Một buổi chiều, có một lữ khách nghèo tìm đến trước một dinh thự nằm ở ven một cánh rừng để AnTáng 201
Một buổi chiều, có một lữ khách nghèo tìm đến trước một dinh thự nằm ở ven một cánh rừng để xin trọ qua đêm vì lỡ độ đường. Không ngờ đây lại là nơi nghỉ chân sau những chuyến đi săn của một nhà quí tộc giầu có nhưng nổi tiếng là hết sức keo kiệt ích kỷ. Thế là đích thân chủ nhà ra xua đuổi không thương tiếc: “Đây là dinh thự của ta chứ không phải là nhà trọ mà ai muốn vào ở cũng được”! Cánh cửa đóng xập lại ngay. Nhưng người khách lạ vẫn kiên nhẫn đập cửa mãi cho đến khi nhà quý tộc lại phải ra mở cửa quát tháo to tiếng. Người khách vẫn từ tốn đề nghị: “Thưa ngài, xin ngài bình tĩnh bớt giận, xin phép cho tôi được hỏi ngài ba câu, nếu như ngài là người thông minh trả lời được thì tôi sẽ xin đi khỏi đây ngay”! Nhà quí tộc nổi máu tự ái nên nhận lời, vẫn chắc mẩm mình sẽ thắng. Người khách bắt đầu hỏi câu thứ nhất: “Ai đã ở trong dinh thự này trước ngài” ? Nhà quí tộc trả lời được ngay: “Cha ta đã ở đây chứ ai” ? Người khách lại hỏi câu thứ hai: “Thế ai đã ở đây trước ông thân sinh của ngài” ? Nhà quí tộc ngẩn ngơ không biết trả lời thế nào, vì cha con ông ta chỉ mới làm chủ tòa dinh thự này sau khi người chủ quí tộc trước đây đã bị phá sản rồi tự tử chết đã rất lâu. Đến đây thì người khách mới nói: “Nếu vậy thì cha ngài và cả ngài nữa, cũng chỉ là những ngươi khách trọ ở đây trong một thời gian nào đó, rồi đến một ngày chính ngài cũng phải nhường lại cho một chủ nhân khác. Hóa ra cái dinh thự nguy nga này cũng chẳng khác gì một thứ quán trọ”. Người khách lạ nhận ra đã có sự đánh động sâu xa nơi nhà quý tộc, ông ta ngỏ lời: “Vì vậy, tôi thành thật khuyên ngài đừng quá phung phí tiền bạc để làm đẹp và chỉ bo bo giữ lấy cho riêng mình một cái quán trọ tạm bợ chóng qua như thế này. Ngược lại, tôi nghĩ ngài nên cởi mở tấm lòng để giúp đỡ những người nghèo khổ và cơ nhỡ thiếu thốn. Và như thế, chính là ngài đã biết chuẩn bị sửa soạn cho một chỗ ở vĩnh cửu đời sau trên Nước Trời”.
Chúa Nhật X thường niên - Năm C Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm AnTáng 202
Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen. Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. "Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim... đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ". Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại. Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra. Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa. Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi. Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết. Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nổi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: "Bà đừng khóc nữa", rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy!". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa...". Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng. Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại.Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. "Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại" (1V 17, 21-22). Lần khác, "Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại...Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó... thịt mình đứa trẻ nóng lên... đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra" (2V. 4, 32-35). Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: "Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em... kéo dài đến mãi nửa đêm... một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: "Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!". Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít" (Cv 20, 7-12). So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc Âm kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)... Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết. Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11,25-26). Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: "Thầy đi để dọn chỗ cho các con... Thầy sẽ trở lại đón các con...". Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: "Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta" (Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời: "Chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra" (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang. Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người. Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ: R. I. P. Đây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh: requiescat in pace - Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi. Đứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Đấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu. Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mãn.
LỄ AN TÁNG ÔNG CỐ SƠ CHINH (Lc. 23, 29-43) Trọng kính quí cha đồng tế, quí tu sĩ nam nữ, gia đình tang hiếu và ông bà anh chị em thân mến,
Sống ở đời, được thương, được nhớ, được quan tâm là nhu cầu thiết yếu của mọi người. Chính vì AnTáng 203
Sống ở đời, được thương, được nhớ, được quan tâm là nhu cầu thiết yếu của mọi người. Chính vì thế anh trộm lành trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, anh không xin Chúa tha tội cho anh. Cũng chẳng xin Chúa làm phép lạ để anh xuống khỏi thập giá, nhưng anh chỉ xin Chúa một điều duy nhất đó là: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Mẹ Mônica trên gường hấp hối cũng nhắn nhủ người con thân yêu của mình là Âugustinô như sau: “Con ơi! Mai ngày mẹ chết con chôn mẹ ở đâu cũng được, nhưng mẹ xin con một điều, đó là hãy nhớ đến mẹ mỗi khi con bước đến bàn thánh”. Hãy nhớ đến tôi, hãy nhớ đến mẹ, phải chăng đó cũng là nỗi khát mong duy nhất của những người thân yêu khi được Chúa gọi về, họ chờ đợi nơi chúng ta. Tại sao vậy? Thưa bởi vì Giáo lý Giáo hội Công Giáo số 1030 dạy rằng: “Những tín hữu dù chết trong ơn nghĩa Chúa, vẫn phải chịu thanh luyện sau khi chết, đây là cuộc thanh tẩy cuối cùng để xứng đáng bước vào thiên đàng”. Thế thì, với thân phận con người “nhân vô thập toàn”, làm sao tránh khỏi những va vấp, những thiếu sót. Giờ đây họ phải chịu thanh tẩy ở nơi ngưỡng cửa hi vọng. Nơi chốn này, từng giây từng phút, họ chịu lửa hồng nung nấu, lửa khao khát hưởng thánh nhan Chúa, ngọn lửa thanh luyện vì những lầm lỗi do tính yếu đuối của kiếp nhân sinh. Nhưng bởi vì không còn khả năng lập công cho mình được nữa, cho nên, từng giây từng phút, họ trông chờ chúng ta nhớ đến họ là như thế. Việc tưởng nhớ các linh hồn mang những ý nghĩa sau đây:
1. Tưởng nhớ để biết ơn Thế giới chúng ta đang sống hôm nay sẽ ra sao, nếu không có các bậc tiền nhân đi trước chúng ta. Nếu không có ông bà cha mẹ, thì làm gì chúng ta có mặt trên trần gian này. Nếu ông bà cha mẹ không truyền lại đức tin, thì làm sao ngày hôm nay chúng ta biết đường thờ phượng kính mến Chúa. Như vậy, các ngài làm nên đời chúng ta. Các ngài xây dựng đất nước cho chúng ta. Các ngài truyền lại cho chúng ta một di sản cao quí đó là đức tin vững mạnh vào Chúa. Vì thế, tưởng nhớ đến các ngài để biết ơn. Cầu nguyện cho các ngài là một việc làm hợp lý, là thực hành giới răn thứ tư mà Thiên Chúa đòi buộc. 2. Tưởng nhớ để cầu nguyện Công đồng Trentô dạy rằng, các tín hữu còn sống có thể cứu các linh hồn nơi luyện ngục như: “Đọc kinh, lần hạt, ăn chay hãm mình, bố thí, nhường ân xá, nhất là xin lễ và dâng lễ cầu cho các linh hồn ấy. Trong những việc làm ấy thì Thánh lễ Misa có giá trị nhất ”. Thánh Gioankim khẩu nói rằng: “Khi Thánh lễ Misa cử hành trên trên bàn thờ, thì Chúa sai nhiều thiên thần xuống mở cửa luyện ngục đưa các linh hồn về Thiên đàng”.
3. Tưởng nhớ để biết mình Chúng ta không thể lột da sống mãi ở đời này. Bởi vì “Sinh lão bệnh tử là kiếp nhân sinh”. Càng sống lâu càng gần cái chết hơn. Ngay khi chúng ta đang sống, những dấu hiệu của sự chết cũng đã đến. Chẳng hạn như: tóc bạc, mắt mờ, răng rụng, lưng đau, mỏi gối, chân run.... và cuối cùng là tắt thở. Cái chết không ai tránh khỏi. Biết bao người tài giỏi giờ đây đã nằm dưới lòng đất lạnh. Biết bao lãnh chúa hùng cường làm nghiêng trời lệch đất, giờ đây chỉ còn là nắm tro tàn. Hiểu như thế, chúng ta biết chuẩn bị cái chết cho tốt đẹp. Anh chị em thân mến, Bản thân con không hề hay biết về ông cố Giuse Maria, nhưng “xem quả thì biết cây”. Chúa đã ban cho ông bà cố 9 người con. Mà ông bà đã quảng đại dâng Chúa một người con gái đó là Dì Chinh, thuộc dòng Trinh Vương. Chúa ban cho Dì Chinh xinh xắn giống bà Cố, và có nhiều khả năng. Dì Chinh được như thế là do hấp thụ nền giáo dục tốt từ nơi ông bà cố. Cây tốt thì sinh trái tốt. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài không thua lòng quảng đại của ông bà cố. Bằng chứng là ông cố được Chúa gọi về ngay trong Năm Thánh. Và tình thương xót của Chúa dành cho ông thật sống động là Chúa gọi ông về ngay trong ngày Chúa nhật kính lòng Chúa thương xót. Rồi khi ông nằm xuống thì có rất nhiều người đến viếng thăm, đọc kinh, cầu nguyện cho ông, trong đó có quí Sơ dòng Trinh Vương là đông nhất. Nghĩa cử cao đẹp này con thấy Bà Cố vui nhiều hơn buồn, cười nhiều hơn khóc, và Bà nói với con là: “Ông đã về với Chúa rồi”. Hôm nay, sự hiện diện đông đảo của mọi thành phần dân Chúa trong thánh lễ an táng này, cũng nói lên tấm lòng thương xót của Thiên Chúa đã dành cho ông. Nhưng thưa anh chị em, với 83 năm trong ơn gọi làm con Chúa, với nhiều năm sống linh đạo tận hiến cho Đức Mẹ, với 7 năm hiến tế trên giường bệnh, với thân phận con người mỏng giòn yếu đuối làm sao tránh khỏi những lỗi lầm thiếu sót. Vì thế, trong niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ cầu nguyện cho ông, nhờ Thánh lễ chúng ta dâng, và nhờ giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu, xin lòng Chúa thương xót thanh tẩy linh hồn ông. Xin Mẹ Maria, Mẹ của lòng thương xót, cầu thay nguyện giúp. Xin lòng Chúa thương xót, tha thứ cho linh hồn Giuse Maria, để ông sớm về hưởng thánh nhan Chúa. Amen.
LỄ GIỖ 2 NĂM Đức Cố Hồng Y F.X.NGUYỄN VĂN THUẬN. (Ngày 15.9.2004 tại Chapelle, 88 Avenue Denfert Rochereau, 14e arrond, PARIS)
Hôm nay là Lễ giỗ 2 năm của Đức Cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận. Cám ơn Cha Minh đã AnTáng 204
Hôm nay là Lễ giỗ 2 năm của Đức Cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận. Cám ơn Cha Minh đã có nhã ý mời tôi chia sẻ một vài cảm tưởng riêng về Ngài dịp này. Tôi sẵn lòng, vì trước đây tôi cũng là chủng sinh của Địa phận Nha Trang, từng thọ ơn Ngài là chủ chăn rất nhiều. Quả thực, Ngài là Vị Cha tinh thần mà cuộc đời đã để lại nhiều ấn tượng; sự ra đi gieo niềm thương nhớ luyến tiếc nơi nhiều người. Cũng cám ơn Quí ông bà anh chị em sẵn lòng nghe những phát biểu còn non yếu, bất cập, thô thiển của tôi về Ngài. Vì nói về Ngài, lẽ ra cần nhiều Vị giảng thuyết hùng hồn tài ba.
1. Cảm nghiệm đầu tiên của tôi về Đức Cố Hồng Y Thuận: Đó là một con người sống đơn giản, không màu mè, kiểu cách. Tôi không dám dùng chữ đơn sơ, vì sợ có người hiểu lầm bảo tôi đánh giá Đức Hồng Y đơn sơ như trẻ con. Ngài đơn giản, không màu mè ngay trong cung cách giảng thuyết của một Vị Chủ chăn : Ta nhớ Ngài đã đi đây đó giảng thuyết rất nhiều và thu hút người nghe. Trước đây, khi còn ở Địa phận Nha Trang, tôi thấy cách giảng thuyết của Ngài thế này: Kể vài ba câu chuyện. Ví dụ chuyện thời sự quốc tế đây đó; rồi chuyện trong Nước; rồi chuyện ở một xứ đạo nào đó trong Giáo Phận. Những câu chuyện thường mang tính cách hài hước kín đáo hay chút hóm hỉnh. Người nghe cười nhẹ và có cảm giác ban đầu chẳng ăn nhập gì với nhau. Nhưng vài ba phút cuối, Ngài mới xâu kết ý nghĩa các câu chuyện lại với nhau theo một chủ ý muốn nói. Rồi dẫn đến kết luận gợi ý nhanh chóng và kết thúc. Người nghe ngỡ ngàng cứ theo dõi, chờ đợi thêm. Rồi chưng hửng, thèm thuồng. Cách giảng ấy kích thích, bắt người nghe phải suy nghĩ bổ sung thêm về ý nghĩa của các câu chuyện và đâu là điều Đức Cha còn muốn nhắn nhủ thêm từ đó.
2. Đơn giản, vì Ngài không viết sách luận thuyết về Thần học hay hùng hồn diễn giải theo kiểu thường tình của các nhà thần học, thuyết giảng đại tài. Ngài viết trong những chương đầu của cuốn Chứng nhân hy vọng : «Con không quen nói nhiều về khoa học và thần học. Cha biết con chỉ là một cựu tù nhân»[1]. «Hãy nói như con cảm thấy. Hãy làm như Đức Giáo Hoàng đã bảo con. Với tâm tình khiêm tốn đơn sơ!»[2 Thế nhưng, đơn giản không màu mè không có nghĩa là bên trong rỗng tuếch, nông cạn. Không có gì để nói. Không biết cách nói hay diễn tả. Nếu thế thì Đức Giáo Hoàng và Giáo Triều có thèm gì muốn nghe và mời Ngài giảng tĩnh tâm vào năm 2000, năm khai mở thiên niên kỷ thứ ba! Đơn giản mà vẫn không xa lìa Kinh Thánh, truyền thống Công Giáo và Giáo Huấn của Giáo Hội. Chính Đức Gioan Phaolô II đã khen ngợi Ngài, sau khi nghe giảng: «Hiền Đệ đã dựa vào Kinh Thánh & Giáo huấn của các Giáo Phụ, cũng như trên kinh nghiệm bản thân mà Hiền Đệ thủ đắc đặc biệt khi bị cầm tù vì Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Hiền Đệ đã làm nổi bật sức mạnh của Lời Chúa, Lời mà đối với các môn đệ Chúa Kitô vốn là sức mạnh của niềm tin, là lương thực cho tâm hồn, và là nguồn mạch tinh khiết và trường cửu cho đời sống thiêng liêng của họ»[3]
3. Đơn giản không có nghĩa là hững hờ, vô bổ, vô tích sự. Không quan tâm, lạnh lùng hay vô thưởng vô phạt. a) Cuộc sống đơn giản của Ngài đã từng thấm sâu khi Ngài còn ở Việt Nam, ở Chủng Viện, ở Địa phận: Lần kia, có dịp dự bữa ăn ngồi gần Đức Cha. Dĩ nhiên ở tình huống đó, tôi bẽn lẽn, ăn ít và ăn chậm. Ngài ăn nhanh hơn. Nhưng vẫn để ý và sau đó, gắp bỏ cho tôi nhiều lần. Chờ tôi ăn xong, Ngài mới làm dấu kết thúc.Tôi cảm nhận thấy Ngài quan tâm đến Chủng sinh, Linh mục với tâm hồn người Cha và trái tim săn sóc của người Mẹ. Cứ thế, các bài giảng thuyết đơn giản của Ngài đã lan tỏa sang tận Mỹ Châu Hoa Kỳ …và len lỏi vào cả lòng Đức Giáo Hoàng, Giáo Triều Rôma, trung ương Giáo Hội. Chỉ vì Ngài đã xác tín vào Tình Yêu đổi mới của Chúa Kitô, khai mở một nẻo đường hy vọng tràn trề cho mọi người bước theo. b) Đơn giản mà không u uất thất vọng, đầu hàng đau khổ, cam tủi nhục đổi vinh quang tạm thời. Ngài xác định: «Tôi mang sợi giây này và Thánh giá này hằng ngày trên mình (sợi giây các Đức Giám Mục vẫn đeo), không phải để nhớ lại kỷ niệm ngục tù». Nhiều khi người khác nhớ lại uất hận, căm tức. Còn Ngài: «mà để giúp tôi luôn xác tín rằng…chỉ có Tình Yêu Chúa Kitô mới thay đổi được trái tim con người»[4] Chính Tình Yêu Chúa Kitô đó đã làm mềm lòng những anh coi ngục. Có người đã để cho Ngài được viết sách tu đức khi bị quản thúc tại làng Giang Xá, để các Linh Mục ở cách xa Ngài cả 300 cây số đến gặp Ngài ban đêm để được nghe nói về Công Đồng Vaticanô II (vì trước ở miền Bắc không có ai dự CĐ Vaticanô II cả). Cán bộ coi tù dẫn Ngài đi xức dầu bệnh nhân ban đêm và cả nhờ ông ta, mà Ngài đã truyền chức Linh Mục cho nhiều chủng sinh các Giáo Phận gởi tới trong tù![5]. Rồi ngay cả khi cán bộ không biết phải viết báo cáo hằng tháng về Ngài ra sao, Ngài đã thảo giùm. Rồi anh ta ký. Cấp trên xem, khen, thưởng chai rượu cam. Đem về hai người uống chung với nhau: cán bộ coi tù và Ngài[6] c) Đấy, đơn giản mà không rỗng tuếch, nhưng hữu hiệu: những con đường không hiểu được của Thiên Chúa! Ngay trong đớn đau, vẫn làm mục vụ, vẫn cậy trông. Vẫn gặp được an ủi. Vẫn hy vọng ngập tràn. Đơn giản, nhưng lại là chứng nhân của niềm tin và hy vọng. Đức Thánh Cha kết luận về các bài giảng tĩnh tâm của Ngài : “Qua những lời huynh đệ và đầy khích lệ, Hiền Đệ đã dẫn đưa chúng tôi trên những nẻo đường hy vọng mà Chúa Kitô đã mở ra cho chúng ta… và kêu gọi chúng ta luôn canh tân trên bình diện bản thân và Giáo Hội”[7]4. Đơn giản mà vẫn hào hứng, đầy tính thuyết phục. Đơn giản mà không ở nhưng, nhưng hoạt động như một chứng nhân tích cực. Và đơn giản mà vẫn không thấp hèn, tẻ nhạt ; nhưng ẩn chứa một ý chí cao thượng, tình cảm chân chính vĩ đại. Xin đan cử lời Ngài viết về Mẹ mình, bà cố Elisabeth : “Mỗi tối, mẹ dạy con những chuyện Kinh Thánh. Mẹ kể cho con lịch sử các Thánh Tử Đạo VN, nhất là về tổ tiên chúng ta. Mẹ dạy con yêu mến Tổ Quốc. Mẹ giới thiệu Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng như mẫu gương các nhân đức kitô giáo. Mẹ là phụ nữ mạnh mẽ đã chôn táng các anh em mình bị những kẻ phản bội thảm sát, những người mà Mẹ đã chân thành tha thứ sau đó, luôn tiếp đón họ như thể không có gì xảy ra. Khi con ở tù, Mẹ là nguồn an ủi nâng đỡ lớn lao cho con. Mẹ nói với mọi người : Xin cầu nguyện để con tôi được trung thành với Giáo Hội và ở lại nơi nào Chúa muốn”[8] Đơn giản mà hòa quyện và bay bổng : những tâm tình yêu mến Thiên Chúa, Giáo Hội tột độ hòa quyện vào tình yêu đối với Tổ Quốc, dân tộc, gia đình…
5. Đơn giản nhẹ nhàng, mà vẫn sâu đậm lắng đọng : “Con có một Tổ Quốc VN, Quê Hương yêu quí ngàn đời. Một Nước VN, một dân tộc VN, một tâm hồn VN, một văn hóa VN, một truyền thống VN. Là người Công giáo VN, con phải yêu Tổ Quốc gấp bội”[9] Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận là thế. Đó là cảm nghiệm của tôi về Ngài: Một người VN yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào. Một chứng nhân hy vọng, yêu Thiên Chúa, yêu Giáo Hội.
Cuộc chia ly nào cũng đau đớn. Mất mác nào cũng đau buồn và nhớ thương khi người thân, người. AnTáng 205
Cuộc chia ly nào cũng đau đớn. Mất mác nào cũng đau buồn và nhớ thương khi người thân, người yêu của chúng ta ra đi vĩnh viễn. Hợp rồi lại tan. Vui rồi lại buồn. Cười rồi lại khóc. Đó là. Kiếp người là một hành trình đi về. Về với cội nguồn, nơi ta xuất phát. Chẳng ai sống mãi trên thế gian này. Kẻ trước người sau, lần lượt sẽ ra đi. Nhưng nỗi đau nào ai thấu khi nhìn người ta yêu về nơi vĩnh hằng không một lời từ biệt. Lời an ủi trong lúc chia lìa nhắc ta rằng: " Hỡi người hãy nhớ là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro" . Thật vậy, đó là quy luật của tạo hóa. Sinh lão, bệnh,tử. Ngày ta sinh ra cất lên tiếng khóc chào đời, thì ngày ta ra đi người ta khóc thay cho chúng ta vì tiếc thương ta. Nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là mất con, nhìn thấy con chết trong đau đớn. Những câu hỏi của Đức Thánh Cha đặt ra có thể đưa chúng ta sát gần với cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su hơn. Khi chúng ta suy niệm mầu nhiệm thương khó, thì chúng ta có khóc thương như chúng ta đang chứng kiến và cảm thông với các nạn nhân bị chìm tàu đang khóc thương con của họ, hay chỉ là một biến cố xẩy ra cách đây hơn hai ngàn năm?. Cha mẹ thế gian còn biết thương con cái mình như thế, huống chi Chúa Cha, Đấng yêu thương nhân loại, thì Ngài cũng đau đớn tột cùng khi nhìn Người Con Yêu của Ngài đang bị hành hình, giết chết và treo trên cây thập giá đầy ô nhục và tủi hổ. Thế nhưng, tình yêu Thiên Chúa không dừng lại ở đau khổ và cái chết. Thiên Chúa đã biến nó thành vinh quang của niềm vui Phục sinh. Sự sống đã chiến thắng. Đau khổ biến thành chiến thắng trước sự độc ác và sự dữ của thế gian. Chết không phải là hết mà là bước vào thế giới thiên quốc của Thiên Chúa. Đó là đức tin của chúng ta, đó là lý tưởng cho chúng ta sống và đi theo Chúa Ki-tô. Cụ thể, trang Tin mừng chủ nhật Phục sinh hôm nay đã thuật lại cho chúng ta nghe, các tông đồ đã làm chứng khi Chúa sống lại. Ngôi mộ trống, tấm khăn liệm. Tảng đá lăn ra, và Chúa Giê-su hiện ra nói với các tông đồ. Khi nói về cái chết của mình Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói: Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha. Cái chết như vậy có nghĩa là một sự hội ngộ khiến chúng ta đựơc quy tụ về với Đấng đã sinh thành ra mình. Đây là một cuộc trở về nhà Cha thật sự. Con người có sinh có tử, đó là luật của Đấng Tạo Hoá đã an bài, không ai biết được mình sẽ ra đi vào ngày giờ tháng năm nào và ở đâu. Con người không chọn và không định được ngày giờ ra đi. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Tạo Hoá, con người không thể làm ra sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết.
Nhìn vào bảng Tiểu sử của Cha cố, chúng con thật ngưỡng mộ về hành trình học thức - học vị AnTáng 206
Nhìn vào bảng Tiểu sử của Cha cố, chúng con thật ngưỡng mộ về hành trình học thức - học vị của Cha; song điều chúng con ngưỡng mộ hơn cả là hành trình 54 năm Linh mục của Cha luôn tỏa sáng hình ảnh vị Mục tử- Người Tôi Trung theo Chúa. Chúng con cảm ơn Chúa, cảm ơn Cha đã chọn về Gia đình Giáo hạt Phước Lý sống đời mục tử, nêu gương sáng Thánh Thiện đến hơi thở cuối cùng, và cha đã đóng góp phần nhiều cho gia đình Giáo hạt, nhất là trong những năm dưỡng bệnh của Cha. Quả thế, cha luôn đón nhận trong vui tươi mọi gánh nặng bệnh tật, tuổi tác, không phải một vài ngày mà là hành trình nhiều năm tháng. Trong Đức tin, chúng con nhận ra nơi Cha như Hiến tế đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Thập giá của và cho Giáo hội- Giáo Phận và cách riêng với Giáo hạt Phước Lý chúng con. Thưa Cha cố G.B kính yêu. Đứng trước sự ra đi về nhà CHA trên Trời của Cha cố, cho chúng con cảm nghiệm sống động sinh ký tử quy của phận người mong manh. Hành trình dương thế 84 Năm của Cha cố kể như đạt quá ngưỡng Thượng Thọ mà ai cũng mong mỏi, ấy thế mà sao qúa ngắn ngủi. Cha đã cho chúng con cảm nghiệm sâu sắc: Nhà Cha trên trời mới là quê hương đích thực chúng con phải hướng tới.
“CON SẼ CHÚC TỤNG CHÚA ĐẾN MUÔN ĐỜI” (Tv 82,2). Câu tâm niệm Cha chọn sống, cả cuộc đời gắn bó và đã tỏa sáng trong cuộc đời của Cha nay tiếp tục và mãi mãi nơi Vĩnh phúc Thiên đàng. Ở bên Tòa Chúa xin Cha luôn nhớ đến Giáo Phận- Giáo hạt- giáo xứ Thiết Nham thân yêu của chúng con.
Đã từ lâu, nghĩa trang thường được xem là nơi của chết chóc u buồn. Ngày đưa tiễn bạn bè hay AnTáng 207
Đã từ lâu, nghĩa trang thường được xem là nơi của chết chóc u buồn. Ngày đưa tiễn bạn bè hay người thân về nơi an nghỉ vĩnh hằng, nghĩa trang luôn đượm buồn tang tóc. Mảnh đất ấy ôm lấy thi hài người đã khuất; bao giọt nước mắt thấm sâu trong lòng bụi đất nơi nghĩa trang, và hàng tỉ câu chuyện buồn quanh mảnh đất đầy u uẩn này. Tuy nhiên, trong niềm tin tưởng vào Đấng phục sinh, nghĩa trang Công giáo luôn chất chứa nhiều hy vọng, nhiều nét đẹp luôn trổ sinh nơi mảnh đất thánh thiêng này. Cứ vào tháng 11 hàng năm, rất nhiều người đi ra nghĩa trang để trang hoàng lại phần mộ của người đã khuất. Ai cũng chăm lo làm sao để mộ phần được sạch đẹp và ấm cúng. Ngoài những đóa hoa rung rinh trên những nấm mồ, người ta có thể thấy những khói hương nghi ngút hoặc ánh nến lunh linh. Nghĩa trang lúc này thực sự là một mảnh đất xinh đẹp không quá đáng sợ khiến người ta xa tránh. Nét đẹp bên ngoài ấy thể hiện tấm lòng người còn sống muốn nhớ về những linh hồn đã khuất. Đối với người Kitô hữu, tháng 11 là thời gian để cầu nguyện đặc biệt cho các linh hồn. Họ có thể là ông bà tổ tiên, thân bằng quyến thuộc của ta. Bầu không khí nguyện cầu này rất dễ thấy và thật sống động nơi mỗi nghĩa trang. Đêm cũng như ngày, ai cũng thu xếp cộng việc để ra mảnh đất yên nghỉ của biết bao người quá cố, để thắp nén hương cầu nguyện. Ta hy vọng lời nguyện cầu ấy luôn đẹp lòng Thiên Chúa. Nhờ đó, ta ước nguyện Thiên Chúa sẽ dủ lòng thương đón những linh hồn nơi luyện ngục về hưởng hạnh phúc thiên đàng. Hóa ra từng lời kinh tiếng hát luôn là nét đẹp có giá trị trước nhan thánh Chúa. Trong tín điều các thánh thông công, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho những linh hồn ấy. Nét đẹp nơi nghĩa trang còn là tình người với nhau. Nơi nghĩa trang, chúng ta không chỉ cầu nguyện cho người đã khuất, mà còn là nơi diễn tả tình liên đới của những người còn sống. Thành viên trong gia đình, đoàn thể trong xứ cùng nhau hiện diện nơi nghĩa trang để dâng về Chúa biết bao nguyện cầu. Lúc này nghĩa trang không còn là mảnh đất lạnh lùng âm u, nhưng là nơi ấm áp tình người. Rồi mỗi người nhận thấy phận mình mong manh; trước cái chết, chỉ có Thiên Chúa mới cứu được chúng ta. Nhờ thế, tự nhủ với lòng, tôi sẽ sống tốt hơn với Chúa, với tha nhân. Hy vọng nơi nghĩa trang luôn trổ sinh những nét đẹp thánh thiêng như thế! Mỗi người có thể cảm nhận thêm nhiều nét đẹp nơi nghĩa trang. Xin đừng sợ mảnh đất đang cưu mang những người đã khuất. Xin đừng quên những linh hồn nơi luyện ngục! Họ cần chúng ta thăm viếng, nguyện cầu. Hãy nhìn di ảnh trên phần mộ của họ để nhớ về một con người từng hiện diện với chúng ta. Họ cũng muốn liên lạc với chúng ta. Cầu chúc cho nhau trong tháng 11 này, chúng ta hạnh phúc bước vào nghĩa trang để nài xin Chúa cứu lấy các linh hồn nơi luyện ngục. Trong niềm tin vào lòng Chúa xót thương, ta phó thác linh hồn họ cho Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chiến thắng tử thần. (Giuse Phạm Đình Ngọc SJ, dongten.net 28.10.2016)
Nữ tu Cecilia sống tại tu viện Thánh Têrêsa ở Santa Fe, Argentina vừa qua đời ở tuổi 43 vì AnTáng 208
#GNsP – Nữ tu Cecilia sống tại tu viện Thánh Têrêsa ở Santa Fe, Argentina vừa qua đời ở tuổi 43 vì bệnh ung thư phổi. Khi tắt thở trên giường bệnh, môi Sơ nở nụ cười rất hạnh phúc và mãn nguyện. Khuôn mặt nở nụ cười dịu dàng khi đôi mắt dần nhắm lại để tạm biệt thế giới, Sơ Cecilia rạng rỡ như trong ngày gặp vị Lang Quân của đời mình. Trước khi qua đời, nữ tu Cecilia đã để lại lời nhắn cho chị em rằng: “Em tự hỏi lễ tang của em sẽ diễn ra như thế nào? Trước nhất, mọi người hãy cầu nguyện cho em rồi mở một bữa tiệc lớn. Và cũng đừng quên cầu nguyện cho em như tổ chức lễ mừng vậy!” Sơ Maria Cecilia sinh năm 1973, trở thành nữ tu dòng Cát Minh năm 26 tuổi với nghi thức tiên khấn và khấn trọn năm 30 tuổi. Ngay sau đó, dòng cộng đoàn Santa Fe – Dòng Cát Minh mà sơ Cecilia sinh sống đã viết bản cáo phó: “Cộng đoàn thân mến! Một vài dòng ngắn ngủi để nhắn với mọi người rằng chị/em của chúng tôi, sơ Cecilia vừa chìm vào giấc ngủ trong cánh tay của Thiên Chúa. Một thời gian dài, sơ đã phải chiến đấu với căn bệnh hiểm nghèo với đau đớn và niềm vui cùng vị Hiền Thê. Chúng tôi cảm ơn anh chị em với những tình cảm, sự giúp đỡ cũng như lời cầu nguyện trong thời gian này. Đây là khoảng thời gian đau buồn với sự mất mát nhưng lại là khoảnh khắc tuyệt diệu. Chúng tôi tin chắc rằng, sơ Cecilia của chúng tôi giờ này đã trên thiên đàng. Cuối cùng, chúng tôi mong anh chị em cũng không quên cầu nguyện cho chị em của chúng tôi là Sơ Cecilia. Từ nơi Thiên quốc, xin người chuyển cầu, ban ân phúc cho anh chị em! Muôn ngàn lời cảm ơn từ cộng đoàn Sante Fe.” An Nhiên (nguồn: Thái Hà (26.06.2016) – aleteia.org )
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố AnTáng 209
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp các thánh và ơn cứu rỗi. Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi. Để nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn. Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay. Đức Thánh Cha viết như sau: "Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: "Thánh giá là nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng tối". Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho chúng ta". Đức Thánh Cha giải thích: "Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa. Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau: "Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa". Do đó, tất cả chúng ta được mời gọi để sống với Chúa Kitô, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu hình". Đức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của Đức Phaolô VI như sau: "Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người ấy". Chính vì thế mà Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức khác. Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập ngày cầu cho các đẳng, Đức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau: "Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ, và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: "Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta". Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này, chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.
Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau: Bạn tôi mở ngăn tủ của AnTáng 210
Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau: Bạn tôi mở ngăn tủ của chồng mình và lấy ra một gói nhỏ. Gói kỹ càng trong lớp giấy lụa. Chị bảo: Đây không phải là gói đồ bình thường, đây là một chiếc áo thật đẹp. Chị vứt lớp giấy bọc, và lấy ra chiếc áo mịn màng và bảo: Tôi mua chiếc áo này tặng anh ấy, lần đầu tiên chúng tôi sang New York, cách đây 8 - 9 năm rồi, nhưng anh ấy chưa bao giờ mặc! Anh ấy muốn dành cho một dịp nào đặc biệt. Vậy thì hôm nay, tôi nghĩ là dịp đặc biệt nhất rồi. Chị đến cạnh giường và đặt gói áo ấy cạnh những món đồ mà tí nữa sẽ được bỏ vào áo quan mà liệm. Chồng chị vừa mới qua đời... Quay sang tôi, chị bảo: Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ hội đặc biệt cả. Mỗi ngày sống đã là một cơ hội đặc biệt rồi! Có thể sẽ không có dịp nào đặc biệt như ngày hôm nay. Thế nên, điều gì đáng bỏ công, đáng làm, hãy làm từ ngày hôm nay. Điều gì chúng ta muốn làm cho anh em mình, hãy làm ngày hôm nay, đừng để ngày mai khi mà chúng ta không còn cơ hội để tỏ lòng quan tâm, yêu thương chăm sóc anh em mình. Đừng để những giọt nước mắt của nuối tiếc chảy dài trước chiếc quan tài mà người ta yêu đã nằm bất động chẳng còn có thể hạnh phúc khi được chúng ta quan tâm, chăm sóc, yêu thương. Vâng, có lẽ lúc này, chúng ta cũng nuối tiếc một điều gì đó khi đứng trước nấm mồ của người thân yêu chúng ta. Có những điều, những việc, những lời nói đáng lý chúng ta phải dành cho họ, nhưng chúng ta lại chần chừ, lại trì hoãn. Nhưng giờ đây, chúng ta không còn cơ hội để làm điều gì đó cho họ. Họ cũng không còn cần những điều ấy nơi chúng ta. Họ đã ra đi và bỏ lại tất cả những vui buồn của kiếp người. Họ không còn cảm thấy hạnh phúc khi chúng ta đối xử ân cần, chân thành với họ. Họ cũng không còn những giọt nước mắt tủi hận vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chúng ta. Đối với họ giờ đây, những tình cảm, những vật chất mau qua đã không còn giá trị, đã không đủ mang lại niềm vui hay buồn đau cho họ. Vậy giờ đây, họ cần điều gì nơi chúng ta? Trong đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi đây là Nước Thiên Đàng, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn. Dầu vậy, trong chuyến đi này, chúng ta cũng cần được thanh luyện, như vàng được thử trong lửa. Vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần, tôi cũng đã không sống trong ân sủng của Ngài, tôi đã để những quyến luyến của tạo vật làm chủ trái tim tôi, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của tôi. Tôi sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi, tôi cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và tội lỗi. Giai đoạn thanh tẩy này gọi là Luyện Tội, nơi chúng ta được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. "Lửa" luyện tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm, sơn phết mà tôi đã tô vẽ cho mình trong cuộc sống. Như vậy, người đã chết cần nơi chúng ta lời cầu nguyện, cần thánh lễ chúng ta dâng để thanh tẩy họ, cần việc lành phúc đức chúng ta làm thay cho họ, để nhờ công phúc của chúng ta kết hợp với hiến tế của Con Chiên Thiên Chúa, giúp họ thoát khỏi những đau khổ của luyện tội. Đây cũng có thể là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta có thể dành cho những người thân yêu ở cõi vĩnh hằng. Đây cũng là cách chúng ta tỏ lòng thảo hiếu với công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ. Vì đạo hiếu Việt Nam luôn đề cao công đức sinh thành. Đạo hiếu dạy phải 'thờ cha kính mẹ mới là đạo con". Đó còn là công bằng phải trả cho ông bà cha mẹ, vì "ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Đó còn là cách chúng ta để đức về sau: "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Vì vậy, người khôn ngoan không ai lại không thảo kính cha mẹ. Người khôn ngoan luôn làm mọi cách để báo hiếu cha mẹ khi còn sống và cả khi các ngài đã qua đời. Khi sống quan tâm, chăm sóc. Khi chết dâng lễ, cầu nguyện. Chính vì lẽ đó, tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, để đền đáp ơn nghĩa chín chữ cù lao mà các ngài đã dành cho chúng ta bằng những thánh lễ chúng ta dâng, bằng những hy sinh, những việc lành phúc đức chúng ta làm cho các ngài. Người Phật giáo có mùa Vu Lan là mùa báo hiếu. Người Công giáo cũng có thể nói tháng 11 là mùa báo hiếu để chúng ta làm tất cả những gì có thể để đền đáp ân nghĩa mẹ cha, mà nay đã qua đời. Với ý nghĩa đó, giờ đây chúng ta cùng nhìn lại một chút công ơn mà ông bà cha mẹ đã dành cho chúng ta qua những lời ca dao, những vần thơ trong kho tàng văn học Việt Nam. Trước tiên là ân nghĩa sinh thành: "Công cha đức mẹ cao dày Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ song thân". Những bậc làm cha mẹ thường đánh mất chính mình để lo cho con có cơm có áo, có những ngày đến trường để bằng bạn bằng bè. Cha mẹ chẳng tiếc gì những giọt mồ hôi rơi rớt trên nương đồng, lai láng trên công trường: "Nuôi con buôn tảo bán tần Chỉ mong con lớn nên thân với đời Những khi trái nắng trở trời Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên Trọn đời vất vả triền miên, Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con". Thế nên, phận làm con phải hiếu để bù đắp lại phần nào những đắng cay vất vả mà các ngài đã sẵn lòng vì ta bằng cách: "Mẹ già ở túp lều tranh, Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con". Và dù không được ở gần cha mẹ, thì người con thảo hiếu luôn dành cho cha mẹ những tình cảm chân thành từ những cây nhà lá vườn, những hoa trái đầu mùa dâng tặng mẹ cha: "Ai về tôi gởi buồng cau, Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy. Ai về tôi gởi đôi giầy, Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi". Vâng, đứng trước biết bao ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, phận làm con phải thảo hiếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: những gì chúng ta có là do công cha nghĩa mẹ. Mỗi người chúng ta đều có nguồn cội. Mỗi người chúng ta đều phải khắc ghi trong lòng ân sâu nghĩa nặng mẹ cha. Với tâm tình đó, chúng ta cùng hát với nhau bài "Ơn nghĩa sinh thành" để ghi khắc mãi trong tim về tình yêu trời bể của cha mẹ đã dành cho chúng ta. "Uống nước nhớ nguồn Làm con phải hiếu Anh ơi hãy nhớ năm xưa Những ngày còn thơ Công ai nuôi dưỡng. Công đức sinh thành Người hỡi đừng quên Công cha như núi thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Người ơi, làm người ở trên đời Nhớ công người sinh dưỡng Đó mới là hiền nhân Vì ai ta nên người tài ba Hãy nhớ công sinh thành Vì ai mà có ta. Uống nước... (Lm. Tạ duy Tuyền)
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở AnTáng 211
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô. Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời. Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!". Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên. Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...". Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng: "Công cha đức mẹ cao dày Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ song thân". "Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ: "Nuôi con buôn tảo bán tần Chỉ mong con lớn nên thân với đời Những khi trái nắng trở trời Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên Trọn đời vất vả triền miên, Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con". Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng: Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn: Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao: "Đố ai đếm được lá rừng, Đố ai đếm được mấy từng trời cao Đố ai đếm được những vì sao, Đố ai đếm được công lao mẫu từ". Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy: "Nhớ ơn chín chữ cù lau Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình". Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng: "Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, Con đi trường học mẹ đi trường đời". Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài. Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời. Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen. (Lm. Tạ duy Tuyền)
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh AnTáng 212
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh thiên đàng”. Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. “Liên minh thiên đàng”. Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh thiên đàng” tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa. Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công. Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hãng bưu điện “Liên minh thiên đàng” của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi. Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có. Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời. Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi. Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta. Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ. Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.
Tục ngữ Việt Nam có câu: Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn. Hay: con AnTáng 213
Tục ngữ Việt Nam có câu: Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn. Hay: con ai chẳng là con cha, cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ. Theo tháng năm, từ đông sang tây, từ bắc chí nam, đâu đâu cũng vang lên giai điệu về chữ hiếu như là lời báo đáp và ghi ơn tổ tiên mình. Chính vì thế, hàng năm Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để tưởng nhớ những người quá cố, để sống lại đạo làm con. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành xin lễ cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày đầu năm, Giáo Hội Việt Nam đã dành ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Hòa lẫn với chủ đề kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cũng đã nhắn gửi tới từng người con phải biết yêu chuộng ý nghĩa thiêng liêng cao cả: con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm. Cũng thế, anh em Phật giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu. Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tám lòng biết ơn của mình. Có người không quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, người ta thể hiện lòng hiếu đó bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó, bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục… Còn ở Tây phương, người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng lên thành đạo. Thế nhưng họ có những ngày mà người Việt Nam chúng ta chưa có. Họ đã chọn ra hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là ngày của mẹ (mother’s. day) vào ngày chúa nhật thứ hai trong tháng năm và ngày của cha (father’s. day) vào ngày chúa nhật thứ ba trong tháng sáu. Quả là đã mang trong mình dòng máu linh thiêng của tổ tiên, dù là người công giáo, phật giáo hay bất cứ ai cũng đều thể hiện lòng biết ơn một cách trân trọng đối với các bậc sinh thành. Trở về cội nguồn tổ tiên, chúng ta một lần nữa nói lên lòng biết ơn sâu sắc, đối với cácbậc tiền nhân. Vì thế, chúng ta cùng nhau thắp lên một nén nhang để cùng nhớ ơn, ca ngợi công ơn tổ tiên và cầu nguyện cho tất cả những ai đã từng một lần chắp cánh cho chúng ta buớc vào cuộc đời và sống trọn vẹn ý nghĩa của con người.
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng AnTáng 214
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa. Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm. Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời. Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Vậy luyện ngục là gì? Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa. Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương. Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu. Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi. Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng. Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài. Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi. Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng. Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Nói tới luyện ngục, hẳn chúng ta không khỏi có những cảm nghĩ buồn vui lẫn lộn. Vui vì người AnTáng 215
Nói tới luyện ngục, hẳn chúng ta không khỏi có những cảm nghĩ buồn vui lẫn lộn. Vui vì người vào đó sớm muộn gì rồi cũng sẽ có ngày ra. Buồn vì số người vào đó chắc chắn là đông đảo. Hay nói một cách khác: mấy ai sẽ thoát được lửa luyện tội? Ngay từ xa xưa, Giáo Hội vẫn tin rằng những người đã chết trong tình trạng ơn nghĩa cùng Chúa, nhưng còn vướng mắc những tội nhẹ, hay chưa đền bù hết những hình phạt tạm bởi tội, sẽ phải vào luyện ngục đền bù cho xong, rồi mới được lên thiên đàng, hưởng hạnh phúc muôn đời cùng Chúa. Cựu Ước đã đề cập tới luyện ngục khi ghi lại hành động cao đẹp của ông Macabêô, khi ông quyên tiền gửi về Giêrusalem để dâng của lễ xóa tội cho một số anh em binh lính đã chết, mà lúc còn sống đã mang trong mình những ảnh tượng ngẫu thần, là điều mà lề luật Do Thái ngăn cấm. Chúa Giêsu trong Tin Mừng cũng đã nói về luyện ngục: Hãy liệu làm hòa với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan tòa, quan tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống vào ngục. Ta bảo thật cho ngươi biết: ngươi sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,25). Ra khỏi đó, không phải là ra khỏi thiên đàng, vì thiên đàng không phải là nơi đền bù tội lỗi. Ra khỏi đó, cũng không phải là ra khỏi hỏa ngục vì một khi đã rơi vào hỏa ngục, thì đời đời không bao giờ ra được nữa. Như vậy, ra khỏi đó chỉ có thể hiểu là ra khỏi luyện ngục mà thôi. Tuy nhiên, việc ra khỏi đó lâu hay mau, còn tùy thuộc vào thời gian đền bù. Thật vậy, khi người ta cố tình phạm một tội trọng, thì đã đáng phải sa hỏa ngục. Thế nhưng, vì thật lòng ăn năn, nên tội trọng đó đã được tha, án phạt trầm luân đời đỡi đã được xóa bỏ, nhưng hình phạt tạm, nếu chưa được xóa bỏ hết, thì người ta vẫn phải đền ở đời này, hoặc đời sau trong luyện ngục. Những linh hồn trong luyện ngục phải chịu đau khổ, nhưng không còn lập được công như khi còn sống ở trần gian, bởi vì thời gian lập công đã hết. Các ngàiï phải chịu đau khổ, nhưng lại không thểu tự cứu lấy mình được. Các ngài phải ở đó cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng. Do đó, hình phạt ở luyện tội lâu hay mau còn tùy ở tội lỗi và sự đền bù của mỗi người. Tuy nhiên, những người còn đang sống vẫn có thể dâng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ, để xin Chúa sớm giải thoát những linh hồn nơi luyện ngục, trong đó có ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng quyến thuộc và bạn hữu. Những người thân quen này, rất có thể vì yêu thương chúng ta, mà đã không tuân giữ những điều Chúa truyền dạy. Đồng thời chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi không ai tưởng nhớ đến. Thế nhưng trước hết và trên hết, chúng ta hãy cố gắng cải thiện đời sống, xa tránh tội lỗi, thực thi những việc bác ái yêu thương, để chỉ cho các linh hồn nơi luyện ngục, cũng như để bản thân chúng ta cũng được giảm bớt thời gian thanh luyện sau khi chết.
Trong tháng 11 là tháng dành riêng để cầu nguyện cho người chết, chúng ta cũng được mời gọi AnTáng 216
Trong tháng 11 là tháng dành riêng để cầu nguyện cho người chết, chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về sự chết. Tác giả Elizabeth Khoctheoros, một chuyên gia tâm lý về cái chết đã phát biểu trong buổi khải giảng tại một trường học ở Mỹ như sau: “Ở cuối đời chỉ có một điều thực sự đáng kể là phải tự hỏi rằng mình đã có can đảm để sống không?”. Phải tự hỏi mình có can đảm để sống không? Bởi vì phần đông trong chúng ta ai cũng sợ sự chết và nhất là sợ chết. Quả thực, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời, chết là một hành động phản tự nhiên nhất là ta phải trải qua trong cuộc sống. Chính vì thế về mặt luân lý người ta không ngừng đi tìm đủ mọi cách để tránh nghĩ về sự chết hay phủ nhận cái chết sẽ không đến với chúng ta. Trong ngôn ngữ thông thường dường như chúng ta cũng tránh nói đến cái chết, người chết được gọi là người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi trước chúng ta. Nhưng muốn hay không cái chết vẫn là người bạn đồng hành mỗi ngày với chúng ta, chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt chết, chúng ta chứng kiến cái chết qua các qua cái phương tiện truyền thông mỗi ngày. Đối với những người không có niềm tin, cái chết quả là một phi lý nhất trong cuộc sống, nhưng đối với những ai có niềm tin thì chính cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, đó là thái độ mà mỗi Kitô hữu vẫn thể hiện khi đứng trước cái chết. Cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi chúng ta vẫn tin rằng bên kia cái chết cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống trong cõi phúc trường sinh. Đây là niềm tin, niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi để nuôi dưỡng mỗi ngày. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta củng cố niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại, chính Ngài là sự sống lại, sự Phục sinh của Ngài là bảo chứng của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Chính sự Phục sinh của Ngài mà niềm của chúng ta được xây dựng. Thật thế, như lời thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì Đức tin của chúng ta thật là hão huyền”. Niềm tin vào sự Phục sinh mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta, với niềm tin Phục sinh chúng ta tìm được can đảm để sống, mặc dù có trải qua nghịch cảnh thử thách, khổ đau; với niềm tin Phục sinh chúng ta vẫn tiếp tục tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Tháng 11 chúng ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại người thân thương đã chết, chia ly cách biệt vẫn là nỗi đau nhất trong cuộc sống. Nhưng với niềm tin Phục sinh, chết như được dẹp bỏ, người chết như vẫn hiện diện gần gũi với chúng ta. Đây chính là nguồn diễm phúc của những ai có niềm tin vào sự sống lại.
Tại Quê hương Chúa Giêsu, cũng giống như tại miền Viễn Đông Việt Nam chúng ta, người AnTáng 217
1. Tại Quê hương Chúa Giêsu, cũng giống như tại miền Viễn Đông Việt Nam chúng ta, người ta vốn trọng tuổi già. Quả vậy, Thánh Kinh nêu bật và ca ngợi “tuổi già đáng kính trọng”. Quí lão nhân ở đời được nể trọng, không chỉ vì cao niên tóc bạc trường thọ, mà còn vì nhiều lý do khác nữa.
2. Tuổi già được coi là Ân huệ của Chúa, phúc lành của Chúa. Xưa: Nhân sinh thất thập cổ lai hy (sống 70 hiếm). Người nào thọ đấy là dấu Chúa ưu đãi họ. .Già, được kính trọng, vì tuổi già khôn ngoan. “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Học cái kinh nghiệm của người già khi vào đời và hỏi cái thật thà của con trẻ lúc tại gia. .Già đẹp lòng Chúa: không phải Chúa “kỳ thị” những tuổi khác và “thiên vị” tuổi già. Dù sao, già có một quá trình phục vụ Chúa lâu, đầy công phúc. Sống lâu lắm tội, nhưng sống lâu cũng dầy cơ hội lập công. Dĩ nhiên, không tính toán kiểu biệt phái, vì Ơn cứu độ vượt xa công trạng mỗi người. .Tuổi già là một cuộc đời trong sạch. Thanh khiết, sạch trong là cuộc đời của những con người biết chuẩn bị, trông chờ Ơn cứu độ như cụ ông Simêon, cụ bà Anna, cụ Abraham, cụ Noe, Tôbia cha… Tất cả nêu gương đạo đức, phục vụ, sống liêm chính, hết lòng thờ phượng Chúa, trông cậy trong phó thác và vượt thử thách. . Vì Chúa yêu dấu các cụ, nên ban Ơn giúp sức họ phòng tránh bao dịp hiểm nghèo, “kẻo gian tà biến đổi lòng họ, sự gian dối lừa đảo linh hồn họ”. 1. Cảm tạ những người cha, những bà mẹ, các bậc ông bà sống thọ. Các Đấng dù đã khuất vẫn là Niềm vui, Niềm hãnh diện của con cháu hôm nay, nhất là nơi việc nêu gương sáng hằng ngày cho con cháu trước đây. Nhiều dịp các Đấng đã góp ý với bao sáng kiến, góp công với bao nỗ lực xây dựng Hội Thánh Chúa ở trần gian. 2. Xin cho các Ngài được hưởng lòng từ bi Chúa và được kể vào số những kẻ Chúa chọn. 3. Là con cháu, chúng ta noi gương đạo hạnh của các cụ. Quyết trung kiên với đức tin, đức cậy, đức mến. Giữ đạo son sắt một lòng như cụ Êlêazarô : Thà chết hơn làm gương xấu cho tuổi trẻ. -Năng cầu nguyện cho người khác như cụ Abraham. -Ý thức trách nhiệm dạy dỗ con cái bền tâm sống đạo, tha thứ cho kẻ xúc phạm như Thánh Phụng. -Cậy trông Ơn cứu độ như cụ Simêon, để được cùng sum họp trong nhà Chúa đông vui với bao nhiêu cụ, giờ đã là Thánh cả.
Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người AnTáng 218
Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới. Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè. Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người. Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần. Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa. Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn. Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên. Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ 1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào? 2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em? 3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em? 4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?
Bệnh tật và cái chết đeo đẳng lấy đời người. Bệnh tật làm con người bị tê liệt. Còn cái chết thì AnTáng 219
Bệnh tật và cái chết đeo đẳng lấy đời người. Bệnh tật làm con người bị tê liệt. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm họ run rẩy. Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết. Cái chết đưa đến chia ly nên có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ. Hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lagiarô. Cả hai đều tiếc vì Thầy không có mặt lúc ấy. Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào... Bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu vẫn trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ. Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại. Làm sao nói hết được niềm vui của ba chị em, và sự kinh ngạc của những người chứng kiến. Trong sứ điệp nhân ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha đã yêu cầu các bạn trẻ "hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình yêu, những ngôn sứ của niềm vui." Thế giới văn minh nhưng có nhiều bóng tối sự chết: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, sida, những vụ ám sát, đặt chất nổ, tai nạn giao thông... Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, cái chết của tình yêu ở trong lòng con người. Cái chết thắng thế khi con người sống buông xuôi, chán chường và khép kín trong ích kỷ. Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria. Khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống và niềm vui cho thế giới. Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, đời này và đời sau. Ngài say mê sự sống của con người. Ước gì chúng ta dám cất đi những phiến đá che mộ để người chết có thể bước ra. Gợi Ý Chia Sẻ Chẳng ai thích sự chết, nhưng mặt khác, con người lại nghiêng chiều về bạo lực. Bạn có thấy khuynh hướng bạo lực ở nơi mà bạn đang sống không? Bạn đã làm gì để sống lời mời gọi này của Đức Thánh Cha: "Kitô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần giúp đỡ, có những giọt nước mắt phải lau khô, có những lời cầu cứu mong được đáp ứng"? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
AnTáng 220: Nối kết với Chúa Giêsu là Nguồn ban Sự Sống
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà) Sự sống vô cùng quý báu
Mạng sống hơn đống vàng. "Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết." (nhà AnTáng 220
Mạng sống hơn đống vàng. "Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết." (nhà văn Jack London) Ai cũng khao khát sống, sống lâu sống khoẻ, trẻ mãi không già. Người ta mưu cầu sự sống bằng đủ mọi cách, với bất cứ giá nào. Nếu có phương thuốc trường sinh, thì dù phải mua với giá cao ngất, thậm chí phải bán cả gia tài mới đủ, người ta cũng quyết mua cho bằng được. Thế nhưng, cuộc sống lại quá mỏng giòn Thực tế cho thấy cuộc sống hiện tại thật mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Như quả bóng bóng xà phòng do một em bé thôi lên, trông long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, bụp một cái! Nó tan biến hết, chẳng còn gì! Vì thế mà một nhà thơ Việt nam, ông Nguyễn công Trứ than rằng: "Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao..." * * * Cái chết của Ladarô nói lên thân phận mong manh kiếp người Cuộc đời của Ladarô cũng mong manh như thế. Đang nửa chừng xuân, đang tuổi còn dồi dào sức sống, Ladarô vội vã từ giã cuộc đời, để lại vô vàn đau thương tiếc nuối cho thân nhân cũng như bè bạn. Đó là một mất mát vô cùng lớn lao mà không gì trên đời bù đắp nổi. Mất gì người ta cũng có thể kiếm lại được và có thể tậu lại cái mới tốt hơn; còn mất mạng sống là mất tất cả và dường như chẳng còn cách nào phục hồi lại được! Chính vì thế mà khi Lagiarô chết đi, bà con họ hàng vô cùng thương tiếc. Cho dù Lagiarô đã an nghỉ trong mộ bốn ngày rồi mà hai người chị là Matta và Maria vẫn còn ngậm ngùi thổn thức... Ngay cả Chúa Giêsu khi đến thăm mộ cũng không cầm được nước mắt trước cái chết của người thanh niên còn xuân trẻ nầy. Khát vọng lớn nhất của nhân loại là khát sống. Cho dù cuộc sống hôm nay chỉ là tạm bợ, nay có mai không, có nhiều đắng cay cơ cực, có nhiều vất vả muộn phiền, nhưng ai ai cũng khát khao được sống. Chúa Giêsu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại Vậy phải tìm đâu cho có sự sống lâu bền? Phải làm gì để biến đổi đời sống mau qua trở thành vĩnh cửu? Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết. Ngài tỏ cho Matta và Maria biết bí quyết nầy: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống". Nếu chỉ nói suông thì lời nói đó chẳng có giá trị gì. Điều quan trọng là lời khẳng định của Chúa Giêsu được củng cố bằng sự việc kèm theo. Dù Lagiarô đã chết và được mai táng trong mộ bốn ngày rồi, thân xác bắt đầu sình lên và đã nặng mùi, thế mà khi Chúa Giêsu kêu gọi: "Lagiarô, hãy ra đây!" thì người chết bắt đầu vươn vai chỗi đậy, bước ra khỏi mồ theo lời Chúa truyền dạy trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến, trước sự hoan hỉ khôn tả của thân nhân họ hàng. Sự kiện Chúa Giêsu làm cho Lagiarô sống lại, kèm theo sự kiện chính Ngài đã tự mình sống lại sau khi đã chết trên thập giá và mai táng trong mồ... chứng tỏ rằng Ngài là Đấng hằng sống và có thể ban sự sống cho mọi người. Hãy kết nối với Chúa Giêsu để nhận được sự sống đời đời Chúa Giêsu là Nguồn ban sự sống. Muốn sống đời đời thì hãy nối kết với Chúa Giêsu. Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện. Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho. Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải liên kết với cơ thể. Con người muốn được sống dồi dào và vĩnh cửu thì phải nối kết với Nguồn ban sự sống là Chúa Giêsu. * * * Lạy Chúa Giêsu, qua bí tích Rửa Tội, Chúa đã nối kết chúng con nên một với Chúa, để được trở thành chi thể của Chúa. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cho chúng con được trở nên đồng huyết nhục với Chúa và từ đó, sự sống thần linh của Chúa được thông truyền cho chúng con. Tiếc thay, khi phạm tội trọng, chúng con đã tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa như cành nho lìa thân nho, như bàn tay bị cắt lìa khỏi cơ thể và như thế chúng con đánh mất sự sống đời đời. Xin cho chúng con sớm giao hoà với Chúa qua bí tích Giải Tội, để được nối kết lại với Chúa và để cho sự sống thần linh của Chúa tiếp tục thông truyền cho chúng con.
Sự sống là một mầu nhiệm. Tạo hóa trao ban sự sống cho mọi loài: Thực vật, động vật và loài AnTáng 221
Sự sống là một mầu nhiệm. Tạo hóa trao ban sự sống cho mọi loài: Thực vật, động vật và loài người. Khí thở là nguồn của sự sống. Mọi loài sống đều cần có không khí để hít thở và nuôi dưỡng. Sự sống di động trong toàn thân. Trong thân thể con người, khi hơi thở và máu huyết ngưng đọng, con người sẽ chết. Mỗi người đều có một sự sống riêng biệt. Sự sống nơi mỗi người có thể kéo dài cả trăm năm và cũng có thể tan bay trong khoảnh khắc. Sư sống dài hay ngắn không quan trọng bằng sống cho có ý nghĩa và hữu ích. Thiên Chúa là chủ tể của sự sống. Sự sống tiếp nối sẽ không bị tiêu diệt, chỉ có xác thể sự sống bị chết. Tiên tri Edêkien đã viết: Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành (Ez 37, 12-14). Thiên Chúa là Chúa và là tác giả của mọi sự sống. Con người không thể sáng tạo sự sống mà chỉ bắt chước và tạo môi trường để sự sống phát triển. Dựa vào các diễn tiến của sự sống tự nhiên, các nhà khoa học đã tìm hiểu nguyên nhân, cách kết cấu và sự vận hành phát triển của các tế bào để tạo cơ hội phát triển. Khoa học hiện nay có thể giúp kéo dài sự sống nơi con người như lắp ghép tim, gan, thận, xương hay tiếp máu và thay máu. Có nghĩa là khi con người còn có hơi thở sự sống, cho dù sức yếu, các nhà chuyên môn có thể tiếp giúp tăng cường và kéo dài sự sống. Nhưng một khi sự sống đã ngừng, trái tim ngưng đập, ngưng thở, óc chết và các tế bào ngừng hoạt động và sự chết đến, con người đành bó tay. Trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, sau khi chết, một số cơ phận trong con người có thể được xử dụng ngay để phẫu thuật ghép. Một số trường hợp, các bác sĩ có thể dùng một số cơ phận của những người mới qua đời để lắp ghép cho các bệnh nhân cần. Người đã chết không thể trở lại với cuộc sống. Họ vĩnh biệt ra đi. Bài phúc âm hôm nay kể câu chuyện dài nói về sự kiện Chúa Giêsu cho ông Ladarô đã chết và chôn trong mồ bốn ngày được sống lại. Chúa Giêsu tỏ uy quyền trên sự sống. Diễn tiến của câu chuyện có nhiều chi tiết rất tỉ mỉ. Chúa dự phòng sự việc Chúa sẽ thực hiện tại Bethania, Chúa nói: Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta đi đến với anh ấy (Ga 11, 15). Khi nghe tin Ladarô đau bệnh thập tử nhất sinh, Chúa Giêsu còn lưu lại nơi Chúa đang giảng dậy ít ngày nữa. Chúa dùng cơ hội này để tỏ uy quyền Thiên Chúa và mạc khải về sự sống và sự sống lại. Đây là một đề tài đức tin chính yếu và rất quan trọng. Chúa đã mạc khải một cách tiệm tiến dựa vào lòng tin yêu của con người. Chúa Giêsu nói: Em con sẽ sống lại (Ga 11, 23). Trước khi làm phép lạ vĩ đại này, Chúa Giêsu đã khơi niềm tin: Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Dầu có chết cũng sẽ được sống, lời nói như một mệnh lệnh và một sự xác tín trong niềm tin. Chị em Martha và Maria, các tông đồ và những người đi theo Chúa vẫn như còn trong mơ. Sự việc Chúa sắp thực hiện hoàn toàn vượt ngoài sức tưởng tượng của con người. Người chết chôn bốn ngày thì xác đã thối rữa rồi. Sự sống mà Chúa ban lại cho ông Ladarô là sự sống mới trong thân xác đã chết. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!”(Ga 11, 43). Và kìa, lời quyền năng đã thành hiện thực: Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt còn quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo:”Hãy cởi ra cho anh ấy đi” (Ga 11, 44). Ông Ladarô đã sống lại và đi ra khỏi mồ. Ông đã sống thêm được một khoảng thời gian trên dương trần, nhưng ông cũng đã chết theo luật tự nhiên. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ sự sống. Muốn bước vào sự sống vĩnh cửu thì mỗi người đều phải bước qua ngưỡng cửa sự chết. Đây là vấn đề hoàn toàn của niềm tin. Chúng ta không thể lý luận và đưa ra chứng cứ cụ thể. Tin rằng con người phải trải qua sự chết mới được vào cõi sống. Thân xác này sẽ trở về cát bụi trong lòng đất và hồn thiêng sẽ tiếp tục sống chờ đợi ngày được sống lại kết hợp cả hồn và xác để hưởng hạnh phúc bất diệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất: Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác ((Ga 12, 24). Niềm tin vào Đức Kitô là niềm tin hy vọng tuyệt đối. Từ bao đời, đã có biết bao thế hệ con người đã qua đi. Thân xác bị hủy diệt và trở về tro bụi. Thánh Phaolô tông đồ đã xác tín với chúng ta về Tin mừng cứu độ nơi Chúa Kitô, ngài nói: Nhưng nếu Chúa Giêsu Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính (Rm 8, 10). Con người có linh hồn và thể xác. Sự sống là sự kết hợp giữa hồn và xác. Khi hồn lìa xác, con người sẽ đi về cõi sau. Vì thân xác là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Tinh thần hay linh hồn không bị tiêu diệt vì hồn thiêng liêng. Thánh Phaolô nói tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô là nguồn ban sự sống. Chúa Kitô là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc. Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết và không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Thánh Phaolô đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh: Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần ngự trong anh em (Rm 8, 12). Đây là niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta đang trong cuộc lữ hành dương thế. Chúng ta đã đầu tư và đánh đổi cả cuộc đời để tin tưởng vào sự sống và sự sống lại ngày sau. Chúng ta bước đi trong niềm tin, chứ không bằng thị giác (walk by faith, not by sight). Vì nếu Chúa Kitô không sống lại, thì tất cả niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Những đề tài của các Chúa Nhật Mùa Chay, chu kỳ năm A, đã từng bước dẫn chúng ta đi sâu vào niềm tin nội tâm. Lần lượt mỗi tuần một đề tài: Chúa vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện và chịu những cơn cám dỗ; Chúa Biến Hình sáng láng; Chúa ban nước hằng sống cho người phụ nữ Samaria và dẫn vào con đường sự thật; Chúa chữa người mù từ bẩm sinh và Chúa cho người đã chết sống lại. Đây là hành trình đức tin, Giáo Hội đã từng bước dẫn dắt chúng ta suy tư sâu lắng vào mầu nhiệm ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã sắp sẵn. Trong câu chuyện đối thoại với chị em Martha và Maria: Chúa Giêsu lại nói: “Ta chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 40). Tất cả niềm tin qui vào Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã đi trước mở cửa ngõ vào cõi trường sinh bất diệt. Chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài bước theo con đường Chúa đã đi. Bước theo Chúa, phải trải qua đau khổ để vào vinh quang. Mùa chay là mùa tịnh tâm, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức: Đức tin, đức cậy và đức mến. Đức mến phủ trùm mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi một lời nói, cử chỉ và hành động bác ái, chúng ta cần phản ánh tình yêu thương chia sẻ. Con đường dẫn vào Nước Trời được xây trên nền tảng của tình bác ái yêu thương. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chúa Kitô vì yêu thương nhân loại đã hiến mình chịu đau khổ, chịu chết trên thánh giá và đã sống lại vinh quang. Lạy Chúa, Chúa là sự sống và là sự sống lại. Xin cho chúng con biết sống xứng đáng và sinh ích trong cuộc sống đời tạm này, để sinh hoa kết qủa tốt đẹp đáng hưởng hạnh phúc mai sau.
Thời chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vịt huốc AnTáng 222
Thời chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vịt huốc vào, viên quan canh cửa hỏi rằng: - Vị thuốc này có uống được không? Người ấy đáp: - Uống được. Tức thì viên quan giật lấy mà uống. Chuyện đến tai vua. Ông liền bắt viên quan đem giết. Viên quan kêu rằng. - Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: “uống được”, nên thần mới dám uống. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là thuốc bất tử. Thế mà thần mới uống vào đã sắp phải chết, vậy là thuốc thử chứ sao gọi là thuốc bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội. Hơn nữa, còn chứng tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết ông nữa. *** Làm gì có thuốc bất tử trên trần gian này ! Chỉ có những kẻ quá ham sống sợ chết nên mới mơ tưởng đến loại thần dược chỉ có trong huyền thoại. Chúng ta không bao giờ có thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta. Thực ra, vẫn có sự sống bất tử, nhưng là trong cuộc sống đời sau. Tuy nhiên, vị thuốc bất tử ấy người ta lại phải chiếm hữu cho bằng được trong cuộc sống đời này. Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta vị thuốc bất tử ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,25-26). Vâng, chính “niềm tin vào Đức Kitô” là một bảo đảm tuyệt đối để được sống mãi muôn đời. Đâu phải chỉ vì tình bạn thân thiết với Ladarô mà Đức Giêsu cho ông được sống sau khi chôn bốn ngày trong huyệt đá, mà chính là niềm tin của Maria và Macta vào Đức Kitô là “sự sống và là sự sống lại” (c.25). Phép lạ cho Ladarô sống lại chỉ là chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lẫy lừng, một phép lạ trọng đại nhất trong đạo, chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang mà chúng ta sẽ cử hành trong Tuần Thánh sắp đến. Đức Kitô chết và sống lại là để dẫn đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, từ nơi tạm bợ về chốn vĩnh hằng. Đó là niềm tin của người tín hữu, cũng là đức tin của Kitô giáo. Niềm tin đó bảo đảm cho sự trường tồn của Giáo Hội. Thánh Phaolô nói: “Nếu đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17) Tin Đức Kitô là “sự sống lại và là sự sống”, chính là sống yêu thương tự hiến như Đấng đã sống và đã chết cho tình yêu. Tin Đứ Giêsu là “sự sống lại và là sự sống” chính là chết đi cho tội lỗi để được sống lại vinh quang với Đấng Phục Sinh. Tin Đức Giêsu là “sự sống lại và là sự sống”, chính là chết cho tình yêu trần thế, để sống cho niềm tin Nước Trời. *** Lạy Chúa, trong đoạn Tin mừng hôm nay có một câu ngắn nhất trong toàn Kinh Thánh. Đó là câu “Đức Giêsu liền khóc” (Ga 11,35). Ngắn nhất nhưng lại bày tỏ một tình yêu sâu đậm nhất Chúa dành cho Ladarô. Xin cho mối tình thân thiết của chúng con với Chúa ngày càng mật thiết hơn, để chúng con cũng được Chúa thương, cho cùng sống lại với Chúa trong vinh quang đời đời. Amen.
Tôi có nhiều bạn ngoài Kitô giáo và một số đã qua đời. Trừ một vài đám tang không thể đến AnTáng 223
Tôi có nhiều bạn ngoài Kitô giáo và một số đã qua đời. Trừ một vài đám tang không thể đến dự vì đang ở qúa xa, còn hầu hết đám tang các bạn không cùng đạo, tôi đều có mặt với luyến tiếc, nhớ thương sâu sa của tình bạn. Đám tang mới nhất là đám tang chị Mai. Tôi quen gia đình chị đã gần bốn mươi năm. Chúng tôi là bạn thâm giao, nên bạn tôi là bạn chị, bạn chị cũng là bạn tôi : lương giáo tương giao vui vẻ, đề huề. Hạnh phúc mà người bạn Công Giáo đem đến cho gia đình chị, mà chị vẫn nhắc hoài là dịp Đức Cha Ba Ba-tô-lô-mê-ô Nguyễn Sơn Lâm ghé thăm và cùng gia đình chị đi chơi Futuroscope ở Poitiers, và anh chị từ Limoges lên Paris thăm Đức Cha lần chót ở bệnh viện Georges Pompidou trước khi ngài về lại Thanh Hoá và qua đời, cũng như kỷ niệm mãi không quên cùng nâng ly với Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống trên đường hành hương Đức Mẹ Lộ Đức. Buổi tối canh thức bên quan tài chị, tôi cũng nhớ những người bạn không cùng đạo đã ra đi : có những bạn vong niên như bác sĩ Trương Quang Nhơn, không tôn giáo, thâm niên đảng viên cộng sản, người từng chăm sóc nhiều giám mục, linh mục, mà có lần đã chia sẻ với tôi về niềm tin và kết luận : “Tôi không thờ Thiên Chúa, nhưng tôi sống phục vụ mọi người và không gian tham, hối lộ, cũng chẳng đàn áp, bóc lột ai, nên tôi nghĩ : nếu có thiên đàng, thì sau này tôi sẽ ở trên đó” ; bên cạnh là những người bạn cùng tuổi tôi như anh Hội, con người của mọi ngừơi, lúc nào cũng năng nổ “giúp đỡ, làm ơn” đến quên đón con ở trường, nên thường xuyên bị chị nhà trách móc, giận dỗi, nhưng rồi “chứng nào tật nấy” đến chết cũng không bỏ được đam mê “ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng tổng” ; cũng có những người em lương giáo, hoặc không tôn giáo đã vội về bên kia thế giới và mãi mãi tôi không quên những đức tính cao đẹp, những đặc điểm dễ thương, và sâu sắc những ấn tượng thiện tâm, nhân ái. Trước giờ tiễn đưa chị Mai đến nhà hoả táng, thân nhân, bạn hữu, đồng nghiệp, và đồng hương Việt Nam chật kín “sảnh đường Thương Tiếc”, ở đó mỗi người tự do chia sẻ tâm tình với người qúa cố. Cháu Hoài Nam, con gái lớn nghẹn ngào nói với mẹ và về mẹ. Cháu nức nở từng chữ : “Mẹ con là người mẹ tuyệt vời, người chị tuyệt vời, người dì tuyệt vời…”. Cháu còn muốn nói thêm nhiều “tuyệt vời” khác của mẹ, nhưng khóc qúa, nói không được… Tiếp theo là những đồng nghiệp ở trường, phụ huynh học sinh, cả ông gác cổng người Ả Rập cũng xin được nói mấy lời ngưỡng mộ, thương tiếc một con người dễ thương, hiền hậu, chịu đựng, bao dung, chí tình và lạc quan, yêu đời. Trên đường về nhà, mải mê trong ký ức về những người bạn không cùng đạo đã qua đời, tôi miên man suy tư về ơn cứu độ. 1. Tôi thấy các bạn ngoài Kitô giáo của tôi đã sống tinh thần Bát Phúc một cách đơn sơ, hồn nhiên. Các bạn tôi không ai ngỏ ý tìm hiểu đạo, cũng chẳng ai tỏ ý muốn theo đạo, nên chắc chắn không ai biết Bát Phúc là gì, thế mà không người nào trong họ đã không chọn cho mình ba, bốn mối Phúc để sống, và họ đã sống triệt để những mối Phúc thánh thiện ấy đến ngày phải từ giã cõi đời. Có người như anh bác sĩ Nguyễn Mạnh Phan kiên quyết bảo vệ nguyên tắc : đã là người thì phải sống nhân ái, không nhân ái, không được gọi là người, nên suốt đời tận tụy vì bệnh nhân, khám bệnh cho người nghèo không lấy tiền, và luôn đề cao lòng thương cảm, từ bi, bác ái ; người khác như chị Thu Hà thì say mê tinh thần buông bỏ, và tin “xác phàm có một tương lai đời đời”, bởi con người mang dấu ấn của thần linh, nên không thể chỉ là vật chất ; nhiều bạn khác rơi vào những mối Phúc khác như yêu chuộng hoà bình, xây dựng bình an, “dĩ hoà vi qúy”, “một sự nhịn bằng chín sự lành”, nên say sưa chuyện cho “chìm xuồng” những lời vu khống hồ đồ, thị phi không căn cứ, và say mê hoà giải người này với người nọ, thu xếp, lo liệu để người này làm hoà với người kia, và hạnh phúc của những bạn “có tâm hồn hoà bình” này là thấy hôn nhân của bạn bè được hàn gắn, gia đình thiên hạ thôi xào xáo, lục đục, chỗ làm thôi căng thẳng chuyện đấu đá, tranh giành. Tóm lại, tôi thấy trong các bạn không cùng đạo của tôi, ai cũng “ăn ngay ở lành”, sống có tâm, có đức, và vượt xa tôi ở số lượng các mối “Bát Phúc”, dù không ai trong họ biết đó là Hiến Chương Nước Trời đã được chính Đức Giêsu công bố, mà người Kitô hữu chúng tôi phải thực hiện. Điều đáng nói ở đây là hầu như tất cả những người xin tạm gọi là “ngoại đạo” mà tôi thân quen đều hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nại, không than trách, thất vọng trước nghịch cảnh, nhưng lạc quan tin vào tương lai được bảo đảm bởi một Đấng Thiêng Liêng nào đó chưa gọi được tên, hay không muốn gọi tên, vì lý do nào chưa được nói ra. Họ có nhiều cơ duyên gần gũi với tinh thần của Hiến Chương Nước Trời, và hồn nhiên, hạnh phúc sống những điều khoản của Hiến Chương ấy. 2. Họ là những nguời thiện tâm được Thiên Chúa chúc phúc : Không biết Đức Giêsu, nhưng hồn nhiên, hạnh phúc sống giáo lý cứu độ của Đức Giêsu, ắt hẳn họ phải là những người được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, bởi không có gì liên quan đến Đức Giêsu mà vắng bóng Chúa Thánh Thần. Vậy những người được Thánh Thần hướng dẫn, dù chưa biết, nên chưa tin Đức Giêsu là Thiên Chúa sẽ được đứng vào hàng ngũ nào ? Thưa, họ là những người thiện tâm và đứng chung hàng ngũ những người được Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc, vì họ đáp ứng đòi hỏi của Tin Mừng và xứng đáng nhận những gì Thiên Chúa hứa ban. Khi hứa hạnh phúc Nước Trời cho những ai có tinh thần nghèo khó, buông bỏ mình vì tha nhân ; hứa phần thưởng lớn lao trên thiên đàng cho ai khát khao đời sống ngay lành, công chính ; hứa cho nhìn thấy Thiên Chúa những tâm hồn trong sạch ; hứa thương xót những người có lòng xót thương anh em khốn khó, cơ cùng, sa cơ, lầm lạc ; hứa ủi an những ai sầu khổ, thiệt thòi vì yêu thương ; hứa nhận làm con những ai yêu mến, xây dựng hòa bình, và hứa “Vương Quốc Nước Trời được dành sẵn từ tạo thiên lập địa” cho những ai thương xót và sẻ chia với những người bé nhỏ, hèn mọn đang đói ăn thiếu mặc, thất học, tật nguyền, đau yếu, lang thang không nhà không cửa, bị tẩy chay, xa lánh, áp bức, tù đầy, Đức Giêsu đã không đóng cửa Nước Trời, hoặc chỉ mở vừa đủ cho người có đạo, nhưng cho hết mọi người thiện tâm, như các thiên thần trong đêm Giáng Sinh đã vui mừng công bố : “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14). Vì người thiện tâm là người làm điều thiện như lương tâm hướng dẫn, nên ai sống “tâm ngay lành, hướng thiện” sẽ là người được Thiên Chúa thương ; vì thiện tâm là tâm vị tha, nhân ái, nên ai biết chạnh lòng cảm thương, rộng lòng tha thứ, mở lòng thi ân, hết lòng phục vụ người khác sẽ là người được Thiên Chúa cứu độ ; vì thiện tâm là tâm hồn thao thức tìm kiếm và sẵn sàng đón nhận Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, nên người thiện tâm thuộc về Thiên Chúa và được Thiên Chúa dẫn dắt họ đến gặp Ngài trên nẻo đường Ngài muốn, ở thời điểm Ngài định. 3. Họ là những người đã được Đức Giêsu nói đến với tất cả ngưỡng mộ và yêu thương trìu mến trong Tin Mừng : Trong Tin Mừng, không phải một lần, nhưng nhiều lần Đức Giêsu đã công khai tuyên dương đức tin của những người ngoài đạo. Họ là người đàn bà ngoại đạo xứ Canaan đã kiên nhẫn van xin Ngài chữa con gái bà bị qủy ám. Dù thái độ và câu trả lời của Đức Giêsu rất tiêu cực, nhưng bà vẫn một mực vững tin và kiên trì nài nỉ, để rồi chính Đức Giêsu phải lên tiếng : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi” (Mt 15,28) ; họ là viên sĩ quan đại đội trưởng không cùng tôn giáo với Đức Giêsu, và cũng không thuộc về tôn giáo mới của Ngài nhưng đã tin và xin Ngài chữa cho đầy tớ của mình được khỏi với tâm tình khiêm tốn tuyệt vời : “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng đón tiếp Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8,8), và Đức Giêsu đã tuyên dương đức tin của ông : “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế !” (Mt 8,11), và bảo ông : “Ông cứ về đi ! Ông tin thế nào thì được như vậy ! Và ngay giờ đó, người đầy tớ ông được khỏi bệnh” (Mt 8,13). Lời ca ngợi đức tin nơi người ngoại đạo của Đức Giêsu có thể làm chúng ta, những người Kitô hữu thuộc diện “đạo gốc, đạo dòng” chột dạ, và khó chịu, nhưng Đức Giêsu đã không chỉ dừng lại ở lời khen, và thái độ ngưỡng mộ đức tin của anh chị em ngoại đạo, mà đi xa hơn, khi cảnh cáo chúng ta, những người có đạo nguy cơ lọt ra khỏi Nước Trời, nếu không thận trọng, như đã nghiêm nghị nói thẳng với những người đồng đạo Do Thái với Ngài : “Tôi nói cho các ông hay : Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8, 11-12). Họ còn là những người như Nicôđêmô, tuy không công khai là môn đệ của Đức Giêsu, nhưng đã ở trong trái tim Ngài, vì là những người thiện tâm, khao khát Chân Thiện Mỹ khi kín đáo đến gặp Đức Giêsu ban đêm và bầy tỏ tâm sự : “Thưa Thầy, chúng tôi biết : Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Qủa vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Cha không ở cùng người ấy” (Ga 3,2). Cũng chính ông, cùng với một người khác cũng ẩn danh, kín đáo ngưỡng mộ Đức Giêsu tên là Giuse làng Arimathia đã xin được tháo xác, lo liệu tẩm liệm, “rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ” (Lc 23,53). Vâng, mỗi lần tiễn đưa người anh em, chị em không cùng đạo về bên kia thế giới, tôi thấy lòng dạt dào một niềm tin yêu, trông cậy ở Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ rất bao dung, nhân hậu, Đấng đến và “đi tìm cho kỳ được” (x. Lc 15,4.8) tất cả những con cái thiện tâm của Ngài, và sâu thẳm trong tâm hồn, tôi nghe văng vẳng tiếng hát các thiên thần : “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14 , tiếng Đức Giêsu công bố “Tám Mối Phúc Thật” (Mt 5,3-12), và phán quyết hoàn toàn dựa trên lòng Nhân Ái ngày chung thẩm (Mt 25,31-46)… Cũng trong sâu lắng tận đáy hồn, tôi nghe lòng tràn đầy niềm vui ơn Thương Xót trên những người bạn không cùng đạo đã sống một đời Nhân Ái của người Thiện Tâm được Thiên Chúa hứa yêu thương, chúc phúc. Jorathe Nắng Tím
Biến cố sập nhịp cầu Cần Thơ 26.09.2007 là biến cố gây kinh hoàng và ám ảnh của các gia đình AnTáng 224
Biến cố sập nhịp cầu Cần Thơ 26.09.2007 là biến cố gây kinh hoàng và ám ảnh của các gia đình và người thân của gần 100 sinh mạng phải mất đi vĩnh viễn mà không một lời từ biệt. Những người thân chỉ còn biết kêu gào đau khổ trong tuyệt vọng. Lúc đó hình ảnh nhịp cầu với những thanh sắt to nằm tua tủa trong những khối bê tông nặng hàng ngàn kilôgram. Nó như một nấm mồ khổng lồ chôn tập thể những người thân mình mà không biết cầu cứu cùng ai. dẫu rằng trong cuộc sống ai cũng biết sinh - lão - bệnh - tử là điều không thể tránh khỏi nhưng khi mất người thân thì ai cũng phải đau buồn. Maria và những người Do Thái cũng đau buồn khóc lóc trước cái chết của Lazarô. Trước nỗi đau khổ đó, Đức Giêsu cũng có một thái độ đầy tình người: "các ngươi đặt ông ấy ở đâu?". Và Người bật khóc, do đo người Do Thái mới nói: "kia xem ! Ông ta thương anh Lazarô biết mấy!". Nhiều lối giải thích cho rằng Đức Giêsu thương Lazarô nên đã khóc. Lối cắt nghĩa này không hoàn toàn sai. Nhưng có một điều hơi khúc mắc là tại sao Ngài biết chắc mình sắp cho Lazarô sống lại mà con khóc thương? Điều đó hơi có phần vô lý. Ngoài ra, Thánh sử còn diễn tả tâm tình Đức Giêsu qua việc "Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người ta luôn thắc mắc về ý nghĩa các tâm tình đó. Có kẻ xem đây là cơn giận của Chúa Giêsu đối với cái chết mà tác giả của nó là Satan. Số khác lại coi đây là cơn giận của Ngài vì sự cứng lòng tin của những người Do Thái. Điều đó có thể hợp lý hơn, vì cái chết và cứng lòng tin đều quy về Satan như nguyên nhân tác thành. Quả thật, Đức Giêsu không phải cho thân xác Lazarô sống lại để kéo dài thêm tuổi thọ ở trần gian. Nhưng muốn cho con người thấy được Thiên Chúa sẽ ban cho những người tin vào Người sự sống ở trần gian. Như trong bài Tin Mừng Đức Giêsu đã khẳng định: "Phục sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta, sẽ không phải chết bao giờ. Ngươi có tin thề không?" Trong câu chuyện Gioan tường thuật ta cứ ngỡ Lazarolà nhân vật chính, nhưng đi sâu vào bài Tin Mừng, ông chỉ là chất xúc tác đặc biệt làm rõ lên tính cách của các nhân vật khác. Dĩ nhiên tất cả các nhân vật đó đều phải tuỳ thuộc vào Đức Kitô. Người đã từng bước dẫn các nhân vật trong câu chuyện từng bước đến ánh sáng Phục Sinh, Ánh Sáng của sự sống lại. Hầu như lúc đó tất cả còn đang trong nỗi sợ hãi và suy nghĩ của người đời, nào là Mátta, nào là Maria và vô số những người Do Thái đang đến chia buồn với họ. Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã đưa họ đến với niềm tin Phúc Sinh. Mặc dầu Đức Giêsu rất thương Lazarô, nhưng Ngài lại quan tâm đến việc quan trọng hơn, đó là đức tin của những người đang có mặt. Và để khẳng định mục đích và ý nghĩa của việc sắp làm, người đã ngước mắt lên mà nói: "ngõ hầu họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói thế, Người lớn tiếng gọi Lazarô và ông ra khỏi mồ. Chắc chúng ta cũng không lấy làm bỡ ngỡ, khi Giáo hội chọn Chúa Nhật V Mùa Chay để công bố Tin Mừng Đức Giêsu cho Lazarô Phục Sinh, là dịp để chúng ta đón nhận đại lễ Phục Sinh sắp đến. Quyền năng Thiên Chúa sẽ chiến thắng tử thần. Trong khi Lazarô chết đã 4 ngày được Đức Giêsu cho sống lại, chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng của Thiên Chúa trên sự chết. Sự chiến thắng mà chúng ta sẽ được thấy rõ hơn trong chính sự Phục Sinh của Người. Ngày đó, tử thần hoàn toàn bị đánh bại và niềm hy vọng vào một cuộc sống mới, cuộc sống trường cửu sẽ được ban tặng cho chúng ta. Khi mà con người đã đủ niềm tin vào sự Phục Sinh, thì cái chết như là một sự biến đổi. chính Đức Giêsu đã mở cánh cửa niềm tin cho mọi người, Ngài đã đập tan đêm tối buồn phiền, u mê bằng cách đập tan cửa mồ ngăn cách để đưa con người đến một chân trời hy vọng tràn đầy niềm vui. Người có toàn quyền ban cho ta cuộc sống mới đó. Cuộc sống mà Người đã làm cho người bạn mình là Lazarô. Do đó, Người cũng ban cho chúng niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt trong đó chỉ có tình yêu ngự trị không còn bóng dáng của tội lỗi và sự chết. Như Đức cố Hồng y Px. Nguyễn Văn Thuận đã nói trong đường hy vọng: "Đối với Kitô hữu không có người chết. Tất cả các kẻ chết của chúng ta vẫn đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi thông hiệp với nhau trong đức tin". Lạy Chúa! Xin cho con biết hướng về cuộc sống mai sau chính là cuộc sống mà thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người chúng con. Amen.
Nếu được hỏi cái gì cần nhất? Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ trả lời là tiền. Vì tiền là Tiên AnTáng 225
Nếu được hỏi cái gì cần nhất? Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ trả lời là tiền. Vì tiền là Tiên, là Phật. Thế nhưng, có một thứ mà tiền cũng không thể mua được, đó là thời gian. Thời gian khép lại cũng đồng nghĩa mọi sự sẽ qua đi chẳng còn ích lợi gì cho chúng ta. Dù rằng chúng ta có khối tài sản lớn. Dù rằng chúng ta có một địa vị cao. Thời gian chấm hết thì mọi sự cũng sẽ chia tay chúng ta. Hơn nữa, thời gian của con người thật mong manh tựa như bóng câu qua cửa sổ, tựa như cơn gió thoảng qua... Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn. Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ: - Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi. - Không được. – Thần Chết lắc đầu. - Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin. - Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý. Anh ta vội nói: - Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không? - Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay. Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng: - Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy. Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng: - Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”. Hóa ra ở đời điều quan trọng không phải là tiền. Điều quan trọng là mình biết sử dụng thời gian có ý nghĩa hay không? Có tiền mà sống vô nghĩa cũng uống phí. Có tiền mà không biết tận hưởng hạnh phúc cuộc sống cũng bằng thừa. Thế nên, hãy biết trân trọng thời gian. Hãy làm việc tích đức cho cuộc đời. Đừng để uổng phí cuộc đời trong những đam mê của danh lợi thú. Thời gian sẽ trôi qua không chờ không đợi. Thời gian sẽ qua đi như hoa sớm nở chiều tàn. Hãy sống cho có ý nghĩa là sống có ích cho tha nhân, cho cuộc đời. Đừng chỉ sống cho mình kẻo uổng phí thời gian. Người ta cho rằng tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại biết bao điều tốt đẹp cho đời. Thiên Chúa là chủ thời gian. Chính Ngài làm chủ sự sống của chúng ta. Sống chết đều nằm trong sự quan phòng của Ngài. Thế nên, hãy sống trong ân nghĩa với Ngài. Hãy sống trong sự hiệp nhất với Đấng làm chủ cuộc đời chúng ta, để chính Ngài sẽ cho chúng ta được sống và sống đời đời. Lagiarô dầu được Chúa trả lại sự sống một lần nhưng rồi với quy luật thời gian, ông cũng chết như bao người khác. Điều quan trọng và quý giá của cuộc sống là biết sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, biết sống kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa cả ở đời này lẫn đời sau. Nhờ vậy mà chúng ta được sống hạnh phúc đời này và cả đời sau. Giả dụ như chúng ta cũng được như Lagiarô Chúa cho chết rồi sống lại. Chúng ta sẽ sống cuộc sống còn lại như thế nào? Liệu có còn muốn bon chen, tích góp, giành giật hay sống dành thời gian cho có ý nghĩa với gia đình, với cuộc đời. Nếu ai đã từng trải qua bệnh tật thập tử nhất sinh có lẽ sẽ cảm nghiệm điều này: tiền tài, danh vọng chẳng là gì một khi đã nhắm mắt xuôi tay. Một khi mình không có nắm giữ được chúng nữa thì những gì mình tích góp cũng uổng công. Đồng tiền không mua được thời gian, ước gì chúng ta biết sử dụng thời gian cho hợp lý. Xin đừng vì danh lợi thú mà sống xa rời Thiên Chúa, lỗi luật với Ngài để rồi chúng ta sẽ mãi lạc vào cõi hư vong. Ước gì chúng ta biết noi gương Chúa Giê-su sống trọn vẹn thời gian trong sự kết hợp với Chúa Cha và phục vụ tha nhân với hết khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới sống tròn ý nghĩa cuộc đời là tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Amen.
Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc AnTáng 226
Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau. Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay. Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian". Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania. Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em, Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn. Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con. Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại là câu chuyện dài nhất và quan trọng nhất AnTáng 227
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại là câu chuyện dài nhất và quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối. Qua câu chuyện phép lạ này, Chúa Giêsu chứng minh cho mọi người thấy " Người là sự sống lại và là sự sống", và Người có sự sống đời đời đem đến cho những ai tin vào Người. Hôm nay, tôi xin chia sẻ với quý ông bà anh chị em đề tài: Hành Trình Đức Tin. Trong bài tường thuật này, chúng ta thấy Mácta được xem như mẫu gương cho cuộc hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu. Qua diễn tiến của bài tường thuật, tôi thấy cuộc hành trình đức tin của bà trải qua ba giai đoạn sau. Thứ nhất, đó là một đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người. Sở dĩ nói thế là vì khi em bà ngả bệnh nặng, bà sợ em bà sẽ chết, nên bà cho người đi mời Chúa đến cứu em bà. Thế nhưng Chúa không đến và em bà chết. Sự kiện này làm bà buồn rầu và tuyệt vọng. Nhưng đi xa hơn, tôi thấy được giai đoạn thứ hai, đó là một đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy. Bà đã được dạy chỉ có sự sống lại vào ngày tận thế và bà đã tin chắc như thế. Tin như vậy đúng và đủ chưa? Thưa chưa, điều này được thể hiện qua câu nói bà nói với Chúa: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết". Thế nhưng trước lời đáp Chúa Giêsu khẳng định: "Em bà sẽ sống lại" (c. 23), bà đã nói: "con tin em con sẽ sống lại vào ngày sau hết", và qua đối thoại thêm, bà khựng lại. Chính sự khựng lại này tạo cơ hội cho Chúa mạc khải Người chính là sự sống lại và là sự sống. Và tin vào Người chính là con đường duy nhất dẫn đến sự sống lại và sự sống bởi "tin thì đã đi ngang qua cái chết mà vào sự sống và dù có chết phần xác, thì tin vào Chúa đảm bảo cho có sự sống vượt trên sự chết. Thế mà Mácta vẫn chưa tin như Chúa muốn. Tuy nhiên, đi xa hơn nữa, tôi thấy được giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối, đó là một đức tin dựa trên kinh nghiệm đã gặp Chúa. Chúa biết bà còn yếu tin, nên Người làm phép lạ giúp khơi dậy đức tin sự sống thật là chính Người. Người đã yêu cầu "đem phiến đá đi" và dù chưa tin bà vẫn vâng lời làm theo lời Chúa nói. Chính vì vậy, Chúa ban thêm đức tin cho bà và qua việc Chúa gọi Ladarô ra khỏi mộ và anh bước ra, cặp mắt tâm hồn bà liền nhận ra Chúa là sự sống lại và là sự sống, tức khắc đức tin của bà đạt đến mức tột đỉnh, một đức tin Chúa muốn những người đi theo Chúa phải đạt được. Thật vậy, cuộc hành trình đức tin của Mácta là một cuộc hành trình tiệm tiến giống như những nấc thang của một cầu thang. Nó khởi đi từ nấc đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người để đến nấc đức tin đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy và rồi cuối cùng đạt đến nấc tột đỉnh của đức tin khi dựa trên kinh nghiệm gặp Chúa. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lại cuộc hành trình đức tin của mình. Với Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được Chúa ban cho sự sống của chính Chúa. Sự sống này được lớn lên dần nhờ cầu nguyện, nhờ Thánh Thể, nhờ Bí tích Hoà Giải, nhờ kết hợp với Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, cuộc đời con người luôn là một cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng là Đức Kitô. Còn bóng tối chính là sự chết, sự tội, những khó khăn thất bại. Chúng luôn tìm mọi cách đẩy chúng ta xa dần ánh sáng. Nếu không ý thức và không tỉnh thức, chúng ta sẽ không nhận ra. Trước những khó khăn thử thách, bệnh tật... Chúng ta thường xin Chúa ban ơn. Và rồi nếu Chúa không cho như ý chúng ta xin, chúng ta thường trách móc, phàn nàn và ngay cả chửi rủa Chúa nữa. Chính những sự này ngăn cản chúng ta nhận ra sự hiện diện và sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, khi những khó khăn thử thách xảy đến, chúng ta hãy coi đây như những phương cách Chúa gởi đến để thanh luyện đức tin của mình và để giúp mình ý thức sự bất lực của mình qua những thách đố đó. Đặc biệt, chúng ta cần đón nhận chúng với thái độ bình tâm, tin tưởng phó thác vào để những người xung quanh nhận ra trong chúng ta sự hiện diện của Chúa. Thí dụ về chiếc thuyền trên dòng sông là một minh hoạ cụ thể cho cuộc sống đức tin của chúng ta. Bình thường nó không di chuyển hoặc di chuyển không đáng kể. Nhưng khi gió bão đến, nếu không được cột, nó sẽ trôi dạt đi rất xa. Còn nếu được cột cẩn thận vào một cây cột đá, thì dù gió bão lớn đi nữa, nó cũng vẫn trụ lại được, có thể nó vẫn di chuyển qua lại. Cuộc sống đức tin của chúng ta cũng giống như chiếc thuyền trên dòng sống vậy. Nếu khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta biết bám chặt lấy Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được vì khi ta đuối sức Chúa không bỏ chúng ta mà giơ taynắm lấy tay chúng ta, vì ở đâu có khó khăn thì ở đó có ơn Chúa. Với tâm tình Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối, tức là hãy làm sống lại ơn ban sự sống của Chúa trong chúng ta, coi lại xem trước những khó khăn thử thách, chúng ta có thái độ nào? Buông xuôi hay thể hiện một đức tin trưởng thành bằng cách bám vào chúa để tin tưởng, phó thác và làm theo những gì Chúa dạy? Và giờ đây mỗi người tự hỏi: "tôi cần làm những gì và cần tránh những gì để khi giờ chết đến, tôi dám thưa với Chúa: "mọi sự đã hoàn tất", để rồi ra đi cách bình an như Chúa muốn. Amen!
Đầu tháng 11.2007, báo chí Tp.HCM đã tốn nhiều giấy mực viết về cái chết của "đoá hoa hướng AnTáng 228
Đầu tháng 11.2007, báo chí Tp.HCM đã tốn nhiều giấy mực viết về cái chết của "đoá hoa hướng dương" Lê Thanh Thuý, một cô gái trẻ luôn ấp ủ trong lòng ước mơ cao đẹp. Mọi người gọi cô là "đoá hoa hướng dương" không chỉ vì cô yêu thích hoa hướng dương, mà còn vì cô đã nỗ lực vươn lên dù biết quảng đời còn lại của mình chỉ trải qua từng ngày, từng giờ. Mặc cho căn bệnh ung thư quái ác đang hoành hành và huỷ dần sự sống, cô vẫn vui sống với những chương trình hành động đậm tính nhân văn: lo lắng, chăm sóc cho các bệnh nhi đồng cảnh ngộ. Những dự tính còn trải dài phía trước, nhưng cuộc đời Thuý đã phải dừng lại. Nhiều trái tim rung động, nhiều giọt nước mắt rơi xuống tiễn đưa một đoá hoa luôn hướng về ánh sáng mặt trời. Hôm nay, chúng ta cũng nghe thấy những giọt lệ khóc thương người thân yêu từ bài Tin Mừng. Matta, Maria và bà con láng giềng khóc thương trước cái chết của Lazarô. Anh chết đi khi tuổi đời còn quá trẻ. Người ta yêu quý sự sống, "tham sinh huý tử", nên cảm thấy hụt hẫng, đớn đau trước cái chết của một người thân yêu. Đức Giêsu cũng bồi hồi thổn thức trước nỗi đau của nhân loại. Ngài đến với hai chị em Matta - Maria trong lúc họ đang đau khổ nhất để chia sẻ nỗi đau với họ. Ngài, trong bản tính nhân loại, cũng không cầm được dòng lệ khi người bạn chết đi. Thế nhưng, vượt qua những đau thương hiện tại, Ngài đã loan báo cho gia đình cô Matta và cho cả nhân loại một niềm hy vọng. Đó là sự sống vĩnh cửu có từ nơi Ngài: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dù có chết cũng sẽ được sống" (Gn 11,25). Sự sống lại của Lazarô chính là dấu chỉ để mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng ban sự sống và sự sống lại cho những ai tin vào Ngài. Con người yêu quý sự sống, nhưng cũng cảm thấy sự sống sao mong manh quá. Từ cổ chí kim, người ta luôn tìm kiếm đủ mọi phương dược để được bất tử, hay ít là kéo dài tuổi thọ con người. Nhưng quy luật muôn đời không thay đổi: Ai ai rồi cũng phải chết. Cái chết tạo nên một thử thách cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những người chỉ nhìn thấy sự chết tước đoạt của con người tất cả, nên ra sức sống buông thả, bởi chết là hết. Họ sống theo triết lý Lamã xưa: "Hãy ăn uống no say, vì ngày mai bạn có thể chết". Nhưng cũng có người sống theo quan niệm khác. Họ tin còn có sự sống vĩnh cửu. Họ sống một cuộc sống tích cực, đầy ý nghĩa để chuẩn bị cho cuộc sống đời sau và cái chết không là nỗi sợ hãi đối với họ. Là Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống lại. Và sự sống đời đời ấy không bắt đầu khi chúng ta chết đi mà bắt đầu ngay ở đời nầy. Nó được dệt bằng những nỗ lực trong từng công việc hằng ngày của chúng ta. Do đó, trong tất cả mọi việc, dù lớn hay bé, chúng ta hãy làm trong viễn cảnh vĩnh cửu; để nhờ những hy sinh bé nhỏ ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ được hạnh phúc khi bước qua cái chết. Nhìn những công việc tốt đẹp của Lê Thanh Thuý, người ta nhận ra nơi cô một tâm hồn quảng đại luôn hướng về sự thiện như đoá hoa hướng dương hướng vế ánh sáng mặt trời. Ước gì mỗi người chúng ta cũng sống thế nào để mọi người nhận thấy chúng ta luôn hướng về Ánh Dương là Đức Kitô, nguồn sống của tất cả mọi người chúng ta.
Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại là một tường thuật căn bản của Phúc Âm thánh Gioan AnTáng 229
Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại là một tường thuật căn bản của Phúc Âm thánh Gioan. Chúa Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nagiarét thật là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa toàn năng. Gioan, người đồ đệ Chúa thương yêu, đã sống bên cạnh Chúa, đã nhìn thấy, đã sờ đụng, đã chứng kiến quyền năng của Ngôi Hai Thiên Chúa trong bản thể của con người. Đây là một bản tuyên xưng Đức Tin sống động mà Công đồng Chalcédoine năm 451 đã long trọng công bố: “Ngôi Lời, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria về tính loài người, gồm hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không chia sẻ, không tách rời”. Đấng ấy Gioan đã nhìn thấy và minh chứng. Ngài là một con người đích thực, biết yêu biết cảm. Gioan viết rằng tại làng Bêtania, “Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Lazarô”, nhưng hôm nay, Lazarô đã chết và chôn được 4 ngày rồi. Trên đường dẫn ra mộ để thăm người bạn cũ, Gioan nhìn thấy khuôn mặt Chúa nhiều lần biến sắc: Ngài bồn chồn, xao xuyến, Ngài khóc khi thấy hai chị em khóc nức nở: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết!”. Ngài là một con người đích thực, biết thương, biết cảm, biết chia sẻ tình bạn, biết liều mạng sống vì bạn hữu. Người Do thái nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết là chừng nào”. Nhưng qua khuôn mặt con người đó, sáng chói quyền năng của một ngôi vị Thiên Chúa. Gioan mô tả những chặng đàng Chúa đi xuống với sự chết để rồi cùng với người chết đi lên với sự sống. Lazarô, người bạn thân của Chúa, ốm nặng, tắt thở, được chôn cất và đã nặng mùi, vì đã 4 ngày. Đó là tất cả thảm trạng của sự chết, hình ảnh sự chết của tâm hồn do tội lỗi. Nhưng Chúa là chủ sự sống, Ngài không để bạn hữu mình trầm luân mãi trong bóng tối sự chết. Gioan nhìn thấy hình ảnh đặc ân rửa tội đến một cuộc tái sinh, một cuộc vươn lên sự sống, do Đấng là “sự sống và là sự phục sinh” mang lại. Đứng trước hầm mộ, Ngài kêu lớn tiếng như để tiếng Ngài rạng đến cõi âm u của sự chết. Và Lazarô đã ra khỏi mồ, được tháo gỡ khỏi “xiềng xích sự chết” (Tv 116, 8), được sống lại đầy sinh lực. Gioan nhìn thấy ở đây hình ảnh một người tân tòng vừa bước ra khỏi giếng rửa tội. Vì thế, Giáo hội đọc lên trong ngày tái sinh trong giếng nước rửa tội cũng như trong nghi lễ tiễn đưa một tín hữu đến nơi an nghĩ cuối cùng Lời của Chúa phán trước phần mộ của Lazarô: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ”. Ngài là ai mà tình thương mạnh hơn sự chết? Martha đã nói lên niềm tin của Bà cũng như niềm xác tín của chúng ta. “Thưa Thầy, vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
(Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn) "Điều đã thành sự nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại" (Gn 1:3).
Những lời dẫn nhập trên đây trong Tin Mừng theo thánh Gioan được minh họa đầy đủ hơn qua AnTáng 230
Những lời dẫn nhập trên đây trong Tin Mừng theo thánh Gioan được minh họa đầy đủ hơn qua trình thuật "Chúa chữa người mù" và "Phục sinh Lazarô". Rõ ràng, vị thánh sử muốn khẳng định: Đức Giêsu chính là Sự Sống và Sự Sáng cho muôn dân. Trong bài Phúc âm tuần trước, khi được các môn đệ hỏi "Tội ai đã gây ra tình cảnh bất hạnh cho người mù mắt thuở mới sinh," Đức Giêsu trả lời: "Không phải tội ai cả, nhưng để nơi con người ấy công việc Thiên Chúa được rạng vinh." Trong bài Phúc âm tuần này, khi có người báo cáo về tình hình nguy tử của Lazarô, Chúa Giêsu lại xác quyết: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa, và do đó Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh." Dưới đôi mắt loài người, bệnh hoạn, tật nguyền, đau thương, chết chóc là những mầm móng gieo rắc thống khổ, bất an và bất hạnh. Nhưng đối với Đức Giêsu, tất cả có thể trở thành phương thế ca ngợi quyền năng của tình yêu Thiên Chúa. Như thế, một cái nhìn mới đã được trao ban cho nhân loại: thay vì kêu ca, nguyền rủa và khước từ khổ đau, con người có thể chấp nhận và sử dụng nó như phương tiện tiến tới vinh quang ngày mai. Chúa Giêsu không đề cao đau khổ như cứu cánh của con người, nhưng Ngài lại dùng đau khổ để bày tỏ tình yêu là cội nguồn của ơn cứu độ. Bao năm trời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không ngừng ra tay giải thoát người ta khỏi những áp chế của bệnh tật, u sầu và chết chóc phần xác, nhưng chính Ngài lại đón nhận nỗi tang thương khủng khiếp nhất của kiếp người là cái chết ô nhục để mang lại cho thế giới sự sống thần linh phong phú. Chúa Giêsu vừa "yếu đuối" để chia sẻ và cảm thông tận cùng nỗi khổ đau của con người, nhưng lại vừa "mạnh mẽ" để nâng đỡ và cứu độ cả thể xác lẫn linh hồn nhân thế. Thánh Gioan đã làm rõ nét chân dung của Chúa Giêsu với hai bản tính Thiên Chúa và con người, "mạnh mẽ" và "yếu đuối", trong phép lạ "Phục sinh Lazarô." Kinh thánh kể: Đức Giêsu thương mến ba chị em Matha, Maria và Lazarô cách đặc biệt nên thường ghé nhà họ mỗi lần có dịp qua làng Bêtania. Thế nên khi Lazarô ốm nặng, Matha vội cho người cấp báo với Đức Giêsu, hy vọng rằng Ngài sẽ đến chữa ngay cho em mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy ra, nên Ngài tiếp tục lưu lại nơi đang ở là quận Pêrê thuộc mạn đông của giòng sông Giođan thêm hai ngày nữa, sau đó mới lên đường đi Bêtania. Như thế, người đưa tin đi hết một ngày đường, thêm hai ngày Chúa ở Pêrê, và một ngày đường Ngài đi về Bêtania, tổng cộng là 4 ngày, bằng số ngày Lazarô qua đời. Tại Palestine, vì thời tiết nóng nực làm cho xác chết mau mục rữa và hôi thối, nên người ta thường đem chôn ngay trong ngày người chết vừa qua đời, sau đó mới tiến hành một tuần than khóc. Thế nên, Kinh thánh ghi nhận: "Có nhiều người bạn bè thân thích vẫn còn lưu lại với chị em Matha khi Chúa Giêsu đến." Rồi khi thấy tang gia cùng bao bạn bè thân thích than khóc về sự ra đi của Lazarô, Chúa Giêsu đã thổn thức xúc động (Gn 11,33). Thế rồi, đang lúc đi ra mộ thì Ngài khóc (Gn 11,35). Tại sao biết trước những gì sẽ xảy đến cho Lazarô và những gì mình sẽ làm để tôn vinh Thiên Chúa mà Đức Giêsu lại thổn thức? Phải chăng thánh sử Gioan muốn xác quyết Chúa Giêsu là một con người đích thực: biết thương, biết cam, biết chia sẻ thân phận và niềm đớn đau mất mát của con người? Phải chăng Ngài đang đi sâu vào cõi âm u của sự chết, để rồi từ đó đưa con người tiến ra với sự sống. Ngoài việc bày tỏ nhân tính, Chúa Giêsu còn mạc khải thiên tính: "Ta là sự sống lại và là sự sống." Xưa nay, không người nào dám tuyên bố như thế, bởi vì có ai lại không bị thần chết khuất phục. Chỉ có Thiên Chúa mới là chủ tể của sự sống và sự chết. Không ai có thể tự mình bước vào cõi chết và sau đó lấy lại sự sống. Chỉ có Đức Giêsu mới làm được việc ấy. Ngài hô lớn tiếng: "Lazarô! Hãy ra đây!". Người chết đi ra, chân tay và mặt còn quấn các mảnh vải và khăn liệm. Đáng ngạc nhiên là việc người chết lại có thể nghe được tiếng hô của Đức Giêsu để sống lại! Như thế lời tiên báo của Ngài trước dân Do thái đã bắt đầu thành sự: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các người: giờ đã đến - và là ngay bây giờ - các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ sống" (Gn 5,25) Từ trong thâm cung của cõi chết, Lazarô đã nghe tiếng Con Thiên Chúa để rồi bước ra cõi sống. Điều đó hàm ngậm một chân lý: khi con người lắng nghe tiếng Chúa và thi hành, sự sống sẽ phát sinh. Đây là sự sống thần linh, không mục nát, không thối rữa mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại. Như thế, dù thân xác có bị tan biến theo thời gian, sự sống Thiên Chúa tặng ban sẽ giúp con người tồn tại muôn đời. Vậy thì hôm nay Chúa muốn nói gì với tôi, và tôi phải làm gì để có được sự sống thần linh đó? Chúa nói "Hãy cởi khăn liệm cho anh ấy." Như thế, Chúa muốn tôi ra tay tháo gỡ những mãnh khăn đang bó buộc tha nhân, đem lại cho họ nhân phẩm và sự sống đích thực của con người. Ngài muốn tôi thắp lên một ngọn lửa yêu thương, dù rất bé nhỏ, để góp phần soi sáng cuộc đời. Chúa bảo dân chúng cởi khăn cho Lazarô, và Ngài cũng mời gọi tôi hãy cởi bỏ những đắng cay, buồn phiền, thất vọng, u mê cho kẻ khác. Làm như thế là tôi đang sống trọn vẹn ý nghĩa của mùa Chay thánh, đồng thời đón nhận dồi dào ánh sáng Phục sinh của Đức Giêsu, Đấng Cứu độ con người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền) 1. Tin vào sự sống:
Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn: Để rồi không AnTáng 231
Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn: Để rồi không biết bao nhiêu câu hỏi đã đặt ra: Tại sao như thế? Con người là "Nhân ư linh vạn vật" kia mà? Và làm sao Thiên Chúa tốt lành, quyền năng lại để xảy ra như thế? Như những câu thơ oán thán "Trời già" của một người cha mất đứa con yêu: "Ái ăn đâu, Ái ở đâu? Để thương để nhớ để u sầu. Trời già độc địa làm chi bấy? Nỡ bắt con tôi bảy tuổi đầu ! Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của câu nói mà hai chị em Matta và Maria ở Bê-ta-ni-a đã trách móc Chúa Giêsu khi đối diện với cái chết của người em trai yêu dấu: "Phải chi có Thầy ở đây thì em con không chết !". Phần chúng ta, vấn nạn "nhân sinh quan" nầy gần như đã được giải đáp ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh. A-đam-E-Va, sau khi khước từ Lời Thiên Chúa "Ngày nào các ngươi ăn trái cây nầy, các ngươi sẽ phải chết" (St 2,17), nghe lời ma quỷ xúi dục, đã đưa tay "hái trái cấm"...và thế là "sự chết đã lan tràn tới mọi người" (Rm 5,12): Ca-in giết A-ben, lụt đại hồng thủy, bảo lửa hủy diệt Sodoma và Gomora...Và cho tới mãi hôm nay, hình như thế giới cứ lần mò tiến đi giữa một "nền văn minh sự chết": khủng bố, chiến tranh, hận thù sắc tộc, tôn giáo, Si-đa, ma túy, phá thai, dịch bệnh... Thế nhưng, đó lại không phải là ý càng không là chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ là "Chúa của kẻ chết" mà là "Chúa của người sống". Cho nên, từ hơn năm trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, chính trong cái "vũng lầy nhầy nhụa" đầy những đống xương khô của bóng tối và sự chết, của đọa đầy và thất vọng, của đắng cay ưu phiền trong kiếp nô lệ của thời lưu đầy Babylon (587 B.C)...dân Ít-ra-en đã nghe vang lên lời của Thiên Chúa như "tiếng kèn hy vọng" qua miệng của ngôn sứ Ê-giê-ki-en: "Nầy hỡi dân ta, Ta sẽ mở cửa huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi huyệt...Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh..." (BĐ 1). Nếu thân phận lưu đày của ít-ra-en là ảnh hình của một nhân loại đọa đầy tội lỗi, thì "tin vui hy vọng" của Ê-giê-ki-en kia cũng chính là tín thư riêng tặng cho mỗi người chúng ta mà nội dung xuyên suốt chính là: niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên Chúa vượt trên khổ đau và chết chóc và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Chân lý nầy nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường cuộc sống hôm nay thì sẽ được hiểu rằng: chúng ta không được quyền thất vọng cho dù phải đối diện với bao thảm cảnh cuộc đời, cả cái chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi nẽo đường và biến cố để thổi vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm của sự sống và hồng ân cứu độ. Niềm tin đó không là chuyện hoang tưởng của những đầu óc mê lầm,lú lẩn, nhưng là một chân lý rõ như ban ngày đúng như nhận xét thâm thúy của Gilbert K. Chesterton: "Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao". Và có một điều kỳ lạ là Thiên Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà "Lời luôn đi kèm hành động". Biến cố "cải tử hoàn sinh" cho người bạn La-gia-rô chết thúi 4 ngày trong huyệt mộ là một minh họa rõ nét cho chân lý nầy. Thật vậy, chính ngay "quê hương của tử thần", ngay cánh cửa dẫn vào huyệt mộ, một tiếng nói quyền năng đã âm vang thấu tận âm phủ, mở toang cánh cửa âm ty: "Hỡi La-da-rô hãy bước ra", "Ta là sự sống lại và là sự sống" (TM). Như vậy bài học đầu tiên của Lời Chúa hôm nay mà chúng ta phải thuộc, tin mừng tiên khởi mà hôm nay chúng ta phải sống chính là:Tin vào sự sống. Tin vào một Thiên Chúa tình yêu ban sự sống, tin vào một Đấng Kitô Phục sinh dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, tin vào Chúa Thánh Linh đang thổi vào hồn ta nguồn sống mới, thì liệu có mang lại chuyển biến nào cho chính ta và cho thế giới hay chăng? Thưa có đấy. Bởi vì chỉ với niềm tin như thế ta mới thấy thế giới đẹp vô cùng, ta mới thấy cuộc sống mới đáng sống làm sao, mới thấy mỗi một con người, mỗi một sinh linh là một công trình kỳ diệu, mới thấy mỗi một cuộc đời, cho dù què cụt điếc câm, cho dù thấp cổ bé miệng, cho dù dốt nát bần hàn...vẫn là một "kỳ công vĩ đại của Thượng Đế" luôn cần được kính trọng, luôn phải được sẻ chia, yêu thương và phục vụ. Bởi vì tất cả đều là sự sống tốt lành phát xuất từ nguồn sống vĩnh cửu và sẽ được thăng hoa, qui hướng về cội nguồn vĩnh cửu rạng ngời vinh quang đó. Vâng, chỉ với niềm tin đó thì chúng ta mới trụ vững giữa trăm chiều thử thách, mới đủ can đảm mĩm cười với số phận cho dù số phận có khắc nghiệt oái ăm, mới đủ quảng đại và khoan dung để yêu thương và tha thứ, cho dù bị bách hại đọa đầy. Và nhất là, chỉ với niềm tin đó, chúng ta mới bình thản sống cuộc sống hôm nay như một cuộc lên đường, một cuộc vượt qua, một cuộc tái sinh để bước vào quê hương vĩnh cửu. Niềm tin đó sẽ củng cố niềm hy vọng vĩnh hằng trong ta và giúp ta mạnh mẽ góp phần xây dựng nền "văn minh sự sống", "văn minh tình yêu", cho ta con tim rộng mở để đón nhận và yêu thương con người, cho ta nghị lực và hy vọng để chiến thắng và đẩy lùi sự dữ trong ta và quanh ta. Cách riêng đối với những anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập kitô giáo, niềm tin vào sự sống lại sẽ là một cảm nghiệm mới mẻ tinh khôi của những con người vừa kết thúc một chặng đường "vượt qua" đầy nhiêu khê và thử thách để hân hoan tiến vào "miền đất của tái sinh", hội nhập vào một cuộc sống mới mẻ của một đoàn dân được cứu chuộc. Tin vào sự sống, còn có nghĩa là tin vào một Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết:
2. Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết: Quả thật, khi vào đời, Con Thiên Chúa nào tránh né cái kiếp phận long đong của con người. Hãy xem: những giọt nước mắt đã lăn dài trên má của Chúa Giêsu khi chứng kiến cái chết của người bạn thân La-da-rô ở Bê-ta-ni-a; và chắc chắn sẽ không thiếu những "nụ cười" chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana khi giúp họ có thêm mấy trăm lít rượu ngon để niềm vui trọn vẹn và được mãi nối dài. Nếu không có "trái tim trắc ẩn" của Ngài dừng lại trên quan tài của người thanh niêm xấu số bạt phần thì làm sao có nổi vui đong đầy trong cõi lòng của người mẹ mất con, góa phụ Naim? Nếu không có đôi tay sẻ chia và phục vụ giơ lên để chúc lành thì làm sao mấy ngàn người đói meo giữa hoang mạc có được bánh cá thơm ngon đã đời chắc ruột? Phải chăng, vì chính Ngài đã không chê những giọt nước mắt nóng hổi tình yêu sám hối của M.Mađalêna để lại trên chân mà đã khiến cho Matthêô sẵn sàng bỏ lại tất cả để theo Ngài lang thang rao giảng tình yêu? Phải chăng vì Ngài đã không kết án người phụ nữ ngoại tình mà Gia-Kê trưởng ty thu thuế giàu sụ sẵn sàng leo lên cành sung để được ngắm nhìn Ngài cho sướng mắt để sau đó sẵn sàng trở nên kẻ nghèo để sẻ chia và sống công chính. Phải chăng vì Ngài đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh mà đôi mắt tâm hồn của tên trộm bị đóng đinh bên hữu đã chợt mở ra để nhìn thấy trong cái thân xác bê bết máu kia là chìa khóa của quyền uy đang mở cửa vào Vương quốc vĩnh hằng? Sống đức tin hôm nay đó chính là ý thức mãnh liệt rằng: Đức Kitô phục sinh đang hiện diện trong mọi ngỏ ngách và biến cố cuộc sống, nhất là, Ngài có mặt ngay trong những phút giây và cảnh ngộ bi đát nhất như cảnh ngộ của gia đình Bêtania trong biến cố La-gia-rô qua đời. Thê thảm nhất, khổ sầu nhất, thất vọng nhất, là khi con người chối từ và phản bội Thiên Chúa để không bao giờ thấy được ánh sao hy vọng ở cuối trời, không nhận ra ánh mắt yêu thương và tha thứ đang dõi nhìn theo...mà chỉ một mình loay hoay bước đi trong cõi nhân sinh buồn thảm. Trong hoàn cảnh đó, trong thái độ đó, quả thật cuộc sống đã trở thành cõi chết, hương vị ngọt ngào của cuộc sống đã trở nên ngải đắng, ánh sáng ấm nồng mùa xuân trở thành đêm đông băng giá...Và như thế, một liều thuốc độc, một phát súng, một dây thòng lọng đã trở nên "phương tiện gần gũi dẫn lối đưa đường vào cõi chết tuyệt vọng" ! Chúng ta đừng quên câu chuyện "Ngày Thứ Năm Tuần Thánh": khi Giu-đa phản bội Thầy, bỏ bàn tiệc ra đi, thì "bóng tối dâng lên"...và "bóng tối quái ác" đó đã phủ ngập trái tim Giu-đa cho đến khi y đưa đầu vào chiêc giây thòng lọng để chọn cái chết buồn tênh tăm tối. Trong khi đó, chiều Thứ Sáu hôm sau trên đồi Can-vê nắng úa, một kẻ trộm bị đóng đinh đang hấp hối, đã nhìn ra trong cái chết đớn đau oan nghiệt của con người tử tội Giêsu Na-da-rét một ánh sáng chứa chan niềm hy vọng: "Khi Thầy vào Nước của Thầy xin nhớ đến tôi". Và lập tức anh ta được đáp ứng: "Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi". Như thế đó, Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết để dẫn đưa những ai tin vào Ngài tiến vào cuộc sống đích thực, như hôm nay Ngài xác quyết: "Ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ". Phải chăng đây cũng chính là kim chỉ nam cho đời thường cuộc sống và là sự chuẩn bị cuối cùng của Mùa Chay Thánh, chuẩn bị bằng sự can đảm "chết đi cho cái tôi đáng ghét" của mình, can đảm quay lưng chối từ cái quá khứ của cuộc đời nô lệ tội lỗi, can đảm thoát ra khỏi vũng lầy của yếu đuối, đam mê và dục vọng...để đĩnh đạt cùng với Đức Kitô bước vào niềm hy vọng phục sinh, cuộc sống mới trong hoan vui ân sủng. Tin vào sự sống, tin vào Đấng đã nhập thể trong nổi đau và cái chết để phục hồi tất cả trong vinh quang phục sinh sẽ không là một công thức suông được lặp đi lặp lại như "điệp khúc của mùa Chay", mà phải hiện thực ngay trong thánh lễ nầy, khi chút nữa đây, Thịt Máu Ngài sẽ trở nên lương thực trường sinh để biến cuộc đời ta, thân xác ta ngập tràn "Thần Khí. Điều quan trọng giờ nầy là ta hãy mạnh dạn trả lời câu hỏi của Đức Kitô: "Con có tin như thế không?" không phải bằng cách lặp lại thuộc lòng lời của cô Matta: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian", nhưng là bằng tất cả con tim và cuộc sống: con tim sẵn sàng yêu đến cùng cho dù phải thí mạng vì bạn hữu và cuộc sống sống hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và cứu rỗi anh em cho dù phải kinh qua nẻo đường hẹp thập giá. Để yêu và để sống như thế, dĩ nhiên, sẽ là chuyện bất khả khi với thân phận con người, nhưng lại là chuyện có thể khi chúng ta biết sẵn sàng để cho "Thần Khí chi phối". Đó chính là kinh nghiệm của Thánh Phaolô, một con người đã được Thần Khí đổi mới toàn diện từ một tay "sát thủ" tận lực tiêu diệt kitô giáo đã trở nên chứng nhân của Tin Mừng sống lại. Nguyện xin Thần khí của Đức Kitô hôm nay cũng biến đổi tất cả chúng ta nên những con người mới, nên những chứng nhân của Tin Mừng Sống lại. Amen.
Achille Degeest. (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can AnTáng 232
Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can ngăn Người vì biết rằng ở đó Người sẽ gặp sự kình địch của người Do Thái. Tin tức về bệnh tình của Lagiarô gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng Chúa Giêsu tuyên bố: “Lagiarô chết rồi Ta mừng cho chúng con vì Ta không có mặt ở đó, để chúng con được tin”. Niềm vui của Chúa trong một hoàn cảnh như thế có thể làm ta ngạc nhiên. Người vui vì Người sắp tỏ uy quyền của mình trên thế lực mù quáng của sự chết, và đàng khác vì sắp tăng cường lòng tin của các môn đệ đối với Người. 1) Cái chết của Lagiarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật. Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây giờ Người biểu dương quyền năng và cho Lagiarô sống lại. Điều này cho thấy rằng tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người yêu mến. 2) Nên để ý tới câu trả lời của Martha. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều ấy không?” Nghĩa là, con có tin rằng ai tin vào Ta sẽ được sống và hơn nữa, sẽ không phải chết bao giờ chăng? Chúa hỏi Martha về một chuyện gì, về sự xác tín được sống. Nhưng câu trả lời của Martha nói về chính con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: ‘Dạ, con tin rằng con sẽ không chết’ nhưng: “Con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Hẳn là nhờ lời tuyên xưng đức tin này (các môn đệ nghe rõ ràng) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ khi đi về Bêtania, rằng: Người vui mừng. Người đã muốn xảy ra việc Lagiarô sống lại để những người chứng kiến nó, tin Người được Chúa Cha sai đến. Điều này cho ta thấy: Đức tin không phải là một sự tin tưởng vào sự vật, dù là vào một thế giới đã được phục hồi trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu, đó là điều căn bản, mọi sự khác sẽ đến sau, và chỉ là thứ yếu.
Trong dịp hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm ngôi mộ Ladarô. Từ Vườn Cây Dầu, nếu đi AnTáng 233
Trong dịp hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm ngôi mộ Ladarô. Từ Vườn Cây Dầu, nếu đi băng đồi theo đường thẳng chỉ chừng 4 km, nhưng hiện nay nằm trong phần đất thuộc Palestine với bức tường bêtông ngăn lối cũ, nên phải đi vòng bằng xe bus khoảng 20 km mất chừng 30 phút. Bêtania tên hiện nay là El - Eizarya. Thăm căn nhà Bêtania. Viếng nhà thờ dâng kính cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Matta trước khi Chúa làm phép lạ cho Ladarô sống lại. Nhà thờ bằng đá không lớn lắm. Phía ngoài nhà thờ, ngay bên đường lộ, một hầm sâu với bậc thang đi xuống, là mộ Ladarô. Mộ đục sâu vào đá, mấy chục bước tam cấp đi xuống, ánh sáng mờ ảo hắt lên những phiến đá lạnh lẽo nhập nhoà lung linh nơi Ladarô đã an nghĩ bốn ngày. Đứng trước mộ Ladarô, tôi nhớ đến đoạn Tin Mừng Ga 11,1-45. Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”. Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa. “Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời. Là Kitô hữu, chúng ta tin có tội lỗi, tin vào thánh giá, tin có sự đau khổ và sự chết, tin vào ơn tha thứ, tin vào niềm vui, vào sự giải thoát, tin vào sự sống và sự sống lại. Chính vì thế mà tất cả những lời chứa đựng trong Kinh Thánh Tân ước được gọi là Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô chính là nội dung Tin Mừng. Thánh Phaolô thường gọi những lời thuyết giáo của Chúa là “Tin mừng Chúa Kitô” (x.1Tx 3,2; 1Cr 2,12; 4,4; 8,13; 10,14; Pl 1,27; Rm 15,19). Trong Tin Mừng bao giờ cũng nêu lên hai điểm chính yếu: Chúa Kitô đã chết và Ngài đã sống lại (x.1Tx 4,14; 2 Cr 13,4; Rm 4,24-25; 8,34; 14,9). Sống và chết là qui luật tuần hoàn và phát triển của muôn loài muôn vật. Vạn vật tuy biến hóa, thay đổi hình dạng, nhưng nguyên khí vẫn là một. Trong sự biến hóa, thì chết là để phát sinh sự sống mới, vì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Như vậy: chết là điều kiện nhất thiết để triển nở và thành toàn; chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ sung mãn hơn. Dựa theo qui luật tuần hoàn và phát triển đó, chúng ta cảm nhận cách sâu xa khi Chúa Giêsu nói về sự sống con người: “Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25). Chết và sống lại đó là hai sự kiện căn bản không thể tách rời. Không thể có sống lại nếu không chết. Trái lại, nếu Chúa Kitô chết không sống lại thì nói như Thánh Phaolô “đức tin của chúng ta chỉ là trống rỗng” (1Cr 15,14), nghĩa là vô giá trị, giả dối. Chết và sống lại là hai sự kiện “bất khả phân”. Hai sự kiện của một mầu nhiệm Chúa Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Ngài là Thiên Chúa, vì có quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người nhân ái đến thăm gia đình quý mến có người yêu thương đã chết, trái tim Chúa rung động trước những muộn phiền niềm đau chia ly trước sự chết. Chúa “thổn thức trong lòng và xao xuyến”. Chúa đã khóc khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Chúa đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đó đã phải thốt lên: “Kìa xem! ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Chúa đã cho Ladarô sống lại, hứa hẹn niềm hy vọng cho nhân loại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa.Người “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống” (Mc 12,27). Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi Ladarô quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây!... Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24), ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv 9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa. Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa của nó. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7; Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11). Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống (Pl 1,21). Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống. Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15). Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống”siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa. Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
Thời gian này chúng ta đi sâu vào Mùa Chay, và cũng trong thời gian này nhiều giáo xứ đã AnTáng 234
Thời gian này chúng ta đi sâu vào Mùa Chay, và cũng trong thời gian này nhiều giáo xứ đã tổ chức Bí Tích Hòa Giải để nhiều người sám hối trở lại cùng Chúa, nhiều anh chị em dự tòng đang chuẩn bị tâm hồn đón nhận bí tích Thánh Tẩy. Tôi có tin nhận rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì tôi không? Các bài đọc hôm nay cho thấy sự xuyên suốt với chủ đề: Sự Sống Lại. Bài đọc Cựu ước: Thiên Chúa cho dân Ngài sống lại. Bài Tin Mừng: Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại. Bài đọc Tân ước: Thánh Thần ban sự sống cho mọi xác phàm. Qua phép lạ Chúa Giêsu đã làm Chúa muốn ban cho con người từ sự sống lại đến sự sống đời đời. Câu then chốt trong bài Tin mừng hôm nay là: “Phục sinh và sự sống chính là Ta ! Ai tin vào Ta thì dầu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ” (c 25). Và để giúp người ta tin như thế, Chúa Giêsu đã cho Ladarô sống lại. Bước vào đời sống rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã không ngừng làm cho mọi người tin Người có sự sống đời đời đem đến cho người ta. Hôm nay sắp bước vào cuộc khổ nạn, Chúa càng khẳng định mạnh mẽ hơn để củng cố niềm tin của mọi người và nói lên ý nghĩa việc Người chấp nhận sự chết. Sự sống thể xác: Hầu hết ta lo lắng cho phần xác nhiều thời giờ hơn: ăn uống, tiền bạc, thuốc men, hưởng thụ… và cũng rất nhiều tội ta phạm vì quá lo cho sự sống thể xác. Tin mừng Thánh Gioan kể lại hôm nay, bà Matta, bà Maria nhiều người Do thái thân cận cũng đã lo lắng, buồn phiền, thương tiếc trước cái chết thể xác của người thân là Ladarô cả Chúa Giêsu cũng thổn thức trong lòng ít nhất là 2 lần trước cái chết thể xác của Ladarô. Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại, ông sống thêm một thời gian nữa rồi cũng phải chết như những người khác. Ai cũng biết rằng sự sống thể xác con người gặp rất nhiều giới hạn và giới hạn cuối cùng là cái chết và chính Chúa Giêsu cũng chấp nhận cái giới hạn đó. Sự sống thần linh: Qua tiên tri Êdêkien Chúa phán: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh” (Ed 37, 14a). Thánh Phaolô gởi thư cho tín hữu Rôma: Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết sống lại trong anh em, thì cũng làm cho xác phàm hay chết của anh em được sự sống mới”. Sự sống thần linh quan trọng hơn sự sống thể xác bởi sự sống này thuộc về Thiên Chúa. Gợi ý áp dụng: Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại để làm vinh danh Chúa, làm cho những người Do Thái, các Tông Đồ và cả tôi nữa tin rằng Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến với nhân loại. Ladarô sống lại giúp cho tôi xác tín vào niềm tin phục sinh của ngày mỗi người sẽ sống lại do quyền năng Thiên Chúa. Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, mà tôi không sống đúng với lời tuyên xưng niềm tin ấy và chưa dám tin vào Lời Chúa nói: “Ai dám liều bỏ mạng sống thì sẽ được sống đời đời”. Mùa Chay giúp ta chuẩn bị chia sẻ sự sống đời đời với Đức Giêsu. Cuộc sống thần linh của ta có thể đã chết hay chưa sống dồi dào. Ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu mà xin ơn Phục Sinh và tin chắc rằng ta sẽ được miễn là ta thực sự muốn mình Phục Sinh với Chúa. Sau câu chuyện này Thượng Hội Đồng Do Thái đã quyết định giết Chúa Giêsu, như vậy Chúa đã chết để cho tôi được sống. “Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ” sau câu nói đó Chúa đã hỏi Matta: “con có tin như thế không”. Đó cũng chính là câu hỏi Chúa hỏi ta mỗi ngày và mỗi ngày ta sống như thế nào là câu trả lời đối với niềm tin vào Chúa Phục Sinh là sự sống đời đời. Trong thánh lễ chúng ta luôn tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, đó là lời nhắc nhở việc Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy AnTáng 235
Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay. Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?” Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.” “Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.” Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha. Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời. Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24). Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống. Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết. Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”. Thưa anh chị em, Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn? Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống. Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau. Anh chị em thân mến, Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo. “Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.
Người em trai báo tin ông cụ thân sinh tôi bị té nặng và đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh AnTáng 236
Người em trai báo tin ông cụ thân sinh tôi bị té nặng và đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh viện tỉnh Khánh Hoà, ngay trước giờ tôi chuẩn bị bài nói chuyện với các em thuộc Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo hôm Đại Hội cuối tháng hai vừa qua. Tiêu đề bài nói chuyện hôm ấy là "Mục Đích Đời Sống". Và mục đích của đời sống công giáo chân chính là gì nếu không phải là sống chết cho nhau, nhất là cho những người đã dày công dưỡng nuôi mình khôn lớn... Và tôi đã đáp chuyến bay sớm nhất về lại Sàigòn. Rồi thuê một cuốc xe chạy ngày đêm ra Nha Trang. Vào ngay bệnh viện, ông cụ nhận ra tôi ngay -tuy vẫn còn mê man lắm- và ra hiệu muốn nắm lấy tay tôi. Tay đứa con tha phương quyện trong đôi bàn gầy guộc chai cứng theo ngày tháng của người cha già một đời lam lũ hy sinh vì đức tin và vì lý tưởng. Rồi đôi mắt nhoà đẫm lệ, ông cụ hôn tay tôi -như một nụ hôn giả từ vĩnh biệt... Tôi đã chuẩn bị tinh thần ngay từ khi đuợc báo tin. Nhưng sáng hôm sau, vào lại phòng cấp cứu, ông cụ tỉnh hơn đôi chút. Rồi lạ lùng thay, ông cụ thều thào nói chuyện, kể cho tôi nghe là ông cụ đã đi đến một chỗ nào đó cao xa:. "Ba thấy toàn một màu trắng. Rồi thấy rất nhiều bà Sơ. Nhưng chẳng thấy ông cha nào cả!" Tôi phá lên cười: "Con biết tại sao rồi!" Ai cũng cừời theo, trừ ông cụ. Và hình như vẫn còn mãi mê về một chỗ cao xa trắng xoá tinh tuyền nào đó, ông cụ ra hiệu cho tôi ghé tai gần: "Ba biết Ba chưa chết!" Tôi liền trấn an, vững tin như Martha về Lagiarô: "Không! Ba không chết đâu!" Phải cấy niềm tin và sức mạnh cho ông cụ, như Chúa Giêsu đã cấy cho Martha hai ngàn năm trước, tôi nhủ lòng mình. Một điều tôi cảm xúc nhất về câu chuyện Lagiarô, là khi Chúa Giêsu nói cùng Martha: "Ta Là Sự Sống". Sự Sống. Ngay chính giữa cảnh chết chóc khóc lóc tang thương, Chúa đến mang sự sống; ngay giữa lúc khóc than, Chúa mang đến nụ cười. "Ta Là Sự Sống": Ta Là. Không Ta Đã Là hoặc Ta Sẽ Là. Ta Là: Hiện Tại; Bây Giờ. Vì với Chúa không thể có quá khứ và chẳng bao giờ có tương lai. Không thể chết, nếu tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại. Không thể chết, vì chết chỉ là một phần của đời sống trường sinh miên viễn... Sắp bước vào Tuần Chay Thánh, và một lần nữa, câu chuyện người chết sống lại Lagiarô là một lời cảnh báo vừa nghiêm khắc vừa xúc động: là không thể có sự sống đời sau nếu không trọn vẹn và thành tín sống đời sống đời này. Không thể có tương lai hằng cữu nếu hiện tại chỉ là một con số không rỗng toác! "Ta Là Sự Sống": nếu chúng ta đợi chờ sống đời sống trường sinh chỉ sau khi đã nhắm mắt xuôi tay thì chắc chắn đó là điều vô cùng ảo tưởng... Là con người như bao con người, Chúa xúc động trước cái chết của Lagiarô: Người rơi lệ. Nhưng Người đã không để cho những bức xúc nhân tính lu mờ đi bản chất thiên tính của mình, như Lời Kinh Tiền Tụng: "Là người thật, Chía Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ." Nói một cách khác, giữa những đớn đau mất mát về vật chất xác thịt kia, điều tưởng chừng như phải khóc than đau buồn là khi niềm tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại đã phai nhoà mai một. Chúng ta phải khóc, phải buồn, phải xót thương khi người thân không còn nữa. Nhưng những giọt nuớc mắt và nỗi buồn kia phải quyện trong một niềm tin sắt đá là Sự Sống và Sự Sống Lại đã tiêu diệt sự chết 2000 năm trước đây trên đồi Golgotha cô liêu hoang vắng. Điều cảm xúc và đáng suy nghĩ khác là khi Chúa Giêsu phán: "Lagiaro! Hãy ra đây!" Đó là một lệnh truyền! Hãy ra khỏi sự chết và hãy bước vào -mạnh dạn bước vào- Sự Sống. Và vì thế, khi tâm trí dày đặc những ý tưởng sợ hãi, lo âu, buồn phiền, thất vọng; khi phải diện đối diện với những dục vọng vật chất xác thịt thấp hèn; khi phải vật lộn với những đam mê bất chính, những giả hình hèn kém vong nô, hãy nghe lệnh Chúa phán truyền với chính mình: "Bạn! Hãy ra đây!" Và chúng ta phải nghe lệnh truyền ấy. Nghe và bước ra khỏi những hang mộ tối tăm kia, như Lagiarô đã nghe và đã bước ra từ mộ chết đời mình. Hãy đừng chần chừ! Hãy không do dự. Hãy mạnh dạn bước ra vì cuối đuờng hầm, Chúa Giêsu -Sự Sống và Sự Sống Lại- đang giang rộng tay chào đón. Khi chúng ta khiêm cung nhận biết mình là phận hèn vật mọn, Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta quyền phép đến vô cùng...
Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa AnTáng 237
Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài: - Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không? Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết. Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế. Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!” Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao? Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!” Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa. Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản: - Ta là sự phục sinh. Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt. Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: “Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: “Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống” (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào. Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em. Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ. Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.
Chúng ta thường nghe nói: - Chết là hết. Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng AnTáng 238
Chúng ta thường nghe nói: - Chết là hết. Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng đầu óc vật chất, không tin ở đời sau, không hy vọng gì ở một tương lai vĩnh cửu. Còn chúng ta thì khác. Với cái chết, thì một cuộc sống khác được khởi đầu. Có thể là hạnh phúc mãi mãi, nhưng cũng có thể là khổ đau đời đời, tùy theo việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Đây là một vấn đề đòi hỏi chúng ta phải tin, như đoạn Phúc âm sáng hôm nay đã diễn tả. Thực vậy, Martha và Maria, đã sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: - Lagiarô, bạn thân Chúa đang đau nặng. Thế nhưng cơn bệnh này lại được xử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa. Cho dù Lagiarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói: - Ta mừng vì không có mặt ở đó để các con được tin. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình: - Lạy Thầy, nếu Thày có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ vẫn còn kịp bởi vì con biết rằng: Tất cả những gì Thầy kêu xin thì Thiên Chúa sẽ ban cho Thày. Lagiarô em nàng đã chết nhưng nàng tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho nó được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Martha: - Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và Tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ. Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải xác tín như lời Ngài hỏi Martha: - Con có tin điều đó không? Và Martha đã tuyên xưng: - Lạy Thày con tin, Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian. Nàng biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng nước. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Lagiarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là bọn Biệt phái và các thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa. Cùng một sự kiện mà có người thì chấp nhận, nhưng có kẻ lại từ khước. Đức tin, dĩ nhiên là một ơn huệ của Thiên Chúa, thế nhưng nó không phải là một kho tàng được trao ban một lần thay cho tất cả vì sẽ không bao giờ bị mất đi. Trái lại, đức tin giống như một bông hoa quí nhưng lại dễ tàn và dễ héo, nếu chúng ta không biết chăm sóc cho nó. Chúng ta nói nhiều về đức tin, nhưng thử hỏi được mấy người đã thực sự vun trồng cho đức tin trong cõi lòng của mình. Đức tin không phải là một món ăn được nấu chín và dọn sẵn cho chúng ta, nhưng là một cây được trồng nơi thửa đất là tâm hồn chúng ta. Bởi đó, hãy vun trồng và chăm sóc cho cây đức tin của mình được đâm rễ sâu, vì rễ có sâu thì cây đức tin mới đứng vững được trước những phong ba và bão táp.
Người ta khóc vì nhiều nguyên do. Vui quá cũng khóc; buồn quá cũng khóc; đau khổ hay mất AnTáng 239
Người ta khóc vì nhiều nguyên do. Vui quá cũng khóc; buồn quá cũng khóc; đau khổ hay mất mát quá lớn cũng làm người ta khóc. Khóc là một cảm xúc tự nhiên của con người. Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay Ngài cũng khóc "Chúa Giêsu rơi lệ". Nhưng tại sao Ngài khóc? Có phải vì Chúa nhớ thương một người bạn thân đã ra đi vĩnh viễn không? Chắc không phải thế đâu, vì Ngài biết việc Ngài sắp làm cho Lazarô là cho anh được sống lại. Vậy có phải Ngài khóc vì thấy có nhiều người khóc thương anh ấy không? Chắc cũng không phải thế, vì Chúa Giêsu không bao giờ chạy theo những tình cảm chóng qua của con người. Vậy tại sao Ngài khóc? Thật ra, trước sự mất mát và đau buồn của tang gia và những người thân, Chúa Giêsu cũng xúc động. Đó cũng là cảm xúc tự nhiên của Con Thiên Chúa làm người. Nhưng nguyên do sâu xa hơn khiến Ngài phải "rơi lệ " và thổn thức là do: 1. Sự cứng lòng tin của người Dothái và niềm tin nửa vời của Mátta và Maria. Trước bao nhiêu việc Ngài làm, bao nhiêu lời Ngài nói mà dân chúng vẫn thờ ơ, nghi ngờ. Thái độ ấy có ngay ở những người thân tín nhất của Ngài. Chúa khóc vì thương cho họ, ví tội nghiệp cho họ. Ngài đã mở mắt cho họ nhưng họ vẫn còn mù tối vì thái độ không cộng tác và những thành kiến cố hủ nơi họ.. Ta cũng hãy nhớ lại , có lần Đức Giêsu cũng dừng chân lại trước của thành Giêrusalem và khóc thương thành: "Giêrusalem, Giêrusalem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi" (Mt 23, 37-38). Đó là tấm lòng xót thương bao la của người cha, người mẹ cho con cái mình. Có người nói rằng: Tại sao Thiên Chúa không hành động theo ý Ngài nếu Ngài thấy điều đó là tốt đẹp cho con người? Câu trả lời là vì Thiên Chúa không muốn biến chúng ta thành những cổ máy Robot. Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do và con người phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng tự do của mình. Nếu con người dùng tự do của mình để nghe theo Thiên Chúa, để làm điều thiện theo lời Ngài dạy, thì con người sẽ tìm được hạnh phúc và sẽ mãi mãi sống trong tự do thật sự. Còn ngược lại, con người sẽ phải đau khổ, phải chết và bị trầm luân mãi mãi trong đau khổ. Lời Chúa vẫn còn đó, vẫn âm vang mỗi ngày bên tai và trong lòng chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có thái độ nào trước lời mời gọi của Chúa mà thôi. 2. Đức Giêsu khóc cũng vì Ngài nghĩ đến cái chết của Ngài sắp xảy đến. Cái chết của Lazarô là dấu hiệu tiên báo về cái chết của chính Đức Giêsu cũng như tiên báo sự chiến thắng tạm thời của Satan. Sự xúc động của Đức Giêsu ở đây cũng giống như tâm tình của Ngài trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu (Ga 12, 27. 13, 21). Việc Đức Giêsu phục sinh cho Lazarô cho chúng ta thấy quyền năng của Ngài như Ngài đã nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống". Hãy vững tin vào Ngài. Chúng ta cũng hãy nhìn xem về thái độ của Mát-ta và Maria. Họ tuyên xưng và tin rằng Đức Giêsu là sự sống và tin Ngài có quyền làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng trong thực tế, họ vẫn nghi ngờ. Chúng ta có thể nói được điều đó là vì khi Đức Giêsu bảo "Hãy đẩy tảng đá" ở cửa mộ của Lazarô ra, thì Mátta thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rối vì đã 4 ngày". Thế đấy, tuyên xưng niềm tin bằng tâm tình và bằng lời nói thì xem ra rất dễ. Nhưng đi vào thực tế, thì chúng ta lại rất hay nghi ngờ. Chúng ta cũng hãy xét lại mình xem, tâm tình của chúng ta khi tuyên xưng niềm tin vào Chúa có giống như Mát-ta không?
Tuần qua, trên báo có bài viết: “Đường đi của cái chết” nói về những đường dây ma túy từ Châu AnTáng 240
Tuần qua, trên báo có bài viết: “Đường đi của cái chết” nói về những đường dây ma túy từ Châu Phi và từ một số quốc gia đang đổ vào Việt Nam dưới rất nhiều hình thức. Một điều khó khăn cho những người có trách nhiệm đó là ma túy ngày nay rất đa dạng và rất mới, còn hành động của những kẻ gieo rắc cái chết trắng thì hết sức tinh vi và là một mạng lưới xuyên quốc gia. Những chất ma túy này hằng ngày đang gieo bao nhiêu sự chết chóc cho người Việt, gây nên một sự bạc nhược uể oải cho lớp trẻ, và ăn mòn tuổi trẻ của nhiều người. Bên cạnh những cái chết trắng còn có nhiều người đang gieo cái chết âm thầm cho người khác qua việc sản xuất thực phẩm không an toàn, hoặc gieo rắc những hình ảnh những lối hành xử giết chóc vào trong tâm hồn người khác qua phim ảnh bạo lực sách báo với lối sống thù hằn. Ở Việt Nam còn có cái chết mà các nơi khác rất ít có, đó là cái chết đường phố: những hung thần trên đường phố tại Việt Nam mỗi tháng cũng cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người, mỗi năm hơn 10 ngàn người chết vì tai nạn giao thông, và cũng có từng đó người thương tật. Thưa quý OBACE, xã hội và thế giới quanh ta dường như càng ngày càng được bao trùm bởi sự chết chóc, lo âu và sợ hãi như thế, thì Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Đức Giêsu chính là Đấng đã sống lại từ cõi chết và đem đến sự sống cho nhân loại. Câu chuyện Chúa Giêsu cho anh Lazarô được sống lại hôm nay muốn nói lên điều đó. Cái chết là đau khổ tột cùng của con người, đau khổ cho cả người chết và người còn sống. Khi đối diện với cái chết con người lo âu sợ hãi, sợ hãi vì họ phải đối đầu với cái chết một mình, cảm thấy cô đơn không có ai đi cùng. Đối diện với cái chết người ta sợ hãi là vì người ta không biết bên kia cánh cửa sự chết điều gì sẽ xảy ra cho họ, và họ sẽ bị hủy diệt vĩnh viễn. Chính vì thế mà ai cũng muốn kéo dài sự sống. Bên cạnh đó cái chết còn để lại cho người sống một nỗi đau đớn mất mát vì phải vĩnh viễn chia tay với người thân yêu. Vì những lý do đó mà cái chết luôn là sự ám ảnh sợ hãi cho con người. Trong cái nhìn đó, chúng ta mới thấy hoàn cảnh đau thương của gia đình Matta và Maria, họ chỉ có ba chị em, mà giờ đây mất đi người em út. Đọc câu chuyện chúng ta thấy cái chết của Lazarô đã làm cho tinh thần của hai người chị xuống dốc trầm trọng và đức tin của họ bị chao đảo và thử thách nặng nề. Trước đây, họ vẫn đón tiếp Chúa Giêsu như một vị Thầy quyền năng, và chắc chắn đã nhiều lần hai cô cũng chứng kiến việc Chúa làm phép lạ cho kẻ chết sống lại, tuy nhiên lần này khi Lazarô bị bệnh nặng, báo tin cho Thầy Giêsu, thì Thầy đã không đến ngay, vì thế hai cô rơi vào thất vọng, nên khi Đức Giêsu vừa đến thì cô Matta đã trách Chúa trong tuyệt vọng: Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Dù là trách Chúa, nhưng cô vẫn còn một chút hy vọng khi cô nói: Nhưng con biết bây giờ Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, thì Người cũng sẽ ban cho Thầy. Chúa Giêsu đã không nỡ để cho hy vọng cuối cùng ở nơi cô bị vụt tắt nên Ngài đã nâng đỡ đức tin cho cô khi nói với cô: Em con sẽ sống lại. Tuy nhiên cô Matta vẫn chưa vượt qua được sự cản trở tự nhiên và sự suy nghĩ của con người, nên cô cũng chỉ nói lên niềm tin vào sự sống đời sau mà thôi, chứ cô không tin rằng Đức Giêsu có thể làm cho em cô sống lại ngay bây giờ, vì thế cô nói: Vâng con biết đến ngày tận thế thì em con sẽ sống lại. Chúa Giêsu đã muốn cho cô Matta đi một bước xa hơn trong niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài, tin Ngài có thể làm được tất cả, nên Ngài mới giải thích cho Matta: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, ai sống mà tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết. Giải thích điều đó, Chúa Giêsu muốn cô Matta tuyên xưng niềm tin của mình khi Ngài hỏi cô: Con có tin như thế không? Lúc này cô Matta đã vâng phục hoàn toàn không cần phải giải thích thêm, cô đã tuyên xưng: Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Với lời tuyên xưng này, cô Matta đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là Đấng được xức dầu, là Đấng Cứu Thế, và còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, có nghĩa là tuyên xưng Đức Giêsu là chính Thiên Chúa, Đấng có quyền năng của một vị Thiên Chúa. Mặc dù hoàn toàn tin tưởng Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, nhưng cô Matta, chị của người chết vẫn cứ để cho sự chết ràng buộc mình, cho nên khi Chúa Giêsu ra lệnh cho mọi người khiêng tảng đá lấp cửa mộ ra, thì cô Matta đã can ngăn mọi người: Thưa Thầy, không thể được, vì đã bốn ngày rồi. Một lần nữa Đức Giêsu lại nâng đỡ đức tin cho cô Matta: Nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa. Bằng một mệnh lệnh: Lazarô hãy ra đây, người chết liền bước ra khỏi mồ, trên người còn quấn những khăn liệm. Chứng kiến phép lạ này nhiều người đã tin vào Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho nhân loại và vũ trụ, Ngài là Đấng đã mang lấy thân phận của con người đã chấp nhận cái chết và đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà chỗi dậy từ cõi chết để đem đến cho nhân loại sư sống, những ai tin Ngài và đón nhận Ngài thì đón nhận được sự sống Ngài ban tặng. Việc hồi sinh cho Lazarô là một minh chứng về quyền năng của Thiên Chúa, tuy nhiên Lazarô vẫn chỉ hồi sinh để sống lại cuộc sống cũ, còn những người tin vào Đức Giêsu, thì đón nhận được một sức sống mới hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống cũ. Sức sống mới này là sức sống của Thần Khí của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trao ban sau khi Người từ cõi chết sống lại. Thần Khí sự sống mà Đức Giêsu ban tặng đã được tiên tri Ezekiel nhắc đến khi tiên báo rằng: Thiên Chúa phán: Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngươi, Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Thánh Phaolô đã hiểu điều này, đã tin và đã nói cho cộng đoàn Rôma rằng: Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới. Thưa quý OBACE, chúng ta vẫn phải đối diện với cái chết về thể xác, nhưng đối với những người tin vào Đức Giêsu, thì cái chết không còn là nỗi sợ hãi kinh hoàng nữa, vì chúng ta tin vào lời Chúa hứa hôm nay: Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin vào Thầy thì sẽ không phải chết nữa. Do đó với người Kitô hữu cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng, là ngưỡng cửa bước qua để chúng ta được vào hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa. Tuy nhiên chúng ta không chỉ mong đợi sự sống đời đời mai sau, nhưng ngay hôm nay, nhờ được dìm vào dòng nước rửa tội, cùng dìm vào cái chết của Đức Giêsu Kitô, thì ngay hôm nay, lúc này, chúng ta đang đón nhận được sự sống Ngài trao ban. Sự sống ấy chính là Thánh Thần của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta. Như thế, theo thánh Phaolô, chúng ta không thể để mình sống theo con người cũ, không thể để mình buông theo lối sống của xác thịt và của thế gian, nhưng phải để cho Thánh Thần chi phối và dẫn dắt, và chỉ những ai để cho Thánh Thần dẫn dắt thì mới thuộc về Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận sức sống của Thánh Thần trong ngày rửa tội và được tăng cường mạnh mẽ trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, tuy nhiên, nhiều người đã bỏ quên sự hiện diện của Thánh Thần, đã để cho mầm sống mới của Đức Kitô bị thui chột bởi cuộc sống bê tha lười biếng. Một lần nữa lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tái khẳng định niềm tin vào Chúa Giêsu, để nhờ tin vào Ngài, chúng ta được lãnh nhận Thánh Thần là sự sống của Ngài, và được sống. Hãy đem sự sống của Đức Giêsu vào trong đời sống và trong gia đình của mình, hãy lắng nghe và vâng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta, giải gỡ những khó khăn trong cuộc sống, giúp chúng ta điều chỉnh lại nếp sống để cho gia đình mỗi ngày thêm hạnh phúc hơn. Hãy cùng nhau tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, và dám phó thác cuộc sống và gia đình cho Ngài, Ngài sẽ canh tân đổi mới cuộc sống gia đình chúng ta. Nhiều người ngày nay đang bị chôn vùi trong tội lỗi, trong cái tôi ích kỷ lười biếng và tự mãn của mình, nhiều người trẻ thì bị những dây băng là các thứ nghiện ngập đam mê trói buộc như games, internet, phim ảnh, sách báo xấu, ma túy, cờ bạc, cá độ,… khiến họ nằm lỳ trong tình trạng xa Chúa, nhiều bạn khác vì bị nhồi nhét bởi những tư tưởng vô thần, những phong trào chống phá bôi xấu Giáo Hội, nó như nấm mồ chôn chặt cuộc sống và suy nghĩ của họ. Hãy tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu để lăn tảng đá xấu xa đó ra khỏi cuộc đời, hãy giúp nhiều bạn trẻ tháo cởi khỏi những sợi dây băng chết chóc ràng buộc đó, để giúp họ có thể đến với Đức Giêsu và đón nhận được Thần Khí sự sống của Ngài. Amen.