*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và cần kiệm, nên ông trở nên một điền chủ giàu có.
Lúc về già, gần đất xa trời, ông nghĩ tới chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông cũng muốn xem đứa con nào thông minh nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông cho nó.
Ông liền gọi ba đứa con đến giường bệnh, trao cho mỗi đứa 5 đồng bạc và bảo mỗi đứa hãy mua cái gì, có thể lấp đầy căn phòng trơ trọi, mà ông đang ở.
Ba đứa con vâng lời cha cầm tiền ra phố.
- Người anh cả nghĩ rằng, đây chỉ là một công việc dễ dàng. Anh ta ra tới chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về nhà.
- Người con thứ hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn: Sau khi đi rảo quanh chợ một vòng, anh ta quyết định mua những bao lông vịt rất đẹp mắt.
- Còn người con trai thứ ba, suy nghĩ đi, suy nghĩ lại: Làm sao mua được cái gì với năm đồng bạc này, để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha mình.
Sau nhiều giờ đắn đo, bỗng mắt chàng thanh niên hớn hở. Anh ta lại căn tiệm nhỏ, mất hút trong hẽm nhỏ gần chợ. Anh ta một mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp, không biết hai anh mình đã mua được cái gì.
Ngày hôm sau, cả ba người con trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người mang quà tặng của mình cho cha:
- Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn phòng, nhưng phòng quá lớn, rơm chỉ phủ được một góc nền nhà.
- Người con thứ hai mang lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng.
Người cha có vẻ thất vọng.
- Bấy giờ người con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang gì cả. Hai người anh tò mò chăm chú nhìn em, và hỏi:
"Mày không mua cái gì sao?".
Bấy giờ đứa em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến và hộp diêm.
Thoáng một cái, căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười.
Người cha già rất sung sướng, vì quà tặng của đứa con út.
Ông quyết định giao phần lớn ruộng đất và gia sản của mình cho người con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông minh, để quản trị gia sản của mình. Và nhờ đó, cũng có thể giúp đỡ các anh của nó sau này nữa.
*****
Ðứng trước khó khăn thử thách, để kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp tác, người ta thường nói với nhau:
Thà đốt lên một ngọn nến,
hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng đêm.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta, có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối...
Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
- Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười.
- Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi.
- Một chút ánh sáng của một san sẻ.
- Một chút ánh sáng của tha thứ.
- Và một chút ánh sáng của niềm tin, được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống...
Một chút ánh sáng ấy, cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người, mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi, mà không ảnh hưởng đến người khác...
Một giáo xứ miền quê nọ, đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có được một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi.
Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng...
*****
Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của các chức sắc trong giáo xứ: Kẻ góp tiền, người cho vật dụng...
Thế nhưng, vấn đề cơ bản vẫn là: Đâu là địa điểm xứng hợp nhất, để xây cất nhà thờ.
Người trong làng này, thì muốn ngôi nhà thờ tọa lạc trong làng của mình.
Người bên làng kia, thì lại muốn ngôi nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở.
Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào.
Tiền đã có sẵn, vật dụng cũng đã đầy đủ, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên bên làng nào.
*****
Giữa lúc vấn đề địa điểm chưa ngã ngũ, thì một vấn đề lớn lại xảy ra: Một nạn hạn hán trầm trọng đe dọa dân chúng trong cả hai làng.
Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán, hơn là xây cất nhà thờ.
Nhưng sức người có hạn, việc dẫn thủy nhập điền không đạt được chỉ tiêu. Năm đó, toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát.
Sống bên cạnh nhau, cho nên mặc dù ngăn cách về hành chính, dân hai làng vẫn coi nhau như bà con ruột thịt...
Có hai gia đình nông dân nọ rất mực thương nhau và tương trợ nhau. Một người bên làng này luôn nghĩ đến cảnh đói khổ, mà người bạn bên làng kia đang phải chịu.
Thế là một đêm nọ, anh đã phân chia phần lúa thóc thu hoạch được trong vụ mùa vừa qua và lặng lẽ vác lên vai để mang qua cứu trợ người bạn của làng bên cạnh...
Trong khi đó thì người bạn làng bên cạnh cũng có một ý nghĩ tương tự. Anh cũng hành động y như người bạn của mình. Cũng chính đêm hôm đó, anh đã sớt bớt phần lúa của mình để mang qua biếu người bạn ở làng kế bên...
Giữa đêm tối, không hẹn hò, hai người bạn đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động.
Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, hai người đã hiểu nhau: Họ bỏ bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau...
Ðiểm gặp gỡ của tình bạn, của tình tương thân tương ái, của tình liên đới, của chia sẻ ấy, đã được giáo dân của hai ngôi làng gọi là Đất Thánh và không cần phải mất nhiều thủ tục để giải quyết, họ đã đồng thanh chọn địa điểm ấy làm nơi xây cất nhà thờ.
*****
Nhà thờ là nơi hẹn hò:
Hẹn hò với Thiên Chúa. Hẹn hò với con người.
Không ai đến nhà thờ, mà không tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, và sự an ủi, đỡ nâng, từ những người anh em của mình...
Do đó, - nhà thờ phải là điểm đến của mọi nẻo đường,
- nhà thờ phải là nơi hội tụ của mọi xây dựng,
- nhà thờ phải là giải đáp của mọi tranh luận...
Người ta không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ, mà lại làm ngơ trước những người đang giãy chết bên cạnh.
Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ, trong khi bên lề đường có bao nhiêu kẻ lê lết trong đói khổ...
Phải chăng, nhà thờ chỉ có thể xây dựng ngay chính trên đất Thánh của chia sẻ, của san sớt, của tình liên đới mà thôi?
Phải chăng, việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa, khi nó là điểm đến, là biểu trưng của chính những viên gạch bác ái, mà người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày?
"Ông Giuse, bạn bà là kẻ công chính và không muốn làm ố danh bà, nên đã định bỏ bà cách kín đáo" (Matthêu 1,19).
Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của vị thánh, mà Giáo Hội mừng kính hôm nay:
Thánh Giuse, bạn Ðức Trinh Nữ Maria, bổn mạng Giáo Hội Việt Nam (Lễ 19/3).
Ðược Tân Ước gọi là "công chính", thánh Giuse không những là người đã giữ đức công bình và trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng và một người cha.
Ðược gọi là "công chính", theo ý nghĩa của Kinh Thánh, là được Thiên Chúa công chính hóa, được Thiên Chúa cho tham dự vào sự công chính, sự thánh thiện của Người.
Vì thế, người được công chính hóa xứng đáng để Thiên Chúa yêu thương, thương yêu thật sự, vì Thiên Chúa không bao giờ đóng kịch, giả vờ như người nào đó đáng được thương yêu, nhưng trong thực tế không phải thế.
*****
Trong chiều hướng tư tưởng này, gọi thánh Giuse là kẻ công chính, Kinh Thánh muốn nói là: Ngài được Thiên Chúa công chính hóa và được Thiên Chúa yêu thương vì thật sự Ngài xứng đáng. Lần mở lại những trang Tân Ước có liên quan đến thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay những đặc tính làm cho Ngài xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.
Trước tiên, Ngài hoàn toàn vâng phục Thánh ý Chúa.
Trong cuộc đời thánh Giuse, Tân Ước diễn tả Thiên Thần là người thông báo cho Ngài biết ý Chúa. Vì thế, nghe lời Thiên Thần truyền, thánh Giuse đã bỏ ý định ly dị Ðức Maria cách kín đáo. Ngược lại, Giuse đã trỗi dậy ngay trong đêm khuya, để đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, cũng như đem Con Trẻ và Mẹ Người về nước Israel, đến sinh sống tại thành Nagiaréth. Và âm thầm nhưng ân cần lấy sức lao động nuôi sống gia đình, trải qua những tháng năm dài sau đó.
Tiếp đến, Tân Ước nhắc đến thánh Giuse trong biến cố thất lạc và tìm gặp Ðức Giêsu trong đền thánh.
Qua đó, chúng ta khám phá ra một đặc tính khác của Ngài. Hay nói đúng hơn một đặc tính mà các thánh ký viết Phúc Âm chú ý nhấn mạnh nơi thánh Giuse:
Không một lời nói nào của Ngài được ghi lại trong Tân Ước.
Nhưng thánh Giuse đã hùng hồn nói trong hành động, những hành động xem ra vô lý và đầy nguy hiểm, nhưng Ngài đã khiêm tốn, can đảm và kiên trì làm, để thực hiện hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa.
Qua đó, thánh Giuse xứng đáng là chủ gia đình của Nagiaréth, một gia đình thánh thiện, vì gồm ba tâm hồn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành những gì Thiên Chúa muốn.
Và cũng qua đó, thánh Giuse trở nên công chính, được Thiên Chúa thực sự yêu thương.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa đã trao tặng Thánh Giuse cho gia đình Nagiaréth và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam. Nhờ lời cầu bàu cho Thánh cả Giuse, xin Chúa chúc lành cho những người chồng, cho những người cha, giúp họ can đảm và kiên tâm chu toàn bổn phận trong gia đình.
Xin Chúa cũng chúc lành cho mọi gia đình và Giáo Hội Việt Nam, giúp mọi người sống xứng đáng với ơn gọi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa.
Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và cũng có lẽ là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề là: "Ánh sáng đô thị". Ðó là câu chuyện tình của một gã lang thang và một cô gái bán hoa.
Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỷ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng.
Ngày kia, gã lang thang là Charlot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Cô gái bán hoa tưởng chàng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã chớm nở và nối kết hai tâm hồn.
Nàng tưởng mình gặp được người mình mơ mộng từ lâu nay.
Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa của nàng.
Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát giam giữ.
Sau một thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn.
Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Người con gái cười như nhạo báng.
Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao?...".
Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc. Nàng từ từ nhặt cánh hoa và gắn lên áo chàng.
Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy sao?".
Thế là cả hai đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa...
*****
Cuộc gặp gỡ trong bất cứ một cuộc tình nào, cũng là hình bóng của cuộc gặp gỡ trong đức tin, giữa chúng ta và Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta là những con người có tự do.
Do đó, Thiên Chúa không nói với chúng ta bằng một ngôn ngữ nào khác, hơn là tình yêu.
Tình yêu không bao giờ là một cưỡng bách, nhưng là một mời gọi tự do.
Những người Do Thái thời Chúa Giêsu đòi hỏi những dấu lạ, những bằng chứng hiển nhiên về sứ mệnh của Ngài. "Ông hãy làm cho chúng tôi một dấu lạ".
Ngày nay thì trái lại, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, con người dường như không còn tin ở phép lạ nữa. Tưởng mình có thể chế ngự và làm chủ vũ trụ, con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta có thể ngạc nhiên:
- Tại sao Thiên Chúa không làm phép lạ nhãn tiền cho những người biệt phái hay cho những kẻ vô thần ngày nay.
- Tại sao Ngài không viết tên Ngài trên trời để xóa tan mọi nghi ngờ trong lòng người?
Thiên Chúa có lối sư phạm của Ngài:
- Ngài đã không là Thiên Chúa của những điềm lạ cả thể, nhưng là một Thiên Chúa đã chọn lựa làm tôi tớ, để chinh phục tình yêu và lòng tín nhiệm của con người.
- Thiên Chúa không những là một Thiên Chúa của quyền năng ở bên trên con người, nhưng còn là Thiên Chúa ở bên trong con người.
- Và, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là dấu lạ cả thể nhất, bởi vì đó là dấu chứng của tình yêu...
Chúa Giêsu đã nói đến dấu chứng đó, khi dùng hình ảnh của tiên tri Giona.
Giona được Thiên Chúa sai đến cho dân thành Ninivê (Giôna 3,1-10). Ông tưởng Chúa sẽ dùng ông để làm một dấu lạ cả thể, khiến dân thành sẽ tin vào sứ mệnh của ông.
Nhưng cuối cùng, qua con người của ông, Thiên Chúa chỉ kêu mời sự hoán cải và tình yêu.
Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta qua những sinh hoạt và những biến cố tầm thường nhất trong cuộc sống. Ngài mời gọi chúng ta nhận ra Ngài trong cái ăn, cái uống, cái mặc, trong tiếng cười, tiếng khóc, trong tất cả mọi gặp gỡ của chúng ta với tha nhân. Và ngay cả trong cái chết, mà con người cho là điểm cuối cùng của cuộc sống, Thiên Chúa cũng có mặt.
Nhận ra Ngài, như cô gái bán hoa đã nhận ra giọng nói của chàng Charlot, đó là ơn gọi của người Kitô chúng ta.
Một đức tin trưởng thành không đòi hỏi và thử thách Thiên Chúa, nhưng tín thác và nhận ra dấu chỉ của Ngài, qua những cái tầm thường nhất của cuộc sống.
Trong cuốn truyện thuộc loại tự thuật, một người cha ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây:
Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo:
"Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có mấy ngôi sao".
Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm, dễ mến của con tôi bắt đầu đếm: 1, 2, 3, 4... rồi tôi chú tâm vào việc đọc báo, không còn để ý đến những tiếng đếm của nó nữa. Ðến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng đứa con gái tôi vẫn tiếp tục đếm: 223, 224.
Ðếm đến đây nó ngừng lại quay sang tôi bảo:
"Bố ơi, con không dè trên trời có nhiều sao đến thế".
Nghe con bình luận như trên, tôi chợt nhớ: Thỉnh thoảng tôi cũng thầm nói với Chúa:
"Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa ban".
Và càng đếm, hình như trái tim tôi càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu nhưng vì bị nhiều hồng ân đè nặng.
Và tôi cũng thường bật lên lời bình luận như đứa con gái của tôi:
"Lạy Chúa, con không dè đời con có nhiều ơn Chúa đến thế!"
*****
Một trang nhật ký kia cũng mang một nội dung tương tự như những tư tưởng trên:
Nếu có ai đưa tôi một đĩa đầy cát và bảo tôi tìm những mảnh sắt bé nhỏ nằm lẫn lộn trên cát, thì với đôi mắt và những ngón tay, tôi khó có lòng tìm ra được những mảnh sắt ấy. Nhưng với một thỏi nam châm tôi, có thể dễ dàng và mau lẹ hút ra những vụn sắt nhỏ li ti trộn lẫn trong cát.
Một trái tim vô ơn có thể so sánh với đôi mắt trần và những ngón tay vụng về của tôi mò mẫm trên đống cát, không tìm ra những ơn lành Thiên Chúa ban.
Nhưng với một trái tim biết ơn, có thể so sánh với một thỏi nam châm, tôi có thể lướt nhanh qua mỗi giây phút của một ngày sống và khám phá ra nhiều hồng ân của Thiên Chúa, với một sự khác biệt là những mảnh sắt nhỏ trong đống cát của Thiên Chúa là những vật quý giá hơn vàng.
Nhiều người sống hời hợt, nên thấy cuộc đời cũng như những biến cố xảy ra hằng ngày và những cảnh vật chung quanh mang toàn đen tối và vô giá trị như đất cát.
Nhưng với những người sống có chiều sâu, các biến cố, những vật chung quanh, dầu tầm thường nhỏ bé đến đâu, cũng là dịp để họ suy niệm và dâng lời cảm tạ:
Một nụ hoa hồng chớm nở, những tia nắng trinh nguyên của một buổi sáng đẹp trời, một cái bắt tay thông cảm, một cử chỉ tha thứ, một sự giúp đỡ nho nhỏ....
Một ngày kia, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau là sẽ không bao giờ nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Trái tim phát biểu:
"Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm cho ta trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này trái tim phải trở nên cứng rắn, cương quyết, chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được".
Bộ óc biểu đồng tình:
"Vâng, đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao siêu, những công thức tuyệt diệu, những chương trình vĩ đại, mới đáng cho bộ óc suy nghĩ tới. Những lời đơn sơ nhỏ bé, chỉ làm mất thời giờ, mà thời giờ là vàng bạc".
Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy mình trở nên rất quan trọng, mặc dù lưỡi chỉ là bộ phận bé nhỏ của thân thể, vì thế lưỡi cũng hội ý:
"Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì, tôi sẽ chỉ nói những danh từ chuyên môn, những câu nói văn hoa bóng bẩy, những bài diễn văn sâu sắc, hùng hồn".
Như đã đồng ý, kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi lên lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ sản xuất và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi sẽ không còn nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Với thời gian, mặt đất trở nên tẻ lạnh như cảnh vật vào mùa đông:
Không có lấy một chiếc lá xanh, không còn một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên chai đá như những thửa ruộng khô cằn, nứt nẻ, trong những tháng hè nóng bức.
Nhưng những ông già, bà cả vẫn còn nhớ những lời đơn sơ nhỏ bé. Ðôi lúc miệng họ vô tình bật phát nói ra chúng. Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng kìa, thay vì cười chê, những lời nói đơn sơ nhỏ bé lại được truyền từ miệng này sang miệng khác, từ bộ óc này đến bộ óc khác, từ trái tim này qua trái tim nọ. Cuối cùng, chúng xuất phát như những chiếc hoa phá tan lớp tuyết giá lạnh, để ngoi lên làm đẹp cuộc đời.
Câu chuyện trên không tiết lộ những lời đơn sơ nhỏ bé là gì, nhưng chúng ta có thể đoán: Đó có thể là hai chữ: "Xin lỗi!", thốt lên để xin nhau sự tha thứ.
Hay đó là lời chào vắn gọn: "Mạnh giỏi không?" đồng nghĩa với câu hỏi: "Tôi có thể làm gì được cho anh cho chị không?".
Nhất là hai tiếng : "Cám ơn!" thốt lên chân thành từ cửa miệng của những kẻ được giúp đỡ, của những con người mang công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, hay của những vợ chồng trung tín chia sẻ với nhau những ngọt bùi, đắng cay của cuộc sống, hoặc của những người được bạn bè đỡ nâng, sau những thất bại ê chề, hay sau những lần vấp ngã.
Vào năm 1856, các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino tại thành phố Roma.
Khi đào bới những lớp đất bao phủ một trại lính Roma cổ, trên vách một bức tường, họ tìm thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào tường. Bên cạnh là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính cây thập giá. Trên cây thập giá có vẽ hình một người, nhưng đầu người ấy là hình một con lừa. Dưới hai hình vẽ, người ta thấy có viết hàng chữ: Alexamenos thờ lạy Chúa của hắn.
Các nhà khảo cổ cho rằng: Có thể bức tranh đã được thực hiện vào những năm 123 đến năm 126. Nếu sự phỏng đoán về niên hiệu này là đúng thì đây có lẽ là hình vẽ thập giá cổ nhất, nhưng lại là hình thập giá bị nhạo báng, chê cười: Nếu Thiên Chúa lại chết trên thập giá thì đây là hành động yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng thế.
Vào năm 1870, các nhà khảo cổ lại tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin Kitô tên là Alexamenos.
Ở một cột trụ bằng đá dựng hình thần Mars, tức là vị thần chiến tranh, người ta khám phá thấy được khắc vào đó dòng chữ: "Alexamenos vẫn vững tin".
*****
Vâng, hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên thập giá là một hình ảnh khủng khiếp, yếu đuối, dại khờ.
Nhưng Thánh Phaolô đã biện hộ cho hành động có thể gọi được là điên rồ của Thiên Chúa như sau:
"Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư hỏng là điên dại, còn đối với các người được cứu rỗi, tức là chúng ta, thì là sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, người Do Thái đòi hỏi phép lạ, người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi thì giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Người Do Thái cho điều đó là xấu xa, còn các người ngoại giáo thì cho là dại dột. Song với tất cả những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thì Chúa Kitô chịu đóng đinh, là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa" (1 Corintô 1,24).
Một người hà tiện, bủn xỉn kia có thói quen giữ tất cả vàng bạc và những vật quý giá trong một chiếc hầm bí mật, tự tay ông ta lén lút xây cất dưới nền nhà.
Một ngày kia, như thường lệ, ông ta lẻn xuống hầm để ngắm những vật quý, nâng niu những thỏi vàng và những dây chuyền, những cà rá nạm kim cương, hột xoàn to bằng những hạt đậu. Rủi thay, vì vô ý gài cửa không kỹ, nên bộ phận bí mật vụt bật lên đóng sầm chiếc cửa cực kì kiên cố lại, chắn lối ra duy nhất.
Dĩ nhiên không ai trong nhà biết về chiếc hầm bí mật. Vì thế, mọi người đã bỏ cuộc sau khi lục lạo tìm kiếm ông ta mọi nơi trong nhà cũng như mọi gốc cây, bụi kiểng ngoài vườn.
Sau một thời gian dài chờ đợi nhưng không nghe thấy tăm hơi của ông ta ở đâu, người ta quyết định bán căn nhà.
Người chủ nhà mới có ý định sửa chữa lại một vài căn phòng của ngôi nhà và trong khi các người thợ nề đập một bức tường, người ta khám phá ra cánh cửa bí mật ăn thông xuống chiếc hầm. Khi những ngọn nến được thắp lên, người ta không khỏi sợ hãi thấy bộ xương của một người đang ngồi bên cạnh một chiếc bàn con với một số vàng bạc, kim cương bị quăng tung tóe xung quanh. Có dấu hiệu cho thấy là thậm chí người chết đã phải ăn một cây nến trước khi bị chết đói.
*****
"Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion, khốn cho các ngươi là những người tự cho mình là an toàn trên núi Samaria" (A-mốt 6,1).
Lời chúc dữ những người giàu có bất nhân và kiêu căng trên của tiên tri Amos cũng như những lời Chúa Giêsu chúc dữ những kẻ giàu trong Tin Mừng, không phải là những lời lên án tiền bạc và của cải cách chung.
Nhưng đây là những lời nêu lên sự nguy hiểm của quan niệm kiêu hãnh, của tính tự cao, tự đại và nhất là thái độ và nếp sống ích kỷ, dửng dưng, không để ý đến những người nghèo khổ đang sống bên cạnh. Ðây là thái độ và nếp sống thường thấy nơi những người giàu có.
*****
Mahatma Gandhi, người đã đưa dân tộc Ấn Ðộ đến nền độc lập khỏi ách thống trị của Anh quốc, đã tuyên bố một tư tưởng cách mạng có thể đổi mới xã hội:
"Trong hoàn cảnh đói khổ của những người đồng bào, đồng chủng, nếu ta giữ một vật gì, mà ta không cần dùng đến ngay bây giờ, thì đó là những của chúng ta ăn cắp".
Sống trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, tinh thần liên đới và sự sẵn sàng chia sẻ cơm ăn, áo mặc, cho những người cần đến, là những ngọn đuốc sáng, là những đức tính giúp người Kitô chúng ta đóng trọn vai trò men trong bột ở giữa xã hội chúng ta đang sống.
Lạy Chúa, xin cho chúng con là những người con Chúa, hiểu biết và cố gắng sống tinh thần bác ái yêu thương, biết cảm thông san sẻ những hoàn cảnh ít may mắn của những người sống chung quanh chúng con, như Chúa đã dạy. Amen.
Ðời chiến quốc, Phùng Huyên làm thực khách cho Mạnh Thường Quân, là tướng quốc nước Tề.
Một hôm Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất Tiết, để thu các mối nợ.
Trước khi ra đi, Phùng Huyên hỏi: "Thu xong nợ rồi có cần mua thêm vật gì không?".
Mạnh Thường Quân bảo: "Xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về".
Phùng Huyên đến đất Tiết cho người mời tất cả những con nợ của chủ đến đông đủ, rồi truyền rằng: Mạnh Thường Quân ra lệnh xóa bỏ tất cả số nợ.
Và để cho mọi người tin tưởng, Phùng Huyên đem đốt hết những văn khế. Những người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết rất vui mừng, tung hô vạn tuế.
Khi họ Phùng trở về, Mạnh tướng quân lấy làm lạ cho là đòi nợ gì mau chóng thế, mới hỏi: Thu nợ xong chưa, và được trả lời là thu xong cả rồi.
Ðến khi được hỏi về việc mua đồ vật mang về, Phùng Huyên thưa:
Khi đi, tướng quân dặn bảo mua những vật gì trong nhà còn thiếu. Tôi trộm nghĩ: trong cung, tướng công chất chứa đầy những đồ, toàn trân châu, bảo ngọc. Còn ngoài chuồng nuôi đầy chó ngựa.
Vậy, vật tướng công còn thiếu là điều nghĩa đâu, nên tôi trộm lệnh, mua “điều nghĩa” đem về.
Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi:
"Mua điều nghĩa thế nào?".
Họ Phùng đáp:
"Tôi trộm lệnh: Tha nợ cho tất cả các con nợ, nhân đó, thiêu hủy các văn khế, và được dân chúng vui mừng, tung hô. Thế là tướng công đã mua được điều nghĩa vậy".
*****
Một năm sau, vua Tề không dùng Mạnh làm tướng quốc nữa, nên ông phải lui về đất Tiết ở.
Bấy giờ bá tánh đất Tiết, trai gái, bé già, tranh nhau ra đón rước giữa đường, hoan hô nhiệt liệt.
Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay lại Phùng Huyên mà bảo:
"Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy".
*****
"Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con về chốn an nghỉ đời đời" (Luca 16,9).
Lời khuyên trên của Chúa Giêsu có giá trị hơn việc mua điều nghĩa do ông Phùng Huyên bày ra, để dân chúng đất Tiết hoan hô đón rước Mạnh Thường Quân, khi ông bị thất thế.
Bởi lẽ, lời khuyên của Chúa Giêsu đề cập về thời gian tối hậu của cuộc sống đời sau, khi con người phải nhắm mắt xuôi tay.
Như khi đã đến trần gian trần truồng từ lòng mẹ mang tiếng khóc ban đầu mà vào đời, thì lúc chết, con người cũng phải từ giã cuộc sống mà ra đi với đôi bàn tay trắng.
Ở đoạn 25,31-46của Phúc Âm Thánh Matthêô (về ngày phán xét), Chúa Giêsu nêu rõ: Lúc đó, những bạn hữu sẽ tiếp đón chúng ta vào cuộc sống trường sinh là những ai? Ðó là:
- Những người đói khát, mà chúng ta đã cho ăn uống. - Những kẻ rách rưới, mà chúng ta đã cho quần áo che thân. - Những người đau ốm, mà chúng ta đã đến viếng thăm giúp đỡ. - Những kẻ bị giam cầm, mà chúng ta đã can đảm đến ủy lạo, ủi an. - Những người sa cơ lỡ bước, mà chúng ta đã cho tạm trú.
Một nữ văn sĩ kia thuật lại một kinh nghiệm như sau:
Mỗi khi tôi bị thất vọng với những gì xảy ra trong cuộc sống, tôi thường để tâm hồn lắng dịu và hồi tưởng về em bé mang tên Jamie Scott.
Jamie mơ ước được đóng một vai trong vở kịch được tổ chức hằng năm tại trường.
Ðêm trình diễn vở kịch này là một trong những biến cố quan trọng nhất trong các sinh hoạt của học đường.
Mẹ em Jamie cho tôi biết là em để hết tâm hồn vào vở kịch sắp được trình diễn, mặc dầu bà sợ là Jamie sẽ không được chọn để đóng một vai trò nào.
Vào ngày ủy ban phụ trách đêm văn nghệ cho biết quyết định của họ về việc chọn các diễn viên, tôi theo mẹ Jamie đến trường đón em.
Từ xa, chúng tôi đã thấy Jamie chạy nhanh về phía chúng tôi, với tất cả niềm vui và phấn khởi được diễn tả qua gương mặt và nhất là qua đôi mắt chiếu sáng lên vẻ tự hào.
Sau khi đã lấy lại bình tĩnh, Jamie đã nói những điều sau đây, mà tôi luôn giữ trong ký ức, để làm bài học cho mình:
"Mẹ ơi, trong đêm văn nghệ, con được chọn, để vỗ tay tán thưởng và reo hò khuyến khích".
Câu chuyện của nữ văn sĩ chấm dứt nửa vời, không một lời giải thích tại sao câu nói của em bé, đáng làm bài học cho mình.
Nhưng một cách nào đó, câu chuyện trên đây cũng hội tụ vào cùng một ý nghĩa với kinh nghiệm được Ðức Gioan 23 thuật lại như sau:
Lúc tôi mới được bầu làm Giáo Hoàng, để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng, sợ hãi, trước một trách vụ quá nặng nề.
Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe có một tiếng bảo tôi:
"Gioan, đừng tự xem mình là quá quan trọng". Tôi đã đem áp dụng câu nói này, và từ dạo ấy, tôi ăn ngon, ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo Hoàng.
*****
- "Mẹ ơi, trong đêm văn nghệ, con được chọn vỗ tay tán thưởng và reo hò khuyến khích".
- "Gioan, đừng tự xem mình quá quan trọng".
Có lẽ hai câu nói và hai kinh nghiệm trên, giúp chúng ta phần nào trong việc sống Lời Chúa Giêsu:
"Ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên" (Matthêu 23,12).
Khiêm nhượng, là một đức tính được Thiên Chúa yêu mến.
Khác với tính tự cao, tự đại, có thể so sánh với những ngọn đồi, đức khiêm nhượng giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp, để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, không thể dừng lại ở những ngọn đồi, nhưng chảy xuống và đọng lại ở những trủng thấp dưới chân đồi.
Ngày kia, tại miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong cùi, bị dân chúng sinh sống trong một làng nhỏ, dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé lên tay, để bảo vệ em khỏi những trận đòn và khỏi bị những viên gạch, những hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!".
Với những dòng nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng, chứ không phải là những giọt lệ sầu đau.
Em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
"Tại sao ông lại lo lắng cho con?".
Nhà truyền giáo đáp lại:
"Vì Ông Trời đã tạo dựng cả hai chúng ta. Và cũng vì thế, con sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ trở nên người anh của con".
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
"Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của ông?".
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
"Con hãy trao tặng lại cho những kẻ khác tình yêu này, càng nhiều càng tốt".
Kể từ ngày ấy, cho đến 3 năm sau, khi em bé tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của các bệnh nhân khác, đút cơm cho họ và nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ lên tròn 11 tuổi và các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau:
"Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời".
*****
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh chị em như chính mình" (Matthêu 22,37).
Chúng ta cố gắng áp dụng luật trên, với niềm xác tín rằng: với những cử chỉ yêu thương nho nhỏ, với sự trao nhau một nụ cười, một lời thông cảm, một sự tha thứ, với những hành động chia cơm sẻ áo, dù chỉ là một ly nước lã, với các lần thăm viếng các bệnh nhân: nấu cho họ tô canh, chén cháo, quét nhà, giặt giũ quần áo cho họ v.v... là chúng ta mang một chút thực tại Nước Trời đến trong xã hội trần thế.
Một đêm kia, ông Paganini, một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng vào thế kỷ 19 bước ra sân khấu và chỉ khám phá nhạc khí ông đang cầm trên tay, có cái gì bất bình thường sau khi những tràng pháo tay của khán giả ngưỡng mộ ông nổi lên vang dậy và chấm dứt.
Nhìn kỹ lại chiếc đàn lần thứ hai, nhạc sĩ Paganini mới nhận thấy đây không phải là cây vĩ cầm tuyệt hảo quen thuộc đã đưa ông lên đài danh vọng.
Ông đứng bất động trong giây phút, rồi bắt buộc phải lên tiếng xin lỗi khán giả đang nóng lòng chờ đợi nghe những điệu nhạc tuyệt diệu của ông.
Paganini giải thích:
"Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây phút, vì tôi đã lấy lộn cây đàn".
Cáo lỗi xong, Paganini lách mình sau bức màn sân khấu và yên trí là cây đàn bất hủ của mình vẫn nằm nơi ông đã đặt nó.
Nhưng ông không khỏi bàng hoàng khi nhận ra là có người đã đánh cắp nhạc khí quý giá của ông khỏi thùng đàn và đã đặt một cây đàn rẻ tiền khác thay thế vào.
Nhạc sĩ Paganini đứng yên như bức tượng một hồi lâu, rồi như một ý nghĩ gì lóe lên trong trí óc, ông cương quyết cầm cây đàn tầm thường bị đánh tráo trở lại sân khấu và lớn tiếng tuyên bố:
"Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này, tôi muốn chứng minh cùng quý vị là: vẻ đẹp và cái tinh túy của nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng nằm trong tâm hồn của nhạc sĩ".
Nói xong, nhạc sĩ tài ba bắt đầu dạo nhạc. Và từ cây vĩ đàn tầm thường, ông đã say sưa trình diễn những khúc nhạc tuyệt vời, tưởng chừng như bất tận, cho đến khi khán giả say mê ngây ngất, đã đứng dậy vỗ tay tán thưởng vang dậy, vì ông Paganini đã thật sự chứng minh với họ là:
Tinh thần nhạc không tùy thuộc ở trong nhạc khí, nhưng là hàm ẩn trong tâm hồn của nhạc sĩ.
*******
Ðây cũng là sứ mệnh của các tín hữu Kitô:
Hằng ngày, sau một giấc ngủ yên, họ bừng chỗi dậy để ra sân khấu cuộc đời trình diễn khúc nhạc:
"Thiên Chúa là Tình Yêu".
Gặp thời kỳ thuận tiện hay bất lợi, gặp môi trường sinh sống xứng hợp với khúc nhạc hay không, gặp những người chung sống có chấp nhận hay từ chối, cuộc sống của người Kitô hữu phải chứng minh được rằng:
Khúc nhạc "Thiên Chúa là Tình Yêu" không thể bị lệ thuộc vào những hoàn cảnh, vào những môi trường sinh sống bên ngoài, nhưng phải là khúc nhạc xuất phát từ tâm hồn, như những điệu nhạc tuyệt vời của nhạc sĩ Paganini, không bị lệ thuộc vào nhạc cụ, nhưng đã xuất phát từ tâm hồn điêu luyện say mê âm nhạc của ông.
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng:
"Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật, nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết.
Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà.
Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo, để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến.
Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng:
"Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống.
Càng ngạc nhiên hơn, khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên, bằng một lời quả quyết:
"Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống".
*****
Câu chuyện trên có thể xảy ra bất cứ ở đâu và trong bất cứ gia đình nào.
Và theo sự suy luận thông thường, chúng ta phải công nhận rằng: Người vợ và thân nhân của anh chàng giả chết có lý của họ.
Nhưng triết gia Pascal cũng có lý khi nhận định:
"Con tim có những lý lẽ riêng của nó, mà lý trí không thể nào hiểu nổi".
Ðó là lý lẽ của con tim trong con người của cha Ðamien, tông đồ người hủi, mà cách đây không lâu, nhiều người đã long trọng tưởng niệm một trăm ngày qua đời của Ngài.
Cha Ðamien đã dấn thân phục vụ những người bị bệnh phong hủi, để rồi kết thúc cuộc đời bằng chính căn bệnh của những người cha đã săn sóc với sự bình thản, được biểu lộ trong những dòng tâm sự cha viết cho bạn bè, vài ngày trước khi trút hơi thở cuối cùng:
"Tôi chết vì bệnh phong cùi, nhưng tôi là một thừa sai sung sướng nhất trên địa cầu này".
Ðó cũng là lý lẽ của con tim, trong con người của cha Ma-xi-mi-li-an Kol-bê, nạn nhân của chính sách bạo tàn tiêu hủy người Do Thái của Ðức quốc xã.
Cha Ma-xi-mi-li-an đã đứng ra chịu chết thay cho một anh bạn tù.
Có thể những người mang lý lẽ này trong con tim hiểu được câu giáo huấn của Ðức Kitô:
"Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Gioan 15,13).
Ðời người là một chuỗi những chọn lựa và quyết định.
- Có những quyết định liên quan đến người khác.
- Có những chọn lựa thay đổi cả một đời người.
- Có lẽ quyết định nào cũng làm cho chúng ta ray rứt, dằn vặt.
Một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại.
Công việc xem ra thật đơn giản:
Chỉ cần phân loại các loại củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ...
Sau một ngày làm việc, người thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc: Gương mặt của anh trông hốc hác và thất sắc hẳn.
Ðược hỏi lý do, anh giải thích như sau:
"Công việc của ông giao phó không phải là một công việc nặng nhọc,
nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa".
Chọn lựa và quyết định, là cả một gánh nặng đối với con người. Bởi vì, không ai có thể làm điều đó thay thế cho chúng ta cả.
Chúng ta cần người khác chỉ bảo, chúng ta cần người khác góp ý, nhưng quyết định vẫn là phần của chúng ta.
Thú vật dường như không có chọn lựa và quyết định. Tất cả đều được điều khiển bởi cái, mà chúng ta gọi là bản năng.
Con chim có thể làm được một cái tổ vô cùng tinh vi, mà không cần phải học hỏi, cũng như không sợ phải sai lầm.
Trong khi đó, thì khả năng tưởng chừng như vô song, con người vẫn cứ phải rơi vào lầm lẫn này, đến lầm lẫn nọ.
Lầm lẫn, nghi ngờ, bất an, vô định, là số phận của con người.
Ðiều đó làm cho con người day dứt, khổ đau.
Nhưng đồng thời, cũng nói lên giá trị cao cả của con người. Chính vì những giới hạn bất toàn của con người, mà con người càng cảm nhận được sự trợ giúp của Thiên Chúa...
Khi nhìn ngắm vũ trụ bao la, khi nhìn lại thân phận bé nhỏ yếu hèn của mình, tác giả Thánh Vịnh thứ 8 đã phải thốt lên:
"Lạy Chúa, con người là chi mà Chúa phải bận tâm?".
Bé nhỏ trong vũ trụ, bất toàn và giới hạn giữa muôn tạo vật, nhưng con người không phải là một con số vô danh.
Dưới ánh mắt yêu thương và hằng quan tâm của Thiên Chúa, mỗi một con người là một giá trị độc nhất vô nhị, là đối tượng của một tình yêu độc nhất.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian để nói với chúng ta điều đó:
“Hai con chim sẻ không đáng giá một hào,
vậy mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha anh em,
huống chi là con người” (Matthêu 10,29).
Thiên Chúa đã yêu thương con người: Đó là lý do khiến chúng ta phải luôn đặt tất cả tin tưởng vào Ngài...
Nhưng mò mẫm và lầm lỗi trong cuộc sống, chỉ là những nẻo quanh co, nhưng cuối cùng rồi cũng sẽ đưa chúng ta đến thành công, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta và không ngừng dẫn dắt chúng ta.
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Ði được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ:
"Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật".
Dương Phủ hỏi vặn lại: "Phật ở đâu?".
Vị lão tăng giải thích:
"Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này, thì chính là Phật đấy".
Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Ði dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả.
Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa.
Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Ðức Phật, mà vị lão tăng đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng:
Cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại gia
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
*****
Ðể yêu thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người.
- Chúa có cha, có mẹ.
- Chúa sinh ra trong một gia đình...
- Con người không chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình.
- Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên và thành toàn...
Tại Nagiaréth,
- Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc.
- Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria.
- Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng câu Kinh Thánh với Mẹ Maria.
- Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse.
Trong ba năm sống đời công khai, ngôn ngữ và cách suy nghĩ của Chúa, phản ánh phần nào sự giáo dục, mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt Nam.
Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ.
Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài...
Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu, để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
"Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè. Ðến kỳ gió bấc thổi, nguồn cơn thật bối rối...".
Trên đây là những câu đầu trong bài thơ, mà cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch từ chuyện ngụ ngôn: "Con ve và con kiến" của thi sĩ Pháp La Fontaine.
Ở Việt Nam chúng ta, cũng như tại nhiều nước trên thế giới, cứ mỗi độ hè về, là ve sầu xuất hiện và kêu inh ỏi.
Theo sinh vật học, thì có đến 23 loại ve sầu, mỗi loại có chu kỳ khác nhau: loại 2 năm, loại 3 năm. loại 17 năm v.v...
Trước khi xuất hiện trên mặt đất, ve đã làm kiếp nhộng sống ngầm dưới đất đến 17 năm.
Ngay sau khi ra khỏi trứng, nhộng đã chui xuống đất và sống yên lặng 17 năm.
Sinh vật học còn cho rằng, khi chu kỳ 17 năm chấm dứt, các con nhộng này có thể nghe được một tín hiệu bí mật kêu chúng ra khỏi lòng đất. Và hàng trăm triệu con nhộng đã đáp lại tiếng kêu gọi đó, bò lên mặt đất, tìm cây cối hay vật gì thẳng gốc với mặt đất, để bám chặt vào, rồi lột vỏ, biến thành con ve, với hai cánh dài để bay...
Nhưng cuộc sống của ve rất ngắn ngủi: Vì chúng chỉ sống được năm tuần lễ, vừa đủ để làm một công tác duy nhất là đẻ trứng rồi chết.
*****
Kiếp sống của con ve sầu có thể làm cho chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chúa Giêsu:
Trong 33 năm sống kiếp con người,
Ngài đã sống ẩn dật đến 30 năm.
Nếu đối với kiếp ve sầu, 17 năm sống dưới đất như nhộng, không phải là vô ích, thì với Chúa Giêsu, 30 năm sống ẩn dật của Ngài, cũng mang một ý nghĩa và giá trị đặc biệt.
Kiếp sống lam lũ của người thợ mộc, những vất vả trong cuộc sống hằng ngày: Tất cả đều mặc cho cuộc sống con người một ý nghĩa.
Chúa Giêsu đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc sống con người. Ánh sáng đầu tiên đã được chiếu rọi vào cuộc sống chúng ta, chính là những năm tháng ẩn dật ấy của Chúa Giêsu.
Trong ánh sáng ấy, chúng ta sẽ hiểu được, dù nghèo hèn đến đâu, dù tối tăm đến đâu, công việc từng ngày của chúng ta, là những đóng góp vào công cuộc cứu rỗi của Chúa.
Con ve sầu phải tôi luyện trong suốt 17 năm trời, mới có thể xuất hiện, để sinh ra một mầm sống mới.
Những lam lũ vất vả từng ngày của người Kitô chúng ta, cũng có sức mang lại mầm sống mới cho rất nhiều người.
Ước gì ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu rọi vào cuộc sống của chúng ta, để, dù vất vả lao nhọc và đau khổ từng ngày, chúng ta luôn vui vẻ tiến bước, vì tin rằng, cuộc sống của chúng ta đang mang lại sức sống cho nhiều người.
Ngày mùng 10 tháng 3 Âm Lịch là ngày giỗ tổ Hùng Vương...
Theo tục truyền, vua Ðế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Linh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra một người con gọi là Lộc Tục. Sau, Ðế Minh truyền ngôi cho con trưởng làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Ranh giới nước Xích Quỷ lúc bấy giờ phía Bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (tức Hồ Nam), phía Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục, phía Ðông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (tức là năm 2879 trước Tây Lịch) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, gọi là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một lần 100 con trai. Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con để dắt lên núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam Hải.
Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, sáng lập ra nước Việt Nam sau này...
"Vật đổi sao rời, phúc tổ vẫn lưu nền cổ tích
Nước nguồn cây cối, đạo người nên nhớ đạo Hùng Vương".
Hai câu thơ khuyết danh này như muốn nhắc nhở chúng ta về công đức của tổ tiên.
Ngày 10 tháng 3 Âm Lịch, chúng ta không biết là ngày húy nhật của vua Hùng Vương nào, chỉ biết rằng người xưa đã biết chọn một ngày để con cháu về sau muôn đời có dịp tụ họp nhau lại, mà nhớ đến tổ tiên, nhớ đến công đức của người đã sáng lập ra dòng họ, nhất là sáng lập ra quốc gia.
Cách đây vài năm, tổng thống Rigan của Hoa Kỳ đã về thăm Ái Nhĩ Lan. Ông muốn nói lên mối dây liên kết giữa ông, những người da trắng đang sinh sống tại Bắc Mỹ và tổ tiên của họ...
Là người, ai cũng thấy cần có một tổ quốc, một quê hương, trong đó cả một dòng giống được phát sinh và liên kết với nhau.
Cũng như tất cả những người tha hương, những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại lúc nào cũng hướng về quê hương của họ.
Quê hương là một cái gì vô cùng cao quý và thiêng liêng mà chỉ khi nào mất đi người ta mới cảm thấy luyến nhớ.
Nhưng nói đến quê hương, không có nghĩa là gợi lại một mảnh đất, một phong cảnh, một dòng sông...
Nói đến quê hương là nói đến những người cùng bởi một ông tổ mà ra, những người cùng nói chung một thứ tiếng, những người có cùng một màu da.
Hay nói như người Việt Nam chúng ta, những người đồng bào, nghĩa là những người cùng chung một cái bọc mà sinh ra...
Ðó là ý nghĩa của huyền thoại 100 cái trứng, trong câu chuyện lập quốc của chúng ta.
*****
Nhưng những người công giáo, không chỉ ý thức về tình máu mủ ruột thịt của những người cùng một dân tộc, họ còn có một gia đình rộng rãi hơn: Đó là gia đình nhân loại.
Nhà vô thần Voltaire đã nói: Nếu Thiên Chúa không có, thì chúng ta phải tạo ra Ngài...
Vì sao thế?
Thưa, để cuộc đời chúng ta có một ý nghĩa, để chúng ta biết chúng ta có chung một người Cha, và tất cả mọi người, dù không đồng một ngôn ngữ, dù không đồng một màu da, tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.
Và kết luận tất yếu của chân lý đó là: Chúng ta phải thương yêu nhau.
Người trong cùng một nước, có cùng một ông tổ phải thương yêu nhau vượt lên trên tất cả mọi khác biệt về địa lý, về tôn giáo, về quan điểm chính trị.
Ðó là tất cả ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương, mà chúng ta cử hành hằng năm.
Ngày giỗ tổ ấy, cũng còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa, để nhìn nhận mọi người đều là con cái Chúa và đều là anh em với nhau.
Họa sĩ Goya, người Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ 19, đã để lại một loạt những bức tranh mô tả thân phận con người thật ý nghĩa. Một trong họa phẩm, mà ông đã thực hiện trong thời nội chiến của người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 18, mang tựa đề: "Ðánh nhau bằng gậy gộc".
Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân xô xát nhau. Mỗi người cầm trong tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ chiếc dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời không để lộ một nét nổi bật nào. Người ta không đoán được trời sắp giông bão hay sắp sáng rỡ.
Thoạt nhìn qua cũng nghĩ, đây chỉ là một bức tranh tầm thường như những bức tranh khác.
Thế nhưng, có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: Đó là hai người nông dân đang hầm hầm sát khí, để loại trừ nhau này, lại mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối.
Goya muốn cho chúng ta thấy rằng, cả hai người nông dân này sắp chết.
Họ sẽ không chết, vì những cú dùi cui giáng trên nhau, cho bằng chính cát bụi đang từ từ chôn vùi họ.
Thế nhưng, thay vì giúp nhau để ra khỏi cái chết, thì họ lại cư xử chẳng khác nào thú dữ: Họ cắn xé nhau.
Họa phẩm "Ðánh nhau bằng gậy gộc" trên đây của danh họa Goya, nói lên phần nào tình cảnh, mà nhân loại chúng ta đang trải qua.
Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, thì con người lại giành giật, chém giết lẫn nhau.
Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở quy mô thế giới, một nơi nào đó ngoài cuộc sống của chúng ta, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của chúng ta với những người xung quanh.
Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác, có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm tâm hồn chúng ta.
Bức tranh của họa sĩ Goya cũng chính là bức tranh của thân phận con người chúng ta.
Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, thay vì liên đới để bảo vệ nhau, thì người ta vẫn có thể đâm chém lẫn nhau.
Một nhạc sĩ nào đó đã có lý để tra vấn chúng ta:
Giết người đi thì ta ở với ai?
Một trong những phương thế tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù, chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn.
*****
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc:
“Nếu có ai vả má bên phải của ngươi,
hãy chìa luôn cả má còn lại...” (Matthêu 5,39).
Trong những giờ phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, giữa những người đang đằng đằng sát khí, muốn hủy diệt mình, thì Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho họ:
“Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca,23,33).
Câu chuyện được thuật lại xảy ra tại vùng Nam Italia, nơi dân chúng không được sung túc cho lắm, so với những vùng khác.
Câu chuyện trên mang tựa đề là : "Chiếc bong bóng bay màu hồng".
Chiếc bong bóng này, là kết quả của sự góp nhặt và tiết kiệm từng xu của Beppo, một em bé lên tám.
Hôm ấy, trong lúc các trẻ đồng tuổi cắp sách đến trường, Beppo trốn học, chạy nhanh lên ngọn đồi để thả chiếc bong bóng màu hồng, bay lên không trung. Cùng với chiếc bong bóng, Beppo cẩn thận cột bức thư nó đã nắn nót viết từng chữ như sau:
"Chúa ơi, vài tuần nữa con sẽ có một đứa em. Gia đình con đã có sáu anh em, nhưng cha mẹ con nghèo lắm. Nhà cửa chật chội và không có đủ giường chiếu, nên chúng con phải ngủ chung ba đứa một giường. Lần này con không xin gì cho con, nhưng con xin Chúa cho đứa em sắp sinh của chúng con một ít quần áo và tã, quần áo xài rồi cũng được. Nhà con ở làng Arcol miền Nam nước Italia. Con tên là Beppo Sala".
Sau khi thả chiếc bong bóng hồng mang bức tâm thư lên trời, Beppo đứng ngước mắt nhìn lên trời mãi, đến khi chiếc bong bóng mất hút trong đám mây, nó mới thơ thẩn đi về nhà.
Những ngày sau đó là những ngày tháng hồi hộp nhất đời của Beppo. Nhưng nó vẫn tiếp tục hy vọng và cầu nguyện.
Sáu ngày nặng nề trôi qua, nhưng một buổi kia, lúc đang chơi với các trẻ khác cùng xóm, Beppo thấy người giao bưu phẩm mang vào nhà một thùng quà.
Nó hồ hởi phấn khởi chạy nhanh về và nghe cha nó đang lớn tiếng cãi vã với nhân viên bưu điện:
"Chắc anh lầm rồi, tôi đâu có quen ai ở thành Rovigo. Vả lại chúng tôi đào đâu ra tiền để mua quà cáp".
Người giao bưu phẩm phân trần:
"Món hàng đề tên và địa chỉ nhà ông, nếu không phải gửi cho ông thì còn gửi cho ai nữa? Ông nhận nhanh lên, tôi còn phải đi giao nhiều món hàng nữa chứ, có phải chỉ có thùng này thôi đâu".
Cha của Beppo trả lời:
"Thôi đi ông ơi, nhận hàng không phải của mình để rồi sau đó mang họa, làm gì có tiền mà bồi thường".
Thấy câu chuyện dai dẳng, Beppo bạo phổi nói xen vào:
"Thì cha cứ mở ra xem thử, nếu không phải là của mình thì mình gói trả lại".
Thùng đồ được mở ra, thấy toàn đồ cho trẻ sơ sinh. Nào tã, nào những chiếc áo nhỏ tí ti, nào băng rốn. Người gửi không quên gói vào hai hộp phấn và một lố những chiếc kim tây.
Mắt của mẹ Beppo bừng sáng lên.
Beppo cảm thấy vui như ngày tết. Vui nhất là người gửi đồ, không đề địa chỉ, nên không thể gửi trả lại.
Nó chạy nhanh ra ngọn đồi, nơi nó thả chiếc bong bóng màu hồng sáu ngày trước đây.
Ðến nơi, nó ngước mắt nhìn trời, miệng thì thầm:
"Chúa ơi, con cám ơn Chúa".
*****
Tuổi trẻ thường được gọi là tuổi thơ, mà nói đến thơ là nói đến mộng.
Trẻ thơ thường có những mơ ước đơn sơ:
- Mong bắt được nhiều dế.
- Mơ con diều mình đang thả được bay cao.
- Mong cho mình khéo tay ăn được nhiều đạn trong cuộc chơi bi.
- Mơ đội banh mình được thắng trong cuộc đá bóng sắp tới.
Nhưng đã có những mái đầu xanh đã bắt đầu lo lắng cho cha mẹ, cho anh chị em như trong trường hợp của em bé mới lên tám tuổi Beppo.
Theo cha Michel Bonnet, đã từng truyền giáo tại Nhật Bản và nay đang làm cho phong trào quốc tế đặc trách mục vụ cho trẻ em, thì tại Á Châu, số trẻ em vì hoàn cảnh gia đình hay xã hội, bắt buộc phải làm những công việc nặng nhọc vượt quá tuổi của chúng, nhiều hơn là số trẻ em được cắp sách đến trường.
Cũng theo cha Bonnet, đã đến lúc các tín hữu phải đọc dòng Phúc Âm mà mọi người đều thuộc nằm lòng, nhưng với cái nhìn khác:
"Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta, chớ ngăn cản chúng,
vì Nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng" (Matthêu 19,14).
Và cha Bonnet đề nghị:
Câu Phúc Âm trên, tạo dịp cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu trong những trẻ con bị cưỡng bách phải làm việc nặng nhọc.
Mẹ Têrêxa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau:
"Một hôm kia, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo".
Ở Calcutta, mọi người đều biết là:
Mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái truyền giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.
Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp:
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
"Hai con có thể cho Mẹ biết: Tiền đâu mà hai con có nhiều đến thế?".
Họ trả lời:
"Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình.
Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó, để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con".
Mẹ Têrêxa cắt nghĩa:
"Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó, đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái".
Ðể biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi:
"Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?".
Hai bạn trẻ đó trả lời:
"Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế, chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh, mà cả hai đều đóng góp vào".
******
Trong sứ điệp Mùa Chay gửi toàn thể giáo hội, công bố vào ngày 09/02/1988, Ðức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đặc biệt quan tâm đến tình trạng mỗi ngày có hàng chục ngàn trẻ em trên thế giới bị chết yểu.
Ðức Thánh Cha nói:
"Có những trẻ em chết trước khi chào đời. Nhiều em khác chỉ sống một thời gian ngắn vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng và nhiều khi thiếu cả tình thương nữa... Các em là nạn nhân của nghèo đói, của những bất công xã hội, làm cho gia đình các em không đủ phương tiện cần thiết để nuôi dưỡng con cái".
Ngoài ra, sứ điệp Mùa Chay của Ðức Thánh Cha còn nhắc lại tình thương đặc biệt của Chúa Giêsu đối với các trẻ em.
Và Ngài mời gọi mọi tín hữu trong Mùa Chay: Hãy bẻ gãy xiềng xích của tính ích kỷ và tội lỗi.
Đồng thời, thực thi tình liên đới, bằng cách chia sẻ với những người túng thiếu.
Hãy cho người nghèo, không phải những thứ mình dư thừa, nhưng cả những gì mình cần thiết nữa.
Pur-na, một môn đệ của Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai, để tiếp tục tu luyện và truyền đạo.
Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau:
Ðức Thích Ca cho biết ý kiến:
"Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?".
Pur-na thưa:
"Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: Dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ lăng mạ con, chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con".
Ðức Thích Ca tiếp lời:
"Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?".
Pur-na thưa:
"Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta cũng thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột, để đánh đòn, và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".
Nghe môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên.
Ngài hỏi tiếp:
"Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?".
Không cần suy nghĩ lâu, Pur-na đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này".
Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo:
"Pur-na, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn, để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân, như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
*****
Thiết nghĩ, tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta.
Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Pur-na trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ.
Cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.
Hai hiền nhân đã chung sống với nhau dưới một mái nhà, trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau.
Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:
"Ít ra là một lần, tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm".
Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi:
"Cãi vã thế nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ".
Người có ý kiến phải cãi nhau đề nghị:
"Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: Làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi sau đó chúng ta cãi nhau".
Nói xong ông ta bèn ra đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn tiếng:
"Viên đá đó của tôi, mà mắc mớ gì ông lại mang ra giữa sân".
Ông kia cãi lại:
"Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?".
Nghe nói thế, ông kia đáp:
"À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì".
Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.
Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu: "Cái này là của tôi" để thể hiện quyền làm chủ của mình.
Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ, hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết: "Cái này là của tôi".
Trẻ con tranh nhau hòn bi, trái banh.
Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc.
Quốc gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.
Trẻ con dùng lời vã cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau.
Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán nhau.
Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.
*****
Ngược lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng: Chia sẻ.
Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa Chay.
Mỗi phần tử trong gia đình bỏ sẽ cho vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn, bớt uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí.
Cuối Mùa Chay, những số tiền dành dụm đó, được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong và ngoài nước.
Mỗi năm có đến hàng trăm con cá voi bơi vào bờ biển và bị mắc cạn.
Nếu được kéo ra biển, chúng lại tự ý bơi trở vào bờ nữa, mà không ai hay biết lý do tại sao...
Hiện tượng này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ và bao nhiêu giả thuyết đã được đưa ra.
Mới đây, trong tạp chí New Scientist, một nữ bác sĩ thuộc trường đại học Cambridge bên Anh Quốc đã nghiên cứu trên 3,000 hồ sơ ở bảo tàng viện Anh Quốc và đưa ra kết luận rằng:
Tất cả các giống vật sống ở đại dương như cá heo, cá voi, đều tự ý làm cho mình mắc cạn trên khắp thế giới.
Có thể nói đây là một loại tự sát của thú vật.
Nữ bác sĩ nói trên cho rằng: Cá voi bơi vào bờ, vì chúng đã sử dụng địa từ trường của trái đất như một thứ bản đồ.
Bà giải thích rằng: Cá voi không sử dụng sự chỉ hướng rộng rãi trên mặt đất, như ta sử dụng địa bàn. Nhưng chúng chỉ dùng những sự khác biệt tương đối nhỏ trong từng vùng hoàn toàn địa phương.
Chúng bơi vào bờ, vì không phải chúng đi tìm bờ biển hay muốn tự sát, nhưng cũng giống như người đọc sai hải đồ, nhắm hướng này, nhưng lại ra hướng khác.
Những chú cá voi mắc cạn hằng năm trong bờ, chắc chắn không phải là những con thú đã quyết chí đi tìm cái chết.
Bản năng sinh tồn, ước muốn sinh tồn có nơi con người, cũng như súc vật. Chúng đi tìm sự sống, nhưng đã lạc hướng.
Cũng thế, không có người nào tự tử vì chính cái chết cả. Qua cái chết ấy, người ta vẫn còn ước muốn được giải thoát. Do đó, tìm giải thoát cũng là ước muốn được sống.
*****
Tất cả chúng ta ai cũng khao khát sự sống.
Thế nhưng, lắm khi chúng ta lầm đường lạc lối.
Cũng như người thủy thủ đọc sai hải bàn, cũng như người phi công đọc sai bản đồ, chúng ta đọc sai những bản chỉ dẫn đi tìm sự sống của chúng ta.
Những ảo ảnh và phù phiếm của cuộc sống lôi kéo chúng ta đến những bóng mờ của chết chóc, mà chúng ta không hay biết.
Khi chợt tỉnh, thấy mình mắc cạn như những chú cá voi thì đã quá muộn.
Chúa Giêsu chính là Ðường Ði của chúng ta. Chỉ có Ngài mới dẫn đưa chúng ta đến Sự Sống đích thực.
Tại một ngôi làng nhỏ ở ven biển Ái Nhĩ Lan, có một cặp vợ chồng ngư phủ nghèo, nghèo đến độ trong nhà không có được một cái gương soi mặt.
Trong làng chỉ vỏn vẹn có một cái quán nhỏ cung cấp lương thực và những gì cần thiết cho việc đánh cá.
Một ngày nọ, người chủ quán ngạc nhiên vô cùng khi bắt gặp người ngư phủ già cầm lấy một vật gì đó trong tay, vừa xoay xung quanh, vừa thổn thức.
Rồi từ đó, người chủ quán nhận thấy người đánh cá trở lại quán của mình thường xuyên hơn và cũng lập lại ngần ấy động tác.
Ráng theo rình rập, để lắng nghe những gì người ngư phủ già than thở, người chủ quán mới thấy ông già đưa cái gương soi mặt và thều thào: "Ba ơi, ba ơi".
Thì ra, cả đời người ngư phủ già chưa bao giờ nhìn thấy mặt mình trong gương. Nhìn thấy mặt mình trong gương lần đầu tiên, ông ta tưởng đó là cha của mình.
Người chủ quán quá cảm động, đã tặng cho ông già tấm gương. Lão hăm hở mang đi, và từ đó, cứ mỗi lần rảnh rỗi, lão đưa tấm gương ra, nhìn vào và nói chuyện với cha mình.
*****
Tất cả chúng ta đều sống cho một gương mặt.
Và gương mặt duy nhất, mà chúng ta không bao giờ thấy, đó là gương mặt của chính chúng ta.
Chúng ta có thể hiểu biết tất cả, nhìn thấy tất cả trừ gương mặt của chúng ta.
Và ngay cả trong một tấm gương, chúng ta chỉ nhìn thấy mình theo một hình ảnh đảo lộn. Chúng ta chỉ có thể biết mình, chúng ta chỉ có thể khám phá được chính mình nhờ những người khác và nhờ chính hình ảnh, mà họ có thể cho chúng ta thấy.
Vậy đâu là tấm gương đích thực, để chúng ta có thể biết mình hoặc biết mình phải như thế nào?
Chúng ta đừng vội vã cười hai vợ chồng ngư phủ trong câu chuyện trên đây...
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể làm người, có lẽ họ là người có lý, bởi vì họ biết nhìn thấy trong gương một cái gì khác hơn chính mình.
Nói như Thánh Phaolô:
"Phần chúng ta, chúng ta không che mặt, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, như một tấm gương, vì chúng ta được thấy mình biến đổi nên giống hình ảnh ấy, mỗi lúc một rực rỡ hơn, bởi vì quyền phép Thánh Linh của Chúa" (2 Corintô 3,18).
Mỗi người Kitô phải là tấm gương phản chiếu chính hình ảnh của Ðức Kitô.
Cuộc sống của họ phải là một phản ảnh của cuộc sống Ðức Kitô.
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, đó là đám cưới của Alexandre Ðại đế, với công chúa Roxane của Ba Tư, vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định cưới một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre nghe theo tiếng gọi của con tim.
Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Ðông sang Tây.
Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi với hai dòng máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó.
Chính Ðại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc.
Thông thường hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng.
Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá.
Alexandre Ðại đế giải thích như sau:
Chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
******
Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane:
Đó là hôn lễ của Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại.
Ðây là cuộc hôn lễ, mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất.
Hôn lễ ấy diễn ra qua việc Con Thiên Chúa xuống thế, mặc lấy xác phàm.
Ngài đến không kèn không trống, không quân đội, không thế vận hội.
Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người.
Ai cũng có thể chiến thắng cho cuộc sống của mình.
Và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá vinh hiển ấy.
Ai trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá.
Ai trong chúng ta cũng là người đoạt giải nhất.
Và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống đời đời.
Với Chúa Giêsu là Ðấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng ta.
Chúng ta tin chắc rằng: Chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 ----------------------------------------------