì Chúa, sẽ giữ linh hồn được sống đời sau. Thật ra, chúng ta sợ chết vì chết gây chia lìa, xa cách người thân; chết khiến ta không đem theo được những cái cả đời ta mất công tìm kiếm, tích góp; chết mang theo một bí ẩn: ai có kinh nghiệm sau chết sẽ ra sao? 3. Chỉ mình Đức Kitô có kinh nghiệm này: vì Người là sự Phục sinh. Người duy nhất tự sống lại từ cõi chết. “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta sẽ không chết đời đời”. Tội Ađam-Evà đã đem đau khổ, sự chết chóc vào trần gian. Chúa Giêsu đã chết, chấp nhận chết thay để chuộc tội ta. Người không cứu ta khỏi cái chết thể lý, mặc dù Người có thể và Người đã bao lần làm phép lạ (bằng uy quyền Thiên Chúa của Người) làm hồi sinh sự sống thân xác. Nhưng bằng sự sống lại đã giải thoát ta khỏi chết muôn đời, nghĩa là khỏi sự chết thiệt mất phần linh hồn. Ta có tin vào Ơn Cứu Độ của Người không? Nếu có, thì giờ đây ta hãy sốt sắng dâng lễ tế cứu độ của Người, để xin cho người thân yêu của chúng ta, linh hồn Giuse, khỏi chết đời đời.
Sự ra đi của anh Hội nhắc nhở chúng ta ba điểm sau đây: 1. Đời người vắn vỏi. Tv 88, 48-49 : “Xin nhớ rằng đời con là một kiếp phù du. Loài người Chúa dựng nên thật mỏng manh quá đỗi. Sống làm người ai không phải chết. Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty?”. Gv 1,1: Đời là phù vân! Tất cả phù vân và mọi sự chỉ là phù vân! “Đời sống con người chóng qua như cỏ” (Tv 102). Đời con người như hoa cỏ. Cỏ mau héo, hoa chóng tàn. Đời con như hoa sớm nở tối tàn… Tv 102, 15-16: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi. Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng. Một cơn gió thoảng là xong. Chốn xưa mình ở cũng không biết mình”. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa thì nhìn cái chết theo chiều hướng khác. Sinh ký tử quy: chết là về với Chúa, là về nhà Cha. Nên cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ, là giai đoạn chuẩn bị tiến về cõi đời đời. Nếu chuẩn bị tốt có thể ra đi sớm và bình an.
2. Cái chết nào cũng có tính bất ngờ của nó. Nay tôi đang khỏe mạnh; ai dám bảo rằng mai không đau yếu, không thể chết. Không biết chồng chết trước hay vợ con chết trước, già chết trước hay trẻ chết trước. Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời hay không trời ! Cái chết thật bất ngờ. Không hẹn chẳng hò. Anh Hội ra đi đột ngột, không một lời từ giã. “Sinh hữu hạn. Tử bất kỳ”. Số người Công giáo chết đột ngột không kịp chịu các phép Bí Tích là 1/3. Học hành thi cử, buôn bán làm ăn thành công hay thất bại đều có thể rút ra những bài học hữu ích cho bản thân gọi là kinh nghiệm. Trong mọi thứ kinh nghiệm ở đời thì có một cái không bao giờ có kinh nghiệm cả: CHẾT! Không ai biết trước mình chết lúc nào, ở đâu (trong nhà, ngoài đường), cách nào ! Đức Giáo Hoàng Phaolô VI về cuối đời đã có những suy tư về sự chết người ta còn giữ được. Người viết: “Đã đến giờ tôi phải ra đi” (2Tm 4, 6). “Tôi biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều tạm này” (2Pr 1, 14). Hồi kết thúc đã điểm!
3. Hãy sẵn sàng. Chúa Giêsu dạy: “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40). “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới gõ cửa, mở ngay” (Lc 12, 35-36). Một người mẹ cắt nghĩa cho cô con gái bé bỏng về cái chết cuả cha cô. Vì em quá nhỏ chưa đủ trí khôn hình dung được, nên người mẹ nói rằng: “Chúa đã gọi cha con, rồi dần dần Ngài cũng sẽ gọi mẹ con mình về sum họp”. Cô bé ngẩng cao đầu nhìn mẹ: “Mẹ con mình gói sẵn quần áo nhé! Để nếu Chúa gọi sớm mình có thể đi ngay. Đừng bắt Chúa chờ !” Kết: Hãy sẵn sàng, vì: 1. “Mỗi người sẽ lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm” (2Cr 5, 10). 2. Đến ngày phán xét, “mỗi người sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14, 12), “về tất cả những việc vô luân và tất cả những lời hỗn xược xúc phạm” (Gd 15). 3. Phải “thanh toán đến đồng xu cuối cùng” (Lc12, 59), vì Chúa công minh.