Vốn có một Đức Chúa Trời, nên từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, thì cũng một đạo mà thôi; nhưng mà đạo thật chia làm ba kỳ: Kỳ thứ nhứt, là từ ông A-dong cho đến ông Môi-sen, gọi là đạo tổ tông, tin trong trí tự nhiên loài người; Kỳ thứ hai, là từ ông Môi-sen cho đến Đức Chúa Giêsu, là đạo riêng dân Giu-dêu phải giữ, kẻo mà cả loài người ta lầm lạc mất đạo thật; Kỳ thứ ba, là từ Đức Chúa Giêsu cho đến tận thế. Đạo này gồm và mở mang cho trọn hai đạo trước. Ba kỳ, về điều phải tin phải biết, về việc phải làm, thì cũng một thể; mà khác lễ phép thờ phượng bề ngoài.
Từ trước vô cùng có Đức Chúa Trời tự hữu, vô thuỷ vô chung, trọn tốt trọn lành, vô lượng vô biên. Còn trời đất muôn vật, thì nhờ Chúa phép tắc vô cùng, bởi không dựng nên mới có. Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên Thiên thần tính thiêng liêng. Đoạn thì dựng mọi vật trong sáu ngày, nghĩa là sáu kỳ. Ngày thứ nhứt, Đức Chúa Trời phán rằng: Ta hãy dựng nên sự sáng! Tức thì liền có sự sáng. Ngày thứ hai, Đức Chúa Trời dựng nên bầu trời. Ngày thứ ba, Người dựng nên trái đất cùng biển cả. Ngày thứ tư, Người dựng nên các ngôi sao sáng chói trên trời. Ngày thứ năm, Người dựng nên các thứ chim bay trên khí và các thứ cá lặn dưới nước. Vậy khi đã dựng đủ mọi sự cho sẵn sàng, thì ngày thứ sáu Đức Chúa Trời dựng nên loài người ta giống hình ảnh Người để hưởng nhờ mọi vật ấy. Sau hết ngày thứ bảy Đức Chúa Trời nghỉ việc, nghĩa là không dựng nên vật gì mới nữa.
Đức Chúa Trời lấy bùn mà gầy một xác; rồi Người ban cho xác ấy một linh hồn hằng sống, và đặt tên là A-dong. Đức Chúa Trời đặt ông A-dong trong vườn tốt đẹp, gọi là vườn Địa đàng. Đoạn Đức Chúa Trời cho ông A-dong ngủ mê. Đương khi ông ấy ngủ, thì Đức Chúa Trời rút một xương sườn mà dựng nên người nữ, và đặt tên là Evà; ấy là tổ tông loài người ta. Trong vườn Địa đàng đủ các thứ cây mĩ vị. Ông A-dong và bà Evà được phép ăn các thứ trái cây trong vườn ấy: nhưng mà Đức Chúa Trời cấm ăn một thứ trái cây kia, đến sau đặt tên là cây biết sự lành sự dữ. Đức Chúa Trời phán rằng: Ngày nào bay ăn trái cây này, thì bay phải chết!
Vốn khi tổ tông ta chưa phạm tội, thì phần xác khỏi chịu khó nhọc làm ăn, lại không đau đớn bịnh hoạn tật nguyền, cùng khỏi chết nữa. Còn phần linh hồn, thì trí khôn sáng láng, chẳng phải học hành, vả linh hồn thì thanh sạch, chẳng hề biết tội hay là nết xấu nào. Nên ông A-dong và bà E-và vui vẻ thanh nhàn mọi bề. Vả lại phải chi hai ông bà giữ nghĩa cùng Đức Chúa Trời thì mọi phước ấy cũng lưu truyền cho con cháu mình nữa. Ma quỉ thấy ông A-dong và bà E-và đặng hưởng phước, thì ghen ghét lắm. Ngày kia nó lấy hình con rắn đến nói phỉnh bà Evà rằng: Hễ khi nào hai ông bà ăn trái cấm, thì cả hai liền giống Đức Chúa Trời, biết sự lành sự dữ. Vậy bà Evà nghe ma quỉ cám dỗ, liền hái trái cấm mà ăn. Rồi hái trái khác đem cho ông A-dong ăn nữa. Ăn vừa rồi, thì ông A-dong, bà Evà liền nhìn biết tội mình; nên mắc cỡ mà ẩn mình trong nơi kia. Đức Chúa Trời phán lời quở phạt con rắn rằng: Mọi người sẽ ghen ghét mầy; và ngày sau sẽ có người Nữ oán hại mầy cùng giày đạp đầu mầy. Đoạn Đức Chúa Trời phán cùng bà Evà rằng: Phận đàn bà, sẽ phải chịu phép đàn ông, và khi sinh con thì phải chịu đau đớn khổ cực. Đức Chúa Trời lại phán cùng ông A-dong rằng: Mầy phải chịu khó nhọc mà làm, mới có mà ăn; chết rồi lại trở nên đất. Phán đoạn rồi Đức Chúa Trời đuổi hai ông bà ra khỏi vườn vui vẻ.
Ông A-dong và bà Evà trước hết sinh hai con trai, là Ca-in và A-bê-lê; rồi sau sinh một con trai nữa tên là Xét. Ca-in làm ruộng; còn A-bê-lê chuyên nghề chăn thú vật. Cain dùng trái cây làm của lễ mà dâng cho Đức Chúa Trời; còn ông A-bê-lê thì chọn những thú vật béo tốt mà tế lễ Chúa. Cain bởi chẳng có lòng sạch sẽ thanh tịnh, nên Đức Chúa Trời chẳng đoái nhậm của lễ nó; còn lòng ông A-bê-lê thì sạch tốt, nên Đức Chúa Trời đã vui nhậm của lễ người. Bởi vậy Cain sanh lòng ghen ghét em mình. Ngày kia nó dỗ ông A-bê-lê mà rằng: Ta hãy đi dạo ngoài đồng chơi. Khi cả hai tới chỗ vắng, thì Cain xông vào giết em mình. Tức thì Đức Chúa Trời phải hỏi Cain rằng: Chớ em mầy ở đâu? Đức Chúa Trời phán lời chúc dữ cho Cain rằng: Bởi mầy đã giết A-bê-lê là em mầy nên mầy phải đi dông dài trong thế gian này. Cain vừa nghe liền ngã lòng, mà trốn mặt Đức Chúa Trời. Song nó đi đâu, thì hằng nhớ tội mình.
Loài người càng ngày càng đông, lại thói hư nết xấu cũng thêm nhiều. Đức Chúa Trời quyết định phạt loài người, nên đã làm lụt cả mà huỷ phá hết; còn một mình ông No-e vì đã giữ nghĩa cùng Đức Chúa Trời từ thuở nhỏ. Vậy Đức Chúa Trời phán cùng người rằng: Mầy phải đóng một chiếc tàu lớn, rồi đem các thú vật, mỗi thứ mỗi đôi, đoạn mầy và cả nhà mầy cũng vào tàu ấy nữa. Ông Noe vâng lời Đức Chúa Trời đóng tàu, khi rồi thì làm mọi điều như lời Chúa dạy, tức thì phát lụt cả. Trong bốn mươi đêm ngày, trời mưa như đổ chẳng ngớt, đầy tràn khắp cả núi non. Khi lụt ngập cả đất và núi, thì mọi loài đều phải chết; chỉ còn một tàu ông Noe nổi trên mặt nước, chẳng phải tai nạn gì trong cơn huỷ hoại ấy mà thôi.
Khi đã qua một trăm rưỡi ngày, thì Đức Chúa Trời đoái lại ông Noe, bèn cho gió thổi mạnh mà rút nước. Ông Noe mở một cửa sổ tàu và thả một con quạ, mà không thấy nó trở về. Khỏi bảy ngày ông Noe lại thả một con chim bồ câu; nó không gặp chỗ đậu, nên trở về tàu. Qua bảy ngày nữa ông Noe lại thả chim bồ câu; khi nó trở về tàu, thì tha một nhánh cây tươi tốt. Vậy ông Noe hiểu nước đã rặc rồi, nên người cùng cả nhà và các thú vật ra khỏi tàu; rồi dựng bàn thờ mà tế lễ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời khấn nhậm của lễ ông Noe cùng phán hứa rằng: Bây thấy cái móng trên trời mọc lên, thì đã biết: ấy là dấu chỉ từ này về sau không có lụt cả như vậy nữa, cùng chỉ dấu Tao kết ước cùng loài người.
Sau khi lụt rồi ông Noe làm đất như khi trước và trồng nho. Ông Noe có ba con trai là Xem, Cam, Giaphét. Ông Xem và Giaphét có lòng thảo kính cha mẹ, còn Cam thì ngỗ nghịch. Ngày kia ông Noe chưa từng sức rượu nho, uống nhiều, nên say nằm ngủ loã thân. Cam thấy vậy thì nhạo cười. Khi ông Noe thức dậy, nghe biết việc xấu ấy, thì người chúc dữ cho Cam. Con cháu ông Noe lần lần sinh đông đảo lắm, nên ở chung với nhau không được nữa. Vậy trước khi phân nhau mà đi tản tác, thì bàn cùng nhau rằng: Hè, ta hãy xây tháp cho thấu trời, được để lại danh tiếng ta. Khi xây tháp vừa cao, thì Đức Chúa Trời phạt lòng kiêu ngạo phô người ấy, liền làm cho chúng nói nhiều thứ tiếng, chẳng còn hiểu nhau đặng nữa; nên phải tản khắp mọi nơi mà ở. Con cháu ông Xem thì ở phương Đông; con cháu Giaphét thì qua ở phương Tây; còn con cháu Cam thì xuống phương Nam.
Dầu Chúa đã làm lụt cả mà phạt loài người, xong người ta chẳng chừa tánh nết xấu. Đức Chúa Trời muốn cho có một dân giữ trọn lòng thờ phượng Người; nên Đức Chúa Trời đã chọn ông A-ba-ra-ham làm đầu dân riêng ấy. Bữa kia Đức Chúa Trời hiện ra cho ông A-ba-ra-ham mà phán rằng: Mầy sẽ sang đất Canaan; Tao sẽ làm cho dòng dõi mầy nên đông đảo vinh hiển: Tao sẽ chúc phước lành cho mầy và con cháu mầy; lại Tao sẽ cho đấng thiên hạ đợi trông ngày sau sinh ra bởi dòng mầy. Ông A-ba-ra-ham vâng lịnh Đức Chúa Trời: bèn bỏ cha mẹ quê hương, đem vợ là bà Xara và ông Lót là cháu sang đất Canaan.
Đức Chúa Trời muốn thử lòng thảo ngay ông A-ba-ra-ham; vậy Người dạy ông ấy rằng: Mầy hãy bắt con một yêu dấu mầy là Y-gia-ác cùng giết nó mà tế lễ cho Tao. Ông A-ba-ra-ham dầu thương tiếc mặc lòng, song cũng cúi đầu vâng phục thánh ý Chúa, người liền lấy lửa cùng gươm và bắt con là Y-gia-ác vác củi lên núi kia. Dọc đàng Y-gia-ác thưa cha rằng: Lửa cùng củi đã sẵn, còn của tế lễ thì ở đâu, cha! Ông A-ba-ra-ham trả lời rằng: Con đừng lo làm chi: Đức Chúa Trời sẽ toan liệu cho ta. Khi cả hai đã tới nơi tế lễ và mọi sự đã sẵn thì ông A-ba-ra-ham trói con, đặt trên đống củi, rút gươm toan giết mà tế lễ. Tức thì có Thiên thần hiện ra đứng một bên bảo rằng: Ớ A-ba-ra-ham, chớ giết con; Đức Chúa Trời nhậm lòng thảo ngay của mầy rồi. Ông A-ba-ra-ham ngó lại sau lưng, thấy một con dê rừng. Người bắt lấy nó mà tế lễ Đức Chúa Trời thế con mình.
Khi ông A-ba-ra-ham đã già, thì lo đôi bạn cho con. Vậy người sai ông Ê-lê-dê-rô, là kẻ giúp việc người đã lâu, qua đất quê cũ, mà kiếm một người nữ xứng đáng đôi bạn cho con. Ông Ê-lê-dê-rô vàng lời ông A-ba-ra-ham mà trẩy đi. Người tới nơi giếng kia hồi chạng vạng, là lúc những đờn bà xứ ấy quen đi múc nước về uống. Khi đó ông Ê-lê-dê-rô cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời rằng: Lạy Chúa, con gái nào tôi xin nước uống, mà nó thưa rằng: xin ông hãy uống, ấy là người Chúa đã chỉ định làm bạn cùng quan thầy tôi là Y-gia-ác. Tức thì có một người con gái tốt lành đẹp đẽ tới giếng mà múc nước. Con gái ấy tên là Rêbêca. Bấy giờ ông Ê-lê-dê-rô xin nó cho uống nước, thì nó liền thưa rằng: Lạy ông, xin hãy uống cho vừa ý ông. Tôi cũng sẵn lòng múc nước cho thú vật ông uống nữa. Nếu ông chưa trú đâu, thì tôi xin mời ông về nhà cha tôi là Pha-tu-ê. Ông Ê-lê-dê-rô vui mừng, mà theo con Rêbêca về nhà ông Pha-tu-ê, cùng hỏi con Rêbêca cho Y-gia-ác là quan thầy mình.
Bà Rêbêca sinh đôi được hai con trai, đặt tên là E-giau và Giacóp. E-giau là con đầu lòng, người cao lớn cùng có lông nhiều; lại có tài săn bắn. Con thứ là Giacóp ưa ở nhà cùng cha mẹ. Ông Y-gia-ác thì thương E-giau còn bà Rêbêca thì yêu Giacóp. Ngày kia E-giau đi săn về mệt, đói bụng, thấy Giacóp nấu cháo đậu, thì xin một chén mà đành nhượng chức trưởng nam cho em. Khi ông Y-gia-ác đã già cùng mù, thì biểu E-giau rằng: Con hãy đi săn thịt và nấu cháo ngon theo ý cha ưa, hầu cha chúc phước lành cho con trước khi cha qua đời. Đương lúc E-giau đi săn thì bà Rêbêca làm thịt hai con dê, nấu cháo ngon vừa ý ông Y-gia-ác; đoạn lấy da mà bao cổ và tay ông Gia-cóp. Lại lấy áo tốt E-giau mà mặc cho Giacóp đặng giống anh mình. Ông Y-gia-ác đã lờ, nên không nhìn thấy Giacóp, liền ban phước lành cho người thay anh là E-giau.
E-giau săn về nghe nói cớ sự làm vậy, thì giận dữ, kêu khóc cả tiếng, cùng quyết giết em mình. Bà Rê-bê-ca sợ E-giau oán giết em chăng, nên biểu Giacóp trốn sang xứ quê mình. Dọc đàng, đêm kia ông Giacóp lấy hòn đá gối đầu nằm ngủ. Ban đêm, người chiêm bao thấy một thang cao từ đất đến trời, có Thiên thần lên xuống dọc thanh và người nghe Chúa phán rằng: Tao là chúa A-ba-ra-ham, Chúa Y-gia-ác. Kìa Ta ở cùng mầy luôn; dòng dõi mầy sẽ nên đông đảo như hột cát. Vả lại dòng dõi mầy sau này sẽ nên sang trọng, vì Đấng cứu chuộc thiên hạ sẽ sinh ra bởi dòng dõi ấy. Khi ông Giacóp thức dậy, thì thờ lạy Đức Chúa Trời, cùng dựng hòn đá người đã gối đầu làm bàn thờ mà tế lễ Đức Chúa Trời. Ông Giacóp ở quê mẹ, cưới bà Ra-kê là con cậu ruột mình làm vợ. Cách hai mươi năm người trở về đất Can-nan cùng hoà với anh là E-giau.
Ông Gia-cóp sinh đặng mười hai con trai; mà có một mình ông Giu-se người yêu dấu hơn cả. Các anh thấy vậy phân bì, cùng ghen ghét em; mà nhứt là khi nghe người thật lại hai điềm chiêm bao như sau này. Lần kia người nằm ngủ thấy người cùng anh em bó lúa với nhau ngoài đồng; bỗng chúc các bó lúa anh em chỗi dậy mà lạy bó lúa người. Lần khác người chiêm bao thấy mặt trời, mặt trăng cùng mười một ngôi sao, đều vây xung quanh mà lạy người. Bởi ông Gia-cóp thương Giu-se hơn các anh, nên đã sắm một áo rất quý báu cho người mặc. Khi các anh người đuổi chiên đi ăn nơi xa, thì ông Gia-cóp áy náy, nên sai Giu-se đi thăm coi các anh ra làm sao. Vừa khi các anh thấy Giu-se xa xa, thì nói cùng nhau rằng: Kìa thằng chiêm bao đã đến, ta hãy giết nó cho rảnh, thử coi điềm chiêm bao làm ích gì cho nó. Nhưng mà anh cả là Ru-ben bàn cùng các anh đừng giết Giuse, chỉ bó nó xuống giếng khô cho chết đói; có ý cứu người mà giao lại cho cha. Song rủi vừa khi Ru-ben vắng mặt, thì có đoàn lái buôn sang nước Ê-giếp-tô, nên các anh kéo Giu-se lên bán cho các lái đó, giá hai chục đồng bạc. Bán người rồi, các anh làm thịt dê, lấy máu thấm vào áo Giu-se mà gởi về cho cha rằng: Xin cha già hãy xem hoặc phải là áo Giu-se chăng? Khi ông Giacóp vừa thấy áo Giuse, thì xé áo mình cùng than khóc cả tiếng rằng: Kìa thú dữ đã nuốt Giu-se là con tôi rồi.
Lái buôn sang nước Ê-giếp-tô, bán ông Giu-se lại cho quan thừa tướng nước ấy, tên là Phu-ti-pha. Ông Giu-se làm tôi quan thừa tướng hết lòng ngay thảo, nên quan đã phú mọi việc trong ngoài cho người coi sóc. Bởi ông Giu-se có hình dong tốt đẹp, nên vợ quan thừa tướng phải lòng người. Ngày kia nó dỗ dành Giu-se phạm tội cùng mình, song ông Giu-se không chịu, nên mụ xấu ấy tức giận lấy áo người quăng lại mà làm chứng cáo gian người cùng chồng mình. Quan thừa tướng có tính ngay thật cùng yêu vì ông Giu-se lắm, song vội tin lời vợ mà làm án bỏ tù người. Trong tù người gặp hai quan lớn vua đã làm án giam trước. Đêm kia cả hai quan đều chiêm bao, mà không hiểu, nên bối rối, tới xin người cắt nghĩa giùm. Ông Giu-se cắt nghĩa cho hai quan ấy, và rất ứng nghiệm. Khỏi hai năm vua Pha-ra-ô cũng thấy hai điềm chiêm bao, mà các thầy bói không có thể cắt nghĩa đặng, nên phải mời ông Giu-se giải nghĩa cho mình. Vậy người tâu vua hay: Nước Ê-giếp-tô bảy năm trước thì được mùa lắm, mà tiếp bảy năm sau phải nắng hạn và mất mùa. Ông Giu-se tâu xin vua Pha-ra-ô đặt người khôn ngoan tài trí, mà lo thâu trữ bảy năm được mùa, hầu dự phòng bảy năm mất mùa. Vua Pha-ra-ô nhậm lời người bàn giải, liền đặt người lên làm quan cận thần.
Trong vòng bảy năm đặng mùa, ông Giu-se lo tích trữ lúa trong cả nước Êgiếp-tô. Khi bảy năm mất mùa tiếp tới, thì người bán lúa cho dân đói. Xứ Canaan thiên hạ cũng phải nắng nôi, cũng mất mùa như vậy. Bởi đó ông Giacóp phải sai các con sang nước Ê-giếp-tô mà mua lúa, chỉ giữ lại nhà một mình Ben-gia-minh là con út. Khi phô người ấy tới nước Ê-giếp-tô, thì ông Giu-se nhìn biết là các anh mình; song người không chịu tỏ mình là ai. Người chịu bán lúa, mà đòi một người ở lại làm của cầm, cho đến khi các anh trở về đem em là Ben-gia-minh qua cho người biết. Bấy giờ ông Giu-se truyền phát đầy bao cùng dạy để bạc lại trong bao.
Thoạt khi ông Giacóp hay biết lịnh quan lớn dạy làm vậy, thì than khóc chua xót rằng: Giu-se thú dữ đã nuốt, Xi-mê-on phải cầm, bây giờ phải giao thằng Ben-gia-minh nữa cực khổ thay! Thể ấy tao phải chết, sống không đặng. Vậy mặc lòng, khi đã hết lương ăn, túng ngặt quá, nên người cũng phải chịu phép mà cho Ben-gia-minh theo các anh sang nước Ê-giếp-tô. Vừa thấy Ben-gia-minh, thì quan Giu-se động lòng cầm mình chẳng đặng, nên phải vội vàng vào phòng mà khóc. Người truyền dọn tiệc thiết đãi anh em phu phỉ; người cũng ngồi ăn tiệc đó nữa. Đương khi ăn, quan Giu-se truyền phát lúa đầy bao cùng dạy lấy chén bạc mình, mà giấu trong bao Ben-gia-minh. Mười một con Gia-cóp đi chưa bao xa, thì ông Giu-se truyền quan giữ kho đuổi theo bắt lại. Tới giáp mặt, quan Giu-se giả đò thạnh nộ trừng ngó các anh mà rằng: Phô người làm điều phi lý! Ta đã thiết đãi phủ phê, sao còn cả gan dám trộn chén bạc ta? Các anh bẩm mình chẳng dám làm việc vơ thể ấy. Quan đệ nhị Giu-se bèn rằng: Thôi hễ ta soát đặng chén bạc trong bao ai, thì này phải làm tôi ta. Vậy soát gặp chén bạc nhằm bao Ben-gia-minh. Bấy giờ các anh sững sờ cùng phải chịu phép. Túng nước, ông Giuđa lấy lòng bạo dạn tuốt tới bẩm cùng quan đệ nhị rằng: Thân lạy quan lớn, bằng quan lớn cầm Ben-gia-minh, thì cha già chúng tôi phải phiền mà chết; nên dám xin quan lớn khấn cho tôi ở lại làm tôi quan lớn thế cho nó. Bấy giờ ông Giu-se cầm mình chẳng đặng nữa; liền khóc lên mà rằng: Các anh chớ sợ làm chi, này tôi là Giu-se em các anh! Các anh hãy kiếp về nhà tin cho cha già đặng hay mầng với, cùng xin người sang thăm tôi. Từ đó về sau các con cháu Giacóp ở nước Ê-giếp-tô sinh sản đông lắm, lần thành một dân gọi là dân Hê-bê-rê-ô .
Trong đất A-ra-bi-a có một người tên là Gióp, rất ngay thật cùng ngoan đạo mọi bề. Bởi ông ấy có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời ban ơn cho người phần hồn phần xác bội phần. Ma quỉ thấy vậy thì đem lòng ghen, cùng cáo gièm người trước mặt Đức Chúa Trời rằng: Chúa binh vực ông trong ngoài làm vậy, nên người có kính sợ Chúa, nào lạ gì? Ngày nào Chúa ban phép cho tôi phá nát của cải cùng con cái, thì Chúa mới rõ biết ông ấy ra thể nào. Bấy giờ Đức Chúa Trời cho phép ma quỉ phá tan của cải cùng giết con ông ấy, song còn cấm không cho làm hại xác người. Vậy ma quỉ làm một chước mà giết con cái ông Gióp cùng phá huỷ cơ nghiệp người. Dầu vậy mặc lòng, ông thánh Gióp cũng vững lòng giữ nghĩa cùng Chúa luôn. Ma quỉ thua hổ thẹn, lại kiếm chước khác mà tâu Đức Chúa Trời rằng: Mất nát của cải cũng chưa chắc ông Gióp thật lòng trung hiếu, chừng nào chính mình người phải gian nan mà vững chí, thì mới biết thật mà thôi. Đức Chúa Trời bằng lòng để cho ma quỉ thử mọi chước mà hại chính mình ông Gióp, chỉ cấm chẳng nên làm hại đến mạng sống Người. Vậy ma quỉ thừa lịnh Đức Chúa Trời, liền làm cho ông thánh Gióp mắc bịnh phung, lở lói cả và mình. Người phải hôi thúi gớm ghiếc, đến đổi phải ra ngoài đống phân tro, lấy miếng sành gạt từng con giòi. Sau hết bạn người ngã lòng, bỏ Đức Chúa Trời cùng xui giục chồng phản nghịch cùng Chúa, mà rằng: Đã thể ấy mà ông còn ngợi khen Đức Chúa Trời nữa sao? Bấy giờ ông thánh Gióp cầm lòng nhịn nhục mắng trách vợ rằng: Kìa mọi sự lành Đức Chúa Trời ban cho ta hưởng nhờ; rày Người để cho ta phải chịu cực một ít, sao ta chẳng bằng lòng mà chịu? Mọi sự Đức Chúa Trời ban, Đức Chúa Trời cất đi; ta cũng quyết lòng ngợi khen Chúa chẳng cùng. Ma quỉ cùng nước phải thua xấu hổ, chẳng còn dám nài xin hại người nữa. Bấy giờ Đức Chúa Trời chữa ông thánh Gióp lành đã bịnh, cùng ban thưởng mọi sự lành phần hồn phần xác hơn trước bội phần.
Ô. A-dong sống 930 t. Ô. No-e sống 900 tuổi
Ô. Xét 922 t. Ô. Xem 950 t.
Ô. E-nót 905 t. Ô. A-pha-ra 553 t.
Ô. Cai-nan 910 t Ô. Hê-bê-rê 461 t.
Ô. Na-la-lê-en 895 t. Ô. Gióp 220 t.
Ô. Gia-nê 962 t. Ô. A-ba-ra-ham 174 t.
Ô. Hê-nóc 565 t. Ô. Y-gia-ác 110 t.
Ô. Ma-thu-sa-la 969 t. Ô. Gia-cóp 147 t.
Ô. La-mét 777 t. Ô. Môi-sen 120 t.
Bởi đời xưa sống lâu làm vậy, nên đã di truyền mọi điều lại cho con cháu; không thì lấy đâu mà rõ các việc xưa.
Các con ông Giacóp ở nước Ê-giếp-tô càng ngày càng sinh sản đông lắm. Vậy vua sợ dân Hê-bê-rê-ô dấy loạn, nên truyền quăng các con trai dân ấy dưới sông Ni-lô. Có đờn bà Hê-bê-rê-ô kia sinh đặng một con trai tốt đẹp lắm: mẹ thương con, có ý cứu con, nên giấu. Giáp ba tháng mẹ sợ lộ, thì bỏ con trong một thúng mà thả dưới sông; lại biểu chị nó coi chừng em. May phước lúc đó có công chúa nước Ê-giếp-tô đến sông mà tắm: gặp thấy thúng, truyền mở, thấy thằng con nít, liền động lòng thương, có ý cứu chọn làm con nuôi. Chị nó ra mặt cùng xin lãnh cho mẹ nó làm vú nuôi. Công chúa đặt tên con nít lấy là Môi-sen, nghĩa là cứu khỏi chết trôi.
Qua bốn mươi năm, ông Môi-sen bỏ đền vua mà trở về cùng dân mình đang phải gian nan khốn cực Ngày kia người đi chăn đoàn chiên cha vợ, đang lúc thả chiên ăn trên rừng xứ Arabia, bỗng chúc Đức Chúa Trời hiện ra trong bụi gai hừng chói sáng như cháy, và phán cùng người rằng: Tao đoái thương dân Tao đang phải gian nan trong nước Ê-giếp-tô. Vậy Tao chọn mầy lo dẫn nó về đất Tao hứa xưa, là đất Canaan. Ông Môi-sen vâng lịnh Đức Chúa Trời cùng truyền cho vua tha dân Hê-bê-rê-ô trở về đất ông bà. Vua cứng lòng chẳng chịu tha. Vậy Đức Chúa Trời định làm mười tai nạn như roi, mà phạt nước Ê-giếp-tô, thì vua mới tha về.
Dân Hê-bê-rê-ô bỏ nước Ê-giếp-tô mà trẩy sang đất tổ tiên. Nội dân hết thảy tính đặng sáu vẹo (600.000) người tráng kiện. Vua Pha-ra-ô thấy mất dân đông làm vậy, thì tiếc lắm, nên quyết theo bắt lại. Nhưng mà Đức Chúa Trời đoái thương phù hộ binh cứu dân mình. Vậy khi dân Hê-bê-rê-ô chạy tới biển Đỏ, mà tránh quân, vua Ê-giếp-tô đi rượt theo, thì Đức Chúa Trời truyền cho ông Môi-sen giơ tay lên: tức thì nước rẻ làm hai, đứng cứng hai bên như luỹ để một đàng khô ráo cho dân Hê-bê-rê-ô sang qua. Quân vua Ê-giếp-tô thấy vậy cũng tuốt theo đàng ấy. Khi dân Hê-bê-rê-ô qua khỏi rồi, mà quân Ê-giếp-tô còn đương ở giữa lòng biển; bấy giờ Đức Chúa Trời truyền cho ông Môi-sen hạ tay xuống. Bỗng chút nước ngập lại, quân Ê-giếp-tô phải chết chìm cả thảy. Qua khỏi biển đoạn, thì dân Hê-bê-rê-ô vào rừng cát. Bởi dân đông, không khỏi bao lâu phải thiếu đồ ăn, nên Đức Chúa Trời làm phép lạ mưa Manna, là giống như bột sam ngon ngọt mĩ vị mà nuôi dân đủ bốn mươi năm luôn. Giữa rừng, dân ấy cũng thiếu nước uống, thì Đức Chúa Trời truyền cho ông Môi-sen lấy gậy đánh hoàn đá. Tức thì nước mạch chảy ra tràn trề. Ai nấy đều được uống phỉ lòng phỉ dạ.
Vào rừng được ba tháng, thì dân Hê-bê-rê-ô đến gần núi Xinai. Trên núi ấy, Đức Chúa Trời truyền mười điều răn cho ông Môi-sen . Vậy Đức Chúa Trời hiện ra cho ông Môi-sen trên núi giữa tiếng sấm sét, mà phán mười điều răn tạc trong hai bia đá, như sau này: Thứ nhứt: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Thứ ba: Giữ ngày Chúa nhựt. Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ. Thứ năm: Chớ giết người. Thứ sáu: Chớ làm sự dâm dục. Thứ bảy: Chớ lấy của người. Thứ tám: Chớ làm chứng dối. Thứ chín: Chớ muốn vợ chồng người. Thứ mười: Chớ tham của người.
Ông Môi-sen ở trên núi bốn mươi ngày đêm. Đoạn người ôm hai bia đá xuống, thấy dân đương thờ lạy tượng bò vàng, người liền thạnh nộ quăng hai bia bể hai. Rồi người đập tượng bò ấy bể nát, và phạt những người đàn anh trong dân.
Ông Môi-sen vâng lịnh Chúa trở lên núi lại mà lãnh hai bia đá khác. Đoạn Chúa dạy người làm nhà tạm quí báu, đóng hòm bia rực rỡ mà để hai bia đá, cùng một chén Manna và một cây gậy ông A-a-ron, là em người. Từ đó về sau đủ bốn mươi năm, thì dân Hê-bê-rê-ô những đi lộn vòng vấn trong rừng cát; khi đi tới, khi đi lui.
Khi dân Hê-bê-rê-ô đến giáp đất Mo-áp, thì vua đất ấy thấy dân đông bèn sợ hãi; liền truyền cho thầy phù thuỷ tên Ba-la-am, trù ẻo dân ấy cho chết tuyệt. Vậy tên phù thuỷ ấy vâng lịnh vua cởi lừa đón dân Hê-bê-rê-ô mà trù ẻo. Dọc đàng con lừa ngừng không chịu đi nữa, thì Ba-la-am đánh nó miết, mà cũng luống công vô ích. Bấy giờ con lừa, bởi phép Đức Chúa Trời thì nói cùng Ba-la-am rằng: Xưa nay tôi có đứng vậy bao giờ? mà nay bởi Đức Chúa Trời cấm không cho bước tới nữa; nếu có cả lòng bước tới, thì tôi cùng thầy sẽ phải giết; nên tôi mới đứng lại vậy. Thể thầy có đánh tôi vô ích. Thầy phù thuỷ nghe vậy sững sờ, xuống lừa mà thờ lạy Đức Chúa Trời, xin tha tội cho mình cùng sẵn lòng vâng theo ý Chúa dạy. Đức Chúa Trời truyền cho nó chẳng nên rủa dân yêu dấu Người, một phải chúc mừng dân ấy mà thôi. Vậy tên Ba-la-am cứ đi tới trước mặt dân Hê-bê-rê-ô mà chúc rằng: Ngày sau sẽ có Đấng Cứu thế sinh bởi dòng dõi Giacóp.
Trong khi đi lộn trong rừng cát, thì dân Hê-bê-rê-ô phạm nhiều tội, nên Đức Chúa Trời phạt nhiều thế, mà nhứt là Người chẳng cho những đờn ông ở đất Ê-giếp-tô đặng vào đất hứa; chỉ có một đôi người được nghĩa cùng Chúa, và con cháu dân ấy được vào mà thôi. Ông thánh Môi-sen dầu đẹp lòng Chúa mọi đàng, song chẳng khỏi lỗi một đôi điều nhỏ mọn: như lần kia người hồ nghi phép Chúa, mà đánh hoàn đá hai lần cho chảy nước; nên người cũng chẳng được vào đất Đức Chúa Trời hứa. Vậy khi giáp đất đã hứa, thì ông Môi-sen đặng ơn Chúa biết mình phải chết trước khi vô đất thánh, nên người đặt quan tướng Gio-duệ thế vị mà đem dân.
Cho được vào đất Canaan, thì phải qua sông Gio-đa-nô. Vậy ông Gio-duệ truyền dạy các thầy cả khiêng hòm bia đi trước xuống sông bạo dạn. Vừa tới nước, thì sông rẽ làm hai như luỹ, chẳng khác như khi qua biển Đỏ. Dân theo hòm bia mà xuống sông khô ráo. Qua sông đoạn, dân lo bắt thành Giê-ri-cô. Ông Gio-duệ vâng lịnh Đức Chúa Trời, bèn truyền cho các thầy khiêng hòm bia đi xung quanh thành đủ bảy vòng. Vừa trọn vòng thứ bảy, bỗng chúc tự nhiên thành luỹ sập ngã tan nát và dân Hê-bê-rê-ô vào thành thong thả. Các vua trị đất Canaan thấy dân Hê-bê-rê-ô hòng chiếm đất mình, thì kết ước giao lân mà đánh trả. Song ông Gio-duệ nhờ ơn Chúa đánh thắng trận toàn công. Ngày kia đang còn giao chiến: mặt trời sắp lặn. Bấy giờ ông Gio-duệ giơ tay chỉ mặt trời, truyền ngừng lại cho kịp phá tan đạo binh quân giặc.
Chiếm đất thành đoạn, thì dân Hê-bê-rê-ô phải đánh trả cùng quân Phi-li-xi-tinh nhiều lần. Vậy Đức Chúa Trời chọn ông Sơn-song, ban cho người sức mạnh phi thường, mà binh cứu dân mình cho khỏi tay quân ấy. Lần kia ông Sơn-song lấy một hàm răng lừa mà đánh giết ba ngàn quân Phi-li-xi-tinh. Lần khác người bắt 300 con chồn, cột một chùm hai con, rồi buộc đuốc vào đuôi nó mà đốt, cùng thả qua cánh đồng quân giặc. Lại có lần khác nữa người vác cửa thành kia quăng trên núi cao. Quân Phi-li-xi-tinh không biết phương nào mà bắt giết ông Sơn-song. Vậy nó lập kế đúc bạc cho mụ kia tên là Đa-li-la, liệu thế mà hỏi tại đâu ông Sơn-song đặng mạnh thể ấy. Ngày kia ông Sơn-song chiều lòng mụ trắc nết ấy, mà tỏ thiệt cho nó biết; hễ hớt tóc người thì liền mất sức, cùng yếu như mọi người. Bởi đó khi ông Sơn-song ngủ mê, thì mụ Đa-li-la nương dịp tiện ấy mà hớt tóc người, cùng nạp ông cho quân Phi-li-xi-tinh. Quân ấy vui mầng phỉ dạ, liền khoét mắt ông Sơn-song, cùng bắt người xay lúa. Lâu lâu tóc mọc lại, thì người cũng đặng sức lại như trước. Ngày kia ba ngàn quân Phi-li-xi-tinh hiệp nhau trong chùa mà cúng bụt; nó cũng bắt ông Sơn-song ra múa hát làm trò vui chơi. Ông Sơn-song kêu xin Chúa đoái thương, đoạn người giơ tay, biểu thằng mỗng dắt đến giữa căn nhà mà nghỉ một chút. Khi tới đó người ráng sức hai tay giựt hai cột chùa, thì chùa sập đè người cùng ba ngàn quân Phi-li-xi-tinh đều phải chết giẹp.
Đang buổi mất mùa đói khát, có bà kia tên là No-e-mi, cùng hai con trai sang đất Mo-áp làm ăn. Ở đó hai con bà No-e-mi cưới vợ tại đất ấy. Chẳng khỏi bao lâu rủi hai con trai đều chết hết. Khỏi đôi ba năm, bà No-e-mi nghe tin đất mình được mùa no nê, thì toan trở về quê. Vả trong hai dâu bà, thì có dâu thứ là bà Rút, không chịu lìa mẹ chồng, quyết tính theo mẹ cho đến chết, mà rằng: Mẹ đi đâu con đi đó, Chúa mẹ cũng là Chúa con. Khi về tới thành Bêlem, nhằm mùa gặt, bởi mẹ con nghèo nàn, nên bà Rút phải đi mót nuôi mẹ. May bà ấy mót trúng ruộng ông Bột, là người bà con với bà No-e-mi; vì ông ấy giàu sang phú túc, nên mót lợi lắm. Lại ông Bột thấy bà Rút có nết na, bèn động lòng thương. Vậy ông ấy biểu bọn gặt giả đò gặt sót nhiều cho bà Rút mót khá. Khi hết mùa, bởi ông Bột mến lòng nết na bà Rút, nên xin phép bà No-e-mi, mà cưới làm vợ. Ông Bột này là ông cố vua Đa-vít, vậy cũng là tổ tiên Đức Chúa Giêsu.
Đương đời ông Hê-ly làm thầy cả thượng phẩm lo việc dân Hê-bê-rê-ô, người có hai đứa con trai hoang đàng trắc nết; bởi người thương con trái lẽ, không trị nó cho thẳng phép. Bởi đó cho nên Đức Chúa Trời toan phạt tội người, cùng bỏ dòng người mà chọn kẻ khác thế vị. Do lúc ấy có một con trẻ, tên là Xa-mu-ê, mẹ người đã khấng dâng làm tôi Chúa thuở mới sinh. Nên khi Xa-mu-ê tới tuổi khôn lớn, mẹ đem phú thác cho thầy cả Hê-ly coi sóc. Đêm kia khi Xa-mu-ê ngủ trong nhà tạm gần hòm bia, thì Chúa gọi người ba lần. Song người tưởng là thầy cả Hê-ly, nên cứ chạy tới thưa cùng thầy cả luôn. Sau hết ông Hê-ly hiểu là tiếng Chúa kêu, thì dặn người rằng: Như con nghe tiếng gọi làm vậy nữa, thì con phải thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa muốn truyền việc chi, xin Chúa khấng truyền, kìa con sẵn lòng vâng giữ. Vậy lần thứ ba, khi Chúa gọi người, thì Xa-mu-ê thưa như thầy cả Hê-ly đã dạy. Bấy giờ Đức Chúa Trời phán rằng: Tao sẽ phạt dòng thầy cả Hê-ly cách nặng nề lắm, chính nó chết gấp, vì nó đã dong cho con nó trái lẽ; còn dòng dõi nó chẳng được làm thầy cả tế lễ Tao nữa, vì nó đã bỏ Tao. Vừa sáng ngày, thầy cả Hê-ly kêu Xa-mu-ê và buộc người tỏ bày thánh ý Chúa cho mình biết. Ông Xa-mu-ê lấy lòng ngay thật mà tỏ mọi sự. Đến sau nổi giặc quân Phi-li-xi-tinh xông đánh dân Hê-bê-rê-ô, thì hai đứa con thầy cả Hê-ly phải tử trận, còn hòm bia thì phải bắt. Vừa khi được tin khốn nạn ấy, thì chính thầy cả Hê-ly té nhào xuống ghế, vỡ đầu mà chết. Bấy giờ ông Xa-mu-ê nối quyền thầy cả, cùng trị dân khôn ngoan; trước đẹp lòng Chúa, sau đặng quan yêu dân chuộng. Vậy mặc lòng, những người đàn anh Hê-bê-rê-ô sợ con cháu người không noi gương cha, nên xin người đặt vua cai trị mình. Ông Xa-mu-ê do ý Chúa đoạn, thì chiều lòng dân, mà phong chức ông Xao-lê lên làm vua thống trị dân Chúa.
Quân Phi-li-xi-tinh xông vào nước Hê-bê-rê-ô đánh phá; bấy giờ vua Xao-lê thân chinh ra đánh đuổi. Nhưng mà thầy cả Xa-mu-ê muốn tế lễ Đức Chúa Trời trước, đoạn mới đánh, nên bảo vua phải đợi bảy ngày trước giao chiến. Chính ngày thứ bảy, thầy cả Xa-mu-ê chậm trễ một ít lâu, vua lật đật chẳng chịu đợi nữa, liền tiếm quyền thầy cả Xa-mu-ê, tế lễ Đức Chúa Trời. Vừa khi ông Xa-mu-ê nghe biết cớ sự thể ấy, thì người quở trách vua Xao-lê nặng lời. Dầu vậy mặc lòng, vua Xao-lê bởi nhờ lòng can đảm thái tử Gio-na-than, đánh thắng đặng quân Phi-li-xi-tinh. Đến sau khi vua Xao-lê đánh giặc cùng quân khác, thì cũng còn cãi lịnh Đức Chúa Trời một lần nữa; nhơn vì lẽ ấy Đức Chúa Trời định bỏ vua Xao-lê, cùng trao ngôi cho vua Đa-vít.
Từ đó sấp đi vua Sao-lê ghe phen phải cơn hoảng hốt, nên phải mời ông Đa-vít đến trước mặt vua, mà khảy đờn đặng giảm cơn khốn nạn vua. Khi ấy ông Đa-vít đặng ơn Chúa, nên người đánh cứu dân Hê-bê-rê-ô, cho khỏi tay thằng Go-li-át, là đứa con lớn dữ tợn, đã nhạo báng trêu chọc dân Hê-bê-rê-ô . Ông Đa-vít lấy năm hoàn đá, một cái đãy dây và một cây gậy mà toan xông đánh thằng Go-li-át. Thằng Go-li-át thấy vậy tức giận, kêu la rằng: mầy cầm tao bằng con chó sao? Mầy dám cầm gậy đánh tao sao? Ông Đa-vít trả lời rằng: Nhơn danh Đức Chúa Trời là Chúa các đạo binh Hê-bê-rê-ô, ta đến đánh chết mầy, cùng quăng thây mầy cho muôn chim ăn thịt. Vậy ông Đa-vít lấy đãy dây bỏ hoàn đá, nhắm ném trúng trán thằng Go-li-át, bỗng chúc nó liền ngã chết tươi. Tức thì ông Đa-vít tuốt lại lấy gươm nó mà chém đầu nó. Quân Phi-li-xi-tinh thất kinh mất vía, lo chạy trốn tứ phương.
Khi vua Xao-lê và thái tử Gio-na-than chết đoạn, thì Đa-vít lên ngôi thế vị. Ông Đa-vít lên ngôi đoạn, liền chuyên lo lập đền thờ báu tốt, mà thờ phượng Đức Chúa Trời; song ý Chúa chẳng cho, chỉ để việc ấy cho con là Xa-lo-mong. Vậy mặc lòng, người đã lập một đền rực rỡ tại thành Giêrusalem; cùng lo đem hòm bia về đó nữa. Khi rước hòm bia, thì vua Đa-vít đã làm hết sức trọng thể mà ngợi khen Chúa; song có một điều làm cho vua phiền lắm. Vốn đương khi kéo xe hòm bia thì thình lình bò rủi vấp, nên nghiêng hòm bia. Một ông kia, tên là O-gia thấy vậy, bất ý vội vàng giơ tay mà đỡ lấy hòm bia. Bấy giờ Đức Chúa Trời nổi cơn thạnh nộ, đánh chết ông O-gia tức thì, mà phạt tội ông ấy nhẹ dạ vô phép.
Ông Đa-vít lên làm vua, người đánh thắng quân giặc khắp mọi nơi, đã nên sang trọng vinh hiển. Vả vua bởi tính yếu đuối muốn cướp lấy Bét-xa-bê, là vợ ông quan Uri. Vì vậy vua đã liệu khi giao chiến, mà bày mưu đặt quan Uri phía mảnh thế, để quân giặc giết quan ấy. Khi quan Uri tử trận đoạn, thì vua Đa-vít cưới Bét-xa-bê làm hoàng hậu. Dầu Đức Chúa Trời đem lòng thương đã cho vua ăn năn hối cải mặc lòng, song Người chẳng nhịn được tội quái gở vua, nên phạt vua cách nặng nề. Chính thái tử Ap-xa-lon, đã khởi nguỵ cùng cha, song chẳng may phải giết giữa chiến trường. Vua Đa-vít thương tiếc con cùng sầu não chua xót biết là ngằn nào! Trước khi vua Đa-vít băng hà, thì người lo trối vị cho con là Xa-lo-mong, cùng liệu cho thầy cả Xa-đóc xức dầu phong chức.
Khi Xa-lo-mong nối quyền cha, thì Đức Chúa Trời thương đã hiện ra, mà phán cùng người rằng: Mầy muốn xin điều gì, thì hãy xin, Tao sẵn lòng ban cho. Vua Xa-lo-mong cầu xin Chúa ban cho mình đặng sự khôn ngoan, mà trị dân Chúa cho xứng. Đức Chúa Trời thấy lòng ngay thật và tiết kiệm vua, thì khấng ban chẳng những cho vua đặng khôn ngoan lạ lùng, mà lại làm cho vua đặng phú túc vang lừng trong bốn biển. Bữa kia có hai đờn bà tới vua xin phân xử việc mình. Vậy một mụ tâu rằng: Tâu đức vua, tôi cùng mụ kia ở chung một nhà, sanh hai con trai cũng một đêm. Mà ban đêm con nó chết, thì nó thừa thế tôi ngủ mà đổi con tôi. Mụ kia chối miết, chẳng chịu con mình đã chết. Bấy giờ vua Xa-lo-mong truyền cho một tên lính hộ vệ rằng: Ngươi hãy rút gươm ra mà chặt thằng con sống làm hai khúc, chia mỗi đứa mỗi khúc. Nghe vậy, tức thì mẹ thiệt kêu xin cùng vua rằng: Tâu đức hoàng thượng, xin chớ giết con tôi, kẻo đau lòng xót ruột tôi lắm, một xin giao cho nó mặc thích nó. Khi vua nghe mẹ ấy kêu xin làm vậy, thì mới biết rõ nó là mẹ thiệt thằng còn sống, cùng phán giao con lại cho nó. Cả và thiên hạ nghe thấy đều ngửng trí tung khen lòng khôn ngoan vua phi thường. Vua Xa-lo-mong đã xây đền thánh rất quí báu tại thành Giêrusalem, mà thờ phượng Đức Chúa Trời. Cả đời xưa đặng bình yên thạnh trị vinh hiển mọi bề. Nhưng mà khi đã già, vua thấy mình phú túc vinh vang, thì sanh lòng kiêu ngạo, mê đắm sắc dục... nên mất lòng Đức Chúa Trời. Nhơn vì lẽ ấy, Đức Chúa Trời quyết định phạt vua cùng bảo cho vua hay: Khi vua băng hà đoạn, thì nước mình phải tách làm hai.
Vua Xa-lo-mong băng hà đoạn, thì thái tử Ro-bo-am nối ngôi trị vì. Đời người 12 dòng cả nước tách hai, 10 dòng khởi nguỵ biệt lập một nước riêng, gọi là nước Y-sa-ra-e; còn hai dòng khác, thì làm một nước gọi là nước Giu-đê-a. Sau vua Xa-lo-mong hai trăm rưỡi năm, vua nước A-xi-ri-a đánh phá nước Y-sa-ra-el, cùng bắt 10 dòng đem về làm tôi trong nước mình. Khỏi một trăm năm nữa, thì vua nước Ba-bi-lon đánh bắt thành Giêrusalem, là kinh đô nước Giu-đê-a phá tan nước ấy cùng bắt dân về làm tôi, vì tội vua dân.
Trong đời các vua trị nước Y-sa-ra-e, thì có nhiều vua bỏ Đức Chúa Trời mà thờ phượng bụt thần ma quỉ. Bởi vậy Chúa sai nhiều đấng, gọi là tiên tri, quở trách dân cải dữ về lành. Vậy đời vua Acáp trị dân, thì Chúa phạt nước Y-sa-ra-e phải đại hạn ba năm rưỡi; thiên hạ đói khát lắm. Khi ấy có một Tiên tri, tên là Ê-li-a, đến thành kia mà nương ngụ; xảy gặp một đờn bà, liền xin chút bánh ăn uống nước. Song bà ấy thưa rằng: Trình ông, tôi chẳng còn gì cả chỉ còn một chút bột và chút dầu ô-li-va; tôi đi quơ ít que củi, tính về nấu chút bột và dầu ấy, đặng mẹ con tôi ăn, rồi nằm và đợi chết. Thánh Tiên tri Êlia rằng: Bà chớ lo, hãy nấu cho tôi ăn; rồi Chúa sẽ cho bột và dầu ấy hãy còn nguyên luôn cho hai mẹ con bà dùng cho đến khi thiên hạ hết đói. Bà ấy nghe lời làm như vậy; mà từ đó về sau chút bột cùng dầu ấy chẳng hề hết, cho đến khi có mưa thiên hạ hết đói. Đến sau thằng con bà ấy đau chết. Bà mẹ thương tiếc, xin ông thánh Tiên tri Êlia cứu giúp; thì ông thánh ấy làm cho nó sống lại. Khi Đức Chúa Trời định cho mưa xuống mà tha phạt dân Y-sa-ra-e, thì sai thánh Tiên tri Êlia đến quở tội vua Acáp, vì tin bụt thần. Vậy thánh tiên tri Êlia xin vua cho hai con bò, và làm thịt để trên hai đống củi, mà không cho nhen lửa. Đoạn mời các sãi đến khẩn cầu cùng bụt, xin lửa bởi trời xuống thiêu đốt củi và thịt; còn thánh Tiên tri thì cầu xin Đức Chúa Trời. Hễ phía bên nào có lửa bởi trời xuống thiêu đốt của lễ, ấy là có Chúa thật. Vua ưng chịu, thì làm y như vậy; song các sãi kêu van bụt đã khan tiếng mà bụt chẳng làm chi được. Còn thánh Tiên tri cầu cùng Đức Chúa Trời một chút, thì Chúa cho củi và thịt bò ra tro mạt. Đến sau Chúa dạy thánh Tiên tri Êlia chọn ông E-li-dêu làm Tiên tri. Còn chính người thì Chúa rước lên ở một nơi riêng; sau sẽ xuống mà đối địch cùng quỉ vương trong ngày tận thế.
Tiên tri E-li-dêu là môn đệ Tiên tri Êlia cũng được ơn Chúa ban cho, làm nhiều phép lạ như thầy mình. Vậy có một bà goá kia nghèo khổ mang nợ nần, và chủ nợ muốn bắt thằng con bà ấy mà trừ nợ. Túng thế bà ấy đến lạy ông thánh Tiên tri E-li-dêu xin giúp đỡ. Thánh Tiên tri hỏi trong nhà còn con cái gì bán được mà trả nợ chăng. Bà ấy thưa: chẳng còn chi cả, chỉ còn một chút dầu để trong hũ mà thôi. Thánh Tiên tri bảo về đi mượn vò hũ của người ta cho nhiều, đoạn đem hũ còn chút dầu đó vào phòng, rồi cứ trút sang qua mấy hũ kia. Bà ấy vâng, về mượn hũ vò của người ta bốn phía xóm đem về, đoạn bà mẹ ở trong phòng cứ trút sang đầy hũ này đến vò khác; còn con thì đưa hũ không vào cho mẹ; khi hết hũ không rồi, chẳng còn mà sang nữa, thì dầu trong hũ trước mới hết chảy ra nữa. Vậy thánh Tiên tri dạy bán dầu ấy lấy tiền mà trả nợ. Lại có quan lớn nước Xi-ri-a tên là Na-a-man, mắc tật phung, nghe đồn bên nước Y-sa-ra-e có Tiên tri hay làm phép lạ cứu chữa tật bịnh; liền sắm lễ mễ, đồi quí vật, vàng bạc đem qua; đặng xin thánh Tiên tri E-li-dêu cứu chữa. Thánh Tiên tri dạy quan ấy xuống sông Gio-đa-nô mà tắm bảy lần thì khỏi tật. Quan Na-a-man vừa nghe thì tức mình, giận không muốn vâng; vì nghĩ rằng; nước sông Gio-đa-nô chẳng tài phép chi mà chữa tật phung. Song có quan khác bàn cùng quan ấy hãy thử coi. Quan Na-a-man liền xuống tắm đủ bảy lần tức thì lành bịnh; liền đem lễ vật bạc vàng đến tạ ơn thánh Tiên tri. Song thánh Tiên tri chẳng lấy vật gì hết. Khi ấy đứa đầy tớ thánh Tiên tri E-li-dêu thấy nhiều của quí, mà thầy mình chẳng lấy vật gì thì tiếc lắm; liền chạy theo nói láo mà lấy hai nén bạc cùng hai cặp áo tốt đem về giấu kín để làm của riêng. Ai ngờ thánh Tiên tri biết, liền phạt nó phải mắc tật phung cho đến mãn đời.
Trong dân phải bắt về làm tôi nước A-xi-ri-a trong thành Ni-ni-vê, thì có ông Tô-bi-a rất đạo đức. Dầu lịnh vua cấm nhặt, chẳng cho cất xác dân Y-sa-ra-e, thì người chẳng kiêng nể, một lo chôn cất xác dân mình hẳn hoi. Ngày kia người chôn xác về mệt, nằm dựa vách mà ngủ, thì rủi phẩn chim én rơi trúng mắt, nên người phải đui. Người cúi đầu bằng lòng kính phục thánh ý Chúa. Đến sau người tưởng mình hòng tạ thế, thì đòi con tới gần cùng răn dạy những lời khôn ngoan đạo đức. Đoạn người bảo con phải đi qua nước Me-đi-a, mà đòi mười nén bạc trước đã cho ông Ba-bê-lô, cũng là dòng mình mượn. Lại người khiến con phải tìm một người trung tính mà dẫn lộ.
Ông Tô-bi-a con vâng lịnh cha, ra ngoài tìm đặng một người bộ hành dọn đi nước Me-đi-a. Bộ hành ấy vốn là Thiên thần Ra-pha-e, Đức Chúa Trời đã sai, lấy hình người ta, mà dẫn đàng cho ông Tô-bi-a. Ông Tô-bi-a xin người bảo lãnh dẫn mình đi về bình yên, thì sẽ hườn công xứng đáng. Vậy cả hai kết ước đoạn, lên đàng thẳng tới nước Me-đi-a. Dọc đàng chiều tối, cả hai tới gần sông Ti-gơ-ri-đê. Thình lình một con cá lớn phi thường tuốt lại hòng nuốt ông Tô-bi-a con. Bấy giờ Tô-bi-a kinh hồn mất vía kêu xin bạn đi đàng cứu chữa. Thiên thần Ra-pha-e liền bảo Tô-bi-a đừng sợ, hãy tuốt tới bắt con cá làm thịt lấy mật; thịt làm của hành lý, còn mật để dùng làm vị thuốc thiệt hay. Khi cả hai tới thành Ec-ba-ta, thì đậu tại nhà ông Ra-gu-ê, bà con với ông Tô-bi-a. Ông Ra-gu-ê vui mầng tiếp rước; cùng thết đãi lịch sự. Ông ấy lại gả con một mình, tên là Xara, cho ông Tô-bi-a con, cùng trối hết gia nghiệp mình cho người. Cưới vợ đoạn, ông Tô-bi-a ở lại nhà cha vợ, để một mình bạn đàng đứng lãnh thế mà đi đòi nợ ông Ga-bê-lô. Cách mười lăm ngày, cả ba là Thiên thần, Tô-bi-a cùng Xara, trở về thành Ni-ni-vê.
Trong lúc Tô-bi-a con trẩy đi, thì cha mẹ người áy náy lo lường chẳng khi đừng; mà khi nghe tin về, thì mầng rỡ biết là ngằn nào. Ông To-bi-a con nghe lời bạn đi đàng liền lấy mật cá mà xức con mắt cha, tức thì ông Tô-bi-a cha liền đặng sáng mắt. Bấy giờ cả nhà hát mừng ngợi khen Chúa, đã làm ơn trọng cho mình quá bội. Trong nội bảy ngày, ông Tô-bi-a cha làm đám ăn mầng lễ cưới con mình trọng thể. Lễ đoạn ông Tô-bi-a cha muốn trả công cho bạn thuê đi với con mình cho xứng đáng, nên bằng lòng trích một nửa bạc đã đòi giao cho người, xin khấn nhậm. Bấy giờ Thiên thần tỏ mình ra rằng: Ta là Thiên thần Ra-pha-e, là một đấng trong bảy đấng hằng chầu Đức Chúa Trời luôn. Ta đã xuống đây mà làm ơn cho nhà ông vì có lòng kính mến Chúa. Rày đã đến kỳ ta phải trở về chầu chực Đức Chúa Trời là Đấng sai ta. Nói đoạn người liền biến mất.
Thuở ấy dân thành Ni-ni-vê phạm nhiều tội quái gở, mất lòng Đức Chúa Trời; vì vậy Đức Chúa Trời muốn phạt thành Ni-ni-vê, thì Người định sai tiên tri Gio-na sang thành ấy mà rằng: Mầy hãy qua thành Ni-ni-vê mà bảo cho dân hay: Nếu nó chẳng ăn năn chừa cải, thì chắc Tao sẽ phạt tuyệt thành. Tiên tri Gio-na đã biết dân thành Ni-ni-vê hung dữ nên người kiếm thế mà tránh việc Đức Chúa Trời sai. Vậy người quá giang tàu, mà trẩy sang xứ khác xa. Đức Chúa Trời thấy người cứng đầu bất khẳng, thì làm bão mạnh, thiếu một chút nữa tàu phải đắm. Cực chẳng đã ông Gio-na phải tỏ cho chủ tàu biết tại mình cãi lịnh Đức Chúa Trời nên mới phải cơn cực nạn này. Lại người xin chủ tàu ném người xuống biển, thì sẽ khỏi chìm tàu. Song Chúa nhơn từ sắm sẵn một con cá voi rất lớn, vừa khi người rơi xuống, thì nuốt sống người vào bụng đủ ba ngày đêm. Khỏi ba ngày đêm, cá voi ấy lên bãi mửa người ra tuyền vẹn. Tiên tri Gio-na vội vàng sang thành Ni-ni-vê mà rao truyền lịnh Đức Chúa Trời. Bấy giờ cả thành Ni-ni-vê quan dân rập một lòng ăn năn hối cải; Đức Chúa Trời thấy lòng dân cải dữ về lành, thì động lòng thương xót mà tha thứ cho thành ấy.
Trong những người phải bắt làm tôi nước Ba-bi-lon thì có thánh Tiên tri Đa-ni-ê, rất có thần thế cùng vua Na-bu-cô, và vua Đariô là vua kế vị. Các quan triều thấy vậy thì sanh lòng phân bì ghen ghét, quyết lập mưu mà hại Đa-ni-ê. Vậy các quan tâu xin vua Đariô ra chiếu chỉ mà buộc cả dân nội trong một tháng, chẳng được thờ phượng ai chỉ thờ một mình vua mà thôi. Vua vô tình nghe lời dua nịnh, tặng mình, thì lấy làm phỉ lòng, liền ưng phê y lời tâu xin. Tiên tri Đa-ni-ê chẳng chịu vâng phục sắc chỉ vua, cứ thờ phượng một Đức Chúa Trời như thường. Nhơn vì lẽ ấy, vua cực chẳng đã phải cứ chiếu chỉ, mà truyền quăng ông thánh Đa-ni-ê xuống hầm sư tử. Mà thú dữ ấy chẳng dám xông phạm đến người chút nào; lại vây xung quanh Người, dường như mầng rước người. Vua yêu vì Tiên tri Đa-ni-ê quá đỗi, nên khi quăng người xuống hầm, thì cả đêm thao thức ngủ chẳng đặng, những trông mau sáng đến thăm coi. Rạng ngày vua vội vàng đến trước cửa hầm kêu rằng: Hỡi Đa-ni-ê! Chúa ngươi thờ phượng có sức cứu đặng chăng? Ông Đa-ni-ê tâu lên rằng: Tâu đức vua vạn tuế! Thật Chúa tôi thờ phượng có sức cứu chữa tôi. Vua thấy phép lạ cả thể làm vậy, liền sững sờ cùng ăn năn trách mình đã vội tin lời dua nịnh, mà toan hại người lành. Bấy giờ vua truyền kéo ông thánh Đa-ni-ê lên khỏi hầm, ôm lấy người chí thiết, cùng thịnh nộ truyền quăng những quan đã cáo người xuống hầm. Vừa tới nơi, thì sư tử hằm hằm cắn nét, cùng nuốt những quan độc dữ ấy.
Vua A-xu-ê-r-ô cưới bà Ê-thê-rê, là người Giu-dêu, làm hoàng hậu. Bà này là cháu ông Ma-đo-kê-ô, là người ngoan đạo. Phỏng lúc ấy có quan đệ nhị, tên là Aman, kiêu hãnh cùng độc ác, nó tích lòng ghét ông Ma-đo-kê-ô, vì chẳng chịu quì gối trước mặt mình, nên toan lo mưu lập kế, mà hại ông ấy cùng cả dân người. Vậy quan Aman đã lập thế tâu xin đặng chiếu chỉ vua truyền giết cả dân Giu-dêu; và đã sắm một trụ cao đặng thắt cổ ông Ma-đo-kê-ô. Vừa khi bà hoàng hậu Ê-thê-rê hay tin độc ác ấy, dầu phép nước cấm nhặt hễ chẳng có lịnh vua truyền, mà ai dám tới, chắc phải án chết, thì bà cũng chẳng sợ, liều mình tới chầu vua mà kêu xin thứ tha cho dân mình. Ban đầu vua nổi cơn thạnh nộ trừng ngó, thì bà Ê-thê-rê khiếp vía ngã sấp. Song vừa khi vua nhìn xem hoàng hậu nhan sắc xinh đẹp thích ý, liền ngớt cơn thạnh nộ trao tay đỡ hoàng hậu, cùng phán rằng: Hoàng hậu muốn xin đi gì cùng trẫm dầu nửa nước trẫm thì trẫm cũng bằng lòng cho. Bấy giờ bà Ê-thê-rê tâu rằng: Tâu xin đức vua thương tôi cùng dân tôi, mà cứu chữa chúng tôi cho khỏi tay quan Aman lập mưu toan giết chúng tôi. Vừa nghe bấy nhiêu lời, thì vua tức giận cùng thạnh nộ, liền xé chiếu chỉ và truyền giết quan Aman, cùng treo trên trụ nó đã sắm. Lại cũng có một bà khác nữa, tên là Giu-đích đã cứu dân mình như vậy. Số là tướng Ho-lo-phe-ne đem binh vây thành Bê-tu-li-a riết lắm; dân sự đã ngã lòng không còn thế chống cự, song Chúa soi lòng bà ấy đến và tìm chước nhiệm mà giết quan tướng độc dữ ấy thình lình; nên cả và dân được bình an vô sự.
Vua An-ti-ô-kô quyết ép dân Giu-dêu thờ bụt thần như mình, nên đã làm hại cùng giết nhiều người Giu-dêu chẳng vâng phục ý mình. Trong những người tử vì đạo lúc ấy, thì có tám mẹ con Ma-ca-bê-cô danh tiếng lắm. Vua truyền lột da, cắt lưỡi, chặt chơn tay những đấng ấy, song cũng luống công vô ích, chẳng làm chi được. Mà cho được làm độc ác hơn, thì vua truyền giết mỗi con trước mặt mẹ. Bà mẹ can đảm chẳng chút sờn lòng, một khuyên cùng hối thúc các con mình chịu chết vui lòng vì Chúa. Sau hết chính mình bà ấy cũng đổ máu làm một với các con, mà chúc tụng ngợi khen danh đạo thánh Chúa.
Đời vua Hê-ro-đê trị nước Giu-đê-a, có hai vợ chồng tên Gia-ca-ri-a và Y-sa-ve. Cả hai nhơn đức trước mặt Chúa, song đã già nua mà chưa có con. Có ngày kia đến phiên ông Gia-ca-ri-a phải làm việc thầy cả trong đền thờ; bấy giờ có Thiên thần Ga-bi-ri-e hiện đến và bảo sẽ sinh được một con trai, mà ông phải đặt là Gioan. Ông Gia-ca-ri-a hồ nghi lời Thiên thần, thì phải phạt nên câm. Lúc ấy tại thành Na-da-rét, xứ Ga-li-lê-a, có một người trinh nữ, tên là Maria, kết bạn cùng một đàn ông, tên Giuse, cả hai thuộc về dòng vua Đa-vít. Đức Chúa Trời đã chọn Đức Nữ Maria này làm Mẹ Con một Người, là Ngôi thứ hai ra đời. Ngày kia đức thánh Thiên thần Ga-bi-ri-e hiện xuống cùng bà Maria, mà truyền lịnh Đức Chúa Trời rằng: Đức Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống phù hộ cho bà, và bà sẽ sanh Con một Đức Chúa Trời và đặt tên là Giêsu. Bấy giờ bà Maria thưa rằng: Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền cho tôi.
Thánh Thiên thần cũng bảo: bà Y-sa-ve là họ hàng bà, gần sinh con; nên bà Maria vội vàng đi viếng thăm. Khi bà Y-sa-ve nghe tiếng Đức bà chào mình, tức thì đặng đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần mà rằng: Bà có phước hơn mọi người nữ, bởi đâu mà Mẹ Chúa Trời khấng đến viếng tôi. Đức bà bèn đội ơn ngợi khen Chúa. Khi đã đầy ngày tháng, thì bà Y-sa-ve sinh đặng một con trai; trong dòng bà con đều đồng ưng đặt tên là Gia-ca-ri-a, cũng một tên như cha. Nhưng mà mẹ người không chịu, lại ông Gia-ca-ri-a biểu đưa tấm ván viết trên: Gioan là tên con trẻ. Tức thì lưỡi ông ấy mở ra mà nói đặng và rằng: chúc tụng ngợi khen Đức Chúa Trời.
Khỏi ít tháng, có lịnh hoàng đế Rôma truyền cho ai nấy phải về quê tổ mà khai tên. Vậy Đức Mẹ cùng ông thánh Giu-se là con cháu vua Đa-vít nên phải trở về thành Bêlem mà khai tên mình. Khi tới nơi, thì các quán phố đã chật đầy, nên Đức Mẹ và ông thánh Giu-se phải tìm hang đá bò lừa ngoài đồng, mà trú tạm một ít lâu. Nửa đêm thì Đức Mẹ sinh Đức Chúa Giêsu. Đêm Đức Chúa Giêsu sinh ra, những mục đồng xung quanh nghe Thiên thần bảo, liền tuôn đến, mà thờ lạy Chúa Hài đồng. Khỏi bốn mươi ngày, Đức Mẹ và ông thánh Giu-se đem con trẻ đến đền thờ thành Giêrusalem mà dâng con mình cho Chúa, cùng dâng một cặp bồ câu mà chuộc con theo lề luật. Khi ấy có ông già nhơn đức kia, tên là Xi-mê-ong, hằng trông cho đến ngày cứu chuộc dân Y-sa-ra-e. Người vừa thấy Chúa Hài đồng, thì ẵm bồng và chúc tụng Chúa rằng: lạy Chúa, nay xin Chúa để cho tôi chết bình an, vì mắt tôi đã xem thấy Đấng Cứu Chuộc. Lại ông Xi-mê-ong nói tiên tri với Đức Mẹ rằng: Con trẻ này sẽ cứu chuộc nhiều người trong dân Y-sa-ra-e, mà Đức Mẹ phải chịu nhiều điều khốn nạn. Vả lại cũng có vì sao lạ soi sáng bên đông nên ba vua phương ấy hiệp nhau đến, mà thờ lạy Chúa, cùng dâng của lễ mừng tạ Chúa nữa. Nhưng mà vua Hê-ro-đê những e mất nước, nên tìm giết Đấng Cứu Thế. Vậy vua độc dữ ấy truyền giết tận tuyệt con nít thành Bêlem, từ hai tuổi sấp xuống. Đang giấc ngủ Thiên thần bảo tin cho ông thánh Giu-se hay biết, cùng truyền phải đem Đức Mẹ và Đức Chúa Giêsu trốn sang nước Ê-giếp-tô cho kíp, kẻo phải tay vua độc ác ấy.
Khi vua Hê-ro-đê chết đoạn, thì Đức Mẹ cùng ông thánh Giu-se đem Đức Chúa Giêsu trở về thành Na-da-rét. Ở đó 30 năm, chính Đức Chúa Giêsu ra tay giúp ông thánh Giu-se làm nghề thợ mộc. Khi Đức Chúa Giêsu đã lên 12 tuổi, thì Người đi theo Đức Mẹ và ông thánh Giu-se lên thành Giêrusalem mà chầu lễ Phan-xi-ca. Lễ đoạn Đức Mẹ cùng ông thánh Giu-se theo bà con trở về thành Na-da-rét, không dè Đức Chúa Giêsu ở lại thành Giêrusalem. Đến tối ngày ấy Đức Mẹ và ông thánh Giu-se không thấy Người, thì vội vàng trở lại trong đền thờ, gặp Người đang ngự giữa các tấn sĩ, nghe cùng hỏi phô ông ấy cách khôn ngoan lạ lùng. Khi Đức Chúa Giêsu gặp mẹ cùng bõ nuôi, thì xuống liền mà theo cha mẹ về Na-da-rét. Người ở nhà cùng cha mẹ, chịu khó nhọc giúp đỡ cùng vâng phục mọi đàng.
Khi Đức Chúa Giêsu vừa đặng 30 tuổi, thì Chúa sai ông thánh Gioan mở đàng cho mình. Vậy ông thánh Gioan vâng lịnh Chúa, liền bỏ rừng nơi vắng vẻ người ẩn mình bấy lâu, mà đi đến gần sông Gio-đa-nô ngang mặt thành Giê-ri-cô mà rằng: “Bây hãy ăn năn làm việc đền tội, vì nước thiên đàng đã đến!” Đang khi mọi người đến với ông thánh Gio-an thì Đức Chúa Giêsu cũng đi tìm ông thánh Gioan Bao-ti-xi-ta, ở gần sông Gio-đa-nô, cùng xin chịu phép rửa. Đức Chúa Giêsu mới ra khỏi nước, còn đang cầu nguyện, bỗng chúc trời mở ra, Đức Chúa Thánh Thần mượn lấy mình bồ câu hiện xuống đổ trên đầu Đức Chúa Giêsu và có tiếng trên không phán rằng: Này là con Tao rất yêu dấu, và rất đẹp lòng Tao lắm.
Chịu phép rửa đoạn, thì Đức Chúa Giêsu lên rừng ăn chay 40 đêm ngày. Khỏi 40 ngày, thì ma quỉ tới cám dỗ Người ba cách này. Lần đầu xin Đức Chúa Giêsu lấy phép tắc mà khiến mấy hoàn đá ra bánh mà ăn. Rồi đem Người đi thành Giêrusalem và đặt nơi cao trên nóc đền thờ lớn, mà xin gieo mình xuống coi thử có Thiên thần gìn giữ mình. Sau hết cũng đem lại lên núi rất cao; và tỏ những sự sang trọng vinh hiển cho Đức Chúa Giêsu xem, mà rằng: Này là nước min hết thảy thảy, ông có quì xuống mà lạy, thì min để cho hết. Mà Đức Chúa Giêsu đuổi ma quỉ ra, đoạn thì có Thiên thần bởi trời xuống mà giúp Người.
Bấy giờ Đức Chúa Giêsu trở về xứ Ga-li-lê-a, bắt đầu giảng đạo thánh, cùng làm mọi phép lạ, làm chứng Người là Đấng Cứu Thế, Đức Chúa Trời đã sai. Bữa kia đương khi Người ăn lễ cưới, tại làng Cana, nửa bữa chủ hôn thiếu rượu. Nhờ lời Đức Mẹ xin, bấy giờ Đức Chúa Giêsu truyền múc đầy sáu lu nước, cùng làm phép lạ cho nước trở nên rượu. Tại thành Ca-pha-na-um có quan võ kia có đứa con phải liệt nặng. Quan nghe Đức Chúa Giêsu đến, thì xin Người xuống chữa con đã hòng chết, Đức Chúa Giêsu phán: Ông hãy về; con ông đặng lành đã. Quan liền tin lời Chúa, và tới nơi thấy con lành đã. Đang lúc đi dọc bãi hồ Giê-nê-da-rét, Người nghe thợ lưới phàn nàn năn nỉ, đã chịu khó nhọc bủa lưới cả đêm, mà vô ích, thì Người động lòng thương mà bảo rằng: Bây hãy bủa lưới phía tay mặt. Tức thì phô kẻ ấy vâng lời bủa lưới, cùng đặng đầy ghe đủ các thứ cá lớn nhỏ đến đỗi hòng đứt lưới. Đoạn Đức Chúa Giêsu đã chọn 12 người Tông đồ mà giúp việc giảng đạo. Người đem các đấng ấy theo mình khắp xứ Ga-li-lê-a, giảng dạy cùng làm mọi phép lạ, đủ ba năm tròn.
Ngày kia Đức Chúa Giêsu đem các thánh tông đồ lên núi mà dạy dỗ, đoạn có đoàn lũ người ta đến nghe giảng, thì Đức Chúa Giêsu phán rằng: Ai có lòng khó khăn, ấy là phước thật, vì chưng ngày sau nước Thiên đàng là của phô người ấy. Ai ăn ở hiền lành, thật là kẻ có phước, vì ngày sau sẽ được hưởng đất quí trọng trên trời. Kẻ nào ăn năn khóc lóc đời này thì có phước, vì ngày sau được an ủi vui vẻ đời đời. Kẻ chịu đói khát vì lòng mến Chúa, thì có phước thật, vì chưng ngày sau sẽ đặng no đủ mọi bề. Ai hay thương xót người ta, thật là có phước, vì ngày sau Đức Chúa Trời sẽ đoái thương phô kẻ ấy. Ai có lòng sạch sẽ, ấy là phước thật, vì chưng ngày sau sẽ đặng thấy mặt Đức Chúa Trời. Ai làm cho người hoà thuận, ấy là có phước, vì Đức Chúa Trời sẽ nhìn lấy nó làm con riêng Người. Ai chịu khốn khó vì đạo thánh Chúa, là có phước, vì ngày sau nó chắc sẽ hưởng phước trên Thiên đàng. Đoạn Đức Chúa Giêsu phán thêm: Nếu người ta khinh dể, bắt bớ, làm khốn cực bây vì đạo thánh Tao thì bây vui mầng, và sẵn lòng chịu khó, vì tên bây đã biên vào sổ kẻ Chúa chọn lên thiên đàng.
Khi Đức Chúa Giêsu ở trên núi mà xuống, thì có một tên tật phung sấp mình dưới chơn Người, và xin cho mình lành đã, Đức Chúa Giêsu giơ tay và rằng: tao muốn, hãy lành đã. Vào thành Ca-pha-na-um có quan kia đến cùng Đức Chúa Giêsu mà xin rằng: Lạy Chúa, đầy tớ tôi bất toại đau đớn quá sức, Chúa trả lời rằng: Tao sẽ đi mà chữa nó. Quan bèn thưa rằng: Lạy Chúa, tôi không đáng cho Chúa ngự vào nhà tôi, song xin Chúa phán một lời, thì đầy tớ tôi đặng lành, Đức Chúa Giêsu khen lòng tin quan ấy và phán rằng: Ông hãy về, ông sẽ đặng như lời ông xin.
Bữa kia Đức Chúa Giêsu qua thành Na-im: khi khỏi thành, thì gặp đám đưa xác con trai một bà goá kia có nhiều dân đưa theo. Thấy vậy, Đức Chúa Giêsu, mủi lòng và phán rằng: Ớ bà; chớ khóc làm chi. Và Người lại gần quan tài mà khiến rằng: Ớ con trai, Tao biểu chỗi dậy. Tức thì kẻ chết đứng dậy mà nói. Và Đức Chúa Giêsu giao lại cho mẹ nó. Kẻ hầu đều thất kinh và ngợi khen Chúa phép tắc vô cùng.
Đức Chúa Giêsu lấy ví dụ kẻ đi gieo giống ngoài đồng, mà rằng: Kẻ đi giảng đạo Chúa cũng như kẻ đem giống ra mà gieo. Kẻ gieo là đi giảng, hột giống là lời Chúa, là đạo thánh. Vậy có hột rơi trên đàng, chim lượm ăn mất; ấy là kẻ nghe giảng mà không đem vào lòng vào trí; nghe rồi bỏ mất chẳng đặng ích lợi gì. Có hột thì rơi nhằm nơi đất sỏi, nhằm chỗ đất cứng; nên mọc lên không được; ấy là kẻ nghe lời Chúa bề ngoài mà bề trong cứng lòng chẳng muốn tin, chẳng chịu giữ theo, nên cũng vô ích. Có hột lại rớt trong bờ bụi; mọc lên tong tớt, sau cùng chẳng trổ bông trái chi được, ấy là kẻ nghe giảng dạy, song về nhà mắc bua việc nọ sự kia vô ích ở đời; nên chẳng đặng nhờ ích lợi bởi sự đã nghe. Sau hết những hột gieo vào đất tốt, thì trổ sanh lời lãi, một hột sanh đặng một trăm; ấy là kẻ có lòng sốt sắng và sạch tội mà nghe lời Chúa dạy, thì sẽ được ích lợi về phần hồn quá lắm. Lần khác Đức Chúa Giêsu lấy ví dụ hột cải sánh ví đạo thánh Người mà rằng: Đạo thánh Chúa cũng như hột cải; vốn thì nhỏ lắm: song khi gieo mà mọc lên, thì nên cây lớn lá to; cũng một lẽ ấy, thuở mới lập đạo thánh, thì ít kẻ theo, song lần lần có cùng khắp thế gian.
Đức Chúa Giêsu xuống thuyền và môn đệ cũng theo Chúa. Bấy giờ cơn giông tố nổi lên, sóng biển che phủ cả thuyền, song Đức Chúa Giêsu còn ngủ. Bấy giờ môn đệ đến đánh thức Người, mà thưa rằng: Lạy Chúa, xin Chúa cứu chúng tôi, vì chúng tôi hòng chết mất. Đức Chúa Giêsu phán rằng: Nhơn sao bây sợ hãi? Bây kém đức tin là dường nào! Đoạn Người chỗi dậy khiến sóng gió lặng đi; tức thì sóng gió liền yên lặng.
Khi Đức Chúa Giêsu giảng dạy dân, thì có quan kia cai nhà nguyện đến sấp mình xuống mà thưa Chúa rằng: Lạy Chúa, con gái tôi đã chết, xin Chúa đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại, Đức Chúa Giêsu bèn đi cùng môn đệ. Khi Đức Chúa Giêsu đến nhà quan, mà thấy những quân thổi kèn, cùng đoàn lũ dân sự làm rộn rực om sòm, thì Người đuổi chúng nó ra; đoạn vào cầm lấy tay con ấy, tức thì con ấy liền chỗi dậy.
Bởi ông thánh Gioan lấy lòng can đảm chán chường quở vua Hêrôdê, vì vua làm điều nghịch luật Đức Chúa Trời cướp lấy vợ em mình, nên vua bắt ông thánh Gioan và bỏ tù. Lúc vua Hô-rô-dê đãi yến tiệc các quan văn võ đình thần mà mầng ngày sinh nhựt vua, thì con gái mụ Hê-ro-đi-a vào phòng nhảy múa, làm cho ai nấy thảy đều mê sa. Nên vua hứa với con gái ác ấy: Mầy xin điều gì thì trẫm cũng chẳng tiếc. Bấy giờ theo lời mụ mẹ, thì con gái xin vua lấy đầu ông thánh Gio-an cho chóng mà bỏ vào đĩa cho nó. Vua Hêrôdê nghe vậy, thì buồn rầu, mà vì đã hứa lỡ ra, cùng vì các kẻ ngồi tiệc, nên chẳng đặng từ chối. Bèn sai lính hộ vệ đi chém đầu ông thánh Gioan cùng truyền bỏ đầu người vào dĩa và ban cho con gái ác ấy. Khi môn đệ ông thánh Gioan nghe tin ấy, thì đến lấy xác đấng Tiền hô Chúa đem về mà tống táng.
Đức Chúa Giêsu đi qua bên kia biển hồ xứ Ga-li-lê-a, gọi là Ti-bê-ri-a-đê, mà có nhiều dân theo Người. Khi Đức Chúa Giêsu ngửa mặt lên mà thấy nhiều dân đi theo Người, thì phán cùng ông Philipphê rằng: Ta biết mua bánh đâu cho chúng nó ăn? Ông Xi-mong bèn thưa rằng: Ở đây có đứa con trẻ còn năm cái bánh mạch nha và hai con cá; song bấy nhiêu nào thấm vào đâu cho đông người dường ấy. Bấy giờ Đức Chúa Giêsu phán rằng: Bây hãy bảo dân ngồi lại. Dân bèn ngồi xuống ước chừng năm ngàn người. Bấy giờ Đức Chúa Giêsu cầm lấy bánh đội ơn Đức Chúa Cha, đoạn dạy chia ra cho dân, cùng dạy phát cá cho chúng nó, muốn ăn bao nhiêu thì mặc thích. Mà khi ai nấy đã ăn no, thì Người phán cùng môn đệ rằng: Bây hãy thâu lấy mụn bánh còn dư, kẻo hư đi. Vậy môn đệ đã thâu đặng mười hai thúng bánh vụn bởi năm cái bánh mạch nha, mà bấy nhiêu người đã ăn no còn dư lại.
Có lần kia Đức Chúa Giêsu đem riêng ông thánh Phêrô, ông thánh Giacôbê, và ông thánh Gioan lên núi Ta-bô-rê. Đoạn Đức Chúa Giêsu đổi hình Người ra khác lạ, mặt mũi Người trở nên sáng láng quá nữa mặt trời: áo Người mặc trở nên trắng như tuyết; lại hình dạng Người trở nên oai nghi khôn kể xiết. Bấy giờ có thánh Môi-sen và Tiên tri Êlia hiện đến nói chuyện với Người. Khi ấy ông thánh Phêrô bởi mầng vui, liền thưa Chúa rằng: Lạy Thầy, để cho chúng tôi làm trại làm nhà ở đây, chỗ này vui lắm! Thoát chúc có đám mây đen che phủ, và nghe tiếng trên trời phán rằng: Này là con Tao rất yêu dấu, bây hãy nghe lời Người. Bấy giờ ba thánh Tông đồ thất kinh sấp mình xuống đất: Đức Chúa Giêsu liền khiến chỗi dậy. Song khi dậy chỉ còn thấy một mình Đức Chúa Giêsu như trước mà thôi.
Đức Chúa Giêsu phán cùng môn đệ rằng: Phước cho con mắt đặng thấy những sự bây xem. Bấy giờ có người thông thái lề luật chỗi dậy hỏi thử Chúa rằng: Trình thầy, tôi phải làm đi gì cho đặng sống đời đời? Chúa Giêsu liền trả lời rằng: Trong lề luật đã chép làm sao? Ngươi đọc thể nào? Người ấy thưa rằng: Mầy phải kính mến Đức Chúa Trời hết lòng mầy, hết linh hồn mầy, hết trí khôn mầy, và hết sức mầy; lại phải thương yêu anh em như mình vậy. Đức Chúa Giêsu bèn phán rằng: Ngươi thưa làm vậy, thì thậm phải lắm: ngươi hãy làm như vậy thì sẽ đặng sống.
Bữa kia Đức Chúa Giêsu ra khỏi đền thờ, bèn gặp một đứa mù từ bình sinh, thì giổ xuống đất, lấy nước miếng làm bùn, đoạn xức trên mắt thằng mù ấy mà rằng: Mầy hãy đi rửa trong suối Xi-lo-ê. Thằng ấy liền đi rửa và đặng lành đã. Bữa đó là ngày thứ bảy. Trong láng giềng cũng có kẻ đi-thuật lại với quân Pharisêu mọi sự. Bấy giờ quân Pharisêu đòi tên mù và tra xét cho tường tận. Lại muốn ép cho nó chối kẻ làm lành cho mình; nhưng mà tên mù ấy lấy lòng can đảm xưng thật Đức Chúa Giêsu đã lấy bùn mà thoa trên con mắt, làm cho mình sáng mắt lại. Nghe vậy, quân Pharisêu bởi ghen ghét Đức Chúa Giêsu thì xung giận mà chưởi rủa tên mù ấy mọi thế, bèn đuổi ra ngoài. Đức Chúa Giêsu nghe quân Pharisêu đã đuổi thằng mù ra ngoài, thì khi gặp nó, bèn phán cùng nó rằng: Mầy có tin con Đức Chúa Trời chăng? Nó thưa rằng: Lạy ông, Đấng ấy là ai, xin ông nói cho tôi đặng tin Người? Đức Chúa Giêsu trả lời rằng: Mầy đã thấy Người, Đấng ấy là Tao đang nói cùng mầy đây. Nó liền thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin. Tức thì nó sấp mình dưới chơn Chúa mà thờ lạy Người.
Có lần kia Đức Chúa Giêsu cầu nguyện nơi vắng vẻ mà trở về, thì môn đệ đến thưa Chúa rằng: Lạy Thầy, xin Thầy dạy chúng con cầu nguyện như ông thánh Gioan đã dạy môn đệ mình. Chúa bèn phán rằng: Khi bây cầu nguyện thì hãy đọc rằng: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng; nước Cha trị đến; vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy. - Xin Cha cho chúng tôi rày hằng ngày dùng đủ; và tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi; lại chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ: bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ. Lại Đức Chúa Giêsu phán rằng: Bây hãy xin, thì sẽ đặng; hãy tìm thì gặp; hãy gõ cửa, thì sẽ mở. Vì chưng ai xin thì đặng, ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì mở cho. Khi con bây xin bây cái bánh, thì ai trong bây lấy đá mà cho nó sao? Lại nếu nó xin con cá, mà bây cho nó con rắn sao? Hay là nó xin cái trứng, mà bây lại cho nó con bò cạp sao? Nếu bây là kẻ xấu; mà còn biết cho con bây của tốt phương chi Cha bây trên trời chẳng biết ban giống tốt cho những kẻ xin cùng mình sao?
Đức Chúa Giêsu phán rằng: Ông kia sinh đặng hai đứa con trai. Bấy giờ con thứ thưa cha rằng: Lạy cha, xin cha chia phần gia tài cho con. Cha liền chia của mình mà giao cho nó. Nó vừa lãnh lấy của mình, liền trẩy đi phương xa chơi bời ác nghiệp xài phí hết của cải. Xảy đến trước, lúc ấy phải cơn đói khát rất dữ tợn, nên nó phải thiếu thốn khốn nạn lắm. Nó bèn đi ở mướn cùng chủ kia trong xứ ấy, thì chủ sai đi chăn heo ngoài đồng. Nó ước ao chớ gì đặng một chén cháo heo ăn đỡ đói, song cũng chẳng ai thèm thí cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại mà nói trong lòng rằng: Nhà cha tôi thiếu chi đứa tôi tá ăn no dư dật, mà tôi chết đói khốn nạn xứ này sao? Vậy tôi hãy dậy mà về cùng cha, tôi sẽ than thở cùng cha tôi rằng: Lạy cha, con đã lỗi nghĩa cùng Chúa đã làm mất lòng cha. Con chẳng đáng gọi là con cha nữa, xin cha kể con như đứa tôi tá mà thôi. Nói bấy nhiêu đoạn, liền vội vàng chỗi dậy thẳng về cùng cha. Khi nó vừa tới còn xa xa, ông già xem thấy liền động lòng thương xót, chạy ra ôm lấy con vào lòng mà hôn cách chí thiết. Thằng con mới thưa cha rằng: Lạy cha, con đã lỗi nghĩa cùng Chúa và đã làm mất lòng cha. Con chẳng đáng gọi là con cha nữa, một xin cha kể con như đứa đầy tớ mà thôi. Song le cha già kêu đầy tớ mà dạy rằng: Bây hãy lấy áo quí giá cho con tao mặc, hãy đeo nhẫn vào tay và mang giày vào chơn con tao cho kíp. Bây hãy bắt con bò nghé đã nuôi cho mập mà làm thịt cho ta ăn mầng, vì con tao đây đã chết rày sống lại, đã mất rày lại gặp. Đoạn cả nhà ăn mầng trọng thể. Khi ấy con trưởng nam ở ngoài đồng vừa về đến nhà, nghe đờn ca xướng hát, thì kêu đầy tớ mà hỏi: Nhà cha có việc gì lạ làm vậy? Đầy tớ thưa rằng: Trình cậu, em cậu mới về, nên ông dạy làm thịt bò nghé béo tốt mà ăn mầng vì cậu hãy còn sức khoẻ. Bấy giờ con trưởng nam giận mà chẳng thèm vào nhà, cha già nghe nói, liền chạy ra mời con vào. Song nó thưa rằng: Tôi làm tôi ông mấy năm nay, chẳng hề dám sai lời lỗi lịnh ông, song dầu một con dê con, ông cũng chẳng hề cho tôi làm tiệc vui chơi cùng bậu bạn một bữa. Còn thằng con ông đây đi hoang lung ăn chơi, nay nó mới mang mặt về, thì ông lại làm thịt bò nghé béo tốt mà mầng nó. Cha già mới nói rằng: Hỡi con, này con hằng ở cùng cha, mọi của cha cũng là của con thảy thảy. Phần em con đây đã chết rày sống lại, đã mất rày đặng gặp, thì lẽ nào mà ta chẳng làm tiệc mà mầng nó sao?
Đức Chúa Giêsu còn phán ví dụ này rằng: Có người giàu có kia, mặc áo lụa hàng thanh quí, mỗi ngày ăn tiệc mĩ vị. Lại cũng có người ăn mày tên là Ladarô, mình đầy chốc lếch, nằm ngoài cửa người giàu, ước đặng một chút mụn bánh trên bàn người giàu rơi xuống, mà ăn đỡ lòng, song cũng chẳng ai thèm cho; chỉ có con chó đến liếm chốc lếch người mà thôi. Chẳng hay người ăn mày ấy chết, mà thiên thần rước lên thiên đàng, để vào lòng ông thánh A-ba-ra-ham. Mà tên giàu ấy cũng chết, song phải chôn vào hoả ngục. Đang khi nó phải gia hình khảo lược, nó bèn ngửa mặt lên, xem thấy ông A-ba-ra-ham và ông Ladarô dựa vào lòng người ở xa xa, thì nó kêu van rằng: Lạy cha A-ba-ra-ham, xin Cha thương xót tôi, mà dạy Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ xuống trên lưỡi cho tôi giảm khát một chút, vì tôi phải gia hình rất đỗi rát rao trong lò lửa này. Ông A-ba-ra-ham bèn trả lời rằng: Ớ con, con hãy nhớ lại, thuở sống ở đời con đã đặng giàu sang phú túc, mà Ladarô thì phải đói khát bần cùng. Bây giờ Ladarô ở đây hưởng sự thanh nhàn khoái lạc, còn con thì gia hình khốn nạn, thật là phải lẽ lắm. Người giàu ấy lại xin rằng: Ít nữa là cha cho Ladarô hiện về nhà cha tôi. Tôi còn năm anh em; xin người bảo chúng nó hãy giữ mình, kẻo phải chôn vào chốn khổ hình như tôi chăng. Ông thánh A-ba-ra-ham đáp lại rằng: Đã có Môi-sen và các tiên tri dạy bảo chúng nó; chúng nó hãy nghe lời phô ông ấy. Nó lại thưa rằng: Thưa cha, không, chúng nó có thấy người chết hiện về, thì nó mới ăn năn trở lại mà thôi. Ông thánh ấy lại rằng: Ví bằng chúng nó chẳng nghe Môi-sen và các tiên tri, thì dầu kẻ chết hiện về, chúng cũng chẳng tin đâu.
Ông Ladarô là em bà Maria và bà Mátta phải bịnh tại thành Bê-tha-ni-a. Bấy giờ hai chị người sai kẻ đem tin cho Đức Chúa Giêsu hãy rằng: Lạy Chúa, người Chúa yêu dấu nay phải đau liệt. Khỏi ít bữa Đức Chúa Giêsu phán rõ với môn đệ rằng: Ladarô đã chết thật. Vậy ta hãy đi thăm coi. Khi Đức Chúa Giêsu đến nơi, thì đã chôn ông Ladarô gần đặng bốn ngày rồi. Bà Mátta vừa nghe tin Đức Chúa Giêsu tới, liền chạy ra đón rước Chúa mà rằng: Phải mà Chúa có mặt đây, thì em tôi chẳng chết. Đức Chúa Giêsu đáp lại rằng: Em bà sẽ đặng sống lại. Bà Mátta trở về nhà tin cho bà Maria. Bà Maria vừa đến gần Đức Chúa Giêsu, liền sấp mình dưới chơn Chúa, mà khóc. Bấy giờ Đức Chúa Giêsu cũng động lòng mà khóc theo. Khi Đức Chúa Giêsu đã đến trước cửa mồ, thì phán biểu lật hoàn đá lấp cửa hang mồ. Vậy người ta đã lật hoàn đá ra. Bấy giờ Đức Chúa Giêsu ngửa mặt lên mà phán rằng: Lạy Cha, con cám ơn Cha, vì Cha đã nghe con xin. Nói bấy nhiêu lời đoạn, Người bèn nói lớn tiếng rằng: Ớ Ladarô, hãy ra khỏi huyệt. Tức thì kẻ chết liền ra, tay chơn còn vấn dây, mặt còn khăn phủ Đức Chúa Giêsu dạy rằng: Hãy mở khăn dây cho người đi. Có nhiều người Giu-dêu xem thấy phép lạ làm vậy, thì tin Người. Song có kẻ thuật lại cùng quân Pharisêu về việc Chúa đã làm. Bấy giờ các đầu mục thầy cả và quân Pharisêu công luận cùng nhau cho đặng giết Người. Vì vậy Đức Chúa Giêsu chẳng còn ra mặt chán chường cùng quân Giu-dêu nữa. Người bèn lui đến nơi vắng vẻ trong thành E-phê-rem mà ở đó cùng môn đệ.
Đức Chúa Giêsu phán ví dụ này cùng kẻ cậy mình nhơn đức, mà khinh dể kẻ khác rằng: Có hai người lên đền thờ mà cầu nguyện: một người là Pharisêu, người kia là Pub-li-ca-nô. Người Pharisêu đứng giữa nhà thờ mà nguyện rằng: Lạy Chúa, tôi cám ơn Chúa, vì tôi chẳng phải như kẻ khác trộm cướp, gian tham, ngoại tình, trai gái, cũng chẳng phải như người Pub-li-ca-nô kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần, mười phần của tôi bố thí hết một. Còn người Pub-li-ca-nô thì đứng xa, chẳng dám ngửa mặt lên trời, một đấm ngực mà nguyện rằng: Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi. Đức Chúa Giêsu phán thêm rằng: Tao bảo bây đặng hay; người này trở về nhà được tha hết mọi tội lỗi, mà tên kia chẳng được tha đâu; vì chưng ai tặng mình lên, thì sẽ phải hạ xuống, mà kẻ hạ mình xuống, thì sẽ đặng nhắc lên.
Khi ấy con trẻ cũng đặng đến gần Chúa. Người ta đem chúng nó đến cho Chúa đặt tay trên đầu mà cầu nguyện cho nó. Song môn đệ can chẳng cho, thì Chúa quở môn đệ rằng: Bây hãy để cho con trẻ đến cùng Tao, chẳng nên ngăn cấm, vì nước thiên đàng là của những kẻ giống như chúng nó. Tao nói thật cùng chúng bây, ai chẳng chịu lấy nước Đức Chúa Trời như một đứa con trẻ, thì nó chẳng đặng vào nước ấy đâu. Đoạn Chúa ôm lấy chúng vào lòng, cùng đặt tay trên đầu mà cầu nguyện cho chúng nó.
Khi Đức Chúa Giêsu đã đến gần thành Giêrusalem thì sai hai môn đệ vào thành kia, bắt một con lừa cái và một con lừa đực con dắt đến cho Người. Hai môn đệ liền đi cùng làm như lời Chúa dạy, mà dắt lừa mẹ và lừa đực con về, đoạn cổi áo mình ra lót trên lưng cho Chúa cỡi. Mà nhiều kẻ trong dân cổi áo mình ra lót dọc đàng, có kẻ lại chặt nhành lá mà rải trên đàng. Bấy giờ đoàn dân đi trước và những đoàn phò theo sau đều kêu cả tiếng rằng: Ngợi khen con vua Đa-vít, mầng đấng lấy tên Chúa mà đến! Khi Đức Chúa Giêsu vào đền thờ, thì Người đuổi những quân buôn bán cùng quở chúng nó rằng: Đã có lời chép: Nhà Tao là nhà cầu nguyện, song bây đã lấy mà làm hang kẻ trộm cướp. Đoạn Người giảng dạy trong đền thờ mọi ngày.
Khi đã lên núi O-li-vê-tê, thì môn đệ thưa Chúa rằng: Xin Thầy dạy chúng tôi cho biết khi nào Thầy sẽ đến lại và phải cứ dấu nào mà biết ngày tận thế. Người phán rằng: Bây hãy giữ kẻo phải lường gạt; vì chưng có nhiều kẻ sẽ mượn lấy danh Tao mà nói rằng: Này Tao là Kitô. Mà nó sẽ dối đặng nhiều người. Bây sẽ nghe nói có giặc giã loạn lạc nổi dậy. Song bây chớ lo sợ làm chi, vì các sự ấy phải có trước đã; song chẳng phải là cùng sau hết đâu. Sẽ có đất động dữ dằn, mất mùa, đói khát, dịch khí. Song le những sự ấy cũng là điềm chỉ về ngày tận thế mà thôi. Người ta sẽ bắt bây mà làm khổ sợ, cùng nộp bây cho quan: bây sẽ phải bỏ vào ngục, cùng phải cả và thế gian chê ghét vì danh Tao. Mà bởi bây có lòng vững vàng thì bây sẽ đặng rỗi linh hồn. Vì kẻ nào bền đỗ cho đến cùng, thì mới đặng rỗi. Song le trước hết phải giảng rao tin về nước Đức Chúa Trời khắp bầu thế giới, đoạn bấy giờ đến ngày sau hết.
Đức Chúa Giêsu phán cùng môn đệ mình rằng: Bây đã biết còn hai ngày nữa đến lễ Phan-xi-ca. Bấy giờ Con Người sẽ phải nộp cùng chịu đóng đinh trên cây thập giá. Khi ấy công luận cả bàn định cùng nhau, lập kế cho đặng bắt Đức Chúa Giêsu mà giết. Vậy chúng nó bàn rằng: Chẳng nên bàn việc ấy trong ngày lễ, vì e dân dấy loạn chăng. Bấy giờ Sa-tan đã nhập vào Giu-dà I-ca-ri-ô-tê, thì nó bèn đến cùng đầu mục thầy cả mà nói rằng: Phô ông cho tôi đi gì, thì tôi sẽ nộp Người cho phô ông? Quân ấy liền cho nó ba mươi đồng bạc. Thì nó hứa sẽ nộp Người cho chúng nó.
Trước lễ Phan-xi-ca, Đức Chúa Giêsu làm gương dạy đức khiêm nhượng, thì Người chẳng nệ hạ mình xuống, rửa chơn cho các Tông đồ, cùng sa nước mắt rửa chơn cho thằng Giu-dà nữa. Rửa chơn hoàn tất, Đức Chúa Giêsu ngồi ăn tiệc cùng các Tông đồ; nửa bữa Đức Chúa Giêsu lấy bánh, làm phép lành, bẻ từng phần, phát cho các Tông đồ, và phán rằng: Bây hãy cầm lấy mà ăn: Này là Mình Tao. Đoạn Đức Chúa Giêsu bưng chén rượu nho, làm phép, và trao cho các Tông đồ và rằng: Bây hãy bưng lấy mà uống: Này là Máu Tao. Ấy là cách Đức Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để làm lương thực thiêng liêng nuôi linh hồn ta thì làm vậy.
Tiệc đoạn, Đức Chúa Giêsu đem các Tông đồ đến núi O-li-vê-tê vào vườn Giết-sê-ma-i mà cầu nguyện Đức Chúa Giêsu đi riêng cầu nguyện một mình, mướt mồ hôi máu chảy ròng ròng. Bấy giờ có Thiên thần bởi trời hiện xuống an ủi Người. Giu-dà biết chỗ, liền đem các thầy cùng quân lính, cầm đèn đuốc khí giái đến vườn ấy mà nộp Đức Chúa Giêsu cho chúng nó.
Khi quân lính và những đầy tớ Giu-dêu bắt trói Đức Chúa Giêsu đoạn, thì trước hết nó điệu Người đến nhà An-nà, là cha vợ Caipha đang làm thầy cả thượng phẩm năm ấy. Bấy giờ An-nà dạy để trói làm vậy mà điệu luôn đến nộp cho Caipha, và những người hay chữ nghĩa tựu hội tại đó. Caipha này là kẻ ngày trước đã bàn cùng quân Giu-dêu rằng: Thà để một người phải chết cho cả và dân đặng khỏi thì hơn. Khi ấy ông Simon Phêrô và môn đệ kia theo Đức Chúa Giêsu xa xa. Mà bởi môn đệ ấy quen biết với thầy cả, nên được vào trong sân đền cùng Đức Chúa Giêsu, còn ông Phêrô thì ở ngoài ngõ. Bấy giờ môn đệ ấy ra nói với người canh ngõ, xin cho ông Phêrô vào. Những quân đầy tớ và lính canh ngồi lại với nhau xung quanh đống lửa mà sưởi, vì đang mùa lạnh. Thì ông Phêrô cũng chen vào giữa quân ấy mà sưởi, có ý nghe coi công việc sẽ ra làm sao. Khỏi một chặp, thì đầy tớ và lính hỏi người có ở với Đức Chúa Giêsu không. Ông Phêrô bởi nhát sợ, thì chối Đức Chúa Giêsu trước mặt mọi người ba lần. Mà lần thứ ba cũng trối vái thề thốt mà rằng: Tôi chẳng biết người phô ông nói là ai. Đang nói, thì Đức Chúa Giêsu trở mặt ra xem ông Phêrô, người liền nhớ lại lời Đức Chúa Giêsu đã phán trước, tức thì Người ra ngoài, ăn năn khóc lóc thảm thiết lắm.
Rạng ngày quân dữ dẫn Đức Chúa Giêsu đến toà quan trấn Phi-la-tồ, cáo gian Người nhiều điều trước mặt quan ấy. Quan Phi-la-tồ tra hỏi căn do. Đoạn dạy giải đến vua Hê-ro-dê ở gần đó. Vua ấy làm sỉ nhục Đức Chúa Giêsu mọi cách; sau hết chê Người là dại, và dạy trả lại cho quan Phi-la-tồ. Khi quan Phi-la-tồ tra, thì biết Đức Chúa Giêsu vô tội, quyết cứu Người; nên quan ấy ban phép cho dân chọn, hoặc muốn tha Đức Chúa Giêsu hay là thằng Baraba, là đứa đã mắc án giết người. Dân Giu-dêu nghe lời các đầu mục thầy cả xui giục, thì kêu xin tha Baraba, và nài làm án đóng đinh Đức Chúa Giêsu. Vậy quan Phi-la-tồ muốn cho đẹp lòng dân, liền phú Đức Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn. Bấy giờ quân Giu-dêu trói Đức Chúa Giêsu vào cột đá, cùng đánh đòn nát cả mình. Đoạn lấy gậy nứa cho Đức Chúa Giêsu cầm, cùng lấy mũ gai đội trên đầu Người, mà nhạo báng đủ mọi cách thế. Quan Phi-la-tồ nhát sợ e mất lòng dân, liền phú Đức Chúa Giêsu cho quân áy đem đi giết.
Quân dữ bắt Đức Chúa Giêsu vác cây thánh giá rất nặng, cùng kéo dẫn Người lên núi Ca-la-va-ri-ô, mà đóng đinh. Dọc đàng Đức Chúa Giêsu yếu nhược quá sức phải ngã xuống đất ba lần. Giữa đàng Đức Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ rất dấu yêu, cả hai Đấng trong lòng đớn đau khôn kể xiết. Lúc ấy có bà Vê-rô-ni-ca thấy mặt Đức Chúa Giêsu đầy những mồ hôi bụi lắm, liền lấy khăn mà lau. Bấy giờ Đức Chúa Giêsu in mặt mũi mình vào trong khăn ấy. Khi quân dữ điệu Đức Chúa Giêsu đến núi Ca-la-va-ri-ô, là nơi xử kẻ có tội, thì nó lấy mật đắng chế vào rượu mà trao cho Người uống. Song Người nếm một chút mà chẳng muốn uống. Đoạn quân dữ lột áo Người ra và nó xô Người xuống trên cây thánh giá mạnh lắm, lại lấy đinh sắt đóng qua nhằm mạch máu cùng trúng gân, cho nên Người phải đau đớn khôn lường! Mà ý độc quân dữ muốn làm cho phải xấu hổ hơn, thì lúc ấy nó cũng đóng đinh hai người kẻ trộm hai bên tả hữu thánh giá Chúa, có ý cho thiên hạ kể Người cũng là một đứa gian ác như hai đứa trộm ấy. Đang khi Đức Chúa Giêsu còn đứng trên cây thánh gia, mà chịu gia hình, thì các thầy cùng những kẻ lớn và dân sự, đều nói lời phạm thượng, cười chê, xúc báng Người. Chỉ có Đức Mẹ hằng đứng kề thánh giả ngửa mặt xem Con rất yêu dấu đang tế lễ dâng mình cho Đức Chúa Cha mà chuộc tội thiên hạ; lại ông thánh Gioan là môn đệ yêu dấu Chúa cùng bà thánh Ma-da-lê-na và ít người thánh nữ cũng đứng gần Đức Mẹ mà khóc thương Chúa. Khi ấy Chúa ngó xuống thấy Đức Mẹ và ông thánh Gioan đứng gần, thì kêu Đức Mẹ mà trối cho Gioan và Gioan làm con Đức Mẹ. Từ giờ thứ 6 đến thứ 9, cả và trái đất liền hoá ra tối tăm u ám. Đến giờ thứ 9, Đức Chúa Giêsu kêu cả tiếng rằng: Ớ Cha tôi, ớ Cha tôi, nhơn sao Cha bỏ con? Bấy giờ Đức Chúa Giêsu biết mọi sự đã hoàn tất, thì Người phán rằng: Đã hoàn tất, lại kêu rằng: Lạy Cha, con phú linh hồn con ở trong tay Cha. Phán bấy nhiêu lời đoạn, Người gục đầu xuống mà trút linh hồn.
Khi Chúa vừa sinh thì, bỗng chúc mọi loài vô tâm vô trí, như cảm thương Chúa: trời đất thì rúng động, mặt trời ẩn sự sáng ra tối tăm u ám, núi non đá vỡ ra tản tác, màn nhà thờ tự nhiên xé làm hai, mồ mả mở ra, những vì thánh chôn đó sống lại, mà hiện đến viếng thăm nhiều người trong thành. Đến xế chiều, thì ông Giuse, cũng là môn đệ Chúa, lấy lòng can đảm đến trình xin quan cho phép hạ xác Chúa mà trợ táng: vậy người cùng ông Nicôđêmô đều lên núi, mà hạ xác xuống cùng lo phong phần trong huyệt đá mới. Qua ngày sau, dân Giu-dêu dầu thấy Chúa đã chết rồi, nhưng mà chẳng đã lòng ghét, nên đầu mục thầy cả đến xin quan niêm chí mộ lại, mà canh giữ, thì đã niêm phong kỹ và cấp thêm quân canh nữa.
Song nó lo canh giữ luống công, vì rạng ngày Chúa nhựt, Chúa phép tắc sống lại sáng láng tốt lành, sang trọng vinh hiển, cùng tỏ mình cho bà thánh Ma-da-lê-na đặng thấy, cùng bảo dạy bà thánh ấy tin cho môn đệ Người hay nữa. Đức Chúa Giêsu sống lại đoạn, Người còn ở thế gian này 40 ngày, và hiện ra cho các tông đồ nhiều lần, mà dạy dỗ cùng an ủi phô đấng ấy. Thuở các môn đệ hội nhau trong phòng kia, đóng cửa lại kỹ, vì sợ quân Giu-dêu; bỗng chúc Đức Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa phô ông ấy phán rằng: Bằng an cho bây. Phán đoạn Người tỏ bàn tay và cạnh nương long mình ra cho môn đệ xem. Khi Đức Chúa Giêsu hiện đến cùng các môn đệ, thì ông Tôma đi khỏi. Vậy các môn đệ nói lại cho người rằng: Chúng tôi đã xem thấy Chúa. Ông ấy liền rằng: Nếu tôi chẳng xem thấy lỗ đinh nơi tay Người, và chẳng xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh, chẳng xỏ bàn tay tôi vào cạnh nương long Người, thì tôi chẳng hề chịu tin. Khỏi tám ngày môn đệ cũng hội nhau tại phòng ấy, và cũng có ông Tôma đó nữa, thì Đức Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa phô ông ấy mà phán rằng: Bằng an cho bây. Đoạn phán cùng ông Tôma: Mầy hãy đem ngón tay mầy xỏ vào đây, mà xem tay Tao, hãy đem bàn tay mầy xỏ vào cạnh nương long Tao, mà tin vững vàng, kẻo còn nghi ngại nữa. Ông Tôma liền thưa rằng: Lạy Chúa tôi, Chúa Trời tôi! Lại Đức Chúa Giêsu hiện đến cùng các môn đệ mình nơi bãi biển hồ Ti-bê-ri-a-đê; lúc ấy đặt ông thánh Phêrô làm đầu các đấng chăn chiên trong Hội Thánh và phán tiên tri cho người biết ngày sau mình sẽ chịu tử vị đạo thể nào. Sau hết Người cũng tỏ mình ra trên núi xứ Ga-li-lê-a cho hơn 500 người, và dạy các Tông đồ cùng môn đệ hiệp nhau lên núi O-li-vê-tê.
Sau 40 ngày, Người hiện lại nơi đã chỉ mà dạy dỗ các môn đệ phân nhau đi rốt thế giới mà giảng danh thánh Người, cùng làm phép Rửa tội cho nhân dân mà rằng: Nhơn danh Cha và Con và Thánh Thần; đoạn cho phép tha tội cho mọi người đặng ăn năn trở lại. Sau nữa Chúa dạy các môn đệ hiệp nhau trong thành Giêrusalem, tại nhà ăn tiệc bữa tối, mà đội ơn Đức Chúa Thánh Thần đoạn mới phân nhau đi khắp cả trời đất. Phán đoạn Đức Chúa Giêsu giơ tay làm phép lành cho các môn đệ, cùng thăng thiên: ngự bên hữu Đức Chúa Cha, đến ngày tận thế, sẽ xuống lại mà phán xét cả và loài người ta.
Khi Đức Chúa Giêsu lên trời đoạn, thì các thánh Tông đồ hiệp nhau trong nhà tiệc ly mà đọc kinh cầu nguyện cũng có Bà Maria là mẹ Đức Chúa Giêsu cùng một ít người nữ nhơn đức và nhiều môn đệ khác nữa. Hết thảy chừng đặng 120 người. Trong ngày ấy ông thánh Phêrô chỗ dậy mà nói rằng: Ta phải chọn người nào trong những kẻ đã theo Đức Chúa Giêsu làm một cùng ta thế vị Giu-dà, cho kẻ ấy đặng làm chứng với ta về sự Người đã sống lại. Nguyện đoạn các đấng ấy bỏ thăm với nhau, thì ông thánh Mat-ti-a được chọn. Nên từ ấy về sau đã kể người vào số 12 thánh Tông đồ. Vậy sớm mai ngày lễ Năm mươi các thánh ấy hội nhau lại mà cầu nguyện. Bỗng nghe tiếng om sòm dường như cơn dông bởi trời mà xuống, tuôn vào khắp cả nhà các đấng ấy đang ngồi. Cũng một khi ấy xảy thấy những hình dường như lưỡi lửa hiện xuống đổ trên đầu mọi người thay thảy. Tức thì ai nấy đều đặng đầy dẫy Đức Chúa Thánh Thần, và nói đặng các tiếng lạ mặc đòi ơn Đức Chúa Thánh Thần ban cho các thánh ấy đặng nói. Bấy giờ ông thánh Phêrô chỗi dậy cùng mười một Tông đồ cất tiếng lên giảng rằng: Ớ những người Y-sa-ra-e, này Chúa Giêsu Na-da-rét là Đấng Đức Chúa Trời đã sai đến giữa pho người; Người đã làm nhiều việc cả thể cùng nhiều phép lạ cho phô người đặng tin. Song phô người đã mượn tay kẻ gian dữ mà đóng đinh Người trên cây thánh giá cùng giết Người đi. Nhưng mà Đức Chúa Trời đã cho Người sống lại, và chúng tôi hết thảy đều là chứng sự ấy. Ai nấy nghe làm vậy, thì động lòng thảm thiết, đều xin chịu phép Rửa tội, mà số những kẻ trở lại nội ngày ấy tính đặng chừng ba ngàn người.
Ông thánh Phêrô cùng ông thánh Gioan lên đền thờ: cũng một giờ ấy có kẻ khiêng đến một người què từ thuở bình sinh, hơn bốn mươi tuổi. Vậy khi ông thánh Phêrô và ông thánh Gioan đi qua thì nó xin hai đấng ấy làm phước cho mình. Ông thánh Phêrô bèn nói cùng nó rằng: Tao chẳng có vàng bạc gì cho, song Tao có của gì thì Tao cho mầy của nấy. Vậy nhơn danh Chúa Giêsu Na-da-rét, mầy hãy chỗi dậy mà đi. Tức thì hai chơn người què liền mạnh lại, đứng dậy vững vàng mà ngợi khen Đức Chúa Trời và theo hai đấng ấy vào đền thờ. Dân sự thảy đều kinh khiếp, và tuôn đến cùng hai đấng ấy đông lắm. Bấy giờ ông thánh Phêrô giảng rằng: Anh em tưởng ta lấy phép riêng ta mà khiến người này đi sao? Thật là bởi phép Đức Chúa Trời đã làm cho sáng danh con Người là Đức Chúa Giêsu anh em đã nộp cho Phi-la-tồ. Vậy anh em hãy ăn năn trở lại, thì sẽ khoả lấp tội lỗi anh em. Khi ông thánh Phêrô còn đang giảng, thình lình các thầy cả cùng những quân canh giữ đền thờ liền đến, bắt hai đấng ấy mà bỏ vào ngục. Dầu vậy mặc lòng, cũng có nhiều người nghe lời phô đấng ấy mà ăn năn trở lại. Cả thảy đặng năm ngàn người. Khi toàn Giu-dêu nghe hai đấng nói những lời can đảm dạn dĩ thì sững sờ, mà cấm từ này sắp đi chẳng nên lấy tên Giêsu mà giảng cho ai nữa. Song ông thánh Phêrô và ông thánh Gioan đáp lại: Xin quới ông xét lại, có lẽ nào chúng tôi cam tâm vâng lịnh phô ông mà bỏ lịnh Đức Chúa Trời đặng sao? Công đồng bèn ngăm đe hai đấng ấy; song vì sợ dân nên cũng phải tha cho hai thánh trở về.
Dầu số các ổn đạo càng ngày càng thêm mặc lòng, song cũng hằng kết hiệp cùng nhau luôn. Chẳng ai để của riêng, một dâng hết mọi sự làm chung thảy thảy. Vậy có người kia tên là A-na-ni-a đã bán một đám đất; song đồng tình cùng vợ là Xa-phi-ra mà giữ lại một phần tiền, còn bao nhiêu thì đem nộp cho các thánh tông đồ. Bấy giờ ông thánh Phêrô quở nó rằng: Ớ A-na-ni-a sao mầy sa chước Satan cám dỗ, mà dối trá Đức Chúa Thánh Thần cùng giữ lại phần tiền ruộng mầy? Chẳng phải mầy phỉnh phờ người ta đâu, song thật mầy lường gạt Đức Chúa Trời mà chớ. A-na-ni-a vừa nghe lời ấy, liền té nhào xuống đất, chết tươi tức thì. Người ta bèn khiêng nó đi chôn. Khỏi ba giờ vợ nó đến, mà chẳng hay chồng mình đã chết. Ông thánh Phêrô hỏi nó rằng: Ớ đờn bà kia, phải nói cho ta biết giá ruộng mầy bán có bấy nhiêu mà thôi sao? Mụ ấy thưa rằng: Thưa có bấy nhiêu mà thôi. Ông thánh Phêrô liền rằng: Sao bây đồng tình cùng nhau mà phỉnh phờ Đức Chúa Thánh Thần làm vậy? Kìa những kẻ khiêng chồng mầy đi chôn vừa về ngoài ngõ, nó cũng đem mầy đi chôn luôn thể. Nó liền ngã xuống dưới chơn người mà chết; thì người ta vào khiêng xác mụ ấy ra chôn một bên chồng nó. Nên cả và Hội Thánh đều hãi hùng kinh khiếp.
Số các bổn đạo càng ngày càng thêm, nên các thánh Tông đồ hội những kẻ ấy lại mà bàn rằng: Anh em phải chọn lấy bảy người trong anh em đã có tiếng tốt, cùng đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần. Ai nấy đều ưng thuận mà chọn ông Xi-tê-pha-nô, ông Philipphê và năm người khác. Ông thánh Xi-tê-pha-nô đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần cùng đặng phép tắc mà làm nhiều phép lạ trước mặt dân. Tức thì liền có một hai người Giu-dêu nói xúc phạm đến người và xúi dân phao cho người rằng: Tên này hằng nói lộng ngôn phạm đến nơi thánh, phạm đến lề luật. Khi toà Giu-dêu nghe những lời thể ấy, liền xông vào lôi người ra ngoài thành, mà ném đá cho chết. Khi quân dữ ném đá ông thánh Xi-tê-pha-nô, thì người nguyện rằng: Lạy Chúa, xin Chúa thứ tha tội này cho chúng nó. Người bèn trút linh hồn mà về nghỉ ngơi cùng Chúa.
Ông Sau-lô hằng oán thù những kẻ theo đạo Đức Chúa Giêsu nên chỉ mơ màng những sự đâm chém người ta mà thôi. Người đến toà Thầy cả thượng phẩm, xin lãnh tờ xuống thành Đa-ma-xô vào các nhà nguyện bắt hết những kẻ theo đạo Giêsu, bất luận nam nữ, đóng xiềng mà giải về thành Giêrusalem. Khi ông ấy vừa tới gần thành Đa-ma-xô thoát chúc có yếng sáng bởi trời loà ra xung quanh người. Người liền té xuống đất và nghe tiếng phán rằng: Sau-lô, Sau-lô, sao mầy bắt bớ Tao? Người thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa là ai? Chúa phán rằng: Tao là Giêsu, mầy hằng bắt bớ Tao luôn; Người liền run sợ kinh khiếp mà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi phải làm đi gì? Chúa phán rằng: Mầy hãy chỗi dậy vào thành, thì có kẻ sẽ chỉ cho mầy phải làm đi gì. Những kẻ theo người cũng kinh hãi và cũng nghe tiếng phán rõ ràng song chẳng thấy là ai. Bấy giờ ông Sau-lô mới chỗi dậy mở mắt ra, song chẳng thấy đàng nữa, vì hai con mắt đã đui. Cho nên phải có kẻ cầm tay người mà dắt vào thành Đa-ma-xô. Người ở lại đó ba ngày chẳng thấy đàng mà đi cũng chẳng ăn uống gì hết. Khi ấy trong thành Đa-ma-xô có một người môn đệ Chúa, tên là A-na-ni-a. Chúa hiện đến cùng người mà bảo rằng: Mầy vào nhà Giuđa mà tìm người xứ Ta-rê-xô kia tên là Sau-lô. Ông A-na-ni-a bèn đi đến nhà ông Sau-lô ở, mà đặt tay trên người và nói rằng: Ớ Sau-lô, nay Chúa Giêsu đã hiện đến cùng ông giữa đàng, sai tôi đến đây chữa ông cho sáng và cho ông đặng đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần. Tức thì vảy cá trong mắt người rớt ra, liền xem thấy rõ ràng như trước. Đoạn chỗi dậy xin phép rửa tội.
Ở thành Gióp-bê có một bà có đạo tên là Tabitha đã làm nhiều việc lành phước đức cùng hay bố thí nhiều của. Phải khi ấy người mắc bịnh mà qua đời. Thành Ly-đa là nơi ông thánh Phêrô đang ở, cũng gần Gióp-bê, nên môn đệ sai hai người đi mời ông thánh Phêrô đến. Ông thánh ấy bèn đi. Khi tới nơi, thì bổn đạo rước người lên lầu cao. Bấy giờ có nhiều bà goá đến thăm người, và cho người xem những đồ bà Tabitha đã may cho mình mà khóc. Ông thánh Phêrô bèn dạy người ta ra cho hết và quỳ gối xuống mà cầu nguyện: đoạn trở mặt bên kẻ chết mà nói rằng: Ớ Tabitha hãy chỗi dậy. Bà ấy liền mở mắt ra, thấy ông thánh Phêrô, thì ngồi dậy. Ông thánh này bèn giơ tay đỡ bà Tabitha đứng lên. Đoạn gọi môn đệ và các bà goá đến mà cho phô người ấy xem bà này sống lại. Tiếng phép lạ này đã đồn ra cả thành Gióp-bê, nên có nhiều người tin đạo Đức Chúa Giêsu.
Thuở ấy trong thành Xê-gia-rê-a có một quan Rôma cai một trăm quân, tên là Cô-nê-li-ô, có lòng nhơn đức, biết kính sợ Đức Chúa Trời. Quan cùng cả và nhà quan hay làm phước bố thí, và siêng năng đọc kinh cầu nguyện. Ngày kia người xem thấy Thiên thần Chúa hiện đến bảo mình rằng: Lời ông cầu xin, của ông bố thí, đã dâng thấu toà Đức Chúa Trời rồi. Vậy nay ông phải sai kẻ đến thành Gióp-bê, rước ông kia tên là Simong cũng gọi là Phêrô. Người đang ở tại nhà Simong làm thợ thuộc da ở gần bãi biển. Người sẽ dạy ông phải làm đi gì. Quan Cô-nê-li-ô liền gọi hai đầy tớ và một tên lính đạo đức mà sai đến thành Gióp-bê. Qua ngày sau, ông thánh Phêrô cầu nguyện, thoát chúc người liền bất tỉnh, xem thấy cửa trời mở ra. Phêrô còn đang ngẫm nghĩ, xảy nghe ba người quan Cô-nê-li-ô sai đến ngoài ngõ mà hỏi rằng: Có phải là nhà ông Xi-mong Phêrô ở đây chăng? Bấy giờ Đức Chúa Thánh Thần phán bảo ông thánh Phêrô rằng: Kìa có ba người đến rước mầy. Mầy hãy chỗi dậy đi với chúng nó, vì Tao đã sai đến tìm mầy. Sáng ngày ông thánh Phêrô và ít môn đệ khác trẩy đi cùng ba người ấy. Qua ngày hôm sau, mới tới thành Xê-gia-rê-a. Khi ấy quan Cô-nê-li-ô và bà con người và ít người bạn hữu đang hội hiệp một nhà mà đợi trông các đấng ấy đến. Vừa thấy ông thánh Phêrô tới, thì quan Cô-nê-li-ô liền ra đón rước và sấp mình xuống lạy người. Song ông thánh Phêrô đỡ quan dậy mà rằng: Tôi cũng là loài người mà thôi. Rồi người vào nhà cùng quan mà nói rằng: Tôi biết thật Đức Chúa Trời chẳng từ chối ai. Hễ người nào trong các dân có lòng kính sợ Người, và làm việc lành phước đức, thì Người cũng chẳng phụ kẻ ấy đâu. Khi ông thánh Phêrô đương giảng, bỗng chúc Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống trên những kẻ nghe lời người. Bấy giờ ông thánh Phêrô mới đoán rằng: Có lẽ nào từ chối, chẳng chịu rửa tội cho những kẻ chịu lấy Đức Chúa Thánh Thần như ta sao? Đoạn dạy phải rửa tội cho phô người ấy nhơn danh Đức Chúa Giêsu Kitô. Từ ấy về sau lời Evang mới giảng cho dân ngoại.
Cũng một năm ấy vua Hêrôdê bắt ông thánh Phêrô để ngày lễ Phan-xi-ca sẽ giao người cho dân làm khổ. Vậy đêm trước ngày phải xử, người nằm ngủ giữa hai lính, mang hai cái xiềng, lại cũng có nhiều lính canh trước cửa. Thoát chúc Thiên thần Chúa hiện xuống chói loà cả ngục. Thiên thần bèn đá đến bên ông thánh Phêrô mà bảo rằng: Hãy dậy cho mau. Tức thì xiềng rớt ra. Thiên thần lại rằng: Hãy mặc áo vào mà theo ta. Ông thánh Phêrô bèn ra theo Thiên thần, song chưa biết việc Thiên thần làm là sự thật, người tưởng mình thấy chiêm bao mà thôi. Hai đấng ấy qua khỏi lớp canh thứ nhứt, rồi qua lớp thứ hai, cho đến cửa sắt để vào thành, thì tự nhiên cửa liền mở ra: nên hai đấng đã ra khỏi thành. Tức thì Thiên thần biến đi. Bấy giờ ông thánh Phêrô mới tỉnh lại mà nói rằng: Bây giờ tôi mới biết, Chúa đã sai Thiên thần xuống cứu lấy tôi cho khỏi tay vua Hêrôdê và quân Giu-dêu.
Khi ông Sau-lô và ông Ba-na-bê còn đang giảng đạo tại thành An-ti-o-ki-a, thì Đức Chúa Thánh Thần phán dạy đến thành Xê-lê-u-xi-a, rồi vượt tàu trẩy sang cù lao Xi-pơ-rô. Khi vừa đến cù lao Xa-la-mi-a, thì hai đấng ấy vào nhà nguyện Giu-dêu mà giảng lời Đức Chúa Trời. Đoạn đi khắp cù lao cho đến thành Phaphô. Bấy giờ quan cai cù lao ấy tên là Se-rơ-gi-ô Phaolồ, có lòng ngay lành ước ao nghe lời Đức Chúa Trời, xin mời hai đấng ấy đến. Song le thằng Giu-dêu kia làm nghề phù thuỷ cùng là tiên tri giả, tên nó là Xi-mong, nó ra sức dỗ dành kẻo quan theo đạo Đức Chúa Giêsu. Bấy giờ ông Sau-lô cũng gọi là Phaolồ đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần, trừng nó mà quở rằng: Ớ con cái ma quỉ, mầy là đứa thù nghịch mọi lẽ công chính, kìa tay Đức Chúa Trời phạt mầy: mầy chẳng đặng xem thấy mặt trời cho đến ngày Người đã định. Tức thì thằng ấy liền đui, hai tay lần mò rờ rẫm kiếm người dắt ra. Quan cai thấy vậy, liền tin cùng hết lòng ngợi khen Chúa. Khi ấy trong thành Ly-sơ-ta có một người què từ thuở bình sinh. Nó cũng đến nghe ông thánh Phaolô giảng. Người bèn bảo rằng: Mầy hãy đứng dậy cho ngay thẳng. Nó liền đứng dậy mà bước đi vững vàng. Dân sự thấy thảy đều tung hô lên rằng: Ông này là ông thần lấy hình người hiện đến cùng ta. Hai thánh làm hết sức mới can dân đặng, kẻo nó tế lễ mình. Nhưng mà quân Giu-dêu ở thành Antiôkia và thành I-cô-ni-um đến dỗ đặng lòng dân và ném đá ông thánh Phaolô, rồi kéo ra bỏ ngoài thành, vì tưởng người đã chết. Khi ông thánh Phaolô tỉnh lại thấy các môn đệ đang đứng xung quanh mình, thì chỗi dậy mà trở và thành.
Thuở ấy bổn đạo xứ Giu-đê-a đến thành Antiôkia mà nói cùng bổn đạo mới trở lại mà rằng: Nếu các người chẳng chịu phép cắt bì thì chẳng đặng rỗi linh hồn. Vì vậy các bổn đạo định sai cả hai ông về thành Giêrusalem hỏi các thánh Tông đồ, các giám mục và các thầy cả, xin phân xử việc ấy cho xong kẻo còn cãi lẫy nữa. Khi hai đấng tới thành Giêrusalem, thì các thánh tông đồ, các giám mục và các thầy cả hội Công đồng tra xét việc ấy. Ông thánh Phêrô phán rằng: Phần ta thì tin thật những kẻ ấy cũng đặng phần rỗi như ta, bởi công nghiệp Đức Chúa Giêsu Kitô mà chớ. Bấy giờ ông thánh Giacôbê luận rằng: Ớ anh em, tôi đoán rằng: Chẳng nên bắt buộc những người ngoại mới trở lại cùng Đức Chúa Trời cho quá. Bấy giờ các thánh tông đồ, các giám mục và các thầy cả hiệp một ý cùng Công đồng mà chỉ định sai một hai người trong hội sang thành An-ti-ô-ki-a làm một cùng ông thánh Phaolô và ông thánh Ba-na-bê. Công đồng cùng làm một bảng thơ chung giao cho phô đấng ấy cầm đi. Khi các đấng khâm sai tới thành An-ti-ô-ki-a liền hội các bổn đạo lại và trao thơ Công đồng đọc cho ai nấy nghe. Chúc ấy mọi người đều vui mừng, chẳng còn ái ngại nữa.
Bây giờ ông thánh Phaolô và ông thánh Ba-na-bê mới giảng lời Đức Chúa Giêsu trong thành Antiôkia. Cách ít lâu ông thánh Phaolô cùng ông thánh Ba-na-bê đi kinh lược xứ Xi-ri-a và xứ A-xi-a cho đến thành Tro-a. Rồi hai thánh xuống tàu cùng ông Sila, ông Ti-mô-thê-ô và ông Luca mà qua thành Phi-lip-phô. Tình cờ gặp một con đầy tớ phải quỉ ám. Bấy giờ ông thánh Phaolô bảo quỉ rằng: Nhơn danh Đức Chúa Giêsu Kitô, tao khiến mầy phải ra khỏi con này. Tức thì quỉ liền xuất ra khỏi con ấy. Chủ con gái ấy thấy mình thất lợi, thì bắt ông thánh Phaolô và ông Sila lôi ra ngoài phố cùng điệu đến quan toà. Các quan truyền đánh đòn các đấng ấy và bỏ vào ngục. Lính liền vâng lịnh bắt đem cùm lại. Đến tối bỗng chúc đất động cả thể, chuyển cả nhà ngục, tức thì cửa ngục liền mở ra, xiềng các đấng ấy mang tự nhiên rơi xuống. Quan cai ngục cả mình run rẩy đến sấp mình dưới chơn ông thánh Phaolô mà nói rằng: Lạy các ông, tôi phải làm đi gì cho đặng rỗi linh hồn? Các đấng ấy trả lời: Phải tin Chúa Kitô. Đoạn giảng lời Đức Chúa Trời cho quan và cả nhà quan; thì quan và gia nhơn người đều chịu phép Rửa tội hết. Đoạn ông thánh Phaolô đang giảng đạo trong thành lớn Athêna, ra ngoài phố, hễ gặp ai, thì giảng cho nấy. Đoạn ông thánh Phaolô ra khỏi thành Athêna mà sang thành khác. Có ít người xin đi theo cùng tin đạo, mà trong mấy người ấy thì có ông Đi-ô-ni-xi-ô, là quan toà nhứt thành Athêna. Rồi ông thánh Phaolô qua giảng đạo tại thành Cô-rin-thô, lại sang thành E-phê-xô, thành Xê-gia-rê-a và thành Giêrusalem mà trở về thành An-ti-ô-ki-a. Khỏi ít lâu ông thánh Phaolô mới trẩy đi kinh lược cả địa phận xứ A-si-a Mi-nô-rê một lần nữa, mà an ủi dạy dỗ các bổn đạo phải ở vững vàng. Ông thánh Phaolô còn ở lại E-phê-xô hai năm. Nhơn lúc ấy có cơn bắt đạo nổi dậy, nên ông thánh Phaolô phải trẩy sang xứ Ma-xê-đô-i-ni-a và xứ Gơ-rê-xi-a, đến thành Tro-a. Vậy ngày thứ nhất trong tuần bổn đạo hội nhau lại ban đêm trên lầu cao mà nghe ông thánh Phaolô giảng. Chẳng may có người kia ngồi dựa cửa sổ ngủ quên; thình lình trên từng thứ ba té nhào xuống chết. Bấy giờ ông thánh Phaolô xuống dạy nó sống lại, thì nó liền vâng mà sống lại. Rồi ông thánh Phaolô từ giã thành Tro-a mà sang thành Milê.
Những quân Giu-dêu ở phương A-si-a mà trở về xem thấy ông thánh Phaolô trong đền thờ, nó liền xúi dân lên lôi người ra ngoài toan giết người đi. Song may quan tuần thành cứu người được khỏi tay chúng nó, thì dạy đóng xiềng lại mà dẫn vào đồn. Quân Giu-dêu nhóm nhau lại ước hơn 40, và thề cùng nhau sẽ chẳng ăn uống gì cho đến khi giết được ông thánh Phaolô. Cho nên quan tuần phải cấp một đôi quên lén giải người đi đêm đến nộp cho quan toàn quyền Phê-li-xê ở thành Xê-gia-rê-a. Khỏi hai năm quan Phê-tô lên thế vị quan Phê-li-xê. Vậy quan Phê-tô hỏi ông thánh Phaolô rằng: Ông có muốn về thành Giêrusalem để ta xử cho hay sao? Người bẩm rằng: Tôi nại đến toà vua Xê-gia-rê tại kinh đô Rôma. Đến ngày định giải đi, thì người xuống tàu cùng ông thánh Luca và nhiều tù khác nữa. Khi đã vượt biển lâu ngày, nổi cơn bão táp dữ tợn, ai nấy đã hòng chết chìm; song ông thánh Phaolô bảo bộ hành rằng: Anh em hãy ở yên, đừng sợ làm chi. Đến đêm thứ bốn mươi, thì tàu mới bạt vào cù lao Mê-li-ta, mà tàu thì vỡ nát hết, song bộ hành cả thảy là 276 người, thì lên bãi được hết, chẳng ai phải nao. Khi ấy những người bổn thổ cù lao chất một đống lửa lớn, ngồi lại sưởi với nhau cho ấm, thì ông thánh Phaolô ôm một mớ củi lại bỏ vào đống lửa. Thình lình con rắn lục bò ra cắn nhằm tay người. Những quân bổn thổ xem thấy liền sững sờ tưởng chết. Song ông thánh Phaolô gạt con rắn vào lửa, mà chẳng hề gì đến mình. Sau nữa ông thánh Phaolô đã chữa nhiều tật bịnh trong cù lao đặng lành, cho nên thiên hạ cung kính người lắm. Đoạn khỏi ba tháng người lại trẩy tới thành Rôma.
Khi người đã phải giam làm vậy hai năm đoạn, thì người còn trẩy đi giảng đạo hai năm nữa. Sau hết người trở về thành Rôma đời vua thượng vị Nêrô và chịu tử đạo làm một cùng ông thánh Phêrô. Song bởi người có chức bổn xã Rôma nên được xử trảm quyết. Phần ông thánh Phêrô phải đóng đinh trên núi Gia-ni-cu-lô bên này sông Ti-bê-ri, như lời Đức Chúa Giêsu đã phán trước; song người xin đóng chúc đầu lộn xuống vì nghĩ mình chẳng đáng chết cũng một cách như Thầy mình. Đoạn bổn đạo táng xác đấng thánh Tông đồ này trên nổng đền Va-ti-ca-nô.
Có lời truyền rằng: Khi Đức Bà Maria hòng sinh thì, thì các thánh tông đồ đi giảng các phương thiên hạ đều tựu về thành Giêrusalem thảy thảy. Lại Đức Chúa Giêsu bởi trời cũng xuống viếng thăm Mẹ mình hòng sinh thì và rước lấy linh hồn Người. Còn xác thánh Người thì táng gần vườn Giết-sê-ma-ni. Đoạn khỏi ba ngày các thánh tông đồ mở mồ ra xem, thì chẳng còn thấy xác Người nữa, nên đóng lại, vì đã biết Chúa đã rước xác thanh sạch tốt lành Mẹ rất thánh Người mà đem lên thiên đàng. Ông thánh Anrê đã đi giảng lời Evang cho các miền dọc sông phía biển Đen, rồi qua Grê-xi-a, người đặng phước tử vì đạo tại thành Phêra xứ A-ca-i-a. Khi người vừa thấy thánh giá, liền kêu cả tiếng rằng: Ớ thánh giá rất thánh đã chở Mình Chúa Kitô, tôi chúc mừng ngợi khen thánh giá. Còn thánh Giacôbê tiền thì vua Hêrôdê A-ri-pha thứ nhứt đã khép án trảm quyết người năm 42. Ông thánh Gioan thì làm giám mục thành E-phê-xô. Người phải bỏ vào dầu sôi tại thành Rôma đời vua thượng vị Đô-mi-xi-a-nô. Song Chúa làm phép mà gìn giữ người, nên người thoát khỏi. Đến năm 93 người lại phải đày qua cù lao Phát-mô. Khi vua Đô-mi-xi-a-nô băng đoạn, thì người trở về Ephêxô mà cai trị địa phận ít năm nữa cho đến khi người qua đời là năm 100. Ông thánh Philipphê trẩy đi giảng đạo trong xứ Phi-i-gia (Asia Minorê). Khi đã già lắm thì người phải đóng đinh tại thành Hi-ê-ra-phô-li. Ông thánh Batôlômêô đã sang cho đến Thiên Trước mà ở giảng đạo trong mấy miền Trung Quốc, rồi người trở về xứ A-mê-ni-a. Đoạn phải lột da cùng phải án trảm quyết. Ông ông Mat-thê-ô thì sang giảng đạo cho các miền bên Nam biển Ca-phi-ô, trong mấy năm sau hết. Đoạn phải quân dữ đâm chết. Có lời truyền rằng: ông thánh Tôma đã trầy qua xứ Pa-rơ-tha, xứ Mê-đi-a và đi cho đến phương Thiên Trước rồi phải quân ngoại đâm chết. Ông thánh Giacôbê hậu làm giám mục thành Giêrusalem trước hết. Người ăn ở rất chí thánh và hãm mình nhiệm nhặt phi thường. Đến năm 62 sau Chúa ra đời, Công đồng cả truyền đem người lên nóc nhà thờ và xô xuống cho chết; song người chẳng chút phải nao, liền quì gối mà cầu nguyện cho quân dữ; thì tên kia nó lấy gậy mà đánh người cho đến chết. Ông thánh Xi-mong Giê-lô-tê sang giảng đạo phía bắc phương Nam, rồi qua nước Phe-rơ-xi-a. Có kẻ truyền rằng: ông thánh này phải cưa làm hai, hoặc là phải đóng đinh trong nước ấy. Ông thánh Giuđa Ta-dêu giảng đạo trong xứ Giu-đê-a, A-ra-bi-a, xứ Mê-giô-phô-ta-mi-a và nước Phê-rơ-xi-a. Có kẻ nói: người chịu tử vì đạo trong xứ Phê-ni-xi-a. Ông thánh Mát-ti-a trước thì giảng đạo trong xứ Giu-đê-a, rồi sau lên phía Nam biển Ca-phi-ô. Có lời truyền rằng: ông thánh ấy phải quân Giu-dêu ném đá mà hãy còn sống, thì nó chém người chết tại thành Giêrusalem.