Năm Ất Dậu cầm tinh con gà, vì thế mẩu phiếm luận hôm nay gã xin được xoay quanh chuyện con GãSiêu 61
Năm Ất Dậu cầm tinh con gà, vì thế mẩu phiếm luận hôm nay gã xin được xoay quanh chuyện con gà. Đó là một việc làm thật phải đạo và chẳng có gì là quá đáng. Không hiểu bên Ăng Lê thì thế nào, chứ còn ở Việt Nam ấy hả, do dịch cúm đã đang và sẽ còn tung hoành trong giới gia cầm gia súc, thành thử dân số loài gà mỗi ngày một giảm sút và những món đặc sản từ gà mỗi ngày một trở nên khan hiếm. Khan hiếm phần vì không còn thịt để mà chế biến, phần vì bàn dân thiên hạ sợ chết không dám ăn. Có nơi người ta đã tính đến việc xóa tên gà trong sổ thực đơn. Chẳng hạn như món phở. Phở bò thì sợ bệnh bò điên. Phở gà thì sợ bệnh gà cúm. Thành thử vạn bất đắc dĩ phải cho ra lò và trình làng món phở vịt, phở ngan…Và được gọi là món phở của những con tương cận. Chẳng cần phải nói thì ai trong chúng ta cũng đã biết gà là một con vật rất gần gũi, rất quen thuộc và cũng rất thân thương với con người. Ở miền quê, hầu như nhà nào cũng nuôi một bầy gà để có thịt mà xơi vào những dịp tết nhất và những ngày lễ lớn, hay mỗi khi bèn bạn và khách khứa đột xuất tới chơi. Tuy nhiên ở thành phố thì khác. Tấc đất tấc vàng, nhất là vào thời buổi hiện nay, giá cả nhà đất tăng lên vùn vụt đến tối tăm cả mặt mũi. Kiếm được một chỗ cắm dùi cho gia đình đã là điều khó khăn, trầy da tróc vẩy, thì đất cát đâu mà nuôi gà nuôi vịt. Thậm chí có những người chỉ thấy được gà vịt ngoài chợ, trong sở thú hay qua phim ảnh mà thôi. Mấy anh bạn Việt kiều về thăm quê hương, ghé vô vùng khỉ ho cò gáy nơi gã đang cư ngụ. Ban đêm nghe tiếng động, họ vội vã chỗi dậy và hỏi: - Tiếng gì thế ? Gã bèn trả lời: - Tiếng chó sủa ấy mà. Ban sáng nghe tiếng động, họ cũng hối hả ngồi lên và hỏi: - Tiếng gì thế ? Gã vừa trả lời, vừa che miệng ngáp: - Tiếng gà gáy ấy mà. Và rồi họ liền thanh minh thanh nga: - Đã lâu lắm rồi mình không được nghe tiếng chó sủa ban đêm và tiếng gà gáy ban sáng. Nghe xong câu trả lời này, vì trằn trọc không thể ngủ tiếp, gã bèn vắt tay lên trán mà suy gẫm, để rồi ngộ ra rằng: cuộc sống văn minh và nhất là cuộc sống tại thành phố đã cướp đi biết bao nhiêu cái đẹp trong thiên nhiên, chẳng hạn như ánh trăng. Đúng thế, phải ở nông thôn thì mới thưởng thức được vẻ đẹp tuyệt vời của ánh trăng: - Hỡi cô tát nước bên đàng, Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi. Chứ còn ở thành phố thì chỉ thấy ánh nê ông trắng bệch hay vàng khè từ hệ thống đèn đường hắt xuống mà thôi. Có rất nhiều chuyện lỉnh kỉnh để viết về gà, nhưng trong phạm vi của một bài báo, gã chỉ xin đề cập tới hai chuyện mà thôi. Chuyện thứ nhất đó là tình thương của chị gà mái. Hẳn rằng đã có lần chúng ta nhìn thấy một chị gà mẹ dẫn đàn con của mình đi kiếm ăn. Chị ta bới đất tìm mồi và khi tìm thấy được, chị ta bèn gọi đàn con đến và nhường mồi cho đàn con. Ban đêm chị ta ấp ủ đàn con dưới đôi cánh của mình, để đàn con khỏi bị lạnh cóng. Và nhất là khi diều hâu xuất hiện, chị ta không ngần ngại nhảy bổ lên để chiến đấu hầu bảo vệ cho đàn con. Hình ảnh này khiến gã nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều: - Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Hai chữ “đoạn trường” có nghĩa là đứt ruột, ám chỉ một sự việc thảm thương đến tột độ, khiến thiên hạ nghe qua, bèn cảm thấy như đứt ruột và nát gan. Hai chữ này xuất phát từ một câu chuyện trong sách “Sưu Thần Hậu Ký”. Câu chuyện ấy đại khái như sau: Có một người thợ săn bắt được một con khỉ con, đem về làm thịt. Khỉ mẹ trông thấy cứ ở trên cây kêu la thảm thiết mãi, rồi buông tay té xuống đất mà chết. Đến khi mổ bụng ra, người thợ săn trông thấy ruột của con khỉ mẹ đã đứt ra từng khúc. Hình ảnh gà mẹ cũng như hình ảnh khỉ mẹ làm cho gã liên tưởng đến tình mẩu tử nơi con người. Thực vậy, mỗi khi nghĩ tới người mẹ, hay mỗi khi nói tới người mẹ, ai trong chúng ta cũng cảm thấy một cái gì dịu ngọt và đầm ấm. Sở dĩ như vậy, vì người mẹ đã chấp nhận biết bao nhiêu hy sinh và gian khổ cho những đứa con của mình. Người ta kể lại rằng trong nạn đói vào năm Ất Dậu xảy ra tại miền Bắc, có một bà mẹ đã cắn đứt ngón tay của mình để đứa con được bú những giọt máu cuối cùng thay cho dòng sữa đã cạn kiệt với hy vọng đứa con sẽ được cứu khỏi cái chết. Hẳn rằng trong giây phút ấy, bà chỉ có một ý nghĩ duy nhất, đó là phải làm tất cả mọi sự miễn sao đứa con được sống. Thế nhưng, ngày hôm nay tình mẫu tử ấy xem ra như có vẻ đang bắt đầu nguội dần và không còn đậm đà như xưa. Cách đây không lâu, tại Saigon người ta đã xôn xao bàn tán về một sự việc thật thương tâm: Theo một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật số ra ngày 29.6.2003, thì tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra một vụ án đau lòng: một người mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con gái, người mẫu Võ Thị Thu Tâm, trước ngày cô lên đường tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi sát hại con, đó là bà đã có hai mươi năm mua bán ve chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi bắt đầu nổi tiếng, cô đã mang mặc cảm về thân phận người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà và đối xử tệ bạc với bà. Sự việc này đã làm cho gã phải cau mặt suy nghĩ: - Lỗi bởi ai ? Bởi người mẹ hay bởi người con ? Hầu như mọi người đều đồng ý cho rằng: - Lỗi bởi cả hai, người mẹ cũng như người con. Lỗi của người con vì đã cư xử tệ bạc với người mẹ. Còn lỗi của người mẹ vì đã hành động độc ác với người con. Câu chuyện thương tâm trên chỉ là một trường hợp cá biệt mà thôi. Tuy nhiên còn một sự việc khác, mà thiên hạ lại cứ lờ tít, lại cứ phớt tỉnh Ăng lê, lại cứ coi như “nơ pa”, chẳng hề tiếc xót, chẳng hề hối hận. Thậm chí lại còn cho là hợp tình hợp lý và xứng đáng lãnh nhận bằng khen vì đã tích cực thực thi chính sách và đường lối của Nhà Nước . Đó là tình trạng nạo thai, phá thai vốn đã xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Thực vậy, theo một bài viết trên Ephata thì: Vấn đề nạo phá thai của thanh thiếu niên tại Việt Nam đang có khuynh hướng ngày một tăng cao. Tăng cao đến đáng sợ. Con số nạo phá thai hàng năm xấp xỉ với tổng số cháu bé được sanh ra trên toàn quốc. Năm 1997, tổng số sanh trên toàn quốc là 1.138.607 ca, thì con số nạo phá thai là 934.302 ca. Năm 1998, số sanh là 1.101.791 ca, thì nạo phá thai là 861.353 ca. Riêng bệnh viện Từ Dũ mỗi năm có trên 40.000 ca nạo phá thai. Các nhà xã hội học ước tính số người nạo phá thai trong cả nước hàng năm có thể từ 2 đến 3 triệu người. Liên Hiệp Quốc cũng đã báo động và xếp nước ta vào một trong năm nước có tỷ lệ nạo phá thai lớn nhất thế giới. Như vậy, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng và hưởng thụ, người ta chỉ yêu thương con cái khi con cái là một phương tiện cần thiết để thỏa mãn những nhu cầu của mình, chẳng hạn nhu cầu tình cảm hay bất cứ một nhu cầu nào khác. Còn khi con cái trở nên một thứ “kỳ đà cản mũi” cho những hưởng thụ, và nhất là khi con cái trở nên một gánh nặng, một sự đầu tư phi lợi nhuận, chỉ có đầu ra mà không có đầu vào…thì người ta sẵn sàng bỏ đi cái một không chút tiếc thương. Lâu nay gã đã từng nghe nói tại một vài giáo xứ chẳng hạn như ở ngoài Huế, người ta đã thành lập những nghĩa trang, được tạm gọi là những nghĩa trang “Anh Hài” để chôn cất những bào thai bị phế bỏ hay những thai nhi bị quẳng đi. Làm như vậy, thì ít nữa là còn một chút gì để nhớ và để thương!!! Chuyện thứ hai đó là tiếng gáy của anh gà trống. Nếu bản tính của chị gà mái là yêu thương đàn con, thì bản tính của anh gà trống là gáy. Anh gà trống mà không gáy thì chỉ còn nước bỏ vào nồi mà thôi. Các cụ ta ngày xưa đã chia đêm thành năm canh và ngày thành sáu khắc. Vì không có đồng hồ, nên các cụ ta tính canh tính khắc, tính giờ tính giấc bằng cách dựa vào những hiện tượng trong thiên nhiên. Ban ngày thì dựa vào mặt trời: giờ ngọ là lúc mặt trời nằm ở ngay chóc trên đỉnh đầu. Còn ban đêm thì dựa vào mặt trăng, chẳng hạn ngày hai mươi mốt âm lịch là ngày trăng mọc vào giữa đêm: - Hai mươi giấc tốt, Hai mươi mốt nửa đêm. Ngoài ra, ban đêm còn được dựa vào tiếng gà gáy. Thực vậy, tiếng gà gáy cũng giống như tiếng đồng hồ đổ, báo hiệu một ngày mới đang đến, kéo chúng ta ra khỏi giấc ngủ đêm dài và đánh thức chúng ta mau mắn chỗi dậy để bắt đầu những công việc bổn phận của mình: - Nửa đêm gà gáy o o, Thôi anh đừng ngủ, còn lo học hành. Thế nhưng, mấy anh gà trống lại hay méo mó nghề nghiệp, bẻ cong mục đích tốt đẹp của tiếng gáy. Thay vì dùng tiếng gáy như phương tiện để đánh thức bàn dân thiên hạ, thì lại dùng tiếng gáy như phương tiện để khoe khoang và phách lối. Nửa đêm, giờ tí, canh ba, một anh gà trống ngủ mê cất tiếng gáy ó ó o, thì lập tức những anh gà trống khác cũng cất tiếng gáy theo. Tất cả cùng dương cổ ra mà gáy cho thật to, cho thật dài. Thành thử người xưa mới bảo: con gà tức nhau vì tiếng gáy để rồi cùng chết vì tiếng gáy là như thế đó. Điều đó muốn nói lên rằng: - Những lời khoe khoang, phách lối thường làm cho người ta ghét và rồi chính những lời khoe khoang phách lối ấy sẽ đem lại hậu quả tai hại cho bản thân mình. Từ cái tật con gà tức nhau vì tiếng gáy, gã quay sang cánh đờn ông con giai và nhận thấy rằng một trong những chứng bệnh mà cánh đờn ông con giai thường hay mắc phải, đó là chứng bệnh sĩ hay còn được gọi là chứng bệnh nổ. Theo sự chuẩn đoán của những bác sĩ không chuyên, thì hai hiện tượng này có một liên hệ mật thiết với nhau và cùng có một nguyên nhân, đó là sự kiêu căng. Thực vậy, trong xã hội ngày xưa kẻ sĩ là người đã học sách thánh hiền, hiểu rộng biết nhiều, tương tự như giới trí thức hôm nay, vì vậy thường được bàn dân thiên hạ kính nể. Chẳng thế mà Nguyễn Công Trứ đã viết: - Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. Có nghĩa là: - Nơi triều đình có năm danh vị cao quí được nhà vua phong, đó là công, hầu, bá, tử, nam thì sĩ đã được liệt kê vào đó. Trong dân gian có bốn hạng, đó là sĩ, nông, công, thương thì sĩ đã chiếm ngay hàng đầu. Vì được bàn dân thiên hạ kính nể, nên mới xuất phát ra cái danh từ sĩ diện, tức là cái thể diện, cái bộ mặt của con nhà có học, để rồi mang một nghĩa bóng, một ám chỉ là cái danh dự của mình. Thế nhưng, khi nói tới chứng bệnh sĩ, người ta hiểu rằng đó là thái độ vênh mặt lên, nhìn đời bằng nửa con mắt, cố giữ lấy cái thể diện hão, cái danh dự ảo, không có thực của mình. Chẳng hạn một anh chồng tự cho mình là người có uy quyền trong gia đình, nên đã tỏ ra phách lối, đánh vợ chửi con để thiên hạ nhìn vào thấy mình oai như cóc chết, chứ chẳng phải là kẻ “vuốt râu nịnh vợ con bu nó.” Cũng vì muốn bảo vệ cái thể diện hão và cái danh dự ảo của mình, nên cần phải nổ, nổ càng lớn càng tốt, theo kiểu thùng rỗng kêu to cho bàn dân thiên hạ biết mặt biết tên mà khẩu phục tâm phục sát đất. Chẳng hạn mấy anh Việt kiều khi về nước tha hồ tô vẽ về một xã hội phương tây, tha hồ huênh hoang về nghề nghiệp của mình, dù chỉ là một anh rửa chén rửa bát trong nhà hàng, hay làm nghề xén cỏ công viên, thì vẫn nghiễm nhiên trở thành một ông giám đốc, một ông chủ tầm cỡ, rồi tung vãi những đồng đô la đi vay của ngân hàng, cốt để bà con họ hàng phải kiêng nể, cho dù sau đó là những ngày tháng kéo cày trả nợ. Ấy là chưa nói tới những anh Việt kiều khi về nước, vì đã mang sẵn những ý đồ đen tối, nên đã nổ một cách tưng bừng hoa lá, đã nổ một cách vô tội vạ, cốt để lừa cả tình, gạt cả lẫn tiền của những cô gái nhẹ dạ và ngây thơ. Bây giờ, gã xin trở lại với tiếng gà gáy. Thực vậy, tiếng gà gáy không phải chỉ kéo chúng ta ra khỏi giấc ngủ đêm dài và đánh thức chúng ta mau mắn chỗi dậy để bắt đầu những công việc của một ngày mới đang đến, mà hơn thế nữa, tiếng gà gáy đôi lúc còn kéo chúng ta ra khỏi tình trạng tội lỗi và đánh thức chúng ta mau mắn chỗi dậy để bắt đầu một cuộc đời mới, trong sáng hơn và tốt lành hơn. Đó chính là trường hợp đã xảy ra cho ông thánh Phêrô. Thực vậy, trong bữa tiệc ly Phêrô đã “thề độc” với Chúa Giêsu rằng: - Cho dù mọi người có bỏ Thầy, nhưng con sẽ chẳng bao giờ. Cho dù có phải chết cùng Thầy, con vẫn luôn sẵn sàng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã báo cho Phêrô biết: - Ngay trong đêm hôm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần. Và sự việc đã xảy ra đúng y như vậy. Trong sân nhà thầy cả thượng phẩm, Phêrô đã chối Chúa ba lần chỉ vì một câu hỏi vu vơ của đứa nữ tì, để rồi sau đó, Phêrô đã bỏ của chạy lấy người, vội vã bước ra ngoài và lập tức gà liền gáy. Nghe tiếng gà gáy, Phêrô đã đấm ngực ăn năn khóc lóc về tội lỗi của mình. Tiếng gà gáy ấy chính là tiếng nói của lương tâm, rất nhiều lần đã vọng lên tự thẳm sâu cõi lòng, trước hết là để thôi thúc chúng ta làm lành tránh dữ, bảo cho chúng ta biết đâu là việc phải làm và đâu là việc phải tránh, rồi sau đó là để dày vò, khiến chúng ta phải sám hối và dốc lòng chừa. Thế nhưng, rất tiếc là chúng ta đã không chịu nghe theo lời cảnh báo, cũng như không chịu nghe theo lời phán quyết của lương tâm. Như con thiêu thân lao mình vào lửa, chúng ta đã nhảy xả vào vòng tội lỗi và sau đó cũng chẳng có lấy được một giây phút nào ăn năn và hối tiếc. Sau nhiều lần báo động và cắn rứt mà chẳng “xi-nhê”, mà chẳng đem lại hậu quả, thành thử lương tâm trở nên chai lỳ và tắt ngấm. Cũng giống như ngày xưa gã khăn gói quả mướp vô miền Thất Sơn để dạy học. Thiên hạ bảo cho gã biết rằng: - Ở đây xơi pháo kích là chuyện bình thường. Tuần nào không bị pháo kích mới là chuyện lạ. Vì thế, mỗi khi nghe tiếng đạn rít xé không gian, thì phải mau mắn ba chân bốn cẳng chạy vào hầm trú ẩn. Lần thứ nhất bị pháo kích, mắt nhắm mắt mở gã đã vội vã chui ngay vô hầm trú ẩn. Lần thứ hai bị pháo khích, gã không còn vội vã nữa, mà cứ thủng thẳng bước vào hầm trú ẩn. Lần thứ ba bị pháo kích, vì thấy rằng chẳng chết anh Miên đen nào cả, bởi vì nếu chết thì đã chết rồi, nên cứ ung dung nằm thẳng cẳng trên giường, rồi lại còn kéo chăn che mặt như con đà điểu cắm đầu xuống cát. Cũng giống như ngày nay hai anh chị bị tiếng sét ái tình giáng cho một cú trúng ngay tim đen, tóa hỏa tam tinh, nên chi: - Phút đầu gặp em, tinh tú quay cuồng. Trong lúc ngồi bên nhau và tâm sự vụn, chỉ cần cầm lấy bàn tay của nhau, thì đã run run như bị điện giật, hay theo ngôn ngữ của Hàn Mặc Tử, thì đã “run run như thần tử thấy long nhan”. Chỉ cần “thơm” nhẹ lên trán, thì đã “ôi ngất ngây, ngất ngây”. Miết rồi hóa nhàm, nghiệm ra rằng cái cử chỉ cầm tay hay thơm nhẹ không phê, nên bèn phải tăng đô, từ cái thơm đến cái hôn và từ cái hôn đến việc “ăn cơm trước kẻng”, anh chị cũng cho là chuyện nhỏ. Thậm chí ngay cả việc “lỡ bụng em sình” thì cũng chẳng hề hấn chi, chỉ cần đến bệnh viện giải quyết cái rụp là xong tuốt luốt, rồi đâu lại vào đấy. Cũng thế, từ tình trạng lương tâm chai lì và xơ cứng đến tình trạng lương tâm táng tận và phá sản, thì cũng chỉ cách nhau một bước ngắn. Trong tình trạng lương tâm táng tận và phá sản như thế, người ta không phải chỉ phạm tội một cách dễ dàng như uống nước, hay như trở bàn tay, mà chẳng chút ân hận chi cả. Trái lại, người ta lại còn cảm thấy hãnh diện vì đã phạm tội, người ta coi hành vi tội phạm của mình là một việc làm can đảm và anh hùng. Càng phạm tội nhiều thì lại càng nghênh ngang và lên mặt với đời, thì lại càng hợp thời và đúng điệu dân chơi thứ thiệt “một chăm phần chăm”, chứ còn ăn ngay ở lành, chân chỉ hạt bột, thật thà như đếm, thì chỉ có ở trong truyện cổ tích, xưa rồi diễm ơi. Tới nước này, lương tâm không phải chỉ đã tắt ngấm, mà còn là đã chết, đã chết thật rồi, một cái chết đã được cảnh báo, một cái chết đã được nói trước. Với một lương tâm tán tận, một lương tâm đã chết như thế, thì theo sự diễn tả hình như của Đức Thánh Cha Piô XII: - Cái tội lớn nhất và nặng nhất của con người thời nay, đó là cái tội không còn ý thức về tội nữa. Nghe thật xót xa, khiến gã phải ngậm ngùi khẽ hát bài tình ca “Mùa thu chết”: - Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi, Mùa thu đã chết, em nhớ cho, Mùa thu đã chết, em nhớ cho, Mùa thu đã chết, đã chết rồi Em nhớ cho… Gã Siêu
Thời giờ thấm thoát thoi đưa, mới ngày nào chú khỉ lên ngôi, thế mà hôm nay đã phải khăn gói GãSiêu 62
Thời giờ thấm thoát thoi đưa, mới ngày nào chú khỉ lên ngôi, thế mà hôm nay đã phải khăn gói quả mướp về rừng, nhường chỗ cho họ hàng nhà gà. Thế nhưng, xem ra dòng họ gà cũng không mấy hồ hởi phấn khởi là mấy, vì đang còn phải ngất ngư con tàu đi với cơn đại dịch, được bàn dân thiên hạ gọi là…dịch cúm gà. Thực vậy, mới chỉ cách đây mấy tháng, cơn dịch này đã làm cho Việt Nam thiệt hại hàng mấy chục triệu đô la, ấy là chưa kể tới hơn hai chục mạng người bị lây nhiễm, đã tháp tùng bày gia súc của mình mà phiêu diêu miền cực lạc. Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, bao nhiêu gà vịt cũng như gia cầm gia súc trong vùng mắc dịch đều bị các ông thú y thu gom, nhét vào bao tải và mang đi chôn, mặc cho chủ nhân của chúng, những gia đình nghèo túng khố rách áo ôm, năn nỉ ỉ ôi cũng chẳng ăn thua gì. Như một cơn sốt lên tới đỉnh cao của nó, thì nhiệt độ bắt đầu giảm dần. Sau một thời gian tung hoành, dịch cúm gà chìm lắng, tưởng chừng như đã lui vào dĩ vãng. Xưa rồi Diễm ơi! Thế mà trong những ngày gần đây, nó lại tái xuất giang hồ, từ Thái Lan cho đến mấy tỉnh miền Tây, chưa biết hạ hồi phân giải sẽ ra sao. Thôi thì của Caesar trả về cho Caesar, dịch cúm gà xin trả về cho bộ Y tế cùng với những quan chức nhà nước. Còn bây giờ, gã xin hầu chuyện về dòng họ gà. Trong khi dòng họ gà đang lao đao vất vưởng, đang xất bất xang bang vì cơn dịch cúm, dân số giảm đi trông thấy mà chẳng cần phải kế hoạch hóa, thì có một loại gà khác vẫn cứ liên tục phát triển và gia tăng không ngừng, đó là là loại gà móng đỏ, loại gà mắt xanh mỏ đỏ. Danh từ này được cánh nhà báo Việt Nam dùng để gọi những cô gái điếm, kiếm ăn bằng cái vốn tự có, cái vốn trời cho. Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, thì gà là một loại súc vật có lông mao và cánh, đẻ trứng và ấp. Riêng con trống, đầu có mồng cao, dài và đỏ, chân có cựa dài và nhọn, lông dài và đẹp, thuộc loài hiếu chiến, gáy tiếng to vào giữa đêm và gần sáng. Tùy theo “giới tính”, người ta phân biệt gà trống tức là con đực và gà mái tức là con cái. Riêng anh gà trống nào bị người ta lấy mất khả năng truyền giống thì được gọi là gà trống…thiến. Tùy theo tuổi tác người ta phân biệt gà con là gà mới nở và còn theo mẹ, tựa như các em nhỏ mới mở mắt chào đời và đang còn trong lứa tuổi “babilac”. Gà giò là gà độ bốn năm tháng tuổi, tựa như các em thiếu nhi và thiếu niên. Gà mái tơ là gà mái mới lớn và sắp chịu trống, còn gà trống choai là gà trống mới lớn và chưa đạp mái, tựa như mấy anh chị em đang chuẩn bị hôn nhân để bước chân vào cuộc sống lứa đôi. Gà mẹ là gà mái đang trong thời kỳ chăn con. Và sau cùng là gà mái…già, tức là gà mái đã…quá “đát”. Tùy theo vóc dáng và thể hình, người ta phân biệt gà ác, gà ri là loại gà nhỏ con, lông trắng và da den, thường được hầm với thuốc bắc để xơi cho…khỏe người. Gà tre là loại gà rừng lai gà nhà, nhỏ con và hiếu chiến. Gà cồ là loại gà trống to, được dành để làm giống. Gà chọi là loại gà trống khỏe mạnh, ít lông, được nuôi để chọi cho dân mê cờ bạc ăn cá độ. Tùy theo nguồn gốc và địa dư, người ta phân biệt gà ta, gà tàu, gà tây, gà mỹ, gà rừng. Tùy theo sự khoái khẩu, dân bợm nhậu có thể chế biến thịt gà thành nhiều món tuyệt vời như gà luộc, gà xé phay, gà chiên, gà tiềm, gà hầm, gà rút xương, gà nướng muối, gà xối mỡ, gà rô ti, gà cà ri…thôi thì thiên hình vạn trạng đến quỉ thần cũng không lường nổi. Ba bộ phận được thiên chiếu cố nhiều nhất và đứng đầu trong “top ten”, đó là đầu, phao câu và bầu cánh: - Đầu gà, má lợn. - Thứ nhất phao câu, thứ nhì bầu cánh. Tuy nhiên, có một món xem chừng không mấy ai ưa thích, đó là món gân gà. Thực vậy, khi đã xơi gân gà, thì thường hay bị giắt răng. Khi đã bị giắt răng thì lấy ra chẳng được, nuốt vào cũng chẳng trôi. Chuyện rằng: Tào Tháo đem đại quân đi tiếp viện Hạ Hầu Uyên, bị quân Thục của Lưu Bị vây khốn. Đang buồn bực, bỗng người hậu cần bưng bát canh lên dâng. Tào Tháo nhìn vào thấy miếng gân gà. Vừa đúng lúc trời tối, Hạ Hầu Đôn bước vào xin TàoTháo ban cho mật khẩu để đi tuần tra ban đêm. Tào Tháo buột miệng nói hai tiếng: - Gân gà, gân gà. Hạ Hầu Đôn liền lui ra khỏi trướng, truyền cho binh sĩ mật khẩu đêm nay là: - Gân gà. Bấy giờ, Dương Tu đang làm chức Hành quân chủ bạ, nghe Hạ Hầu Đôn truyền mật khẩu như vậy, liền bảo binh sĩ chuẩn bị lui quân. Hạ Hầu Đôn lấy làm lạ, bèn hỏi duyên cớ. Dương Tu đáp: - Chúa công đã cho mật khẩu là gân gà, ta cứ suy ra thì biết. Vả chăng gân gà không có thịt mà lại dai. Không có mùi vị, nhưng bỏ đi thì lại tiếc. Hiện nay quân ta thua mấy trận lớn, muốn tiến lên không được, rút về thì sợ quân Thục cười cho. Ngụy Vương còn đang lưỡng lự, nhưng tôi biết nội trong nay mai, thế nào cũng có lệnh ban sư. Vậy ta sửa soạn đi là vừa. Tào Tháo có lòng oán hận Dương Tu, đang đêm đi tuần tiễu, biết được Dương Tu ra lệnh chuẩn bị rút quân, liền truyền trói Dương Tu lại và đem ra chém đầu vì tội phá rối quân ngũ, làm loạn ba quân. Nhưng sau quả nhiên Tào Tháo thấy ở lâu ngày không tiện, liền lui quân về Hứa Đô. Bấy giờ mới phục Dương Tu đã dùng mật khẩu gân gà mà biết trước mọi việc. Thế nhưng, hiểu được như vậy thì đã qúa muộn. (Thành ngữ diễn tích danh nhân từ điển của Trịnh Văn Thanh, trang 341). Gà là một con vật được nuôi trong nhà, nên rất thân thương và gần gũi với con người. Vì thế, tục ngữ ca dao nói rất nhiều về gà, thận chí nhiều lúc hình ảnh của nó còn được sử dụng để ám chỉ con người. Thực vậy, “Lục súc tranh công”, câu chuyện về sáu con vật được nuôi trong nhà, gồm bò, ngựa, dê, chó lợn và gà, thi nhau báo cáo thành tích của mình trước đại hội đảng. Tác giả đã dựa vào “Hàn thi ngoại truyện” mà đưa ra năm nhân đức của anh gà trống. Năm nhân đức ấy như sau: Thứ nhất, có ăn thì gọi nhau lại, đó là nhân. Thứ hai, có chí phấn đấu hăng hái, đó là dũng. Thứ ba, đêm gáy đúng giờ, đó là tín. Thứ tư, chân có cựa, đó là võ. Thứ năm, đầu có mào, đó là văn. (Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng, trang 299). Như vậy, nơi anh gà trống có đủ nhân dũng tín võ văn, năm nhân đức này xem ra nơi con người ngày càng bị hiếm. Về những thói hư tật xấu của dòng họ gà, người xưa đã đúc kết thành những câu tục ngữ, như kinh nghiệm sống ngàn đời cho con người. Gã chỉ xin đưa ra hai thói hư tật xấu mà thôi. Thói hư tật xấu thứ nhất, đó là: - Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm. Với loài chim loài gà, con đực thường làm duyên với con cái bằng cách khoe mẽ: Giang cánh, xòe đuôi, múa may, nhảy nhót . Anh gà trống khi muốn “gạ gẫm” chị gà mái, thường làm điệu làm bộ: Chạy vòng quanh, xệ cánh, xòe đuôi có hình chiếc quạt hay giống như cái đuôi con tôm: - Lưng tôm tít, Đít tôm càng, Chân đi lắt lẻo hai hàng, Được như lời ấy, lạng vàng cũng mua. Cũng có người lại cho rằng: Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Có nghĩa là khi chủ nhà đi vắng, thì chú gà tha hồ thọc đầu vào niêu tôm mà ăn vụng. Thói hư tật xấu này muốn nói lên rằng: Vắng người trên, thì kẻ dưới thường hay làm bậy, làm bộ, làm phách, làm tàng và lên mặt ta đây với mọi người. (Về cội nguồn của Lê Gia, trang 352). Thói hư tật xấu thứ hai, đó là: - Gà què ăn quẩn cối xay. Một con gà bị què không thể đi kiếm ăn xa, chỉ quanh quẩn bên cối xay để được hưởng những hạt rơi hạt vãi. Thói hư tật xấu này có ý nói rằng: kẻ bất tài, không thể kiếm được tiền của thiên hạ, bèn quay về bòn rút, kiếm chác những người thân yêu của mình.
Cũng trong chiều hướng ấy, người xưa còn bảo: - Gà cùng chuồng bôi mặt đá nhau. Thực vậy, nhìn đàn gà con ríu rít chung quanh gà mẹ, ai mà chẳng cảm thấy ngập tràn yêu thương. Thế nhưng, hình ảnh đẹp đẽ này có khi chẳng kéo dài được bao lâu, bởi vì mấy chú gà con, hoặc vì tranh ăn, hoặc vì ghen tức đã xúm vào đá nhau chí chóe, thậm chí đến cả phun máu đầu. Vì thế, người xưa mới phải lên tiếng khuyên can: - Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau. Kinh nghiệm này cũng giống như câu chuyện về ba chú rận con. Ngày xưa, có ba chú rận con, vì tranh nhau hút máu một con lợn, nên đã phải vác đơn ra ba tòa quan lớn để xin xét xử. Đang lúc đi đường, ba chú rận con gặp một cụ rận già. Cụ hỏi: - Ba cháu kiện nhau vì việc gì thế ? Ba chú rận con đồng thanh đáp: - Chúng cháu kiện nhau vì tranh giành một thửa đất màu mỡ. Cụ rận già bèn ôn tồn nói: - Tôi tưởng các cháu không nên tranh giành kiện tụng nhau làm chi. Chỉ nên lo con dao của tên đồ tể giết lợn và gáo nước sôi mà hắn đổ xuống để cạo lông con lợn mà thôi. Ba chú rận con bèn “ngộ” ra, biết là mình dại, kéo nhau về và cộng tác với nhau để làm ăn, no đói không bỏ nhau. Phần con lợn ngày càng gầy, chủ không dám bán thịt, cứ để vậy mà nuôi. Ba chú rận con nhờ đó mà được no đủ mãi. Từ đó, chúng ta thấy: anh em một nhà, người cùng một đoàn thể hay dân cùng một nước không được vì cái lợi trước mắt mà giành giật nhau, để rồi quên mất cái hại sau lưng, hay vì chút hư danh mà xâu xé, chém giết lẫn nhau, chẳng kể gì đến tương lai về lâu về dài. Trái lại, phải biết yêu thương đùm bọc lấy nhau: - Lá lành đùm lá rách. - Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. Như đàn gà con chỉ nên trêu chọc nhau chút ít cho chóng lớn và vui cửa vui nhà mà thôi: - Khôn ngoan đối đáp người trong, Gà cùng một mẹ chỉ tròng nhau chơi. Sau khi đã phác họa mấy nét chung chung về dòng họ nhà gà, bây giờ gã xin đi sâu hơn một tí về anh gà trống và chị gà mái. Trước hết là anh gà trống. Một trong những đặc điểm của anh gà trống là tiếng gáy. Đối với con người, tiếng gáy của anh gà trống có thể đem lại nhiều lợi ích. Ngày xưa khi “văn minh đồng hồ” chưa được phổ biến, người ta xác định giờ giấc ban ngày bằng ánh nắng mặt trời, và ban đêm bằng tiếng gáy của anh gà trống. Tiếng gáy của anh gà trống là như lời mời gọi mọi người hãy chỗi dậy để bắt tay vào công việc lao động. Đây là lời của một bà hiền phi khuyên nhà vua đăng triều cho sớm, để các quan khỏi phải đợi chờ: - Kê minh hỹ, kiều ký doanh hỹ. Có nghĩa là gà đã gáy, triều đình đã đông người. Đây cũng là lời của người vợ hiền thúc giục chồng mình thức dậy để chú tâm vào công việc đèn sách: - Nửa đêm gà gáy o o, Thôi anh đừng ngủ, còn lo học hành. Có một câu chuyện mà vì lâu ngày, gã đã quên mất tên những nhân vật chính, chỉ còn nhớ mang máng như sau: Một vị tướng nọ muốn trốn khỏi thành. Thế nhưng, ban đêm cửa thành khóa chặt, tới gần sáng mới được mở. Và thế là một thuộc hạ của vị tướng này có biệt tài nhái tiếng gà bèn dài cổ ra mà gáy. Viên quan canh cổng nghe tiếng nhái gà gáy, cứ tưởng là trời sắp sáng, vội vã đi mở cổng và viên tướng thoát thân một cách êm ru bà rù. Như trên gã vừa nói đối với con người, tiếng gà gáy có thể mang lại nhiều lợi ích, thế nhưng đối với những anh gà trống khác, tiếng gáy ấy lại là một lời thách thức rất đáng ghét và thế nào chúng cũng tìm cách trả đũa. Khi một con đã gáy, thì những con khác cũng cất tiếng gáy theo. Hai bên cùng cố gáy cho to, cho dài. Vì thế: gà thường tức nhau vì tiếng gáy, để rồi cuối cùng sẽ chết vì tiếng gáy của mình. Điều đó muốn nói lên rằng: Những lời khoe khoang phách lối thường làm cho người ta ghét mình, và rồi chính những lời khoe khoang phách lối ấy sẽ đem lại hậu quả tai hại cho bản thân. Chẳng hạn ngồi vào bàn tiệc, một anh nào đó vỗ ngực tự xưng mình là bậc…hoàng đế hay đế vương, có nghĩa là vua rượu đế. Uống rượu như uống nước. Và thế là bàn dân thiên hạ đều xúm vào mời anh ta hết ly này tới ly khác. Cuối cùng anh ta bèn gục chết tại trận. Thấy thế, mọi người bèn chép miệng: - Cho bõ ghét. Đúng là anh ta chết vì cái mồm huênh hoang của mình. Tuy nhiên, nơi anh gà trống có một sự ngược đời đáng suy nghĩ. Như trên chúng ta đã phác họa về anh gà trống: đầu có mồng cao và đỏ, lông dài và đẹp. Nhìn vào, chúng ta thấy anh gà trống bắt mắt hơn chị gà mái bội phần. Cũng vì thế, trong tiếng Pháp, người ta dùng từ “coquetterie”, để chỉ tính ưa làm dáng, làm đỏm. Từ này có nguồn gốc bởi chữ “coq” có nghĩa là anh gà trống. Như thế, anh gà trống phải thuộc về phái đẹp. Hay nói cách khác, theo nhãn quan dòng họ gà, thì phái đẹp phải là phái nam. Thế nhưng, sự đổi đời bất đắc dĩ này cũng đã kéo theo những hệ lụy phức tạp của nó. Hệ lụy thứ nhất đó là cảnh gà trống nuôi con. Chị gà mái vì cơn dịch cúm đã phải an nghỉ nơi chín suối, để lại bầy con cho anh gà trống. Giờ đây nhìn cảnh anh gà trống dẫn đàn con ra ngoài vườn, bới đất tìm miếng ăn, ai mà lại chẳng ngậm ngùi cảm động rơi cả nước mắt. Cũng thế, chị vợ chẳng may chết sớm, nhiều anh chồng lâm vào cảnh gà trống nuôi con. Đến khổ. Nào là phải bươn chải tìm chén cơm manh áo đem về nuôi xấp nhỏ. Nào là phải lo toan đủ mọi chuyện lỉnh kỉnh, từ tề gia cho đến nội trợ, toát cả mồ hôi hột mà cũng chẳng xong. Thế nhưng, có những anh chồng, chị vợ vẫn còn sống sờ sờ trước mặt, thế mà cũng vẫn phải anh dũng sống cảnh gà trống nuôi con. Sát vách nhà tôi có một chi vợ mơ làm ca sĩ. Anh chồng vì nể và thương, nên cũng đã đồng ý để chị vợ làm theo mơ ước của mình. Bước thứ nhất chị vợ thực hiện, đó là chạy ngay ra chợ mua sắm áo quần cùng mọi thứ phụ tùng lỉnh kỉnh của đờn bà con gái, từ chiếc áo dài quần trắng cho đến cái váy lấp la lấp lửng, từ thỏi son bôi môi cho đến đôi giày cao gót “nâng niu bàn chân Việt”. Tính tổng cộng cũng hết một món kha khá, khiến cho anh chồng tê tái cả mặt mày. Bước thứ hai chị vợ thực hiện, đó là nhờ bè bạn thân quen, chị vợ được một số tụ điểm văn nghệ quần chúng nhận vào chương trình “hát với nhau” hay “hát cho nhau nghe” chi đó. Vì giọng ca mới chỉ là bậc gần “sao”, chứ chưa phải là bậc sao chính hiệu con nai vàng, nên chị vợ phải chạy xô, mỗi tối hát vài ba nơi. Do đó, ngay từ ban chiều, chị vợ đã phải ngồi vào bàn trang điểm, bôi chỗ này, tô chỗ kia, rồi phóng xe đi mất tiêu. Anh chồng bế con tựa cửa nhìn theo, mà suýt nữa nước mắt rơi xuống đồm độp. Ban tối, gã nghe anh chồng hát ru đưa con vào giấc ngủ, sao mà não nùng và bi đát thế: - Ầu ơ! Đêm qua tát nước đầu đình. Để quên cái nón trên cành hoa sen. Ầu ơ! Ầu ơ! Thế nhưng con bé nhất định không chịu ngủ, nó cứ hỏi: - Mẹ đâu rồi ? Mẹ đâu rồi ? Rồi sau đó lại òa lên khóc. Anh chồng bế con bé chạy tới chạy lui, chạy từ trong nhà, chạy ra ngoài ngõ. Thế mà con bé khóc vẫn hoàn khóc, khóc cho tới khi mỏi miệng, khô cả nước mắt và thiếp ngủ lúc nào cũng chẳng biết. Lúc đó anh chồng mới được giải thoát, thở phào nhẹ nhõm. Bước thứ ba chị vợ thực hiện, đó là ngủ bù. Đêm đã thức khuya, thì ngày phải ngủ bù. Về tới nhà, chị vợ lăn quay ra ngủ, thậm chí còn nướng khê nướng khét, nướng tới chín mười giờ sáng mà vẫn chưa buồn dậy. Thành thử anh chồng lại phải lo toan mọi việc: giặt giũ áo quần, quét nhà quét cửa, tắm rửa cho con, lon ton đi chợ…Chính anh chồng đã tâm sự với gã: - Quả là tốn kém, nặng nề và mệt mỏi cho cái giấc mơ làm ca sĩ. Có vợ ca sĩ còn tệ hơn là…không có! Như thế là gã đã bắt đầu bàn về chị gà mái rồi đó. Nhân vì sự anh gà trống trở thành phái đẹp, mà nhiều chuyện tréo cẳng ngỗng bỗng xảy ra, làm đảo lộn cái trật tự xã hội. Và đây hệ lụy thứ hai đó là gà mái đá gà cồ. Thửa vườn sau nhà vốn được dùng để thả gà thả vịt, gã thấy dòng họ gà sống thật bình an hạnh phúc: đàn gà con ríu rít chung quanh gà mẹ. Anh gà trống ga lăng ve vãn chị gà mái. Nhưng rồi thỉnh thoảng cũng thấy một chị gà mái đuổi anh gà trống. Anh gà trống cắm đầu cắm cổ chạy te tua, chẳng còn hơi sức đâu mà gáy ò ó o. Trong cuộc sống cũng thế. Khi nói về nạn khủng bố, trên bình diện quốc tế, người ta nghĩ ngay đến những vụ đánh bom, những vụ bắt cóc của phe Hồi giáo quá khích. Còn trong phạm vi gia đình, người ta nghĩ ngay đến những vụ bạo hành, đánh đập của anh chồng đối với chị vợ. Tuy nhiên, thực tế đôi lúc không phải là như vậy, bởi vì chị vợ cũng có thể khủng bố anh chồng. Khủng bố bằng lời nói: nói dài nói dẻo nói dai làm cho đầu óc anh chồng lúc nào cũng bị căng thẳng. Khủng bố bằng hành động: thượng cẳng chân hạ cẳng tay, ăn thua đủ với chồng. Và nhất là khủng bố bằng chính sách bất bạo động: không cười, không nói, không làm, không hợp tác, sẵn sàng khăn gói quả mướp về với bu bất cứ lúc nào. Tới nước này thì liệu anh chồng có thể chịu đựng nổi sự lạnh lùng của chị vợ hay không ? Cho đến bây giờ, gã vẫn chẳng hiểu tại sao gà mái lại bị coi là dấu chỉ của những sự xui xẻo và kém may mắn. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ điển xưa tích cũ. Thực vậy, ngày xưa thiên hạ coi việc người đờn bà nắm chính quyền là một điều lạ lùng, chẳng khác gì gà mái gáy. Đời nhà Hán có Lữ Hậu, đời nhà Đường có Võ Hậu cả hai người đàn bà này, khi nắm được quyền hành trong tay, đã làm cho nước Tàu phải một phen thất điên bát đảo, ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. Vì thế, thiên hạ mới nói: - Ghê thay gà mái gáy càn, Non sông nghiêng ngửa, giang san đổi đời. Có lẽ cũng vì thế thiên hạ đã đồng hóa gà mái với tai ương hoạn nạn, khi nói: - Gà mái gáy gở, có nghĩa là báo điềm chẳng lành. - Gà bới thì khó, chó bới thì giàu. Đây là cách coi bói theo chỉ tay. Nếu những vết chỉ trên bàn tay mà nhiều, nhưng nhỏ, cạn và rối tung như những vết gà bới thì là số nghèo. Còn nếu những vết chỉ ấy mà ít, nhưng lớn, sâu và rõ như những vết chó bới thì là số giàu. (Về cội nguồn 2 của Lê Gia, trang 348). Còn rất nhiều vấn đề phải đá động tới dòng họ gà, chẳng hạn như: Tại sao gà đẻ gà cục tác, bác đẻ bác la làng ? Tại sao tiếng cục ta cục tác của gà mái đẻ, lại bị phiên âm thành vừa đau vừa rát ? Tại sao gà khôn lại giấu đầu và chim khôn lại dấu mỏ ? Tại sao người ta lại bảo “kê khẩu ngưu hậu” có nghĩa là thà làm mỏ con gà chứ chẳng chịu làm đít con trâu ? Và còn nhiều tại sao khác nữa. Để kết thúc, gã xin đưa ra hai sự kiện nho nhỏ, để ngày xuân năm mới được vui vẻ cả làng. Sự kiện thứ nhất, đó là việc con gà mái đẻ trứng vàng. Bác nông phu nọ có một con gà mái và mỗi ngày nó đẻ cho bác một quả trứng vàng. Bác rất mừng và nghĩ rằng trong bụng nó có một kho vàng to lắm, nên vội vã làm thịt. Thế nhưng, khi mổ con gà mái ra, thì nó cũng chỉ như mọi con gà khác, bên trong chẳng có tí vàng bạc nào cả. Câu chuyện này muốn nói rằng: đứng trước mối lợi từ từ nhưng vô tận, như cá dưới biển hay như cây trên rừng, chúng ta đừng vì tham lam mà vơ vét về một lần. Sự kiện thứ hai, đó là tiếng gà gáy giữa đêm khuya. Thực vậy, sau khi Phêrô chối Chúa ba lần trong sân nhà Thầy cả Thượng phẩm, thì gà liền gáy, đúng như lời Chúa đã tiên báo. Chính nhờ tiếng gà gáy này, Phêrô đã thức tỉnh, đã sám hối ăn năn và đã xứng đáng được Chúa đặt làm đầu Giáo hội. Còn chúng ta, có bao giờ chúng ta đã lắng nghe tiếng gà gáy âm thầm, vọng lên từ thẳm sâu cõi lòng, đánh thức lương tâm chúng ta hay chưa ? Gã Siêu
Khi học về tâm lý, gã được biết nơi con người có hai yếu tố luôn ảnh hưởng lẫn nhau, đó là GãSiêu 63
Khi học về tâm lý, gã được biết nơi con người có hai yếu tố luôn ảnh hưởng lẫn nhau, đó là yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Trước hết, yếu tố bên trong ảnh hưởng tới bên ngoài. Chẳng hạn khi buồn, ta có cảm tưởng như môi trường chung quanh cũng ảm đạm và tê tái như muốn chia sớt nỗi buồn đang đầy ứ trong cõi lòng của ta. Vì thế, Nguyễn Du đã viết: - Cảnh nào, cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ. Tiếp đến, yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới bên trong. Chẳng hạn vừa mới ngủ dậy mà bỗng trời đổ mưa, ta liền cảm thấy một chút lười biếng, chả muốn bắt tay làm bất cứ công việc gì, mà chỉ muốn nằm ngủ nướng trong chăn cho đẫy con mắt. Chẳng hạn đang đi thất tha thất thểu ngoài phố, bỗng nghe thấy một khúc quân hành, ta liền cảm thấy phấn chấn hẳn lên, bước đều bước theo điệu nhạc đong đưa. Một trong những yếu tố bên ngoài khá quan trọng đó là địa dư, hay nói một cách nôm na là nơi ăn chốn ở. Yếu tố này cũng đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành con người chúng ta. Thực vậy, nhìn vào bản đồ, gã thấy có bốn hướng: đông tây nam bắc. Như thế, người bắc khác với người nam và người phương đông khác với người phương tây. Thực vậy, tuy cùng là dân Việt mình với nhau, nhưng người bắc có một số đặc điểm khác với người nam. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ nho nhỏ mà thôi. Chẳng hạn tại miền bắc đất đại thì ít, còn sông Hồng Hà như bà già khó tính hay như cô gái đỏng đảnh, gây nên lụt lội thất thường. Chính vì phải đương đầu với một hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy, nên người bắc thường chí thú làm ăn, tích lũy tiền của phòng khi tai ương hoạn nạn xảy ra. Trong khi đó, tại miền nam, ruộng đất thẳng cánh cò bay, còn sông Cửu Long, như người mẹ hiền hay như cô gái dịu dàng, lụt lội cứ đúng hẹn lại lên, không có sức tàn phá dữ tợn, nhưng mang lại phù sa cùng mọi thứ tôm cá. Đứng trước môi trường được thiên nhiên ưu đãi như thế, người miền nam thường sống một cách nhàn hạ, chả cần phải ky cóp, nhưng làm ngày nào xào ngày ấy. Vào năm 1954, cả triệu người miền bắc di cư xuống miền nam. Sau năm mươi năm chung sống, những người bắc 54 cũng đã mang lấy không nhiều thì ít những đặc tính của người miền nam. Thành thử bây giờ họ không còn cần cù siêng năng mấy so với những người bắc 75, tức là những người vào nam sau ngày thống nhất đất nước. Bây giờ gã xin so sánh người tây với ta. Người tây dĩ nhiên là sống ở phương tây, còn ta thì dĩ nhiên sống ở phương đông. Vị trí đông và tây này cũng đã ảnh hưởng trên con người và tạo nên những khác biệt. Vì sống ở bắc bán cầu với khí hậu lạnh, người tây thường to con, trắng trẻo và râu tóc rậm rạp. Còn ta vì sống gần đường xích đạo, nên có vóc dáng nhỏ hơn, da vàng và râu tóc cũng thưa thớt hơn. Người tây dùng màu đen để chỉ sự tang tóc, còn ta thì lại dùng màu trắng. Người tây gọt từ dưới gọt lên, còn ta thì gọt từ trên gọt xuống. Người tây khi gọi thì ngửa tay ra mà vẫy, còn ta khi gọi thì úp tay xuống mà vẫy. Người tây không ăn thịt chó, còn ta thì lại coi thịt chó là một món…khoái khẩu. Thành thử trong những năm gần đây các thứ quán “cờ tây”, “nó kìa”, “sống trên đời”…mọc lên như nấm, có mặt trên khắp nẻo đường đất nước, từ thành thị cho đến thôn quê. Đó mới chỉ là những khác biệt lẻ tẻ, mà nếu kể ra thì sẽ chẳng bao giờ cùng. Trong khuôn khổ bài viết này, gã chỉ xin tập trung vào mấy điểm khác biệt chính yếu mà thôi. Trước hết là về phép tính ngày tháng năm. Người tây căn cứ theo dương lịch. Còn ta căn cứ theo âm lịch. Vậy thế nào là dương lịch và thế nào là âm lịch ? Dương lịch hay lịch tây là lịch tính theo mặt trời. Thực vậy, trái đất xoay quanh mặt trời cứ 365 ngày 6 giờ thì được một vòng. Vì thế, cứ bốn năm lại có một năm nhuận. Và năm nhuận được tính thêm một ngày vào tháng hai. Người tây chắc hẳn là phải ăn tết tây, tức là mừng ngày 1 tháng 1, ngày đầu năm dương lịch. Còn âm lịch, lịch ta hay lịch tàu là lịch căn cứ vào sự vận hành của mặt trăng chung quanh trái đất. Đối với âm lịch, năm nhuận là năm có thêm hẳn một tháng. Theo Trung Quốc, âm lịch có từ thời nhà Hạ và lấy tên mười hai chi mà đặt cho mười hai tháng. Ta chắc hẳn là phải ăn tết ta, hay còn được gọi là tết Nguyên đán, mừng ngày 1 tháng 1, ngày đầu năm âm lịch. Theo tác giả “Toan Ánh” trong “Tín ngưỡng Việt Nam” thì “Nguyên là bắt đầu, đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên đán là tết đầu năm, mở màn cho một năm mới với mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang”. Ngày nay, qua sự giao lưu văn hóa, đông và tây không còn cách biệt ngàn trùng nữa. Vì thế, ta vẫn giữ lại một số lễ tết chính, chẳng hạn tết Nguyên đán và tết Trung thu, đồng thời cũng mở rộng cửa đón nhận một số lễ tết của người phương tây, chẳng hạn tết Dương lịch. Và trong những năm gần đây giới trẻ, nhất là tại các thành phố lớn, cũng đã bắt đầu mừng những ngày lễ khác, như ngày tình nhân, ngày mẹ hiền, ngày phụ nữ, ngày quỷ dữ Halloween…Chẳng khác gì một anh chàng, vừa có họ với cô dâu lại vừa có họ với chú dể, nên khi được mời dự đám cưới, đã hăng hái phát ngôn vung vít: - Giai hay gái, tớ đều…xơi tuốt! Nếu đưa mắt quan sát, gã ghi nhận được hai đặc tính về con người và về xã hội. Hai đặc tính này đã tạo nên những sự khác biệt giữa ta và tây. Trước hết là về con người. Nếu so sánh, gã thấy người tây vốn thường suy nghĩ bằng cái đầu, còn ta vốn thường suy nghĩ bằng trái tim. Nói cách khác, người tây sống bằng lý trí hơn sống bằng tình cảm, còn ta thì sống bằng tình cảm hơn sống bằng lý trí. Đối với người tây, ngang bằng xổ thẳng, hai với hai phải là bốn, chứ không được nghiêng bên nọ, ngả bên kia. Còn ta thì khác, lắm khi nói vậy mà chẳng phải đâu và trong cách cư xử thường uyển chuyển và du di, bởi vì: - Một trăm cái lý không bằng một tí cái tình. Tiếp đến là về xã hội. Người tây vốn phát triển về khoa học kỹ thuật nên đòi hỏi sự chính xác. Còn ta vốn phát triển về nghề nông, nên cứ thủng thẳng mà đi. Có thể nói được rằng từ thời ông “Bành Tổ” và cho đến ngày hôm nay, xã hội ta vốn dĩ đã là một xã hội nông nghiệp: - Nhất sĩ nhì nông, Hết gạo chạy rông, Nhất nông nhì sĩ. Người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa. Mà đã trồng lúa, thì đòi hỏi nhiều lao động, nhiều công sức, nhất là vào thời buổi “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, chưa được hiện đại hóa bằng những thứ máy móc lỉnh kỉnh. Vì thế, cần phải đông con nhiều cháu, để cùng nhau chia sẻ và gánh vác những công việc nặng nhọc trên ruộng đồng. Từ hai đặc điểm này, gã xin đưa ra hai điểm nổi bật, khiến cho ta hoàn toàn khác biệt với tây. Điểm nổi bật thứ nhất, đó là đời sống tình cảm. Như trên gã vừa mới trình bày: người tây vốn suy nghĩ bằng cái đầu, lấy lý trí làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, nên phàm bất cứ sự việc gì cũng phải hợp lý, cũng phải có cái “lô gích” của nó. Chẳng phải chỉ người Anh mới có thái độ “phớt tỉnh Ăng Lê”, mà phần đông dân tây đều có thái độ ấy. Thí dụ như dân Đức máu còn lạnh và phớt tỉnh còn bạo hơn cả dân Ăng lê nữa. Cũng từ đó, cá nhân chủ nghĩa được liên tục phát triển nơi người tây, đặc biệt trong phạm vi gia đình. Thực vậy, một gia đình của người tây thường chỉ gồm có cha mẹ và con cái. Con cái vừa mở mắt chào đời đã được đặt ngủ trong nôi, chứ không được nằm ngủ chung với mẹ. Lớn lên một tí thì ở trong phòng riêng, một vùng cấm địa mà ngay cả cha mẹ cũng phải tôn trọng. Còn cha mẹ khi đã về già, thường được gửi vào những viện dưỡng lão, thỉnh thoảng trong những ngày lễ hay những ngày nghỉ cuối tuần, con cháu mới tới thăm viếng. Còn ta thì khác. Ta suy nghĩ bằng trái tim, lấy tình cảm làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động. Và trái tim thì có những lý lẽ riêng của nó. Thành thử ở mọi nơi và trong mọi lúc, tình nghĩa lúc nào cũng lai láng và tràn đầy, nhất là trong phạm vi gia đình. Thực vậy, gia đình ta ngày xưa, nếu đi từ người chủ, thì sẽ thấy hàng trên của người chủ là cha mẹ, ông bà, cụ kỵ. Nhưng thường chỉ có cha mẹ và ông bà, còn cụ kỵ nếu sống được thì cũng rất hiếm. Hàng ngang của người chủ là anh chị em. Còn hàng dưới của người chủ là vợ con. Tất cả cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, con cái, anh chị em đều là những người trong gia đình và thuộc về họ nội. Riêng ông bà, cha mẹ, anh chị em của người mẹ thì thuộc về họ ngoại, tuy không ở chung cùng một gia đình, nhưng vẫn là những người trong thân quyến, có liên hệ mật thiết với nhau. Gia đình ta ngày xưa thường quy tụ tất cả những thành phần kể trên và có thể được gọi là một đại gia đình. Nếu năm đời ở cùng một nhà với nhau, thì được gọi là ngũ đại đồng đường. Đây là một trường hợp rất họa hiếm và dường như không có, bởi vì tuổi thọ của các cụ ta ngày xưa không được cao lắm. Bốn đời ở cùng một nhà với nhau, thì được gọi là tứ đại đồng đường. Trường hợp này cũng có, nhưng rất ít. Ba đời ở cùng một nhà với nhau, thì được gọi là tam đại đồng đường. Đây là trường hợp bình thường vì chỉ gồm có ông bà, cha mẹ và con cháu. Nhiều khi những thành phần của đại gia đình này quây quần bên nhau trên một mảnh đất và làm thành như một trại gia binh. Tình cảm mặn nồng ấy không phải chỉ gắn bó những người trong cùng một nhà, mà còn gắn bó những người trong cùng một dòng tộc. Vì thế, mỗi khi có việc hệ trọng như cưới hỏi, ta thường “nhóm họ” để bàn bạc, trao đổi ý kiến và phân chia công tác. Tình cảm mặn nồng ấy cũng không phải chỉ gắn bó những người còn sống với nhau, mà còn gắn bó cả với những người đã khuất. Ta vốn có truyền thống biết ơn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây và uống nước phải nhớ đến nguồn, nên ta đã dành cho ông bà tổ tiên một chỗ đứng quan trọng trong đời sống. Ta có một cái đạo rất phổ thông được gọi là “đạo ông bà”, coi việc thảo kính ông bà và cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua đời là một bổn phận thiêng liêng và hầu như gia đình nào cũng có một bàn thờ tổ tiên đặt ngay giữa nhà. Điểm nổi bật thứ hai, đó là lòng quí trọng sự sống. Người tây vốn sống theo cá nhân chủ nghĩa, lấy sự hưởng thụ của mình làm gốc, vì thế con cái nhiều khi trở thành một gánh nặng, một thứ kỳ đà cản mũi, nên cần phải loại trừ, hay ít nữa cũng phải hạn chế, “sì tốp” bớt đi cho vừa. Đồng thời trước viễn tượng một tương lai đen tối, người tăng nhưng đất đai lại chẳng tăng và như vậy một mai sẽ lấy gì mà ăn, nên người ta đã quảng bá cho mọi thứ phương pháp tránh thai, ngừa thai và phá thai. Còn ta thì khác. Câu chuyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh được một trăm trái trứng, nở thành một trăm người con. Năm mươi người theo cha lên núi. Năm mươi người theo mẹ xuống biển, phải chăng đã trở thành một huyền sử dựng nước, mang tính cách tượng trưng cho một nền văn hóa quí trọng và phát triển sự sống. Hơn thế nữa, xã hội ta vốn là một xã hội nông nghiệp, vì thế rất cần phải đông con nhiều cháu, để cùng nhau san sẻ những công việc đồng áng nặng nhọc. Đúng thế, ta ước mong có nhiều con, nhiều cháu. Ước mong ấy được biểu lộ bằng cách chào hỏi lẫn nhau mỗi khi gặp gỡ: - Thế nào, được mấy cháu rồi. Và trong dịp tết, ta thường cầu chúc cho nhau: - Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là đông con, nhiều cháu lắm tiền nhiều của. Riêng với những anh chị mới lập gia đình thì: - Đầu năm sinh con trai và cuối năm sinh con gái!!! Như vậy, gia đình ta là một chiếc nôi luôn mở rộng đón nhận sự sống. Cha mẹ nào cũng mong sớm có con có cháu để bồng ẵm cho vui cửa vui nhà, cũng như để nối dõi tông đường. Sinh con là một chuyện, còn dạy con lại là một chuyện khác. Trong việc dạy con, ta có một quan niệm rất tinh tế và chính xác, khiến cho bàn dân thiên hạ phải “tâm phục khẩu phục”. Thực vậy, người tây tính tuổi từ ngày đứa con mở mắt chào đời, còn ta thì khác, ta tính tuổi đứa con ngay từ khi nó còn là một bào thai trong lòng mẹ. Vì thế, tuổi ta luôn trội hơn tuổi tây một năm. Cũng vì quan niệm đứa con đã là người, kể từ lúc nó còn là một bào thai, nên ta chia việc dạy con làm hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất được gọi là thai giáo, nghĩa là phải dạy con ngay từ lúc còn trong bụng mẹ. Theo Toan Ánh: “Vấn đề thai giáo cũng rất quan trọng một phần vì sức khỏe của người mẹ, một phần vì mọi tư tưởng và hành động của người mẹ trong lúc mang thai đều có thể ảnh hưởng tới bào thai trong bụng. Chính vì vậy, trong lúc mang thai, người đàn bà phải bó buộc làm nhiều việc xưa nay không làm, và phải kiêng nhiều điều xưa nay không cần kiêng. Mọi người cho rằng sự ăn không ngồi rồi hại cho sức khỏe của người mang thai và do đó ảnh hưởng tới cả bào thai. Trong lúc có thai, người đàn bà nên hoạt động tay chân, bằng việc làm. Nhiều gia đình khá giả, xưa nay người đàn bà không phải làm lụng nhiều, thế nhưng trong lúc có thai cũng phải bày đặt ra công việc để cho tay chân cử động. Việc kiêng cữ trong lúc mang thai rất nhiều: Đầu tiên trong sự ăn uống phải tránh những đồ quá bổ béo, e cái thai quá lớn khó sinh. Ngoài ra, theo sự mê tín trong dân gian, phải kiêng không được ăn cua để tránh sinh ngang, không được ăn ngao sò ốc hến để tránh con nhiều dãi dớt, không được ăn thịt thỏ để tránh sinh con sứt môi, không được ăn những quả sinh đôi để tránh sự đẻ song thai…Thường người đàn bà có thai nên ăn nhiều trứng gà để sinh con có da dẻ hồng hào. Trong vấn đề thai giáo, người đàn bà có thai còn phải tránh mọi cảnh tượng hãi hùng hay đau đớn, mọi ngôn ngữ thô bỉ, mọi sự giận dữ, mọi tranh ảnh bất chính…Đồng thời còn phải nói năng dịu dàng, cử chỉ khoan thai, luôn tươi cười giữ cho tâm hồn ngay thẳng, nhìn ngắm tranh ảnh các vị anh hùng, những phong cảnh thanh khiết để gây ảnh hưởng tốt đẹp cho đứa con sau này”. Tuy nhiên, đời không như là mơ, nên đôi khi đã xảy ra những chuyện chéo cẳng ngỗng. Một người mẹ trẻ trong thời kỳ mang thai đã mong ước con mình sinh ra sẽ đẹp như hoa hậu, hay ít nữa cũng đẹp như những người mẫu chân dài và sẽ thông minh như Einstein hay ít nữa cũng thông minh như một nhà bác học nào đó. Vì thế, chị ta luôn ngắm nhìn hình ảnh của những cô hoa hậu và những nhà bác học. Thế nhưng, khi được sinh ra, đứa bé lại có khuôn mặt xấu xí của Einstein và bộ óc đần độn của những cô người mẫu!!! Thời kỳ thứ hai là được gọi là giáo nhi, tức là dạy trẻ. Cũng theo Toan Ánh: “Kể từ khi đứa trẻ bắt đầu hiểu biết, thì cha mẹ đã phải chăm sóc tới để nó tập giữ tính thành. Dạy con từ thuở còn thơ, có nghĩa là ngay từ lúc còn nhỏ, đã phải tập cho nó những điều hay, những điều tốt. Nhân chi sơ tính bản thiện. Mỗi người sinh ra tính vốn tốt, cha mẹ phải răn dạy con để giữ lấy tính tốt đó. Tục ngữ có câu bé không vin cả gẫy ngành, có ý sánh ví đứa trẻ như một cành cây, phải uốn ngay từ lúc còn non, kẻo khi lớn lên, như một cành cây già, uốn sẽ gẫy”. Thế nhưng, ngày nay, với những phương tiện thông tin hiện đại, đồng thời với xu hướng toàn cầu hóa, ta và tây đang xích lại gần nhau bằng những bước chân khổng lồ. Gã không hiểu ta đã tạo được ảnh hưởng gì đối với tây, chứ tây thì đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên ta, khiến ta mất dần những nét đẹp truyền thống của mình. Gã xin đưa ra những thí dụ cụ thể: Chẳng hạn về lòng quí trọng sự sống. Theo một bài viết trên Ephata thì: Vấn đề nạo phá thai của thanh thiếu niên tại Việt Nam đang có khuynh hướng ngày một tăng cao, con số nạo phá thai hàng năm xấp xỉ với tổng số các cháu bé được sanh ra trên toàn quốc. Năm 1997, tổng số sanh trên toàn quốc là 1.138.607 ca, thì con số nạo phá thai là 934.302 ca. Năm 1998, số sanh là 1.101.791 ca, thì nạo phá thai là 861.353 ca. Riêng bệnh viện Từ Dũ mỗi năm có trên 40.000 ca nạo phá thai. Các nhà xã hội học ước tính số người nạo phá thai trong cả nước hàng năm có thể từ 2 đến 3 triệu người. Liên Hiệp Quốc cũng đã báo động và xếp nước ta vào một trong năm nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Chẳng hạn về sự chung thuy trong tình nghĩa vợ chồng. Theo một bài viết của Nữ tu Phạm Thị Oanh thì: Trong xã hội Việt Nam ở mọi thời đại đều thấy cảnh: lầu xanh, đa thê, tảo hôn, bán trinh để báo hiếu cha mẹ, loạn luân, đồng tính ái, đặc biệt là tệ nạn mãi dâm ngày nay đang xuất hiện dưới nhiều dạng thức: nhà hàng, cà-phê, Karaoke, xông hơi, xoa bóp, vũ trường, chat group trên Internet... Ngoài ra nhiều hình thức văn hóa phẩm đen đã khiến nhiều bạn trẻ ngộ nhận cho rằng tình yêu chỉ là sự cuốn hút của cảm xúc, chiếm hữu, tình dục, tiền tài, thương hại. Tình trạng yêu sớm, yêu thử, yêu ào ào theo phong trào, yêu như điên, yêu hết mình xẩy ra nơi học sinh cấp 2, 3, và trong giới sinh viên ngày một tăng. Đó phải chăng là những nhân tố làm nên một dòng nhạc “vô cảm” và “não tình” mà dư luận quần chúng trên báo chí gần đây đã đề cập đến khá nhiều: - Tình yêu đến em không mong đợi gì. Tình yêu đi em không hề nuối tiếc.” Tiếp đến là nhiều cặp sống chung không đăng ký kết hôn, không muốn có con để tránh trách nhiệm. Nhiều gia đình được hình thành trong một cam kết hời hợt lợi dụng lẫn nhau. Tất cả những vấn đề đó đã dẫn đến tỉ lệ ly dị ngày một tăng. Theo thống kê của Tòa An Nhân Dân Thành Phố Sài-gòn năm 2000, thì mỗi ngày trung bình có 32 vụ ly hôn, vị chi một năm là 11680 chỉ nguyên tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn tình trạng bạo hành trong gia đình về mặt thể chất, tinh thần và tình dục cũng rất phổ biến trong nhiều gia đình ở thành phố cũng như ở thôn quê. Chẳng hạn về tình nghĩa của những thành viên trong gia đình. Theo một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật số ra ngày 29.6.2003 thì tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra một vụ án đau lòng: Một người mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con gái, người mẫu Võ Thị Thu Tâm, trước ngày cô lên đường tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi sát hại con, đó là bà đã có hai mươi năm mua bán ve chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi bắt đầu nổi tiếng, cô đã mặc cảm về thân phận người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà và đối xử tệ bạc. Bài báo còn đưa ra những trường hợp điển hình khác nữa. Chẳng hạn mấy ngày trước, một phụ nữ ở huyện Bình Chánh trong khi cãi cọ với chồng, đã bị chồng đạp cho vỡ lá lách phải cấp cứu ở bệnh viện. Tòa án tỉnh Vĩnh phú vừa tuyên án tử hình Trần Văn Nam, do ham chơi và đua đòi đã giết bà nội để lấy năm chỉ vàng và bảy trăm ngàn đồng. Một đứa con trai trong những cơn say triền miên thường hay quậy phá, gây sự với cha mẹ già và đã ra tay giết người cha 74 tuổi bằng bốn nhát dao. Bài báo kết luận: Từ những vụ việc trên, không ít ý kiến cho rằng phải chăng những giá trị gia đình, đạo lý làm người đang bị sút giảm nghiêm trọng ? Tuy những vụ việc trên là cá biệt, nhưng đó là những báo động đỏ, là những bài học cảnh tỉnh sâu sắc cho những bậc cha mẹ, cũng như cho những người con, đánh động và thúc đẩy xã hội hướng sự quan tâm đến vấn đề giáo dục trong gia đình, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Cách đây ít bữa, gã đọc được một mẩu tin như sau: Tại Hà Nội, có người đã bỏ ra bạc tỷ để xây dựng một viện dưỡng lão, đầy đủ tiện nghi và được phục vụ như ở một khách sạn năm sao. Những “đại gia” và những người giàu sang có thể gửi cha mẹ già của mình vào đó. Tuy nhiên, người ta còn đang phân vân chưa biết đặt tên cho dịch vụ này là gì ? Là báo hiếu thuê, báo hiếu mướn hay là báo hiếu thay. Không khéo thì ta chỉ hấp thụ được những cái xấu, những cái cặn bã của người tây, để rồi trắng tay, mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi. Truyền thống cũ thì chẳng còn, mà cái mới thì lại khập khà khập khiễng. Tây chẳng ra tây, ta cũng chẳng ra ta. Đầu annamít, đít phăngxe mà thôi!!! Gã Siêu.
Hình như trong cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng”, có một bài viết được bắt đầu bằng câu: - Tôi sinh GãSiêu 64
Hình như trong cuốn “Tâm Hồn Cao Thượng”, có một bài viết được bắt đầu bằng câu: - Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Càng suy nghĩ về đờn ông con giai, gã càng nghiệm thấy thân phận phe ta thật là hẩm hiu, bẽ bàng và cay đắng. Chỉ nguyên những lễ hội trong năm mà thôi, cũng đã đủ cho phe ta tức hộc máu. Nào là ngày lễ tình nhân dành cho những người đang yêu, nào là ngày quốc tế phụ nữ vùng lên đòi quyền sống, nào là ngày tưởng nhớ công ơn mẹ hiền. Ấy là chưa kể tới ở Việt Nam còn có những ngày mừng kính những vị anh hùng…liệt nữ, như ngày Hai Bà Trưng. Tất cả những ngày này đều được tổ chức một cách long trọng và phe ta cứ việc móc hào bao, vui vẻ mua quà tặng cho cánh đờn bà con gái. Rất nhiều cố gắng đã được thực hiện để bàn dân thiên hạ vực ngày tưởng nhớ công ơn người cha lên để mừng vào trung tuần tháng sáu, nhưng xem ra chẳng có ma nào hưởng ứng, thành thử những cố gắng ấy chỉ là như một tiếng kêu trong sa mạc mà thôi: - Dạ tràng xe cát biển Đông, Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Đã tới lúc phe ta phải gào lên: - Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Hay hợp lời với nhà thơ Thế Lữ mà hét toáng: - Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ! Cám cảnh trước số mạng đen thủi đen thui ấy, một tác giả nào đó trong ngày tưởng nhớ công ơn người cha, tiếng Ăng Lê gọi là “Fathers’day”, đã viết một bài với tựa đề “Đền tội”, như để góp thêm một tiếng lẻ loi và cô đơn. Thế nhưng, khi đọc xong bài này, gã đã phải vỗ đùi đánh đét một cái và rất lấy làm tâm đồng ý hợp. Vì thế, gã xin mượn tạm một vài hình ảnh của tác giả, làm chất liệu để suy gẫm thêm về thập giá, về nỗi khổ đau của những ông chồng trong hoàn cảnh hiện nay. Có một câu chuyện vui kể lại rằng: Hôm đó vào lúc năm giờ chiều, thánh Phêrô đang chuẩn bị đóng cửa thiên đàng, thì bỗng từ xa nghe văng vẳng những tiếng kêu la thất thanh: - Lạy thánh cả, chờ con với, chờ con với. Thánh Phêrô giật mình quay lại. Không phải một người réo gọi, mà những hai người đang vội vã chạy tới, mồ hôi mồ kê toát ra nhễ nhại. Thấy vậy, thánh Phêrô bèn hỏi: - Hai anh đi đâu mà chạy cứ như Tào Tháo rượt vậy ? Cả hai vừa thở hổn hển, vừa trả lời: - Dạ, xin cho chúng con được vào thiên đàng. Thánh Phêrô nhìn hai người, rồi lên giọng: - Hai anh làm như thiên đàng là chỗ không người, muốn vào lúc nào là vào phải không ? Nói đoạn, thánh Phêrô quay lại nhìn chằm chặp như dò xét, rồi chỉ tay thẳng vào người đứng trước, tướng tá đẹp trai, vóc dáng hồng hào khỏe mạnh và hỏi: - Anh đã làm gì ở dưới thế ? - Dạ, con là linh mục đã bốn mươi năm và đang chuẩn bị mừng kim khánh. Nghe vậy, thánh Phêrô bèn bảo: - Anh đứng qua một bên. Còn anh kia, anh có gia đình, vợ con gì chưa ? Nếu có thì đã được bao nhiêu năm rồi ? - Dạ con đã có vợ được bốn mươi năm và đèo thêm bốn đứa con nữa. - Anh làm nghề gì ? - Dạ con là dân biểu. Vừa nghe nói tới hai chữ dân biểu, thánh Phêrô liền đùng đùng nổi giận: - Anh là đại diện dân mà không chịu khó làm việc vì dân, chỉ lo quơ tiền, vơ vét về cho đầy túi tham của mình, nên không xứng đáng vào thiên đàng chút nào. Anh ta vội vã giơ tay xin đính chính: - Dạ con không phải là dân biểu, nghị sĩ gì ráo cả. Con làm nghề đạp xe xích lô. Dân biểu cho chở đi đâu, thì con chở đi tới đó, nên ở dưới trần thế, cánh nhà báo ăn hại đái nát gọi chúng con là dân biểu. Thánh Phêrô nhìn kỹ anh dân biểu, thấy mặt mũi anh ta xanh lè, thân hình anh ta là một bộ xương cách trí biết đi, gầy ốm đong đưa như cây sậy, đứng ngồi không vững. Thánh cả bèn dang rộng hai tay ra ôm lấy con người khốn khổ ấy và nói: - Ngày hôm nay, con sẽ ở nơi vui vẻ cùng ta. Sau đó, thánh cả quay sang anh linh mục mà phán: - Anh phải xuống luyện ngục đền tội bốn mươi năm. Anh linh mục nghe vậy lấy làm tức tối, bèn khiếu nại: - Tại sao ngài cư xử quá bất công như vậy. Ở dưới đó, con đã thực hiện biết bao nhiêu công việc làm sáng danh Chúa và cứu vớt được biết bao nhiêu linh hồn. Không để cho anh linh mục nói hết, thánh Phêrô đã xua tay và ngắt lời: -Thôi. Biết rồi, khổ lắm nói mãi. Thế nhưng, anh đâu có hay anh dân biểu này đã đền tội bốn mươi năm rồi, còn anh thì chưa có đền tội một ngày nào hết. Nói xong, thánh cả dắt anh dân biểu vào thiên đàng và đóng sập cửa lại, mặc cho anh linh mục la lối om xòm. Câu chuyện trên đây muốn nói lên rằng: những anh đờn ông con giai nào đã lấy vợ và có gia đình, đều là những người đang đền tội cả đấy, nhưng mỗi người đền tội theo một cách thức khác nhau. Kinh nghiệm đời thường cho thấy: con người không thể nào sống cô độc lẻ loi như một pháo đài biệt lập, hay như một hòn đảo giữa biển khơi, nhưng sống là sống với người khác, nhất là với những người thân yêu trong cùng một gia đình. Tuy nhiên, trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền, bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng, hơn nữa nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình. Do đó, mỗi gia đình đều có những thập giá của mình. Con cái là thập giá của cha mẹ và cha mẹ cũng là thập giá của con cái. Vợ là thập giá của chồng và chồng cũng là thập giá của vợ. Cho nên Kinh Thánh đã khuyên: - Anh em hãy vác đỡ thập giá của nhau. Ngôn ngữ Việt Nam quả thực là tài tình và phong phú. Người phụ nữ khi còn là con gái thì dễ thương dễ mến làm sao. Sở dĩ như vậy bởi vì cái âm “ái” có nghĩa là yêu. Từ lời nói dịu dàng đến nhõng nhẽo, từ cử chỉ hiền hòa đến nũng nịu, tất tật đều làm cho trái tim phe đờn ông con giai bị lúc lắc. Thế nhưng, cũng người phụ nữ ấy một khi đã trở thành bà vợ, thì bỗng quay phắt 180 độ. Xưa rồi Diễm ơi, đâu còn nữa: - Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua… Sở dĩ như vậy bởi vì cái âm “ợ” nghe chẳng êm tai chút nào, nó làn cho ta như nuốt chẳng trôi, chỉ muốn đưa lên cổ họng,rồi ói ra ngoài mà thôi. Đồng thời, cái âm “ợ” nhắc ta nhớ đến danh từ rợ nghĩa là cái dây, cái xích: - Trai có vợ như rợ buộc chân. Hơn thế nữa, cái âm “ợ” còn khiến ta liên tưởng tới danh từ nợ. Vợ là cái nợ phải mang và phải trả trong suốt đời mình. Chẳng thế mà người ta đã bảo: - Anh đờn ông con giai đi lấy vợ là tự ý ký vào bản án chung thân, bế mạc cuộc đời. Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói: - Trong đời anh đờn ông con giai có hai ngày vui. Ngày vui thứ nhất là ngày cưới vợ, vì lúc ấy anh ta ngu ngơ ngớ ngẩn. Còn ngày vui thứ hai là ngày vợ chết, vì lúc ấy, anh ta được thoát khỏi…cái của nợ. Vậy đâu là những khổ đau âm thầm đã kết thành cây thập giá đời thường cho những anh chồng ? Dĩ nhiên là có nhiều, nhiều lắm. Nhưng trong khuôn khổ của bài viết, gã chỉ xin đưa ra hai cái tật mà thôi. Cái tật thứ nhất là nói dài, nói dẻo, nói dai. Tác giả bài “Đền tội” cho biết như sau: Các nhà tâm lý nghiên cứu về đời sống lứa đôi, đã đi tới kết luận như sau: - Đờn bà sau khi có chồng, thì nói nhiều hơn lúc chưa lấy chồng một trăm lần. Còn đờn ông thì ngược lại, nói ít đi một trăm lần sau khi có vợ. Chúng ta thử tưởng tượng xem khi các bà gặp nhau thì sẻ xảy ra những gì ? Trước hết là một cái chợ được hình thành. Tất cả những chuyện cà kê dê ngỗng đều được đem ra bày bán, còn hơn hàng cá hàng thịt. Hàng cá hàng thịt thì chỉ có một loại hay một món, có trả giá, có kỳ kèo. Còn đây thì không phải chỉ có một thứ, mà là đủ thứ…hầm bà lằng. Các nhà tâm lý còn cho biết: nơi nào có hai bà ngồi nói chuyện với nhau, thì sẽ có một người đờn ông bị đấu tố. Nhưng nơi nào có ba bà ngồi nói chuyện với nhau, thì sẽ có một người đờn ông bị đưa lên đoạn đầu đài, chết tức tưởi không kịp ngáp. Trong phạm vi gia đình, ngoài những tin tức lượm lặt từ vỉa hè hay xó bếp hàng xóm, thì điệp khúc buồn được phát đi phát lại nhiều lần trong ngày, đó là điệp khúc “cơm áo gạo tiền”. Thôi thì vật giá leo thang. Thôi thì học phí gia tăng. Thôi thì xăng dầu lên giá. Còn tiền lương khiêm tốn anh chồng đem về chỉ được có bằng ấy, làm sao mà chi dùng cho đủ ? Khốn khổ cho anh chồng làm thân trâu ngựa, hì hục kéo cày suốt năm suốt tháng, cốt tìm tiền kiếm bạc, mà đem về nộp cả cho bà xã. Tuy nhiên, không hiểu phe đờn ông con giai ta có nên nghe theo tất cả những lời nói dài, nói dẻo, nói dai ấy hay không ? Ngày xưa, trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã dựng nên ông Adong. Thấy ông buồn sầu vì cứ phải lặng lẽ sống cu ki một mình và âm thầm kéo lê những bước chân cô đơn, nên đã dựng nên bà Eva để ông có bạn. Ngài muốn Eva sẽ là người bạn đường đem lại nguồn vui cho ông trong suốt cả cuộc đời. Vì thế, Ngài đã ban tặng cho ông bà tất cả những gì tốt đẹp nhất, đặt ông bà lên làm chủ cá biển, chim trời cùng muôn loài muông thú. Ngài chỉ cấm không được ăn trái cây biết lành biết dữ mà thôi. Thế nhưng, bà Eva đã không vâng nghe lời Thiên Chúa truyền, giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, lại còn xúi ông Adong cùng ăn. Từ đó, ông bà mất đi tất cả. Còn chúng ta là con cháu cũng đã bị lãnh đủ hậu quả thảm khốc của tội tổ tông truyền: sống một cuộc sống vất vả vì phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có cơm ăn, một cuộc sống khổ đau vì đất đai đã trổ sinh gai góc và cuối cùng kết thúc bằng cái chết vì là thân tro bụi, nên sẽ phải trở về cùng bụi tro. Giả như ông Adong phe lờ và bỏ ngoài tai những lời dụ dỗ đường mật của bà Eva, nhất định không thèm nếm thử trái cấm, thì chắc chắn thân phận của phe đờn ông con giai cũng như của toàn thể nhân loại đã sáng sủa và tốt đẹp hơn nhiều. Kinh nghiệm của ông Adong đưa ra cho chúng ta một vấn đề vừa cụ thể lại vừa nghiêm trọng, mà gã cũng vừa mới nêu lên, đó là: - Có nên nghe lời vợ hay không ? Thiết tưởng phe đờn ông con giai ta cần phải suy nghĩ thật kỹ càng và nghiêm chỉnh về vấn đề này, bởi vì kinh nghiệm ông Adong vẫn còn đó, sờ sờ trước mặt, rồi lịch sử cũng đã minh chứng: - Vua nghe vợ, mất nước. Thế mà trong phạm vi gia đình, biết bao nhiêu anh chồng vẫn còn mê muội cho rằng: - Lệnh vua thua lệnh bà. - Nhất vợ nhì giời. - Vợ muốn là trời muốn. Thành thử mèo vẫn hoàn mèo và chó đen vẫn giữ mực, không khá lên được !!! Cái tật thứ hai là vung tay quá trán. Lương ông xã thì ba cọc ba đồng, thu nhập chả được bao nhiêu, mà bà vợ thì lại có đam mê mua sắm, bóc ngắn mà lại cắn dài, con nhà lính nhưng tính lại nhà quan, thành thử sự thiếu hụt là như một căn bệnh mãn tính, khiến mọi người đều phải bó tay. Tại Việt Nam cũng như tại nhiều nơi trên thế giới, các siêu thị hiện giờ mọc lên như nấm sau cơn mưa và các “shop” liên tục phát triển vì ăn nên làm ra. Họ đã tung vào thị trường biết bao nhiêu “độc chiêu” để dụ dỗ các thượng đế: Nào là mua hàng có thưởng, nào là khuyến mãi giảm giá 50%, nào là mua trả góp…khiến cho các bà các cô, cứ như con nai vàng ngơ ngác, mê mẩn cả tâm thần và máu “shopping” bốc lên đùng đùng. Thấy cái lợi trước mắt mà quên mất cái hại sau lưng. Hiện tượng này phải chăng nên được gọi là “hội chứng shopping”!!! Thực vậy, tôi có một cô em thuộc loại ghiền siêu thị. Vào những ngày nghỉ, thì chương trình của cô nàng rất giản đơn : sáng đi siêu thị, chiều đi siêu thị và tối cũng đi siêu thị. Nhiều khi đi chỉ để mà ngắm các thứ hàng hiệu, rồi thèm rỏ rãi, vì tiền đâu mà mua, có nằm mơ cũng chả thấy. Có những bà vợ thuộc hàng chuyên viên, luôn nghiên cứu và sưu tầm những cửa hàng khuyến mãi. Hễ chỗ nào khuyến mãi là nhào vô ăn có, bởi vì các bà ấy lý luận: - Giá rẻ mạt, tội gì mà không mua. Và thế là các bà ấy lôi về nhà đủ mọi thứ lỉnh kỉnh. Thậm chí có thứ chẳng được xài tới một lần. Chỉ tội cho các ông chồng, cứ phải xì tiền ra, mà mặt thì nhăn như cái bị rách. Chuyện rằng: Trong phiên tòa xử một ông chồng về tội hành hung vợ. Quan tòa phán : - Anh không được quyền…đá vợ, làm như vậy là phạm tội. Tòa tuyên án anh ba tháng tù treo và không được tới gần vợ 3 mét trong suốt thời gian thụ án. Ông chồng đau khổ xin được hỏi lại : - Thưa quan tòa, nếu bà vợ trong gia đình cứ xài tiền lương của chồng một cách xả láng. Tối ngày shopping, tụ họp bài cào tứ sắc, chẳng lo lắng gì đến con cái, đã vậy khi bảo ban thì chẳng nghe, lại còn văng tục chửi thề. Trong trường hợp như thế thì phải làm sao bây giờ ? Quan tòa nghe nói, tức khí nổi xung, đập bàn cái rụp và tuyên bố hách xì xằng: - Đánh bỏ mẹ nó đi, cho chừa cái tật hỗn láo. Nói vậy thôi, chứ đa số đờn ông con giai ta đều hiền như ông…bụt, và nhất là mắc phải chứng bệnh sợ vợ: - Lời vợ dặn, phải lắng nghe, Mai sau “khôn lớn” mà khoe mọi người. Nói ra xin hãy chớ cười, Vợ ta ta sợ ! Vợ người…còn lâu. Chứng bệnh này dường như đã thấm sâu vào máu huyết con tim, ám vào lục phủ ngũ tạng nên không còn thuốc chữa. Thực vậy, rất nhiều lần phe đờn ông con giai muốn vùng lên, thoát khỏi cái “cồng” bà, mà liền thất bại ngay từ trong ý đồ, ngay từ trong trứng nước. Hôm ấy, trời đang nắng bỗng dưng có một cụm mây đen kéo tới và bất ngờ đổ xuống những giọt nước mưa, khiến cho áo quần đang phơi, không kịp chạy đều bị ướt hết trơn hết trọi. Và thế là ông chồng liền bị bà vợ xài xể cho một trận tơi bời hoa lá: - Anh thật là phường vô tích sự, chỉ mỗi việc chạy quần áo mà làm cũng không xong. Còn ra cái thể thống gì nữa, sao không chết đi cho rồi. Nghe vậy anh hàng xóm bèn góp ý với ông chồng: - Tại sao anh cứ để cho bà ấy xài xể và lên mặt như vậy. Phải tay tôi ấy à… Vừa phát ngôn tới đây, anh hàng xóm liền nghe thấy một giọng nói oang oang từ phía sau: - Gớm thật, phải tay tôi ấy à… Quay mặt lại, thấy bà xã đang hầm hầm tiến tới. Và thế là anh hàng xóm bèn cười toe toét: - Dạ thưa mình, phải tay tôi thì tôi đã chạy quần áo từ trước khi có những đám mây đen. Phe đàn ông con giai của một làng kia bị bàn dân thiên hạ chê là bọn sợ vợ. Nhân ngày các bà đi chợ hết, họ mới ngấm ngầm thông báo tổ chức đại hội. Phen này phe ta nhất định phải rửa nhục. Một là để cho các bà ấy biết tay ta. Hai là để những kẻ xấu bụng thối mồm làng khác không còn dí mũi vào mà khinh bỉ ta nữa. Họ đưa ra hết sáng kiến này tới tối kiến kia. Nhưng trước câu hỏi ai sẽ thực hiện, thì xem ra mọi người đều e dè sợ sệt. Cuối cùng, một vị cũng đã can đảm giơ tay xin lãnh nhận nhiệm vụ cao cả ấy. Anh ta nói: - Phen này nhất định phải vùng lên, cho các bà ấy lãnh đủ. Giữa lúc đang hăng tiết vịt như vậy, thì các bà đi chợ về. Nhìn thấy quang cảnh đại hội, các bà bèn vứt quang, vứt thúng…chỉ còn mỗi cái đòn gánh và xông vào chiến trận. Và thế là các ông bèn lỉnh mất tiêu, tìm chỗ nấp để xem sự việc xảy ra làm sao. Chỉ còn mỗi một anh tình nguyện là bám trụ ở lại để chống cự. Các ông mừng thầm vì từ nay mình có một nhà lãnh đạo thật xứng đáng. Nhưng sao cứ thấy anh ta quì gối mãi ? Té ra, khi các bà xông tới, anh ta liền bị nhồi máu cơ tim và chết bất đắc kỳ tử trong tư thế quì gối như vậy. Giai làng nọ cũng mang tiếng là phường râu quặp, nhưng họ lại có máu văn nghệ. Vì thế, thay vì bạo động, họ vận dụng lời ca tiếng hát để đấu tranh đòi quyền…sướng. Vào một đêm trăng sáng, họ tụ lại với nhau, rồi phệu lời ca và cùng nhau tập dượt: - Ta không chê vợ người, ta không khen vợ ta… Đang say mê với lời ca như vậy, bỗng có mấy bà xuất hiện, thế là họ bèn đổi tông, trước cứng như sắt, thì bây giờ lại mềm nhũn như con chi chi: - Nhưng dù sao đi nữa, ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Thế mà cũng đòi đấu với tranh, đấm với đá. Một hãy cúi đầu xuống như muông chim cho rồi. Mỗi khi gặp những người khổ đau, thiên hạ thường chia sẻ và khuyên nhủ: - Âu cũng là thập giá Chúa gửi đến, ráng vác đời này để được thưởng đời sau. Một người đờn ông mon men tới cửa thiên đàng. Thánh Phêrô bèn hỏi: - Trong cuộc sống nơi trần gian, anh đã làm được những gì để xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Anh đờn ông gãi đầu gãi tai mà chẳng thấy mình làm được một việc gì tốt lành cả. Cuối cùng, như sực nhớ ra điều gì, anh bèn nói: - Thưa thánh cả, con có vợ ạ. Nghe vậy, thánh cả Phêrô bèn vân vê chòm râu bạc và nói: - Ngươi cũng đã đau khổ và vác thập giá như ta. Thôi hãy vào thiên đàng mau đi. Và để kết luận, gã xin ghi lại mấy mấy câu thơ như một an ủi cho phe ta: - Mỗi lần em nổi tam bành, Vào phòng đóng cửa mình anh nguyện cầu. Nhìn anh, Chúa cũng lắc đầu. Thôi con ráng chịu, đời sau phúc lành. Gã Siêu.
Trong số trước, gã đã trình bày hình ảnh về đờn bà con gái xưa và nay, bằng cách mượn kiểu diễn GãSiêu 65
Trong số trước, gã đã trình bày hình ảnh về đờn bà con gái xưa và nay, bằng cách mượn kiểu diễn tả của Linh mục Thiện Cẩm, đó là sự tiến hóa từ tam tòng nhảy vọt sang tam…vòng. Cùng một thể thức ấy, hôm nay gã xin đề cập đến sự chuyển biến từ tứ đức bỗng chốc trở thành tứ…sắc nơi đờn bà con gái thời xưa và thời nay. Khi được hỏi thế nào là cái đẹp, có người đã đưa ra một câu định nghĩa xanh dờn như thế này: - Đẹp, đó chính là con cóc cái dưới mắt con cóc đực. Câu định nghĩa méo mó này muốn nói lên rằng: ở thế gian, chẳng bao giờ có được một cái đẹp khách quan, mà chỉ toàn là những cái đẹp chủ quan mà thôi. Chủ quan của từng người, cũng như chủ quan của từng thời. Tại sao anh chàng “bô…giai” nọ lại vớ ngay phải cô vợ xấu ơi là xấu ? Thế nhưng, xấu là xấu dưới mắt bàn dân thiên hạ, chứ còn dưới mắt anh chàng “bô giai” nọ, nhất là khi đã chịu đèn và say tình, thì cô nàng vẫn là người đẹp nhất trên đời: - Mũi em mười tám gánh lông, Chồng yêu, chồng bảo: râu rồng trời cho. Đêm nằm thì ngáy o o, Chồng yêu, chồng bảo: ngáy cho vui nhà. Đi chợ thì hay ăn quà, Chồng yêu, chồng bảo: về nhà đỡ cơm. Trên đầu những rác cùng rơm, Chồng yêu, chồng bảo: hoa thơm rắc đầu. Cũng thế, tại sao cô nàng thuộc vào hàng “lá ngọc cành vàng” lại quơ ngay phải một anh chàng thuộc hàng “nông nãi, vũ phi chi cục mịch” ? Thế nhưng, nông nãi và vũ phu chi cục mịch là đối với người ngoài, chứ còn đối với cô nàng, thì anh chàng vẫn mãi mãi là…hoàng tử của lòng em: - Chồng ta áo rách ta thương, Chồng người áo gấm, xông hương mặc người. Không phải chỉ mỗi người, mà hơn thế nữa, mỗi thời cũng đều có những tiêu chuẩn riêng để xác định cái đẹp. Ca dao đã diễn tả về người con gái đẹp ngày xưa như sau: - Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Năm thương cổ yếm đeo bùa, Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng. Bảy thương nết ở khôn ngoan. Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh. Chín thương cô ở một mình, Mười thương con mắt có tình với ai. Từ bài ca dao trên, gã thấy phảng phất và bàng bạc tinh thần của Nho giáo. Thực vậy, xã hội Việt Nam thời xưa đã mang nặng dấu ấn của Nho giáo. Người ta lấy những lời giảng dạy của Khổng Tử làm khuôn vàng thước ngọc cho cách cư xử, cũng như làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Đối với cánh đờn ông con giai, ngoài việc tuân giữ “tam cương”, ba rường cột quan trọng trong đạo làm người, ba mối dây liên hệ chính yếu trong xã hội, đó là quân thần, phụ tử và phu phụ, đạo vua tôi, đạo cha con và đạo vợ chồng, lại còn phải thực thi “ngũ thường”, năm nhân đức quen thuộc của con người, đó là nhân nghĩa lễ trí tín. Riêng đối với phe đờn bà con gái, ngoài việc tuân giữ “tam tòng”, ba sự tùng phục chính yếu, đó là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, khi còn ở nhà thì theo cha, khi đi lấy chồng thì theo chồng và khi chồng chết thì theo con, lại còn phải thực thi tứ đức, bốn nhân đức đặc thù của người phụ nữ, đó là công, dung, ngôn, hạnh. - Phận gái tứ đức vẹn tuyền, Công dung ngôn hạnh giữ gìn chớ sai. Đức thứ nhất là công. Vậy công là gì ? Xin thưa rằng: - Công là đủ mùi xôi thức bánh, giỏi giang từ đường chỉ mũi kim, nói chung việc nhà phải khéo léo. Dường như Thượng đế đã ngấm ngầm thỏa thuận và phân chia: đờn bà thì quán xuyến việc nhà, còn đờn ông thì lo toan việc làng việc nước. Hai chữ “việc nhà”, mới nghe qua, thấy nó thật nhẹ nhõm và đơn giản, nhưng bước vào rồi, mới thấy nó thật nhiêu khê và rắc rối, cũng vất vả toát cả mồ hôi hột, chứ chẳng nhẹ nhõm và đơn giản tí nào. Trước hết, việc nhà chính là việc sắp đặt và tổ chức trong gia đình. Đúng thế, phải làm sao cho căn nhà được sạch sẽ và đẹp đẽ, được thứ tự và ngăn nắp, biến nó trở thành một tổ ấm dễ thương và dễ mến, để rồi sau những giờ phút lao động mệt mỏi, sau những bươn chải kiếm tìm chén cơm manh áo, thì ai cũng thầm mong sớm trở về, hầu được nghỉ ngơi và thư giãn. Thử tưởng tượng xem một anh chồng suốt ngày quần quật trên ruộng đồng, đổ mồi hôi xôi nước mắt, hay một ông xã ngồi nơi công sở, bị cấp trên chèn ép, bị cấp ngang cạnh tranh và bị cấp dưới chống đối…mang cái đầu óc căng thẳng về nhà, chỉ mong sao được khuây khỏa. Thế mà khi bước chân vào nhà, thì ôi thôi, cả một bãi chiến trường ngổn ngang và bầy hầy trước mặt. Áo quần vứt bừa vứt bãi, hay giăng mắc lung tung. Thậm chí, có những thứ “nội y” cần cất dấu, mà vẫn cứ được vô tư phơi bày ra trước mắt bàn dân thiên hạ. Ly tách bẩn thỉu, bàn ghế mỗi cái một nơi. Thẹn đỏ cả mặt, mỗi khi có bè bạn hay khách khứa ghé thăm. Chính vì thế, thiên hạ thường gọi người vợ là người nội trợ, tức là người trợ giúp những việc trong nhà: - Bề nội trợ việc trong xem xét, Siêng năng thì trăm việc đều nên. Nói là trợ giúp, chứ thực chất là quản lý và điều hành tấr ráo cả mọi sự, như Tú Xương đã từng xác quyết: - Việc nhà phó mặc cho bu nó, Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Cái uy quyền “nội thất” này, không oai phong lẫm liệt, không hét ra lửa khiến cho nhiều đầu gối phải run lập cập, để rồi chỉ còn nước cúi gập mình xuống, hay uốn cong người lên mà luồn lách lươn lẹo…nhưng âm thầm và kín đáo, dầu vậy cũng vẫn có được một tác dụng ghê gớm. Chính vì tác dụng ghê gớm này, mà thiên hạ đã không ngần ngại phong cho các bà xã cái hàm…nội tướng. Và khi vị nội tướng đã phán, thì tất cả đều phải thi hành, hay khi vị nội tướng đã ra tay, thì mọi người đều phải răm rắp vâng theo, từ ông bố cho chí đến đứa con. Chả thế mà người xưa đã bảo: - Lệnh ông không bằng cồng bà. Phân tích câu tục ngữ này, gã nhận thấy: lệnh là thứ chiêng đồng loại nhỏ dùng để đánh làm hiệu mà xuất quân, đồng thời cũng có nghĩa là lời sai khiến. Còn cồng là thứ chiêng đồng loại lớn dùng để đánh làm hiệu mà lui quân. Như vậy khi cái lệnh của ông được đánh thì mọi người sẽ vâng nghe mà ra đi. Nhưng nếu cái cồng của bà cũng vang lên, hẳn sẽ át được tiếng lệnh của ông, khiến mọi người phải nghe theo mà rút về. Thậm chí nhiều lúc còn: - Lệnh vua thua lệnh bà. Và như thế, trong phạm vi gia đình, quyền bà thường lớn hơn quyền ông. Chả thế mà dân mánh mung, cũng như dân áp phe áp chảo đã triệt để khai thác đặc điểm trên. Thực vậy, muốn cho công việc được thuận buồm xuôi gió, nói với “tướng ông” xem ra có vẻ bị khó, thế là họ bèn đi cửa sau, giãi bày tâm sự với “tướng bà”. Một khi tướng bà đã gật đầu ô kê, thì mọi việc đều xong tuốt luốt. Bởi vì, tướng ông nỡ lòng nào mà từ chối những lời thỏ thẻ ngọt như đường cát, mát như đường phèn của tướng bà, dù có phải tra chân vào cùm và bị thân bại danh liệt… cũng vẫn một lòng chịu vậy !!! Tiếp đến, việc nhà là việc bếp núc và nấu nướng. Cánh đàn ông con giai, xem ra anh nào cũng thích ăn ngon. Đối với họ, bao tử đi trước, rồi việc làng việc nước mới theo sau. Thậm chí những kẻ phàm ăn tục uống còn phát biểu: - Tình yêu đến qua ngả đường của bao tử. Ngay cả trong phạm vi tôn giáo, đằng sau những việc đạo đức thiêng liêng cao cả, thì dường như người ta đều thấy bóng dáng của mâm cỗ, của dạ dày phảng phất: - Trước là kính thánh, sau là…đánh chén. - Có thực mới vực được đạo. Chẳng thế mà họ đã từng giải quyết chuyện quốc gia đại sự, hay những phi vụ làm ăn trị giá bạc tỷ bên bàn tiệc đó sao. Còn nói theo kiểu thánh Phaolô, thì đôi lúc họ đã trót lấy …cái bụng của mình làm chúa. Vì thế, người vợ “ngon lành” cũng phải là người vợ thành thạo việc bếp núc và nấu nướng: - Vắng đờn ông quạnh nhà, Vắng đờn bà quạnh bếp. - Xem trong bếp, biết nết đờn bà. Nhiều bà mẹ đã khéo lo cho con gái, bằng cách gửi con gái theo học một lớp cắt may và một khóa nữ công gia chánh, là như một mớ hành trang cần thiết cho chuyến đi về nhà…chồng. Sau cùng, việc nhà còn là việc giáo dục con cái. Thực vậy, ông bố thường bận bịu với chuyện cơm áo gạo tiền, lắm lúc bất đắc dĩ phải lấy “ngoài đường” làm nơi thường trú, còn “trong nhà” chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Vì thế, người mẹ là người sống gần gũi con cái hơn, hiểu biết con cái hơn và cũng được con cái yêu thương hơn, nên cũng thường để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên con cái. Chẳng vậy mà người xưa đã bảo: - Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Việc giáo dục này cần phải được bắt đầu ngay khi con cái còn là một bào thai và nhất là khi chúng bắt đầu hiểu biết , bởi vì: - Bé không vin, cả gẫy cành. - Uốn cây thừ thưở còn non, Dạy con từ thưở con còn đương thơ. Một tên tướng cướp ngày kia trở về nhà thăm mẹ già. Bà mẹ dẫn con ra một góc vườn, rồi hai mẹ con cùng ngồi thủ thỉ và tâm sự với nhau. Bà mẹ ra sức khuyên nhủ người con từ bỏ con đường lầm lạc và làm lại đời mình. Nghe nói thế, người con bèn chỉ vào một cây to và nói: - Liệu mẹ có còn uốn được cây này nữa không ? Chắc chắn là không. Vậy tại sao mẹ không dạy con từ lúc con còn nhỏ, bây giờ con đã là một cây to, thì không thể uốn được nữa. Nói xong, tên tướng cướp lặng lẽ bỏ đi. Đức thứ hai là dung. Vậy dung là gì ? Xin thưa rằng: - Dung hay dong là hình dáng, tướng mạo bên ngoài, như người đời thường bảo: - Xem mặt mà bắt hình dong, Con lợn có béo thì lòng mới ngon. Dung ám chỉ sắc đẹp của người phụ nữ. Sắc đẹp này, trước hết được chú trọng vào khuôn mặt, vì thế người ta mới gọi nhan sắc là vẻ đẹp của khuôn mặt nói riêng và vẻ đẹp của toàn thân nói chung: - Chồng em vừa xấu vừa đen, Đã kém nhan sắc, lại hèn chân đi. Người con gái đẹp là người con gái có nét mặt tự nhiên, không tha thướt lả lơi.: - Cổ tay em trắng như ngà, Con mắt em liếc như là dao cau. Miệng cười như thể hoa ngâu, Cái khăn đội đầu như thể hoa sen. Sắc đẹp ấy không phải chỉ được thể hiện trên khuôn mặt, mà còn được thể hiện nơi thân hình: - Những người thắt đáy lưng ong, Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con. Thế nhưng, ngoài sắc đẹp trời ban cho, người con gái còn phải biết kết hợp với việc ăn mặc, sử dụng trang phục sao cho hài hòa, thích hợp với từng người, theo từng tuổi, ở từng nơi và trong từng lúc: - Áo đen ai nhuộm cho mình, Cho duyên mình đậm, cho tình anh thương. Đức thứ ba là ngôn. Vậy ngôn là gì ? Xin thưa rằng: - Ngôn là biết trình thưa vâng dạ. Lời nói vừa tế nhị lại vừa ôn tồn, vừa lễ độ lại vừa khôn ngoan, biểu hiện được nhân cách của người phụ nữ, đồng thời còn chứng tỏ mình là một con người có giáo dục, có văn hóa: - Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Sau cùng, đức thứ tư là hạnh. Vậy hạnh là gì ? Xin thưa rằng: - Hạnh là đường ngay thảo kính, nết na đằm thắm. Nói cách khác, hạnh chính là sự đạo đức, nết na của người phụ nữ. Muốn được bàn dân thiên hạ coi là đẹp, thì bản thân họ phải là con ngoan, vợ hiền và dâu hiền, phải biết trung thực và nhân hậu, kính trên và nhường dưới. Đây chính là yếu tố căn bản nhất tạo thành nét duyên ngầm của người phụ nữ. Nét duyên ngầm này sẽ không bị tàn phai với thời gian, trái lại ngày càng thêm đậm đà, khiến cho mọi người phải cúi đầu tâm phục khẩu phục: - Cái nết đánh chết cái đẹp. Nếu phải chọn lựa giữa nhan sắc và đức hạnh, người xưa không ngần ngại chọn ngay đức hạnh, bởi vì như vừa trình bày, đức hạnh chính là nét duyên ngầm của đờn bà con gái, không bị thời gian là cho nhạt nhòe: - Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người. Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu chuyện như sau: Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp: một người đẹp, còn một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh chê người thiếp đẹp, lấy làm lạ bèn dò hỏi một thằng nhỏ giúp việc, thì nó trả lời rằng: - Người thiếp đẹp tự coi là đẹp, nên mất đẹp. Còn người thiếp xấu, tự biết là xấu, nên không còn xấu nữa. Nghe vậy, Dương Chu bèn gọi học trò lại và bảo: - Các con hãy nhớ lấy câu này: người giỏi mà bỏ được cái thói ”tự cho mình là giỏi”, thì đi đến đâu ai mà chẳng trọng kính, ai mà chẳng yêu mến. Sau khi đã tìm hiểu về tứ đức của đờn bà con gái thời xưa, bây giờ chúng ta hãy nhìn vào xã hội hôm nay, để xem tứ đức ấy còn tồn tại, hay chỉ là một kỷ niệm buồn của dĩ vãng, một chuyện đã xưa rồi Diễm ơi mà thôi. Theo sự diễn tả của linh mục Thiện Cẩm, thì ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác. Vậy thế gian ra khác như thế nào, nhất là trong lãnh vực đờn bà con gái ? Theo các nhà tâm lý, hoàn cảnh bên ngoài nhiều lúc đã ảnh hưởng sâu xa đến tâm tính bên trong. Đờn bà con gái ngày nay, không còn bị nhốt trong căn nhà bếp, suốt ngày bầu bạn với nồi niêu xoong chảo, mà đã nhảy phóc ra ngoài xã hội. Cũng lao động và sản xuất, cũng quản lý và điều hành, cũng bươn chải và đôn đáo chạy ngược chạy xuôi chẳng kém gì đờn ông con trai. Nhiều bà nhiều cô đã gặt hái được những thành quả sáng chói, làm tới giám đốc, bộ trưởng, thủ tướng…chẳng kém gì, mà có khi còn vượt trội hơn cả cánh đờn ông con giai với mức lương thu nhập khá cao. Gã không phải là chuyên viên kinh tế, nhưng kinh nghiệm đời thường cho gã thấy: trong bất cứ tổ chức nào, từ gia đình cho đến xã hội, ai nắm được tài chánh, thì người ấy cũng nắm quyền chỉ huy, nghĩa là được quyền ra lệnh, đồng thời chi phối mọi hoạt động của người khác. Vì cũng phải góp mặt với đời và hơn thế nữa, không còn bị lệ thuộc vào đờn ông con giai trong lãnh vực tiền bạc, nên đờn bà con gái ngày nay bỗng trở thành một thứ bề trên, nên đâu còn thời giờ lo toan chuyện tẹp nhẹp bếp núc, thành thử lắm khi “việc nhà phó mặc cho bố nó”. Như vậy, chữ “công” được tạm cất vào ngăn kéo của dĩ vãng. Thật tội nghiệp cho những đức ông chồng, mặc dù đang sống phây phây giữa đời, thế mà cứ như ông thầy dòng sống trong tu viện. Mặc dù chẳng khấn chẳng hứa, thế mà vẫn cứ phải tuân giữ ba nhân đức khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Thứ nhất không được giữ tiền riêng, vì đồng lương phải nộp cả cho vợ Thứ hai đừng có dại mà tơ tưởng lung tung, hay mèo chuột linh tinh vì phải tuyệt đối trung thành với vợ. Bà mà biết được thì chết với bà. Thứ ba phải luôn chiều ý vợ, thậm chí nếu phải tham nhũng hối lộ vì vợ thì cũng hồ hởi thưa lên hai tiếng “xin vâng”. Ai nắm tiền bạc trong gia đình, thì người ấy có quyền phán bảo. Và một khi đã quen với cung cách phán bảo, thì cứ việc ăn to nói lớn, chả cần phải để ý tới ai, vì lẽ phải và công lý luôn nằm trong lòng bàn tay của mình. Nương theo cái đà ấy, mấy cô em gái nho nhỏ dễ thương mà tụ lại với nhau, thì cũng phát ngôn theo kiểu đao to búa lớn, đủ mùi chanh chua. Họ sẵn sàng gọi người yêu của mình là cái lão ấy, cũng như gọi cha mẹ của mình là cái ông ấy, cái bà ấy. Hơn nữa, những đề tài được trao đổi, người ngoài mà nghe thấy cũng phải toát cả mồ hôi lạnh và quỉ thần cũng phải phát kinh, phát khiếp lên ấy chứ. Như vậy, chữ “ngôn” cũng được mời đi chỗ khác chơi. Nếu ngày xưa người ta chủ trương: Cái nết đánh chết cái đẹp, thì đờn bà con gái thời nay nhiều người lại cho rằng: - Cái đẹp đè bẹp cái nết. Rất nhiều cô đã biết tận dụng cái vốn trời cho này mà hốt bạc tỉ, hay leo lên đài danh vọng, mà chẳng phải tốn đồng xu cắc bạc nào cả, khiến cho phe đờn ông con giai phát thèm, phát khát, có nằm mơ cũng chẳng thấy. Thành thử chữ “hạnh” bị xếp vào hàng thứ yếu. Thậm chí, người đạo đức nết na lắm khi còn bị liệt vào hàng “ngớ ngẩn ngây ngô khù khờ ngu ngơ” nữa là khác. Điều mà đờn bà con gái thời nay chú trọng hơn hết, có lẽ là chữ “dung”, tức là nhan sắc, tức là vẻ đẹp. Và thế là tứ đức của Nho giáo nghiễm nhiên trở thành tứ…sắc. Sắc đẹp của khuôn mặt, sắc đẹp của bộ ngực, sắc đẹp của cặp giò và sắc đẹp của áo quần. Để phục vụ cho nhu cầu làm đẹp này, các thẩm mỹ viện mọc lên như nấm, ăn nên làm ra, phất lên như diều gặp gió. Mấy ông bác sĩ giải phẫu, cắt chỗ nọ vá chỗ kia, hút chỗ này bơm chỗ khác, cứ ung dung ngồi hốt bạc vì phen này ắt hẳn trúng mánh lớn. Thậm chí nhiều bà nhiều cô lặn lội từ bên Mỹ về Việt Nam cốt chỉ để xẻ cái cằm, xâm bờ môi hay cấy hàng lông mi…vì tiền công ở Việt Nam rất rẻ. Rồi trên thị trường, từ các siêu thị hiện đại cho đến các tiệm tạp hóa nơi hang cùng ngõ hẻm, cũng đã bày bán biết bao nhiêu thứ mỹ phẩm. Nguyên dầu gội đầu, phục vụ cho mái tóc thì cũng đã có biết bao nhiêu loại, đến quỉ thần cũng không thể nào nhớ cho hết. Nguyên kem phục vụ cho làn da, thì cũng đã có biết bao nhiêu thứ: kem dưỡng da, kem tẩy da, kem trắng da, kem chống nắng, kem chống nhờn, kem chống khô…vì nhất dáng nhì da cơ mà. Và rồi còn biết bao nhiêu mặt hàng, biết bao nhiêu đồ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa, từ bên ngoài cho đến bên trong, nhằm tăng thêm vẻ đẹp cho quí bà quí cô. Gã đành phải bó tay, xin chào thua. Thế nhưng, qui luật của muôn đời cho thấy: - Có tuổi trẻ nào mà không già, có nhan sắc nào mà không bị tàn phai với thời gian. Và khi nhan sắc đã tàn phai, thì hỡi ôi: - Còn duyên kẻ đón người đưa, Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh. - Còn duyên kén những giai tơ, Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng. Vì thế, trong khi điểm tô và làm đẹp cho cái nhan sắc bên ngoài, cũng đừng quên điểm tô và làm đẹp cho cái nhan sắc bên trong: - Người xấu, duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹ p, duyên bong ra ngoài. Để tạo được vẻ đẹp hài hòa như thế, không bì bằng trở về với truyền thống dân tộc, bởi vì bốn chữ “công dung ngôn hạnh” vừa tạo được cái đẹp bên ngoài, mà cũng không sao lãng cái đẹp của phẩm chất bên trong. Với chủ trương như vậy, chắc chắn gã sẽ bị mấy cô gái choai choai bây giờ bĩu môi, trề miệng ra mà phán: - Rõ thật đồ cù lần cù lèo!!! Gã Siêu
Buổi tối, mấy đứa con nít ngồi cãi nhau chí chóe về vấn đề đờn bà và đờn ông. Một đứa lên tiếng GãSiêu 66
Buổi tối, mấy đứa con nít ngồi cãi nhau chí chóe về vấn đề đờn bà và đờn ông. Một đứa lên tiếng hỏi: - Đờn bà bởi đâu mà có ? - Thì bởi đờn ông chứ còn bởi ai ? - Thế đờn ông bởi đâu mà có ? - Thì bởi đờn bà chứ còn bởi ai ? Nếu không có đờn bà, thì lấy ai sinh ra đờn ông, không khéo đờn ông đã tiêu tùng từ lâu. Và thế là bọn con nít rơi vào một chiếc vòng luẩn quẩn giữa đờn ông và đờn bà, giữa đờn bà và đờn ông. Cuối cùng một đứa xem ra có vẻ thông thái đã cất tiếng nói: - Đức Chúa Trời đã dựng nên người đờn ông thứ nhất, rồi từ đó sinh ra người đờn bà thứ nhất và cứ thế, cứ thế….liên tục phát triển cho đến ngày hôm nay. Thực vậy, theo sách Sáng Thế Ký thì thưở ban đầu, Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn, rồi thổi hơi vào lỗ mũi mà làm thành người đàn ông đầu tiên, mang tên gọi là Adong. Sau đó, Ngài thấy Adong sống cô độc lẻ loi và cu ky một mình thì động lòng thương, bèn chờ lúc Adong ngủ say, lấy một chiếc xương sườn của chàng mà dựng nên người đờn bà đầu tiên. Ngài dẫn người đờn bà này tới giới thiệu với Adong. Vừa nhìn thấy, cặp mắt Adong đã sáng lên long lanh, còn đôi môi thì hớn hở mừng rỡ mà kêu lên hai tiếng: - Mình ơi ! Rồi Adong đã đặt tên cho người đờn bà này là Eva, bởi lẽ nàng là mẹ của chúng sinh. Theo quan niệm của sách Sáng Thế Ký, thì đờn ông và đờn bà đều được Đức Chúa Trời dựng nên, bình đẳng với nhau về trách nhiệm cũng như bổn phận, mặc dù mỗi người đều có một lãnh vực riêng của mình. Vì thế, một vị thánh nào đó đã diễn tả: - Đức Chúa Trời đã không lấy xương sọ mà dựng nên Eva, vì thế bà không được chỉ huy ông. Ngài cũng không lấy xương gót chân mà dựng nên Eva, vì thế ông không được đày đọa bà. Nhưng Ngài đã lấy chiếc xương sườn ở cạnh lái tim mà dựng nên Eva, vì thế ông phải yêu thương bà và bà phải yêu thương ông. Ngoài ra, còn rất nhiều truyền thuyết khác nữa nói về nguồn gốc của người đờn bà. Gã xin kể ra đây hai truyền thuyết mà thôi. Truyền thuyết thứ nhất kể lại rằng: Thưở ban đầu, người đờn ông sống trơ trụi một mình. Vừa đơn độc lại vừa buồn phiền. Thượng đế lấy làm tội nghiệp. Ngài bèn dùng một chút dịu dàng của hoa lan, một chút xinh đẹp của hoa hồng và một chút tinh khiết của hoa huệ. Tất cả được trộn lẫn với nhau, nhưng chưa đủ. Ngài còn hòa vào đó một chút tinh ranh của con khỉ già, một chút độc ác của con rắn hổ mang và một chút hung dữ của con sư tử. Tất cả được quyện lẫn với nhau mà làm nên người đờn bà. Thượng đế trao người đờn bà ấy cho người đờn ông. Kể từ đó, người đờn ông không còn trơ trụi một mình nữa. Nhưng rồi vào một buổi sáng u ám, người đờn ông bỗng cảm thấy không còn chịu đựng nổi sự tinh ranh, độc ác và hung dữ của người đờn bà, nên đã trả nàng lại cho Thượng đế. Thế nhưng, cuộc ly hôn đầu tiên này diễn ra chưa được một tuần trăng, thì người đờn ông bỗng cảm thấy nhớ day nhớ dứt vẻ dịu dàng, xinh đẹp và tinh khiết của người đờn bà, nên đã xin Thượng đế cho mình được lấy lại. Và từ đó, họ sống hạnh phúc với nhau. Truyền thuyết thứ hai kể lại rằng: Sau khi dựng nên núi đồi và biển cả, cây cối và muông thú, cuối cùng Thượng đế mới hoàn tất tác phẩm tuyệt vời của mình, đó là là người đờn ông với tên gọi là Adong. Bấy giờ, Adong đi lang thang hết chỗ này đến chỗ kia, nhưng luôn cảm thấy trống vắng. Một buổi sáng, Adong dừng chân bên hồ, chàng mừng rỡ khi nhận ra bóng mình in trên mặt nước. Và thế là chàng bèn nhảy xuống để ôm lấy chiếc bóng mình trong vòng tay, nhưng không thể được. Chàng buồn bã ngồi thinh lặng dưới gốc cây và than thở cùng Thượng đế về sự trống vắng. Thượng đế liền trả lời: - Thôi được, hãy dẫn Ta tới hồ nước. Thượng đế nắm lấy chiếc bóng của Adong trong lòng bàn tay, thổi vào đó một luồng sinh khí. Và thế là một người đàn bà đẹp hết ý mang tên gọi là Eva bỗng xuất hiện. Nàng chớp chớp đôi mắt và khẽ nói: - Tôi hiện hữu hay không hiện hữu ? Thượng đế mỉm cười và bảo: - Đây là quy luật của muôn đời: khi con ở cạnh người đờn ông, thì con hiện hữu. Trái lại, khi vắng bóng chàng, con sẽ không còn hiện hữu nữa. Từ những truyền thuyết trên, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ cũng đã dành cho người đờn bà một sự trân trọng đáng kính nào đó và nàng trở thành một con người không thể thiếu vắng cho phe đờn ông con giai. Thế nhưng, trải qua dòng thời gian, phe đờn ông con giai đã lờ tít và cố tình quên đi sự trân trọng đáng kính ấy, để rồi ỷ vào sức mạnh trời cho, mà đày đọa cánh đờn bà con gái. Từ đông sang tây, cũng như từ cổ chí kim, họ đã nhìn cánh đờn bà con gái bằng nửa con mắt. Thực vậy, ở phương tây có những kẻ muốn trút tất cả mọi tội lỗi lên đầu cánh đờn bà con gái. Theo họ: khi cánh đờn bà con gái chưa xuất hiện trên mặt đất này, thì phe đờn ông con trai sống rất ư là thoải mái, vui vẻ và đầm ấm. Thế nhưng, khi cánh đờn bà con gái vừa xuất hiện, thì lập tức có ghen ghét và vu cáo, bạo loạn và chiến tranh. Và cũng theo họ: lòng dạ đờn bà con gái thì vô cùng hiểm độc và nhan sắc của họ dễ làm cho phe mày râu chìm đắm. Các triết gia như Anaxilas thì khẳng định: hùm beo, rắn độc, quái vật, sư tử…bao nhiêu thứ ấy là cái quái gì chứ ? Chẳng là cái thá gì cả trước đờn bà con gái. Phutarque thì nhẹ nhàng hơn, nhưng cũng đầy khinh bỉ: Khi các ngọn nến được thổi tắt, thì tất cả đờn bà con gái đều xinh đẹp cả. Các nhà văn, chẳng hạn như Somerset Maugham đã lập luận như sau: - Vì cớ làm sao những người đờn bà xinh đẹp đều lấy những người đàn ông tầm thường ? Xin thưa rằng những người đàn ông thông minh sẽ chẳng bao giờ chịu lấy những người đờn bà xinh đẹp cả. Georges Courteline thì than thở: - Những gì mình làm cho đờn bà con gái thì họ quên rất mau, còn những gì mình không làm cho họ thì họ lại nhớ mãi nhớ hoài. (Kiến thức ngày nay số 43). Ý thức được sự bất công và địa vị yếu kém của mình, cánh đờn bà con gái đã đoàn kết lại để đấu tranh, thiết lập những phong trào, nào là phụ nữ đòi bình đẳng, nào là phụ nữ đòi quyền sống và ngay cả phụ nữ đòi quyền…sướng nữa. Thế nhưng, xem ra tình trạng mới chỉ sáng hơn được một chút xíu mà thôi. Ông Nguyễn Thanh Long, trong một bài viết trên báo “Công giáo và Dân tộc” đã cho biết những nét đại cương như sau: Hiện nay, đờn bà con gái chiếm ít nhất 50% dân số nhân loại. Theo một cuộc điều tra của Liên Hiệp Quốc được công bố năm 1999, thì chẳng có quốc gia nào đối xử với nữ giới bình đẳng với nam giới. Trên trái đất, có 1,3 tỷ người sống trong tình trạng cực kỳ nghèo đói, thì đờn bà con gái chiếm tới 70%. Tổng trị giá của những công việc đờn bà con gái phải làm mà không có lương được ước tính khoảng 11.000 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Số lượng đờn bà con gái đi làm có lương chỉ là 1/3 so với đờn ông con giai. Số tiền lương họ được lãnh chỉ bằng 10% tổng quỹ lương. 50% nhân loại ấy chỉ đứng tên sở hữu 1% tài sản trên thế giời! Trong lãnh vực chính trị, sự hiện diện của đờn bà con gái lại còn quá thấp. Tại Pháp, quốc hội hiện nay chỉ có khoảng 60 nữ trên tổng số 577 đại biểu, tỷ lệ 10,2%. Mỗi khi một nhân vật nữ được bàu vào một chức vụ cao, thì đó là một “sự lạ cả thể” và được bàn dân thiên hạ nhìn bằng một cặp mắt nghi ngờ. Trong phạm vi tôn giáo, một vị thánh nổi tiếng là Âu Cơ Tinh cũng đã khẳng định đờn bà con gái thấp kém hơn đờn ông con trai. Vì thế, họ không được tham gia vào những hoạt động về xét xử hay giảng dạy trong Giáo hội. Thậm chí theo truyền thuyết còn có cả một công đồng, trong đó các nghị phụ đã tranh cãi về vấn đề đờn bà con gái có linh hồn hay không ? Còn tại nước Đức, phe đờn ông con giai đã gọi cánh đờn bà con gái là người của 3K: Kinden tức là con nít, Kuchen tức là bếp núc và Kirch tức là nhà thờ. (Công giáo và Dân tộc số 1447). Trong kinh Coran, Đức Mahomet đã truyền dạy các tín đồ đực rựa như sau: Đờn bà con gái là một mảnh đất đã được cày sẵn, các con cứ việc đến đấy, tha hồ mà trồng cấy. Còn ở phương đông như tại Việt Nam, do ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo, trải qua nhiều thế kỷ chủ trương trọng nam khinh nữ tha hồ mà tung hoành trong xã hội. Người ta cho rằng: - Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Sinh được một cậu con giai thì đã kể là có, trong khi đó sinh được mười cô con gái, thì vẫn kể là không. - Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng. Chỉ người đờn ông mới là chủ gia đình và được trọng kính. Thực vậy, trong nhà khi các bà muốn đưa cho chồng cái gì thì cũng phải để trên bàn chứ không đưa tận tay. Nam nữ thọ thọ bất thân. Không thể có chuyện nắm tay hay bá vai bá cổ. Lại càng không thể có chuyện vuốt ve hôn hít nhau chùn chụt trước mặt bàn dân thiên hạ. Đặc biệt trong xã hội ngày xưa, đờn bà con gái còn phải giữ tam tòng tứ đức. Tam tòng, tức là ba chữ tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì phục tùng cha, lấy chồng thì phục tùng chồng, chồng chết thì phục tùng con. Còn tứ đức, tức là bốn nhân đức: công dung ngôn hạnh. Khéo tay làm lụng, nét mặt đoan trang, ăn nói lịch sự và tính tình nết na. Theo linh mục Thiện Cẩm: Ngày nay, thế gian bỗng tự nhiên ra khác, ngay ở nước ta, nam nữ cũng trở nên thọ thọ…rất thân, nắm tay, ôm eo, tựa vai, bá cổ. Có người bảo phụ nữ ngày nay chỉ nghĩ đến “tam vòng tứ sắc”. Tam vòng là vòng ngực, vòng eo và vòng mông. Tứ sắc là nét đẹp của khuôn mặt, của bộ ngực, của áo quần và của cặp giò. Còn chuyện tam tòng tứ đức là chuyện đã quá “đát” từ lâu. Hôm nay, gã xin mượn những gợi ý trên để bàn rộng và tán dài về chuyện tam tòng cũng như tam…vòng! Trước hết là chuyện tam tòng mà ngày xưa, cánh đờn bà con gái phải tuyệt đối tuân giữ. Thứ nhất, tại gia tòng phụ, có nghĩa là khi còn sống ở nhà thì phải phục tùng và vâng lời người cha, bởi vì người cha là cột trụ của gia đình. Đây là điều dễ hiểu và dễ chấp nhận, bởi vì cha mẹ có bổn phải phải giáo dục con cái và con cái có bổn phận phải vâng lời cha mẹ: - Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn. - Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư. Thứ hai, xuất giá tòng phu, đi lấy chồng thì phải phục tùng và vâng lời chồng. Đây là một quan niệm cần phải xét lại, bởi vì nó đã làm nảy sinh ra những lạm dụng khó mà chấp nhận. Thực vậy, người chồng trong xã hội phong kiến thường được coi như là một ông chủ. Vì thế, hễ ông ta mở miệng phán ra điều gì, thì vợ con trong nhà đều phải cúi đầu răm rắp nghe theo, chẳng được phép ý kiến ý cò gì sốt. Phu xướng phụ tùy. Từ đó, ông ta sẽ thừa thắng xông lên mà đi tới chỗ độc tài, độc đoán và cả…độc ác nữa. Ông ta sẽ mang lấy đầu óc “gia trưởng” và đối xử theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”. Lời nói của ông ta cộc lốc như dùi đục chấm mắm tôm: Tiên sư cái con mẹ mày. Hành động của ông ta mang nặng tính cách vũ phu và bạo lực. Ông ta không ngần ngại “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”. Như cầu thủ ghi bàn thắng, ông ta hăng tiết vịt sút một phát cho bà vợ lọt thỏm vào tủ áo mỗi khi cần ưu ái dạy bảo điều gì, như trái banh lọt thỏm vào khung thành, hay cầu môn chi đó. Gã đã từng thấy có những ông chồng đòi hỏi bà vợ phải phục dịch cơm bưng nước rót cho mình. Thậm chí đến bữa ăn, mình ông ngồi chễm chệ một mâm. Tội nghiệp cho bà vợ suốt ngày phải tần tảo buôn thúng bán mẹt, nhặt từng cọng rau muống đem ra chợ với hy vọng kiếm được tí tiền còn, mua lấy một xị rượu và một chút thịt lợn mà cung phụng cho đức ông chồng của mình được thập phần béo tốt. Thứ ba, phu tử tòng tử, khi chồng chết thì theo con. Đây cũng là điều tương đối dễ hiểu và dễ chấp nhận, bởi vì người đờn bà lúc bấy giờ nghiễm nhiên đã trở thành một người mẹ, và không chừng cũng đã mang nặng tí tuổi đời. Một khi chồng chết thì biết theo ai nếu không phải là theo những người con mình đã mang nặng đẻ đau, đã chắt chiu nuôi dưỡng. Hơn thế nữa, chính những người con này cũng có bổn phận phải thảo hiếu đối với người mẹ của mình. Cái sự phu tử tòng tử ở đây xem ra còn có vẻ nhẹ nhàng và nhân đạo hơn tập tục tại nhiều nơi trên thế giới. Chẳng hạn, nếu gã nhớ không lầm, trong cuốn “Vòng quanh thế giới 80 ngày”, Jules Verne cho hay tại một vài nơi bên Ấn Độ, khi người chồng qua đời thì các bà vợ sẽ bị thiêu sống để được theo hầu đức phu quân của mình nơi chín suối!!! Tuy nhiên, theo lời của linh mục Thiện Cẩm thì: Ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác, chuyện tam tòng là chuyện quá “đát” từ lâu, xưa rồi Diễm ơi! Thực vậy, trong tương quan với cha mẹ: con cái bây giờ thuộc vào thế hệ vi tính, nên cha mẹ khó mà dạy bảo. Nếu có răn đe điều gì, thì liền bị chúng kê tủ đứng: - Mấy ông mấy bà…già rồi, rõ thật lẩm cẩm, thời bây giờ mà còn như vậy ư ? Và cha mẹ cũng đành phải bó tay. Chẳng hạn như việc hôn nhân: Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, còn bây giờ thì con cái đặt đâu thì cha mẹ xin vui lòng…ngồi đấy. Chẳng hạn việc giao tiếp: Ngày xưa thì nam nữ thọ thọ bất thân, còn bây giờ thì nam nữ thọ thọ…rất thân, để rồi đi tới chỗ nam nữ cọ cọ rất ư là….giật gân. Trong tương quan vợ chồng: đờn bà con gái bây giờ đang lăm le nhảy vào lãnh vực xã hội, thành thử gã phải đổi lại câu thơ của Tú Xương. Thay vì: - Việc nhà phó mặc cho bu nó. Thì bây giờ sẽ phải là: - Việc nhà phó mặc cho bố nó. Và theo định luật về thị trường, anh nào có tiền, thì anh ấy sẽ nắm quyền. Chữ tiền liền với chữ quyền một vần. Khi chị vợ đã làm ra tiền, nắm hào bao và quyết định ngân sách, thì sẽ chi phối mọi sinh hoạt trong gia đình. Lúc bấy giờ, sẽ có một cuộc thay ngôi đổi chủ. Anh chồng chỉ còn nước âm thầm vào bếp, như chó cụp đưôi, làm bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách mà thôi. Một khi tam tòng của Nho giáo đã bị xếp vào ngăn kéo dĩ vãng vì quá “đát’ và xưa rồi Diễm ơi, thì cũng theo như lời diễn tả trên, đờn bà con gái bây giờ lại chăm chăm chú chú mà lo cho cái khoản “tam vòng”, tức là ba cái vòng trên cơ thể mình. Viết đến đây, gã bỗng nảy ra một “théc méc”, đó là không biết từ bao giờ cái ông khỉ gió nào đó đã có sáng kiến công bố cho bàn dân thiên hạ được biết số đo ba vòng của những thí sinh trong các cuộc thi hoa hậu. Coi đó như một trong những chuẩn mực để phán xét về sắc đẹp, khiến cho cánh đờn bà con gái phải lao đao vất vả, xấc bấc xang bang, tốn phí không biết biết bao nhiêu tiền bạc và công sức, để cái thì được phình ra, còn cái thì được tóp lại, theo đúng tiêu chuẩn quốc tế ISO, cũng chỉ vì muốn làm người đẹp mà thôi. Vòng số một, tức là vòng ngực. Thực vậy, Thượng đế trao ban cho cánh đờn bà con gái bộ ngực là để cung cấp sữa mà nuôi con, như các cụ ngày xưa đã bảo: - Đờn ông không râu bất nghì, Đờn bà không vú, lấy gì nuôi con. Bộ râu làm nên nét oai phong của người đờn ông thế nào, thì bộ ngực cũng làm nên vẻ quyến rủ của người đờn bà như vậy. Vì thế, ngày nay nhiều bà nhiều cô đã phe lờ cái nhiệm vụ cung cấp sữa để nuôi con, mà chỉ chuyên trị làm đẹp cho bộ ngực của mình. Thực vậy, mặc dù các bác sĩ và các nhà chuyên môn luôn quảng bá sữa mẹ là một thức ăn không thể thiếu cho con trẻ, nào là đề kháng được nhiều chứng bệnh, nào là có đủ chất dinh dưỡng…Thế nhưng, chỉ vì không muốn cho bộ ngực của mình bị xệ xuống, nên không thiếu những bà mẹ chả chịu cho con bú, cứ việc ra ngoài chợ, lôi về đủ mọi thứ sữa, từ sữa tươi cho đến sữa đặc có đường, từ sữa bột cho đến sữa hộp, từ sữa cô gái Hà Lan đến sữa ông già, từ sữa có nhãn hiệu trình tòa đến những loại sữa chui và trôi nổi…thôi thì thiên hình vạn trạng, đến quỷ thần cũng chẳng đếm nổi trên thị trường hiện nay có bao nhiêu thứ sữa. Có những người đã bị đi tàu suốt về chầu Diêm Vương, chỉ vì ham rẻ mà dùng những loại sữa chui và trôi nổi ấy. Vì vòng số một là nơi cần phải làm phình ra, nên khoa giải phẫu thẩm mỹ đã nhảy vào vòng chiến, cứu một bàn thua trông thấy cho những bà những cô chẳng may có bộ ngực lép xẹp. Người ta mổ ngang, xẻ dọc rồi đặt vào trong đó chất “silicone”, làm cho bộ ngực phình to ra bao nhiêu cũng được. Miễn là đạt mục đích, sau này lỡ có bị ung thư, thì cũng…hạ hồi phân giải. Nếu ngại giải phẫu, người ta có thể nhờ trang phục trợ giúp, nào là những chiếc yếm hững hờ, nào là những chiếc nịt ngực, những chiếc “cọc xê” được độn được lót cách này hay cách khác để che lấp cái kích thước bé tẻo bé teo của bộ ngực mình. Tiếp đến, vòng số ba tức là vòng mông. Đây cũng là nơi cần phải làm cho phình ra như vòng số một, nên gã xin miễn bàn tới để được tiếp nối ngay bằng vòng số hai tức là vòng eo. Với cơn bệnh béo phì ngày càng liên tục phát triển, thì vòng eo đã trở nên một nỗi ám ảnh cho nhiều người. Báo Le Monde số 2884 cho hay: Trung tâm dự phòng bệnh tật Mỹ cảnh báo bệnh béo phí sắp dành ngôi vị giết người hàng đầu, vượt qua thuốc lá. Mỹ ước tính có 130 triệu có thể trọng vượt mức, trong đó có 59 triệu béo phì. Trung Quốc hiện có 300 triệu người quá mập, trong đó có 30 triệu bép phì. Khi vòng eo tăng trưởng vượt vòng ngực và vòng mông, thì nguy cơ bị tiểu đường và tim mạch cũng gia tăng. Vòng eo nam giới vượt quá 1,00m và nữ giới vượt quá 0,80m là dấu hiệu béo phì, cũng như là dấu chỉ phát tướng vòng eo. (CGVDT số 1449). Trái với vòng số một và vòng số ba là những nơi cần phải làm cho phình ra, thì vòng số hai lại là địa điểm cần phải làm cho tóp lại. Lý tưởng của vòng số hai chính là cái eo của con ong. Thế nhưng, đối với nhiều bà nhiều cô, nó lại cứ phình ra mới chết không cơ chứ. Lý do phình ra như thế, có thể do chứng béo phì và cũng có thể do…trục trặc kỹ thuật ngoài ý muốn. Trước hết, để thực hiện cái lý tưởng “eo con ong”, cũng như để chống lại tình trạng phát tướng do sự béo phì gây nên, người ta đã phải dùng tới nhiều biện pháp. Nào là tập thể dục như đi bộ, đi xe đạp, hay bơi lội mỗi ngày, nghĩa là thân thể phải vận động. Nào là kiêng ăn kiêng uống, áp dụng một chế độ ẩm thực vô cùng nghiêm khắc. Những biện pháp này đòi hỏi phải kiên nhẫn nhiều lắm, bằng không thì chỗ cần phình thì lại tóp, còn chỗ cần tóp thì lại phình. Thật là tréo cẳng ngỗng. Ngoài ra, người ta cũng có thể nhờ trang phục trợ giúp phần nào. Nếu gã không lầm thì “mô đen” áo dài Việt Nam vào thập niên sáu mươi: cổ phải cao có khi hơn một tấc, eo phải thắt ngẫng như eo con ong. Vì thế, người ta đã khéo léo luồn vào phía trong áo một sợi dây nhỏ cùng màu và sau khi mặc, người ta sẽ thắt chặt sợi dây ấy để tạo nên một cái eo rất là….ấn tượng, trên cả tuyệt vời. Tiếp đến, có những trường hợp vòng số hai bỗng dưng phình ra, một cách bất đắc dĩ và ngoài ý muốn, hoàn toàn không phải do chứng béo phì, nhưng do một trục trặc kỹ thuật nào đó. Chẳng hạn như cái tật ăn cơm trước kẻng, anh chị vụng trộm với nhau hay thử cho biết vị ngọt đắng của tình yêu, để rồi một buổi sáng bỗng thấy vòng eo phình ra và những ngày sau đó lại liên tục phình ra một cách vô tổ chức, vượt ngoài chỉ tiêu. Lúc ấy chỉ còn biết mếu máo và khóc lên, như người ta hay phịa ra mà hát: - Anh ơi, nếu bụng em…phình thì sao ? Nhưng đừng dại đột: - Đi mua thuốc chuột uống cho rồi đời!!! Bởi đó, đừng “khôn ba năm dại một giờ”, vì vui sướng của tình yêu có thể chỉ kéo dài trong thoáng chốc, nhưng khổ đau của nó sẽ kéo dài bằng cả cuộc đời: - Đờn ông bụng…bự thì sang, Đờn bà bụng…bự tan hoang cuộc đời. Chỉ có ba cái vòng, mà sao lại nhiêu khê rắc rối quá vậy. Gã cũng đành bó tay chào thua. Gã Siêu
Ngày kia, một tên bạn bật mí cho gã hay về lần hắn đi xưng tội mùa chay. Hắn bảo sau khi đã GãSiêu 67
Ngày kia, một tên bạn bật mí cho gã hay về lần hắn đi xưng tội mùa chay. Hắn bảo sau khi đã kể hết mọi lỗi lầm, cha ngồi tòa bèn hỏi hắn mấy câu thật lãng xẹt: - Năm nay con bao nhiêu tuổi rồi. - Dạ băm mốt. - Con đã lập gia đình chưa ? - Dạ thưa cha chưa ạ. - Băm mốt rồi mà tại sao lại chưa lập gia đình ? Thế là hắn bèn phải cúi đầu thú nhận: - Thưa cha, con đi…tu ạ. Rồi hắn oang oang cái miệng thuyết minh cho gã hiểu: - Đối với vị linh mục này, anh đờn ông con giai ở vào tuổi băm, một là phải lấy vợ, hai là phải đi tu, chứ còn ở vậy thì quả thực là có vấn đề đấy con ạ. Các cụ ta ngày xưa vốn thường dạy: - Tam thập nhi lập. Đối với anh đờn ông con giai, thì tuổi ba mươi là tuổi lập thân, lập gia đình và lập nên công danh sự nghiệp. Riêng trong lãnh vực hôn nhân, kinh nghiệm cho thấy, hễ ngoài tuổi “băm” này anh đờn ông con giai chưa rước được một cô nàng về dinh để làm vợ, thường rơi vào trạng thái “lừng khừng”, và hay “ngãng ra” mỗi khi thầy bu tính toán cho việc lứa đôi. Sở dĩ anh đờn ông con giai ở vào lứa tuổi này, thường hay lừng khừng và ngãng ra cũng có những lý do riêng của hắn. Vì không phải là một chuyên gia về tâm lý, nên gã xin mượn tạm một mẩu viết trên báo Phụ Nữ Chủ nhật với tựa đề “ Tầm thê ở tuổi băm”, để phần nào hiểu được những lý do thầm kín ấy. Người ta bảo: trai ba mươi tuổi đang xoan…Song câu nói này giờ đây dường như không còn hợp thời nữa. Nhiều chàng “đang xoan” đã phải giật thót người khi chợt nhận ra mình đã chìm quá sâu vào nỗi cô đơn không lối thoát. Phải chăng những chàng trai này “ế vợ” do nghèo, xấu trai, không có địa vị xã hội ? Hoàn toàn không. Họ có đầy đủ những ưu thế để có thể dễ dàng tạo dựng cho mình một mái ấm hạnh phúc. Bi kịch ở chỗ họ đã tự xây cho mình một đỉnh cô đơn quá cao đến nỗi khó lòng leo xuống. Bài báo đã đưa ra một ngàn lẻ một lý do khiến những chàng trai này phải sống “cu ky một mình”, gậm nhấm nỗi cô đơn và lẻ loi đếm từng bước chân âm thầm, để rồi đêm đêm “tôi lặng lẽ nhìn tôi trên vách”. Thực tế cho thấy số người độc thân trong độ tuổi ba mươi ở Việt Nam thời gian gần đây ngày càng gia tăng. Điều này có thể thấy ở cả nữ giới lẫn nam giới, Khác với phụ nữ thường lo lắng ra mặt khi đã đến tuổi băm mà vẫn còn chiếc bóng, các chàng trai thường tỏ vẻ phớt lờ. Ai dám bảo các chàng không lo…ế ? Thật ra các chàng giả bộ mặt lạnh thế thôi, chứ trong ruột bắt đầu rối như tơ vò. Nhất là khi song thân ở nhà luôn thôi thúc để có cháu nội bồng bế trước khi nhắm mắt xuôi tay. Song đối với các “của quý hiếm” tuổi băm này, thì chuyện lấy vợ không hề đơn giản chút nào. Chỉ xin đơn cử vấn đề tuổi tác. Lấy cô vợ ngoài hai mươi thì trẻ quá, sợ cách biệt tuổi tác không hiểu nhau, lại còn phải chiều chuộng. Chọn cô vợ ngoài băm như mình thì phù hợp, nhưng lại sợ mất gía với bạn bè, bị chê là lấy vợ…già! Thế mới khổ. Chưa kể tới ngàn lẻ một lý do khác trong thời buổi công nghiệp hóa đến chóng mặt này, như tôn giáo, nhà cửa, việc làm…khiến cho cái sự lấy vợ càng phức tạp khó khăn bội phần. Bài báo đã kể lại những trường hợp cụ thể, chứng minh cho sự thật trên. Ở vào địa vị như Nguyễn Văn B, không ai có thể nghĩ anh lại lâm vào tình cảnh “muộn vợ”. Đẹp trai, cao ráo, giám đốc một công ty có tầm cỡ. Tháng nào cũng bận rộn với những chuyến đi bất tận, khi thì lên các tỉnh miền núi phía Bắc, khi thì lặn lội về đồng bằng sông Cửu Long, lúc lại công du tuốt ở Anh, Mỹ. Anh bộc bạch: “Mình cũng từng có một chuyện tình đẹp. Cô ấy là công nhân cùng phân xưởng. Do hiểu lầm, mẹ mình đã ngăn cấm mình đi đến hôn nhân với cô ấy. Ngày nàng chuẩn bị về nhà chồng, mình đã đưa nàng dạo chợ Bến Thành sắm…áo cưới. Từ đó, mình chỉ còn lấy sự học làm vui để có được sự nghiệp như ngày nay. Nàng bây giờ đã có con lớn, còn mình thì vẫn cảm thấy hết sức cù….lần mỗi khi đứng trước phụ nữ, mặc dù tuổi đã sắp quá băm”. Đàn ông ở cái lứa tuổi ba mươi, nếu không quá bận rộn vì công việc như trường hợp chàng B, thì cũng chạy trốn vào công việc do quá mệt mỏi với chuyện yêu đương. Tôi có anh bạn là thư ký tòa soạn một tờ báo khá lớn ở Hà Nội. Suốt ngày chỉ cắm đầu lo bài ở tòa soạn, anh thú nhận là chẳng còn thời gian nào cho cái trò hò hẹn, mặc dù anh đã ba mươi tám cái xuân xanh. Một lần do bạn bè hối “uống rượu” quá, anh đã tự đăng tên mình trên mục câu lạc bộ làm quen của “báo nhà” với cái mác phóng viên. Thư từ các nơi đổ về hàng trăm lá. Nhưng chỉ sau vài cuộc hò hẹn, anh đâm chán: các cô chỉ thích cài mã nhà báo thôi, chứ khó lòng thông cảm với cái nghề đi đây đi đó. Thế là anh lại quay về với “người tình muôn thuở” là công việc, lấy đêm làm ngày và tự an ủi mình: thế mà lại hay. “Nàng” chẳng bao giờ phản bội mình. Ngạc nhiên nhất có lẽ là câu chuyện của H, một anh bạn học cũ của tôi. Bẵng đi hơn chục năm không gặp, cứ ngỡ H đã yên bề gia thất rồi. Hóa ra, H càng đạt được đỉnh cao trong sự nghiệp bao nhiêu, lại càng thất bại trong tình trường bấy nhiêu. Đẹp trai không thua gì…tài tử xi nê, có một căn hộ xinh xắn đầy đủ tiện nghi ở một quận trung tâm thành phố,, công việc thu nhập cao và ổn đỉnh tại một công ty liên doanh với nước ngoài. Vậy mà H vẫn độc thân ở tuổi ba mươi lăm. Hỏi ra mới biết H đã từng có khá nhiều người yêu, song các cô đều chê anh chàng…có máu lạnh, khô khan tình cảm. Quả thật, khuôn mặt đẹp như tượng của H trông lạnh như băng, hiếm hoi mới có nụ cười. Nhưng đó không phải là lý do chính đáng khiến H muộn vợ. Xuất thân từ miền Trung, H thuộc loại người kỹ tính. Tất nhiên, anh đòi hỏi khá cao ở người bạn đời về các tiêu chuẩn công, dung, ngôn, hạnh. Thế là những cuộc tình chợt đến, chợt đi, dù rằng đã từng có người đến với anh thật lòng. C, một anh chàng điển trai và thành đạt, ba mươi sáu tuổi, cao một mét bảy mươi lăm, là một nha sĩ có cả “chân trong” lẫn “chân ngoài”: ban ngày làm việc trong một bệnh viện lớn của nhà nước, chiều về phòng mạch tư, khách đông nườm nượp, khiến chàng…nhổ răng mỏi tay. Phòng mạch tư của C thường mở cửa đến hơn 20 giờ mỗi ngày. Nhiều cô gái đã phải ngậm ngùi ra đi sau nhiều lần bị chàng cho “leo cây” bởi lời hẹn: “Nếu cứ hơn 8 giờ tối mà không thấy anh đến, em cứ việc về nhé”. Nhờ chịu khó làm ăn, đến nay C đã tậu được căn nhà rộng rãi trong một con hẻm yên tĩnh gần khu trung tâm. Cứ chủ nhật rảnh, chàng lại rủ đám bạn trai đi đánh billart ăn độ nhậu cho hết ngày để trốn những giờ phút chỉ “ta với ta”, không biết làm gì trong căn nhà quạnh quẽ. Và thế là vô tình chàng lại càng xây cao thêm tháp ngà cô đơn. Ngoài những lý do được bài báo trình bày, gã xin nêu thêm một lý do khác nữa: sở dĩ những anh đờn ông con giai ở vào tuổi băm mà chưa lấy được vợ là vì họ chẳng biết đến những lợi ích to tát do việc lấy vợ đem lại. Chẳng thế mà trong sách “Guiness”, người ta đã ào ào tạo lập thành tích, hùng hổ lập nên những kỷ lục về…yêu. Gã xin trích ra như sau: - Thời gian đính hôn dài nhất, đó là thời gian đính hôn giữa Octavio Guillen và Adriana Martinez, người Mexico. Cuối cùng họ đã kết hôn vào tháng 6 năm 1969, sau 67 năm thề non hẹn biển. Cả hai người đều được 82 tuổi lúc lên xe hoa. - Cô dâu nhiều tuổi nhất, đó là cụ bà Minnie Munro, cỡ tuổi 102, vẫn còn hăng hái lên xe hoa với chú rể Dudley Reid, kém bà cụ tới 19 tuổi. Hôn lễ được tổ chức tại Point Clara, Australia, ngày 31.5.1991. - Chú rể già nhất, đó là cụ Harry Steven mới quyết định làm lễ cưới với bà lão Thelma Lucas, 84 tuổi, tại nhà riêng ở bang Wisconsin, nước Mỹ, ngày 03 tháng 12 năm 1984. - Cặp vợ chồng trẻ nhất, đó là vào năm 1986, có tin một bé trai 11 tháng tuổi đã cưới một bé gái 3 tháng tuổi tại Aminpur, nước Bangladesh. Lễ vu quy được hai gia đình sắp xếp nhằm chấm dứt mối thù hằn kéo dài 20 năm giữa hai bên. - Cuộc hôn nhân bền chặt nhất, đó là cuộc hôn nhân giữa ông Temulji Bhicaji và bà Lady Nariman được gia đình đôi bên tổ chức lễ cưới khi họ mới năm tuổi vào năm 1853. Cuộc hôn nhân của đôi vợ chồng người Ấn Độ này kéo dài 86 năm, cho tới tháng 11 năm 1940, khi ông Temulji qua đời, thọ 91 tuổi. - Nhiều cặp hôn nhau cùng một lúc, đó là ngày 14.02.1996 có tới 1420 cặp tình nhân tụ về đại học Maine, nước Mỹ, để lập kỷ lục thế giới mới về số đôi hôn nhau tại một nơi và trong một lúc. - Nụ hôn dài nhất, đó là nụ hôn của đôi tình nhân Karmit Tzubera và Dror Orpaz. Ngày 5 tháng 4 năm 1999, họ đã đứng hôn nhau trong 30 giờ 45 phút không ngưng nghỉ. Và họ dành chức vô địch cuộc thi được tổ chức tại quảng trường Rabin, thành phố Tel Aviv, nước Israel, với giải thường là một chuyến đi vòng quanh thế giới và 2.500 đô la. Cả hai sau đó đã phải nhập viện vì kiệt sức. Vậy thì việc lấy vợ đem lại những lợi ích to tát nào ? Mỗi khi trà dư tửu hậu, hoặc chén thù chén tạc với nhau, cánh đờn ông con giai thường hay nói xấu bà xã của mình, bởi vì dưới mắt họ, trên trần gian này chỉ vợ người mới đẹp và chỉ văn mình mới hay: - Vợ ta thì nạt thì đe, Vợ người thì cứ lăm le…nhìn hoài. Vợ ta thì chẳng đoái hoài, Vợ người khen đẹp dài dài quanh năm. Vợ ta chê mắt lá răm, Vợ người trông tựa trăng rằm tiên nga. Thế nhưng, gã có một anh bạn rất…ngược đời. Cứ mỗi lúc xỉn xỉn, anh ta chẳng hề hé môi phê bình chỉ trích bà xã, trái lại luôn mở miệng ngợi khen, ca tụng bà xã hết lời: - Nhà tôi đã nhiều đêm từng khóc mà khuyên tôi rằng…Nhà tôi nói với tôi thế này…Nhà tôi làm cho tôi thế nọ… Dựa vào những lời anh ta phát ngôn trong những lúc xừng xừng như thế, gã có cảm tưởng rằng người vợ hiền đã thế chỗ cho người mẹ hiền của anh ta đã qua đời từ lâu. Vì thế, anh ta cũng có lý phần nào khi bảo: - Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa…vợ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ…vợ, kính cha. Cho tròn tình nghĩa, mới là…đờn ông. Và anh ta còn bạo phổi quả quyết: - Cha sinh không bằng…vợ dưỡng. Sở dĩ như vậy, vì người vợ ấy không ngừng khuyên răn, nhủ bảo và giáo dục anh ta đêm ngày. Ngay chính dân bợm nhậu cũng đã phải khẩu phục tâm phục và cúi đầu thú nhận: - Vợ ta không có công sinh ra ta, nhưng có công nuôi dưỡng và dạy dỗ ta nên người. Như vậy, lấy vợ thì sẽ được muôn vàn lợi ích. Tuy nhiên, cái lợi ích to tát nhất mà gã muốn bàn đến hôm nay, đó là vợ đã dạy dỗ ta nên người. Trước hết về cách thức dạy dỗ. Ông trời đã phú bẩm cho người phụ nữ thiên chức làm mẹ và làm vợ. Vì thế, tự bản chất họ có nhiều năng khiếu về sư phạm, về nghệ thuật dạy dỗ. Có khi họ tỉ tê năn nỉ ỉ ôi, khiến anh đờn ông con giai dù cứng như đá, cũng phải mềm nhũn như con chi chi. Có khi họ nói dài nói dẻo nói dai, miết rồi như giọt mưa cũng thấm dần xuống đất. Có khi họ dùng tới biện pháp mạnh, độc ác như bà La Sát, nghiệt ngã như bà chằn và hung dữ như sư tử Hà Đông, khiến anh đờn ông con giai phải rụng rời tay chân, hồn xiêu phách lạc. Chẳng thế mà đa số những ông chồng đều mắc phải một thói tật rất dễ thương, đó là thói tật…sợ vợ: - Vợ mình, mình sợ mới khôn, Vợ người mà sợ có hôm què giò. Vợ ta, ta sợ chẳng lo. Vợ người mà sợ, đồ bò đồ trâu. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là những bài học vợ dạy cho ta, nhờ đó ta mới mở mắt ra và mới được như ngày hôm nay. Trước hết, vợ dạy ta nên một người…thứ thiệc “chăm phần chăm”. Thực vậy, mục đích thứ nhất việc dạy dỗ nhắm tới, đó là đào tạo nên những con người thứ thiệc “một chăm phần chăm” khả dĩ có thể sống tự lập và sống với người khác. Trước khi là người cha hay người chồng, trước khi là người Phật tử hay người Kitô hữu, thì tiên vàn phải là người đúng nghĩa của nó, chứ đừng có “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”. Công việc này được các nhà chuyên môn gọi là “giáo dục nhân bản”, “giáo dục đầu tiên”, tiếng “Phăng xe” gọi là “première éducation”. Tại Việt Nam, xem ra công việc giáo dục này còn thiếu sót trầm trọng. Chẳng thế mà đường phố thì nhếch nhác bẩn thỉu, xe cộ thì chen lấn gây ùn tắc giao thông, hàng quán thì khạc nhổ tùm lum, chẳng ai thèm giữ phép vệ sinh công cộng. Thế nhưng, chính nhờ vợ mà ta được hấp thụ một nền giáo dục nhân bản, để ta trở thành một con người đường đường chính chính. Phải, nhờ vợ mà ta biết phép lịch sự. Ngày xưa, ta la hét quát tháo là chuyện nhỏ, ta mày tao chi tớ cũng chỉ là chuyện xoàng. Còn bây giờ, ta phải ăn nói nhỏ nhẹ, khi đi thì thưa, khi về thì trình, khi gọi thì dạ, khi bảo thì vâng: - Làm trai rửa bát quét nhà, Vợ gọi thì dạ bẩm bà em đây. Chẳng thế mà thiên hạ vốn thường bảo: - Lịch sự là bông hoa thơm của nhân loại, là món tiền càng tiêu càng lời, là chiếc chìa khóa bằng vàng khả dĩ mở được mọi khung cửa, kể cả khung cửa những con tim chai đá nhất. Phải, nhờ vợ mà ta biết tế nhị, chẳng bao giờ hé môi chê bai ai, nhưng luôn mở mồm mở miệng để cám ơn và khen ngợi. Ngày xưa, ta mặc sức phê bình chỉ trích và sẵn sàng kê tủ đứng vào mặt kẻ nào dám phản đối ta. Còn bây giờ, ví dù cơm có khê, ta vẫn cứ hùng hục mà ăn. Ví dù canh có mặn, ta vẫn cứ anh dũng mà húp chùn chụt, rồi khen lấy khen để: - Ôi chao, mình nấu nướng mới tuyệt vời làm sao!!! Chẳng thế mà: - Vuốt râu nịnh vợ con bu nó, Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh. Phải, nhờ vợ mà ta biết phục thiện. Ngày xưa, ta vốn thường hay cãi chày cãi cối, đã ngang như cua, lại còn ngoác miệng ra mà bảo: - Ta ngang, nhưng là ngang phải, ngang có lý. Thiên hạ tức anh ách, như bị bò đá mà vẫn miệng vẫn cứ phải ngậm tăm: - Một thằng ngang, cả làng phải chịu. Ấy là chưa kể những anh chàng mang thói quan liêu và gia trưởng, sai bét bè be mà vẫn cứ cho rằng mình đúng, Dùng áp lực theo kiểu cả vú lấp miệng em, bắt người khác, nhất là vợ con, phải chấp nhận sự thật của mình. Cứ tưởng rằng: lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng và chân lý luôn ở về phía những kẻ…vũ phu. Thế nhưng bây giờ, rất may vợ dạy ta biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi, ngay cả khi ta chẳng thấy mình có lỗi chi. Thôi thì cứ nhận bừa, cứ ký đại cho êm cửa êm nhà. Dĩ hòa vi quí. Một sự nhịn là chín sự lành kia mà. Thà rằng mình chịu thua một tí, còn hơn là để cho vợ phải thiệt. Ngoài ra, ta làm sao mà chịu nổi sự lạnh lùng và “cấm vận” của vợ ta cơ chứ. Chẳng thế mà người xưa đã bảo: - Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết người biết mình trăm trận đều thắng. Và ông thánh Âu Cơ Tinh luôn cầu nguyện cho được biết mình: - Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con… Phải, nhờ vợ mà ta biết kiên nhẫn, luôn chờ đợi mà chẳng thấy mệt mỏi. Ngày xưa, từ lúc quen nàng rồi yêu nàng, biết bao nhiêu lần nàng hẹn sẽ gặp ta vào giờ ấy, nhưng mãi cả bốn mươi lăm phút sau, nàng mới lững thững bước tới. Thời gian chờ đợi khiến ta đứng ngồi không yên, như bị cả trăm con kiến lửa cắn vào chân. Nếu có cà phê thì phải xơi tới vài ba cái phin đen. Hay như một ông thi sĩ nào đó đã diễn tả: - Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé, Để lòng sầu, anh dạo gót quanh sân, Ngó trên tay, thuốc lá cháy lui dần. Anh khẽ bảo: gớm sao mà nhớ thế. Thế nhưng khi nàng vừa xuất hiện, ta liền quên béng mất sự bực tức khi trước, bèn nhoẻn miệng cười toe toét. Nàng ậm ừ hỏi ta: - Anh chờ có lâu không. Ta phản xạ trả lời: - Anh cũng vừa mới tới à. Bây giờ, nàng đã là vợ và ta lại càng có nhiều dịp thực hành đức kiên nhẫn. Chẳng hạn mỗi khi vợ chồng phải đi dự tiệc, mà giờ thì đã cận kề, thế mà nàng cứ vô tư tô chỗ này, vô tư thoa chỗ khác và vô tư kẻ chỗ kia. Rồi lại còn vô tư ướm chiếc áo này, vô tư thử chiếc áo kia. Ta đành phải tự an ủi mình: - Vợ ta mà không làm đẹp, thì hẳn không còn phải là đờn bà con gái nữa. Rồi mỗi khi vợ chồng đi “shop”, ta âm thầm như một chiếc bóng theo hầu, để tay xách nách mang những sự lỉnh kỉnh nàng dúi cho. Món nào nàng cũng muốn ngắm và thứ nào nàng cũng muốn mua. Vài ba tiếng đồng hồ trôi qua vèo vèo như một cơn mộng dữ. Dù chiếc ví có lép kèm kẹp, thì bản mặt ta cũng vẫn phải tươi cười khi nàng chỉ trỏ cái nọ cái kia. Chẳng thế mà người xưa đã khuyên ta: - Hãy cho bền chí câu cua, Dù ai câu trạch, câu rùa mặc ai. Phải, nhờ vợ mà ta biết hào phóng với người và tiết kiệm với mình. Thực vậy, ngày xưa khi còn độc thân vui tánh, làm được đồng nào, ta liền xào đồng nấy. Nhiều khi lại còn bóc ngắn cắn dài, con nhà lính tính nhà quan. Ta luôn rộng rãi với bản thân, để rồi keo kiệt và nghiệt ngã với người khác. Còn bây giờ ấy hả. Làm được đồng nào ta liền mang về dâng hết cho vợ, để lập thành tích và mong nàng ban phát cho ta một nụ cười ruồi, mát ruột mát gan. Ta luôn hào phóng với nàng, để rồi bất đắc dĩ phải keo kiệt và nghiệt ngã với bản thân, vì còn tiền nữa đâu mà ga với lăng. Nhiều lúc ta phải gãi đầu gãi tai xin nàng bố thí cho kẻ bần cùng túng thiếu vài đồng bạc lẻ để cà phê cà pháo với bè bạn. Phải, nhờ vợ mà ta biết trật tự ngăn nắp. Thực vậy, xưa kia ta bạ đâu quăng đấy. Trật tự của ta chính là sự vô trật tự. Tuy nhiên, hễ cần cái gì là ta liền tìm thấy ngay. Thế nhưng, từ ngày vợ ta quản lý căn hộ, sáng nào nàng cũng quét dọn, cũng lau chùi, cũng xếp đặt. Phá vỡ cái vô trật tự, cái vô tổ chức của ta. Rõ ràng chiếc bật lửa ta vừa quẳng trên bàn, bây giờ thèm thuốc, chẳng biết nó biến nơi mô ? Bước chân vô nhà, ta phải để giày, để dép ở bên ngoài, miết rồi ta không còn làm chủ nữa, mà làm nô lệ cho chính ngôi nhà của ta. Phải, nhờ vợ mà ta biết chấp nhận nghịch cảnh. Ngày xưa ta thường nhe răng cười, khi thấy thiên hạ phát biểu: - Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Còn bây giờ, ta đã là kẻ nhảy tõm vào lòng cuộc đời, ta đã là kẻ đang nằm ở trong chăn và ta đã là kẻ qua cầu. Cuộc đời ấy có nàng ở bên cạnh. Tấm chăn ấy có nàng cùng đắp chung. Và nhịp cầu ấy có nàng sánh bước. Ta chẳng còn cách nào khác, đành phải cúi đầu xin vâng, chấp nhận mọi gai nhọn, chấp nhận mọi đắng cay, chấp nhận mọi chấy rận, chấp nhận mọi đớn đau đứt ruột. Có lẽ ta đang tiến mau, tiến mạnh và tiến vững chắc trên con đường nhân đức…vâng lời chịu vậy. Phải, nhờ vợ mà ta biết được giá trị của hai chữ tự do. Ngày xưa, ta muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn ăn gì thì ăn. Còn bây giờ vợ ta khép ta vào kỷ luật, đặt ta nằm vào cái thế gọng kìm, đúng như người xưa đã bảo: trai có vợ như rợ buộc chân. Ta giống như chú hổ của Thế Lữ, ngồi chổm hổm trong chiếc lồng vững chắc mà nhớ tới chốn rừng xanh: - Gậm mối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài nghe ngày tháng dần trôi. Bây giờ ta mới thấy thấm thía câu nói: - Không có gì quí hơn độc lập và tự do. Bây giờ ta mới thấy quí sự tự do. Ta hối tiếc vì đã để nó như cánh chim vuột khỏi bàn tay ta. Và mọi sự đã trở thành quá muộn vì ta đâu còn tự do nữa. Nhưng ta vẫn vui vẻ tự an ủi mình: - Kỷ luật do vợ ta áp đặt trên ta sẽ tạo cho ta sức mạnh và giúp ta nên người. Phải, nhờ vợ ta mới có được một sức khỏe dẻo dai. Ngày xưa, ta lười biếng, cẩu thả và nhếch nhác. Ngày thì ước những ngày mưa, đêm thì ước những đêm thừa trống canh. Ta phung phí sức khỏe cho những trận đá bóng về sáng, cho những cuộc nhậu thâu đêm. Ta giống như hạng thư sinh, trói gà không chặt, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Thế nhưng, bây giờ vợ ta sẽ đem lại cho ta một sức khỏe, nếu không mạnh mẽ như “Hẹc quin”, thì cũng dẻo dai như bất kỳ vận động viên nào. Thực vậy, theo các bác sĩ. Muốn được khỏe mạnh thì cần phải hoạt động và ăn uống chừng mực. Vợ ta, dù không phải là bác sĩ, nhưng đã áp dụng hai tuyệt chiêu ấy cho ta từ lâu. Trước hết, nàng bắt ta phải lao động tay chân: nào là thổi cơm và giặt giũ, nào là rửa bát và quét nhà, nào là cắt cỏ và làm vườn, nào là mang và vác mỗi khi theo nàng đi “shop”…Lao động tay chân khiến ta nhìn thấy vinh quang và đem lại cho ta một sức khỏe dồi dào. Thứ đến, về chế độ ăn uống, nàng ra sức ngăn cản ta không được hút thuốc, thuốc lào cũng như thuốc lá, không được uống rượu, rượu mạnh cũng như rượu bia, tối tối không được thức khuya mà phải lên giường đi ngủ sớm…Ta chỉ khác ông thày tu có chút xíu!!! Có lẽ ta cũng nên theo chương trình “huấn nhục” như thế của vợ ta, bởi vì: - Một thằng ăn mày khỏe mạnh còn sung sướng hơn một ông vua đau yếu. Sau khi đã dạy ta nên một người thứ thiệt “chăm phần chăm”, vợ còn dạy ta thành một người cha gương mẫu và một người chồng chung thủy. Trước hết là một người cha gương mẫu. Đúng thế, khi vợ ta rụch rịch “cắn ổ”, ta lo toát cả mồ hôi hột. Ta kiểm kê mọi thứ phụ tùng lỉnh kỉnh. Rồi lỡ dại khi nàng đau yếu, ta phải thay nàng nuôi con. Ta bao thầu mọi việc từ việc thay tã đến việc tắm rửa cho con, từ việc cho con bú đến việc ru con ngủ. Nếu có dự thi, nhất định ta sẽ ẵm chiếc huy chương vàng của ông bố gương mẫu, vì đã nuôi con khỏe, dạy con ngoan. Tiếp đến là một người chồng chung thủy. Đúng thế, đêm đêm nằm ngủ bên nàng, ta đừng ú ớ mơ mà kêu tên những loài hoa, như Hồng, Mai, Lan, Cúc…Ngày ngày khi ra phố với nàng, ta cứ thẳng một đường mà đi, chớ có liếc ngang liếc dọc, nhất là đừng dại dột mở miệng khen bất cứ một cô gái nào trước mặt nàng, bằng không thì giông tố sẽ nổi lên và…phải “chít” với bà. Qua những điều vừa trình bày, gã thấy lợi ích của việc lấy vợ quả thật là vô thiên lủng và khôn xiết kể. Chẳng tin thì cứ thử một lần, ắt sẽ biết. Và để kết luận gã xin kể lại một chuyện có thật như sau: Bên cạnh nhà gã có một anh đờn ông con giai, thuộc vào hàng “phá gia chi tử”, tệ trạng nào hắn cũng có mặt, từ ăn nhậu đến đánh đấm và đã từng nhiều lần được công an hỏi thăm. Bố mẹ hắn rất rầu rĩ. Cứ mỗi lần xảy ra sự cố, thì một cụ già hàng xóm đều khuyên bố mẹ hắn như sau: - Cứ cưới ngay cho nó một con vợ. Thế là xong. Chỉ có con vợ nó mới dạy được nó mà thôi. Xin khẩu phục tâm phục kinh nghiệm của cụ già hàng xóm !!! Gã Siêu.
Chả biết từ đời thuở nhà nào, trong thiên hạ đã có lời xác quyết: - Người là một con vật có GãSiêu 68
Chả biết từ đời thuở nhà nào, trong thiên hạ đã có lời xác quyết: - Người là một con vật có trí khôn. Đúng thế, càng suy gẫm gã càng nhận ra sự thực tuyệt vời của câu nói ấy. Sở dĩ con người vượt trội hơn con vật là nhờ đầu óc. Thế nhưng, đầu óc mới chỉ là bình diện vật chất. Không phải cứ đầu to óc lớn mà tài giỏi. Nếu lấy khối lượng làm tiêu chuẩn thì hẳn con bò phải ăn đứt con người, thế mà chúng ta vẫn bảo: - Ngu như bò. Và chúng ta cũng thường kết án: - To đầu mà dại. Cái làm nên chất lượng cao cho đầu óc con người chính là trí khôn. Nhờ trí khôn, con người mới có được những tư tưởng hay ho, rồi từ đó nảy sinh những việc làm tốt đẹp, bởi vì tư tưởng thì hướng dẫn cho hành động. Nhờ trí khôn, con người mới có được những phát minh làm đổi thay bộ mặt trái đất. Chẳng hạn trong lãnh vực ăn, ngày xưa người ta ăn sống nuốt tươi, thế mà hôm nay đã có hằng hà sa số những thứ cao lương mỹ vị. Cứ chiều chiều đi dạo phố Saigon, người ta ghi nhận được biết bao nhiêu nhà hàng, biết bao nhiêu quán ăn, biết bao nhiêu... làng nướng mọc lên khắp nơi, khói tỏa nghi ngút, hương thơm ngào ngạt làm điếc mũi hàng xóm và khách qua đường. Chẳng hạn trong lãnh vực uống, ngày xưa người ta uống nước lã cầm hơi, thế mà hôm nay đã có muôn vàn thứ rượu. Quê hương Việt Nam chúng ta vốn còn nghèo nàn và nhiều người vốn còn thiếu ăn, thế nhưng nếu bây giờ người ta hỏi gã: - Có bao nhiêu thứ bia trên đất nước này ? Gã đành bó tay chào thua, chẳng thể trả lời được, bởi vì hầu như tất cả các thứ bia nổi tiếng trên thế giới, cũng như những thứ bia vô danh tiểu tốt chả ai biết đến đều có mặt tại vùng đất khốn khổ này, hơn thế nữa lại còn liên tục phát triển và không ngừng vươn lên. Chẳng hạn trong lãnh vực ở, ngày xưa người ta ở hang ở lỗ, thế mà hôm nay đã có cơ man nào những ngọn tháp, những tòa nhà chọc trời, cao hằng mấy trăm mét, đứng ở dưới mà nhìn lên, cứ tưởng chúng đụng tới mây và làm cho mình hoa cả mắt, chóng cả mặt. Trong khi đó, con vật thì vẫn cứ giậm chân tại chỗ, trước sao sau vậy, chẳng tiến bộ được một ly ông cụ nào cả. Chẳng hạn con cọp thì vẫn cứ ăn sống nuốt tươi, con chuột thì vẫn cứ chui hang chui hốc, con chim thì vẫn cứ xơi những hạt lúa rụng và tha những cọng rơm về làm tổ. Chỉ riêng con người là không ngừng phát triển về đủ mọi phương diện. Sở dĩ như vậy cũng chỉ vì con người có trí khôn. Một trong những sinh hoạt chính của trí khôn, đó là suy nghĩ. Chẳng thế mà Pascal đã bảo: - L’homme est un roseau pensant, con người là một cây sậy biết suy nghĩ. Và chính Pascal còn đã khẳng định thêm: - Je pense, donc je suis, tôi suy nghĩ, vậy tôi hiện hữu. Cái làm nên con người tôi, cái làm nên cuộc sống tôi, đó là sự suy nghĩ. Nếu tôi sống mà không suy nghĩ, thì kể như đã tiêu tùng từ lâu và không còn là tôi nữa. Bây giờ, gã xin “xì tốp” những chuyện triết lý trên mây trên gió ấy để chỉ nói tới những chuyện đời thường mà thôi, bởi vì gã chẳng được học chuyên sâu về môn này, kẻo lắm kẻ thối mồm lại bĩu môi, chu mỏ mà bảo: - Ban môn lộng phủ, múa bút trước cửa nhà Lỗ Ban. Được diễn nôm thành: - Đánh trống qua cửa nhà sấm. Hay: - Múa rìu qua mắt thợ. Trong những lúc ngồi suy tư mông lung, chúng ta ít khi nghĩ đến những sự trên trời, mà hay nghĩ đến những sự dưới đất, chúng ta cũng ít nghĩ đến chuyện mình, mà hay nghĩ đến chuyện người. Rồi sau đó, đưa ra những nhận định và những đánh giá. Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước ngực đặt những sai lỗi của của người khác, còn cái giỏ sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, rồi lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách gắt gao. Còn những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy chăng nữa, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bào chữa, để biện minh: vì... tại... bởi... Chúng ta thường khắt khe đối với người khác mà khoan dung với bản thân, đáng lẽ ra, chúng ta phải khoan dung với người khác mà khắt khe đối với chính bản thân mình. Tuy nhiên, những nhận định và đánh giá của chúng ta rất ít khi vô tư và chính xác, bởi vì chúng ta thường bị chi phối bởi nhiều lý do khác nhau. Trước một sự việc, mỗi người đều có một cái nhìn riêng và một phán quyết riêng, đúng như tục ngữ đã bảo: - Năm người, mười ý. Ngày nọ, có hai cha con nhà kia dắt một con lừa ra chợ để bán. Người cha ngồi chễm chệ trên lưng lừa, còn đứa con đi bộ theo sau. Khách qua đường thấy thế bèn nói: - Người cha gì mà không biết thương con! Ngồi chễm chệ trên lưng lừa trong khi đứa con phải đi bộ. Nghe vậy, người cha bèn nhảy xuống khỏi lưng lùa và nhường cho con cưỡi. Đi được một chốc, hai cha con lại nghe khách qua đường chỉ trích: - Đồ con bất hiếu, còn trẻ mà ngồi ung dung trên lưng lừa, trong khi cha thì già mà lại phải cuốc bộ. Nghe vậy, hai cha con mới bảo nhau: - Chỉ còn một cách để cho thiên hạ khỏi bàn ra tán vào, đó là cả hai cha con ta cùng cưỡi. Thế là hai cha con cùng leo lên lưng lừa. Nhưng vừa đi được một quãng, họ lại nghe thấy một lời chỉ trích khác: - Rõ là phường vô nhân đạo! Làm sao con lừa gầy chịu đựng nổi một sức nặng như thế. Nghe vậy, hai cha con lại vội nhảy xuống khỏi lưng lừa. Thế nhưng cũng chỉ một lúc sau, có người lại phê bình: - Rõ là đồ ngu dốt. Có lừa mà không dám cưỡi lại phải đi bộ. Hai cha con không biết làm sao, đành phải nai lưng khiêng con lừa đến chợ. Câu chuyện này làm cho gã nhớ tới một câu ca dao của người Việt Nam chúng ta: - Ở sao cho vừa lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn, Béo chê béo trục, béo tròn, Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra. Sở dĩ có những cái nhìn riêng và những phán quyết khác biệt như thế, bởi vì khi nhận định và đánh giá, chúng ta thường chủ quan, bị tình cảm chi phối, theo kiểu: - Yêu nhau củ ấu cũng tròn, Trái bồ hòn cũng ngọt. - Yêu nhau cau bảy bổ ba, Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười. - Yêu ai yêu cả đường đi, Ghét ai, ghét cả tông chi họ hàng. Ngày xưa, bên nước Tống có một người rất giàu. Ông xây tường cao chung quanh nhà để đề phòng kẻ gian xâm nhập. Một hôm mưa to và gió lớn, cuồng phong và bão táp nổi lên, khiến một cây cổ thu ïbên đường bị đổ và làm sập mất một khoảng tường. Người con thấy thế bèn nói: - Xin cha cho xây tường lại ngay đi, nếu không kẻ trộm sẽ lẻn vào mất. Người láng giềng thấy vậy cũng đề nghị: - Này bác, không xây lại ngay thì e rằng sẽ có trộm. Tường chưa kịp sửa, thì ngay đêm hôm đó, nhà ông phú hộ bị kẻ trộm viếng thăm. Sáng ra khi hay nhà mất trộm, ông khen người con là khôn ngoan, nhìn xa trông rộng, biết trước mọi sự. Trong khi đó, ông lại nghi ngờ người hàng xóm là gian xảo, lợi dụng thời cơ, xâm nhập gia cư, lấy trộm đồ đạc nhà ông. Cũng vậy, ngày xửa ngày xưa ở bên Tàu có một ông quan rất được nhà vua sủng ái, mà gã quên béng mất tên rồi. Ngày kia, thiên hạ đem dâng cho nhà vua một món sơn hào hải vị. Thấy vậy, ông quan này bèn xơi trước một bát. Nhà vua nghe biết liền khen: - Rõ thật là bậc trung thần, ăn trước để xem trong món sơn hào hải vị ấy có thuốc độc hại trẫm hay không. Thời gian sau, ông quan này bị thất sủng. Ngày kia, thiên hạ cũng đem dâng cho nhà vua một món sơn hào hải vị. Thấy vậy, ông quan này cũng xơi trước một bát. Khi nghe biết, nhà vua bèn đùng đùng nổi giận và quát mắng: - Rõ thật là đồ khinh quân phản phúc, dám xơi trước, chẳng còn kính nể gì trẫm nữa. Không những phải tội chết, mà còn phải tru di tam tộc. Nói thế rồi, nhà vua bèn truyền lệnh: - Lính đâu ? Chém đầu. Những câu chuyện trên làm gã nghĩ tới lời cha ông chúng ta đã xác quyết: - Yêu nến tốt, ghét nên xấu. Hay như dân tây thường bảo: - C’est la vie!!! Đời là thế!!! Tuy nhiên, khi nhận định và đánh giá người và việc, ngoài yếu tố tình cảm, chúng ta còn bị bị tâm trạng cũng như hoàn cảnh, những yếu tố bên trong cũng như bên ngoài chi phối nữa, như Nguyễn Du đã từng viết: - Cảnh nào, cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ. Ông du khách lái xe phom phom từ Nha Trang lên Đàlạt, khi qua khỏi đèo Ngoạn Mục, người ta hỏi: - Ông thấy Nha Trang thế nào ? Ông mỉm cười và nói: - Nha Trang hở ? Gió biển mát mẻ, con người vui vẻ, quả là một địa điểm du lịch tuyệt vời. Người ta hỏi tiếp: - Ông lên Đàlạt, vậy ông nghĩ gì về thành phố này ? Ông trả lời: - Tôi hy vọng Đàlạt cũng sẽ tuyệt vời như vậy và còn hơn vậy nữa. Lúc sau, một ông du khách khác lái chiếc xe cà rịch cà tàng, từ Nha Trang lên Đàlạt. Bò mãi mới leo tới đỉnh đèo Ngoạn Mục, người ta hỏi: - Ông thấy Nha Trang thế nào ? Ông nhăn nhó và nói: - Nha Trang ư ? Khí hậu oi bức, con người cục súc. Quả là một nơi du lịch tồi tệ. Người ta hỏi tiếp: - Ông lên Đàlạt, vậy ông nghĩ gì về thành phố này ? Ông trả lời: - Tôi cho rằng Đàlạt cũng sẽ tồi tệ như vậy, mà còn hơn vậy nữa. Sau cùng, khi nhận định cũng như đánh giá người và việc, nhiều khi chúng ta còn cố tình để cho những ý đồ đen tối lộng lành mà vo tròn bóp mép sự thật. Đúng thế, bất kỳ ai trong chúng ta cũng đều mang lấy một chút tự ái, một chút tự cao, một chút tự đại... Bất kỳ ai trong chúng ta cũng đều bị tính kiêu căng len lỏi vào từng ngõ ngách tâm hồn. Khi người khác gặp phải tai ương hoạn nạn, có thể bên ngoài chúng ta ủ rũ như treo cờ tang, nhưng bên trong lại khấp khởi mừng thầm: - Cho mày chết. Khi người khác phạm phải một sai lỗi nào đó. Thay vì tìm hiểu để có được một thái độ cảm thông, chúng ta bèn vội vã lên tiếng kết án một cách nghiệt ngã như muốn đạp họ xuống tận bùn đen và giám tiếp nói rằng mình tốt hơn họ bội phần: - Tôi không như vậy đâu. Đúng như tục ngữ đã bảo: - Chân mình những lấm mê mê, Lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Hơn thế nữa, những nhận định và đánh giá của chúng ta vốn thường sai lầm, bởi vì chúng ta không hiểu rõ được hoàn cảnh của họ, cũng như những lý do thầm kín đã chi phối hành động của họ. Một cô gái bán dâm, hành động ấy chắc chắn phải là một hành động xấu, nhưng biết đâu cô gái ấy lại có những lý do chính đáng để được giảm nhẹ, chẳng hạn như cô gái ấy đang cần một số tiền để mua thuốc chữa bệnh cho mẹ già sắp chết. Một ông chồng khô khan nguội lạnh, chẳng hiểu buồn vì chuyện gia đình lục đục hay chuyện làm ăn thất bại, mà ngày nọ đã nhảy xuống sông tự tử. Mọi người đều tin rằng ông ấy đã mất linh hồn, chết sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp. Thế nhưng, nào có ai hay ông ấy vốn kính mến Đức Mẹ. Thứ bảy đầu tháng nào, ông cũng dâng lên Mẹ những bông hoa tươi. Chính vì thế, ông đã được ơn ăn năn vào giây phút cuối cùng, như lời thánh Vianney đã nói với bà vợ của ông : - Giữa cây cầu và dòng sông có một khoảng cách. Khoảng cách ấy tuy nhỏ nhưng cũng đã đủ để ông ta sám hối. Và chính khoảng cách nhỏ này cấm chúng ta không được xét đoán liều lĩnh. Khi tỏ lộ những nhận định, những đánh giá chủ quan và sai lạc của mình cho thiên hạ biết, là chúng ta đã tạo nên và tung ra những tin đồn. Vì thế, trong tự điển người ta đã định nghĩa: - Đồn là nói chuyền cho nhiều người biết. - Tin đồn là tin không chắc chắn do nhiều người rỉ tai cho nhau. Chẳng hạn trong ca dao có câu: - Cúc mai trồng lộn một bồn, Chúng mình chồng vợ, ai đồn mặc ai. Còn sau khi nhận được một tin đồn, chúng ta nói lại cho người khác, thì lúc bấy giờ chúng ta chẳng khác gì kẻ đang phùng má trợn mắt thổi cho tin ấy lan nhanh. Vì thế, người ta mới gọi là đồn thổi. Đã đồn thì phải thổi để cho tin ấy được bay đi khắp bốn phương trời: - Tiếng lành đồn xa, Tiếng dữ đồn ba ngày đường. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi chúng ta đã phải ngậm đắng nuốt cay mà nhận ra rằng: - Đồn về tiếng lành thì chẳng bao nhiêu, còn thổi về tiếng dữ thì lại quá nhiều, chẳng thể nào kể ra cho xiết. Tin đồn thường không đúng với sự thật. Chính vì tính cách “thất thiệt” này mà tin đồn do chúng ta tung ra, hay do chúng ta thổi cho nó bay đi xa, đã giết hại biết bao nhiêu người ngay lành và thiện chí mà nhiều khi chính chúng ta cũng chẳng thèm biết đến. Bà chị của gã lấy chồng. Anh ấy là cảnh sát cấp “nhớn”. Hai người có với nhau ba mặt con. Rồi anh ấy được “bốc” đi mình ên trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Suốt quãng thời gian dài, chị đã không nhận được một tin tức hay có một liên hệ gì với anh. Một sự thinh lặng quả là dễ sợ. Và cũng trong khoảng thời gian đằng đẵng ấy, người ta đã đồn rằng: - Anh ấy bị chết chìm giữa biển khơi vì tàu bị đắm. - Anh ấy bị đụng xe bên Mỹ và đã được mai táng tại nghĩa trang... Và tệ hơn nữa: - Anh ấy đã lấy vợ và đã có con. Những tin đồn vô căn cứ này làm cho chị héo hắt và quay quắt. Chị âm thầm nuốt những giọt nước mắt cay đắng, ra sức làm lụng vất vả để nuôi dạy ba đứa con. Cho tới ngày nhận được lá thư, trong đó anh cho biết mình đang xúc tiến thủ tục đón chị và các con qua Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình. Dầu vậy, chị vẫn còn bán tín bán nghi, nên đã viết và đặt thẳng vấn đề với anh: - Thế thì qua Mỹ, mẹ con em sẽ ở với ai, bởi vì người ta đồn rằng anh đã lấy vợ và đã có con. Một câu chuyện khác kể lại rằng: Tại một thị trấn nhỏ, chàng thanh niên kia có những triệu chứng và biểu hiện khác thường. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ “nghi ngờ” anh ta mắc phải bệnh phong cùi. Tuy không phải là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó mọi người bắt đầu xa tránh anh ta, nhìn anh ta với con mắt kinh hãi và ghê tởm vì sợ bị lây lan, vì thế anh ta không dám ra khỏi nhà và cũng chẳng dám tiếp xúc với một ai. Ngay cả những người thân trong gia đình cũng cho rằng anh đã mắc phải chứng bệnh khủng khiếp đó. Và để che dấu con người bị coi như một nỗi tủi nhục và xấu hổ chung, họ đã nhốt anh ta vào một căn phòng nhỏ và khóa chặt. Chàng thanh niên đáng thương ấy chỉ còn sống vất vưởng nhờ mấy chén cơm được đưa vào mỗi ngày. Vũ trụ của anh ta chỉ còn là căn phòng nhỏ với bốn bức tường khép kín. Ngậm đắng nuốt cay từng giây từng phút, anh ta chỉ còn một hy vọng duy nhất, đó là trốn thoát khỏi căn phòng giam của chính mình. Ngày nọ, anh ta đã lẻn được ra ngoài, nhưng chẳng may, gia đình đã kịp thời phát giác và lại tống anh ta vào căn phòng nhỏ. Lần này, chàng thanh niên khốn khổ ấy dường như không còn một tia hy vọng nào nữa. Anh ta chỉ muốn tìm sự giải thoát qua cái chết mà thôi. Lần thứ hai, anh trốn khỏi vũ trụ tăm tối của mình. Nhưng lang thang mãi trên đường phố mà vẫn không tìm được một sự tin tưởng và giúp đỡ của những người chung quanh, vì đi tới đâu anh ta cũng đều bị chối từ. Và thế là anh ta quyết định tìm đến cái chết như một lời biện hộ cuối cùng. Anh ta đã mua thuốc ngủ và tự tử trước mặt mọi người. Cái chết của anh ta đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu khám nghiệm tử thi. Và kết quả cuộc khám nghiệm đã làm cho mọi người chưng hửng và sửng sốt: - Anh ta chẳng hề mắc phải bệnh phong cùi. Một khi tin đã được tung ra, một lời đã được đồn thổi, thì không thể nào thu hồi lại được, cũng như không thể nào đền bù những thiệt hại tinh thần lẫn vật chất mà chúng đã gây nên. Có một người đàn bà vào tòa cáo giải và xưng tội nói hành nói xấu của mình. Cha giải tội bèn ra việc đền tội: - Con hãy mua một con gà giò, ôm nó vào lòng và đi khắp thành phố. Vừa đi vừa nhổ lông nó. Tuần sau, người đàn bà lại vào tòa cáo giải và lại xưng tội nói hành nói xấu. Cha giải tội hỏi: - Lần trước, con đã làm việc đền tội chưa ? - Thưa cha, rồi ạ. - Vậy việc đền tội lần này, đó là con hãy đi lại những con đường đã đi hôm trước và nhặt đưa về cho cha hết tất cả những chiếc lông con gà. - Nhưng thưa cha, gió đã thổi bay chúng hết rồi. - Cũng thế con ạ, con không thể nào thu hồi lại những lời nói hành nói xấu của con, bởi vì chúng đã được chuyền từ miệng người này tới miệng người kia. Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa đã bảo: - Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời nói ra khỏi miệng, bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp. Đừng bao giờ tự mình tung ra những tin đồn thất thiệt. Cũng như đừng bao giờ tiếp tay bằng cách thổi cho những tin đồn thất thiệt ấy bay đi khắp nơi, khắp chốn. Trái lại, hãy là bờ cát vàng, để những con sóng đồn đại xô tới chúng ta, lập tức sẽ bị tan thành những đám bọt trắng hiền hòa, không còn mang lấy những tác dụng độc hại của chúng nữa. Gã Siêu.
Nếu có người nào mở miệng mà bảo: - Đờn bà con gái khổ ơi là khổ. Gã sẽ phùng má trợn mắt GãSiêu 69
Nếu có người nào mở miệng mà bảo: - Đờn bà con gái khổ ơi là khổ. Gã sẽ phùng má trợn mắt cực lực phản đối cho tới cùng, bởi vì: - Ai bảo đờn bà con gái là khổ, đờn bà con gái sướng lắm chứ. Chỉ cánh đờn ông con giai mới thực sự khổ mà thôi. Trước hết, gã xin kể lể qua quít về nỗi sướng của phe đờn bà con gái. Trong những năm gần đây, một số những ngày lễ của Tây phương đã được du nhập vào Việt Nam và phần lớn những ngày lễ này chỉ làm lợi cho phe đờn bà con gái và tôn vinh hình ảnh của người phụ nữ. Còn cánh đờn ông con giai ấy hả ? Vào những ngày húy kỵ và hú…vía ấy, thì hãy cúi đầu xuống như…muông chim. Thứ nhất là ngày mười bốn tháng hai, tục gọi là ngày lễ tình yêu, ngày hội tình nhân, tiếng Ăng lê gọi đó là “St Valentine’s day”, ngày kính ông thánh Valentinô. Còn giới trẻ thì gọi một cách ngắn gọn là ngày Valentine. Mở sách vở ra “ngâm kíu”, gã ghi nhận có tới ba ông thánh Valentinô được mừng kính vào ngày mười bốn tháng hai. Ông thánh Valentinô, linh mục tử đạo tại Rôma vào năm 270. Ông thánh Valentinô, giám mục Terni, tử đạo vào năm 273. Ông thánh Valentinô giám mục, vị tông đồ miền Tyrol, qua đời vào năm 74. Chẳng biết vị thánh nào đã phò trợ cho những người đang yêu, chỉ biết rằng trong ngày đáng nhớ này, những anh con giai nào trót có bồ, thì liền phải ba chân bốn cẳng chạy vội đi mua lấy ít nhất một bông hồng mà tặng cho người yêu bé bỏng. Và nếu trong ví còn rủng rỉnh tí tiền còm thì cũng hãy nổi máu ga lăng, xin phép thầy bu đưa em đi bát phố, ăn cơm tối ở nhà hàng, xơi chè chổm hổm ở quán đầu ngõ, hay mần một tô…phở nhé, cả hai cùng húp sùm sụp. Ớt cay xè, chảy cả nước mũi và nước mắt. Tình phải biết ! Ngày thứ hai là ngày mồng tám tháng ba, được gọi là ngày quốc tế phụ nữ. Theo lịch sử, thì đó là ngày đờn bà con gái đấu tranh, hay nói một cách nôm na, thì đó là ngày phụ nữ vùng lên đòi quyền sống cũng như đòi quyền…sướng. Trong ngày ảm đạm và u ám này, những anh chồng phải tỏ ra mềm nhũn trước bà xã của mình. Nào là phải đi chợ đi búa, rồi lại còn phải nấu với nướng, giặt với giũ, dọn với dẹp từ trong nhà cho ra đến tận ngoài ngõ… cho đúng với cốt cách: - Làm trai, rửa bát quét nhà, Vợ gọi thì dạ, bẩm bà…em đây. Sở dĩ có cảnh tréo cẳng ngỗng như vậy vì trong ngày lịch sử này bà xã không phải chỉ là nội tướng trong gia đình, mà còn lên ngôi nữ hoàng thống trị, khiến ông chồng chỉ là…một con dân đáng thương. Ngày thứ ba là Chúa nhật thứ hai trong tháng năm, tiếng Ăng lê gọi là “Mother’s day”, tiếng Phú lãng sa gọi là “Fête des mères”, ngày lễ của các bà mẹ, nhằm tôn vinh công đức của giới hiền mẫu. Trong ngày êm ả này, con cái thường quây quần bên người mẹ hiền, chúc mừng và dâng quà để tỏ lòng hiếu kính đối với người đã vất vả nhọc nhằn trong việc sinh thành cũng như dưỡng dục nên mình. Nhiều nơi vẫn giữ tục lệ này, đó là những người mà mẹ già còn sống, khi ra đường thường cài một bông hồng trắng trên áo, để ám chỉ rằng người ấy vẫn còn có được một diễm phúc tuyệt vời trên đời. Chẳng thế mà Thượng tọa Thích Nhất Hạnh đã viết một cuốn sách nhỏ trong mùa Vu lan báo hiếu. Cuốn sách mang tựa đề “Bông Hồng Cài Áo”. Giữa lúc phe đờn bà con gái rôm rả và tưng bừng với những ngày lễ hội của mình: cười cười nói nói, ấy là chưa kể tới thái độ vênh vênh váo váo nữa là đàng khác, thì cánh đờn ông con giai cứ phải nín khe, chẳng giành lấy được một ngày để tôn vinh giọt mồi hôi và nỗi khổ cực của những anh chồng, của những ông bố. Nghe đâu thiên hạ cũng định chọn ngày mồng ba tháng tám để đối chọi lại với ngày mồng tám tháng ba, nhưng xem ra ý đồ đen tối này đã bị thất bại ngay từ trong trứng nước, vì chẳng ma dại nào nhớ tới cái ngày chết tiệt ấy. Về phương diện xã hội phe đờn bà con gái vốn đã được bàn dân thiên hạ ưu đãi như vậy, còn ca thán nỗi chi. Riêng về phương diện cá nhân, bản tính của người phụ nữ cũng đã được Thượng đế cưng chiều và gã có thể nói được rằng: - Họ sướng từ trong bụng sướng ra. Để diễn tả cái sự sướng ấy, một tác giả nào đó đã đưa ra ba trường hợp điển hình, gã xin “copy” lại như sau: Trước hết, vừa mới sinh ra, họ liền được xếp ngay vào “phái đẹp”, mà chẳng cần chờ ban giám khảo các cuộc thi hoa hậu cân đo, săm soi gì hết. Rõ sướng ! Họ khoái sắm đồ đẹp, thích đi mỹ viện, sửa đi, sửa lại: độn cái này vô, lấy cái kia ra cũng được cho qua, bởi vì họ là phái đẹp. Còn đờn ông con giai ấy hả ? Nếu làm như vậy thì thiên hạ lập tức xì xào: - Rõ là đồ bóng, đồ pêđê, đồ lại cái… Tiếp đến, thử hỏi ở phòng khám béo phì có bao nhiều bà bụng to cỡ “thùng nước lèo’, và bao nhiêu cô hông bự cỡ “võ sĩ sumô”, kết mô đen: vòng tròn biết đi, thùng phi di động ? Ấy vậy mà nếu đờn ông con giai lỡ có bụng to đi chữa mập, thì liền bị các bà các cô nhòm nhòm, ngó ngó, rồi ghé vào tai nhau phê cho một câu: - Bụng bia, uống bia cho đẫy vào rồi mới vậy. Sau cùng, họ được phép quyến rũ ta, tức cánh đờn ông con giai, bằng các độc chiêu như ánh mắt, nụ cười, giọng nói, thôi thì lườm lườm nguýt nguýt, nhõng nhà nhõng nhẽo…khiến bọn mày râu vốn được gọi là phái mạnh, phái khỏe, bỗng trở nên yếu xìu: răm rắp làm theo ý muốn của họ, cho dù có phải vào nhà đá mà nằm bóc lịch. Thế mà dư luận lại còn lên tiếng chê bai ta là mất đạo đức, làm bại hoại gia phong, làm tan nát cửa nhà. Ngoài ra, họ lại còn rất tinh khôn, đó là thích được người khác ôm, chứ nhất định không chịu bỏ tiền ra để mà “ôm” ai bao giờ cả !!! Với những so sánh khập khiễng kể trên, gã bèn nghiệm ra rằng đờn bà con gái sướng ơi là sướng, còn đờn ông con giai khổ ơi là khổ. Thân phận phái mày râu vốn dĩ rẻ như bèo, đã thế lại còn khó mà thực hiện được cho trọn vẹn vai trò của mình. Càng nghĩ gã càng cảm thấy tủi cho cánh đờn ông con giai. Đành phải thở dài thườn thượt mà ngán với ngẩm: - Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ. Rồi giơ tay lên trời, lớn tiếng phân bua: - Chúng ta sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Và cuối cùng, dứt khoát thề với đầu gối mình mà rằng: - Kiếp sau xin chớ làm chồng, Làm cây thông đứng mà trông…đờn bà. Bây giờ, gã xin bàn đến nỗi đoạn trường đầy cơ cực, đầy cay đắng của cánh đờn ông con giai, nhất là của những anh chồng trong cuộc đời bất hạnh của họ. Mỗi khi có dịp gặp gỡ, trong câu chuyện trao đổi, mấy cha dòng thường hay chê mấy cha triều như sau: - Các cha cứ việc xây rồi cất. Cũng giống như mấy ông cán bộ nhà nước: - Có làm thời mới có ăn, Không dưng ai dễ mang phần đến cho. Càng vẽ ra làm nhiều thì lại càng có ăn, bởi vì mỗi dự án được thực hiện, thì mấy ông cán bộ cũng bỏ vào túi riêng của mình chí ít là 30%. Trong khi đó, mấy cha triều lại trách mấy cha dòng như sau: - Các cha cứ việc khấn hứa cho lắm vào, rồi để tụi này phải giữ. Mặc dù bản thân các cha chẳng có gì cả, nhưng khi cần thì lại có tất tật. Chẳng hạn các cha không có xe riêng, nhưng nếu đi đâu, cần xe hai bánh thì có xe hai bánh, cần xe bốn bánh thì có xe bốn bánh. Hơn thế nữa, tiền xăng dầu khỏi phải lo vì đã có nhà dòng “bao cấp”, trang trải từ A đến Z. Sống như vậy, thì quả thực cũng “khó…mà nghèo”. Trong khoảng thời gian gần đây, thiên hạ thường hay nói đến hai chữ “linh đạo” tức là con đường tu đức, con đường nên thánh. Có linh đạo dành cho đời tu, thì cũng có linh đạo dành cho đời thường. Có linh đạo dành cho các cha dòng thì cũng có linh đạo dành cho những ông bố. Có linh đạo dành cho các sư huynh, thì cũng có linh đạo dành cho những anh chồng. Có linh đạo các bà phước thì cũng có linh đạo dành cho các bà mẹ. Có linh đạo dành cho các ma xơ thì cũng có linh đạo dành cho các chị vợ. Thôi thì trăm hoa đua nở, đúng như người Việt Nam chúng ta đã diễn tả: - Chữ tu kia cũng có dăm bảy đường: Thứ nhất thì tu tại gia, Thứ hai tu chợ, thứ ba tu…dòng. Ngồi nghĩ vẩn nghĩ vơ, gã thử so sánh đời sống của các thầy dòng với đời sống của những anh chồng, gã bỗng nghiệm ra rằng đời sống của mấy anh chồng gian nan hơn gấp bội so với đời sống của các thầy dòng. Mặc dù chẳng phải khấn với hứa, thề với thốt về ba lời khuyên Phúc âm, thế mà những anh chồng sống giữa đời, bên vợ bên con, bên xã hội bên gia đình, đã phải tuân giữ một cách “nghiêm văn chỉnh” những lời khuyên quí giá ấy, bởi vì nếu buông lơi đi một tí, thì sẽ kéo theo những hậu quả trầm trọng, đến nỗi quỉ thần cũng không lường nổi. Thứ nhất là lời khấn khó nghèo. Nhìn vào thực tế, gã nhận thấy vấn đề “đầu tiên” bao giờ cũng vẫn là vấn đề “tiền đâu”. Nỗi ưu tư số một của nhiều người là gì nếu không phải là nỗi ưu tư về “cơm áo gạo tiền”. Tiêu chuẩn để đánh giá sự thành đạt của một người, ngày nay thiên hạ không còn dựa vào nhân đức hay kiến thức, mà dựa vào lương bổng người ấy nhận được. Càng kiếm được nhiều tiền, thì càng được coi là thành công. Và tiền bạc đã chi phối mọi lãnh vực, từ bản thân đến gia đình, từ tình cảm cá nhân đến chức tước ngoài xã hội, đúng như bàn dân thiên hạ đã diễn tả: - Tiền là tiên là Phật, Là sức bật của người già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân, Là cán cân của công lý. Như có lần gã đã nói tới chiếc vòng luẩn quẩn: - Người ta lấy tiền để nhử đờn bà. Người ta lấy đờn bà để nhử đờn ông. Và người ta lấy đờn ông để…nhử ra tiền. Đúng thế, tự bản chất Thượng đế đã phú bẩm cho anh con giai một thân thể “cốt xì tô”, một thân thể cường tráng. Vì thế, anh con giai có bổn phận phải dùng nó để lao động sản xuất, hầu đảm bảo một cuộc sống ấm no cho bản thân cũng như cho vợ con. Tắt một lời, cánh đờn ông có bổn phận, có nghĩa vụ phải kiếm ra…tiền! Mặc dù không khấn khó nghèo, nhưng thực sự phần lớn các anh chồng đều phải giữ đức khó nghèo một cách triệt để, thậm chí còn phải giao nộp cho tới đồng xu cuối cùng. Nếu các thầy dòng không được phép giữ tiền riêng cũng như không được phép tự do hưởng dùng thoải mái những của cải vật chất, thì những anh chồng cũng rứa và còn hơn thế nữa. Đúng vậy, suốt năm suốt tháng, anh chồng phải lao động cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mới kiếm được tí tiền còm. Thế nhưng với số tiền còm này, anh chồng đừng hòng tơ tưởng mà trích ra một phần nhỏ để làm quĩ riêng hay để nhậu nhẹt đàn đúm với bầu bạn bốn phương. Trái lại, phải mau mắn đem về nộp cả cho chị vợ, không thiếu một đồng, không hụt một xu. Cái “đài” của chị vợ suốt ngày ca đi ca lại bản nhạc vật giá leo thang, gạo châu củi quế: tiền chợ tiền búa, tiền điện tiền nước, tiền mắm tiền muối, tiền thuốc tiền thang, tiền học tiền phí…thôi thì trăm thứ lỉnh kỉnh, khiến anh chồng chẳng còn dám “của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng”, bằng cách ăn bớt, ăn xén… Mà chị vợ thì lại rất giống kho bạc của nhà nước. Giao tiền thì hồ hởi, còn lấy tiền thì nhăn nhó. Nộp tiền dễ dàng, còn rút tiền thì nhiêu khê. Nghĩa là có đầu vào mà chẳng có đầu ra. Thậm chí ngay cả đến những nhu cầu chính đáng như tiền cà phê, tiền xăng dầu…anh chồng cũng phải gãi đầu gãi tai bẩm báo và xin xỏ với bà xã. Và thế là đi đoong tất cả, ta mất luôn chủ quyền trên cái ta đã chắt chiu…mần ra. Thứ hai là lời khấn trong sạch và khiết tịnh. Chuyện rằng: Có một cậu bé được vị ẩn sĩ đưa lên núi từ thưở nhỏ. Ngày ngày tu hành học đạo, xa tránh cuộc sống trần gian. Cho đến ngày kia, cậu bé trở thành một thanh niên khỏe mạnh và cường tráng. Vị ẩn sĩ mới quyết định đem cậu ta xuống núi để thử thách. Cuộc sống phàm tục có nhiều điều mới lạ khiến cậu ta hết sức ngạc nhiên và thích thú. Gặp bất cứ điều gì, cậu ta cũng ngắm nghía và hỏi han thầy mình. Trên đường về, gặp mấy cô gái vừa cấy lúa vừa cất tiếng cười trong trẻo, cậu ta liền hỏi: - Thưa thầy, cái gì thế ? Vị ẩn sĩ ngước nhìn và thấy mấy chiếc nón các cô đang đội, liền ôn tồn trả lời: - Ồ, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi con ạ. Về đến núi, tự nhiên cậu ta đâm ra ngẩn ngơ như người mất hồn. Thấy vậy, vị ẩn sĩ mới hỏi: - Con đau bệnh hay sao ? Cậu ta buồn bã trả lời: - Chẳng biết tại sao con nhớ mấy chiếc nón ấy quá, con thương mấy chiếc nón ấy lắm. Câu chuyện dí dỏm này muốn nói lên một sự thật, đó là nam và nữ, trai và gái thường lôi cuốn và hấp dẫn lẫn nhau. Đó là điều hết sức tự nhiên và bình thường, như tục ngữ vốn diễn tả: - Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà con. Mặc dù không khấn trong sạch, nhưng phần lớn các anh chồng đều phải giữ đức trong sạch đến từng ly từng tí. Hai chữ “trong sạch” ở đây không được hiểu theo nghĩa hẹp, nói tới việc giữ phép vệ sinh nơi thân xác, chẳng hạn mỗi buổi sáng khi thức dậy phải lấy nước đánh răng và rửa mặt, mỗi ngày phải tắm rửa và kỳ cọ cho sạch sẽ, râu tóc phải cho tươm tất và áo quần phải cho gọn ghẽ: - Đói cho sạch, rách cho thơm… Cũng không được hiểu theo nghĩa rộng, nói tới tình trạng tâm hồn không vướng mắc tội lỗi. Trái lại, phải được hiểu theo một nghĩa đặc biệt. Với nghĩa đặc biệt này thì trong sạch là nhân đức giúp chúng ta xa tránh những vui thú thể xác bất chính, không được phép. Cao điểm của đức trong sạch chính là đức khiết tịnh, hoàn toàn xa tránh những vui thú xác thịt, kể cả những vui thú chính đáng và được phép, bằng việc tự nguyện khước từ hôn nhân. Cao điểm này được dành cho bậc tu trì. Vì dây hôn phối đòi buộc phải chung thủy, vì hạnh phúc của bản thân và sự bền vững của gia đình, kể từ khi đưa nàng về…dinh, thì anh chồng lập tức phải chấm hết những mối liên hệ bất chính, chớ có mà lơ tơ mơ hay mèo chuột linh tinh thì có lúc phải…chết với bà. Về khoản nào gã không biết, chứ về khoản này thì các chị vợ rất ư là nhạy bén. Hở ra một tí, thì cũng đủ tiêu tùng. Ấy là chưa nói tới khi sự thật bé tẻo teo như con cóc, lại được các chị vợ phóng đại tô màu thành to như con bò. Ngoài ra, các chị vợ còn được hỗ trợ bởi những “vệ tinh do thám”, những quan sát viên quốc tế, như cô em, cô chị, bà thím, bà bác…Nhất cử nhất động đều được tường trình và báo cáo. Nên chớ có mà dại dột. Một tác giả nào đó đã giãi bày tâm sự…buồn về việc làm chồng của mình bằng cách than ngắn thở dài như sau: FB - Chiều chiều bìm bịp kêu chiều, Lấy vợ thì cũng lấy liều mà thôi. Ban ngày làm việc tả tơi, Ban đêm hầu vợ, phận tôi đêm trường. Nằm chung thì bảo…chật giường, Nằm riêng thì bảo…tơ vương con nào. Lãng mạn thì bảo…tào lao, Nghiêm trang lại bảo…người sao hững hờ. Khù khờ thì bảo…giai tơ, Khôn lanh thì bảo…hái mơ bao lần. Cả đời cứ mãi phân vân, Tơ lòng bà xã biết mần sao đây. Tính ghen của chị vợ là như một thứ rào cản, khiến cho anh chồng bất nhóc nhách. Xem ti vi thì đừng có mở mồm khen ca sĩ này đẹp, ca sĩ kia tươi mát. Ra đường thì đừng có láo liên con mắt, nhìn bên nọ ngó bên kia, nhưng phải cúi xuống, bước đều thẳng tắp một mạch. Gã xin ghi lại nơi đây “lời vợ dặn” để phe ta cùng suy gẫm: - Lái xe ra khỏi cổng nhà, Vợ kêu giật ngược, diết da dặn rằng: Một đừng mơ mộng thơ trăng, Đụng xe thi sĩ gẫy răng u đầu. Hai đừng giữ ống nghe lâu, Gái tơ õng ẹo ghẹo đầu dây kia. Ba đừng ghé quán rượu bia, Bốc men tơ tưởng nọ kia khó lường. Bốn đừng mua báo dọc đường, Bìa in hoa hậu soi gương liếc cười. Năm đừng liến láo con ngươi, Đồng nghiệp váy ngắn ẹo người đi qua. Sáu đừng hoang phí thời gian, Ngồi lâu trộm nghía cô hàng cà phê. Bảy đừng thấy phở mà mê, Bột ngọt loét dạ lại chê cơm nhà. Tám đừng hò hát lang thang, Tiếp viên ca sĩ giả ma hớp hồn. Chín đừng dạo bước hoàng hôn, Công viên hóa lá cô hồn rủ rê. Mười đừng ghé rạp xi nê, Ti vi nhà sẵn, lẹ về coi phim. Rõ chưa, vợ hét đứng tim, Đừng hòng tưởng bở như chim sổ lồng. Nhắc đi nhắc lại cho thông, Nếu không…tui quyết nhốt ông ở nhà. Thứ ba là lời khấn vâng lời. Người ta hỏi một em nhỏ: - Cháu muốn gì bây giờ ? Em nhỏ trả lời ngay: - Cháu muốn làm người lớn ? Người ta hỏi tiếp: - Tại sao cháu lại muốn làm người lớn ? Em nhỏ đơn sơ nói: - Cháu muốn làm người lớn để được thoải mái nằm ngủ nướng mà không bị gọi dậy đi lễ, để được vô tư chửi tục mà không bị la mắng, như…bố cháu ấy! Câu trả lời của em nhỏ, tuy ngây ngô, nhưng cũng phản ảnh được phần nào ước vọng của con người, đó là muốn có tí chức, tí quyền để được ra lệnh và không phải vâng lời. Phải chăng đây cũng chính là một cơn cám dỗ mà con người thường gặp phải ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày xưa nơi vườn địa đàng, ông bà nguyên tổ đã bị cám đỗ muốn được trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã không vâng lời Ngài, giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi phải cúi đầu lãnh nhận án phạt của đau khổ và chết chóc. Khi khấn giữ đức vâng lời, thầy dòng tự nguyện từ bỏ ý riêng để chu toàn ý Chúa. Ý Chúa ấy một phần nào đó được biểu lộ qua những lệnh truyền của bề trên. Cũng thế, bước vào đời sống hôn nhân anh chồng tuy không khấn vâng lời, nhưng đã thực sự giữ đức vâng lời một cách tối mặt ở mọi nơi, trong mọi lúc và qua bất kỳ công việc gì, nhớn cũng như nhỏ, to cũng như bé. Gã có thể suy diễn về đức vâng lời của anh chồng như sau: - Ta từ bỏ ý riêng, để chu toàn ý trời. Ý trời ấy một phần nào được biểu lộ qua những lệnh truyền của vợ ta. Đây không phải là một điều chi mới lạ do gã bịa ra, nhưng là một sự thật ngàn đời, đã được cha ông chúng ta tôi luyện bằng những kinh nghiệm xương máu, khi phát biểu: - Nhất vợ nhì trời. - Vợ muốn là trời muốn. - Lệnh vua thua lệnh bà. - Lệnh ông không bằng cồng bà. Nếu ngày xưa: trai thời trung hiếu làm đầu, thì hôm nay anh chồng cũng phải trung với vợ và hiếu với bố mẹ. Nếu ngày xưa: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, có nghĩa là vua xử bày tôi phải chết, mà nếu bày tôi không chết, thì đó là bầy tôi bất trung. Còn hôm nay, dù chị vợ có bảo anh chồng phải chết, thì anh chồng cũng rất hoan hỉ vâng lời chị vợ mà ngạo nghễ đi vào chỗ…tiêu tán đường ! Chẳng thế mà không thiếu gì những vị tai to mặt lớn, vì chiều theo ý vợ cũng như vì vâng lời vợ, mà mở rộng vòng tay đón nhận quà cáp, sẵn sàng tham nhũng, vô tư xơi hối hộ, để rồi cuối cùng thân bại danh liệt, nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ chuyện đời ở trong chốn lao tù. Như thế mới biết đức vâng lời của những anh chồng quả là cao vòi vọi: - Lời nàng dạy phải lắng nghe, Mai sau khôn lớn mà khoe mọi người. - Vợ mình, mình sợ mới khôn, Vợ người mà sợ có hôm què giò. Vợ ta, ta sợ chẳng lo, Vợ người mà sợ, đồ bò đồ trâu. Thật tội nghiệp cho những ông chồng, không tu ở nhà dòng nhưng lúc nào cũng tu ở nhà mình. Không thề không hứa, nhưng lúc nào cũng phải tuân phải giũ ba lời khấn : khó nghèo, trong sạch và vâng lời. Quả là những vị thánh giữa đời thường. Riêng gã, gã rất tâm phục khẩu phục cuộc sống đầy cam go thử thách của họ, nên xin được tôn phong họ lên làm “Đức ông…chồng”. Gã Siêu.
Việt Nam vừa mới trải qua cơn đại dịch cúm gà. Không phải chỉ có gà mà thôi đâu nhé, nhưng còn GãSiêu 70
Việt Nam vừa mới trải qua cơn đại dịch cúm gà. Không phải chỉ có gà mà thôi đâu nhé, nhưng còn có cả những loại gia cầm khác, như vịt, ngan, ngỗng…Hơn thế nữa, không phải chỉ có gia cầm mà thôi đâu nhé, nhưng còn có cả những loại chim chóc sống trên rừng cũng như sống trong lồng. Ở đâu dịch bệnh xuất hiện, thì ở đó lập tức mọi gà vịt…đều bị thu gom đem chôn hay đem đốt trong đường bán kính ba cây số. Thiệt hại do dịch bệnh này gây nên lên tới hàng mấy chục triệu đô la, ấy là chưa kể tới gần hai chục mạng người phiêu diêu miền cực lạc vì bị lây nhiễm. Ngoài ra, dịch bệnh này còn tạo nên những tình huống giở khóc giở cười, giở mếu máo, gã xin ghi lại để nhỡ lần sau gặp phải thì còn biết đường che chắn, chứ đừng kín trước, hở sau. Thứ nhất, thật tội nghiệp cho những gia đình nghèo. Vợ chồng và con cái làm lụng quần quật, chắt chiu bao nhiêu năm tháng mới gầy được một đàn vịt đẻ. Vào một buổi sáng đẹp trời, đàn vịt đẻ đang tung tăng bơi lội dưới ao, thì bỗng cán bộ thú y đến và phán: - Vùng này mắc…dịch. Và thế là a-lê-hấp, tóm cổ toàn bộ đàn vịt đẻ, cho vào bao tải mà đem đi chôn. Mặc cho đàn vịt đẻ giãy giụa kêu la: - Cạc, cạc, cạc… Vợ chồng và con cái chỉ còn biết đứng há hốc miệng mà trông theo đến độ ứa cả nước mắt. Không biết ngày mai sẽ ra sao, nếu không còn những đồng tiền bán trứng. Thứ hai, thật tội nghiệp cho những người nuôi chim kiểng. Khi lệnh đã được ban ra, thì tất cả những loài chim quí hiếm này cũng đều phải chịu chung một số phận như gà với vịt mà thôi. Báo “Tuổi Trẻ Chủ Nhật” số 1065 ra ngày 08.02.2004 có đăng một mẩu chuyện ngắn mang tựa đề “Tiếng gọi của con chim sáo” của tác giả Bích Ngân, đại khái như thế này: Sau nhiều năm tháng vừa học vừa làm, hai vợ chồng trẻ dốc toàn bộ vốn liếng mới thành lập được một trại gà nho nhỏ. Khi trại gà vừa mới ra lò thì anh chồng đột ngột qua đời. Trại gà liên tục phát triển vừa đúng một năm thì xảy ra dịch cúm. Thế là toàn bộ số gà nuôi trong trại đều bị cán bộ đến bắt và mang đi chôn, chỉ còn lại một con chim sáo. Hôm nay, chị vợ tổ chức lễ giỗ đầy năm cho anh chồng và cũng để nhớ tới đàn gà thân thương của mình đã bị…ngỏm củ tỏi. Đang lúc thắp nén nhang tưởng niệm, thì chị vợ bỗng giật mình vì nghe thấy tiếng nói quen thuộc: - Hằng ơi, anh yêu em lắm. Đó là tiếng nói của con chim sáo. Tiếng nói ấy khiến chị vợ cảm thấy như hồn anh chồng đã nhập vào nó. Thế nhưng cùng lúc đó, anh cán bộ thú y xuất hiện và bảo cho chị hay: - Cả chim sáo cũng phải hủy diệt. Suốt đêm, chị vợ trằn trọc không tài nào ngủ nổi. Cuối cùng, chị vợ quyết định mở lồng trả tự do cho con chim sáo. Và khi anh cán bộ đến, chị nói: - Đêm hôm qua, con chim sáo nhà tôi đã bị mèo vồ mất rồi. Chị vừa dứt lời, thì một giọng nói vang lên: - Hằng ơi, anh yêu em lắm. Thì ra đó vẫn là giọng nói của con chim sáo. Mặc dù được tự do, nhưng con chim sáo không nỡ rời xa chủ, nó bay vào kẹt tủ. Và bây giờ nó lên tiếng nói. Tiếng nói của nó là như một lời tố giác: - Lạy ông tôi ở bụi này. Và anh cán bộ thú y chỉ cần thò tay ra, chụp lấy và nhét vào bao. Còn chị vợ đứng nhìn. Những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên gò má lúc nào cũng chẳng hay. Và để an ủi cho những khổ chủ, cũng như bù lỗ phần nào những thiệt hại, nhà nước đã qui định như sau: - Gia cầm đẻ, mười lăm ngàn đồng một con. - Gia cầm thịt, năm ngàn đồng một con. - Trứng, hai trăm đồng một quả. - Thức ăn gia cầm, ba ngàn đồng một ký. Có một anh chàng cắm dùi tại Vĩnh Long, chuyên nghề gây gà nòi để mang đi đá. Sau nhiều năm lăn lộn trong nghề, anh ta đã huấn luyện được một chú gà nòi, bách chiến bách thắng. Đá đâu thắng đó. Đá nhớn thắng nhớn, đá nhỏ thắng nhỏ, càng đá càng thắng. Có thể nói được rằng chú gà nòi của anh ta thuộc hàng bất khả chiến bại, nổi tiếng khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một ông phú hộ ở tận Lâm Đồng, cũng là dân mê đá gà, đã chấp nhận mua chú gà nòi của anh ta với gía hai mươi triệu đồng. Mặc dù tiếc đứt ruột, nhưng anh ta vẫn chấp nhận mang chú gà nòi đi bán, vì gia đình đang gặp phải nhiều khó khăn về tiền bạc. Sáng hôm ấy, anh ta hí hửng ôm chú gà nòi đem trao cho chủ mới. Thế nhưng, khi xe vừa mới qua khỏi Long An, thì liền bị công an ách lại, tịch thu chú gà nòi vì đã có lệnh cấm di chuyển và mua bán gia cầm. Thế là anh ta phải trở về nhà với hai bàn tay trắng, rồi sau đó phát khùng, phát điên. Nhìn vào bảng giá bù lỗ, gã bỗng cảm thấy tủi phận bởi vì gia cầm đẻ giá những mười lăm ngàn, còn gia cầm thịt giá có năm ngàn. Như vậy có nghĩa là một chị gà mái giá mười lăm ngàn, còn một anh gà trống chỉ có năm ngàn mà thôi. Mái gấp ba lần trống. Từ đó, nhân rộng ra trong xã hội hôm nay, quả thực đờn bà quí giá hơn đờn ông, không phải chỉ gấp ba, mà còn gấp bốn, gấy bảy và gấp…bội lần. Viết tới đây, gã bèn nhớ tới một câu “ranh ngôn” xác định bậc thang giá trị ở phương tây, vốn thường được quí ông thở dài não nuột mà nhắc tới như để ý thức về thân phận bèo bọt và răn đe cho chính mình: - Thứ nhất là trẻ nít, Thứ hai là đờn bà, Thứ ba là chó con, Rồi thứ bốn mới tới đờn ông. Như vậy, phe đờn ông con giai từ xưa vốn đã vỗ ngực tự hào mình là “bậc tu mi nam tử”, thì bây giờ hãy cúi đầu xuống như muông chim, bởi vì mình chỉ nằm vào hàng bét giem, hàng chót hết của bậc thang giá trị mà thôi, thua cả chó con. Đúng như các cụ ta đã cay cú: - Ba đồng một mớ đờn ông, Đem về mà bỏ vào lồng cho kiến nó tha. Ba trăm một mụ đờn bà, Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. Thân phận cánh đờn ông con giai vốn dĩ đã đen như mõm chó. Thế nhưng, để sống cho đúng cái thân phận bẽ bàng của mình lại càng khó hơn, nhất là đối với những anh chàng đã trót dại kéo theo một cái “rờ mọc” là bà xã dấu yêu, sở dĩ như vậy bởi vì đờn bà con gái mãi mãi vẫn là một mầu nhiệm, mãi mãi vẫn là một nghịch lý, mãi mãi vẫn là một sự ngược đời và tréo cẳng ngỗng. Gã xin đưa ra những trường hợp cụ thể, trong đó những anh chồng ở vào cái thế việt vị, bất nhóc nhách, tiến thoái lưỡng nan. Trường hợp thứ nhất, đó là có những anh đờn ông luôn chăm chú việc nhà, làm tất tật mọi sự mà chẳng hề quản ngại, hay nề hà chi cả, từ sửa chiếc ghế gãy đến thổi cơm và may vá, đúng như tục ngữ đã nói: - Làm trai rửa bát quét nhà, Vợ gọi thì dạ: bẩm bà…em đây. Thế nhưng, xem ra các chị đờn bà lại không ưa týp đờn ông mềm nhũn này là mấy, bởi vì phần lớn các chị thường mơ ước người yêu lý tưởng của mình phải là người có quyền có thế, phải là người xốc vác, dám đương đầu với mọi cơn gian nan thử thách, cũng như dám gánh vác những công việc lớn lao ngoài xã hội, trở thành một điểm tựa vững chắc cho mình nương nhờ. Người yêu lý tưởng ấy đã được tục ngữ mô tả: - Làm trai cho đáng nên trai, Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên. - Làm trai quyết chí tang bồng, Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam. Tuy nhiên, quyền thế không phải là một quà tặng từ trời rơi xuống, không phải là một thứ tình cho không biếu không, nhưng là kết quả của biết bao nhiêu phấn đấu, của biết bao nhiêu bon chen, thậm chí của cả biết bao nhiêu luồn lách mới leo lên được ghế nọ ghế kia. Trong khi phấn đấu, bon chen, luồn lách như vậy, anh đờn ông thường tất bật ngược xuôi, bận rộn với hàng đống công việc, thành thử chẳng còn thời giờ dành cho vợ cho con. Điều này thì chẳng chị đờn bà nào ưa cả, bởi vì anh chồng phải là của riêng mình, trọn vẹn “chăm phần chăm”, không được chia sớt một ly ông cụ nào cả. Cũng trong chiều hướng đó, các cụ ta ngày xưa thường bảo: - Nhàn cư vi bất thiện. Sự nhàn rỗi vốn là nguyên nhân sinh ra những thói hư tật xấu. Vì nhàn rỗi, nên mấy anh đờn ông mới tụ họp đàn đúm rồi tổ chức ăn nhậu với nhau. Nhậu đến độ ngoắc cả cần câu, nhậu đến độ quên cả đường về. Nhậu đến độ sáng xỉn, chiều say và cả tối lăn cũng quay. Vì nhàn rỗi, nên mấy anh đờn ông mới tụ họp, gây sòng đỏ đen với nhau. Ngày xưa thì tổ tôm, xóc đĩa. Ngày nay thì xì phé, sập xám, cá độ bóng đá…nhiều khi mất toi cả cơ đồ, sản nghiệp: - Cờ bạc là bác thằng bần, Áo quần bán hết, ngồi trần tô hô. - Cờ bạc là bác thằng bần, Ruộng nương bán hết, chôn chân vào cùm. Dưới mắt các chị đờn bà thì những anh đờn ông nào quá rảnh rỗi, hay nói đúng hơn, những anh đờn ông nào quá lười biếng, chẳng dám động tay vào bất cứ công việc gì, chỉ thích làm dám đốc, dám xúi mà lại chẳng dám làm, những anh đờn ông nào trói gà không chặt, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm….tất cả chỉ là hạng vô tích sự mà thôi. Các chị thích ngắm nhìn những anh đờn ông bận rộn và say mê với công việc. Tuy nhiên, nếu bận rộn và say mê đến độ quên cả vợ lẫn con, thì các chị lại chẳng thích tí nào. Ngoài ra, còn trở nên một mối nguy hiểm đe dọa sự ổn định và tồn tại của gia đình. Kinh nghiệm cho thấy: Thượng đế đã dựng nên người đờn bà để yêu và để được yêu. Nơi họ, trái tim nắm giữ địa vị ưu tiên, cũng như chiếm lấy vai trò số một. Họ không thể nào chấp nhận bị quên lãng. Không ít chị vợ đã hậm hực tức tối khi thấy anh chồng mê bóng đá hơn mê chính mình. Một chị vợ đã tâm sự như sau: - Vào những ngày nghỉ cuối tuần, mình chỉ mong anh ấy ở nhà để chia sẻ tâm sự và sống riêng với nhau, thế mà anh ấy vẫn cứ đi biệt, mất tăm mất tích. Không lao vào công việc thì cũng ngồi xòe hay ăn nhậu với các chiến hữu, tới tận sáng thứ hai mới vác xác về thì làm sao mà chịu nổi. Mình chỉ mong tìm lấy một bờ vai để tựa đầu mà cũng chẳng có. Rất nhiều cuốn phim đã mổ xẻ về đề tài này và thường dẫn tới một kết quả không mấy sáng sủa, đó là đổ vỡ tan tành. Chẳng hạn anh chồng là một bác sĩ, ban ngày thì miệt mài làm việc trong phòng thí nghiệm, ban tối về tới nhà lại chăm chú đọc sách, hết ngâm kíu này tới ngâm kíu khác. Mặc cho chị vợ đi vào giấc ngủ cô đơn. Và thế là chị vợ bèn tìm cách trả thù bằng cách tìm một anh bồ nhí, để giải khuây và lấp đầy những khoảng trống cho bõ ghét. Chẳng hạn anh chồng là một cảnh sát tận tụy với nghề nghiệp của mình. Ngày nghỉ có lệnh, cũng đi. Giữa đêm có điện thoại, cũng lập tức lên đường xuất phát. Mặc cho chị vợ luôn sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Và cuối cùng chị vợ đành phải ca bản anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi. Trường hợp thứ hai, đó là có những anh đờn ông vui vẻ chấp nhận chung sống cùng cái nghèo theo kiểu: - Người quân tử ăn chẳng cầu no, mặc chẳng cầu ấm. Hình như không bao giờ có được một đồng xu dính túi: - Việc nhà phó mặc cho bu nó, Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Dưới mắt các chị đờn bà, những anh đờn ông loại này cũng chỉ là hạng vô tích sự, thậm chí còn được phong làm chuyên viên “bám váy vợ”. Các chị thường thích những anh đờn ông giỏi kiếm tiền. Trong những lúc riêng tư, các chị vốn hay chì chiết, đay nghiến và day dứt những anh chồng dốt kiếm tiền như sau: - Khốn khổ thân tôi lấy phải thằng chồng ngu ơi là ngu. Chồng người ta kiếm tiền như nước đem về nuôi vợ nuôi con. Còn anh thật là vô công rồi nghề. Sản nghiệp này đều do một mình tôi mà có. Rời cái tay tôi ra ấy hả, lập tức cái nhà này tiêu tùng liền. Kinh nghiệm cũng cho thấy: người ta thường lấy tiền để nhử đờn bà, người ta thường lấy đờn bà để nhử đờn ông và người ta thường lấy đờn ông để nhử…ra tiền. Đúng là một cái vòng lẩn quẩn. Thế nhưng, tiền nhiều bạc lắm lại nảy sinh ra những hệ lụy mà chẳng chị đờn bà nào muốn. Đúng vậy, khi còn hàn vi, anh đờn ông thường chí thú mần ăn, trung thành với vợ và chăm chỉ với con. Thế nhưng, khi tiền bạc đã rủng rỉnh thì lại thường hay “rửng mỡ”. Và cái thói rửng mỡ này thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không lường nổi. Có anh thì sau một ngày làm việc, thân thể bãi hoải, bèn phải đi tắm hơi một phát hay đi tìm mấy em vừa xoa lại vừa bóp, vừa mát xa lại vừa mát gần, nói một cách văn vẻ là đi “vật lý trị liệu”. Có anh khi nhậu thì hay ngứa tay ngứa chân, bèn phải gác nhờ lên bờ vai hay cặp đùi của các em. Thậm chí còn táy máy chỗ này chỗ nọ. Có anh lại cứ đinh ninh: - Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Thế nên bèn kết mô đen với một cô bồ nhí theo kiểu chán cơm nhà thì vác tù và mà đi ăn phở. Hơn thế nữa, như trên gã đã trình bày: người ta thường lấy tiền để nhử đờn bà. Những anh đờn ông rủnh rỉnh tiền bạc sẽ trở thành như một đốm lửa, khiến cho nhiều bà nhiều cô nhòm ngó và đeo bám, sẵn sàng hóa kiếp thành những con thiêu thân lao mình vào lửa. Chẳng thế mà bây giờ, mấy anh Việt kiều hay mấy ông Đài Loan xếnh xáng bỗng trở nên có giá trên thị trường hôn nhân. Điều này hẳn quí bà quí cô ghét cay ghét đắng ghét vào tận lái tim!!! Trường hợp thứ ba, đó là có những anh đờn ông thích sống lặng lẽ như một chiếc bóng. Không hào quang. Không tỏa sáng. Sẵn sàng đếm từng bước chân âm thầm của mình trên những sỏi đá cuộc đời. Dưới mắt các chị đờn bà hạng đờn ông này chỉ là như một thứ cơm nếp nhão, khiến họ ngán đến tận cần cổ. Các chị thích ông xã của mình phải có tiếng có tăm, khiến cả và thiên hạ phải tâm phục khẩu phục và các chị cũng được thơm lây. Đúng thế, làm đờn bà con gái thế mà sướng. Hôm qua mình chỉ là cái Tèo, cái Mít. Thậm chí còn mang thân phận “ô-sin”, phải đi ở đợ làm đầy tớ cho thiên hạ…nửa chữ cắn đôi sợ cũng chưa thông, thế mà hôm nay bỗng nghiễm nhiên trở thành bà bác sĩ, bà kỹ sư…mà chẳng cần phải chăm chỉ học hành hay vất vả bon chen chi cho mệt. Thế nhưng, tiếng tăm của anh đờn ông đôi lúc khiến các chị vợ cũng phải thất điên bát đảo, mất ăn mất ngủ, bởi vì một khi được ngưỡng mộ, anh đờn ông sẽ trở nên như một thỏi nam châm thu hút được sự chú ý nhiều người phụ nữ khác, khiến họ mê tít thò lò, hay ít nữa anh ta cũng trở thành người của quần chúng, chứ không còn là riêng của chị vợ nữa. Những điểm này các chị vợ muốn tống khứ đi càng sớm càng tốt. Và sau cùng, trường hợp thứ tư, đó là có những anh đờn ông cù lần cù lèo, như chàng hai lúa miền quê. Loại đờn ông này xem ra không đủ sức làm cho các chị vợ nở mày mở mặt cùng bá quan văn võ. Các chị thường ưa thích những anh chồng vừa đẹp trai, lại vừa hào hoa phong nhã. Thế nhưng sự hào hoa phong nhã này lại thường là đầu mối gây nên khổ đau. Thực vậy, làm sao các chị có thể chịu đựng nổi anh chồng lúc nào cũng mỉm cười mần duyên hay liếc mắt đưa tình với những cô gái khác. Có lẽ phe đờn ông con giai nên ghi tâm khắc cốt và phải thuộc nằm lòng cái nguyên tắc căn bản này, đó là ở mọi nơi và trong mọi lúc, nếu có ga lăng thì chỉ được phép ga lăng với một mình bà xã mà thôi. Bằng không, thì tẩu hỏa nhập ma, cơn giận bốc lên đùng đùng…lúc đó bà xã sẽ biến thành bà chằng, hay bà chi chi nữa, thì chỉ có trời mới biết. Tóm lại, thân phận anh đờn ông con giai vốn dĩ đã rẻ như bèo, thế mà sống đúng cái thân phận bèo bọt ấy lại chẳng dễ tí nào, bởi vì: - Bằng lòng với số phận phó thường dân, trên răng dưới cát tút cũng chẳng xong, mà có quyền có thế cũng chẳng ổn. - Hàn vi không một đồng xu dính túi cũng chẳng xong, mà có tiền có bạc cũng chẳng ổn. - Vô danh tiểu tốt cũng chẳng xong, mà có tiếng có tăm cũng chẳng ổn. - Cù lần cù lèo theo kiểu hai lúa cũng chẳng xong, mà hào hoa phong nhã cũng chẳng ổn. Làm đờn ông con giai quả là khó lắm vậy thay. Vì thế, gã bèn thầm thĩ nguyện cầu cho phe ta: - Kiếp sau xin chớ làm chồng, Làm cây thông đứng mà trông….qưới bà!!! Gã Siêu
Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì hổ, cọp hay hùm là loài thú ăn thịt, họ mèo. Thân dài GãSiêu 71
Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì hổ, cọp hay hùm là loài thú ăn thịt, họ mèo. Thân dài, cổ ngắn và to. Đầu gọn, có răng khoẻ. Bàn chân trước rộng, có vuốt sắc. Lông vàng đỏ, có nhiều vằn đen. Vai cao 95-110 cm. Nặng 250-280 kg. Hổ đực lớn hơn hổ cái. Sống trong các loại rừng, kể cả rừng đầm lầy có lau sậy. Ăn hươu nai, lợn rừng; có khi bắt cả trâm, bò, thỏ. Có thể ăn tới 30-50 kg thịt một bữa, sau đó nhịn nhiều ngày. Con cái ba năm sinh một lần. Động đực 4-8 ngày. Chửa 93-114 ngày. Đẻ 1-5 con. Sau 5-6 tháng cai sữa. Hổ con thành thục khi 3-5 tuổi. Sống khoảng 20-30 năm. Ngày xưa ở Việt Nam, hổ có mặt từ Bắc chí Nam. Da hổ đẹp, có giá trị trang trí cao, nên bị săn bắt mạnh. Trên thế giới, dự đoán chỉ còn 6000-7000 con. Riêng tại Việt Nam, chỉ còn vài trăm con. Hổ bị săn bắn nhiều để lấy xương, nấu thành “cao hổ cốt”. Trung bình mỗi bộ xương hổ nặng từ 10-12 kg. Cứ khoảng 100 kg xương hổ, thì nấu được 30 kg cao. Bộ phận sinh dục của con đực được dùng làm thuốc. Hổ là động vật quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng, nên cần được bảo vệ. Từ bài nghiên cứu trên, gã xin bàn tới loài hổ, bằng cách lươm lặt đó đây những mẩu truyện, để bàn dân thiên hạ cùng đọc cho vui, nhân dịp đầu xuân năm mới. Trước hết là tài nói dóc của bác Ba Phi được đăng trên trang “Đất Mũi”. Truyện rằng: Hai đứa con thằng Tư Mít, cha mẹ đi làm bỏ chúng trên sàn gác, gặp cọp vô nhà chơi hoài. Chúng nó vắt cơm cháy, thảy xuống cho cọp ăn. Ăn quen. Lần đó thằng Tư Mít núp trên sàn gác, đốt đỏ cái ống ngoáy trầu của bà, rồi thảy xuống, cọp hả họng ra hứng liền. Lần ấy, nó chạy, la vang rừng suốt mấy bữa. Lại có truyện rằng: Bà Tám ở xóm trên, đêm ngủ ngoài bụi ráng, vì bữa chiều hôm trước, bà uống rượu ở đám giỗ xóm dưới, say quá không về tới nhà. Sáng ra, bà thấy cái đầu mình trọc lóc như trái bưởi, thì ra đêm hôm đó, bà bị một con cọp đến liếm đầu! Như tất cả chúng ta đều biết hổ là một loại thú dữ, vừa khoẻ lại vừa mạnh, nên hổ trở thành một mối nguy hiểm cho những người đi rừng, một nỗi sợ hãi cho những người dân sống ở miền núi, mỗi khi hổ về làng. Truyện rằng: Làng Bung Koong, thuộc xã Đăk Blô là một trong những làng có số lượng trâu bò nhiều nhất xã. Tập quán chăn nuôi của đồng bào từ xưa tới nay vẫn theo kiểu “nhờ trời”, trâu bò thả ngoài rừng, cách làng khoảng 5 cây số. Lâu lâu người ta mới lên thăm đàn trâu bò của mình, cho ăn ít muối để chúng nhớ hơi người, khỏi trở thành vật hoang. Một ngày đầu tháng năm, gia đình A Ná lên thăm bò. Như thường lệ, ngửi thấy hơi muối, đàn bò lại chúi mõm vào bàn tay chủ. A Ná đếm thử thấy thiếu hai con bò, anh nhờ người làng tìm kiếm mãi nhưng không thấy. Liền đó, các nhà Y Vác, A Đảng, A Sáng, A Pel… cũng kêu mất trâu bò. Thấy sự bất thường, già làng huy động mọi người cùng tìm kiếm. Trong đầu ai cũng cho là có kẻ trộm. Sau nửa ngày truy lùng, đến gần trưa thì phát hiện xác một con bò đã bị ăn mất phần sau. Cái mõ đeo ở cổ đã giúp A Ná nhận ra bò nhà mình. Dấu răng gặm nham nhở cho thấy thủ phạm đích thị là “ông cọp”. Nhà A Ná vẫn may vì bò còn “khúc giữa”. Nhiều nhà chỉ tìm thấy vài mẩu xương bò sắp mủn. Chị Y Nghiếp nói giọng thảng thốt: - May mà Yang (Trời) thương nên giúp con trâu mình chạy kịp. Đêm vẫn nghe tiếng cọp gầm ở cánh rừng phía trước. Sợ nó lại mò về làng bắt trâu. Nhiều đêm nay mình không dám ngủ. Không riêng làng Bung Koong, mà các làng khác trong xã cũng vậy. Đi tới đâu chúng tôi cũng nghe bà con than thở chuyện trâu bò bị cọp ăn thịt. Người dân các làng cùng hợp sức chống cọp. Họ đã tìm ra “căn cứ địa” của cọp. Anh A Dem ở làng Bung Tôn kể: - Khi chúng tôi vào chân núi Piêng Ôi, nhiều nơi dấu chân cọp vẫn còn mới; có những dấu chân to gần bàn tay người lớn xòe ra, đường kính khoảng 20cm. Ngày hôm qua, vào rừng mang theo sáu con chó săn, nhưng khi ngửi thấy mùi cọp, cả đàn sợ rúm quẩn quanh chân mình, tru lên thống thiết. Bà con còn cho biết, qua dấu chân để lại thì đây là một con cọp ba chân. Khả năng con cọp này bị mắc bẫy, đã tự cắn đứt chân mình để thoát thân. Đó có thể là một con cọp rất lớn và khá tinh khôn, bởi khi bắt trâu bò, nó nhấc bổng để tha vào rừng chứ không kéo lê dưới đất. Có con trâu nặng vài tạ nhưng nó “xơi” chỉ còn mấy khúc xương to và cái đầu. Người dân hoang mang: đàn cọp có mười con. Nhưng theo kinh nghiệm của những người thợ săn, cọp không bao giờ sống thành bầy đàn. Hiện tại ngoài con cọp ba chân này, bà con chỉ xác nhận thêm được con nhỏ hơn, thường quẩn quanh con cọp lớn có lẽ để “hưởng sái” thức ăn thừa. Cũng theo sự phản đoán thì đôi cọp này là “công dân” của vùng núi Ngók Linh, lần lượt “ghé thăm” các làng theo chu kỳ nhất định. Cách đây hơn mười năm, Đăk Blô cũng đã xảy ra họa trâu bò bị cọp vồ. Theo thống kê, lần này cọp đã về tha mất 15 con trâu bò của xã Đăk Blô. Tính chung cả Đăk Man thì toàn huyện Đăk Glei đã có 23 con trâu, bò bị cọp về bắt đi, ăn thịt (trang Dân Trí). Tuy nhiên, dầu khoẻ đến đâu, con cọp con hổ cuối cùng cũng vẫn thua con người, vì thế nên mới tiến dần tới chỗ tuyệt chủng. Truyện rằng: Vào một buổi trưa hè oi bức, bác nông phu cùng với con trâu đang cố gắng cày nốt thửa ruộng ven rừng. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại và chảy xuống đầy mặt ròng ròng. Sau khi công việc xong xuôi, bác nông phu ngồi nghỉ dưới bóng một cây đa và bắn một điếu thuốc lào kêu ro ro. Còn trâu thì được đằm mình trong một vũng nước gần đấy. Một chú hổ từ trong rừng bước ra. Chú đến bên trâu và nói: - Trâu ơi, sao mày ngu thế. Mày vừa to lại vừa khỏe, thế mà lại để cho cái thằng người vừa nhỏ lại vừa yếu bắt phải làm những công việc nặng nhọc, nào cày sâu, nào bừa nát…mày không biết xấu hổ hay sao? Trâu lắc đầu và bảo: - Chú nói khe khẽ thôi, đừng để cho bác nông phu nghe thấy. Rồi với dáng điệu bí mật, trâu bật mí cho chú hổ hay: - Chú biết không, bác nông phu mà chú gọi là cái thằng người ấy có cái này thật là tuyệt vời. Chú hổ bèn tò mò hỏi tiếp: - Thế thì đó là cái gì vậy? - Cái trí khôn đó mà. - Thế thì cái trí khôn ấy nó ra làm sao? Trâu trả lời: - Tôi đành phải chịu thua, không thể diễn tả được. Chú hổ tỏ ra bực bội và tức tối: - Rõ đồ ngu như trâu! Sau đó, chú hổ mon men đến bên cạnh và gợi chuyện với bác nông phu: - Này bác, tôi nghe người ta nói bác có cái trí khôn thật là cực kỳ. Vậy bác làm ơn cho tôi xem tí nhé. Bác nông phu trả lời: - Rất tiếc. Hôm nay ta lại để nó ở nhà mất rồi. Chú hổ năn nỉ ỉ ôi: - Thế thì bác chịu khó chạy về lấy mang ra đây, tôi sẽ xin hậu tạ. Bác nông dân lắc đầu quầy quậy: - Đâu có được. Vì nếu ta chạy về lấy, thì ở đây ngươi sẽ xơi tái con trâu của ta mất thôi. Suy nghĩ một lúc, bác nông phu nói tiếp: - Nếu ngươi bằng lòng, tạm thời ta sẽ trói ngươi lại, trong lúc ta chạy về nhà. Được không? Chú hổ miễn cưỡng trả lời: - Thế thì cứ tạm là như vậy. Bác nông phu bèn mượn đỡ sợi dây thừng cột trâu trói nghiến chú hổ lại. Vừa trói xong, thì nhanh như chớp, bác lấy chiếc đòn càn đập túi bụi vào chú hổ. Vừa đập vừa la hét: - Cái trí khôn của ta đây này, cái trí khôn của ta đây này. Chính nhờ trí khôn, con người không phải chỉ tập cho cọp làm được những động tác kỳ lạ, như ngồi trên ghế, nhảy qua vòng lửa…mà chúng ta vốn thường thấy qua việc trình diễn của các gánh xiếc, hơn thế nữa con người còn lợi dụng sức mạnh của cọp để làm những công việc hữu ích cho mình, như xay lúa giã gạo… Bác Ba Phi kể lại rằng: Có một đêm, tui cũng ngủ trên sàn gác, khoảng gà gáy hiệp ba, bỗng nghe con heo khoảng một tạ ngoài chuồng kêu éc éc. Biết là “ông ba mươi” đến viếng rồi, tui liền xách cây mác thong phóng xuống, đuổi theo. Rượt đến sáng mới giật lại được xác con heo, tôi vác về. Để con heo đó, lum khum nhóm lửa nấu nước, tui bỗng nghe tiếng động rột rẹt trong lùm ráng. Liếc mắt nhìn qua, tui thấy rõ ràng là “anh ta”. Vì hụt mất miếng mồi nên con cọp tức, trở lại rình mò. Đó là một con cọp cái bụng đang có chửa. Tui thấy nó ngồi nhìn xác con heo, mà thèm đến nhểu nước miếng. Không được ăn thịt heo, con cọp đâm ra thù tui. Trưa bữa sau, hai vợ chồng tui khiêng cối ra xay lúa. Cái giằng xay tui làm bằng cây tràm suồi, thịt gỗ thật dẻo. Đang xay lúa ì xèo, tui lại nghe sau bụi ráng có tiếng động rột rẹt. - Giống con cọp cái này thù vặt quá! Tui nói trong bụng: - Bữa nay, bắt mày xay lúa một trận cho biết tay. Tui kêu vợ tui xúc sẵn hai chục giạ lúa để gần bên cối xay đó. Vừa xay, tui vừa liếc chừng vô bụi ráng, giả bộ như không hay biết gì. Chờ lúc cọp nhảy ra phủ đầu, tui hụp xuống, trịch ngang. Hai bàn tay cọp bấu tám móng cứng ngắc vào cán giằng xay. Sẵn trớn cái cối đang quay, con cọp kéo lui hết vòng thì bị cái cối theo quán tính quay tới, mà hễ cái cối quay tới hết vòng thì bị con cọp ghị lui. Cứ như vậy mà cọp ta theo đà cối quay đẩy tới kéo lui hoài. Tui đứng một bên, cứ xúc lúa châm vô cối liên tục. Đến lúc con cọp xay hết hai chục giạ lúa, tui kêu vợ tui vô bồ xúc thêm lúa nữa. Thấy con cọp có chửa nên cũng động lòng thương, vợ tui bảo thôi, tha cho nó. Tui nắm tay cối xay ghìm mạnh lại cho dừng trớn quay. Con cọp bị hụt đà, vuột tám móng ra khỏi cán giằng xay, chúi đầu về phía trước. Nó lồm cồm ngồi dậy, mệt thở muốn hết ra hơi, lệt bệt bỏ đi vô rừng. Không tin thì hỏi bả coi. (Trang Đất Mũi) Ngoài sức mạnh của chúa sơn lâm, người ta còn sử dụng tất cả mọi sự của loài thú quí hiếm này, từ răng nanh đến móng vuốt, từ bộ da đến bộ xương, không bỏ đi một chút nào cả. Trước hết là thịt cọp, thịt hổ. Đã lâu lắm rồi, kể từ hồi gã còn bé tí ti, có một người bà con đi làm ăn và lập nghiệp mãi tận Buôn Ma Thuột, về thăm dân làng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Người ấy đã biếu ông ngoại gã một gói…khô hùm để nhắm rượu. Gã cũng được ông ngoại chia cho vài miếng, nhưng thú thực là cho đến bây giờ, gã không còn nhớ khô hùm mùi vị như thế nào? Ngon hay dở? Cũng vì hổ cọp là loài động vật quí hiếm, nên các nhà hàng, quán nhậu không ghi tên món thịt hùm vào thực đơn những món đặc sản của mình. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu của Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì bộ phận sinh dục của con đực được dùng làm thuốc. Chắc hẳn đây là một thứ độc chiêu giúp cho mấy anh đờn ông chu toàn bổn phận làm chồng của mình. Tiếp đến là móng cọp và nanh cọp. Hình như thiên hạ thích dùng những thứ hàng độc này để chuyên trị tà mà, bùa phép…cho bản thân mình được bình an may mắn, không bị mấy thứ hắc ám của những kẻ mang ý đồ đen tối làm hại. Còn da cọp, người ta thường dùng để trang trí nội thất, cho thêm phần oai phong và hùng dũng. Nhưng đặc biệt hơn cả thì phải kể đến xương cọp. Thực vậy, từ lâu xương hổ, xương cọp hay xương hùm đã được dùng để chế tạo cao hổ cốt. Và cũng theo một bài viết trong Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì Cao hổ cốt là một vị thuốc rất thông dụng trong dân gian. Để chế tạo loại cao này, người ta lấy xương hổ, nấu lên, cô đặc, rồi đóng thành bánh, mỗi bánh khoảng 70-100 gr. Cao có độ rắn cứng, màu đen, vị tanh, chứa axit amin cần thiết cho cơ thể. Tỷ lệ đạm thành phần khá cao. Về cách dùng: người ta thái nhỏ ăn với cháo, ngâm với mật ong hay ngâm với rượu để làm thành rượu hổ cốt. Theo y học dân tộc, cao hổ cốt chữa được nhiều chứng bệnh như tê thấp, đau khớp…Thành phần hoá học và thành phần tác dụng của nó chưa được xác định rõ. Người ta thường nấu thêm với với xương khỉ, sơn dương. Vì thế, hiếm có loại cao hổ cốt thuần nhất xương hổ. Để kết thúc mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin ghi lại bài viết của Lương Lệ Huyền Chiêu trên trang Văn Tuyển với tựa đề là “Cọp Ninh Hoà” như sau: Thuở nhỏ tôi thường nài nỉ bà tôi kể chuyện cọp Ninh Hòa. Những câu chuyện ấy hầu như tôi đã thuộc lòng nhưng tôi vẫn thích được nghe bà kể lại để tôi vừa có cảm giác run sợ vừa thấy lòng hãnh diện vì quê hương mình từng có…nhiều cọp. - Hồi bà còn nhỏ, quê mình cọp nhiều lắm. Thời đó nhà cửa, dân cư thưa thớt, không biết chừng Cọp nhiều hơn người. Cọp dạn lắm. Mấy "ổng" nghênh ngang muốn đi đâu thì đi, muốn ở đâu thì ở, coi người như rác. Trời tối, cọp bắt đầu túa về làng. Cháu thấy đó, quê mình như cái lòng chảo, bốn bề núi non. Cọp từ Suối Ré tuôn ra, cọp từ Hòn Hèo lần tới, cọp từ dốc Đá Trắng, Dục Mỹ, núi Vọng Phu cũng kéo nhau xuống. - Mấy ổng về làng làm gì hả bà? - Thì mấy ổng buồn buồn đi rong chơi, gặp heo thì bắt heo, gặp chó bắt chó, có khi rinh cả bò, ngựa. Cọp ở Ninh Hòa mình chắc lúc đó có cả ngàn con. Tôi bắt đầu thấy run run: - Vậy mình trốn đi đâu hả bà? - Thì chiều xuống mình lo nấu cơm ăn rồi đóng cửa đi ngủ sớm. Nói vậy chứ có ngủ được đâu, ở trong nhà nghe tiếng “À nôm“ của mấy ổng mà phát run, lại còn tiếng mấy con chó đi chơi về muộn chui rèn rẹt qua lỗ chó chui nữa chớ. Ban ngày thì đỡ hơn, mấy ổng về nằm ngủ trong mấy bụi tre rừng – Không hiểu sao cọp thích ở rừng tre - Vậy nên mới có câu chuyện này: Một bữa, mấy người trong xóm rủ nhau lên rừng bẻ măng. Mấy bà già sợ cọp nên hay ở quanh quẩn bên mấy mấy đứa trai tráng. Hôm đó thằng Lực, đứa khỏe nhất trong bọn, đang thò cây sào, một đầu có gắn câu liêm, vào một bụi tre rừng, bỗng nó đứng bật dậy thét lên một tiếng “A. Cọp“, rồi nó trợn mắt chết trân. Té ra là nó chọt trúng một ông cọp đang nằm ngủ. Ông cọp bị đánh thức, vươn vai chui ra khỏi bụi tre rừng, đứng nheo mắt nhìn thằng Lực. Nghe tiếng thét, bà lão Mịch, hàng xóm của thằng Lực, xăm xăm bước tới. Thấy tình cảnh thằng Lực, bà nóng ruột xỉa cây gậy về phía ông cọp và quát: - Tổ cha mày, mày không thấy nó sợ chết điếng rồi sao mà còn đứng đó. Tìm chổ khác chơi đi . Vậy mà ông cọp lại bỏ đi mới ngộ chớ. Cọp đi rồi, bà Mịch bước đến bên cạnh thằng Lực, tay vuốt ngực miệng hô “ba hồn chín vía mầy tỉnh dậy Lực ơi !” Phải một hồi lâu hồn thằng Lực mới nhập về xác của nó. Từ đó thằng Lực coi bà Mịch như là người đẻ nó lần thứ hai. - Cọp cũng sợ bị chửi hả bà ? - Không phải đâu, cọp nó thấy bà Mịch không sợ nó, nên nó nghi ngờ đây là kẻ mạnh. Để bà kể tiếp chuyện mày nghe: - Hồi đó đâu có máy xay gạo như bây giờ. Tối tối, trời có trăng, người ta xúm lại một sân nhà để xay lúa, giã gạo. Xóm đó có thằng đui chuyên giữ một tay chày. Bữa đó đang kẻ xay người giã, bỗng tất cả đều nhìn thấy một ông cọp đang ngồi rình sau bụi chuối. Mấy người sáng mắt bỏ chạy không kịp kêu một tiếng. Tội nghiệp thằng đui, nó đứng dang chân, chày giơ lên trời, chờ một tiếng “thịch“ để hạ chày mà chờ hoài không thấy. Ông cọp biết có người không thèm bỏ chạy, lại còn giơ chày định phang nó, nên nó lặng lẽ bỏ đi mất. Những câu chuyện của bà tôi có thể là chuyện hoang đường, nhưng có một điều thực, đó là Ninh Hòa quê tôi ngày xưa là giang sơn của hàng ngàn con cọp. Mẹ tôi thường than thở “Chiến tranh! Cọp sợ súng đạn đi hết!“ Tôi không tin rằng cọp đã bỏ đi. Tôi nghĩ rằng cọp đã đến thời kỳ diệt chủng. Những con vật to lớn, mạnh mẽ nhất như khủng long, voi ma mút, cá voi, sư tử, cọp, beo ...và cả loài người nữa sẻ lần lượt biến mất trên trái đất này do một quy luật huyền bí của thiên nhiên. Văn minh của loài người nếu thiếu tình yêu thương, tính nhân bản chắc chắn sẽ đưa loài người gần đến sự hủy diệt hơn là sự trường tồn. Có lẻ một ngày nào đó, trái đất này chỉ còn lại cây cỏ và những côn trùng bé nhỏ nhất. Cầu trời cho ít nhất cũng còn sót một Adam và một Eva. Cọp Ninh Hòa, Ma Đồng Cọ, Gió Tu Bông, Mới đó mà nay đã hoá thành truyện cổ tích!!! Gã Siêu
Năm Canh Dần cầm tinh con cọp, vì thế trong mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin bàn về một GãSiêu 72
Năm Canh Dần cầm tinh con cọp, vì thế trong mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin bàn về một vài đặc tính của cọp. Theo gã được biết, thì hổ, cọp hay hùm…là một loài thú vừa lớn lại vừa dữ, thuộc nhà mèo. Thân dài, cổ ngắn, đầu tròn, râu cứng, răng nhọn. Lông màu vàng đỏ và có nhiều vằn đen. Sống trong các khu rừng, kể cả rừng đầm lầy có lau sậy. Chúng thường ăn thịt hươu nai, lợn rừng, thậm chí có khi bắt cả trâu bò mà ăn. Mỗi bữa dùng tới 30, hay 50 ký lô thịt. Sau đó, có thể nhịn trong nhiều ngày…(Từ điển Bách khoa Việt Nam). Như vậy, xét theo chính tông dòng họ “miêu” thì có đủ các loại mèo, từ mèo to đến mèo nhỏ, từ mèo mun đến mèo mướp, từ mèo nhà đến mèo rừng…Đây là những loài mèo con nhà “mão”. Bên cạnh đó còn có những con tương cận, tuỳ theo vóc dáng, và nhất là bộ lông, người ta có thể chia thành: 1- Hổ, cọp, hay hùm. 2- Báo hay beo. 3- Sư tử. Tóm lại, cọp beo và sư tử đều có liên hệ dây mơ rễ má với nhau, vì cùng chung một gốc gác là mèo. Chẳng thế mà dân bợm nhậu hiện nay vốn gọi mèo là tiểu hổ. Ngoài ra, trong dân gian người ta thường gọi hổ, cọp, hùm là…ông ba mươi. Số là ngày xưa, hễ ai giết được một con cọp, thì sẽ được nhà nước thưởng cho ba mươi quan tiền! Nói tới hổ, cọp hay hùm là người ta nghĩ ngay tới cái dáng dấp hào hùng mạnh mẽ, cái khí thế oai phong lẫm liệt. Vì vậy, hình ảnh của loài thú này vốn được dùng làm biểu tượng cho các vị tướng lãnh và các bậc anh hùng. Chẳng hạn người ta dùng danh từ “hổ tướng” để nói về một viên võ tướng có dáng điệu uy nghi, oai vệ, trông rất hùng dũng: - Ra oai hổ tướng đoạt thành, Ngói tan, trúc chẻ, tan tành thịt xương. Còn hai chữ “hổ trướng” có ý nói tới nơi đóng quân của viên chủ tướng. Nơi đây thường có vẽ hình con hổ. Tục truyền rằng vua nước Lương là Từ Tri Ngạc, trong những cuộc chinh phạt, thường dùng da hổ vây quanh trướng để họp với các thuộc hạ, luận bàn về quân sự. Vì thế nơi này được gọi là hổ trướng: - Họp trong hổ trướng luận bàn quân cơ. Cũng vì thế, mà người dân Việt Nam đã gọi ông Hoàng Hoa Thám, hay Đề Thám, người anh hùng đất Yên Thế là Hùm thiêng Yên Thế. Theo sử sách ghi lại, ông là người thôn Lang Trung, thuộc tỉnh Bắc Giang. Tên thật là Trương Văn Thám. Cha là Trương Văn Vinh, còn mẹ là người làng Ngọc Cục, gần thôn Lang Trung. Năm 20 tuổi, Thám tình nguyện xung vào đoàn nghĩa binh của Trần Quang Soạn để chống Pháp. Năm 23 tuổi, theo cha nuôi là Ba Phúc đi Vân Nam vận động nghĩa binh, rồi về giúp việc cho Cai Kinh, được phong làm Đề đốc và từ đó được gọi là Đề Thám. Ngày 06.7.1888, Cai Kinh bị giết ở Lạng Sơn, Đề Thám tụ tập nghĩa quân chống Pháp suốt vùng Võ Giang, Hiệp Hoà, Việt Yên…Tháng 4 năm 1889, binh lính được khoảng 500 tay súng, tụ tập ở làng Đình Tảo, làm lễ tế cờ, cùng nhau uống máu ăn thề, rồi lập đồn ải khắp vùng Phủ Lạng Thương, Vĩnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Bắc Giang và đặt tổng hành dinh tại Yên Thế. Lúc mạnh thì đánh. Lúc yếu thì trá hàng, làm cho Pháp rất cực nhọc, dẹp không được, mà cầm cũng không yên. Chính trong lần trá hàng chót vào năm 1905, Đề Thám cho tổ chức đảng Nghĩa Hưng để hoạt động trong hàng ngũ của địch, rồi ngày 17.11.1907 làm một vụ nội công ngoại kích tại cửa Nam, Hà nội và ngày 27.6.1908 đầu độc công binh Pháp. Năm 1909, Pháp phải huy động hết lực lượng đánh vào Yên Thế, làm cho Đề Thám phải chiến đấu rất cam go. Nghĩa quân, lớp tử trận, lớp ra hàng, số còn lại cũng dần dần mất hết tin tưởng nơi chủ tướng. Các con lớn đều chết, chỉ còn người con gái nhỏ tên Hoàng Thị Thế, là con bà vợ ba, cũng cùng mẹ bị bắt vào tháng 11 năm 1909. Mặc dù đã ở vào đường cùng, ông vẫn còn cố gắng hoạt động ở Thượng Yên. Ngày 21.11.1911, Pháp đem quân đến bao vây ngọn đồi gần Yên Lê, làm bị thương 7 người và giết chết 5 người khác. Riêng ông thì thoát khỏi vòng vây. Từ đó, hay tin ông ở đâu là Pháp liền đem quân truy nã, nhưng không thể nào bắt được ông. Cuối cùng, Pháp phải nhờ đến Lương Tam Kỳ là một tên giặc khách cho người trá hàng, lừa thế giết ông trong đêm ngày 9.2.1913, để lãnh tiền thưởng. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân và đảng Nghĩa Hưng bị chấm dứt. Tuy nhiên, người anh hùng đất Yên Thế hay con hùm thiêng Yên Thế vẫn sống mãi trong tâm khảm của người dân Việt Nam. Thực đúng như người xưa đã từng nói: - Hổ tử hùng tâm tại. Có nghĩa là cọp tuy chết, nhưng cái khí thế hùng mạnh của nó vẫn còn đó. Người anh hùng tuy chết, nhưng danh tiếng vẫn lưu truyền muôn đời. Hay như: - Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh, có nghĩa là hổ chết để da, người ta chết để tiếng. Cũng giống như cọp, người anh hùng đôi lúc cũng gặp phải hoạn nạn theo kiểu: hùm thiêng mắc bẫy mọi, có nghĩa là người tài ba mà sa cơ vì mưu kế của một kẻ vô danh. Đời Tam Quốc bên Tàu, Quan Vân Trường đứng đầu ngũ hổ tướng của Hán Trung Vương. Khi thủ Kinh Châu, đã từng bắt Vu Cấm, giết Bằng Đức là tướng tài của Tào Tháo. Nhưng rồi lại bị Lữ Mông, một viên tướng tầm thường của Ngô Quyền triệt hạ các phong hoả đài, đoạt Kinh Châu trong lúc Quan Công đi đánh Phàn thành, rồi phục binh bắt Quan Công nơi Quyết Thạch. Và một khi dậu đổ thì bìm leo. Hổ lạc bình dương, khuyển khi. Có nghĩa là cọp xuống đất bằng thì bị chó khinh. Người anh hùng một khi đã hết thời, thì ngay cả những kẻ chẳng ra gì cũng dám mở miệng chê bai. Còn đâu nữa cái thời oanh liệt, bọn tiểu nhân kéo đến núp bóng, lợi dụng danh nghĩa mà ra oai theo kiểu “cáo mượn oai cọp”. Truyện rằng: Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Chiêu Hề Tuất chỉ là một kẻ bầy tôi. Thế mà người phương bắc, hễ nghe thấy nói về Chiêu Hề Tuất cũng đều phải kính sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thân là vì cớ làm sao? Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng: - Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con cáo. Cáo bảo: Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là Trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi ăn thịt ta là ngươi trái mệnh trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin, cứ để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường trốn cho mau hay không! Hổ cho cáo là nói thật, bèn theo cáo đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không biết rằng bách thú sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ cáo. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như bách thú sợ cáo vậy. Những kẻ tầm thường mượn quyền thế người trên để hống hách, doạ nạt người ta. Nếu không biết, thì người ta còn sợ, chứ khi “hổ mà thêm cỏ, lừa mà thò tai”, thì chẳng những người ta đem lòng khinh, mà còn làm đê nhục cho bõ ghét. (trích trong Cổ Học Tinh Hoa). Còn đâu nữa cái thời oanh liệt làm bá chủ cả sơn lâm, như Thế Lữ đã từng diễn tả qua bài “Nhớ rừng”: Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi. Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, Với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa. Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc. Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi. Ta biết ta chúa tể muôn của loài Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi. (……..) Tiếp đến, gã xin trình bày về cái tình của loài cọp. Cọp tuy dữ, thế nhung nhiều lúc cái tình của nó cũng thật đậm đà và dễ thương, nó chẳng bao giờ ăn thịt con của mình. Đối với con người, cọp thường là một mối đe doạ và để lại những hậu quả thảm khốc. Thế nhưng đôi lúc cọp cũng tỏ ra quí mến và biết ơn người đã từng giúp đỡ nó, như câu truyện « Người nuôi cọp » dưới đây: Ngày xưa, ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa có một ông lão tiều phu tên Nguyễn Quốc Oai, tính khí ngông nghênh. Ông lão không có con, chỉ có hai vợ chồng trơ trọi. Nhà làm ở trong núi, hàng ngày kiếm củi bán để sống. Một hôm, ông lão đi vào rừng trông thấy ở dưới đèo có một con cọp con lông vuốt chưa mọc mà mình mẩy thì đầm đìa máu. Đoán chừng là cọp mẹ cõng con đánh rơi xuống không lấy lên được, bèn trèo xuống bắt lên đem về nuôi, lấy thuốc bôi cho khỏi chỗ đau. Bà vợ thấy thế, can chồng rằng: - Cọp là giống hung tợn, nuôi thế nào được, hãy thả nó ra, kẻo lại mắc họa về sau. Ông lão không nghe, nói rằng: - Giống vật cũng có linh tính, biết đền ơn trả nghĩa. Như trước kia có người đàn ông kiếm củi ở làng Thuận Lộc chữa cho cọp khỏi hóc, người đàn bà bán rượu ở làng Trung Hà giúp cọp sinh đẻ, đến bây giờ những người ấy vào rừng không lo gì cọp nữa. Những người ấy làm ơn trong một lúc mà con cháu còn được đền ơn đến bây giờ. Huống chi là ta nuôi từ lúc yếu đến lúc mạnh, coi nó như là con. Từ đó, ông nuôi cọp như con. Lúc ăn uống, cho ngồi ở bên, lấy thức mình ăn thừa cho cọp ăn. Dần dần, lông cọp mỗi ngày một dài, nanh vuốt đầy đủ, mà cọp lại hiểu ý người ta, lúc thì múa, lúc thì nhảy làm trò cho vui. Thấy thế, ông lão càng yêu nó lắm. Đi đâu, ông cũng bảo nó đi theo hầu mang đồ nhắm và đeo bầu rượu. Lúc uống rượu xong thì ông lại cưỡi cọp mà đi lăng nhăng ở trong rừng núi, ai trông thấy cũng lấy làm lạ, sợ hãi. Buổi tối ông thường đơm đó ở dưới khe suối lấy cá, thỉnh thoảng bị kẻ khác lấy đi mất. Vì thế đêm đêm ông dặn cọp cứ ra đấy mà giữ. Khi nào ông đến thì ho lên mấy tiếng cho nó biết. Hễ cọp nghe thấy tiếng thì ra đón rước. Ông xuống khe, đổ đó lấy cá đem đổi lấy thịt để nuôi cọp. Cứ như thế được nửa năm. Một đêm, ông say rượu, ra chỗ đơm đó quên không lên tiếng, con cọp ngờ là người khác liền cắn ngay một miếng. Đến lúc trông mặt, biết là cha nuôi mình thì đã muộn. Cọp liền cõng xác cha nuôi lên bờ rồi về nhà, đến trước vợ ông lão, cọp phục xuống mà chảy nước mắt ra, như là kẻ đến thú tội. Người vợ thấy thế lấy làm ngạc nhiên, đốt đuốc đi theo cọp. Khi đến nơi, thấy chồng nằm trên bờ suối, áo quần đầm đìa những máu, bà liền kêu lên rồi trỏ vào mặt con cọp mà mắng: - Mày đã quên cái ơn nuôi nấng mà đã vội cắn trả lại chủ mày thế ư? Tao không muốn trông thấy mặt mày nữa, đi đâu thì đi. Cọp cúi đầu xuống mà ra đi. Sáng hôm sau, người vợ khiêng xác chồng đi chôn. Đến ngày thành phục thì con cọp đem một con lợn về để ngoài sân, đến ngày cất đám, cọp lại đem về một con bò để cúng chủ. Lại đến ngày tiểu tường, các cọp rủ nhau đến quấy, bắt những súc vật trong làng. Dân chúng sợ hãi xem bói bảo rằng: - Ấy là cọp muốn báo ơn ông ấy đấy. Các ông nên làm đền mờ thờ Hổ ông. Hễ ông ấy được cúng tế thì yên. Bấy giờ làng mới đem thờ ông Nguyễn Quốc Oai ở bên tả đình, tôn làm hậu thần, đèn hương ngày đêm cúng tế, gọi là đền Hổ ông. Quả nhiên từ đấy trong làng được bình yên. (trang Quê Hương) Cũng vậy, trâu đi, cọp về, mong rằng đất nước sẽ được an bình và dân tộc sẽ được ấm no hạnh phúc. Gã Siêu
Nhìn vào những tấm lịch, ắt hẳn mọi người đều thấy năm 2002 được gọi là năm Nhâm ngọ, cầm GãSiêu 73
Nhìn vào những tấm lịch, ắt hẳn mọi người đều thấy năm 2002 được gọi là năm Nhâm ngọ, cầm tinh con ngựa. Vì thế, theo thói quen tốt lành vốn có từ lâu trong làng báo, gã cũng phải chịu khó “ngâm kíu” chút ít về con vật thân thương vừa mới được lên ngôi này, để ba hoa chích chòe, khoác lác với bà con lối xóm. Thú thật với bàn dân thiên hạ: hồi còn bé gã cũng đã được học qua quít, nhưng nhũng kiến thức ấy đã bị bụi bậm thời gian phủ kín, nên bây giờ chẳng còn nhớ được tí ti nào. Thế là đành phải vác tự điển ra để mà ngó ngang ngó dọc. Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức thì ngựa là loài thú to, móng cao và cứng, đầu dài, bờm dài, đuôi dài và chạy rất nhanh. Còn theo tự điển “Petit Larousse”, mấy ông tây đã định nghĩa như sau: ngựa là loài có vú, có móng, có chân dài và rất khoái chạy. Lông của nó có đủ màu đủ sắc. Trắng thì gọi là ngựa bạch, đen thì gọi là ngựa ô. Còn có cả những màu sắc gã chưa hề thấy bao giờ, chẳng hạn xanh thì gọi là ngựa bích, tím thì gọi là ngựa tía... Vì rất khoái chạy, nên ngựa thường được người ta nuôi để cưỡi. Lính tráng thì cưỡi ngựa xông ra chiến trận để bảo vệ quê hương đất nước, chẳng thế mà đã có hẳn một binh chủng mang tên là “kỵ mã”, tức là lính cưỡi ngựa. Còn những bậc ”thi sỡi” thì lại thích cưỡi ngựa xem hoa, đủng đỉnh cho đúng với cốt cách phong nhã của con nhà tao nhân mặc khách. Vì rất khoái chạy, nên ngựa còn được người ta nuôi để kéo xe. Trong những gia đình quyền quí ngày xưa, người ta có những chiếc xe song mã, tam mã, tứ mã... Riêng giới bình dân thì có xe độc mã, nghĩa là chỉ có một con ngựa duy nhất để kéo. Hồi còn bé, gã đã được nhìn thấy những chiếc xe ngựa ở vùng Hóc môn và ngay cả trong thành phố Saigon nữa. Xe ngựa thời đó cũng rất thanh lịch và đẹp mắt, thường được dùng để chở khách đi chợ. Có những bác tài tốt bụng và yêu trẻ, đã cho bọn nhóc tì quá giang khi đến trường cũng như lúc tan trường. Và gã rất thích cái thú nhảy xe ngựa, mặc cho bác tài phùng má trợn mắt mà la hét, tay cầm chiếc roi dư dứ trước mặt. Bây giờ thì xe ngựa đã được thay thế bằng xe gắn máy, xe ô tô. Một thoáng bâng khuâng tiếc nhớ như bà huyện Thanh Quan trong “Thăng long thành hoài cổ”: - Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, Đền cũ lâu đài bóng tịch dương. Cũng vì rất khoái chạy, nên người ta thường dùng ngựa để tổ chức những cuộc đua, xem con ngựa nào chạy nhanh nhất và về đích sớm nhất. Hồi còn bé, lúc học trong nội trú, cứ vào chiều thứ năm là bọn gã được đi “bát phố”. Có hai điểm được chiếu cố nhiều hơn cả, đó là vườn “Bờ rô” và trường đua Phú Thọ, bởi vì hai điểm này không quá xa, đủ sức để mà đi bộ. Vườn “Bờ rô” có sân Tao Đàn, nơi tập dượt của đội Quan thuế. Vào đó để được nhìn thấy thủ môn Rạng, nổi tiếng nhất miền Nam thời bấy giờ với những đường “bay bắt bóng”. Ngoài ra, vườn “Bờ rô” còn có một câu lạc bộ, hay nói một cách vắn tắt, còn có một hội những người đua ngựa do một ông tây nào đó làm xếp. Đứng ở ngoài vòng đai, thiên hạ tha hồ chiêm ngắm những con ngựa đua vừa cao to, lại vừa khỏe mạnh. Đen cũng có mà nâu cũng có. Khác hẳn những con ngựa gầy trơ xương sống kéo xe bở hơi tai của dân ta. Còn trường đua Phú Thọ tọa lạc trên một khu đất rộng, với những hàng cây xanh mát và nhất là với một khán đài rất bề thế được xây theo kiểu tây. Hàng tuần cứ vào chiều thứ bảy và Chúa nhật, người ta lại tổ chức những cuộc đua. Thế nhưng, đua không quan trọng bằng cá. Người chơi cá ngựa sẽ mua vé theo số thứ tự con ngựa mình thích. Những con ngựa này còn được gọi bằng những tên rất đẹp và rất kêu, chẳng khác gì tên của những nữ ca sĩ. Nếu con ngựa mình thích mà về nhất thì được chia tiền lời. Đây quả là một cuộc đỏ đen, hên xui may rủi. Thành thử đa số những người chơi cá ngựa đều bị ngựa đá. Khi đá, ngựa dùng hai chân sau búng vào người. Còn khi cá cược, người chơi lắm lúc bị ngựa đá văng cả một đống tiền, cả một căn nhà hay cả một sản nghiệp mình đã chắt chiu gầy dựng qua bao năm tháng. Nhất là khi ngựa về ngược. Con ngựa dở, bỗng ngẫu hứng qua mặt những con ngựa giỏi khác cái rụp, chẳng kịp bóp còi mà về nhất. Trong trường hợp ngựa về ngược như thế, người chơi chỉ còn cách cười ra nước mắt mà thôi. Dù bị ngựa đá đau điếng, người chơi vẫn cứ ham và vẫn cứ sẵn sàng nướng cho đến đồng xu cuối cùng. Dĩ nhiên ở đây gã không có thời giờ bàn đến cảnh ngựa về ngược trong những mùa tranh cử, bởi vì có những ứng cử viên vào chức tổng thống, nghị sĩ, dân biểu... vừa vô tài lại vừa thiếu đức, nhưng chẳng may ngáp phải ruồi, do mánh mung vung tiền hay do phe nhóm phò trợ, trúng ngay cái ghế mình nhắm. Khiến cho bàn dân thiên hạ phải lao đao khốn khổ. Sau ngày ba mươi tháng tư, trò đua ngựa cũng như xổ số và nhiều món ăn chơi lỉnh kỉnh khác đã bị nhà nước cấm tiệt vì cho đó là một loại cờ bạc trá hình. Nhưng rồi sau đó, những thứ gì đã cấm thì nay lại được liên tục phát triển. Trường đua được mở cửa lại, xổ số được tổ chức không phải chỉ ở trung ương mà còn ở mỗi tỉnh, nhảy đầm được bung ra như nấm, ì xèo khắp cả thành phố, đúng như một nhà bình luận đã nói: - Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một con đường vòng, đi từ tư bản chủ nghĩa đến tư bản chủ nghĩa. Giữa tiếng ta và tiếng tàu có nhiều mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì thế, khi đã nói đến chữ ngựa, thì cũng phải tra xem trong tiếng tàu có những chữ nào bàn về loài động vật này. Trước hết là chữ ngọ. Ngọ là chữ thứ bảy trong mười hai chi: tí sửu dần mão... Nói theo kiểu “nho chùm” trong “Hán Việt tân từ điển” của Nguyễn Quốc Hùng thì ngọ là vị thứ bảy trong thập nhị chi. Và trong thập nhị chi, thì ngọ ám chỉ con ngựa. Vì thế cứ mười hai năm một lần, con ngựa lại lên ngôi và bất kỳ năm nào mang nhãn hiệu trình tòa là “ngọ” thì cũng đều cầm tinh con ngựa cả. Tiếp đến là chữ câu. Câu là con ngựa trẻ đang sung sức. Bên tàu thì nói: - Bạch câu quá khích, có nghĩa là con ngựa trắng vụt ngang khe cửa. Còn bên ta thì bảo: - Bóng câu qua cửa sổ. Cả hai đều diễn tả ý tưởng thời gian qua mau. Sau cùng là chữ mã. Mã là con ngựa. Ngày xưa, người ta sính văn chương thơ phú. Vì thế mới xảy ra: Có hai cậu học trò, một người thì giỏi còn một người thì dốt. Cậu học trò giỏi vào ra mắt viên tướng. Viên tướng bảo cậu hãy làm một bài thơ với tựa đề: bạch mã. Chẳng cần suy nghĩ, cậu học trò giỏi bèn đọc một lèo: - Bạch mã mao như tuyết, Tứ thúc cương như thiết. Tướng quân kỵ bạch mã, Bạch mã tẩu như phi. Có nghĩa là: Ngựa trắng lông như tuyết, bốn chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi ngựa trắng, ngựa trắng chạy như bay. Nghe xong bài thơ trên viên tướng lấy làm đắc ý, vỗ đùi đánh đét một cái, rồi thưởng cho cậu học trò giỏi một số tiền lớn. Thấy vậy, cậu học trò dốt cũng mon men vào ra mắt viên tướng. Viên tướng nhìn ra sân, thấy bà cụ già đi ngang qua, bèn ra đề tài bài thơ là bà lão. Cậu học trò dốt nghĩ mãi chẳng được một câu nào, cuối cùng bèn “thuổng” bài thơ trên mà rằng: - Bà lão mao như tuyết, Tứ thúc cương như thiết. Tướng quân kỵ bà lão, Bà lão tẩu như phi. Có nghĩa là: bà lão lông trắng như tuyết, bốn chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi bà lão, bà lão chạy như bay. Quả là hết ý, thiếu điều viên tướng nọc cậu ra, phét cho mấy trượng vào mông cho chừa thói “đạo văn” của người khác. Ngày xưa người ta cũng thường dùng da ngựa để bọc tử thi, vì thế mới có câu: - Mã cách lõa thi, ám chỉ cái chết của người nam nhi có chí khí đi đánh giặc, nếu chết thì lấy da ngựa bọc thây đem chôn là đủ: - Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao. Ngày nay người ta dùng hai chữ “mã lực”, có nghĩa là sức ngựa, để chỉ công suất của một chiếc máy có thể nâng một vật nặng bảy mươi lăm ký lô lên cao một mét trong một giây đồng hồ. Nói tới chữ mã, gã không bao giờ quên được kỷ niệm của những ngày còn bé. Hồi đó các thày cô thoải mái đánh mắng học trò mà không bị phiền phức như bây giờ. Thày dạy tiếng Pháp của gã, tuy không đánh nhưng thường xuyên phạt quì những đứa không thuộc bài. Chẳng hạn vào đầu giờ lớp thày bảo: - Lấy vở ra, viết lại mười tiếng ngữ vựng. Những đứa chỉ viết được năm tiếng trở xuống, liền bị thày phán: - Hạ mã. Hai chữ hạ mã có nghĩa là xuống ngựa, nhưng trong hoàn cảnh này, nó mang một nét đặc thù, đó là...quì xuống. Còn những đứa viết được sáu chữ trở lên, thày không bảo “thượng mã”, nhưng chỉ cần nhìn thấy nụ cười của thày là đã cảm thấy ấm lòng. Hai chữ thượng mã có nghĩa là lên ngồi trên lưng ngựa. Đơn giản chỉ có thế, xin đừng hiểu dài và hiểu rộng quá chương trình thành chứng “thượng mã phong”, chết lăn quay trên lưng... kẻo làm cho kẻ thanh sạch mất lòng khiết tịnh chăng ? Đối với người Việt Nam, ngựa tuy không gần gũi như gà vịt, chó mèo và lợn, không gắn bó như trâu bò, nhưng lại góp phần rất lớn trong việc lập nước và giữ nước. Gã xin kể hầu một vài câu chuyện để chứng minh cho sự thật trên. Câu chuyện thứ nhất về ngựa sắt. Đời vua Hùng Vương thứ sáu, nước Ân ở phía bắc mưu toan xâm lăng để cướp lấy nước Văn Lang. Vua Hùng Vương rất lấy làm lo lắng, bèn họp quần thần để hoạch định kế giữ nước. Trong hàng quan văn có người cho biết ngày trước tiên đế Lạc Long Quân có truyền lại rằng: - Khi nào nước nhà gặp cơn nguy biến, thì nên cầu thần lên giúp. Hùng Vương liền truyền lệnh triệu thần nhân. Ba hôm sau, có một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên giữa lúc mưa bão, tự xưng là Lạc Long Quân. Cụ bảo rằng: - Trong ba năm nữa, giặc Ân từ phương Bắc sẽ tràn xuống. Bấy giờ nhà vua hãy cho người đi khắp nước cầu tướng tài ra giúp, chừng ấy sẽ có thần tướng hiện ra cứu an xã tắc. Ba năm sau, quả nhiên giặc hùng mạnh như vũ bão tràn sang cướp nước Nam. Chúng đi đến đâu là nhà tan cửa nát, còn người thì bị giết, gây nên bao cảnh hãi hùng. Tin cấp báo về đến Phong Châu, Hùng Vương nhớ lời dặn của Lạc Long Quân... Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh, thuộc tỉnh Bắc Ninh bây giờ, có một người đàn bà đã ngoài sáu mươi tuổi, cách mấy năm trước, ra đồng trông thấy một vết chân người to lớn. Lấy làm lạ, bà ta liền đặt chân mình vào ướm thử, bỗng nhiên tâm thần giao động. Về nhà liền thụ thai, sinh ra một đứa con trai đặt tên là Gióng. Tuy đã được ba tuổi, nhưng Gióng không biết lẫy, không biết bò, không cò rò biết đi và cũng chẳng nói được một tiếng nào. Nhưng lạ thay, khi sứ giả của vua Hùng Vương đi qua đấy, Gióng liền ngồi lên, rồi cất tiếng yêu cầu mẹ mời sứ giả đến. Bà mẹ vô cùng kinh ngạc, nhưng cũng chiều ý con, đi mời sứ giả tới. Gióng liền bảo sứ giả về tâu vua cho đúc một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt để đuổi giặc. Nhớ lời tiên tri của Lạc Long Quân, vua Hùng Vương biết đó là thần nhân, liền cho đúc ngay một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt. Khi sứ giả của vua mang đủ các thứ đến nhà, Gióng đứng lên, vươn vai thành một người to lớn dị thường, bảo mẹ nấu cơm cho ăn và xin mặc áo. Bà mẹ nấu liên tiếp mấy nồi cơm, nhưng Gióng ăn không no. Cả làng phải góp gạo, giết gà, mổ heo, làm cơm cho Gióng ăn. Gióng ăn rất khỏe, ăn mãi mà vẫn chưa thỏa. Cả làng xóm góp vải vóc để may quần áo cho Gióng mà vẫn không đủ với tầm thước của Gióng. Gióng đội nón, cầm gươm, nhảy lên ngựa sắt thúc chạy nhanh như gió. Trong miệng ngựa bỗng nhiên khạc ra lửa. Ngựa phi nhanh như sấm sét, mang Gióng ra chiến trường. Giặc Ân trông thấy Gióng như một thiên thần xông pha ngang dọc. Gióng đi đến đâu thì ngựa phun lửa đốt cháy quân giặc tới đấy. Các tướng Ân bị gươm của Gióng chém chết ngã rạp như chuối. Giặc Ân chạy trốn trối chết, thây người chồng chất ngổn ngang. Đang tung hoành giữa chiến trận, thanh gươm sắt bị gãy ngang, Gióng thuận tay nhổ luôn bụi tre bên đường đập vào đầu quân giặc hung ác, làm chúng rối loạn hàng ngũ. Dẹp xong đám giặc Ân khát máu, Gióng phi ngựa chạy lên núi Sóc, trút bỏ quần áo lại, rồi cả người lẫn ngựa đều bay bổng lên trời. Tương truyền các ao hồ từ những vùng Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn đều do dấu chân ngựa sắt của Gióng để lại. Khu rừng chỗ giặc Ân bị đốt chết cháy ngày nay vẫn còn mang tên là làng Cháy. Nhớ công ơn đã trừ giặc bạo ác cứu nước, vua Hùng Vương liền phong cho Gióng chức Phù Đổng Thiên Vương. Còn người đời thường gọi Gióng là Thánh Gióng. Ca dao có câu: - Làng Phù Đổng có một người, Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ. Những ngờ oan trái bao giờ, Ai hay thần tướng đợi chờ phong vân. Ngày nay, nói tới ngựa sắt là thiên hạ lại nghĩ ngay đến những chiếc xe gắn máy được thanh niên nam nữ phóng như bay và bóp còi inh ỏi trên đường phố. Chuyện thứ hai về ngựa đá. Tương truyền rằng giặc Mông Cổ tràn sang xâm lấn nước ta. Hưng Đạo Vương phải một trận thư hùng tại sông Bạch Đằng, đuổi quân Mông Cổ không còn một manh giáp. Khi tan trận, vua Trần Nhân Tôn thấy ngựa đá ở trước lăng tẩm, chân đều vấy bùn và mình rịn mồ hôi, nên nhà vua tin rằng nhờ anh linh các bậc tiên đế cưỡi ngựa đá theo giúp đuổi giặc, nên Hưng Đạo Vương mới chiến thắng. Vì thế, nhà vua liền ngửa mặt lên trời mà cảm tạ: - Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu. Có nghĩa là: - Xã tắc hai lần nhọc ngựa đá, Non sông ngàn thuở vững ngai vàng. Sau cùng, chuyện thứ ba về ngựa gỗ. Chuyện này xuất phát từ thần thoại Hy lạp. Số là để đột nhập vào thành Troie, chàng dũng sĩ Ulysse đã phải làm một con ngựa gỗ thật lớn và đem dâng cho dân thành. Thế nhưng, chàng đã ém một số binh lính tinh nhuệ trong bụng con ngựa gỗ khổng lồ ấy. Khi cổng thành được mở ra, lập tức các binh lính nhào tới, đánh chiếm thành và đã chiến thắng vẻ vang. Nhìn những con ngựa chiến thật oai phong lẫm liệt với những đặc tính vừa dễ thương lại vừa dễ mến. Tuy nhiên, những đặc tính dễ thương và dễ mến này, một khi được áp dụng cho con người, thì lập tức chúng bị biến thái, trở thành vừa dễ thù lại vừa dễ ghét.
Như trên chúng ta đã thấy, ngựa là một trong những loài vật giúp ích rất nhiều cho con người, thế nhưng khi rủa: - Đồ ngựa. Hai chữ “đồ ngựa” này lại ám chỉ hạng đờn bà con gái lẳng lơ và trắc nết. Cũng vậy, mặt ngựa tuy dài, sống mũi thẳng và cao bằng trán, nhưng cũng đẹp đáo để, chẳng thế mà anh chàng tài tử Fernandel, người Pháp, vốn được mang biệt danh là “mặt ngựa” vì mặt của anh chàng này khí dài, đã nổi tiếng khắp thế giới, đã hốt bạc với những cuốn phim của mình và tên tuổi còn được ghi lại trong từ điển Larousse. Thế nhưng, khi chửi: - Lũ đầu trâu mặt ngựa. Bốn chữ “đầu trâu mặt ngựa” này lại ám chỉ bọn ác ôn côn đồ, không biết thương người. Một đặc tính khác của ngựa đó là rất nhớ đường. Chỉ một lần đi qua, lập tức đoạn đường liền được ghi vào bộ nhớ của nó, nhất là khi bị bán đi xa, nó thường tìm cách trở về con đường cũ mà tìm lại chủ xưa. Vì thế, người ta mới bảo: - Ngựa quen đường cũ. Bốn chữ “ngựa quen đường cũ” này lại ám chỉ những thói hư khó bỏ. Một người đã quen làm việc xấu, thì dù được khuyên bảo để trở nên lương thiện, thì rồi vẫn chứng nào tật ấy, mèo vẫn hoàn mèo và chó đen vẫn giữ mực để rồi cuối cùng vẫn nhớ tật cũ mà làm quấy, làm xằng , làm bậy lại mà thôi. Ngoài ra, như gã đã trình bày: ngựa rất khoái chạy và chạy càng nhanh càng tốt, nhất là lại chạy như gió nữa thì quả là tuyệt vời. Chả thế mà người ta đã gọi những con ngựa tuyệt vời ấy là “ngựa truy phong”, có nghĩa là ngựa chạy theo được gió. Thế nhưng, khi kết án ai là: - Hạng quất ngựa truy phong. Bốn chữ “quất ngựa truy phong” này lại ám chỉ kẻ dùng những mánh khóe lừa gạt người khác rồi bỏ trốn. Cụ thể như anh đờn ông mở miệng ra là “nói khó” cùng chị đờn bà để được yêu thương. Thế nhưng, khi đã đạt mục đích, khi “con ong đã tỏ đường đi lối về”, thì liền “quất ngựa truy phong”, lập tức... biến mất tăm mất tích, mặc cho chị đờn bà bụng mang dạ chửa. Rõ là đồ sở khánh, Rõ là phường đểu giả. Cho đến bây giờ, sau nhiều đêm suy gẫm, gã vẫn chẳng hiểu được tình trạng biến thái từ ngựa sang người lại tồi tệ đến như vậy. Món thịt ngựa do gã chế biến xem ra cũng đã đủ gia vị ngọt bùi đắng cay. Giờ đây, trước khi nghỉ xả hơi cho những ngày tết, gã xin kể lại mẩu chuyện sau đây như một kết luận. Tương truyền rằng Tái Ông có một con ngựa đực. Ngày kia, con ngựa buồn tình bỏ đi hoang mất tiêu. Bà con lối xóm thấy vậy liền đến hỏi thăm và chia buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo: - Biết đâu là phước đó. Cách mấy hôm sau, con ngựa trở về và dẫn thêm mấy con ngựa cái nữa. Bà con lối xóm thấy vậy liền đến hỏi thăm và chia vui, Thế nhưng, Tái Ông nói: - Biết đâu là họa đó. Quả nhiên mấy hôm sau, các con ông thấy ngựa đẹp bèn tranh nhau cưỡi, chẳng may sẩy tay, té ngã gẫy chân. Lối xóm hay tin liền đến hỏi thăm và chia buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo: - Biết đâu là phước đó. Đúng vậy, quê nhà có giặc, loạn ly khắp nơi, đất nước cần lính nên mộ binh, con ông nhờ gẫy chân mà không phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Như vậy, chúng ta mới thấy việc họa phước chẳng biết đâu mà đoán lường trước được. Có khi họa xảy đến liên miên cho điêu đứng khổ sở. Nhưng thường là: - Họa vô đơn chí, phước bất trùng lai. Có nghĩa là: tai vạ không đến một mình, thường tai vạ này nối tiếp tai vạ khác. Còn vận may thì trái lại, không dễ có hai lần cùng lúc. Cũng như Tái Ông mất ngựa, gã xin cầu chúc cho bàn dân thiên hạ khắp bốn phương trời, trong năm con ngựa này, dù có gặp phải xúi quẩy, thì những xúi quẩy này cũng mau chóng biến thành hên may. Hay như lời Đức Kitô đã phán: - Hôm nay các con phải buồn khổ, nhưng ngày mai nỗi buồn của các con sẽ trở nên niềm vui. Gã Siêu.
Nằm vắt tay lên trán mà suy gẫm sự đời, gã nhận thấy việc lên voi xuống chó, âu cũng chỉ là GãSiêu 74
Nằm vắt tay lên trán mà suy gẫm sự đời, gã nhận thấy việc lên voi xuống chó, âu cũng chỉ là việc rất thường tình. Mới hôm nào, năm Quí Mùi trở về với sự lên ngôi của loài dê, còn bây giờ loài dê bị đá văng xuống làm…phó thường dân, nhường chỗ cho loài khỉ đăng quang khi năm Giáp Thân đang tiến tới. Vì thế, gã bèn xin được hầu chuyện về con…khỉ. Theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì khỉ là một loài động vật có vú, bốn chân có bàn trũng và ngón dài khả dĩ nắm được, trèo giỏi, sống bằng trái cây và ngũ cốc… Gã quen một anh bạn tên là Bảy. Anh Bảy là người rất tốt bụng, nhưng chẳng may bị trời phú cho một khuôn mặt hơi bị giống với khỉ. Vì thế, thiên hạ thường gọi anh ta là anh Bảy Khỉ. Tuy nhiên, thiên hạ cũng chỉ dám gọi lén sau lưng mà thôi, chứ đường đường mặt đối mặt mà gọi như thế, chắc chắn sẽ bị anh ta đấm cho vỡ…mỏ, khi tự ái nổi lên đùng đùng. Và cũng thật trùng hợp, anh Bảy lại có tài leo trèo. Ngọn tháp nhà thờ thật cao, mà anh ta cứ phom phom bò lên, chẳng cần dây đai an toàn chi cả, hai tay và hai chân cứ dính chặt vào tường vách như con thạch sùng. Gã đứng dưới đất ngước nhìn mà còn chóng cả mặt. Thấy vậy, thiên hạ bèn ưu ái phong cho anh ta một tên gọi đậm đà khác nữa, đó là anh Bảy Tổ Tông. Bốn chữ “Anh Bảy Tổ Tông” làm cho gã nhớ lại gần ba mươi năm về trước, hồi đất nước mình mới được giải phóng, bất kể giai hay gái, già hay trẻ, tất cả nam phụ lão ấu, từ thành thị cho đến thôn quê, đều được học tập về thuyết tiến hóa. Dựa vào những mẩu xương được tìm thấy, cũng như dựa vào những di tích của ngành khảo cổ, một số nhà khoa học đã đưa ra cái giả thuyết: người bởi khỉ mà ra và loài khỉ chính là tổ tiên của con người. Mục đích của việc phổ biến thuyết tiến hóa nhằm đả phá tôn giáo, để rồi đi tới kết luận: vật chất đẻ ra vật chất, chẳng có Thiên Chúa hay thần thánh nào cả. Thế nhưng, theo gã nghĩ: cho dù vật chất có đẻ ra vật chất và con người có bởi khỉ mà ra chăng nữa, thì bàn dân thiên hạ vẫn phải công nhận: cái vật chất đầu tiên ấy do đâu mà có nếu không phải là đã được dựng nên bởi một Đấng tạo hóa, hơn thế nữa giữa người và khỉ luôn luôn có một sự khác biệt, để người luôn luôn là người và khỉ vẫn luôn luôn là khỉ. Cũng trong chiều hướng ấy, Teilhard de Chadin đã đưa ra ý niệm về một cú nhảy vọt. Trong cú nhảy vọt ngoạn mục và tuyệt vời này phải có sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa, để trao ban cho con người một linh hồn, nhờ vậy người mãi mãi là người và khỉ vẫn mãi mãi là khỉ. Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ, cấu trúc AND của người và khỉ giống nhau đến…99,4%, thế nhưng giữa người và khỉ lại khác nhau một trời một vực. Và trong một bài viết trên báo “Kiến thức ngày nay”, thiên hạ đã liệt kê một số những khác biệt căn bản như sau: Thứ nhất, đó là loài khỉ không biết nói. Rất có thể loài khỉ cũng đưa ra những yêu cầu đơn giản nhưng không có khả năng gợi lên những gì tai không nghe, mắt không thấy hay những gì sắp xảy ra và càng không thể nào trao đổi tư tưởng như con người. Vì vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là một đặc điểm của người và chúng ta có thể xác quyết: người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói nhờ đó mà xích lại gần nhau và cảm thông với nhau hơn. Thứ hai, đó là loài khỉ không biết cười. Rất có thể khi gặp điều gì vui thú, loài khỉ cũng…khúc khích. Thế nhưng, tiếng cười của loài khỉ khác hẳn tiếng cười của con người. Thực vậy, loài khỉ chỉ biết khúc khích khi vui chơi, nhưng lại chẳng biết sử dụng tiếng cười để nổi giận, để châm biếm, để bỡn cợt. Và như vậy chúng ta cũng có thể xác quyết: người là một con vật duy nhất biết…cười. Thứ ba, đó là loài khỉ không biết cái chết là cái chi chi. Rất có thể khỉ mẹ vẫn tiếp tục chăm sóc cho những chú khỉ con chết yểu, nhưng chưa bao giờ người ta thấy loài khỉ chôn cất đồng loại hay làm nghi lễ an táng cho kẻ đã khuất. Thứ tư, đó là loài khỉ chẳng có khái niệm về luân lý và đạo đức. Rất có thể loài khỉ cũng biết chia ngọt sẻ bùi, bảo vệ những kẻ yếu thế trong những cuộc xung đột, giúp đỡ kẻ tàn tật và tránh chuyện loạn luân! Tuy nhiên chúng ta cũng đừng vội kết luận là loài khỉ cũng có luân lý và đạo đức riêng của mình. Thực ra chúng chẳng phải là những con vật hiền lành. Để bảo vệ lãnh thổ, chúng sẵn sàng tấn công, thậm chí giết chết thành viên của bầy đàn bên cạnh, kể cả những chú khỉ con chúng cũng không tha. Thứ năm, đó là loài khỉ không biết chế tạo dụng cụ. Rất có thể loài khỉ cũng dùng được một vài dụng cụ đơn giản như cành cây, búa, đe…nhưng chúng không có khả năng thực hiện những công việc khó khăn, cũng như không có khả năng học thêm những điều mới. Sau cùng, đó là loài khỉ không biết…nói dối. Rất có thể loài khỉ cũng dấu giếm thức ăn vừa kiếm được để xơi một mình, nhưng chẳng qua chỉ là một cách che dấu mà thôi, chứ còn nói dối, tức là đưa ra những thông tin sai nhằm đánh lạc hướng và lừa gạt đối phương, thì loài khỉ hoàn toàn không thể thực hiện nổi. Khỉ có nhiều loại và có những loại được kê tên trong sách đỏ, được liệt vào hàng quí hiếm, cần phải bảo vệ cho khỏi nguy cơ bị tuyệt chủng. Bình thường gã thấy có khỉ đột là loại khỉ to. Còn khỉ giả nhân hay đười ươi cũng là loại khỉ to, đi bằng hai chân giống như người, vì thế Cao Bá Quát đã có câu đối: - Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi. Trong khi đó vượn lại là một loại khỉ có đuôi và chân rất dài. Chuyện rằng: ngày xưa vua nước Sở có một con vượn rất đẹp, chẳng may nó bị xổng chuồng và chạy vào rừng. Nhà vua bèn truyền cho quan quân vô rừng tìm, nhưng tìm mãi tìm hoài cũng chẳng thấy. Cuối cùng nhà vua ra lệnh đốt rừng, để con vượn phải chạy ra. Và thế là chỉ vì một con vượn mà cả cánh rừng rộng lớn bị thiêu rụi. Bây giờ, gã xin điểm qua một vài đặc tính của khỉ. Trước hết khỉ là một loài vật tương đối có chỉ số thông minh khá cao. Vì thế, chúng ta đã thấy, khỉ có thể sử dụng một vài đồ dùng thô thiển như cành cây…để tự vệ cũng như để tìm mồi. Nếu gã không lầm thì vào năm 1959, phi thuyền Jupiter đã đưa hai con khỉ gốc Á Châu, thuộc nòi “Macaca”, tên là “Aybơn” và “Baikơ” lên không gian, bay chung quanh trái đất với độ cao 450 ki lô mét. Sau khi trở về được hai ngày thì con “Aybơn” lăn đùng ra chết, còn con “Baikơ” sống thêm được một thời gian nữa. Tuy nhiên sự thông minh của khỉ chỉ là một sự thông minh “vốn sẵn tính trời”, được di truyền từ đời khỉ ông tổ xì hơi cho đến đời khỉ con cháu chút chít, có bao nhiêu xài bấy nhiêu, chứ chẳng được cập nhật hóa và phát triển thêm chút nào. Thành thử họ hàng nhà khỉ hôm nay vẫn cứ…ngu như tổ tông chúng hàng ngàn năm về trước. Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng, đến dưới một gốc cây cổ thụ. Bên cạnh gốc cây cổ thụ lại có một cái giếng. Nước trong giếng phản chiếu ánh trăng vàng. Chú khỉ đầu đàn nhìn thấy, liền vội vã nói với đồng bạn: - Mặt trăng đã bị rơi xuống giếng rồi kìa, chúng ta hãy cùng nhau kéo nó lên. Thế này nhé, tôi sẽ bám vào cành cây trên mặt giếng, sau đó các anh từng người một bám vào đuôi nhau mà trèo xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng. Bầy khỉ mặt đỏ từng con và từng con liên tục treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu nữa thì đụng mặt nước, trọng lượng của bầy khỉ vượt quá sức chịu đựng của cành cây. Một tiếng “rắc” vang lên, cành cây bị gẫy và bầy khỉ mặt đỏ rơi xuống giếng, giẫy giụa mãi không thôi. Còn mặt trăng trong giếng cũng “mất tích” luôn. Một câu chuyện khác chứng tỏ khỉ cũng…ngu, chứ chẳng khôn ngoan gì cho lắm. Ở nước Tống có người khéo nuôi khỉ, sống bằng nghề dạy khỉ làm trò. Thầy dạy khỉ hiểu tâm lý loài khỉ và những con khỉ được ông nuôi dạy cũng hiểu được tiếng nói và cử chỉ của ông. Thầy dạy khỉ vẫn nuôi khỉ bằng hạt giẻ. Hạt giẻ bên Tàu rất lớn, có hạt lớn bằng cái chén uống nước chứ không nhỏ như hạt dẻ bên ta. Mỗi bữa ông phát cho mỗi chú khỉ bốn hạt giẻ. Ngày hai bữa như thế. Gặp hồi thầy dạy hết tiền mà giá hạt giẻ lại leo thang, nên ông thầy thấy cần phải giảm bớt số hạt giẻ cấp phát mỗi bữa cho lũ khỉ, ông liền nói với chúng: - Từ nay ta phát cho chúng mày mỗi con bữa sáng ba hạt giẻ, bữa tối bốn hạt giẻ. Lũ khỉ trước đó vẫn quen được phát mỗi bữa bốn hạt, nay bớt đi một hạt, đều phản đối, kêu la chí chóe, nhất định không chịu. Ông thầy dạy khỉ bèn sửa lại: - Nếu vậy, từ nay ta phát cho mỗi con bữa sáng bốn hạt, bữa chiều ba hạt. Chịu không ? Lũ khỉ nghe nói bữa sáng đổi thành bốn hạt như cũ đều hài lòng, không còn la ó phản đối nữa. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống như khỉ, nghĩa là họ tham cái lợi nhỏ trước mắt, mà quên mất tiêu cái hại lớn sau lưng: - Khỉ thật. Tiếp đến, khỉ là một loài vật có tính tò mò và hay bắt chước. Thấy người ta làm gì, thì khỉ cũng bắt chước mà làm theo. Người ta nhăn mặt thì khỉ cũng nhăn mặt. Người ta gãi sườn, thì khỉ cũng gãi sườn. Người ta toét miệng cười, thì khỉ cũng toét miệng cười. Biết tính khỉ là như thế, bọn thợ săn bèn bày mưu rượu uống, rồi cùng nhau đi guốc. Sau đó bỏ rượu và guốc dưới gốc cây rồi nấp vào một chỗ mà rình. Lũ khỉ kéo nhau ra, thấy guốc và rượu. Con đầu đàn tinh khôn, cho rằng người ta gài bẫy, nên giục những con khác hãy mau mau đi khỏi. Cả bầy cất bước, nhưng vẫn cứ ngoảnh lại. Cuối cùng chúng bảo nhau: - Ta hãy nếm thử xem sao ? Và thế là chúng tay chấm miệng mút, bén mùi làm mãi, cho tới khi say tít thò lò, quên cả lời nhắc bảo của con đầu đàn. Chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói cười cười, chân đưa vào guốc và bước đi cà lơ thất thểu. Bọn thợ săn bấy giờ mới xông tới. Bầy khỉ lảo đảo chạy, con ngã nghiêng, con ngã ngửa, bị bắt sạch, không sót một con nào. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống khỉ, nghĩa là họ nhắm mắt bắt chước thiên hạ, không phân biệt cái tốt hay cái xấu, cái đúng hay cái sai. Thậm chí cái tốt và cái đúng thì không theo mà chỉ theo cái xấu và cái sai. Thấy cầu thủ bóng đá David Beckham húi trọc, thế là a-lê-hấp, để trở nên giống thần tượng của mình, họ cũng phó thác cái đầu bù xù của mình cho bác phó cạo trọc lóc. Thấy các ca sĩ nữ khi trình diễn mặc áo váy thiếu trước hở sau, thế là “a-la-mốt” mỗi khi ra đường họ cũng khoác vào mình những bộ váy áo mát mẻ và nghèo nàn, rất ư là chướng tai gai mắt, chỉ còn nước lẩm bẩm: - Khỉ thật. Ngoài ra, khỉ còn là một loài vật có tính láu cá và hay quậy phá. Thực vậy, biết bao nhiêu phen người nông dân trồng rẫy ven rừng đã phải khốn đốn vì lũ khỉ. Trồng được mấy trăm gốc bắp, sắp sửa đến ngày thu hoạch, thì chỉ một đêm bị lũ khỉ kéo đến phá cho một trận te tua, thành thử phải ca bài: - Xôi hỏng bỏng không, Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Vì thế, người ta cũng hay la mắng những kẻ phá phách: - Rõ khỉ. Ngày kia, con hổ tát chết hai con trâu và xé tan xác một con lạc đà. Hổ lấy làm kiêu hãnh rằng mình dũng cảm, bèn lên một mỏm đá nằm lăn ra, khoái chí và lớn tiếng khoe khoang: - Không có con vật nào có thể đọ sức cùng ta được. Ngay cả đến voi cũng phải cúp đuôi chạy mất, nếu gặp ta và bị ta tát cho vài tát. Trời đã sinh ta như vậy. Chẳng thèm cầu cạnh nhờ vả ai. Bỗng nhiên, một phiến đá nhọn lở ra rơi từ đỉnh núi xuống, trúng lưng hổ làm hổ bị thương. Nhưng hổ vẫn không tỉnh ngộ. Lát sau, hổ trở dậy, đi ra suối uống nước và nằm trên bờ ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cạnh đấy có một tổ kiến lửa. Kiến bò ra, leo lên, chui vào vết thương của hổ và ra sức đốt. Hổ đau quá, chồm dậy, lồng lộn và gầm vang chuyển cả đồi núi. Cạnh đấy có một chú khỉ ngồi trên cây. Chú khỉ thấy hổ quay cuồng bèn phá lên cười và nói: - Ê chàng dũng sĩ kia! Lòng can đảm và sức lực của ngươi bỏ đâu mất rồi ? Ngươi vừa mới khoe khoang là chẳng có con vật nào địch nổi sức mạnh của ngươi cơ mà. Tại sao bây giờ ngươi lại hoảng hốt giãy giụa lên như thế. Rõ thật là bêu chưa ? Hổ nghe nói rất lấy làm xấu hổ, liền năn nỉ: - Tôi lạy anh, xin anh làm phúc phủi kiến ra khỏi vết thương hộ tôi. Ơn này suốt đời tôi thề sẽ chẳng bao giờ quên. Một câu chuyện nữa chứng minh cho tính láu cá của khỉ. Ngày nọ, khỉ đang lang thang thì gặp bác bò đang cày ruộng. Khỉ nói: - Tôi rất thích cày ruộng, bác để tôi giúp cho nhé. Cày được mấy luống, khỉ nói: - Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi cần phải đi ngay đây. Đi được một quãng, khỉ gặp thím chim ưng đang làm tổ. Khỉ vội nói: - Làm tổ là nghề của tôi, thím để tôi giúp cho nhé. Nhặt được mấy cọng cỏ khô, khỉ nói: - Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi cần phải đi ngay đây. Đi được một quãng, khỉ gặp chú thỏ đang đào hang. Khỉ nói: - Tôi rất rành nghề đào hang, chú để tôi giúp cho nhé. Gãi đất được mấy cái, khỉ nói: - Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi cần phải đi ngay đây. Thời gian trôi qua, khỉ trở về vào mùa lúa chín. Thấy mọi người ca tụng bác bò vì thửa ruộng bác cày thật trúng, khỉ vội nói: - Ấy ấy, tôi cày ruộng đấy chứ. Thấy mọi người khen ngợi thím chim ưng vì chiếc tổ thím làm thật bền chắc, khỉ vội nói: - Ấy ấy, tôi làm đấy chứ. Thấy mọi người chúc mùng chú thỏ vì chiếc hang chú đào thật ấm áp, khỉ vội nói: - Ấy ấy, tôi đào đấy chứ. Nghe thấy vậy, nhiều người ấm ức trong bụng và đã phát ngôn thành lời: - Có cái khỉ mốc gì đâu. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động giống như khỉ, nghĩa là họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, họ nói thì hay mà làm lại chẳng hay chút nào. Họ thích làm giám…đốc, giám…xúi, chứ chẳng muốn giơ ngón tay lay thử một ly ông cụ nào sốt. - Khỉ thật. Tuy nhiên, có một nét nổi bật của loài khỉ thường các cụ ta ngày xưa nhắc đến qua văn chương chữ nghĩa, đó là một tình thương chan hòa và lai láng. Hẳn rằng khi học truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng ta đều thuộc lòng câu thơ bất hủ: - Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Hai chữ “đoạn trường” ở đây có nghĩa là đứt ruột, để chỉ những sự việc thảm thương đến cùng độ, khiến cho người ta nghe qua cảm thấy như đứt từng đoạn ruột, tan nát cả cõi lòng. Theo sách “Sưu Thần Hậu Ký” thì có một người thợ săn bắt được một con khỉ con, đem về làm thịt. Khỉ mẹ trông thấy, cứ ở trên cây kêu la thảm thiết mãi, rồi buông tay té xuống đất mà chết. Đến khi mổ bụng ra, người thợ săn thấy ruột của khỉ mẹ đứt ra từng khúc. Tương truyền rằng: Ở đất Vũ Bình có giống vượn, lông đỏ như vang, nõn như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Hai mẹ con nhà vượn, mẹ thì khôn ngoan và tai quái, còn con thì ngây ngô và nhẹ dạ, nhưng lúc nào cũng đi liền bên mẹ. Người thợ săn không thể nào nhử mồi, đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc xát đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý, thì bắn ngay. Vượn mẹ bị bắn, biết mình không thể sống được, vắt sữa xuống cỏ cho con uống, xong rồi lăn ra mà chết. Người thợ săn quay về phía vượn con, cầm roi quật vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy thế, kêu gào thương xót, chạy ngay lại gần và người thợ săn bắt sống được. Lúc về nhà, cứ đêm đêm vượn con nằm phục bên xác mẹ, thì mới yên. Một đôi khi lại ôm lấy kêu gào, vật vã rất thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng chết. Than ôi! Vượn là giống vật còn biết thương mẹ, huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ, phụ lòng mẹ ư ? Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại hành động thua kém cả loài khỉ. Cha mẹ thì đay nghiến và đánh đập con cái, còn con cái thì hất hủi và bạc bẽo với cha mẹ. Theo một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật số ra ngày 29.6.2003 thì tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra một vụ án đau lòng. Vụ án đau lòng này rất đáng cho chúng ta dừng lại và suy gẫm. Một người mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con gái, người mẫu Võ Thị Thu Trâm, trước ngày cô lên đường tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi sát hại con, đó là bà đã có hai mươi năm mua bán ve chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi bắt đầu nổi tiếng, cô cũng mặc cảm về thân phận người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà và nhất là đã đối xử tệ bạc.. Bài báo còn đưa ra những trường hợp điển hình khác nữa. Chẳng hạn mấy ngày trước, một phụ nữ ở huyện Bình Chánh trong khi cãi cọ với chồng, đã bị chồng đạp vỡ lá lách phải đi cấp cứu ở bệnh viện. Tòa án tỉnh Vĩnh phú vừa tuyên án tử hình Trần Văn Nam, do ham chơi và đua đòi đã giết bà nội để lấy năm chỉ vàng và bảy trăm ngàn đồng. Một đứa con trai trong những cơn say triền miên thường hay quậy phá, gây sự với cha mẹ già và đã ra tay giết người cha 74 tuổi bằng bốn nhát dao… Đọc những mẩu tin trên, ai mà chẳng phải lắc đầu ngao ngán cho “cái tình đời lạnh lẽo và cái tình người bạc bẽo”: - Khỉ thật. Để kết thúc những chuyện lỉnh kỉnh về khỉ, gã xin giới thiệu một món đặc sản cho dân bợm nhậu trong những ngày đầu xuân, đó là món óc khỉ. Tương truyền rằng khi bà Từ Hi Thái Hậu bên Tàu mở tiệc thết đãi các quan chức chính gốc Ăng Lê, thì trong thực đơn có món tuyệt chiêu này. Tuy là tuyệt chiêu, nhưng lại thật đơn giản. Phía dưới bàn ăn, người ta đóng những chiếc hộc nhỏ. Trong mỗi chiếc hộc nhỏ, người ta nhốt một con khỉ. Phía trên bàn ăn, người ta khoét lỗ để cái chỏm đầu của con khỉ được nhô lên. Tới lúc các quan chức dùng, thì người hầu bàn mang dao tới, rồi phụt một cú, cái chỏm đầu của con khỉ bị cắt ngang, để lộ ra bộ óc còn nguyên vẹn và…đỏ hỏn. Bấy giờ các quan chức chỉ cần vắt chanh, nêm muối tiêu, rồi lấy thìa xúc mà ăn. Ăn vào, thập phần bổ béo, còn đầu óc thì trở nên minh mẫn và thông suốt. Không hiểu các quan chức lúc bấy giờ cảm nhận như thế nào, chứ riêng gã khi nhìn thấy người ta làm thịt khỉ thì đã rùng mình khiếp sợ. Con khỉ bị cạo lông trông giống y chang một đứa con nít…làm sao mà nuốt cho nổi. Riêng những ai mình mẩy đau nhức, mắt mũi kèm nhèm thì trong năm mới này, hãy tìm mua cho được một lạng cao khỉ, đem về ngâm với rượu mà uống. Uống vào, mình mẩy sẽ khỏe khoắn. Ngoài ra, cao khỉ còn có tác dụng tuyệt vời, đó là làm sáng mắt mình mà tối mắt thiên hạ. - Khỉ thật. Gã Siêu.
Năm nay tết đến hơi sớm, vỏn vẹn sau Giáng sinh có một tháng, thành thử gây nên nhiều nỗi truân GãSiêu 75
Năm nay tết đến hơi sớm, vỏn vẹn sau Giáng sinh có một tháng, thành thử gây nên nhiều nỗi truân chuyên, bất tiện cho gã. Chuyện là trong số báo trước, gã đã long trọng cầu chúc quí vị một năm mới đầy hạnh phúc. Thế là yên chí “nhớn” mà nhởn nhơ phè phỡn theo kiểu “hưởng xuân kẻo hết xuân đi”. Ai dè trong lúc thả hồn theo điếu thuốc lào mà mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây, thì cụ chủ nhiệm ra lệnh qua điện thoại: - Số tháng hai, chú mày phải tán hiêu tán vượn cho một bài nữa mang hơi hướm tết đấy. Gã bèn gân cổ cãi lại, thì cụ ấy bèn cà kê dê ngỗng: - Này nhé, báo đề số tháng hai thì phải ra lò và trình làng vào cuối tháng giêng tây, tức là còn ở “trong mùng” ta đứt đuôi con nòng nọc rồi chứ gì. Hơn thế nữa các cụ ta vốn thường bảo: tháng giêng là tháng ăn chơi kia mà. Rồi cụ bồi thêm một màn năn nỉ ỉ ôi và một cú đắc nhân tâm nữa làm gã ngọng luôn. Cụ bảo: - Thôi mờ, chịu khó viết đi nhé. Bài của chú mày bắt khứa lắm đấy. Thế là gã bèn tịt ngòi, thầm “khẩu phục tâm phục” cụ chủ nhiệm thật là…quá đáng. Mà đúng thế, đang khi thiên hạ ăn tết, thì có lẽ cụ chủ nhiệm lại hò hét, đốc thúc những người cộng tác với mình ráo riết lên khuôn và xuất xưởng số Mục vụ tháng hai theo khẩu hiệu: - Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm…Xong xuôi rồi mình ăn tết muộn, có chết thằng tây đen nào đâu. Giống như vua Quang Trung ngày xưa, thần tốc hành quân, đi ngày đi đêm, hẹn thề với binh tướng sẽ ăn tết vào ngày mồng năm tại đất Thăng long. Và quả thực, đúng ngày mồng năm tết năm Kỷ dậu 1789, vua Quang trung cùng với binh tướng của mình, đã chiến thắng quân nhà Thanh sang lấn chiếm nước ta lấy cớ phù Lê. Tướng nhà Thanh là Sầm nghi Đống phải thắt cổ mà chết. Tết năm nay là tết Tân tỵ, cầm tinh con rắn. Đáng lý ra theo thói quen vốn có từ lâu trong nghề làm báo và viết lách, gã phải xông đất vào hang ổ và làm một bài về loài rắn, mới đúng điệu. Vì thế, gã cố công tích lũy được một mớ những sự việc liên quan tới loài rắn. Trước hết là trong Kinh thánh. Ma quỉ đội lốt con rắn để mà cám dỗ ông bà nguyên tổ. Rồi nạn rắn độc đã giết hại dân Do thái trong sa mạc. Có lẽ vì thế mà người ta thâm thù loài rắn. Hễ thấy rắn là phải đập liền tù tì . Thế nhưng, vâng lệnh Đức Chúa Trời, Mai sen đã đúc con rắn đồng và treo lên cao nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên con rắn đồng là bèn được khỏi. Có lẽ vì thế mà ngành dược đã lấy cho mình biểu tượng con rắn. Tiếp đến là trong ngôn ngữ bình dân. Tục ngữ Việt Nam đã để lại khá nhiều câu nói về loài rắn: Chẳng hạn: rắn đến nhà, chẳng đánh thời quái. Nghĩa là gặp rắn đâu là phải phang ngay lập tức. Chẳng hạn: cõng rắn cắn gà nhà. Nghĩa là mượn tay người ngoài mà giết hại anh em, đồng bào của mình. Chẳng hạn: Rắn già rắn lột, người già người chui tọt vào săng. Nghĩa là rắn già có thể nhờ lột mà trẻ lại, còn người già thì chỉ có nước mặc cho mình chiếc “chemise gỗ” mà thôi. Chẳng hạn: Rắn rết bò vào, cóc nhái bò rai. Nghĩa là bọn hung dữ đi tới đâu, thì người hiền lành yếu kém phải lo mà chạy cho xa. Còn nhiều nhiều nữa những câu tục ngữ nói về loài rắn. Và sau cùng là trong đời thường. Phải, trong đời thường thì tại Việt Nam rắn là món nhậu đặc sản thật quí hiếm. Người ta không bỏ đi cái gì của rắn cả. Này nhé, da rắn mà nướng lên xơi cũng dòn dòn. Bằng không thì lột ra để mà làm bóp, làm ví cho mấy bà mấy cô. Nọc rắn tuy có thể làm chết người, nhưng lại là một dược liệu có giá trị. Người ta thường nuôi rắn độc để lấy nọc và nọc rắn còn đắt hơn cả vàng ròng. Máu rắn có sức tăng cường sinh lực, chống đau lưng nhức mỏi. Vì thế, dân bợm nhậu thường hay treo rắn lên, chặt cái đuôi và kê mồm vào mút lấy mút để, uống lấy từng giọt máu của nó, hay cho nhỏ xuống cốc rượu mà…tu. Thịt rắn thì làm món nhậu. Phải có tiền nhiều thì mới dám bước chân vô nhà hàng đặc sản mà kêu món rắn. Riêng các cụ có tí tuổi thì thường khoái món “tửu xà” nghĩa là rượu ngâm rắn, hay rắn ngâm rượu. Phải có đủ bảy hay chín loại rắn độc ngâm trong keo rượu thì mới đúng là “tửu xà” thứ thiệc. Uống vào dãn gân dãn cốt, không bổ ngang thì cũng bổ dọc. Không bổ nháo bổ nhào thì cũng bổ chẩng. Theo thiên hạ cho hay: - Rắn càng độc thì càng quí, càng đắt và càng có hậu quả bổ dưỡng cao. Tuy nhiên, người Việt Nam ta ở nước ngoài lâu ngày lây nhiễm thói tục phương tây. Rất hiếm người còn khoái món thịt chó. Vì thế, nếu gã có trình bày về những món rắn, thì e rằng quí bà quí cô, con cháu Evà sẽ kêu lên oang oác: - Eo ơi, đồ ma đồ quỉ. Vì thế, gã xin chuyển hệ qua một đề tài khác vui vẻ hơn và tươi mát hơn trong lúc trà dư tửu hậu của mấy ngày tết. Đó là đề tài “Có tiền”. Trước hết, gã xin cầu chúc bàn dân thiên hạ trong năm con rắn này , nếu là thương gia thì được buôn may bán đắt và tiền chất đầy nhà, còn nếu là viên chức hay lao động thì vớ được một cái “job”, một công việc với đồng lương khấm khớ một chút. Hay như Tú Xương đã long trọng: - Nó lại mừng nhau cái sự giàu, Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu ? Phen nay ắt hẳn gà ăn bạc, Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu. Thế nhưng, có tiền nên buồn hay nên vui ? Trước câu hỏi này, chắc chắn nhiều người cho rằng gã là kẻ khù khờ, bởi vì chỉ những kẻ khù khờ mới hỏi như vậy mà thôi. Còn những người khôn ngoan sành đời, hẳn phải mừng húm khi đồng tiền rủng rỉnh trong túi. Cách đây không lâu, gã nhận được một cái “meo” của đứa cháu gái bên Mỹ. Chẳng hiểu nó thuổng ở đâu cái câu “ranh ngôn” thuộc phái thực dung như sau: - Thiên đàng là lãnh lương Mỹ, ở nhà Anh, đi xe Đức, ăn món Tàu và lấy vợ Việt. - Còn hỏa ngục là đi xe Mỹ, lấy vợ Anh, ăn món Đức, ở nhà Tàu và lãnh lương Việt. Xem như thế, lấy được một cô vợ Việt quả là hạnh phúc bảy mươi đời, bởi vì người đàn bà Việt nam vốn dịu hiền, chung thủy, biết dạy con và…chiều chồng. Được khen như thế, hẳn quí bà quí cô sẽ rất lấy làm hãnh diện, phổng cả cái lỗ mũi lên ấy. Chứ còn lạnh lùng và phớt tỉnh như đờn bà Ăng lê thì ai mà thèm ham. Còn lương Mỹ thì khỏi phải chê vừa nhiều lại vừa được tính bằng đô la, thấy mà ham. Đem cái lương Mỹ ấy về Việt nam thì tha hồ mà ăn tiêu vung vít. Chứ còn “bèo” như lương Việt, thì chỉ có nước chết đói. Nhìn vào cuộc sống, mọi người bất kể già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu và ngay cả người mù cũng vẫn hiểu được giá trị của đồng tiền, ngay cả người điếc cũng vẫn nghe được âm thanh của bản nhạc chỉ có hai nốt đô và la. Về vấn đề này, gã xin “no table”, nghĩa là “không bàn” đến vì có một lần gã đã nói tới, và hơn thế nữa nó lại quá rõ ràng và minh bạch, như hai với hai là bốn. Gã chỉ xin ghi lại nơi đây một vài tư tưởng lẩm cẩm được đăng rải rắc trên các báo tại Việt Nam: - Tiền trước tiên tôn ta thành thần, thành tiên, thành thánh…Tiền tạo thành tích. Tiền trong túi, ta trở thành tiên tiến, ta trở thành tài trí, thân thế ta tăng trưởng, tên tuổi ta thăng tiến, thình thương ta thêm thắm thiết, tất thảy trân trọng ta. Tay thủ tập tiền, tôn ti trật tự tiêu tán. Tù tội tiêu tan, tội thì thành trong trắng, tù thì tha thứ. Thua thành thắng. Thất thu thành thành tựu. Thấy tiền, ta tựa thấy tiên, thấy trước tất thảy. Tiền trợ thủ ta trên tất tật. Túng tiền, tư tưởng tinh thần tiêu tùng. Trên thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai tiếng. Túng tiền, tất thua thiệt. Tình thương tan tác. Trong trắng thành tối tăm. Thiếu tiền, thân thế tựa tre tàn. Tủi thân, trở thành ti tiện. Tham thì thâm thủng tiền tỷ, tiến tới tù tội, tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. Thôi, túng thiếu tiền thì tiêu tan, tiêu tán, tiêu tùng tất tật. Thật thảm thiết. Một tác giả khác thì viết: - Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao, Bẻ cong chân lý, lật nhào công minh. “Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế”…hiển linh. Có bây, “ pháp luật nghiêm ninh” trò đùa. Buồn thay ! “Vật chất” làm vua. “Đức”, “Trí”, “Lễ”, “Nghĩa” phải thua đồng tiền. Còn trên báo Tuổi trẻ Cười, số “Xuân Canh Ngọ” gã đọc được: - Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên, Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn ! Tiền nhiều, mặc kệ…vẫn hơn. Dẫu cho nhân sự ngả nghiêng tứ bề, Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo. Phất tay một cái, nhằm nhè gì ông. Hay như thiên hạ bây giờ thường bảo: - Tiền là tiên là phật, Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khỏe của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân, Là cán cân của công lý. Ý thức được giá trị tuyệt vời như vậy của tiền bạc, cho nên thiên hạ ai cũng tham tiền tham bạc. Hình như cái con “virus tham tiền” đã tiềm ẩn trong mạch máu, trong tim gan phèo phổi, trong lục phủ ngũ tạng của mọi người, đờn ông cũng như đờn bà, từ lúc cha sinh mẹ đẻ tới lúc nhắm mắt buông tay thở hơi cuối cùng. Chuyện xảy ra bên nước Đức cách đây vài chục năm. Số là hôm ấy các đội banh quốc tế đang tranh giải vô địch. Sân vận động chặt ních như nêm. Kẻ hèn có, người sang có. Các vị tai to mặt lớn lại càng nhiều. Khi tan cuộc, mọi người hối hả kéo nhau ra về, thì bỗng thấy ở ngay giữa lối ra vào có rải rắc nhiều tờ giấy bạc năm trăm của một hay nhiều khán giả hớ hênh nào đó đánh rơi. Ai cũng lấm la lấm lét, ngó trước nhìn sau…Thế rồi, kẻ trước người sau, tất cả đoàn người đều lần lượt cúi xuống…sửa giày. Có kẻ sửa giày nhiều lần. Người sang cũng như kẻ hèn. Thượng lưu cũng như hạ cấp. Không ai trao đổi với ai một tiếng, nhưng ai cũng cảm thấy vui như mở cờ trong bụng. Đi xem đấu bóng lần này không ngờ mà được thần tài đưa đón. Về đến nhà, xoa tay cho sạch, bẻ ngón tay cho mềm, thò vào túi, rút xấp bạc ra, sung sướng, hí hửng. Thế nhưng, dưới ánh đèn sáng, nhìn kỹ lại thì ôi thôi, khóc vì hổ ngươi, cười ra nước mắt. Vừa tức lại vừa nhục. Tức cho ai mà cũng nhục cho ai. Các ngài đã bị sập bẫy trong một cuộc chơi trắc nghiệm của một tổ chức oái oăm nào đó. Thì ra toàn là tiền giả, toàn là bạc dổm. Ý thức được giá trị tuyệt vời như vậy của tiền bạc, cho nên thiên hạ lao mình vào việc tìm tiền kiếm bạc, như con thiêu thân lao mình vào lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham của mình. Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi: - Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám đoạt vàng của kẻ khác như thế ? Anh ta trả lời: - Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi. Nhất là những kẻ có tí chức tí quyền, nếu để cho lòng tham thao túng, thì quan lớn đớp miếng to, quan nhỏ xơi miếng bé, chẳng trừ một miếng nào cả, khiến cho bọn dân đen, khố rách áo ôm nhiều phen phải lao đao, xất bất xang bang. Đang lúc gã ngồi hý hoáy viết những hàng chữ này, thì đài truyền hình loan tin về vụ Tổng thống Phi luật tân, ông Estrada, bị tố giác tội danh tham nhũng, nếu không khéo thì sẽ đi đoong, bị mất chức như chơi. Cách đây mấy năm, tuần báo Newsweek đã dành những trang chính để đăng tải hồ sơ tham nhũng của cựu tổng thống Nam hàn Ro Te Wu, người trước đó đã công khai thú tội đã nhận tiền hối lộ của nhiều công ty. Các biện lý đã thẩm vấn 36 nhà doanh nghiệp hàng đầu trong nước có dính líu tới vụ tham nhũng này. Kết quả điều tra, người ta thấy đa số các công ty lớn nhất của Nam hàn đều ít nhiều đã bỏ tiền ra mua chuộc ông tổng thống này, chẳng hạn công ty Huyndai, công ty Samsung...Tổng cộng trong 5 năm làm tổng thống, ông Ro Te Wu đã nhận tất cả 307 triệu đô la tiền hối lộ của 30 nhà doanh nghiệp. Rồi tạp chí Time, số ra ngày 25 tháng 3 năm 1999, cũng đã cho công bố một tài liệu, theo đó tổng thống Suharto và gia đình ông đã vơ vét được 15 tỷ mỹ kim trong 32 năm cầm quyền của ông tại Indonesia. Tạp chí Time còn cho biết là ngay sau khi từ chức, ông đã cho chuyển một số tiền là 9 tỳ mỹ kim từ ngân hàng Thụy sĩ sang một ngân hàng khác ít được biết đến tại Áo… Còn những kẻ vai nặng chân trơn, trong tay chẳng có tí chức tí quyền, thì sẽ phải hùng hục kéo cày, làm ngày làm đêm miễn sao kiếm được một mớ tiền đem về nuôi vợ nuôi con. Thậm chí có kẻ mê kiếm tiền đến nỗi quên cả vợ, bỏ cả con, không ngó ngàng chi tới gia đình, khiến vợ tủi thân đi tìm an ủi nơi vòng tay người khác, còn con cái thì ngán ngẩm với bầu khí lạnh nhạt của gia đình nên tìm lãng quên trong xì ke ma túy, lang thang đi bụi đời. Một khi đã có tiền, người ta liền nghĩ ngay tới chuyện “mua tiên”, bởi vì như các cụ ta thường nói: - Có tiền mua tiên cũng được. Thế nhưng, chính cái chuyện “mua tiên” này mới thực là nhiêu khê, rắc rối và gây nên lắm nỗi thương đau. Thực vậy, có những ông chồng thừa tiền về Việt Nam ăn chơi phè phỡn, lại còn kiếm thêm tí tình còm vắt vai bằng cách tung tiền ra đổi lấy một “cô tiên bé bỏng”. Vừa đỡ hao tốn, lại vừa bảo đảm an toàn trước sida, cơn bệnh thảm khốc của thế kỷ. Còn ở Việt Nam, mấy ông quan thừa tiền nhưng hay rửng mỡ, thường tìm đến những quán bia ôm, cà phê ôm, thậm chí có cả…thịt chó ôm để mà du hí. Tới lúc bị những “con gà móng đỏ” chém đẹp, thì chỉ còn nước ngửa mặt lên mà than thở cả tiếng: - Bắc thang lên hỏi ông trời, Đem tiền cho gái có đòi được không ? Những chuyện tình còm trên đây mà đổ bể, thì bảo đảm ”chăm phần chăm”, chắc ăn như bắp là nhà tan cửa nát. Có những ông thừa tiền, bèn đi tìm “nàng tiên nâu” để giải sầu. Lúc đầu thì hút, hít. Lúc sau thì chích choác. Chỉ một thời gian là thân tàn ma dại vì bị “nàng tiên nâu” là xì ke, ma túy, bạch phiến nó vật đến xùi cả bòn bọt mép, lòi cả xương sống xương sườn phơi ra. Có những ông vác tiền về Việt Nam đầu tư, bởi vì lòng tham của con người thì không đáy. Không thì muốn cho có. Có ít thì muốn cho có nhiều. Có nhiều thì muốn có nhiều hơn nữa. Chẳng biết đàng nào mà mò. Đầu tư vào công chuyện nghiêm chỉnh chưa chắc đã ăn ai, lại còn đầu tư vào những chuyện lem nhem mờ ám khiến cho tiền mất tật mang, thân bại danh liệt. Đô la vàng bạc thì bị ông nhà nước tịch thu, còn bản thân thì bị chiếu cố ngồi tù. Chẳng cái dại nào bằng cái dại này. Nếu hai chữ “mua tiên” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, là mua lấy những phương tiện để hưởng thụ, thì quả là bao la, khó mà xác định cho được, có viết mãi viết hoài cũng chẳng bao giờ hết. Kinh nghiệm đời thường cho thấy tiền bạc có thể mua được nhiều thứ, nhưng cũng có nhiều thứ tiền bạc chẳng thể nào mua được. Bởi đó, H. Ibsen đã viết như sau: - Tiền bạc có thể cho ta lớp vỏ bên ngoài của thân xác, chứ không thể cho ta thực chất bên trong của tâm hồn. Tiền bạc có thể mua cho ta nhiều đồ ăn, nhưng không thể mua cho ta sự ngon miệng. Tiền bạc có thể đem lại cho ta nhiều quen biết, nhưng không thể đem lại cho ta tình thân. Tiền bạc có thể mướn cho ta nhiều kẻ hầu hạ, nhưng không thể mướn cho ta những người trung thành. Tiền bạc có thể tạo nên cho ta nhiều cuộc vui, nhưng không thể tạo nên cho ta hạnh phúc. Chính vì thế mà trên cõi đời này, không phải chỉ kẻ nghèo mới khổ và mới khóc, bởi vì không thiếu những người giàu cũng khổ và cũng khóc. Thực vậy, Paul Getty là chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh quốc. Cơ sở của ông rộng trên bốn mươi mẫu tây. Mỗi năm thu nhập hàng tỷ mỹ kim. Thế nhưng, ông phải làm việc rất vất vả và cực nhọc từ ba giờ sáng tới tận khuya. Chung quanh ông có đến mười thám tử hộ vệ, bởi vì ông thường xuyên nhận được những bức thư tống tiền và hăm dọa. Ông than: - Tôi là người chẳng bao giờ biết hạnh phúc là gì cả. Và cay đắng hơn nữa là khi giờ chết đến, chúng ta chẳng mang được tiền bạc đã chắt chiu kiếm tìm sang thế giới bên kia để mà hưởng dùng, đúng như tục ngữ đã bảo: - Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, Chết xuống âm phủ, chẳng mang được gì. Tiền bạc ấy sẽ bị chia năm xẻ bảy cho con cho cháu, lắm khi chúng ta chưa chết mà chúng nó đã cãi nhau chí chóe và hạch sách nhau về chúc thư chúc thiếc. Tiền bạc ấy có khi lại rơi vào tay nhà nước hay những kẻ xa lạ. Quả là: - Dạ tràng xe cát bể Đông, Nhọc nhằn mà chẳng nên công cái gì. Ở bên Mỹ có một bà lão ăn mày. Bà ta quanh năm vất vả rảo qua các lối ngõ để ăn xin. Không kể chi tiết đông giá lạnh, bà ta chỉ mặc phong phanh một manh áo rách, vá trên vá dưới, vá chằng vá đụp. Bà van xin thảm thiết, kể lể cảnh túng cực của mình. Người thương tình bố thí, kẻ quen mặt xua đuổi, nhưng bà vẫn kiên tâm. Tối đến, bà trở về túp lều gỗ che bằng những thùng giấy. Bà chỉ ăn những mẩu bánh thừa người ta bố thí cho. Khi đau yếu, bà cũng chẳng dám uống thuốc. Vì sống quá kham khổ như vậy, bà ngã bệnh và chết. Nhà chức trách thuộc sở vệ sinh được tin liền tới nơi. Chui vào căn lều nhỏ, người ta thấy bà ta nằm chết cứng đơ, nhưng tay vẫn chỉ vào góc nhà. Theo hướng tay của bà, người ta đào bới góc nhà ấy và đã tìm thấy một cái hộp, trong đó đựng 127.000 đô la, tính ra gần hai tỷ đồng Việt Nam bây giờ. Thật là một món tiền khổng lồ những lại vô ích cho chủ nó. Để kết luận, gã xin mượn tạm nơi đây một tư tưởng thật độc đáo, mà gã cũng chẳng rõ xuất xứ từ đâu: - Tiền có thể mua được một ngôi nhà, nhưng không mua được một mái ấm. Tiền có thể mua được một cái giường êm ấm, nhưng không mua được một giấc ngủ ngon lành. Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian. Tiền có thể mua được một cuốn sách, nhưng không mua được kiến thức. Tiền có thể mua được một địa vị, nhưng không mua được lòng trọng kính. Tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sức khỏe. Tiền có thể mua được mua được máu, nhưng không mua được sự sống. Tiền có thể mua được tình dục, nhưng không mua được tình yêu. Bạn thấy đấy, tiền bạc chẳng phải là tất cả. Nó không những vô nghĩa mà còn mang lại cho con người đủ loại thống khổ. Gã nói với bạn tất cả những điều này, bởi vì gã là bạn của bạn. Và vì là bạn của bạn, gã muốn mang lấy nỗi đớn đau và thống khổ của bạn. Vì thế, bạn hãy gửi hết tiền của bạn cho gã và gã sẽ gánh chịu nỗi khổ đau thay cho bạn. Bạn sẽ không bao giờ tìm được một người bạn nào đúng nghĩa hơn gã. Tái bút: phải tiền mặt đấy. Gã Siêu.
Ai cũng phải công nhận rằng: xã hội ảnh hưởng đến con người và ngược lại con người cũng ảnh GãSiêu 76
Ai cũng phải công nhận rằng: xã hội ảnh hưởng đến con người và ngược lại con người cũng ảnh hưởng đến xã hội. Chẳng hạn sống trong một xã hội khép kín, nghèo túng và nhất là sống trong một xã hội được cai trị bằng công an và sức mạnh, con người vì nhu cầu sống còn, cần phải luồn lách và lươn lẹo. Miết rồi sự luồn lách và lươn lẹo được coi như chuẩn mực để đánh giá. Càng giỏi lươn lẹo và luồn lách thì càng được coi là khôn ngoan. Còn dốt luơn lẹo và luồn lách thì bị coi là dại khờ. Người ta phe lờ những giá trị đạo đức, người ta sẵn sàng chà đạp lên những nguyên tắc công bằng miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham mà không bị nhà nước sờ vào gáy. Nhìn vào xã hội Việt Nam hôm nay, nhiều người đã phải than vắn thở dài rằng luân thường đạo lý đang xuống dốc không phanh. Xó góc nào cũng chỉ thấy gian tham và lường gạt, tham nhũng và hối lộ. Mấy bữa nay thiên hạ đang bàn tán xôn xao về việc một tiểu bang bên Mỹ đã trục xuất hai tấm bia ghi khắc mười điều răn Đức Chúa Trời ra khỏi tòa nhà tối cao pháp viện, để đi tới chỗ khác mà ngồi chơi xơi nước. Cũng vậy nhiều người Việt Nam hôm nay cũng chẳng còn lưu giữ được một ý niệm nào về giới răn thứ bảy: chớ lấy của người, bởi vì người ta chủ trương rằng xơi được bao nhiêu hay bấy nhiêu, xơi càng nhiều thì lại càng tốt, nhất là xơi của chùa, tức là của nhà nước. Để tôn trọng đức công bằng, một trong những điều giới răn thứ bảy đã cấm chỉ, đó là chớ lấy của người. Về việc lấy của người, thì gã xin tóm gọn lại thành mấy thứ “ăn” mang tính cách bất hợp pháp và có nhiều cơ may được nằm tù, chẳng hạn như: ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian, ăn lời, ăn hối lộ…Gã thử phân tích những thứ ăn này xem chúng ra làm sao. Trước hết ăn trộm và ăn cắp là lấy của người ta một cách kín đáo bằng tài khéo của mình. Tuy nhiên ăn trộm thường nhấn mạnh đến khía cạnh chủ đi vắng hay là ngủ mê mà không biết, chẳng hạn như ban đêm lẻn vào nhà người ta chôm chỉa đồ đạc và tiền bạc, con gà và con heo…Còn ăn cắp thì thường được thực hiện ngay trước mắt chủ mà chủ cũng không hay, chẳng hạn như lợi dụng lúc chen lấn trên xe mà lấy cắp chiếc ví hay rạch túi xách mà lấy tiền bạc và quần áo của người ta. Tiếp đến ăn cướp là dùng vũ lực, dùng sức mạnh để uy hiếp hầu cưỡng đoạt và chiếm lấy của người ta một cách công khai. Chẳng hạn như ban tối trên một đoạn đường vắng, bọn đạo tặc dùng dao chặn đường và lấy mất của gã chiếc đồng hồ, hay ban đêm chúng xông vào nhà lấy đi tiền bạc và những đồ dùng quí giá. Sau cùng, ăn gian là dùng mưu mô tính toán để lường gạt hầu lấy đi của người ta. Chẳng hạn như buôn bán mà cân đo không sòng phẳng. Cân thì cân thiếu, đo thì thước hụt để ăn bớt, ăn chặn của khách hàng, hay đánh tráo đồ xấu, đồ giả, đồ dổm để bán cho mắc, hay như đày tớ bớt xén tiền chợ, con cái dối gạt cha mẹ để lấy tiền xài chơi… Bàn về những hành động sai lỗi đức công bằng, gã thấy người Tàu cũng đưa ra một quan niệm tương tự như thế, họ có hai chữ để diễn tả hành động này đó là đạo tặc, trộm cướp. Đạo là ăn trộm ăn cắp, lấy của người ta một cách lén lút, chẳng hạn như đạo văn là “thuổng” câu văn của người khác làm của mình, hay “bê nguyên xi” câu văn của họ vào tác phẩm của mình mà không ghi rõ tác giả và xuất xứ của nó, theo kiểu đánh lận con đen. Viết tới đây, gã cảm thấy hơi bực bội và tức tối, bởi vì mỗi năm vào dịp khai giảng năm học mới, mấy ông cán bộ ngành giáo dục thường cả tiếng lại dài hơi, oang oang trên loa phóng thanh lời bác Hồ dạy: - Kế trăm năm không gì bằng trồng người. Thế nhưng, câu nói trên đâu có phải chính hiệu con nai vàng là của bác Hồ, mà bác Hồ cũng chỉ mượn tạm ý tưởng của người xưa, bởi vì chính người xưa đã từng nói: - Nhất niên chi kế, thụ cốc. Thập niên chi kế, thụ mộc. Bách niên chi kết, thụ nhân. Có nghĩa là: - Kế một năm không gì bằng trồng lúa. Kế mười năm không gì bằng trồng cây. Kế trăm năm không gì bằng trồng người. Chẳng thế mà ngày xưa Viện Đại Học Công Giáo tại Đalat đã lấy cho mình cái nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi là: Thụ nhân, trồng người. Còn tặc là ăn cướp, tức là dùng sức mạnh, dùng bạo lực để lấy của người ta. Hôm nay, gã xin bàn rộng và tán dài thêm một tí về cái chữ “tặc” này. Thứ nhất là lâm tặc. Lâm tặc có nghĩa là bọn cướp rừng. Đây không phải là hạng “lục lâm thảo khấu”, tức là bọn cướp ẩn náu ở trong rừng, chờ cơ hội xuất phát để cướp bóc những người qua lại hay những thôn làng mà chúng nhắm tới. Hoạt động chính yếu của bọn lâm tặc là đốn cây, phá rừng để lấy gỗ, bất chấp phép tắc của nhà nước. Họ thường tổ chức thành băng đảng, được trang bị bằng xe cộ để chở gỗ, cũng như bằng vũ khí để chống lại những nhân viên kiểm lâm, những người có trách nhiệm kiểm soát rừng. Họ tung tiền mua đứt những nhân viên này và sẵn sàng liều mạng khi phải vượt qua trạm kiểm soát, miễn sao đưa gỗ về thành phố an toàn để bán cho những tiệm mộc hay những nhà máy cưa. Hoạt động của bọn lâm tặc đã để lại những hậu quả trầm trọng và dấu ấn tàn phá của họ đã in đậm trên khắp các vùng đồi núi. Thực vậy, rất nhiều lần có dịp đi ngang dọc những nẻo đường đất nước, tới đâu gã cũng thấy những khoảng đồi trọc với cây cối xác xơ, thậm chí đến cả những gốc cây cũng được chiếu cố tận tình, bị đào bới tới tận rễ con và rễ cái. Bọn lâm tặc càng lộng hành hơn nữa, vì những sếp lớn, một khi đã xơi tiền hối lộ, thì cũng phải ra sức bao che. Thành thử những cố gắng trồng rừng trong những năm qua đã không thể theo kịp với mức độ phá rừng của bọn lâm tặc. Và qui luật của muôn đời đã được áp dụng: nếu con người tàn phá thiên nhiên, thì thiên nhiên cũng sẽ quay lại mà tàn phá con người. Kết quả là môi trường sinh thái bị hủy diệt, khí hậu thay đổi thất thường và nhất là khi mưa bão xảy đến, không còn cây cối cản bớt dòng nước đổ xuống, đã liên tục tạo thành những cơn lũ khủng khiếp cuốn trôi nhà cửa, tài sản của nhiều người, ngay cả tính mạng cũng không được bảo đảm an toàn. Ăn theo với nạn phá rừng là nạn săn bắn trái phép. Mặc dù đã có lệnh cấm, nhưng thiên hạ vẫn vô rừng đặt bẫy và vô tư vây bắt những con thú quí hiếm. Chẳng thế mà thành phố nào cũng không thiếu những quầy bán thịt rừng, những quán ăn và những nhà hàng đặc sản, từ hươu nai đến trăn rắn…không thứ gì mà không có, miễn là trong túi rủng rỉnh những đồng tiền. Thiên hạ đã lên tiếng báo động rằng có những loài thú sẽ bị tuyệt chủng, nếu không được bảo vệ và duy trì…Thế nhưng, báo động thì cứ báo động, bởi vì đó là bổn phận của giới hữu trách. Còn ta, có tiền thì ta vẫn cứ chịu khó lùng sục, ngon miệng thì ta vẫn cứ quẳng tiền ra mà xơi. Chết chóc mặc ai, tiền thày bỏ túi. Suy cho cùng thì mọi sự đều phục vụ cho cái bao tử của con người mà chớ. Thứ hai là hải tặc. Hải tặc còn được gọi là hải khấu, hải phỉ, có nghĩa là bọn cướp biển. Chúng cũng kết thành băng đảng, sống trên đất liền hay ẩn náu tại những hoang đảo, được trang bị bằng tàu thuyền và vũ khí để cướp bóc những tàu thuyền đi lại ngoài biển, hay những xóm nhà gần bờ biển. Là người Việt Nam, hẳn ai cũng đã từng hơn một lần được nghe nói về những hoạt động của bọn hải tặc, nhất là vào thời điểm nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do, đã tạo thành một phong trào khiến cho cả thế giới phải chú ý đến và trợ giúp, đó là phong trào vượt biên. Làm sao mô tả cho hết những hiểm nguy và cay đắng mà những người Việt Nam đã phải chịu đựng trên những con thuyền nhỏ bé, tròng trành như chiếc vỏ trứng. Giông bão đã nhận chìm và chôn vùi biết bao nhiêu người dưới lòng đại dương. Nhưng tàn ác hơn cả có lẽ phải kể đến nạn hải tặc. Những bọn hải tặc này gồm nhiều quốc tịch khác nhau, có thể là người Thái, người Miên, người Mã, hay người Indô…Chúng tấn công ghe thuyền của đồng bào tị nạn, sẵn sàng giết chết những ai chống đối để lấy tiền của cũng như vàng bạc. Có những bọn đã nổ súng vào cánh đàn ông con trai, còn phe đàn bà con gái thì bị chúng hãm hiếp và mang đi bán cho những nhà chứa. Thậm chí có những bọn sau khi cướp của và thực hiện những hành động dã man nhất, đã bắn chìm ghe thuyền để không một ai được sống sót. Thế giới cũng đã bức xúc trước nạn hải tặc, nên đã tổ chức những toán tuần tiễu trên biển bằng tàu thủy cũng như trên không bằng tàu bay để phát hiện và ngăn chặn phần nào những hành động của bọn hải tặc. Mới đây một người mẹ đã tâm sự với gã: con gái bà vượt biên đã mười mấy năm rồi mà chẳng có tin tức gì cả. Chuyến đi định mệnh này chẳng may gặp phải hải tặc. Phe đàn ông thì bị giết. Còn phe đàn bà thì bị chúng bắt đi. Chỉ duy nhất một người còn sống sót, đó là người đàn bà đang mang bầu. Bọn cướp chắc sợ xui nên đã để bà lại trên con thuyền vượt biên. Sau mấy ngày đơn độc một mình vật lộn với sóng biển trong con thuyền rách nát, cuối cùng bà đã được một tàu Mỹ cứu thoát. Chính người đàn bà này đã cho người mẹ hay con bà đã bị bọn hải tặc bắt đi. Người mẹ đã cầu nguyện cũng như đã…coi bói. Và cho đến bây giờ, người mẹ đau khổ ấy vẫn tin tưởng chắc chắn rằng con gái mình vẫn còn sống. Rất có thể bọn hải tặc đã ném cô và những người cùng cảnh ngộ vào một hoang đảo nào đó, nên không liên lạc được với gia đình. Và người mẹ vẫn cứ tiếp tục hy vọng. Thứ ba là không tặc. Không tặc có nghĩa là bọn cướp trên không trung, hay nói một cách cụ thể hơn là bọn cướp máy bay. Điểm đặc biệt của bọn không tặc là gọn nhẹ, bởi vì có gọn nhẹ thì mới qua mắt được công an hải quan và các nhân viên phi trường. Chúng thường gồm một, hai, hay ba người là cùng. Vũ khí trang bị chỉ là một khẩu súng hay một trái lựu đạn. Hành động của chúng thường nhằm tới hai mục đích. Trước hết là mục đích tài chánh bạc tiền: chúng uy hiếp hành khách, lấy đi tiền bạc, nữ trang và những đồ quí giá của họ. Nhất là chúng đòi hãng máy bay hay chính phủ liên hệ phải trả cho chúng một số tiền chuộc khá lớn, nếu muốn cho tính mạng của những hành khách mà chúng bắt giữ làm con tin được an toàn. Tiếp đến là mục đích chính chị chính em: chúng cầm giữ con tin và yêu cầu chính phủ liên hệ phải thả một số người cùng đảng phái, cùng phe cánh với chúng đang bị bắt làm tù binh, bằng không thì họ sẽ giết chết các con tin, tức là những hành khách trên máy bay. Qua truyền hình, gã thấy có những vụ không tặc trong đó con tin được giải thoát một cách nhanh gọn bởi những toán biệt khích, thế nhưng cũng có những vụ không tặc đã kết thúc một cách thương đau: con tin thì bị giết, còn máy bay thì bị nổ tung. Thành thử những người yếu bóng vía cũng ngại đi máy bay phần nào!!! Như trên gã đã xác quyết: tặc có nghĩa là cướp. Mà đã cướp thì thường phải dùng đến sức mạnh, đến bạo lực. Đó là luật chung, nhưng luật chung nào mà chẳng có luật trừ. Vì thế, gã xin trình bày hai loại tặc mà trong đó người ta ít dùng tới sức mạnh và bạo lực. Trước hết, đó là tin tặc. Từ khi máy vi tính được phổ biến khắp nơi, thì lập tức qua báo chí cũng như qua truyền thanh và truyền hình, gã thấy xuất hiện những bọn tin tặc. Vì không chuyên môn, nên gã khó có thể đưa ra một định nghĩa thế nào là tin tặc. Tuy nhiên, sau khi đã tham khảo ý kiến của một vài vị lão luyện trong nghề, gã xin kể ra một vài hoạt động mà bọn tin tặc đã thực hiện đó đây trên khắp cả và thế giới. Trước hết, bằng những mánh khóe nhà nghề, bọn tin tặc ăn cắp số tài khoản để rồi rút tiền thiên hạ gửi tại ngân hàng mà xài chơi. Thực vậy, tại các nước văn minh hiện nay, người ta lai rai đặt những máy rút tiền ở chỗ này chỗ nọ. Khi cần tiền, khách hàng không phải tới ngân hàng, mà chỉ phải tới bên chiếc máy, bấm số tài khoản và thế là tiền cứ từ từ…chui ra. Với hành động này, bọn tin tặc khỏe re, chẳng phải lao động cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mà tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh. Tiếp đến, cũng bằng những mánh khóe nhà nghề, bọn tin tặc ăn cắp mật khẩu để rồi truy nhập internet “chùa” mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào cả. Cách đây không lâu, bản thân gã đã bị bọn này xơi tái như vậy. Số là vào một buổi sáng đẹp trời gã đang ngồi làm việc thì có điện thoại báo cho biết: - Trong tháng vừa qua có những số điện thoại lạ, dùng mật khẩu của ông để truy nhập. Vậy ông hãy rà soát lại xem những số điện thoại ấy có phải là của ông hay không ? Sau đó, gã cũng nhận được một cái “meo” với cùng một nội dung như thế. Truy tìm thủ phạm, thì gặp được năm số điện thoại xuất phát từ Hà Nội, hằng đêm mượn đỡ mật khẩu của gã mà chui vào “internet”. Tổng đài chỉ dẫn cho gã một số việc cần phải làm ngay như sau: - Một là phải quét “virus”, hai là phải thay đổi mật khẩu, ba là giới hạn số điện thoại truy nhập nếu không phải là dân áp phe, áp chảo, luôn đi đây đi đó. Bốn là có thể làm đơn khiếu nại. Tháng đó gã tốn thêm gần một trăm đô la, trả cho những lần truy nhập chui của bọn tin tặc “ác ôn côn đồ” này. Làm đơn khiếu nại, thì được bưu điện nhận đơn và trả lời: - Hãy đợi đấy, chừng nào ngoài Hà Nội thu hồi được số tiền trên thì sẽ hoàn trả lại cho ông. Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay đã gần hai năm rồi mà bưu điện vẫn cứ êm ru bà rù. Nếu hỏi tới thì lần nào cũng nhận được một câu trả lời như nhau: - Chưa thấy ngoài ấy nói gì. Hãy đợi đấy thêm một thời gian nữa. Đúng là : - Con kiến mà kiện củ khoai, Nhọc nhằn chẳng được một ai đoái hoài. Thôi thì mặc cho bọn chúng được đời này. Một trăm đô có là bao. Chỉ là chuyện nhỏ thôi mà. Hơn thế nữa, bọn tin tặc còn “ngâm kíu” và tìm cách tung “virus” vào để phá những mạng lưới của những đại gia như Microsoft…để làm giảm uy tín của những đại gia này. Thế nhưng, chẳng hiểu những đại gia này có hề hấn sứt mẻ gì không, chứ riêng người tiêu dùng, nếu chẳng may bị sao quả tạ chiếu tướng, máng vào những thứ “virus” ấy là lãnh thẹo, lại phải thêm một phen sất bất xang bang, tìm thày chạy chữa cho máy được hoạt động bình thường và cho những tài liệu mình chắt chiu viết ra hay tốn công thâu lượm không bị bay hơi theo mây khói. Ngoài ra, chúng còn thả “virus” vào để làm tê liệt các máy vi tính, sau đó tung ra thị trường những phần mềm để diệt “virus” ấy. Và thế là chúng cứ việc ung dung ngồi nhà mà hốt bạc của thiên hạ. Tuy nhiên, chúng khó mà lấy được đồng tiền của dân Việt Nam, bởi vì nạn sao chép lung tung rất thịnh hành ở đất nước này. Coi tác quyền như pha. Chẳng thế mà khi đại gia Microsoft chưa chính thức tung ra thị trường chương trình XP, thì tại Việt Nam đã thấy xuất hiện ê hề, thiên hạ mặc sức sử dụng, mà chẳng tốn kém bao nhiêu. Cũng vì những con “virus” có thể làm tê liệt các máy vi tính, nên trong vụ mất điện vừa qua ở một số tiểu bang vùng đông bắc nước Mỹ, người ta đưa ra giả thuyết cho rằng bọn khủng bố tấn công vào các máy tính điều hành, khiến cho lưới điện không còn hoạt động được nữa. Nếu như một ngày nào đó, bọn tin tặc làm tê liệt toàn bộ các máy tính trên thế giới, thì nhân loại chắc chắn sẽ điên cái đầu mất thôi. Khởi đầu thì máy móc lệ thuộc vào con người, nhưng rồi sẽ tới lúc người lệ thuộc vào máy móc!!! Hơn thế nữa bọn tin tặc, giống như những tình báo, những điệp viên kiểu 007, đột nhập vào những mạng lưới quan trọng, chẳng hạn bộ Quốc phòng, bộ Kinh tế, dinh Tổng thống, phòng thí nghiệm hay các xí nghiệp để ăn cắp những thông tin về quân sự và kinh tế…Sau đó, chúng bán những thông tin quí giá và tối mật này để kiếm lời, nhưng lại gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho nền an ninh và phát triển của quốc gia. Sau cùng là tình tặc. Tình tặc là ăn cướp tình yêu. Tình tặc thường chỉ có một người và không mấy khi dùng tới sức mạnh và bạo lực. Thực vậy, ngày hôm nay người ta đang sống trong thời đại văn minh vi tính, đâu còn cái cảnh chặn đường bắt cóc cô dâu đem về nhà mình, bất kể cô dâu ấy có yêu thương mình hay không miễn sao mình thương yêu cô ấy là đủ rồi. Ngày hôm nay người ta đang sống trong thời đại “tự do luyến ái”, chuyện ăn cơm trước kẻng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện, lắm lúc chưa lấy nhau mà “con ong đã tỏ đường đi lối về”, đâu còn cái cảnh tới ngày cưới mà chú rể vẫn chưa biết mặt cô dâu, vì đạo nghĩa các cụ đã dạy “nam nữ thọ thọ bất tương thân”, để rồi nhà gái đánh tráo cô chị làm cô em mà anh dũng tiến lên làm vợ cho chú rể. Không dùng bạo lực và sức mạnh đã đành, mà hơn thế nữa, những đòn phép của tên tình tặc nhiều lúc lại còn ngọt ngào và quyến rũ. Chẳng hạn chàng và nàng ngồi “chat” với nhau trên mạng. Lúc đầu chỉ là trò chuyện bâng quơ, nhưng rồi dần dần chàng vẽ nên những hình ảnh tuyệt vời về mình nào là đẹp giai, học giỏi, con nhà giàu, kèm theo một tương lai tươi sáng đang chờ đón…khiến cho nàng mê tít thò lò. Và thế là cá đã cắn câu, họ hẹn gặp nhau, rồi yêu nhau và tiến tới hôn nhân, vì mục đích của chàng là phải làm thế nào chớp được cái tình của nàng. Khi đã lấy nhau, thì bộ mặt thật của chàng mới tỏ lộ. Rõ ràng là một tên lừa đảo. Bản thân của chàng chỉ là hạng khố rách áo ôm. Lúc bấy giờ nàng mới mở mắt ra, hối hận thì cũng đã quá muộn mất rồi. Chẳng hạn trước những lời hứa hẹn đầy hấp dẫn, nhiều cô gái Việt Nam đã ôm mộng lấy chồng nước ngoài, theo kiểu “tấp tểnh người đi tớ cũng đi”. Người chồng nước ngoài ấy có thể là một ông Đài Loan, một ông Đại Hàn, hay một ông Việt kiều nào đó…Nhưng rồi đời không như là mơ, nên đời thường giết chết mộng mơ. Đối mặt với sự thật phũ phàng, nhiều cô đã phải cay đắng chấp nhận thực tế bẽ bàng, bởi vì trót đâm lao thì phải theo lao mà thôi. Những cô gái mộng vỡ đáng thương ấy đâu có ngờ mình đã bị ăn trộm tình yêu lúc nào cũng chẳng hay. Để kết thúc, gã xin ghi lại nơi đây mẩu tin đã được đăng trên báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh, số 1149, ra ngày thứ ba 10.6.2003, về một tên đã thực hiện 14 vụ “trộm tình” như sau: Hắn tên là Trương Minh Hoàng, sinh năm 1983, ở Hợp Tác Xã kinh 7A, xã Thạnh Đông A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, đã thực hiện 14 vụ trộm tình đối với các phụ nữ địa phương. Thủ đoạn của tên Hoàng là lợi dụng lúc đêm khuya, nhà nào có phụ nữ, nhưng ngủ không đóng cửa là y lẻn vào. Khi vào nhà, tên Hoàng xem người phụ nữ đó đang nằm ngủ với ai, rồi đến tắt hết đèn trong nhà. Sau đó tên trộm chui vào mùng của người phụ nữ, rón rén đến nằm gần họ và làm những việc mà người chồng thường làm với bà vợ trong lúc chăn gối. Chính vì vậy, tên trộm chỉ thực hiện “trộm tình” đối với các phụ nữ đã có chồng. Một số trường hợp người vợ trong lúc ngủ say nghĩ kẻ trộm là chồng mình nên cứ để hắn ta mặc tình. Đến lần “trộm” thứ 14 đối với chị P.T.L. thì tên Hoàng mới bị phát hiện và bị bắt giữ. Hôm đó, hắn vào nhà chị L. lúc ấy đã hơn một giờ sáng. Chị L cùng ngủ với hai con, chồng chị ngủ riêng trong buồng. Tên Hoàng đã giở trò “yêu” chị L. và trong lúc hắn đang ngây ngất thì bất ngờ bị chị L. phát hiện ra là không phải chồng mình, liền nắm tóc hắn và kêu cứu với chồng con. Tên Hoàng nhanh chân bỏ chạy, nhưng những người hàng xóm nghe tiếng kêu cứu của gia đình chị L. đã vây bắt được hắn. Ngày 29.5 Tòa Án Nhân Dân tỉnh đã truyền phạt bị cáo Trương Minh Hoàng 10 năm tù giam về tội trạng này. Hẳn là trên cõi đời này còn nhiều thứ tặc khác nữa, rất mong được quí vị chỉ giáo. Gã Siêu.
Ngày nay, mỗi khi nói tới hai chữ “thất tình”, gã liền nghĩ ngay đến khuôn mặt buồn so của GãSiêu 77
Ngày nay, mỗi khi nói tới hai chữ “thất tình”, gã liền nghĩ ngay đến khuôn mặt buồn so của một anh chàng đã đánh mất tình yêu, không còn được thương nữa, hay nói một cách khác anh chàng ấy đang “đứng ngẩn trông vời” tình yêu chấp cánh bay đi mất tiêu…Thành thử cứ phải kéo lê những bước chân âm thầm và thinh lặng gậm nhấm nỗi cô đơn héo hắt của mình. Thế nhưng, ngày xưa hai chữ “thất tình” còn có một ý nghĩa khác nữa, đó là bảy giai điệu tình cảm luôn rung lên phừng phực trong “lái tim” con người, hay bảy thứ tình cảm luôn chiếm ngự cõi lòng chúng ta. Bảy giai điệu ấy là: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Có nghĩa là mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét và muốn. Bảy thứ tình cảm này luôn tả đột hữu xung và làm cho chúng ta nhiều cơn xính vính, Vì thế Nguyễn Gia Thiều trong “Cung Oán Ngâm Khúc” đã muốn tẩy trừ tận gốc rễ: - Mối thất tình quyết dứt cho xong. Trong bảy thứ tình cảm này, theo thiển ý của gã, thì yêu là hoạt động quan trọng nhất, chi phối toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Chả thế mà các cụ ta đã từng nói: - Cái tình là cái chi chi, Dù chi chi, cũng chi chi với tình. - Tương tư không biết nói làm sao, Muốn vẽ mà chơi, vẽ thế nào, Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện, Lúc say, lúc tỉnh lúc chiêm bao… Như vậy, cái tình lúc nào nó cũng canh cánh bên lòng và chữ yêu lúc nào cũng bàng bạc ở mọi nơi và trong mọi lúc, có khác nhau là khác ở nồng độ đậm nhạt mà thôi. Vậy phải yêu những gì ? Gã xin thưa đối tượng của tình yêu quả thực là hầm bà lằng, thôi thì thượng vàng hạ cám, đủ mọi thứ, chẳng thiếu thứ chi. Trước hết là yêu mình, tiếp đến là yêu người, rồi tới yêu đời và những thứ lỉnh kỉnh khác nữa, như yêu tiền, yêu quyền, vân vân và vân vân. Hôm nay, gã chỉ xin bàn đến cái phạm trù thứ nhất, đó là yêu mình. Nếu diễn tả hành động yêu mình bằng chữ nho, thì phải dùng hai chữ…“tự ái”. Theo “Hán Việt Tân Từ Điển” của Nguyễn Quốc Hùng, thì tự ái có nghĩa là lòng yêu chính mình, cho mình là hay là tốt. Còn theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì tự ái có nghĩa là thương mình, quá nghĩ về mình rồi sanh hờn mát mỗi khi bị đụng chạm đến. Trong thực tế, người bình dân thường hiểu tự ái là đùng đùng nổi giận khi bị…chạm nọc, chứ không phải chỉ là hờn mát mà thôi đâu. Nếu phân tích kỹ lưỡng hơn, gã thấy yêu mình chính là một bản năng thông thường mà Thượng đế đã phú ban cho con người ta. Ai mà lại chẳng yêu mình. Nào có ai nỡ ghét mình bao giờ đâu. Họa chăng chỉ có những vị thánh sống, đường nhân đức cao vòi vọi, thì mới cảm thấy mình thật vô duyên tệ, để rồi…ghét mình mà thôi. Còn hầu như tất tật bàn dân thiên hạ đều…yêu mình tuốt luốt hết. Một khi đã yêu mình, thì đều muốn vơ vét về cho mình những cái hay, những cái tốt, những cái lợi…Và hễ kẻ nào đụng chạm đến, thì lập tức lòng tự ái hay thói yêu mình nổi lên đùng đùng, cùng với cơn giận phừng phừng, kèm theo những phản ứng khó mà lường nổi, cốt ý dạy cho những kẻ “hỗn láo” kia một bài học. Vì tự ái, vì yêu mình, nên chúng ta không thể bỏ qua một sự khinh bỉ nào của kẻ khác. Và hơn thế nữa, khi lòng tự ái đã bị sỉ nhục, thì người ta khó có thể tha thứ. Lòng tự ái và thói yêu mình theo chúng ta như hình với bóng và cùng đi với chúng ta trong suốt cả cuộc đời, như danh ngôn đông tây đã xác quyết: “Càng thêm tuổi, các đam mê càng lụi tàn, nhưng lòng tự ái thì khác, nó sẽ chẳng bao giờ chết.” “Người ta chỉ có thể làm tổn thương lòng tự ái, chứ không giết chết được nó.” “Lòng tự ái là một con thú kỳ dị, nó có thể ngủ yên trong cơ thể của những kẻ tàn bạo nhất, nhưng một khi đã thức tỉnh dậy, nó sẽ đả thương cho đến chết chỉ vì một trầy trụa nho nhỏ.” Tuy nhiên, ở một mức độ trung bình và vừa phải thì tự ái chính là ổ khóa của trái tim, đóng lại và không cho phép mình làm những điều xằng bậy, bởi vì chính mình cũng phải tự trọng, nghĩa là phải biết tôn trọng chính mình, cũng như phải biết bảo vệ danh dự của mình. Trong khi đó, sự nịnh bợ là như một chiếc chìa để mở tung ổ khóa này và sự tâng bốc là như một thứ thuốc nổ phá tan rào cản này. Thực vậy, nếu không còn tự ái, người ta sẽ trở nên một thứ mặt mo, mặt thớt hay một thứ mặt dày mày dạn, trơ trơ như đá, không còn nhạy cảm trước những lời phê bình hay góp ý, để rồi mặc sức lặn ngụp trong bùn nhơ tội lỗi, sẵn sàng làm những hành động tồi tệ nhất, mà chẳng cảm thấy một chút hổ thẹn hay áy náy gì sốt. Thế nhưng, để được gọi là một nhân đức, bao giờ cũng phải ở vào cái thế trung dung, bởi vì thái quá thì bất cập, phàm cái gì quá đà, đều gây nên những bất ổn. Biết tự trọng và bảo vệ danh dự của mình, đó là điều tốt. Tuy nhiên, vì “tự ái hão” mà bảo vệ cái “danh dự ảo”, cái danh dự mình tưởng là có, nhưng thực sự lại chẳng có, hay vì “tự ái vặt”, bởi những lý do nhỏ mọn không đâu, cũng đùng đùng nổi giận, la hét, quát tháo, đánh đập người ta, thì rất rất cần phải xét lại. Đời vua Trang Công nước Tề, có một chàng tên là Tân Ti Tụ, đêm nằm mơ thấy một người to lớn mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới, đeo thanh gươm, tự dưng vào tận nhà mắng mỏ, rồi nhổ vào mặt. Chàng ta giật mình sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao, nhưng chàng ta vẫn tức, rồi suốt đêm lấy làm bực dọc khó chịu lắm. Sáng hôm sau, chàng ta mời một người bạn thân đến và nói rằng: - Bác ơi ! Từ thuở bé đến giờ, tôi vẫn là người thích dùng sức mạnh, tới nay đã sáu mươi tuổi, chưa hề bị đứa nào làm cho mất mặt bao giờ. Thế mà đêm hôm qua phải một đứa nó làm nhục. Tôi định tìm kỳ được đứa ấy để báo thù mới thỏa. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, còn nếu không tìm thấy thì tôi chết mất. Rồi từ hôm đó cứ sáng nào chàng ta cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình đã ba ngày mà không thấy đâu, chàng ta về nhà uất lên mà chết. Bình luận về câu chuyện trên, tác giả viết như sau: “Xem chuyện này không cho là phải được, vì tức ai, chứ tức một người gặp trong lúc chiêm bao mơ ngủ, là tức hão huyền, tức cái không đáng tức. Nhưng tựu trung, câu chuyện lại có một điều thật rất đáng khâm phục là chính thâm ý câu chuyện muốn nâng cao cái lòng biết nhục, biết lấy liêm sỉ làm trọng. Ôi ! trong giấc ngủ mơ màng, bị người làm nhục, còn không chịu được, thì trong khi thật tỉnh táo rõ ràng mà bị làm nhục, thì đáng như thế nào ? Thế mà lạ thay, ở đời có lắm kẻ hoặc ham mê danh lợi, hoặc quen thói tôi đòi, chôn hết cả liêm sỉ, chịu hết mọi nỗi nhục nhằn đè nén, không bút nào tả cho xiết được mà vẫn hớn hở như không. Đối với những hạng không biết nhục, Tân Ti Tụ thực đáng là một cái gương soi sáng sâu vào đến tâm não họ vậy.” Đúng như một kinh nghiệm sống…sượng mà người đời thường diễn tả: - Thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt, Len lỏi, lợi lộc, lại lên lương. Hay: - Lươn lẹo, luồn lách, lắm lợi lộc. Nhưng hơn thế nữa, vì tự ái, cho dù là chính đáng, để rồi từ đó có những hành động, có những phản ứng quá mạnh, làm tổn thương và gây thiệt hại cho kẻ “lỡ” xúc phạm đến chúng ta, thì e rằng chúng ta cần phải “xì tốp” lại, kẻo mà: - Chửa đánh được người, mặt đỏ như vang, Đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ. - Chửa đánh được người, mày xanh, mắt tía, Đánh được người rồi, hồn vía lên mây. Qua những hành vi bạo động kiểu này, ắt hẳn thiên hạ sẽ tôn phong chúng ta lên hạng anh hùng, nhưng lại là một thứ anh hùng…dổm, anh hùng…rơm: - Anh hùng gì ? Anh hùng rơm, Tôi cho nắm lửa, hết cơn anh hùng. Chúng ta đã xác quyết: - Phàm đã là người thì ai cũng có tự ái và lòng tự ái ấy luôn theo chúng ta trong suốt cả cuộc đời. Hơn thế nữa, hình như càng làm lớn, tự ái lại càng to. Nếu không biết kiềm chế, thì với quyền lực trong tay, họ sẽ có những hành động tàn bạo đến quỷ thần cũng không lường nổi. Hán Vũ Đế ngày kia sai đại tướng Lý Lăng đem quân đi đánh Hung Nô. Trong thời gian đầu, Lý Lăng thắng lớn, tin chiến thắng báo về triều đình, Hán Vũ Đế rất hài lòng. Các quan đại thần đua nhau ca tụng Vũ Đế là minh quân, biết chọn tướng tài, khen Lý Lăng là anh hùng. Thế rồi Lý Lăng tiến quá sâu vào nội địa Hung Nô, bị quân Hung Nô bao vây. Vũ Đế sai cận thần Lý Quảng Lợi đem binh vào đất Hung Nô tiếp viện cho Lý Lăng. Nhưng Lý Quảng Lợi bất tài, khiếp nhược, bị quân Hung Nô đánh tan tành, đành phải rút về. Lý Lăng bị bao vây cho đến lúc lương tận, hết cả tên bắn, phải đầu hàng Hung Nô. Tin Lý Lăng đầu hàng Hung Nô về tới triều đình. Vũ Đế nổi giận. Các quan đại thần chê Lý Lăng bất trung, kết Lý Lăng vào tội phản quốc. Riêng có quan thái sử Tư Mã Thiên, trước mặt Hán Vũ Đế, đã lên tiêng bênh vực Lý Lăng. Tư Mã Thiên nói: - Đại tướng Lý Lăng không bất tài, không bất trung và cũng không có tội. Lý Lăng sở dĩ phải đầu hàng vì lương hết, võ khí thiếu và quân tiếp viện đáng lý phải đến đã không đến. Lý Lăng chỉ còn có năm ngàn quân, nhưng đã anh dũng đánh trận cuối cùng giết cả năm mươi ngàn quân Hung Nô. Như vậy, xét ra Lý Lăng vẫn có công chứ không có tội… Lời biện hộ cho Lý Lăng của tư Mã Thiên thật khẳng khái và công bình, nhưng Hán Vũ Đế cho rằng Tư Mã Thiên có ý chê trách mình sai lầm trong việc dùng Lý Quảng Lời cầm quân đi tiếp viện. Bị chạm tự ái, Vũ Đế bèn nổi giận, ghép Tư Mã Thiên vào tội khi quân,ra lệnh tống ngục và sau đó bắt Tư Mã thiên chịu cái tội tàn tệ nhất thời đó đối với những người trí thức, đó là tội “hủ hình”, tức là tội bị…thiến. Năm ấy Tư Mã Thiên mới khoảng bốn mươi tuổi. Bị hoạn, ông quyết định tự tử, nhưng sau đó đã nghĩ lại: - Mình có chết đi cũng chẳng ai thương tiếc, mình chẳng là cái thớ gì hết trong xã hội này, mạng sống của mình có mất đi cũng chỉ như “chín con trâu bị mất một sợi lông” mà thôi. Rồi ông nhủ thầm: - Mình chết thực là vô ích, chi bằng cố sống những năm cuối cùng của cuộc đời mà làm một công trình để lại cho hậu thế. Nghĩ như thế, Tư Mã thiên bỏ ý định tự vận, ông phấn phát tinh thần và dẹp hết buồn rầu, tủi hận sang một bên để chuyên tâm vào việc biên soạn bộ Sử Ký. Ông hoàn thành bộ Sử vĩ đại này trước khi chết. Bộ Sử của ông hiện nay được gọi là Sử Ký Tư Mã Thiên, bộ Sử vĩ đại nhất, giá trị nhất của Trung Hoa mà cho tới nay vẫn chưa có bộ Sử mới nào hơn được. Không phải chỉ những vị tai to mặt lớn, mà nhiều khi cả một dân tộc cũng dễ dàng bị lôi cuốn vào vòng xoáy của lòng tự ái. Thực vậy, trong những năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến những cuộc biểu tình của Trung Quốc, của Hàn Quốc nhằm phản đối con cháu đất Phù Tang vì những lệch lạc về lịch sử được ghi lại trong sách giáo khoa, cũng như vì những hành động bạo tàn mà những người lính Nhật Bản đã làm trong cuộc thế chiến lần thứ hai. Với niềm tự ái dân tộc, họ đã đòi Nhật Bản phải chính thức xin lỗi và bồi thường. Và gần đây hơn, vì một câu nói hớ hênh của một ca sĩ nào đó, đại khái cho rằng khu đền Angkor-Vat là do người Thái Lan xây và thuộc về người Thái Lan. Thế là dân “Cam bốt” nổi giận đùng đùng, đã xuống đường, nổi lửa đốt tòa đại sứ Thái Lan tại Nam Vang và cách đây không lâu, lại còn định đóng cửa biên giới nữa, khiến cho mối bang giao giữa hai quốc gia trở nên căng thẳng và ngột ngạt. Nhưng những va chạm tự ái thường xảy ra hơn hết là trong mối liên hệ hằng ngày, chẳng hạn như giữa bè bạn với nhau. Gã xin đưa ra một thí dụ điển hình: Mấy tên bợm nhậu ngồi lai rai với nhau trong một bàn tiệc. Khi rượu đã thấm, thì sự phấn khởi bèn nở rộ trên từng khuôn mặt đỏ gay. Họ gặp ai cũng kết làm bạn để chén thù chén tạc và nhìn bất cứ cái gì cũng thấy là đẹp. Rồi người này nâng cốc mời người kia một ly. Rủi thay, người kia hôm ấy “long thể bất an”, nên đã từ chối. Và thế là bị chạm nọc, người này cho rằng nó khinh mình, nó coi mình chẳng có tí “gờ ram” nào cả, bèn hất cả ly rượu vào cái tên dám hỗn láo, đã coi thường mình. Không chừng người này còn lật đổ cả bàn ghế, hất tung cả chén bát và nện cho người kia một trận rách cằm, xẻ tai và phun máu đầu, với dụng ý dạy cho người kia một bài học để biết được rằng thế nào là…lễ độ. Nhất là trong phạm vi đời sống gia đình, những va chạm ấy thường xảy ra như cơm bữa giữa vợ chồng với nhau. Đúng vậy, đối đấu với thực tế, người ta thấy “đời không như là mơ”. Và hơn nữa, “có ở trong chăn mới biết chăn có rận”, sống gần nhau, người ta mới khám phá ra những khuyết điểm của nhau. Chính những khuyết điểm này đã châm ngòi cho những bất đồng bùng nổ. Gã xin mượn tạm những lượm lặt của tác giả Ánh Ngọc trong một bài viết mang tựa đề “Thách thức”, được đăng trên báo “Phụ Nữ Chủ Nhật”, đại khái như sau: Anh dẫn xe ra khỏi cửa rồi mà chị vẫn còn chạy theo níu áo: Nè, có “ngon” thì đánh tui đi ! Đánh đi ! Chớ đừng có nói rồi không dám làm ! Và thế là “bốp ! Bốp !...Chị bị hai bạt tai in dấu trên gò má một cách…ngon ơ ! Trong khi anh đã cố nhịn bằng cách lấy xe đi khỏi nhà để dằn cơn nóng giận trong một trận cãi vã. Trước khi đi anh nói thòng một câu cho đỡ quê: “Cô mà nói nữa là coi chừng ăn đòn !”. Bị chạm tự ái vì câu hăm dọa ấy, chị đã chạy theo và thách thức, đẩy anh vào cái thế phải “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” với vợ mình. Sự thực thì nhiều ông chồng đánh vợ chỉ vì bất đắc dĩ mà thôi, chứ họ cũng ý thức: “Mình là đàn ông, có sức khỏe, giỏi thì đánh với mấy tay ngang cơ ! Chứ còn đánh đàn bà chân yếu tay mềm thì hèn lắm…Vợ chồng nào mà chẳng có chuyện cãi nhau. Tức quá thì mình dọa cho mấy bả ngán. Ai dè mấy bả thách lại mình và còn nhấn mạnh “nói mà không làm là kẻ…tiểu nhân !”. Thế là vì tự ái đầy mình, nên chồng mới quyết giữ thể diện bằng cách chứng tỏ “quân tử nhất ngôn”. Vậy là nhiều bà bị ăn đòn lãng xẹt ! Có khi vừa bị nện cho một trận tơi bời khói lửa, lại còn bị “tiền mất tật mang” như câu chuyện này: Anh là người hay uống rượu và mỗi lần say lại có tật chửi đổng. Mỗi lần anh chửi, thì chị lại bảo: Ổng hổng chửi tui thì chửi ai. Hai người cứ lời qua tiếng lại, nên chuyện nhỏ hóa chuyện to. Anh đòi chị đưa tiền đi uống rượu tiếp nên dọa: Không đưa thì chết với tao. Nghe vậy chị bèn hét lên: Dám làm gì thì làm đi. Anh xô mạnh chị ngã và bị trặc tay, phải bó thuốc cả tháng. Tức quá, chị thảy hết số tiền vừa bán bắp hơn ba triệu cho anh và nói: có ngon thì đi mà nhậu hết. Anh nghe vợ thách, bèn ôm tiền đi tuốt. Hai ngày sau mới về, trong túi không còn một đồng. Không phải chỉ có những ông chồng, mà ngay cả những bà vợ, khi bị chạm tự ái, thì cơn giận cũng nổi lên đùng đùng. Liên tiếp hai tuần rồi, ngày nào anh cũng phải ghé quán đầu ngõ để ăn cơm bụi, bởi vì chị đang hạ quyết tâm thực hiện đúng lời “thách lẫy” của anh, khi anh chị cãi nhau tuần trước, chỉ vì chị lỡ nấu cháy món bao tử phá lấu, là món ruột của anh: Làm đàn bà có bi nhiêu chuyện đó mà làm hổng xong nữa thì còn làm cái giống gì ? Dẹp luôn cái bếp này, đi ăn cơm tiệm luôn. Chị kể: Hở ra là biểu dẹp bà đi ! Vứt hết đi ! Còn không thì bà đi đâu cho khuất mắt tui, hỏi ai mà không tự ái ? Bị ổng nói nhiều lần rồi, nay tôi mới làm theo cho…biết thân. Biết thân ai không thấy, chỉ thấy tháng đó cả nhà bị thâm thủng ngân sách trầm trọng vì toàn đi…ăn cơm tiệm. Nhưng “lớn gan” hơn phải là câu chuyện sau: giận chồng không cho đi coi cải lương, cãi nhau một hồi anh bèn thách: Có đi thì coi thằng kép hát nào mà theo nó luôn…Chị đi luôn thiệt, nhưng không phải theo kép hát, mà là đến ở nhà thằng em, mua vé cải lương coi liền nửa tháng cho bõ ghét ! Đáng lẽ chị cũng chưa chịu “hồi cung”, nhưng vì thằng con trai lớn qua kiếm chị và “mật báo”: Ở nhà, ba đem xe đạp, tivi đi bán rồi. Chị mới hốt hoảng trở về. Nếu cứ kể ra như thế, thì không biết đến thuở nào mới hết. Để kết thúc, gã xin đưa ra mấy việc cần làm ngay để chữa trị cái chứng tự ái hão, tự ái vặt, như đã trình bày ở trên. Việc thứ nhất đó là hãy tự biết mình. Người Tây thì khuyên: - Connais-toi, toi-même. Này bạn, bạn hãy biết chính mình bạn. Còn người Tàu thì nói: - Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình biết người, trăm trận đều thắng. Tại một thung lũng hoang vu, có chú chim cú. Cú ta ngày thì ru rú trong hang, đêm đến mới có thể bay đi kiếm ăn. Sở dĩ cú làm thế vì mắt cú quáng gà, chỉ có thể nhìn thấy ban đêm. Ngày kia, cú thầm nghĩ: - Quái lạ, tại sao ta cũng là loại chim quí hiếm, diện mạo ta oai hùng, mỗi lần ta xuất hiện, muông thú đều chạy trốn, tiếng ta kêu rùng rợn trong đêm. Thế mà ta thua loài phượng hoàng, cái anh chàng trông dễ ghét nhưng lại có thể bay cao tận mây xanh, hiên ngang lượn cánh dưới ánh mặt trời, làm như thể hắn là vua loài chim vậy. Rồi cú tự nhủ: - Được rồi, ngày mai khi hừng đông, ta sẽ bay khỏi hang sâu, tung mình vút tận mây xanh, cho phượng hoàng khiếp vía, muông chim nể vì. Hôm sau, khi mặt trời lên cao, cú ta vận sức bay ra, bay lên cao, cao mãi…Nhưng bỗng cú chạm phải vật gì cứng. Cú lóa mắt, không còn nhìn thấy gì. Rồi rầm một tiếng, cú lao vào thành núi và rớt xuống tan xương. Việc thứ hai, đó là khi bị chạm tự ái và cơn giận bốc lên, thì hãy án binh bất động, hoãn binh chi kế, đừng vội có bất cứ hành động nào sốt, vì giận quá thì mất khôn. Nhà hiền triết Atenodoro đã khuyên vua Augustô, vốn là người có tính dễ nóng mỗi khi bị xúc phạm, như sau: - Khi vua cảm thấy mình tức giận, hãy nhẩm đọc hai mươi bốn chữ cái. Nhà vua áp dụng lời khuyên này và tránh đi được những hành động đáng tiếc. Một cha xứ già đã nhắc nhở các đôi tân hôn như sau: - Khi các con sắp sửa cãi vã hoặc gây gổ với nhau, các con hãy nhủ thầm: để sáng mai rồi hãy tính. Và sáng hôm sau, các con sẽ thấy việc hôm qua thật nhỏ nhoi, chẳng đáng gì. Có một cặp vợ chồng già, thường xuyên cãi vã với nhau. Người hàng xóm thấy vậy bèn góp ý: - Vị ẩn sĩ sống trên núi chế biến được một thứ thuốc rất linh, giúp cho nhiều gia đình được êm ấm. Bà vợ nghe lời người hàng xóm, lên núi tìm vị ẩn sĩ. Sau khi nghe trình bày, vị ẩn sĩ bèn trao cho bà một chai thuốc khá to và nói: - Đây là một loại thuốc gia truyền rất hiệu nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần uống một ngụm, ngậm trong miệng, không được nuốt và cũng chẳng được nhổ ra, cho tới khi ông không còn nói nữa, rồi mọi chuyện sẽ được ổn thỏa. Bà vừa về tới nhà, thì ông liền quát tháo. Nghe vậy, bà liền hớp một ngụm thuốc, giữ trong miệng, đúng như lời căn dặn của vị ẩn sĩ. Thấy vợ không đáp lời, một lúc sau ông cũng thinh lặng. Bà vợ hết sức vui mừng: - Đúng là một loại thuốc gia truyền. Linh thật… Và cứ thế, cứ thế…Từ đó hai ông bà dần dần trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của thời còn trẻ. Thứ thuốc gia truyền ấy, chẳng có gì khác hơn là nước lã mà thôi. Đừng tự ái hão và cũng đừng nóng giận, nhất là đừng vội có những hành động trả đũa rước những lời bình phẩm có tính cách xúc phạm, bởi vì ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thày ta vậy. Gã Siêu.
Nơi gã hiện đang cắm dùi, đó là một nơi khỉ ho cò gáy. Vì muốn có tí ánh sáng văn minh, nên dân GãSiêu 78
Nơi gã hiện đang cắm dùi, đó là một nơi khỉ ho cò gáy. Vì muốn có tí ánh sáng văn minh, nên dân chúng đã phải móc hào bao, đóng tiền, dựng cột, kéo dây để đem điện về. Mang tiếng là “nhà nước và nhân dân cùng làm” nhưng thực chất dân chúng đã phải đầu tư từ A đến Z để mua điện của nhà nước, giống như gã sắm thùng, sắm lu để mua nước vậy. Thế mà điện thì cứ bữa đực bữa cái, bữa sáng bữa tắt. Những hôm bị cúp điện, chỉ còn việc ngồi chơi xơi nước, hay đọc báo đến mờ cả mắt. Cũng nhờ ơn điện cúp và đọc báo, mà hôm vừa rồi gã mới chớp được một mẩu tin ngăn ngắn của báo Công An thành phố đại khái như sau: Ông Nguyễn Chuyên, 49 tuổi, ngụ tại thị trấn Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, vốn chẳng có tí máu “dế mèn phiêu lưu ký”, nhưng lại khao khát được “trời” cho không, biếu không một kho báu. Biết được ước mơ thầm kín của ông, Nguyễn Công Triều cấu kết với Trịnh Văn Xanh tìm cách lừa gạt. Chúng dụ ông Chuyên đến dự một cuộc lên đồng. Tên Xanh giả làm thần “Bạch Hổ” nhập xác, báo tin mừng rằng: - Ông sẽ được tặng một chiếc chuông đồng 800 tuổi cực kỳ đắt giá, nhưng phải “bồi dưỡng” 40 chiếc vòng vàng để 40 tên giữ chuông làm ngơ… Và thế là chúng đã ẵm của ông Chuyên 150 chỉ vàng. Sợ bị bể mánh, tên Xanh bèn “nhả” lại 10 chỉ, đúc thành hai cục vàng chôn xuống đất cho ông Chuyên đào gặp để bớt hồ nghi. Nhưng lòng tham không đáy của tên Triều lại quá mạnh, y đã tráo những cục chì để lấy luôn vàng. Đào mãi chỉ thấy…chì là chì, nên ông Chuyên phẫn uất. Vụ lừa đảo bị đổ bể và hai tên gian manh phải ngồi tù đếm lịch. Từ câu chuyện trên gã đi tới một kết luận: mê tín cũng chết, và lợi dụng óc dị đoan của thiên hạ cũng chết. Thế nhưng nguyên do bởi đâu mà tệ trạng mê tín dị đoan lại xuất hiện trên mặt đất này ? Theo các nhà “ngâm kíu” thì vào một thuở rất xa xưa, khi con người còn man di mọi rợ, còn ăn sống nuốt tươi, còn ở hang ở hốc…họ đã run sợ khiếp hãi trước bất kỳ một sức mạnh nào vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ. Do đó, họ đã quì gối thờ lạy đủ thứ thần linh nhảm nhí, hầu mong sao cho cuộc sống được bảo đảm và an toàn. Như đeo vào mắt cặp kính màu xám, họ nhìn chỗ nào cũng thấy những dấu ấn của thần linh, như tục ngữ đã diễn tả: - Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. - Đất có thổ công, sông có hà bá. Thần linh của họ có thể là một hiện tượng thiên nhiên như sấm sét, giông bão…cũng có thể là một con vật như con bò, con hổ, con rắn…hay một người mà theo họ đã “thăng” vào giờ linh, như thằng đánh dậm bị chết rét trong ngày mùa đông… Thôi thì thượng vàng hạ cám, hầm bà làng xáng cấu. Chính vì thế, mấy xếp nhiễm nặng chủ nghĩa vô thần đã đánh lận con đen, khi đồng hóa niềm tin tôn giáo với óc mê tín dị đoan, nên lớn tiếng quả quyết: - Ánh sáng khoa học chiếu đến đâu, thì tôn giáo lùi bước đến đó. Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại lời quả quyết trên: chỉ có chủ nghĩa vô thần là tiêu tùng, chứ còn niềm tin tôn giáo vẫn vươn lên, vươn lên mãi, bởi vì nó đáp ứng những khát vọng sâu xa nhất của con người. Đây cũng là điều dễ hiểu, vì : - Người là một con vật có tôn giáo. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy ngàn đời vẫn không thay đổi. Theo ngu ý của gã thì mê tín dị đoan là một tình tình trạng trong đó niềm tin tôn giáo đã bị sa đọa, đã bị lệch lạc. Hay nói một cách khác, đó là những tình cảm tôn giáo sai quấy. Nó không phải chỉ tồn tại nơi các bộ lạc bán khai, mà còn tồn tại ngay cả nơi những dân tộc vốn vỗ ngực tự hào là văn minh, tiên tiến. Tại bất cứ thành phố lớn nào trên thế giới, như Paris, Nữu ước…con số những người hành nghề thày bói sờ mu rùa cũng rất đông đảo và họ kiếm được một lợi nhuận không nhỏ. Sự thật trên như muốn nói rằng: Nếu đóng cửa chính không cho Thiên Chúa bước vào, thì ma quỉ sẽ tiến tới bằng những khung cửa sổ. Hay nếu xóa bỏ kinh tin kính, thì lập tức hàng ngàn vạn điều điên khùng khác sẽ thay thế. Sở dĩ như vậy vì tâm hồn con người vốn khao khát và hướng tới Thiên Chúa, nếu gạt bỏ Ngài ra bên rìa cuộc sống, thì những tình cảm tôn giáo sẽ rơi vào tình trạng lệch pha mang màu sắc mê tín dị đoan. Làm sao có thể bàn cho hết những việc làm mê tín dị đoan, chúng mọc lên nhiều như nấm sau cơn mưa, biến ảo thiên hình vạn trạng. Vì thế, gã chỉ xin nói tới một vài hành động quen thuộc chúng ta thường gặp thấy mà thôi, còn những độc chiêu hay quái chiêu khác thì gã xin…hạ hồi phân giải, đành phải hẹn một dịp khác vậy. Trước hết là những việc cần phải tránh, cần phải kiêng để không rước họa vào thân Người bình dân vốn quan niệm: - Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Hay: - Linh tại ngã, bất linh tại ngã, có nghĩa là linh thiêng tại ta, mà không linh thiêng cũng tại ta. Nhìn vào bất cứ xã hội nào, đông cũng như tây, tiến bộ cũng như mọi rợ, tất cả đều có những việc kiêng cữ, những việc không được làm…hết sức vô lý và nhảm nhí, chẳng có lấy một tí “lô-gích” vững chắc nào sốt, cốt để không bị sao quả tạ chiếu tướng. Chẳng hạn người tây phương thì kiêng con số mười ba. Hẳn chúng ta đã biết bữa tiệc ly là bữa tiệc sau cùng của Chúa Giêsu gồm có Ngài và mười hai tông đồ. Tổng cộng vị chi là mười ba.Và người ta đã gán con số mười ba này cho Giuđa, người môn đệ phản Thày và đã treo cổ trên cây mà chết. Họ tin rằng con số này đem lại những xui xẻo. Vì thế, thiên hạ không dám ngồi vào bàn ăn có mười ba người. Thiên hạ cũng không xuất hành hay lên đường vào ngày mười ba. Có những bệnh viện và khách sạn không có phòng mười ba, bởi vì phòng này chẳng được ai thuê mướn bao giờ. Cũng theo ngu ý của gã, thì con số mười ba chỉ là một con số vô hồn, như những con số khác, chẳng có một ảnh hưởng chi tới công việc cũng như tương lai hậu vận của mỗi người. Trong khi đó, người Việt Nam lại lưu ý và tránh xa những ngày đặc biệt xúi quẩy, như ca dao tục ngữ diễn tả: -Mồng năm, mười bốn, hăm ba, Dù ai buôn bán cũng là về không. - Mồng năm, mười bốn, hăm ba, Lấy vợ thì tránh, làm nhà thì kiêng. - Mồng năm, mười bốn, hăm ba, Đi chơi cũng thiệt, lọ là đi buôn. - Mồng năm, mười bốn, hăm ba, là ngày nguyệt kỵ chớ ra xuất hành. Riêng khi lấy vợ lấy chồng, người ta phải tính xem tuổi tác có hạp với nhau hay không: - Thìn, tuất, sửu, mùi, tứ hành xung. Thí dụ anh chàng tuổi hợi cầm tinh con lợn thì không bao giờ được cưới chị nàng tuổi dần cầm tinh con cọp, bởi vì lợn sẽ bị cọp xơi tái, anh chàng chắc chắn sẽ bị chị nàng…mầm thịt. Tiếp đến là những việc người ta cần phải làm vì tin rằng nó sẽ đem lại may mắn. Chẳng hạn như đeo móng lừa, đeo ngà voi…hay tin vào đất đai mồ mả như tục ngữ diễn tả: - Sống vì mồ mả, Chứ không ai sống vì cả bát cơm. Nếu ông cố bà kỵ được chôn táng vào cái hàm rồng, thì thế nào con cháu sau này sẽ phất lên, không làm ông bí thư thì cũng làm bà chủ tịch. Vì thế, người ta cũng thường bảo: - Có đất làm quan, có đất đỗ cụ. Thiết tưởng những quan niệm trên đều bất ổn. Bởi vì thành công hay thất bại, phần lớn do bản thân chúng ta. Nếu không cho con cái ăn học đến nơi đến chốn, mới tí tuổi đầu đã lêu lổng chơi bời, thì làm sao có thể nên vương nên tướng sau này. Hơn thế nữa, nếu đất đai mồ mả mà linh thiêng như thế thì tại sao mấy thày địa lý lại không mày mò tìm kiếm cho ông bà, cha mẹ và gia đình mình những phần đất tuyệt vời nhất, để con cháu sau này được phát tài to. Rồi chẳng nhẽ bây giờ người ta hỏa táng, đem xác đi thiêu, chỉ giữ lại một nắm tro tàn, thì hậu duệ sẽ muôn đời mang kiếp con rệp, chẳng bao giờ ngóc đầu lên nổi hay sao. Bởi những lẽ ấy, mà người xưa đã rút kinh nghiệm: - Hòn đất mà biết nói năng, Thì thày địa lý cái răng không còn. Như vậy, tin vào đất đai mồ mả chỉ là chuyện nhảm nhí, phần lớn do các thày địa lý bày đặt ra để kiếm tí tiền còm. Thành thử nhiều khi tiền mất tật mang: - Mồ cha không khóc, khóc đống mối. Mồ mẹ không khóc, không bối bòng bong. Chọn đất đai mồ mả cho người chết đã đành, mà còn phải chọn ngày lành tháng tốt cho kẻ sống.. Hễ làm việc gì quan trọng một tí, thì liền mở lịch “Tam thông miếu” ra để tính toán và chọn lựa. Chẳng hạn phải chọn ngày nào giờ nào để làm đám cưới…Có khi phải rước dâu vào chính nửa đêm hay lúc mới tờ mờ sáng, cực khổ cho mọi người mà vợ chồng thì vẫn cứ lục đục, thiếu điều muốn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau như cơm bữa. Gã đã thấy có những đám cưới chấm hết ngày nọ đến ngày kia. Cữ ngày lẻ không hên, kiêng ngày xui phải tránh, cuối cùng chọn được ngày lành cả hai họ cùng ưng. Thế nhưng chính trong ngày lành ấy, trời nổi cơn bão, gió thổi mạnh và mưa dầm dề, nên chi khách khứa thưa thớt , nhà đám lỗ chổng vó!!! Cũng lại theo ngu ý của gã: thời gian là của Thượng đế, nên ngày giờ nào cũng tốt, cũng trọng. Điều cần thiết là phải biết sử dụng thời gian cho đúng đắn, đồng thời phải biết cố gắng và cộng tác với nhau thì mới có thể mở được cánh cửa hạnh phúc. Ngoài ra, người ta còn tin vào những điều nhảm nhí như sách “Giáo lý Công Giáo” đã đề cập tới, như tin vào tiếng chim kêu, tiếng gà gáy cùng với biết bao nhiêu điều lỉnh kỉnh khác nữa. Người ta bảo: - Chim heo kêu là điềm dữ, thế nào cũng có người chết. Theo gã nghĩ: - Chim kêu là chuyện thường, nó không kêu mới là chuyện lạ. Nhiều khi chim heo kéo nhau về làm tổ trên tháp chuông nhà thờ. Chúng kêu suốt đêm và kéo dài cả tháng, thế mà cũng chẳng có ai chết. Trái lại, có những tháng không một cặp chim heo nào làm tổ và kêu lên một tiếng, thế mà người bệnh thì vẫn cứ chết, thậm chí có khi đang khỏe mạnh mà cũng lăn đùng ra chết. Ngày xửa ngày xưa, có người hối hả chạy đến nói với ông Cato rằng: - Chuột cắn giày là điềm xui. Ông Cato bèn cười ruồi một phát và trả lời cách dí dỏm: - Chuột gặm giày là chuyện thường, chứ bao giờ giày gặm chuột mới là điều đáng nói. Gã xin liệt kê ra đây một số những tin tưởng nhảm nhí, không có chút căn bản nào cả. Chẳng hạn: - Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang. Theo gã, thì dù mèo hay chó mà lạc bước vào nhà mấy ông bợm nhậu, thì đều tốt , đều vui vẻ cả làng bởi vì các tay bợm ấy sẽ có được mồi màng thật “bén”, không chừng chén chú chén bác tới lúc ngoắc cần câu vẫn chưa thôi. Chẳng hạn: - Chuột chù rúc, nhà phát tài. Chuột cống rúc, nhà có việc. Ở nông thôn, đêm nào chuột chù, chuột nhắt mà chẳng kêu chí chóe, còn chuột cống thì hơi hiếm, thế mà quanh năm suốt tháng vẫn khố rách áo ôm, chỉ biết bầu bạn với…bà cả đọi mà thôi. Chẳng hạn: - Ra ngõ gặp gái, mọi cái mọi xui. Ra ngõ gặp trai, vừa may vừa mắn. Thời buổi bây giờ, xe cộ như nước, nên chi ra phố bất luận gặp giai hay gặp gái, mà nếu cứ phóng nhanh vượt ẩu,thì cầm chắc là sẽ bị đo đường và không chừng sẽ phải đi tàu suốt sang thế giới bên kia để chầu Diêm vương. Rồi những điềm xui như: - Chó lê trôn, gà gáy gở. - Nhện đen sa thì sang, Nhện vàng phải mắng, Nhện trắng ăn đòn. - Đổ đèn, đổ muối thì kiêng, Đổ mắm, đổ muối cũng nên dè chừng. Nếu cứ kê đơn hoàn tán theo kiểu này, thì không biết đến bao giờ mới hết. Gã bèn “xì tốp”, để chuyển sang một mục khác, mà phần lớn quí bà quí cô đều…thích, đó là coi bói. Báo Công An Thành phố số ra ngày 14.10.1990 có một mẩu tin với tựa đề: “Thày bói hại ba mạng người” như sau: Đúng vào đêm rằm tháng tám âm lịch, chiếc xe Kamaz có trọng tải 18 tấn chở đá của công ty cầu đường 72 bò lên dốc cầu sắt Phán Tề, thuộc phường 18, thị xã Cà Mau thì cầu bị sập. Cả chiếc xe và khối lượng đá ập xuống đè bẹp căn nhà dưới chân cầu, khiến cho anh Quắn 31 tuổi, cùng với hai con, một đứa 14 tuổi và một đứa 12 tuổi bị thiệt mạng. Riêng mẹ và vợ anh thì bị thương nặng. Trước đó chính quyền địa phương biết chiếc cầu này xuống cấp nghiêm trọng, nên đã động viên gia đình anh Quắn dọn đi nơi khác. Nhưng vì anh Quắn và gia đình lại tin lời một tên thày bói nói rằng: - Không được dời nhà, phải chờ tới ngày 19 tháng 8 mới là ngày tốt. Và tai nạn thương tâm đã xảy ra. Trong sinh hoạt thường ngày, có nhiều người, nhất là đờn bà con gái, vốn tin vào bói toán. Sở dĩ như vậy vì đờn bà con gái rất hay tò mò, muốn biết về tương lai hậu vận, nhất là đường tình duyên của mình có chi trắc trở. Nhà cửa không chịu trông coi, máy móc cứ vứt lỏng chỏng ngoài hè ngoài ngõ, đến khi bị mất trộm, liền chạy đi thỉnh ý ông thày bói, để rồi về nhà, của mất không tìm thấy, lại thêm cái tội nghi ngờ người này người nọ. Trong gia đình có người đau ốm, không lo chạy chữa thuốc men, nhưng lại vội đi tìm ông thày bói đề xem có bị ma làm, quỉ ám hay có bị ai trù ếm gì không. Gã quen với một đôi vợ chồng nọ. Người chồng rất chí thú mần ăn. Còn bà vợ cứ hai năm một lứa, lần lượt trình làng 5 cô con gái. Người thì an ủi: - Ngũ long công chúa đấy ông ạ. Kẻ thì châm chọc: - Nhà ông chỉ toàn vịt giời là vịt giời. Giữa lúc đang thất vọng ấy, thì bà vợ cho ra lò một cậu con giai kháu khỉnh. Làm sao diễn tả hết nỗi vui mừng của hai vợ chồng. Vì sinh vào ngày Chúa nhật lễ lá, nên mọi người trong gia đình đều gọi cậu ấm bằng một cái tên thân thương: - Cu Lá. Nghe lời chị vợ, anh chồng bèn đi tìm thày, chấm cho cậu ấm một lá số tử vi trọn đời. Lá số tử vi này phán rằng: - Cậu ấm mai ngày sẽ thành công, làm lớn và gia đình được nhờ vả rất nhiều. Và cũng kể từ đó, hai vợ chồng ra sức chiều chuộng cu Lá, đúng với nhãn hiệu “quí tử” và đẳng cấp “cậu ấm”. Họ cưng cu Lá như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Cu Lá đòi gì được nấy. Nhất là cu Lá được mẹ bênh chằm chặp dù việc cu Lá làm rất sai trái. Ngày nọ, không hiểu vì quậy phá trong lớp thế nào, mà cu Lá bị thày cho ăn mấy cái bợp tai. Nghe tin ấy, bà mẹ đã mắng vốn ông thày như sau: - Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con người ta như thế à. Cu Lá được gửi lên Saigon học, nhưng vì quen thói được muông chiều, chẳng chịu học hành, nhưng lại đua đòi theo bè bạn, cũng xì ke ma túy và bị công an rờ gáy. Tới lúc này, hai vợ chồng mới “ngộ” ra thì e rằng đã quá muộn… Xét theo kinh nghiệm bình thường, thì hầu hết những lời thày bói nói là những lời phỏng đoán chung chung, không lấy gì làm chắc chắn đáng cho chúng ta tin tưởng. Chẳng thế mà ca dao đã đề cao cảnh giác: - Thày bói nói dựa. Bói kiểu này, thì ai mà chẳng bói được: - Số cô chẳng giàu thì nghèo, Ba mươi tết có thịt heo trong nhà. Số cô có mẹ có cha, Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. Hay như: - Nhà này có quái có ma, Có con chó mực cắn ra đàng mồm. Bởi đó cho nên: - Bói ra ma, quét nhà ra rác. Hậu quả của việc coi bói, đó là tương lai thì vẫn bấp bênh, hậu vận thì vẫn mù mờ, mà còn bỗng dưng khoác thêm một nỗi lo: - Tay cầm tiền quí bo bo, Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình. - Thừa tiền thì đem mà cho, Đừng có xem bói, đem lo vào mình. - Tiền buộc dải yếm bo bo, Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình. - Ốm đau chạy chữa thuốc thang, Đừng đi xem bói mua vàng cúng ma. - Thày bói, thày số, thày đồng, Nghe ba thày ấy cái lông chẳng còn. Tới đây, gã xin mượn đỡ câu chuyện “Hà Bá lấy vợ” trong sách “Cổ học tinh hoa” để kết luận về thói mê tín dị đoan. Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con gái ném xuống sông để lấy vợ cho Hà Bá. Sự mê tín ấy đã có lâu ngày, không ai phá nổi. Lúc ông Tây Môn Báo đến làm quan ở đấy, ông thân hành đứng ra làm chủ lễ cưới vợ cho hà Bá. Trước mắt đông đủ cả bô lão, hào trưởng, ông cho gọi người con gái đến. Ông xem mặt xong, chê rằng: - Người con gái này không được đẹp! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà Bá xin hoãn lại hôm khác để tìm người đẹp hơn. Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng xuống sông. Một lúc sau, ông nói: - Sao lâu thế này! Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ. Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông. Một lúc sau, ông nói: - Sao không thấy tin tức gì cả. Chừng lũ đồng cốt xuống nói không nên lời. Dám phiền các cụ bô lão đi giúp cho. Lại lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông. Một lúc sau, ông nói: - Sao mãi không thấy về thế này! Bọn đồng cốt, bô lão dễ đi cũng không được việc. Phải nhờ đến bậc hào trưởng mới xong. Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt lại, van lạy xin thôi. Tây Môn Báo nói: - Để thong thả ta xem đã. Mọi người run như cầy sấy. Một chốc ông mới bảo: - Thôi tha cho. Thế là Hà Bá không lấy vợ nữa rồi. Thành thử từ đấy dân đất Nghiệp không ai dám nhắc đến chuyện Hà Bá lấy vợ nữa. Và tác giả sách “Cổ học tinh hoa” đã góp thêm lời bàn: - Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát nhà, có khi mất cả mạng, thật là tai hại. Gã Siêu.
Lâu rồi, gã có đọc trên một vài tờ báo và đã lượm được một mẩu suy gẫm về cuộc sống hôm nay GãSiêu 79
Lâu rồi, gã có đọc trên một vài tờ báo và đã lượm được một mẩu suy gẫm về cuộc sống hôm nay, đại khái như thế này: Hiện giờ, Chúng ta có nhà cao hơn, nhưng nhân cách lại nhỏ hơn. Chúng ta có nhà to hơn, nhưng gia đình lại nhỏ hơn. Chúng ta có nhà sang trọng hơn nhưng tổ ấm lại đổ vỡ nhiều hơn. Chúng ta có đường phố rộng hơn, nhưng quan điểm lại hẹp hơn. Chúng ta mua sắm nhiều hơn, nhưng hưởng thụ lại ít hơn. Chúng ta có nhiều tiện nghi hơn, nhưng lại ít thời gian nhàn rỗi hơn. Chúng ta có nhiều bằng cấp hơn, nhưng lại kém ý thức hơn. Chúng ta hiểu biết nhiều hơn, nhưng lại kém suy xét hơn. Chúng ta có nhiều nhân tài hơn, nhưng lại ít sáng tạo hơn. Chúng ta có nhiều thuốc men hơn, nhưng sức khỏe lại kém hơn. Chúng ta có nhiều của cải hơn, nhưng lại thiếu nhân bản hơn. Chúng ta nói quá nhiều, nhưng lại yêu quá ít. Chúng ta biết cách kiếm sống, nhưng không biết xây dựng cuộc đời. Chúng ta sống thọ hơn, nhưng lại sống ít ý nghĩa hơn. Chúng ta chinh phục được vũ trụ, nhưng không thắng được cõi lòng. Chúng ta làm được những việc lớn hơn, chứ không phải là tốt hơn. Chúng ta làm sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm trong tâm hồn. Chúng ta đã tách nguyên tử, chứ không loại bỏ được thành kiến. Chúng ta viết nhiều hơn, nhưng học ít hơn. Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, nhưng không biết chờ đợi. Chúng ta có thu nhập cao, nhưng đạo đức lại thấp. Chúng ta có nhiều thức ăn hơn, nhưng lại kém dinh dưỡng. Chúng ta có nhiều thức ăn nhanh, nhưng lại tiêu hóa chậm. Chúng ta chuộng số lượng, mà quên mất chất lượng. Chúng ta có lắm lợi nhuận, nhưng quan hệ lại hời hợt. Chúng ta có nhiều phương tiện giải trí, nhưng lại ít niềm vui. Chúng ta có thu nhập gấp đôi, nhưng chia ly lại nhiều hơn. Chúng ta bên ngoài thì hào nhoáng, nhưng bên trong lại rỗng tuếch. Chúng ta cổ võ cho hòa bình thế giới, nhưng nội chiến vẫn triền miên. Chúng ta làm được những việc phức tạp, nhưng lại không làm được những việc đơn giản với đồng loại. Chúng ta uống quá nhiều, hút quá mức, chi quá lố, cười quá ít, giận quá mau, thức quá muộn, dậy quá mệt, đọc quá ít, xem truyền hình quá nhiều và lái xe quá nhanh. Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường gặp người hàng xóm mới đến. Chúng ta có nhiều máy tính để lưu trữ thông tin nhằm cung cấp những bản sao, nhưng lại ít liên lạc thân tình hơn. Đây là thời của những chuyến du hí chớp nhoáng, của khăn dùng một lần, của buông trôi đạo đức, của những chỗ dừng một đêm, của những cơ thể béo phì và của những loại thuốc kích thích, an thần để giết người. Và rồi tác giả đã kết luận: - Thời đại công nghệ mang lại cho bạn thông điệp này và cũng là thời đại bạn phải lựa chọn: hoặc là sống khác đi, hoặc là sẽ buông xuôi. Riêng phần gã, trong bài này, gã muốn thêm một chi tiết nho nhỏ khác nữa, đó là: - Hiện nay chúng ta có quá nhiều máy móc, nhưng lại lười và làm biếng hơn bao giờ hết. Thực vậy, ngày xưa cha ông chúng ta cuốc bộ dăm bảy cây số là chuyện nhỏ, còn ngày nay người ta đi vài ba trăm mét cũng phải vội leo lên xe. Ngày xưa người vợ hay người mẹ trong gia đình phải quét dọn và lau chùi nhà cửa, cũng như giặt giũ áo quần bở hơi tai, toát cả mồ hôi hột, còn ngày nay người ta chỉ cần mở máy hút bụi hay ném vào máy giặt…loáng một chốc là xong. Chẳng thế mà trong một bài viết mang tựa đề là “Nghệ thuật làm biếng” trên báo Kiến thức Ngày Nay, thiên hạ đã đưa ra một nhận xét như sau: “ Kỳ lạ nhất là trong lúc người có vẻ hoạt động hơn khi rỗi rảnh, thì khoa học kỹ thuật lại mang đến những cải thiện khuyến khích sự…lười biếng như máy giặt, máy rửa chén, máy hút bụi…Thậm chí kỹ thuật hiện đại đã tiêu diệt hoàn toàn những cố gắng ít nhất về sức lực: đi vài trăm mét cũng leo lên xe hơi chứ không đi bộ, dùng thang máy để lên lầu, dùng “remote control” điều khiển TV và video vì sợ phải di chuyển chỉ vài bước chân! Nhiều nhà xã hội học cho rằng con người càng lúc càng béo phì là do cuộc sống “chây lười” kiểu đó tạo ra.” Vậy thế nào là lười biếng ? Mở tự điển ra gã ghi nhận như sau: - Lười là biếng nhác, ham ở không, sợ làm việc. - Còn biếng là lười, trễ nải, uể oải, không thiết đến việc làm. Tác giả đã trích dẫn một câu tục ngữ để minh chứng: - Những người lêu lổng chơi bời, Cùng là lười biếng, ta thời tránh xa. Nói tóm lại, lười hay biếng thì cũng hao hao giống nhau, nghĩa là thích ở không, thích hưởng nhàn và ngại làm việc, ngay cả những việc cần thiết nhất như tắm rửa, vệ sinh thân thể của mình. Tục ngữ ca dao Việt Nam đã đưa ra những nét chấm phá về họ như sau: - Ăn như rồng cuốn, Làm như cà cuống lội ngược. - Ăn thì lựa những miếng ngon, Làm thì chọn việc cỏn con mà làm. Như thế còn đỡ, chứ như thế này thì quả thực là “siêu đẳng”: - Ăn rồi nằm ngả nằm nghiêng, Có ai lấy tớ, thì khiêng tớ về. Còn người phương Tây cũng diễn tả về họ như thế này: - Kẻ lười biếng, như con đà điểu, khi phải bay thì nói: tôi là một con lạc đà. Còn khi phải mang nặng thì bảo: tôi là một con chim. Cách đây không lâu, báo Phụ Nữ Chủ Nhật có đưa ra một mẫu gương “điển hình tiên tiến” cho cái sự làm biếng. Nhân vật này quả thực đã “lươi huyền” tới trình độ siêu đẳng mà có lẽ trong cả và thiên hạ không ai sánh bằng. Mẩu tin ấy như sau: “Làm biếng hết cỡ. Danh hiệu này có lẽ rất xứng đáng được trao cho gã thuê nhà của ông lão bảy mươi tám tuổi Camille de Roey ở thành phố Strombeek-Bever thuộc nước Bỉ. Suốt mười bốn năm qua, gã thuê nhà bốn mươi tuổi này đã không hề quét dọn bất chấp lời kêu gọi hay đe dọa của ông chủ! Ông chủ nhà De Roey đã phải dùng biện pháp cắt điện từ năm 1992, nhưng vẫn không lay chuyển được tính…làm biếng của gã thuê nhà cứng đầu. Cúp diện ư ? Gã ta nối dây với máy điều nhiệt ở hệ thống cung cấp khí nóng để xài đỡ. Thậm chí ông chủ đã phải dùng đến biện pháp nhờ cậy hội đồng thành phố và cảnh sát làm áp lực “tống khứ gã thuê nhà ra khỏi cửa”, nhưng gã ta vẫn bình chân như vại. Mãi tới ngày 28 tháng 4 năm 2002, “gã sống khắc khổ” ấy không còn đủ tiền để trả, nên đã tự động xách va-li ra khỏi nhà. Tuy nhiên, “tài sản” gã ấy để lại là đống rác khổng lồ với hàng trăm chai rỗng, lon đồ hộp, thức ăn dư thừa và rác bẩn chất lên đến tận trần.” Vậy sự lười biếng sẽ đem lại những hậu quả như thế nào ? Nhìn dưới góc độ tích cực, sự lười biếng đôi khi cũng đem lại một chút hậu quả tốt đẹp và cần thiết cho con người. Chẳng hạn, theo tác giả Lê Lộc, đối với những người bị “tress” do làm việc quá căng thẳng, thậm chí đối với những ai có nỗi buồn ray rứt, các bác sĩ khuyên họ hãy buông bỏ tất cả và hãy đi nghỉ hè như những cô cậu học trò. Đây là một nhu cầu có thật và hữu ích để giải tỏa tâm trí, thúc đẩy một nguồn sinh lực mới để đi tiếp trong cuộc sống. Chẳng hạn, sau một buổi sáng miệt mài làm việc, thì giấc ngủ ban trưa cũng là điều cần thiết để được thanh thản và hăng say cho công việc ban chiều. Trong một bản nhạc, có nốt bổng thì cũng có nốt trầm, nếu cứ bổng mã thì sẽ phải gân cổ ra mà hát. Sợi dây cung có lúc căng thì cũng phải có lúc chùng, nếu cứ căng mãi thì sẽ đứt… Sau đệ nhị thế chiến, dân Nhật bản hùng hục xây dựng lại đất nước, làm ngày không đủ họ bèn tranh thủ làm đêm, thành thử đầu óc họ lúc nào cũng căng thẳng. Số người bị “tress” và tự tử ở đất Phù Tang này rất cao, mặc dầu cuộc sống vật chất của họ chất rất đầy đủ. Và thế là họ bèn mở mắt ra và quyết định làm việc ít thôi, còn dành thời giờ…làm biếng, để nghỉ ngơi và đi du lịch nơi này nơi khác cho cuộc sống được trở nên tươi hồng và đáng sống. Tại thành phố Medellin nước Colombia, hàng năm người ta tổ chức “ngày làm biếng”. Đó là ngày mà chẳng ai muốn làm việc, một ngày hội được ra đời từ năm 1985, nhằm phản đối tình trạng thất nghiệp và công nhân bị đuổi việc tràn lan. Để ủng hộ cho “ngày lười biếng” này vào trung tuần tháng tám vừa qua, các nghệ sĩ nỗi tiếng của thành phố đã tham gia biểu diễn trên đường phó. Tiết mục biểu diễn của họ mang đúng ý nghĩa của ngày hội: không ai làm gì cả ngoài việc ngồi đọc báo!!! Cũng trong chiều hướng ấy, cũng theo tác giả Lê Lộc trên báo Kiến Thức Ngày Nay, suốt thập niên 60, phong trào “hippie” của giới trẻ phương tây đã tẩy chay các hình thức lao động áp dụng trên toàn xã hội, để bày tỏ sự tự do và đời sống cá nhân phong phú. Tại Pháp, trong làn sóng biểu tình phản đối nổi tiếng vào tháng 5 năm 1968, nhà xã hội học Paul Lafargue có đề ra “quyền được lười biếng”, rất được giới trẻ hoan nghênh. Không hiếm các kiến nghị của giới trẻ đòi hỏi làm việc mỗi ngày…hai tiếng đồng hồ, còn bao nhiêu thời giờ khác thì để nghỉ ngơi và giải trí. Tuy nhiên, phong trào phản kháng này rất nhanh chóng bị phai mờ do cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1973 và nạn thất nghiệp gia tăng. Hậu quả tích cực của chuyện làm biếng là như thế. Còn hậu quả tiêu cực thì sao ? Hậu quả tiêu cực thứ nhất, sự lười biếng là nguồn gốc sinh ra những thói hư tật xấu về tinh thần, như các cụ ta ngày xưa đã bảo: - Nhàn cư vi bất thiện. Chẳng riêng gì các cụ ta ngày xưa, mà hầu như cả và thiên hạ đều nói như vậy. Chẳng hạn người Tàu thì bảo: - Lười biếng chính là mồ mả sống động vậy. - Trăm chứng bệnh hư hỏng đều do lười biếng mà sinh ra. Còn người Tây thì nói: - Lười biếng là một người mẹ có một con trai là thằng ăn cắp và một con gái là cái đói nghèo. - Một trí tuệ tầm thường mà chuyên cần có thể tiến xa hơn một trí tuệ thông minh nhưng lười biếng. Kinh nghiệm đời thường cũng cho thấy: vì nhàn rỗi nên đờn ông mới tụm năm tụm bảy để mà cờ bạc hay chè chén say xưa, còn đờn bà mới tụm hai tụm ba để mà nói hành nói xấu người khác…Và mọi bất ổn đều bởi đó mà ra cả. Hậu quả tiêu cực thứ hai, sự lười biếng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo túng về vật chất, như các cụ ta ngày xưa cũng đã nói: - Giàu đâu tới kẻ ngủ trưa, Sang đâu tới kẻ say sưa tối ngày. Thực vậy, không làm việc thì đào đâu ra tiền, giữa một thời buổi gạo châu củi quế. Và như vậy cái nghèo như đã được nắm chắc trong lòng bàn tay của những kẻ lười biếng. Đúng thế: - Kẻ lười biếng đi chậm đến nỗi sự nghèo túng đuổi theo kịp. - Kẻ lười biếng là anh ruột của tên ăn mày. - Tuần lễ của người làm việc có bảy ngày hôm nay, còn tuần lễ của kẻ lười biếng của bảy ngày mai. Khi lâm vào tình trạng nghèo túng, thì chính bản thân mình phải phấn đầu, phải chịu khó làm việc thì mới hòng thoát ra, chứ còn biếng nhác theo kiểu “há miệng chờ sung” thì chỉ có nước “khố rách áo ôm” mà thôi. Hình như “Lã Phụng Tiên” có một câu chuyện ngụ ngôn kể lại rằng: ngày kia, chú nhái bén rớt vào một thùng sữa bò. Cứ sự thường thì chú sẽ bị chết chìm, thế nhưng chú vẫn ra sức vùng vẫy với một chút hy vọng le lói là sẽ được cứu thoát. Và sự thật đã xảy ra đúng như chú mong ước. Nhờ sự vùng vẫy của chú mà thùng sữa bò bỗng đông đặc lại thành bơ và chú đã trèo ra một cách dễ dàng. Vì thế mà người ta mới bảo: - Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu. Kẻ lười biếng đã lãng phí thời giờ của mình một cách vô ích. Mà thời giờ là một cái gì rất ư là quí giá. Người Tây thì bảo: - Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: - Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng. Trong thực tế, thời giờ có lẽ còn quí hơn cả vàng lẫn bạc. Mới đây, tác giả Nguyễn Tiến Hữu đã đưa ra vài con số “kinh hoàng” mà con người trên thế giới đã làm được trong một phút. Phải, trong một phút người ta đã sản xuất ra: - 61.000 lít rượu vang. - 210.000 lít bia. - 4 tấn ca cao. - 11 tấn cà phê hột. Và đã nốc vào bụng 1,6 triệu tách cà phê. Người ta ăn hết bao nhiêu trong một phút ? Không biết. Nhưng con người đã giết chết cơ man nào là súc vật lớn bé để sản xuất ra: - 117 tấn cá. - 314 tấn thịt đủ loại. - 14 tấn xúc xích thịt heo. Con người còn nhờ đàn gà đẻ giùm 1,7 triệu quả trứng để ăn với 680.000 ổ bánh mì ban sáng. Tất cả chỉ trong một phút. Không chỉ biết ăn, con người còn biết chơi. Và chơi cũng không kém phần vĩ đại. Chỉ trong một phút, họ cho ra lò: - 165 chiếc xe đạp để đi. - 62 chiếc ô tô để chạy. - 178 chiếc tivi để xem. - 281 chiếc radio để nghe. - 7.935 đôi giày để mang. - 126 máy điện thoại để nói chuyện thoải mái. Con mắt, đôi chân, cái tay đều có điều kiện tiêu khiển, thì cái miệng nó ghen.Con người lại phải cật lực sản xuất thêm trong một phút: - 15 tấn thuốc lá, tương đương với 21.000 điếu xì gà bự và 10 triệu điếu thuốc lá để phì phèo. Hút thước chưa đủ, cái miệng còn đòi nhấm nháp lúc xem tivi. Và thế là cứ một phút cái miệng ngốn hết 252 ký đậu phộng! Nhưng so ra chẳng thấm vào đâu so với họ sản xuất được 45 tấn đậu phộng trong một phút. Chưa hết chuyện, cái tóc con người vẩn tiếp tục mọc. Nó mọc đến 1,1 cây số chỉ trong một phút ngắn ngủi. Từ những con số kinh hoàng kể trên, người Đức có câu tục ngữ khá sâu sắc: - Ai không biết quí trọng một phút, người đó chẳng đáng sống một giờ. Kẻ lười biếng luôn tiêu dùng những sản phẩm do tay người khác làm ra, như: gạo, trà, đường, sữa, xăng, dầu…thế mà hắn lại chẳng làm ra được một chút gì cả, vì thế đối với xã hội, kẻ lười biếng chính là một tên ăn cắp chính hiệu con nai vàng ngơ ngác. Tới đây, gã xin ghi lại một mẩu chuyện nho nhỏ: “Ở dơ như hủi. Chỉ tắm một lần một tuần, nếu cần thiết. Một người tồi”. Đó là lời tự quảng cáo để tìm bạn đời của ông Reason, 63 tuổi ở thành phố Aberdeen, nước Úc. Thế nhưng, lời quảng cáo này lại hấp dẫn phái nữ mới lạ chứ. Vô cùng ngạc nhiên vì chỉ sau một vài ngày những lời quảng cáo này được đăng trên mục tìm bạn bốn phương, ông đã nhận được không biết bao nhiêu thư điện tử. Sau khi nói chuyện qua điện thoại và email qua lại, ông quyết định sẽ hẹn gặp mặt 7 người “dường như tâm đầu ý hợp” vào tháng chín. Quí bà quí cô cho biết sở dĩ mình quyết định làm quen vì: - Anh ấy có vẻ thật thà và có óc hài hước khi mô tả về mình”. Ôi, cái làm biếng cũng có tí lợi đấy chứ và đờn bà con gái đúng là khó hiểu thật. Để kết luận, gã xin trích một mẩu trong báo Kiến Thức Ngày Nay như sau: “Lười biếng tạo ra các hậu quả sinh lý cho cơ thể con người và cho xã hội. Nhưng lười biếng không phải lúc nào cũng tiêu cực. Vấn đề là phải biết…lười cho đúng lúc. Bạn đang “tấn công tình cảm ráo riết” một cô gái, cô ta sắp sửa xiêu lòng mà bạn lại lăn ra ngủ và ngáy khò khò, thì quả thực bạn vừa lười lại vừa chẳng giống ai! Tuy nhiên, khi mơ màng nhìn trăng sao mà suy nghĩ: - Mình là ai ? - Mình từ đâu mà đến ? - Và mình sẽ đi về đâu ? Ai dám bảo họ là kẻ lười biếng ? Vì nếu như thế, thì tất cả các bậc hiền nhân quân tử cao quí xưa nay đều không được….siêng cho lắm. Gã Siêu.
Bàn về tình yêu, người ta thường bảo: - Tình yêu thì cũ như trái đất, nhưng lại đổi mới như mỗi GãSiêu 80
Bàn về tình yêu, người ta thường bảo: - Tình yêu thì cũ như trái đất, nhưng lại đổi mới như mỗi độ xuân về. Xem ra gã không nhất trí với nhận xét này cho lắm, bởi vì trái đất vào thuở ban sơ, chưa một bóng người, giống như mặt trăng hay sao hỏa bây giờ, thì đào đâu cho ra được tình yêu. Tình yêu là lãnh vực của con người. Vì thế, phải có con người thì mới có tình yêu. Đây cũng là điều sách Sáng Thế Ký đã mô tả. Thượng Đế lấy bùn đất tạo nên hình hài Adong, rồi thổi phù một cái để phú ban cho Adong tấm linh hồn. Và từ đó, Adong sống động như chúng ta bây giờ. Ngài để Adong ở trong vườn địa đàng, một nơi cư ngụ thật tuyệt vời, đầy ắp những hoa thơm cỏ lạ, ríu rít những tiếng chim kêu vượn hót và ve ngâm. Thế nhưng, Ngài vẫn cảm thấy như có một điều gì đó bất ổn, một điều gì đó trục trặc…Suốt ngày Adong lủi thủi một mình, cô đơn đếm từng bước chân âm thần trên sỏi đá, hái những trái cây chín ngọt mà nuốt chẳng vô. Lúc bấy giờ Thiên Chúa mới “ngộ ra” điều bất ổn, điều trục trặc ấy. Ngài vỗ trán đánh đét một phát, rồi lẩm bẩm: - À, thì ra thế. Anh đờn ông ở một mình không tốt. Ta hãy dựng nên cho nó một người bạn đường tương xứng với nó. Nói là làm. Đợi lúc Adong ngủ say, Thượng Đế bèn lấy một chiếc xương sườn của Adong mà dựng nên Evà, chị đờn bà đầu tiên. Sau đó, Ngài dắt Evà tới ra mắt Adong. Vừa nhìn thấy Evà, Adong đã mừng rỡ kêu lên: - Này đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Nếu diễn tả bằng ngôn ngữ bình dân Việt Nam, hẳn Adong đã hồ hởi gọi lớn: - Mình ơi ! Mình ơi ! Hai chữ “mình ơi” này sao mà ngọt như đường cát, mát như đường phèn. Evà nghe xong cũng cảm thấy ấm cả cõi lòng. Đồng thời, với hai tiếng “mình ơi” đầy trìu mến này, tình yêu đã anh dũng đi vào nhân loại và chiếm ngự mặt địa cầu. Suốt dòng thời gian, tình yêu vẫn liên tục phát triển. Làm sao kể cho hết những bài thơ, những bản nhạc, những câu chuyện, những cuốn sách, những bức tranh, những pho tượng, những phim ảnh, những tuồng kịch…nói về tình yêu. Thế nhưng, nếu có ai lỡ dại mồm dại miệng mà lên tiếng hỏi: - Tình yêu là đí gì ? Chắc hẳn chẳng một ai trong chúng ta đưa ra được một định nghĩa đầy đủ và chính xác về tình yêu. Như thế, tình yêu mãi mãi vẫn là một mầu nhiệm. Thành thử một ông thi sĩ nào đó đã thất vọng kêu lên một cách não nùng và bi đát: - Đố ai định nghĩa được tình yêu, Có nghĩa gì đâu một buổi chiều. Và một nhà thơ cổ đã đưa ra một nhận xét thật chí lý: - Cái tình là cái chi chi, Dầu chi chi, vẫn chi chi với tình. Đúng thế, mặc dù không hiểu tình yêu là đí gì, thế mà người ta vẫn cứ phây phây sống tình yêu. Mặc dù chẳng biết cái tình là cái chi chi, thế mà người ta vẫn cứ chi chi với tình. Vậy phải sống tình yêu như thế nào, phải chi chi với cái tình ra làm sao ? Các cụ ta ngày xưa đã khuyên nhủ bày trẻ: - Học ăn, học nói, học gói, học mở, Điều đó có nghĩa là chúng ta phải học từ những cái đơn sơ và tầm thường, đến những cái phức tạp và quan trọng. Phải học tuốt luốt, bất cứ sự gì, huống nữa là tình yêu, một vấn đề vừa cần thiết, vừa phức tạp, lại vừa tế nhị. Có những người đã già cái đầu, gần đất xa trời rồi mà vẫn chưa biết yêu cho đúng đắn. Họ cứ tưởng mình yêu người, những hóa ra lại là yêu chính cái tôi của mình. Mà cái tôi lại thường đi đôi với cái tồi, hay nói theo kiểu Nguyễn Du: - Chữ tồi liền với chữ tôi một vần. Có một chàng thanh niên tới gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng hồi lâu rồi hỏi: - Thế thì con đã yêu ai chưa ? Chàng thanh niên đỏ mặt tía tai, ấp úng trả lời: - Thưa cha, chưa ạ. Cha bề trên bèn cười lớn và nói với chàng: - Thế thì con phải trở về, học yêu trước rồi mới tới đây mà học tu sau. Kinh nghiệm cũng cho thấy: tình yêu không ở thể tĩnh, mà luôn ở thể động, người ta không chỉ yêu một lần thay cho tất cả, trái lại phải yêu mãi, yêu hoài, có nghĩa là tình yêu phải được liên tục đổi mới, phải được liên tục phát triển, mỗi lúc một tăng, ngày hôm nay chất lượng phải cao hơn ngày hôm qua. Giống như anh chàng và chị nàng, không phải chỉ kết hôn một lần ở nhà thờ là đã xong chuyện, nhưng hơn thế nữa, mỗi ngày họ còn phải kết hôn lại với nhau, mỗi ngày họ còn phải hâm nóng lại tình yêu. Người ta thường phân chia tình yêu thành hai loại, đó là ấu trĩ và trưởng thành, vị kỷ và vị tha, vì mình và vì người. Vậy thế nào là một tình yêu ấu trĩ, một tình yêu vị kỷ, một tình yêu vì mình ? Còn thế nào là một tình yêu trưởng thành, một tình yêu vị tha, một tình yêu vì người ? Với loại thứ nhất, người ta đặt cái tôi của mình lên hàng đầu. Họ giống như anh chàng Narcisse trong thần thoại Hy Lạp. Anh ta cúi xuống dòng sông và chỉ nhìn thấy khuôn mặt đẹp trai của mình trên làn nước, để rồi cuối cùng anh ta đã nhảy xuống sông mà chết. Hồn biến thành cây hoa thủy tiên mọc ở bên bờ. Tình yêu của họ là một tình yêu vị kỷ hay vì mình bởi lẽ khi yêu họ bắt người yêu phải phục vụ cho bản thân họ, phải làm cho họ được vui sướng mà không kể gì tới những khổ đau, những tủi cực mà người yêu phải gánh chịu. Họ giống như chị đờn bà nhìn vào cặp mắt anh đờn ông, không phải để thấy rằng cặp mắt ấy đẹp, mà chỉ để thấy hình ảnh mình được in trong cặp mắt ấy. Tình yêu của họ là một tình yêu ấu trĩ , bởi lẽ họ giống như một đứa con nít yêu mẹ nó chỉ vì mẹ nó có một bầu sữa, sẵn sàng cho nó bú tí bất cứ lúc nào. Trong khi đó với loại thứ hai, người ta dành địa vị ưu tiên số một cho người mình yêu. Tình yêu của họ là một tình yêu vị tha hay vì người, bởi lẽ khi yêu họ sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, để đem lại hạnh phúc cho người họ yêu. Họ giống như một người vợ tần tảo, đầu tắt mặt tối nuôi chồng, đã được ca dao diễn tả qua hình ảnh con cò: - Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non. Nàng về trở lại cùng con, Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng… - Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo xèo mặt nước buổi đò đông. Tình yêu của họ là một tình yêu trưởng thành bởi lẽ chỉ có người đã trưởng thành mới biết quên mình và dám hy sinh vì người khác. Họ giống như một người mẹ không quản thức khuya dậy sớm để chăm sóc cho đàn con. Nạn đói năm Ất Dậu xảy ra tại miền Bắc, khiến cho gần một triệu người bị chết. Lúc đầu người ta còn ăn cháo, ăn rau. Về sau, ngay cả củ chuối trong vườn cũng không còn nữa để mà ăn. Đi tới đâu người ta cũng thấy những thây ma nằm la liệt, chỉ còn da bọc xương. Có hai mẹ con nhà kia nằm thoi thóp bên vệ đường. Nghe tiếng khóc của đứa con, người mẹ đã cắt đứt đầu ngón tay, đút vào miệng đứa con, để đứa con được bú những giọt máu cuối cùng của mình thay cho dòng sữa, với hy vọng đứa con sẽ được một người tốt bụng nào đó cứu sống. Và hy vọng này đã trở thành sự thật. Đứa con ấy đã được một người hảo tâm đi qua bồng ẵm về nhà và nuôi dưỡng, đến nay vẫn còn sống. Sự tiến triển của tình yêu là một con đường một chiều. Hướng đi bắt buộc là phải đi từ ấu trĩ đến trưởng thành, từ vị kỷ đến vị tha, từ vì mình đến vì người. Tuy nhiên, hướng đi này đòi buộc chúng ta phải cố gắng không ngừng. Sở dĩ như vậy vì từ bên trong, mỗi người đều mang sẵn hai yếu tố thiện và ác, vị kỷ và vị tha. Hai yếu tố này không ngừng giao tranh để dành dân chiếm đất. Chỉ cần nhắm mắt ngủ quên hay chểnh mảng một chút, lập tức cái ác sẽ thắng thế và vị kỷ sẽ lên ngôi. Đúng như ông thánh Phaolô đã bảo: - Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm. Còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Vì thế: - Sống là chiến đấu, là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Những điều vừa trình bày ở trên, xem ra nặng phần lý thuyết. Vì thế, bây giờ gã xin đi vào đời thường để đưa ra mấy thứ tình yêu thật cụ thể, không chừng mỗi người chúng ta đều đã gặp phải. Gã tạm chia thành ba thứ, đó là tình yêu “nếu”, tình yêu “vì“ và tình yêu “dù”ø. Ba chữ nếu, vì và dù là những yếu tố then chốt, quyết định cho đặc tính và tên gọi cho mỗi thứ tình yêu. Vậy trước hết, thế nào là tình yêu nếu ? Đây là thứ tình yêu thường xuất hiện vào giai đoạn đầu khi hai người mới quen nhau. Thực vậy, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, người ta vừa mơ mộng lại vừa so đo, vừa thi vị hóa lại vừa cụ thể hóa tình yêu, để rồi đưa ra những điều kiện thế này thế nọ cho tình yêu được nảy mầm và lớn lên, đâm bông và kết trái. Nói huỵch toẹt ra thì đây là một thứ tình yêu có tính toán, có điều kiện: - Nếu anh thế này…thì em sẽ yêu anh. - Nếu em thế kia…thì anh sẽ yêu em. Một trong những chữ nếu tệ hại nhất mà nhiều chị nàng ngây thơ đã bị sập bẫy và đã trở thành nạn nhân đáng thương, đó là: - Nếu em…”cho” anh, thì anh sẽ yêu em mãi mãi. Nếu em thỏa mãn những đòi hỏi của anh, thì anh sẽ yêu em trọn đời. Trước những lời dụ dỗ đường mật ấy, nhiều chị nàng đã phe lờ những cảnh cáo của cha mẹ, cũng liều nhắm mắt đưa chân, để rồi cuối cùng đã phải cúi mặt lãnh nhận hậu quả thảm khốc của đau khổ và nước mắt vì sự lầm lỡ và dại dột của mình, đúng là: - Kiếm củi ba năm thiêu một giờ. Còn anh chàng, một khi đã được thỏa mãn, lập tức quên béng ngay mất những thề thốt khi trước và lộ nguyên hình là một chàng họ sở tên khanh, bèn quất ngựa truy phong, phóng lên ngựa chạy biến mất tiêu, để chị chàng ở lại ôm mối hận một đời. Có lẽ cũng vì thế mà tại các ký túc xá sinh viên, nạn “ăn cơm trước kẻng” vẫn cứ liên tục phát triển, và Việt Nam, con số những người nạo hút và phá thai cao vào bậc nhất trên thế giới, nhất là đối với những cô gái còn non trẻ. Tuy nhiên, thứ tình yêu nếu này mới chỉ là như một chứng bệnh ngoài da, phớt qua mà thôi. Bởi vì tới một lúc nào đó, người ta sẽ sáng mắt ra, không thể ngồi đấy mà sống với những chữ nếu, những ảo tưởng, như dân tây chính hiệu con nai vàng ngơ ngác đã bảo: - Với những chữ nếu, người ta có thể bỏ kinh thành Paris vào trong một cái chai. Tiếp đến, thế nào là tình yêu vì ? Mấy ông triết gia lẩm cẩm, thường phát biểu như sau: - Phàm đã là người thì mỗi khi hành động thì đều có lý do riêng của mình. Cũng vậy, khi yêu người ta cũng đưa ra những lý do này lý do khác để biện minh cho việc làm của mình. Anh yêu em vì em thế nọ. Còn em yêu anh vì anh thế kia. Thứ tình yêu này chẳng cần màu mè hoa lá, nhưng mang nặng tính cách thực dụng. Cô gái nọ yêu chàng trai kia. Mọi người đều lên tiếng can ngăn vì chàng trai kia không đủ tiêu chuẩn. Ngay cả cha sở cũng phải lắc đầu ngao ngán. Thế nhưng cô gái đã trả lời: - Con dứt khoát phải lấy anh ấy, vì anh ấy đẹp trai và gia đình anh ấy lại giàu có. Ít nữa ra mắt con phải nhìn thấy một cái gì cụ thể chứ. Đám cưới của họ được tổ chức một cách linh đình và trọng thể, trong nhà thờ chính tòa cũng như trong một nhà hàng năm sao. Cưới nhau xong họ liền có một chiếc xe hơi và một căn nhà bề thế. Cô gái hoàn toàn thỏa mãn với chỉ tiêu được hoàn thành. Thế nhưng, chỉ ba tháng sau, cô gái tới gặp cha sở với khuôn mặt sưng vù vì bị chồng đánh sau một trận nhậu thiếu xỉn thừa say. Cô gái khóc lóc thảm thiết: - Biết thế này thì… Và cha sở cũng phải thở dài: - Bây giờ thì con đã nhìn thấy một cái gì cụ thể rồi chứ ? Người ta có thể đưa ra nhiều lý do cho sự chọn lựa của mình, nhưng cuối cùng xem ra cũng không ngoài ba lãnh vực, đó là sắc đẹp, tiền bạc và quyền thế. Thứ nhất, đó là sắc đẹp. Em yêu anh vì anh bảnh trai lại còn hào hoa phong nhã. Anh yêu em vì em đẹp gái. Lãnh vực này thường cuốn hút mấy anh đờn ông nhiều hơn. Nói vậy không có nghĩa là mấy chị đờn bà chẳng để ý tới ngoại hình của cánh mày râu đâu nhé. Bằng chứng là khối bà khối cô mê như điếu đổ mấy anh chàng tài tử, ca sĩ, cầu thủ đẹp giai như Elvis Presley, David Beckham…Mấy ông thần tượng này mà đi tới đâu, thì không thiếu đờn bà con gái liền bâu tới đó!!! Thế nhưng suy cho cùng, có tuổi trẻ nào mà không già, có sắc đẹp nào mà không bị thời gian gậm nhấm, cũng như có sắc đẹp nào mà không bị tàn phai dưới ánh nắng mặt trời. Khi sắc đẹp không còn nữa, khi cái lý do yêu đã đổ ngả đổ nghiêng, thì lập tức người ta liền đi tìm một đối tượng khác để điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa, đúng như ca dao Việt Nam đã diễn tả: - Còn duyên anh cưới ba heo, Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi. - Còn duyên kén cá chọn canh, Hết duyên rốc đực, cua kềnh cũng vơ. - Còn duyên kén những trai tơ, Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng. Thứ hai, đó là tiền bạc. Em yêu anh vì anh có nhiều tiền. Anh yêu em vì gia đình em giàu sang. Lãnh vực này thường cuốn hút mấy chị đờn bà nhiều hơn vì họ muốn thấy được một cái gì cụ thể, bảo đảm cho tương lai của mình, như một câu danh ngôn đã bảo: - Người ta lấy vàng để nhử đờn bà. Người ta lấy đờn bà để nhử đờn ông. Và người ta lấy đờn ông để tìm ra vàng. Đúng là cái vòng lẩn quẩn!!! Nói vậy không có nghĩa là mấy anh đờn ông chẳng để ý tới sự bề thế của gia đình vợ đâu nhé. Bởi vì không thiếu gì những anh đờn ông nhắm chỗ giàu sang để tá túc, chẳng quản ngại thân phận ở rể. Cưới xong một phát là đã có được một căn nhà đầy đủ tiện nghi, đỡ tốn sức lao động, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Mấy anh đờn ông loại này đã chẳng được xã hội phong cho hàm kỹ sư đào mỏ đó sao. Thế nhưng, tiền bạc vốn dĩ là cái ở bên ngoài chúng ta, nay còn mai mất. Và khi tiền bạc không còn nữa, thì tình yêu cũng chấp cánh bay cao: - Bây giờ tiền hết, gạo không, Thì anh ở lại mà trông lấy hòm. Thứ ba, đó là quyền thế. Em yêu anh vì anh là bác sĩ, là kỹ sư…Còn anh yêu em vì ông già em là chủ tịch, là giám đốc… Lãnh vực này thường được cả đờn ông lẫn đờn bà nhắm tới. Thực vậy, có những chị đờn bà ngày hôm trước còn bán thịt lợn ngoài chợ, hay bầu bạn với nồi niêu xoong chảo trong xó bếp, nhưng ngày hôm sau đã nghiễm nhiên được cả và thiên hạ gọi là bà bác sĩ, bà kỹ sư, bà chủ tịch, bà giám đốc…kể ra thì cũng thích và cũng oai. Đây chính là một tước hiệu từ trời rơi xuống, chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào cả, cũng chẳng cần kèn cựa tranh đua chi cả. Lại cũng có những anh đờn ông đi vào hôn nhân, nhắm tới người vợ thì ít, nhưng nhắm tới ông bố vợ thì nhiều, bởi vì ông bố vợ là một người thế lực, mà anh ta có thể dùng làm bàn đạp, hay dùng làm chiếc thang để leo dần lên từng nấc danh vọng. Anh ta không đứng trên đôi chân của mình, mà đã mượn đỡ và đứng trên đôi chân của ông bố vợ cơ đấy! Một khi thứ tình yêu nếu và tình yêu vì được đem đi kiểm nghiệm và phân chất, hẳn chúng ta sẽ thấy chúng thuộc loại tình yêu ấu trĩ, tình yêu vị kỷ, tình yêu vì mình, bởi vì mọi thứ từ tiền bạc đến quyền thế, từ ông bố vợ đến ngay chính người vợ nữa, tất cả đều được dùng để phục vụ cho cái tôi của mình. Nói cách khác, đây là một thứ tình yêu dổm, một thứ tình yêu trá hình, một thứ tình yêu ngụy tạo mà thôi. Sau cùng, thế nào là tình yêu dù ? Theo gã nghĩ: đây mới là loại tình yêu thứ thiệt, tinh ròng, không pha thêm tạp chất như hai thứ tình yêu kia. Đây mới là loại tình yêu trưởng thành, vị tha và vì người. Trong thứ tình yêu này, người ta sẵn sàng chấp nhận những khuyết điểm, những thiếu sót của nhau: - Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Trong thứ tình yêu này, người ta sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để đem lại hạnh phúc cho nhau: - Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa. Để rồi: - Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon. Và theo các nhà đạo đức, thứ tình yêu này chính là một phản ảnh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì: - Thiên Chúa hằng yêu thương con người, dù con người đã phản bội Ngài. Thiên Chúa hằng yêu thương chúng ta, dù chúng ta là kẻ tội lỗi. Đi vào thực tế, gã thấy thứ tình yêu dù đã được xuất hiện dưới nhiều hình thức, cụ thể là để đáp ứng với những tiêu chuẩn mà thứ tình yêu vì đã đưa ra. Đáp ứng với tiêu chuẩn sắc đẹp: dù chị nàng có xấu như Chung Vô Diện trong truyện Tàu, thì anh chàng cũng vẫn yêu lấy yêu để: - Mũi em mười tám gánh lông, Chồng yêu, chồng bảo râu rồng trời cho. Đêm nằm thì ngáy o o, Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà. Đi chợ thì hay ăn quà, Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm. Trên đầu những rác cùng rơm, Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu. Đáp ứng với tiêu chuẩn giàu sang: dù anh chàng có nghèo rớt mùng tơi, có là dân khố rách áo ôm chăng nữa, thì chị nàng cũng vẫn mê tít thò lò: - Chồng ta áo rách, ta thương, Chồng người áo gấm, xông hương mặc người. - Yêu nhau chẳng quản chiếu giường, Dẫu rằng tàu lá che sương cũng tình. Đáp ứng với tiêu chuẩn quyền thế: dù anh chàng có là phó thường dân nam bộ, vai nặng chân trơn, hay bần cố nông chăng nữa, thì chị nàng cũng vẫn cứ gắn bó khắng khít còn hơn cả keo Michelin, keo dán sắt, hay keo bẫy chuột: - Yêu anh tâm trí hao mòn, Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh. Jean Wasa, một viên quan xứ Phần Lan, bị kết án tù chung thân vì tội phản loạn. Bà vợ là Catherine đã xin với nhà vua cho phép mình được vào trong tù, chia sẻ nếp sống đọa đày với chồng. Nhà vua cũng như mọi người hết sức khuyên ngăn. Cuối cùng, bà đã phải rút chiếc nhẫn cưới cho mọi người xem. Trên chiếc nhẫn cưới này có khắc ghi hai chữ: “sola mors”, nghĩa là chỉ trừ có cái chết mà thôi. Được phép của nhà vua, bà đã sống với chồng mười bảy năm trong tù, cho đến khi nhà vua băng hà và Jean Wasa được trả tự do. Thứ tình yêu dù này làm cho gã nhớ tới lời cam kết mà đôi hôn nhân vốn thề thốt cùng nhau: dù thịnh vượng hay gian nan, dù khỏe mạnh hay bệnh hoạn, thì họ vẫn cứ chung thủy, yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày trong suốt cả cuộc đời. Quả là tuyệt vời, khiến Thiên Chúa cũng phải hài lòng và mỉm cười!!! Gã Siêu.
Trong số trước, gã đã bàn đến nghề nghiệp và để cho đủ món ăn chơi, trong số này gã xin nói GãSiêu 81
Trong số trước, gã đã bàn đến nghề nghiệp và để cho đủ món ăn chơi, trong số này gã xin nói tới công danh, như một hậu quả tất nhiên của việc mình đã hùng hục kéo cày, mình đã bươm chải ngược xuôi, mình đã vất vả kiếm sống.
Mở bất cứ cuốn tự điển Việt Nam nào, gã cũng thấy được hai ý nghĩa của chữ danh. Nghĩa thứ nhất, đó là tên. Nghĩa thứ hai, đó là tiếng tăm. Gã sẽ từ từ mổ xẻ hai ý nghĩa này.
Trước hết, danh có nghĩa là tên. Kể từ khi cất tiếng khóc oe oe đi vào cuộc sống, chúng ta được cha mẹ đặt cho một cái tên, nhờ đó thiên hạ có thể phân biệt chúng ta với người này người nọ.
Phép đặt tên của người Việt Nam cũng khá nhiêu khê và rắc rối. Gã chỉ xin ghi lại những điểm chính đã được Toan Ánh trình bày trong cuốn “Con người Việt Nam”, rồi sau đó thêm mắm thêm muối cho đậm đà hơn một tí.
Theo tác giả, ngày xưa nước ta không có hộ tịch hộ khẩu, thành thử đứa bé mở mắt chào đời không phải làm giấy khai sinh, người ta có thói quen gọi nó là thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con đỏ…tùy theo nó là con giai hay con gái.
Riêng với những gia đình hiếm muộn, thường gọi con cái bằng một cái tên rất xấu, như thằng Tèo, cái Tủn…vì sợ rằng tên đẹp quá, thì sẽ bị ông “ngáo ộp” vồ mất, hay sẽ bị cô hồn các đẳng rước đi. Và cứ thế, cứ thế cho đến lúc khôn lớn. Lắm khi sắp sửa lấy vợ lấy chồng, con cái mới được cha mẹ chính thức đặt tên cho.
Còn ngày nay thì khác, vợ vừa mới có “cứt gián”, chồng đã hý hửng chọn tên cho con. Hay vừa mới siêu âm về, biết được con mình là giai hay là gái, cha mẹ đã vội xì xầm bàn tán chuyện đặt tên cho con.
Và khi đặt tên cho con, cha mẹ phải lưu ý không được trùng tên với vua quan, hay chú bác, ông cụ bà kỵ của mình cũng như của lối xóm, bằng không thì rắc rối to.
Gã đã từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng trẻ có được đứa con đầu lòng, hớn hở đặt tên và làm giấy khai sinh cho con. Nhưng vừa về tới nhà, liền bị người bà con xa lắc xa lơ đến mắng cho một chặp :
- Bộ hết tên rồi sao mà đặt tên ấy cho nó. Chúng mày có biết không tên ấy là tên cụ cố sinh ra ông ngoại của thím tao.
Và thế là trong giấy tờ đứa bé có một tên, còn trong đời thường thì nó lại được gọi bằng một tên khác.
Tuy nhiên, nhiều người khi oán ghét một ai, lại cố tình lấy tên kẻ ấy mà đặt cho con của mình và coi đó như một cách…trả thù dân tộc vậy!!!
Hầu như dân tộc nào cũng thế, người ta rất thận trọng trong khi đặt tên, bởi vì tên gọi ít ra cũng phải nói lên ước vọng của cha mẹ đối với con cái.
Chẳng hạn trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời hẳn đã đặt tên cho người đờn ông đầu tiên là Adong và Adong vừa có nghĩa là bùn đất vừa có nghĩa là con người. Sau đó, Adong, người đờn ông đầu tiên ấy đã chớp chớp đôi mắt khi gặp người đờn bà đầu tiên và ông đặt tên cho nàng là Eva, có nghĩa là mẹ của chúng sinh. Đức Giavê đã đổi tên cho Abram thành Abraham, có nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Còn Đức Kitô đã cải tên cho ông Simon thành Phêrô, có nghĩa là đá tảng.
Người Việt Nam cũng thế, cha mẹ thường gửi gấm những ước vọng thầm kín của mình vào tên gọi của con cái. Chẳng hạn cụ thân sinh ông Cao Bá Quát đặt tên cho hai con của mình là Bá Đạt và Bá Quát, bởi vì đời nhà Chu bên Tàu có tám vị hiền sĩ , đó là Bá Quát và Bá Đạt, Trọng Đột và Trọng Hốt, Thúc Dạ và Thúc Quý, Quý Quỳ và Quý Đa. Đặt tên cho hai con là Bá Đạt và Bá Quát, cụ thân sinh ra các ông đã muốn cho các con mình sau này cũng sẽ trở nên những bậc hiền sĩ.
Một tên đầy đủ thường gồm có ba phần, đó là họ, chữ đệm và tên.
Trước hết là họ. Họ từ tổ tiên truyền xuống, đời này qua đời khác. Thường thì con lấy họ của bố, nhưng cũng có trường hợp theo họ mẹ, chẳng hạn khi người mẹ không có anh em trai, thì một trong những người con sẽ lấy họ mẹ để lo việc phụng thờ ngoại tộc, hay khi người mẹ sinh con ra mà không có bố…
Tiếp đến là chữ đệm. Đờn bà con gái thường dùng chữ Thị. Còn đờn ông con giai thường dùng mấy chữ như Văn, Đình, Hữu, Duy…Ngày nay chữ đệm đã thay đổi nhiều. Đờn bà con gái lắm người không thích chữ Thị, vì xem ra có vẻ bị lép vế, nên dùng những chữ khác cho thêm phần mộng mơ, lãng mạn và âm vang leng keng, như chữ Mộng, Lệ, Thùy…
Viết tới đây, gã rất lấy làm “tâm phục khẩu phục” các bậc phụ mẫu thời trước. Tuy hoàn cảnh lúc bấy giờ chưa sáng, những quí cụ ông, quí cụ bà đã từng đặt những cái tên thật kêu và thật đẹp cho con cái mình, chẳng hạn như Mộng Xuân, Lệ Thu, Thúy Lam, Diễm Quỳnh…Quả là hết xảy và trên cả tuyệt vời nữa!
Sau cùng là tên. Đây là phần cuối, nhưng lại là phần chính. Như đã nói ở trên, tên được chọn để nói lên sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang tên, hay ít ra cũng phải có một ý nghĩa nào đó.
Đối với con gái, người ta ưa chọn tên các loài hoa như Lan, Huệ, Cúc, Mai, Đào, Liễu, Liên…hay tên bốn mùa như Xuân, Hạ, Thu, Đông…Đối với con giai, người ta thích những tên có tính cách hùng mạnh, nói lên bổn tính của phái nam, như Nhân, Trí, Dũng, Tín, Trực…hay đôi khi giản tiện, người ta lấy ngay năm sinh để đặt cho con, như Tý, Sửu, Dần, Mão…
Cũng giống như dân Do Thái, người Việt Nam ta có tục kiêng tên. Khi có con đầu lòng, thì người ta dùng tên con để gọi bố mẹ nó, dù tên nó lúc bấy giờ mới chỉ là một tên tạm bợ, như tên Tí, tên Tẹo. Người ta gọi bố mẹ nó là bác Tí giai và bác Tí gái, hay bác Tẹo giai và bác Tẹo gái.
Chính vì sự kiêng tên, mà nhiều chữ phải đọc chệch sang chữ khác, chẳng hạn như Hoàng đổi thành Huỳnh, Vũ đổi thành Võ, Long đổi thành Luông…
Khi có tí chức, tí quyền hay tí tiếng tăm, có khi người ta dùng họ để gọi thay tên, chẳng hạn như Nguyễn tiên sinh, bác Hồ, bác Tôn…Có khi người ta dùng chức tước văn bằng để gọi, chẳng hạn như ông Huyện Đặng, cụ Cử Vũ…có khi người ta dùng tên làng, tên xã để gọi, chẳng hạn như Ông tú Vị Xuyên, cụ Tam nguyên Yên Đổ.
Bình thường, chỉ những kẻ bạch đinh, vai nặng chân trơn, mới phải dùng tên để gọi, vì thế tại các làng xã, người ta cố dành dụm chút tiền còm để mua cho mình tí chức như chân nhiêu, chân xã hầu được bàn dân thiên hạ gọi là ông nhiêu và bà nhiêu, ông xã và bà xã thay cho tên của mình.
Đặc biệt khi vác lều chõng đi thi, thì phải biết kiêng húy, có nghĩa là trong bài văn, thí sinh không được dùng những chữ dính dáng đến tên của nhà vua và các vị tôn tộc trực hệ. Nếu chẳng may phạm húy, thì dù bài văn có tuyệt vời đến đâu, cũng sẽ bị sổ toẹt và nhiều khi còn mang lấy vạ vào thân.
Tuy nhiên, đã có danh thì cũng cần phải có tiếng, nghĩa là cái tên của mình phải được nhiều người biết đến. Hơn thế nữa, người ta vốn không ưa những sự quá đơn giản, mà lại thích những sự rườm rà hoa lá cành. Trần xì cái tên cha mẹ đặt cho như Tí, Tèo, Tẹo…mà thôi chưa đủ, cần phải phụ đề vào đó chút ít, như ông giám đốc Tí, bà bác sĩ Tèo, bác chủ tịch Tẹo…Chính những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh này làm cho người ta nở mày nở mũi và nghênh ngang với đời.
Vì thế, chữ danh, ngoài cái ý nghĩa là tên gọi, còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là tiếng tăm.
Đứng trước cái danh này, gã nhận thấy bàn dân thiên hạ được chia làm hai phe : tiêu cực và tích cực.
Phe thứ nhất mang tính cách tiêu cực, coi tiếng tăm chỉ là sự giả trá thế gian, hay như một thứ phân bón, nên không màng chi đến. Chẳng hạn như tục ngữ đã bảo :
- Công danh bánh vẽ, giàu sang chiêm bao.
Hay như Tản Đà cũng đã viết :
- Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
Bởi đó, người ta rất e dè và ngần ngại :
- Cây cao thì gió càng lay,
Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.
- Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Điều quan trọng là phải chí thú làm ăn, ra sức gầy dựng sự nghiệp, rồi tiếng tăm ắt sẽ tới, mà lỡ nó không tới cũng chẳng sao cả, vì rốt cuộc ta vẫn là ta kia mà, như lời Hoàng Đạo trong “Mười điều tâm niệm” đã khuyên giới trẻ :
- Cần sự nghiệp, chứ không cần công danh.
Hay như ca dao cũng đã nhắc nhở :
- Công danh đeo đuổi mà chi,
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông.
Thậm chí có người còn phớt lờ cái danh, xóa tên nó trong sổ nhân sinh và đặt nó ra bên rìa cuộc đời mình :
- Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao.
Phe thứ hai mang tính cách tích cực, phải hăm hở lăn xả và nhập cuộc để kiếm chút cháo. Đại diện cho phe chịu chơi, phe diều hâu, chủ chiến này chính là Nguyễn Công Trứ. Rải rắc trong thơ văn, ông luôn hô hào :
- Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ lần.
Đường đường là một kẻ trượng phu, một đấng tu mi nam tử mà chẳng có một tí công danh thì thà chết quách đi cho rồi :
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Vì thế, phải dứt khóat lập trường, phải ra sức tạo lập cho mình một tiếng tăm cho thiên hạ biết mặt cũng như cho đời biết tên :
- Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Chữ danh thường đi đôi với chữ lợi. Có tiếng tăm thì cũng thường có nhiều bổng lộc vật chất, nói chung là có nhiều tiền. Danh và lợi vốn tỷ lệ thuận với nhau. Người ta thường hay lợi dụng cái danh của mình để vơ vét về cho thật nhiều. Đồng thời cái lợi chính là một chất kích thích làm cho người ta phấn khởi và hồ hởi leo lên cao, lên cao hơn nữa, cho dù có phải luồn, phải lách, hay phải cúi gập người xuống.
Nhìn thấy cái lợi, hay cụ thể hơn, nhìn thấy tiền, mắt ai mà chẳng sáng lên như đèn ô tô. Từ đứa con nít cho chí tới ông già, nghĩa là tất tật nam phụ lão ấu đều thấu triệt giá trị của đồng tiền, như một câu ca dao hôm nay đã sánh ví :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Tự bổn chất, có danh có tiếng là chuyện bình thường, vô thưởng vô phạt, nhưng xem ra lại rất thích hợp với bản tính con người. Bởi vì ông chính trị gia nào cũng mong được người đời sau biết đến tên tuổi của mình. Anh nhà văn nhà thơ nào cũng muốn được chui tọt vào trong văn học sử và lưu lại ở đó dù chỉ một vài dòng ngăn ngắn.
Tuy nhiên, vấn đề trở nên nhiêu khê và rắc rối ở chỗ là phải leo lên đài danh vọng bằng cách nào ? Phải làm sao để mà “có danh gì với núi sông” ?
Trước hết, gã thấy có những kẻ nhờ vợ hay nhờ nhà vợ mà leo lên :
Chẳng hạn như một anh chàng sinh viên vừa mới mãn đại học, đang thất nghiệp dài dài, vớ ngay được cô vợ, con ông giám đốc, thế là chỉ một thời gian ngắn, sau khi rước “cô nàng về dinh’, anh ta nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế “trợ lý giám đốc” và từ đó việc làm ăn phất lên như diều gặp gió. Đường công danh mở toang, anh ta chẳng thèm thênh thang cử bộ, mà lái ô tô con phom phom đi vào.
Đúng là :
- Có người nhờ vợ nên ông,
Lắm người vì vợ mất không cơ đồ.
Tiếp đến, gã thấy có những kẻ nhờ thế giá hay nhờ sự phò trợ của bè bạn mà leo lên, theo kiểu “phe ta thổi phồng phe mình”.
Chẳng hạn như một anh thợ hát, giọng ca đặc sệt mùi thuốc lào, nhưng được mấy tay bạn, vốn nghề ký giả, nhà báo thổi lên và phong làm “siêu sao”, làm “quái kiệt”…khiến cho bàn dân thiên hạ cứ phải ngẩn tò te, lò mò muốn biết.
Sau cùng, gã thấy có những kẻ nhờ công sức của mình mà leo lên. Tuy nhiên, công sức ở đây lại được rẽ vào nhiều ngả khác nhau, giống như chữ tu kia cũng có dăm bảy đường :
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba tu…nhà dòng.
Đúng thế, có những kẻ ra công gian giảo, ra sức dối trá để kiếm cho mình tí danh.
Chẳng hạn mấy cô cậu học trò, hay mấy anh chị sinh viên đã khều cho mình mảnh bằng tú tài và cử nhân qua việc quay cóp trong các cuộc thi. Theo sự nhận xét của gã, đa số các thí sinh tại Việt Nam, không ít thì nhiều, cũng đã gian lận trong lúc làm bài thi. Như vậy, một khi đã “ra lò”, không hiểu họ sẽ dẫn đất nước này đi về đâu ?
Quay cóp mà thôi chưa đủ, mấy ông cán bộ và công chức còn sử dụng quái chiêu độc địa hơn nữa. Số là nhà nước muốn nâng cấp phe ta, đòi buộc các quan lớn cũng như các quan nhỏ phải có văn bằng nọ, văn bằng kia. Bởi đó, thay vì đi học hàm thụ, để cập nhật hóa trình độ của mình, mấy ông quan này chỉ việc ngồi ở nhà rung đùi, rồi tung tiền ra, mua bằng giả để giữ cho được cái ghế mình đang ngồi.
Nếu cụ Tam Nguyên Yên Đổ đội mồ mà sống dậy, nhìn thấy các quan, chắc chắn cũng phải kêu trời, như ngày xưa cụ đã từng than thở cả tiếng về những ông tiến sĩ giấy :
- Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Gã biết một tên nọ, học mãi học hoài mà vẫn chẳng được “tốt nghiệp trường làng”, nghĩa là vẫn chưa vượt qua được ngưỡng cửa cấp một. Thế nhưng, khi lớn lên và bước chân xuống cuộc đời, xét về phương diện mánh khóe và xảo quyệt, thì chẳng ai bằng hắn cả.
Lúc nào trong chiếc “cạc táp”, hắn cũng có những tấm danh thiếp với rất nhiều học vị và chức vụ khác nhau, để lòe bịp thiên hạ. Rồi sau đó, tùy hoàn cảnh hắn sẽ sử dụng những tấm danh thiếp ấy để hạ gục nhanh con mồi.
Chẳng khi hạn đến với mấy ông quan vốn mắc bệnh tham nhũng mãn tính, hắn xùy ngay ra tấm danh thiếp tự xưng mình là phóng viên báo này, ký giả báo kia, hầu đòi buộc vị quan ấy phải xùy tiền mua sự yên lặng của hắn, bằng không hắn sẽ huỵch toẹt cho bàn dân thiên hạ được biết sự thật. Và thế là, dù tức như bị bò đá, ông quan kia cũng vẫn phải vui vẻ bất đắc dĩ chi tiền cho hắn.
Tuy nhiên, trong cái xã hội đảo điên, vàng thau lẫn lộn, cũng không thiếu những người đã đứng lên bằng chính đôi chân của mình, đã tạo dựng sự nghiệp bằng chính công sức của mình. Và nếu có tí danh vọng đính kèm, thì danh vọng ấy cũng xuất phát bởi những cố gắng liên tục của bản thân.
Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật có kể lại câu chuyện “Chị em xe rác và ước mơ tiến sĩ” như sau :
Ở Cần Thơ, có ba chị em gái sinh ra trong một gia đình đình mẹ hốt rác. Từ 4-5 tuồi, họ đã theo mẹ đẩy xe rác lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm. Người dân khu vực Xuân Khánh, Cần Thơ, quen gọi họ là “chị em xe hốt rác”, nhưng ít ai biết ba chị em đang âm thầm trui rèn tương lai của mình trên giảng đường đại học…
Cô chị tích cóp tiền thu gom phế liệu, giấy vụn, vỏ lon bia…để có 480.000 đồng trả học phí bảng A Anh văn, 550.000 đồng đóng bằng B, 700.000 đồng đóng bằng C. Sau khi cô chị đạt bằng C, tội nghiệp bà mẹ quá lo lắng không biết còn bằng D, bằng E, bằng F gì nữa không ?
Nêu sự kiện trên, tác giả đã chua thêm vào đó chút suy tư vụn vặt của mình như sau :
Thiết nghĩ, các bằng cấp mà ba chị em gái này có được là do thực học, do quyết tâm vượt qua danh phận của mình một cách danh dự và chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng ước mơ của ba chị em có cơ sở để đạt được bằng thực học.
Nghĩ lại cảnh quay cóp, ném phao…của các cuộc thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, bác sĩ chính, giảng viên chính mà cảm thấy ngậm ngùi cho cái “đạo học” ngày nay.
Có danh một cách đường đường chính chính đã là chuyện khó, nhưng gìn giữ và duy trì cái danh ấy khỏi hoen ố, khỏi bị mai một cũng không phải là chuyện dễ, bởi vì nhiều khi đã phải đầu tư biết bao nhiêu công sức mới có được một tí danh, thế mà bỗng chốc đùng một phát, tất cả đều đi đoong, đều tiêu tan thành mây khói, thân thì bại, danh thì liệt, như người xưa đã bảo :
- Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.
- Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng.
Đêm nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ sự đời, gã nhận thấy có hai nguyên nhân chính khiến người ta thường bị thân bại danh liệt, đó là tình và tiền.
Có kẻ vì tình, hay nói toạc móng heo ra, vì tình cảm lem nhem, dính dấp đến chuyện đờn bà con gái mà đi đoong sự nghiệp. Lịch sử đã để lại quá nhiều bằng chứng về vần đề này :
Ngày xưa vua Kiệt vì say mê nàng Muội Hỷ, bỏ bê việc triều chính, ăn chơi trác táng, nên bị vua Thành Thang cướp mất nước. Vua Trụ vì say mê nàng Đắc Kỷ, giết hại công thần, hoang dâm vô độ, khiến cho sự nghiệp bị tan tành. Ngô Phù Sai, vì say mê nhan sắc của Tây Thi, cô gái ở thôn Trữ La do Việt Câu Tiễn hiến cống, đã phung phí của chung, đày ải các tôi trung, khiến lòng dân oán thán. Lợi dụng cơ hội ấy, Câu Tiễn liền cử binh sang đánh chiếm nước Ngô, tàn phá Cô Tô đài, nơi vua Phù Sai cùng Tây Thi đêm ngày vui vẻ “mí nhau”. Phù Sai phải bỏ kinh thành chạy trốn và cuối cùng đã tự sát để khỏi bị rơi vào tay Việt Vương Câu Tiễn.
Còn ngày nay cũng không thiếu những tấm gương để đời. Chẳng hạn hình như vào thập niên sáu mươi, ông bộ trưởng chiến tranh của dân Ăng lê tên là Profuno, vì lẹo tẹo với cô gái điếm Christine Keller, khiến cho toàn bộ nội nước Anh lúc bấy giờ phải từ chức, còn bản thân ông bộ trưởng cũng tiêu tùng luôn. Sở dĩ như vậy vì cô gái điếm này là một điệp viên của Liên Xô, được cài vào để lấy những tin tức tối mật.
Và mới đây, tổng thống Bill Clinton nước Huê kỳ cũng suýt đi tong sự nghiệp cũng chỉ vì đã nhăng nhít với cô tập sự viên Nhà Trắng tên là Monica Lewinsky.
Ngoài ra, cũng có kẻ vì tiền mà mất toi cơ đồ. Thực vậy, thấy tiền ai mà chẳng ham, chẳng thích, chẳng mê, để rồi tìm mọi cách kiếm cho được thật nhiều. Kiếm tiền bằng công sức lao động chân chính thì chẳng nói làm chi, nhưng kiếm tiền bằng cách gian giảo trong khi buôn bán, tham nhũng hối lộ trong khi thi hành chức vụ, bỏ nhầm công quĩ vào túi để xài riêng…Thôi thì thiên hình vạn trạng đến quỉ thần cũng không lường nổi. Đây cũng chính là một con đường ngắn nhất dẫn những kẻ tham lam vào vòng tù tội, còn sự nghiệp thì cũng tan vỡ thành mảnh vụn.
Có người đã leo lên tới tột đỉnh danh vọng rồi, chẳng hạn như ông tổng thống của nước Đại Hàn, quê hương của những củ sâm Cao Ly, song cũng vì cái túi tham không đáy của mình, đã vô tư xơi những khoản tiền “bồi dưỡng” của mấy công ty lớn, nên đã bị tòa án sờ vào gáy.
Quả là chua xót và đắng cay như lời Kinh Thánh :
- Phù hoa trên mọi phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa.
Để kết luận, gã xin mượn lại mấy tư tưởng sau đây, đã được tác giả Diệp Văn Sơn, ghi lại trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật.
Dân Trung quốc có câu :
- Người biết đạo, tất không khoe. Người biết nghĩa, tất không tham. Người biết đức, tất không thích tiếng tăm lừng lẫy.
Hay như :
- Người đi không cầu cho có bóng mà bóng tự nhiên theo. Người kêu không cầu cho có tiếng dội mà tiếng dội vẫn vang. Vì thế, người quân tử chỉ cần làm nên công rồi danh ắt sẽ đến.
Trước khi đi vào bài viết hôm nay, gã xin ghi lại một so sánh khập khiễng mà gã đã sưu tầm được GãSiêu 82
Trước khi đi vào bài viết hôm nay, gã xin ghi lại một so sánh khập khiễng mà gã đã sưu tầm được. Nhà địa lý nhìn người đờn bà bằng cặp mắt méo mó nghề nghiệp của mình và đã diễn tả như sau :
Ở độ tuổi từ mười lăm đến hai mươi, người phụ nữ được ví như nước Công gô, một nửa đã được khám phá, và một nửa vẫn còn hoang dại.
Ở độ tuổi từ hai mươi đến ba mươi, người phụ nữ được ví như nước Mỹ, đã được khám phá trọn vẹn và hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật.
Ở độ tuổi ba mươi đến ba mươi nhăm, người phụ nữ được ví như nước Ấn độ, rất nóng bỏng, rất xinh đẹp và đầy hiểu biết.
Ở độ tuổi ba mươi nhăm đến bốn mươi, người phụ nữ được ví như nước Pháp, một nửa đã bị tàn phá sau chiến tranh, nhưng vẫn rất hấp dẫn.
Ở độ tuổi bốn mươi đến năm mươi, người phụ nữ được ví như nuớc Đức, không còn đấu tranh nhưng vẫn cứ hy vọng.
Ở độ tuổi năm mươi đến sáu mươi, người phụ nữ được ví như nước Nga, rất rộng, rất yên tĩnh, nhưng không còn thu hút nữa.
Ở độ tuổi sáu mươi đến bảy mươi, người phụ nữ được ví như nước Anh, với một quá khứ vẻ vang, nhưng tương lai thì chẳng có gì.
Còn sau lứa tuổi bảy mươi ấy hả ? Người phụ nữ được ví như Sibêria, tất tật đều biết nơi này, nhưng chẳng ai thèm tới.
Từ những so sánh khập khiễng và có tính cách méo mó nghề nghiệp trên, gã xin đi vào điểm cốt lõi của vấn đề.
Ngày xửa ngày xưa, lúc còn bé, gã rất khoái đọc cuốn truyện “Gulliver phiêu lưu ký”. Chuyện ấy kể lại rằng :
Ngày nọ, Gulliver đi lạc vào lãnh địa của những người tí hon. Người người này đã coi Gulliver đích thực là một anh chàng khổng lồ, đem tai họa đến cho quê hương đất nước của họ. Và thế là họ bàn mưu tính kế quyết định giết Gulliver. Nhưng phải làm sao bây giờ ?
Chả lẽ lại như hội đồng chuột trong câu chuyện ngụ ngôn. Toàn thể đại hội của họ hàng nhà chuột đều nhất trí cao là phải đeo một cái chuông vào cổ mèo, để hễ mèo đi đến đâu, thì liền phát ra những âm thanh kính keng, báo động cho họ hàng nhà chuột biết đường tẩu thoát. Ý kiến ý cò thì rất tuyệt vời, nhưng rồi chẳng một con chuột nào dám thực hiện cả.
Ở đây thì khác, nhưng người tí hon không giống như họ hàng nhà chuột, họ nói và làm liền tức khắc. Họ huy động cả nước, đợi cho Gulliver ngủ say, và thế là a-lê-hấp, tất cả đều nhất tề đóng những chiếc cọc đâm sâu xuống đất, rồi dùng những sợi dây nhỏ cột chặt Gulliver lại.
Khi tỉnh giấc, Gulliver đã không thể nào dứt đứt những sợi dây nhỏ ấy. Và thế là anh chàng Gulliver tội nghiệp của chúng ta bỗng chốc trở thành tù bình cho những người tí hon.
Đó là trong chuyện cổ tích ngày xưa. Còn hôm nay trong đời thường, gã có một anh bạn thân. Anh bạn này, thời còn giai trẻ đã khổ đau với những mối tình còm của mình. Khi thì bị cô này cho leo cây, lúc lại bị chị kia cho tuột dù. Mãi tới “bốn mươi mí” hắn ta mới kiếm được một cô vợ.
Cứ tưởng rằng có vợ rồi ắt hẳn sẽ yên bề gia thất và cuộc đời sẽ mỉm cười với hắn ta, ai dè đâu hắn ta vớ phải cô vợ thuộc týp bà chằng, chỉ kém sư tử Hà Đông có một tẹo, thành ra chó đen vẫn giữ mực, mèo vẫn hoàn mèo. Khổ đau thì vẫn cứ khổ đau, nhưng xem ra còn có mòi dai dẳng và cay đắng hơn trước. Chính những khổ đau ấy đã kết tủa thành một cục sạn to tổ bố trong óc não của anh ta.
Vì thế, hễ mở mồm mở miệng đá động tới đờn bà con gái là hắn ta phun ra toàn những lời độc địa, chua hơn chanh và cay hơn cả ớt. Thậm chí, hắn ta còn ra sức sưu tầm và “ngâm kíu” những tư liệu nói xấu đờn bà con gái.
Hễ tờ báo nào có bài thơ hay mẩu viết hợp gu với hắn ta, là hắn ta bèn cắt béng ngay đi, cất kỹ vào ngăn tủ, khóa chặt lại, để mỗi khi bà xã đi vắng, thì bèn lôi ra mà tủm tỉm tụng niệm.
Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ hắn đã lâm râm đọc một bài thơ mà hắn đã thuổng của một tác giả nào đó trong báo “Phụ nữ Chủ nhật” :
- Ước chi không có đờn bà,
Một mình thanh thản, cửa nhà êm ru.
Đầu óc chẳng phải lu bù,
Sợ lời léo nhéo, gật gù làm theo.
Chẳng lo va vấp, chẳng mèo mỡ chi.
Ăn, ngủ, chơi thích là đi.
Chẳng lo tra hỏi : làm gì ? Ở đâu ?
Thật vui khi chẳng muộn sầu,
Chẳng người yêu bước lên tàu sang ngang.
Một mình cuộc sống an nhàn,
Ung dung, thư thái, đàng hoàng. Cần chi ?
Tươi vui cuộc sống có khi,
Kéo dài tuổi thọ, ít thì gấp...ba.
Ước chi không có đàn bà,
Đờn ông một lũ, thế là khỏe...ru!
Lâm râm đọc xong bài thơ ấy, hắn ta thiếp ngủ lúc nào cũng không hay, trên miệng vẫn còn nở một nụ cười...ruồi, rất ư là mãn nguyện
Trong lúc ngủ mê mệt như vậy, hắn ta mơ thấy mình đang đi dưới ánh trăng vàng, thì gặp một ông già, râu tóc bạc phơ. Hắn ta nhớ mang máng hình như đã gặp ông già này ở đâu thì phải. Hắn ta ngẫm nghĩ, rồi vỗ trán đánh đét một cái và mừng rỡ kêu lên :
- Đúng rồi, ngài chính là “nguyệt lão” đã cột cẳng chân ta bằng một sợi dây đỏ vào với cẳng chân của cô ấy, để rồi ta với cô ấy nên duyên vợ chồng.
Thế là lập tức ba chân bốn cẳng, hắn ta chạy vắt giò lên cổ tới ra mắt nguyệt lão. Nguyệt lão nhìn hắn ta rồi lên tiếng nói :
- Nhà ngươi hãy báo cáo cho ta tình hình bà xã ngươi như thế nào ?
Mặt hắn ta liền xụ xuống, ủ rũ như cờ tang. Rồi hắn thành thực khai báo với nguyệt lão :
Cô nàng mà ngài đã cột vào cẳng con chẳng còn ra thể thống nào cả. Này nhé, con chỉ xin kể ra một vài tội “điển hình tiên tiến” mà thôi.
Tội thứ nhất đó là cô ấy mắc phải cái chứng bệnh than một cách trầm trọng. Nước Mỹ sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, mới chỉ có mấy người chết vì cái chứng bệnh này, ấy thế mà họ đã lo sốt vó, lo cuống cà kê cả lên. Còn cô ấy hả ? Mắc chứng bệnh than mãn tính. Này nhé “sáng ra, cô ấy than hết tiền hết gạo. Chiều về, cô ấy than hết xăng hết dầu. Đầu tháng cô ấy than giá cả tăng cao. Cuối tháng cô ấy than tiền lương hạ thấp. Ngày, cô ấy than nhiều việc làm không xuể. Đêm, cô ấy than mệt mỏi đau lưng. Đến cơ quan, cô ấy than chồng không bằng người. Về nhà mình, cô ấy than đồng nghiệp xấu tính xấu miệng. Hết than người rồi lại đến than mình. Nhiều lúc cô ấy đấm ngực thùm thụp mà than : bè bạn bằng tuổi có nhà có cửa, có chồng làm ông nọ ông kia, có con thi cấp này cấp khác. Thật khốn thân tôi vớ phải ông chồng…...cả tũm. Uổng bao công sức học hành, nai lưng ra làm việc mà cũng chẳng nên cơm cháo gì. Hơi mệt trong người một tí, cô ấy than như mắc phải chứng nan y...Suốt ngày, hở lúc nào lại ra rả như vậy thì làm sao con chịu nổi”.
Ngoài ra, cô ấy còn mắc phải cái “hội chứng trí thức” nữa mới chết con. Ngày xưa, như ngài đã biết, hành trình của bất cứ bà vợ nào cũng là từ nhà ra đến chợ và rồi lại từ chợ về đến nhà. Đơn giản chỉ có vậy mà thôi.
Còn bây giờ ấy hả. Với mảnh bằng đại học trong tay, cô ấy đã nhảy bổ ra ngoài xã hội. Rất may là việc nhà cô ấy không nỡ phó mặc cho bố nó, nhưng vẫn còn kiêm nhiệm, nên cũng đỡ khổ cho cái thằng con. Bình thường thì cô ấy cũng hiền cũng dịu, nhưng chỉ phiền một nỗi, đó là mỗi khi không vừa ý, hay tức giận điều chi, thì cô ấy la toáng lên, khiến mấy thằng bạn xấu bụng xấu dạ đã “bình luận” với con rằng :
- Bà xã mày, mặt thì mặt đờn bà, nhưng cốt lại là cốt đờn ông.
Nếu hứng chí bày trò làm thơ ca tụng cô ấy thì đừng có mà nói tới “công dung ngôn hạnh”. Xưa rồi Diễm ơi. Bài thơ có phệu ra được, thì chí ít cũng phải như một tác giả mang tên Đỗ :
- Em vất vả nơi văn phòng máy lạnh,
Hồ sơ đầu tư đè nặng vai gầy.
Em tất tả giữa ngân hàng sóng gió.
Chân rã rời cao ốc chạm vào mây.
Đôi khi cũng muốn có tí ý kiến ý cò với cô về chuyện này chuyện nọ, thì liền bị kê tủ đứng vào miệng :
- Rõ đồ hai lúa, quê một cục, biết gì mà nói.
Vừa báo cáo tới đây, nguyệt lão bèn xua tay và bảo :
- Đủ rồi, đủ rồi. Ta rất hiểu hoàn cảnh não nùng và bi đát của ngươi. Này đây ta sẽ cho ngươi được phỉ chí toại lòng.
Nói xong, nguyệt lão bèn giơ cao chiếc gậy trúc, rồi hô :
- Một, hai, ba, đờn bà...biến.
Lập tức tất tật đờn bà con gái liền lặn khỏi mặt đất, hay do phép thần thông biến hóa của nguyệt lão, mà bỗng trở nên “tàng hình” hay ẩn nấp ở cái xó xỉnh nào không ai nhìn thấy.
Hắn ta đủng đỉnh bước ra khỏi nhà, hít thở một bàu không khí trong lành và nhẹ nhõm như vừa thoái khỏi cái ách gông cùm, bởi vì trai có vợ như rợ buộc chân.
Ngoài đường phố hắn ta chỉ thấy rặt có phe mình, toàn những đấng mày râu không hà. Anh nào anh nấy nét mặt tươi rói, cười cười nói nói, ồm ồm như sấm vàng, rất ư là vô tư. Gặp nhau tay bắt mặt mừng và hô lớn bằng đủ thứ ngôn ngữ :
- Chào... Hai... Rua...
Ôi, cái ngày vắng bóng đờn bà con gái mới khoái làm sao. Báo chí, truyền thanh và truyền hình đã có những phóng sự, những hình ảnh thật tuyệt vời về ngày trọng đại này. Phóng viên Hùng Khâm của một tờ báo nào đó, trong tiểu phẩm của mình đã mô tả như sau :
Đó là buổi sáng khi bạn thức dậy mà chẳng cần ai đánh thức, có nghĩa là bạn được ngủ rất ư thoải mái và lố vào giờ làm việc đến hơn một tiếng đồng hồ. Chẳng sao cả, không có ai càu nhàu về chuyện bạn đi làm muộn. Không ai bắt bạn phải thay quần áo và bạn cứ tự do đeo lên người bộ đồ đã nhăn nhúm từ hôm qua.
Bạn ra đường không sợ xui vì “gặp đờn bà” và cũng không phải liếc ngang liếc dọc tìm ngắm một bóng hồng nào...Và bạn còn có thể ra quán cà phê ngồi gác chân lên ghế, thậm chí gếch cả hai chân lên bàn mà không phải ngượng vì một cô gái nào đó đi qua, nhìn và đánh giá tư cách của bạn. Tất nhiên cô chủ quán cũng sẽ chẳng có mặt để đòi cái số nợ mà bạn còn ghi sổ từ tháng trước.
Ban chiều, bạn sẽ không phải nghe điện thoại với cái câu chán ngắt :
- Anh thích ăn gì để em còn đi chợ.
Và bạn sẽ chẳng cần phải nghĩ cách nói dối rằng tối nay bận họp hành gì gì đó để rồi trốn đi nhậu với bạn bè. Nghĩa là bạn được tư do hoàn toàn. Thật tuyệt vời ! Bạn cứ việc nhậu cho thoải mái, cho mát mái luôn và chẳng cần nghĩ đến chuyện về, cứ uống mút chỉ tới sáng cũng được mà.
Hai giờ sáng bạn mới ngất ngưởng về đến nhà. Sẽ chẳng có ai đứng ở cửa với khuôn mặt...hình sự. Bạn sẽ chẳng phải nghe những lời than vãn vì sự thiếu trách nhiệm, vì sự bê tha và vì đủ thứ tội trên đời. Thậm chí ác liệt hơn thì còn có thể là :
- Trời đất ơi ! ngày xưa có tới mười bốn anh toàn đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu đeo đuổi tôi, vậy mà sao tôi lại đâm đầu vào lấy anh.
Hay những bài đít cua, đít cáy đại loại là như vậy.
Không hề có những rắc rối và bạn được tự do mở ti vi đúng chương trình đá banh mà bạn thích, rồi cứ tự nhiên để nguyên cả quần áo, giày dép mà phi lên giường, làm một giấc tới lúc nào thích thì dậy. Một giấc ngủ tuyệt vời không hề có ác mộng hay phải mơ tới một cô gái nào. Và rồi bạn lại bắt đầu một ngày thần tiên mới...
- Ôi , cuộc đời vẫn đẹp xinh. La vie est en rose. Cuộc đời quả là tươi hồng.
Hắn ta cũng vậy. Để kỷ niệm ngày xổ chuồng, tối hôm ấy hắn cùng với mấy tên bạn chí cốt ra ngồi thiền ở quán lẩu dê bên lề đường, làm một chầu tới ngoắc cần câu. May mà còn đủ tỉnh để lê từng bước chân âm thầm, thậm chí đôi lúc còn phải bò trong bóng đêm mà lết về tới nhà. Rồi sau đó là một giấc ngủ vật vã.
Thế nhưng, như một đồng tiền, cuộc đời có mặt phải, thì cũng có mặt trái của nó nữa. Và lúc này, hắn ta đang mon men tiến gần tới mặt trái của công cuộc giải phóng đờn ông.
Ban sáng thức giấc, đầu nhức như búa bổ, bụng đói cồn đói cạo, nhào vô bếp kiếm chút cháo dằn vào bao tử mà chẳng có đí gì sốt. Mở tủ kiếm áo quần tươm tất để đi làm, thì lại chẳng còn bộ nào cả. Mọi sự đều nằm gọn trong chiếc thau, bốc mùi chua ngoét.
Riêng bộ vía hắn ta đang đeo trên mình thì lại nồng nặc toàn mùi rượu. Sở dĩ như vậy vì “mồ hôi rượu” của hắn chảy ra ròng ròng, rồi thấm vào chiếc áo. Nếu đem ngâm chiếc áo hắn ta đang mặc với một chút nước, rồi vắt cho cạn kiệt thì chí ít cũng được khoảng một bát. Cái dung dịch ấy phải chứa tới mấy chục phần trăm cồn, lúc thèm rượu đem ra uống cũng đủ giải bớt cơn sầu, nếu không muốn nói là cũng có thể ngồi đâu khóc đó.
Bạn bè thường sánh ví hắn ta với một chiếc bình “ắc qui” :
- Mày đúng là một chiếc bình gin, cầm hơi hết xảy.
Bước chân ra đường, vắng đờn bà con gái thì cũng vắng luôn những sắc màu của cuộc sống. Ôi thời oanh liệt nay còn đâu ?
Phải, còn đâu nữa màu xanh, màu đỏ, màu tím, màu vàng và cả màu cứt ngựa...của những chiếc áo dài thướt tha, của những thứ váy dài váy ngắn, khoe rốn, khoe đùi, kheo cẳng...
Còn đâu nữa những cặp môi đỏ choét như tiết gà mái, những cặp môi xám ngắt như thịt trâu ôi theo mốt tài tử Hàn quốc.
Còn đâu nữa những mái tóc dài ngắn đủ màu đủ kiểu.
Báo chí, phim ảnh,tuồng kịch...tóm lại tất cả các bộ môn nghệ thuật đều tắt ngấm, bởi vì không còn đờn bà con gái thì các tác giả cũng hết chất, chẳng còn đề tài để mà lia máy, múa bút hay vung cọ.
Ta với ta, đối mặt nhau, toàn dân đực rựa, nói cười oang oang, nhưng lại cộc cằn như dùi đục chấm mắm tôm. Chẳng mấy chốc, bầu khí trở nên căng thẳng và oi bức như nắng hè đổ lửa.
Còn đâu những lời nói dịu êm, như ru hồn lạc vào chốn thiên thai.
Và thế là cái đức tính “ga lăng”, hào hoa phong đòn gánh của những bậc công tử cứ mỗi ngày một thui chột rồi mất tăm mất tích. Chỉ còn là chữ nghĩa đọng trong tự điển mà thôi. Mai mốt phải mỏi mồm mỏi miệng cắt nghĩa thì con cháu mới hiểu được thế nào là ”ga lăng” và thế nào là hào hoa phong đòn gánh.
Về tới nhà, lũ con nheo nhóc, đói bụng đòi ăn thế là hắn ta lại phải đâm đầu vào bếp. Rất may vì đã được bà xã dạy vỡ lòng cho cái môn “nam công gia chánh”, nên nồi cơm hắn ta nấu không đến nỗi trên sống dưới khê, tứ bề nhão nhoét.
Ngó vào xó góc nào cũng bụi bậm bẩn thỉu, thế là hắn lại phải cặm cụi quét dọn, rửa ráy. Chăn mùng mền toát ra một mùi xú khí nồng nặc đến không chịu nổi, thế là hắn lại phải lầm lũi giặt dũ...toát cả mồ hôi hột lúc nào cũng chẳng hay.
Biết bao nhiêu công việc không tên trút lên đầu, lên cổ hắn ta, mà lúc trước, khi còn bóng dáng bà xã, hắn ta chẳng hề động ngón tay lay thử, thậm chí cũng chẳng bao giờ thèm nghĩ tới. Đi làm về, hắn ung dung ngồi đọc báo hay xem truyền hình chờ cơm. Trong khi đó, bà xã hắn cũng đi làm về, nhưng lại phải lăn xả vào bếp và lo giùm cho hắn những việc lỉnh kỉnh ấy. Nếu có giúp thì hắn ta cũng chỉ giúp qua quít cho phải phép mà thôi. Không chừng lại còn làm vướng chân thiên hạ vì cái bản năng đoảng và cả quỷnh của hắn ta.
Lúc này, hắn ta mới cảm thấy thèm được ăn một tô canh chua cá lóc, thèm được có người đứng đợi khi hắn ta tan sở về nhà, thèm một cử chỉ chăm sóc, thèm một lời an ủi nhẹ nhàng.
Và lỡ có quá chén mà say xỉn, thì hắn ta lại thèm một ly nước chanh tọng vào bao tử hay một chiếc khăn lạnh đắp lên mặt cho giã rượu.
Khi cảm cúm, thì hắn lại thèm được một bàn tay mềm dịu cạo gió, hay một nồi nước xông cho toát cả mồ hôi.
Và hắn ta còn thèm. Thèm rất nhiều thứ khác nữa.
Hắn hốt hoảng khi phải sống trong một thế giới không còn đờn bà con gái nữa. Sự hốt hoảng làm hắn ta đập mạnh chân xuống giường đánh rầm một cái.
Hắn ta tỉnh giấc và thầm nói :
- May quá, đó chỉ là một giấc mơ.
Và kể từ giấc mơ ấy, hắn ta đã đổi mới tư duy và lập trường của hắn ta như chiếc bản lề, quay phắt một trăm tám mươi độ. Hắn ta không còn coi cô ấy như đối thủ, hay như địch thủ của mình nữa, mà lại coi cô ấy như bà xã thứ thiệt, như người vợ chính hiệu con nai vàng của mình.
Mặc cho bè bạn chê bai, hắn vẫn cứ vững như kiềng ba chân và còn rất lấy làm tự hào về tác phong của mình :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
Và cũng kể từ giấc mơ ấy, hắn ta bắt đầu sưu tầm và “ngâm kíu” những tư liệu ca tụng đờn bà con gái.
Và những lúc hứng chí trước mặt bà xã hắn đã tuôn ra rông rổng những bài thơ bài thẩn, chẳng hạn như mẩu sau đây của ông thợ thơ Trần Thiện Ngân :
- Nếu đời không có đờn bà,
Bầu trời u ám như là đêm đông.
Còn đâu bóng dáng hoa hồng,
Mấy chàng thi sĩ cũng không viết bài.
Viết rồi biết tặng cho ai ?
Khi đời còn có con trai không hà.
Trăng kia chênh chếch xa xa,
Chế súng cao xạ, bắn cho tan tành.
Nếu đời chỉ có các anh,
Lấy ai hầu hạ, cơm canh đêm ngày.
Áo dơ anh chẳng thèm thay,
Quần anh sứt chỉ ai may cho mình.
Suốt ngày im ắng lặng thinh,
Anh thèm nghe tiếng của mình thân yêu.
Chẳng lo vợ mãi nói nhiều,
Lời hay ý đẹp, vì yêu thôi mà.
Nếu đời chỉ có các...cha,
Nhậu hoài cũng chán chẳng ra con người.
Mong rằng trái đất vẫn tròn,
Vạn ngàn năm nữa vẫn còn các...em !!!
Từ cõi trên nhìn xuống, nguyệt lão cảm thấy mãn nguyện. Và cũng trong đêm trăng sáng ấy, nguyệt lão đưa tay vuốt chòm râu bạc, đắc chí mỉm cười :
Kinh nghiệm chiến trường khiến gã mở mắt ra và nghiệm thấy rằng : - Cuộc sống càng văn minh GãSiêu 83
Kinh nghiệm chiến trường khiến gã mở mắt ra và nghiệm thấy rằng :
- Cuộc sống càng văn minh, thì người ta lại càng trang bị cho mình nhiều tiện nghi, mà càng nhiều tiện nghi thì lại càng tốn tiền và hao bạc. Cái này véo một tẹo, cái kia cấu một tí, thành thử “ngân khố” của bản thân cũng như của gia đình cứ liên tục bị rách nát te tua.
Gã xin đan cử một thí dụ : hồi chưa có điện, ông bà mình chỉ cần một ngọn đèn dầu leo loét cũng đủ để soi sáng cả nhà. Ban tối trải manh chiếu rách xuống khoảng sân đất cho cả nhà ngồi quây quần bên mâm cơm dưới ánh trăng vàng. Vừa thoáng mát lại vừa…tình tứ ra phết. Đến khi có điện, phải vội sắm thêm chiếc tủ lạnh, máy điều hòa, máy giặt, chiếc điện thoại, dàn vi tính...cuối tháng nhìn những tấm biên lai thu tiền mà toát cả mồ hôi hột.
Cũng vì sính những tiện nghi này, mà có một anh chàng đã sánh ví đờn bà con gái như một chiếc điện thọai. Anh chàng này bèn tự hỏi :
- Vì cớ làm sao mà điện thoại lại thuộc giống cái ?
Sau khi đã bóp trán suy nghĩ, anh ta đã đưa ra những lý do sau đây :
- Vì sử dụng điện thoại là một việc tốn tiền.
- Nói nhiều bao nhiêu, điện thoại càng thích bấy nhiêu.
- Ở mọi nơi và trong mọi lúc, điện thoại vẫn có cách làm cho người khác chú ý đến mình.
- Dù là lúc nửa đêm, điện thoại vẫn có thể kéo bạn dậy để nói một điều gì đó.
- Nếu giận ít, điện thoại sẽ cho bạn ra “ngoài vòng phủ sóng”, còn nếu giận nhiều thì sẽ “cắt” không cho bạn tiếp cận.
- Chỉ mình bạn là người có lỗi, chứ điện thoại thì không bao giờ.
- Nói chung, thái độ của điện thoại là : Ừ, em vậy đó, anh không ưng thì thôi hà.
- Có loại điện thoại “mẹ bồng con”.
Không hiểu những suy luận của anh chàng hâm hâm này đúng được bao nhiều phần trăm. Chuyện này thì chỉ có ông trời và quí bà quí cô biết được mà thôi. Còn gã thì xin chào thua. Thế nhưng, từ những món khai vị kể trên, gã xin đi vào món chính của thực đơn hôm nay, đó là nghệ thuật làm vợ với câu hỏi :
- Có mấy kiểu làm...vợ ? Và thế nào là một người vợ lý tưởng ?
Nghe xong câu hỏi trên, hẳn có người nghĩ rằng gã chỉ là một kẻ ấm ớ hội tề. Đã là vợ thì là vợ chứ còn là cái chi chi nữa, đơn giản chỉ có vậy. Hỏi vớ vẩn, chỉ vẽ chuyện, thêm rách việc mà thôi.
Thế nhưng, xin quí vị chớ nổi nóng, bởi vì chuyện đời đâu có êm ru bà rù như vậy. Ngay đến chữ “tu” kia mà cũng còn có dăm bảy đường, như các cụ ta ngày xưa đã xác quyết :
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba mới tới tu...nhà dòng.
Làm vợ cũng vậy, có cả một lô kiểu làm vợ khác nhau. Con tắc kè đổi màu như thế nào thì khuôn mặt các bà vợ cũng thiên biến vạn hóa, đến quỉ thần cũng không lường nổi. Chả thế mà có kẻ đã “miêu tả” :
- Vợ là tình cảm sâu xa,
Vợ là gió mát, vợ là bão dông.
Vợ như một đóa hoa hồng,
Vợ là sư tử Hà Đông kinh người.
Vợ là êm ái tuyệt vời,
Vợ là bão táp rụng rời chân tay.
Vợ là một chất men say,
Vợ là cái đắng cái cay trong lòng.
Có người nhờ vợ nên ông,
Nhiều người vì vợ mất không cơ đồ.
Và rồi tác giả đã kết luận :
- Tốt số lấy được vợ hiền,
Vô duyên vớ phải bà điên bà khùng.
Trước khi trình bày những kiể...…làm vợ, gã xin thành thật khai báo rằng : gã có mượn tạm cái sườn bài viết của Vương Huyền Cơ trên báo Phụ nữ Chủ nhật, số 3 năm 2002. Tuy nhiên, gã xin bổ túc thêm một vài kiểu nữa cho được đầy đủ hơn, đồng thời như một người đầu bếp, gã cũng xin bỏ vào đó chút hành tiêu tương tỏi để được đậm đà ý vị hơn.
Kiểu thứ nhất : vợ là như một người mẹ.
Cố nhạc sĩ Y Vân đã để lại cho đời một bài hát bất hủ và tuyệt vời, đó là bản “Lòng mẹ” với những lời ca mang nặng ý thơ :
- Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào,
Lời ru êm ái như đồng lúa chiều rì rào
Tiếng ru êm đềm qua nhiều năm tháng triền miên.
Tình mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu...
Đối với những người vợ kiểu này, thì lòng mẹ còn bao la hơn biển Thái Bình cả ngàn vạn lần, bởi vì họ không chỉ lấy tình mẹ mà cư xử đối với con, nhưng còn lấy cả tình mẹ mà cư xử đối với chồng mình nữa. Vì thế, dưới mắt họ, ông chồng chẳng khác gì một đứa con cần được cưng chiều mà thôi. Chỉ tiêu được đề ra cho những người vợ kiểu này là :
- Nuôi chồng khỏe, dạy chồng ngoan.
Giống như chỉ tiêu nhà nước Việt Nam đã đề ra cho các bà mẹ là :
- Nuôi con khỏe dạy con ngoan.
Họ chăm sóc ông chồng như chăm sóc con mọn. Họ là người quyết định cho ông chồng ăn gì, dù món ấy ông chồng đã ngấy tới cần cổ. Họ là người quyết định cho ông chồng phải mặc gì, dù bộ quần áo đó ông chồng chả thích tí nào. Họ là người quyết định cho ông chồng phải ngủ vào giờ nào và phải thức vào giờ nào, dù ông chồng có việc phải thức thêm một tí, hay muốn nằm ngủ nướng thêm một tẹo. Thiếu điều họ đánh thức ông chồng như gọi đò sông cái :
- Anh ! Dậy, đi đái, lấy nước, đánh răng, súc miệng, ăn sáng.
Làm chồng của những người vợ kiểu này thật là sướng rên mé đìu hiu, chẳng phải động não hay động tay chân vào bất cứ công việc nào. Ngoại trừ những giờ đi làm là được thoát khỏi sự chăm sóc chiều chuộng, còn thì a lê hấp cứ việc : về nhà vợ nuôi. Người vợ sẽ lo cho ông chồng từ A đến Z và trang bị cho ông chồng tới tận răng.
Tuy nhiên, phàm cái gì thái quá cũng bất cập. Nhiều khi ông chồng lại cảm thấy ngượng nghịu và bực bội với những chăm sóc chiều chuộng ấy, bởi vì mình chỉ là như một con ngỗng được vỗ cho mập và hơn thế nữa trong thẳm sâu cõi lòng, bất kỳ ông chồng nào, không nhiều thì ít cũng có cái bản lĩnh đàn ông và muốn hét to lên cho bàn dân thiên hạ nhận ra rằng :
- Ta là đờn ông đây.
Và rồi cuối cùng, ông chồng ấy sẽ đi tìm một đối tượng nào đó để xả xú bắp, tỏ lộ cái bản lãnh đàn ông của mình.
Kiểu thứ hai : vợ là như một đứa con.
Kiểu thứ hai hoàn toàn trái ngược với kiểu thứ nhất. Có vợ kiểu này chẳng khác gì có một đứa con bé bỏng hoàn toàn lệ thuộc vào mình. Từ việc to cho chí việc nhỏ, người chồng phải quyết định hết ráo, bởi vì cô nàng sẽ chẳng biết làm gì cả nếu không có sự bảo ban hướng dẫn của người chồng.
Suốt ngày từ sáng đến tối, cô nàng sẽ không ngừng mở miệng như một đứa con nít với điệp khúc muôn thuở :
- Anh ơi, cái này làm thế nào ?
- Anh hỡi, cái kia ra sao hử ?
- Anh à, làm vậy có được hông ?
Mọi việc từ đầu tới chân, nếu không có ý kiến ý cò của người chồng là chẳng xong. Và nếu có lỡ mồm nói nặng với cô nàng một tiếng, thì lập tức cô nàng sẽ khóc, như chưa bao giờ được khóc. Và những trận khóc dầm dề ấy đôi lúc biến thành lũ lụt, cuốn phăng lập trường sáng suốt của ông chồng.
Làm chồng những người vợ kiểu này, tuy bản lĩnh đờn ông được liên tục phát triển, lúc đầu cảm thấy thỏa mãn sung sướng vì mình là nhân vật số một, nhưng về lâu về dài lại cảm thấy vô cùng mệt mỏi để rồi cuối cùng sẽ đi tìm những sự vuốt ve chiều chuộng khác, như một sự bù lỗ.
Kiểu thứ ba : vợ là như bà chủ, bà chằng.
Gã không phải là một nhà sử học, cũng không phải là một nhà nhân chủng học, nên chẳng thể nào biết rõ được chế độ mẫu hệ đã xuất hiện ở đâu và vào thời nào trên mặt đất này. Có lẽ từ rất xa xưa, trước khi nông nghiệp phát triển. Gã chỉ nắm một cách qua quít và hiểu một cách lơ tơ mơ rằng : trong chế độ mẫu hệ, người đờn bà làm chủ gia đình và nắm quyền sinh sát trên chồng con. Chỉ có một cái khoái duy nhất trong chế độ mẫu hệ là chị con gái sẽ đi cưới anh con giai làm chồng, chứ không phải anh con giai đi cưới chị con gái làm vợ như ngày hôm nay.
Phải, nếu như ngày hôm nay, chế độ mẫu hệ mà tái xuất giang hồ, hẳn thế giới này sẽ bị đảo lộn tùng phèo, như bài thơ “Thí dụ như” của một tác giả nào đó mà gã đã quên béng mất tên rồi. Xin thành thực cáo lỗi và sẵn sàng nhận một thẻ vàng của trọng tài Fifa.
- Bây giờ thí dụ như là :
Chồng thì làm bếp vợ ra quán hè,
Vợ nhậu đến bữa quên về,
Chồng sang hàng xóm, ngồi lê cả ngày.
Vợ đi bia bọt gác tay,
Chồng mua mỹ phẩm mất bay triệu đồng.
Vợ mê em út lung tung,
Chồng diện áo váy hở mông hở đùi.
Vợ thời phóng khoáng ham vui,
Chồng thì bủn xỉn ví như ngân hàng.
Vợ quen cái thói làm tàng,
Chồng thì mê tín thắp nhang đêm ngày.
Lên xe vợ phóng như bay,
Chồng thì tỷ mỉ vá may thêu thùa.
Vợ lo điện nước búa xua,
Chồng lo giữ trẻ sớm trưa ru hời.
Vợ thèm thuốc lá chờ mời,
Chồng ham tứ sắc mê chơi quên ngày.
Vợ thời ở bẩn một cây,
Chồng thì sạch sẽ đêm ngày soi gương.
Vợ thời phải nộp sạch lương,
Chồng thì tính toán đủ đường, đủ đôi.
Vợ thời đi biển có đôi,
Chồng thì đi biển mồ côi một mình.
Mới nghĩ mà đã phát kinh.
Tạm gác lại chuyện thế giới này bị đảo lộn tùng phèo khi những “thí dụ như là” xảy ra, để được trở về với kiểu vợ làm bà chủ. Dòng máu “mẫu hệ” lưu thông ào ào trong huyết quản, nên họ bèn vùng lên, không những đòi quyền...sướng và bình đẳng với giới mày râu, mà còn giành lấy mọi quyền hành, quyết định tất tật mọi chuyện to nhỏ trong gia đình. Lúc bấy giờ thân phận ông chồng thật là hãi hùng và bi đát :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà con đây.
Và một khi quyền hành rơi vào tay người vợ, thì tình hình sẽ trở nên não nề, bởi vì từ cái ghế bà chủ, người vợ không ngần ngại nhảy phóc lên ngô...…bà chằng. Bởi vì chữ chằng chẳng gần với chữ chủ lắm ru ?
Từ cổ chí kim, những khuôn mặt bà chằng thì quả là ê hề và đầy rẫy. Gã chỉ xin đan cử hai khuôn mặt “điển hình tiên tiến”. Một bên đông và một bên tây.
Bên đông thì đó là khuôn mặt bà vợ Trần Quí Thường, vốn được mang biệt danh “sư tử Hà Đông”. Điển xưa tích cũ kể lại rằng : Thi hào Tô Đông Pha có người bạn tên là Trần Quí Thường. Quí Thường lại có người vợ nổi tiếng hung dữ. Mỗi lần Tô Đông Pha đến chơi, thì đều nghe tiếng bà vợ của Quí Thường quát tháo, la hét ầm ỉ. Thấy vậy, họ Tô mới làm thơ chế diễu ông bạn hiền có cô vợ dữ như sau :
- Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền,
Đàm không thuyết pháp dạ bất miên.
Hốt văn Hà Đông sư tử hống,
Trụ trượng lạc thủ tâm mang mang.
Có nghĩa là :
- Ai hiền hơn cữ sĩ Long Khâu,
Đọc kinh, giảng đạo suốt canh thâu.
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Tay run gậy rớt lòng kinh hãi.
Từ đó, biệt danh “Sư tử Hà Đông” vốn được dùng để ám chỉ người vợ có tính hung dữ. Nếu ở các rừng châu Á, cọp là vua của loài thú, thì ở châu Âu, sư tử là chúa sơn lâm. Các loài thú khác khi nghe sư tử rống, đều cúp đuôi hoảng sợ, vắt giò lên cổ mà chạy trốn.
Còn bên tây thì đó là khuôn mặt bà vợ Socrate. Ông là một triết gia lừng danh của Hy Lạp cổ xưa. Lý thuyết của ông ngày nay vẫn còn giá trị. Nhưng ác thay, đang khi ông là một bậc thày đáng kính của đông đảo các môn đệ và sau này muôn thế hệ vẫn coi ông như một bậc tôn sư, thì ông lại là nạn nhân của một bà vợ. Bà đã chanh chua, khinh rẻ ông là hạng trói gà không chặt, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Lần kia, sau khi đã chửi ông một trận kịch liệt, bà đã tặng cho ông nguyên cả một chậu nước dơ lên người, nhưng ông vẫn thản nhiên và nói :
- Tôi biết mà, sau khi đã có sấm chớp thì tất nhiên trời sẽ đổ mưa.
Lần khác ông mời bè bạn đến nhà dùng bữa, bà hầm hầm nét mặt, bưng cả mâm cơm hắt ra ngoài sân. Ông vẫn bình tĩnh lượm lên, tái phối trí rồi cùng với bè bạn ngồi ăn ngoài sân. Trời không chịu đất, thì đất đành phải chịu trời chứ còn sao nữa.
Kiểu thứ bốn : vợ như một đầy tớ.
Kiểu thứ bốn hoàn toàn trái ngược với kiểu thứ ba. Người vợ kiểu này bị coi như là một đầy tớ, một con ở trong nhà. Sở dĩ như vậy vì ông chồng còn mang nặng đầu óc phong kiến “xuất giá tòng phu”, người con gái một khi đã lấy chồng thì phải phục tùng chồng, để rồi “phu xướng phụ tùy” chồng chỉ việc phán, còn vợ phải cúi đầu vâng nghe đến tối tăm cả mặt mũi. Hay độc tài quân phiệt “chồng chúa vợ tôi”, chồng là chủ còn vợ chỉ là tôi đòi.
Và như chúng ta đã biết : lòng đầy thì mới tràn ra ngoài. Vì khắc sâu trong đầu một lập trường như thế, nên cái óc phong kiến và quân phiệt luôn được tuôn trào bằng lời nói và bằng hành động.
Trước hết bằng lời nói. Những ông chồng độc tài này chẳng bao giờ có được những lời nói êm tai với cô vợ của mình. Đâu rồi thuở ban đầu lưu luyến ấy :
- Anh anh, em em.
Hay :
- Mình ơi, mình à.
Nếu không có được những cách gọi nhau ngọt như đường cát mát như đường phèn ấy, thì chí ít cũng phải như người bình dân :
- Mẹ thằng cu ơi, má cái đĩ à...
Thế nhưng, những ông chồng bạo chúa này nhìn cô vợ bằng một cặp mắt khinh bỉ : đờn bà con gái chẳng biết đí gì sốt, nên mở mồm mở miệng ra, toàn là :
- Cái con mẹ mày...cái con mụ kia...
- Ta thế này, ta thế nọ...
Rõ thật oai hơn cóc chết. Vợ mà không vâng, thì chỉ có nước ăn chửi và ăn đòn mà thôi.
Tiếp đến bằng hành động. Những ông chồng độc tài này chẳng buồn thò tay giúp cô vợ một công việc nào, để mặc cô vợ đầu tắt mặt tối, còn mình thì chỉ việc ngồi uống trà và hút thuốc, hay nằm đọc báo và coi truyền hình...bởi vì họ nghĩ rằng : thò tay giúp vợ là mất mặt đấng nam nhi đại trượng phu. Xem ra họ rất thích đóng vai chỉ đạo nghĩa là chỉ cho người khác làm, còn mình thì xin miễn. Hay đóng vai giám đốc, nghĩa là đốc cho người khác làm, còn mình thì xin được hai chữ bình yên.
Gã đã từng thấy có những bà vợ buôn thúng bán mẹt, suốt ngày gánh hàng đến chai cả vai, vẹo cả cổ, bòn từng đồng xu, cốt để tới bữa ăn, phải có tí thịt tí cá và xị rượu cho ông chồng. Thậm chí còn phải bày cả một mâm riêng cho ông chồng xơi trước, dư lại bao nhiêu mới tới lượt bà và các con.
Để kết luận cho kiểu thứ ba và thứ tư này, gã xin mượn lời suy diễn của thánh Tôma, đấng tiến sĩ Hội Thánh, như sau :
- Thiên Chúa không lấy xương đầu của ông Adong mà dựng nên bà Evà, vì e rằng bà sẽ thừa thắng xông lên mà coi mình là bậc đờn chị để rồi cai trị ông và gây nên những hậu quả tai hại sau này. Thiên Chúa cũng không lấy xương gót chân của ông Adong mà dựng nên bà Evà, vì e rằng ông sẽ xem thường và đày đọa bà, coi bà chỉ là một thứ tôi đòi. Trái lại, Thiên Chúa đã lấy chiếc xương sườn của ông Adong mà dựng nên bà Evà. Hẳn mọi người đều biết : xương sườn là một thứ xương ở giữa thân thể con người và nằm sát trái tim, nên bà cần phải được bình đẳng với ông và cần phải được ông yêu thương chăm sóc.
Kiểu thứ năm : vợ như một người quản lý.
Gã đã có một kinh nghiệm thật cay đắng về ngân hàng. Số là sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tất cả những người mắc nợ ngân hàng đều phải thanh toán, trả lại cho bằng hết, tới tận đồng xu cuối cùng. Trong khi đó số tiền thiên hạ gửi vào thì ngân hàng lại...lờ tít, thành thử mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi.
Vì thế, có người đã sánh ví vợ như là một ngân hàng sống. Khi ta lấy vợ, có nghĩa là ta mở một trương mục ở ngân hàng để ký thác toàn bộ cuộc đời và tiền bạc của ta vào đó. Có người cảm thấy rằng nhờ vậy mà cuộc đời được an toàn và tiền bạc được sinh lời, dù rằng lãi suất rất thấp.
Thế nhưng cũng có kẻ cảm thấy rằng mình bị...mất cắp. Mất cắp cuộc đời cũng như mất cắp tiền bạc. Thực vậy, suốt bao năm tháng học tập đèn sách, đổ mồ hôi sôi con mắt, mới khều được cái mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư hay ngoi lên làm ông chánh, ông trùm...còn cô nàng ấy hả, chỉ cần ừ một phát để làm vợ người ta và nghiễm nhiên được cả và thiên hạ gọi là bà bác sĩ, bà kỹ sư hay bà chánh, bà trùm.
Còn chuyện tiền bạc. Trước kia làm đồng nào mình xào đồng ấy, còn bây giờ, làm được bao nhiêu đem về nộp bấy nhiêu. Chẳng được thiếu một đồng một cắc. Không nộp hết là không xong. Nhưng phiền một nỗi đó là nộp vào thì dễ mà rút ra thì khó. Thành ra đôi lúc phải nói quanh nói co, nói gian nói dối để có tí tiền còm cà phê cà pháo hay chi dùng chuyện nọ chuyện kia.
Tuy nhiên, gã không thích sánh ví vợ với ngân hàng, dù là ngân hàng sống bởi vì nó có vẻ tiền bạc vật chất quá đi thôi, mà muốn sánh ví vợ với một người quản lý hơi tham lam. Người quản lý tham lam này sẽ coi ông chồng như một công cụ kiếm tiền và cô nàng sẽ bòn rút cho đến hơi thở và đồng xu cuối cùng. Khi ông chồng đem tiền về thì cô nàng vui như tết. Khi ông chồng bị thất nghiệp hay không kiếm ra tiền nữa thì chỉ có cách biến đi chỗ khác chơi, chứ ở nhà thì cũng phát điên lên mất vì những lời chì chiết và bóng gió. Khi ông chồng ngửa tay xin mấy đồng tiền lẻ, thì hãy đợi đấy nghe cô nàng ca vọng cổ sáu câu có mùi cái đã.
Dân Mỹ mới có mấy người chết vì bệnh than thì đã cuống cà kê, còn những ông chồng đáng thương này chịu đựng “bệnh...than” của cô nàng suốt bao nhiêu năm tháng mà có chết chóc gì đâu.
Quản lý thì phải dính liền với tiền bạc vật chất. Đó là chuyện thường tình. Tích lũy hay ky cóp nhằm bảo đảm đời sống vật chất cho gia đình thì tốt, dù cô nàng có hơi chặt chẽ, keo kiệt hay bủn xỉn một tí cũng không sao. Vì lợi ích chung, mình vì mọi người kia mà. Như chị kiến, tha lâu cũng đầy tổ, mùa hè vẫn ra sức thu gom để mùa đông không bị túng quẫn.
Tuy nhiên, có những cô nàng keo kiệt với chồng với con, nhưng lại hào phóng với bản thân theo kiểu vung tay quá trán, con nhà lính tính nhà quan, mắc phải hội chứng đi “shop”, nay mua cái này, mai sắm cái kia, thành thử chẳng mấy chốc mà ngân quĩ trong gia đình bị bốc hơi hay đội nón ra đi lúc nào cũng không hay.
Kiểu thứ sáu : vợ như người tình.
Những bà vợ kiểu này thường hay dẩu mỏ chê bai ông chồng của mình là kẻ “chỉ biết có nồi cơm chứ chẳng hề biết còn có cả hoa hồng trong cuộc sống”. Hay trách móc ông chồng của mình “khô như ngói, chẳng hề biết lãng mạn, để hâm nóng tình yêu”.
Và thế là dù đám cưới đã xong xuôi và mọi việc đều đã trở về với nhịp điệu bình thường của nó, ông chồng vẫn cứ phải tiếp tục đóng vài trò người tình, tức là phải săn đón cô nàng, căng óc ra mà đoán xem cô nàng đang muốn gì để mà chiều chuộng.
Ngày sinh nhật, ngày cưới nhau, ngày tình yêu, ngày phụ nữ, ngày tết, ngày lễ...tất tần tật đều phải lên lịch để mua hoa, mua quà kèm theo những lời lẽ lâm ly bi đát nhất không kém gì tuồng cải lương. Nếu trót dại mà lỡ quên thì chắc chắn chiến tranh lạnh sẽ xảy ra, mặt mũi cô nàng sẽ ủ dột như bánh bao chiều :
- Anh không còn thương em nữa...dồi. Hay là lại anh có người ta.
Còn cô nàng thì chăm sóc đến nhan sắc của mình hơn là chăm sóc việc nhà bởi vì cô nàng đang đóng vai người tình kia mà.
Kiểu thứ bảy : vợ là như người...vợ.
Có một truyền thuyết cho rằng : người đàn bà không phải được tạo nên từ chiếc xương sườn của người đàn ông, mà được làm ra bằng một loại hợp chất. Đúng vậy, thuở ban đầu, người đàn ông sống trơ trụi một mình. Vừa đơn độc lại vừa buồn phiền. Thượng đế nhìn thấy bèn lấy làm tội nghiệp, nên dủ lòng thương, bèn lấy một chút dịu dàng của hoa lan, một chút xinh đẹp của bông hồng và một chút tinh khiết của cánh huệ. Tất cả được trộn lẫn với nhau. Nhưng chưa đủ. Ngài còn hòa vào hợp chất ấy một chút tinh ranh của con khỉ già, một chút độc ác của con rắn hổ mang và một chút hung dữ của con sư tử. Tất cả được nhào nặn và quyện lẫn vào nhau mà tạo nên người đàn bà.
Thượng đế bèn trao cái khối hợp chất kỳ diệu và quái quỉ ấy cho người đàn ông. Và từ đó người đàn ông không còn cô đơn trơ trụi nữa. Thế nhưng, vào một buổi sáng u ám, người đàn ông bỗng cảm thấy không còn chịu đựng nổi sự tinh ranh, độc ác và hung dữ của cái hợp chất quái quỉ ấy, nên đã mang trả người đàn bà lại cho Thượng đế. Song cuộc ly hôn đầu tiên này diễn ra chưa đầy một tuần trăng, thì người đàn ông bỗng cảm thấy nhớ day nhớ dứt cái vẻ dịu dàng, xinh đẹp và tinh kết của cái hợp chất kỳ diệu ấy, bèn chạy đến xin Thượng đế trả lại người đàn bà cho mình. Từ đó họ sống hòa thuận, đầm ấm và hạnh phúc với nhau.
Dầu vậy, người đàn ông vẫn không ngừng kêu cầu :
- Xin cho nàng mãi mãi dịu dàng như hoa lan, xinh đẹp như bông hồng và tinh khiết như cánh huệ.
Từ truyền thuyết trên, chúng ta thấy người vợ lý tưởng chính là người vợ kiểu thứ bảy. Cô nàng đích thị phải là người vợ “một chăm phần chăm”, người vợ chính hiệu con nai vàng.
Muốn được như thế, cô nàng phải là tổng hợp của sáu kiểu trên với một thành phần vừa đủ cho mỗi kiểu. Cô nàng phải biết lúc nào nên chăm sóc và hỏi ý kiến ông chồng, lúc nào nên nũng nịu và vòi vĩnh còn lúc nào phải nghiêm khắc và cứng rắn. Cô nàng cũng phải biết lúc nào phải thu gom tiền bạc và lúc nào phải ban phát. Có đầu vào thì cũng phải có đầu ra. Vừa có tình lại vừa có lý. Vừa cương lại vừa nhu...
Nhưng trên cõi đời này, hỏi có mấy anh đờn ông tìm được một chị vợ như vậy. Và một người vợ lý tưởng kiểu thứ bảy liệu có thực sự tồn tại trên mặt đất này không ?
Đang mải miết suy gẫm về những thói hư tật xấu của đờn ông lẫn đờn bà, của con giai lẫn con GãSiêu 84
Đang mải miết suy gẫm về những thói hư tật xấu của đờn ông lẫn đờn bà, của con giai lẫn con gái, thì “xếp nhớn”, tức là cụ chủ nhiệm khả kính, bỗng “phôn” và ra lệnh cho gã :
- Chú mày liệu viết cho một mẩu về cái tính keo kiệt, hà tiện, bủn xỉn của thiên hạ đi nhé.
Gã bèn đoán già đoán non :
- Hẳn rằng lúc này xếp nhớn bị “bà cả đọi” thăm viếng, đầu vô thì ít mà đầu ra thì lại nhiều. Toát mồ hôi hột khi nghĩ tới những khoản phải chi, mà túi tiền thì đã cạn.
Thậm chí, gã còn phóng đại tô màu cho mê ly rùng rợn :
- Hay là xếp nhớn nhà ta định kêu gọi sự giúp đỡ của bá tánh, nhưng bị bá tánh từ chối, thành thử hận đời đen bạc, bèn nhờ gã chửi toáng lên một trận cho “hạ hỏa”...Thôi thì vâng lời trọng hơn của lễ, bèn phải cặm cụi viết, chứ biết sao bây giờ.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều biết giá trị của đồng tiền :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân.
Một khi đã biết được giá trị của nó là như thế, nên mọi người, bất luận nam phụ lão ấu, đều thích tiền. Từ chỗ thích tiền tới chỗ tham tiền chỉ cách nhau có tí xíu.
Tại một nước Hồi giáo, người đàn ông nọ bị kết án tử hình vì đã lấy trộm thức ăn của kẻ khác.Trước khi bị treo cổ, theo thông lệ, anh ta được phép xin nhà vua ban cho một ân huệ. Và anh ta đã kêu lên :
- Xin bệ hạ cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm mà thôi, hạt giống sẽ nảy mần, đâm bông và kết trái ngay lập tức, vì đó là bí quyết gia truyền.
Nhà vua chấp thuận. Đúng giờ đã định, trước mặt nhà vua và bá quan văn võ, anh ta đào một cái lỗ nhỏ và nói :
- Chỉ người nào chưa hề ăn trộm, mới có thể gieo hạt giống này được. Vì đã từng lấy cắp, nên tôi không thể...
Nhà vua tin lời anh ta, bèn quay sang nhìn quan tể tướng. Sau một lúc do dự, quan tể tướng bèn thưa :
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn niên thiếu cũng có lần lấy cắp của người khác, nên thần không thể...
Nhà vua thầm nghĩ :
- Ta sẽ nhờ viên thủ kho vốn nổi tiếng thanh liêm, không tham nhũng hối lộ.
Nhưng viên thủ kho cũng khiêm tốn từ chối vì đã có lần thụt két và gian lận trong tiền bạc.
Không tìm được người nào, nhà vua bèn đứng dậy cầm hạt táo đến bỏ vào chiếc lỗ, nhưng bỗng sực nhớ ra rằng mình đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.
Lúc bấy giờ tên tử tội mới chua xót thốt lên :
- Các ngài là những kẻ giàu sang, quyền cao chức trọng, chẳng hề thiếu thốn điều chi, thế mà cũng đã hơn một lần ăn cắp. Còn tôi, một kẻ khốn khổ, chỉ vì mượn đỡ thức ăn trong cơn đói thì lại bị kết án treo cổ. Chẳng công bằng chút nào.
Thậm chí, ngay cả quí vị con nít cũng rất thích và rất tham tiền.
Ngày nọ, một chú nhóc bị kẹt cả bàn tay trong chiếc bình cổ. Trước khi đập bể chiếc bình quí giá ấy, ông bố nói với chú nhóc :
- Con hãy thử lần cuối bằng cách duỗi thẳng các ngón tay ra và rút lên.
Nhưng chú nhóc trả lời :
- Nếu duỗi thẳng các ngón tay ra thì đồng tiền con đang cầm sẽ rơi mất sao ?
Điều oái oăm thay, đó là lòng tham của con người thì dường như không có đáy, chẳng bao giờ được no thỏa.
Tên đầy tớ được ông chủ thương cho ở trong một ngôi nhà đẹp đẽ, có vườn hoa bao quanh. Sau một tháng đi vắng, khi trở về ông thầm nghĩ người đầy tớ sẽ sung sướng và biết ơn ông. Thế nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược. Tên đầy tớ lúc nào cũng nhăn nhó như bực bội điều chi. Ngạc nhiên, ông chủ bèn hỏi :
- Anh không cảm thấy sung sướng khi có đủ mọi sự hay sao ?
Tên đầy tớ trả lời :
- Làm sao tôi sung sướng cho được ? Ông bảo là tôi có đủ mọi sự ư ? Không đâu. Nhà bên cạnh có một con chim hoàng yến. Tôi muốn mà chẳng được. Tiếng hót của nó ngày càng làm cho tôi khổ tâm.
Thật đúng như tục ngữ đã diễn tả :
- Đứng núi này trông núi nọ.
- Được voi đòi tiên.
Đã thích tiền và tham tiền thì phải làm thế nào cho có và có nhiều tiền. Muốn được như vậy, người ta phải nai lưng ra mà kiếm tiền.
Có người kiếm tiền một cách chân chính bằng sức lao động cật lực của mình. Những người này thường nghèo và chẳng có được mấy tí. Thế nhưng, lắm kẻ lại kiếm tiền một cách bất chính bằng mọi thủ đoạn như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian, ăn hối lộ... Những kẻ này thường giàu và phất lên trông thấy.
Một khi đã có tiền,thì phải biết dùng tiền. Trong phạm vi tiêu tiền, gã xin ghi nhận hai thái cực.
Thái cực thứ nhất đó là tiêu tiền một cách hoang phí, theo kiểu :
- Vung tay quá trán.
- Bóc ngắn cắn dài.
- Con nhà lính, tính nhà quan.
Nếu thái cực này cứ ø liên tục phát triển thì chẳng mấy chốc mà đi đoong sự nghiệp và trở thành dân khố rách áo ôm.
Thái cực thứ hai đó là tiêu tiền một cách keo kiệt, bủn xỉn, vốn được người đời gọi là hà tiện. Và đây chính là điều gã xin bàn đến. Vậy chân dung những kẻ hà tiện là như thế nào ?
Cũng như bao người khác, họ là những kẻ thích tiền và tham tiền, nhưng lại không dám xài tiền và tiêu tiền, nếu có thì cũng rất bủn xỉn và nhỏ giọt nhưng trong lòng lại tiếc hùi hụi.
Tục ngữ Việt Nam đã diễn tả họ là những kẻ :
- Rán sành ra mỡ.
- Vắt cù chày ra nước.
- Đãi cứt sáo lấy hạt đa,
Đãi cứt gà mót hạt tấm.
- Keo cút người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyên thở những hơi đồng.
Họ tưởng rằng mình làm chủ tiền bạc, nhưng trái lại, chính tiền bạc đã làm chủ họ. Một ông chủ thật hà khắc.
Họ là những kẻ chỉ có đầu vô mà không có đầu ra. Cố gắng tích lũy mà không dám tiêu xài, dù cho những nhu cầu chính đáng và cần thiết. Cái khoái duy nhất của họ là được ngồi đếm tiền và thấy túi tiền của mình mỗi ngày một căng phồng.
Có một ông nhà giàu nhưng rất keo kiệt. Ông đã xây cho mình một căn phòng bí mật để cất giấu tiền. Hằng đêm một mình ông lẻn xuống, mắt sáng rực khi ngồi đếm những xấp tiền mới tinh. Ông đưa lên mũi, hít hà và đê mê thích thú, như say thuốc lào hay “phê”... sì ke vậy. Rủi thay hôm ấy, ông vội vã đóng sập cửa nhưng lại để quên chìa khóa ở ngoài. Ông gào thét song chẳng ai nghe thấy. Cuối cùng, ông đã chết thối giữa những đồng tiền của mình.
Hình ảnh hằng đêm ông ngồi lặng lẽ đếm tiền đã nói lên một sự thật :
- Mũi kẻ hà tiện có tài chịu đựng nổi mùi hôi tanh của tiền bạc, giống như mũi của người nghèo khổ có tài chịu đựng nổi mùi hôi thối của rác rưởi.
Thói hà tiện và keo kiệt này lại thường gia tăng theo tuổi tác, như một câu danh ngôn đã bảo :
- Khi các tật xấu khác xem ra đã già, thì thói hà tiện và keo kiệt vẫn cứ trẻ mãi. Và càng già, thì lại càng có những sức bật mới.
Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi vì người già thường nhìn thấy một tương lai bấp bênh đang chờ đón mình, nên phải gom góp thật nhiều hầu tạo cho mình một cảm giác an toàn.
Và như vậy, kẻ hà tiện sống rất khổ cực.
Một bà lão ăn mày, quanh năm vất vả rảo qua các ngõ lối để xin bố thí. Dù mùa đông băng giá, bà cũng chỉ mặc một manh áo rách. Bà van lơn thảm thiết, kể lể cảnh túng cực. Người thương tình thì cho tí chút, kẻ quen mặt thì xua đuổi bà như kẻ trộm, nhưng bà vẫn kiên tâm. Tối đến, bà trở về túp lều xiêu vẹo. Bà chỉ ăn những mẩu bánh thừa người ta cho, đau ốm không dám mua thuốc vì tiếc tiền. Do sống quá kham khổ, bà đã ngã bệnh và chết, tay vẫn chỉ vào góc nhà. Người ta đào bới và tìm thấy một cái hộp trong đó đựng gần hai trăm ngàn đô la!
Không phải họ chỉ sống rất khổ cực, mà chết cũng rất khổ cực.
Một ông già hấp hối, vị linh mục tới xức dầu, nhưng ông nhất định không chịu mở bàn tay ra. Sau khi ông chết, người ta thấy bàn tay ấy vào giây phút cuối cùng vẫn nắm chặt chìa khóa “két” tiền.
Một ông hà tiện khác, làm lụng vất vả suốt năm, ngày thường cũng như ngày Chúa nhật. Ông sắm được nhiều vàng. Lúc sắp chết, ông xin người ta đặt những thỏi vàng trên tay. Người ta bỏ vàng đầy cả hai bàn tay. Nhưng khi vừa chết, vàng liền rơi ra vì hai bàn tay đã cứng đơ. Thật đúng như ca dao đã nói :
- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Kẻ hà tiện chẳng dám tiêu tiền và xài tiền cho bản thân mình, mặc dù có những nhu cầu thật chính đáng và cần thiết. Như vậy người khác đừng có hòng tơ tưởng và xơ múi gì vào đồng tiền của họ, đừng có hòng trông mong họ giúp đỡ và bố thí.
Nếu có người tới hỏi vay, họ sẽ trả lời :
- Lúc này tôi cũng túng bấn và kẹt lắm, không thể giúp được.
Nếu người đó có năn nỉ ỉ ôi đến gẫy lưỡi thì họa may họ mới cho vay nhưng với mức lời cắt cổ.
Nếu có người vì trách nhiệm phải tới lạc quyên, xin họ giúp đỡ cho những công trình phúc lợi chung hay cứu trợ cho những nạn nhân của thiên tai bão lụt, họ sẽ trốn để khỏi lôi thôi và phức tạp. Còn nếu không trốn được, họ sẽ miễn cưỡng trả lời :
- Thèm lòng chứ ai lại thèm thịt. Lòng tôi thì muốn rất nhiều, nhưng cái khó bó cái khôn, hoàn cảnh lúc này thật là...
Rồi họ sẽ cà kê dê ngỗng, vòng vo tam quốc, tả oán một chặp. Cuối cùng mới bủn xỉn ló ra được vài đồng bạc lẻ đã nhàu nát.
Thành thử đồng tiền của kẻ hà tiện chẳng đem lại lợi ích gì cho đời và cho người như một câu danh ngôn đã bảo :
- Kẻ hà tiện giống như một mỏ vàng, trên đó cây cối chẳng thể nào đâm bông kết trái.
Họa chăng chỉ khi nào họ đã chết thì may ra tiền bạc ấy mới đem lại tí ti lợi ích nào chăng :
- Con lợn chỉ tốt và có ích khi nó... hết sống. Kẻ hà tiện cũng vậy, chỉ có ích cho người khác khi họ đã chết mà thôi.
Hay khi họ biết mở mắt ra nhìn cảnh khốn cùng của những người chung quanh mà “cải tà qui chánh”.
Một ông tỷ phú có thói quen lên sân thượng dùng ống nhòm nhìn lén các cô thiếu nữ. Ông thản nhiên trước nếp sống lầm than của đám dân nghèo khổ chung quanh. Ngày kia, ông nhìn thấy một phụ nữ tay cầm một sợi dây với dáng đi thiểu não. Ông vội chạy xuống tìm gặp người phụ nữ ấy thì được biết vì quá túng cực nàng muốn treo cổ lên cây mà chết. Ông liền hỏi :
- Sao cô không chạy tới những người giàu có ?
- Những người càng giàu thì lại càng hay keo kiệt.
- Còn các cơ quan từ thiện ?
- Họ đòi hỏi nhiều thứ giấy tờ, thủ tục hành chánh quá phức tạp.
- Thế chồng cô đâu ?
- Anh ấy bị thất nghiệp.
Vừa lúc đó cảnh sát bắt được một tên trộm và dẫn đến. Tên trộm ấy chính là chồng của người thiếu phụ. Lúc bấy giờ ông tỷ phú mới mở mắt ra và nói :
- Sự việc hôm nay đã giúp tôi thức tỉnh sau một đêm dài ích kỷ và keo kiệt. Mặc dù giàu có, nhưng vì không quan tâm tới những người chung quanh nghèo đói, nên mới ra nông nỗi này.
Vì thế, cần phải biết tiêu tiền cho hợp tình và hợp lý, không hoang phí theo kiểu “phá gia chi tử”, nhưng cũng không keo kiệt bủn xỉn theo kiểu “rán sành ra mỡ”.
Tiền bạc trước hết phải được tiêu dùng cho bản thân và gia đình, hầu bảo đảm một cuộc sống vật chất ấm no. Gã còn nhớ lời khuyên của một thày giáo già trường làng như sau :
- Đối với những sự cần thiết và chính đáng thì bao nhiêu cũng sẵn sàng chi ra, nhưng đối với những sự thừa thãi và hoang phí, thì một đồng, một cắc cũng không.
Ngày kia, người ta đến lạc quyên một gia đình nọ. Vừa tới cổng thì đã nghe thấy tiếng bà mẹ la mắng cậu con trai :
Tuy vậy, vì bổn phận, người ta cũng bấm chuông. Cánh cửa mở ra và bà chủ tươi cười nói :
- Hẳn quí vị đã nghe tôi mắng đứa con trai. Nhưng nếu tôi chẳng tiết kiệm từng que diêm thì hôm nay làm gì có 500 đô mà giúp hội từ thiện.
Thế nhưng, tiền bạc không phải chỉ được tiêu dùng cho bản thân và gia đình, mà hơn thế nữa nó còn phải được tiêu dùng cho người khác, nhất là những người nghèo túng, cực khổ đang cần được quan tâm giúp đỡ.
Khi giúp đỡ người khác, không phải chúng ta chỉ cố gắng “xóa đói giảm nghèo” hay làm vơi bớt nỗi khổ đau của họ, mà thực ra là chúng ta giúp đỡ và làm lợi cho chính bản thân mình.
Sách Cổ học tinh hoa đã ghi lại câu chuyện “mua nghĩa” như sau :
Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sau Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi :
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không ?
Mạnh Thường quân nói :
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại và bảo :
- Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều tha cho cả.
Rồi đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường quân :
- Nhà Tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy phòng, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì Tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế cũng không hỏi gì đến tiền nữa.
Sau Mạnh Thường quân bị bãi quan, trở về đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên :
- Trước kia tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy nay tôi mới trông thấy.
Câu chuyện trên làm cho gã nhớ tới Lời Chúa trong Tin mừng :
- Hãy dùng của cải chóng qua mà mua lấy bạn hữu.
Chính những hành động bác ái yêu thương mới là người bạn đích thực, theo chúng ta và bênh vực cho chúng ta. Chính những hành động bác ái yêu thương mới là tấm giấy thông hành cho chúng ta bước vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Một ông nhà giàu nhưng tình lại keo kiệt, sau khi chết, được dẫn đi tham quan thiên đàng. Phong cảnh thiên đàng thật là tuyệt vời, đi mãi không biết chán. Trưa đến, đói bụng ông ghé vào một quán ăn ven đường. Ông lên tiếng hỏi :
- Đĩa cơm nhỏ này giá bao nhiêu ?
- Một đồng.
- Còn đĩa cơm lớn ?
- Cũng một đồng.
- Vậy hãy cho tôi một đĩa cơm lớn.
- Nhưng ông có tiền không đã ?
- Có chứ.
Nói rồi, ông nhà giàu lấy ra trong chiếc ví dày cộm một đồng tiền còn mới. Thế nhưng người chủ quán lắc đầu và nói :
- Không được, ở thiên đàng không xài thứ tiền “thu tích” mà chỉ tiêu thứ tiền “cho đi” mà thôi. Tất cả tiền trong ví của ông đều là loại tiền thu tích, ông chẳng hề có lấy được một xu cho đi, bởi vì trong cuộc sống ông có giúp đỡ ai bao giờ.
Nghe nói thế, ông nhà giàu tái mặt bỏ đi. Bước chân tuyệt vọng lặng lẽ rời khỏi thiên đàng. Chả biết những gì đang chờ đón ông.
Tiền bạc sẽ thối mục nếu chỉ biết thu tích, nhưng trái lại sẽ nảy nở nếu biết cho đi.
Đã từ lâu, gã bị mang tiếng là thiên tư thiên vị, chuyên môn bốc thơm phe nhà mà lại hay phá GãSiêu 85
Đã từ lâu, gã bị mang tiếng là thiên tư thiên vị, chuyên môn bốc thơm phe nhà mà lại hay phá thối phe ta. Có nghĩa là gã luôn mồm khen ngợi cánh đờn ông con giai, trong khi đó hễ mở miệng ra là lại chê bai phe đờn bà con gái.
Sở dĩ như vậy cũng dễ hiểu thôi, bởi vì bản thân gã cũng thuộc cánh đờn ông con giai, thuở nhỏ có một thời bố bắt phải húi cua, để có cái đầu “ca-rê” tóc năm phân đều…cho nó mát.
Nếu hồi tâm xét mình, gã cũng cảm nhận được đích thực là như vậy. Không hiểu tại sao mỗi khi phải vạch áo cánh đờn ông cho quí bà quí cô xem lưng, thì gã thường hay bị…tắc tị, tìm hoài kiếm mãi mà chẳng thấy được một con giáp nào cả. Còn khi bới móc phe ta ấy hả, văn chương chữ nghĩa cứ tuôn ra rông rổng chẳng cầm lại được, theo kiểu “sine fine dicentes” nói tới nói lui mà vẫn chẳng hết.
Hôm nay gã xin thành thật thú nhận và xưng tội trống với quí bà quí cô sự thể là như vậy :
- Bởi vì dối người thì dễ chứ làm sao dối được cả Chúa.
Mà cũng kỳ thật, hễ cứ đụng tới “phạm trù” này là tay chân, miệng mồm gã đều ngứa ngáy, giống như bị dị ứng, hay bị phong giật mỗi khi ăn phải ngao sò ốc hến...Nên đành phải viết, phải nói cho đã...ngứa.
Nếu có bị phang lại, thì cũng đành phải chịu trận :
- Rằng hư quen thói mất rồi.
Trước khi tiếp tục việc kể tội đờn bà con gái, như thường lệ, gã xin ghi lại nơi đây một vài so sánh, một vài ví von, được coi như là món…khai vị.
Một anh chàng nọ, hẳn đã bị các cô đá lên đá xuống như một trái banh, nên đã cay cú phát biểu như sau :
- Tivi thú vị hơn đờn bà.
Rồi anh chàng hâm hâm này đã đưa ra những nhận định riêng tư của mình như thế này :
- Này nhé, tivi chỉ cần một miếng vải che cho đỡ bụi mà không cần chạy theo “mô đen mô điếc” gì cả. Tivi không bao giờ hỏi bạn tại sao về trễ, hay tại sao lại có vết son trên áo. Bạn có thể xem tivi bất kỳ lúc nào bạn muốn và có thể bấm nút “mute” cho nó “im cái mồm”. Chỉ cần ngồi ở nhà với cái tivi, bạn có thể biết tất cả mọi chuyện xảy ra trên thế giới. Tiền điện mỗi tháng cho tivi dĩ nhiên phải ít hơn tiền son phấn, quần áo và sửa sắc đẹp của nàng…Và còn nhiều, còn nhiều điều thú vị khác nữa.
Anh chàng khác, đã méo mó nghề nghiệp, phân tích đờn bà con gái theo cung cách của một nhà khoa học và đã công bố kết quả “ngâm kíu” của mình như sau :
Về vật lý : Đờn bà con gái, bề mặt thường được phủ một lớp màu sắc, tựa như một bức tranh trừu tượng. Có thể sôi sục vì bất cứ điều gì, nhưng cũng thường đóng băng mà chẳng cần lý do rõ ràng. Sẽ đau khổ nếu không được trọng dụng đúng chỗ.
Về hóa học : Có một ái lực rất mạnh đối với vàng bạc và những loại đá quí. Hấp thụ rất nhanh các loại vật chất có tính xa hoa. Thường chuyển sang màu hồng khi bị khám phá ra trong trạng thái tự nhiên và chuyển sang màu xanh nếu bị đặt bên cạnh một đối tượng đẹp đẽ hơn.
Còn về công dụng, gã không dám phô ra vì sợ mang tính chất báng bổ, bởi vì nhà ngâm kíu lẩm cẩm này mới chỉ ghi nhận được một vài công dụng phụ như có sức trang trí nhất là trên các xe du lịch và có sức làm thư giãn rất cao…mà thôi.
Trong cuộc sống, hình như đã có một sự phân công, tuy vô hình nhưng lại khá rõ ràng. Đó là đờn ông thì có bổn phận kiếm tiền, dù có phải vất vả đổ mồ hôi sôi nước mắt, còn đờn bà thì có bổn phận phải...tiêu tiền.
Gã không nhớ rõ, hình như có một câu danh ngôn diễn tả mối liên hệ giữa đờn ông, đờn bà và tiền là như một chiếc vòng lẩn quẩn như sau :
- Người ta lấy tiền nhử đờn bà, lấy đờn bà nhử đờn ông và lấy đờn ông để...nhử tiền.
Hơn thế nữa, để phục vụ cho chồng, người vợ ngày xưa phải lo từ manh quần tấm áo đến cái khăn cái lược. Công việc này được gọi là “nâng khăn sửa túi”. Thế nhưng, những kẻ đầu óc có sạn lại nghĩ rằng việc “sửa túi” ở đây là sửa và nắm lấy cái túi tiền của chồng.
Sở dĩ có sự phân công như trên, bởi vì người đờn bà thường quản lý và quán xuyến mọi sự trong gia đình, cho nên việc giữ tiền và tiêu tiền phần lớn đều nằm trong tay người vợ, người mẹ.
Thế nhưng, sự đời đâu có phẳng phiu và trơn tru như vậy. Tiền bạc thường là một trong những nguyên nhân chính yếu gây nên hục hặc và đổ vỡ trong nhiều gia đình.
Ngày xưa, người ta thường để tiền, nhất là tiền cắc trong những chiếc bao nhỏ, được gọi là hào bao. Riêng các bà các cô lại thường để tiền trong chiếc “ruột tượng”. Ruột tượng là một chiếc bao nhỏ bằng vải thật dài, vừa làm dây lưng vừa đựng tiền bạc.
Ngày nay, người ta thường để tiền trong những chiếc hòm hay những chiếc “két” sắt rồi khóa lại cẩn thận. Muốn mở hòm hay mở két thì cần phải có chìa khóa. Chính vì thế, người vợ vốn giữ chân thủ quỹ và quản lý tiền bạc trong gia đình nên được gọi là...tay hòm chìa khóa.
Sự kiện này làm gã nhớ tới lời Chúa Giêsu phán với thánh Phêrô :
- Thày trao cho con chìa khóa Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất , trên trời cũng cầm buộc. Sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.
Vì thế, trong lòng Giáo hội, người ta cũng đã gọi quyền của thánh Phêrô là quyền...chìa khóa.
Ngặt nỗi tay hòm chìa khóa trong gia đình lại có những tình cảm và phản ứng riêng của mình : vui khi tiền được nhập vào, nhưng buồn khi phải xuất ra, nên chỉ xuấr ra nhỏ giọt, nếu có xuất ra ồ ạt thì lại chỉ dành cho những chuyện không đâu, thành thử mới bị thâm thủng nặng nề.
Gã xin ghi lại nơi đây tâm sự buồn của một anh chồng :
- Vợ tôi có tánh rất kỳ, nàng không quan tâm gì tới những khó khăn trong công việc của tôi để chia sẻ, an ủi, khích lệ mà cứ tôi đem tiền về nhiều thì vui vẻ, hớn hở. Còn đem về ít, thì nàng than thở, buồn phiền, trách móc và gây chuyện. Có những lúc thị trường nhà đất đóng băng, việc xây dựng chựng lại hay vật tư lên cơn sốt, tôi phải án binh bất động vì nhận công trình sẽ lỗ sặc gạch. Nàng gây gỗ, có những lời xúc phạm. Tôi không nín nhịn được, phản ứng lại. Không khí gia đình sôi sục như lò phản ứng hạt nhân, hạnh phúc chông chênh bên bờ vực thẳm, con cái ngơ ngác nhìn cha mẹ sắp chia xa...
Bình thường, người chồng đi làm đem tiền về cho vợ. Còn người vợ vừa giữ tiền, vừa tính toán làm sao cho việc chi tiêu được cân đối, để khỏi bị vay công mắc nợ.
Tuy nhiên, với vai trò thủ quỹ và quản lý, người vợ thường mắc phải một trong hai tình trạng thái quá. Mà đã thái quá thì bất cập. Đó là hà tiện và hoang phí.
Trạng thái bất cập thứ nhất đó là tính hà tiện, keo kiệt.
Chỉ muốn nhập vào mà không muốn xuất ra. Và nếu có xuất ra thì cũng chỉ xuất ra nhỏ giọt, kèm theo đó là những lời “mắng chó chửi mèo”.
Hồi còn nhỏ, gã có một thằng bạn, cứ đến đầu tháng là mặt mũi cu cậu buồn xo như treo cờ tang. Hỏi ra mới vỡ nhẽ : mỗi lần xin bu tiền đóng học phí, thế nào bu cu cậu cũng giáng cho cu cậu một bài luân lý giáo khoa thư về sự cực nhọc để kiếm ra đồng tiền đồng bạc, khiến cu cậu rất sợ khi phải mở miệng xin tiền cho những nhu cầu chính đáng của mình.
Sau đây cũng lại là tâm sự buồn của một anh chồng có chị vợ rất “keo nặng” thuộc hàng “vắt cù chày ra nước”, “đãi cứt sáo lấy hạt đa”. Anh ta đã giãi bày trên báo Phụ nữ Chủ nhật như sau :
- Lần cuối tôi vứt đồ ăn xuống cát và hùng hổ với vợ rồi bỏ đi thuộc về năm ngoái...Hay hớm gì kiểu chi li, riết róng tới mức ấy cho cực cái xác, khổ cái tâm mà lại sinh ra kình cãi ồn ào trong nhà chứ! Vẫn biết đã là phụ nữ, đã là vợ, là mẹ, là người giữ trách nhiệm “tay hòm chìa khóa” thì tiêu pha, chi phí gì cho gia đình và bản thân cũng phải được tính toán, chứ không được hoang phí. Bản chất của tôi cũng là một người đàn ông chừng mục trong tất cả mọi chuyện, nhất là chuyện xài tiền và vì thế tôi rất thương quí những người phụ nữ biết căn cơ, thu quén. Tiện tặn là tốt, nhưng tiện tặn kiểu nào chứ kiểu của vợ tôi thì tôi xin...đầu hàng.
Vợ chồng tôi có một quán giải khát bình dân ở dưới bãi biển. Công việc bận rộn lắm và vợ tôi quay như chong chóng suốt ngày cùng với công việc bán buôn. Tôi đôi lúc còn có thì giờ rảnh rỗi để lê la, lai rai với mấy ông bạn, chứ vợ tôi tuyệt đối là không. Từ sáng đến tối, cô ấy không mấy khi được nghỉ tay. Thương vợ và muốn bồi dưỡng cho ba mẹ con cô ấy, tôi có lỡ trót dại ba lần trong năm nay. Giờ xin tổng kết lại.
Lần thứ nhất khi tôi mua về một chục trứng vịt lộn để cả nhà cùng ăn cho vui. Mấy cha con tôi thì đúng là vui thật, nhưng cô ấy thì ngược lại. Cô ấy ca cẩm là tốn nhiều tiền, là hoang phí. Cô ấy xỉa xói tôi là thứ phá của. Cô ấy kể lể sự cực nhọc của mình khi tom góp tiền lời từng ly nước mía, từng hộp sữa tươi...Và tôi không chịu nổi nên đã ném hắt tất cả xuống cát rồi bỏ đi.
Lần thứ hai khi tôi mua về nửa ký chả quế Hà nội vì nghe cô ấy nói mình chưa được ăn loại chả này lần nào.
Lần thứ ba là nguyên một con gà nướng thơm lựng và béo giòn.
Tôi phải bỏ đi ngay để tránh những cặp mắt tiếc rẻ của các con, để khỏi phải thấy cái mặt “men” vì xót của nơi cô ấy. Để...dằn lòng. Để thương vợ hơn và cũng giận vợ hơn.
Sao không thử một lần tôi mua món gì đó ngon ngon về nhà mà cô ấy không kiềng riềng. Ăn liền một phát cho tôi mát cái bụng hay tưng tửng khen tôi một câu cho tôi nở cái mũi...
Trạng thái bất cập thứ hai, đó là sự hoang phí theo kiểu “vung tay quá trán”, “con nhà lính tính nhà quan”.
Ngặt nỗi sự xuất ra ồ ạt này lại được dành cho những nhu cầu không cần thiết của gia đình hay chỉ để dành riêng cho bản thân mình mà thôi.
Vậy đâu là những khoản vốn được phe ta hồ hởi và sẵn sàng chi ra một cách rộng rãi trên cả mức bình thường ?
Trước hết đó là khoản ăn quà vặt.
Không hiểu bên Thụy sĩ thế nào chứ còn ở Việt Nam ấy hả, bước chân ra đường, xó góc nào cũng có những hàng quà vặt, phục vụ tinh thần ăn uống rất cao của quí bà quí cô.
Ca dao vốn đã dành nhiều lời để diễn tả về “đức tính” này :
- Nhạt mồm chẳng muốn ăn quả,
Có mía súc miệng được vài bốn cây.
- Đi chợ hết tám tiền quà,
Chồng thương, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
- Một đồng là chín củ khoai,
Mẹ ăn một thì con ăn hai.
Mẹ sai con đi bốc muối thì khoai chẳng còn.
Con ngồi con khóc nỉ non,
Mẹ cầm cái vọt lon xon lên rừng...
Theo Hoàng Thiếu Phủ, thì từ xa xưa trong truyền thuyết dân gian đã xuất hiện hai “siêu sao” điển hình cho tính ăn hàng của đờn bà con gái, đó là cặp bài trùng bà Rằn, bà Rí.
Đối với bà Rằn, ca dao đã diễn tả :
- Bà Rằn đi chợ miền quê,
Thấy hàng chả chó, lại lê trôn vào.
Chả này bà bán làm sao ?
Ba đồng một gắp, lẽ nào chẳng mua.
Nói dối rằng mua cho chồng,
Đi đến quãng đồng, ngả nón ra ăn.
Về nhà đau quẳn đau quăn dạ này,
Đem tiền đi bói ông thày.
Bói ra quẻ này những chả cùng nem.
Ông thày nói dối đã quen,
Nào tôi ăn chả, ăn nem bao giờ.
Còn đối với bà Rí, thì có một mẩu chuyện vừa buồn cười lại vừa dễ thương như sau :
Bà Rí vốn rất yêu chồng. Biết chồng thích uống rượu, nên mỗi lần đi chợ bà thường mua thêm một món “ngoài luồng” để chồng đưa cay. Hôm ấy gặp món lòng lợn luộc, vừa ngon lại vừa rẻ, bà Rí mua mấy lạng bỏ vào rổ đội lên đầu mang về. Dọc đường, bà Rí thòm thèm, thỉnh thoảng lại đưa tay lên đầu bốc một miếng lòng lợn bỏ vào miệng. Về đến cổng nhà, bà Rí vội kêu réo chồng :
- Mình ơi, ra nhanh lên, xem có cái gì dành cho mình đây nè ?
Thế nhưng, khi bà Rí hạ chiếc rổ xuống thì mới hay cả gói lòng lợn luộc đều đã bốc hơi, chỉ còn lại miếng lá chuối. May sao trong rổ có một gói dưa giá. Bà Rí nhanh trí nói :
- Chợ hôm nay chẳng có gì cả, em mua cho mình gói dưa giá này để mình nhắm rượu đỡ vậy.
Từ đó cho đến nay, cái máu ăn hàng của hai bà đã thấm qua nhiều thế hệ hậu duệ như một thứ “gien” di truyền. Con cháu hai bà ngày càng đông thì nhu cầu ăn hàng lại càng lớn. Chả thế mà các kiến trúc sư vẽ kiểu chợ rất am hiểu tâm lý đờn bà con gái. Mỗi cái chợ, dù là chợ nhà lồng, chợ chồm hổm, chợ chuồng bò...đều có một khu trung tâm thuận lợi dành cho việc ăn hàng.
Khoản tiền ăn hàng này dĩ nhiên chẳng bao giờ được báo cáo công khai với gia đình, nhưng được luồn lách bằng cách tính bổ vào các khoản chi khác trong buổi chợ. Do việc bội chi này, chúng ta thường nghe không ít các bà các cô đi chợ luôn than một câu rất quen thuộc :
- Chợ hôm nay cái gì cũng đắt.
Rất hiếm khi họ khen được một tiếng “rẻ”.
Tác phong của việc ăn quà cũng đã được diễn tả :
- Vào hàng bánh ít chả tôm,
Hai tay lột lá, miệng mồm há ra.
- Chồng chê vợ xấu không ham,
Vợ chê làm bếp, ăn hàng vểnh tai.
Vì sợ người quen bắt gặp, nên khi ăn hàng, các bà các cô thường cúi mặt xuống như muông chim một cách kín đáo. Trong tư thế đó, tuy giấu được cái mặt nhưng không thể giấu được đôi tai. Vì thế mới có thành ngữ “ăn hàng vểnh tai”.
Có kẻ đã định nghĩa chiếc cặp của các nữ sinh chính là một cái chạn, một kho bãi chất chứa mọi thứ ăn được, từ trái me trái cóc đến quả xoài quả mận và không bao giờ quên một gói...muối ớt.
Có cô nàng còn tuyên bố hách xì xằng :
- Không ăn hàng, không phải là đờn bà con gái.
Mỗi lần được tháp tùng bà chị hay cô em đi thành phố, gã không bao giờ lo bị đói, bởi vì trong suốt cuộc hành trình dài, miệng bà chị hay mồm cô em luôn tóp tép nhai nuốt một thứ gì đó.
Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, chuyện ăn hàng của đờn bà con gái là điều bình thường, đáng mừng và đáng cảm thông, đôi khi lại còn mang cái nét duyên thầm nữa là khác.
Ông bác sĩ giải thích :
- Ở người phụ nữ, cơ thể của họ phải trải qua nhiều biến động đặc biệt như tuổi dậy thì, ngày hành kinh, thời kỳ mang thai, hay cho con bú…Một cơ thể phụ nữ tốt thường phải tiêu hao nhiều năng lượng trong những thời kỳ ấy. Do đó, tuy ăn ít bởi vì “nữ thực như miêu”, con gái vốn ăn như mèo, nhưng họ cứ thèm ăn vặt suốt ngày, nếu không muốn nói là suốt đời, chính là để nạp đủ năng lượng cần thiết.
Và rồi ông bác sĩ đã kết luận :
- Gia đình và xã hội nên tạo điều kiện thuận lợi để phe đờn bà con gái có thể ăn hàng một cách...thoải mái.
Không hiểu lời kết luận này có chí lý lắm không. Riêng phần gã, gã vẫn thích lời khuyên của câu ca dao sau đây :
- Đi chợ thì chớ ăn quà,
Về chợ thì chớ rề rà ở trưa.
Dù ai bảo đợi bảo chờ,
Thì em nói dối con thơ em về.
Tiếp đến, đó là khoản sửa sắc đẹp, tu bổ ngoại hình cho bắt mắt.
Có một câu “ranh ngôn” đã bảo :
- Thượng đế cũng không phải là nhà sáng chế hoàn hảo, bởi vì người ta đã phải lập ra nhiều mỹ viện nhằm cải thiện phần nào các tác phẩm do Ngài tạo nên.
Như chúng ta đã biết phe đờn bà con gái vốn được gọi là phái đẹp. Và quả thực họ cũng đẹp ra phết đấy chứ. Vì thế, làm đẹp phải là nghề của các nàng.
Lại cũng một câu tuyên bố hách xì xằng nữa :
- Đờn bà con gái mà không làm đẹp thì chẳng còn là đờn bà con gái nữa.
Với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, các mỹ viện ngày nay mọc lên như nấm và người ta có thể làm được nhiều chuyện :
- Mắt một mí thì sửa thành hai cho nó tình tứ. Miệng hô thì sửa cho gọn gàng, để khỏi phải lấy tay che khi nở nụ cười mím chi. Mũi tẹt thì sửa cho nó cao. Ngực lép thì sửa cho nó to. Rồi thì cắt chỗ này, vá chỗ kia.
Chỉ cần liếc qua những hàng quảng cáo trên báo là đã thấy mê tít thò lò, chẳng hạn :
- Tạo làn da trắng mịn sau một lần tắm sữa.
- Giảm từ một đến ba ký sau một lần điều trị.
- Làm cho bụng nhỏ, eo thon...
Nhiều bà nhiều cô ở ngoại quốc, trong thời gian về thăm quê hương, đã tranh thủ tới các mỹ viện để sửa chỗ này, chữa chỗ kia…bởi vì giá cả ở Việt Nam vốn tương đối rẻ.
Dĩ nhiên chẳng ai có quyền cấm cản quí bà quí cô làm đẹp. Thế nhưng, trong lãnh vực này cũng cần phải lưu ý một vài điểm chính yếu :
Chẳng hạn phải chọn những chuyên viên có tay nghề cao, dùng những mỹ phẩm “chính qui”, bằng không làm đẹp lại hóa thành làm xấu và còn mang họa vào thân, như trường hợp bơm hay độn chất silicone.
Chẳng hạn phải cân đối ngân sách trong gia đình, đừng vì chuyện làm đẹp cho riêng mình mà gia đình bị thiếu hụt.
Chẳng hạn phải biết mình làm đẹp cho ai và làm đẹp như thế nào cho phù hợp với vóc dáng của mình, bằng không sẽ bị thiên hạ cười vào mũi :
- Đen thủi đen thui cũng lượt là.
Sau đây cũng lại là tâm sự buồn của anh chồng :
- Vợ tôi hay làm đẹp. Tôi không hề phản đối mà trái lại còn ủng hộ hết mình. Người đàn ông nào lại không thích vợ mình ngày càng đẹp. Tôi không tiếc gì khi nàng mua sắm quần áo, mỹ phẩm, miễn là những thứ đó làm cho nàng đẹp lên. Tôi nói thế vì nhiều khi nàng đổ rất nhiều công sức và tiền bạc mà hiệu quả hình như...ngược lại. Thế mới đau, mà đau nhất là tôi, vì phải ngắm nhìn những “bản sao bị hỏng” đó hàng ngày, hàng đêm. Vợ tôi trước đây có mái tóc thề bỏ xõa ngang vai rất đẹp, nhưng rồi khi cô ca sĩ nọ nổi lên, được báo chí lăng xê hết mình, lập tức nàng cắt ngắn mái tóc ấy không chút thương tiếc. Tôi công nhận mái tóc ấy hợp với một số người nhưng nó hoàn toàn không hợp với nàng. Tôi góp ý, nàng cho tôi là bảo thủ, là độc đoán. Tóc của nàng chứ phải tóc của tôi đâu mà có ý kiến ý cò…Một hôm nàng ra phố, rồi về nhà với cái mũ nồi tùm hụp và một cặp kiếng đen khiến tôi cứ tưởng là điệp viên...không không bảy. Riết rồi tôi thấy nàng hơi xa lạ, không còn là người mà khi mới gặp, tôi đã vui mừng nhận ra đó chính là nửa kia của tôi, đó chính là chiếc xương sườn cụt của tôi.
Sau cùng, đó là khoản mua sắm.
Trong lãnh vực này, gã chả có được mấy tí kinh nghiệm, nên bèn phải mượn đỡ những lời phát biểu của những chiến hữu dày dạn sương gió được đăng tải trên báo Phụ nữ Chủ nhật.
Trước hết, đức tính “dễ thương” bẩm sinh của đờn bà con gái là khoái mua sắm, còn gọi là “hội chứng sốp-ping”. Mấy bà mấy cô mà vào chợ, vào siêu thị, vào “sốp”, hay đơn giản là...ghé chợ chồm hổm bên lề đường, thì cứ như lạc vào mê hồn trận. Thứ gì cũng hoa mắt, muốn mua, muốn sắm.
Chợ thì ngày nào cũng đi, cũng lượn từ đầu chợ đến cuối chợ, rồi lặc lè mang về hàng đống thức ăn, tiêu thụ cả tuần mới hết, rồi hôm sau lại đi…chợ. Tuy là mua rẻ, nhưng để lâu bỏ đi phân nửa thì cũng thành mắc.
Mấy bà mấy cô lại dễ bị dụ khị bởi chiêu “khuyến mãi” của người bán, thành ra tiền nong trong nhà cứ lần lượt ra đi một cách “vô tổ chức”. Tiền ít, thì lại sa vào cái bẫy…mua trả góp. Cái gì cũng góp khuân về nhà, thậm chí nhà mình chưa cần đến nhưng vì hàng xóm đã có, nên mình cũng phải mua, rồi hàng tháng ky cóp trả không nổi, nợ nần chồng chất, vợ chồng gấu ó nhau, mệt.
Cao cấp hơn nữa là khoản thời trang, đẹp thì có đẹp nhưng chủ yếu là người khác ngắm, chứ các đức ông chồng thì đã quá quen mất rồi, có sửa mắt cắt môi hay khoác thời trang cao cấp, thì cũng vẫn là vợ mình, chỉ lo ngân quĩ gia đình ngày càng cạn kiệt.
Chẳng phải các bà các cô không biết cân đối chi tiêu, nhưng khi “máu” đã bốc lên thì không kiềm chế được. Nạn nhân của hội chứng này là các đức ông chồng, nhất là mấy ông thích chứng tỏ sự ga-lăng hoặc nín nhịn mà không dám can vợ.
Nhẹ thì mất thời giờ, nặng thì hao tốn tiền bạc. Cứ thế mà liên tục phát triển, thành thử không dám giao cho các bà các cô quản lý ngân quỹ gia đình nữa, rồi lặng lẽ âm thầm thành lập quỹ riêng...ảnh hướng không tốt đến tình nghĩa vợ chồng.
Không giao quản lý tiền bạc thì bị coi là “keo kiệt”, là để dành cho “con nào” ? Mà giao tiền cho các bà các cô có “máu tiêu xài vô kế hoạch” quản lý, khác nào...giao trứng cho ác. Thật là khó xử.
Một ông chồng khác lại cả tiếng than thở :
- Sống với nhau, ban đầu tôi cảm thấy mình như trẻ đi mười tuổi. Sự hồn nhiên đôi khi ngây ngô của nàng khiến tôi phải mỉm cười một mình mỗi khi nhớ đến. Tôi như cuốn hút tất cả tâm trí vào nàng. Nhưng cuộc sống vợ chồng đâu thể nhìn nhau suốt ngày là đủ, nó còn biết bao nhiêu việc phải làm, biết bao nhiêu điều phải tính. Nàng nay là vợ, là chủ một gia đình, dầu gia đình mới chỉ có hai người nhưng tương lai nàng còn là mẹ của những đứa con. Thế nhưng, không những nàng vẫn giữ tính nhõng nhẽo, đua đòi như thời con gái mà còn có chiều hướng gia tăng hơn, khi nàng nắm trong tay cái túi tiền gia đình. Mỗi khi lĩnh lương, tôi đưa hết cho nàng và lập tức ngày hôm sau trong nhà tôi có nhiều thứ mới lạ xuất hiện, nhất là tủ quần áo và kệ giày dép, nó luôn luôn được nàng “cập nhật hóa” liên tục...
Theo gã nghĩ tiền bạc là do công lao vất vả của mọi người trong gia đình, vì thế nó phải được tiêu dùng chung, nhằm bảo đảm một cuộc sống ấm no, chứ không phải tiền anh, tiền em và mạnh ai người ấy xài, nhất là xài hoang phí cho những chuyện không đâu.
Với những nhu cầu cần thiết và chính đáng, thì dù tốn kém bao nhiêu cũng phải chi. Còn với những thứ xa xỉ và thừa thãi, thì một đồng một cắc cũng không.
Nói tới đờn bà con gái là nói tới cái đẹp, tình yêu và hạnh phúc. Nếu thế gian này không còn phe đờn bà con gái thì cánh đờn ông con giai cũng chẳng thiết sống nữa. Đờn bà con gái sinh ra...tất cả. Vì thế, trên đời này ngu nhất là đi nói xấu đờn bà con gái.
Và lúc này, gã đang dại dột phạm phải cái ngu...tuyệt vời ấy.
Theo lịch năm thánh, thì ngày 30 tháng 6 kính Thánh tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày thánh hóa các GãSiêu 86
Theo lịch năm thánh, thì ngày 30 tháng 6 kính Thánh tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày thánh hóa các linh mục, vì thế gã xin viết đôi điều vun vặt về chuyện này.
Đối với người Việt nam, đề tài linh mục cho đến bây giờ vẫn còn là một đề tài lạ lẫm, bởi đó thỉnh thoảng nó lại được lôi lên sân khấu, nhét vào phim ảnh hay được những ngòi bút đá động tới, mỗi lần như thế thì thường gây nên nhiều ấn tượng, nhiều chú ý và nhiều ồn ào.
Nếu gã nhớ không lầm thì hồi trước giải phóng, Lệ Hằng, một nhà văn nữ, đã viết cuốn tiểu thuyết mang tựa đề là “Tóc mây”, nói về cuộc tình giữa Tố Kim, một cô sinh viên Đà lạt, với Hà vĩnh Duy (?), một linh mục nhạc sĩ.
Tác phẩm này đã tạo nên một cơn lốc, mà lúc bấy giờ thiên hạ gọi là “hiện tượng tóc mây”. Vào thời điểm ấy, gã đang dạy Việt văn tại một trường trung học hẻo lánh vùng Thất sơn khỉ ho cò gáy. Các em nhỏ học sinh, nhất là phe kẹp tóc, đa số là người Phật giáo, thậm chí còn có cả đôi ba cậu sư Miên, đến tuổi thì vào ở chùa theo tục lệ, rồi sau đó mới được thả về nhà lấy vợ…thế mà cũng nhao nhao đòi thuyết trình và hội thảo về tác phẩm này.
Hình như trước hay sau đó ít lâu, nhạc phẩm “Vì tôi là linh mục” cũng được ra lò và chiềng làng.
Bài hát này đã gây được một âm vang khá lớn, thậm chí những lúc buồn tình, các cô gái ngây thơ cũng chu mỏ và ngay cả các “ma xơ” cũng mở miệng nghêu ngao :
- Vì tôi là linh mục,
Không mặc chiếc áo dòng,
Nên chi đời đau khổ,
Nên trót đời lang thang…
Hẳn đây là tâm sự buồn của một linh mục lỡ dại trót yêu một tín đồ duy nhất, nên đã cởi bỏ chiếc áo chùng thâm mà đi bụi đời ?
Sau giải phóng, hễ nghe có cuốn chuyện nào viết về linh mục, gã cũng vội vã đi mua hay đi mượn mang về coi cọp, chẳng hạn như Bão biển của Chu văn, Người mục tử trong sương mù…
Lúc đầu thì đọc ngấu đọc nghiến vì tò mò, nhưng chỉ được dăm bảy trang thì bèn giở quẻ ngáp dài ngáp vắn, ngáp lên ngáp xuống, ngán đến tận cần cổ, đành phải cố nhướng mắt mà nuốt cho hết thế mà nó vẫn chẳng chịu trôi.
Bởi vì, ngay từ những trang đầu gã đã ngửi thấy sặc sụa mùi bôi bác và đã nhận ra ý đồ đen tối của những tác giả trong luồng, đó là chụp lên đầu những vị linh mục tội nghiệp ấy cái mũ phản động hay cái mũ đồi trụy.
Chính vì những toan tính bẩn thỉu và lộ liễu ấy, nên những cuốn chuyện này đã mau chóng bị chìm vào quên lãng, chẳng cuốn hút được người đọc, thậm chí còn phản tác dụng, khiến thiên hạ lại càng thương cho…mấy ông cha hơn.
Xét về nguyên do của việc tu trì, thiên hạ thối mồm thường bảo :
- Trốn việc quan đi ở nhà chùa…Chán đời, hay thất tình thì đi…tu, bởi vì tu là cõi phúc, tình là giây…thung.
Và người ta đã khai thác chủ đề này, viết thành những tác phẩm nổi tiếng, chẳng hạn như “Hồn bướm mơ tiên”, hay dàn dựng thành những vở kịch ăn khách, chẳng hạn như “Chuyện tình Lan và Điệp”
Gã chơi thân với một anh chàng. Anh chàng này thương một cô nàng, nhưng đây chỉ là một tình yêu đơn phương, có nghĩa rằng thì là anh chàng thì thương da thương diết, còn cô nàng thì lại lạnh lùng, ngoảnh mặt làm ngơ, khiến cho lái tim của anh chàng cứ héo hắt và quay quắt.
Thế rồi, cô nàng đi lấy chồng, kết tóc xe duyên với một thằng bạn cùng học chung “mí nhau” từ thuở còn mặc quần thủng đũng. Lái tim anh chàng tan nát theo kiểu :
- Ngày nhà em pháo nổ,
Anh cuộn mình trong chăn,
Như con sâu làm tổ,
Trong trái vải cô đơn.
Anh chàng thẫn thờ thờ thẫn như kẻ mất hồn, lang thang như người cõi trên và miệng thì lảm nhảm theo giai điệu của bài “Love story” :
- Ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn.
Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá.
Cuộc tình lớn quá ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn.
Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá…
Sau cú sốc quá đau vì cuộc tình quá lớn bị vỡ tung, anh chàng lặng lẽ khăn gói quả mướp, lê từng bước chân âm thầm vào một nhà dòng và tu ở đó. Ơn Chúa tuôn đổ. Một thời gian sau, anh chàng được thụ phong linh mục. Trong ngày mở tay, cô nàng dắt cháu bé tới và nói :
- Con ạ cha đi con.
Cha mới chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” và lãng đãng nhìn về chốn xa xôi…Bây giờ mỗi khi nhắc lại chuyện xưa, vị linh mục này thường hay mỉm cười nói với bè bạn :
- Nếu không bị cô nàng đá lên đá xuống, toạc đầu xẻ mũi, thì có lẽ mình đã làm bố cụ, chứ đâu có thèm làm cụ như anh em thấy đó. Chúa chọn con như sét chọn một cây tầm thường. Quả là ý Ngài nhiệm màu hết xảy.
Bên đạo chúng ta, lý do “thất tình đi tu” chẳng phải là không có, nhưng xem ra rất họa hiếm vì chú nhóc thường vào chủng viện hay nhà dòng từ hồi nhỏ, tóc còn để chỏm.Thế nhưng, ở cái thuở “thò lò mũi xanh” ấy, chú nhóc làm sao hiểu được ơn gọi là đí gì ?
Đơn giản, chú nhóc thích đi tu chỉ vì thấy mấy “cụ” được đi giày tây, ăn bánh tây và ở nhà tây. Ra ngoài đường được cả và thiên hạ khoanh tay cúi đầu chào :
- Con xin phép lạy cha ạ.
Đôi khi cha mẹ muốn cho con cái đi tu chỉ để sau này chúng được nhàn hạ và hạnh phúc, như lời phát biểu hăng tiết vịt của bà hiền mẫu nọ với cha phó kia trong một cuộc hội họp hàng tháng :
- Đi tu như các cha các dì thế mà sướng, chứ đèo bồng ở ngoài đời như chúng con khổ lắm cha ạ.
Có chú nhóc đi tu chỉ vì ông già, bà già thầm mong được mọi người gọi mình là “ông cố”, “bà cố”. Bởi cái giấc mộng vàng ấy, khi thấy chú nhóc của mình trở chứng, muốn giã từ đời tu, một ông “chuẩn cố” đã thẳng thừng nói với “chú nhà tràng” như sau :
- Thà rằng mày làm con chó nhà Đức Chúa Trời, còn hơn là làm vương làm tướng ngoài thế gian, con ạ.
Những lý do “lôm côm” ban đầu này cùng với năm tháng dần dần được đẽo gọt, được mài dũa, để rồi kết tinh và cô đọng lại thành cái lý tưởng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Trong thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng thuyết thường hùng hổ đến xùi cả bọt mép đề cao vẻ đẹp tuyệt vời của thiên chức linh mục, ít ai cả gan dám đề cập tới những thập giá của tước vị này, khiến cho cha mới chỉ nhìn thấy bông hồng mà quên đi những gai nhọn của nó.
Với những lời ca ngợi và chúc tụng ấy, ngày mở tay được coi như là đỉnh vinh quang Taborê của cha mới, không khéo thì cha mới cũng thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa :
- Lạy Thày, chúng con được ở đây thì thích lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho Elia.
Thế nhưng, tiệc rượu thì chóng tàn, ngày vui thì qua mau, vinh quang Taborê chỉ kéo dài trong thoáng chốc, để rồi tới lúc phải xuống núi và đối đầu với thập giá đời thường. Và đời thường thì nhiêu khê, lắm nỗi truân chuyên và nhiều phen lao đao, xất bất xang bang…
Các bậc lão thành thường đề cập tới ảnh hưởng của linh mục đối với giáo dân như sau :
- Linh mục thánh thiện thì giáo dân đạo đức. Linh mục đạo đức thì giáo dân loàng xoàng. Linh mục loàng xoàng thì giáo dân nguội lạnh. Linh mục nguội lạnh thì giáo dân xấu xa. Linh mục xấu xa thì giáo dân biến thành… quỉ dữ.
Như thế, giáo dân bị đánh tụt một bậc so với linh mục. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi vì linh mục là sư phụ, còn giáo dân là đệ tử về đàng thiêng liêng. Đệ tử làm sao hơn sư phụ. Linh mục là người hướng dẫn. Nếu người hướng dẫn mà mù, thì như lời Chúa đã dạy :
- Mù dẫn mù, cả hai đều lăn tòm xuống hố.
Cùng với những ý tưởng trên, gã nhớ tới một bài giảng nhân ngày mở tay của một cha mới. Đại khái như thế này :
“Hãy cột một chiếc nút để xe kết hai đầu giây, đó là linh mục, bởi vì linh mục xe kết con người với Thiên Chúa. Hãy xây một cây cầu nối liền hai bờ bến xa cách, đó là linh mục bởi vì linh mục nối liền đất với trời. Nói cách khác, linh mục là trung gian giữa nhân loại và Đấng Tối Cao.
“Vì vậy, một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa, còn một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn tay con người, để rồi đặt bàn tay con người vào lòng bàn tay của Thiên Chúa, cho tình yêu được đâm bông kết trái và ơn tha thứ được trao ban. Chính cái thế tay trong tay này là điều chúng ta mong mỏi nơi các linh mục.
“Cái thế tay trong tay ấy đòi hỏi linh mục phải gắn bó với Thiên Chúa đã đành mà con phải gần gũi với con người. Nếu linh mục rời bỏ một trong hai bàn tay, không nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa hay không nắm chặt lấy bàn tay con người, lúc bấy giờ linh mục sẽ không chu toàn chức vụ của mình.
“Phải gắn bó với Thiên Chúa, đó là bổn phận thứ nhất của linh mục. Thực vậy, nhiệm vụ của linh mục là không ngừng đem Chúa đến cho mọi người. Và muốn đem Chúa đến cho mọi người thì chính bản thân linh mục phải là người có Chúa trước đã. Có Chúa trong tâm hồn và có Chúa trong cuộc đời vì linh mục không thể cho người khác cái mình không có.
“Đức Kitô phải chiếm chỗ nhất trong trái tim linh mục, phải là thần tượng của linh mục, phải là điểm khởi đầu và kết thúc của cuộc đời linh mục, phải là trọng tâm cho mọi hoạt động của linh mục. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì cuộc đời của linh mục cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi linh mục có thể hãnh diện nói lên như thánh Phaolô : Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
“Tiếp đến linh mục còn phải gần gũi với con người. Gần gũi với con người bằng cách chia sẻ những lo lắng, cảm thông những khó khăn và tận tình giúp đỡ những cần thiết, để rồi từ đó linh mục sẽ chỉ cho con người nhận ra bàn tay dịu hiền và trái tim nhân hậu của Thiên Chúa.
“Phải gắn bó với Thiên Chúa nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với con người. Phải nắm chặt lấy bàn tay Thiên Chúa cũng như phải nắm chặt lấy bàn tay con người để tạo cho được cái thế yêu thương tay trong tay.
“Tội lớn nhất của linh mục không phải là đã trót sa ngã, đã trót vấp phạn, bởi vì Thiên Chúa không chọn các thiên thần, nhưng đã chọn những con người tầm thường và yếu đuối làm linh mục của Ngài. Tội lớn nhất của linh mục, đó là đã rời bỏ một trong hai bàn tay ấy. Hoặc là đã quay lưng chống lại Thiên Chúa, hoặc là đã thờ ơ lạnh nhạt với anh em đồng loại. Lúc bấy giờ, linh mục chỉ còn là một nhịp cầu đã gẫy, một nút giây đã đứt hay một người lính đã đào ngũ. Trong chiến tranh, mục tiêu kẻ thù thường nhắm tới trước hết để triệt hạ, để phá hủy, chính là những cây cầu…”
Từ đó, gã không ngạc nhiên khi thấy người ta cố ý bôi nhọ và bêu rếu các linh mục, bởi vì đó là mưu thâm chước độc của …”địch”.
Tuy nhiên, không phải chỉ phe địch mới bôi nhọ và bêu rếu các linh mục, nhiều khi chính con cái trong nhà cũng đã bạo phổi và mạnh miệng chỉ trích các linh mục một cách đầy ác ý. Họ luôn hỏi rằng :
- Linh mục đã làm gì cho tôi ?
Nhưng lại chẳng bao giờ dám nhìn thẳng vào lương tâm để kiểm điểm xem :
- Tôi đã làm gì cho linh mục.
Hễ thấy linh mục có chút gì sai lỗi thì lập tức liền xì xầm bàn tán, rồi mím môi mím lợi thổi phồng bong bóng. Họ đâu có ngờ rằng rất nhiều khi chính giáo dân đã làm hư linh mục.
Sau đây gã chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai thái cực nho nhỏ, trong đó giáo dân đã xô linh mục vào chân tường, đã đẩy linh mục tới chỗ bất ổn hay đã làm hư linh mục.
Trường hợp thứ nhất đó là thái độ quá trọng kính đến độ khúm núm, coi linh mục như là một người thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi bao giờ. Mới ngày nào bè bạn còn “mày tao chi tớ” mí nhau, nhưng một khi đã thụ phong linh mục, từ hòn đất được cất nên ông bụt, thì lập tức được gọi là cha, là cụ, là cố…khiến cho thiên hạ, kể cả những người thân yêu nhất, cũng phải “kính nhi viễn chi”.
Trọng kính linh mục là điều rất tốt, nhưng quá trọng kính đến độ khúm núm thì lại là điều nguy hiểm vì nó dễ làm cho linh mục quên đi mình xuất thân từ một cục đất, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong bàn tay Thiên Chúa, đồng thời luôn mang ảo tưởng mình là một ông bụt, mình là cái rốn của vũ trụ, rồi từ đó trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán và…mất dạy.
Đọc tới đây, hẳn có người sẽ nghĩ rằng :
- Tên này thật lếu láo, dám cả gan bạo phổi nói mấy cố mất dạy, thì đúng là hết thuốc chữa.
Bởi đó, gã xin lớn tiếng thanh minh thanh nga rằng :
- Mất dạy ở đây không có nghĩa là vô phép, hỗn hào… mà đơn giản chỉ là không còn được dạy bảo nữa mà thôi.
Nếu hiểu như thế, cộng thêm với một chút suy nghĩ, chúng ta sẽ nhận ra phần nào sự thật. Đây cũng là lời khuyên của một bà cố nói với người con của mình vừa mới đỗ cụ :
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu con không ý tứ, thì con sẽ trở nên một người mất dạy, bởi vì với chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, xuất phát từ quan niệm cho rằng linh mục là người thông suốt mọi sự, nên trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, linh mục thường phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Từ một người rao giảng lời Chúa và cử hành các Bí tích cho đến một người đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp và kiện tụng, làm cố vấn cho các đôi hôn nhân và các gia đình, làm kỹ sư kiêm đốc công cho các dự án xây dựng, làm quân sư quạt mo hướng dẫn bà con về cung cách làm ăn…Ấy là chưa nói tới những linh mục còn phải lãnh nhận cả những chức vụ phần đời, như thành viên của tổ chức này, phần tử của tổ chức nọ, đứng đầu hợp tác xã hay làm chủ máy cày, máy xay…
Với những công việc vừa đa dạng, vừa bận rộn như thế, linh mục rất dễ sao lãng việc sống gắn bó với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Từ việc sao lãng ấy, linh mục không còn nhận ra sự soi dẫn và chỉ bảo của Chúa nữa, để rồi trở nên mất dạy dưới cái nhìn xót xa của Chúa.
Tiếp đến, do những thành công gặt hái được và nhất là do những trọng kính thái quá người ta dành cho mình, linh mục cứ ngỡ rằng mình là một bậc thày lỗi lạc, trổi vượt lên trên mọi người, ý kiến của mình phải luôn luôn đúng…nên dễ dàng gạt phăng xi lô những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng khi những ý kiến đóng góp và những đề nghị xây dựng ấy khác với đường lối chủ trương của mình.
Từ đó, như đã trình bày, linh mục dễ rơi vào tình trạng độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe và đón nhận. Như vậy, phải chăng linh mục cũng đã làm cho mình dần dần trở nên mất dạy ?
Ấy là chưa nói đến những trường hợp vì đa đoan công việc, linh mục sao lãng chuyện tìm hiểu và trau dồi thêm kiến thức đạo đức, khoa học, xã hội…qua sách vở, báo chí và những phương tiện truyền thông khác, để rồi trình độ mỗi ngày một xuống cấp và không sớm thì muộn cũng sẽ bị “tụt hậu”.
Trong ngôn ngữ thường ngày, người giáo dân được gọi là con chiên. Quan niệm này xuất phát từ Kinh thánh. Chiên ngoan thì phải biết lắng nghe và vâng phục chủ chăn. Điều đó rất đúng, nhưng phải làm thế nào để xóa bỏ tính thụ động của nó, bởi vì người giáo dân hôm nay tương đối đã trưởng thành, nên cần phải biết chia sẻ trách nhiệm và góp phần xây dựng tích cực của mình vào cộng đoàn dân Chúa.
Trường hợp thứ hai là thái độ vô ơn, nghiêm khắc và thiếu cảm thông của giáo dân đôi khi đã làm cho linh mục buồn đau đến…rơi cả nước mắt.
Một trong những nguyên tắc cư xử thông thường, đó là hãy nghiêm khắc với bản thân mà khoan dung với người khác. Thế nhưng, thiên hạ lại hành động ngược với nguyên tắc thông thường ấy, bằng cách tỏ ra nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân mình. Quan điểm này cũng được giáo dân áp dụng vào mối liên hệ với linh mục.
Thiên hạ thường nói : nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi của mình, kể cả linh mục vì linh mục cũng mang thân phận mỏng dòn. Rồi bá nhân bá tánh, năm người mười ý, bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn. Hay như tục ngữ cũng đã bảo :
- Ở sao cho vừa lòng người.
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn.
Béo chê béo trục béo tròn.
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Linh mục được sánh ví như người làm dâu trăm họ, nên khó có thể làm vừa lòng mọi người và nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng làm vừa lòng một ai.
Giáo dân hay quên mất những công ơn linh mục đã làm, mà chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của linh mục để lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao, rồi dắt díu nhau lên Tòa giám mục, nộp đơn cho Đức cha hay cho nhà nước mà kiện tụng linh tinh.
Thưở ban đầu, vùng Cái sắn chỉ là một cánh đồng hoang với cỏ dại mọc um tùm. Một cha sở dẫn đoàn chiên của mình tới cắn dùi. Cha sở ấy bỏ công sức, tiền bạc ra xây dựng, từ nhà thờ, nhà xứ đến trường học…
Cùng với thời gian, cha sở mỗi ngày một già. Và đã già thì cũng hay có những sự lẩm cẩm. Trước những sự lẩm cẩm ấy, người ta đã xì xào bàn tán, viết thư nặc danh ném vào phòng, hay tố cáo chỗ này chỗ nọ, chỉ vì cha sở đã già.
Tòa giám mục hay biết liền đổi cha sở đi một nơi khác. Nhận được tin ấy, người ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn cử đại diện lên gặp Đức giám mục để xin cho cha sở được ở lại với dáng bộ rất thiểu não. Thế nhưng, khi được hỏi :
- Bộ các ông đã chẳng muốn cho cha đi hay sao ?
Một trong những vị đại diện đã trả lời :
- Cha đi mà mình chẳng níu kéo thì coi sao được. Ôi dào, đời mà.
Nghe câu trả lời này, đến như gã chỉ là một kẻ hậu sinh mà cũng còn cảm thấy tê tái cõi lòng, đúng như người xưa đã bảo :
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Bao lâu linh mục còn khỏe mạnh để phục vụ giáo xứ, thì vẫn là một người cha đáng mến đáng trọng, nhưng một khi đã đau yếu, đã già nua và đã là một gánh nặng, thì liền trở nên một cái gai cần phải nhổ đi. Nói vậy xem ra khí quá, nhưng trong thực tế, có những sự việc xảy ra khiến cho gã phải suy nghĩ.
Một cha sở trẻ chẳng may bị ung thư và qua đời. Việc chạy chữa và mai táng tốn kém khá nhiều. Tốn kém ấy được chi trả bằng tiền riêng của cha sở. Vì không đủ nên còn tồn đọng lại một món nợ. Sau khi cha sở được “mồ yên mả dài”, người ta đã cãi nhau chí chóe về món nợ này. Giáo xứ cũng như dòng họ không ai muốn trả cả. Cuối cùng thì Tòa giám mục đành phải ép lòng ép xác mà nhận vậy…
Một cha sở trẻ khác vừa mới khánh thành ngôi nhà thờ cho giáo xứ thì lâm bệnh nặng. Bệnh nặng chữa không khỏi mà tiền bạc thì lại hao tốn. Cha sở trẻ nằm dưỡng bệnh ở nhà xứ, rồi cứ vài tuần phải đi tái khám và mua thuốc uống tận Saigon. Cứ thế, cứ thế. Lúc đầu chưa có chuyện gì, nhưng sau một thời gian, những tiếng eo xèo bắt đầu nảy sinh, mỗi ngày một lớn cộng thêm với chuyện này chuyện nọ, rồi cuối cùng cha sở trẻ đã phải khóc mà xin đi hưu…non, như “con chim ẩn mình chờ chết”.
Có lẽ thấm thía nhất là nỗi cô đơn của linh mục. Gã nhớ không rõ một tác giả nào đó đã diễn tả :
- Chiều Chúa nhật, mọi người ra về, cửa nhà thờ khóa lại. Một mình tôi đơn độc trong khu nhà xứ rộng mênh mông. Thưa chuyện với Chúa, thì hình như Chúa cũng xa vời. Cuối cùng thì cũng chỉ vò võ một mình, tôi nhìn tôi trên vách.
Nỗi cô đơn sẽ đậm đặc hơn khi linh mục đau yếu. Một cha phó đã bật mí cho gã biết như sau :
- Ngày nọ mình bị đau nhờ chú nhỏ giúp lễ đi tìm người cạo gió. Nhờ bà này hay cô kia thì không ổn, bởi vì thiên hạ sẽ bảo rằng đó là chước mốc ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì có hiền, nhưng đôi khi cũng dữ như sư tử Hà đông. Khi đoàn “nữ binh mùa thu” này mà đã loan tin bằng chiến thuật rỉ tai thì còn nhanh hơn cả những máy móc điện tử hiện đại nhất. Được dặn dò kỹ càng, chú nhỏ giúp lễ kêu về một ông hàng xóm đang trong tình trạng say không ra say, xỉn không ra xỉn, mới xơi đâu được ba xị rượu đế. Mà như dân ghiền thường bảo : một xị thì mở mang trí hóa, hai xị thì giải bớt cơn sầu, ba xị thì mũi chảy đầy râu, bốn xị thì ngồi đâu khóc đó…Vì được thoa dầu, nên khi cạo gió thân thể mình đang nóng bừng bừng, thì bỗng dưng cảm thấy lạnh toát ở xương sống, hóa ra nước mũi của ông hàng xóm cứ vô tư rơi thánh thót trên tấm lưng của mình. Lần khác khi giác, ông ấy đã đổ ụp cả một ống dầu hôi lên người…Nhiều khi đau ốm, đành âm thầm nằm ngó lên trần mà xem những con thằn lằn đuổi nhau.
Sau cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi linh mục về già. Nhà hưu thì nơi có nơi không. Mà có thì cũng khá xập xệ. Còn về ở với gia đình, không phải là không bất tiện. Nếu mình có tí tiền còm giắt cạp quần, thì con cháu xem ra hăm hở nhiệt thành. Nhưng khi tiền đã hết, thì tình cũng chấp cánh bay cao và sự chăm sóc bèn trở thành một gánh nặng. Có khi chưa chết mà chúng đã vội chia chác, hay chôm chỉa được cái nào hay cái ấy.
Mặc dù còn dài, nhưng gã xin “xì tốp” nơi đây bằng vài mẩu chuyện nhim nhím.
Chuyện thứ nhất : Đức giáo hoàng Piô X, ngay sau khi vừa được tấn phong làm Giám mục Montova, đã về thăm gia đình và khoe với mẹ chiếc nhẫn giám mục của mình :
- Này bu, bu xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp hay không ?
Người mẹ bèn giơ ra chiếc nhẫn cưới đang đeo trên tay và bảo :
- Nếu không có cái này thì làm sao có cái kia.
Chuyệnthứ hai : Nghỉ hè, mấy thày rủ nhau đi Lái thiêu. Ban trưa ghé vào một gia đình mượn con dao để bổ trái cây. Chủ nhà là một sư huynh Lasan đã xuất và lập gia đình, bèn nói với các thày như sau :
- Hãy cố mà tu cho đắc đạo để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Còn không tu được thì cũng chẳng sao, về đây qua sẽ liệu cho. Bởi vì lũ con của qua toàn là…thị mẹt không à. Bậc sống nào cũng tốt. Tu là cõi phúc mà tình cũng là cõi phúc, miễn là mình đi đúng con đường của Chúa.
Từ khi đi chủng viện cho tới lúc ra làm cha, tỷ lệ 10%, nghĩa là cứ 10 kẻ vào tu thì chỉ có 1 người leo lên tới chức linh mục. Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít. Còn bao nhiêu thì rơi rụng dọc đường. Điều đó chứng tỏ tu không phải là chuyện dễ và đời tu không phải là vắng bóng thập giá. Có ở trong chăm mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Đã cố gắng mà chẳng được làm cha cố, thì làm ông cố cũng tốt thôi, vì không có ông cố, làm sao có cha cố.
Mỗi khi tán hươu tán vượn xong một mẩu chuyện phiếm, bao giờ gã cũng tự thưởng cho mình GãSiêu 87
Mỗi khi tán hươu tán vượn xong một mẩu chuyện phiếm, bao giờ gã cũng tự thưởng cho mình một điếu thuốc lào. Sau đó, bèn đưa cho mấy đứa em đọc thử để hy vọng nhận được mấy lời khen cho phổng mũi, chứ mèo khen mèo dài đuôi, mình cứ khen và tự khen mãi thấy cũng… kỳ.
Tuy nhiên, hễ bài nào đụng tới đờn bà, thì lập tức gã liền bị cô em gái lườm nguýt hay trề môi ra chê bai mà phán :
- Anh chỉ được cái nước “bôi bác” phe kẹp tóc mà thôi. Liệu hồn đấy, em còn để tội cho đó…
Còn cụ chủ nhiệm thì nghĩ thầm trong bụng :
- Cái lão này hễ mở mồn ra là nói xấu phái đẹp.
Và có lần cụ còn tống đạt cho một cái nghị quyết xanh dờn :
- Liệu mà bốc thơm dân liễu yếu đào tơ đi nhé, bằng không thì mỗi khi vác mặt ra ngoài đường, chắc chắn sẽ bị bọn họ xúm lại mà vặt hết râu đấy con ạ.
Nhiều lần gã đã đã buộc chỉ cổ tay, thề “mí” đầu gối rằng thì là sẽ không bao giờ bốc thối nữa, nhưng sẽ học theo thói ga lăng của dân “Phăng xe, chính hiệu con gà trống Gô loa” mà hết lời ca tụng quí bà và quí chị, quí cô và quí nường.
Nhưng rồi vẫn chứng nào tật nấy, chó đen vẫn giữ mực, mèo vẫn hoàn mèo mà thôi. Hay như Nguyễn Du trong truyện Kiều đã viết :
- Rằng hư quen thói đi rồi…
Biết lỗi của mình, vì thế hôm nay gã sẽ làm một quả “tôn vinh mẹ hiền” để đền tội, bởi vì ngày thứ tư, 31 tháng 5, sẽ là ngày thánh hóa người mẹ.
Sự thực thì gã cũng hơi bực bội và hờn ghen với quí bà quí cô vì xã hội này đã đối xử bất công với phe mày râu, đực rựa như gã.
Số là bên đông cũng như bên tây đều có tập tục nhớ ơn mẹ hiền, rồi lại còn dành hẳn ngày 8 tháng 3 để mà “xông hương” cho nữ giới. Sao mà gã sợ cái ngày 8 tháng 3 đến thế. Xuống phố hôm ấy, thấy đờn bà con gái, người nào cũng như người nấy, cái bản mặt cứ nghênh nghênh, làm như là phe ta đang thừa thắng xông lên, thấy mà dễ ghét tệ, đâu có còn dịu dàng duyên dáng như những ngày thường nữa.
Khốn khổ cho các ông chồng, ngày hôm ấy chịu khó chui vào bếp mà nấu nướng, rồi thì hãy bắt chước Tú Xương mà “vuốt râu nịnh vợ con bu nó”.
Trong khi đó, phe đực rựa với thiên chức làm chồng, làm cha, nhưng thực chất chỉ là làm thân trâu ngựa, nai lưng ra mà kéo cày, đổ mồ hôi sôi nước mắt, để kiếm tí tiền còm, đem về chén cơm, bát gạo và manh áo hầu nuôi sống gia đình…
Nhất là cho quí bà quí cô có phương tiện đi uốn cái tóc, sửa cái mũi, sơn cái móng chân, o cái móng tay, may cái quần, sắm cái váy… ấy thế mà chả được ma nào nhớ tới, nói chi đến việc ca ngợi đức ông chồng hay nhớ ơn cha… già.
Trở lại với đề tài hôm nay, đó là tôn vinh mẹ hiền. Bên đông phương, cứ vào rằm tháng bảy âm lịch, anh em Phật giáo cử hành lễ Vu lan, khởi đầu cho mùa báo hiếu và tưởng nhớ công ơn người mẹ.
Theo ”Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” của Trịnh văn Thanh :
“Mục Liên, tức là Mục Kiều Liên, tên một vị bồ tát, đệ tử của Đức Phật. Mục Liên vốn là một người con có hiếu. Mặc dù đã tu thành chánh quả, nhưng khi thấy người mẹ của mình, vì mắc phải nhiều sai lỗi, chẳng hạn như luôn chê bai các vị tăng ni và xúi dục người khác vi phạm những giới cấm, nên đã bị đày xuống ngục A Tỳ, phải chịu cực hình đói khát và ngồi trên chông sắt. Hễ bà ăn hay uống thứ gì, thì tất cả đều cháy thành lửa.
“Mục Liên nhờ gậy phép và bồn bát của Phật Quan Âm mà xuống tận cõi âm ty để cứu mẹ thoát khỏi cảnh cực hình, khuyên nhủ mẹ ăn năn hối lỗi, một lòng tu niệm. Nhờ đó, mẹ của Mục Liên cũng đắc quả.
Chính vì thế, rằm tháng bảy, ngày lễ Vu lan hay ngày lễ Trung nguyên, không phải chỉ là một dịp để người ta cúng cô hồn, tức là cầu nguyện cho những người mồ côi đã chết vất vưởng, không được một ai tưởng nhớ đến, mà còn là một dịp để con cái báo đáp công ơn mẹ cha bằng cách làm việc lành, cầu nguyện cho mẹ cha được sống lâu, không mắc phải cảnh đau ốm khổ não và cả ông bà bảy đời được thoát khỏi cõi âm ty mà về cõi Phật…
- Mục Liên dù đã hóa thân,
Vì thương từ mẫu muôn phần họa tai.
Bên tây phương, người ta cũng đã chọn Chúa nhật thứ hai trong tháng năm làm ngày lễ nhớ ơn mẹ hiền, tiếng phăng xe thì gọi là “Fête des Mères”, còn tiếng ăng lê thì gọi là “Mother’s day”.
Theo Thượng tọa Thích Nhất Hạnh trong cuốn “Bông hồng cài áo” thì vào ngày này, con cái tỏ lòng biết ơn đối với người mẹ bằng cách tặng quà và tổ chức bữa cơm thân mật để chúc mừng người mẹ.
Riêng những ai mà người mẹ còn sống, thì khi ra đường sẽ được cài một bông hồng màu trắng trên áo, để chỉ người ấy vẫn còn giữ được một kho tàng quí giá nhất, đó là tình yêu của người mẹ, vẫn còn có một nơi ẩn náu an toàn nhất, đó là trái tim của người mẹ…
Ngày xửa ngày xưa có hai vợ chồng trẻ đang sống yên ổn trong một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc. Họ đã đặt tình yêu và gia đình của họ dưới sự bảo trợ của đức Maria.
Nhưng rồi một năm kia, mưa to và gió lớn. Mực nước dâng lên thật nhanh và tạo thành một cơn lũ khủng khiếp, như chưa từng xảy ra như thế bao giờ. Nhà của họ nằm trên một ngọn đồi, nhưng rồi ngọn đồi cũng bị ngập sâu dưới dòng nước.
Hai vợ chồng thay nhau bồng ẵm đứa con và trèo lên mái nhà, nhưng rồi mái nhà của họ cũng bị dòng nước nhận chìm. Bấy giờ người chồng nói với vợ :
-Mình hãy ôm chặt thằng nhỏ và ngồi cho vững trên đôi vai của anh.
Người vợ vội vàng làm theo. Đôi mắt chị long lanh những giọt lệ và cõi lòng chị đớn đau tê tái. Chị ngồi trên vai và hai chân bắt chéo trước ngực chồng trong một tư thế thật vững vàng. Nhưng rồi nước vẫn cứ dâng lên, dâng lên mãi.
Bấy giờ, chị nói với đứa bé rằng :
- Con hãy ngồi thật chắc trên đôi vai của mẹ. Giã từ con, nhưng con đừng bao giờ quên rằng cha và mẹ luôn yêu thương con nhé.
Chị không thể nói thêm được một lời nào nữa vì nước đã dâng lên tràn vào miệng. Và sau cùng, nước đã trắng xóa cả một vùng bao la, chỉ còn khuôn mặt của đứa bé là nhô lên khỏi mặt nước với những lọn tóc đen mà thôi.
Lúc bấy giờ, Đức Maria đi ngang qua, nhìn thấy lọn tóc đen của đứa bé, Ngài thầm nghĩ :
- Đứa bé này thuộc về Ta vì mẹ nó đã dâng nó cho Ta.
Khi giơ tay kéo đứa bé lên, Ngài vô cùng ngạc nhiên vì thấy cha và mẹ của đứa bé đã chết để cho nó được sống. Ngài khẽ nói :
- Ôi, Thiên Chúa đã làm biết bao nhiêu sự kỳ diệu trên mặt đất này.
Và rồi, Ngài đã đưa cả ba người về thiên đàng trong nếp áo choàng của Ngài.
Từ câu chuyện trên, gã cũng có thể xác quyết :
- Trong những điều tuyệt vời Thiên Chúa đã tạo nên, thì trái tim người mẹ chính là điều tuyệt vời nhất.
Tại một viện mồ côi, người ta đã làm một thí nghiệm như thế này, đó là trong phòng nuôi những em nhỏ mới chào đời, người ta đã lắp đặt một hệ thống âm thanh phát ra những tiếng đập nhè nhẹ, như tiếng đập của trái tim người mẹ và người ta đã ghi nhận : từ khi có những tiếng đập nhè nhẹ ấy, những em nhỏ ăn nhiều hơn, ngủ kỹ hơn và tăng trọng mau hơn…
Điều đó muốn nói lên rằng vai trò của người mẹ thật là quan trọng. Thực vậy, để có mặt trong cuộc đời, mỗi người chúng ta cần phải có ba má như tục ngữ đã bảo :
- Con có cha có mẹ,
Không ai ở lỗ nẻ mà lên.
- Có cây mới có giây leo,
Có cột có kèo, mới có đòn tay.
Tuy nhiên, có mặt trong cuộc đời mà thôi chưa đủ, chúng ta còn cần phải được tăng trưởng, còn cần phải được lớn lên, còn cần phải được phát triển về thể xác cũng như tinh thần.
Để giúp chúng ta tăng trưởng, lớn lên và phát triển như thế, không thể thiếu vắng những đóng góp to lớn của người mẹ.
- Con có mẹ, như bẹ ấp măng.
Làm sao chúng ta có thể kể hết những công lao, những hy sinh người mẹ đã phải chịu vì chúng ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi nuôi dưỡng và dạy bảo chúng ta cho tới ngày hôm nay.
- Chim trời ai dễ đếm lông,
Nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày.
- Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công ơn mẫu từ.
Trước hết là công ơn nuôi dưỡng của người mẹ, tục ngữ ca dao Việt Nam đã viết :
- Cha sinh không tầy mẹ dưỡng.
- Có má ở nhà mới có cá mà ăn.
- Có con phải khổ vì con.
- Con biết nói, mẹ hói đầu.
- Con lên ba, mẹ sa xương sườn,
- Con biết ngồi, mẹ rời tay.
Tiếp đến là công ơn dạy bảo :
- Mẹ dạy thì con khéo,
Bố day thì con khôn.
Vì yêu thương mà người mẹ đã dạy bảo, cốt để cho chúng ta nên người như lời một câu danh ngôn :
- Người mẹ dù có đánh mắng, nhưng sau đó liền hôn lên vết đánh ấy.
Người mẹ có thể thức trắng đêm để chăm sóc cho đứa con đau yếu. Người mẹ có thể hy sinh chính bản thân mình để cho đứa con được sống.
Một trận động đất xảy ra. Toàn bộ ngôi làng biến thành đống gạch vụn. Người ta đã dùng mọi phương tiện, mọi khả năng để tìm kiếm những người còn sống sót. Trong số những người còn sống sót ấy có hai mẹ con được móc lên từ chốn đổ nát. Sau khi được cấp cứu và hồi sức, người mẹ đã kể lại như sau :
- Lúc bấy giờ, hai mẹ con tôi đang đứng trong góc bếp. Tòa nhà sụp đổ. Rất may chúng tôi đã không bị dè bẹp. Không gian chỉ là một khoảng rất nhỏ và thức ăn chỉ còn lại một hộp mứt. Sau khi con tôi đã ăn hết hộp mứt, nó vẫn còn đói và khóc lóc đòi ăn thêm. Thế là tôi bèn nhặt một mảnh kính vỡ, cứa đầu ngón tay rồi đút vào miệng nó. Hy vọng nhờ những giọt máu của tôi mà nó sẽ được sống sót. Rồi tôi ngất đi lúc nào cũng không hay cho tới khi được cứu thoát.
Người ta bèn hỏi bà :
- Tại sao bà lại làm được một hành động can đảm như thế ?
Bà trả lời :
- Trong giây phút kinh hoàng ấy, tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất, đó là phải làm tất cả cho con tôi được sống.
Trước công ơn trời biển như thế của mẹ hiền, đạo làm con là phải thảo hiếu. Sự thảo hiếu này được biểu lộ qua thái độ vâng lời, trọng kính và giúp đỡ, nhất là khi người mẹ đã già yếu và túng quẫn :
- Con không chê mẹ khó,
Chó không chê chủ nghèo.
Và trong cuộc sống, gã đã từng nhìn thấy biết bao nhiêu người con đã sống trọn đạo hiếu đối với cha mẹ mình. Thật đáng bái phục. Là người Việt Nam, ai trong chúng ta lại không biết đến tác phẩm “Nhị thập tứ hiếu” viết về hai mươi bốn người con có hiếu, là như những mẫu gương để chúng ta noi theo và bắt chước.
Tướng Cariolan buồn rầu bỏ thành Roma đi theo quân địch vì những kẻ đồng hương tỏ ra vô ơn đối với ông. Khi hay tin ông đem quân về vây hâm thành và tìm cách tiêu diệt mọi người, dân chúng vô cùng khiếp sợ. Họ cử một phái đoàn đi thương thuyết nhưng không được ông tiếp. Họ tổ chức một cuộc kiệu rước các thần minh đến gần doanh trại của ông để cầu xin sự bình an, nhưng ông vẫn cứ một mực làm ngơ.
Sau cùng, họ đành phải nhờ tới bà mẹ già của ông. Nhìn thấy mẹ từ xa, ông liền chạy ra ôm lấy mẹ. Thế nhưng bà buồn sầu nói với con :
- Con biết lòng mẹ yêu con như thế nào hay không ? Chẳng lẽ con định giết các em và cả vợ con của con sao ?
Ông liền nói với mẹ :
- Mẹ đã thắng con rồi. Vâng lời mẹ, con sẽ rút quân và dân thành Roma được giải thoát, nhưng mẹ sẽ mất con mãi mãi.
Đúng thế, sau khi rút quân, ông đã bị kẻ địch giết chết vì họ cho rằng ông đã phản bội.
Tuy nhiên, cũng không thiếu gì những đứa con, một khi đã thành đạt thì bỗng quên đi công ơn của người mẹ, để rồi có những thái độ khinh bỉ và hất hủi.
Bà mẹ đang cặm cụi làm cỏ ruộng phía sau nhà, bỗng rụng rời tay chân khi nhìn thấy một cột khói bốc lên cao. Hốt hoảng, bà vội chạy về, băng qua ngọn lửa vào nhà và ẵm lấy đứa con nhỏ của mình đang nằm trong nôi. Cứu được đứa con, nhưng bà lại bị phỏng nặng. Vết phỏng đã làm cho khuôn mặt của bà trở thành nhăn nheo và xấu xí…
Đứa bé lớn lên. Trở thành một cô gái xinh đẹp và được gửi học trên thành phố. Ngày kia, bà mẹ lặn lội từ quê lên, ghé vô trường giữa lúc cô gái đang chơi đùa với bè bạn trong sân.
Nghe nói có người tới thăm, cô bé vội xuống phòng khách. Nhìn thấy mẹ, cô bé sa xầm nét mặt và nói như quát tháo :
- Bà đừng đến đây thăm tôi nữa, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng nổi một người mẹ xấu xa và ghê tởm như bà.
Bà mẹ âm thầm ra về, nhưng hàng tháng vẫn gửi tiền lên cho con ăn học. Phải chăng tình yêu của người mẹ thì không bao giờ mệt mỏi.
Nhiều khi chỉ vì quá thương con mà người mẹ đi tới chỗ cưng chiều và làm cho con hư hỏng. Trên báo “Phụ nữ chủ nhật”, một người chị đã tâm sự như sau :
“…Bây giờ thì thằng em của tôi đã ngồi tù và nó còn phải ngồi tù hơn 10 năm nữa mới hết án. Theo tôi nghĩ, lỗi của nó chỉ một phần, mà chính là lỗi của ba mẹ tôi. Ngay từ hồi còn nhỏ, nó đã được muông chiều quá trớn. Nó đòi gì được nấy…sống như một ông hoàng. Rồi nó được sắm xe gắn máy khi học đến lớp chín và thế là nó bỏ học, từ đó theo bạn bè lêu lổng ăn chơi. Mới hơn hai mươi tuổi đầu mà nó đã mang trong người đủ thứ tội : hút chích ma túy, ăn cướp, hiếp dâm, ngộ sát…Tội thì nó đã gánh, nhưng lỗi thì do ai ?”
Người mẹ thường gần gũi và hiểu biết con cái hơn, nên cũng được con cái yêu mến và nhõng nhẽo hơn. Vì thế, ảnh hưởng của người mẹ cũng to lớn hơn trong viêc giáo dục uốn nắn con cái như tục ngữ đã day :
- Phúc đức tại mẫu.
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Nếu người mẹ còn tiền còn bạc thì con cháu xúm xít lại, bằng không thì chẳng ai thèm ngó ngàng, thậm chí có những đứa con còn vác đơn ra tòa để chiếm đoạt ngôi nhà do chính mẹ mình đã vất vả chắt chiu gầy dựng nên.
Báo Công an có đăng tải một mẩu tin như sau :
Tại Tây ninh, có một bà mẹ khá đông con, song bà vẫn thích sống cảnh cô đơn trong căn nhà tranh dột nát. Thảm hại hơn, các con bà còn kiếm chuyện mắng mỏ đủ điều và tranh chấp với bà từng ngọn rau tấc đất. Có lần hàng xóm thấy vậy thương tình đến giúp đỡ thì bị người con gái của bà nặng lời trách móc.
Trước hoàn cảnh ấy, chính quyền địa phương đã xây cho bà một căn nhà tình nghĩa vì bà cũng là mẹ liệt sĩ. Thế là ngay sau đó, vợ chồng người con gái đã từng ngược đãi mẹ lại làm đơn gửi cho chính quyền là kể từ nay xin được…nuôi nấng mẹ già.
Thói đời vốn thường đen bạc, kể cả con cái trong gia đình như người xưa đã bảo :
- Mẹ giàu con có, mẹ khó con không.
Chẳng những có thái độ vô ơn và bất kính nhất là khi người mẹ già yếu và nghèo túng, mà hơn thế nữa, còn đối xử hà khắc, nghiệt ngã với người mẹ của mình, bắt làm những công việc nặng nhọc như tục ngữ diễn tả :
- Một mẹ già bằng ba con ở.
Rồi thì quát tháo, chửi bới khi người mẹ hết sức lao động, không còn làm lụng được gì nữa, hay chì chiết, day dứt khiến cho người mẹ phải tủi thân vì cảm thấy mình chỉ còn là một kẻ ăn bám, một gánh nặng cho con cái.
Vấn đề này đã được tục ngữ Việt Nam nói đến rất nhiều :
- Một mẹ nuôi được mười con, nhưng mười con không nuôi được một mẹ.
- Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
Con nuôi mẹ, con kể từng ngày.
- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
- Mẹ già ở chốn lều tranh,
Đói no chẳng biết, rách lành chẳng hay.
- Mẹ già hết gạo treo niêu,
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.
Nói về những sự vô ơn tệ bạc của con cái đối với mẹ già thì còn dài dài, nhưng để kết luận, gã xin ghi lại nơi đây một mẩu tin. Mẩu tin này mang tựa đề là “Mẹ ăn mày…nuôi con khỏe”, đại khái như sau :
“Sáng nào cũng vậy, tại một quán bánh canh nằm trên một con đường giữa trung tâm thị xã của tỉnh Tây ninh, người ta luôn thấy một bà cụ già trên tám mươi tuổi, lưng còng, lê bước tới xin từng bàn khách đang ăn và được nhiều người thương tình giúp đỡ.
“Thế nhưng, khi bà cụ vừa bước ra khỏi quán, thì lập tức có một người đàn ông độ khoảng bốn mươi tuổi đi trên chiếc xe đạp dừng lại bên bà và bà khó nhọc leo lên xe để tiếp tục cuộc hành trình đi ăn mày. Được biết người đàn ông khỏe mạnh ấy chính là con trai của bà.
Người viết mẩu tin này đã bình luận như sau :
“Thiết tưởng, cha mẹ bắt con đi ăn mày đã là điều đáng lên án, đằng này con cái lại bắt mẹ già đi ăn xin để nuôi mình thì vô cùng trái đạo. Những đứa con bất nghĩa này khó tránh được tiếng đời biếm nhẽ.
Còn gã, gã lại nghĩ hơi khác một tí :
- Tình yêu của người mẹ thì trẻ mãi, không bao giờ…già. Hơn thế nữa, dưới mắt mẹ hiền, người con dù đã trưởng thành và khỏe mạnh, thì vẫn chỉ là một đứa nhỏ, vừa bé bỏng lại vừa yếu ớt mà bà cần phải chăm sóc và nuôi nấng.
Một cô bé cũng đã phát biểu :
- Nếu Thiên Chúa chỉ ban cho tôi một người mẹ mà thôi, thì tôi cũng cảm nhận được Ngài tốt lành biết bao nhiêu, bởi vì đối với tôi, mẹ là kho tàng quí giá nhất và hạnh phúc thiên đàng chính là được ngồi dưới chân mẹ hiền.
Theo lịch năm thánh hai ngàn, thì trong tháng tư có hai ngày đáng được lưu ý, đó là Chúa nhật lễ GãSiêu 88
Theo lịch năm thánh hai ngàn, thì trong tháng tư có hai ngày đáng được lưu ý, đó là Chúa nhật lễ lá, ngày mười sáu, thánh hóa giới trẻ và Chúa nhật thứ hai Phục sinh, ngày ba mươi, cầu cho các tân tòng. Giới trẻ thì đã được nhiều người chiếu cố, nếu gã có nói thêm thì cũng bằng thừa vì chỉ lặp lại những cao kiến của thiên hạ, khiến cho những người dễ tính nhất cũng phải lên tiếng ca cẩm :
-Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
Thế là đành phải chọn đề tài về tân tòng, được gọi một cách nôm na là bổn đạo mới. Một đề tài hơi khô khan và khó nuốt, nhưng một liều thì ba bảy cũng liều. Đêm nằm “vắt chân lên trán”, lục lạo trong đầu óc tìm xem có cái gì hay ho để mà tán hiêu tán vượn, rồi thì phó mặc, đứng ngó xem “con tạo xoay vần đến đâu” thì đến.
Đi tìm những lý do khiến người ta trở lại, gã xin ghi nhận mấy lý do sau đây.
Lý do thứ nhất đó là vì khắc khoải muốn đi tìm chân lý.
Thực vậy, có những người đã từng băn khoăn với những câu hỏi muôn thuở của kiếp người :
- Tôi từ đâu mà đến ? Tôi sống để làm gì ? Và rồi tôi sẽ đi về đâu ? Cuộc đời tôi liệu có một cái gì khác hơn là việc kiến tiền, rồi ăn uống và ngủ nghỉ hay không ?
Họ mò mẫm trong đêm tối để tìm lời giải đáp. Họ ghé bến này, họ dừng ở bến kia. Có bến trong nhưng cũng có bến đục. Họ đến với tôn giáo này, họ học hỏi nơi tôn giáo kia.
Và sau cùng họ đã tìm thấy phần nào sự thực nơi đức tin công giáo, để rồi từ đó, họ đã đổi đời, đã thoát xác và trở nên một con người mới.
Gã được biết một cô bé sống trong gia đình “bên lương”, nhưng không hiểu do một nguyên nhân nào thúc đảy, mà ngay từ lúc chưa trưởng thành là mấy, cô bé đã cảm thấy dường như còn thiếu một cái gì đó trong cuộc sống của mình. Làm sao để lấp đầy cái khoảng trống ấy…
Được sự chấp thuận của gia đình, cô bé đã bắt đầu tìm hiểu về đạo dưới sự hướng dẫn của một ma xơ. Và sau cùng cô bé đã trở lại. Nhưng cũng kể từ đó, bản thân cô bé trở nên như một ngọn đèn dầu leo loét cháy giữa đêm tối, hay như một chứng nhân âm thầm.
Cuộc sống của cô bé là như một chút men làm cho những người chung quanh phải cảm phục với những cử chỉ dịu dàng và những lời nói từ tốn, hay là như một chút muối mặn ướp cho môi trường hạn hẹp của mình, không những khỏi ươn thối mà còn dậy lên hương thơm của sự thánh thiện. Để rồi một thời gian sau, những người thân yêu của cô bé cũng đã xin trở lại.
Lý do thứ hai đó là vì gương sáng của người trong đạo lôi cuốn.
Đúng thế, rất có thể vì đời sống đạo đức và thánh thiện, rất có thể vì những hành động bác ái và yêu thương của người trong đạo đã chinh phục họ, khiến họ có cảm tình với đạo. Và từ chỗ có cảm tình với đạo, họ bắt đầu học đạo, tin đạo và theo đạo. Đúng như tục ngữ đã bảo :
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn đã nói :
- Gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức hấp dẫn và lôi cuốn người ta đến với Chúa.
Gã xin đưa ra một vài trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất đó là một người Tin lành đã trở lại Công giáo chỉ vì đã nhìn thấy mấy em nhỏ ở trong nhà thờ. Thái độ trang nghiêm sốt sắng của các em đã làm cho người Tin lành phải suy nghĩ :
- Nếu không có Chúa ngự thật trong bí tích Thánh thể, thì tại sao các em bé này lại trang nghiêm và sốt sắng như thế ?
Rồi từ đó, người Tin lành đã bắt đầu tìm hiểu đạo và tin theo đạo.
Trường hợp thứ hai đó là một anh học trò đã trở lại chỉ vì hành động bác ái của sư phụ mình.
Tại một ngôi làng nọ, có một ông thày dạy võ. Ngày kia, một anh thanh niên đến xin học. Anh ta là một người mồ côi, không nhà không cửa và không cả thân bằng quyến thuộc. Cảm thông trước hoàn cảnh tang thương ngẫu lục của anh ta, ông thày đã bằng lòng nhận anh ta làm học trò, cho ăn ở trong nhà mình và rồi còn gả cô con gái cưng của mình cho anh ta.
Nhưng rồi thời thế đổi thay.Chiến tranh xảy ra. Anh học trò đi theo quân giặc. Ngày nọ, anh ta dẫn bọn phiến loạn về làng. Đốt nhà của ông thày và giết cả bà vợ của ông thày nữa.
Rất may là chẳng bao lâu, hòa bình trở lại, quân phiến loạn bị dẹp tan… nhưng anh học trò thì vẫn còn sống sót. Kể từ ngày mất vợ, ông thày quyết tìm cho bằng được anh học trò phản phúc để trả thù cho hả giận. Mọi người trong làng hết lời khuyên bảo, can ngăn nhưng xem chừng cũng chả ăn thua gì.
Nhân dịp cấm phòng mùa chay trong giáo xứ, đích thân cha sở đã đến thăm và “năn nỉ ỉ ôi”, xin ông thày hãy vì Chúa mà tha thứ cho anh ta. Ông thày lầm lầm lì lì chẳng nói chẳng rằng. Mãi sau, ông thày mới bảo :
- Thì cha cứ dẫn tên ấy đến đây.
Và khi anh học trò tới, ông thày sắn tay áo, mắt long lên còng cọc, hùng hổ nhảy bổ vào anh học trò, nắm lấy cổ anh ta và quát :
- Mày là đồ đểu, là thằng phản phúc. Tao đã yêu thương mày, cho mày ăn ở trong nhà tao, dạy cho mày những ngón võ bí truyền, lại còn gả con gái tao cho mày, thế mà mày nỡ lòng nào, dẫn bọn phiến loạn về đốt nhà tao, giết vợ tao…tội mày thật đáng chết.
Mọi người trong làng đều hồi hộp và sợ hãi theo dõi những diễn biến, cứ ngỡ rằng ông thày sẽ giết chết hay ít nữa cho tên học trò phản phúc này một trận đòn nhừ tử. Cuối cùng, như đã hả cơn giận, ông thày mới nói :
- Nhưng vì Đức Kitô, tao tha thứ cho mày.
Nói xong, ông thày lẳng lặng bỏ đi và mọi người đều thở phào nhẹ nhõm. Rồi sau đó, người ta thấy anh học trò xin học đạo và trong ngày anh được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì chính ông thày đã bằng lòng làm người đỡ đầu cho anh ta.
Những người trở lại với hai lý do trên thường sống đạo một cách nghiêm chỉnh, có khi còn hơn cả những người vốn vỗ ngực tự xưng mình là con nhà có đạo từ tấm bé, hay thuộc nòi đạo dòng nữa. Bởi vì, rất nhiều khi thiên hạ thường phàn nàn :
- Tin đạo thì tin, nhưng chớ có tin kẻ có đạo nhé.
Sở dĩ như vậy vì cuộc sống của chúng ta, nhưng người có đạo, cũng chẳng hơn gì thiên hạ, thậm chí còn bê bối hơn nhiều : Cũng gian tham, cũng điêu ngoa xảo trá, cũng đèo bòng vợ nọ con kia.
Chúng ta phải làm sao đảo lộn được câu nói trên, nghĩa là : qua cuộc sống của người có đạo, thiên hạ sẽ có cảm tình với đạo và từ đó sẽ dễ dàng tin theo đạo.
Lý do thứ ba đó là vì lợi lộc hay vì sợ hãi.
Gã cũng xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể và điển hình.
Ngày xưa, khi một ông tổng thống là người công giáo trên đất nước này, thì đạo được ưu đãi và dễ dàng. Chính vì thế, nhiều người cũng rắp ranh theo đạo, để lấy điểm với “xếp nhớn” của mình, để dễ bề thăng quan tiến chức hay để cầu xin ơn mưa móc, cũng nhữ để khỏi bị trù dập cách này hay cách khác…
Nhưng rồi khi ông tổng thống ấy không còn nữa, người ta cũng sẽ quên đạo và bỏ đạo, thậm chí còn quay lại chửi đạo nữa, vì dậu đổ bìm leo… Đạo chỉ là như một chiếc áo không còn hợp thời trang nữa nên phải sẵn sàng cởi bỏ để tìm kiêm một chiếc áo khác “mô đen” hơn…Khuôn măt của họ là khuôn mặt của những kẻ đón gió trở cờ. Gió chiều nào phe phẩy theo chiều ấy. Không lập trường, không xác tín, không niềm tin.
Cũng ngày xưa, khi tới giảng đạo ở nơi nào, các vị thừa sai thường cố gắng nâng cao dân trí, đem ánh sáng văn minh đến với những vùng đất còn ngồi trong tăm tối. Bao lâu còn viện trợ, còn được giúp đỡ bằng vật chất thì còn theo đạo và giữ đạo.
Chính vì thế, một số người đã hiểu lầm những hành động bác ái kể trên : Đi đạo để có gạo mà ăn và khi hết gạo thì cũng thôi đạo.
Có người đã đến gặp cha sở và thẳng thừng đặt câu hỏi :
- Nếu cha cho gạo…Nếu cha cấp đất…thì tui và gia đình tui xin theo đạo liền à.
Theo đạo kiểu này cũng chẳng khác gì đặt tình yêu trên nền tảng tiền tài vật chất, theo kiểu “hết cơm thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui”, hay như tục ngữ đã diễn tả :
- Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử.
Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.
Sau cùng, lý do thứ tư đó là vì hôn nhân, vì tình yêu.
Đây là chuyện chúng ta gặp phải nhiều nhất trong đời thường. Cũng dễ hiểu mà thôi.
Đọc lại Kinh thánh gã thấy : đầu tiên Thượng đế đã dựng nên Adong. Khi thấy Adong cu ky, vò võ một mình, Ngài liền động lòng thương và tự nhủ :
- Ta sẽ dựng nên cho nó một người nội trợ giống như nó.
Nói thế rồi, lợi dụng lúc Adong ngủ say, Thượng đế đã lấy một chiếc xương sườn của ông mà dựng nên Evà. Sau đó, Ngài dẫn bà tới trình diện ông. Thoạt nhìn thấy bà, mắt ông đã bừng sáng và hớn hở kêu lên :
-Mình ơi !
Sở dĩ gã xử dụng hai tiếng “mình ơi”, bởi vì hai tiếng này đã diễn tả rất đúng tư tưởng của sách Sáng thế ký :
-Này đây xương bởi xương tôi và thịt tôi…Vì thế, người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mình để kết hợp với vợ mình và cả hai đã trở nên một xương một thịt.
Và Chúa Giêsu còn thêm :
-Vậy sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly.
Cũng trong chiều hướng này, tục ngữ Việt Nam đã diễn tả rất đúng khi bảo :
- Mình với ta tuy hai mà một,
Ta với mình tuy một mà hai.
Đã là vợ chồng thì phải cố gắng trở nên một, không phải chỉ nơi thân xác, mà còn cả trong tâm hồn nữa. Và trong phạm vi tâm hồn, trong phạm vi tư tưởng, thì niềm tin và tôn giáo cũng đóng một vai trò rất quan trọng.
Thực vậy, rất khó mà nên một nếu người này thờ Phật, còn người kia lại thờ Chúa. Rất khó mà nên một nếu người này đi chùa, còn người kia lại đi nhà thờ. Rất khó mà nên một nếu người này tin vào điều mà người kia lại cho là nhảm nhí.
Rồi một mai, khi đã có con cái, sự khác biệt về tôn giáo sẽ gây nên những khó khăn trong việc giáo dục. Bố bảo một đằng, mẹ dạy một nẻo, với đầu óc còn non nớt, đứa con sẽ chẳng biết đường nào mà lần…thành thử đứng ở giữa thì bị…chết chẹt.
Vì thế, ngày xưa Giáo Hội có vẻ khắt khe về chuyện hôn nhân khác đạo. Chỉ ban phép chuẩn trong những trường hợp bất khả kháng. Còn hôm nay, thái độ của Giáo Hội tương đối rộng rãi hơn, nhưng vẫn khuyến khích đôi hôn phối phải lo liệu và bàn định trước với nhau để có được một sự nhất trí trong đời sống vợ chồng, cũng như trong việc giáo dục con cái…Bởi vì cả hai phải cố gắng trở nên một. Mình ơi !
Để trở thành “bổn đạo mới”, gã xin tạm chia thành ba thời kỳ.
Thời kỳ thứ nhất đó là thời kỳ học đạo.
Trong giai đoạn này, xem ra người ta rất ư là chăm chỉ, chắc hẳn là do động cơ của tình yêu thúc đảy, bởi vì có học đạo thì mới lấy được người mình yêu. Hơn nữa, mỗi lần đi học, đều có người mình yêu tháp tùng, kè kè một bên, thì ngu gì mà bỏ lỡ những cơ hội chính đáng, có phép tắc hẳn hoi để mà gặp gỡ và chuyện trò cùng nhau.
Hồi năm 1978, gã được cha sở nhờ day giáo lý cho tân tòng. Lúc bấy giờ gã vô cùng “khẩu phục tâm phục” một anh lơ xe đò đường Saigon-Rạch giá. Cứ cách một ngày anh ta lại đến học kinh bổn một lần theo tuyến xe chạy. Nếu hôm nay, xe từ Rạch giá lên Saigon thì anh ta nghỉ, bởi vì xe chạy sớm và nhà thờ thì lại cách xa Rạch giá. Nhưng hôm sau, xe từ Saigon xuống Rạch giá, khi đi ngang qua nhà thờ, anh ta sẽ bỏ xe để vô học, rồi khi học xong, thì đón xe đi tiếp xuống Rạch giá, để sáng sớm hôm sau trở lên Saigon. Cứ thế, cứ thế…kéo dài suốt cả một năm trời. Quả là hết ý.
Ngày xưa, Giáo Hội thường kéo dài thời kỳ học đạo và người ta phải trải qua những nghi thức cho từng giai đoạn một. Còn bây giờ, vì công ăn việc làm, một số người lại muốn đốt giai đoạn, học tốc hành trong một thời gian thật ngắn, rảo qua một vòng “bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn” mà thôi, rồi phó mặc cho gió muốn thổi đâu thì thổi.
Vì thế, những lời cắt nghĩa chỉ trợt trạt bên ngoài, như nước đổ lá khoai hay nước đổ đầu vịt, chứ chưa thể bén rễ sâu trong tâm hồn, khả dĩ biến đổi được cuộc sống. Người học còn đang bỡ ngỡ và chưa thể tiêu hóa nổi những sự nhiệm màu, thì đã vội vã bước vào thời kỳ thứ hai, đó là thời kỳ theo đạo.
Nhiều người quan niệm rằng : dẫn được một một kẻ ngoại đạo trở về cùng Thiên Chúa là một việc làm đáng khen ngợi và đem lại nhiều công phúc, nên rửa tội càng nhiều thì càng tốt. Việc truyền giáo đặt nặng số lương hơn chất lượng, thành thử học vội học vàng rồi chuẩn bị cho chịu phép rửa tội ngay. Người lãnh nhận còn lơ mơ, thậm chí chẳng hiểu gì cũng vui vẻ trở nên…bổn đạo mới.
Chuyện kể lại rằng :
Ngày xưa, khi người ta còn cử hành rửa tội bằng cách dìm xuống nước. Một tân tòng nọ, khi được dìm xuống như thế, cứ nhất quyết giơ một bàn tay lên khỏi nước. Người ta hỏi anh ta tại sao lại làm như vậy, anh ta đã trả lời :
- Tôi xin thuộc về Đức Kitô tất cả chỉ trừ bàn tay này mà thôi , bởi vì tôi vốn có nghề ăn trộm ăn cắp. Tôi không dìm bàn tay xuống nước vì tôi muốn xử dụng nó cho nghiệp vụ chuyên môn của tôi là đi chôm chỉa của thiên hạ.
Chính vì thế mà đã sản xuất ra một thứ bổn đạo mới “ba rọi”, nửa nạc nửa mỡ, một thứ giáo dân “dổm”, có tên gọi là kitô hữu nhưng chẳng hề sống niềm tin kitô giáo của mình. Và thế là chúng ta bước sang thời kỳ thứ ba, đó là thời kỳ sống đạo.
Đây mới quả thực là một thời kỳ quan trọng bởi vì nó sẽ kéo dài bằng tất cả phần đời còn lại của người bổn đạo mới. Bình thường, nếu chị vợ trở lại, theo đạo của anh chồng thì việc sống đạo sẽ dễ dàng, bởi vì người nữ vốn có khuynh hướng nghiêng chiều về những tâm tôn giáo hơn người nam, đồng thời được sống trong một môi trường đã mang sẵn dấu ấn của tôn giáo, như gia đình, xứ đạo…cùng với sự nhắc nhở của những người chung quanh, nên ở vào thế triệt buộc, không sống đạo cũng chẳng được.
Còn nếu anh chồng trở lại, theo đạo của chị vợ thì việc sống đạo quả là gian nan khốn khó. Bởi vì sau ngày cưới, chị vợ, mặc dù đã là con nhà đạo dòng, đạo gốc…cũng phải khăn gói quả mướp về nhà chồng như cha ông đã dạy :
- Buồm theo lái, gái theo chồng.
Mà môi trường sống bên nhà chồng vốn dĩ đã là một môi trường bên lương, một môi trường ngoại đạo, thành thử việc sống đạo gặp phải rất nhiều khó khăn cho cả hai vợ chồng trẻ, để rồi cuối cùng, anh chồng cũng chẳng giữ đạo, còn chị vợ thì cũng mất đạo luôn. Chỉ có chị vợ nào thánh thiện và kiên vững lắm trong đức tin như Monica thì mới xoay chuyển được tình hình.
Chuyện kể lại rằng :
Năm 22 tuổi, Monica kết hôn với một người ngoại đạo tên là Patriciô, một con người vừa cộc cằn, vừa hung ác. Monica bèn dùng sự hiền hòa của mình để cảm hóa sự tàn bạo của anh chồng và tính khí thất thường của bà mẹ vợ. Cuối cùng, Patriciô đã trở lại được ít lâu trước khi chết.
Monica sinh được ba người con. Và như chúng ta đã biết Augustinô là người con đầu lòng. Thế nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ những thói hư tật xấu của mình. Ỷ vào trí thông mình, Augustinô đâm lười biếng. Bị sửa phạt, Augustinô bèn lừa dối, lường gạt cả cha mẹ lẫn thày dạy, rồi từ đó đắm mình trong lạc thú, ăn chơi và ham hố danh vọng. Ngoài ra còn chạy theo bè rối Manikê mà chống lại đức tin.
Còn gì đau khổ hơn cho Monica khi thấy đứa con yêu quí của mình ngày càng lún sâu vào còn đường tội lỗi, nhưng tin vào tình yêu và sức mạnh của ơn Chúa, Monica lại càng kiên nhẫn cầu nguyện và làm việc lành phúc đức. Cuối cùng, lời cầu nguyện và những giọt nước mắt của Monica đã đem lại kết quả : Augustinô đã được ơn trở về cùng Thiên Chúa.
May hơn một tí là anh chồng cắm dùi bên nhà chị vợ, trong một môi trường có đạo, nhưng không phải vì thế mà không có những trục trặc.
Thực vậy, nếu những người thân yêu trong gia đình chị vợ chỉ là những kitô hữu khô khan nguội lạnh, chỉ biết giữ đạo ở lằn mức tối thiểu chẳng hạn : đi “xem” lễ một tuần một lần vào ngày chúa nhật, xưng tội rước lễ một năm một lần vào mùa phục sinh, thì anh chồng bổn đạo mới này cũng chỉ là một kitô hữu xoàng xĩnh, mới giữ đạo chứ chưa sống đạo. Bởi vì giữ được cái lằn mức tối thiểu này là đã cảm thấy yên ổn lương tâm : vì ta đây cũng là dân có đạo.
Anh chồng sống bên nhà chị vợ, không ít thì nhiều cũng mang một mặc cảm tự ti nào đó, nhất là khi kinh tế gia đình bị thiếu hụt và lâm vào cảnh nghèo túng. Nếu chị vợ và nhà vợ không biết đối xứ một cách tế nhị thì thế nào cũng xảy ra những va chạm, khiến cho anh chồng chẳng còn thiết tha gì tới vấn đề đạo nghĩa cả.
Đây là một chuyện hoàn toàn có thật mà bản thân gã đã từng chứng kiến. Anh chồng bổn đạo mới sống bên nhà vợ và bên nhà vợ cũng chẳng sốt sắng gì cho lắm.
Gia đình túng thiếu phải kiếm ăn từng ngày. Thế rồi một bữa nọ, cuộc cãi vã với bố mẹ vợ xảy ra và thế là cả gia đình bên vợ xúm lại “chửi hội đồng”. Một mình anh chồng, như người hùng cô đơn, chẳng thể địch nổi mồm mép của mấy bà chị và của mấy cô em vợ.
Tức quá chịu không nổi, anh chồng liền vác giấy bút ngồi xuống và hí hoáy viết một chặp, rồi hối hả chạy thẳng lên nhà xứ, đòi gặp cho bằng được cha sở để…nộp đơn. Đơn xin…nghỉ đạo.
Cha sở nhìn anh ta rồi hỏi :
- Tại sao con lại làm đơn xin…nghỉ đạo.
Anh ta trả lời :
- Trước kia, con đã làm đơn xin theo đạo, thì bây giờ vì không chịu nổi người có đạo nữa, nên con làm đơn xin nghỉ đạo. Đơn giản chỉ có vậy mà thôi.
Bi đát hơn nữa là có những anh chồng một khi đã ẵm được cô vợ, bèn đánh bài…”lờ tít”, ngay cả lằn mức tối thiểu cũng chẳng thèm giữ, ơn Chúa xin trả lại cho Chúa, chuyện đời này lo chưa xong, hơi sức đâu mà ngó ngàng đến chuyện đời sau, như thiên hạ vốn thường diễn tả :
- Con quì lạy Chúa trên trời,
Con mà được vợ, con thôi nhà thờ.
Như thế, đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chị vợ, cũng như của gia đình bên vợ, rất cần thiết cho việc nuôi dưỡng đức tin còn non trẻ của anh chồng bổn đạo mới, bởi vì như trên gã đã nói :
- Lời nói thoảng bay, gương bày lôi kéo.
Chính những chứng tá bằng việc làm, bằng đời sống của người có đạo mới có được một sức mạnh cuốn hút người ta đến cùng Chúa.
Để kết luận, gã xin mượn lại ý tưởng đã viết ở trên, đó là :
- Hãy sống thế nào để qua cuộc sống của người có đạo, kẻ ngoại đạo sẽ cảm phục và tìn đường trở về cùng Chúa, chứ đừng như thiên hạ đã bảo : Tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo.
Trong bức thư mới nhất đề ngày 15 tháng 11 năm 1999, cụ chủ nhiệm báo Mục vụ đã than thở GãSiêu 89
Trong bức thư mới nhất đề ngày 15 tháng 11 năm 1999, cụ chủ nhiệm báo Mục vụ đã than thở cả tiếng “mí” gã như sau :
“Ở Thụy sĩ cũng như ở các nước Âu Mỹ nói chung, các đấng ông chồng mày râu thường về Việt Nam chim chuột…lang chạ hay kiếm đại bà vợ bé nào đó để dành, lâu lâu vừa trở lại thăm quê hương, vừa đi nghỉ hè, lại vừa có sẵn của xài mà vợ con không mấy khi hay biết. Vì nếu biết, thì gia đình sẽ đi đến chỗ xào xáo và tan vỡ từng mảnh. Chỉ tội nghiệp cho những đứa con vì không còn thấy được cảnh đầm ấm nữa. Các bà thì một số đi làm có tiền, ra ngoài xã hội cũng đua đòi, đi đến chỗ bình quyền, rồi lộng quyền. Kết cục cũng lại là đổ vỡ. Vợ chồng mỗi người một nhà. Những đứa con có hai nhà mà vẫn không có được một mái ấm trong đời…
“Riêng về giới trẻ, thì tình yêu ngày càng xuống dốc một cách thậm tệ. Họ thường hay “thử ngòi” trước khi đi tới kết hôn, coi nhẹ việc trinh trong của người thanh niên nam nữ…
Chẳng hiểu lời than thở trên đây có bi quan lắm không, nhưng chắc hẳn cũng không đến nỗi phóng đại tô màu, đã đen lại bôi thêm cho đen hơn.
Thực vậy, ai cũng biết rằng gia đình hiện nay trên thế giới đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Dĩ nhiên, các gia đình Việt Nam ở trong nước và nhất là ngoài nước, cũng không thoát khỏi bị cuốn theo chiều gió, bị hút vào giòng chảy, mà nảy ra những chuyện lỉnh kỉnh thế này hay thế nọ.
Riêng gã, với cái nhìn méo mó nghề nghiệp, thì đây quả là một mảng đề tài thật phong phú để khai thác. Vì thế, mỗi khi bị chiếu bí, gã bèn tìm về vùng đất này để mà…tán hươu tán vượn cho đầy trang giấy. Hôm nay gã xin phác họa đôi ba nét về dung nhan…hết xảy của các bà vợ.
Tiếng Việt Nam của chúng ta thật là tuyệt vời để diễn đạt những “gam”, những mức độ tình cảm đậm nhạt khác nhau.
Khi mới bắt đầu thương, anh chàng luôn mồm gọi chị chàng với cặp môi dẻo quẹo:
- Em yêu dấu… Người yêu bé... Con mèo nhỏ…
Khi bước vào cuộc sống lứa đôi và tình yêu còn nồng như rượu nếp mới và còn thơm như mật ong rừng, thì anh chồng luôn trìu mến gọi chị vợ với giọng nói ngọt như đường cát, mát như đường phèn :
- Em…Mình…Cưng…Mẹ thằng cu…Đằng ấy…
Rồi hùng hổ giới thiệu vị “nội tướng” của mình với bà con lối xóm bằng những danh từ thật bùi tai, còn hơn cả đậu phộng rang, chẳng hạn như :
- Nhà tôi…Bà xã…
Nếu là dân ghiền cải lương, thì anh chồng không ngần ngại ca sáu câu vọng cổ có mùi bắt đầu bằng những chữ :
- Hiền thê ơi…Ái khanh lòng ta hỡi.
Nhưng khi tình yêu đã bị xuống cấp, nhất là trong những lúc nóng nảy, thượng cẳng chân hạ cẳng tay mí nhau, thì anh chồng không ngần ngại tuôn ra những lời “hàng tôm hàng cá” để mà phang chị vợ một trận tơi bời hoa lá cành :