AnTáng 81: Suy ngẫm thể xác - linh hồn dưới góc nhìn triết học duy tâm
Theo triết học duy tâm, ý thức quyết định vật chất. Dưới góc nhìn đó, chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn AnTáng 81
Theo triết học duy tâm, ý thức quyết định vật chất. Dưới góc nhìn đó, chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về thể xác và linh hồn. Thể xác con người là vật chất và linh hồn thật sự là ý thức của con người. Mỗi con người, đều có 2 phần là thể xác và linh hồn. Theo triết học duy tâm, linh hồn sẽ quyết định thể xác. Thể xác chỉ là cái áo không hơn không kém, chỉ khác rằng nếu cái áo bình thường thì con người có thể thay ra mặc lại, còn cái áo cao cấp này thì không thay đổi cho đến cuối đời. Như vậy, so với linh hồn, thể xác rất thấp bé, không giá trị. Thể xác chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian, nhưng linh hồn sẽ tồn tại vĩnh cửu. Nhiều nhà triết học cũng đã nhấn mạnh linh hồn vĩnh cửu, ví dụ như Decater có nói “Tôi tư duy là tôi tồn tại”. Sự tồn tại của con người thực chất là sự tồn tại linh hồn chứ không phải tồn tại về thể xác. Thật vậy, một người có thể chết đi theo quan niệm “cái chết” thông thường nhưng có thể họ sẽ sống mãi trong lòng của mọi người, đối với mọi người họ không bao giờ chết. Đó là sự tồn tại vĩnh cửu linh hồn họ trong ý thức của người khác. Ngoài Decater, nhà triết học Platon cũng đã đề cao linh hồn, ông cho rằng tri thức đích thực không thể nhận biết được nếu không dùng tư duy con người (linh hồn nhận thức tri thức). Ông coi thường những giác quan của con người (được tạo ra từ thể xác). Đối với ông tri thức đích thực sẽ không nhận thức được bằng giác quan thông thường. Giống như người viết bài này, việc nhận thức “thể xác và linh hồn” cũng dựa vào tư duy chứ không dựa vào cảm giác Dưới góc nhìn triết học duy tâm, phần nào con người đã không được sống thật với chính bản thân, với chính linh hồn vì đã bị cái thể xác ràng buộc. Chẳng hạn, vì thể xác, con người ta phải cần cái ăn, cái mặc, nếu không ăn thì thể xác không tồn tại, nếu không mặc thì thể xác trở nên xấu xí. Từ đó dẫn đến người ta đòi hỏi ăn ngon mặc đẹp…Dẫn đến sự tranh đua, sự ham muốn, … Điều đó phải chăng đã góp phần giết chết linh hồn? Và tất cả những điều đó phải chăng chỉ để bồi dưỡng cho thể xác tầm thường? Con người chung sống với nhau trên trái đất, có mối liên hệ với nhau. Nhưng trong cuộc sống đó, mối liên hệ đại đa số là mối liên hệ về thể xác. Ví dụ: 2 anh em trong cùng một gia đình sống chung với nhau từ nhỏ đến lớn, chỉ vì một miếng đất tranh giành nhau làm cho tình cảm anh em bị mất. Ở đây vật chất tầm thường (là miếng đất) đã tạo ra tấm màn che phủ linh hồn của 2 người làm cho sự ham muốn của thể xác đấu tranh lẫn nhau, sự ham muốn nào cao thì thể xác đó sẽ giành chiến thắng. Đó là sự sống giả tạo, sự sống không ý nghĩa. Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết chỉ đưa ra một ví dụ, tuy nhiên trong thực tế có rất nhiều ví dụ khác nữa. Tất cả mọi người đều có cái áo là thể xác, đều bị thể xác ràng buộc. Nhưng sự ràng buộc ở người này ít hơn sự ràng buộc ở người khác, vì ở một số người linh hồn đã chiến thắng được thể xác, họ sống bằng chính linh hồn. Ví dụ: người biết xúc động trước một hoàn cảnh khó khăn, người chăm sóc cho những người bệnh HIV, một người tật nguyền đã vượt qua số phận để sống, một người sẵn sàng hi sinh bản thân vì người khác… Trong thế giới thực tại, thực sự chỉ tồn tại vật chất – ý thức – hiện tượng, trong đó hiện tượng là sự ràng buộc giữa vật chất – vật chất, vật chất – ý thức, ý thức – ý thức. Trong đó sự ràng buộc giữa ý thức – ý thức có thể cũng do vật chất tạo nên, do đó sự sống của con người là một sự sống hư vô, ảo tưởng. Theo góc nhìn duy tâm, vì ý thức quyết định vật chất nên sẽ không có một công cụ, máy móc nào đo được, kiểm tra được ý thức (hay linh hồn) của con người vì tất cả các công cụ đo đều được làm từ vật chất, ý thức – linh hồn của mỗi người chỉ do mỗi người tự kiểm tra, cảm nhận và tự làm chủ. Cùng với triết học, khoa học tâm linh sẽ đi tìm câu trả lời linh hồn của con người sẽ đi về đâu khi linh hồn thoát khỏi cái áo giả tạo? Liệu có một thế giới mà không bị sự ràng buộc bởi vật chất? Và trong thế giới đó liệu rằng có hờn ghen, yêu thương, giận dữ? Con người làm sao để có thể làm chủ chính bản thân, làm sao để sống thực, sống bằng linh hồn không để thể xác ràng buộc?... Cuộc sống chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta sống bằng chính linh hồn. Mọi người phải biết thương yêu, che chở, giúp đỡ lẫn nhau, không ghanh ghét, không đua đòi, không kì thị lẫn nhau. Chính mỗi người trong chúng ta phải góp phần làm cho xã hội này tốt đẹp hơn. Xin kết thúc bài viết bằng câu sau để cho mỗi người có những cảm nhận riêng: “Một con én không làm nổi mùa xuân, nhưng nếu mọi con én đều nghĩ như vậy thì sẽ không có mùa xuân”
Có một bài hát sinh hoạt được hát như sau: “mỗi người là một nụ hoa cùng đem về đây góp gió AnTáng 82
Có một bài hát sinh hoạt được hát như sau: “mỗi người là một nụ hoa cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa muôn màu muôn sắc tươi xinh. Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa, vườn hoa, vườn hoa chúng mình”. Bài hát đơn sơ nhưng nói lên ý nghĩa cuộc đời thật thi vi. Cuộc đời của chúng ta là một cành hoa: Hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa hồng … Hoa nào cũng đẹp. Hoa nào cũng có cách thể hiện mình giữa đời thật nên thơ và hữu ích. Nụ hoa muôn màu như con người với những thể xác, cá tính, nhân cách khác nhau. Nụ hoa muôn vẻ như con người mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Hôm nay, Hội thánh mừng kính các thánh nam nữ như là những bông hoa đầu mùa trong vườn hoa mà Thiên Chúa vun trồng. Hội thánh là vườn ươm. Thiên Chúa đã ra công vun trồng cho cây hoa lớn lên trong ân sủng, trong sự chăm sóc tận tụy của Ngài. Các thánh là những bông hoa luôn quy về hướng mặt trời để nhờ mặt trời ban sức sống, chăm sóc, dưỡng nuôi nên vẹn tuyền. Các thánh luôn cần lòng từ bi, ân sủng của Chúa chữa lành những thương tích do mối mọt tội lỗi gây ra. Các thánh cũng như những bông hoa luôn được chăm sóc tỉ mỉ khỏi những cám dỗ tội lỗi, những vương vấn bụi trần. Như vậy, sẽ có bao nhiêu vị thánh hôm nay chúng ta mừng kính? Thưa, có rất đông. Bởi vì ai cũng có thể nên thánh. Ai cũng được mời gọi nên thánh. Nên thánh là ơn gọi mà Thiên Chúa đã tiền định: “Anh em hãy hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện”. Nên thánh không khó. Nên thánh là làm theo ý Chúa, là sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Nên thánh không phụ thuộc vào giai cấp, không tính theo năng lực. Nên thánh tùy theo ơn gọi và hoàn cảnh của mình. Như những bông hoa muôn sắc, dù là hoa nhỏ bé hay to lớn, dù là loài hoa không hương không sắc nhưng vẫn là đóa hoa đáng yêu, đáng quý và đáng được nâng niu. Các thánh nam nữ cũng thuộc mọi tầng mọi lớp xã hội. Có thể các ngài thuộc hàng giáo sĩ nhưng cũng có thể là hàng giáo dân. Các ngài có thể là cha mẹ, là anh em, là bè bạn của chúng ta. Các ngài là những người đã nỗ lực hoàn thiện mình trong ân thánh Chúa. Các ngài không vương vấn tội lỗi. Các ngài không để những đam mê làm chủ. Các ngài luôn chọn Chúa hơn là những tạo vật trần gian. Các ngài cũng có thể là những tội nhân được ơn trở lại như kẻ trộm trên cây thập giá. Các ngài cũng có thể từng có những lầm lỡ nhưng biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Điểm chung của các ngài là đã được chết trong ân sủng và tình thương của Chúa. Nhìn lại cuộc đời của Chúa Giê-su, với ba mươi ba năm dương thế, Chúa Giê-su đã lôi kéo bên Ngài những bông hoa đầu mùa của Hội thánh thật giản dị, âm thầm, và đơn sơ. Một bác thợ mộc thành Nagiaret, luôn tận tụy với công việc và gia đình. Một Maria đơn sơ chân thành, dám nói lời xin vâng ngay cả khi chẳng biết điều gì sẽ đến trong ngày mai. Một Phê-rô, Simon . .. những ngư phủ chất phác, đầu hôm sớm mai trên biển cả đã bỏ thuyền chài mà đi theo Chúa. Một Gia-kêu, Madalena, là những tội nhân đã được ơn hoán cải trở về. Một người trộm lành đã ra đi bình an trong lời tha thứ đón nhận của Đấng tạo thành ... Và hôm nay, những khuôn mặt phản chiếu hình ảnh của các thánh dường như vẫn tiếp tục tỏ hiện trong dòng đời dương thế hôm nay. Họ có thể là cha, là mẹ chúng ta, những con người đang khổ sở vì chúng ta, đang hy sinh từng ngày cho chúng ta. Họ có thể là những người lao công đang dệt đời mình trên công trường hay trên nương đồng với hy sinh, tận tụy hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Họ có thể là những người bất hạnh bởi tai nạn, bởi nghèo đói, hay những bệnh nhân đang đón nhận thập giá Chúa gửi với lời xin vâng thẳm sâu. Vâng, những vị thánh đó vẫn đang sống, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Họ đang hiến tế đời mình trong những đau khổ trần gian, trong những hy sinh từ bỏ, trong quảng đại dấn thân hết mình vì anh em đồng loại. Họ có thể chưa hát bài ca chiến thắng như các thánh nam nữ trên trời nhưng cuộc đời họ đáng là thánh vì họ luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đã dám sống một cuộc đời mà người ta bảo rằng: “Người trồng cây phúc người chơi – Ta trồng cây hạnh để đời về sau”. Nguyện xin các thánh nam nữ đã được sống trong ân nghĩa cùng Chúa cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để biết sống đền đáp ân tình Chúa ban. Xin giúp cho mỗi người chúng ta biết gìn giữ ân sủng cao quý là con cái của Chúa bằng việc sống thanh sạch, và can đảm dũ bỏ bụi trần mê muội. Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận ý Chúa qua việc vui với phận mình và chu toàn bổn phận làm người và làm con Chúa. Amen
Chúng ta đặc biệt suy tư về sự thánh thiện mà mọi người đều có thể đạt được trong mọi hoàn cảnh AnTáng 83
Chúng ta đặc biệt suy tư về sự thánh thiện mà mọi người đều có thể đạt được trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Và để đạt được mục tiêu ấy, chúng ta phải thực hành giáo lý Hiệp Thông Các Thánh. Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về hàng ngũ đông đảo các thánh nam nữ thuộc mọi thành phần đã theo sát Chúa Kitô trên trần gian và hiện nay đang hoan hưởng thánh nhan Người trên thiên quốc. Ngày lễ này đã được thiết lập từ thế kỷ VIII. Nên thánh trong đời sống thường ngày. Chúng ta hãy vui mừng trong Chúa và mừng lễ để tôn vinh tất cả các thánh. Chúng ta hãy hợp với các thiên thần trong lời chúc tụng hân hoan dâng lên Con Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta nhớ lại lời Đức Gioan Phaolô II đã nói về kho tàng chân lý phong phú của Kitô Giáo trong phụng vụ, đặc biệt là trong ngày lễ Các Thánh. Theo đó, nguồn mạch mọi thánh thiện là chính Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta sống mầu nhiệm Hiệp Thông Các Thánh qua Chúa Kitô một cách đặc biệt. Mục tiêu của ơn cứu độ phổ quát được biểu thị trong Thánh lễ. Đó là nguồn mạch sự thánh thiện cho tất cả những ai cố gắng sống Tám Mối Phúc Chúa Giêsu đã rao giảng. Trong thánh lễ, chúng ta tìm được niềm cậy trông bền vững vào tương lai vinh quang và cả chìa khóa để tìm ra tương quan giữa đau khổ và ơn cứu độ. Đức Giáo Hoàng đã nhấn mạnh: Khi chúng ta cầu nguyện trong kinh Nhập Lễ, chiều kích căn bản của ngày lễ chúng ta mừng kính hôm nay là niềm vui: ‘Chúng ta hãy vui mừng trong Chúa và mừng lễ để tôn vinh các thánh.’ Kinh nghiệm ấy tương tự như những điều chúng ta cảm hưởng được trong một gia đình đông đúc, nơi chúng ta cảm thấy thân thương như ở nhà. Trong đại gia đình này, gồm có các thánh trên thiên đàng và những người còn sống đang nỗ lực tiến đến sự thánh thiện. Hôm nay, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta đặc biệt nhớ đến những vị đã trải qua các gian truân và cám dỗ tương tự như chúng ta trên đường dương thế, nhưng hiện nay đang hưởng phúc trên trời. Có một đoàn rất đông, không ai có thể đếm nổi, từ mọi quốc gia, mọi chi họ, và mọi ngôn ngữ. Trong bài đọc Một hôm nay, chúng ta đọc như thế, Họ được đóng dấu trên trán như những tôi trung của Thiên Chúa. Giáo Hội tôn nhận nhiều vị thánh thuộc đủ mọi lứa tuổi và điều kiện sống. Hằng năm, chúng ta nhớ đến các ngài và nhờ các ngài cầu bầu cho nhiều nhu cầu khác nhau của chúng ta. Dấu ấn các ngài lãnh nhận và áo trắng các ngài rửa trong máu Con Chiên là biểu hiện của phép Rửa Tội. Bí tích khai tâm này làm cho chúng ta được tháp nhập vào Chúa Kitô, cuộc sống ân sủng này sau đó còn được đổi mới và thăng tiến nhờ các bí tích khác, nhất là bí tích Xá Giải và Thánh Thể. Việc lành cũng góp phần làm tăng triển kết quả việc được thông phần vào bản tính thần linh Chúa trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Hôm nay, chúng ta vui mừng và nài xin các thánh nam nữ, những người đã đến thiên đàng sau khi vượt qua cuộc đời này phù trợ cho chúng ta. Có lẽ trong khi còn sống, các ngài đã làm những công việc giống như chúng ta. Các ngài có thể là thợ thủ công, nhân viên văn phòng, giáo sư đại học, thương gia, thư ký, v.v…. Chắc hẳn các ngài cũng phải đương đầu với những khó khăn tương tự như chúng ta và đã phải bắt đầu đi bắt đầu lại nhiều lần, giống như chúng ta phải nỗ lực hằng ngày. Giáo Hội không đề cập đầy đủ danh tính các thánh trong lễ qui. Nhưng nhờ ánh sáng đức tin, chúng ta hiểu rằng các ngài tạo nên một toàn cảnh huy hoàng về những con người nam nữ, qua việc không mệt mỏi thực thi những công việc hằng ngày trong vườn nho Chúa. Sau khi đã sống cuộc đời âm thầm chẳng được ai biết đến, và có thể còn bị những người quyền cao mạnh thế hiểu lầm, các ngài đã được Thiên Chúa đón nhận. Các ngài là những người thợ khiêm tốn, nhưng vĩ đại, đối với công cuộc phát triển nước Chúa trong lịch sử. Tóm lại, các ngài là những con người, nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, đã biết cách giữ gìn và hoàn tất lý tưởng thánh thiện đã được lãnh nhận khi chịu phép Thánh Tẩy. Chúng ta được mời gọi hãy vươn đến một đức ái hoàn thiện, đó là cuộc chiến chống lại các đam mê xấu và những khuynh chiều buông tuồng. Chúng ta phải luôn nỗ lực để tu chỉnh, bởi vì sự thánh thiện không tùy thuộc vào bậc sống – độc thân, có gia đình, góa bụa, linh mục – nhưng vào sự đáp ứng với ơn Chúa ban cho từng người. Giáo Hội nhắc nhớ mọi người, kể cả người công nhân đảm đương công việc và người mẹ tận tụy với gia đình, hãy phấn đấu nên thánh qua việc chu toàn bổn phận hằng ngày của mình. Thật an ủi khi nhận thấy những người đã từng sống với chúng ta trước đây ít lâu hiện giờ đang được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa. Chúng ta vẫn liên đới với họ nhờ tình thân ái và tình cảm sâu sắc trong mầu nhiệm Hiệp Thông Các Thánh. Từ trời cao, các ngài sẽ phù hộ chúng ta, và chúng ta nhớ đến các ngài trong niềm vui và xin cầu bầu cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta mượn lời thánh nữ Têrêxa để cầu nguyện cùng các phúc nhân thiên đàng: Ôi các đấng thánh thiện, các ngài quá biết cách để chuẩn bị tiếp nhận một gia nghiệp quí đẹp như thế, xin phù giúp chúng con, bởi vì các ngài rất gần gũi nguồn mạch mọi sự thánh thiện. Xin kín múc cho chúng con nước uống vì chúng con đang chết khát. Ơn gọi nên thánh phổ quát. Trong ngày đại lễ hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong kinh tiền tụng: Lạy Cha, hôm nay chúng con mừng lễ của thành thánh Cha là Jerusalem thiên quốc. Những anh chị em của chúng con là các thánh giờ đây đang chúc tụng Cha muôn đời quanh ngai tòa Cha và vinh quang của các đấng ấy làm cho chúng con được chan chứa niềm vui. Sự hợp nhất của chúng con với các ngài qua Giáo Hội Cha đem lại cho chúng con niềm phấn khởi và sức mạnh khi chúng con vội vã trên đường lữ hành đức tin, hăm hở được gặp gỡ các đấng ấy. Là tín hữu, chúng ta cũng là khách lữ hành trên con đường về trời. Trong khi đang tiến bước, chúng ta cần tích lũy những việc lành để một ngày kia có thể dâng tiến Thiên Chúa. Chúng ta nghe lời Chúa kêu mời thiết tha: Nếu ai muốn theo Ta… Mỗi người đều được mời gọi sống đời Kitô hữu viên mãn qua công việc nghề nghiệp của mình. Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta gặp được Người trong công việc được thực hiện tử tế và hoàn hảo với một cái nhìn siêu nhiên. Chúng ta khao khát Chúa, Đấng một ngày kia chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng. Vì thế, chúng ta dâng hiến tất cả những hành vi của chúng ta cho Chúa, sống đức ái với tha nhân, quảng đại chu toàn công việc được ủy thác. Qua cuộc sống với Thiên Chúa, Cha chúng ta một cách thân mật, chúng ta có thể không ngừng làm cho tinh thần chiêm niệm của mình trở nên tinh tế giữa những hoạt động thường ngày. Chúng ta có thể nhiều lần lặp lại những bổn phận nào đó trong sự kết hợp với Chúa. Yêu mến Chúa và phụng sự Người không nhất thiết là phải làm những việc phi thường. Chúa Kitô đã đòi hỏi mọi người, không trừ ai, ‘Hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành’ (Mt 5:48). Đối với đa số, nên thánh chỉ là thánh hóa công việc, bản thân, và tha nhân qua tất cả những hoàn cảnh của công việc. Như vậy, chúng ta gặp được Thiên Chúa trong tất cả những con đường của cuộc sống. Các phúc nhân – các bà mẹ, các nhà trí thức, và các thợ thuyền - đã làm gì để chiếm được thiên đàng? Đó là vấn đề vô cùng quan trọng bởi vì chúng ta đều khát khao được sống bên Chúa muôn đời trên Nước Trời. Những ai kiên trì kết hợp với Chúa Kitô sẽ cố gắng thánh hóa các thực tại nhỏ mọn hằng ngày mà Thiên Chúa đã ưu ái xếp đặt trong cuộc sống. Nếu một lúc nào đó thiếu trung thành, chúng ta hãy lập tức chấn chỉnh và rồi tiếp tục trên con đường ngay chính. Đó là cách sống của chúng ta ở đời này. Chiếm được thiên đàng là thách đố mà chúng ta - nhờ ơn Chúa - phải đương đầu mỗi ngày. May phúc thay, việc ấy lúc nào cũng liên quan đến nhiệm vụ hiện tại của chúng ta và những người Thiên Chúa muốn đặt để bên cạnh chúng ta. Chúng ta cần nhận thức rằng quyết tâm sống quảng đại và thánh thiện của chúng ta luôn luôn có một ảnh hưởng quan trọng đối với tha nhân. Nếu nhờ ơn Chúa và sự hỗ trợ của tha nhân mà chúng ta đạt được thiên đàng, thì chúng ta cũng không được vào vinh quang muôn đời một mình, nhưng phải lôi kéo nhiều người khác lên đó cùng với chúng ta. Chúa Kitô là gương mẫu sự thánh thiện. Nhiều phúc nhân hiện đang chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa trên thiên đàng có lẽ khi còn sống đã không có dịp để thực hiện những việc vĩ đại. Tuy nhiên, các vị ấy đã chu toàn những phận sự hằng ngày một cách trọn hảo hết khả năng. Đôi khi họ cũng lầm lỗi – đầu hàng trước bất nhẫn, lười biếng, và kiêu ngạo – và có thể cũng sai phạm nặng nề. Tuy nhiên, các vị ấy đã mau mắn sám hối và nhờ bí tích Hòa Giải để bắt đầu lại. Các phúc nhân có những tâm hồn lớn lao và đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, bởi vì các ngài biết hiến mình cho Chúa Kitô. Chúng ta rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc hành trình về trời. Hoặc nhiều hoặc ít, mỗi người đều phải trải qua bệnh tật, thử thách và những lúc chán nản cần phải nỗ lực đặc biệt. Chúng ta có thể gặp thất bại hoặc thành công. Có lẽ các thánh cũng đã chảy nước mắt, nhưng các ngài hiểu biết và thực hành lời Chúa mà chúng ta đọc trong thánh lễ hôm nay: Hãy đến với Ta hỡi tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Các phúc nhân lúc nào cũng nương cậy nơi Chúa. Các ngài năng kính viếng nhà tạm để tìm sức mạnh cho bước đường lữ hành. Trong cuộc sống, tính cách của các ngài rất khác biệt, nhưng các ngài có một điểm chung: đó là sống yêu thương với mọi người chung quanh. Chúa Giêsu đã nói: Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Đó là mẫu số chung của các thánh, những vị giờ đây đang hưởng kiến Thiên Chúa. Vô số bè bạn đang đợi chờ chúng ta trên quê trời. Gương sáng các ngài chiếu giãi và giúp chúng ta dễ dàng nhìn được điều chúng ta phải thực hiện. Các ngài có thể giúp chúng ta bằng lời cầu nguyện, lời cầu nguyện thần thế, lời cầu nguyện khôn ngoan, trong khi lời cầu nguyện của chúng ta thật yếu đuối và tăm tối. Khi nhìn lên bầu trời vào đêm tháng Mười Một và nhìn thấy một khoảng trời đầy sao lấp lánh, bạn hãy nghĩ đến vô số các thánh trên thiên đàng đang sẵn lòng giúp đỡ bạn. Các ngài sẽ làm cho chúng ta vui mừng giữa những thử thách gian truân chúng ta đang gặp phải. Đức Mẹ cũng đang chờ chúng ta trên quê trời. Mẹ giơ tay giúp đỡ và đưa chúng ta đến gặp Con Mẹ, và cả những người thân yêu của chúng ta đã ly trần cũng đang mong đợi chúng ta.
- Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn Frère Trần An Phong
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ. Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông AnTáng 84
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ. Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa! Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông! Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời! Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng. Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng. Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối. - Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không? - Không! Nàng lạnh lùng đáp. -Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông! Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi: - Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không? - Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ. Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng. Ðau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi: - Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không? - Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được. Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào. Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên: - Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Ðừng bỏ em! Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời. * * * Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Ðã Qua Ðời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình. 1. Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới. 2. Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế. 3. Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt. 4. Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu. * * * "Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời. *** Ðừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan. *** Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
Đỗ Tân Hưng “Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mể Tây-Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội. Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Ðêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Ðại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài. Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Ðại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy. Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Ðài ở Hoa-Thịnh-Ðốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự... Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Ðức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Ðệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người." Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ. Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước. Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv 3, 2). Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27). Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội." Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: "Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21). Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình tôi" trong nơi hoang vắng...! Thánh Giacôbê đã viết: "Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát , rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay. Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A đã suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15). Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: "Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời." Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: "Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình." (Tv 103: 15,16). Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Ðức Chúa thổi qua." (Is40,6-7). Trong những giờ phút cuối đời, Cesar Bergia đã nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi." Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ giã cõi đời, anh đã rên-rỉ, than van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Ðức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?" Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, tác giả đã cảnh-cáo: "Nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?" (Dt 2, 3). Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống': "Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền chồng chất. Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, bình-an. Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi. Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến. Tôi trình-diện trước mặt Ðức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Ðức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống. Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.' " Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói: "Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng ý-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó." Xưa kia Ðức Chúa đã phán với vua Hezekiah: "Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu." (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Ðức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: "Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi." (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn "Thiên-lộ lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Ðức Chúa Trời là Cha Ðức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cõi đời đời." Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16). "Sinh ký tử qui" (sống gởi thác về). Người có Ðức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: "Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21). Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Ðệ, mỗi ngày đã đọc kinh "Dâng Mình" của Cha Charles de Foucauld như sau: "Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do dự đắn đo song vô cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen." (Trích Sứ Ðiệp số 8 - Bộ 4 - Mùa Thu 2001).
Giáo Hội Công Giáo dành trọn tháng Mười Một để cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục. Họ là những người thân của chúng ta, hoặc cũng có thể là những người mà chúng ta không biết. Nhưng mọi người đều có chung bổn phận là cầu nguyện cho những người đã qua đời. Những linh hồn nơi Luyện Ngục là những linh hồn thánh thiện, nhưng để được vào Thiên Đàng, họ còn cần phải thanh tẩy cho trong sạch vẹn tuyền. 1. Các linh hồn cần phải thanh luyện Thiên Chúa là Đấng Thánh (Tv 99,5), nên những người đến với Chúa cũng phải thánh thiện cách trọn vẹn. Những linh hồn mà chúng ta cầu nguyện hôm nay là những người sống trong ơn nghĩa Chúa và chết trong ơn nghĩa Chúa. Nhưng vì là con người yếu đuối nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, cho nên các ngài cần phải tẩy rửa trước khi vào hưởng Tôn Nhan Chúa. Sau khi lìa khỏi xác, linh hồn không còn lập công được nữa, mà chỉ còn cách trông chờ những người trên trần gian cầu nguyện cho mà thôi. Nhờ việc lành phúc đức của Giáo Hội tại thế, các linh hồn “nơi” luyện ngục mới mau chóng nên tinh tuyền để diện kiến Tôn Nhan ( Ga 5,37 ). Tức là các ngài đã mặc áo cưới (Mt 22, 12) để dự tiệc cưới Con Chiên (Kh 19,8-9). Về việc phải thanh luyện nơi luyện ngục, có lẽ không ai tránh khỏi - trừ Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm. Nói như thế có người thắc mắc: trong bài Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu hứa với anh trộm lành: Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên Đàng với tôi (c. 43). Vậy ta phải hiểu câu này như thế nào? Theo quan niệm của người Do Thái thời Chúa Giêsu thì Thiên Đàng là nơi những người công chính chờ ngày phục sinh. Tương tự như La-da-rô sau khi chết được các thiên thần đem vào lòng Áp-ra-ham (Lc 16,22). Phải chăng Thiên Đàng theo quan niệm của người Do Thái tương tự như “Luyện Ngục” mà những người công chính cần phải thanh luyện? Dù thế nào chăng nữa, linh hồn nào chưa xứng đáng thì cần phải thanh tẩy. Vì cần phải thanh tẩy, nên các linh hồn cần những lời cầu nguyện của Hội Thánh. 2. Hội Thánh cùng thông công Đây là điều mà chúng ta hằng tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Có nghĩa là các thành phần của Hội Thánh: những người Tại Thế, những người trong Luyện Ngục, các thánh ở trên Thiên Quốc đều liên đới với nhau. Liên đới trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ. Quan trọng là ta có cảm nhận được hay không! Những linh hồn trong Luyện Ngục ngày đêm họ đang trông chờ lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta có luôn ý thức điều này không? Những việc lành chúng ta làm sẽ giúp họ đền tội, thanh tẩy tâm hồn để chóng vào hưởng Tôn Nhan Chúa. Khi đã được vào Thiên Đàng, các ngài lại cầu bầu cho chúng ta. Việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Ngục là một việc thánh thiện, như Công Đồng Vaticanô trong hiến chế Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết: “Giáo Hội Lữ Hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã chết, và cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...” Với Mầu nhiệm Hội Thánh Cùng Thông Công, việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Ngục là một bổn phận của mỗi người chúng ta. Hơn nữa, đối với người Công Giáo Việt Nam nói riêng, và với người Công Giáo Á Châu nói chung còn là việc thi hành chữ “Hiếu” với ông bà tổ tiên. 3. Tháng 11 là tháng hiếu thảo Trong một lớp Dự Tòng, có một anh bạn học viên theo đạo Ông Bà tỏ ra rất băn khoăn, lo lắng. Hỏi ra mới biết. Anh ta sợ rằng, khi theo đạo Công Giáo thì bất hiếu với tổ tiên. Vì người Công Giáo không cúng cho tổ tiên, nên ở dưới Suối Vàng ông bà tổ tiên bị bỏ đói!Phải chăng người Công Giáo bất hiếu với những người đã qua đời? Ta có thể trả lời ngay rằng, người Công Giáo không những không bất hiếu với tổ tiên, mà trái lại còn rất có hiếu với những người đã qua đời. Nhưng cách hiếu thảo của người Công Giáo thì khác. Trong một năm, Giáo Hội dành hẳn một tháng để cầu cho những người quá cố. Rồi hằng ngày người Công Giáo đều cầu nguyện cho những người đã khuất. Ta cứ thử làm một phép tính xem, trên Thế giới mỗi ngày có bao nhiêu Thánh Lễ được cử hành. Mà trong mỗi thánh lễ đều cầu nguyện cho những linh hồn nơi Luyện Ngục! Ngoài Thánh Lễ ra, còn bao nhiêu việc Phụng Vụ và các việc đạo đức khác. Những việc này đều thông công với các linh hồn nơi Luyện Ngục.Không còn nghi ngờ gì nữa, người Công Giáo rất có hiếu với những người đã khuất. Đặc biệt trong ngày lễ cầu cho các linh hồn, chúng ta càng ý thức hơn về việc cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện Ngục, trong đó có thể có cả người thân của chúng ta. Xin Chúa, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu, cùng với lời bầu cử của Đức Mẹ và các thánh, giúp cho các linh hồn nơi Luyện Ngục được tinh tuyền để các ngài mặc áo cưới mà vào dự tiệc cưới của Con Chiên. A men.
Chúng ta đã bước sang tháng 11, tháng Giáo Hội dành để cầu nguyện đặc biệt cho các đẳng linh hồn. Ngày 01 tháng 11, Lễ Các Thánh, Giáo Hội hướng lòng trí chúng ta lên trời, chiêm ngưỡng vinh quang Các Thánh Nam Nữ đang hưởng phúc bên Chúa, để bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta biết nỗ lực sống đạo đức thánh thiện và hằng ngày xin Các Thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, hầu ngày sau được về thiên đàng hưởng nhan Thánh Chúa. Ngày mùng 2 và suốt cả tháng 11, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn xuống Luyện ngục, nơi những linh hồn còn phải đau khổ đền tội, để dâng lời cầu nguyện và việc lành phúc đức chúng ta làm hàng ngày, để cầu xin Chúa tha phần phạt cho họ, hầu mau về hưởng phúc với Các Thánh. Cả tháng 11 này, Giáo Hội nhắc chúng ta sống Tín Điều Các Thánh Thông Công: những người còn sống ở thế gian, Các Thánh trên trời và các linh hồn ở luyện ngục đều thông công cùng nhau, trong một Hội Thánh duy nhất của Chúa Kitô. Tất cả đều là anh em với nhau trong đại gia đình nhân loại, được Thiên Chúa là Cha hiền lành nhân ái hằng thương yêu bảo vệ chăm sóc. Tất cả thông hiệp với nhau trong đức tin, trong đức ái, trong đời sống Bí Tích và trong lời cầu nguyện hằng ngày. Trong ý nghĩa đó, chúng ta cùng ôn lại một chút về CHIỀU KÍCH CÁNH CHUNG CÁ THỂ, đặc biệt là tìm hiểu về LUYỆN TỘI. I- NỘI DUNG VÀ NỀN TẢNG TÍN ĐIỀU. - Đời vĩnh cửu là tận đích, là phần thưởng Thiên Chúa hứa ban. Ngài ban những phương thế để mỗi người có thể đạt tới. Tuy nhiên trong số những người được cứu độ, ít người đạt thẳng tới Nước Trời ngay. Phần đông còn phải trải qua một thời gian thanh luyện tinh thần. - Vào thời Trung Cổ, Giáo Hội đã định tín về Luyện Tội. Công Đồng Lyon II (1274) công bố: “Các linh hồn đã lìa xác trong sám hối và đức ái được thanh luyện sau khi chết bằng những hình phạt thanh tẩy” (D 464). Công Đồng Florence đã lặp lại lời công bố đó (D 693). Đến sau Đức Léon X đã bác bỏ luận thuyết của Luther cho rằng Luyện Tội không được Thánh Kinh xác nhận (D777). Công Đồng Trente một lần nữa lại xác nhận có Luyện Tội trong khóa họp cuối cùng, khoá XXV (D 983). - Qủa thật Thánh Kinh không minh nhiên nói đến Luyện Tội, Nhưng có ám chỉ hoặc gián tiếp xác nhận. Chẳng hạn, việc cầu cho người chết để xin ơn xá tội được chuẩn nhận (2 M 12/ 38-45). Nhiều Giáo Phụ, để minh chứng có Luyện Tội, thường trích dẫn lời Thánh Phaolô ở thư Corintô: “Công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Ngày của Chúa sẽ … tỏ rạng trong lửa. Chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thế băng qua lửa” (1 Co 3/ 13 – 15). - Học thuyết Luyện Tội đã thành hình với các Giáo Phụ và đã được khai triển thêm dần. Khởi điểm của sự khai triển này là những ý niệm “xét xử” và “thưởng phạt” ta gặp rất nhiều trong Cựu Ước và trong Tân Ước. Các ý niệm đó cũng có trong ngoại giáo, nhưng được Kitô giáo tô đậm nét hơn. Ngay từ buổi đầu các tín hữu đã cầu cho những người chết, đặc biệt khi cử hành Thánh Lễ, nhiều khi ngay trên mộ người chết. Trên vách các nghĩa trang ngầm, họ cũng ghi lời cầu, chẳng hạn: “ Xin Thiên Chúa cho hồn anh (chị) được mát mẻ. Xin Ngài cho anh (chị) được hưởng bình an”. Tertullien là người đầu tiên chỉ rõ ý nghĩa của việc cầu cho người chết được giải thoát và được hưởng nhan thánh Chúa. Dựa vào Mt 5/ 26, tác giả này cho rằng, nơi địa giới, linh hồn người chết phải trả nợ dần “cho tới đồng xu cuối cùng”. Ông cũng phân biệt trong các người chết, một bên là các vị tử đạo hoàn toàn thánh thiện được người ta dâng lễ kính hằng năm và một bên là các tín hữu thường cần được người sống cầu cho. Các Giáo Phụ lớn như Ambrôsiô, Auguttinô và Grégoire le Grand đều nhìn nhận những người lành nhưng còn mang tội nhẹ cần phải được thanh luyện trước khi về với Thiên Chúa và trong thời kỳ thanh luyện họ có thể được trợ giúp bởi lời cầu và việc lành của người sống. Chính bà mẹ Mônica đã dặn con mình là Auguttinô hãy nhớ đến mình nơi bàn thờ của Chúa. - Vào khoảng thế kỷ VIII việc nhớ và cầu nguyện cho người đã chết được thêm vào trong Thánh Lễ. Sang thời Trung Cổ, đan viện Cluny truyền bá rộng rãi việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội. Sự thành hình và phát triển học thuyết về Luyện Tội cho thấy Giáo Hội thời xưa có một ý thức rất sâu sắc về sự Thánh Thiện và Công Bình của Thiên Chúa và tiếp nhận một cách nghiêm túc những giới luật cũng như những đe dọa của Người. Giáo Hội cũng cho thấy rõ sự Thanh Khiết đòi nơi các Thánh Trên Trời khi nhìn nhận rằng hầu hết mọi tín hữu, ngoại trừ các vị tử đạo, các Tông Đồ và các Tiên Tri, đều cần được thanh tẩy sau khi chết. II.- Ý NGHĨA LUYỆN TỘI. - Khi có lòng sám hối, tội được tha. Tuy nhiên còn để lại dấu vết cần được thanh tẩy. Luyện Tội được coi là hình phạt, nhưng hình phạt này rất đặc biệt. Vì chính linh hồn ý thức được tình trạng bất xứng của mình trước sự thánh thiện hoàn hảo của Thiên Chúa, vì vậy tự nguyện được thanh tẩy. Chính linh hồn muốn trở nên thanh khiết, trưởng thành, trong sáng hơn để được hiệp nhất với Thiên Chúa, nên đón nhận những đau đớn do việc thanh tẩy như một phương thế cần thiết. Thánh Cathasienna nói: “Linh hồn lao vào luyện tội với hạnh phúc”. - Luyện Tội trước hết và chủ yếu là một Tình Trạng, mặc dầu Công Đồng Trente có dùng chữ “hình phạt và đau khổ” ( D 983 ). Và người ta nói nhiều đến đau khổ của Luyện Tội, nhưng khó có thể nghĩ rằng tình trạng này chỉ có đau khổ. Thực ra, trong Luyện Tội hạnh phúc đã bắt đầu chớm nở. Đây là một thứ đau đớn làm sung sướng, hoặc một thứ hạnh phúc còn pha lẫn đau đớn. Thánh Bernardin đặc biệt chú trọng đến hạnh phúc của thời luyện tội. Ngài kể ra năm nguồn vui của tình trạng này: Confirmatio Gratio: Xác định ân sủng – Tình trạng ân sủng không thể mất. Gertitudo salutis: Chắc chắn được cứu độ. Amor Dei: Tình yêu và lòng mến của Thiên Chúa dành cho họ. Visitatio Angelorum: Được các Thiên Thần thăm viếng. Visitstio Sanctorum: Được các Thánh thường xuyên viếng thăm. Rồi Ngài kết luận: mặc dầu những người trong luyện tội phải chịu những đau khổ rất lớn, nhưng tình trạng của họ tốt đẹp và hạnh phúc hơn tình trạng của những người còn sống ở trần gian. - Giữa địa ngục và Luyện Tội không phải chỉ có sự khác biệt về thời hạn, nhưng còn khác nhau về bản chất. Luyện Tội không phải là một địa ngục có thời hạn. Mặc dù có hình phạt, nhưng là hình phạt có tính tự nguyện. Hơn nữa, hồn ở trong Luyện Tội luôn sống trong hy vọng được về với Thiên Chúa, vì thế luôn bừng lên tình mến trọn vẹn đối với Thiên Chúa, tràn ngập bình an của Thiên Chúa. Người ta đã biết chắc số phận của mình, một số phận hạnh phúc, vĩnh cửu không gì có thể đe doạ. Trái lại, trong địa ngục không bao giờ có thể có một chút hy vọng, không bao giờ có lòng mến, không bao giờ có bình an và niềm vui. - Hình ảnh lửa phát sinh từ đâu ? Trong thư Corintô I Thánh Phaolô viết: “Chính Lửa sẽ thử thách phẩm chất việc làm của mỗi người” (1 Co 3, 13). Ở đây tác giả không nói về Luyện Tôi, nhưng trong câu này hai chữ “LỬA” và “THỬ THÁCH” được liên kết với nhau. Dựa vào câu trên, thánh Auguttinô đặt ra hai chữ “LỬA SỬA DẠY” và “LỬA THANH TẨY”. Do cách ghép chử của Thánh Auguttinô, dần dần nhiều người tin rằng, các linh hồn được thanh tẩy bằng lửa trong thời Luyện Tội. Phần đông các nhà thần học Latinh chấp nhận hình ảnh lửa. Nhưng chính Giáo Hội thì không xác định. Công Đồng Florence và Công Đồng Trente không dùng chữ “lửa” khi xác nhận Luyện Tội. Nhiều mạc khải tư nói đến lửa luyện tội, tuy nhiên mạc khải tư không đủ để xác định chân lý đức tin. Giáo Hội Đông Phương không chấp nhận ý kiến thanh tẩy bằng lửa. Theo Giáo Hội này, sau khi chết linh hồn được thanh luyện bằng tình yêu. Chỉ có tình yêu mới có khả năng thanh luyện. Còn “lửa” là một hình ảnh thích hợp để diễn tả sức mạnh của tình yêu, hợp với lời thư Do Thái: “Thiên Chúa chúng ta là một ngọn lửa thiêu” (Dt 12, 29). Về vấn đề “lửa” có thể tóm lược như sau: Giáo Hội không chấp nhận cũng không phủ nhận việc thanh tẩy bằng lửa; do đó cũng không phi bác lập trường của Giáo Hội đông phương. Ý kiến chỉ có tình yêu mới thanh luyện được rất đúng. Tuy nhiên không thể coi sự thanh luyện này chỉ là một hiện tượng hoàn toàn tâm lý, chủ quan. Trong thực hành, Giáo Hội khuyến cáo nên tránh diễn tả thời Luyện Tội một cách quá thô thiển, vật chất. - Về thời gian thanh luyện. Sự thanh tẩy có thể hoàn tất trong thời gian ngắn. Lúc đó, cường độ bù lại thời gian. Nhưng thường thường thời gian thanh tẩy phải kéo dài ít lâu. Có những tác giả như Dominique Soto cho rằng mười năm thanh tẩy thì đủ cho một đời người. Nhiều tác giả khác như Bellarmin thì thấy cần một thời gian dài hơn. Thực ra chúng ta không thể biết được Thiên Chúa sẽ đong tội ta bằng đấu nào. Người sống có thể cầu cho các linh hồn nơi Luyện Tội. Việc này vẫn được Giáo Hội khuyến khích và hợp với mầu nhiệm “Các Thánh Thông Công” (chia sẻ các kho tàng thiêng liêng ). - Còn các linh hồn có thể cầu cho người sống không ? nhiều người như Alexandre de Halès và Thánh Thomas, phủ nhận. Thánh Thomas lý giải: “Các linh hồn qua đời hơn ta ở chỗ không còn phạm tội, nhưng kém ta ở chỗ còn đang chịu đau khổ; vì thế các linh hồn cần được ta cầu khẩn cho hơn là cầu khẩn cho ta”. Richard de Middleton bác bỏ ý kiến này. Ông cho rằng: “Các linh hồn có thể cầu khẩn cho ta vì sống trong đức ái và là bạn của Thiên Chúa”. Bellarmin và Suarez cũng nghĩ như vậy. Về phần Giáo Hội, trong phụng vụ, Giáo Hội không bao giờ chính thức cầu khẩn các linh hồn. Tuy nhiên, các tín hữu buổi đầu thường ghi lời cầu trên các ngôi mộ, chẳng hạn “xin cầu cho chúng tôi”. Có thể tạm kết luận như sau: có thể xin các linh hồn cầu cho ta. Nhưng ta cầu cho các linh hồn vẫn là điều chính. KẾT LUẬN: Như vậy đức tin cho ta biết: giữa trời và đất có một cõi trung gian là Luyện ngục, nơi thanh luyện những linh hồn chưa hoàn toàn trong sạch trước khi được hưởng nhan Thánh Chúa, vì Chúa là Đấng tuyệt đối thanh sạch thánh thiện, chỉ có linh hồn nào hoàn hảo thanh sạch mới đáng được sống với Ngài. Trong Luyện ngục hiện giờ chắc chắn còn nhiều linh hồn đang đền tội, đang được thanh tẩy, trong số đó có thể có ông bà cha mẹ, anh chị em, bà con bạn hữu và ân nhân của chúng ta. Muốn cho các linh hồn đó được sớm về hưởng nhan thánh Chúa, chúng ta dâng việc lành phúc đức, những hy sinh, các ân xá và nhất là Thánh Lễ, cầu xin Chúa tha bớt hình phạt cho họ. Các linh hồn này đang khẩn thiết kêu cầu chúng ta cứu vớt họ, than trách chúng ta về sự thờ ơ lãnh đạm đối với họ. Lẽ nào chúng ta đành làm ngơ trước sự đau khổ khốn khó của những người thân yêu, những kẻ đã làm ơn làm phúc cho chúng ta, những người đồng hương đồng loại với chúng ta. Việc giúp các linh hồn ở luyện tội bằng lời cầu nguyện và việc lành của chúng ta, đem lại hiệu quả cứu rỗi: một mặt nó cứu vớt các linh hồn khỏi trầm luân đau khổ; mặt khác nó giúp chúng ta tránh mọi tội lỗi và kéo ơn Chúa xuống trên chúng ta; Sau cùng khi linh hồn nào được chúng ta cứu vớt, chắc chắn sẽ không quên công ơn chúng ta, sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta ngày sau được hưởng phước với họ. VẤN TÂM 1.- Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông có mấy câu thơ như sau: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời - Tiêu khiển một vài chung lếu láo”. Qua đó chúng ta thấy Cao Bá Quát chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có đời sau. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình. 2.- Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần đã khuyến cáo rằng: ngày hôm nay có rất nhiều người, kể cả các Linh Mục rất ngại nói đến cái chết và rao giảng những chân lý đức tin về thực tại cánh chung và đời sống vĩnh cửu. Đối với những người không có niềm tin, cái chết quả là một cái gì phi lý nhất trong cuộc sống. Nhưng đối với những ai có niềm tin thì chính cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi chúng ta vẫn tin rằng, bên kia cái chết thì cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống trong cõi phúc trường sinh. Đây là niềm tin, niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi rao giảng để nuôi dưỡng đức tin và đời sống đạo người tín hữu mỗi ngày. 3.- Mỗi người cuối cùng phải trả lẽ với Thiên Chúa là một điều có thực, rất thực như lời chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đây cũng là xác tín của Thánh Phao-lô, ngài nói: “Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng Lãnh Thiên Thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống”. Niềm tin này không chỉ là một lời tuyên xưng, nhưng phải được thể hiện qua cuộc sống vui tươi của từng người chúng ta ngay giữa những thử thách, khó khăn trăm bề của cuộc sống hiện tại. Cùng với niềm vui và hy vọng, niềm xác tín này còn đòi mỗi người chúng ta phải luôn tỉnh thức, vì chúng ta “không biết ngày nào giờ nào”. HƯỚNG VỀ VĨNH CỬU Mỗi người chúng ta đều phải chết, điều đó ai ai cũng biết, nhưng không ai biết mình sẽ chết lúc nào – cách nào. Vì thế cần phải chuẩn bị chết lành hằng ngày, bằng cách cố gắng sống đạo đức thánh thiện luôn, nhờ ơn Chúa giúp và nhờ sự chuyển cầu của Các Thánh trên trời. Thánh Phaolô nói: “Chết là một mối lợi, còn sống là một khổ hình”. Vì thế Ngài quả quyết: “Đối với tôi, sống là đức Kitô, còn chết là một mối lợi. Đức Kitô là gì, nếu không phải là sự chết cho thể xác và là Thần Khí ban sự sống ?” Vì thế chúng ta hãy cùng chết với Người để cùng sống lại với Người. Chớ gì hằng ngày chúng ta tập quen với sự chết và yêu mến nó, để linh hồn chúng ta nhờ sự chia lìa này mà biết đoạn tuyệt với các dục vọng xác thịt. Khi linh hồn được đặt ở nơi cao cả như thế, dục vọng trần tục không thể tới gần để bẫy nữa, linh hồn sẽ lãnh hình ảnh sự chết, để khỏi chịu hình ảnh sự chết. Quả vậy, luật xác thịt chống lại luật tinh thần và muốn kéo tinh thần vào lầm lạc. Có phương thế nào cứu chữa không ? Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết dở nầy ? Chính ơn của Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Lạy Chúa, con một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin cho chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhậm lời chúng con khẩn nguyện, mà làm cho lòng chúng con luôn trông cậy vững vàng: Chính Đức Giêsu sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được Phục Sinh Vinh Hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen
Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã qua đời, vì cầu nguyện để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh( 2Mcb 12, 45 ). Hãy dâng thánh lễ và các việc lành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời ( lời nhắn nhủ của GH đầu tháng 11 ). Nghĩ về cái chết, đề cập đến người ra đi để mọi người chúng ta cùng hiệp thông một cách huyền nhiệm vì giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin như có một mối giây liên lạc không thể rời xa, không thể tách biệt... Giữa người sống và người chết có một sự kết hợp thật thâm sâu, thật thắm thiết... Như thế, cái chết không còn là một ngõ cụt, không còn là một chấm hết cuối cùng của con người.Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong “ Gẫm về sự chết” đã viết:” Lạy Chúa, con có điên rồ, hẳn Chúa biết rõ ( Cv 68, 69 ). Đời sống bần tiện, lao đao, bủn xỉn,hẹp hòi, rất cần phải nhẫn nại, phải tu bổ, phải được vô cùng thương xót. Con luôn luôn coi cuộc đời của thánh Augutinh như một tổng hợp tuyệt vời: sự khốn nạn và lòng từ bi, sự khốn nạn của con và lòng từ bi của Chúa. Chớ gì, ít ra bây giờ, con có thể tôn vinh Chúa là Thiên chúa tốt lành vô cùng bằng cách kêu cầu chấp nhận và tán tụng lòng từ bi dịu hiền của Chúa...”( Osservatore Romano 34, ngày 21/8/1979 ). Đức Thánh Cha đã gẫm suy về cái chết như một tôn vinh của cuộc đời vì Thiên Chúa thật nhân lành, dịu hiền và hay thương xót. Còn Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII khi biết rõ thực tế bệnh tình của mình đã nói lên một cách bình thản:” Tôi đã dọn sẵn hành trang”. Chính vì xác tín mạnh mẽ về sự chết, Đức Thánh Cha Gioan 23 đã rất an bình và bình tĩnh đón nhận cái chết. Tình yêu mạnh hơn sự chết, tình yêu nối kết con ngừơi còn sống với người đã chết. Và trong sức mạnh của tình yêu, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá gây chú ý cho mọi người vì nhờ cái chết của Ngài, mọi người đều được lôi kéo đến với Ngài, Ngài đã qui tụ mọi người không phân biệt bất cứ một ai. Ngài đã tha thứ cho cả những kẻ hành hạ, ám hại, lên án và hành hạ Ngài. Sức mạnh tình yêu của Chúa Giêsu trên thập giá là sức mạnh cứu độ. Nhờ sức mạnh ấy, con người, loài người và mọi người được cứu độ:” Ơn cứu độ nơi Người chan chứa “. Chính trong giờ phút tối tăm của cuộc đời, trong giờ hấp hối, Chúa Giêsu đã minh chứng:” Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Tình yêu nối kết con người, tình yêu tha thứ và tình yêu từ bỏ. Chúa Giêsu đã nói:” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Đức Giêsu đã yêu nhân loại cho tới cùng, Ngài vẫn tiếp tục yêu con người và từng người không ngừng. Trong cái chết của Chúa Giêsu, nhân loại giao hòa với Thiên Chúa, với Ngài và với mọi người. Hiệp với cái chết của Chúa, nhân loại có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với nhau, cầu nguyện và tưởng nhớ tới những người đã chết. Không ai tránh khỏi cái chết: ai cũng phải một lần ra đi ai cũng phải một lần từ giã cõi đời, từ biệt những người thân thương để trở về với Đấng đã dựng nên mình, trở về với Đấng đã yêu thương mình. Người quá cố có thể là ông bà, cha mẹ, con cái, anh chị em và những người thân thương của ta hay những người mà ta chưa bao giờ quen biết, những kẻ đã từng làm hại ta vv...Trong cái chết của Chúa Giêsu, mọi người sẽ thông cảm và tha thứ cho nhau. Vì cái chết của Chúa Giêsu là nguồn ơn an bình và tha thứ... Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát là một ý nghĩ lành thánh ( 2 Mcb 12, 46; GH 50 ). Lời cầu nguyện của mọi người còn sống có sức mạnh giải thoát tội lỗi của những người quá cố, nhưng đồng thời chúng ta cũng được thừa hưởng lời chuyển cầu của các Ngài ( Giáo Lý Công Giáo). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu thương cầu nguyện cho những người đã chết vì người sống và kẻ chết có một mối giây liên kết vững bền, thâm sâu và không tách rời. GỢI Ý CHIA SẺ: 1. Bạn cảm nghiệm thế nào về cái chết? 2. Cái chết của Chúa Giêsu nói gì cho ta? 3. Tại sao mọi người đều phải chết?
Hằng ngày người ta chứng kiến hoặc nghe nói hoặc đọc trên báo chí về những cái chết do già yếu, bệnh tật, tai nạn, thiên tai, chiến tranh, bạo động.. gây ra. Và người ta nghĩ chết chóc là chuyện xẩy ra cho người khác, chứ chưa xẩy ra cho chính mình. Ða số loài người có thể đương đầu với cuộc sống dù có vất vả khổ cực đi nữa. Tuy nhiên ít ai muốn đương đầu với cái chết. Người ta cũng cảm thấy khó chấp nhận cái chết của người còn trẻ tuổi và người thân yêu. Tâm trạng đó có nghĩa là người đời sợ chết hay chưa muốn chết vì người ta sợ đối diện với những gì xẩy ra ở đời sau mà người ta không biết trước được. Có những người sợ chết đến nỗi dặn những người thân yêu phải nắm chặt tay chân mình trong lúc hấp hối. Trong thực tế, chết có thể xẩy đến cho bất cứ ai: già trẻ, lớn bé, hoặc bất cứ lúc nào: ngày cũng như đêm, hay bất kì ở đâu, ngay cả tại những nơi mà người ta tưởng là an toàn nhất, người ta vẫn có thể chết. Như vậy, chết không kiêng nể một ai. Khi nào thiên thần Chúa đến gõ cửa nhà linh hồn, gọi linh hồn ra khỏi xác, là một điều bí mật. Như vậy sống và chết gắn liền với nhau. Có thể nói được là người ta sinh ra để mà chết. Và tất cả cuộc sống là một tiến trình đi về cái chết. Ðối với người tin tưởng vào ơn cứu độ của Chúa Kitô, Ðấng cứu độ trần gian, thì chết không phải là hết, cũng không phải là xa cách vĩnh viễn. Chết chỉ là một biến đổi từ đời này qua đời khác. Người thân nhân còn sống cần đem sự hiện của người khuất bóng vào đời sống gia đình bằng hình ảnh của người quá cố, bằng công nghiệp của người quá cố để lại, bằng những kì niệm có được với người quá cố và nhất là bằng lời cầu nguyện và lễ dâng cho người quá cố. Phụng vụ lễ các linh hồn nhắc nhở cho người tín hữu là người lữ hành trên cuộc hành trình đi về nhà Chúa, họ không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với toàn thể dân Chúa, cùng với Mẹ Maria và các thánh, cùng với người tín hữu tại thế và các linh hồn nơi luyện ngục. Theo tín điều Các Thánh cùng Thông công, thì Mẹ Maria và các thánh trên trời có thể cầu bầu cho người tín hữu tại thế. Người tín hữu tại thế có thể cầu nguyện cho nhau, ủng hộ tinh thần cho nhau và cầu nguyện các linh hồn nơi luyện ngục. Giáo lí về việc người tín hữu tại thế cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục được các Công Ðồng Nicea II, Firenze và Triđentinô gọi là Tín Ðiều Các Thánh cùng Thông Công thì Công Ðồng Vaticanô II gọi là sự hiệp thông sống động (GH #51). Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng lời bầu của Mẹ Maria và các thánh và lời cầu nguyện, hi sinh và gương sáng của người khác. Và ngay cả khi nằm xuống vĩnh viễn, người quá cố vẫn còn được hỗ trợ bằng lời cầu nguyện của họ hàng, thân nhân và bạn hữu và của toàn thể Giáo hội và bằng ý chỉ của thánh lễ dâng. Biết được như vậy, nghĩa là biết được rằng sau khi chết mà còn có những người thân yêu, bạn bè nhớ đến mình trong lời cầu nguyện và thánh lễ, là điều sưởi ấm tâm hồn biết bao. Ngay trong thời Cựu ước ngôn sứ Isaia đã có thể nhìn đến một viễn tượng khi Ðấng cứu độ trần gian sẽ đến: tiêu diệt tử thần (Is 25:8). Còn thánh Phaolô thì bảo tín hữu Rôma phải cậy trông vào ngày mà họ: sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang (Rm 8:21). Kinh Tiền tụng I trong Thánh lễ cầu cho những người đã qua đời nhắc nhở cho người tín hữu: Sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị huỷ diệt tiêu tan, thì được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Chết là một biến đổi vì Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh của Người. Bằng việc sống lại Chúa đã xoá bỏ tội lỗi và toàn thắng sự chết. Trước khi về trời, chính Chúa Giêsu cũng hứa với ta qua các tông đồ: Thầy đi dọn chỗ cho chúng con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho chúng con thì Thầy sẽ trở lại và đón chúng con về với Thầy, để Thầy ở đâu, chúng con cũng được ở đó (Ga 14:2-3). Lời hứa đó đã được thực hiện cho người gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Kitô mà có lòng ăn năn sám hối: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng (Lc 23:43). Hôm nay vì lòng hiếu thảo và tình bác ái Kitô, ta đến nhà thờ dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, những linh hồn tổ tiên, ông bà cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân quyến và bạn hữu đã khuất bóng. Xin Chúa vì lòng nhân hậu, khoan dung và hay tha thứ xét nhử nhân hậu với các linh hồn, đưa các linh hồn về hưởng ơn nghĩa trong nước Chúa. Lời cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời: Lạy Chúa cả nhân lành hay thương xót. Chúa không muốn cho loài người phải chết đời đời, nhưng được sống. Xin Chúa dủ lòng thương xót các linh hồn đã qua đời. Xin dùng máu thánh Con Chúa đã đổ ra vì tội lỗi loài người mà tẩy sạch vết nhơ tội lỗi cho các linh hồn cho được hưởng phúc trường sinh. Amen.
Cuộc sống ở trần gian đuợc kinh Thánh mô tả như là một làn sương, một hơi thở và một làn khói: “Cuộc đời chúng ta trên dương thế, chẳng khác gì bóng câu." (Gióp 8, 9) Đế thấy cuộc đời chóng qua: bạn nên nhớ hai sự kiện này: 1/ Cuộc sống cực kỳ ngắn ngủi, nếu so với chốn đời đời. 2/ Trần gian chỉ là nơi cư trú tạm thời mà thôi. Vì bạn không ở trần gian lâu, nên đừng gắn bó với nó. Hãy cầu nguyện như Đavít xưa: “Lạy Chúa, xin dạy cho con biết. đời sống con chung cuộ thế nào, ngày tháng con đếm được mấ mươi, để hiểu được kiếp phù du là thế.” (Tv 39,5) 2- Sông tạm quê người: Trần gian không phải là căn nhà vĩnh viễn hay đích cuối cùng của bạn, bạn chỉ đi ngang qua, ghé qua trái đất mà thôi. Kinh Thánh dùng những chữ như người lữ khách, kẻ đi đường, người hành hương để mô tả cuộc sống ngắn ngủi của bạn trên đất: “Nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộ đời lữ khách này.” (1Phêrô 1,17) Công dân Nước Trời: Chúa muốn bạn luôn mong chờ trở về quê hương của mình: “Còn quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ Trời đến cứu chúng ta. (trở lại đón) (Phil 3,20-21). Lai lịch của bạn ở cõi đời đời và quê hương của bạn là Thiên đàng. Khi bạn nắm bắt được lẽ thật này, bạn sẽ không còn lo lắng về chuyện có đủ mọi thứ trên trần gian này- Chúa rất thẳng thắn nói về mối hiểm họa của lối sống chỉ biết có trước mắt. Khi bạn đùa giỡn với những cám dỗ của thế gian này, Chúa gọi là tội ngoại tình tâm linh, tâm hồn. Kinh Thánh chép: “Anh em giống như kẻ ngoại tình, amh em không biết rằng: yêu thế gian là ghét Thiên Chúa sao? Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa.” (Giacôbê 4,4) Khách tha hương & Kẻ lưu lạc: Nhiều Tín hữu đã phản bội Vua của họ và Vương Quốc của Ngài. Họ đã dại dột kết luận rằng: vì họ sống trên đất, nên đây là nhà của họ. KHÔNG. Lời Chúa nói rất rõ: “Anh chị em yêu dấu, là khách tha hương và kẻ lưu lạc trong trần gian, chớ để dục vọng xác thịt lôi cuốn lôi cuốn, vì nó chống nghịch với linh hồn anh em. (1 Ph 2, 11). Chúa muốn cánh báo bạn đừng để mình quá gắn bó với nhưng điều chung quanh chúng ta vì chúng thảy đều tạm bợ như sau: “Kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như chẳng hưởng, vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.” (1 Cor 7 31) Điều không thấy thì vĩnh cửu: Cuộc đời không phải là theo đuổi hạnh phúc trần gian. Chỉ khi nào bạn thấy cuộc đời là một cuộc thử nghiệm, một nhiệm vụ tam thời, thì bạn sẽ thoát được vui thú thế tục: “đừng chú tâm đến những vật hữu hình. Những điều trước mắt là những điều nay còn mai mất; những điều chúng ta không thấy mới trường tồn.” (x. 2 Cor 4, 18) Không phải là nhà cuối cùng: Con cá không vui sống trên đất, chim đại bàng chỉ mong tung cánh. Bạn không thỏa lòng khi ở trần gian, bạn cónhững giây phút ở đây, nhưng không thể so sánh với điều Chúa sẽ dành cho bạn. Phaolô là con người trung tín, nhưng cuối cùng vào tù, Gioan Tiền hô là người can đảm làm chứng, ông bị chặt đầu. Hàng triệu người khác đã chết vì đạo, hoặc mất tất cả vì ai? Nhưng kết thúc không phải hết. Tóm kết: Chỉ cần 2 giây bước vào Thiên đàng, là bạn sẽ thốt lên: “Tại sao trước đây tôi lại quá chú trọng vào những điều tạm bợ? Tôi lãng phí quá nhiều thì giờ tiền bạc cho những cái chóng qua? Khi cuộc sống trở nên khó khăn, bạn chìm ngập trong nỗi nghi ngờ. Hãy nhớ rằng bạn chưa về nhà. Khi cái chết đến, đó không phải là lúc bạn rời nhà ra đi –Đó là lúc bạn sẽ đi về nhà.
Cuộc đời trần gian Ta sống như con thuyền trôi Ta sống như đi qua cầu Rồi một ngày mai ta sẽ đi về nhà Chúa Vì đời ta sống cho Chúa... (Không rõ tác giả) Trên trang nhất của một tờ báo điện tử ở trong nước hôm 13-10-2006 có đăng tin tức về một tai nạn khủng khiếp xẩy ra trên quốc lộ I thuộc địa phận huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa giữa một chiếc xe cỡ trung 15 chỗ ngồi và một chiếc xe đò miền Trung. Tin tức cho biết 12 trong số 13 người đi trên chiếc xe thứ nhất bị tử thương tại chỗ trong đó có cả tài xế, chỉ có một người sống sót. Về phía chiếc xe đò thì may mắn hơn, chỉ có tài xế và phụ xe bị thương còn tất cả hành khách đều an toàn. Được biết chiếc xe chở 13 người thuộc đoàn cứu trợ của phường 13 quân Phú Nhuận, xuất phát từ Sài Gòn đang trên đường ra Đà Nẵng cứu trợ đồng bào bị nạn trong cơn bão Xangsane hay còn gọi là cơn bão số 6, cơn bão đã gây nhiều thịêt hại cho một số tỉnh ở miền Trung. Bản tin còn liệt kê đầy đủ danh tánh những nạn nhân bị chết cũng như người bị thương sau tai nạn. Trên trang báo cũng có đăng hình ảnh 12 xác chết nằm la liệt trên mặt đất trông thật thảm thương. Đọc bản tin tức và xem hình ảnh tai nạn, tôi không khỏi xúc động. Nhưng tôi còn xúc động mạnh hơn khi nhận được điện thoại từ Việt Nam cho biết nạn nhân thứ 6 trong danh sách, Đỗ Hoàng Sơn là con của một người em con bà mợ của vợ tôi. Cháu gọi chúng tôi bằng bác. Tiếp tục theo dõi tin tức được biết sau khi nhân viên công lực hoàn tất các thủ tục cần thiết tại hiện trường, xác nạn nhân được di chuyển ngay về Sài gòn. Nghe nói chính quyền muốn chôn cất các nạn nhân tại nghĩa trang liệt sĩ như muốn biểu lộ một cử chỉ biết ơn đối với những người đã vì việc nghĩa mà hy sinh tính mạng. Tuy nhiên gia đình cháu Sơn lại muốn được tự lo liệu để cháu được an táng theo nghi thức Công giáo. Thánh lễ an táng được cử hành tại nhà thờ Tân Hòa hôm 15-10 đã được đông đảo giáo dân trong giáo xứ tham dự để hiệp ý cầu nguyện cho cháu. Nhiều buổi đọc kinh liên tục tại tư gia trước và sau thánh lễ an táng cũng thu hút nhiều người trong giáo khu, giáo xứ. Cũng có những người từ xa đọc được tin tức trên báo chí cũng dò hỏi được địa chỉ tìm đến an ủi gia đình hoặc cầu nguyện cho cháu. Cái chết nào cũng đau thương nhưng cảnh ngộ của cháu khiến cho cái chết của cháu thêm thương đau. Chào đời chưa được bao lâu thì cháu mất mẹ. Người mẹ trẻ từ giã cõi đời để lại đứa con trai mới 3 tháng tuổi và người chị của cháu. Trong cảnh gà trống nuôi con, cha cháu dù tận lực cũng không khám nổi nếu không có bà nội đùm bọc. Cháu lớn lên thiếu tình thương của mẹ nhưng bù lại được bà nội thương yêu và tận tình săn sóc. Một lần cháu theo bà nội ra Nha Trang chơi khi đó cháu khoảng 4 hay 5 tuổi. Mải vui nơi thành phố lạ, cháu đi lạc lúc nào không biết. Ai cũng tưởng cháu chỉ quanh quẩn trong xóm nhưng tìm mãi không thấy. Mọi người lo lắng đổ xô đi tìm khắp nơi cũng không tìm được cháu, mãi cho đến khi có ý định nhờ Đài phát thanh Nha Trang loan tin tìm trẻ lạc thì tìm được cháu. Trong lúc trên nét mặt mọi người còn chưa hết vẻ lo lắng thì cháu vẫn tỉnh bơ như không có chuyện gì xẩy ra. Cháu không khóc, không hoảng hốt hay sợ hãi như những đứa trẻ khác. Nhưng chímh cách phản ứng khác với những đứa trẻ khác lại nói lên một điều gì đó thật chua xót. Trước kia khi còn làm việc ở Nha Trang, mỗi lần có dịp về Sài gòn tôi đều ghé thăm bà mợ và lại có cơ hội tiếp xúc với cháu. Người ta nói những đứa trẻ mồ côi thường khôn trước tuổi. Điều này cũng không ngoại lệ đối với cháu nhưng có điều khác là trong cái khôn lanh, cháu không dám vượt qua khuôn thước của gia dình, cháu vẫn ở trong sự giáo dục của một gia đình đạo đức. Dù đang ở độ tuổi ham chơi, cháu đi nhà thờ hàng ngày. Tối đến cháu còn tham dự buổi đọc kinh tại tượng đài thánh Martin, vị quan thày của giáo khu. Năm 1988 trong dịp chúng tôi từ Mỹ về thăm Việt Nam, tôi lại được dịp nghe cháu tỉ tê nói chuyện. Tôi thích nghe cháu nói chuyện vì cháu có lối nói chuyện rất thu hút. Trong một lần hai bác cháu ngồi chuyện trò với nhau, tôi cho cháu một chút tiền. Tôi đọc được sự mừng rỡ trên nét mặt của cháu nhưng ngay sau đó cháu tỏ ra e ngại không dám nhận. Có lẽ cháu sợ bị hiểu lầm. Tôi phải nói với cháu rằng bác quí cháu bác cho tiền thì cứ cầm lấy mà xài miễn là đừng xài phí là được. Nghe vậy cháu mới chịu nhận. Sáng hôm sau khi chúng tôi đi lễ mới về đến nhà thì cháu đã kêu người từ một quán phở ở trong xóm bưng hai tô phở nóng hổi mời vợ chồng tôi ăn sáng. Tôi bảo cháu kêu thêm phở cho chính cháu và những người khác cùng ăn cho vui. Cháu có vẻ lưỡng lự nhưng rồi cũng làm theo ý kiến của tôi. Ăn phở xong, khi người ta đến lấy tô, sẵn có tiền trong túi, cháu hăm hở đòi trả tiền nhưng tôi bảo cháu hãy cất tiền để xài vào việc khác. Sau lần gặp lại cháu kỳ đó chúng tôi không còn dịp nào gặp lại cháu cho đến khi được hung tin cháu bị tử nạn thảm thương trong chuyến xe định mệnh. Nghe bà nội cháu kể buổi chiều trước khi lên đường cháu vui lắm. Cháu vui là phải vì vừa đi làm công tác từ thiện lại có dịp đi xa để mở rộng tầm hiểu biết. Đây là lần thứ hai cháu rời Sài gòn đi miền Trung. Lần thứ nhất cháu đi với bà nội, bị lạc ở thành phố Nha Trang. Lần này cháu ra đi và khi người ta đưa cháu về nhà thì chỉ còn là cái xác không hồn trong một hình hài không còn nguyên vẹn, đựng trong chiếc túi ni-lông. Cháu đã đi sang một thế giới khác, bỏ lại người cha đau khổ, bỏ lại bà nội 85 tuổi luôn thương yêu cháu và bỏ lại niềm thương cảm của mọi người trong giáo xứ, giáo khu. Mỗi lần chứng kiến cái chết hay mỗi lần đi dự lễ an táng là mỗi lần tôi nghĩ đến thân phận mỏng manh của kiếp nhân sinh. Lần này cũng vậy, cái chết của cháu làm tôi suy nghĩ miên man về cuộc sống của cháu. Vừa mới sinh ra đã mồ côi mẹ, lớn lên không được học hành đến nơi đến chốn, chết đi lúc mới 23 tuổi đời, khi chưa làm được gì cho mình và cho gia đình. Nếu chết là hết và nếu không có sự sống đời sau thì cuộc đời của cháu thật là vô nghĩa. (Những ngày chuẩn bị bước vào tháng các linh hồn)
Mỗi lần tết đến xuân về chúng ta thường suy niệm về ý nghĩa của thời gian. Thời gian chẳng qua là một chuỗi của những chuyển động không ngừng. Nhưng không có thời gian nếu không có mức á đến và đi. Nói tóm lại nếu không có đời đời. Tuy nhiên người cộng sản sợ đời đời vì sợ con người sao nhãng nhiệm vụ trần thế. Họ nói tôn giáo là thuốc phiện làm mê mệt dân chúng vì tôn giáo cho con người thấy viễn cảnh đời đời. Ngày nay khi nghiên cứu các tôn giáo khác có nhiều người đâm ra nghi ngờ cái viễn cảnh đời đời của Kitô giáo. Tuy nhiên kinh thánh cho ta tin tưởng về một điều mà tâm hồn nhân loại không bao giờ tưởng tượng ra nổi (1 Cor 2,9). Có đời đời vì Mạc khải và sự sống lại của Chúa: Nếu Chúa Kitô không sống lại niềm tin của anh em chả đi đến đâu cả... và rồi những người chết trong Chúa Kitô sẽ bị mất mát. Nếu ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô cho cuộc sống hiện nay mà thôi, chúng ta là những người đáng thương hơn cả. (1 Co 15,17-19). Mạc khải cho ta rất nhiều hình ảnh về thế giới bên kia, cõi vĩnh hằng, như là sự hiệp thông với Chúa hay tiệc cưới đời đời. Niềm tin và sự hi vọng vào cuộc sống đời đời đem lại cho ta sự can đảm và sự bình an nội tâm. Khi loan báo Chúa Kitô Phục sinh mạc khải cũng đoan hứa xác thịt người ta sống lại và sự hằng sống . Nhưng số phận những người đã chết ra sao ? Cựu ước luôn cảnh cáo chuyện chiêu hồn nhưng cũng cho hay là người đã chết không bị tiêu diệt. Họ vẫn sống bên Chúa theo một cách thế nào đó. (Sg 3,1-9). Việc cầu nguyện cho người chết, tập tục của người do thái như trong sách Maccabêô (2 M 12,43) vẫn được khuyến khích trong giáo hội cho thấy đã có những tập tục đó. Tân ước nói tới một hình ảnh tượng trưng của người do thái về một nơi nào đó người chết chờ đợi nhưng cũng xác định về một liên hệ mới với Chúa Kitô. (cf 2 Co 5,8; Ph 1,23). Như thế liên hệ giữa người còn sống và những người đã chết không bị gián đoạn. Khi chấp nhận chân lý khi chết cuộc sống con người không bị tiêu diệt mà thay đổi trong một liên hệ mới với Thiên Chúa, Giáo Hội chủ trương là sau khi chết vẫn còn một yếu tố linh thiêng là linh hồn. Vì có liên hệ với Thiên Chúa hằng sống nên linh hồn bất tử (xem công đồng Latran V, DS 1440; FC 267): Khi hiểu biết linh hồn theo cách thế của sách Khôn ngoan thì cũng xác quyết linh hồn bất tử. Xác tín rằng con người tiếp tục tồn tại sau cái chết trong liên hệ với Thiên Chúa dựa vào niềm tin là Thiên Chúa không phải là Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống (Mc 12,27). Giáo hội xác quyết sự tồn sinh và sự tồn hữu sau cái chết của một yếu tố linh thiêng có ý thức và và ý chí để cái tôi của con người tồn tại. Ðể chỉ yếu tố đó giáo hội dùng từ linh hồn theo cách dùng của Thánh Kinh và Truyền thống. (thư của thánh bộ đức tin về vài câu hỏi liên quan đến vấn đề cánh chung, tháng năm 1979). Vì có linh hồn bất tử con người sẽ gặp Chúa Ðấng Sáng Tạo và Thiên Chúa sau khi chết. Lúc chết sự hiện hữu của mỗi người được đặt dưới ánh sáng của Thiên Chúa, soi sáng toàn thể cuộc sống. Ðó là phán xét riêng. Sự phán xét riêng này dành cho mỗi người ngay sau khi chết, không đợi đến ngày tận thế. Ðiều này qui định tình trạng giữa cái chết và ngày tận thế ngày toàn thể nhân loại sống lại. Mỗi người đều được Chúa soi sáng đối diện với chân lý. Sự phán xét cứu thoát đối với những người đã chấp nhận lời Chúa Kitô (cf Jn 12,46-48), cho những người đã làm lành và phán xét luận phạt cho những ai đã làm dữ (cf 2 Co 5,10) không có gì là thiên lệch và cho thấy giá trị của mỗi cuộc sống. Sự cứu độ mang hình thức hưởng nhan Chúa nghĩa là thấy Thiên Chúa Ba Ngôi trong ánh sáng toàn diện (công đồng Florence năm 1439, DS 1305; FC 967). Sự diện kiến này làm cho con người hoàn toàn hạnh phúc. Thiên Chúa là đối tượng của niềm hi vọng kitô giáo và thỏa mãn hoàn toàn mọi khát vọng của con người. Ðể đạt tới sự chiêm ngưỡng Chúa, một giai đoạn thanh tẩy rất cần thiết. Ta gọi là luyện tội. Không phải là nơi chốn hay thời gian nhưng là một tình trạng. Dù sao giai đoạn này cũng là một hình phạt Thiên Chúa dùng để thanh tẩy tội lỗi của con người. Sự hiệp thông với Thiên Chúa mà cái chết dẫn ta đến, cho ta đau đớn ý thức được những khiếm khuyết của mình, sự từ chối tình yêu của mình và nhu cầu cần phải để cho quyền năng cứu độ của Chúa Kitô thanh tẩy. Chính Thiên Chúa thanh tẩy và biến đổi. Nhưng truyền thống của Giáo hội công giáo xác quyết rằng những linh hồn trong luyện ngục được hưởng lời cầu nguyện dành cho họ do những người anh em và lời cầu bầu của các thánh đang hạnh phúc hưởng nhan Thiên Chúa. Việc phán xét trong ánh sáng của Chúa Kitô dẫn đến hai trạng thái trái ngược nhau ; thiên đàng hay hỏa ngục. Ðây là nội dung niềm tin do Thánh Kinh minh chứng trong một kiểu nói nhiều hình ảnh. Viễn cảnh về định mệnh con người này đưa đến nhửng quyết định tối hậu cho cuộc sống con người ở trần gian. Thiên đàng là thế giới của Thiên Chúa. Chính trong ý nghĩa này mà chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời. Tân ước nói tới nước trời, hay lên trời là đi gặp Chúa Kitô trong nước thiên đàng để ở với người, cư ngụ trong nhà người. Nước trời hoàn tất cuộc sống, làm tròn cuộc sống trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa và anh em. Thánh Kinh diễn tả sự toàn vẹn: trời là nơi hạnh phúc vĩnh viễn cho con người, tham dự toàn diện vào cuộc sống của Ba Ngôi, nhìn thấy Thiên Chúa diện đối diện, niềm vui và an bình không bao giờ tàn. Sách Khải huyền cho ta thấy một thế giới ánh sáng và cuộc sống. Hạnh phúc thiên đàng không có tính cách riêng rẽ. Hiệp thông với Chúa cũng là hiệp thông với anh em với tất cả những ai sống trong tình yêu Thiên Chúa, trong Thần Khí của người, với những người đang ở trong thế gian và những người đã ra đi. Chính là hiện thực của tín điều các thánh thông công. Hỏa ngục là kết thúc của sự từ chối Thiên Chúa cách tuyệt đối và sự trợ giúp của Ngài. Chính là từ chối cuộc sống và niềm vui mà Thiên Chúa muốn ban tặng. Tân ước diễn tả như một trạng thái bị lên án, nghĩa là tuyên án hình phạt đời đời, đã được chuẩn bị cho ma quỉ và bè lũ, như là trạng thái mất mát hoàn toàn và là cái chết lần thứ hai. Không ai có thể nói người nào đó vào hỏa ngục ï. Nhưng hỏa ngục cho thấy con người có khả năng khước từ cách dứt khoát cuộc sống Thiên chúa ban tặng. Chúa yêu con người quá sức nên kính trọng con người, không bắt buộc họ và tạo nên con người tự do. Chúa muốn cho mọi người được cứu độ, hành động để lôi kéo họ ra khỏi sự dữ và tội lỗi, và mở cửa cho họ đi vào cuộc sống. Nhưng ngài coi trọng tự do của con người và công nhận tầm quan trọng của những quyết định của họ. "Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết". Chúng ta đọc trong kinh Tin Kính của công đồng Nicée Constantinople. Sự trở lại của Chúa Kitô như ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính không phải đơn giản như tái thể hiện cuộc quang lâm đầu tiên, đã đưa Ngài đến cái chết. Nhưng là sự tỏ hiện cuối cùng của Ðấng Phục sinh không còn chết nữa. (Rm 6,9) Triều đại người loan báo và khai mạc và được hết thúc khi ngài trở lại không phải là triều đại ở thế gian này. Tuy nhiên Chúa Kitô vinh quang sẽ đến trong vinh quang chính là Ðấng đã đến, khi phục sinh đã chiến thắng sự chết và tội lỗi, là Ðấng vẫn can thiệp trong cuộc sống của ta nhất là trong các bí tích là những dịp tưởng niệm Ngài cho đến khi Ngài trở lại. Chúng ta không thể tưởng tượng hay đặt chương trình cho cuộc tái quang lâm của Chúa Kitô vì ngày giờ hay hoàn cảnh chỉ mình Cha trên trời biết trước. Giáo hội luôn lên án chủ nghĩa cho rằng Chúa trở lại sau những ngàn năm lịch sử. Chúng ta chỉ cần chuẩn bị trong niềm hi vọng việc Chúa trở lại với chiến thắng hoàn toàn sự chết kẻ thù cuối cùng; Ngài xóa bỏ mọi hình thức nô lệ và hiện đến trong vinh quang. Thánh Phaolô cho ta biết: "Nếu người đã chết không sống lại, Chúa Kitô cũng không sống lại. Và nếu Chúa Kitô không sống lại sứ điệp của chúng ta sẽ không có đối tượng và niềm tin của ta cũng vô ích. (1 Co 15, 13-). Vì Chúa Kitô sống lại nên người ta cũng sẽ sống lại. Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Vì Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa là người đầu tiên từ kẻ chết sống lại, người đầu tiên trong những người đã chết. Trong cựu ước đã có niềm tin về sự sống lại cá nhân nhất là những người tuẫn giáo trong Israel. Niềm tin những người chết sống lại trước thời gian bị lưu đầy khởi đi từ kinh nghiệm về sự phục hoạt của dân Israel và phát xuất từ xác tín là liên hệ với Thiên Chúa nơi người công chính không thể bị phá hủy, vì các ngài đã hi sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa. Ngài không thể để họ chết đi. Tuy nhiên biến cố Chúa Giêsu sống lại củng cố niềm xác tín vào sự sống lại của những người đã chết. Sự phục sinh của Chúa Kitô cho thấy tình yêu Chúa Cha mạnh mẻ, trung thành và không gì có thể chuyển lay. Ðó là công việc của Chúa Thánh Thần tiếp tục kết hợp mật thiết với Cha và Con ngay trong khi Chúa Giêsu chịu chết và chịu khổ hình. Thánh Linh được ban chonhững người chịu phép rửa và thêm sức: nếu Thánh Linh đã phục sinh Chúa Kitô từ cõi û chết hiện diện trong anh em, Ðấng đã phục sinh Chúa Kitô cũng ban sự sống cho thân xác hay chết của anh em nhờ Thánh Thần ngự trong anh em. (Rm 8,11). Nhờ phép rửa và ơn Thánh Linh chúng ta được phục sinh với Chúa Kitô và biến đổi. Xác thịt của chúng ta sẽ biến đổi giống như Chúa Kitô phục sinh. Thánh Phaolô gọi là một thân xác linh thiêng tràn đầy vinh quang. Chúa Kitô đã nói đừng quá tưởng tưởng về sự biến đổi thân xác này trong tin mừng. Khi người Sađucêô hỏi ngài về chuyện anh chàng có nhiều vợ khi sống lại sẽ ở với ai, Chúa đã phán: Các người sai lầm và không biết được quyền năng của Thiên Chúa. Khi sống lại người ta không còn lấy nhau nữa mà như các thiên thần trên trời. Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống. Thánh Phaolô cho ta thấy thân xác linh thiêng sau khi sống lại khi ngài viết: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang, gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẻ, gieo xuống là thân thể có sinh khí mà trỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cor 15,42-44). Việc sống lại của thân xác là sự sáng tạo mới hoàn toàn là tác phẩm của quyền năng Thiên Chúa và giống như một sự sinh sản. Theo Anastase tu viện trưởng núi Sinai vào năm 700 trong bài giảng về sự sống lại thì: Nếu chương trình cứu độ chưa hoàn tất, vì con người luôn chết đi và thân thể họ luôn tan rữa khi họ chết, thì đó không phải là lý do cho ta không tin. Chúng ta đã nhận lãnh trước những điều tốt lành Chúa đã hứa nơi con người trưởng tử, nhờ người ta được mang lên trời và chia xẻ ngai tòa với Ðấng đã mang ta lên cao như thánh Phaolô nói: Với Ngài ngài đã làm cho ta sống lại, với ngài Ngài đã cho ta hiển trị trên trời với Chúa Kitô Giêsu. Ngoài cái viễn cảnh cá nhân, mạc khải còn mở cho ta thấy viễn cảnh cho toàn thể nhân loại , một sự hoàn tất tập thể cho toàn thể thế giới, trong việc phán xét chung. Liên hệ với việc kẻ chết sống lại cho ta thấy khía cạnh tập thể của việc cứu độ. Không ai được cứu độ một mình. Tất cả được thiết lập theo sự công bình của Thiên Chúa và Chúa Kitô sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết, tái tạo vạn vật và trả lại cho Thiên Chúa. Ðiều này cho thấy xét đoán của con người mỏng manh và phiếm diện, nên Chúa Kitô có nói là không nên lên án ai cứ để cỏ lùng mọc chung với lúa. Tuy nhiên không nên đợi Chúa trở lại cách thụ động. Chúng ta phải làm cho thế giới luôn tốt đẹp theo ý Chúa như trong bài giảng về nước Trời của Chúa Giêsu. Trái đất là nơi khởi đầu cho nước Chúa hứa hẹn cho tương lai và đã được phán xét. Chúa Giêsu đã nói rõ chỉ những người yêu thương trong thế giới này sẽ có chỗ đứng hạnh phúc trong tương lai và ngày thế mạt Chúa sẽ cho thấy cái gì là tốt đẹp, bền vững chân thật trong cõi nhân sinh. Sau khi tuyên xưng việc kẻ chết sống lại chúng ta tuyên xưng cõi sống đời đời, cuộc sống của thế giới ngày mai. Mục đích cuộc sống con người là cõi sống đời đời. Chúa đã hứa cho ta cuộc sống đó. Cuộc sống này chỉ là sự kéo dài và triển nở cuộc sống kết hợp với Chúa Kitô trong cuộc sống hiện tại. Ðó là cuộc sống mà Chúa là tất cả trong mọi sự, cuộc sống tràn đầy của Ba Ngôi Thiên Chúa. Kinh Thánh nói tới trời mới đất mới. Những gì tốt đẹp trên thế gian này sẽ tồn tại hay hoán chuyển sang thế giới mới như con sâu rọm biến thành con bướm khi mùa xuân trở lại. Hiện nay chúng ta vẫn lãnh nhận ơn sủng cuộc sống đời đời đã bắt đầu, chúng ta đã lãnh nhận những ơn đầu tiên của Thánh Thần Ðấng đã phục sinh Chúa Kitô và chúng ta sống trong niềm hi vọng màu nhiệm phục sinh sẽ hoàn tất trong chúng ta. Niềm tin và hi vọng Kitô giáo không thể không có những hậu quả trong cách thế đối diện và đến gần cái chết. Phụng vụ diễn tả: Ðối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì có chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Bộ mặt mới của cái chết cho ta biến đổi cái chết theo gương Chúa Kitô thành một sự hiến dâng sau cùng. Chết như người tin Chúa là phó thác cho tình yêu của Thiên Chúa và hi vọng. Mỗi lần đọc kinh Kính mừng chúng ta vẫn thường xin Mẹ Maria: "Cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử". Hãy nhớ mãi lời nhắn nhủ của cha Charles de Foucault: Hãy sống ngày hôm nay như con sắp ra pháp trường tử đạo"
AnTáng 93: “NẾU HẠT LÚA MÌ RƠI XUỐNG ĐẤT MÀ KHÔNG THỐI ĐI
Năm 1922, một nhóm các nhà khảo cổ, sau biết bao nhiêu công lao tìm kiếm, đào xới, họ đã khám phá ra được một ngôi mộ của hoàng đế TUT của Ai Cập. Bên cạnh xác của hoàng đế Ai Cập, đã được chôn cất hơn 3.000 năm này, người ta thấy có một hũ đựng những hạt lúa mì, có lẽ đây là phần lương thực mà người ta dành cho hoàng đế chăng . Thấy những hạt lúa mì cách đây hơn 3.000 năm, một nhóm chuyên viên về nông nghiệp, đã lấy một số những hạt lúa mì này, đem gieo xuống đất, và kết quả là những hạt này đã nẩy mầm. Sau hơn 3.000 năm, vậy mà những hạt lúa mì này vẫn nằm trơ trơ, chỉ vì chúng không có đủ điều kiện, để mục nát đi hầu trở thành những cây lúa có thể sinh những bông hạt nặng trĩu. Hạt giống phải mục nát đi để trở thành những cây mới, đó chính là hình ảnh của nguyên tắc:”Sự sống nảy sinh từ sự chết”. Chết đi để được sống, đó là một chân lý muôn đời, thế nhưng rất ít người muốn để ý tới. Thường thì chúng ta ai cũng muốn sống để làm nên sự nghiệp này, công việc kia, bởi vì khi đã chết rồi thì đâu còn làm được việc gì nữa. Thế nhưng trong thiên nhiên, cũng như trong lịch sử, chúng ta thấy, không thiếu gì những trường hợp, chết đi nhưng vẫn làm nên sự nghiệp, mà còn là sự nghiệp lớn lao nữa. Làm sao lại có thể như thế được ? Thưa bởi vì, lắm khi Thiên Chúa đã dùng những điều mà con người cho là ngược đời, không thể hiểu được, để hoàn thành những chương trình tuyệt hảo của Ngài. Nếu chúng ta tìm hiểu về đời sống của những con bướm đang bay lượn tung tăng trong những vườn hoa để vui chơi và để hút những giọt mật ngon lành tữ những đoá hoa ở trong vườn, hẳn là chúng ta sẽ thấy được chân lý trên đây. Thật vậy, trước khi trở thành những con bướm với muôn mầu sắc sặc sỡ, có thể bay lượn khắp đó đây, bướm đã phải trải qua một thời gian thật là đen tối, một thời gian tưởng chừng như đã chết, đó là thời gian bướm phải nằm trong ổ kén. Lúc đó bướm chỉ là một con sâu, nằm cuộn trong ổ kén, không ăn, không bò, mà chỉ nằm, hầu như bất động. Thế nhưng thời gian đó lại là điều tất yếu mà nó phải trải qua để trở thành bướm. Nếu trong thiên nhiên đã như thế , thì trong lịch sử chúng ta cũng vậy. Sử gia Tertulien ngày xưa đã quả quyết rằng:” Máu của các vị Tử Đạo là hạt giống sinh người tín hữu”. Thật đứng như vậy, cái chết của những người một lòng kính yêu Chúa, đã trở thành một yếu tố khích lệ cho sự phát triển của đạo Chúa. Thế nhưng không có cái chết nào phát biểu chân lý chúng ta đang nói đây, rõ ràng cho bằng cái chết của Chúa Giêsu. Chính cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá đã sinh lại biết bao nhiêu người trong ơn cứu rỗi. Chết đi để được sống, chết đi để sinh nhiều kết quả, đó là một chân lý. Thế nhưng cái chết của người thân yêu của chúng ta, vẫn làm cho chúng ta tan nát cõi lòng. Có điều là, đối với người Kitô hữu chúng ta, qua tiếng nức nở, nghẹn ngào, vì sự ra đi vĩnh viễn của người thân yêu, chúng ta vẫn còn nghe văng vẳng bên tai chúng ta những lời tuyên bố của Đấng quyền năng rằng: “Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. Nếu như vậy thì cụ... chết làm sao được bởi vì suốt gần một thế kỷ cụ đã sống và tin Chúa ? Điều vừa xảy đến với cụ mà chúng ta gọi là chết, thực ra chỉ là một sự thay đổi môi trường sống. Chút nữa đây, chúng ta sẽ tiễn đưa cụ... tới nơi an nghỉ cuối cùng. Công việc mà chúng ta gọi là mai táng cụ, đúng ra phải gọi là một cuộc gieo trồng. Chúng ta gieo trồng “hạt giống” này xuống đất để chờ đến một ngày mọc thành” cây”. Đó chính là ngày thân xác này được phục sinh. Còn linh hồn của cụ lúc này vẫn sống và có lẽ giờ này đã được đón nhận vào trong gia đình của Thiên Chúa rối. Nhưng nếu cụ có phải nán chờ ở phòng chờ đợi của Thiên Đàng, thì hy vọng rằng lời cầu nguyện của chúng ta, nhất là thánh lễ mà hôm nay chúng ta dâng, chắc sẽ sớm đưa cụ vào trong nhà của Thiên Chúa. Riêng với chúng ta, những người đang sống, chúng ta không phải đợi cho đến lúc như cụ .. đây, chúng ta mới có thể chết đi cho được sống, mà chúng ta có thể chết đi trước khi chúng ta chết nữa. Vậy chết đi trước khi chết nghĩa là gì ? Cái chết đầu tiên mà chúng ta phải chết, đó là kể như mình đã chết trước mặt Chúa. Nhưng thế nào là chết đi trước mặt Chúa ?Như chúng ta biết, người đã chết thì hoàn toàn bất động. Người đã chết không bao giờ tỏ ý phản đối những người còn sống, dù người ta có làmgì cho họ đi nữa. Người chết đi trước mặt Chúa phải trao phó hoàn toàn cuộc sống của mình cho Chúa, để cho Chúa điều khiển cuộc sống của mình. Khi ấy sẽ có rất nhiều thay đổi trong con người cũng như trong cuộc đời của chúng ta, nó cũng giống như hạt giống đã được gieo vào lonìg đất, sẽ chết đi, nhưng chết đi đểí nhận lại sự sống mới. Dựa vào chân lý Chúa đã nêu ra trong Phúc Âm Thánh Gioan, chúng ta vừa cùng nhau chia sẻ mấy ý tưởng về sự chết, nhân cái chết của cụ ... Theo đó thì,”chết đi để được sống” và sống dồi dào phong phú hơn. Nhưng cái chết trước tiên mà mỗi người chúng ta cần phải chết, đó là chết đi con người cũ của chúng ta, chết đi những dục vong xấu xa, để sống với con người mới, bằng một sức sống mới. Đây là công việc chúng ta không thể tự mình làm được mà cần phải có sự trợ giúp của Chúa, qua những ân sủng Ngài ban, cũng giống như hạt giốỳng kia tự nó, nó không thể phát triển thành cây được, mà nó cần phải được vùi vào trong lòng đất, để cho nó thối đi, mục nát đi, rồi sau đó mới thành cây được. Ước gì ngày hôm nay, chúng ta học được bài học trên đây, để chúng ta sẵn sàng chấp nhận những hy sinh trong cuộc sống theo Chúa của chúng ta. Được như thế, khi đến ngày nẩy mầm chúng ta sẽ là những thân cây có thân hình bụ bẫm, hứa hẹn một mùa trái sai trĩu đúng như lời Chúa phán: “Nếu hạt lúa mì thối đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt”
Hôm nay chúng ta họp nhau tại ngôi nhà chung thân yêu của Giáo xứ chúng ta, ngôi nhà mà AnTáng 94
Hôm nay chúng ta họp nhau tại ngôi nhà chung thân yêu của Giáo xứ chúng ta, ngôi nhà mà chắc hẳn là trước đây ( Ông, anh,...) cũng đã góp công sức của mình vào việc xây dựng, bảo trì ngôi nhà chung này, để tiễn đưa ( Ông, anh ) ra đi về với Chúa. Nói đến ra đi là nói đến chia ly. Mà đã chia ly thì không có một cuộc chí ly nào mà lại không có nước mắt. Tiễn chân một người lên đường để đoàn tụ với gia đình ở nước ngoài mà còn giọt vắn giọt dài, thì huống chi là tiễn đưa một người ra đi vĩnh viễn, không bao giờ gặp lại nữa. Nhưng đối với chúng ta, những người có niềm tin, thì qua đau thương gây nên bởi sự mất mát người thân thương, chúng ta vẫn còn tìm được ở ngay trong nỗi đau thương đó, một niền an ủi, một sự bình an, bởi chúng ta tin rằng, chết chính là lúc chúng ta được sinh lại vào trong cõi trường sinh. Giờ này, chúng ta cùng nhau dâng thánh lễ cầu cho ( TT ), Xin cho cuộc ra đi này của ( Ông, anh...) mau đạt tới đích. Chúng ta cũng đừng quên cầu xin ơn an ủi và nâng đỡ cho những người thân thương của ( TT), đặc biệt là cho (cha mẹ,vợ con ) của (TT).Xin cho những người này có thể nhận ra được ý nhiệm mầu đầy yêu thương của Chúa qua việc ra đi của (TT) Với ý hướng đó, chúng ta cùng nhau bắt đầu Thánh lễ hôm nay với việc bầy tỏ lòng thống hối về những lỗi lầm và thiếu sót của chúng ta.
Vào những dịp giỗ chạp, ngày lễ cầu cho các Linh hồn đã qua đời, dịp đầu Năm mới hay dịp AnTáng 95
Vào những dịp giỗ chạp, ngày lễ cầu cho các Linh hồn đã qua đời, dịp đầu Năm mới hay dịp nào về thăm quê nhà... chúng ta thường dành thời giờ ra nghĩa trang thăm viếng phần mộ người thân nằm nơi đó. Nghĩa cử này nói lên sâu đậm tâm tình lòng trung thành và biết ơn của người còn sống với người đã qua đời. Ðến thăm viếng nơi đó, lẽ dĩ nhiên, ta chỉ có thể tâm tình một mình với người nằm chôn sâu kín trong lòng đất. Người đã qúa cố không biết có nghe được ta nói gì không? Ta thì không nghe thấy họ nói gì với ta. Dẫu thế, ta tin là mối dây liên lạc thần giao cách cảm linh thiêng nối kết hai thế giới người chết và người còn sống lại với nhau. Và tấm bia đá đặt dựng trên nấm mộ của họ nói cho ta một vài tâm tình, như nói thay cho người nằm dưới đó "Tôi là một tảng đá nặng nề vô hồn được đặt dựng trên nấm mồ của người nằm dưới đây. Tôi không phải là người canh mồ, cũng không phải là vật chắn lối cản trở người khác đến gần nấm mồ đâu. Người đã qúa cố bây giờ nằm chôn sâu kín trong lòng đất, vâng xương thịt đã tan rã thành bụi đất. Nhưng họ không biến mất hẳn khỏi sân khấu cuộc đời đâu. Tên tuổi, ngày chào đời, ngày sau cùng đời sống và quê quán của họ, và có khi cả hình chụp khi xưa nữa, được đục khắc ghi vào bia đá đây. Dù trải qua năm tháng nắng mưa ở giữa trời, nhưng còn vẫn rõ nét, vẫn đọc được. Bia đá ghi giữ lại căn cước của người qúa. Cây Thánh gía dấu hiệu lòng tin của người qúa cố cũng được đục khắc ghi sâu đậm nét vào bia đá. Cây Thánh gía không phải là dấu hiệu của sự chết. Nhưng là dấu chỉ lòng tin ơn cứu độ, mà Chúa Giêsu đã đem lại cho con người. Cây thánh gía là biểu hiệu của sự sống. Chúa Giêsu đã chết trên thập gía và đã sống lại. Ngài đã biến đổi cây thánh gía thành cây mang lại sự sống ơn cứu độ. Chắc chắn, trong đời sống ai cũng phải trải qua nhiều giai đoạn lên xuống, đau khổ, hy sinh, thất vọng, bệnh tật đau đớn... Ðó là những giăng ngang lối cuộc đời. Cây Thánh gía khắc ghi trên phần mộ nói lên: cuộc đời người qúa cố nằm nơi đây không thiếu những bước giăng ngang lối cuộc đời như bao người khác! Chiều dọc thẳng đứng của cây Thánh gía diễn tả sự liên đới giữa Thiên Chúa với người đã qua đời. Và chiều ngang cây Thánh gía nói lên sự tương quan giữa người qúa cố với người còn đang sống trên trần gian. Trong đời sống ai cũng phải trải qua nhiều chặng đường thông thường cũng như bất thường. Vì thế: Xin đừng buồn sầu thất vọng về đời sống, dù khi gặp phải cảnh phức tạp khó khăn. Nhưng hãy vững niềm tin: Thiên Chúa là nguồn hy vọng sẽ vực dậy cho sống lại. Xin đừng nói mình bị lôi cuốn vào vòng đau khổ bệnh tật. Nhưng hãy vững niềm tin: Thiên Chúa cảm hóa chúc lành cho cuộc đời. Xin đừng nghĩ rằng bị đẩy xa khinh chê cô đơn trong đời sống. Nhưng hãy vững niềm tin: Thiên Chúa không bỏ rơi ai. Người hằng hướng dẫn đời sống, như người mẹ cầm tay dẫn con mình đi. Xin đừng cho rằng một mình phải vượt qua những cay đắng trên đường đời. Nhưng hãy vững niềm tin: Thiên Chúa hằng đồng hành giúp đỡ. Xin đừng định kiến rằng mọi sự chấm dứt với cái chết. Chết là hết! Nhưng hãy vững niềm tin: Không, chết không phải hết, nhưng là khởi đầu một đời sống mới. Chính Chúa Giêsu đã trải qua sự chết trước khi sống lại. Ngài là chúc phúc lành cho niềm hy vọng của con người.“
Pt GB Nguyễn Văn Định Cảm nghiệm Sống # 45 (Mt 25: 41-46)
Cuộc đời trên trần gian chẳng qua chỉ là một cuộc tổng dượt trước cuộc diễn xuất thật. Bạn và AnTáng 96
Cuộc đời trên trần gian chẳng qua chỉ là một cuộc tổng dượt trước cuộc diễn xuất thật. Bạn và tôi sẽ có thời gian dài hơn nhiều sau khi bước qua phía bên kia của sự chết: CÕI / CHỐN ĐỜI ĐỜI. Đời sống này chỉ là chuẩn bị cho đời sau, nhiều nhất thì bạn sống được khỏang một trăm năm; nhưng trong cõi đời đời thì bạn và tôi sẽ sống mãi mãi. Vi thế ông Abraham Lincincoln nói: Thượng Đế tạo nên con người không chỉ sống có một ngày! Không, không, con người được tạo dựng để cho cõi bất diệt. Một ngày kia tim bạn sẽ ngưng đập, đó là dấu chấm dứt cho thể xác cũng như thời gian trên trần gian; nhưng chưa phải là chấm hết cho bạn. Thân thể chỉ là nơi tạm trú của tâm linh bạn. Kinh Thánh gọi thân thể là: Nhà Tạm/ Cái Lều, còn thân thể tương lai bạn trên Thiên đàng là “Nhà Đời Đời.” Kinh Thánh nói: “Quả thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất này bị thiêu huỷ đi, thì chúng ta có một căn nhà vĩnh cửu trên trời do Thiên Chúa dựng nên, chứ không phải do tay người phàm làm ra.” (2 Cor 5, 1) Cuộc đời trần gian cho tôi nhiều lựa chọn; nhưng chốn đời đời chỉ có hai lựa chọn: Thiên đàng hay Địa ngục. Mối tương giao giữa tôi với Chúa trên trần gian sẽ quyết định mối tương giao giữa tôi với Ngài trong cõi đời đời. Nếu tôi yêu thương tha nhân thì tôi sẽ được mời đến sống trong cõi đời đời bằng không sẽ vào lửa đời đời. Khi sống trong ánh sáng của cõi đời đời, bạn sẽ thay đổi cách sống như: dùng tiền bạc và thời gian một cách khôn ngoan hơn, ít ham mê các thú vui thời trang, xếp đặt lại công việc cho tốt hơn. Thánh Phaolô nói: “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi.” (Phil 3,7) Nhưng sự chết không phải là kết thúc của tôi, mà là chuyển tiếp sang chốn đời đời, nó sẽ phải trả lẽ về những việc lành dữ tôi đã làm, nó sẽ đánh vào một sợi dây đàn nào đó rung lên trong cõi đời đời. Ngày hôm nay chỉ là phần nổi của tảng băng trên biển, cõi đời đời là toàn bộ phận còn lại, tôi không thấy được dưới mặt tảng băng. Sống trong cõi đời đời như thế nào, bạn không thể nắm bắt hết sự kỳ diệu và vĩ đại của Thiên đàng. Ngôn ngữ con người cũng không thể nào truyền đạt hết về chốn đời đời. Kinh Thánh viết: Điều mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người.”(1Cor2,9 Tuy nhiên, Thiên Chúa đã cho bạn nhìn thoáng qua về chốn đời đời trong Lời của Ngài đang chuẩn bị một căn nhà đời đời cho bạn. Một ngày nào đó Chúa Giêsu sẽ phán: “Hỡi các người được Cha Ta ban phúc, hãy đến thừa hưởng Nước Thiên đàng đã dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lâp địa.” (Mt 25,34) Thời gian tốt nhất để mọi người suy niệm vể cõi đời đời, đó là trong các đám tang. Bạn không nên coi thường mà không chịu chuẩn bị gì cả, vì sự chết sẽ xảy đến bất ngờ, bạn chớ nên thờ ơ! Cũng như chín tháng bạn ở trong bụng mẹ, tự nó không đầy đủ ý nghĩa, mà nó còn chuẩn bị cho đời sống lớn lên ở ngoài. Cũng vậy, cuộc đời này là sự chuẩn bị cho đời sau. Nếu bạn liên kết với Chúa hàng ngày thì không sợ chết, vì nó là cửa dẫn vào cõi đời đời. Giờ phút cuối cùng của bạn sẽ đến; nhưng nó không phải là kết thúc cuối cùng của bạn: nó là NGÀY SINH NHẬT CỦA BẠN để đi vào CÕI ĐỜI ĐỜI. Vì Hội Thánh gọi đời trần gian là THỜI THAI NGHÉN, là đoàn người vô số kẻ trước người sau được sinh ra trong, với và cùng Đức Kitô. Sách Khải Huyền viết: “Bây giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ, đất cũ đã biến đi…không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa.” (Kh 21, 1- 4) Thánh Phaolô nói: “Trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững; nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai.” (Do thái 13,14) hay nói rõ hơn: Thế giới này không phải là quê hương của chúng ta. Chúng ta chờ đợi một quê hương vĩnh cửu ở trên Trời. Khi so với cõi đời đời, thời gian của tôi trên mặt đất này chỉ là một nháy mắt; nhưng hậu qủa của nó thì tồn tại đời đời. Những việc làm của tôi ở đời này là số phận của đời sau: “Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Kitô, đễ mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt xấu đã làm khi còn ở trong thân xác. (2 Cor 5,10) ( xét xử trong giờ chết mỗi người.) Như vậy, bạn và tôi hãy sống tốt mỗi ngày như ngày cuối cùng của đời mình, như thế mới là người khôn ngoan. Hoặc nhiệm vụ của chúng ta phải CHUẨN BỊ mỗi ngày là NGÀY CUỐI CÙNG.
Trong Thư gửi cho các tín hữu ở Roma, thánh Phaolô đã viết: "Nếu Thần Khí ở trong anh em AnTáng 97
Trong Thư gửi cho các tín hữu ở Roma, thánh Phaolô đã viết: "Nếu Thần Khí ở trong anh em, Thần Khí của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác hay chết của anh em có được sự sống mới !" (8,11). Ðó cũng chính là sự xác tín của chúng ta. Vâng, Ðức Giêsu Kitô sẽ cho tất cả những người quá cố của chúng ta được sống lại để sống một cuộc sống mới. Trong cuốn Nhật Ký của ông, Eugène Ionesco (1912-1994), một nhà soạn kịch thời danh người Pháp gốc Rumani, đã viết: "Người ta chết vì đói. Người ta chết vì khát. người ta chết vì buồn chán. Người ta chết vì cười. Người ta chết vì lạc thú. Người ta chết vì sợ hãi. Người ta chết dĩ nhiên trong chiến tranh. Người ta chết vì bệnh tật. Người ta chết vì già nua tuổi tác. Người ta chết hằng ngày. Chúng ta sống để mà chết. Sự chết là mục đích của sự hiện hữu. Người ta sẽ cho đó là một chân lý bình thường. Nhưng thỉnh thoảng một điều tầm thường khuất biến sau một kiểu nói quen thuộc, và chân lý sẽ xuất hiện, lại xuất hiện hoàn toàn mới mẻ. Ðối với tôi, mỗi khi tôi trải qua một giây phút nào đó, tôi lại tự nói với mình rằng sự hiện hữu chỉ có một mục đích duy nhất: Sự chết ! Người ta không thể làm được gì để chống lại điều đó. Người ta không làm được gì cả. Người ta không thể làm được gì để chống lại điều đó !" (E. Ionesco, Tagebuch). Ðúng vậy ! Tất cả mọi người sẽ chết. Tất cả chúng ta sẽ chết. Danh sách những người sẽ chết trong năm nay đã được ấn định. Chúng ta không biết tên tuổi và nhân thân của những người đó, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng mỗi người trong chúng ta có thể có tên trong danh sách đó, vì chỉ trong chốc lát khi rơi vào tình trạng hôn mê, thì một người ít nhất cũng đã cảm nhận được ý nghĩa của câu hỏi "Chết là gì ?" Tuy nhiên, không một ai trong số những người đã bước vào cõi chết lại có thể trở lại nói cho những người còn sống biết được cái chết của mình thực sự là gì ! Những người chết hoàn toàn câm nín, không hề hé môi, còn những người đang sống lại khắc khoải trước vấn nạn sự chết ! Trong sự yên lặng tịch mịch đó, chúng ta giống như những người lữ hành cô đơn lẻ loi và tiếng kêu gào của chúng ta chỉ nhận được tiếng vọng trở lại của chính nó, chứ không phải câu trả lời. Vâng, không ai có thể san sẻ cho kẻ khác kinh nghiệm về cái chết của mình được, mỗi người trong chúng ta phải tự cảm nghiệm lấy một cách hoàn toàn cá nhân riêng tư. Là con người, không một ai trong chúng ta lại thích chấp nhận một sự thật của cuộc sống: Sự chết là người đồng hành trung tín nhất của chúng ta ! Trái lại, chúng ta thường tìm cách tránh né và chạy trốn trước thực tại đó. Chúng ta luôn đẩy lui cái thực tại chắc chắn nhất đó ra xa khỏi tư duy và cuộc sống chúng ta và làm như thể nó chỉ xảy đến cho những người khác mà thôi, còn chính chúng ta vẫn miễn trừ ! Trong thời đại sống xô bồ và sống giành giật, chạy đua với thời gian ngày nay của chúng ta, chỉ có những yếu tố cụ thể trước mắt mới có sức thu hút mãnh liệt. Tất cả mọi giá trị đều đặt cơ sở trên các tiêu chuẩn: Trẻ, đẹp, sự hưởng thụ, sự tiến bộ và một cuộc sống luôn luôn nhanh gọn và cuồng nhiệt. Còn sự chết và các hậu quả của nó hoàn toàn bị gác bỏ "ngoài cửa". Người ta thường tránh né các dịp nhắc nhở họ phải nghĩ đến sự chết. Chẳng những thế, có nhiều người còn tìm cách không muốn nhắc đến Thiên Chúa, Giáo Hội và đời sống đức tin, hầu cho lương tâm họ bớt cắn rứt và vì họ không còn muốn biết và nghe nói đến sự chết, đến những sự thật của cuộc sống. Nhưng tất cả những thái độ tránh né và chạy trốn đó chỉ là sự tự lừa dối chính mình. Bởi vì sự thật vẫn còn đó: Chúng ta sống là để chết ! Lời nói đó của E. Ionesco, rất có thể là dịp giúp chúng suy gẫm, ít là trong ngày lễ Các Ðẳng Linh Hồn và trong tháng mười một này. Chắc chắn rằng trong các thế hệ trước, "các sự sau" thường hay được phóng đại với đủ thứ đe dọa và bằng những hình ảnh rùng rợn và khủng khiếp về hỏa ngục, về những tên quỉ mặt mũi đen đúa hung dữ, các thứ rắn rết, những ngọn lửa bốc cao, v.v… ! Trái lại, ngày nay người ta lại rơi vào một thái cực khác, người ta lại quan niệm ngược lại như vừa nói trên. Tuy nhiên, theo tâm lý tự nhiên, chúng ta phải thành thật nhận rằng chúng ta không bao giờ thích đối mặt với thực tại của sự chết cả, và qua đó không thể chấp nhận được rằng chết là hết; và tiếp đến: Sống là để chết ! Nhưng chúng ta có thể tìm ở đâu ra được một cái chi khả dĩ thay thế sự chết được ? Ðiều khả dĩ đó chỉ có thể tìm thấy duy nhất nơi Ðức Kitô, Ðấng đã chết và đã phục sinh khải hoàn. Ðó cũng là điều thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu xưa trong Thư Roma, chương tám: "Ðấng đã làm cho Ðức Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ làm cho thân xác hay chết của anh em có được sự sống mới !" Ðó chính là Alfa và Ômêga, là tâm điểm của đức tin Kitô giáo của chúng ta: Ðức Kitô sống hay vẫn bị giam cầm trong sự chết ? Nhưng nếu giờ đây Ðức Kitô đang sống, chứ không còn bị giam cầm trong cõi chết nữa, vì Người đã sống lại từ trong cõi chết. Ðàng khác, Ðức Kitô không phải là một cá nhân tư riêng nào đó. Người là đầu của một thế giới mới, là người sống lại đầu tiên trong các kẻ đã chết, là Thủ Lãnh và Ðấng kiện toàn đức tin của chúng ta. Lời Người quả quyết: "Ai tin Ta thì sẽ sống, cả khi người đó đã chết rồi !" (Ga 11,24b). Và thánh Phaolô còn nói thay cho chúng ta. "Nếu Thần Khí của Người ở trong chúng ta", nghĩa là không phải là thần khí của sự tiến bộ kỹ thuật và của một cuộc sống sung túc đầy đủ hơn. Nhưng đó là Thần Khí của thế giới thuần tuý nội tâm, một Thần Khí không bao giờ chấp nhận bất cứ sự giới hạn và cản ngăn nào. Người muốn thổi đâu là tùy ý ! Thần Khí Ðức Kitô sẽ ở trong chúng ta, nếu chúng ta thành tâm tin nhận Người là đường, là sự thật và sự sống, và mỗi ngày lại nỗ lực bước theo Người; nếu chúng ta dành chỗ cho sự vĩnh cửu trong những sự chóng qua này; nếu Ðức Kitô thực sự là niềm hy vọng và sự bình an của chúng ta; nếu chúng ta biết vì Người mà yêu thương anh em mình và dấn thân cho họ ! Lễ Các Thánh và lễ Các Ðẳng Linh Hồn muốn thức tỉnh trong chúng ta thái độ sống nền tảng theo tinh thần Kitô giáo. Chúng ta có thể gọi thái độ đó là: Mong đợi sự vĩnh cửu ! Niềm hy vọng vào cuộc tái ngộ sau cùng trong nơi vĩnh cửu đồng hành với chúng ta trong khi chúng ta đi thăm viếng các mộ phần của những người quá cố của chúng ta; Niềm mong đợi vào sự vĩnh cửu tạo nên nhịp cầu nối kết các thiên niên kỷ, các đại dương và các lục địa lại với nhau, và không loại trừ bất cứ ai cùng mang trên mình khuôn mặt người, bởi vì Ðức Kitô đã chết cho tất cả mọi người và cũng đã sống lại cho mọi người trong một cuộc sống mới, mà Người sẽ ban cho mỗi người, khi Người trở lại trong ngày tận thế. Vậy, đúng như nhà văn hào người Pháp, Léon Bloy (1846-1917), đã viết: "chúng ta không phải sống để mà chết, nhưng là để chờ đợi được sống lại trong một cuộc sống mới và vĩnh cửu !" Amen
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào AnTáng 98
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào. Chắc chắn tôi phải chết. Ðó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi. Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Ðâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không? Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh. Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới. Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời. Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Ðã tới lúc vĩnh biệt. Ðã tới lúc ra đi. Ðã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Ðã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng. Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc. Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người. Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành. Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh. Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục. Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này: 1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời. Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó. Ðể đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Ðón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Ðiều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy. 2. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Ðấng sai mình. Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Ðức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không? 3. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Ðấng đã trao cho mình điều răn mới. Ðiều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34). Ðể hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan: "Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Ðức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa" (1 Ga 3,14-19). "Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Ðây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4,19-21) Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ. Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều. Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại. Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung. Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
Nhân tháng cầu cho những người đã qua đời +GM JB Bùi Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường AnTáng 99
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang. Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng. Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”. Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang. Có những nước mắt của tình yêu dạt dào. Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ. Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi. Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng. Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa. Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ. Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng: Khám phá ra những chân lý nhân sinh. Khám phá ra những hy vọng ứu độ. Khám phá ra chính mình. Khám phá ra chân lý. Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng. Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày. Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26). Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn. Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ. Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác. Khám phá ra hy vọng. Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ. Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13). Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào. Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ. Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ. Khám phá ra chính mình. Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi. Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời. Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương: Gọi hãy cảm thương. Gọi hãy chia sẻ. Gọi hãy trở về. Gọi hãy hiến dâng. Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ. Gọi hãy sám hối và tín thác. Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời. Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4). +GM JB Bùi Tuần
Suy tư về cái chết là suy tư về cái sống. Chết là một phần của sự sống bỡi lẽ trong sự sống đã AnTáng 100
Suy tư về cái chết là suy tư về cái sống. Chết là một phần của sự sống bỡi lẽ trong sự sống đã có sự chết. Nó là cánh cữa nối liền hai thế giới như cữa sông đưa giòng nước vào nguồn biển rộng mênh mông. Nó là người bạn trung thành nhất của chúng ta. Nó là người bạn duy nhất không bao giờ quên chúng ta và nó có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào, vào sáng sớm tinh sương hay vào lúc đã về xế chiều. Chúng ta không cần nói đến những cái chết đến với chúng ta từ những nguyên nhân bên ngoài như do tai nạn, sự mưu sát, hay một nguyên nhân nào khác không cần biết. Chỉ cần nói đến sự chết đang nằm sẵn trong bản tính con người chúng ta. Như một hoa trái đang chín dần, mỗi ngày sống là một bước đi chúng ta đang tiến dần về với cái chết đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Bên cạnh đó, trong cuộc sống hằng ngày cũng còn có rất nhiều những mất mát, những thua thiệt khiến chúng ta cũng đã chết đi phần nào trong con người chúng ta như mỗi khi chúng ta phải lựa chọn hay mỗi khi phải ra đi. Mỗi lúc lựa chọn là mỗi lúc phải quyết định từ bỏ. Từ bỏ khiến chúng ta phải mất đi một phần những cái thuộc về chúng ta và điều đó làm chúng ta đau khổ và chết đi không ít. Mỗi khi chúng ta phải lên đường ra đi vì công việc hay vì cuộc sống cũng vậy. Chúng ta phải dứt bỏ tình cảm quen thuộc, dứt bỏ sự quyến luyến tự nhiên mà một khi đã quen nhau chỉ muốn ở gần nhau. Sự ra đi lúc nầy quả thật là một sự thương đau và cũng là một sự chết đi trong lòng không ít cho người phải ra đi, vì không có ra đi nào không làm lòng mình tê tái, cũng không có ra đi nào không để lại nỗi nhớ thương. Nhưng chưa hết, không phải chỉ lúc chúng ta ra đi chúng ta mới cảm thấy đau thương mà cả sự ra đi của những người thân yêu chúng ta cũng để lại những cảm giác thương đau rất nhiều. Mỗi người chúng ta thảy đều có kinh nghiệm nầy: cứ mỗi lần có một người bạn thân hay một người trong gia đình chúng ta vĩnh viễn ra đi, chúng ta thấy gì trong con người chúng ta ? Chúng ta cảm thấy con người chúng ta cũng chết đi với họ, bằng chứng là chúng ta thấy mất hẳn sinh lực, mất hẳn tinh thần, cũng như mất hẳn niềm vui để sống. Cứ theo định luật tự nhiên, con người được sinh ra, lớn lên, già đi và chết. Đó là định luật chung của con người. Không ai có thể sống mãi mà không chết ngay dầu các vua chúa ngày xưa đã cố gắng đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng họ cũng không tránh khỏi định luật khắc nghiệt ấy. Vì thế, chối từ sự chết là lừa dối chính mình. Để sống cách trọn vẹn, người ta phải can đãm chấp nhận sự sống lẫn sự chết. Sự sống quá tự nhiên đến nỗi chúng ta không nghĩ đến ngày nó kết thúc. Thái độ của con người đối với sự chết luôn là một sự giằng co giữa sự lôi cuốn và sự khước từ. Mọi người đều nhận ra rằng sự sống là mỏng manh, là ngắn ngủi và nó có thể kết thúc bất cứ lúc nào. Chính những tư tưởng về sự chết đưa chúng ta đến vấn nạn nầy: Cái gì là chính yếu, là trường cửu đối với con người chúng ta ? Chúng ta cần phải làm gì để đối đầu với cái chết đang đến với chúng ta ? Vì thế, phản ảnh về sự chết là học cách chúng ta phải sống hôm nay. Người xưa đã sống đời sống như có một sự sống khác quan trọng hơn là cuộc sống ở đây và bây giờ, khiến họ sống cách xa cuộc sống hiện tại. Nhưng đối với giới trẻ hôm nay, họ không thể chấp nhận cuộc sống như thế. Thật vậy, nếu chối từ cuộc sống chúng ta đang sống hiện tại hoặc chỉ chú trọng đến cuộc sống hôm nay mà không nghĩ đến ngày mai chúng ta sẽ chết, cả hai đều không thực tế. Vì thế, một số các nhà tâm lý học có khuynh hướng KiTô giáo hiện đại đang có khuynh hướng nầy: Sống là chuẩn bị cho con người đi về với cái Chết. Chính tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều người thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng khi con người đối diện với cái chết, và nhờ đó cũng đã giúp nhiều người chuẩn bị sẵn sàng để lên đường ra đi cách an bình về với Thiên Chúa và về với những người thân yêu của họ bên kia thế giới. Cũng chính những tư tưởng nầy đã giúp rất nhiều nhà giàu sang phú quí thực thi đức bác ái, biết dùng của cải đời nầy để mua lấy nước trời bằng cách chia xẻ phần nào những của cải của họ cho những người nghèo khổ và nhờ thế nhiều người bất hạnh đã có được một đời sống tương đối xứng đáng với phẩm giá con người hơn. Nói đến đây, tôi nhớ đến câu chuyện về hành vi thiếu bác ái của một người bạn đồng nghiệp của tôi. Câu chuyện xem ra quá bình thường nhưng đã để lại một ký ức không mấy tốt đẹp cũng như đã để lại một sự hối hận suốt đời cho người bạn già của tôi. Hy vọng nó có thể giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm sống cho những ngày còn lại của chúng ta trên trần gian nầy. Trong chuyến du hành sang Hy Lạp, trên con đường từ Athens đến Kalambaka, người bạn già của tôi đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông như sau: Chiều hôm đó, khi đi ngang qua một làng nhỏ của người da đen trong sa mạc Sahara. Như thường lệ, khi có một người khách đến, mọi người trong làng chạy ra vây bao quanh xe khách hoặc tò mò, hoặc để giành lấy những thực phẩm mà du khách thường mang theo để tặng họ. Hôm đó, tôi có nhìn thấy một ông lão già đang run lập cập vì lạnh. Nói về cái lạnh trong sa mạc xem ra là khó tin nhưng thực tế là thế. Sahara thường được gọi là xứ lạnh vào đêm nhưng rất nóng dưới ánh quang mặt trời. Mặt trời lặn rồi, ông lão lạnh cóng. Bấy giờ, tôi có ý nghĩ cho ông ta một trong những chiếc mền của tôi, nhưng tôi lại để tư tưởng đó qua đi vì tôi nghĩ đêm đến tôi cũng sẽ cóng lạnh như vậy. Dầu tôi lý luận: ông có thể quen với thời tiết ở đây hơn tôi, nhưng một chút bác ái trong tôi cũng đã khiến tôi suy nghĩ lần nữa, tốt hơn là cho ông ta một chiếc dẫu tôi có lạnh hơn một chút. Tuy vậy, khi tôi rời bỏ ngôi làng, những chiếc mền vẫn còn nằm nguyên vẹn trên chiếc xe của tôi. Bấy giờ, lương tâm tôi bắt đầu cắn rứt. Khi đến nơi tôi có ý định đến, tôi rảo một vòng đi tìm một chỗ để yên nghỉ và tôi đã tìm được một nơi vừa ý thích. Tôi cố gắng nằm yên tựa chân lên một hòn đá lớn, nhưng rồi tôi vẫn không yên tâm được. Tôi nhớ cách đó một tháng, một người da đen đã bị nghiền nát bỡi một tảng đá to rơi xuống. Nên tôi đã ngồi dậy để xem tảng đá chỗ tôi đang nằm có bảo đảm không. Tôi thấy nó không được cân bằng cho lắm nhưng không đến nỗi nguy hiểm. Tôi lại nằm xuống. Nếu tôi kể lại điều mà tôi mơ thấy, có lẽ bạn sẽ cảm thấy lạ lùng. Điều đáng buồn cười là tôi mơ thấy tôi đang ngủ dưới một hòn đá lớn và rồi vào một lúc, tôi thấy hòn đá di động và rơi xuống trên tôi. Tôi nghe thấy tiếng xương kêu răng rắc và tôi cảm thấy mình sắp chết vì cả thân xác bị nghiền nát dưới tảng đá ấy. Nhưng tôi ngạc nhiên vì không cảm thấy mình đau đớn gì cả, chỉ có một điều là không thể cử động được. Bấy giờ tôi thấy ông lão đang run rẩy trước mặt tôi. Không do dự một chút nào cả, tôi vội vàng lấy ngay một chiếc mền không được dùng đến đang nằm đàng sau tôi để trao cho ông. Tôi cố gắng giang tay ra để đưa nó cho ông. Nhưng viên đá khổng lồ ấy khiến tôi ngay cả một cử động nhỏ cũng không thể làm được. Tôi sợ quá nên chợt tỉnh giấc. Chính cơn ác mộng ấy đã giúp tôi suy nghĩ và hiểu được luyện ngục là gì, cũng như đã hiểu được nỗi khổ đau của các linh hồn là không còn có thể làm được điều mà trước đây họ có thể và lẽ ra nên làm. Có ai biết được bao nhiêu năm trời sau đó tôi cứ phải bị ám ảnh và ray rứt trong lương tâm mỗi khi nhìn thấy chiếc mền như một bằng chứng cho sự ích kỷ của tôi cũng như cho sự chưa đủ trưởng thành của tôi để vào nước của Tình Yêu? Tôi cố gắng nghĩ đến bao lâu tôi đã phải ở dưới hòn đá khổng lồ ấy ? Và có sự đáp trả cho tôi rằng cho đến khi tôi có thể làm được một hành động của tình yêu trọn vẹn. Bấy giờ, tôi cảm thấy mình hoàn toàn bất lực. Tôi đưa mắt hướng nhìn đi nơi khác và tôi đã nhìn thấy những bia đá đang nằm trước mặt tôi không gì khác hơn là những nấm mồ của những người đã nằm xuống. Họ cũng vậy, cũng bị xét xử theo hành động trọn vẹn của tình yêu của họ, và giờ đây họ nằm ở đó đang mong chờ Vị Cứu Thế đến giải cứu họ trong ngày sau hết. Hành động trọn vẹn của tình yêu là gì ? Là Chúa Giêsu đi lên đỉnh đồi Calvê để chết cho hết thảy chúng ta. Như những phần tử của nhiệm thể, chúng ta cũng sẽ được hỏi để cho thấy chúng ta có đủ tình yêu trọn vẹn ấy để theo Ngài lên đỉnh đồi Calvê không ? Sự khước từ làm những việc bác ái cho những người anh em chúng ta nói lên cho chúng ta thấy rằng chúng ta còn có cả một con đường dài nữa phải đi. Nếu chúng ta đã có thể đi qua một người anh em đang run rẩy vì lạnh, một người anh em đang gặp hoạn nạn bên vệ đường, làm cách nào chúng ta có thể dám chết đi cho những người anh em khác như Chúa đã chết đi cho hết thảy chúng ta. Nếu chúng ta không muốn nằm lâu bất động dưới những viên đá khổng lồ đó thì bây giờ ngay khi còn sống, hãy làm những gì chúng ta có thể làm được cho những người anh em chúng ta để làm hành trang chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa gọi chúng ta lên đường về bên kia thế giới. ---------------
Hôm qua ngày lễ Các Thánh, Giáo hội vui mừng với những con cái của mình đã được hưởng vinh AnTáng 101
Hôm qua ngày lễ Các Thánh, Giáo hội vui mừng với những con cái của mình đã được hưởng vinh quang thiên quốc. Hôm nay trong tinh thần hiệp thông, Giáo hội tưởng niệm và cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời hiện đang còn thanh luyện trước khi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. 1. CÁC LINH HỒN CẦN ĐƯỢC THANH LUYỆN. Những tín hữu đã chết trong ơn nghĩa Chúa nhưng chưa sạch hết mọi tội và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời này thì không thể vào thẳng thiên đàng được, chưa xứng đáng hưởng nhan thánh Chúa nên họ phải chờ đợi thanh luyện xong mới vào thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Công đồng Floren đã định tín: có luyện ngục để thanh luyện các linh hồn. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội. Đặc biệt là việc dâng thánh lễ, dành tháng 11 cầu nguyện cho họ. Giáo hội còn mở kho tàng ân xá là công nghiệp của các Thánh để nhường cho các linh hồn nơi luyện tội. Giáo hội khuyến khích việc đi viếng các nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn theo câu tục ngữ: mồ thật chôn các người chết là trái tim người sống. Công đồng Vatican II đã xác tín lại tín điều Giáo hội cùng thông công giữa ba thành phần: lữ hành, thanh luyện và vinh thắng. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng:Trong số những môn đệ của Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được thanh luyện, và có những người đang được chiêm ngưỡng “rõ ràng Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có”…Sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghĩ trong bình an Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Nhưng trái lại, Giáo hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn được vững mạnh hơn nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Quả thực, nhờ kết hiệp mật với Chúa Kitô hơn, các người ở trên trời cũng cố toàn thể Giáo hội vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng mà hiện nay Giáo hội tại thế dâng lên Thiên Chúa được cao cả hơn, và họ góp phần phát triển Giáo hội rộng rãi hơn bằng nhiều cách (Lumen Gentium, chương 7, số 49). Trong số 50, Hiến Chế Lumen Gentium viết: nhận biết sự đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm Thể Chúa Giêsu Kitô, ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Giáo hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã chết vì “cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh tốt đẹp” ( 2 Mac 12,46). Việc lành thánh tốt đẹp ấy được nói đến trong Thánh kinh và giáo huấn của Giáo hội. A. Thánh kinh: Hai đoạn văn thường được nhắc đến là 2 Macabê12,39-46 và 1Côrintô 3,10-15. Một bản văn thuộc Cựu ước và một thuộc Tân ước. Sách Macabê II: sách được viết vào khoảng năm 124 trước công nguyên, đánh dấu nhiều bước tiến trong mạc khải cánh chung. Ở chuơng 7, chúng ta gặp thấy chứng tích về niềm tin vào sự sống lại dành cho các vị tử đạo. Chương 11, chúng ta lại thấy chứng tích về việc cầu nguyện cho người đã qua đời được thúc đẩy bởi niềm tin vào sự phục sinh. Thư thứ nhất Côrintô: bản văn nói đến sự thanh luyện. Đoạn văn đã được sử dụng để nói tới sự phân biệt ba hạng ngưởi sau khi chết: những người lành được lên thiên đàng, những người xấu phải xuống hoả ngục, hạng người thứ ba được cứu rỗi nhưng cũng cần được thanh luyện bằng lửa, tức là lửa thanh luyện. Trong bối cảnh tổng quát của mạc khải, có thể biện minh sự hiện hữu của việc thanh luyện tội lỗi sau khi chết với ba lý chứng sau đây: sự thanh sạch cần thiết để được đến gần Chúa ( x.Xh 29,4; Lêvi 11; Tv 24,3-4; Is 35,8.52,1; Mt 5,8.48; Kh 21,27); trách nhiệm cá nhân trong việc đền tội (x. 2Sm 12,13-15); và giá trị của sự cầu nguyện cho người qua đời (x. 2Macabê 12,40; 1Cor 15,29; 2 Tim 1,16-18). B. Giáo huấn giáo hội: Công đồng Vatican II bàn đến tình trạng thanh luyện sau khi chết ở chương VII của hiên chế Lumen Gentium. Số 49, Công đồng nhìn nhận rằng “có những tín hữu đã qua đời và đang được thanh luyện”. Số 50, đạo lý về sự thông hiệp giữa hết mọi phần tử Giáo hội được dựa trên thói tục bắt nguồn từ thưở ban đầu Kitô giáo về sự tưởng niệm người chết và cầu nguyện cho họ. Phần kết chương VII trình bày về đường hướng mục vụ, Công đồng tái khẳng định đạo lý cổ truyền của Giáo hội: “ Thánh Công Đồng kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động với các anh em được vinh hiển trên trời hay còn phải thanh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của thánh Công đồng Nicêa II, Firence, Trento ( số 51 a)” C. Sách giáo lý Giáo hội Công giáo Các số 1030 -1032 bàn đến sự thanh luyện. Có thể tóm lại trong các điểm sau: - Các linh hồn cần được thanh luyện để hoàn tất sự thánh thiện cần thiết để được vào thiên đàng (sô1030). Lưu ý là sự thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn là một ‘nơi chốn’, lại càng không thể nói “thời gian” bao lâu. Các linh hồn có thể được chúng ta giúp đỡ bằng lời càu nguyện (số 1032) Luyện ngục không phải là một hoả ngục ngắn hạn (số 1031), luyện ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục. Sách giáo lý có trích dẫn cụm từ ‘lửa thanh luyện” (x. 1Cor 3,15; 1Pr 1,7) nhưng không nói là phải hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng ( số 1032) 2. CÁC LINH HỒN ĐƯỢC THANH LUYỆN BẰNG CÁCH NÀO? Truyền thống Giáo hội nói rằng: các linh hồn được thanh tẩy bằng lửa, lửa tình yêu (x. Dc 8,7), lòng khát khao thấy Thiên Chúa. Sự đau khổ trong day dứt hối hận tột độ. Các linh hồn mong hưởng nhan thánh Chúa nhưng lại chưa được vì mình chưa trong sạch xứng đáng nên phải thanh luyện bằng sự hối hận đầy lòng mến. Thánh Tôma cho rằng nguyên sự nôn nao muốn về thiên đàng cũng đã đủ tạo nên cực hình rồi (x. IV Sent, d.21, q.1 de Purgatorio,a.3). Thực vậy, nếu các tội nhân hoả ngục đau đớn vì mãi mãi lìa xa Chúa, thì các linh hồn đang thanh luyện phải trải qua một thứ cực hình khác: họ mong mỏi mau đựoc về với Chúa. Sự náo nức vì chờ đợi kẻ thân yêu cũng đã đủ “thiêu đốt tâm can” rồi ! Dù sao, một khi họ biết được lý do vì sao họ chưa được vào thiên đàng, họ sẽ đau buồn vì trước kia họ chưa mến Chúa cho đủ, họ đã coi nhẹ việc thống hối đền tội. Do đó có thể hiểu rằng nổi thống khổ của các linh hồn thanh luyện tuy cực độ nhưng đượm màu hân hoan và tràn trể hy vọng. Đức Cha Tihaner quan niệm rằng:luyện ngục là một hoả ngục đầy hân hoan, là một thiên đàng đầy đau khổ. Chính linh hồn ý thức tình trạng bất xứng của mình trước sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì thế tự nguyện được thanh tẩy. Giống như khi ta vào nhà nào lát gạch men bóng loáng, thì tự nhiên để dép ở ngoài. Nếu chân ta dính nhiều bùn đất mà muốn vào phải rửa chân cho sạch. Chính linh hồn muốn trở nên thanh khiết hơn, trưởng thành hơn, trong sáng hơn để được hiệp nhất với Thiên Chúa nên đón nhận những đau khổ do việc thanh luyện như là một phương thế cần thiết. Bởi đó trong luyện ngục hạnh phúc đã bắt đầu chớm nở. Đây là một thứ đau đớn làm sung sướng hay một thứ hạnh phùc pha lẫn đau khổ. Nhìn dưới lăng kính tình yêu, các linh hồn đau đớn do hình phạt đền tội, do sự khắc khoải vì chưa được lên thiên đàng. Nhưng họ vui sướng bởi vì chính tình yêu Chúa đang thanh luyện họ, họ đang tập “yêu mến” cách trọn hảo hơn, cắt đứt những ràng buộc với thọ tạo. Họ cũng vui sướng vì họ đã được đảm bảo về phần rỗi, bởi vì họ chắc chắn rằng mình sống trong ân sủng và đức ái. Sự thanh luyện nói lên lòng lân tuất của Thiên Chúa: Ngài muốn chúng ta nên hoàn thiện, thanh sạch ngõ hầu xứng đáng chiêm ngắm nhan Ngài. Sự thanh luyện cũng nói lên tình yêu của Thiên Chúa: Ngài muốn cho chúng ta dành trọn cả mối tình cho Ngài chứ không quyến luyến với thọ tạo nào.
3. CẦN PHẢI CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN Sự thanh luyện thuộc về “cánh chung trung thời” bởi vì nó sẽ không tồn tại sau ngày tận thệ thế nữa. Luyện ngục chỉ là thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên Chúa mới là bến bờ. Đời sống vĩnh cửu mới là cùng đích, là phần thưởng Thiên Chúa hứa ban. Đạo lý về sự thanh luyện thúc giục chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Tập tục này đã có từ cuối thời Cựu ước và trong suốt lịch sử Giáo hội (x. GLCG số 1032; 958; 1371; 1689). Ngoài những hình thức cầu nguyện riêng tư, phụng vụ Giáo hội khuyến khích tục lệ này. Khởi đầu từ Thánh lễ, nơi đó Giáo hội hiệp thông với Các Thánh trên trời cũng như với các linh hồn còn đang chịu thanh luyện. Hằng năm, ngày 2 tháng 11 được dành để cầu nguyện cho tất cả các linh hồn đã qua đời tiếp sau lễ kính Các Thánh. Giáo hội còn dành cả tháng 11 nhớ đến các linh hồn và mời gọi con cái mình cầu nguyện, hy sinh hãm mình, làm việc bác ái như là nghĩa cử biểu lộ lòng yêu thương đối với họ cũng như tình hiệp thông trong nhiệm thể Chúa Kitô.
Bài huấn dụ của Ðức Gioan Phaolô II:
Suy tư về ngày các Linh Hồn ÐÔ Nguyễn Quang Sách VATICAN (Zenit.org) - Toàn văn bài huấn đức của Đức Gioan Phaolô II hôm Chúa Nhật 2/11, ngày lễ cầu cho các tín hừu đã qua đời, trước khi đọc kinh Truyền Tin với các người hành hương tập hợp trong Quảng trường Thánh Phêrô. * * * Anh chị em thân mến!
1. Sau khi cử hành lễ Chư Thánh hôm qua, ngày 2/11 chúng ta hướng tới cầu nguyện tới những người đã từ bỏ cõi đời này và đang hờ đợi bước vào thành thánh trên trời. Giáo hội luôn luôn khuyến khích cầu nguyện cho các người đã qua đời. Giáo hội mời các tín hữu nhìn xem mầu nhiệm sự chết không phải như lời nói cuối cùng của vận mạng con người, nhưng như sự đi tới cuộc sống đời đời. "Và khi nơi trú ngụ dưới trần gian lưu đầy bị tiêu hủy," chúng ta đọc trong linh Tiền tụng hôm nay, "chúng con được về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời." 2. Điều quan trọng và thích hợp là cầu nguyện cho những người đã qua đời bởi vì, mặc dầu họ chết trong ân sủng và tình bạn với Chúa, có lẽ họ còn cần một sự thanh luyện hơn để vào niềm vui trên trời (x. GLHTCG, No.1030). Sự cầu bàu cho họ được diễn tả qua nhiều cách khác nhau, trong số đó cũng có việc viếng nghĩa trang. Viếng những nơi thánh này là một dịp thuận tiện đê suy nghỉ vế ý nghĩa sự sống đời này và nuôi dưỡng, đồng thời, niềm hy vọng vào sự đời đời được chúc phúc trên Thiên đàng. Xin Đức Maria, Cửa Thiên đàng, giúp chúng ta không bao giờ quên hay mất thấy quê trời, mục đích cuối cùng của cuộc hành hương chúng ta dưới thế Sau khi đọc kinh Truyền tin, Đức Giáo hoàng chào những người hành hương như sau: Tôi chân tình chào những người hành hương đã đến đọc với chúng ta kinh Truyền tin, chúng ta dâng kinh này cầu cho những người đã qua đời, cách riêng nhất là cho những người bị quên lãng. Tôi chúc tất cả anh chị em hiện diện nơi đây một ngày Chúa Nhật an lành!
Tôi vừa đi bệnh viện thăm một người anh em Linh Mục, vốn là một bác sĩ lâu năm trong nghề. Ngài AnTáng 103
Tôi vừa đi bệnh viện thăm một người anh em Linh Mục, vốn là một bác sĩ lâu năm trong nghề. Ngài từng chăm sóc cho biết bao nhiêu người tại bệnh viện, nhưng lần này thì chính ngài lại được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Những chẩn đoán ban đầu của y khoa cho biết: ngài bị ung thư đại tràng và đã di căn vào gan. Đến bên giường bệnh, nhìn ngài nằm yên lặng mệt mỏi, nghe đâu mất máu nhiều lắm, đã phải truyền hơn 5 đơn vị máu rồi. Người anh em nói trong hơi thở nhẹ nhàng mong manh: “Phú thác cho Chúa thôi!” Người bác sĩ chữa trị, cũng là người con tinh thần của ngài, nói với chúng tôi qua hai con mắt đỏ hoe: “Trễ quá rồi!” Mới mấy hôm trước anh em chúng tôi còn gặp nhau, còn cười nói, còn trao đổi, còn suy tư với nhau nhiều điều trăn trở, hôm nay ngài nằm đó, người bác sĩ Linh Mục đã không chẩn đoán kịp bệnh trạng của chính mình. Anh em trong Nhà thở dài: “Dao sắc không gọt được chuôi!” Tôi trở về và dọn bài cho ngày mồng 2 tháng 11. Ngồi nghiền ngẫm với bài đọc thứ hai của giờ Kinh Sách, Thánh Ambrosio viết về cái chết nhân dịp ông Satiro (anh của ngài) qua đời: “Chớ gì mỗi ngày chúng ta tập làm quen và yêu mến sự chết, để nhờ sự tách biệt này, linh hồn chúng ta học cho biết đoạn tuyệt với các dục vọng thể xác, và một khi được đặt ở chốn cao siêu, nơi các ham muốn trần tục không thể tới cũng không khuyến dụ được nó, linh hồn đón nhận được hình ảnh của sự chết, để khỏi phải chịu hình phạt của sự chết.” (Bản dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ). Lời tuyên xưng đức tin và từ bỏ ma quỷ, từ bỏ những quyến rũ, từ bỏ những sự sang trọng của Thần Dữ ấy, chúng ta sang sảng công bố trong ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, và hằng năm trong đêm Vọng Phục Sinh ta vẫn long trọng lập lại lời tuyên bố ấy, nhưng có lẽ chưa bao giờ chúng ta mạnh mẽ đủ để thực hiện điều ấy, chúng ta luôn bị ràng buộc với những quyến rũ của thế gian, của dục vọng và đam mê. Quyền lực, tiền bạc, tình ái, hận thù, danh vọng, ...cứ mãi đeo bám ta như bóng với hình, đúng hơn như một thứ đỉa đói hút lấy máu Sự Sống của ta mà ta cứ ngỡ mình thong dong tự do ghê lắm! Tập làm quen với cái chết, yêu mến cái chết là phương kế mà Thánh Ambrosio đề nghị chúng ta thực hành để đạt được lời cam kết. Chúng ta thường ra nghĩa địa với tâm trạng của một người sống đi cầu nguyện cho người chết, của một người con ra thăm để báo hiếu cha mẹ, của một người bạn đến thăm để vẹn nghĩa bằng hữu... chúng ta thiếu mất một cơ may để chiêm nghiệm sự chết, để yêu mến sự chết, và vì thế cũng thiếu luôn một dứt khoát với những quyến rũ của thế gian. Cha Quang Uy biết được những ngày này tôi vẫn đang đắm mình trong mạch ý niệm suy về Sự Sống và Sự Chết nên đã tìm gửi cho tôi một bộc bạch tâm sự của nhạc sĩ thiên tài Mozart, người có tên gọi là “Amadeus”, nghĩa là “người được Thiên Chúa yêu thương”. Đây là một đoạn trích từ lá thư đề ngày 4.4.1786, Mozart gửi cho một người bạn, khi ông vừa nhận được tin thân phụ mình đang hấp hối: ”...Vì Sự Chết, xét cho thấu, là mục đích cuối cùng của cuộc sống, cho nên từ ít năm nay, tôi đã làm quen với Người Bạn thật tình và trọn hảo nhất ấy của loài người, cho đến nỗi, hình ảnh Sự Chết không những chẳng còn gì đáng khiếp sợ đối với tôi, ngược lại, đó lại là một niềm thanh thản rất an ủi cho tôi. Và tôi cảm ơn Thiên Chúa của tôi, Ngài đã cho tôi cái diễm phúc có được cơ hội để học biết và nhìn nhận Sự Chết như là chìa khóa mở cửa Hạnh Phúc cho chúng ta... Tôi không bao giờ đi ngủ mà không nghĩ đến có thể ngày mai đây, mặc dù tôi vẫn còn trẻ trung đấy, tôi cũng sẽ không còn sống nữa! Ấy vậy mà trong tất cả những ai quen biết tôi, chẳng có ai có thể bảo rằng tôi âu sầu hay buồn chán trong lúc trò chuyện... Mỗi ngày tôi đều cám ơn Đấng Tạo Hóa của tôi về niềm hạnh phúc ấy, và tôi cũng thành thật mong muốn cho anh em đồng loại của tôi có được diễm phúc này...” Ngày 31.10.2006, báo Phụ Nữ có đăng một bài phỏng vấn ông Đỗ Đức Cường, người sáng chế ra máy rút tiền ATM mà ngày nay chúng ta đang quen dần với nó trên mọi ngã đường của các đô thị. Phóng viên hỏi ông: “Thời gian làm việc tại Sài-gòn, ông có hay về quê ?” – “Tôi rất thích về quê, nơi đó làm cho tôi thanh thản. Cuối mỗi tuần tôi thường về quê của các nhân viên và mỗi hai tháng lại về Quảng Ngãi quê tôi. Tôi thích ngồi cạnh mộ mẹ tôi và thích nhìn ngắm ngôi mộ của tôi đã xây bên cạnh đó...” Phóng viên lại hỏi: “Ông bị bệnh tim, nhưng lại làm việc mỗi ngày từ 14 – 16 giờ. Phải chăng ông đang cố chạy đua với thời gian ?” – “Tôi luôn cảm thấy, nếu hôm nay mình không xong việc thì ngày mai không biết có còn cơ hội nữa không! Tôi đã chuẩn bị và biết rằng sẽ có một giấc ngủ mà tôi không thức dậy nữa. Cho nên những ngày sống một mình ở đây, tôi cũng tạo cho mình một thói quen mặc quần áo tử tế khi đi ngủ. (Bài phỏng vấn tiến sĩ Đỗ Đức Cường, “Với tôi, mẹ như một viên thuốc an thần!”, ký giả Minh Nhật, báo Phụ Nữ số 84 ra ngày 31.10.2006). Vâng, ngồi nhìn ngắm mộ của cha hoặc mẹ, ngồi nhìn ngắm mộ của... chính mình, lòng chúng ta được thanh thản và dễ dàng chuẩn bị cho một cuộc ra đi vĩnh viễn. Chúng ta đã ra nghĩa trang hàng trăm lần, đã bao giờ chúng ta ngồi nhìn ngắm ngôi mộ của người thân để chiêm nghiệm về cái chết và về một sự ra đi cho thanh thản lòng mình ? Nhạc sĩ Phạm Duy ôm đàn ghi-ta tự hỏi: “Một mai tôi sẽ chết, trên đường về cõi hết, tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây ?...” Lời Chúa vẫn cứ còn đấy, hãy tỉnh thức và sẵn sàng luôn!
Một lần nọ, trước ngày lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, cha sở thông báo: “Ngày mai là lễ AnTáng 104
Một lần nọ, trước ngày lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, cha sở thông báo: “Ngày mai là lễ các đẳng, chúng ta nhớ cầu nguyện cho các đẳng”. Thế rồi, công an xã mời cha đến xã làm việc một tuần lễ, với lý do là “Chúng ta chỉ có một đảng, sao linh mục kêu gọi cầu nguyện cho các đảng?” [1]! Lễ ngày 2 tháng 11 có nhiều cách gọi. Cuốn “Những ngày lễ Công Giáo” chính thức của giáo phận ghi là: “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”, người ta thường gọi là “Lễ các đẳng linh hồn”, hay vắn tắt hơn thì gọi là “Lễ các đẳng”.
1. Nguồn gốc Việc cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2Mcb 12,43-46). Giáo hội từ những thế kỷ đầu cũng đã có cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Thánh Augustinô, thế kỷ IV, đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc này. Thánh Ôđilô, Tu viện trưởng Dòng Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện cho những người đã qua đời vào ngày 2/11, ngay sau lễ Các Thánh. Sáng kiến này được Giáo Hội đưa vào lịch Phụng vụ Rôma. Công Đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Công Đồng Vaticanô II cũng dạy: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh..." (GH 50), về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng dạy: "Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa... các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha..." (GH 49). Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu phải đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời liên quan đến niềm tin về luyện ngục và các thánh thông công.
2. Thuật từ tiếng Latin Lễ này tiếng Latin là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, tiếng Anh gọi là “Commemoration of all the Faithful Departed”, có khi cũng gọi là All Souls’ Day (Lễ các linh hồn) hay Defuncts’ Day (Lễ các người đã qua đời). Uỷ Ban Phụng Tự dịch là “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” là đúng, nhưng bình dân vẫn gọi là “Lễ các đẳng”. Vậy chúng ta tìm hiểu từ vựng này
3. Nghĩa của các, đẳng 3.1. Các: Có chín chữ Hán, ở đây là chữ各, nghĩa là (đại từ). (1) Mỗi một: Các bất tương đồng (không ai giống ai). (tt). (2) Khác: Các biệt. (3) Tất cả, hết thảy: Các vị (quý vị). 3.2. Đẳng: có hai chữ Hán, ở đây là chữ等, nghĩa là (dt.) (1) Thứ bậc: Thượng đẳng (bực trên nhất); Trung đẳng (bực giữa); Hạ đẳng (bực dưới nhất, hạng bét). (2) Phức số: Ngã đẳng (Nhóm chúng tôi). (3) Bậc thang: Thổ giai tam đẳng (Cầu thang đất có ba bậc). (đt.) (4) Ðợi chờ: Đẳng đãi (Chờ đợi). (5) Bằng nhau, đều: Đại tiểu bất đẳng (Lớn nhỏ không đều). (6) Cân lường. (tt.) (7) Hạng: Nhĩ thị hà đẳng nhân (Anh là hạng người nào). (pht.) (8) Vân vân: Đẳng đẳng.
4. Nghĩa của từ “các đẳng" Các đẳng là tất cả thứ bậc. Thuật từ “Các đẳng linh hồn” để chỉ tất cả các linh hồn người quá cố trong luyện ngục [2] (thuộc thành phần Hội thánh đau khổ), phân biệt với “Các thánh nam nữ” là các phúc nhân trên thiên đàng (Hội Thánh vinh quang). [3] Có người cho rằng quan niệm về “linh hồn mồ côi” và “các đẳng linh hồn” v.v. chịu ảnh hưởng tư tưởng “cô hồn các đẳng” của ngoại giáo. Như Phật Giáo chia địa ngục ít nhất có 18 tầng và quỷ cũng có nhiều cấp bậc. Trong “Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh” [4] có rất nhiều thứ quỷ: quỷ đau đầu, quỷ mặc áo rách, quỷ ngủ bờ ngủ bụi, quỷ đói, quỷ nam căn [5] bị thối rửa… Hay trong xã hội loài người cũng chia làm nhiều giai cấp, tức là thứ bậc khác nhau trong xã hội: sĩ, nông, công, thương, binh... Trong tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn” [6] đề cập đến 10 hạng “cô hồn”: Thiền tăng, nho sĩ, đạo sĩ, thiên văn địa lý, lương y, quan liêu, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” [7] cũng nói đến 10 loại: Vua chúa, tể thần, đại tướng, kẻ ham giàu, kẻ ham danh, thương nhân, binh lính, quý nữ, kỹ nữ, bần nhân gặp nạn chết oan... Con số 10 chỉ là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn tồn tại trong “lục đạo” [8] mà thôi. Phải chăng, chính những hoàn cảnh này đã ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của chúng ta? Thực ra, trong xã hội trần gian bao giờ cũng có nhiều thứ bậc, đẳng cấp, giai tầng... Khi lìa trần, người ta không thể mang theo mình bất cứ của cải vật chất nào. Mọi thứ bậc, đẳng cấp, địa vị của con người ở trên đời không có ý nghĩa gì trước Tòa Phán Xét. Thiên Chúa xét xử con người theo “công trạng” [9] nó đã làm ra. Chúa không hỏi chúng ta là ai, thuộc giai cấp nào trên thế gian, nhưng Chúa sẽ hỏi chúng ta về “nén bạc” (ân sủng và tình yêu) mà Chúa giao phó đã được sinh lợi thế nào. Như Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Nên nhớ Người sẽ không khiển trách họ về hạnh kiểm, tội lỗi hay lời báng bổ; mà chỉ vì không ích lợi gì cho ai. Như kẻ đã chôn nén của bạc mình, đời sống y không có gì khiển trách, nhưng y không làm ích gì cho ai khác.” [10] Vì vậy, khi nói “các đẳng linh hồn”, chúng ta nghĩ tới tất cả các linh hồn của mọi hạng người trên đời này đã quá cố và đang còn phải thanh luyện trong luyện ngục. Họ có thể là ông bà, tổ tiên, thân nhân, bạn hữu của chúng ta hay là những người xa lạ. Khi còn ở đời này, có thể họ là người giàu sang quyền quý hay nghèo khó mọn hèn. Họ có thể là những Kitô hữu hữu danh hoặc “Kitô hữu vô danh”. [11] Tất cả họ đều là chi thể của Chúa Kitô, giờ đây đang thuộc về Giáo Hội đau khổ và cần đến lời cầu nguyện của chúng ta. “Các đẳng linh hồn” không có nghĩa là trong luyện ngục các linh hồn vẫn có sự phân chia đẳng cấp, điạ vị như khi còn ở thế gian hay trong Luyện Ngục có bao nhiêu đẳng cấp, thứ hạng linh hồn. Trong Luyện Ngục, tình trạng thanh luyện của họ có thể khác nhau, nhưng được “phân cấp” như thế nào thì chúng ta không biết. Khi nói “linh hồn mồ côi”, chúng ta nghĩ tới linh hồn của hạng người phải đơn độc trong cuộc lữ hành đức tin khi còn ở trên đời. “Đơn độc”, “cô quả”, “mồ côi”.... hiểu theo nghĩa đời thường là không có người thân thích, bạn bè, không có ai đồng hành để được quan tâm, nâng đỡ đời sống đức tin. Họ có thể là những tín hữu cô nhi, quả phụ hay kẻ cơ bần sống đời đơn chiếc. Họ cũng có thể là những tín hữu giàu sang, con đàn cháu đống, bạn hữu tứ phương mà thực ra những người quen biết xung quanh họ không ai có niềm tin Công Giáo như họ để xin lễ hay cầu nguyện cho họ. Và nay, những linh hồn đó đang ở trong Luyện Ngục, đang cần đến lời cầu nguyện từ Giáo Hội chiến đấu [12]. “Linh hồn mồ côi” không phải là linh hồn không được Chúa đoái trông chăm sóc, ít được Chúa yêu thương hay bị Ngài lãng quên. Điều đó hoàn toàn sai lầm. Mọi linh hồn đều được Thiên Chúa tạo dựng. Mọi người đều được Chúa yêu thương bằng một tình yêu riêng biệt, không ai giống ai, Ngàivẫn không ngừng gọi chúng ta bằng chính tên riêng của từng người: “Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62,2) và tình yêu đó luôn luôn đầy tràn: “Ơn của Ta đủ cho ngươi” (2Cr 12,9). Bản văn Công Giáo đầu tiên sử dụng từ “các đẳng” mà chúng tôi được biết là “Văn Tế Các Đẳng Linh Hồn” của cha Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874): “Nhớ các đẳng xưa: Tay Chúa dựng hình, tính thiêng gởi xác. Di luân tài mạng chịu thiên tư, lý dục thị phi đầy địa bộ...”. Cụm từ “các đẳng”, “các đẳng linh hồn” đã được sử dụng từ lâu trong Giáo hội tại Việt Nam để chỉ các tín hữu đã qua đời đang còn thanh luyện chờ ngày hưởng phúc thanh nhàn bất diệt. Lịch phụng vụ của Roma xưa nay ghi lễ ngày 02/11 là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”. Lịch phụng vụ ởViệt Nam thì dịch là: “Lễ Các Linh Hồn” [13], “Lễ Linh Hồn” [14], “Lễ Cầu Cho Mọi Tín Hữu Qua Đời” [15], sau này dịch là “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Thiết nghĩ cách dịch “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” thì sát nghĩa với nguyên bản, nhưng nên hiểu đó vẫn là nói tắt, vì đầy đủ phải là Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời Đang Còn Thanh Luyện (hay đang ở luyện ngục). Cách nói “Lễ các đẳng” cũng là cách nói tắt, mang âm hưởng văn hóa bản địa về “cả thảy vong linh” thuộc “thập loại chúng sinh” gồm cả “cô hồn các đẳng”! Phải chăng các tiền nhân của chúng ta đã hội nhập văn hóa trong khi tạo ra cụm từ này để phiên dịch? Trường hợp những ngày lễ Feria V in Cena Domini, Feria VI in Passione Domini, chúng ta dịch là Lễ Tiệc Ly (Thứ Năm Tuần Thánh), Lễ Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó của Chúa (Thứ Sáu Tuần Thánh), nhưng người bình dân vẫn quen gọi là “Lễ Rửa Chân”, “Lễ Hôn Chân”... vừa đơn giản, tượng hình lại dễ nhớ. Tất nhiên không đủ nghĩa, không nên sử dụng nữa.
Kết luận Giáo dân Việt Nam chúng ta có thói quen xin lễ cho các linh hồn tổ tiên nội hay ngoại, linh hồn thân nhân, linh hồn mồ côi, linh hồn ngoại đạo, thai nhi, linh hồn người chết vì tai nạn… và trong Thánh lễ hàng ngày, Hội Thánh luôn cầu nguyện cho mọi người đã qua đời. Đó là những thực hành rất tốt để tưởng nhớ người đã qua đời, thực thi bổn phận “hợp thông cùng các thánh”. Ngày “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, chính xác là ngày “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Còn “Lễ Các Đẳng” là cách nói vắn tắt, hiểu theo giáo lý Công Giáo như đã trình bày, thì không đúng cho lắm, những nếu đặt trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thì việc tiếp tục sử dụng nó cũng không có gì ngăn trở. _______________________________________________ Ghi chú: [1] Trong văn nói, một số người Nam bộ phát âm “các đẳng” thành “các đảng”, cũng như “cô hồn” thành “cu hồn”, nên “cúng cô hồn các đẳng” thì nói là: “cúng cu hồn các đảng”. [2] Lưu ý là luyện ngục không phải là một hoả ngục ngắn hạn, luyện ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục và sự thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn là một ‘nơi chốn’, lại càng không thể nói ‘thời gian’ bao lâu (x. GLCG số 1030-1032). [3] Thời xưa chưa có mục từ “tất cả”. Các danh từ chỉ tổng lượng thời xưa là: Cả, cả và, cả thảy, hết cả, hết thảy. [4] Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh, gồm 17 chuyện, theo truyền thuyết thì do An Thế Cao dịch, nhưng được ghi nhận là thất dịch, thuộc đời lưỡng Tấn. [5] Tức bộ phận sinh dục. [6] Còn gọi là “Phật kinh thập giới”, không rõ tác giả, viết dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1442-1497), là áng văn viết bằng chữ Nôm cổ theo thể biền ngẫu. [7] Tác phẩm của Nguyễn Du (1765-1820), được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn cầu siêu để giải thoát cho hàng triệu linh hồn. [8] Theo giáo lý Phật Giáo, con người chúng ta do lực của nghiệp và phiền não của chính bản thân mà cứ mãi luân hồi chuyển sinh trong 6 chủng loại thế giới sinh tồn đầy những khổ đau, gọi là lục đạo đó là: thiên, a-tu-la, nhân, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. [9] Xem BGCN, Số 07/2010, tr. 106. [10] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng XX sách Công Vụ tông đồ (Jean Comby, Để đọc lịch sử Giáo Hội, q.I, tr.115). [11] Có những người vì lý do nào đó mà không lãnh nhận bí tích Rửa Tội được, nên không trở thành Kitô hữu. Nhưng nếu họ sống theo những giá trị của Phúc Âm thì, nói theo từ ngữ của nhà thần học Karl Rahner, họ cũng là những “Kitô hữu vô danh” (Chrétien anonyme). [12] Công đồng Florence (1431) đã định tín: Có luyện ngục để thanh luyện các linh hồn. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội. [13] Niên Giám 1964, tr.11. [14] Địa phận Hà Nội, Sách Lễ, Nxb Hiện Tại, 1967. [15] Sách Lễ Giáo Dân, 1971, tr. xxix và tr. 1572. Cách dịch này rất dễ hiểu lầm là: Lễ cầu cho mọi tín hữu chết hết (!)
Tháng 11, nỗi bật lên tâm tình của toàn thể Giáo Hội nhớ đến bậc tổ tiên, những người đã khuất AnTáng 105
Tháng 11, nỗi bật lên tâm tình của toàn thể Giáo Hội nhớ đến bậc tổ tiên, những người đã khuất bóng trên cõi đời nầy, những vị đã về Nhà Cha... Ngày 01.11, Lễ trọng kính các Thánh Nam Nữ, các ngài đã được vinh hiển nhờ tình thương của Chúa nhân lành, các ngài được chia sẻ hạnh phúc sung mãn của Chúa. Giờ đây, trên trời, các ngài được chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa, đồng thời các ngài cũng đang cầu bầu và chờ đợi chúng ta. Các ngài là Giáo Hội khải hoàn, Giáo Hội vinh thắng sau cuộc chiến ở trần gian. Ngày 02.11. Lễ cầu cho các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện hình, toàn thể Giáo Hôị dâng thánh lễ, cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn đã qua đời, đó là tổ tiên ông bà cha mẹ, mà hôm nay chúng ta thương nhớ tưởng niệm, hiệp thông để cầu nguyện trong lòng tin, thể hiện niềm thảo kính ấy, "vì tưởng nhớ, cầu nguyện cho những người đã an nghỉ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc đạo đức và thánh thiện" (2Mcb 12,53-45) Công đồng Vatican II trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, viết: " Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại, và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết... đồng thời, còn cho con người có khả năng hiệp thông với những người anh chị em thân yêu đã chết trong Chúa Kitô và làm cho chúng ta hy vọng rằng những người ấy đã được sống thực trong Thiên Chúa." ( HC / GH số 18b). Về điều nầy thì chính Thánh Phaolô Tông đồ đã mang cho chúng ta sứ điệp của niềm hy vọng khi ngài viết cho tín hữu Thesalônica:"Vì nếu chúng ta tin rằng, Đức Kitô đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an nghĩ trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Kitô. Dựa vào lời Chúa, chúng tôi nói với anh chị em điều nầy là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước nhứng người đã an giấc ngàn thu đâu; vì khi lệnh ban ra, khi tiếng Tổng Lãnh Thiên Thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên, rồi đến chúng ta là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi." (1Thes. 4, 14-16). Như thế, việc tưởng nhớ người thân yêu đã qua đời cũng chuẩn bị cho chúng ta nhớ đến quê trời và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa: Đấng Hằng Sống và Đấng Ban Sự Sống cho chúng ta, dù chúng ta chết hay đang sống, vẫn luôn hiện diện trong Chúa và trước tôn nhan Người... Người là Chúa kẻ sống và cũng là Chúa của những người đã chết, nên chúng ta hãy sống xứng đáng với Người và sống tốt đẹp với nhau. Hôm nay, chúng ta đang đứng trước một huyền nhiệm rất sâu thẳm mà cũng rất hiện thực, sự sống và sự chết không có ranh giới. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra cho chúng ta bước vào cuộc sống mới, sự sống chân thật, sự sống vĩnh cữu... Cầu nguyện cho những ngưòi đã khuất là chúng ta đang làm trọn Đạo Hiếu, Đạo Yêu Thương mà các ngài đang khát khao mong đợi... để ngày sau, trên quê hương Nước Trời, chúng ta sẽ sum họp cùng các Thánh, gia tộc thiêng liêng, những người thân yêu, mà ca tụng lòng từ bi lân tuất Chúa không hề ngơi... Sự sống mà sau khi chúng ta từ biệt ngôi nhà thân xác bụi đất nầy, thì chỉ có nơi Thiên Chúa, Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu làm cho con người trở nên bất tử và vĩnh cữu cả đời nầy lẫn đời sau. Đời nầy, con người sống trong tình yêu: tha thứ, khoan dung, nhân hậu... thì đời sau, khi bước qua ngưỡng cửa sự chết, con người cũng sẽ ở trong tình yêu sung mãn, trong cung lòng của Đấng mệnh danh là Tình Yêu; nên cái chết cũng không phải làm cho con người quá sợ sệt, khiếp hãi, vì trong tình yêu thì không có sự sợ hãi. Con người đã sống trong tình yêu, tương quan mật thiết với chính Đấng Yêu Thương. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một Người cho trần gian, Đức Giêsu xuống thế làm người, chết và sống lại, để cứu và đem con người vào vương quốc Tình yêu của Thiên Chúa; nên sứ điệp mà chúng ta phải lắng nghe, đón nhận, đó là sứ điệp Tình Yêu. Chúng ta đang sắp đi vào tuần cuối của năm Phụng vụ năm B, và cũng là Tháng Các Linh Hồn, chúng ta sẽ nghe lại đoạn Tin Mừng về điều răn trọng nhất, là Mến Chúa Yêu người: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa...và yêu người thân cận như chính mình."(Mc 12, 28b-34). Thiên Chúa muốn chúng ta hiệp nhất với Ngài và với anh chị em trong cùng một tình yêu. Sứ điệp Tình Yêu là sợi giây xuyên suốt, hướng dẫn, đồng hành với chúng ta trên dương gian và theo ta về thế giới hằng sống. Vậy, để đáp lại ân sâu nghĩa nặng và lòng trân quý đối với bậc tiền bối, chúng ta hãy tham dự Thánh lễ, cầu nguyện, hy sinh, cũng như quyết tâm sống xứng đáng với những công đức và di sản các vị để lại, và hãy cùng nhau xây dựng đời sống thánh hảo, tài bồi sản nghiệp đức tin công giáo cho tình yêu gia tộc ngày thêm vững mạnh, thắm thiết, tình yêu tha nhân thêm mặn mà, để đem lại cho nhau niềm hy vọng tin yêu vào cuộc sống hơn. Có như vậy, nén hương chúng ta thắp lên trong Mùa Báo Hiếu, Mùa Tình Yêu Hiệp Thông nầy sẽ có ý nghĩa hơn bởi lòng thành kính đối với những Người Đã Ra Đi... Các linh hồn được thanh luyện để về Quê hương Vĩnh Hằng trước... các vị cầu nguyện và chờ đợi chúng ta trong niềm Hiệp thông, gắn bó Yêu Thương, củng cố cho chúng ta là Giáo Hội lữ hành, được kiên vững trong đức tin mà nổ lực sống thánh thiện, để rồi mai ngày, chúng ta sẽ gặp các đấng mà ca tụng lòng từ bi lân tuất Chúa muôn đời. Lời kinh Hiệp Thông trọn vẹn được đọc trong phụng vụ thánh lễ, kinh nguyện Thánh Thể III: Hội Thánh giao chiến ở trần gian cầu nguyện cho chính mình, cho thế giới và cầu nguyện cho Hội Thánh luyện hình, Nhờ - Với - Trong Hy Tế của Đức Giêsu: " Nguyện xin của lễ hoà giải nầy đem lại bình an và cứu độ cho tất cả thế giới. Xin ban cho Hội Thánh Chúa trên đường lữ thứ trần gian được vững mạnh trong đức tin, đức mến, cùng với Đức Thánh Cha, các Đức Giám Mục chúng con và giáo sĩ khắp nơi và tất cả Dân riêng Chúa... Lạy Cha nhân từ, xin thương đoàn tụ mọi con cái Cha đang tản mác khắp nơi, xin thương cho ông bà, cha mẹ, anh chị em chúng con đã qua đời, và tất cả những ai đã ly trần trong ơn nghĩa Chúa, được vào Nước Chúa, nơi chúng con hy vọng sẽ tới, để cùng nhau tận hưởng vinh quang Chúa muôn đời..." Lời kinh đẹp như một tình yêu tròn đầy, huyền nhiệm. Lời Tình Yêu Hiệp thông trong Đại Gia Đình Hội Thánh. Một tình yêu gắn kết sắt son không thể chia lìa, vì trong tình yêu Hiệp Thông ấy, Hội Thánh Khải Hoàn trên trời vui mừng, Hội Thánh Lữ Hành trần gian tin tưởng, lớn lên, Hội Thánh Luyện Hình hy vọng chờ đợi, trong Tình yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh, Sống lại và Vinh Thắng. Lạy Chúa, chúng con mong chờ Ngày Chúa trở lại! Amen - Allêluia.
Theo sách vở ghi lại, thì thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này thời AnTáng 106
Theo sách vở ghi lại, thì thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany. Ngài là người thánh đức, thường cầu nguyện, hi sinh , và dâng lễ cầu cho các linh hồn đã qua đời.
Truyện kể rằng: Một hôm, một đan sĩ Dòng ngài đi viếng Đất thánh Giêrusalem. Trên đường trở về Đan viện Cluny. Tàu chở đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn sĩ và được ẩn sĩ cho biết: "Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên Thiên đàng và là sự đau khổ cho quỉ dữ dưới Hỏa ngục". Sau khi nghe biết sự việc này, cha Odilo đã lập lễ Cầu hồn vào ngày 2 tháng 11 và trước hết cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói năm 1030). Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nuớc Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma. Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn, họ đi thăm viếng, sửa mồ mả cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn, họ hát những bài ca cổ truyền cổ động cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục. - Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là "Ngày người chết". Ngày đó, người ta có thói quen tụ họp các trẻ mồ côi tới gia đình họ rồi cho chúng ăn, cho quần áo, cho quà bánh, đồ chơi. - Tại miền quê nước Poland, người ta kể: nửa đêm lễ Cầu hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo xứ, để các linh hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu ơn giải thoát khỏi luyện ngục. Người ta nói là, sau đó trở lại thăm lại nhà mình, thăm nơi mình quen thuộc, làm việc mình đã làm khi còn sống. Và để đón tiếp những linh hồn này, người ta để cửa sổ mở suốt đêm mùng 2. ........... - Tại Việt nam, nhất là miền Bắc, trước Công đồng Vaticanô 2 (62-65) người ta thường sửa mồ mả cha ông vào dịp Tết Nguyên đán đầu năm Âm lịch, tính theo mặt trăng, còn lễ Cầu hồn, người ta đi viếng các nhà thờ chung quanh suốt ngày lễ Các Thánh để lãnh ân xá chỉ cho các linh hồn đã qua đời. Cảnh người lớn trẻ em tấp nập ra vào rất vui vẻ. Người ta dự lễ và xin lễ rất nhiều để cầu cho Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ sớm về hưởng phước Thiên đàng. -------------------------- *Thương nhớ người quá cố, nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình là chuyện tự nhiên của con người. *Ao ước cho người thân mình được "nghỉ yên muôn đời trong nơi mát mẻ hạnh phúc" cũng là tâm lí thông thường. *Do đó việc cầu cho người thân đã qua đời là việc cần thiết, vừa cho linh hồn người chết được cứu thoát khỏi Luyện ngục, vừa cho người sống được tỏ lòng hiếu thảo đền ơn. Những điều trên không những hợp lòng người, mà còn hợp giáo lí trong đạo. Giáo lí Công giáo do Đức Thánh cha Gioan Phaolo 2 ban hành năm 1992 có 3 số như sau: - Số 1030: Cần có Luyện ngục: "Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng. - Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: "Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580). Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), Truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện:"Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau" (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau" (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39). - Số 1032: Người sống cứu người chết: "Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: "Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình" (2 Mcb 12,46). Ngay từ những thời gian đầu, Giáo Hội đã tôn kính việc tưởng niệm các người đã qua đời, và dâng kinh lễ để cầu cho họ, nhất là dâng Thánh lễ( xem DS 856), để họ được thanh tẩy và tiến vào nơi chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Giáo Hội cũng khuyên làm việc bố thí, hưởng các ân xá và thi hành những việc đền tạ để giúp các người đã qua đời: Chúng ta hãy cứu giúp họ và hãy tưởng nhớ họ. Nếu các con ông Gióp đã được thanh tẩy nhờ lễ hy sinh của cha họ( xem G 1,5), tại sao chúng ta lại có thể hoài nghi rằng những của lễ của chúng ta dâng cầu cho người chết sẽ không mang lại ủi an cho họ? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã ra đi, và dâng những kinh nguyện cầu cho họ (Th. Gioan Kim khẩu, Hom. in 1 Cr 41,5). * Ngày 10 tháng 8 năm 1915, Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục. * Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai "viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13). -------------- Tháng cầu hồn ta lo cứu giúp, Các linh hồn luyện ngục chờ mong, Thoát ra khỏi ngọn lửa hồng, Vui về bên Chúa trả công cứu người. --------------------- Trong mầu nhiệm các thánh thông công, chúng ta cầu cho các linh hồn Luyện ngục, để khi về Thiên đàng, các Ngài sẽ cầu lại cho ta trước tòa Chúa.
Tại một số giáo phận miền Bắc, nhất là các Giáo phận do các Thừa sai dòng Đa-minh truyền giáo trước đây, nhiều tín hữu rất quen thuộc với kinh “ Phục Rĩ” cầu nguyện cho người đã qua đời. Có thể nói đây là một cố gắng tuyệt vời của ông cha ta để “hội nhập văn hóa” trong kinh nguyện. Với cung giọng ngân nga trầm bổng, lúc khoan lúc nhặt, lời kinh đưa chúng ta vào một bầu khí linh thiêng, siêu thoát. Với những âm vang nghiêm trang sâu lắng, lời kinh dẫn chúng ta về tham dự một lễ tế cổ xưa. Có người cho rằng kinh Phục Rĩ của người Công giáo đã được soạn thảo với sự cộng tác của một vị sư phật giáo trở lại Đạo[1], nhờ đó mà nội dung và cung giọng rất gần với những bài tế cô hồn. nghiadia Một bài văn tế thường gồm bốn phần: Lung khởi: mở đầu, thường bắt đầu bằng chữ Hỡi ôi, sau đó là lời than vãn Thích thực: mở đầu bằng chữ “Nhớ linh xưa” sau đó là phần tuyên xưng công trạng của người đã quá vãng Ai vãn: mở đầu bằng “khá thương thay” sau đó là niềm thương tiếc và cảm phục. Kết: nói lên tâm tình thương tiếc và rút bài học cho người còn sống. Kinh Phục Rĩ cũng được soạn thảo theo đúng dàn bài trên, nhưng điều tuyệt tác của cha ông chúng ta là làm cho lời kinh trở thành một lời tuyên xưng đức tin, tạo cho “bài tế” mang một nét rất mới mẻ. Người viết không dám đi sâu hơn vào lãnh vực văn chương mà chỉ mạo muội so sánh sự khác biệt giữa nội dung một bài tế và kinh Phục Rĩ trong hai phần mở đầu (Lung khởi) và nội dung chính (Thích thực). Trong phần mở đầu, nếu bài tế người qua đời mở đầu bằng lời than vãn trước sự ra đi của một người thân hoặc một nhân vật anh hùng, thì kinh Phục Rĩ lại mở đầu bằng lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng ngự trên chín tầng trời. Ngài là chủ của sự sống, là Chúa của muôn loài muôn vật. Chúng ta cùng so sánh lời mở đầu giữa hai bài tế của Cụ đồ Chiểu với kinh Phục Rĩ:
Hỡi ôi ! súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tơ phao: một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, năm 1861) Hoặc: Hỡi ôi ! Tủi phận biên manh Căm loài gian tặc Ngoài sáu tỉnh hãy gợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui Trong một phen sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt (Điếu lục tỉnh Nam Kỳ sĩ dân văn). Trước vong linh người đã chết, người tín hữu Công giáo lại mở đầu bằng lời kinh ca tụng và tôn thờ: “Phục rĩ: Chí tôn chân Chúa cửu trùng cao ngự chi thiên, Khả tiểu phàm phu, vạn vật hữu sinh chi địa”. Chiếu lâm bất sảng, phú tại vô tư Dịch: Lạy Chúa chí tôn Thiên Chúa cửu trùng cao ngự thiên cung Thẩm nhận đoàn con – phàm hèn giữa muôn tạo vật Chúa soi thấu cả, chẳng có đơn sai.[2] nghia-trang-nam1Phần “Lung khởi” của Kinh Phục Rĩ khá dài vì tiếp theo đó là lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha sáng tạo muôn loài, Chúa Con chịu khổ chịu nạn để cứu chuộc trần gian, Chúa Thánh Thần hiện xuống và ở cùng Giáo Hội... Như thế, nếu bài văn tế nhằm than vãn trước sự ra đi của người thân, thì kinh Phục Rĩ lại nhấn mạnh trước hết đến Thiên Chúa là nguồn mạch của sự sống. Ngài là Đấng Tối Cao trên cả vạn vật. Cũng trong chiều hướng đó, cách nói về một người đã nằm xuống cũng rất khác biệt. Trong Phần “Thích thực” là nội dung chính của bài tế, người ta kể lể công trạng của người đã chết, để tuyên dương ca ngợi những việc họ đã làm. Cụ Đồ Chiểu trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã ca ngợi những người nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, hiền lành là vậy, mà khi có giặc ngoại xâm đã bỗng chốc trở nên anh hùng. Chúng ta cùng so sánh: Nhớ linh xưa Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ... Ấy vậy mà khi quân xâm lăng đến, họ bỗng trở nên mạnh mẽ: Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. Khi tưởng niệm một người qua đời, kinh Phục Rĩ lại không nhấn mạnh đến công lao của người quá vãng. Quả vậy, đối với tín hữu Kitô, những gì chúng ta làm ở đời này chỉ là hư không: “Đối với anh em, khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng” (Lc 17,10). Con người chẳng có chi mà khoe khoang, vì trước nhan Chúa, họ chỉ là hư vô, “các quốc gia như thể giọt nước bám miệng thùng, khác nào hạt cát dính st-jeromebàn cân” (Is 40,15). Khi nhắm mắt xuôi tay vĩnh biệt cõi đời này, con người đến trình diện Đấng Tối Cao với hai bàn tay trắng. Họ chẳng mang được gì theo, trái lại, họ còn nhiều yếu đuối và tội lỗi cần được Chúa thanh tẩy. Ta hãy cùng đọc: Thiết niệm linh hồn (mỗ) Tự tòng sinh tiền, chí kim tự hậu Thụ Thiên Chúa cực đại chi ân. Lự thử hồn vô tình chi vật. Dịch: Nhớ lại linh hồn... Khi còn sinh thời đến khi lâm mệnh Chịu ơn Chúa thực đã bao nhiêu – thật quả hồn vô tình chi vậy. Hơn thế nữa, vào lúc một người đã chết, nhìn lại chặng đường đã qua, xem ra họ chẳng làm được gì đáng kể. Thời giờ Chúa ban hầu như đã trở nên vô dụng, như dòng nước trôi đi không trở lại. Kinh Phục Rĩ là lời cầu nguyện sám hối chân thành thống thiết: Bình sinh cư thế, bất thức bất vụ bất sự lực khuy Vãng nhật đa khiên, hoặc tư hoặc ngôn hoặc hành hữu mậu Hoặc bị linh hồn ký hãm minh ngộ, ái dục tam năng Đa vị biệt dung bất chuyên ức chuyên mộ chuyên tư; hoặc bị phục thân nhĩ mục khẩu tuỵ thủ túc tứ thể, vọng các tha kỳ, mãn tuyến kính tuyền tuân tuyền phụng” Dịch: bình sinh trên thế, chẳng biết, chẳng giữ, chẳng cứ việc ngay Lỗi phạm bao nhiêu, hoặc suy hoặc nghe hoặc làm sự tội Hoặc tại linh hồn mắc điều gian nịnh thiếu sự khôn ngoan, bao nhiêu trọng tội Chính không nhớ không mộ không suy; hoặc tại phần thân xác nặng chẳng tìm nẻo chính lối phải. Chẳng cứ tâm thành, chẳng vì kính vì vâng vì trọng. Cũng chính vì ý thức sự yếu hèn của mình mà lời kinh kêu nài ơn tha thứ nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, đồng thời nhờ lời cầu bầu của Đức Maria, các thiên thần, thánh Bổn mạng, thiên thần hộ thủ và toàn thể chư thánh cùng bầu cử trước tòa Chúa cho người đã qua đời được siêu thoát: Á thân Chúa Da-tô, thục tội thi ân chi đại nhân từ Thánh Mẫu vị kỳ xá quá cho đa. Dịch: Ôi lạy Chúa Giê-su, chuộc tội ban ơn khôn lượng, cậy nhờ Thánh mẫu, nguyện cầu khẩn Chúa thương tha. Trung thành với luật hành văn của một bài tế, kinh Phục Rĩ cũng có một lối kết mang tính “cẩn cáo”, nhưng nội dung lại là một lời cầu xin và mở ra niềm hy vọng. Ta hãy so sánh: Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sữi thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ. Hỡi ôi thương thay Có linh xin hưởng” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Kinh Phục Rĩ lại kết thúc như sau: Nguyện thử linh hồn, khiết thăng thiên quốc, Xuân đài tự tại, chân hưởng phúc chi vô cùng Thọ vực tiêu rao tín thường sinh chi hữu vinh Kinh văn sở đảo thỉnh chúng đồng âm. Amen Dịch: Nguyện cầu thanh tẩy linh hồn chóng lên thiên quốc Muôn đời cực lạc, an hưởng phúc vui vô cùng Nguyện được Cha ban phúc trường sinh nơi vĩnh viễn Trông mong khẩn khoản, hết thày đồng tâm. Amen. Như đã nói trên, nội dung của lời cầu nguyện đã được thay đổi. Tác giả đã khéo léo lồng vào một bài văn tế quan niệm nhân sinh của Tin Mừng. Tâm tình cậy trông, sám hối và hy vọng được nêu rõ trong lời kinh. Chính nhờ đó mà kinh Phục Rĩ vừa gần gũi với tầng lớp bình dân, vừa dễ đi vào lòng người vì nó mang theo cái hồn của văn chương Việt Nam, dễ hướng những người tham dự hướng về tiên tổ, với tâm tình cầu nguyện hoàn toàn mới mẻ. –––––––––––––––––––––––––––––––––– [1] Theo nhà thơ Lê Đình Bảng, tác giả của kinh Phục Rĩ có thể là một thày giảng có tên là Phan-xi-cô, xuất thân là một vị Hòa Thượng tiến sĩ, làm quan lớn trong phủ Chúa Trịnh, khoảng năm 1632. Có tài liệu cho rằng sau này Thày Phan-xi-cô đã chịu tử đạo năm 1640 (Xem Lê Đình Bảng trong http://dunglac.org/) [2] Phần dịch nghĩa Kinh Phục Rĩ trích từ bản dịch của Đức Ông Phạm Hân Quynh, Gp Hải Phòng. Vì chú trọng đến âm vận để đọc chung trong cộng đoàn, nên có nhiều chỗ dịch không hoàn toàn sát nghĩa bản chữ Hán.
Các linh hồn bị người đời quên lãng thì lại được cha Thánh Padre Pio chăm sóc kỹ lưỡng. Họ có một chỗ đứng quan trọng trong đời của cha Padre Pio. Hàng ngày, ngài luôn cầu nguyện và dâng Thánh lễ chỉ cho các linh hồn này. Trong một buổi nói chuyện với các tu sĩ về tầm quan trọng của các lời cầu nguyện, cha Padre Pio nói: “Rất nhiều các linh hồn người chết đang ở luyện ngục và họ thường leo lên núi này để dự thánh lễ mà tôi dâng và họ xin lời cầu nguyện của tôi. Số người chết này đến còn đông hơn là số người còn sống đến dự lễ.” Câu nói này của cha Padre Pio làm cho chúng tôi ngạc nhiên. Trong suốt 52 năm ngài sống ở vùng San Giovanni Rotondo, hàng triệu người đến viếng ngài. Vậy mà ngài nói rằng linh hồn người chết đến thăm ngài còn nhiều hơn người sống. Hiển nhiên, các linh hồn ngày hiểu rõ rằng trái tim ngài giống như một núi lửa rực cháy vì yêu thương những ai đau khổ. Cha Padre Pio viết như sau: “Khi tôi biết một người đang đau khổ trong linh hồn hay đang đau đớn trong thể xác, tôi phải làm mọi cách để xin Chúa giải thoát họ khỏi nỗi thống khổ ấy. Tôi muốn nhận chịu hết mọi sự đau khổ của họ để họ được cứu thoát. Và tôi muốn trao tặng họ những ơn ích của sự đau khổ, nếu Thiên Chúa cho phép tôi làm điều ấy!” Tình yêu tha nhân sâu đậm của cha Padre Pio đôi lúc ảnh hưởng đến sức khỏe của cha. Ngài mong ước họ được cứu thoát và được hạnh phúc trên hết mọi sự, đến nỗi ngài thừa nhận rằng: “Tôi vội vàng sống vì các anh chị em và sẵn sàng nhận chịu tất cả các nỗi thống khổ của họ, nên tôi đau khổ mà không than van.”
Trong lá thư thứ 615, ngài viết: “Tôi thường nói cùng ông Môsê để thưa lên Thiên Chúa, Đấng Thẩm Phán rằng: -Lạy Chúa, xin tha thứ mọi tội lỗi của họ hay xin Chúa loại trừ con ra khỏi sách Hằng Sống của Ngài! Thưa các bạn đọc, nếu chúng ta muốn theo gương cha Thánh Padre Pio, thì tôi xin phép lập lại lời của cha rằng: “Xin hãy làm những gì tôi đã làm. Hãy cầu nguyện và luôn cầu nguyện cho các linh hồn của người thân đã qua đời!” Để kết luận, tôi xin chúng ta hãy nhớ rằng, chúng ta có thể xây một cầu thang của Chúa cho các linh hồn đáng thương nơi luyện ngục, bằng những lời cầu nguyện và các hành vi bác ái để dâng lên Chúa nhằm cầu nguyện cho các ý chỉ của các linh hồn.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1910, cha Padre Pio đã viết cho cha linh hướng của ngài là LM Benedetto để AnTáng 109
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1910, cha Padre Pio đã viết cho cha linh hướng của ngài là LM Benedetto để giải thích về những sự đánh phá của ma qủy và ngài muốn được giải thoát khỏi sự thử thách ấy. Nhưng sau đó, cha Pio xin phép cha linh hướng để được trở nên một nạn nhân đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Cha viết như sau: “Thưa cha linh hướng, con xin phép cha để trình bày một việc. Đôi lúc, con cảm thấy có nhu cầu dâng hiến chính mình con lên Chúa như là một nạn nhân để đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Mong ước này lớn mạnh trong trái tim con, đến nỗi con phải gọi là một nỗi đam mê vô biên. Con đã dâng lên Chúa lời thỉnh nguyện này rất nhiều lần. Con cầu xin Chúa cho con gánh chịu mọi sự trừng phạt mà Chúa đã chuẩn bị dành cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Xin Chúa hãy trừng phạt con và cho con chịu đau khổ gấp trăm lần để cho các người tội lỗi được ơn hoán cải, và để cho các linh hồn được sớm lên Thiên Đàng. Nhưng con biết, con phải xin phép cha để trở nên của lễ hy sinh. Con cảm thấy Chúa Giêsu rất muốn con làm điều này. Con chắn chắn rằng cha sẽ không gặp khó khăn khi cho phép con.” Qua sự dâng hiến vô điều kiện để hứng chịu mọi sự trừng phạt gấp trăm lần, hầu mong các người tội lỗi được ơn hoán cải và các linh hồn được giải thoát khỏi luyện ngục, cha Padre Pio đã trao ban cho chúng ta một chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và đau khổ. Cha Benedetto đã cho phép cha Padre Pio làm việc ấy. Trong lá thư đề ngày 1 tháng 12 năm 1910, cha Benedetto viết: “Xin cha hãy dâng hiến những gì cha đã nói, và điều này sẽ được Chúa nhận lời. Xin cha hãy mở rộng đôi tay và thánh giá của cha. Bằng cách dâng hiến sự hy sinh, cha hiệp thông với Chúa Cứu Thế, cha hãy chịu đau khổ và cầu nguyện cho những kẻ ác nhân trên trần gian và cho các linh hồn tội nghiệp, là những người đáng cho chúng ta thương xót vì họ đang nhẫn nại chịu đau khổ mà không kể xiết được.” Nhân danh sự vâng lời, cha Pio đã trở nên một nạn nhân cho giáo hội chiến đấu và cho giáo hội đau khổ. Sự dâng hiến này có thể giải thích bằng các cơn bịnh bí mật, những thử thách, những cuộc chiến đấu với ma qủy. Nhân loại luôn cần sự tha thứ và giáo hội đau khổ luôn cần sự đền tội. Cha Padre Pio trở nên một nạn nhân, vác thánh giá và bị đóng đinh vào cây thánh giá vô hình như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh để cứu rỗi nhân loại, Chúa Giêsu đã xuống ngục tối để giải thoát những ai mong chờ sự cứu độ. Chúa Cứu Thế đã ban cho họ sự tự do và đưa họ lên Trời. Cha Padre Pio qủa là một linh hồn anh hùng và quảng đại. Ngài luôn nghĩ đến tha nhân, cầu bầu cho họ, dâng hiến chính mình ngài như là một nạn nhân cho người khác được ơn cứu độ, những người trong giáo hội chiến đấu và giáo hội đau khổ. Đau khổ và thương yêu là hai con đường mà cha Padre Pio đã dùng để bắt buộc bản thân mình chịu thống khổ. Cha nói: “Tôi cảm thấy mình ngụp lặn trong đại dương mênh mông của Đấng Hằng Yêu Thương. Tôi luôn sống trong tình yêu ấy.” Kề từ khi cha Padre Pio được phép trở nên một nạn nhân, và từ khi cha tình nguyện dâng hiến bản thân mình thì các linh hồn người chết hiện về với cha nhiều vô số kể. Qua lời kể của cha Padre Pio, chúng ta có thể thấy những cuộc hiện ra này xẩy ra rất nhiều lần, và điều này không làm cho cha Pio sợ hãi hay bực mình.
Theo giáo lý Công giáo, loài người phải chịu sự phán xét tùy theo cách thức họ sống khi ở AnTáng 110
Theo giáo lý Công giáo, loài người phải chịu sự phán xét tùy theo cách thức họ sống khi ở trần gian. Phần thưởng hay sự trừng phạt sẽ là Thiên Đàng, Luyện ngục hay Hỏa ngục. Chúng ta thử tìm hiểu tình trạng của những nơi này, dựa theo các mặc khải của các thánh. Thánh Frances thành Roma kể rằng Luyện ngục giống như môt phần của Hỏa ngục, và được chia ra nhiều phần. Thánh Tôma kể cho ta nghe rằng lửa của Luyện ngục cũng giống như lửa của Hỏa ngục, và Luyện ngục cũng là một phần của Hỏa ngục. Những nhận xét này giống như lời cha Thánh Padre Pio nói với Cleonice Morcaldi, một người con gái thiêng liêng của cha: “Con gái ơi, có một số điểm ở Luyện ngục giống như Hỏa ngục.” Tuy nhiên, công lý của Thiên Chúa có thể cho phép các linh hồn đền tội nơi mà họ đã phạm tội, như những câu chuyện về các linh hồn và về cha Pio mà sẽ được trình bày sau: Tùy theo công lý của Thiên Chúa, Ngài sẽ cho một số linh hồn đền tội ở những nơi đặc biệt theo Ý của Ngài, để có thể dạy người còn sống và để giúp cho các linh hồn đã qua đời. Nói về những nỗi thống khổ của Luyện ngục: sau khi Chúa đã kết án thì linh hồn phải đi về nơi nào đó, việc thanh tẩy đến với linh hồn ấy, và linh hồn biết rằng đau khổ là cách thức mau chóng nhất để sớm vào Thiên Đàng. Và nỗi thống khổ bắt đầu! Theo Thánh Tôma thì sự đau đớn của Luyện ngục không nặng nề như đau khổ nơi Hỏa ngục. Khi ở Hỏa ngục thì thời gian đau khổ vô tận. Các nhà thần bí cũng xác nhận như vậy. Thánh Catherine thành Genoa kể cho chúng ta nghe: “Các linh hồn ở trong tình trạng bị thanh tẩy thì đau đớn đến nỗi không lời nào có thể diễn tả nổi, không có một trí thông minh nào có thể hiểu được, trừ khi Chúa muốn cho họ hiểu, qua ơn sủng của Ngài. Có hai nỗi thống khổ ở Luyện ngục: đó là mong mỏi được gần Chúa và đau khổ cùng một lúc.” Giáo hội không tuyên bố về bản chất của sự đau khổ trong các nơi chốn đó, nhưng đời sống của các bậc thánh thiện kể lại nhiều câu chuyện và thị kiến rõ ràng hơn. Sau đây là câu chuyện của cuộc đời linh mục Stanislaus Chascoa, môt tu sĩ Dòng Đa Minh. Môt ngày kia, khi ngài đang cầu nguyện cho người chết, ngài nhìn thấy một linh hồn đang bị lửa bao bọc toàn thân. Ngài hỏi linh hồn ấy xem lửa có giống như lửa trên trần gian không. Linh hồn trả lời: “Than ôi, tất cả lửa trên trần gian mà so sánh với lửa Luyện ngục thì giống như làn gío nhẹ.” Cha Stanislaus hỏi làm sao diễn tả thì linh hồn xin cha hãy thò tay thử vào lửa ấy. Vị linh mục đặt tay ngài vào bụi tro rớt ra từ người tội nhân ấy, và ngay lập tức, ngài khóc lên và té xuống đất. Ngài rất hoảng sợ và kinh hãi. Các anh em tu sĩ vội vàng đến giúp ngài. Khi hoàn hồn, ngài kể lại câu chuyện kinh hoàng ấy cho mọi người nghe, và cha kết luận như sau: “Ôi! các anh em ơi, nếu mỗi chúng ta hiểu được sự nghiêm trọng của việc trừng phạt, chúng ta sẽ không dám phạm tội đâu. Hãy đền tội mình trong đời sống này, để khi chết khỏi bị đền tội, bởi vì những cơn thống khổ ấy khủng khiếp quá. Chúng ta hãy chống trả lại các tật xấu, hãy để ý và sửa sai những sự bất toàn của mình, bởi vì Thiên chúa, vị Thẩm phán công minh, ghi nhận tất cả mọi sự chúng ta làm. Chúa Thánh Thiện vô cùng nên Ngài không thể chịu được một lỗi nhỏ của những kẻ được tuyển chọn.” Thầy Modestino của thành Pietrelcina đã sống rất lâu với cha Thánh Padre Pio và luôn đi theo cha Thánh. Thầy kể lại câu chuyện sau: Năm 1945, tôi ở tại San Giovanni Rotondo để gíup đỡ cha Padre Pio. Tôi luôn muốn ghi nhận những lời nói khôn ngoan phát ra từ cửa miệng của cha Thánh và cất dấu trong tim tôi như một món quà thiêng liêng. Một buổi tối kia, cha Padre Pio đi ra phòng ca đoàn sau khi đã chúc lành buổi tối, tôi cùng đi với cha đến ngang hành lang dẫn tới phòng cha. Tự nhiên, tôi buột miệng hỏi cha: “Thưa cha, cha có thể nói về lửa ở Luyện ngục được không ạ?” Cha Padre Pio đáp: “Nếu Chúa cho phép một linh hồn đi từ lửa Luyện ngục để đến ngọn lửa nóng nhất trên trần gian, thì giống như đi từ nước nóng đến nước lạnh.” -Đó chính là những lời mà cha Padre Pio đã nói với tôi. Trong một trường hợp khác, bà Birulli của thành Cerignola hỏi cha Padre Pio rằng: “Thưa cha, xin cho con biết thêm về Luyện ngục.” Cha Pio đáp: “Con à, các linh hồn ở Luyện ngục muốn ném mình họ vào giếng lửa thế gian, bởi vì tình trạng ấy giống như một giếng nước lạnh.” Rất nhiều nguời trong chúng ta không biết sự đau đớn của Luyện ngục. Nếu ta suy gẫm về nơi này, ta sẽ tránh những lỗi lầm mà ta không để ý, chúng ta sẽ cầu nguyện nhiều hơn cho các linh hồn đáng thương trong cuộc sống hàng ngày của ta.
Đây là câu chuyện của một linh hồn hiện về từ Lửa Luyện Tội, xin cống hiến bạn đọc vì Lửa AnTáng 111
Đây là câu chuyện của một linh hồn hiện về từ Lửa Luyện Tội, xin cống hiến bạn đọc vì Lửa Luyện Tội có thật. Đức Mẹ khi hiện ra ở Mễdu, Mẹ đã cho Vicka, Jacob thấy Thiên Đàng, Lửa Luyện Tội, và Hỏa Ngục. Các linh hồn bị giam trong Lửa Luyện Tội để được thanh tẩy trước khi về Thiên Đàng cũng có thật. Trong lịch sử Giáo Hội, Chúa đã nhiều lần cho phép các linh hồn hiện về với người trần thế mục đích xin người sống giúp đỡ để họ mau chóng thoát khỏi cảnh đọa đày và mau được về hưởng nhan Thánh Chúa. Trong Phúc Âm, LC 12,59, có nhắc đến: “Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng xu cuối cùng .” Và 1COR: 3, 13-15 “Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người.” Giúp đỡ các linh hồn là việc phải làm. Giúp người là giúp mình. Chúa đã chằng nòi: “Khi các con làm một việc gì cho ai là các con làm cho chính bản thân Ta.” đó sao? Giúp đỡ họ có nhiều cách, chằng hạn như lần hạt Mân Côi, Thánh Lễ, ăn chay, hãm mình, bố thí v..v.. Xin lễ cho các linh hồn là việc làm cao quí nhất, vì chỉ có Máu Cực Thánh Chúa Giêsu mới xóa bỏ được mọi hình phạt cho họ. Song song với những lời cầu nguyện và các việc lành phúc đức; còn một phương thức khác không kém phần quan trọng để giúp đỡ họ là những ‘ƠN XÁ’ của Giáo Hội ban cho chúng ta. Chúng ta có thể dùng những ơn xá này giúp đỡ họ. Chỉ có chúng ta, những người còn sống trên thế gian mới có khả năng giúp đỡ các linh hồn bởi vì họ không thể giúp họ được, nhưng họ có thể cầu nguyện rất đắc lực cho chúng ta. Hơn thế nữa khi về thiên đàng họ sẽ trả ơn cho chúng ta bằng cách cầu nguyện cho chúng ta đến muôn đời. Có hai loại ơn xá là: Tiểu xá và đại xá. Tiểu xá thì tha một phần. Đại xá tha hết. Chúng ta có thể dùng những ơn xá này cho mình hoặc nhường lại cho các linh hồn. Những ơn xá là kho tàng vô giá có thể đền bù sự công chính của Thiên Chúa trong đặc ân thương xót của Ngài cho những ai có lòng tin và chuyên cần làm việc để lãnh nhận những ơn xá. Có nhiều người không hiểu biết mấy về giá trị và đặc tính của ơn xá nên đã thờ ơ trước những kho tàng vô giá này. Cha Schouppe, Dòng Tên đã kể lại một câu chuyện trong cuốn lửa luyện tội: “Chân phước Mary ở Quito, trong lúc ngất trí đã được thấy ở giữa một khoảng trống vĩ đại có một cái bàn to lớn mênh mông được bao phủ với những ngọc ngà, châu báu, kim cương, vàng bạc…Cùng lúc đó bà nghe được tiếng nói, ‘Những châu báu này là của mọi người, ai cũng có thể tới lấy, bao nhiêu cũng được tùy họ mong muốn,’ Chúa cho bà biết rằng, rừng châu báu này là biểu tượng của những ơn xá. Ơn xá giúp chúng ta giầu có phong phú về phần tâm linh, muốn bao nhiêu tùy thuộc ở chúng ta. Những linh hồn trong tình trạng đầy ơn sủng sẽ giúp đỡ các linh hồn một cách đắc lực hơn. Nếu chúng ta không biết dùng những ơn xá này đúng chỗ thì thật đáng tiếc. Còn một điều đáng lưu ý nữa là những lời cầu nguyện, những đau khổ bệnh tật dâng lên Chúa vì lòng yêu mến Chúa và thương yêu tha nhân trong cuộc sống hằng ngày sẽ giúp chúng ta lãnh nhận thêm công trạng đời sau, sẽ tăng thêm ơn sủng cho chúng ta. Chúng ta càng bác ái bao nhiêu thì chúng ta càng sống gần Chúa bấy nhiêu vì đó là thể hiện lòng mến Chúa yêu người. Hãy xót thương để được Chúa thương xót, có như vậy chúng ta sẽ bớt được những khổ hình đời sau. Bây giờ kính mời bạn đọc theo dõi câu chuyện sau đây. “Đó là ngày Thứ Hai, năm 1996, trước lễ Noel. Tôi đang ngồi tại văn phòng soạn lại xấp báo cáo, chợt nhớ ra phải đi xưng tội. Có lẽ đã hơn một tháng rồi tôi chưa tới tòa giải tội. Tôi bắt đầu xét mình và tự hỏi sao kỳ này lại để lâu quá như vậy, vì càng để lâu thì càng ngại ngùng và khó khăn hơn. Tôi lấy viết ghi lại những tội đã phạm và coi lại vài lần xem có quên hay bỏ xót tội nào không? Tôi lái xe tới thánh đường gần đó. Đậu xe vô bãi và bước vô nhà thờ nhưng thật ngạc nhiên khi chỉ thấy chỉ có chừng 25 người ngồi chờ xưng tội mà thôi. Tôi kiếm một chỗ ngồi ở đàng sau và bắt đầu đọc Kinh Ăn Tội. Bất chợt một người đàn ông chạc 70 tuổi đang ngồi trong góc đối diện bật tiếng khóc thật lớn. Tôi nghĩ, chắc có điều gì đau khổ xảy ra cho ông nên ông mới khóc lóc đau đớn như vậy. Tôi lại nghĩ, có lẽ những người ở đây đang cầu nguyện cho ông. Người đàn ông đau khổ kia vẫn cúi gầm mặt khóc không ngừng. Các linh mục bước vô tòa giải tội. Tôi cũng vô xếp hàng chờ xưng tội. Lúc đó, tôi không có thì giờ để coi lại mảnh giấy kê khai tội lỗi nữa, tôi đành cầm miếng giấy vô tòa cáo giải, bởi vì tôi không muốn quên hay bỏ xót một tội nào. Sau khi xưng tội xong, tôi đọc Kinh Ăn Năn Tội một lần nữa và đọc kinh đền tội. Tôi quì trước nhà tạm để cám ơn Chúa cho sự thứ tha của Ngài. Sau đó ra về, tôi nhận thấy rằng người đàn ông ngồi khóc khi nãy đã ra ngoài trước tôi. Tôi lấy nước thánh làm dấu rồi bước ra cửa nhưng hình như ông ta đang giữ cửa và chờ tôi. Khi ra khỏi cửa, tôi hỏi ông: - Ông không có gì chứ? Ông trả lời, “Không có gì.” Tôi hỏi tên ông. Ông nói: “Tôi tên John.” John bước chậm rãi hầu như không có vẻ gì vội vã cả. Tôi lại hỏi: “Ông ở gần đây không?” Ông dừng lại trước khi trả lời: - Không, tôi từ Lửa Luyện Tội tới đây. Trong tíc tắc, tôi đứng lại không bước đi được nữa và nhìn ông sửng sốt: - Thấy ông giống như những người thường thôi. Tôi tiếp: “Ồ mà tại sao ông lại lên đây đi nhà thờ?” Ông dừng lại nói: “Thiên Chúa tốt lành đã cho phép tôi tới đây viếng Chúa Giêsu trong nhà tạm. Khi các người tới dự thánh lễ thì chúng tôi cũng tới dự thánh lễ cùng với các Thiên Thần Bản Mệnh, và thường thì có những ghế trống cho chúng tôi, những chỗ trống đó luôn luôn đầy những linh hồn như chúng tôi, và các Thiên Thần thì bay lơ lửng phía trên đầu chúng tôi, cũng giống như Thiên Thần bản mệnh của các người vậy. Giây phút đó trong nhà thờ đầy kín những vinh quang, huy hoàng của Thiên Chúa.” - Tại sao ông khóc trong nhà thờ? Ông trả lời: “Đó là những giọt nước mắt vui mừng lẫn đau khổ. Vui vì chúng tôi được vinh dự chúc tụng Ngài trong Thánh Thể; còn đau khổ vì những gì mình đã xúc phạm tới lòng nhân lành và tình yêu của Thiên Chúa.” - Ông đau khổ nhiều không? - Có chứ, nhưng tôi vui mừng vì được đền tội mình, và trông đợi ngày giờ được hưởng nhan Thánh Chúa trên Thiên Đàng. Thiên Thần Bản Mệnh đã giúp tôi trả lời những câu hỏi của ông. Trong Lửa Luyện Tội chúng tôi không có quyền cầu nguyện cho mình nhưng được phép cầu nguyện cho gia đình thân quyến, và cho tất cả những phần tử trong Giáo Hội trên hoàn vũ. - Lửa Luyện Tội như thế nào? - Tất cả có 13 tầng. Tầng thứ 13 là tầng chót và gần địa ngục; địa ngục ở giữa trái đất. Đó là nơi được gọi là ‘Phòng giam công lý’. Những tầng dưới trong Lửa Luyện Tội là những tầng vô cùng đau đớn, và những linh hồn ở trong tầng này đều phải đền tội lâu năm mới được lên tới những tầng giữa. Ở tầng giữa, các linh hồn đền tội cho những tội đặc biệt hay bỏ sót. Họ cũng đau khổ rất nhiều nhưng không bằng những tầng dưới. Tôi dã ở dưới Lửa Luyện Tội 15 năm nay và tôi đang trông đợi được lên tầng thứ năm bởi vì Đức Mẹ thường tới thăm các linh hồn trên năm tầng trên. Khi Đức Mẹ tới, tất cả những đau đớn đều ngưng vì sự hiện diện của Mẹ. Tầng trên cùng là tầng các linh hồn không còn đau khổ nữa, họ chỉ cầu nguyện và chờ ngày về Thiên Đàng. Tầng thứ tư, Chúa Giêsu hỏi các linh hồn nếu họ muốn ở lại tầng đó để cứu người thân của họ trên trái đất. Khi họ đã chịu đau khổ đủ, cầu nguyện đủ thì họ về Thiên Đàng thẳng không cần phải đi qua ba tầng trên nữa. Khi ông đi xưng tội với tấm lòng ăn n ăn đau đớn, Thiên Chúa tha tội cho ông nhưng còn những vết nhơ trong hồn thì phải được tẩy sạch bằng cách ăn chay, cầu nguyện, đền tội, hy sinh, hãm mình. Thật sự những việc này dễ dàng hơn nếu làm được trên trái đất. Trong Lửa Luyện Tội sẽ phải đau đớn hơn nhiều và mất nhiều năm để thanh tẩy. Tôi là một người buôn bán khi còn sống cũng giống như ông vậy. Nghề nghiệp của tôi đã choán hết cuộc sống của tôi nên tôi chểnh mảng về đức tin và sự cầu nguyện, và nếu không phải vì Lòng Thương Xót Chúa; và bằng những lời cầu nguyện, hy sinh, đền tội, hãm mình, thánh lễ của người giúp việc đã làm cho tôi thì tôi đã mất linh hồn từ lâu rồi. Khi tôi chết, bà ta đã xin thánh lễ an táng cho tôi, và xin cho tôi 30 thánh lễ liên tục trong một tháng (Gregorian Masses). Tôi cũng đã có mặt dự trong lễ an táng đó. Phải, Thiên Chúa cho phép các linh hồn được dự các đám tang của họ. Thiên Chúa vô cùng tốt lành nhưng buồn thay, ngày nay con cái không còn nhớ làm lễ an táng cho cha mẹ cũng như những người thân của họ nữa. Họ đã đổ đi biết bao ơn sủng dành cho thân quyến của họ, những ơn sủng vô giá và những an ủi lớn lao đáng lý những người thân của họ được hưởng. Trong Lửa Luyện Tội, linh hồn con người cũng giống như thân xác, với đầu mình, chân tay…Ông có thể thấy được, ngửi được, và cảm được nóng lạnh, đau đớn còn bén nhậy hơn thân xác nữa. Thiên Thần Bản Mệnh của tôi bảo tôi nói cho ông biết là khi một người đến trước tòa phán xét đối diện với Thiên Chúa, linh hồn đó thấy rõ các tội lỗi mình, những tội mà họ xúc phạm tới Chúa. Lúc đó là lúc Thiên Chúa xét sử công minh. Ngài sẽ lấy những kinh nguyện, thánh lễ người ta dành cho linh hồn đó, và ngay lúc đó linh hồn ấy sẽ biết mình phải đền tội ở tầng nào trong Lửa Luyện Tội. Những người tự kết liễu đời mình hay nhờ kẻ khác kết liễu đời mình là một sự sai lầm, vì chỉ có Thiên Chúa mói có quyền quyết định mạng sống con người. Kẻ nào cướp quyền Thiên Chúa sẽ phải đau đớn và đền tội rất lâu. Tất cả những đau khổ đời này là một cách đền tội, thanh tẩy linh hồn mình cho cuộc sống đời sau. Thiên Thần Bản Mệnh bảo tôi nói cho ông biết: “Chúng tôi đến nhà thờ và thấy tất cả những gì xảy ra nơi đây. Mọi người nên ăn mặc cho đàng hoàng đứng đắn trước mặt Thiên Chúa. Thánh Đường là nhà của Chúa, là nơi cầu nguyện, chúng ta phải tỏ vẻ tôn kính đối với Thiên Chúa, không nên nói chuyện, cười cợt trong nhà thờ, tốt nhất khi muốn nói chuyện thì nên ra ngoài. Những cách ăn mặc không đứng đắn hoặc thiếu tôn kính trong nhà thờ cần phải đi xưng tội và đền tội xứng đáng. Những người che kín đầu trước mặt Thiên Chúa sẽ được phần thưởng đời sau.” Chúng tôi đi bộ chừng vài dãy nhà và đến một lối vào của một nghĩa trang Công Giáo. John nói: “Những gì ông học được ngày hôm nay là do Thiên Chúa ban cho ông vì một lý do nào đó. Một trong những lý do đó là Nước Thánh và Chuỗi Mân Côi.” Ông nói xong, bước vô nghĩa trang rồi biến mất trước con mắt của tôi. Tôi nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông, John.” Tôi đi bộ về lại nhà thờ, bước vô trong và tạ ơn Chúa về những gì vừa xảy ra. Tôi lần hạt để tạ ơn Chúa và đồng thời cầu nguyện cho linh hồn ông. Khi còn nhỏ, mẹ tôi thường hay dẫn đến nghĩa trang. Bà luôn luôn đem theo nước thánh khi đi thăm mộ những người thân hoặc bạn bè, rồi đọc một Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng và cầu cho kẻ chết. Rồi bà lấy nước thánh rẩy trên mộ phần người quá cố. Bà bảo tôi, những linh hồn trong Lửa Luyện Tội sẽ được an ủi rất nhiều với nước thánh này. Bà cũng thường hay làm vậy ở nhà mỗi tối cho các linh hồn, cách riếng cho những linh hồn người thân của bà. Những năm sau này, trong sự tưởng nhớ mẹ tôi, tôi cũng làm những việc đó như mẹ tôi đã làm, và tôi cũng lần hạt cầu nguyện cho các linh hồn trong Lửa Luyện Tội. Sau cuộc gặp gỡ lạ lùng này, tôi làm một cái hẹn cới một linh mục và xưng tất cả những tội lỗi tôi đã phạm trong đời để biết chắc rằng tất cả tội lỗi của tôi đều được tha thứ. Sau đó, tôi đi xưng tội mỗi tuần một lần hoặc hai tuần một lần. Tôi viếng Thánh Thể và bắt đầu dâng tất cả những công việc làm, những đớn đau, bệnh tật, buồn bực, chán nản, ngay cả việc lái xe của tôi cho Trái Tim Cực Thánh Cúa Giêsu, với Chúa Giêsu va trong Chúa Giêsu qua Trái Tim Vẹn Sách Mẹ Maria lên Chúa Cha để đền bù tội lỗi mình.
Clara Nguyễn Diễm Trang Nguồn: tgmmt.org Các bạn giáo lý viên (GLV) thân mến trong Đức Kitô,
Dòng đời cứ mãi trôi, và sẽ trôi mãi về đâu? Đời sống của mỗi chúng ta trên thế gian này là AnTáng 112
Dòng đời cứ mãi trôi, và sẽ trôi mãi về đâu? Đời sống của mỗi chúng ta trên thế gian này là một cuộc hành trình rất dài. Cuộc hành trình đó, chúng ta không độc hành trên xa lộ tối đen, nhưng chúng ta hiệp thông sâu đậm trong Đức Kitô để cùng nhau tiến bước: “Hết thảy mọi người chúng ta, từng cấp bậc và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một đức mến Chúa yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa chúng ta” (GLCG số 954). Đó là một khía cạnh trong niềm tin Kitô giáo mà chúng ta vẫn thường tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công”. Xin được chia sẻ vài tư tưởng về tín điều các thánh thông công trong tháng 11 này để chúng ta ý thức hơn về cuộc sống của mình trong mối hiệp thông với mọi phần tử trong Nhiệm Thể Chúa Kitô.
1. Các thánh thông công: Suy nghĩ về tín điều các Thánh thông công, tôi chọn cho mình một hình ảnh rõ ràng, gần gũi, và dễ hiểu nhất: Thập Giá ( + ) mà trong đó mối tương quan ngang - dọc đều như nhau cho mọi phần tử, thống nhất, liên hệ, và bổ sung đồng đều cho nhau làm thành Hội Thánh Chúa Kitô: hội thánh khải hoàn được xem như nửa trên của +, là các thánh và những linh hồn thánh thiện đang hưởng mặt Chúa trên Thiên Đàng; hội thánh đau khổ được xem như nửa dưới của +, là những linh hồn còn đang thanh luyện trong luyện ngục; và thanh ngang của + là hội thánh chiến đấu (hay còn gọi là hội thánh lữ hành), bao gồm tất cả các tín hữu trên khắp hoàn cầu, đang còn phấn đấu liên tục trên cuôc hành trình đức tin. Tất cả mọi tín hữu nhờ bí tích Thánh Tẩy được sát nhập vào Chúa Kitô là đầu nhiệm thể và hiệp thông với nhau trong một tình yêu và một sự sống bắt nguồn từ Chúa Kitô. Các thánh thông công có nghĩa là “hiệp thông trong các sự thánh (hiệp thông trong đức tin, trong bí tích, trong đức ái, và trong sự cầu nguyện…) và hiệp thông giữa những người thánh (trong ba giáo hội hàng dọc và hàng ngang theo hình thánh giá vừa nêu trên)”. Là thành phần của dân Chúa, trong hội thánh chiến đấu của Ngài, chúng ta đã sống hiệp thông với nhau, với các thánh trên trời và với các linh hồn trong luyện nguc cách đầy đủ chưa?
2. Hiệp thông với giáo hội khải hoàn (các thánh trên trời): Mỗi người trong chúng ta đều đã chọn (hoặc cha mẹ chọn) cho mình những vị thánh quan thầy khi chịu phép rửa tội và thêm sức để cầu bàu cho ta trước mặt Chúa và để làm gương sáng cho ta. Nếu vì bận rộn hay lơ là mà chúng ta đã quên đi vai trò các ngài trong đời sống mình thì dịp tháng 11 về, ngày Lễ các thánh nam nữ, chúng ta hãy nhớ đến các ngài, mở lại sách hạnh thánh để nhìn lại gương nhân đức của các ngài. Sau cùng xin các ngài cầu thay nguyện giúp vì “các ngài đã phục vụ Chúa trong mọi sự và hoàn tất trong thân xác mình những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, hầu mưu ích cho Thân Thể Người là Hội Thánh” (Cl. 1, 24). Dịp này ta có thể cho các em lớp giáo lý của mình thử viết xuống giấy tên Thánh bổn mạng của các em và ngày kính vị Thánh bổn mạng là ngày nào? Nếu các em không biết là dấu chỉ các em chưa sống khắn khít với vị Thánh bổn mạng của mình. GLV hãy cho các em mang về nhà hỏi bố mẹ và ghi xuống giấy như là một bài tập để tuần sau mang vào nộp lại cho thầy cô. Nếu các lớp lớn thì giáo lý viên có thể mở rộng ra thêm bằng cách cho các em ghi xuống giấy tên thánh bổn mạng và ngày kính vị thánh bổn mạng đó của tất cả những người trong gia đình của các em. Sau đó, GLV trả giấy đó về cho các em và dặn các em treo chỗ nào để mọi người trong gia đình đều thấy được và tưởng nhớ cách đặc biệt vị thánh bổn mạng của mình vào ngày nào đó trong năm.
3. Hiệp thông với giáo hội đau khổ (các linh hồn trong luyện ngục): Chắc hẳn trong mỗi gia đình chúng ta đều đã có người ra đi trước: ông bà, cha mẹ, chồng vợ, chú bác, cô dì, anh chị em…Chúng ta dâng kinh nguyện và những việc lành phúc đức hằng ngày của mình để cầu cho các linh hồn thân nhân và hết các linh hồn đang cần đến lời cầu của chúng ta. Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hôi Thánh lữ hành đã “kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã chết vì cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát là một ý nghĩa lành thánh và hiếu thảo” (2Mcb 12, 46). Lời cầu nguyện ấy không những giúp ích người đã chết được giải thoát khỏi tội lỗi, nhưng chính chúng ta cũng được hưởng nhờ lời chuyển cầu của các ngài sau khi các ngài về trời. Để giúp cho các em lớp giáo lý của mình luôn nhớ bổn phận cầu nguyện và hy sinh cho các linh hồn, chúng ta có thể hỏi các em về những người đã qua đời trong gia đình các em, tên thánh của họ và ngày về với Chúa là ngày nào. Nhắc các em là cũng nhắc chính chúng ta, luôn nhớ đến ngày chết của người thân ruột thịt của mình. Thiết nghĩ chúng ta nên ngồi nhớ lại và viết xuống tên họ, tên Thánh và ngày ra đi của người thân trong gia đình mình để nhớ xin Lễ, cầu nguyện, và dâng nhiều việc hy sinh cho người thân mình trong những ngày đó. Ta cũng có thể xem đây là một bài tập để các em thực hành và năng cầu nguyện cho các linh hồn. Riêng tháng 11 này, chúng ta nên nhắc các em lớp lớn nhớ xưng tội, rước lễ sốt sắng và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng để hưởng ơn đại xá và nhường lại cho các linh hồn. Các em cũng có thể làm nhiều việc hy sinh, hãm mình nhỏ bé như nhặt rác, giúp Mẹ… để dâng lên Chúa và cầu nguyện cho các linh hồn. Hoặc ta hướng lòng các em nhớ đến Chúa và các linh hồn rồi cho các em tập dâng lời nguyện tắt này nhiều lần trong ngày: “Giêsu, Maria, Giuse, con mến yêu, xin cứu các linh hồn”. Cho các em ghi xuống giấy mỗi ngày dâng nguyện tắt được bao nhiêu lần và cuối tháng tổng kết lại cho GLV.
4. Hiệp thông với nhau trong giáo hội chiến đấu (các tín hữu trên khắp thế gian): Nói trên khắp thế gian thì nghe có vẻ bao la quá, chúng ta hãy trở về với thực tại gần gũi nhất trong đời sống mình là mái ấm gia đình mình, là cộng đoàn, là giáo xứ, là hãng xưởng làm việc, là hàng xóm láng giềng của mình. Qua sự đoàn kết yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, qua cử hành phụng vụ, qua việc chia sẻ của cải thiêng liêng cũng như vật chất, chúng ta cùng nhau xây dựng cuộc sống tươi vui, hạnh phúc. Đời sống thánh thiện và gương sáng của mỗi người sẽ ảnh hưởng đến người khác rất nhiều. Cuộc sống hiệp thông sâu rộng đó sẽ là phương cách tốt nhất để giới thiệu và làm chứng Tin Mừng Đức Giêsu: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35) Thiết nghĩ, bài thực hành sống động nhất là cho các em mỗi ngày thực hiện ít nhất một nghĩa cử yêu thương trong gia đình hoặc làm một việc bác ái cho tha nhân. Nhưng trước khi bảo người khác làm, chúng ta cũng nên thực hành trước, kẻo không sẽ bị mang tiếng là “dám đốc” chứ không “dám làm”! Nguyện xin Chúa và Mẹ Maria giúp chúng ta sống hiệp thông trong giáo hội thật trọn vẹn và đầy đủ ý nghĩa, nhất là trong tháng 11 này. Cũng cầu xin Chúa nhắc nhở chúng ta đừng quên hướng dẫn các tâm hồn nhỏ bé biết luôn sống đức tin trong mối dây hiệp nhất thiêng liêng với các Thánh trên trời và các linh hồn đang ngày đêm chờ lời cầu nguyện rất đơn sơ bé nhỏ nhưng đầy hiệu lực của các em.
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt Bà Maria Agatha Simma
Bà Maria Agatha Simma sinh ngày 5-2-1915 tại Sonntag, nước Áo, trong một gia đình nghèo thật AnTáng 113
Bà Maria Agatha Simma sinh ngày 5-2-1915 tại Sonntag, nước Áo, trong một gia đình nghèo thật nghèo. Maria Agatha là con thứ hai trong số 8 người con. Vì gia cảnh quá nghèo, tất cả các anh em của Maria Agatha đều phải làm việc ngay khi tuổi còn thơ. Con trai thì làm thuê làm mướn, con gái thì giữ trẻ cho các gia đình giàu. Từ lúc nhỏ, Maria Agatha tỏ ra cô bé đạo đức, chuyên cần theo học các buổi dạy giáo lý trong giáo xứ. Cô bé cũng có lòng đặc biệt thương xót các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Maria Agatha cầu nguyện và hy sinh hãm mình, lãnh nhận các ân xá cho các Linh Hồn. Tâm tình yêu mến giúp đỡ các Đẳng Linh Hồn, một phần lớn Maria Agatha nhận lãnh từ hiền mẫu. Bà Aloisia nói với các con: - Khi các con muốn xin một điều gì quan trọng, các con hãy nhờ các Linh Hồn nơi Luyện Ngục cầu xin dùm các con. Chắc chắn các con sẽ nhận được điều các con cầu xin. Lớn lên, Maria Agatha ước ao dâng mình cho Chúa trong tu viện. Cô thử vào dòng ba lần, nhưng cả ba lần đều thất bại. Cuối cùng cô phải từ bỏ ý định, một phần vì gia cảnh quá nghèo, phần khác vì sức khoẻ quá yếu kém. Từ đó, dù phải sống giữa đời, Maria Agatha quyết định giữ mình trinh khiết vì lòng yêu mến Đức Mẹ MARIA và vì lòng thương xót các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Maria Agatha giúp đỡ các Linh Hồn bằng nhiều cách: bằng lời cầu nguyện, bằng các hy sinh đền tạ và bằng việc cổ võ cầu nguyện cho các Linh Hồn. Có lẽ chính vì các việc lành này mà THIÊN CHÚA chọn bà Maria Agatha làm vị tông đồ giúp đỡ các Linh Hồn. Chúa cho phép các Linh Hồn nơi Luyện Hình hiện về với bà để xin bà cầu nguyện hoặc làm việc đền bù phạt tạ thay cho các ngài. Bà Maria Agatha Simma kể. Năm 1940, lần đầu tiên một Linh Hồn nơi Luyện Ngục hiện về với tôi. Vào một đêm khuya, nghe tiếng một người đi lại trong phòng, tôi bỗng giật mình thức giấc. Tôi mở mắt nhìn, xem ai là người đang đi lại trong phòng mình. Tôi có tính gan dạ, không sợ hãi bất cứ người nào. Nhìn kỹ, tôi thấy một người đang chậm chạp đi lại trong phòng. Tôi lấy giọng cứng cỏi, hỏi gằn từng tiếng: - Làm sao mà ông lại vào được phòng này? Ông mất cái gì, ông tìm cái gì?” Người lạ ra như không nghe thấy gì, cứ tiếp tục đi lại trong phòng. Tôi tức-tối hỏi tiếp: - Ông làm cái gì vậy? Thấy người lạ không thèm trả lời, tôi tức-giận nhảy ra khỏi giường, nhảy chồm tới, định đấm vào người ông. Nhưng tôi chỉ đánh vào khoảng không, không có bóng dáng ai trong phòng cả! Tôi trở về giường, thì cùng lúc đó, tôi nghe tiếng người đàn ông đi đi lại lại trong phòng. Tôi thắc mắc tự hỏi: - Lạ quá, mình thấy rõ ràng ông này, nhưng tại sao mình lại không đấm được vào người ông? Không chịu thua, tôi ra khỏi giường, tiến chầm chậm về phía người đàn ông, định chặn bước ông đi. Nhưng một lần nữa, tôi chạm phải khoảng không trước mặt. Tôi trở vào giường, lòng hoang mang. Lúc ấy vào khoảng 4 giờ sáng. Người đàn ông không xuất hiện nữa, nhưng tôi không tài nào chợp mắt. Sáng hôm ấy, sau khi tham dự Thánh Lễ, tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Cha Linh Hướng nghe. Cha vắn tắt giải thích với tôi: - Nếu còn xảy ra câu chuyện tương tự như vậy, thì con đừng hỏi: ”Ông là ai?”, nhưng chỉ hỏi: “Ông muốn tôi giúp gì?” Quả thật, đêm sau, người đàn ông lại xuất hiện. Nhớ lời Cha Linh Hướng dặn, tôi cất tiếng hỏi: - Ông muốn tôi làm gì cho ông? Ông ta trả lời: - Xin dâng ba Thánh Lễ cầu cho tôi và tôi sẽ được giải thoát! Tôi nói lại với Cha Linh Hướng và Cha giải thích cho tôi hiểu đó chính là Linh Hồn hiện về từ Lửa Luyện Ngục. Cha cũng cẩn thận khuyên tôi đừng bao giờ loại trừ một Linh Hồn nào, trái lại, hãy quảng đại chấp nhận mọi hy sinh để cứu vớt các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục, giúp các ngài sớm về hưởng Thánh Nhan THIÊN CHÚA. (Maria Simma, ”Les Âmes du Purgatoire m'ont dit”, Editions du Parvis, 1990).
và cầu nguyện cho các đẳng VietCatholic News (02/11/2005) ÐTC Bênêđitô XVI nói về sự hiệp thông với các thánh trên trời cầu nguyện cho các đẳng linh hồn trong giờ kinh Truyền Tin trưa ngày mùng 1 tháng 11 năm 2005. Tin Vatican (Vat 1/11/2005) –
Ngày 1 tháng 11 năm 2005 là ngày lễ Các Thánh Nam Nữ. Ngày này là ngày lễ nghỉ của hầu hết các nước ở Âu Châu. Ngày lễ này nhắc nhở mọi người tưởng nhớ đến tất cả những anh hùng hiền triết, qua mọi thời đại, từ cổ xưa đến hiện đại, những người thân trong gia đình đã qua đời, và đã được nên thánh. Nhờ vào những gương sáng mà họ đã để lại cho chúng ta, giúp chúng ta đi theo con đường nên thánh giống như họ. Ngày 2 tháng 11 là ngày cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Ngày này cũng là ngày lễ nghỉ của nhiều quốc gia ở Âu Châu. Ngày này tương tự như ngày lễ Thanh Minh (Ngày Tảo Mộ) trong văn hóa Á Ðông. Là ngày nhắc nhớ mọi người cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời, đặc biệt là những thân nhân của chúng ta những người đã khuất, để xin Chúa nhân từ sớm cho họ được hưởng phúc trên Thiên Ðàng. Vào trưa ngày 1 tháng 11 năm 2005, tuy bầu trời Rôma mây đen che kín, với một vài trận mưa nhỏ đổ xuống, nhưng những người hành hương và dân chúng Rôma vẫn tập trung đông đảo, (khoảng hơn 10,000 người), tại quãng trường Thánh Phêrô, để chờ đợi đọc kinh truyền tin với Ðức Thánh Cha. Bài huấn đức của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI trước giờ kinh Truyền Tin tuy không dài lắm, nhưng nội dung rất phong phú. Ngoài những lời chào thăm, ngài nhắc đến sự hiệp thông với các thánh trên trời trong ngày lễ các thánh Nam Nữ mùng 1 tháng 11 và ý nghĩa của việc cầu nguyện cho các linh hồn trong ngày lễ các đẳng vào mùng 2 tháng 11. Ðức Thánh Cha nói như sau: "Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ các Thánh Nam Nữ. Ngày lễ này giúp chúng ta nhận ra niềm vui mừng được trở thành những thành viên trong đại gia đình Dân Chúa, như lời thánh Phaolô đã viết trong thư gửi các tín hữu Côlôxê: "Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng." (Col 1,12). Ngày lễ hôm nay cũng nhắc lại niềm vui mừng hớn hở trong thư của thánh Gioan Tông Ðồ khi ngài viết: "Anh em hãy xem, Chúa Cha yêu chúng ta dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa." (1Gio 3,1). Ðúng vậy, chúng ta được nâng lên bậc làm con của Thiên Chúa, và từ đó chúng ta có cơ hội để trở nên thánh. (xem Eph 1,5; Rom 8,14-17). Ðức Thánh Cha nói tiếp: "Thiên Chúa muốn Con Một của Ngài xuống thế làm người, chịu chết và sống lại, để cho nhân loại được đổi mới và được chia sẻ với sự sống đời đời. Ai tin vào Ðức Giêsu Kitô, thì người đó được tái sinh, người đó được sinh ra trong ơn Chúa Thánh Thần. (xem Gio 3,1-8). Mầu nhiệm này đã được hiện thực nhờ vào bí tích Rửa Tội. Qua bí tích Rửa Tội, giáo hội đã sinh ra các vị thánh." Ðức Thánh Cha đã giải thích việc tái sinh trong bí tích Rửa Tội như sau: "Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tái sinh trong một cuộc sống mới, không còn bị giới hạn trong quyền lực của sự chết hay của hư nát. Ðối với những người sống trong Ðức Kitô, cái chết chỉ như là một cuộc lữ hành để đi từ cuộc sống hiện nay bước qua một cuộc sống mới trên Thiên Ðàng mà thôi, ở đó, Thiên Chúa Cha sẽ tiếp đón mọi người, không phân biệt quốc gia, chủng tộc, ngôn ngữ, tựa như trong chương 7 Sách Khải Huyền mà chúng ta đã đọc. Bởi thế, sau khi chúng ta mừng kính các thánh Nam Nữ trong ngày hôm nay, thì ngày mai chúng ta sẽ cử hành lễ cầu nguyện cho các đẳng linh hồn, điều này là một điều rất có ý nghĩa, và có tương quan với nhau. Ðức Thánh Cha giải thích ý nghĩa của việc cầu nguyện cho những người đã qua đời như sau: "Các thánh thông công, như chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, ngày nay các ngài thực sự đã trở nên thánh. Còn chúng ta, khi chúng ta được diện kiến với Thiên Chúa trong đời sống mai sau, thì lúc đó chúng ta cũng sẽ được thiện toàn. Ðiều này nói lên một sự thực là, sự hiệp thông trong một đại gia đình, làm cho những người đã qua đời cũng luôn hiện diện trong cuộc lữ hành của chúng ta ở đời này và tất cả kết hiệp với nhau. Sự kết hiệp này là một thần bí, và cũng là một sự thật, qua sự cầu nguyện và việc tham gia Mầu Nhiệm Bí Tích Thánh Thể. Trong Nhiệm Thể của Chúa Kitô, các linh hồn của các tín hữu luôn liên đới với nhau, kết hiệp với nhau, trong mầu nhiệm yêu thương thông công với nhau. Trong đời sống đức tin, cùng với những hy sinh dâng hiến, những hiệp ý cầu nguyện, đặc biệt là việc cử hành và tham dự thánh lễ tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, các tín hữu đang mở cửa thông công với đời sống vĩnh hằng". Ðức Thánh Cha cũng nói với tất cả những người hiện diện tại quảng trường như sau: "Tâm hồn của cha cùng hiệp nhất với tất cả các tín hữu đang đi viếng các phần mộ của các người thân tại các nghĩa trang, để cầu nguyện cho tất cả những người đã qua đời. Chiều ngày mai, cha cũng sẽ đi xuống dưới tầng hầm của Ðền Thánh Phêrô, để cầu nguyện trước các phần mộ của các vị Giáo Hoàng. Phần mộ của các ngài nằm chung quanh phần mộ của Thánh Phêrô. Cha cũng sẽ đặc biệt tưởng niệm đến đức cố giáo hoàng thân yêu Gioan Phaolô II của chúng ta". Cuối cùng, Ðức Thánh Cha kêu gọi mọi người rằng: "Anh chị em thân mến, hy vọng trong những ngày này, theo truyền thống quen thuộc, khi chúng ta đi viếng mộ và cầu nguyện cho các người đã qua đời, thì cũng giúp chúng ta không còn sợ hãi với cái chết, và giúp chúng ta luôn có thái độ tỉnh thức, chuẩn bị sẵn sàng với trọn tâm hồn để đối diện, mỗi một khi giờ chết đến với chúng ta. Bây giờ, tất cả chúng ta, với tâm tình là những người con của Ðức Trinh Nữ Maria, chúng ta hãy cầu nguyện, nguyện xin Ðức Mẹ phù hộ chúng ta trong giờ lâm tử. Amen."
Ở Âu Châu, tháng mười một là một tháng u buồn ảm đạm nhất trong năm: Khí trời mới vào đông tuy chưa có tuyết rơi, nhưng rất lạnh lẽo giá buốt, sương mù dăng dăng dầy đặc và những làn mưa phùn bay phất phơ trong từng cơn gió lạnh, làm thấm ướt cả áo măng-tô của các khách bộ hành qua lại trên phố xá. Và cũng chính tháng mười một đã được Giáo Hội chọn làm Tháng Các Linh Hồn, nghĩa là thời gian dùng để kính nhớ và cầu nguyện cho các người đã quá cố. Hành động đó đã minh nhiên chứng minh rằng chết không phải là hết, nhưng sau khi chết con người còn tiếp tục sống và sống một cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng ở đây một câu hỏi được đặt ra là sau khi từ bỏ cõi đời này, chỉ có Thiên Đàng là nơi vĩnh cửu duy nhất sẽ đón nhận các các người đã quá cố hoặc còn có nơi nào khác nữa, hay nói rõ hơn, có hỏa ngục hay không? Theo tâm lý tự nhiên ngày nay, đa số người đương thời có khuynh hướng muốn được yên thân sống thoải mái dễ dãi, chứ không muốn nhắc đến luân lý, đạo đức hay tội lỗi nữa. Vì thế họ cũng không muốn đề cập tới vấn đề hỏa ngục, nếu không nói là họ phủ nhận sự hiên hữu của hỏa ngục. Nhưng ít nhất vẫn còn có Sting, tên thật là Gordon Summer (1951), một ca sĩ nhạc Rock nổi tiếng người Anh, luôn tin có hỏa ngục, một nơi có mặt của mọi thành phần xã hội: từ các quan tòa, các luật sư, các Hồng Y, Giám Mục, các nhạc sĩ, các ca sĩ, v.v…! Trong một bài hát thuộc loại nhạc kích động với tựa đề bằng tiếng Anh: «Saint Augustine in Hell» (Thánh Augustinô ở trong hỏa ngục), Sting đã hát: «They’re all here,You’re not alone» (Tất cả họ đều có mặt ở đây. Chứ không phải một mình anh đâu). Bài hát đề cập tới việc vị thánh nhân đã ra sức vất vả chống lại sự cám dỗ về đức trong sạch khi phải đứng trước một người phụ nữ nhan sắc đầy quyến rủ. Thật cả là một hiện tượng quá ngạc nhiên, hoàn toàn vượt quan niệm thường tình: Trong hỏa ngục cũng có cả sự hiện diện của những bậc vĩ vọng, những người khi còn sống đã từng đóng vai trò người bảo vệ luân lý, đạo đức và công bằng, và theo sự phán đoán bình thường nhân loại, thì họ là những người sau khi chết sẽ được bay thẳng về Thiên Đàng. Còn hỏa ngục là nơi chỉ dành cho những kẻ đã phạm những tội ác nặng nề chống lại nhân loại, như: Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nero, Giu-đa, Napoléon, hay những bọn khủng bố, nhửng kẻ giết người như ngóe, bọn phản bội hại người hay những kẻ cực đoan đã gây nên bao tang thương đau khổ và chết chóc cho hàng triệu người vô tội, tiêu hủy cả một nền văn hóa của nhân loại, và không ngừng gieo rắc hận thù, ghen ghét trên khắp thế giới.
Cái hố sâu trong hỏa ngục Vâng, theo quan niệm đại chúng thì những kẻ đã gây nên những tội ác như thế cần phải được trừng phạt một cách đích đáng, và - dựa theo luật công bằng - sự trừng phạt đó có thể vượt sang cả bên kia thế giới vĩnh cửu nữa. Tuy nhiên, trong cuộc sống cụ thể, người ta thường dùng danh từ «hỏa ngục» như một cách so sánh hay có tính cách ẩn dụ, để ám chỉ những khó khăn to nhỏ trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ: Trong một chuyến đi nghĩ hè xa mà phải ngồi chờ cả ngày tại phi trường hay tại nhà ga xe lửa, hết ngồi rồi lại đứng, bởi vì máy bay hay tàu bị trục trặc hay vì một sự cố nào đó xảy ra, nên phải hủy chuyến bay hoặc phải đến trể; khi khởi công xây nhà mà trời cứ mưa tầm tả cả ngày; khi con cái và mọi người trong nhà đau ốm liên miên, nhưng tiền dành dụm lại không còn, vay mượn thì không ai cho; hay: cảnh phải lam lũ vất vả cả ngày mà kiếm không đủ cơm nuôi gia đình; nhất là khi cuộc sống trong gia đình hoàn toàn thiếu đầm ấm, bất hạnh phúc, vợ chồng lục đục bất hòa với nhau suốt ngày v.v… Bấy giờ đó quả là «hỏa ngục!» và người ta mới cảm nhận được sự đau đớn và thất vọng chua xót trong lòng trước niềm khao khát được cơm no áo ấm, được một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc. Nhưng cả khi phải đối mặt với những thử thách và khó khăn vất vả như thế, người ta cũng chưa hẳn tin hỏa ngục như là một nơi có thực. Trái lại, người ta đã tương đối hóa hỏa ngục và sử dụng nó như một kiểu chơi chữ, như một nơi giả tưởng để diễn tả một sự chịu đựng đắng cay nào đó mà thôi. Đó chính là điều mà các nhà tâm lý học, triết gia và văn họa sĩ của thế ký XX vừa qua đã làm, và quan điểm đó của họ đã để lại một ảnh hưởng sâu rộng trong ngôn ngữ cũng như trong tư tưởng của các tầng lớp xã hội. Quả vậy, nhà phân tâm học Sigmund Freud và giáo sư tâm lý học C.G. Jung đã diễn tả ý niệm «hỏa ngục» chỉ còn như là cái vực sâu thẳm nhất của nội tâm con người; còn trong cuốn tiểu thuyết nổi danh «Doctor Faustus» của ông, văn hào Thomas Mann đã coi «hỏa ngục» như là biểu hiệu cho sự man rợ ghê tởm, xảy ra dưới chế độ diệt chủng Đức Quốc Xã; trong khi đó, triết gia Jean-Paul Sartre - bằng một hình thức hiện sinh nhẹ nhàng – lại cho thấy rằng «hỏa ngục» luôn luôn là «những người khác». Hỏa ngục được coi như một nơi hoàn toàn và tuyệt đối không có sự hiện diện của Thiên Chúa, dù một lời nói hay một dấu hiệu cũng hoàn toàn không. Tuy nhiên, điều đó không luôn luôn như vậy. Đặc biệt nhất là các bức hình thời trung cổ trình bày về ngày Phán Xét Chung - mà ngày nay người ta còn tìm thấy trên trần các nhà thờ chánh tòa và vương cung thánh đường cỗ hay trong bản văn Sách Khải Huyền của thánh Gioan tông đồ - đã vẽ lên một cách rõ ràng và đầy ấn tượng tình trạng của những kẻ bị kết án trầm luân trong hỏa ngục. Trong khi đó, chữ «hỏa ngục» trong tiếng Do-thái là «Ge hinnom», hoàn toàn chỉ có nghĩa là vùng thống trị của ma quỷ mà thôi; khác với chữ «âm phủ» (nước của những kẻ chết) mà trong tiếng Do-thái là «Scheol» và cũng khác với các quan niệm Hy Lạp thời thượng cổ về nước của kẻ chết, tức thế giới của tối tăm. Những trình bày về hỏa ngục chỉ muốn nhắm cảnh giác và làm cho người xem động lòng lo sợ, hầu họ biết ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống, dựa trên ý nghĩa Kinh Thánh và những lời dạy của Chúa Cứu Thế, ví dụ: «Thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hỏa ngục.» (Mt 18,8-9) Trong vùng ảnh hưởng nền văn hóa Tây phương nói chung, những hình ảnh trình bày về hỏa ngục hay những suy diễn tưởng tượng về hỏa ngục rất đa dạng. Vâng, có khi hỏa ngục được coi như một nơi của thù oán; có khi lại được coi như một lò lửa cháy bừng bừng đến vô tận; và nhiều khi còn được coi như núi hỏa ngục. Trong cuốn tiểu thuyết nổi danh «La Divina Commedia» của ông, Dante Alighieri (1265-1321), một thi hào người Ý, còn trình bày hỏa ngục như một cái hố sâu mà Satan đã gây ra khi y bị rơi từ Thiên đàng xuống. Còn các danh họa Kitô giáo, như Hieronymus Bosch (1450-1516), Peter Paul Rubens (1577-1640), Sandro Botticelli (1445-1510), hay Michelangelo (1475-1564), đều trình bày hỏa ngục như chặng đường cuối cùng của cuộc sống con người, chứ không còn là nơi thanh luyện hay cải hóa nữa. Và có lẽ đó cũng là quan niệm chung của các nền văn hóa và các tôn giáo khác. Điều đó cũng nói lên rằng các danh họa Kitô giáo trên đã luôn luôn trung thành với các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội. Bởi vì dựa theo lời Đức Giêsu trong Phúc Âm, nhiều thánh Giáo phụ từ thế kỷ I cho tới thế kỷ III, ví dụ như Clemens de Rom, Irenée de Lyon, đã khẳng định rằng người ta không được phép đùa giỡn với một cuộc sống bên kia biên giới sự chết được, vì đó là một sự thật minh nhiên. Và sau cái chết chỉ còn lại hai nơi cư ngụ duy nhất cho con người: Hoặc Thiên đàng hoặc hỏa ngục, có lẽ tạm thời còn có một nơi tạm trú thứ ba, đó là Lửa Luyện Tội. Ngoài những chỗ đó ra, tuyệt đối không còn bất cứ nơi chốn nào khác nữa. Thế nhưng, bổng nhiên Origênê (185-254), thuộc hàng Giáo phụ, lại giới thiệu một suy tư thần học mới: Thuyết «Apocatastase» - sự cứu vớt muôn loài muôn vật. Origênê cho rằng sau cuộc sống đời này, tất cả mọi tạo vật đều được trở về cùng Thiên Chúa Tạo Hóa, còn hỏa ngục hoàn toàn trống rỗng. Đó quả là một quan điểm có thể được coi là hấp dẫn, mang tính cách nhân bản và tiến bộ. Vì thế, nhiều Giáo phụ thuộc thế kỷ IV và thế kỷ V, như Gregoire de Nyssan đã chấp nhận thuyết đó. Nhưng thuyết Apocatastase của Origênê chỉ kéo dài đến năm 553 thì hoàn toàn chấm dứt. Công đồng đại kết Constantinople II đã tuyên cáo: «Nếu ai nói hay nghĩ rằng hình phạt dành cho ma quỷ và những kẻ vô đạo chỉ có tính cách tạm thời và trong một lúc nào đó sẽ được chấm dứt hay sẽ có sự hồi phục lại cho ma quỷ và những kẻ vô đạo, thì bị dứt phép thông công.» Lời khẳng định: Từ hỏa ngục không hề có con đường nào dẫn tới cùng Thiên Chúa, là một quan điểm trải qua bao thế kỷ đã được chứng thực bởi các thị kiến của nhiều vị thần bí, như Anna Catharina Emmerick, Anna Schäfer hay chân phước Padre Piô, v.v…và trên nguyên tắc, mãi cho tới nay Giáo Hội vẫn không chối bỏ. Trái lại, trong cuốn Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (SGLHTCG), được phát hành năm 2005, còn được xác định: «Giáo Hội dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời. Sau khi chết, linh hồn kẻ còn mang tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu cực hình ‘lửa đời đời’» (SGLHTCG phần 1, đoạn 2, chương 3, mục 12, số 1035). Chính Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI trong cuốn sách mới nhất của Người «Chúa Giêsu thành Na-da-rét» cũng đã xác nhận rằng có hỏa ngục, và là một nỡi vĩnh viễn dành cho những ai chối từ tình yêu Đức Kitô.
Án phạt đời đời Tuy nhiên, ở đây người ta cũng có thể chân thành nêu lên câu hỏi: Ngày nay còn có bao nhiêu người và bao nhiêu cơ quan đoàn thể trong Giáo Hội thực sự coi trọng những phát biểu đó nữa? Trong thời đại ngày nay, ai còn đầy xác tín nói về hoả ngục và về án phạt đời đời? Và nếu trường hợp có người còn can đảm dám làm chuyện đó, thì anh ta sẽ quả quyết thế nào về hỏa ngục: là một nơi chốn, một tình trạng hay chỉ là một cảm giác? Thế hệ của những nhà thần học cũng như những vị giáo phẩm trong Giáo Hội ngày nay, xem ra có một sự đồng thuận cho rằng, hỏa ngục không phải là một nơi chốn dành để trừng phạt những kẻ có tội với các đau khổ thể xác, nhưng là một điều có tính cách trừu tượng, hay nói đúng hơn, đó là sự «xa lìa Thiên Chúa», như chính ĐTC Gioan Phaolô II khi sinh thời cũng đã từng phát biểu. Nhưng nói chung, tất cả những nhà thần học này đều trung thành với giáo huấn của Giáo Hội về hỏa ngục. Nhưng bên cạnh đó còn có những nhà thần học khác đã tìm cách dựa theo khoa chú giải Kinh Thánh có tính cách phê bình sử quan, để đưa ra một con đường trung dung khác, thay vì quan điểm «sự cứu rỗi cho muôn loài muôn vật» và «sự hiện hữu của hỏa ngục». Theo quan điểm thứ ba này thì hỏa ngục hiện hữu thực sự và như một «khả hữu thực tiễn» (Karl Rahner). Nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ có một linh hồn nào đó sẽ bị lạc đường sa vào chỗ ấy, bởi lẽ tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thì bao la vô tận.
Sự chia lìa vĩnh cửu với Thiên Chúa Đặc biệt tại đa số các cộng đoàn Kitô giáo thuộc vùng lãnh thổ nói tiếng Đức, xem ra người ta có khuynh hướng chọn lối cắt nghĩa thứ hai. Các giáo sĩ ngày nay ít đề cập đến hỏa ngục trong các bài giảng của mình, vì họ thường quan niệm rằng: trong vấn đến tín ngưỡng, nên tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người, hay nói rõ hơn, nên để giáo dân tự do sống đạo theo sự ý thức của họ, chứ không nên giữ đạo vì do sợ hãi khỏi phải xuống hỏa ngục. Phải chăng đây là một quan niệm hoàn toàn đúng đắn? Một điều không thể phủ nhận được là quan niệm trên đã từ từ làm cho người ta quên đi sự nguy hiểm về cuộc sống xa lìa vĩnh cửu với Thiên Chúa, nguồn sống và nguồn mọi hạnh phúc của con người. Đồng thời nó cũng dẫn tới một hậu quả khác nữa, đó là khuynh hướng tương đối hóa tội lỗi, nghĩa là chỉ có tội nhẹ, chứ không còn có tội trọng nữa; và điều đó cũng muốn nói rằng con người không còn nguy hiểm sợ mất sự sống vĩnh cửu nữa. Hay sự im lặng không muốn đề cập tới hỏa ngục như thế còn có những lý do khác nữa? Phải chăng sự im lặng đó còn nhắm tránh cho người tín hữu mặc cảm tội lỗi, bởi vì trong nhiều thế kỷ qua, các bài giảng về hỏa ngục đã làm cho các tín hữu đâm ra áy náy sợ hãi, vì lo mất linh hồn? Hoặc: phải chăng vì do những lý do quyền lực, kinh tế hay chính trị, v.v… mà người ta đã từng làm cho cuộc sống tâm linh của các tín hữu trở thành lệ thuộc và mất tự do, khi trình bày cho họ hình ảnh về hỏa ngục? Nếu sự thể thực sự là như vậy, thì cần thiết phải tìm cách giải quyết ngay cái mặc cảm phiền phức đó. Nhưng phải chăng để làm cho công cuộc Phúc Âm hóa của Giáo Hội, mà Đức Gioan Phaolô II cũng như Đức Bênêđíctô XVI đã khởi động và cổ vũ, trở nên khả tín và khả thi, nếu khi người ta trình bày công cuộc Cứu Rỗi của Đức Kitô và viễn tượng về Nước Trời, tuyệt đối không được đả động tới những thực tại ngược lại, hay nói rõ hơn, không được đề cập tới hỏa ngục? Nếu sứ mệnh của Giáo Hội không chỉ dừng lại nơi những hoạt động thiêng liêng và từ thiện được dành cho mọi tầng lớp xã hội như các đoàn thể từ thiện khác vẫn làm, thì Giáo Hội cần phải tái khám phá ra sự hiện hữu của hỏa ngục như một biểu hiệu sự công bằng của Thiên Chúa, chứ không phải như một dụng cụ để hành hạ hay trả thù. Vâng, mặc dù nói đến hỏa ngục là một điều ít ai muốn nghe, nhưng sự hiện diện của hỏa ngục cũng góp phần vào việc sống trọn tinh thần Phúc Âm.
Tầm quan trọng của câu kinh vắn tắt nhưng rất hiệu lực này được chính Chúa Giêsu bảo đảm trong những lần Ngài tâm sự với Chị Consolata Bêtrone, một nữ tu ở Tertona Ý, liên tiếp trong những năm 1934-1946. Xin đọc lại đôi lời trích dẫn. Lần đầu tiên, Chúa Giêsu căn dặn chị Consolata. "Cha chỉ xin con một kinh Mến Yêu liên lỉ: "GIÊSU - MARIA - GIUSE, Con Mến Yêu, Xin Cứu Rỗi Các Linh Hồn." "Hỡi Consolata, con hãy yêu mến Cha! Con sẽ làm cha sung sướng, khi con đọc kinh ấy. Con hãy nhớ rằng chỉ đọc một kinh nầy đủ định đoạt phần rỗi muôn đời của một linh hồn. Bởi vậy con phải tập biết ân hận mỗi khi con bỏ đi một lần không đọc "GIÊSU - MARIA - GIUSE, Con Mến Yêu, Xin Cứu Rỗi Các Linh Hồn." Quả là kỳ diệu gần như khó tin khi Chúa Giêsu tuyên bố lời kinh vắn tắt này làm hoan lạc lòng Ngài và chỉ một kinh định đoạt phần rỗi vĩnh cửu của một linh hồn... Lời kinh vắn tắt này là gì nếu không phải là phương thế trọng đại được Thiên Chúa nhân lành đầy thương xót ban tặng cho chúng ta để yêu mến Ngài, để làm cho Ngài được hạnh phúc và cứ mỗi lần như vậy cứu được một linh hồn đưa vào vĩnh cửu.... Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần lời hứa đầy an ủi này là: "Hỡi con đừng để thời giờ trôi qua vô ích, bởi lẽ mỗi một kinh MẾN YÊU là một linh hồn đấy, con ạ..." Ngày 10-10-1935. Rất Thánh Trinh Nữ cho Chị biết về giá trị của Kinh nầy: "Chỉ trên Thiên đàng, con mới thấy giá trị phong phú của nó đối với các linh hồn." Chúa Giêsu hết lòng mong muốn lời kinh vắn tắt này được dâng lên không ngừng, hàng chục hàng trăm lần mỗi ngày, Ngài tỏ ý muốn ấy cánh rõ ròng ngày 15-10-1934: "Hỡi Consolata, Cha có quyền trên con, nên Cha muốn con đọc không ngừng: "GIÊSU - MARIA - GIUSE, Con Mến Yêu, Xin Cứu Rỗi Các Linh Hồn." Nó phải là lời kinh mỗi sáng và cũng là câu kinh cuối cùng của mỗi đêm. Cha muốn như vây. Không còn cách phát biểu nào rõ ràng hơn Ngài đã nói: "Từ sớm mai khi thức dậy cho đến tối khi đi ngủ" Nói cách khác, chúng ta có đọc đến bao nhiêu lần cũng không thể cho là đủ. Bởi nó chính là bằng chứng "tình" chúng ta yêu mến Ngài, muốn cho Ngài được vui thích, và mỗi lần như vậy, cứu được một linh hồn vào cõi đời đời. Trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha, 6-9-1936 Ngài đã nhắc lại lời hứa với Chị là: "Quả đúng tất cả mọi giải quyết đều được gồm tóm trong kinh MẾN YÊU này. Nhờ nó Cha sẽ trao cho con chiến thắng ớ Tây Ban Nha để thế giới biết Cha yêu thích kinh MẾN YÊU liên lỉ ấy ngần nào." Chị Consolata đã cầu nguyện nhiều năm cho một trong các anh em của chị là cậu Nicolas được ơn trở lại. Tháng 6 năm 1936, Chúa Giêsu cho chị biết: "Cha ban cho Nicolas lại cho con không phải nhờ những đền tội hy sinh của con, nhưng chính để thưởng con và đà không ngưng dâng lên cho Cha lời nguyện TÌNH YÊU này. Bởi điều Cha trông chờ nơi tạo vật là: "Chúng yêu mến Cha." Kinh MẾN YÊU này cũng có giá trị đền tội (8-10-1935): "Cha chẳng muốn con ngâm nga nhiều kinh, bởi lẽ tác dụng TÌNH YÊU thì phong phú hơn. Chỉ một: "GIÊSU - MARIA - GIUSE, Con Mến Yêu, Xin Cứu Rỗi Các Linh Hồn," đủ đền bù ngàn lời lộng ngôn. Một lần khác ngài tỏ rõ sở thích của mình: "Hỡi Consolata, con đem đặt trên giá cân; một bên tất cả những việc làm đạo đức trong suốt ngày và bên kia một ngày trôi qua với duy một kinh "MẾN YÊU" nhưng liên tục, Cha sẽ chuộng giá cân sau hơn tất cả mọi lễ dâng khác." Ngày 13-9-1936: "Con hãy giữ vũng lập trường đừng bao giờ ngừng đọc kinh này. Cha chỉ muốn có thế. Hãy trung thành với nó bằng cách thỉnh thoảng đọc đi đọc lại. Hỡi Consolata Cha sè ban cho con mọi sự." Để giúp Chị mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm (1935). Chúa Giêsu đã khuyên chị: "Con sẽ làm tuần cửu nhật nao dâng cho Mẹ Cha? Này, con hãy dâng cho Người một kinh đọc không ngừng "GIÊSU - MARIA - GIUSE, Con Mến Yêu, Xin Cứu Rỗi Các Linh Hồn." Vì như vậy là dâng cho Người tất cả rồi đấy." Còn về những kinh phụ thêm vào luật định Chúa dạy Chị (12-12-1935): "Cha thích con đọc kinh MẾN YÊU này hơn mọi kinh." Ngài đã giải thích thêm cho Chị rằng lời cầu xin cho các linh hồn trong kinh này bao gồm tất cả các linh hồn (20-06-1940): "GIÊSU - MARIA - GIUSE, Con Mến Yêu, Xin Cứu Rỗi Các Linh Hồn," hàm chứa tất cả các Đẳng Linh Hồn trong luyện ngục cũng như hết các linh hồn trong Giáo Hội chiến đấu; các linh hồn tội lỗi cũng như các linh hồn vô tội, những người hấp hối, những kẻ vô thần..." Kinh MẾN YÊU liên lỉ không phải là một cái gì sơ thiển một công thức máy móc, nhưng là một khúc ca tình yêu đích thực không buộc phải đọc bằng miệng môi mấp máy, vì kinh MẾN YÊU không chỉ là một câu để đọc ngoài miệng. Nó là một hành vi nội tâm của tâm trí suy nghĩ để yê thương, của ý chí muốn yêu và đang yêu. Kinh MẾN YÊU liên lỉ là hành động bộc lộ liên tục trong thinh lặng chan chứa tình ta yêu Chúa, yêu Mẹ, yêu Cha Thánh Giuse và yêu các linh hồn. Chính Chúa Giêsu giới thiệu và bảo đảm giá trị giáo lý của kinh MẾN YÊU liên lỉ này (16-11-1935): "Nếu tạo vật nào thành tâm muốn yêu mến Cha và biến đổi họ từ sớm mai cho đến chiều tối thành một kinh MẾN YÊU độc nhất - lẽ dĩ nhiên với tất cả tấm lòng Cha sẽ sẵn sàng chấp nhận mọi điên dại vì linh hồn này. con hãy ghi nhớ lời này." Vì thế phải yêu mến không ngừng với tất cả tấm lòng. Linh hồn có thể sẽ không nếm thấy cái hương vị ngọt ngào của nó. Nhưng linh hồn chỉ cần muốn yêu là đủ rồi.
Tôi còn nhớ hồi còn nhỏ, để động viên chúng tôi siêng năng "đi viếng nhà thờ" (*) để cầu nguyện cho các linh hồn vào tháng 11 – Tháng Các Linh Hồn, bà nội tôi thường kể cho anh em chúng tôi nghe câu chuyện sau đây: "Ở một xứ đạo nọ, có một người đàn ông sống đạo rất khô khan. Ít khi anh ta tự đi nhà thờ đọc kinh xem lễ một mình. Anh chỉ đi nhà thờ, khi nào đứa con trai cưng độc nhất của anh mới lên bảy đòi đi nhà thờ mà thôi. Số là vào một buổi chiều trong Tháng Các Linh Hồn, khi đứa con thấy bạn bè mình đều được cha mẹ dẫn đi "viếng nhà thờ" để đọc kinh cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã qua đời, nó cũng đòi đi cho bằng được, để cầu nguyện cho ông bà nội đã qua đời. Sau khi đưa hết lý lẽ để cản ngăn con đừng đi nhà thờ mà không thành công, anh ta bèn chiều lòng con và đưa nó đến nhà thờ. Nhưng khi đến nhà thờ, anh ngồi chờ con ngoài hành lang nhà thờ, chứ không vào đọc kinh trong nhà thờ với con. Anh dặn con: "Khi nào con đọc kinh xong thì ra, ba sẽ đưa con về !" Nhưng vì ngồi chờ con quá lâu ở ngoài nhà thờ, anh ta đã ngủ quên và không biết giờ kinh đã xong lúc nào. Trong khi ngủ, anh mơ thấy một đoàn các Thiên Thấn đông vô kể, từ trên trời bay xuống, vị nào cũng ì ạch mang đầy những bao bị chứa đầy những thứ có màu trắng như bông và bốc mùi thơm ngon không thể diễn tả được. Quá tò mò, anh chạy theo một vị Thiên Thần và hỏi nhỏ đó là thứ gì vậy. Vị thiên Thần trả lời đó là các ơn thánh mà các người trên thế gian đã kiếm được qua việc đọc kinh lần hạt và "đi viếng nhà thờ", và gửi xuống cho các linh hồn thân nhân của họ đang bị giam trong Ngục Luyện Tội. Bây giờ các Thiên Thần được lệnh của Chúa đi giao cho mỗi người. Nghe thế anh cũng rón rén đi theo các Thiên Thần và thấy các linh hồn rất vui mừng khi nhận được rất nhiều quà "ơn thánh" mà bà con thân thuộc của họ gửi đến và cám ơn rối rít. Sau cùng, còn lại một món quà nho nhỏ, các Thiên Thần tìm đến một phòng giam trông rất hoang vắng và gõ cửa: "Này, ông bà cụ có quà của cháu nội gửi cho đây, ra lãnh" ! Bổng nhiên anh nghe có tiếng trong nói vọng ra vừa vui mừng vừa ngạc nhiên: "Trời ơi, chúng tôi mà còn có người tưởng nhớ tới chăng ! Vì từ khi chết cho tới nay đã bao năm rồi mà chúng tôi đâu có ai gửi quà gì cho đâu ! Thật đứa cháu nội quý hóa biết chừng nào !» Nhưng khi mở cửa tù ra lãnh quà "ơn thánh" của đứa cháu nội gửi, hai ông bà trông dáng người hốc há gần còm, nhưng rất mừng và cám ơn các Thiên Thần rối rít. Sau đó, khi hai ông bà trông thấy anh chàng đi theo các Thiên Thần là chính con trai mình, ông bà quá tức giận, bèn lấy cái gậy đang cầm trong tay phang vào đầu anh ta một cái thật mạnh và quát lớn: "Thằng con bất hiếu, mi còn mò tới đây làm gì nữa ! Mi quả là đứa con vô phúc ! Mi coi gương đứa con của mi mà ăn ở cho phải đạo … !" Bị đánh một cú quá bất ngờ và đau điếng cả người, anh chàng bèn tỉnh giấc và thấy ông từ coi nhà thờ đang đứng trước mặt và la: "Mi là ai mà giờ này còn nằm trước cửa nhà thờ ngủ như thế này ?" Bấy giờ anh ta mới biết là mình mơ. Và cú gậy vừa rồi là do ông từ đánh, chứ không phải ba mẹ anh đánh. Vì sau khi tan giờ đọc kinh thì trời cũng đã khuya, nên ông từ phải đi đóng cửa nhà thợ lại, và khi đi ngang thấy có người đàn ông nằm ngủ quên trước cửa nhà thờ như thế, ông từ đã lấy cây gậy đang cầm trong tay gõ vào đầu để đánh thức ! Trên đường lủi thủi về nhà, người đàn ông đã suy nghĩ về giấc mơ rất nhiều. Cuối cùng anh ta cương quyết đổi đời, cương quyết sống đạo đức hơn, siêng năng đi xem lễ thường xuyên hơn và cầu nguyện cho cha mẹ anh ta nhiều hơn !" Ðối với cá nhân tôi, câu chuyện đó đã để lại một ảnh hưởng rất mạnh trên tuổi trẻ của tôi, nhất là nó đã động viên tôi rất nhiều trong việc cầu nguyện cho các linh hồn, vì các ngài đang chờ đợi nơi những người còn sống chúng ta "quà ơn thánh" mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ qua các việc lành, qua kinh nguyện và nhất là qua Thánh Lễ chúng ta dâng lên Người, trong sự thông hiệp với công trình cứu chuộc của Ðức Kitô, Con Một Người ! Ðó chính là sự thật được gói ghém trong lối diễn tả đơn sơ và cụ thể của câu chuyện. ---------- (*) Thời trước Công Ðồng Vatican II, vào chiều ngày lễ Các Thánh và ngày lễ Các Ðẳng Linh Hồn, tất cả các xứ đạo đều có truyền thống "Ði Viếng nhà Thờ" để cầu cho các linh hồn, tức: Vào nhà thờ làm dấu thánh giá, đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và một kinh Sáng Danh. Sau đó lại đi ra khỏi cửa nhà thờ, và lại tiếp tục đi vào nhà thờ đọc các kinh như trước đó, và lại đi ra khỏi cửa nhà thờ, rồi lại đi vào nhà thờ. Và cứ lặp đi lặp lại như thế mãi, tùy theo khả năng và thời gian của mỗi người cho phép. Với sự thâm tín rằng mỗi lần ra-vào nhà thờ đọc kinh như thế sẽ mang lại ân xá cho các linh hôn !
Chúa nhật 30-11-1919, bà Mechtilde Thaller, nhũ danh Von Schoenwerth, tín hữu Công Giáo Đức, êm ái trút hơi thở cuối cùng, hưởng dương 51 tuổi. Sau khi tắt thở, gương mặt bà biểu lộ niềm hạnh phúc và an bình khôn tả. Trong số di vật của bà, người ta tìm thấy cuốn ”Nhật Ký” ghi lại các đặc ân bà nhận lãnh. Một trong những đặc ân đó là được tiếp xúc thân mật và thường xuyên với các Thiên Thần, khởi đầu là Thánh Thiên Thần Bản Mệnh của bà. Bà cũng có liên hệ với các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Bà nhận lệnh cầu nguyện và hy sinh cho các Linh Hồn. Bà viết: Một buổi tối, Thiên Thần Bản Mệnh hỏi xem tôi có bằng lòng bắt mối giây liên lạc chặt chẽ với các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình không. Tôi trả lời phải xin phép Cha Linh Hướng trước đã. Thiên Thần nói: - Được, hãy hỏi ngay đi, càng sớm càng tốt, vì sáng tinh sương ngày Lễ Nến, ta sẽ đến để biết câu trả lời. Từ đây tới đó, Cha Linh Hướng có đến 9 ngày để suy nghĩ. Nhưng nên nhớ rằng: nếu nhận lời, chị phải chịu mất hết niềm vui, ngoại trừ trong lúc cầu nguyện. Rồi chị sẽ phải chịu nhiều nỗi đau đớn đắng cay, nhưng chị không nên than phiền gì hết, trái lại, nên chấp nhận tất cả, giống y như các Linh Hồn trong chốn Luyện Hình. Thánh giá của chị sẽ còn nặng hơn gấp trăm! Hãy suy nghĩ về tất cả điều đó, rồi chọn lựa! Sau khi Cha Linh Hướng cho phép, tôi thưa vâng với Thánh Thiên Thần Bản Mệnh. Chiều nay vào lúc 5 giờ, tôi ngồi trước bức ảnh Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU và cầu nguyện cho các Linh Hồn, bỗng chốc tôi thấy Thiên Thần Bản Mệnh đứng cạnh tôi. Bằng giọng hối hả ngài nói: - Hãy chuẩn bị và đừng sợ hãi gì cả! Có tiếng gõ cửa, tôi lo lắng trả lời: - Mời vào! Cha Phó quá cố bước vào phòng. Dáng điệu ngài trông thật thảm thương và tiều tụy. Bằng một giọng yếu ớt, ngài nói: - Mãi đến hôm nay tôi mới tới được nhà chị. Tôi sung sướng không tả xiết. Mọi người đều quên tôi, ngoại trừ chị. Vì lòng mến Chúa, xin chị nói với Cha Sở đừng quên hẳn tôi. Mỗi ngày tôi đều mong chờ lời cầu nguyện của Cha Sở, và ngài bắt đầu quên tôi. Phần tôi tôi luôn tha thiết cầu nguyện cho ngài. Nhưng giờ đây, hoàn cảnh chắc hẳn sẽ khả quan hơn, vì tôi có thể đích thân đến nhà ngài! Tôi liền hỏi Cha Phó còn phải chịu đau khổ lâu không, bởi vì người ta đã xin không biết bao nhiêu Thánh Lễ cầu nguyện cho Cha rồi mà! Cha vừa khóc nức nở vừa trả lời: - Trong tất cả Thánh Lễ này, tôi chỉ nhận được một. Bởi vì, khi còn sống, tôi đã cử hành Thánh Lễ vào những giờ giấc thất thường, khiến nhiều người không tham dự được, vì không biết giờ nào. Và THIÊN CHÚA Công Minh giữ lại tất cả các Thánh Lễ dâng cầu cho Linh Hồn tôi, cho đến khi nào những người hụt tham dự Thánh Lễ ngoài ý muốn, được đền bù cân xứng! Tôi hỏi Cha Phó quá cố xem tôi phải giúp ngài bằng cách nào. Ngài trả lời: - Bằng sự kiên nhẫn và lời cầu nguyện! Tôi hứa với Cha tôi sẽ chịu đau khổ cho ngài ngay đêm nay và sẽ cầu nguyện cho đến khi nào ngài được giải thoát khỏi Lửa Luyện Ngục. Tôi cũng hỏi Cha nước mắt Cha đổ ra tràn trề có thoa dịu phần nào nỗi khổ phải chịu không, Cha đáp: - Có, có chứ, bởi vì những giọt nước mắt này thanh luyện Linh Hồn tôi. Có điều nó làm tôi đau lắm. Tất cả đau khổ trên toàn thế giới, gọp chung lại, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, cũng không là gì, nếu đem so sánh với một giây phút chịu khổ trong Lửa Luyện Tội! Tôi liền chào từ biệt Linh Hồn tội nghiệp đáng thương. Thật là đẹp đẽ và cảm động biết bao khi thấy vị Thiên Thần Bản Mệnh của tôi cung kính tháp tùng Linh Hồn vị Linh Mục quá cố ra tới cửa. Linh hồn biến đi và Thiên Thần Bản Mệnh trở lại với tôi. Cả hai chúng tôi cùng cầu nguyện thật sốt sắng. Khi Linh Hồn Cha Phó được rước vào Thiên Đàng, tôi thấy một Phụ Nữ cao lớn đẹp đẽ bước vào trước. Bà giơ cao một hộp bằng ngà và mở ra. Một làn mưa nhẹ, những giọt sương óng ánh tuyệt đẹp, nức mùi thơm ngào ngạt, tuôn đổ trên đầu vị Linh Mục. Gương mặt ngài rạng rỡ vui tươi. Trong giây phút cực kỳ vui sướng, ngài giang hai tay ra. Người phụ nữ lộng lẫy lại quỳ xuống và xỏ vào chân vị Linh Mục đôi giày óng ánh như vàng. Tôi liền hỏi: - Bà là ai? Bà đáp: - Ta là Bà Chúa Nhân Từ! Vị Linh Mục này là một trong những kẻ luôn bước theo vết chân ta. Chính vì thế ta xức cho ngài dầu thơm hoan lạc và đưa ngài vào hưởng phúc trường sinh. Suốt cuộc đời trần thế, vị Linh Mục luôn thực thi ”đức từ bi”. Do đó, ngày hôm nay, chính ta là ”Bà Chúa Nhân Từ”, ta đến gặp vị Linh Mục nơi cửa Thiên Đàng! (Frédéric de Lama, ”LES ANGES”, Editions Christiana, 1987, trang 76-78).
Lm. Trần Công Nghị - Vietcatholic.net VietCatholic News (02/11/2005) Vatican - Vào hôm Lễ Các Thánh trong cuộc gặp gỡ với các tín hữu, ĐGH Benedictô XVI đã nói rằng: “người Kitô hữu không nên sợ cái chết”.
Khi nói về truyền thống cầu nguyện cho các người thân nhân đã qua đời, đặc biệt trong tháng 11 kính nhớ các linh hồn, ĐGH nhận định rằng việc thực hành cầu nguyện cho các linh hồn cho chúng ta cơ hội tưởng niệm đến cái chết, biết chắc rằng tất yếu nó sẽ đến, và học biết cách đương đầu vvới sự kiện này trong tinh thần lắng đọng và tin tưởng vào Chúa”. Ngài nói thêm: “Tôi hợp ý trong tinh thần với những ai đang đi tới các nghĩa trang để cầu nguey65n cho người quá cố”. Ngài cũng cho biết trong ngày, Ngài sẽ xuống hầm mộ đền Vatican để viếng mồ của các đáng Tiền Nhiệm, đặc biệt đức cố Giáo Hoàng John Paul II. Ngày hôm nay có từng hàng khách hành hương đã xếp hàng dài chờ vào viếng mộ các vị Giáo Hoàng, nhất là ĐGH John Paul II. Có rất đông các nhóm hành hương người Ba Lan. Vì hôm nay là cũng là ngày mà Đức John Paul II kỉ niệm chịu chức linh mục cùng ngày vào năm 1946 trước đây.
Cứ mỗi độ tháng các linh hồn tôi lại nhớ đến câu chuyện “xin lễ” cười ra nước mắt của một linh mục kể lại năm nao. Câu chuyện kể về một bà góa nghèo ở một giáo xứ nọ, một hôm bà lão chống gậy khập khiễng đến gặp cha chánh xứ để xin lễ. Bước vào văn phòng giáo xứ, bà cụ mở lời: Xin cha cho con “xin lễ đời đời.” Vừa nghe hết câu, cha xứ trợn mắt nhìn bà cụ đang đứng trước mặt mình, ăn mặc sơ sài, dáng dấp già yếu làm cha xứ thoạt nhớ đến hình ảnh bà góa nghèo ở trong Tin Mừng của Thánh Mácô, có điều bà cụ này không đến với vài đồng xu, mà trên tay cầm cả một phong thư dầy cộm và chắc có lẽ đây cũng là cả gia tài mà bà cụ gom góp được bấy lâu nay. Sau một thoáng xúc động, cha chánh xứ hỏi: “Cụ à, cụ xin lễ đời đời là ý gì vậy?” Bà cụ thật thà trả lời: “Là khi nào con qua đời, cha làm lễ cho con, bây giờ xin cha giữ tiền trước giùm con” Cha xứ cũng thành thật nói: “Sao vậy cụ! Cụ có dư giả gì đâu, xin cụ cứ mang tiền về đi để lo mua thức ăn, thuốc men bổ dưỡng cho cụ.” Bà cụ mở mắt tròn xoe, và nói: “Thế còn lễ cho con?”. Cha xứ lại phải cố gắng để trấn an bà: “Lo gì bà! Con cháu sẽ lo cho bà. Bà yên tâm đi.” Bà cụ vẫn cố nài nỉ: “Nhưng lỡ nếu con cháu không lo xin lễ cho con thì thật là khốn khổ cho thân con.” Lần này cha xứ phải giải thích cặn kẽ hơn: “Bà yên tâm, nếu nhỡ con cháu có quên thì còn có Chúa. Chúa là Cha của chúng ta mà. Nếu con cháu có quên bà cụ thì Chúa sẽ không quên bà đâu. Không ai thương bà bằng Chúa. Chúa thương lo cho bà còn hơn cả bà lo cho chính mình nữa đó. Chúa đã nói rồi mà: có bà mẹ nào nỡ lòng bỏ rơi con mình đã cưu mang đâu, nhưng giả như có bà mẹ nào như thế thì Chúa cũng không bao giờ bỏ rơi bà đâu.” Bà cụ mở mắt tròn xoe, tay nắm chặt, gật gật đầu như bắt đầu thấm ý. Cha quản xứ nói tiếp: “Bà cứ nghe tôi đi, bà cụ cầm cái gói tiền này đem về đi. Nhớ để cho Chúa lo. Tôi cũng không bảo đảm đâu. Nếu lỡ tôi cũng quên, cũng sơ sót thì sao? Chỉ có Chúa thương bà cụ là bảo đảm nhất thôi.” Bà cụ đứng tần ngần một hồi lâu rồi mới chịu cầm lại gói tiền, không quên cám ơn cha rồi ra về. Cha chánh xứ nhìn theo dáng đi tiều tụy của bà cụ mà thấy thương, chợt nghĩ trong lòng: “Không khéo bà cụ lại đem gói tiền tới một nhà thờ khác để “xin lễ đời đời” thì thật là thương cho bà cụ.” Nghĩ đến cái chết của mình, lắm lúc chúng ta chỉ nghĩ đến Luyện Ngục mà vì thế chúng ta thường quên đi Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Chúng ta thường biến Thiên Chúa thành ông chủ nợ khắt khe lo đòi cho tới đồng xu cuối cùng mới chịu buông tha cho con nợ của mình. Vì thế, thay vì sống phó thác trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa thì lại tính toán, muốn sòng phẳng, đôi khi ỷ lại vào chính mình và tìm những bảo đảm cho đời sau của mình nơi chính những khả năng của mình từ những việc lành phúc đức, cho đến việc đầu tư xin lễ v.v và v.v. Thánh Teresa đã nói “Luyện Ngục là nơi của tình yêu” và Ngài bảo “Nếu tôi vào luyện ngục tôi rất bằng lòng. Tôi sẽ làm như 3 trẻ Do Thái ở trong lò lửa, tôi vừa đi dạo trong lửa cháy vừa hát thánh ca của tình yêu.” Nếu hiểu luyện ngục là nơi “thanh luyện của tình yêu”, là nơi để con cái Thiên Chúa cởi bỏ hết những gì là tham lam bất chính, những gì là tội lỗi trần tục còn xót lại trước khi nhắm mắt lìa đời để mặc lấy áo vinh quang trong ngày ra trình diện Thiên Chúa là Cha yêu thương là Đấng tốt lành thì chúng ta có lý do để hy vọng rằng Thiên Chúa hằng yêu thương chúng và “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” cho dù chúng ta ở nơi dương thế hay ở trong chốn luyện hình. Vì thế, lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa và lòng tin thương nhớ những người đã ra đi trước chúng ta phải là lòng tin yêu cảm tạ và hy vọng. Nói như lời Thánh Phaolô tông đồ, chúng ta không được buồn sầu như những người không có đức tin, những kẻ không có hy vọng. Bởi vì nếu chúng ta chết là chết trong Đức Kitô, là “Được an nghỉ trong Đức Kitô” và trước sau gì “Thiên Chúa cũng đem họ đi làm một với Ngài” (1 Tx 4:13). Chính niềm tin này mang đến cho ta niềm hy vọng rằng cho dù những người thân yêu quá cố của chúng ta còn hay hết thời gian thanh luyện nơi chốn luyện hình thì họ cũng đã thuộc về Đức Kitô, và họ chỉ có một con đường để đi về: đó là con đường về cùng Thiên Chúa là Cha yêu thương của họ và của tất cả chúng ta. Bởi vậy, lòng thương nhớ của chúng ta phải dẫn đưa chúng ta đến những việc làm cụ thể để tỏ lòng quan tâm và cũng để tỏ lòng bác ái đối với những người đã khuất. Thánh Teresa Thành Avila đã nói: “Không có việc bác ái nào lớn hơn việc bác ái dành cho những người đã chết.” Và không có lời cầu nguyện nào tha thiết và cao quí hơn cho bằng lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Giêsu Kitô, qua hy tế Thập Giá của Ngài được tái diễn trên bàn thờ mỗi ngày. Qua Thánh Lễ và Thánh Thể chúng ta được liên kết với Chúa Kitô, và được hiệp thông với nhau, những người còn sống cũng như những kẻ đã qua đời nhờ mầu nhiệm các thánh cùng thông công, qua đó chúng ta chia sẻ cho nhau những ân huệ trong kho tàng Ân Sủng của Hội Thánh.
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết: “Người Kitô hữu không đơn độc khi cố gắng tinh luyện mình khỏi tội lỗi và thánh hóa mình nhờ ơn Thiên Chúa.” Cuộc sống của mỗi con cái Thiên Chúa được nối kết một cách kỳ diệu, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, với cuộc sống của tất cả các anh em Kitô hữu khác, trong sự duy nhất siêu nhiên của Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô ...” Vì vậy trong sự hiệp thông của các Thánh, “có một mối liên kết yêu mến và một cuộc trao đổi dồi dào mọi ơn ích giữa chư vị đang hưởng phúc quê trời , những kẻ đã được nhận vào chốn luyện tội và những người còn đang tiếp bước hành trình trần gian...” (Phaolô VI, Tông Huấn Indulgentiarum doctrina, 5) Trong cuộc trao đổi kỳ diệu này, “mọi người được hưởng nhờ sự thánh thiện của nhau còn hơn là bị thiệt thòi vì tội lụy của nhau. Như vậy, sự hiệp thông của Dân Thánh giúp cho hối nhân được thanh luyện nhanh chóng và hữu hiệu hơn.” (GLGHCG, 1475) Nhớ đến những người đã ra đi trước chúng ta, những kẻ đã an giấc trong Đức Kitô cũng là dịp để nhắc nhở chúng ta, những người đang sống rằng hễ những ai tin vào Đức Kitô, những ai trung thành với Ngài thì Ngài sẽ không bỏ rơi bao giờ. Vậy thì đối với chúng ta, những người đang sống, những người mang trong mình niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy sống trung thành với Chúa với hết lòng yêu mến của mình để khi giờ chết đến, cho dù chúng ta không biết thế giới bên kia ra sao, chúng ta vẫn có thể vui vẻ nhắm mắt xuôi tay, phó thác mọi sự cho chúa, và với tất cả niềm tin yêu trông cậy chúng ta yên hàn ra đi trong Chúa. Ước gì giờ phút chúng ta nhắm mắt lìa đời cũng là giây phút chúng ta nghe được lời Chúa nói với chúng ta như Người đã nói với người trộm lành trên Thánh Giá: “Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta.” (Lc. 23,43)