Thánh giáo yếu lý quốc ngữ 聖教要理國語, sách Giáo lý Công giáo bằng chữ Nôm do Đức Cha Pigneau de Béhaine – Bá Đa Lộc (1741-1799) viết bằng chữ Nôm theo dạng Hỏi-Thưa và được tái bản lần cuối vào năm 1933 tại Kẻ Sở. Dựa trên TGYL bằng chữ Nôm, năm 1957, Đức Cha Simon Hòa Hiền đã cho xuất bản quyển “sách giáo lý sơ bộ” và năm 1967, Đức Cha Phaolô Bình cho phổ biến quyển Giáo lý Tân Định[1][2] (GLTĐ). Tất nhiên nội dung của sách GLTĐ giống như sách TGYL bằng chữ Nôm.
(Tài liệu giáo lý xưa, xem cho biết)
thường gọi là giáo lý Tân Định
vì do nhà in Tân Định phát hành.
1. Hỏi có mấy đàng lên Thiên đàng ? Thưa có một đàng rất chính rất thật, là đạo thánh Đức Chúa Trời. 2. H. Đức Chúa Trời là ai ? T. Là Đấng dựng nên trời đất muôn vật, cùng hằng gìn giữ cai trị mọi sự. 3. H. Phải suy lẽ nào cho đặng biết có Đức Chúa Trời ? T. Phải suy phép tắc thứ tự trên trời dưới đất liền biết có Đấng dựng nên làm đầu cai trị, thì mới có phép tắc thứ tự vững bền làm vậy. 4. H. Sao nói rằng: bởi phép tắc thứ tự thì mới biết có Đức Chúa Trời ? T. Bởi khi ta xem trên trời dưới đất và thấy việc rất xinh tốt, rất công phu và có thứ tự mọi đàng, như mặt trời, mặt trăng, cùng các ngôi sao, can truyền luân chuyển theo độ số rất thật; bốn mùa đắp đổi nhau luôn; đất sinh ra hoa quả thảo mộc, cùng các điều khác nhau như vậy, thì ta rõ biết có Đấng phép tắc vô cùng, là căn nguyên mọi sự rất tốt rất trọng dường ấy. 5. H. có ví dụ nào cho ta dễ hiểu sự ấy chăng ? T. Giả như người ta thấy nhà hay là đền đài vua chúa rất xinh rất tốt, tức thì nói rằng: có thợ rất khôn khéo đã làm nhà hay là đền đài ấy; mà chẳng có ai nói rằng: bởi hư không, hay là bởi tình cờ mà có nhà, có đền đài tốt thể ấy. Cũng một lẽ ấy, khi ta xem phép tắc thứ tự trên trời dưới đất, thì ta nói rằng: đã có một đấng cầm quờn ra máy nhiệm, thì trời đất mới đặng xinh tốt, và giữ phép tắc thứ tự chẳng sai bao giờ. Mà Đấng cầm đầu ấy, ta gọi là Đức Chúa Trời. 6. H. Vì ý nào mà Đức Chúa Trời dựng nên trời đất muôn vật ? T. Có ý cho sáng danh Người cùng cho ta đặng dùng. 7. H. Ai sinh ra ta ? T. Đức Chúa Trời sinh ra ta. 8. H. Đức Chúa Trời sinh ra ta làm chi ? T. Đức Chúa Trời sinh ta cho đặng thờ phượng kính mến Người hầu ngày sau hưởng phước đời đời. 9. H. Đức Chúa Trời ra làm sao ? T. Đức Chúa Trời là Đấng trọn tốt trọn lành, thiêng liêng, sáng láng vô cùng. 10. H. Đức Chúa Trời ở đâu ? T. Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi. 11. H. Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi, làm sao ta xem chẳng thấy ? T. Vì người là tính thiêng liêng, cho nên con mắt ta xem chẳng thấy. 12. H. Ta chẳng thấy Đức Chúa Trời, mà người có thấy ra chăng ? T. Người xem thấy tỏ tường; dầu những sự kính nhiệm trong lòng ta, thì Người cũng soi thấu nữa. 13. H. Đức Chúa Trời mới có thuở nào ? T. Người là Đầng tự hữu hằng có đời đời. 14. H. Có mấy Đức Chúa Trời ? T. Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi; Ngôi thứ Nhứt là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. 15. H. Ngôi thứ Nhứt có phải là Chúa chăng ? T. Phải. 16. H. Ngôi thứ Hai có phải là Chúa chăng ? T. Phải. 17. H. Ngôi thứ Ba có phải là Chúa chăng ? T. Phải. 18. H. Nếu vậy chẳng phải là ba Đ C Trời sao ? T. Chẳng phải, vì ba Ngôi cũng một tính một phép, cho nên ba Ngôi cũng một Chúa mà thôi. 19. H. Có Ngôi nào lớn Ngôi nào bé chăng ? T. Ba Ngôi cũng bằng nhau, không lớn mọn, trước sau. 20. H. Đức Chúa Cha sinh ra Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con thể nào ? T. Đ C Trời Ngôi thứ Nhứt thiêng liêng sáng láng trước hết mọi đời, trông thấy tính mình tốt lành, liền ra trong trí mình một hình ảnh thiêng liêng sáng láng cũng tốt lành như vậy, mà hình ảnh ấy gọi là Con, là Ngôi thứ Hai; mà Ngôi thứ Nhứt và Ngôi thứ Hai thấy tính mình tốt lành làm vậy, liến có sự thương yêu nhau, mà sự thương yêu ấy gọi là Đức Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba. 21. H. Đ C Trời đã sinh ra loài nào trọng hơn ? T. Đức Chúa Trời đã sinh ra hai loài trọng hơn: một là Thiên Thần; hai là Người ta. 22. H. Thiên Thần là Đấng nào ? T. Thiên Thần là đấng thiêng liêng Đức Chúa Trời đã dựng nên mà chầu chực Người, và hưởng phước đời đời. 23. H. Hết thảy các Thiên Thần có đặng hưởng phước đời đời chăng? T. Chẳng đặng, vì có kẻ phạm tội kêu ngạo nên Đ C Trời phạt nó trong Hoả ngục, gọi là ma quỷ. 24. H. Các Thiên Thần đặng nghĩa cùng Chúa bây giờ ở đâu ? T. Các đấng ấy đang hưởng phước đời đời trên Thiêng đàng. 25. H. Các Thiên Thần có giúp người ta chăng ? T. Mỗi người có một Thiên Thần gìn giữ mình nên ta phải tin cậy và tôn kính Người lắm. 26. H. Tổ tông loài người ta là ai ? T. Tổ tông loài người ta là Adong và bà Evà. 27. H. Ông Adong bà Evà có giữ nghĩa cùng Đức Chúa Trời chăng ? T. Chẳng giữ, cho nên nếu chẳng có công nghiệp Chúa Cứu Thế, thì cả và loài người ta đã phải khốn nạn đời đời.
1. H. Ba Ngôi, Ngôi nào ra đời ? T. Ngôi thứ Hai ra đời. 2. H. Ngôi thứ Hai ra đời nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là Chúa rất sang trong vô cùng, lấy xác, lấy linh hồn, làm người hèn hạ như ta vậy. 3. H. Ngôi thứ Hai vốn phải là người chăng ? T. Vốn thật là Chúa, song khi ra đời thì cũng thật là người nữa. 4. H. Ngôi thứ Nhứt, Ngôi thứ Ba, có ra đời chăng ? T. Có một Ngôi thứ Hai ra đời mà thôi. 5. H. Ngôi thứ Hai lấy xác lấy linh hồn ở đâu, làm người mà ra đời ? T. Người xuống thai trong lòng rất thành Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh. 6. H. Đức bà trọn đời đồng trinh, mà chịu thai làm sao đặng ? T. Chẳng phải sự thường như người thế gian, song thật bởi phép Đức Chúa Thánh Thần; cho nên khi chịu thai cùng sanh đẻ, mà hãy trọn mình đồng trinh sạch sẽ. 7. H. Ngôi thứ Hai ra đời đặt tên là gì ? T. Đặt tên là GIÊSU nghĩa là Cứu thế. 8. H. Chúa Cứu thế làm những sự gì, khi còn ở thế gian nầy ? T. Người dạy dỗ ta về đàng rỗi linh hồn và lập công nghiệp giúp cho ta đặng nên thánh, cùng đã làm những phép lạ mà làm chứng Người là Đấng Đức Chúa Trời đã sai xuống thế. 9. H. Công nghiệp Chúa Cứu thế là đi gì ? T. Là Người chịu nạn chịu chết trên cây thánh Giá, vì tội loài người ta. 10. H. Người chịu chết ngày nào ? T. Người chịu chết ngày thứ sáu trước lễ Phục sinh. 11. H. Đức Chúa Giêsu là Đức Chúa Trời, mà chịu chết làm sao đặng? T. Đức Chúa Giesu có hai tính: một là, tính Đức Chúa Trời, chẳng hay chịu chết; hai là, tính loài người ta, mới hay chịu chết. 12. H. Xác Đức Chúa Giêsu táng ở đâu ? T. Táng trong huyệt đá mới. 13. H. Linh hồn Đức Chúa Giêsu đi đâu ? T. Linh hồn Đức Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông đem linh hồn các thánh lên, vì từ ông Adong phạm tội, thì chẳng ai đặng lên trời. 14. H. Chúa Cứu thế sống lại chăng ? T. Chết chưa đủ ba ngày, mà ngày sống lại. 15. H. Sống lại đoạn Đức Chúa Giêsu đi đâu ? T. Sống lại, Người ở thế gian nầy bốn mươi ngày, dạy dỗ các tông đồ, hầu mà giảng đạo cho thiên hạ, đoạn thì Người ngự về trời; mà Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các thánh Tông đồ. 16. H. Bây giờ Đức Chúa Giêsu ở đâu ? T. Luận về tính Đức Chúa Trời, thì người ở khắp mọi nơi; bằng về tính người ta, thì Người ở trên trời, và ở trong Thánh Thể Bí Tích. 17. H. Chúa Cứu thế có khi nào lại xuống thế nữa chăng ? T. Đến ngày tận thế, Người lại xuống phán xét chung cả và người ta. 18. H. Vậy thì còn phán xét riêng sao ? T. Moỗi người, khi linh hồn ra khỏi xác, đều phải chịu phán xét riêng nữa. 19. H. Đã chịu phán xét riêng còn phán xét chung làm gì nữa ? T. Ngõ cho quờn cả Chúa Cứu Thế, và những sự vang hiển các kẻ lành, cùng mọi điều sỉ nhục phô loài dữ, càng tỏ ra trước mặt thiên hạ.
1. H. Có khi nào ta phải chết chăng ? T. Đến kỳ Chúa định chúng tôi đều phải chết. 2. H. Chết đoạn, xác ta ra thể nào ? T. Xác ta đều phải hư nát. 3. H. Xác ta có phải hư nát đời đời chăng ? T. Đến ngày tận thế, xác ta đều sống lại hết. 4. H. Linh hồn ta có chết chăng ? T. Linh hồn là tính thiêng liêng chẳng hề chết đặng. 5. H. Vậy khi xác chết đoạn, thì linh hồn đi đâu ? T. Linh hồn phải đến toà Đức Chúa Giêsu mà chịu phán xét. 6. H. Đức Chúa Giêsu phán xét về những sự gì ? T. Người phán xét về mọi sự lành dữ ta đã lo, đã nói đã làm. 7. H. Phán xét đoạn, thì linh hồn đi đâu ? T. Hoặc lên Thiên đàng, hoặc xuống Hoả ngục, hay là vào Luyện ngục, mặc việc lành dữ đã làm khi còn sống. 8. H. Thiên đàng là gì ? T. Thiên đàng là chốn Thiên Thần và các Thánh hưởng phước đời đời, vì đặng xem thấy mặt Đức Chúa Trời luôn. 9. H. Những ai đặng lên Thiên đàng ? T. Những kẻ chẳng hề phạm tội gì trọng, hay là phạm mà đã ăn năn tội nên. 10. H. Hỏa ngục là chốn nào ? T. Là nơi hình khổ, Đức Chúa Trời phạt cầm ma quỉ, và kẻ có tội đời đời chẳng cùng. 11. H. Những ai phải sa Hỏa ngục ? T. Những kẻ chẳng hề nhìn biết Đức Chúa Trời, mà thờ phượng bụt thần ma quỉ cho đến chết; và mọi người có đạo, còn mắc tội trọng mà qua đời. 12. H. Luyện ngục là chốn nào ? T. Luyện ngục là nơi hình khổ, phạt cầm những kẻ lành khi còn sống, mà còn mắc tội nhẹ, hay là đền tội trọng chưa đủ.
1. H. Tội là đi gì ? T. Tội là những sự ngỗ nghịch cùng Đức Chúa Trời. 2. H. Có mấy giống tội ? T. Có hai giống tội, một là, tội tổ tông; hai là, tội mình làm. 3. H. Tội tổ tông là tội nào ? T. Là tội ông Adong bà Evà chẳng vưng lời Đức Chúa Trời răn, mà truyền lại tội ấy cho thiên hạ. 4. H. Tội mình làm là tội nào ? T. là lòng lo, miệng nói, minh làm, điều gì nghịch điều răn Đức Chúa Trời. 5. H. Tội mình làm có mấy thể ? T. Có hai: một là tội trọng, hai là tội nhẹ. 6. H. Tội trọng là đi gì ? T. Là tội làm cho ta mất ơn nghĩa cùng Chúa và chịu phạt đời đời. 7. H. Tội nhẹ là đi gì ? T. Là tội làm cho ta nguội lạnh yếu đuối, và chịu phạt trong Luyện ngục. 8. H. Có mấy mối tội đầu ? T. Có bảy: một là kêu ngạo, hai là hà tiện, ba là dâm dục, bốn là ghen ghét, năm là mê ăn uống, sáu là hờn giận, bảy là làm biếng việc lành. 9. H. Vì sao gọi lả tội đầu ? T. Vì là căn ngươn mọi tội lỗi khác. 10. H. Tội kêu ngạo là đi gì ? T. Là tội hay làm cho người ta yêu chuộng và tặng mình lên quá, cùng khinh dể kẻ khác. 11. H. Tội ấy có phải là tội trọng lắm chăng ? T. Nó là tội thứ nhứt, và trọng hơn, cùng hiểm nghèo hơn các tội khác. 12. H. Phải làm đi gì cho khỏi tội ấy ? T. Phải cầu xin cùng với Chúa ban nhơn đức khiêm nhượng, cùng nhớ lại kẻ kêu ngạo chẳng đặng lên nước Thiên đàng. 13. H. Tội hà tiện là tội nào ? T. Là tội hay làm cho con người ta mê tham của cải thế gian quá lẽ. 14. H. Người ta có năng phạm tội ấy chăng ? T. Dầu kẻ giàu người khó, cũng năng phạm tội ấy. 15. H. Phải làm thế nào cho khỏi tội ấy ? T. Phải lấy lòng rộng rãi mà bố thí cho vừa sức mình. 16. H. Tội dâm dục là gì ? T. Người mắc tội ấy, khi bởi tưởng, hay là nói, hay là làm việc gì ưng vui theo tính xác thịt; song giáo hữu phải gớm ghiếc tội ấy; đến đổi chẳng dám nói đến thì hơn. 17. H. Tội ghen ghét là thể nào ? T. Là tội hay làm cho người ta phân bì cùng buồn bực, khi kẻ khác đặng thạnh lợi về phần hồn hay là phần xác. 18. H. Phải làm điều gì cho khỏi tội ấy ? T. Phải giữ điều răn Chúa dạy yêu ngưởi như mình vậy. 19. H. Tội mê ăn uống là làm sao ? T. Là khi người ta ăn uống quá lẽ, nhứt là những kẻ uống rượu say, thì trở nên ngưởi vô tâm vô trí, cùng liều mình phạm nhiều tội khác. 20. H. Phải làm cách nào cho khỏi tội ấy ? T. Phải dùng nhơn đức tiết kiệm. 21. H. Tội hờn giận là làm sao ? T. Là khi ngưởi ta bởi tính nóng nảy trong lòng cùng bề ngoài, nên giận quá lẽ, hay là muốn báo oán. 22. H. Phải làm điều gì cho khỏi tội ấy ? T. Là trong lời nói việc làm, chớ khá theo tính nóng nảy, một theolẽ phải cùng giữ sự nhịn nhục hiền lành. 23. H. Đấng bề trên quở trách cùng sửa phạt bề dưới, thì có tội chăng? T. Khi có lẽ mà phạt, nếu bề trên chẳng sửa phạt thì người mắc lỗi. 24. H. Tội làm biếng là tội nào ? T. là tội hay làm cho người khác trễ nãi, chẳng muốn chịu khó cho đặng rỗi linh hồn, và làm các việc cho xứng bổn phận mình. 25.H. Có nhiều kẻ phạm tội ấy chăng ? T. Nhiều người phạm tội ấy, mà có ít kẻ xét mình và lấy sự làm biếng là tội. 26. H. Có phải sợ tội ấy chăng ? T. Phải sợ lằm, vì sự ở nhưng là cội rễ mọi sự dữ.
Ơn Chúa 1. H.Bởi sức riêng ta có đặng rỗi linh hồn chăng? T Chẳng đặng; có ơn Chúa giúp thì mới dặng. 2. H.Ơn Chúa nghĩa là đi gì? T. Nghĩa là sức thiêng liêng Đức Chúa Trời ban vì công nghiệp Đ.Chúa Giêsu cho ta đặng rổi linh hồn. 3. H. Ơn nào là ơn cần kíp cho ta đặng rỗi linh hồn ? T. Là ơn soi trí khôn; cho biết sự phải sự chẳng cùng giục lòng làm sự lành và lánh sự dữ. 4. H. Ta có từ chối ơn Chúa đặng chăng ? T. Có nhiều lần ta từ chối ơn Chúa. 5. H. Đức Chúa Trời có ban ơn cho mọi người bằng nhau chăng ? T. Đức Chúa Trời rất nhơn từ và công bằng vô cùng chẳng mắc nợ ai; Người muốn ban ơn thể nào thì nên thể ấy. 6. H. Ta phải làm đi gì cho đặng ơn Đức Chúa Trời ? T. Phải chịu lấy các phép Bí tích, cùng siêng năng đọc kinh cầu nguyện. Phép Bí Tích 7. H. Phép Bí tích là đí gí ? T. Là dấu chỉ bề ngoài, chỉ và làm ơn thiêng liêng bề trong Đức Chúa Giêsu đã lập cho ta đặng nên thánh. 8. H. Có mấy phép Bí tích ? T. Có bảy: thứ nhứt là phép Rửa tội, thứ hai là phép Thêm sức, thứ ba là phép Mình Thánh Chúa, thứ bốn là phép Giải tội, thứ năm là phép Xức dầu thánh, thứ sáu là phép Truyền chức thánh, thứ bảy là phép Hôn phối. Phép Rửa Tội 1. H. Phép Rửa tội là đí gì ? T. Là phép làm cho ta khỏi tội tổ tông, cùng nên con Đức Chúa Trời và con Hội thánh nữa. 2. H. Phép Rửa tội có tha tội mình làm chăng ? T. Những tội mình đã làm trước, thì không chịu phép Rửa tội nên, đều được khỏi hết. 3. H. kẻ chẳng chịu phép Rửa tội có đặng rỗi linh hồn chăng ? T. Chẳng đặng; có một khi muốn chịu mà chẳng đặng thì phải hết lòng ước ao cùng yêu mến Chúa, hay là chịu tử vì đạo, thì mới đặng rỗi mà chớ. 4. H. Đặng chịu phép Rửa tội mấy lần ? T. Đặng chịu một lần mà thôi, vì phép ấy đã in một dấu thiêng liêng vào linh hồn chẳng hay mất đặng. 5. H. Ai đặng làm phép Rửa tội ? T. Các hàng linh mục đặng làm mà thôi; song khi thế gấp, thì mọi người dầu là kẻ ngoại, làm theo ý Hội Thánh thì cũng đặng. 6. H. Phải Rửa tội làm sao ? T. Phải lấy nước lã, giội lên đầu kẻ chịu phép Rửa tội, cũng một khi ấy đọc lời này rằng: TAO RỬA MẦY, NHƠN DANH CHA, VÀ CON, VÀ THÁNH THẦN. 7. H. Khi giội nước trên đầu chẳng đăng thì phải làm thể nào ? T. Phải chon nội mình nơi trọng hơn, mà giội đó.
Phép Thêm Sức 1. H. Phép Thêm sức là đí gì ? T. Là phép làm cho ta đặng chịu Đức Chúa Thánh Thần và mọi ơn Người cho đặng lòng vững vàng, mà xưng đạo thánh Chúa ra trước măt thiên hạ. 2. H. Kẻ chẳng chịu phép Thêm sức, có đặng rỗi linh hồn chăng ? T. Đặng; song kẻ khinh, hay là làm biếng chẳng muốn chịu, thì phạm tội, lại mất nhiều ơn trọng bởi phép ấy mà ra. 3. H. Nên chịu phép nầy nhiều lần chăng ? T. Chẳng nên; phải chịu một lần mà thôi, vì phép ấy đã in vào linh hồn một dấu thêng liêng chẳng hay mất. 4. H. Ai muốn chịu phép này cho nên, phải làm đi gì ? T. Phải làm ba sự nầy; một là, thuộc biết những sự chính phải tin trong đạo; hai là, phải cho sạch mọi tội, ít nữa là sạch các tội trọng; ba là, đọc kinh Tin, Cậy, Kính mến, và có lòng ước ao cho đặng chịu phép ấy. 5. H. Ai còn mắc tội trọng, mà chịu phép này có phạm tội chăng ?\ T. Phạm tội rất trọng, vì là phạm sự thánh. 6. H. Ai đặng làm phép thêm sức ? T. Các Giám mục đặng quờn chính làm mà thôi; bằng có lịnh Đức Giáo Tông ban phép, thì các hàng Linh mục cũng làm đặng nữa.
THÁNH THỂ 1. H. Phép Mình Thánh Chúa là đi gì ? T. Nghĩa là Mình Thánh, Máu Thánh, cùng Linh hồn Đức Chúa Giêsu và tính Đức Chúa Trời, ngự thật trong hình bánh rượu. 2. H. Bao giờ bánh rượu trở nên Mình Thánh, Máu Thánh Đức Chúa Giêsu ? T. Khi thầy làm lễ Misa đến nữa mùa mà đọc lời Chúa truyền đoạn, tức thì bánh rượu trở nên Mình thật, Máu thật Đức Chúa Giêsu. 3. H. Trong hình bánh thì toàn Mình Thánh, mà trong hình rượu thì toàn Mình Thánh Chúa mà thôi sao ? T. Chẳng phải, dầu trong hình bánh hình rượu, thì cả và hai đều có trót Mình Thánh và Máu Thánh Chúa. 4. H. Khi phân rẽ hình bánh làm hai, có rẽ phân Mình Thánh Chúa ra chăng ? T. Rẽ phân hình bánh mà thôi, Mình Thánh Chúa chẳng hề phân đặng; dầu trong mọi phần nhỏ mọn, cũng có trót Mình Thánh và Máu Thánh Người. 5. H. Đức Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể làm chi ? T. Trứơc là có ý cho đặng nhớ công ơn Người đã chuộc tội chịu chết vì ta; sau là nên lương thực thiêng liêng cho đặng nuôi linh hồn. 6. H. Đức Chúa Giêsu lập Bí tích này bao giờ ? T. Đã lập chưng ngày thứ năm, trước khi Người chịu nạn. 7. H. Kẻ muốn chịu Mình Thánh Chúa cho nên thì phải làm thế nào ? T. Phải dọn linh hồn và xác. 8. H. Dọn linh hồn làm sao ? T. Phải xét mình, bằng có phạm tội gì, thì phải ăn năn cùng xưng tội ấy; và phải có lòng tin, cậy, kính mến, khiêm nhượng, ứơc ao cùng tạ ơn. 9. H. kẻ còn mắc tội trọng mà chịu lễ, có rước thật Mình Thánh Máu Thánh Chúa chăng ? T. Rước thật, song lẻ những kẻ ấy thật rước hình phạt cho mình vì phạm sự thánh. 10. H. Phải dọn xác thể nào ? T. Phải giữ lòng chay sạch từ nửa đêm cho đến khi chịu lễ, chẳng nên ăn uống vật gì; phải ăn mặc sạch sẽ, nết na tề chỉnh; phải có lòng tôn kính, khiêm nhượng quì gối mà rước Mình Thánh Chúa. 11. H. Ta phải ước ao năng chịu Mình Thánh Chúa chăng ? T. Phải ước ao luôn: càng năng chịu bao nhiêu thì càng đặng ích bấy nhiêu. 12. H. Đặng những ích nào ? T. Một là, ta đặng hiệp làm một cùng Chúa; hai là, thêm ơn trọng Chúa trong ta; ba là, bớt những tình tư dục; bốn là, ta đặng dấu thật ngày sau sẽ hưởng phước đời đời. 13. H. Lễ Misa là lễ nào ? T. La lễ dưng Mình Thánh, Máu Thánh Đức Chúa Giêsu trong hình bánh rượu mà tế lễ Đức Chúa Trời như xưa Chúa đã dưng mình trên cây Thánh Giá cho Đức Chúa Cha. 14. H. Ấy vậy thì lễ Misa cũng là một lễ, như xưa Chúa đã dưng mình trên cây Thánh Giá sao ? T. Cũng thật là một lễ, song khác hai sự này: vì xưa thì Chúa đã dưng Mình Người, mà nay thì bởi tay các hàng Đạc đức; lại xưa Máu Người đã đổ ra, mà bây giờ chẳng còn đổ ra nữa. 15. H. Trong Hội Thánh có ý gì mà dưng lễ Misa ? T. Có bốn ý này: một là, nhìn biết Đức Chúa Trời là Chúa cao trọng trên hết mọi sự; hai là, cho đặng tha hết mọi tội lỗi ta; ba là, xin cho ta đặng mọi sự lành; bốn là, tạ ơn người, vì mọi ơn lành đã xuống cho ta xưa nay. 16. H. Có nên dưng lễ Misa mà tế lễ Đức Bà cùng các thánh chăng ? T. Chẳng nên, vì sự tế lễ là thuộc về một Đức Chúa Trời mà thôi. 17. H. Những ai đặng hưởng công ơn bởi lễ Misa mà ra ? T. kẻ sống và kẻ chết đều đặng hưởng nhờ.
1. H. Phép Giải tội là đí gì ? T. Là phép tha tội cho những kẻ đã phạm, từ khi rửa tội về sau. 2. H. Phép Giải tội có phải là sự cẩn cấp cho đặng rỗi linh hồn chăng ? T. Là sự rất cẩn cấp cho những kẽ đã phạm tội trọng từ khi rửa tội về sau. 3. H. Phép Giải tội có mấy phần ? T. Có ba phần: một là, ăn năn tội; hai là, xưng tội, ba là, đền tội. 4. H. Ăn năn tội là gì ? T. Là lo buồn đau đớn về mọi tội đã phạm, và dốc lòng chừa, chẳng hề phạm tội ấy nữa. 5. H. Ăn năn tội có mấy cách ? T. Có hai cách: một là ăn năn tội cách trọn; hai là ăn năn tội cách chẳng trọn. 6.H. Ăn năn tội cách trọn nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là đau đớn vì mọi tội lỗi đã mất lòng Chúa rất nhơn từ, và tốt lành vô cùng. 7. H. Ăn năn tội cách trọn có đặng ích gì chăng ? T. Những kẻ ấy dầu chưa đặng xưng tội, miễn là có lòng muốn xưng tội thì đã khỏi tội, mà lại đặng nghĩa cùng Chúa. 8. H. Ăn năn tội cách chẳng trọn là làm sao ? T. Là lo buồn đau đớn, bời xấu hổ vì tội, cùng e mất nước Thiên đàng, hay là sợ hình khổ Hỏa ngục vô cùng. 9. H. Ai ăn năn tội cách này, có đặng nghĩa cùng Chúa chăng ? T. Chẳng đặng; vì bằng có chịu phép giải tội, thì mới đặng mà thôi. 10. H. Ăn năn tội có mấy ý ? T. Có bốn ý: một là, cậy sức Chúa giục lòng mà ăn năn tội; hai là, đau đớn trong lòng, vì đã phạm tội, chẳng phải lo buồn bề ngoài mà thôi; ba là, giận ghét mọi tội mình chẳng sót tội nào; bốn là, đau đớn tội mình, hơn lo tiếc mọi sự thế gian. 11. H. ăn năn tội cậy sức Chúa nghĩa là làm sao ? T. Là khi bởi ơn Đức Chúa Thánh Thần giục lòng, mà ta ăn năn tội. 12. H. Kẻ ăn năn tội bởi mắc phải tai vạ gì, như mất của cải hay là liệt lào, mà lo buồn đau đớn, có phải là cậy sức Chúa chăng ? T. Chẳng phải, vì ăn năn thể ấy là theo tính xác thịt mà thôi. 13. H. Ăn năn về mọi tội là gì ? T. Là lo buồn đau đớn về mọi tội lỗi; nếu mà có một tội nào mà chẳng lo buồn đến, thì chẳng gọi là ăn năn tội nên. 14. H. Đau đớn tội mình hơn lo tiếc mọi sự, nghĩa là làm sao ? T. Là ăn năn đau đớn, vì đã làm mất lòng Chúa, hơn là mắc phải tai nạn, hay là đã mất mọi giống châu báu ta yêu chuộng ở đời nầy. 15. H. Có mấy thể giục lòng ăn năn tội ? T. Có hai: một là, nài xin cùng Chúa cho ta đặng lòng đau đớn thật; hai là, phải tìm một hai cách gì cho đặng giục lòng ta. 16. H. Những cách thế nào ? T. Như thể là suy tưởng Chúa rất nhơn từ, hằng xuống ơn cho ta không ngằn, mà ta lại phụ nghĩa cùng Người dường ấy; hat là tưởng công nghiệp Đưc Chúa Giêsu, bởi tội ta, nên Người đã đổ hết máu mình ra; cùng là suy gẫm, bởi tội thì đã đáng sa Hỏa ngục mà chịu hình khổ đời đời, lại mất sự vui vẻ Thiêng đàng chẳng cùng. 17. H. Có dấu nào cho đặng biết thật, ta đã ăn năn tội nên chăng ? T. Có hai dấu nầy: một là, phải khi ta đã chừa và có lòng ghét bỏ tội cho thật; hai là, khi ta xa lánh mọi cách thế quen làm cho ta phạm tội. 18. H. Phải đọc kinh ăn năn tội thể nào ? Kinh Ăn Năn Tội: T. Lạy Chúa tôi, Chúa là đấng trọn tốt tròn lành vô cùng, Chúa đã dựng nên tôi và cho con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì tôi, mà tôi đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì tôi lo buồn đau đớn cùng chê ghét mọi tội tôi trên hết mọi sự; tôi dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa thì tôi sẽ lánh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen.
1. H. Xưng tội là làm sao ? T. Là tỏ cáo mọi tội lỗi ta cùng hàng Linh mục có quờn giải tội. 2. H. Đang khi xưng tội phải có lòng thế nào ? T. Phải có lòng khiêm nhượng thật thà, mà tỏ cáo mọi tội lỗi mình. 3. H. Khiêm nhượng là làm sao ? T. Là khi tỏ tội mình, thì có lòng xấu hổ thẹn thuồng, vì đã làm mất lòng Chúa lắm. 4. H. Lòng thật thà là làm sao ? T. Là khi xét biết tội thể nào, thì xưng ngay thể ấy, chẳng nên thêm bớt chút gì. 5. H. Xưng mọi tội nghĩa là gì ? T. Là phải xưng mọi tội trọng, chẳng giấu tội nào. 6. H. Kẻ có ý giấu một tội trọng mà thôi, có phạm tội chăng ? T. Phạm tội rất trọng, vì là phạm sự thánh. Nên sau khi xưng tội, trước phải xưng tội phạm sự thánh nầy, sau phải xưng lại mọi tội đã xưng phen ấy. 7. H. Ta xưng trổng mọi tội mà thôi, có đủ chăng ? T. Chăng đủ; giả như tội ăn trộm mà xưng trổng rằng: tôi đã ăn trộm, thì chưa đủ, song phải xưng ăn trộm đã mấy lần, mà vật ấy là bao nhiêu, hay là của thánh; dầu có tội khác thì cũng như vây. 8. H. Phải làm cách nào cho biết mọi tội lỗi mà xưng ? T. Phải xét theo đấng bực mình, hoặc lo, nói, làm điều gì phạm điều răn Chúa, hay là luật Hội Thánh, và bảy mối tội đầu. 9. H. Ta phải xưng mọi tội nhẹ chăng ? T. Bằng chẳng xưng thì chẳng phạm tội; song nếu xưng, cùng có lòng đau đớn, thì rất nên có ích.
Đền Tội 10. H. Đền tội là làm sao ? T. Là những sự thầy giải tội dạy làm, cùng những việc theo ý ta mà đền tội, như thể ăn chay, cầu nguyện hay là thí của cho kẻ khó khăn, cùng việc khác như vậy. 11. H. Chịu những sự tai nạn nhọc nhằn, như cơn buồn rầu bệnh hoạn, cùng điều khác như vậy có đặng đền vì tội ta chăng ? T. Ví bằng có ý chịu vì lòng kính mến Chúa, hay là đền vì tội thì đặng lắm. 12. H. Bằng đã làm mất lòng ai có phải phạt tạ kẻ ấy chăng ? T. Chẳng những là phải phạt tạ mà thôi, song nhà ấy có chịu thiệt hại điều gì, dầu công, thì củng phải thường lại nữa. 13. H. Kẻ đã xưng tội nên, cùng đã chịu phép Giải tội, thì đã khỏi tội, mà còn phải đền tội làm chi nữa ? T. Đã hay rằng: kẻ chịu phép ấy nên, thì đã khỏi tội cùng hình phạt đời đời, song còn hình phạt tạm nữa, nên phải đền mới khỏi. ví như trong quốc pháp, ai đã mắc tội tử luật, dầu trào đình tha giết mặc lòng, song cũng phải đái tội lập công. 14.H.Phần phạt tạm phải đền ở đâu ? T. Phải đền ở đời nầy hay là trong Luyện ngục. 15. H. Còn có cách nào cho khỏi phần phạt tạm ấy chăng ? T. Có phép Đại xá cùng Ân xá. 16. H. Đại xá là đí gì ? T. Là phép tha hết mọi phần phạt tạm. 17.H. Ân xá là gì ? T. Là phép tha một hai phần phạt tạm mà thôi. 18. H. Ai có quyền ban phép Đại xá cùng Ân xá ? T. Có một Hội thánh mà thôi. 19. H. Ta phải làm thể nào mà chịu ơn ấy cho nên ? T. Phải thật lòng ăn năn tội, cùng làm mọi việc như thể thức truyền.
Phép xức dầu thánh 1. H. Phép Xức dầu thánh là gì ? T. Là phép giúp đỡ kẻ gần chết về phần linh hồn, cũng có khi về phần xác nữa. 2. H. Kẻ chịu phép nầy đặng những ích gì ? T. Đặng ba điều ích này: một là, đặng lòng vững vàng chẳng sợ chết cùng chước ma quỉ; hai là, khỏi mọi tội nhẹ và tội trọng hoặc đã quên, hay bởi cơn bịnh mà xưng chẳng đặng; ba là, khi có ích phần linh hồn, thì cũng đặng khoẻ mạnh phần xác nữa. 3. H. Có nên chờ khi hấp hối, mà chịu phép nầy chăng ? T. Chẳng nên; song khi thế ngặt, thì phải tính việc ấy.
Phép Truyền chức thánh 4. H. Phép Truyền chức thánh là phép nào ? T. Là phép phong chức cho các hàng Linh mục đặng quờn tế lễ Đức Chúa Trời, và giúp việc Hội thánh, lại đặng ơn Chúa mà làm những việc ấy cho nên.
Phép Hôn phối 5. H. Phép Hôn phối là đi gì ? T. Là phép nhứt phu nhứt phụ phối hiệp cùng nhau theo ý Chúa định, mà truyền nhơn loại cùng giúp đỡ nhau làm việc lành, mà giữ đạo đức Đức Chúa Trời cho đặng nên thánh. 6. H. Có nên cưới nhiều vợ chăng ? T. Chẳng nên, vì thuở tạo thiên lập địa, thì Đức Chúa Trời đã sinh một Nam một Nữ, để phối hiệp cùng nhau, mà sinh loài người ta; ấy là phép nhứt phu nhứt phụ, đâu khá tư tình mà cải ý Chúa định. 7. H. Như đờn ông có vợ mà không sinh con, có nên cưới vọ khác cho đặng sinh con chăng ? T. Chẳng nên; vì ba lẽ nầy, một là, có luật Chúa cấm nhặt sự ấy; hai là, có con cùng không, vốn chẳng lại ta, một tại ý Chúa phân định mà thôi; ba là, giã như chồng rằng: không con, mà cưới vợ khác, thì vợ cũng rằng: không con, mà lấy chồng khác, thể ấy cả nhà ra làm sao ? Vậy như một vợ chẳng khá hai chồng, thì một chồng cũng chẳng nên hai vợ. 8. H. Ai muốn chịu Phép hôn phối cho nên phải làm thế nào ? T. Trước hết phải có lòng thờ phượng Chúa chẳng phải một tưởng việc xác mà thôi; lại phải giữ mình cho thanh sạch, đừng có phạm tội gì trọng. 9. H. Có thờ phượng Chúa là làm sao ? T. Là phải giữ tín ngãi, và nhịn nhục nhau mọi khi lầm lỗi, và giúp đỡ nhau cho thuận hòa hạ mục; sau có sinh con cái, thì phải năng dạy dỗ răn khuyên. 10. H. Phải dạy con cái làm sao ? T. Một là, phải tập tành nó kính mến Chúa hết lòng, cùng chê ghét mọi đàng tội lỗi; hai là, phải ra công dạy dỗ, cho nó thuộc biết những sự phải tin trong Đạo thánh; ba là, phải gìn giữ xem sóc, kẻo nó làm sự gì chẳng nên chăng. 11. H. Kẻ có vợ chồng sánh cùng kẻ đồng trinh, ai hơn ? T. Ắt kẻ đồng trinh đặng hơn, vì kẻ ấy không lo vợ chồng, một khi tục tinh tu, thì phước đức càng cao trọng, lại càng gần Chúa hơn nữa.
1. H. Phải làm đi gì cho đặng rỗi linh hồn ? T. Phải giữ mười điều răn Đức Chúa Trời, cùng sáu điều răn Hội Thánh. 2. H. Mười giái là những điều nào ? T. Thứ nhứt, Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự;
Thứ hai, Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ .
Thứ ba, Giữ ngày Chúa nhựt;
Thứ bốn, Thảo kính cha mẹ;
Thứ năm, chớ giết người;
Thứ sáu, Chớ làm sự dâm dục;
Thứ bảy, Chớ lấy của người;
Thứ tám, Chớ làm chứng dối;
Thứ chín, Chớ muốn vợ chồng người;
Thứ mười, chớ tham của người; Mười điều răn ấy tóm về hai điều nầy mà chớ:
Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự,
sau lại yêu người như mình ta vậy.
GIÁI THỨ NHỨT 3. H. Giái thứ nhứt dạy ta những sự gì ? T. Dạy ta thờ phượng một Đức Chúa Trời, và tin cậy, kính mến người trên hết mọi sư. 4. H. Nên thờ các Thánh bằng Chúa chăng ? T. Chẳng nên; song nên kính các Thánh là tôi ngay, con thảo Chúa mà thôi, 5. H. Vậy thì sao hằng cầu nguyện cùng các Thánh ? T. Ta xin các Thánh cầu thay nguyện giúp cùng Chúa, cho ta đặng mọi sự lành. 6. H. Có điều nào nghịch cùng sự kính mến Đức Chúa Trời chăng ? T. Có ba điều nầy: một là, thờ phượng ma quỉ bụt thần; hai là, khinh dễ các Thánh; ba là, tin cậy dị đoan. 7. H. Dị đoan là đi gì ? T. Là những sự đơm tế quải lạy ông bà cha mẹ, tin bói khoa nham độn, cậy phù thuỷ pháp môn; xem tướng mạo, chọn ngày giờ, kỳ yên chạp miễu, lên đồng xuống đồng, thờ tiên sư, thổ công thổ chủ, đặt bài vị, lên nêu, buộc tran, cầu địa lý, đốt giấy tiền vàng bạc, tin chiêm bao mộng huyển, gặp đờn ông đờn bà bàn chuyện tốt xấu, cùng là tin chim kêu, gà gáy, chuột túc, nhện sa, rằng thiêng rằng thính… và mọi đều khác như vậy. 8. H. Có mấy cách nghịch cùng đức tin ? T. Có bốn cách này: một là, cứng lòng chẳng tin mọi sự như Hội Thánh đã truyền, bắt chước kẻ ngoại cùng quân lạc đạo; hai là, kẻ có đạo bởi sợ phép quan cùng hình phạt, hay mà thổ thẹn, mà chối đạo, tuỳ thì theo thói thế gian; ba là, có ý hồ nghi sự gì trong phép đạo; bốn là, làm biếng chẳng muốn học những sự phải biết cho đặng rỗi linh hồn. 9. H. Những sự phải biết cho đặng rỗi linh hồn là những sự nào ? T. Một là, phải biết sự mầu nhiệm một Đức Chúa Trởi Ba Ngôi cùng Chúa Cứu Thế ra đời và chuộc tội cho thiên hạ; hai là, đến ngày tận thế, cả và loài người đều sẽ sống lại mà chịu thưởng hay là chịu phạt đời đời; ba là, phải biết kinh Tin, kinh Cậy, kinh Kính mến, kinh Lạy cha, mười Giái răn Đức Chúa Trời, cùng sáu Điều răn Hội thánh và những điều thuộc về phép Bí tích, cùng những việc theo đấng bực mình. 10. H. Có sự gì nghịch cùng đức Cậy chăng ? T. Có hai sự nầy: một là, ngã lòng rủn chí, chẳng muốn làm việc đền tội; hai là, cậy lòng lành Chúa cùng sức mình thới quá, nên lần lựa chẳng kíp toan trở lại. 11. H. Có sự gì nghịch cùng đức Kính mến chăng ? T. Những sự chồm ố công danh lợi lộc, cùng là dâm dục sa đà. 12. H. Ta phải yêu người ta chăng ? T. Phải yêu hết mọi người, vì Đức Chúa Giêsu đã dạy rằng: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. 13. H. Ta phải yêu kẻ nghịch cùng ta chăng ? T. Phải yêu, vì Đức Chúa Giêsu đã dạy rằng: Bay phải yêu kẻ ghét bay, và làm ơn cho kẻ làm khốn bay.
GIÁI THỨ HAI 14. H. Giái thứ hai cấm những sự gì ? T. Cấm ba sự này: một là, thề quấy; hai là, nói lộng ngôn; ba là, rủa mình hay là kẻ khác. 15. H. Thề quấy là làm sao ? T. Là thề dối, thề vặt, cùng thề mà làm sự chẳng nên. 16. H. Kẻ đã thề mà làm sự chẳng nên, có phải giữ lời thế chăng ? T. Chẳng nên giữ; vì kẻ thề làm vậy là đã phạm tội; bằng giữ lời thề thì lại phạm tội khác nữa. 17. H. Có khi nào ta nên thề chăng ? T. Khi có việc gì trọng, mà kẻ bề trên bắt thề, thì nên lấy tên Đức Chúa Trời mà thề. 18. H. Có nên có nên lấy tên bụt thần ma quỉ mà thề chăng ? T. Chẳng nên. 19. H. Sự khấn là đi gì ? T. Là sự hứa cùng Đức Chúa Trời khi ta đã kịp suy lại, mình sẽ làm việc trọng hơn. 20. H. Có nên khấn hứa điều gì cùng Đức Bà hay là các Thánh chăng? T. Chẳng nên, vì sự khấn hứa là đều thuộc về Đức Chúa Trời mà thôi. Song nên khấn hứa điều gì cùng Đức Chúa Trời mà tỏ lòng cung kính Đức Bà và cùng các Thánh. 21. H. Có nên liều mình khấn hứa điều gì khi chưa suy cho đủ chăng? T. Chẳng nên, phải nghiêm xét cho cẩn thận đã, vì thà chẳng khấn hứa điều gì, hơn là khấn hứa mà liều mình phạm sự khấn hứa là sự tội. 22. H. Khi ta đã khấn hứa điều gì, mà ta khó giữ, hay là chẳng đặng, thì liệu có sao ? T. Phải xin đấng bề trên đổi, hay là chuẩn sự ấy.
GIÁI THỨ BA 23. Giái thứ ba dạy ta những sự gì ? T. Dạy ta phải giữ mọi ngày Chúa nhựt cùng các ngày Lễ buộc. 24. H. Giữ ngày Chúa nhựt, ngày Lễ buộc là làm sao ? T. Là những ngày ấy phải xem Lễ, và làm việc phước đức. 25. H. Ngày Chúa nhựt, ngày lễ buộc, có nên làm việc xác chăng ? T. Chẳng nên. 26. H. Khi có đều gì cẩn cấp có nên làm việc xác trong ngày ấy chăng ? T. Nên; song phải xin phép bề trên đã.
GIÁI THỨ BỐN 27. H. Giái thứ bốn dạy những sự gì ? T. Dạy thảo kính, vưng lời chịu luỵ cùng giúp đỡ cha mẹ. 28. H. Thảo kính cha mẹ phải làm thế nào ? T. Trước là cầu xin cho người được sống lâu sức khoẻ, sau là ở cho hòa nhã khiêm nhượng, chẳng nên ngỗ nghịch dễ duôi; chớ khá làm cho người rầu rĩ; chẳng nên đàm tiếu sự lỗi gì người. 29. H. Vưng lời chịu luỵ là làm sao ? T. Là cha mẹ dạy khuyên sai khiến, chẳng nên trách móc phàn nàn; chớ khá bỏ nhà cha mẹ mà đi ác nghiệp chơi bời; cùng khi phối thất nhơn duyên, phải vưng thuận tình người phân định; lại khi cố mạng, người có trối phú đều gì, thì khá vui lòng noi giữ. 30. H. Giúp đỡ cha mẹ là làm sao? T. Là cha mẹ khó khăn già cả, phải dưỡng nuôi, sớm viếng tối thăm, chẳng nên kể công nọ ngãi kia, vì đã dày ngày chịu khó; còn của người chẳng nên xới bớt; khi liệt lào, phải chạy thuốc thang, thuở mạng một, trợ phần tống táng, cùng cầu hốn gới lễ cho người. 31. H. Có nên quải lại đơm tế ông bà cha mẹ đã qua đời chăng ? T. Chẳng nên, vì là nghịch cùng phép đạo lại thêm trái thửa lẽ hằng. 32. H. Vì sao nghịch cùng phép đạo ? T. Vì Đạo thánh dạy, kẻ chết chẳng hay ăn uống, củng chẳng đặng xuống ơn phù hộ cho ai, một ước ao cho kẻ còn sống gúp lời cầu nguyện, xin Chúa tha tội lỗi cho mình. 33. H. Sao mà rằng trái lẽ ? T. Vì của phải dùng, thì chẳng muốn cho, mà cho những vật dùng chẳng đặng, như thể ai chới với dưới sông, mà ta vẫn chẳng ra tay cứu vớt, một đem của ăn cho mà thôi, có phải lẽ hay chăng, thì mọi người đếu biết. 34. H. Giái này dạy thảo kính cha mẹ mà thôi sao ? T. Cũng dạy thảo kính cha mẹ mọi kẻ bề trên nữa, như vua chúa, quan quyền, chủ nhà, cùng thầy dạy dỗ, và những kẻ gia nua tuổi tác. 35. H. Đấng bề trên dạy làm đều gì nghịch cùng Đạo thánh có nên làm chăng ? T. Chẳng nên, vì phải vưng phép Đức Chúa Trời trên hết mọi sự. 36. H. Cha mẹ hay là chủ nhà phải làm đều gì cho con cái tôi tớ ? T. Phải làm bốn sự nầy: một là dạy dỗ; hai là sửa phạt; ba là làm gương tốt; bốn là dưỡng nuôi.
GIÁI THỨ NĂM 37. H. Giái thứ năm cấm những điều gì ? T. Cấm lấy ý riêng mà giết mình hay là kẻ khác. 38. H. Giái này cấm bấy nhiêu mà thôi sao ? T. Cũng cấm ghen ghét, bỏ vạ cáo gian, khinh dể, hờn giận, báo thù, nhiếc nhóc, trù ẻo, cùng muốn làm điều gì thiệt hại cho người ta. 39. H. Còn cấm điều gì nữa chăng ? T. Còn cấm làm gương xấu xho kẻ khác theo đòi, hay là xui giục lảm thiệt hại cho người ta. 40. H. Kẻ đã phao vu, hay là chưởi rủa, làm nhơ danh xấu tiếng người ta, thì phải làm thế nào ? T. Phải phạt tạ cùng trả tiếng tốt lành cho người ta; lại bằng có tiện, thì phải xưng ngay ra rằng: mình đã vu oan dối trá.
GIÁI THỨ SÁU CÙNG THỨ CHÍN 41. H. Hai giái nầy cấm những sự gì ? T. Cấm tưởng, nói, làm điều gì dâm dục. 42. H. Tưởng mà phạm tội ra làm sao ? T. Là khi tứ ý tưởng, nhớ, cùng ước ao đều gì dơ dáy. 43. H. Nói mà phạm tội là đi gì ? T. Là khi tự ý nói, hay là nghe lời gì tục tĩu cùng ám hiểu ý tà. 44. H. Làm mà phạm tội là thế nào ? T. là tự ý nhìn xem, hay là đá đến những chỗ dơ dáy mình hay là kẻ khác. 45. H. Khi lâm phải cám dỗ về điều nầy, thì phải làm thể nào ? T. Tức thì phải bỏ đi cho dứt, mà cầu xin Chúa cùng Đức Mẹ phù hộ; lại trốn lánh những cách thế quen làm cho ta phạm tội. 46. H. Những cách thế nào quen làm cho ta phạm tội ấy ? T. Có bảy cách nầy: ở không nhưng là một; kết bạn cùng đàng trắc nết là hai; coi sách hoa tình là ba; đến áng bội bè là bốn; xem ảnh hình tố nữ là năm; trai gái năng lân lứa là sáu; ăn uống sa đà là bảy. 47. H. Có cách nào dự phòng cho khỏi tội nầy chăng ? T. Có: một là, phải giữ ngủ quan mình cho nhặt, nhứt là miệng nói, mắt xem; hai là, năng xưng tội chịu lễ; ba là, thú nào theo thú ấy, phải làm việc luôn.
GIÁI THỨ BẢY CÙNG THỨ MƯỜI 48. H. Hai giái nầy cấm những sự gì ? T. Chẳng những cấm là cấm trộm cướp của người mà thôi, song lại cấm tham lam mơ ước nữa. 49. H. Pham giái nầy có mấy cách ? T. Có ba: một là, chẳng theo lẻ công mà lấy; hai là, tài chủ chẳng muốn cho ma hãm cầm lấy; ba là, mọi cách khác làm nát hại của người. 50. H. Chẳng theo lẽ công mà lấy, nghĩa là làm sao ? T. Là trộm cứơp như quần gian đảng; ăn cấp như đoàn tôi tớ; gạt gẫm như con buôn bán; cho vai ăn lời như loài hà tiện; hay là dùng mưu kế như đứa gian cáo. 51. H. Có mấy cách hãm cầm của người ? T. Có bốn: một là, chẳng thường của người; hai là, chẳng trả nợ; ba là, chẳng hườn công; bốn là, chẳng nộp thuế. 52. H. Làm hư nát của người có mấy cách ? T. Cũng có bốn: phá cho tan nát là một; toan luận mà làm hư, là hai; ra sức giúp phá, là ba; kẻ có quờn phép, bỏ việc mình phải giữ, mà chẳng đón ngăn, là bốn. 53. H. Kẻ chẳng theo lẽ chính mà lấy cầm của gì ai, đã trả của ấy lại, có đủ chăng ? T. Chẳng đủ; phải trả những phần thiệt hại nhà ấy đã chịu nữa. Giã như ai đã lấy đồ thợ nào, mà trả đồ ấy lại thôi thì chưa đủ; song phải tính bao lâu nhà nầy mất đồ làm nghề chẳng đặng, thì phải hừơn công bất nhiêu ngày ấy nữa. 54. H. Kẻ mắc của người, mà trả chặng đặng thì làm sao ? T. Bằng trả nổi, thì phải trả tức thì, bằng chẳng nổi, thì ít nữa phải có lòng thật muốn trả. Bằng chẳng như vậy, thì không đặng chịu phép Giải tội cũng chẳng đặng rỗi linh hồn nữa. 55. H. Phải trả cho ai ? T. Đã lấy của ai thì phải trả cho nấy; bằng đã lâm chung mạng một thì phải trả cho con cháu nhà ấy. 56. H. Bao giờ phải trả ? T. Phải trả tức thì.
GIÁI THỨ TÁM 57. H. Giái nầy cấm những đều gì ? T. Cấm ba sự nầy: một là, nói dối; hai là, làm chứng dối; ba là, vô tích cớ hồ nghi sự trái cho người ta. 58. H. Nói dối là làm sao ? T. Là khi nói dối, có ý phỉnh phờ người ta, bằng không có ý phỉnh phờ, tuy là nói sự chẳng thật, cũng chẳng gọi là nói dối. 59. H. Có khi nào ta nên nói dối chăng ? T. Chẳng nên khi nào. 60. H. Kẻ đã làm chứng dối, thì phải làm thể nào ? T. Phải xưng ngay ra rằng: mình đã chứng sự chẳng thật, cũng phải thường những điều thiệt hại người ta đã chịu vì mình. 61. H. Còn cách nào khác phạm giái này nữa chăng ? T. Còn: Một là ton lót kẻ làm chứng mà nói dối, hay là làm thinh đi; hai la giả bằng, giả thị, làm tờ giả; đánh con dấu giả; ba là yểm cầm đơn trạng kẻ ngay chẳng cho thấu đến lịnh trên, hầu chữa mình cho khỏi nạn.
1. H. Hội thánh nghĩa là gì ? T. Nghĩa là các hội bổn đạo ở khắp thế gian, đều vưng lời chịu lụy Đức Thánh Phapha, là Đại Phụ Thánh Hội Tông. 2. H. Hội Thánh có mấy lề luật ? T. Có sáu: Thứ nhứt, Xem lễ ngày Chúa nhựt, cùng các ngày lễ buộc;
Thứ hai, Chớ làm việc xác ngày Chúa nhựt, cùng các ngày lễ buộc;
Thứ ba, xưng tội trong một năm ít là một lần;
Thứ bốn, Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh, và khi gần chết
Thứ năm, Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc;
Thứ sáu, Kiêng thịt ngày thứ sáu cùng những ngày khác Hội Thánh dạy. 3. H. Kẻ bỏ lề luật Hội Thánh, có phạm tội chăng ? T. Kẻ giữ đặng, mà có ý chẳng giữ thì phạm tội trọng. 4. H. Ta có giữ đặng bấy nhiêu điều răn ấy chăng ? T. Nếu không ơn Chúa giúp thì giữ chẳng đặng. 5. H. Phải làm đi gì cho đặng ơn Chúa ? T. Ta phải siêng năng đọc kinh cầu nguyện.
1. H. Trong các kinh, kinh nào trọng hơn ? T. Kinh Lạy Cha. Lạy Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến vưng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy. Xin Cha cho chúng tôi rày hằng ngày dùng đủ; và tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi; lại chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ; bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ. Amen. 2. H. Ai đặt kinh Lạy Cha.? T. Là lời Đức Chúa Giêsu phán dạy mười hai thánh Tông đồ mà truyền cho các người giáo hữu. 3. H. Kinh ấy dạy xin những sự gì ? T. Dạy xin Đức Chúa Trời mọi đều thiết yếu phần linh hồn và phần xác, nên hôm mai phải đọc. 4. H. Lạy Cha chúng tôi ở trên trời,nghĩa là làm sao ? T. La lạy Đức Chúa Trời là Cha chúng tôi ở trên trời. 5. H. Ta là vật hèn tội lỗi, sao dám gọi Đức Chúa Trời là Cha ? T. Vì Đức Chúa Trời dạy ta xưng Người là Cha; lại Người thương ta hơn Cha mẹ thương con, nên mới dám xưng Người là Cha. 6. H. Làm sao mà biết Đức Chúa Trời thương ta, hơn mẹ thương con? T. Vì Người sanh trời đất muôn vật vì ta, cùng che chở và dưỡng nuôi ta phần linh hồn và phần xác; lại ra đời chịu chết chuộc tội cho ta cùng hằng xuống nhiều ơn trọng, cho ngày sao ta đặng hưởng phước đời đời. 7. H. Ta phải làm đi gì cho đáng làm con Đức Chúa Trời ? T. Phải vưng lời Chúa dạy, mà giữ cho trọn mọi giái răn Người, cùng các luật điều Hội Thánh, chớ nghe lời ma quỉ mà nghịch mạng cùng Chúa. 8. H. Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi, mà rằng: Ở trên trời, làm sao? T. Đã hay vậy, vì Chúa muốn cho ta hằng trông phước trên trời chớ mê tội lỗi thế gian cho nên rằng: Ở trên trời. 9. H. Trong kinh ấy có mấy lời nguyện ? T. Có bảy, mà ba điều trước về lòng kính Chúa, còn bốn điều sau xin về phần ta. 10. H. Lời thứ nhứt: Chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng, nghĩa là sao ? T. Nghĩa là, ta là con Đức Chúa Trời thì có ý kính Chúa trên hết mọi sự, nên chẳng cần sự giàu sang vui sướng thế gian, một ước trong cho thiên hạ ngợi khen danh Chúa mà thôi. 11. H. Kẻ đã phạm tội thật là phá danh Chúa, sao còn dám đọc rằng: Nguyện danh Cha cả sáng ? T. Những kẻ ấy mà chẳng ăn năn dốc lòng chừa tội; thì miệng khác lòng khác, nên tỏ mình có ý phạm tội khinh Chúa. 12. H. Lời thứ hai: Nước Cha trị đến, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là cầu xin cho các nước thế gian đều nhìn biết được một Đức Chúa Trời, là Chúa tể chí tôn vô đối, mà vưng theo lịnh Người; lại xin cho đặng tới nước Thiên đàng hưởng phước đời đời. 13. H. Lời thứ ba, vưng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy, nghĩa làm sao ? T. Nghĩa là, Thiên thần cùng các Thành trên trời hằng vưng theo ý Chúa thể nào, thì ta cũng vưng theo dưới đất như vậy. 14. H. Ý Chúa muốn cho ta làm những sự gì ? T. Người muốn cho ta làm mọi sự lành, và lánh mọi sự dữ. 15. H. Lời thứ bốn: Xin Cha cho chúng tôi rày rày hàng ngày dùng đủ, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, hễ con khi thiếu lương thực, thì xin cùng cha mẹ; mà ta là con Đức Chúa Trời, nên phải xin lương thực hằng ngày dùng đủ, cho phần linh hồn và phần xác. 16. Lương thực phần xác là đi gì ? T. Là cơm áo cùng mọi vật thường dùng. 17. H. Có nên cầu giàu sang thế gian chăng ? T. Cầu sự ấy mà lo việc kính Chúa yêu người, thì nên; bằng cầu có ý khác, mà làm hại phần linh hồn, thì chẳng nên. 18. H. Lương thực phần linh hồn là đi gì ? T. Là ơn Đức Chùa Trời, cùng Mình Thánh Đức Chúa Giêsu. 19. H. Ơn Đức Chúa Trời cùng Mình Thánh Chúa sao gọi rằng: Lương thực linh hồn? T. Ví như phần xác, chẳng cóc ăn uống, ắt là phải chết; thì linh hồn nếu không ơn trên cùng Mình Thánh Chúa dưỡng nuôi, ắt là cũng như chết vậy, nên gọi rằng: Lương thực linh hồn. 20. H. Chúng tôi xin hằng ngày nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là phải hằng ngày hằng xin, chẳng nên bữa có bữa không. 21. H. Lời thứ năm: Và tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là xin Đức Chúa Trời tha tội cho ta, như ta cũng tha kẻ có lỗi cùng ta. 22. H. Ai đã làm mất lòng ta, mà ta chẳng tha lỗi người ấy, thì Đức Chúa Trời có tha tội ta chăng ? T. Đức Chúa Trời chẳng tha. 23. H. Sao gọi tội nợ ? T. Vì hễ ai đã làm hư của ta, thì phải thường lại cho ta; bằng chẳng thường, ắt là người ấy còn mắc nợ ta; mà ta lỗi nghĩa cùng Chúa, ấy là ta phá ơn Chúa, thì phải ăn năn tội lập công đền tội, bằng chẳng đền, cũng mắc nợ Chúa như vậy, cho nên gọi tội là nợ. 24. H. Lời thứ sáu: Lại chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, tà ma, thịt mình, thế tục, là ba thù rất dữ, hằng cám dỗ ta nhiều đàng khéo léo; hoặc, dùng phú quí công danh, hoặc dùng bói khoa thuật số, hoặc dối lời lành dữ, hoặc giả kinh giả tượng đơm tế thờ nó, vọng cầu thế phước, mặc nhơn theo thủa ta muốn, nên xin Chúa chớ để nó cám dỗ ta; bằng có để nữa, thì xin Người xuống ơn phù hộ cho ta đặng bền lòng chống trả, kẻo mà lỗi nghĩa cùng Chúa. 25. H. Lời thứ bảy: Bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là xin cho khỏi mọi sự hoạn nạn linh hồn và xác. 26. H. Hoạn nạn linh hồn là đi gì ? T. Là bỏ Chúa nghe theo ma quỉ, mà đi đàng tội lỗi, nên ngày sau phải khốn đời đời. 27. H. Hoạn nạn phần xác là đi gì ? T. Là đói khát, gươm dao, tật nguyền, tai nạn, cùng những sự khác hại phần xác thịt.- Vậy các giáo hữu phải cầu xin cho khỏi bấy nhiêu sự ấy; ít nữa thì xin Chúa xuống ơn thần lực, cho mình chịu cho bằng lòng. 28. H. Amen, nghĩa là làm sao ? T. Là lời cặn kẽ, xin cho đặng bấy nhiêu lời cầu.
1. H. Kinh nào Hội thánh quen dùng mà cầu cùng Đức Bà ? T. Kinh kính mầng. Kính mầng Maria, đầy ơn phước Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà, gồm phước lạ.- Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi, là kẻ có tội, khi nầy và trong giờ lâm tử. Amen. 2. H. Ai đặt kinh Kính mầng ? T. Kinh ấy có ba mối: một là, lời Thiên Thần mừng thưa Đức Bà, khi truyền tin cho Người chịu thai Con Đức Chúa Trời; hai là, lời Bà Thánh Ysave, tiếp thấy Đức Bà, mà ngợi khen Người; ba là, lời Hội thánh cầu cùng Đức Bà, mà xin Người phù hộ. 3. H. Mối thứ nhứt là làm sao ? T. Là kình mầng Maria, đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà. 4. H. Kính mầng, nghĩa là làm sao ? T. Là lời Thiên thần Gabirie lạy mừng Đức Bà, khi truyền tin cho Người chịu thai. 5. H. Maria là đi gì ? T. Là tên Đức Bà. 6. H. Đầy ơn phước, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là Đức Bà đặng ơn Đức Chúa Trời, hơn các đấng Thiên Thần cùng các người Thánh thảy thảy. 7. H. Đức Chúa Trời ở cùng Bà, nghĩa là làm sao ? T. Là loài người ta đều mắc tội tổ tông, có một Đức Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, lại cũng hề mắc tội mình làm, mà hằng đẹp lòng Chúa lên, nên gọi rằng: Chúa Trời ở cùng Bà. 8. H. Mối thứ hai: Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, nghĩa là làm sao ? T. Là lời Bà Thánh Ysave ngợi khen Đức Bà mà rằng: Trong mọi người nữ không có một ai khá vi cùng Đức Bà, vì Đức Chúa Trời đã chọn Người là Mẹ. 9. H. Và Giêsu con lòng Bà, gồm phước lạ, nghĩa là làm sao ? T. Cũng là lời Bà thánh ấy tán tạ không khen Chúa, vì đã giáng sinh trong lòng rất thánh Đức Bà. 10. H. Mối thứ ba: Thánh, nghĩa là là sao ? T. Nghĩa là, Đức Bà đặng vẹn sạch các giống tội lỗi thảy thảy. 11. H. Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội, khi nầy, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là khi ta còn sống ở thế gian, thì ma quỉ, thịt mình, thế tục, không giờ khắc nào mà chẳng cám dỗ ta phạm tội mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên xin Đức Bà cầu cùng Đức Chúa Trời xuống ơn cho ta đặng khỏi mọi đàng tội lỗi. 12. H. Và trong giờ lâm tử, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, bởi khi ta gần chết, thì ma quỉ đã thấy đã hết giờ hại đặng linh hồn ta, cho nên nó càng ra sức cám dỗ ta khi ấy. Vậy xin Đức Mẹ rất khoan nhơn, đã cứu giúp ta khi còn sống, thì khi ấy thì càng hộ vực hơn nữa.
1. H. Kinh nào dạy ta những sự phải tin ? T. Kinh Tin Kính. Tôi tin Kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin Kính Đức Chúa Giêsu Kirixitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh; chịu nạn đời quan Phongxiô Philatồ, chịu đóng đinh trên cây thập Gía, chết và táng xác; xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng: Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế nầy, các Thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen. 2. H. Tin là làm sao ? T. Là bởi ơn Chúa mà chịu lấy mọi lẽ trong đạo làm thật, vì Đức Chúa Trời đã phán những lẽ ấy, và Hội thánh truyền cho ta tin; dầu mắt xem không thấy, cũng chẳng dám hồ nghị, ấy gọi là tin. 3. H. Vì lẽ nào ta phải tin những đều Hội thánh dạy ? T. Vỉ có những phép lạ Đức Chúa Giêsu đã làm mà làm chứng Người là Đấng Đức Chúa Trời đã sai xuống thế; lại cũng vì có một phép la Đức Chúa Trời đã làm mà chứng minh Hội thánh Người là chơn thật và hằng dạy đều chơn chính luôn luôn. 4. H. Kinh Tin Kính là thể nào ? T. Kinh Tin kính là kinh các Thánh tông đồ đã truyền truyền, mà tóm lại mọi sự ta đã tin. 5. H. Trong kinh Tin Kính có mấy điều ? T. Có mười ba điều.
Điều Thứ Nhứt 6. H. Tôi tin kính Đức Chúa Trời nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, tôi tin vững vàng có một Đức Chúa Trời chẳng có lẽ nào mà có nhiều Đức Chúa Trời đâu. 7. H. Vì sao chẳng nói rằng: Tôi tin có Đức Chúa Trời, mà lại nói rằng: Tôi tin kính ? T. Vì tin có một Đức Chúa Trời mà thôi thì chưa đủ cho nên lại phải xưng rằng: Tôi trông cậy, và kính mến Đức Chúa Trời, cùng dưng mình làm tôi Đức Chúa Trời cho đến trọn đời nên mới nói rằng: Tôi tin kính. 8. H. Là Cha, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, một Đức Chúa Trời có ba Ngôi, mà Ngôi thứ Nhứt là Cha. 9. H. Vì sao gọi Ngôi thứ Nhứt là Cha ? T. Vì trước vô cùng Ngôi thứ Nhứt sinh ra Ngôi thứ Hai là Con. 10. H. Phép tắc vô cùng, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, chẳng có sự gì mà Đức Chúa Trời làm chẳng đặng. 11. H. Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần có phép tắc vô cùng bằng Đức Chúa Cha chăng. T. Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần cũng có phép tắc vô cùng bằng Đức Chúa Cha, Vì Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời mà thôi. 12. H. Dựng nên trời đất, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, bởi không mà dựng nên mọi sự cho có.
Điều Thứ Hai
Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kirixitô là Con một
Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi 13. H. Đức Chúa Giêsu nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, Đấng Cứu thế; mà Đức Chúa Cha đã đặt danh cực trọng ấy cho Đức Chúa Con, vì chưng Con Đức Chúa Trời ra đời cho đặng cứu hết mọi người thế gian. 14. H. Kirixitô, nghĩa là làm sao ? T. Kirixitô, nghĩa là, chịu xức dầu, cũng là danh chung về đấng tiên tri, cùng đấng có quờn tế lễ và đấng làm vua nữa. 15. H. Vì sao Kirixitô là danh chung cho ba đấng ấy ? T. Vì chưng trong đạo Đức Chúa Trời quen xức dầu, khi phong chức cho ba đấng ấy. 16. H. Đức Chúa Giêsu chịu xức dầu bao giờ mà gọi Người là Kirixitô ? T. Đức Chúa Giêsu chẳng chịu xức dầu thế gian bởi tay người ta đâu, song le Người chịu xức dầu thiêng liêng, bởi phép Đức Chúa Cha cùng bởi ơn Đức Chúa Thánh Thần, cho linh hồn Người đặng gồm phước lạ hơn các đấng Đức Chúa Trời sinh ra; cho nên Người biết mọi sự, cùng đặng quờn tế lễ và làm vua hằng sống hằng trị đời đời. 17. H. Là Con một Đức Chúa Cha, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, Ngôi thứ Hai bởi Đức Chúa Cha mà sinh ra, va có một tính một phép cùng Đức Chúa Cha. 18. H. Sao rằng: Con một Đức Chúa Cha ? T. Ví có một Ngôi thứ Hai bởi bổn tính Đức Chúa Cha mà hằng sinh ra. 19. H. Sao rằng: Cùng là Chúa chúng tôi ? T. Đức Chúa Giêsu là Chúa chúng tôi, vì Người chẳng những là đã sinh ra ta, mà lại chuộc tội cho ta nữa.
Điều Thứ Ba
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai,
sinh bởi Bà Maria đồng trinh 20. H. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, Đức Chúa Thánh Thần đã lấy máu cực sạch bởi lòng Rất thánh Đức Bà, mà dựng nên một xác, lại bởi không mà dựng nên một linh hồn, thì Ngôi thứ Hai liền hiệp với xác và linh hồn ấy mà nên Người thật như ta. 21. H. Sinh bởi Bà Maria đồng trinh, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, người nữ Rất thánh, tên là Maria, đã chịu thai và sinh đẻ con đoạn, mà hãy còn đồng trinh sạch sẽ cho đến trọn đời.
Điều Thứ Bốn
Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatồ,
chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác. 22. H. Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatồ, chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là Đức Chúa Giêsu chịu trói, chịu giổ, chịu vả, chịu đòn, chịu đội mũ gai, cùng chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, đời quan Philatồ cai xứ Giudêu thay vì hoàng đế Rôma. 23. H. Thánh Giá là đi gì ? T. Thánh Già là hình phạt rất dữ và rất hèn; vậy Đức Chúa Giêsu càng hạ mình xuống mà chịu hình phạt dường ấy vì ta, thì ta càng phải đội ơn kính mến Người hơn nữa. 24. H. Chết, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, linh hồn Người đã lìa ra khỏi xác như mọi người chết vậy; nhưng mà tính Đức Chúa Trời còn ở cùng xác và linh hồn Đức Chúa Giêsu, chẳng lìa ra khỏi đâu. 25. H. Và táng xác, nghĩa là sao ? T. Nghĩa là, Đức Chúa Giêsu chết đoạn, thì môn đệ lãnh lấy xác Người, mà táng trong huyệt đá mới.
Điều Thứ Năm
Xuống ngục tổ tông ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại 26. H. Xuống ngục Tố tông, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, linh hồn Đức Chúa Giêsu lìa ra khỏi xác đoạn, liền xuống nơi linh hồn các Thánh Tổ tông phải giam cầm ở dưới đất, mà đợi trông Đức Chúa Giêsu rước lên Thiên đàng. 27. H. Vì lẽ nào linh hồn các Thánh phải giam cầm, mà đợi trông làm vậy ? T. Vì chưng từ ông Adong phạm tội, thì cửa Thiên đàng đã đóng lại; nếu chẳng có công nghiệp Chúa Cứu Thế, thì chẳng có ai đặng lên Thiên đàng. 28. H. Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, Đức Chúa Giêsu chết đoạn, ngày thứ ba linh hồn và xác Đức Chúa Giêsu lại hiệp cùng nhau mà sống lại, ra khỏi huyệt đá, tốt lành vang hiển sáng láng.
Điều Thứ Sáu
Lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng. 29. H. Lên trời, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, Đức Chúa Giêsu sống lại đoạn: khỏi bốn mươi ngày, thì Người lấy phép riêng mình mà lên trời, trên núi Ôlivêtê, trứơc mặt các Thánh Tông đồ. 30. H. Ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, Đức Chúa Giêsu về tính Đức Chúa Trời, thì cũng quờn một phép cùng Đức Chúa Cha; mà về tính người ta, thì Người sang trọng phép tắc, hơn các đấng và các loài Đức Chúa Trời đã sinh ra.
Điều Thứ Bảy
Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. 31. H. Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, ngày tận thế, Đức Chúa Giêsu ở trên trời sẽ ngự xuống oai nghi sáng láng, mà phán xét chung, chẳng những là kẻ chết đã lâu đời, mà lại phán xét kẻ còn sống trong ngày ấy; vì kẻ ấy cũng sẽ chết, đoạn sống lại tức thì mà chịu phán xét chung.
Điều Thứ Tám
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. 32. H. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần, là Ngôi thứ Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cũng một tính một phép cùng hai Ngôi cực trọng ấy nữa. 33. H. Thần, nghĩa là làm sao ? T. Thần, nghĩa là thiêng liêng. 34. H. Ba Ngôi cũng là một tính thiêng liêng, cùng một đấng rất thánh, sao mà đặt THÁNH THẦN cho Ngôi thứ Ba mà thôi. T. Vì Ngôi thứ Nhứt đã có tên riêng là Cha, và Ngôi thứ Hai đã có tên riêng là Con, cho nên dùng tên chung, là Thánh Thần mà đặt cho Ngôi thứ Ba.
Điều Thứ Chín
Tôi tin có Hội thánh hằng có ở khắp thế gian nầy,
các Thánh thông công. 35. H. Hội, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, các bổn đạo mọi nơi hiệp cùng nhau mà chịu lụy đấng chính quyền thay mặt Đức Chúa Giêsu. 36. H. Các bổn đạo đều hiệp làm một cùng nhau vì làm sao ? T. Các bổn đạo đều hiệp làm một cùng nhau, vì bốn lẽ nầy: một là, các bổn đạo đều tin như nhau; hai là, dùng những phép mầu nhiệm Bí Tích cũng như nhau; ba là, cầu nguyện chung cho nhau; bốn là, đều chịu lụy Đức Giáo Tông, là đấng thay mặt Đức Chúa Giêsu. 37. H. Nếu vậy các bổn đạo mọi nơi về một Hội sao ? T. Phải. 38. H. Vì sao gọi lả Hội Thánh ? T. Gọi lả Hội Thánh, vì ba lẽ nầy: một là, Đấng làm đầu Hội Thánh là Đức Chúa Giêsu, là mạch mọi sự thánh; hai là, vì lời giảng dạy, cùng những phép Hội thánh dùng là sự thánh; ba là, vì kẻ hiệp cùng Hội thánh thì mới đặng nên thánh mà thôi. 39. H. hằng có ở khắp thế nầy, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là ở khắp mọi nơi, hằng có mọi đời. 40. H. Vì sao rằng: Hội thánh ở khắp thế nầy ? T. Vì khắp bốn phương thiên hạ đều có kẻ giữ đạo Đức Chúa Trờ. 41. H. Sao rằng: Hội thánh hằng có mọi đời ? T.Vì chưng chẳng có đời nào, mà chẳng có kẻ thờ phượng Đức Chúa Trời. 42. H. Khi nào Đức thánh Phapha truyền dạy sự gì người có sai lầm chăng ? T. Khi Đức thánh Phapha dùng quyền cả Giáo Tông mà phán định đều gì về đức tin hay là về phong hóa mà buộc cả và Hội thánh phải tin hay là phải giữ, thì khi ấy Người được ơn Chúa giúp, nên chẳng hề sai lầm đặng. 43. H. Các Thánh thông công nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, các Thánh ở trên trời cùng các linh hồn ở Luyện ngục, và các bổn đạo ở dưới đất đều thông công cùng nhau. 44. H. Các bổn đạo ở dưới đật thông công cùng các Thánh ở trên trời là thể nào ? T. Lá các bổn đạo tôn kính cầu xin cùng các Thánh ở trên trời, mà các Thánh bàu chữa cho các bổn đạo trước mặt Đức Chúa Trời. 45. H. Các bổn đạo thông công cùng các linh hồn ở Luyện ngục là thể nào ? T. Là các bổn đạo dưng việc lành phước đức, cầu cho các linh hồn ở Luyện ngục; mà các linh hồn ấy, khi đã đặng lên Thiên đàng rồi, thì cũng bàu chữa cho các giáo hữu nữa. 46. H. Các bổn đạo còn ở thế gian nầy, thông công cùng nhau là thể nào ? T. Là các bổn đạo có lòng kính mến Đức Chúa Trời cùng thương yêu nhau, thì chẳng những lập công cho mình song lại làm ích cho kẻ khác nữa. 47. H. Kẻ mắc tội trọng, có đặng thông công thể ấy chăng ? T. Những kẻ ấy đã mất nghĩa cùng Đức Chúa Trời, thì chẳng đặng thông công thể ấy đâu; song bởi còn thuộc về Hội thánh, thì cậy nhờ việc lành người nhơn đức, cho đặng ăn năn trở lại cùng Đức Chúa Trời.
Điều Thứ Mười
Tôi tin phép tha tội. 48. H. Tôi tin phép tha tội, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, tôi tin trong Hội thánh có nhiều phép Đức Chúa Giêsu đã lập để mà tha tộ cho ta.
Điều Thứ Mười Một
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. 49. H. Tôi tin xác loài người ngày sao sống lại, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là, bao nhiêu người đã chết từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, đều sống lại cùng một xác cũ mình, mà chịu phán xét chung.
Điều Thứ Mười Hai
Tôi tin hằng sống vậy 50. H. Tôi tin hằng sống vậy, nghĩa là làm sao ? T. Nghĩa là loài người ta, khi sống lại đoạn thì linh hồn và xác kẻ lành sẽ lên Thiên đàng hưởng phúc vui vẻ vô cùng; còn linh hồn và xác kẻ dữ, thì sa xuống Hỏa ngục, chịu phạt khốn nạn đời đời kiếp kiếp.
1. H. Ơn Đức Chúa Trời chia làm mấy thứ ? T. Ơn Đức Chúa Trời chia làm hai thứ: một là, ơn giúp; hai là, ơn nghĩa thánh. 2. H. Ơn giúo là đi gì ? T. Ơn giúp là sức thiêng liêng tạm Đức Chúa Trời ban xuống, cho kẻ lành đặng giữ cùng thêm ơn nghĩa thánh, và kẻ có tội đặng ăn năn trở lại. 3. H. Ta có từ chối ơn Chúa đặng chăng ? T. Có nhiều lần ta từ chối ơn Chúa ban xuống mà giúp ta. 4. H. Ơn nghĩa thánh là đi gì ? T. Ơn nghĩa thánh, là ơn bền đỗ trong linh hồn, làm cho ta có nghĩa thiết cùng Chúa và đáng lên nước Thiên đàng. 5. H. Khi nào ta có nghĩa cùng Chúa ? T. Khi ta sạch tội trọng, thì mới đặng nghĩa cùng Chúa. 6. H. Có nghĩa cùng Chúa đặng những ích gì ? T. Đặng năm ích trọng nầy: Một là, đặng Chúa ngự trong linh hồn ta, làm cho linh hồn ta nên giống bổn tính Đức Chúa Trời. Hai là, đặng an lòng an trí, khoái lạc trong linh hồn; Ba là, đặng thêm ơn soi sáng giục lòng ta làm sự lành và lánh sự dữ; Bốn là, mọi việc lành ta làm mới đặng công đáng thưởng đời đời; Năm là, rủi chết thình lình, chưa kịp chịu các phép sau hết, thì cũng trong cậy đặng rỗi linh hồn và đặng xem thấy mặt Đức Chúa Trời, hưởng phước đời đời. 7. H. Khi nào ta mất nghĩa cùng Chúa ? T. Hễ khi ta phạm một tội trọng, tức thì liền mất nghĩa cùng Chúa. 8. H. Mất nghĩa cùng Chúa thì khốn nạn thể nào ? T. Khốn nạn thể nầy: Một là, làm cho Chúa ra khỏi linh hồn ta; Hai là, rối lòng rối trí bị lương tâm rúc rỉa; Ba là, linh hồn ra tối tăm yếu đuối; Bốn là, mất hết mọi công nghiệp đã lập bấy lâu, và việc lành ta làm, đương khi còn mắc tội trọng, thì chẳng đáng thưởng trên Thiên đàng; Năm là, mắc án phạt đời đời: rủi chết khi còn mắc tội trọng làm vậy, thì phải sa Hỏa ngục khốn nạn vô cùng. 9. H. Có mấy đều mới thành tội trọng, làm mất nghĩa Chúa ? T. Phải có ba sự nầy: Một là, phạm đến việc trọng trong luật cấm, hay là luật dạy. Hai là, vừa hiểu biết sự mình đương phạm là tội trọng. Ba là, ý mình thật ưng muốn phạm. 10. H. khi thấy lòng ta tư tưởng việc gì tội, mà ta hằng chống trả, chẳng chịu ưng theo chút nào thì có tội chăng ? T. Chẳng mắc tội, mà lại có công trước mặt Chúa. 11. H. Khi đã muốn, đã nói, đã làm việc gì rồi biết là tội, mới sợ, thì có tội chăng ? T. Chẳng mắc tội: vì hồi muốn, hồi nói, hồi làm, chưa biết là tội. 12. H. Cứ mực nào cho biết việc gì là tội cùng nặng nhẹ chừng nào ? T. Đương khi ta làm hay là bỏ việc gì, mà lòng ta thấy sự ấy là làm tội, thì nó ra tội thật cho ta; lương tâm đoán nặng nhẹ chừng nào, thì nó ra nặng nhẹ cho ta chừng ấy. 13. H. Khi sa cơ phạm tội rồi, phải làm thể nào ? T. Tức thì phải giục lòng ăn năn cách trọn, cùng đọc kinh ăn năn tội, mà xin Chúa thứ tha; đoạn khi nào có thể xưng tội được, thì phải xưng cho sớm. 14. H. Phải làm đều gì cho đặng lánh tội, hầu giữ nghĩa cùng Chúa ? T. Một là, phải hết lòng lo sợ tội trọng, vì nó làm mất lòng Chúa, và hại linh hồn ta, như đã giải trước nầy; nên thà chết, chẳng thà phạm tội. Hai là, phải thật lòng khiêm nhượng, chẳng nên cậy mình, vì bởi sức riêng ta yếu đuối, phải có ơn Chúa, mới thắng đặng ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ba là, phải hết mình tin cậy Chúa cùng Đức Mẹ, là Đấng rất hiền lành, hay thương giúp ta cho khỏi phạm tội. Bốn là, khi bị cám dỗ, phải chống trả tức thì mà kêu xin Chúa cùng Đức Mẹ cứu chữa cho ta kíp. Năm là, siêng việc lành, tập nhơn đức, nhứt là năng xưng tội rước lễ. Sáu là, giữ ngủ quan cho nhặt, cùng sa lánh các dịp hiểm nghèo, hay làm cho ta phạm tội.
1. H. Phép Thêm Sức là đi gì ? T.Là phép Đức Chúa Giêsu đã truyền, cho ta đặng chịu Đức Chúa Thánh Thần, cùng đặng đầy dẫy mọi ơn Người cho mạnh đạo. 2. H. Sao rằng: Cho đặng chịu Đ C Thánh Thần ? T. Vì kẻ chịu phép ấy, thì đặng Đức Chúa Thánh Thần xuống trong lòng, như các thánh Tông đồ xưa. 3. H. Vậy thì khi ta chịu phép Rửa tội, ta chẳng chịu Đức Chúa Thánh Thần sao? T. Thật thì đã đặng, nhưng mà chưa đặng đầy dẫy mọi ơn Người. 4. H. Sao rằng: Đặng đầy dẫy mọi ơn Người. T. Vì kẻ chịu phép ấy nên, thì đặng đầy dẫy bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần. 5. H.Ơn thứ nhứt là sao ? T. Ơn thứ nhứt là sự khôn ngoan, làm cho ta bỏ mọi sự thế gian, mà yêu mến một Đức Chúa Trời, cùng mọi sự đẹp ý Người. 6. Ơn thứ Hai là làm sao ? T. Ơn thứ Hai là sự thông minh sáng láng, làm cho ta đều hiểu thấu lẽ mầu nhiệm đạo thánh Chúa. 7. H. Ơn thứ Ba là làm sao ? T. Ơn thứ Ba là biết lo liệu, chọn sự lành và lánh sự dữ. 8. H. Ơn thứ bốn là làm sao ? T. Ơn thứ Bốn là sức mạnh, chẳng nệ chịu mọi sự khó cho đặng rỗi linh hồn. 9. H. Ơn thứ Năm là làm sao ? T. Ơn thứ Năm là hay suy biết, mà dùng sự đời nầy cho nên kẻo lạc đàng lên Thiên đàng. 10. H. Ơn thứ Sáu là làm sao ? T. Ơn thứ Sáu là sự nhơn đức, làm cho ta hứng vui ái mộ thờ phương Chúa. 11. H. Ơn thứ Bảy là làm sao ? T. Ơn thứ Bảy là sự kính sợ Đức Chúa Trời, làm cho ta lánh mọi sự mất lòng Chúa. 12. H. Sao rằng: Cho mạnh đạo ? T. Vì phép ấy làm cho ta đặng lòng vững vàng mà xưng đạo thánh Chúa ra trước mặt thiên hạ, cho nên thà chịu chết chẳng thà bỏ đạo. 13. H. Kẻ chẳng chịu phép Thêm sức có đặng rỗi linh hồn chăng ? T. Đặng: song kẻ khinh dể, hay làm biếng, chẳng muốn chịu, thì phạm tội, lại mất nhiều ơn trọng bởi phép ấy mà ra. 14. H. Nên chịu phép nầy nhiều lần chăng ? T. Chẳng nên, phải chịu một lần mà thôi, vì phép ấy in một dấu thiêng liêng vào linh hồn chẳng hay mất. 15. H. Ai đặng làm phép Thêm Sức ? T. Thường các đấng Giám mục đặng làm phép ấy mà thôi, bằng có lịnh Đức Giáo Tông ban phép, thì các hàng linh mục cũng làm đặng nữa. 16. Khi làm phép thêm sức, thì Đức Giám mục làm những lễ phép nào ? T. Người làm bốn sự nầy: một là, đọc lời cầu nguyện; hai là, giơ tay lên đầu; ba là, lấy dầu thánh pha thuốc thơm tho, mà xức hình thánh giá trên trán; bốn là, vả mặt kẻ chịu phép ấy. 17. H. Vì ý nào Đức Giám mục đọc lời cầu nguyện ? T. Có ý cầu xin Đức Chúa Thánh Thần xuống ở trong lòng kẻ chịu phép Thêm sức. 18. H. Vì ý nào Người giơ tay trên đầu ? T. Có ý cho ta đặng biết Đức Chúa Thánh Thần thật ngự đến, ở trong lòng kẻ chịu phép ấy. 19. H. Vì ý nào Người lấy dầu Thánh pha thuốc thơm tho, mà sức hình Thánh Giá trên trán ? T. Thứ nhứt, vốn dầu hay làm cho sự cứng ra mền, và hay thấm ra. Vậy dầu ấy chỉ phép Thêm sức, hay làm cho kẻ cứng cỏi ra mền mại dịu dàng, và vui lòng chịu mọi sự khốn khó. Lại dầu hay thấm ra, là chỉ ơn Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy dẫy trong lòng kẻ chịu phép ấy. Thứ hai, thuốc thơm tho là chỉ kẻ chịu phép ấy, thì phải làm mọi gương phước đức cho thơm danh đạo Chúa Thứ ba, sức dầu trên trán nghĩa là kẻ chịu phép ấy chẳng nên hổ ngươi xưng đạo thánh Chúa Kirixitô. Thứ bốn, xức hình Thánh giá cho ta đặng biết: mọi ơn lành đặng bởi phép Thêm sức, thì đều bởi rất Thánh giá cùng sự thương khó Đức Chúa Giêsu mà ra. 20. H. Vì sao Đức Giám mục vả mặt mà rằng: Bình an cho con ? T. Nghĩa là kẻ có đạo hằng phải sẵn lòng mà chịu mọi sự xấu hổ, cùng mọi sự khốn khó vì Chúa Kirixitô, thì mới đặng bình an. 21. H. Ai muốn chiụ phép này cho nên phải làm thế nào ? T. Phải dọn linh hồn và xác. 22. H. Dọn linh hồn là làm sao ? T. Một là, phải thuôc biết những sự chính phải tin trong đạo Thánh, cùng những sự ích bởi phép ấy mà ra; hai là, phải ở nơi thanh vắng, và có lòng tin cậy, kính mến, khiêm nhượng, ứơc trông Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống như các thánh Tông đồ xưa; ba là, phải sạch mọi tội, ít nữa là sạch các tội trọng. 23. H. Ai có mắc tội trọng, mà chịu phép nầy, có phạm tội chăng ? T. Phạm tội rất trọng, vì là phạm sự thánh. 24. H. Vậy thì còn ai mắc tội trọng mà muốn chịu phép này, phải làm thế nào ? T. Phải ăn năn cùng xưng tội nên, hay là ăn năn tội cách trọn. 25. H.Dọn xác là làm sao ? T. Là phải ăn mặc sạch sẽ, nết na tề chỉnh, và tôn kính khiêm nhượng, quì gối trước mặt Đức Giám mục, mà chịu phép ấy. 26. H. Chịu phép Thêm sức đoạn, phải làm thế nào? T. Phải lui ra nơi vắng vẻ trong nha thờ, quì gối mà đợi Đức Giám mục làm cho hườn tất các lễ phép cùng đọc lời cầu nguyện; và đang khi ấy phải làm bốn sự này: một là, phải cám ơn Đức Chúa Trời, vì phước trọng mình mới chịu; hai là, phú dưng mình cho Đức Chúa Thánh Thần, mà xin phù hộ cho đặng theo ý Người mọi đàng, cùng làm những việc lành cho sáng danh Người; ba là, dốc lòng từ này về sau giữ đạo cho trọn chẳng còn sợ người thế gian cười chê nhạo báng, cùng bắt bớ; bốn là, cầu xin cùng Đức Chúa Thánh Thần hằng ngự trị trong lòng ta luôn, cho đặng giữ những ơn trọng ấy cho đến trọn đời. 27. H. Giữ những ơn trọng đã đặng bởi phép Thêm sức, có phải sự cần kíp chăng ? T. Thật sự rất cần kíp vì ba lẽ nầy: một là, vì những ơn ấy là cảu rất trọng vọng châu báo trên hết mọi sự; hai là, khi đã mất những ơn trọng ấy mà muốn cho đặng lại, thì rất khó; ba là, vì cả và đời, ta đặng chịu phép Thêm sức một lần mà thôi. 28. H. vậy thì phải làm thể nào, cho đặng giữ ơn trọng ấy ? T. Phải làm ba sự nầy: thứ nhứt, phải nài xin Đức Chúa Thánh Thần gìn giữ những ơn trọng ấy trong lòng ta; thứ hai, hằng năm đến ngày mình chịu phép Thêm sức, thì phải làm một việc lành phước đức, mà cảm ơn Đức Chúa Trời; thứ ba, phải lành những tội nghịch cùng ơn phép Thêm sức. 29. H. Tội nghịch cùng ơn phép Thêm sức là những tội nào? T. là bốn giống tội nầy: Một là, khi nói đến sự mầu nhiệm trong đạo Thánh Chúa, mà chẳng có lòng cung kính hay là nghe kẻ khác nói thể ấy, mà chẳng ngăn can, hay là hổ người việc lành cho nên bỏ qua, hay là làm chùng lén; ba là, bỏ chính việc bổn phận, vì sợ hoặc có sự gì thiệt hại đến mình chăng; Bốn là, làm cách nọ thế kia, kẻo người ta biết mình có đạo.
1. H. Phép xưng tội có mấy phần? T. Có 5 phần: thứ nhứt, xét mình; thứ hai, ăn năn tội; thứ 3 dốc lòng chừa; thứ 4, cáo mình xưng tội cùng thầy; thứ 5, vưng lời thầy dạy mà đền tội mình cho đủ. 2. H. Xét mình là làm sao? T. Là lo đi xét lại cho tường tận, mọi tội lỗi ta đã phạm, trong điều răn Đức Chúa Trời đã mấy lần. 3. H. Ăn năn tội là làm sao? T. Là lo buồn sợi hãi, trên hết mọi sự lo, vì đã làm mất lòng Chúa. 4. H. Dốc lòng chừa nghĩa là sao? T. Là từ nầy về sao, thà chịu chết, chẳng thà phạm tội nữa. 5. H. Xưng tội là làm sao? T. Là bao nhiêu tội trọng ta đã phạm, thì phải xưng ra cùng thầy cho hết, chẳng nên giấu để một tội trọng nào. 6. H. Đền tội là làm sao? T. Là những sự thầy giải tội dạy, thì phải vưng mà làm cho đủ. 7. H. Có mấy cách đền tội? T. Có ba: một là, đọc kinh lần hột; hai là, ăn chay hãm mình; ba là, thí của cho kẻ khó khăn, phần hồn phần xác. 8. H. Muốn xưng tội cho nên, thì phải làm thể nào? T. trước hết phải kiếm nơi vắng vẻ, mà quì gối lên, đọan lấy dấu Thánh giá trên mình, mà cầu xin Đức Chúa Trời ba Ngôi phù hộ mỡ lòng cho ta đặng xét mình cho nên. 9. H. Có phải cầu cùng Đức bà chăng? T. Phải cầu cùng Đức bà rất khoan nhơn, xin cùng Đức Chúa Trời soi sáng cho ta đặng nhớ lại mọi tội đã phạm mà xưng ra cho nên. 10. H. Phải cầu cùng Thiên Thần giữ mình chăng? T. Phải cầu cùng người luôn, nhứt là khi dọn mình đi xưng tội; vì khi ấy ma quỷ nó làm hết sức cho đặng ngăn đón lòng ta, kẻo xét biết mọi tội lỗi ta đã phạm, cùng tỏ cáo hết cùng thầy, thì đặng sạch tội, hóa nên con Đức Chúa Trời, lại khỏi làm tôi tá nó, mà nó phải hổ ngươi. 11. H. Phải cầu cùng Thánh bổn mạng ta chăng? T. Cũng phải cầu cùng Thánh bổn mạng ta, vì khi người còn ở thế gian đã làm mọi việc lành phước đức; nên nay người ở trên trời, thì xin người cầu nguyện cho ta đặng xét mình mà xưng tội cho nên, hầu theo chơn người cho trọn. 12. H. Khi cầu nguyện làm vậy, thì phải đọc những kinh nào? T. trước hết phải đọc kinh, tin, cậu, kính mến mà cầu cùng Đức Chúa Trời ba Ngôi, xin soi sáng cho ta đặng biết mọi tội lỗi ta. Lại xin Đức bà cầu thay nguyện giúp trứơc mặt Đức Chúa Trời, cho ta xét mình mà xưng tội cho nên; sao dưng kinh đức Thánh Thiên Thần, xin người ngăn cấm ma quỷ, kẻo nó làm rối lòng ta, vì nó là lòai xấu xa dơ dáy, mà ai mê đàng tội lỗi theo ý nó, là đẹp lòng nó. Vậy khi toan trở lại cùng Chúa, mà dứt bỏ mọi đàng tội lỗi, cùng xét tính nết ta quen phạm tội mất lòng Chúa, mà tỏ cùng thầy, thì nó phải chịu thua, nên nó ra sức đón ngăn; khi ấy xin Đức Thánh Thiên Thần bàu chữa cho ta đặng xét mình kỷ càng. 13. H. Khi đã làm bấy nhiêu đoạn, thì phải làm thế nào ? T. Phải xét mình. 14. H. lấy kinh nào mà xét ? T. Trước hết phải lấy kinh mười giái răn Đức Chúa Trời mà xét. 15. H. Phải xét làm sao ? T. Là đọc hết một câu, thì phải nín lặng một giây mà xét coi thử, từ ngày ta đi xưng tội lần sau hết đến rày, đi chốn nào, ở cùng ai, làm nghề nghiệp gì, cùng mê nết xấu nào quen làm cho ta phạm tội, thì phải xét cho cẩn thận. 16. H. Những kẻ lâu năm không xưng tội, phải xét mình thể nào ? T. Bằng phải xét mình đặng từ khi xưng tội lần sau hết đến rày thì phải xét. Bằng chẳng, thì phải xét trong một năm, mình đã ăn ở thể nào, lại đi buôn bán xứ nào, hay là làm ruộng nương, ở chốn quê mùa hay là chợ búa, thì phải xét trong một năm ấy cho thật; mà về các năm khác cũng xét như vậy. 17. H. Ai đi xưng tội mà đã giấu tội, hay là nói không hết lẽ thì là làm sao ? T. Những kẻ ấy phải xét lại, từ khi xưng tội nên lần sau hết đền rày, mà xưng ra hết cho thật, thì khỏi. 18. H. Đã xưng tội cùng đã rước lễ, mà còn xưng lại các tội làm chi, nói ra tội giấu chẳng đủ sao? T. Chẳng đủ; vì đã hay rằng: đã xưng tội cùng đặng rước lễ mặc lòng, song bởi giấu tội cùng chịu phép Thánh Thể chẳng nên, thì càng phạm sự Thánh; nên khi xưng tội, trứơc phải xưng tội phạm sự thánh đã mấy lần, lại phải tỏ ra mọi tội đã xưng bấy nhiêu phen ấy mới nên. 19. H. Xét mình theo mười điều răn có đủ chăng? T. Chẳng đủ; phải xét theo sáu điều răn Hội thánh nữa. 20. H. Vì sao chưa đủ? T. Giả như trong quốc pháp vua chúa phán dạy đều gì, thì thứ dân phải cứ; song cũng phải vưng cứ lời cha mẹ, khi người dạy những đều phải lẽ, mới gọi là kẻ tận trung tận hiếu; bằng kẻ nào vưng lịnh vua chúa, mà bỏ lời cha mẹ, thì phạm tội bất hiếu bất trung.- Vậy Đức Chúa Trời là vua cả trên hết các vua đã ra lề luật, là mười sự răn, thì phải xét ta có giữ trọn cùng Chúa chăng. Mà Hội thánh là mẹ ta muốn cho ta thuận thửa ý Người, mà giữ sáu điều răn cho trọn nữa, nên phải xét đã vưng giữ hay chăng. 21. H. Còn lấy kinh nào mà xét nữa chăng? T. Phải xét theo kinh cải tội bảy mối nữa. 22. H. Xét mình rồi, đoạn phải làm đi gì? T. Phải ăn năn tội. 23. H. Phải ăn năn tội làm sao? T. Trước phải cầu cùng Đức Chúa Thánh Thần, xin soi sáng giục lòng ta ăn năn tội nên; đoạn đọc hai kinh sau nầy:
Kinh ăn năn tội: Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trời đất che chở tôi, cùng muôn vật trong thế gian nầy, mà dưỡng nuôi tôi cho sống. Mà tôi xưa nay đã dùng những vật ấy mà làm nghịch cùng Chúa. Vậy tôi bây giờ có lòng xót xa, cùng đau đớn lắm, vì tôi là vật rất hèn Chúa sanh dưới đất; xưa vốn tôi là không mà Chúa đã sanh ra cho có, cùng cho tôi có trí khôn ngoan, cho đặng suy tưởng công ơn nghĩa Chúa, mà tôi xưa nay những lấy trí tôi mà lo tưởng những sự mất lòng Chúa lắm; con mắt tôi xem những sự chẳng nên; lỗ tai tôi nghe những đều quấy quá; miệng lưỡi tôi nói những lời tục tĩu hoa tình cùng vô nhơn bạc ngãi; chơn tay cùng cả và mình tôi cũng đều làm những việc gian tà vô cùng. Mà Chúa rất nhơn từ, chẳng nỡ chấp tôi, hãy còn duông tôi để sống đến rày; cho đặng trở lại cùng Chúa; thì nay, vì công nghiệp Đức Giêsu đã chịu chết vì tôi, xin Chúa tha tội cho tôi. Amen. Kinh Dốc lòng chừa Lạy Chúa tôi, bây giờ tôi biết thật tỏ tường tội lỗi tôi đã làm mất lòng Chúa lắm, mà lại quả hơn cát biển; mà Chúa rất nhơn từ chẳng chấp tội lỗi tôi, còn chờ tôi trở lại mà tha tội tôi; mà tôi còn bạc ngãi cùng Chúa dường ấy! Kìa con chó là vật rất hèn, mà hễ ai cho nó một chút xương không, nó còn biết ơn còn thương chủ nó; mà tôi xưa nay đã chịu những ơn rất trọng Chúa xuống cho tôi, mà tôi còn bạc ngãi dường ấy! Thật thì chẳng bằng loài vật, vì chẳng đoái đến ơn Chúa sanh thành cùng cứu chuộc tôi, xưa nay tôi đã sấp cật trở lưng cho Chúa mà thôi. – Vậy bây giờ tôi suy lại những công ơn làm lành, Chúa đã làm cho tôi, cùng chịu chết gì tôi thì tôi chẳng dám làm điều gì cho mất lòng Chúa nữa; tôi dốc lòng từ này về sau thà chịu khốn nạn vì Chúa hết lòng cho đến chết mà chẳng thà phạm tội gì nữa, dầu trọng dầu hèn cũng vậy. 24. H. kẻ ăn năn tội cùng dốc lòng chừa ngòai miệng, mà trong lòng lếu láo, có đặng ích gì chăng? T. Làm vậy chẳng những chẳng đặng ích gí mà lại thêm mất lòng Chúa lắm, vì tưởng dễ dối Chúa như người thế gian, là kẻ một xem bề ngoài mà trong lòng biến cải thế nào, thì không biết đặng; song chớ lầm làm chi; dầu ngoài miệng chẳng nói gì, miễn là trong lòng ăn năn thống hối thì Chúa đã tỏ thấu, chẳng lựa than van nan trách bề ngoài, thì Chúa mới hay. 25. H. Xưng tội cùng thầy là làm sao? T. Là tỏ cáo mọi tội lỗi cùng thầy, chớ khá nói quanh, chẳng nên chữa mình rằng: bởi người nọ người kia, làm cho ta mắc phải tội lỗi. – Nếu ai chữa mình tránh trút thể ấy, thì xưng tội cũng mất công, vì ta đi xưng tội chẳng phải đi xưng tội kẻ khác cùng chữa mình đâu. 26. H. Khi dọn vào tòa giải tội, thì phải làm thế nào? T. Phải làm ba sự này: thứ nhứt, lạy bàn thờ, rồi qua bên tòa, lạy cha mà rằng: Lạy cha, con là kẻ có tội, xin cha làm phép lành cho con; đoạn lấy dấu thánh giá trên mình; - thứ hai, cúi đầu xuống mà đọc kinh cáo mình, cho đến lời rằng: lòng động, lòng lo, miệng nói, mình làm, hay là ít nữa đọc lời này rằng: tôi cáo mình cùng Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng, tôi lại cáo mình cùng cha; - Thứ ba, ghé miệng lại bên thầy, mà thưa những điều nầy: Một là, xưng tội đã bao lâu nay; - hai là, khi xưng tội lần sau hết, đã đặng chịu phép giải tội hay chưa; - ba là, việc đền tội đã làm rồi hay chưa. 27. H. Có nên để cho thầy hỏi những điều ấy chăng? T. Bằng chẳng thưa thì thầy phải hỏi; nhưng mà đừng làm nặng lòng thầy mà chi. 28. H. khi thưa ba lời ấy đoạn, phải làm điều gì nữa chăng? T. Vì bằng thầy có hỏi sự gì thì phải thưa; bằng chẳng thì phải xưng tội. 29. H. xưng tội là làm sao? T. Là phải nói cho rõ ràng mọi đều ta đã xét trong mười điều răn Đức Chúa Trời cùng sáu sự răn Hội thánh, và bảy mối tội đầu, thì phải xưng cho hết, chó khá nói quanh, chẳng nên chữa mình, hay là giấu tội, vì ta đi xưng tội, chẳng phải tới cho đặng chữa mình cùng giấu tội đâu. 30. H. Kẻ có ý giấu một tội trọng mà thôi, có phạm tội chăng? T. Chẳng những là phạm tội trọng, vì là phạm sự thánh mà lại các tội xưng phen ấy cũng chẳng khỏi nữa. 31. H. vậy thì phải làm thế nào cho đặng khỏi tội? T. Phải khẩu tâm như nhứt, trong lòng đã xét làm sao thì ngoài miệng phải xưng ngay như vậy. 32. H. xưng các tội đoạn, thì phải thưa thể nào? T. Phải thưa rằng: lạy cha, con cáo mình con về những tội nầy cùng các tội khác, tội quên tội sót phạm trót đời con, xin Chúa thứ tha, vì bằng có đẹp lòng cha, xin cha làm phép giải tội cho con. 33. H. Thưa lời ấy đoạn, phải làm đi gì? T. Phải nghe lời thầy dạy răn an ủi, cùng việc đền tội; lại đặng chịu phép Giải tội và rước lễ hay chăng, thì phải nghe cho rõ. 34. H. khi nghe chẳng rõ phải có nên thưa lại chăng? T. Bằng chẳng thưa lại, cho biết mà vưng cứ, thì thật là xưng tội chẳng nên, vì khinh dể lời thầy dạy dỗ, mà làm khốn cho mình mà nhớ. 35. H. Bằng thầy chưa giải tội phen ấy thì làm sao? T. Phải cam chịu bằng lòng cùng phải biết sau có trở lại cùng một Cha ấy, thì mọi tội đã xưng chẳng phải xưng lại làm chi; song thì phải xưng tội sót, cùng tội mới mà thôi; - Bằng đi xưng cùng cha khác thì phải xưng lại mọi tội đã xưng cùng cha trước; - như cha trước chưa cho rước lễ mà đã cho phép giải tội thì thôi chẳng phải xưng các tội phen trước làm chi. 36. H. Khi làm mọi điều ấy đoạn, thì phải làm đi gì? T. Phải cúi đầu xuống cho khiêm nhường mà đọc kinh ăn năn tội, cho có lòng sốt sắng, rồi thì lạy cha cùng lạy bàn thờ mà ra. 37. H. Khi ra rồi liền phải làm đi gì? T. Phải đọc kinh tạ ơn cùng làm việc đền tội cho kịp. 38. H. đọc kinh tạ ơn làm sao? T. Trước hết phải tạ ơn Đức Chúa Trời vì Chúa còn duông ta xuống đến rày, đặng gặp cha mà xưng tội; cùng xin Chúa giúp sức cho ta, đặng giữ mình sạch sẽ trọn đời, kẻo sa phạm tội vì mất lòng Người nữa; lại phải dưng kinh tạ ơn Đức Mẹ, cùng Đức Thánh ThiênThần và thánh Bổn mạng mình, vì người giữ gìn ta cho đặng xưng tội nên thì xưng Người cầu giúp cho ta đặng noi giữ lời Chúa rao truyền, cùng lời thầy dạy răn an ủi, mà chừa bỏ nết xấu cho đến trọn đời. 39. H.Đền tội là đi gì? T. Là làm những việc thầy giải tội dạy thế nào, hoặc ăn chay, lần hột, đọc kinh bao nhiêu, thì phải giữ bấy nhiêu. 40. H. Thầy dạy việc đền tội ít, có nên theo ý riêng mình, mà đổi việc khác cho nhiều hơn chăng? T. Chẳng nên; phải làm cho đủ việc Người dạy đã, sau muốn làm thêm việc khác, thì cũng nên. 41. H.Việc đền tội mình có nên nói cho kẻ khác hay chăng? T. Nói là vô ích, và sanh sự hổ nghi; dầu nói cho kẻ nọ người kia thì kẻ ấy cũng chẳng đền cho ta phần nào; mà lại trái ý thầy giải tội nữa. 42. H. Còn về sự bồi thường thì làm sao? T. Nếu thầy giải tội buộc mình phải trả của gian, hay là tiếng tốt cho người ta, thì phải trả tức thì.
Năm sự cần kíp* ta phải tin* cho đặng rỗi linh hồn:/ Một là tôi phải tin:/ Có một Đức Chúa trời* mà Người có Ba Ngôi:/ Ngôi thứ nhất là Cha./ Ngôi thứ hai là Con./ Ngôi thứ ba là Thánh Thần./ Ba Ngôi cũng một Chúa./ Ba Ngôi bằng nhau. Hai là tôi phải tin:/ Ngôi thứ hai ra đời làm người,/ có hồn có xác như ta,/ đặt tên là Giêsu./ Người cũng là Đức Chúa Trời thật. Ba là tôi phải tin:/ Đức Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết trên cây Thánh Giá,/ mà chuộc tội cho cả và loài người ta. Bốn là tôi phải tin:/ Linh hồn người ta là tính thiêng liêng,/ là giống hằng sống,/ chẳng hề chết đặng. Năm là tôi phải tin:/ Có Thiên Đàng để thưởng kẻ lành./ Có Hoả Ngục để phạt kẻ dữ đời đời kiếp kiếp. Tôi tin bấy nhiêu sự ấy,/ vì Đức Chúa Trời là Đấng chân thật vô cùng,/ chẳng hề dối ai đặng./ Lại vì Đức Chúa Trời là Đấng sáng láng vô cùng,/ thông biết mọi sự,/ chẳng hề lầm đặng.
Lời cần kíp, để dạy những người muốn vào đạo khi gần chết: 1. Có một Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng dựng nên trời đất, mà người có Ba Ngôi: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ hai là Con, Ngôi thứ ba là Thánh Thần, nên ba Ngôi cũng một Chúa mà thôi. 2. Bởi tội loài người ta, cho nên Ngôi thứ hai ra đời làm người, sinh bởi Đức Nữ đồng trinh Maria, đặt tên là Giêsu. 3. Đức Chúa Giêsu chuộc tội cho thiên hạ, bằng việc chịu nạn chịu chết trên cây Thánh Giá. Ngày thứ ba Người sống lại, rồi ngự về trời. 4. Linh hồn là giống thiêng liêng chẳng hề chết đặng. 5. Có Thiên Đàng là nơi vui vẻ. Chúa dành để thưởng kẻ lành. Có Hoả Ngục, là nơi khổ hình. Chúa dành để phạt kẻ dữ, đời đời. 6. Dạy họ từ bỏ ma quỉ, và giúp họ giục lòng ăn năn thống hối, chê ghét mọi tội lỗi, cùng quyết tâm dốc lòng chừa. - Hãy đọc kinh ăn năn tội thật chậm rãi, để họ cùng đọc theo. - Dạy cho họ biết có bí tích Rửa Tội làm cho ta sạch mọi tội, làm cho ta trở thành con cái Chúa. - Mỗi câu nên lập đi lập lại nhiều lần khi còn giờ. - Khi thấy họ đã có phần hiểu biết và tin nhận, mà vì khẩn cấp, thì ban bí tích rửa tội cho họ: Lấy nước lã (nước thiên nhiên) đổ lên trán họ, vừa đổ vừa nói: "(Gọi tên thánh mình chọn cho họ). (Tôi) rửa (anh), nhân danh Chúa Cha, và Chúa con, và Chúa Thánh Thần".
“Đặt làm một bổn ra đây,
Những ngày kiêng thịt chim này nên ăn,
Ai ơi cũng phải siêng năng,
Học cho thuộc lão kẻo ăn mà lầm.
Đức Cha truyền chỉ mấy năm,
Song người bổn đạo còn lầm chưa thông. Giò đảy, lão nhược, chó đồng,
Khoan ốc, khoan cổ, bòng bòng giang sen.
Bạc má, thằng cọc, cù đèn,
Diệc mốc, diệc lửa, quắm đen, cò ngà.
Cò trâu, cò rán, cò ma,
Cò xanh, điên điển cùng là te te.
Chàng nông, quắm trắng, chàng bè,
Vịt nước, ba kiến, le le, thằng chài.
Gà nước, cúm núm một loài,
So đũa cùng quốc giò dài cả hai.
Vạc cứ ăn đêm hoài hoài,
Mỏ nhác chàng nghịch có tài đuổi nhau.
Học trò, bánh ít, ốc cao,
Chim nhạn, con cót nói sao cho liền.
Choi choi, tu hít theo liên,
Những con kể đó ngày kiêng nên dùng”.