"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Dothái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Dothái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được ?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là Lời Chúa.
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao ? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu ?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". - Ðó là Lời Chúa.
"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa". - Ðó là Lời Chúa.
Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa 2/11-151
Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô.
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất- mầu nhiệm cứu độ : Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ.Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể,đã sinh ra,đã chết,đã sống lại,lên trời ngự bên hữu Chúa Cha,và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ.Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm :
– Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người: “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.
– Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ: “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.
Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là “một đoàn người đông đảo, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ”. Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta.
Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa tốt lành.
Các Thánh Nam Nữ là những người đã thực hiện những điều mà Thánh Phanxicô Assidi dệt thành Kinh Hòa Bình:
Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể: “Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên… Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn” (Kh 7,2-4). Con số “một trăm bốn mươn bốn ngàn” chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. “Một trăm bốn mươn bốn ngàn” trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad…không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: “tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế” (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời”.
Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân tộc.
Bí quyết nên thánh
Thánh Gioan viết: “Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao” (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa : “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài : “Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa… Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,15-17).
Các Thánh “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”. Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại.Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện,luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực.
Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người. (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu… Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi “qua đau khổ đến vinh quang”.
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”.
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội phong thánh để tôn vinh Thiên Chúa và khuyến khích chúng ta noi theo gương sống của Các Thánh.
Ơn gọi lớn nhất của con người là nên thánh
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11.3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.
Trong Năm Phụng Vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo hội tôn kính tất cả các vị Thánh, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ MARIA ở Einsiedeln bên Thụy Sĩ vào ngày Lễ Nến 2/11-152
Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ MARIA ở Einsiedeln bên Thụy Sĩ vào ngày Lễ Nến mùng 2 tháng 2 năm 1968. Đền thánh rất được các tín hữu Công Giáo năng lui tới kính viếng, hành hương.
Nhưng ngày mùng 2 tháng 2 năm 1968 là một ngày trong tuần và trời mùa đông thật lạnh. Đền thánh vắng vẻ không một bóng người. Bà Aloisia Lex đến viếng đền thánh cùng với mấy người bà con. Đang quỳ cầu nguyện, bỗng bà đưa mắt nhìn lên bàn thờ chính và trông thấy một Nữ Tu cao tuổi đang đứng đó. Nữ Tu mang y phục đan sĩ nhưng y phục trông thật cổ xưa như thuộc về mấy thế kỷ trước. Bà Aloisia liền tiến về phía Nữ Tu và được Chị trao cho một tờ giấy Kinh. Bà nhận lấy và lơ đãng bỏ vào túi. Cùng lúc ấy, một hiện tượng lạ lùng diễn ra. Cửa nhà thờ bỗng mở toang và bà Aloisia trông thấy một đoàn ngũ tín hữu hành hương, đông vô kể, tiến vào nhà thờ. Các tín hữu ăn mặc thật nghèo nàn, và chân đi lướt trên mặt đất, giống như những bóng ma. Đoàn tín hữu hành hương dài như bất tận cứ tiếp tục nối đuôi nhau tiến vào nhà thờ. Trong nhà thờ, có một vị Linh Mục đang đứng đó và hướng dẫn cho các tín hữu biết phải đi đâu.
Trông thấy đoàn tín hữu đông vô kể bà Aloisia tự hỏi:
– Làm sao đền thánh nhỏ bé lại có thể chứa hết một đoàn người hành hương đông đảo đến như thế?
Vừa thắc mắc tự hỏi bà vừa quay mặt đi hướng khác, trong khoảnh khắc bằng thời gian thắp lên một ngọn nến. Nhưng khi nhìn lui thì bà lại thấy nhà thờ trống trơn, vắng vẻ y như trước!
Lòng đầy kinh ngạc, bà Aloisia Lex chạy đến hỏi những người bà con thì họ cho biết là không trông thấy một ai kể cả vị Nữ Tu cao tuổi! Bà Aloisia bối rối không biết mình mơ hay thật. Nhưng khi cho tay vào túi thì bà lại rút ra tờ giấy Kinh mà vị Nữ Tu đã trao cho bà. Tờ giấy Kinh là bằng chứng bà không mơ! Đây là lời Kinh do chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã dạy thánh nữ Mechtilde đọc, trong một lần Ngài hiện ra với thánh nữ.
Thánh nữ Mechtilde (1241-1299), người Đức, được đặc ân trông thấy Đức Chúa GIÊSU hiện ra nhiều lần. Và một trong những lần hiện ra ấy, Đức Chúa GIÊSU dạy cho chị Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục.
Tiếp đó, cứ mỗi lần đọc Kinh LẠY CHA này, thánh nữ Mechtilde lại trông thấy đông đảo các Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục được Chúa rước về Trời. Sau đây là Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Hình.
Lạy CHA chúng con ở trên Trời.
Con cầu xin CHA, lạy CHA Thiên Quốc, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không yêu mến CHA đủ, cũng không tôn vinh CHA cân xứng, đúng với địa vị của CHA, Đấng vừa là CHÚA vừa là CHA, đã vì lòng nhân lành mà nhận các Linh Hồn làm con của CHA. Trái lại, các Linh Hồn vì phạm tội mà xua đuổi CHA ra khỏi lòng họ, nơi mà CHA vẫn hằng mong muốn ở lại.
Để đền bù các lỗi phạm này, con xin dâng CHA tình yêu và lòng kính trọng mà Con CHA nhập thể, đã bày tỏ cùng CHA, suốt thời gian sống tại thế. Con cũng xin dâng CHA mọi việc hãm mình, mọi đền bù mà Con CHA đã làm và chính nhờ các việc lành này mà Con CHA tẩy xóa và chuộc đền các tội lỗi của loài người. Amen.
Chúng con nguyện danh CHA cả sáng.
Con nài van CHA, lạy CHA Chí Lành, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tôn vinh danh thánh CHA cách cân xứng. Các Linh Hồn đã nhiều lần gọi tên CHA cách bất cẩn và đã làm ô danh tên gọi Kitô-hữu bằng đời sống bất xứng của mình.
Để đền bù tội lỗi các Linh Hồn đã phạm, con xin dâng lên CHA mọi danh dự mà Con Chí Ái CHA đã làm cho danh CHA được cả sáng, bằng lời nói và bằng việc làm, suốt trong thời gian tại thế của Con CHA. Amen.
Nước CHA trị đến.
Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tìm kiếm cũng không hề ước mong cho Nước CHA trị đến, ước mong với lòng nhiệt thành và chú tâm đến Nước CHA, là Nước duy nhất nơi được an nghỉ đến muôn đời.
Để đền bù cho sự hờ hững làm việc lành của các Linh Hồn, con xin dâng lên CHA niềm mong ước dạt dào của Con Chí Thánh CHA, Ngài không ngừng cầu mong cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục được mau mau vào hưởng hạnh phúc trong Nước của Ngài. Amen.
Ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời.
Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn đặt ý muốn của họ dưới thánh ý của CHA; họ đã không chu toàn thánh ý CHA trong mọi sự và rất thường khi, họ chỉ sống và hành động theo ý muốn của họ mà thôi.
Để đền bù cho sự bất tuân của các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, con xin dâng lên CHA sự thuần thục hoàn hảo của Trái Tim đầy tình yêu của Con Chí Thánh CHA đối với thánh ý CHA và sự tuân phục sâu xa nhất mà Con CHA bày tỏ cùng CHA khi Con CHA vâng phục CHA cho đến chết trên Thánh Giá. Amen.
Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.
Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể với lòng ao ước đủ; các Linh Hồn cũng thường nhận lãnh Bí Tích này với sự lo ra chia trí và không có lòng mến, hay đôi lúc còn dám nhận lãnh cách bất xứng, hay tệ hại hơn nữa, đó là chểnh mãng trong việc nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể.
Để đền bù mọi tội lỗi trên đây mà các Linh Hồn đã vấp phạm, con xin dâng lên CHA sự thánh thiện cao cả và sự trầm mặc lớn lao của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Chúa chúng con, Con Chí Thánh CHA, cũng như tình yêu nhiệt thành mà qua đó Đức Chúa GIÊSU đã ban cho chúng con hồng ân khôn sánh này là bí tích Thánh Thể. Amen.
Xin CHA tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con.
Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vì đã vấp ngã phạm bảy mối tội đầu, cũng như không muốn yêu thương cũng chẳng tha thứ cho kẻ thù của mình.
Để đền bù cho mọi tội lỗi trên đây, con xin dâng lên CHA lời kinh đượm đầy tình yêu mà Con Chí Thánh CHA đã thân thưa cùng CHA, xin CHA thứ tha cho kẻ thù của Ngài, lúc Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá. Amen.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.
Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì, rất thường khi các Linh Hồn đã không chống trả lại các cơn cám dỗ và các dục tình nhưng đã đi theo kẻ thù của điều lành và đã chìu theo các quyến rũ của xác thịt.
Để đền bù cho các tội lỗi trên đây dưới mọi hình thức mà các Linh Hồn nơi Luyện Ngục đã phạm, con xin dâng lên CHA chiến thắng vinh quang mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ Chúa chúng con đã chiến thắng trên thế gian này, cũng như đời sống rất thánh thiện, việc làm và những lao cực, sự đau khổ và cái chết nhục nhã của Ngài. Amen.
Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA hãy giải thoát chúng con khỏi mọi biến loạn, nhờ công nghiệp của Con Chí Ái CHA và xin dẫn đưa chúng con, cũng như dẫn đưa các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vào trong Nước CHA, Nước của vinh quang vĩnh cửu, giống y như CHA vậy. Amen.
Có ai trong chúng ta sợ quỷ ma đến độ đi ngang qua một cái Miểu hay cái mồ mả nào đó thì 2/11-153
Có ai trong chúng ta sợ quỷ ma đến độ đi ngang qua một cái Miểu hay cái mồ mả nào đó thì một … hai nhanh chân mà phóng cho thật lẹ như thuở chúng ta còn trẻ, rất thường thấy trên con đường dài mà ít có bóng người tới lui, qua lại? Rồi thì hình ảnh ấy đã ăn sâu, đã ám ảnh chúng ta đến mãi tận bây giờ?.
Chúng tôi biết có rất nhiều người bị ám ảnh hình ảnh ma quái do hồi nhỏ bị người lớn luôn dọa nạt, nhát ma, kể chuyện ma và bắt nhốt chúng con nít ở những phòng hay nơi tối tăm không một chút có tia ánh sáng. Quả là chuyện thật dại khờ khi người lớn lại đi dậy con nít cách dọa nạt ấy làm chúng lớn lên bị nhát đảm, luôn sợ bóng tối, không thể tẩy xóa đi được những hình ảnh ma quái ghê rợn đến dựng tóc gáy, cho chúng coi phim ma và đã làm ảnh hưởng trầm trọng đến thần kinh của chúng đến suốt cuộc đời.
Nhưng ảnh hưởng nhiều nhất là khi về già những người này họ không dám nghĩ đến chuyện phải vào Nhà Thương hay Viện Dưỡng Lão và suốt đời của họ không dám ngủ một mình mà không có ai bên cạnh. Nhân tháng các Linh Hồn ngoài sự cầu nguyện, xin Lễ, làm việc bác ái chúng ta cũng nên nghĩ đến Linh Hồn sống đời của chính mình.
Là chớ có chểnh mảng, chớ có biện hộ này nọ vì sự lười biếng của chúng ta. Nếu chúng ta biết kỷ luật cho chính mình ở những việc không quan trọng như cái ăn, cái uống, cái ăn mặc và sắm sửa trong cuộc sống ngày lại ngày …. Mà không tự cho mình kỷ luật sắt để gìn giữ Linh Hồn của mình thì có phải chúng ta sống khôn ngoan hay không?.
Chúng ta biết sống chìu chuộng cho cái thân xác hay chết này ở cuộc sống trần gian là nơi chỉ cho ta cuộc sống tạm bợ trong khi chúng ta lại lơ là Linh Hồn sống đời là giống thiêng liêng chẳng hề chết được, cách rất hờ hững, thờ ơ tạm bợ. Trần gian là nơi cho rất nhiều người sự phấn khởi, xúc tích, mau mắn, nhanh nhẹn để tìm gặp nhau trong những đám tiệc, đám sinh nhật, đám cưới, đám giỗ …. Vâng, ngay cả đám tang miễn là nơi nào cho con người ăn uống và nhậu nhẹt.
Còn khi nhắc đến Thánh Lễ hằng tuần, đọc kinh Mân Côi, những ngày Lễ buộc và Lễ trọng thì chúng ta lần lửa, trễ nãi, hay lười không muốn đi. Tránh phải Xưng Tội, Rước Lễ và tìm mọi thoái thác để khỏi tìm đến với Chúa bởi vì chúng ta luôn sống trong tội?. Thưa ấy là chuyện đời thường của con người mà. Có phải chúng ta hết thảy chỉ chạy đến Chúa và cần cầu cứu Người khi tánh mạng của chúng ta không được bảo đảm được an toàn bởi những tai nạn xẩy ra cách bất ngờ?.
Thưa thế thì sợ không còn kịp thưa anh chị em, tuy ai cũng hiểu rằng lượng từ bi của Chúa thì không ai nên thắc mắc vì lòng thương xót của Chúa dành cho tất cả con cái Người nếu ai ở giờ chót còn biết kêu nài đến lòng thương xót Chúa như người trộm lành đã được Chúa hứa với ông là “Ngay ngày hôm nay ngươi sẽ được lên Trời cùng ta”.
Nhưng không phải thế mà chúng ta lợi dụng lòng thương xót của Ngài để sống phụ lòng Chúa và phụ lòng người thế sao?. Ai không biết sợ lửa của Luyện Ngục thiêu đốt, sợ bị tù đày không biết đến ngày nào được ra?. Nghe rằng lửa ở đấy nóng hơn lửa của trần gian đến bội phần và thời gian cũng dài vô tận so với thời gian ở trần gian này.
Nghe nói sự đau đớn và những tiếng kêu than thảm thiết lắm của các Linh Hồn là bởi sự chờ đợi để được lên Trời sống với Thiên Chúa vì đã thấy được hình ảnh uy nghi đẹp đẽ vô cùng của Người ở ngai tòa phán xét ngay khi hồn lìa khỏi xác. Điều này đã luôn dằn vặt các Linh Hồn cách đau đớn tột cùng mà ngay cả thiên thần bản mệnh cũng không có thể giúp gì được cho họ cả!.
Để Linh Hồn chúng ta có cơ hội được sống đời thì chúng ta nên tập cho được sống trong khiêm nhường, nhịn nhục, chịu đựng, chia sẻ trong mọi công việc bác ái. Rồi thì luôn thờ phượng Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Tin tưởng, giao phó tất cả, dâng tất cả cho Người định liệu thì chắc chắn mọi Linh Hồn chúng ta sẽ được Chúa yêu thương, giữ gìn xác hồn, và giúp chúng ta xa tránh được mọi dịp tội.
Rồi thì khi chúng ta lìa trần thì các Linh Hồn mà chúng ta giúp đỡ họ được Về Trời nay cũng sẽ giúp lại cho chúng ta là đến ở ngay bên giường đến khi chúng ta trút hơi thở ở cuối đời. Ôi đẹp làm sao nếu ai nấy biết chuẩn bị cho Linh Hồn của chính mình khi đang còn sống! Do đó chúng ta nên cố gắng hơn nữa để làm tất cả khi chúng ta còn có thể để mai sau Thiên Đàng là Nơi mà chúng ta tin tưởng tuyệt đối là sẽ được Đến Ở và Sống hạnh phúc đến muôn đời sau. Amen.
Thiết nghĩ trong chúng ta có rất nhiều người Chúa ban cho Ơn riêng như yêu mến và quan tâm 2/11-154
Thiết nghĩ trong chúng ta có rất nhiều người Chúa ban cho Ơn riêng như yêu mến và quan tâm đến tất cả các Linh Hồn đã qua đời; nhiều nhất vẫn là linh hồn các Thai Nhi và linh hồn Mồ Côi. Lý do rất đơn giản vì họ là những linh kồn không còn có cơ hội làm gì được để thêm phần Phúc khi họ đang ở Luyện Ngục kêu than, tiếc nuối, hối tiếc, và hối hận vì khi còn sống họ đã không biết để chuẩn bị cho Linh Hồn sống đời của họ.
Do đó chúng ta nên bác ái nhiều hơn nữa cho những Linh Hồn hiện đang phải đền bù tội lỗi của họ để khi họ được lên Thiên Đàng, chắc chắn họ sẽ cầu thay nguyện giúp giùm cho chúng ta khỏi những sự dữ có thể xảy đến vì Thiên Chúa cho phép họ làm được vậy!. Có hai hình ảnh mà chúng ta đã thấy được từ khi còn rất bé đó là một hình của người mắc tội trọng đã bị quỷ ma đến bên giường quấy rầy, kéo chân kéo cẳng, và túc trực chờ khi ông tắt thở là chúng kéo ông ngay đến Hỏa Ngục.
Còn một tấm hình kia là của một người sống rất ngoan đạo khi còn sống ông đã biết sống đẹp lòng Chúa, đẹp cho người và đẹp cho đời nên khi sắp chết thì có nhiều linh hồn anh chị em đã đến bên giường mà gìn giữ linh hồn của người đang hấp hối! Là vì khi còn sống người ấy đã biết luôn cầu nguyện và xin Lễ Misa cho các linh hồn đã qua đời và để đáp trả thì họ đã đến để giúp lại. Ngoài chuyện trên chúng ta cũng đọc biết là những linh hồn sau khi được Về Trời họ vẫn luôn cầu thay nguyện giúp cho chúng ta tránh được những cám dỗ, cạm bẫy của cuộc đời, tai nạn, và mọi hình thức của quỷ ma giăng mắc.
Bác ái thay hằng năm chúng ta cố gắng xin Lễ Misa cho các linh hồn nơi Luyện Ngục là để cho chúng ta luôn được nhờ bởi họ cách lợi ích, cách nhãn tiền, và có kết quả nhất như những chuyện mà các linh hồn đã trả ơn cho những ai cầu nguyện và xin Lễ cho họ. Nếu trong chúng ta ai có được Ơn Chúa ban là hằng khắc khoải, quan tâm, lo âu cho các linh hồn hiện đang còn đền tội lỗi trong Luyện Ngục xin thường dự Thánh Lễ, cầu nguyện, dâng kinh Mân Côi, ăn chay hãm mình, xưng tội, Rước Lễ cùng các việc làm bác ái khác.
Chúng ta ai thường nằm mơ thấy có người đã chết gặp họ trong giấc mơ, xin hãy cầu nguyện liền cho họ. Trong gia đình thì chúng ta nên rộng rãi xin nhiều Thánh Lễ cho họ cùng những linh hồn của ai đó mà chúng ta quen biết thân hay sơ. Vâng, ngay cả những hồn ma còn lởn vởn đang ở nơi chúng ta làm việc!.
Thật sự là khi chúng ta cầu nguyện, đọc kinh, xin Lễ cho hết thảy các linh hồn ở Luyện Ngục là chúng ta đang làm việc bác ái cho chính mình đấy chứ, thưa có phải? Để như mai này chúng ta vì bất cứ lý do nào không còn tự lo cho mình thì họ sẽ luôn vẫn giúp đỡ phần hồn của chúng ta. Như chúng ta làm điều gì tốt cho người thì cái tốt ấy nó sẽ trở lại với ta; chẳng mất đi đâu cả! Như Chúa dậy chúng ta là hãy luôn sống rộng rãi chớ hà tiện và luôn yêu thương thì Nước Trời thật không còn xa tầm tay với lắm đâu!!!!.
Giả như hết thảy chúng ta ai cũng nghĩ được và sống được như kinh Lạy Cha Chúa dậy là “Hằng 2/11-155
Giả như hết thảy chúng ta ai cũng nghĩ được và sống được như kinh Lạy Cha Chúa dậy là “Hằng ngày dùng đủ” thì có đâu những tai họa có mà xảy ra hằng ngày nhỉ!. Cũng tại chúng ta ai cũng vói cao quá mà tài năng và khả năng thì lại quá giới hạn nhưng luôn muốn cho được bằng chị bằng em nên cuộc sống gần giống như con Thiêu Thân vậy và lỡ “Phóng lao thì phải theo lao” thôi!.
Có được một nhà thì cảm thấy chưa đủ phải muốn có hai. Một cái để ở, một cái để cho mướn. Có một chiếc xe cảm thấy chưa đủ, phải muốn có được 2, 3 chiếc khác nhau. Một chiếc để đi làm, một chiếc để lái đi chơi, và một chiếc để làm kiểng trước nhà cho oai. Có một vợ cảm thấy chưa đủ, cần phải có thêm 2,3 bà. Một bà là vợ, một bà để chỉ đi ăn chơi và đi nhẩy đầm, còn bà thì để làm người tình, v.v….
Nhìn quanh chẳng thấy ai lo lắng gì cho linh hồn và cuộc sống đời sau của mình cả! Chỉ những khi rất thỉnh thoảng chúng ta phải bị đi dự những Lễ Đám Tang của ai đó mới cho chúng ta chút suy nghĩ về cái chết nhưng không lâu chúng ta cần phủi nhanh đi cái suy nghĩ xui xẻo và tầm phào ấy vì chúng ta chẳng muốn nó ám ảnh chúng ta dù chỉ thời gian ngắn ngủi. Càng nông nổi khi nghĩ rằng sức mấy mà chúng ta lại chết được ở cái tuổi đang xanh thơm, đang tràn đầy nhựa sống!?.
Cuộc đời là bể khổ nên ai nấy khi có dịp là phải mở party, tổ chức ăn nhậu, nhẩy đầm, để được say túy lúy say mèm. Vâng, ngay cả lợi dụng ở những ngày Lễ Giỗ của ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, v.v…. Y như trong chuyện mấy anh phú hộ giầu có và anh Lazaro nghèo ghẻ chốc xưa.
Cũng rất hay khi Giáo Hội Công Giáo chúng ta đã để ra hẳn một tháng 11 trong năm để cầu nguyện cho tất cả các linh hồn đã qua đời, hiện đang đền tội ở Luyện Ngục và là dịp để tất cả chúng ta sống dọn mình, kiểm điểm lại đời sống, thay đổi, ăn chay hãm mình, và Trở Về cùng Chúa; nếu không liệu linh hồn chúng ta có được Cứu Rỗi?.
Cũng hay không kém là ở nước Mỹ và nhiều nước ở Âu Châu tổ chức ngày ma quỷ (Halloween) hằng năm ở ngày cuối cùng của tháng 10, trước khi bước vào tháng 11 là tháng cầu cho các linh hồn. Để nhắc nhở và để như dọa sợ chúng ta rằng đừng sống trong bê tha tội lỗi mà mai này chúng ta sẽ thấy những hình ảnh ghê rợn như thế ở Hỏa Ngục muôn đời.
Chúng tôi thường hay nghe rất nhiều người trẻ cũng như già than thở là họ có ngày rộng tháng dài chẳng biết làm gì cho đỡ buồn chán cho qua thời giờ?. Nên trẻ thì chúng lao vào con đường của hút cần xa, ma túy, rồi chích những thứ có tác hại đến ghê rợn người. Chúng lao vào vòng lao lý, trai gái luông tuồng. Tội lỗi nhất là chúng giết bao nhiêu thai nhi vô tội vì chúng không muốn các bào thai ấy chào đời, v.v….
Già thì về VN tìm đào nhí, vợ trẻ, gồm các tội luyến ái với những trẻ em đáng tuổi con tuổi cháu của họ mà nghĩ rằng họ chẳng làm gì nên tội vì họ “Ăn bánh có trả tiền xòng phẳng mà!”. Ấy cái xã hội của mọi thời đại thì luôn là vậy chỉ khác nhau là thời thì xưa cổ còn thời thì quá văn minh hiện đại.
Nhìn thấy người mà lại ngẫm nghĩ đến ta …. Chỉ biết khiêm tốn gục đầu, đấm ngực ăn năn như ông Thu Thuế tội lỗi xưa đã làm, đã thân thưa cùng Chúa ông rằng “Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Hy vọng hết thảy chúng ta là con cái Chúa luôn ý thức được đâu là Phúc và đâu là Tội để sống như ngày mai ta không còn nữa; có nghĩa sống ngày qua ngày được cách trọn vẹn cho Chúa, cho mình, cho gia đình và anh chị em …. Như hai Giới Răn Chúa dậy là Kính Sợ một Thiên Chúa duy nhất và yêu người như yêu chính mình ta vậy! Amen.
Thường chúng ta ghét nhất là sự chờ đợi dù sự chờ đợi hầu hết luôn là tốt cho chúng ta. Như 2/11-156
Thường chúng ta ghét nhất là sự chờ đợi dù sự chờ đợi hầu hết luôn là tốt cho chúng ta. Như chờ đợi có được điểm thi, chờ đợi baby chào đời, đợi ngày được lên chức (Linh Mục), khám nghiệm và kết quả thử máu, ngày Ra Trường, đợi chờ chồng trong quân đội được trở về với gia đình trong những ngày Lễ Giáng Sinh. Chờ cho đủ tuổi để được nên vợ nên chồng, thi lấy bằng lái xe và bao nhiêu sự chờ đợi khác, thưa có phải?.
Nhưng tất cả cũng không sao so sánh cho bằng là sự chờ đợi của các linh hồn nơi Luyện Ngục, khao khát được về Trời khi mà tất cả con cái của Người đã được một lần diện kiến Thiên Chúa ở Ngai Tòa Phán Xét, liền sau khi hồn lìa khỏi xác. Chúng ta ai cũng dầy kinh nghiệm bao nhiêu lần phải chờ đợi trong cuộc đời. Có những chờ đợi khiến chúng ta biến từ nôn nóng, vui mừng khấp khởi, yêu đời cho đến lúc đổi thành sốt ruột vì đợi quá lâu!?.
Để hiểu rằng sự chờ đợi nào ở Trần Gian cũng là nhoài người, hao tổn sức khỏe, và kiệt sức thì chúng ta hãy nhân lên gấp ngàn lần sự chờ đợi để được lên Trời Ở cùng Thiên Chúa viên mãn, đối với những ai hiện giờ đang ở Luyện Ngục. Hiểu biết thế thì chúng ta ai còn đang sống đây còn chần chờ gì nữa mà không chuẩn bị cách tích cực hơn cho linh hồn sống đời của mình, ngay liền bây giờ nhỉ!. Chúng ta ai cũng hiểu rằng Lửa ở Luyện Ngục có sức nóng gấp ngàn lần cái Lửa ở Trần Gian. Thời giờ cũng lâu dài gấp ngàn lần thời giờ ở Trần Gian này!.
Nên những gì chúng ta có thể làm được ở Trần Gian này ngay liền bây giờ, ngay tại lúc này, thì hãy làm cách tích cực đi để chúng ta sẽ không bị đau khổ chờ lâu khi hết thảy chúng ta sẽ lần lượt đến Luyện Ngục để đền bù tội lỗi, từng tội, từng hình phạt chúng ta đã phạm.
Cái đáng lo ngại nhất là khi chúng ta đến Đó rồi thì thời gian rộng và dài lắm lắm!. Tuyệt đối là chúng ta không thể làm gì thêm ở Luyện Ngục mà không là giống như những tên tội hình bị lãnh án tù chung thân. Trong rên rỉ, than khóc, tỉ tê, hối tội, tiếc nuối, v.v…. Trong sự vô dụng như những kẻ ăn mày, ăn xin trên Trần Gian chờ đợi người có lòng tốt bố thí cho những Lời Cầu Nguyện, xin Lễ, và các việc làm bác ái. Chỉ có thế thì các linh hồn mồ côi mới có cơ hội được Chúa Mẹ thương mà ban cho Về Trời cách nhanh chóng hơn.
Trần Gian thì luôn níu kéo, xúi dục chúng ta sống chểnh mảng đến đỗi chẳng bao giờ thấy có ai suy nghĩ để chuẩn bị cho phần Hồn và cuộc sống vô cùng Hạnh Phúc ở Đời Sau cả!. Có vô lý lắm không khi mà Trần Gian suy nghĩ cho cùng thì Nó chẳng cho ai có được hạnh phúc đích thực nhưng ai ai cũng rất chịu khó và vui vẻ đứng xếp hàng để được đi trên con đường dẫn đến sự “chết” muôn đời ấy!.
Buồn cười và vô lý nhất là con người chúng ta chịu khó đứng xếp hàng hằng giờ, hằng ngày, hằng mấy ngày trước; với mền cá nhân, áo lạnh, ghế để đóng cọc trước cửa hiệu để chực chờ mua được cái phôn mới ra trong vui vẻ, trong háo hức???. Rõ thật khổ ….. Như Thánh Phao-Lô trở lại thân thưa với Chúa ông rằng “Những điều tốt lành thì con lại không thích làm mà chỉ thích phạm tội làm mất lòng Chúa”. Thế mới hiểu rằng Con Đường về Nhà Chúa thật là khó khăn lắm thay!.
Chứ con đường dẫn đến Hỏa Ngục thì nó rộng thênh thang, thoải mái đến không cần phải suy nghĩ như trong chuyện hoạt hình con nít “Thằng người gỗ Pinnochio” nổi tiếng của Mỹ. Chỉ đến khi chúng ta đến gần Cửa của Hỏa Ngục thì mới giật mình thất kinh vì cái nóng kinh hoàng được tỏa nhanh và hình ảnh của Hỏa Ngục dần thấy thật rõ, thật khủng khiếp …. Nhưng chẳng ai còn kịp để thoát thân nữa rồi như những con ruồi mà chân bị dính cứng vào màng nhện của nó.
Có rất nhiều người trong chúng ta đang ở cái tuổi gần đất xa trời nhưng cũng chưa có thể buông bỏ được của cải của Trần Gian tuy dù hiểu rằng cuộc đời của chính mình cũng giống như “sợi chỉ treo mành”. Ấy khó lắm để cho một con người có thể buông bỏ được những gì mà họ tậu được trong suốt cả cuộc đời của họ!?. Do đó mà chúng ta khi còn trẻ chớ có nên tham lam để tích trữ, gom góp, vơ vét, lấy của người làm của mình kẻo chết ăn năn tội chẳng kịp. Không ai đạo đức giả lại bảo rằng sự buông bỏ là dễ dàng đâu vì nhìn chung quanh chúng ta mà xem ai mà không học để tích góp chớ? Vì Trần Gian dậy chúng ta làm thế mà!. Chẳng những con người có tánh lo xa mà ngay cả động vật hay côn trùng chúng cũng làm thế như con kiến, con ong, v.v….
Điều kiện là chỉ cần chúng ta có lòng muốn được buông bỏ và muốn được Trở Về cùng Chúa thì mọi sự mọi điều Chúa sẽ làm trên chúng ta để được theo thánh ý Chúa. Chỉ cần chúng ta chạy đến xin cùng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa thì không lâu Ơn Chúa và tình Mẹ sẽ giúp chúng ta Từ Bỏ được để ngày Ra Đi của chúng ta sẽ rất thong thả và nhẹ nhàng vì còn ít tội. Không những Thiên Chúa Người giúp chúng ta Từ Bỏ được tất cả mà Người còn dùng chúng ta như Khí Cụ thật hữu ích và hữu dụng cho Chúa và cho tất cả anh chị em. Amen.
Có nhiều cách ra đi: ồ ạt ra đi, lần lượt ra đi, tuần tự ra đi, nối bước nhau ra đi,… Ra đi vì 2/11-157
Có nhiều cách ra đi: ồ ạt ra đi, lần lượt ra đi, tuần tự ra đi, nối bước nhau ra đi,… Ra đi vì bổn phận, ra đi vì bị bắt buộc, ra đi vì bị sa thải, ra đi vì cảm thấy mình thừa, ra đi vì “quê độ”, ra đi vì thua cuộc, ra đi vì giận hờn, ra đi vì bực tức, ra đi vì “chảnh”, ra đi vì kiêu kỳ, ra đi vì xấu hổ, ra đi vì mặc cảm, ra đi để tránh né, ra đi để chạy trốn, ra đi vì tự ái, ra đi vì lợi ích của người khác, ra đi để làm điều xấu xa,… Rất đa dạng. Một dạng “ra đi” đặc biệt nhất là… CHẾT.
Ra đi kiểu nào cũng cần dứt khoát, để rồi không phải hối tiếc. Bước chân đi cấm kỳ trở lại, cũng y như trong cờ tướng: Hạ thủ bất hoàn!
Mùa Thu đẹp nhiều vẻ, lại còn đầy chất lãng mạn. Mùa Thu có thể là khởi-đầu-sự-sống như cây cối thay lá để đâm chồi nảy lộc mới, nhưng mùa Thu cũng có thể là kết-thúc-sự-sống như lá vàng rụng xuống. Và người ta vẫn thường gom lá khô để đốt… Mùa Thu thường là cõi buồn, nhưng mùa Thu vẫn có thể là miền vui thực sự.
Trong bài thánh ca “Giọt Lệ Trong Lời Kinh”, Lm Ns Văn Chi có nhắc tới mùa Thu qua lời tâm sự: “Những mùa thu đã tới, những mùa thu qua đi. Con van xin Ngài làm con chiên ngoan đạo, dù những mùa thu héo hắt, góp từng cơn gió heo may, lá úa tàn theo gió bay… Những hạt kinh thắm thiết đắm chìm trong thu sang, mênh mông diệu huyền, là giấc mơ hiền hòa. Dù những mùa thu đến mãi, vượt qua cõi không gian, tiếng kinh con nguyện cầu là tâm tư đời hiến dâng”.
Ai cũng được Thiên Chúa cứu thoát khỏi vòng kim cô tội lỗi, được tái sinh, thế nên ai cũng phải hiến dâng trọn cuộc đời cho Ngài, khao khát Ngài không ngừng: “Con van xin yêu Ngài, làm con chiên ngoan đạo. Con van xin yêu Ngài, dù thu đến hay đi. Con van xin yêu Ngài, dù đời bao giông tố. Thu sang con nguyện cầu, nguyện dâng chút tình thơ”. Ước mơ đó cũng là lời đoan hứa, mà hứa rồi thì phải giữ trọn lời thề bằng mọi giá!
Những chiếc lá vàng rơi rụng đầy mùa Thu, gợi nhớ thân phận cát bụi rồi sẽ về cát bụi, chẳng chóng thì chầy, không ai tránh khỏi. Thấy người đi trước, nhớ mình sẽ đi sau, cùng theo nhau vào cõi vĩnh hằng.
Mùa Thu luân phiên và cứ nối tiếp nhau. Người ta càng nhiều tuổi đời thì càng trải qua nhiều mùa Thu. Ns Trịnh Công Sơn “nhìn những mùa thu đi” và thốt lên: “Nhìn những mùa thu đi, em nghe sầu lên trong nắng, và lá rụng ngoài song, nghe tên mình vào quên lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng”. Chưa hết, ông còn tâm sự thêm: “Nhìn những lần thu đi, tay trơn buồn ôm nuối tiếc,… Gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè… Rồi mùa thu bay đi…”. Cái buồn liên quan sự đau khổ, cô độc, chết chóc,… Đó là sự-thật-minh-nhiên thôi!
Sự ra đi nào cũng có tiến độ khác nhau, với mức độ phức tạp riêng, mỗi cách mỗi vẻ…
– Một người bị quỷ ám ở Ghê-ra-sa, sau khi được Chúa Giêsu trừ quỷ và bắt quỷ nhập vào đàn heo 2.000 con khiến chúng lao xuống biển, anh ta “ra đi” và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh (Mc 5:1-20).
– Khi đi truyền giáo, Chúa Giêsu dặn các môn đệ rằng hễ nơi nào người ta tiếp đón thì ở lại, có gì ăn nấy chứ đừng đòi hỏi, còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ (Mc 6:11). Cách “ra đi” này hay thật đấy!
– Khi một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình, người Pharisêu tố cáo và muốn ném đá chị. Nhưng Đức Giêsu thản nhiên bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 2:7). Nghe Ngài nói vậy, mọi người cứ theo nhau “ra đi” có trật tự, người đầu bạc đi trước, kẻ tóc xanh theo sau. Họ “ra đi” trong âm thầm lặng lẽ vì biết mình “bẩn”, tội lỗi cũng lút cổ, ngập đầu, vì càng sống thọ thì tội càng chồng chất!
– Chúa Giêsu “ra đi” theo như lời đã chép về Ngài (Mt 26:24; Mc 14:21) vì lợi ích cho muôn sinh linh, còn ông Giu-đa “ra đi” để cấu kết với kẻ xấu làm điều khuất tất, rồi lại “ra đi” mà thắt cổ vì xấu hổ và mặc cảm!
– Ngày Phán Xét, những kẻ-không-xót-thương-tha-nhân “ra đi” để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính “ra đi” để hưởng sự sống muôn đời (Mt 25:46). Hai cách ra đi hoàn toàn khác nhau!
Phàm nhân thật phức tạp và tự mâu thuẫn: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Nhân loại là thế, yếu đuối và mong manh như lại vô cùng nhiêu khê!
Theo Nho học (Việt Nho, chứ không Hán Nho), “con người” được gọi là “Thiên Địa chi đức, Âm Dương chi giao, Quỷ Thần chi hội” – con người là cái đức, là tinh hoa của Trời Đất, là nơi giao hòa của Âm Dương, và cũng là nơi gặp gỡ của Qủy Thần.
a. Con người là tinh hoa của Trời Đất nên con người linh hơn vạn vật, nhờ yếu tố vô biên là Thời gian nên có khả năng tiến hóa và trường tồn, thế nên con người được gọi là “nhân linh ư vạn vật”.
b. Con người là nơi giao hòa của Âm Dương hoặc Trời Đất, hai đối cực ở trạng thái cân bằng, nên con người phải tự lực và tự cường để giữ vị thế tự chủ, gọi là “nhân chủ”, và nhất là luôn giữ được thế cân bằng, nghĩa là nên biết “dĩ hoà vi qúy”. c. Con người là nơi giao hội của Qủy Thần, thế nên con người rất dễ sa ngã. Muốn là tinh hoa của Trời Đất thì phải biết “vi nhân” (làm người), vì con người “đang hình thành” mà thôi, nếu bỏ “vi nhân” thì “lang sói” dành mất chỗ danh dự.
Chỉ có “Sự Thật” mới khả dĩ giải phóng chúng ta (Ga 8:32) để có được sự tự do đích thực, vì “Thiên Chúa là Thần Khí, ở đâu có Thần Khí thì ở đó có tự do” (2 Cr 3:17).
Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8 & 16), có Ngài thì không còn lo sợ bất cứ thứ gì, không phải “chạy theo” những “sự lạ”. Phép lạ vẫn xảy ra hằng ngày, nhưng người ta thích “khoe” được ơn này ơn nọ, chưa hẳn là vì thành kính mà loan báo về Chúa, đôi khi lại là một dạng “nổ” mà thôi! Bám giữ được Chúa Giêsu thì chẳng còn phải “phân tâm” chi cả, như Thánh Phaolô cảm nhận: “Sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:21). Chết là lúc “mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:30).
Thánh Phaolô rất an tâm khi xác định: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2:11). Khi có người từ biệt cõi đời, chúng ta thường nói là “được Chúa gọi về”. Sao lại buồn khi “được Chúa gọi về” chứ? Chết là “hân hoan về Nhà Cha” kia mà! Vậy thì chẳng có gì lo buồn mà phải “chia buồn” hoặc “thành kính phân ưu”. Thực sự có Chúa thì người ta luôn sẵn sàng “ra đi” trong sự Bình An của Đức Giêsu Kitô, dù sáng sớm hay chiều tối, bất kỳ lúc nào!
Có phung phí lắm không thưa anh chị em khi mà chúng ta đang sống những ngày rộng tháng dài 2/11-158
Có phung phí lắm không thưa anh chị em khi mà chúng ta đang sống những ngày rộng tháng dài, đeo đuổi những của phù vân mà biết sẽ không mãi thuộc về mình khi mình từ giã cuộc đời. Rồi có tội nghiệp thay cho Linh Hồn sống đời của chúng ta sẽ muôn đời bị nhốt giam, tra tấn cách khủng khiếp mà chắc Trần Gian này không thể có và thấy được!. Bởi Trần Gian khi thân thể hao mòn thì sẽ bệnh rồi chết …. Nhưng Hỏa Ngục sẽ là đời đời không thể chết được.
Thời giờ thì Chúa ban cho ai cũng có như nhau nhưng khả năng thì được Chúa ban cho khác nhau, sao chúng ta không biết dùng thời giờ và khả năng cách hữu ích để tậu giầu có ở Đời Sau?. Thời giờ đối với rất nhiều người thì thật quý báu làm sao, như hơi thở vậy!. Nào là thời giờ hồi hộp chờ đợi cho ca mổ tim được thành công. Babies chào đời được thoát cơn hiểm nghèo. Mọi tai nạn xảy đến thật khủng khiếp như bao người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn sau chấn động của cơn động đất, của sóng thần càn quét, của bão lụt, v.v….
Trong khi lại có rất nhiều người ở không, ngồi không chẳng biết làm gì cho có lợi ích, cho qua thời giờ, hay giúp đỡ được gì cho ai?. Nếu hết thảy chúng ta được Chúa cho thấy Thiên Đàng hạnh phúc như thế nào hay nằm mơ thấy rõ được Luyện Ngục thì Trần Gian này sẽ nhanh chóng là Thiên Đàng tại thế ngay. Vì con người sẽ biết sống cách yêu thương, rất chân tình và sẽ luôn đùm bọc lẫn nhau, chứ chẳng cần có ai phải mong đợi để thấy được Hỏa Ngục kinh hoàng.
Hoặc giả Chúa cho chúng ta thấy được ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc ở Luyện Ngục, thiết tưởng chúng ta sẽ đổi cách sống và cách nhìn người nhân hậu hơn không?. Do đó không gì bằng xin Chúa giúp chúng ta hiểu được cuộc sống ở Đời Sau, Nơi cho hết thảy con người hạnh phúc đích thực và muôn đời. Nơi không ai còn có thể chết được nữa …. Mà một là lên được Thiên Đàng, hai là xuống Hỏa Ngục.
Biết thế, hiểu thế nhưng chúng ta vẫn khó lắm để làm được những điều tốt lành là thưa vì chúng ta luôn đứng hai hàng đấy thôi! Và vì chúng ta đang xem tiền của Trần Gian là ông chủ rất cần, rất quan trọng, không thể thiếu được. Thật phải không ai bảo rằng tiền của không cần thiết nhưng nếu chúng ta biết dùng tiền của để mua Nước Trời thì có nhiều cách hay lắm thay!.
Ai Chúa cho sống ở trên đời cũng đều biết mình phải làm gì đó cho tương lai được trở nên sung sướng, thoải mái hơn và có được hạnh phúc gia đình. Là có mong tậu được nhà lớn, rộng, và lầu có nhiều tầng; không thiếu một tiện nghi nào. Nhưng thưa có khôn ngoan không khi chúng ta biết chuẩn bị cho có được cuộc sống thoải mái cả Đời Này lẫn ở Đời sau? Vì ai cũng hiểu biết là tiền của ở Đời Này ai còn có thể nắm giữ mãi cho được khi Chúa gọi chúng ta Ra Đi mãi mãi.
Thế thì có phí của, phí sức lắm không khi ai cũng cả đời làm lụng vất vả mới có được cơ ngơi nay để lại cho chúng con chúng cháu tranh dành, làm tiêu tan hết tất cả. Để của cải không bị hư nát và mất dần thì ngay bây giờ sao chúng ta lại không sống rộng rãi chia sẻ cho những anh chị em khốn cùng? Và sự gì chúng ta cho đi không bao giờ bằng được Thiên Chúa cho lại, thưa anh chị em! Vì những gì Chúa ban cho thì tiền bạc không thể nào mua được. Như tình yêu của cha mẹ, hạnh phúc gia đình, có trái tim nhân hậu, sức khỏe, luôn vui vẻ, v.v….
Trong tháng cầu cho các Linh Hồn xin hết thảy chúng ta mở rộng trái tim, hãy có lòng bác ái, để xin Lễ cầu cho các Linh Hồn Mồ Côi và Thai Nhi; cùng linh hồn của ông bà, cha mẹ, và người thân thương trong gia đình của chúng ta. Xin hãy để tiền của làm Phúc Lợi cho Linh Hồn của chúng ta ngay tại đời này, khi hết thảy còn có khả năng, còn tiền, còn có thời giờ. Vả chúng ta tiếc chi khi tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban cho mới có được, thưa có phải???. Amen.
Cha thánh Pio thành Pietrelcina (1887-1968) thuộc dòng Cappuccino người Ý. Cuộc đời Cha 2/11-159
… Cha thánh Pio thành Pietrelcina (1887-1968) thuộc dòng Cappuccino người Ý. Cuộc đời Cha là trang sử lạ thường ghi dấu các cuộc hiện ra của các Thiên Thần, Các Thánh, Đức Chúa GIÊSU, Đức Mẹ MARIA và Các Đẳng Linh Hồn. Có thể nói Cha thánh Pio sống cùng lúc ở hai thế giới: một hữu hình và một vô hình, thiêng liêng. Xin trích thuật 3 câu chuyện Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục hiện về xin Cha Pio cầu nguyện.
Một buổi tối, Cha Pio đang nghỉ ở tầng trệt của Cộng Đoàn nơi căn phòng dành để đón tiếp khách lạ. Lúc ấy Cha Pio chỉ có một mình và vừa đặt lưng nằm xuống thì bất thình lình một người đàn ông xuất hiện, mình trùm kín chiếc áo choàng đen. Ngạc nhiên, Cha Pio tức khắc đứng bật dậy và hỏi cho biết ông là ai và muốn gì. Người khách lạ cho biết ông là một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội. Ông nói:
– Con là Pietro Di Mauro, tức Nicola và có biệt danh ”Precoco”. Con bị chết trong trận hỏa hoạn xảy ra vào đêm 18-9-1908, tại chính Tu Viện này, lúc ấy bị truất hữu và biến thành Viện Tế Bần. Con bị chết cháy giữa các ngọn lửa, ngay trên tấm nệm rơm, lúc đang ngủ say, trong căn phòng số 4. Con hiện về từ Luyện Ngục. THIÊN CHÚA Nhân Lành cho phép con đến xin Cha dâng một Thánh Lễ với ý chỉ cầu cho con vào sáng ngày mai. Nhờ Thánh Lễ này con mới có thể vào được Thiên Đàng.
Cha thánh Pio liền hứa với Linh Hồn Luyện Ngục là ngài sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho ông. Cha thánh Pio kể lại như sau. Phần tôi, tôi muốn đích thân tháp tùng Linh Hồn Luyện Ngục ra tận cửa Tu Viện. Và tôi chỉ ý thức rõ ràng mình đã nói chuyện với Linh Hồn Luyện Ngục khi ra tới thềm, bởi vì, người đàn ông đang đi bên cạnh tôi bỗng nhiên biến mất. Tôi thành thật thú nhận là quả thật chính lúc ấy tôi cảm thấy thật hoảng sợ. Tôi đi thẳng đến phòng Bề Trên là Cha Paolino da Casacalenda. Cha Bề Trên nhận ra nét kinh hoảng của tôi. Chỉ sau khi nghe tôi giải thích và xin phép dâng Thánh Lễ vào sáng hôm sau cầu cho Linh Hồn Luyện Ngục, Cha Bề Trên mới hiểu lý do và chấp thuận ngay lời xin.
Vài ngày sau, vì bị tính tò mò thúc đẩy, Cha Bề Trên Paolino muốn làm một cuộc kiểm chứng. Cha ra tòa thị chính thành phố San Giovanni Rotondo và xin được phép xem Cuốn Sổ Tử của thành phố vào năm 1908. Và quả đúng như lời tôi kể. Trong Sổ Tử ghi tên các người qua đời vào tháng 9 năm 1908, có mấy hàng sau đây:
– Ngày 18 tháng 9 năm 1908, trong trận hỏa hoạn Viện Dưỡng Lão có một người bị chết mang tên Pietro di Mauro, tức Nicola.
… Cha thánh Pio kể một câu chuyện khác cho Cha Anastasio nghe như sau.
Một buổi tối đang lúc cầu nguyện một mình nơi nhà nguyện bỗng tôi trông thấy một thầy trẻ tuổi đứng nơi bàn thờ chính. Thầy có vẻ như đang lau chùi các chân nến và sửa lại các bình hoa. Lúc ấy đang là giờ ăn tối. Tôi đinh ninh người đang lo bàn thánh chính là thầy Leone nên tôi tiến lại gần và nói:
– Thầy Leone à, đang là giờ ăn tối, thầy đi xuống phòng ăn đi, chứ đâu phải chờ lau bụi và sửa soạn bàn thánh!
Nhưng một giọng nói – không phải của thầy Leone – trả lời tôi:
– Con không phải là thầy Leone!
Tôi hỏi lại:
– Vậy thầy là ai?
Tiếng nói trả lời:
– Con là tu sĩ cùng dòng với Cha và từng là tập sinh sống ở Tu Viện này. Đức vâng lời dạy con phải luôn luôn giữ gìn bàn thánh thật sạch và thật ngăn nắp. Nhưng đáng tiếc là con thường bê trễ trong bổn phận và thiếu lòng tôn kính đối với Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể ẩn mình trong Nhà Tạm. Chính vì tội thiếu lòng tôn thờ cách trầm trọng này mà cho đến nay con vẫn còn phải chịu hình phạt trong Lửa Luyện Ngục. Nhưng giờ đây THIÊN CHÚA Từ Nhân, trong lòng lân tuất vô biên của Ngài, cho phép con hiện về với Cha. Chính Cha là người có thể thu ngắn thời gian con phải chịu giam cầm trong Lửa Luyện Tội. Xin Cha vui lòng giúp con.
Tôi nghĩ mình quả thật quảng đại đối với Linh Hồn đang đau khổ nơi Lửa Luyện Hình khi nhanh nhẹn hứa:
– Anh sẽ chỉ còn ở trong Lửa Luyện Tội cho đến sáng mai lúc tôi dâng Thánh Lễ!
Nào ngờ Linh Hồn này thét lên:
– Thật là tàn nhẫn!
Thét xong câu đó Linh Hồn biến đi. Tiếng than khóc kinh khiếp của Linh Hồn như lưỡi gươm đâm xuyên qua trái tim tôi. Tôi thật đau đớn và mãi mãi như nghe tiếng thét vang vọng bên tai. Tôi – nhờ sự ủy quyền đặc biệt của THIÊN CHÚA – có thể giúp Linh Hồn đi thẳng về Trời, trái lại, tôi đã kết án giam giữ Linh Hồn ở lại trong Lửa Luyện Ngục thêm một đêm nữa cho tới sáng mai!
… Câu chuyện thứ ba xảy ra vào một buổi tối tháng 2 năm 1922 nơi Tu Viện San Giovanni Rotondo. Cha thánh Pio kể lại như sau.
Tối hôm ấy tôi xuống phòng chung nơi có đốt lửa để sưởi. Bỗng tôi trông thấy 4 tu sĩ – chưa bao giờ gặp – đang ngồi chung quanh ngọn lửa, đầu phủ mũ cappuccio và giữ thinh lặng. Tôi cất tiếng chào:
– Sia lodato Gesù Cristo – Ngợi khen Đức Chúa GIÊSU KITÔ
nhưng không có ai trả lời. Ngạc nhiên, tôi chăm chú nhìn kỹ 4 tu sĩ để xem họ là ai thì thấy đó là 4 tu sĩ lạ tôi chưa bao giờ gặp. Cùng lúc, tôi có cảm tưởng các tu sĩ này đang chịu đau khổ. Tôi lập lại lời chào, vẫn không ai trả lời. Tôi trở lên phòng Cha Coi Nhà Khách và hỏi xem có tu sĩ khách nào đến Tu Viện không. Nghe vậy, Cha Bề Trên – lúc ấy là Cha Lorenzo da San Marco in Lamis trả lời ngay:
– Cha Pio à, đâu có tu sĩ khách nào đến đây vào một đêm đông tuyết lạnh như thế này!
Tôi nói với Cha Coi Nhà Khách:
– Cha à, có 4 tu sĩ đang ngồi sưởi nơi phòng chung. Tôi cất tiếng chào nhưng không ai trả lời. Tôi nhìn kỹ thì thấy đó là những tu sĩ lạ!
Cha ấy liền nói:
– Có lẽ khách lạ đến mà tôi không biết chăng? Vậy chúng ta cùng xuống xem.
Nhưng khi chúng tôi trở lại phòng chung thì không còn trông thấy ai. Phòng chung vắng lặng như tờ.
Thế là tôi hiểu rằng đây là 4 tu sĩ quá cố, đang làm việc đền tội nơi chính xưa kia họ đã xúc phạm đến THIÊN CHÚA. Tôi liền thức trắng suốt đêm đó để cầu nguyện trước Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể và xin Chúa cho 4 tu sĩ sớm được giải thoát khỏi chốn Luyện Hình và về Thiên Đàng vui hưởng Nhan Thánh Chúa.
… ”Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Israel hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Israel cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Thánh Vịnh 130(129).
(”Grande Opera Mariana GESÙ E MARIA”, Aprile-Giugno 2007 n.2 Anno VIII, trang 19-20 + P. Alessio Parente, ”Padre Pio e le anime del Purgatorio”, 1999, trang 158)
Cô thôn là ngôi làng nhỏ, hẻo lánh, trơ trọi một mình, tĩnh lặng, mặc vẻ cô đơn. Danh từ “cô thôn” 2/11-160
Cô thôn là ngôi làng nhỏ, hẻo lánh, trơ trọi một mình, tĩnh lặng, mặc vẻ cô đơn. Danh từ “cô thôn” gợi cảm giác của một “khoảng buồn” nào đó. Trong thi phẩm “Cảnh Chiều Hôm” – bài thơ Đường (thất ngôn, bát cú), nữ thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan đã khéo léo lồng vào vẻ quạnh hiu và lặng lẽ của buổi chiều ở miền quê. Bà mô tả:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn
Trong đó có những âm thanh và những hình ảnh quê hương phảng phất nỗi nhớ nhà bâng khuâng, thâm trầm, xa vắng,… Có lẽ ai đã từng sinh trưởng ở miền quê nghèo, rồi vì sinh kế mà phải xa nhà, thì mới khả dĩ cảm nhận được nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, xóm giềng,… Miền quê rất kỳ lạ, thôn dã tĩnh lặng nhưng tình người luôn như biển động, thắm thiết tình làng, nghĩa xóm. Cái tĩnh động đó khó quên được, nhất là vào lúc hoàng hôn, chất thi vị như ùa tràn, ngồn ngộn cả khoảng trời quê, khó tả…
Cô thôn luôn mặc vẻ trầm buồn, nhưng mỗi nỗi buồn đều khác nhau, với mức độ khác nhau, chiều sâu và chiều rộng cũng khác nhau,…
Có một “ngôi làng” rất đặc biệt, loại “cô thôn” đặc biệt nhất trong các làng mạc có nét gì đó “khác lạ”. Dù ở những nơi hẻo lánh nhất, cô thôn cũng vẫn có sức sống và ít nhiều hoạt động. Riêng “ngôi làng đặc biệt” muốn nói ở đây lại khác hẳn. Mỗi người ở riêng một nhà, không ai ở với ai, không ai nói gì với ai, không gian tĩnh lặng như tờ suốt ngày suốt đêm. Tại “cô thôn” này, người ta như những người ngủ mơ, không bon chen, không so đo, không hờn giận, không chê trách nhau, không thù hận,… Vào những ngày đặc biệt, khói tỏa nghi ngút, nhìn rất lạ!
Bạn đã từng nhiều lần đến thăm “cô thôn” đó. Bạn biết “cô thôn” đó là gì và ở đâu? Vâng, “ngôi làng hẻo lánh” đặc biệt đó vừa lạ vừa quen, có tên là Nghĩa Trang [cũng gọi là Nghĩa Địa, đôi khi còn gọi là “bãi tha ma”. Anh ngữ: Cemetery, Pháp ngữ: Cimetière]. Từ này có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp là κοιμητήριον, nghĩa là “nơi an nghỉ”. Tại đây, chúng ta thấy có dấu hiệu riêng là Thánh Giá và ba chữ viết tắt: R.I.P. (Requiescat in Pace – Xin hãy nghỉ yên). Đó là Miền Tĩnh Lặng, là Cõi Tịch Liêu rất đặc trưng!
Dọc ngang “cô thôn” Nghĩa Trang có những “căn nhà nhỏ” (ngôi mộ – ngày nay thường được làm giống nhau về cả hình thức lẫn kích cỡ, nói lên “sự bình đẳng”). Những con người đang nằm yên nơi đó, đủ lứa tuổi, đủ trình độ, đủ giai cấp. Họ cũng đã một thời cùng sinh hoạt, cùng ăn uống, cùng ngủ nghỉ,… với chúng ta, nhưng giờ đây, họ hoàn toàn bất động. Tất cả đều im lặng, không gian hoang vu, chỉ có tiếng gió reo đùa với cỏ cây, đêm về có côn trùng hòa điệu ru buồn…
Cuộc đời ngắn hay dài thì cũng trong khoảng trăm năm, giờ đây chỉ còn “một nấm cỏ khâu xanh rì” (Truyện Kiều – Nguyễn Du), gom lại một “bia đá”, với vài chi tiết: Tên thánh, họ tên, ngày sinh, ngày mất. Chỉ thế thôi! Với ai cũng bấy nhiêu, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù cao hay thấp, dù giỏi hay dốt. Và theo thời gian, tất cả sẽ đi vào quên lãng! Theo tục lệ người Việt là “mãn tang”, khép lại khoảng ba năm.
Với người không có niềm tin tôn giáo, đặc biệt là đức tin Công giáo, như vậy là hết. Chó chết thì hết chuyện. Nhưng với người có niềm tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết và đã phục sinh khải hoàn, “cửa tử” là ngưỡng cửa bước vào sự sống đời đời. Tử thần hoàn toàn “bó tay” và phải tâm phục khẩu phục khi Đức Kitô bất ngờ sống lại.
Những người “cư ngụ” tại “cô thôn” Nghĩa Trang đang chờ ngày được sống lại: “Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:39). Thiên Chúa muốn như thế, nhưng Ngài cũng cảnh báo: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 20:16; Mt 22:14). Và rồi chúng ta cũng vậy, kẻ trước, người sau. Nhưng thật hạnh phúc khi chúng ta vững tin cậy vào Thiên Chúa, vì nếu chúng ta “cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được cùng sống lại với Ngài” (Rm 6:8). Đó là điều chắc chắn. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh chân nhận: “Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10). Chính “cô thôn” đó sẽ trở thành “lạc viên”, và những thân xác nằm ở đó sẽ được về Miền Cực Lạc là Thiên Quốc.
Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6).
Thiên Chúa là tình yêu, nhưng Thiên Chúa cũng vô cùng công bình và rạch ròi: “Nợ máu Chúa không tha, nhưng hãy còn nhớ mãi, tiếng những người nghèo khổ, Chúa chẳng quên bao giờ” (Tv 9:13). Có thể chúng ta không may mắn được chứng kiến giờ Chúa Giêsu quang lâm – tận thế, nhưng chắc chắn ai cũng có ngày tận thế riêng: Lúc chết. Tuy nhiên, chúng ta đừng nghe bất cứ ai hoặc bất cứ lời đồn thổi nào, chính Chúa Giêsu đã nói rõ về ngày Ngài quang lâm: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24:35-36; xem thêm Mc 13:33 và Lc 17:26-30, 35-36).
Ai chết trong lúc còn mắc tội nhẹ (khinh tội), không phải sa Hỏa Ngục nhưng phải vào Luyện Ngục một thời gian để chịu thanh luyện bằng lửa, chờ passport hoặc visa vào Nước Trời. Đó chính là các linh hồn nơi Luyện Hình, thuộc Giáo hội Đau khổ. Hiện nay, họ không còn làm được gì để tự cứu mình, vì thế họ rất cần chúng ta – các sinh linh còn tại thế – giúp họ rút ngắn thời gian thanh luyện, nhờ đó mà họ sớm được hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa muôn đời.
Khoảng buồn sầu và đau khổ luôn dài hơn khoảng vui mừng và hạnh phúc. Chúng ta thường nghe nói: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Tương tự, Thánh Vịnh cũng nói: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày” (Tv 84 11).
Các linh hồn nơi Luyện Hình khao khát Chúa hơn chúng ta hiện nay, vì các linh hồn đã biết thế nào là đau khổ khi phải xa cách Chúa. Thánh Vịnh đã cầu nguyện thay các linh hồn: “Xin rủ lòng thương con, lạy Chúa, xin kéo con lên khỏi ngục tử thần, để con dâng muôn lời ca tụng Chúa” (Tv 9:14-15a). Chúng ta hãy cầu thay nguyện giúp vì yêu mến các linh hồn, và cũng chính là cầu xin cho chính mình: “Xin đưa con ra khỏi chốn ngục tù, để con cảm tạ danh thánh Chúa” (Tv 142:8).
Thánh Gióp đã từng khiêm nhường thưa với Thiên Chúa: “Con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài? Con sẽ đưa tay lên che miệng. Đã nói một lần rồi, con không lặp lại nữa, có nói lần thứ hai, cũng chẳng thêm được gì!” (G 40:4-5). Chúng ta chẳng là gì, nhưng chúng ta được Thiên Chúa nhận làm con cái, Ngài muốn chúng ta cầu xin để chính chúng ta được lợi ích. Ngài biết hết, nhưng Ngài muốn chúng ta xin Ngài để chứng tỏ chúng ta yêu mến Ngài: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5).
Không ngừng cầu xin cho các linh hồn và cầu xin cho chính mình, đó là điều cần thiết, đồng thời chúng ta PHẢI biết kết hợp với Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô để mọi động thái hy sinh của chúng ta mới có giá trị. Thánh Phaolô đã cho biết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm 2:11-13).
Lời cầu nguyện thật kỳ lạ, là “sức mạnh” của con người khiến Thiên Chúa “mềm lòng”. Lời cầu nguyện có tác dụng và giá trị cao, hiệu quả không chỉ cho chính mình mà còn hiệu quả cả khi chúng ta cầu xin cho người khác – người sống và người chết. Thời Cựu Ước, ông Tô-bít đã khuyên con trai Tô-bi-a: “Con hãy dùng của cải bố thí cho tất cả những ai thực thi công chính, và khi bố thí, mắt con đừng có so đo. Đối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ, để rồi đối với con, Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ. Tùy con có bao nhiêu, hãy cho bấy nhiêu; có nhiều thì cho nhiều, có ít thì đừng ngại cho ít. Như thế là con tích trữ một vốn liếng vững chắc cho những ngày gian nan. Thật vậy, việc bố thí cứu cho khỏi chết và không để rơi vào cõi âm ty. Vì trước nhan Đấng Tối Cao, của bố thí là một lễ vật quý giá cho những ai làm việc bố thí” (Tb 4:7-11).
Sự thật là thế, vì Thiên Chúa hằng hữu chứ không phải một vị thần do con người tạo ra như người ta lầm tưởng. Năm 1964, Nga phóng phi thuyền lên mặt trăng và đem theo các phi hành gia để khám phá hành tinh mệnh danh là Chị Hằng. Khi trở về trái đất, một phi hành gia tuyên bố: “Tôi chẳng thấy Chúa nào cả!”. Đúng là tư tưởng vô thần, luôn cố chấp và kiêu ngạo. Có lẽ họ tưởng Thiên Chúa là một vị thần có thể nhìn thấy và sờ được, có thể định vị ở chỗ này hoặc chỗ nọ theo dạng phần mềm “định vị toàn cầu” chăng? (sic!). Khoa học tiến bộ là điều tốt, nhưng khoa học đức tin có tiến bộ hay không?
Thiên Chúa là Chúa của các chúa, Vua của các vua, Thần của các thần. Ngài có tất cả, nhưng Ngài chấp nhận vô sản vì yêu: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người KHÔNG có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58).
Các linh hồn cũng đã cả đời tin vào Đức Kitô, nhưng giờ đây, họ chưa được diện kiến Thánh Nhan Thiên Chúa, đang chịu thanh luyện trong “Lửa của các loại lửa”, họ chịu đau khổ tột cùng vì phải xa cách Thiên Chúa, họ ở một nơi còn hơn là “cô thôn”, vì đó là “vũng lầy đau khổ”, và chắc chắn họ “nhớ nhà” lắm. Vì mối quan hệ yêu thương trong tình liên đới của Nhiệm Thể Đức Kitô, chúng ta hãy hy sinh và cầu nguyện cho các linh hồn, nhất là trong Tháng Mười Một này.
Lạy Thiên Chúa nhân từ, xin xót thương tha thứ cho các linh hồn được yên nghỉ trong Tình Chúa muôn đời. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu, vì Máu Thánh cứu độ của Đức Kitô, vì Nước Mắt của Đức Maria, xin thương xót các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Làm con người được sinh ra trên đời khi có đủ trí khôn, là con cái Chúa ai cũng được dậy rằng 2/11-161
Làm con người được sinh ra trên đời khi có đủ trí khôn, là con cái Chúa ai cũng được dậy rằng Linh Hồn là giống loài thiêng liêng chẳng hề chết được. Nên có khôn ngoan không khi Chúa ban cho chúng ta ai cũng có được một Linh Hồn là viên ngọc quý vô giá để chúng ta giữ gìn, trân quý và chớ có làm mờ nhạt nó đi.
Hiểu được Linh Hồn là giống loài rất thiêng liêng, không nhìn thấy được bằng mắt thịt, không sờ hay tự đánh bóng nó bằng đôi bàn tay cho được mà chỉ có thể làm cho Linh Hồn nó trong sáng hơn ra là qua những việc làm bác ái của chúng ta mà thôi. Cần phải có lắm một trái tim biết rung cảm. Biết chia sẻ cho những mảnh đời đang sống trong khốn khổ, tuyệt vọng, đói khổ cùng mang những chứng bệnh nan y không có tiền để chữa trị mà anh chị em hiện đang sống chung quanh chúng ta.
Hiểu được Linh Hồn như viên ngọc quý ấy sẽ bị lu mờ cách dễ dàng, hay bị bụi trần gian nhanh chóng đóng lên nó những lớp dơ bẩn từ những đam mê của dục vọng, tham ô, danh lợi và quyền lực thế trần. Tự nguyện để cho những đam mê ấy nó khắc phục thân xác hay chết này cách rất dễ dàng vì nó được thỏa mãn, mơn trớn và sảng khoái dù biết rằng ngay ngày mai đây chúng ta có thể chết bất đắc kỳ tử và bỏ lại tất cả. Và rồi viên ngọc quý ấy là Linh Hồn sống đời của chúng ta cũng trở thành cục đất đen thui mục nát không còn có giá trị gì nữa.
Hiểu được Linh Hồn có tầm mức quan trọng như thế nào vì cả sau khi thân xác của chúng ta ra thối rữa dưới lòng đất sâu nhưng Linh Hồn của chúng ta nó cũng vẫn còn sống nguyên, sống hoài dù là nó được lên Nước Chúa sống một cuộc sống hạnh phúc muôn đời hay bị quẳng sâu xuống đáy Hỏa Ngục muôn đời trầm luân trong than khóc, trong nghiến răng mà không có ngày được ra.
Hiểu được cuộc đời là phù vân, nay còn mai mất, nay sống mai chết chẳng ai ngờ trước được và chẳng có ai giỏi hơn ai vì sự sống chết không nằm trong khả năng của con người nhưng nó hoàn toàn nằm trong bàn tay quyền năng của Thiên Chúa. Thế thì có khôn ngoan không khi chúng ta còn được Chúa ban cho sống đây thì phải biết để có chuẩn bị, biết lo xa, biết sống hằng ngày cách sao để có được tờ giấy thông hành mà chỉ duy nhất cho một lần đi vì sẽ không có một ai có thể trở về sống lại trên Trái Đất này được nữa.
Hiểu được Linh Hồn sau khi chết nó sẽ được liền lên Tòa cao Thiên Chúa mà diện kiến Người trước khi từng Linh Hồn sẽ được Thiên Chúa định đoạt cho đi đến Nơi đâu? Mà Nơi đi đến đó hoàn toàn là do tất cả những việc làm tốt, xấu khi chúng ta sống ở Trần Gian này.
Quả Thiên Chúa rất kính yêu của chúng ta Người thật độ lượng, khoan dung, nhân hiền, kiên nhẫn và rất yêu thương trên từng con người của chúng ta bởi do chính bàn tay quyền năng của Người đã tác tạo ra chúng ta, thưa có phải?. Người đã ban cho chúng ta quyền tự do sống chọn Người hay không chọn Người. Người ban cho chúng ta 10 Điều Răn căn bản để theo đó mà chúng ta biết tôn trọng nhau trong yêu thương, trong hòa bình. Được tóm gọn qua hai điều là “Kính Chúa và Yêu Người”.
Bởi có phải mục đích quan trọng hơn cả sẽ không phải là để cho chúng ta sống đời ở Thế Gian này nhưng là để chiếm đoạt cho được một Thế Giới có sự sống viên mãn, có hạnh phúc muôn đời và không ai sẽ còn chịu khổ đau, đói khát, bệnh tật hay chết được nữa.
Nhân tháng cầu cho các Linh Hồn ước mong cho tất cả con cái Chúa hãy trải lòng ra để đem chút hạnh phúc Chúa ban đến chia sẻ cho những con người bất hạnh đang sống ở khắp bốn phương trời. Hãy rộng lượng mà xin Lễ cầu cho các Linh Hồn còn đang sống trong Luyện Ngục. Siêng năng dự Thánh Lễ, ăn chay và cầu nguyện để các Linh Hồn được sớm về hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen.
** Xin bấm vào mã số để nghe và hát: http://www.youtube.com/watch?v=qlhwpr4JGxo (Ai về Thiên Quốc)
Y Tá của Chúa, Tuyết Mai 10-28-14 —————————- **::* Ai Về Thiên Quốc *::** *~*Tuyết Mai (76) 02-05-2010*~*
Ai về Thiên Quốc cho tôi theo Nghe rằng trên ấy Mùa Xuân (2) bốn mùa Thiên Đàng vui lắm ai ơi! Vui đùa mà nhảy múa đàn ca (2) suốt ngày Nghe rằng Thiên Đàng chẳng có ban đêm Hoan lạc, hạnh phúc, như trẻ thơ, con Chúa Trời
ĐK: Vì Thiên Đàng có Chúa chăn nuôi tôi Vì Thiên Đàng hạnh phúc no say Làm sao tôi không ao ước Làm sao tôi không khát thèm Ai về Thiên Quốc cho tôi theo Nghe rằng trên ấy Hoàn sinh (2) bất tử Thiên Đàng là cõi phúc ai ơi! Không còn phải giãi nắng dầm mưa (2) khổ cực Nghe rằng Thiên Đàng rực sáng vinh quang Ngai vàng, có Chúa, Mẹ yêu Ma-ri-a Ai về Thiên Quốc cho tôi theo Nghe rằng trên ấy Chẳng ai còn mang oán thù Thiên Đàng đẹp lắm ai ơi! Thiên Thần, các Thánh, Đạo Binh, cùng con Chúa Trời Nghe rằng Thiên Đàng chẳng bán buôn chi Chỉ toàn là tiếng hát, cười vui, hạnh phúc ngút ngàn
*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiên Chúa.
Ai trong chúng ta hiện có ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì hay ngay cả con cháu, bất ngờ báo cho 2/11-162
Ai trong chúng ta hiện có ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì hay ngay cả con cháu, bất ngờ báo cho biết là họ đang bị ung thư ở giai đoạn cuối?. Bị tai nạn xe cộ hiện đang nằm điều trị ở nhà thương không biết sống chết ra sao? Bị nhiễm Ebola như trường hợp của cô Nina Phạm trước đây, v.v…
Nếu chúng ta sống cách buông thả, không cần biết đến ngày mai ta sẽ ra sao thì có khủng hoảng lắm không khi đột ngột chúng ta đang nằm chờ chết?. Chờ cho Thần Chết đến gọi thì lúc bấy giờ chúng ta mới hoảng hốt, mới căng thẳng và tìm đến Chúa, Mẹ. Để khẩn khoản, lạy lục và nài xin cho được thứ tha mọi tội lỗi và xin cho được sống thêm.
Chúng ta nên hiểu cho rằng Thiên Chúa Người là đấng nhân lành, luôn xót thương con người nhưng chúng ta vẫn bị xử phạt do tất cả những tội lỗi chúng ta đã làm khi còn sống ở Trần Gian này … Cho đến đồng xu cuối cùng. Ấy là chúng ta nói đến những món nợ tiền thì cũng còn dễ để trả vì chúng ta còn con còn cháu, còn cha mẹ hay anh chị em có thể trả giúp dùm cho chúng ta qua việc cúng tiền để giúp nhiều nơi.
Nhưng còn thưa cái nợ tình thì sao? Có vô cùng khó để trả hay không? Như tội giết thai nhi là con ruột của mình vì những biện hộ nghe rất ích kỷ, rất cá nhân. Thành phần đẻ con ra rồi chối bỏ chúng, đem con bỏ chợ, cho vào Cô Nhi Viện, hay chẳng cần biết chúng sống hay đã chết?. Dùng những lời nói dụ ngon, dụ ngọt hại đời người ta và làm ngơ trước những thai nhi không được chào đời?. Hay những cha mẹ sống thiếu trách nhiệm, đẻ con cho thật nhiều để không có khả năng nuôi nổi chúng. Mặc tình để cho chúng con cái nheo nhóc, không đủ ăn, không đủ mặc và không được đến trường để đi học, chẳng những thế mà còn bắt chúng phải đi làm ở tuổi rất bé thơ.
Khi chúng ta sắp chết thì giống như cái bình dưỡng khí báo động sắp hết Oxy để thở, thiết nghĩ ai cũng phải khiếp sợ và còn hoảng sợ hơn nữa khi thấy chung quanh giường có lũ quỷ chúng đang vờn thân xác chúng ta, chúng kéo chân, chúng cười lộ nguyên hàm răng dài ghê gớm mà có rất nhiều người thấy được khi họ sống cuộc sống đầy tội lỗi mà thường là họ phạm nhiều tội trọng.
Phàm làm người thì ai cũng sợ chết cả chứ đừng có ai nói ngon, nói nổ nhưng nếu chúng ta sống biết chuẩn bị thì ở gần giờ chết thay vì chúng quỷ đến quấy rầy thì thật hạnh phúc lắm thay vì chúng ta sẽ thấy sự hiện diện của thiên thần bản mệnh cùng nhiều anh chị em mà khi họ ở Luyện Ngục chúng ta đã xin Lễ cầu cho họ, siêng năng dự Thánh Lễ và làm việc bác ái để xin cho họ được lên Trời hưởng Nhan Thánh Chúa.
Như chúng ta thuở nhỏ khi đến tuổi học lớp giáo lý Xưng Tội Rước Lễ lần đầu đều được quý cha, quý sơ cho tấm hình của người chết lành và người chết dữ để dậy chúng ta tập sống tốt lành ngay từ tấm bé. Một bên của tấm hình là sự chết dữ của người bệnh đang bị chúng quỷ đen đủi có đuôi dài, chờ chực để lấy linh hồn của ông ta. Còn một bên là sự chết lành của người bệnh được thiên thần bản mệnh và linh hồn anh chị em hiện diện để trấn an và giúp ông ta chuẩn bị để lên diện kiến tôn nhan Chúa.
Trong tháng 11, tháng cầu cho các Linh Hồn mong tất cả chúng ta mở rộng tấm lòng và rộng lượng mở hầu bao để xin Lễ cầu cho các linh hồn mồ côi cùng tất cả mọi linh hồn hiện đang sống ở Luyện Ngục sớm được lên Trời và chắc hẳn họ sẽ không bao giờ quên ơn của chúng ta đâu. Việc làm bác ái vì yêu thương anh chị em còn sống cũng như đã qua đời đều nằm trong Giới Răn quan trọng của Chúa được tóm gọn qua hai điều là “Kính Chúa và yêu người”. Có phải mục đích là mình làm cho chính mình hay không? Bởi hôm nay ta làm giúp cho người nhiều bao nhiêu thì mai này họ sẽ giúp lại chúng ta nhiều gấp bội lần.
Để khi chúng ta trên giường nằm chờ chết, chờ sự thay đổi từ cửa Trần Gian đến cửa của Luyện Ngục không làm cho chúng ta sợ hãi tột cùng mà là cảm thấy thoải mái để trông đợi từng giây phút sẽ được lên Trời diện kiến Thiên Chúa. Một Thiên Chúa vô cùng sáng láng, thánh thiện, vinh hiển và vô cùng quyền năng. Amen.
** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:
http://www.youtube.com/watch?v=YxsgA-FhFPg (Đường về Thiên Đàng)
Y Tá của Chúa, Tuyết Mai 10-29-14 —————————– **::* Đường Về Thiên Đàng *::** **~* Tuyết Mai (75) 1-31-2010 *~**
Anh em ơi! Hãy mừng vui (2) Vì Thiên Đàng đang mở rộng Đang đón chào anh chị em Nào là tiếng tù và, chiêng trống, Đàn đủ loại, và mọi khí cụ Do các Thiên Thần đứng làm giàn chào Để đón tất cả linh hồn anh chị em Khắp mọi nơi, mọi chỗ trên Thiên Đàng Sáng rực như hào quang, tỏa khắp trên chín tầng cao Anh em! Thật hạnh phúc thay (2) Ra đi trong vui mừng, trong an vui, Vì được trở về Nhà của Cha (2) Trên Thiên Quốc, muôn đời Hoan lạc, bình an ĐK: Chúa đón anh chị em! Thết đãi anh chị em! Yến tiệc chưa từng bao giờ Được thấy và từng được nếm Trên trần gian Ôi vui thay! Ôi hạnh phúc thay! Đường về Trời sẽ là Hạnh phúc muôn đời ta (2) Anh em ơi! Hãy hò reo (2) Vì Thiên Đàng đang chờ đợi Ta trở về, vui mừng vui Nào là tiếng chào mừng, tay bắt Cùng những lời dịu dàng dễ thương Do các Thiên Thần đứng làm giàn chào Để đón tất cả linh hồn anh chị em Ánh hào quang, rực rỡ cả Thiên Đàng Sáng rực như triệu sao, lấp lánh trên chín tầng cao Anh em! Thật hạnh phúc thay (2) Ra đi trong phước hạnh, trong hân hoan Vì được trở về Nhà của Cha (2) Trên Thiên Quốc, muôn đời Hoan lạc, bình an
*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiên Chúa.
Trong năm phụng vụ, tháng Mười một là Tháng Linh hồn, dành riêng việc cầu nguyện cho các 2/11-163
Trong năm phụng vụ, tháng Mười một là Tháng Linh hồn, dành riêng việc cầu nguyện cho các linh hồn, cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên, người thân và những người đã qua đời. Đây là dịp để mỗi chúng ta tỏ lòng biết ơn, báo hiếu cách đặc biệt với những người đi trước, những người đã đem lại cho ta cuộc sống hôm nay về cả vật chất lẫn tinh thần.
Ai cũng một lần đối diện với Tử thần, có sinh ắt có tử, có hợp ắt có tan, có khởi đầu ắt sẽ kết thúc. Nên lo nghĩ về cái chết là điều đương nhiên, nhưng nghĩ về cái chết để mà sống sao cho “đẹp” nơi cuộc đời này. Con người bản chất nhỏ bé, yếu đuối và mỏng giòn nên làm sao để sau những ngày sống cuộc đời dương gian với những nỗ lực của bản thân cộng với ơn thánh của Chúa, chúng ta cố gắng nên “hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Để mong một ngày chúng ta được cùng Ngài hưởng hạnh phúc trên Thiên Quốc. Đó là điều không dễ, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống đúng Lời Chúa và giữ trọn Lời Ngài nơi trần gian này.
Qua đó, nhắc nhở mỗi người chúng ta về thân phận của mình – thân phận bụi tro – “Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi”. Đúng vậy, dù chúng ta trẻ hay già, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù quyền thế hay “dân đen”, dù tài giỏi hay ngu dốt… thì một mai cũng lìa khỏi trần thế này. Đó là định luật muôn thuở!
Giá trị cuộc đời con người không quan trọng ở độ dài của tháng ngày mình sống, nhưng được quy chiếu theo một vài chiều kích căn cốt, đó là “năng lượng” Đức tin được tích trữ, “diện tích” tình yêu được cho đi, “mật độ” bác ái được lan tỏa và “cân nặng” của sự hy sinh, từ bỏ trong đời sống của chúng ta. Như Đức cố Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Chiều cao của đời tôi là gì? Là trung thành với Thiên Chúa, với Hội Thánh, với Tổ tiên, với Tổ quốc. Chiều rộng của đòi tôi là gì? Là trưởng thành đối với gia đình, cộng đoàn và xã hội. Chiều dài của đời tôi là gì? Là Tín thành với bằng hữu, với mọi người” (trích Thập đại thành công).
Thực tế đã cho chúng ta thấy, cũng là con người nhưng có những cái chết không ai thương tiếc. Trái lại, có những cái chết ý nghĩa, được mọi người luyến tiếc, ngưỡng mộ và nhớ mãi. Có những người chết trẻ nhưng “tiếng thơm” lan rộng, nhưng có những người chết già mà còn bị khinh chê. Đó là phần nào kết quả của những gì mình đã nói, đã làm, đã nghĩ và đã sống ở trần gian.
Vậy phải sống sao cho xứng, sống sao cho “thơm” trên dòng đời nhiều trôi nổi, lắm đổi thay với nhiều xu thế xấu tốt luôn “rình rập”. Đáp lại điều đó, Đức Kitô đã mời gọi mỗi chúng ta: “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13). Sống không hẳn là sống cho mình, nhưng là sống vì mọi người, cho mọi người, cho trần thế bằng một lòng mến, một tình yêu vô vị lợi và có khi hy sinh cả mạng sống vì lòng mến, vì tình yêu đó. Có thể trần gian cho đó là ngu dại, là điên khùng, là mất mát. Nhưng thánh Phaolô đã khẳng định: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1Cr 1,25). Chính Đức Giêsu là bằng chứng sống động về điều đó. Ngài là gương mẫu cho một tình yêu bất diệt, đó hiến mạng sống mình cho nhân loại vì tình yêu.
Có lẽ không ai trong chúng ta không một lần khắc khoải về thân phận mình, không chút lo lắng về sự bọt bèo của phận người, một mai rồi sẽ ra sao? Cùng đích là đâu? Mục đích của cuộc sống trần gian là gì? Bao lâu chúng ta còn khắc khoải thì chúng ta còn ý thức được về mình, về thân phận của mình. Thánh Augustinô đã có kinh nghiệm: “Hồn con luôn bồi hồi xao xuyến cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.
Quả vậy, cuộc đời là tạm bợ, quê thật của chúng ta là Nước Trời. Chỉ có trong Chúa, nơi đó chúng ta mới có cuộc sống đích thực, trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc viên mãn. Như lời các Thánh Tông đồ vẫn trăn trở: “Bỏ Ngài chúng con biết theo ai?” Đó cũng là điều chúng ta cần xác tín để rồi bước đi theo Ngài không ngần ngại.
Vậy theo Ngài thì chúng ta phải làm gì? Thánh Phanxicô Assisi gợi cho ta phần nào về điều đó ngang qua lời Kinh Hòa Bình: Hãy “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”. Hãy “đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”. Có như thế thì “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Thật vậy, để làm sao để khi chết là khi vui, chết đi mà được mọi người luyến tiếc, nhớ nhung, chết đi mà để lại “tiếng thơm” cho đời sau. Vì chết không phải là hết, là chấm dứt mà là một sự biến đổi. Đó là chết đi con người cũ để sống với con người mới, chết đi con người tội lỗi để sống với con người trong sạch, chết đi những gì thuộc về con người để sống trọn vẹn trong Thiên Chúa. Được như vậy, khi kết thúc cuộc sống này chúng ta được bước vào cuộc sống vĩnh hằng, nơi có hạnh phúc vĩnh cữu, cùng với Chúa, Mẹ Maria, các Thiên thần và các Thánh trong nước Thiên đàng.
Lạy Thiên Chúa phục sinh, xin xót thương các linh hồn, cách riêng là linh hồn ông bà, tổ tiên chúng con sớm về hưởng tôn nhan Chúa. Về phần chúng con, những nười đang trên con đường lữ thứ trần gian, xin cho chúng con thêm vững mạnh Tin – Cậy – Mến, giúp chúng con tăng trưởng các nhân đức yêu thương, đại lượng, nhân hậu, cảm thông, tha thứ, chia sẻ… để sống trọn vẹn Lời Chúa và mỗi ngày một hoàn thiện hơn.
Tháng Mười Một là tháng “Nhớ Cội Nguồn”, tháng biết ơn tiền nhân. Cây có cội, nước có nguồn. 2/11-164
Tháng Mười Một là tháng “Nhớ Cội Nguồn”, tháng biết ơn tiền nhân. Cây có cội, nước có nguồn. Kinh Thánh dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Hc 3:1-16). Đó là giới răn thứ tư trong Mười Điều Răn mà Đức Chúa đã ban truyền qua ông Môsê trên núi Sinai (Xh 20:3-17).
Giọt nước nào cũng phải có nguồn, có nơi phát xuất. Giọt mưa rơi xuống từ trời. Dù chỉ là giọt nước máy thì cũng phải chảy ra từ chiếc vòi, thậm chí từ chiếc bình. Con người cũng vậy, ai cũng phải có tổ tiên, có cha có mẹ. Đừng “vô tư” như NS Trịnh Công Sơn mà thản nhiên nói: “Tôi vui chơi giữa đời (ối a), biết đâu nguồn cội” (ca khúc Biết Đâu Nguồn Cội).
Tục ngữ Việt Nam nhắc nhở: “Uống nước nhớ nguồn”. Những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc, nhưng lại chuyển tải cả một đạo lý làm con đối với song thân phụ mẫu, những người đã sinh dưỡng chúng ta. Có nhiều ca khúc viết về mẹ, như bài “Lòng Mẹ” của cố NS Y Vân, nhưng lại hiếm bài viết về cha – có lẽ cha thâm trầm nên người ta khó “cảm” hơn. Vả lại, công mẹ rất “lớn” với 9 đức cù lao: Sinh, Cúc, Phủ, Dục, Súc, Trưởng, Cố, Phục, Phúc (sinh nở, nâng đỡ, vỗ về, dạy dỗ, cho bú, nuôi lớn, trông nom, chăm sóc, che chở).
Tháng Mười Một mệnh danh là Tháng Cầu Hồn vì Giáo hội dành riêng để chúng ta cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, trong đó có những người thân của chúng ta: Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, kể cả anh chị em hoặc cháu chắt của chúng ta. Tất nhiên trong đó cũng có cả những bạn bè, người quen,… Nói chung, chúng ta nhớ tới mọi người đã “ra đi” trước chúng ta, họ “đi” trước là họ đã “lớn” hơn chúng ta rồi, vì họ vào cõi vĩnh hằng trước chúng ta, dù họ có thể tuổi đời của họ còn ít hơn tuổi đời của chúng ta.
Khi nói đến việc nhớ ơn, người ta thường nghĩ ngay tới những người gần gũi nhất và trực tiếp nhất đối với chúng ta: Cha Mẹ. Nói cho văn hoa và trang trọng, đó là Song Thân Phụ Mẫu. Người ta có thể chọn nhiều thứ nhưng không thể chọn cha mẹ (và tiền nhân, ông bà). Thiên Chúa đã đặt chúng ta là con cháu của các ngài. Chúng ta có trách nhiệm phải “thờ cúng tổ tiên”, Kinh Thánh cho biết: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3:3-6).
Có một ca khúc thể hiện cả công cha và nghĩa mẹ là bài “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố NS Dương Thiệu Tước . Ca khúc này được lồng trong tiết tấu chậm với nhịp 4/4, âm thể Rê trưởng (D), giai điệu mượt mà và đầy cảm xúc. Tiết tấu chậm khiến người ta lắng lòng xuống để trầm tư, nhưng không buồn mà vẫn “sáng” trong âm thể Rê trưởng.
Ca từ thật đẹp và đầy tính giáo dục được rút ra từ ca dao tục ngữ phổ biến: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Em ơi, hãy nhớ năm xưa, những ngày còn thơ, công ai nuôi dưỡng”. Ai cũng được cha mẹ sinh ra và nhờ công lao dưỡng dục vô kể của cha mẹ. Công lao đó được đúc kết trong 9 chữ, gọi là 9 đức cù lao: Sinh (đẻ), Cúc (nâng đỡ), Phủ (ấp ủ, vỗ về), Súc (bú mớm, cho ăn), Trưởng (nuôi cho lớn khôn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom), Phục (săn sóc, theo dõi), Phúc (bao bọc, chở che).
Câu tiếp theo là lời khuyên răn và nhắc nhở bổn phận làm con: “Công đức sinh thành, người hỡi đừng quên. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Những lời chân chất, không có gì bóng gió, thế nên không hề khó hiểu.
NS Dương Thiệu Tước phân tích thêm: “Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu, anh nên người tài ba? Hãy nhớ công sinh thành, vì ai mà có ta?”. Cách hỏi nhẹ nhàng mà như “xoáy” vào tận đáy lòng. Thật vậy, chúng ta có thành nhân và thành công thì cũng đều nhờ công lao của cha mẹ.
Rất nhiều sinh viên đi học xa nhà, được no cơm ấm áo, nhưng cha mẹ ở nhà phải hy sinh trăm bề, có khi cả chỗ nằm ngủ cũng không được tươm tất, mưa tạt gió thổi, thế mà khi nên danh phận, có một số người lại phủi tay, cho rằng mình giỏi giang và văn minh, rồi chê cha mẹ “cổ hủ”, thậm chí họ còn không muốn nhận cha mẹ mình trước mặt người khác. Thất đáng xấu hổ. Buồn thay!
Câu cuối vẫn là lời nhắc nhở, rạch ròi hơn: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Cánh-diều-con bay lên là nhờ dây-cha-mẹ, diều-con càng cao vút thì dây-cha-mẹ càng thêm sức nặng của gió. Đừng bao giờ lãng quên, người ơi!
Trong “Kinh Thi” (tập sách ghi nhận có những câu ca dao cổ của người Trung Quốc) có hai câu với ý nghĩa tương tự. Một câu mô tả cụ thể ơn đức của cha mẹ: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, xúc ngã, trưởng ngã, dục ngã, cố ngã, phục ngã, xuất nhập phúc ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực” (Cha sinh ra ta, mẹ nâng đỡ ta, vuốt ve ta, cho ta bú, nuôi ta khôn lớn, dạy bảo ta nên người, chăm lo ta, ôm ấp ta, ra vào để bảo vệ ta. Muốn đáp trả ơn huệ ấy, chỉ biết như bầu trời lồng lộng đến vô cùng).
Một câu khác mang tính tượng hình, nêu lên khát khao báo đáp của người con: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã. Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao. Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực” (Cha sinh ta, mẹ nâng đỡ ta. Thương thay cha mẹ, sinh ra ta bao khó nhọc. Muốn đáp trả ơn sâu ấy, chỉ biết như bầu trời lồng lộng đến vô cùng).
Công ơn cha mẹ thật lớn lao, cao vời khôn ví, ca dao Việt Nam chỉ mang tính tương đối, vì con người chỉ có thể ví như thế mà thôi:
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Nhưng vấn đề quan trọng không phải ví von cho vui, nói bằng đầu môi chót lưỡi, mà vấn đề phải là:
Một lòng thờ kính mẹ cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Thánh Phaolô nói về các đức đối nhân, và cũng là điều mà con cái phải đối xử với cha mẹ trước tiên: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (1 Cr 13:1-13).
Thánh sử Luca cho biết: Sau ba ngày lạc mất Con Trẻ, Cô Maria và Chú Giuse mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48). Cậu Giêsu đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:49).
Chúa Giêsu thông minh, siêu phàm, nhưng Ngài vẫn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51). Ngài có hiếu với cha mẹ, vâng lời cha mẹ, chúng ta không thể không noi gương Ngài. Nếu không thì “không ổn” đâu! Vì ông Môsê đã dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử!” (Mc 7:10). Kinh Thánh đã có những lời rất rạch ròi!
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giải thoát tổ tiên của chúng con, đặc biệt là ông bà, cha mẹ của chúng con, những người đã vất vả vâng lời Chúa mà sinh dưỡng chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Công Nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Thật khó để nói lời an ủi khi đứng trước cái chết, dù người quá cố đã sống trọn cuộc đời, sống 2/11-165
Thật khó để nói lời an ủi khi đứng trước cái chết, dù người quá cố đã sống trọn cuộc đời, sống thọ và ra đi trong bình an. Đặc biệt khó hơn khi người chết còn trẻ, còn cần được chăm sóc nuôi dưỡng, khi họ chết trong hoàn cảnh không được lý tưởng cho lắm.
Là một linh mục, tôi đã nhiều lần chủ lễ các tang lễ của những người chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, hay tự vẫn. Những đám tang như thế luôn luôn buồn thảm và mang tính hoài nghi. Tôi còn nhớ một đám tang như vậy: Một học sinh trung học chết vì tai nạn xe hơi. Gia đình, bạn bè, và bạn học của em lòng đầy thương tiếc đến dự chật kín cả nhà thờ. Mẹ cậu, vẫn còn trẻ, ngồi ở hàng ghế đầu, lòng bà nặng trĩu với nỗi tang thương mất mát của mình, nhưng rõ ràng bà quặn thắt khi nghĩ về đứa con. Và hơn hết, em chỉ là một đứa trẻ, phần nào vẫn còn cần người chăm sóc, vẫn cần mẹ. Và bà mẹ cảm nhận em chết trẻ như thế, theo cách nào đó, cũng đã làm em trở thành em bé mồ côi.
Chẳng có mấy lời có tác dụng trong trường hợp như thế này, nhưng có vài lời mà chúng ta buộc phải nói, ngay cả trong một ngày như thế, khi cái chết vẫn còn trước mặt, khi người ta không cảm được bao nhiêu sự an ủi về mặt tình cảm được. Phải nói gì trước một cái chết như thế? Đơn giản là cậu bé bây giờ đang ở trong bàn tay yêu thương hơn, âu yếm hơn, dịu hiền hơn, và đáng tin cậy hơn đôi tay của chúng ta, rằng ở bên kia có một người mẹ đón nhận em, săn sóc nuôi dưỡng mà em vẫn còn cần, giống như ở đời này vậy. Không một ai sinh ra mà lại không nằm trên bàn tay ẵm của mẹ cả. Đó chính là hình ảnh mà chúng ta cần phải giữ trước mắt để có thể hình dung cái chết một cách lành mạnh hơn.
Vậy cụ thể hơn, hình ảnh này là gì. Một vài hình ảnh nền tảng và dịu hiền như hình ảnh người mẹ ôm và ru đứa con mới sinh của mình. Lời bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng, Silent Night, bài thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng nhất mọi thời đã lấy cảm hứng từ hình ảnh này. Joseph Mohr, một linh mục trẻ người Đức, chiều trước lễ Giáng Sinh, đã đi đến một căn nhà tranh trong rừng để rửa tội cho một em bé mới sinh. Khi ông ra về, đứa trẻ ngủ ngon trong lòng mẹ. Ông được đánh động quá đỗi trước hình ảnh đó, trước sự sâu thẳm và bình an của hình ảnh đó, rồi khi trở về nhà xứ, ngay lập tức ông viết nên những dòng lừng danh của bản Đêm Thánh Vô Cùng. Người hướng dẫn dàn nhạc của ông, đã thêm một vài hợp âm guitar cho những dòng này, biến chúng thành những dòng bất hủ. Hình ảnh khuôn mẫu tuyệt đối cho yên bình, an toàn, và bảo đảm chính là hình ảnh em bé sơ sinh ngủ trong lòng mẹ. Hơn nữa, khi một đứa trẻ chào đời, không chỉ có một mình người mẹ háo hức muốn ẵm bồng mà tất cả gia đình mọi người đều muốn.
Có lẽ chẳng có hình ảnh nào phù hợp, mạnh mẽ, có sức an ủi, và chính xác hơn nữa để minh họa những gì xảy đến với chúng ta khi chết đi và tỉnh dậy trong sự sống bất diệt cho bằng hình ảnh bà mẹ ẵm đứa con mới sinh của mình. Khi qua đời, chúng ta chết trong bàn tay Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta đã được đón nhận với quá đỗi yêu thương, trìu mến, dịu hiền như khi chúng ta được mẹ ẵm trên tay lúc mới sinh. Hơn nữa, chắc chắn ở đó, chúng ta được an toàn hơn khi sinh ra trên thế gian này. Tôi cũng nghĩ, ở đó sẽ có những vị thánh quây quần xung quanh, chờ đến lượt mình để được ẵm em bé mới sinh. Và như thế thật an tâm nếu chúng ta chết trước khi sẵn sàng để chết, khi vẫn còn cần được chăm sóc nuôi nấng, khi vẫn còn cần một người mẹ. Chúng ta đang ở trong đôi bàn tay an toàn, ân cần, và đầy tình chăm sóc.
Đó có thể là niềm an ủi thâm sâu bởi cái chết đẩy tất cả mỗi người chúng ta vào tình trạng mồ côi, và mỗi ngày, đều có những người chết trẻ, bất ngờ, thiếu chuẩn bị, những người vẫn còn cần được chăm sóc. Tất cả chúng ta khi qua đời, vẫn còn đang cần một người mẹ, nhưng đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta sẽ được sinh ra trong đôi bàn tay đáng tin cậy hơn và được nuôi dưỡng hơn đôi bàn tay của nhân loại.
Tuy nhiên, dù có lẽ sẽ đem lại an ủi, nhưng nó vẫn không thể chấm hết nỗi đau buốt vì mất đi người thân yêu. Chẳng gì cất đi được nỗi đau buồn đó cả, vì chẳng có gì được định để làm việc đó. Cái chết là vết sẹo không phai trong tâm hồn chúng ta vì đó chính là những đau đớn do tình yêu mà ra. Dietrich Bonhoeffer đã nói về điều này như sau: “Không có gì có thể khỏa lấp việc mất đi người chúng ta yêu thương. … Thật vô lý khi nói rằng Thiên Chúa lấp đầy khoảng trống, Thiên Chúa không lấp đầy nó, nhưng ngược lại, ngài vẫn để nó trống rỗng và như thế giúp chúng ta giữ mối giao tình với người đã mất cho dù cái giá của nó là nỗi đau. … Ký ức của chúng ta, nếu càng nhiều và càng thiết tha, thì sự chia lìa càng nên khó khăn hơn. Nhưng lòng biết ơn biến đổi những nhói buốt trong ký ức thành niềm vui thanh bình. Vẻ đẹp của quá khứ không phải là chiếc gai đâm xé da thịt nhưng chính là tặng vật quý báu.”
Rev. Ron Rolheiser, OMI
* * * Tôi đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường. Này đây chìa khóa tôi gài lên cửa, Và cả căn nhà cũng trao trọn anh em. Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối, Thắm đượm tình thân. Từ lâu rồi, sống bên nhau, Chúng mình là láng giềng lối xóm; Nhưng anh em đã cho tôi Nhiều hơn tôi cho lại anh em. Bây giờ ngày đã rạng, Đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt. Lệnh triệu ban rồi, Tôi đi đây. Rabindranath Tagore Nguồn: Suy Niệm Hằng Ngày
Ngay thời tiên khởi, Hội Thánh đã luôn luôn dạy hãy cầu nguyện cho người chết như một nghĩa 2/11-166
Ngay thời tiên khởi, Hội Thánh đã luôn luôn dạy hãy cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustinô viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”.
Nhưng Thuở ban đầu này, do ảnh hưởng thời tiền Kitô giáo, các nghi thức cầu cho người chết còn chứa nhiều màu sắc dị đoan. Kinh nghiệm của đời sống phụng vụ của Hội Thánh loại trừ dần những cổ hũ ấy. Mãi đến thời trung cổ, nhờ các ẩn sĩ, là những người có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm, một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.
Giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh: Mọi tu viện của dòng phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2.11, ngay sau lễ các Thánh hàng năm. Truyền thống này càng ngày càng lan rộng trong Hội Thánh. Sau cùng Hội Thánh chấp nhận và đưa vào niên lịch Công giáo Rôma.
Ý nghĩa thần học nền tảng của việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã qua đời, là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít ai đạt được đời sống trọn hảo, nhưng hầu hết đều mang vết tích tội lỗi trong khi qua đời. Đã là con người yếu đuối, nên cần thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn được đối diện với Thiên Chúa. Công Ðồng Triđentinô xác nhận lời cầu nguyện, những hy sinh của người sống, khi có ý dành cho người đang ở tình trạng luyện tội, có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người ấy.
Việc cử hành lễ cầu cho các tín hữu qua đời, ngày nay đã trở thành việc đạo đức quen thuộc, thường xuyên của mọi Kitô hữu. Ngay nay, người ta tổ còn tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng nến và hoa.
2. Sứ điệp của ngày lễ.
Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ, niềm hy vọng cho con người.
Trên đó cũng thường có tấm bia khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia người ta khắc ba chữ: R. I. P. (Viết tắt của câu Latinh: requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu).
Có những tấm bia trên phần mộ ghi câu Kinh Thánh hay những lời từ biệt, lời cám ơn. Phải chăng chết đi về thế giới bên kia là hết, là chấm dứt mọi liên đới ?
Chúa Giêsu, trong bữa Tiệc ly, đã nói lời từ giã trước khi tự nguyện hy sinh chịu chết: “Thày đi về cùng Cha Thày!” (Ga 14, 1-14). Lời từ biệt này nói lên mối dây ràng buộc niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa.
Người thân yêu đã ra đi, theo niềm tin của người Công giáo dựa trên chính lời Chúa Giêsu, đó cũng chính là lúc họ về cùng Thiên Chúa Cha. Và cũng như Chúa Giêsu, họ cũng để lại di chúc cho chúng ta và cho mọi người đi sau họ:
– Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Ðấng sinh thành ra tôi.
– Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này, nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
– Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha tôi. Tôi biết Ngài luôn yêu mến tôi.
Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người thân còn sống: Tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến mọi người quá cố. Xin đón rước và thứ tha cho ông bà, anh chị em, bạn hữu, và mọi người thân yêu, mọi người đã đi qua trong đời này mà nay đã an giấc.
Xin Chúa cũng thương tha thứ và đón nhận chúng con, những người còn lữ hành trên dương thế, được vào nước Chúa, vào một ngày mà Chúa gọi chúng con về trình diện trước Thánh Nhan Chúa. Amen.
Không biết ai cho địa chỉ của tôi hay người ta mua sẵn từ hãng địa chỉ mà lâu lâu hãng bảo hiểm 2/11-167
Không biết ai cho địa chỉ của tôi hay người ta mua sẵn từ hãng địa chỉ mà lâu lâu hãng bảo hiểm lại gửi thư về mời mọc, quảng cáo với những quyền lợi béo bở. Bảo hiểm trước khi chết có, bảo hiểm sau khi qua đời cũng có. Nhưng trước khi chết thì chẳng cần, sau khi chết thì không biết con cháu có gửi xuống “âm phủ” cho không!
Tôi tự hỏi: Có bảo hiểm cho linh hồn không? Có ai cứu mình trước tòa phán xét của Chúa không?
Tình cờ đọc được câu chuyện này trong 1001 Ơn Lạ Mẹ ban trong xuanha.net. Thấy con số 1001, tôi liên tưởng tới chuyện 1001 đêm của xứ Ba tư mà tôi đọc hồi nhỏ bên Việt Nam, nhưng 1001 Ơn Lạ Mẹ ban có nhiều câu chuyện còn li kỳ hấp dẫn hơn nhiều. Trong đó có truyện cậu Carolo con trai bà thánh Brigitta:
(Trích sách Vinh quang Đức Mẹ I , của thánh Anphongsô -Những xiềng xích lợi ích, trg 135)
Mẹ Maria (người Do thái gọi là Miriam) rất vội vã đến cấp cứu các tôi tớ dấu yêu của Mẹ trong giờ họ hấp hối. Mẹ đến tiếp xúc với họ, làm thuận tiện lối họ đi về đời sau, khuyến khích họ, và theo họ tới tòa phán xét. Thánh Giêrônimô viết cho trinh nữ Eustokia rằng: “Ngày mà Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, sẽ cùng với cơ đoàn các trinh nữ, đến đón rước con, là ngày hạnh phúc nhường nào!”. Đó chính là điều khi nói đến những người được Mẹ phù trì, Mẹ Maria đã nói với thánh nữ Brigita: “Mẹ là Nữ Vương tình thương, là Mẹ họ, Mẹ sẽ đến bên họ, để họ được thư sướng và ủi an lúc lâm chung”. Thánh Vinh sơn Phêriê thêm rằng: “Đức Nữ Vương từ ái sẽ đón nhận vào áo từ bi Mẹ linh hồn những người hấp hối đó”, và đưa họ đến tòa Con Mẹ làm Thẩm phán để Con Mẹ cho họ được hạnh phúc đời đời.
Mẹ Maria đã xử như vậy với ông Carôlô, con trai thánh nữ Brigita.
Đăng vào nghề cầm binh khí nguy hiểm, ông bị chết xa mẹ. Thánh nữ e ngại cho phần rỗi của ông; nhưng Mẹ Đồng Trinh cho thánh nữ biết ông đã được cứu độ. Chính Mẹ đã đến giúp ông lúc lâm chung, soi cho ông biết những việc phải làm trong giờ mệnh một, để tưởng thưởng lòng ông đã từng thiết tha sùng kính Mẹ, dâng mình cho Mẹ, thuộc về Mẹ. Cùng lúc đó thánh nữ thấy Chúa Giêsu ngự trên ngai và nghe thấy ma quỉ tố cáo Mẹ Maria hai điểm: đã giúp Carôlô chống lại mưu chước nó cám dỗ ông lúc hấp hối; đã đích thân dẫn đến trước tòa phán xét linh hồn người thanh niên đó, và giải cứu ông mà không cho nó – ma quỉ – được quyền gì trên linh hồn ông. Thánh nữ lại thấy ma quỉ bị Chúa Giêsu tống khứ, và linh hồn Carôlô được đem lên trời”. Đọc xong truyện Carolô tôi tự hỏi: Nếu mình muốn có bảo hiểm như Carôlo thì phải làm sao?
Nhớ lại, có lần tôi dự lễ dâng mình của Hội Legio Mariae, thấy các ông bà xếp hàng lên trước Ảnh Đức Mẹ giơ tay đọc câu này: vắn tắt, dễ nhớ mà rất ý nghĩa:
“Lạy Nữ vương là Mẹ con, toàn thân con thuộc về Mẹ và mọi sự của con là của Mẹ”.
Đọc xong rồi họ vui vẻ đi về chỗ. Tôi lại tự hỏi: Dâng mình như vậy có được bảo đảm ơn ích gì không?
Một hôm, tôi đọc được những dòng này trong cuốn “Cùng Các Linh Mục Con Cưng của Mẹ”. Xin ghi lại đây những điều Đức Mẹ khuyên các gia đình dâng mình tận hiến cho Mẹ và cộng tác với Mẹ để Mẹ chúc lành, che chở, và giúp cho nên thánh.
“Mẹ hài lòng với những gia đình đã tận hiến cho Mẹ. Trong thời đại này. Mẹ đang qui tụ các gia đình và dẫn họ vào tận Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ (TTVSM), để họ có thể tìm được nơi trú ẩn an toàn, tim được yên ủi và bảo vệ.
Mẹ ưa thích được người ta cầu xin là Nữ Vương các Linh mục, Mẹ cũng muốn người ta cầu xin Mẹ là Mẹ và là Nữ Vương các gia đình đã tận hiến cho Mẹ.
Mẹ là Mẹ và là Nữ Vương các gia đình. Mẹ để ý đến đời sống của họ, quan tâm đến những vấn đề của họ. Mẹ không những quan tâm đến những ích lợi thiêng liêng của họ mà thôi, nhưng còn cả đến ích lợi vật chất của các phần tử trong gia đình nữa.
Tận hiến gia đình cho TTVSM, đó là mở cửa đón rước Mẹ vào nhà và cho Mẹ cơ hội thi hành vai trò từ mẫu của Mẹ một cách mạnh mẽ hơn. Vì thế, Mẹ muốn tất cả các gia đình Công Giáo hãy tận hiến cho TTVSM.
Mẹ muốn mọi gia đình hãy mở của cho Mẹ để Mẹ đến ngự trị giữa các con. Lúc đó như người mẹ, Mẹ sống giữa các con, tham dự vào đời sống của các con.
Nhất là Mẹ săn sóc đến đời sống thiêng liêng của các con. Mẹ tìm cách giúp mọi người trong các gia đình đó luôn luôn sống trong ơn thánh Chúa.
Mẹ tới đâu, tội lỗi rút lui tới đó. Mẹ ở đâu, ở đó có ơn sủng và ánh sáng Thiên Chúa. Mẹ ở đâu, ở đó có trong sạch và thánh thiện. Vì thế bổn phận thứ nhất của Mẹ là làm các phần tử trong gia đình sống trong ơn thánh, giúp họ lớn lên trong đời sống thánh thiện, thực tập các nhân đức công giáo.
Và bởi vì Bí Tích Hôn Phối ban ơn thánh đặc biệt cho các con, giúp các con cùng nhau lớn lên, nên bổn phận của Mẹ là củng cố mối hiệp nhất gia đình. Mẹ giúp vợ chồng hiệp nhất một cách sâu đậm và thiêng liêng hơn. Mẹ kiện toàn tình yêu của họ và hoàn hảo hóa tình yêu tự nhiên của họ, để dẫn họ tới Thánh Tâm Chúa Giêsu, khiến gia đình họ mặc hình thức mới trọn lành hơn, biểu lộ đức ái trong sạch và siêu nhiên hơn.
Càng ngày Mẹ càng củng cố sự hợp nhất trong các gia đình, giúp họ hiểu nhau hơn, cần sự thông hiệp tế nhị và sâu xa hơn.
Mẹ hướng dẫn các phần tử trong gia đình trên đường thánh thiện và vui mừng, giúp họ cùng nhau xây dựng và đồng hành, để họ có thể tiến tới tình yêu hoàn hảo, do đó được hưởng bình an qui báu. Bởi vậy, Mẹ huấn luyện các linh hồn con cái Mẹ và nhờ đường lối gia đình, dẫn họ tới đỉnh thánh thiện.
Mẹ muốn tới ngự nơi các gia đình để giúp các con nên thánh, đem các con đến tình yêu trọn hảo, ở lại với các con, khiến mối hiệp nhất gia đình vũng chãi bền chặt hơn.
Sau đó Mẹ cũng quan tâm đến lợi ích vật chất của các gia đình tận hiến cho Mẹ.
Tài sản quí báu nhất của gia đình là con cái. Con cái là dấu hiệu được Chúa Giêsu và Mẹ thương yêu đặc biệt. Con cái phải được mong muốn, đón nhận và săn sóc như những hạt giống quí báu nhất của gia đình.
Khi Mẹ ngự trị trong một gia đình, lập tức Mẹ săn sóc đến con cái vì con cái của họ đã trở nên con cái Mẹ. Mẹ dẫn dắt chúng, tập chúng thực hiện chương trình từ đời đời Chúa đã ấn định rõ ràng cho mỗi người;
Mẹ yêu thương con cái họ, không bao giờ bỏ rơi chúng, vì chúng là thành phần tài sản quí báu của Mẹ.
Mẹ đặc biệt theo dõi công việc của các con. Mẹ không bao giờ để các con thiếu sót trong việc cộng tác vào quan phòng của Chúa. Mẹ dẫn dắt các con và soi sáng cho các con biết chương trình mà Chúa thực hiện mỗi ngày, nhờ sự cộng tác của các con.
Cũng như sự trung thành chu toàn công việc nội trợ khiêm nhường hàng ngày của Mẹ tại nhà Nazareth bé nhỏ nghèo khó, có thể chu toàn chương trình của Cha, đó là làm cho Chúa Con lớn lên, để thực hiện công cuộc cứu chuộc, thì Mẹ cũng kêu gọi các con hãy cộng tác vào chương trình của Cha, bằng sự hợp tác nhân loại trong công việc thường ngày của các con.
Các con phải làm phần việc của mình như Chúa Cha đã làm phần việc của Người. Hành động của các con phải gắn bó với sự quan phòng của Chúa, để công việc có thể sinh hoa kết quả hữu dụng cho đời sống, làm giầu cho gia đình và các phần tử được vui hưởng hạnh phúc thiêng liêng và vật chất.
Sau đó Mẹ sẽ giúp các con thực hành chương trình Thánh ý Chúa. Đó là làm cho công việc của các con sinh hoa kết quả thiêng liêng hơn, vì Mẹ làm chúng nên nguồn công lênh cho các con và nên cơ hội cứu rỗi cho nhiều con cái lạc đường đáng thương của Mẹ. Rồi, nơi cá nhân các con, hành động sẽ được liên kết với tình yêu, việc làm đi đôi với lời cầu nguyện, nhọc mệt với lòng mong mỏi khát khao đức mến trọn lành hơn.
Như thế, nhờ việc cộng tác với Thánh ý Cha, ngày ngày kiệt tác của Chúa Quan Phòng được thực hiện.
Các con đừng sợ, ở đâu có Mẹ, ở đó được an toàn. Các con sẽ không bao giờ phải thiếu thốn. Mẹ làm hành động của các con hoàn hảo hơn; Mẹ thanh tẩy chính công việc của các con.
Mẹ cũng chia sẻ mối ưu tư của các con. Mẹ biết rằng gia đình các con ngày nay rất ưu tư lo lắng. Những ưu tư đó cũng là những ưu tư của Mẹ.
Mẹ chia sẻ những đau khổ của các con. Vì thế, trong thời gian khó khăn như thời gian thay đổi hiện tại, Mẹ có mặt trong những gia đình tận hiến cho Mẹ như một bà mẹ quan tâm và nhịn nhục. Mẹ thực sự tham dự vào mọi đau khổ của các con. Bởi thế các con hãy yên tâm.
Đây là thời gian của Mẹ. Thời gian “của Mẹ”, nghĩa là những ngày các con đang sống, là “của Mẹ” vì đây là thời gian được ghi dấu sự hiện diện lớn lao và mạnh mẽ của Mẹ. Đây còn là thời gian của Mẹ hơn nữa vì cuộc chiến thắng của Mẹ sẽ rộng lớn hơn và mạnh mẽ hơn, vượt trên những chiến thắng hiện thời của Kẻ Thù. Sự hiện diện của Mẹ sẽ trở nên rất mạnh mẽ và đặc biệt, nhất là nơi những gia đình đã tận hiến cho TTVSM.
Sự hiện diện đó sẽ nên rõ ràng đối với mọi người và sẽ nên như suối yên ủi đặc biệt cho các con.
Bởi thế, các con hãy tiến bước trong tin tưởng, hy vọng và yên lặng, trong công việc hằng ngày, cầu nguyện và khiêm tốn. Các con hãy càng ngày càng tiến tới trong sự trong sạch và ý hướng ngay lành hơn; hãy cùng Mẹ tiến tới trên đường hòa bình khó khăn nơi tâm lòng và trong các gia đình.
Nếu các con tiến bước theo đường Mẹ đã chỉ, nếu các con lắng nghe và thực hành những điều Mẹ đã nói hôm nay, gia đình các con sẽ là những mầm mống đầu tiên của cuộc chiến thắng của Mẹ : những mầm mống bé nhỏ, thầm kín, yên lặng, đã nẩy lên khắp nơi trên thế giới đi trước thời đại mới đã ngay ngoài cửa. Mẹ khích lệ và chúc lành cho tất cả các con.”
(Trích sách “Cùng Các Linh mục Con Cưng của Mẹ” số 358 ngày 23-7-1987).
Quí vị thấy những lời Đức Mẹ dạy tuyệt vời chưa?
Nhưng nếu quí vị hỏi: Đức Mẹ có dạy người ta Dâng mình thế nào không? Thì đây, sẵn sàng có ngay cho quí vị: KINH DÂNG MÌNH CHO TRÁI TIM VẸN SẠCH MẸ MARIA
(Dành cho Tu sĩ và Giáo dân)
(Trích sách trên trang A4 tức là trang 590)
Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Fatima, Mẹ Thương Xót, Nữ Vương Trời Đất, Nơi ẩn Náu của tội nhân. Là những người thuộc về Phong Trào của Mẹ, chúng con xin dâng mình cho Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ cách riêng. Bằng việc dâng mình này, chúng con chủ ý sống với Mẹ và nhờ Mẹ, tất cả những bổn phận chúng con đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa Tội. Chúng con thề hứa sẽ thực hiện việc trở lại nội tâm mà Phúc âm cấp bách đòi hỏi. Việc trở lại này sẽ giải thoát chúng con khỏi những dính bén vào bản thân, những hòa giải dễ dãi với trần thế, để như Mẹ, chúng con có thể luôn luôn thực hành Thánh ý Chúa Cha.
Ôi Mẹ rất dịu dàng thương xót, khi phó dâng đời sống và ơn gọi người Kitô hữu cho Mẹ, để sống theo chương trình phần rỗi của Mẹ trong giờ quyết liệt của thế giới này, chúng con thề hứa sẽ sống theo ý Mẹ, nhất là tinh thần cầu nguyện và đền tạ mới, sốt sáng tham dự Thánh Lễ và tham gia việc tông đồ, hàng ngày đọc Kinh Mân Côi, sống đời nhiệm nhặt theo Phúc âm, nêu gương tốt cho mọi người về việc tuân giữ Luật Chúa và thực hành các nhân đức, nhất là nhân đức trong sạch.
Chúng con thề hứa sẽ hiệp nhất với Đức Thánh Cha, với Hàng Giáo Phẩm và các Linh Mục, để thiết lập hàng rào ngăn chặn sự đối đầu đang lớn mạnh chống lại Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội, đe dọa chính nền tảng của Giáo Hội. Dưới sự che chở của Mẹ, chúng con muốn nên các tông đồ hiệp nhất cầu nguyện và yêu mến Đức Thánh Cha, hiện thời rất cần thiết. Chúng con nài xin Mẹ che chở Ngài cách riêng.
Sau hết, chúng con thề hứa sẽ hết sức dẫn đưa các linh hồn mà chúng con tiếp xúc về việc sùng kính Mẹ.
Vì ý thức rằng nạn vô thần đã gây nên đổ vỡ đức tin cho nhiều người, tội phạm thánh đã xâm nhập vào Đền Thánh Chúa, sự dữ và tội lỗi đang càng ngày càng tràn lan khắp thế giới, với đầy lòng tin tưởng, chúng con cả dám nhìn lên Mẹ, nài xin và trông mong Mẹ ban ơn phần rỗi cho mọi người.
Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Maria, Mẹ khoan nhân, thương xót và từ ái. Amen.
Xin mời quí vị mau ghi tên vào hãng bảo hiểm đời đời Miryam để được bảo đảm phần phúc đời này và ơn cứu rỗi đời sau.
Linh mục Giuse Marco, CMC Ngày kết thúc Tháng Hoa Mẹ 2008 Nguồn: xuanha.net
Giở trang sách của cuộc đời, tôi đọc được mấy hàng tâm sự của Alfred Delp, một linh mục dòng 2/11-168
Giở trang sách của cuộc đời, tôi đọc được mấy hàng tâm sự của Alfred Delp, một linh mục dòng Tên, bị Đức quốc xã bắt giam ở Bá-Linh trong chiến tranh thế giới thứ hai. Trước khi bị tử hình vào ngày 02.02.1945, cha Alfred đã để lại những tâm tình sau:
“Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày”.
Alfred kể tiếp: “Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta… và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều.
Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc này đều sai cả.“
“Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi, xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tin không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được”.
“Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa… Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy… Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa… Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẳng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài.
Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và sóng lớn đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé… Giữa đêm đen Ánh sáng sẽ bừng lên!
Những tâm tình của Cha Alfred Delp làm tôi chìm sâu trong dòng đời cách đây gần 50 năm. Tôi ngạc nhiên về niềm tin vững vàng của Alfred. Trước đe dọa của sự ác và bất nhân, Alfred vẫn can đảm bám vào Chúa của mình. Alfred đã đối diện cái chết, nước mắt cùng máu đã chảy ra. Nhưng những giọt nước mắt và máu đó cần được đưa vào trong nguyện cầu và yêu thương. Những ngày còn lại trong đời chẳng còn gì quý giá hơn là: Gặp gỡ Chúa và yêu thương mọi người. Tuyệt vời quá!
Tôi tự hỏi nếu mình ở trong vị trí của Alfred thì không biết sẽ thế nào? Chẳng biết có thể bền bỉ đứng vững được như cha không. Chẳng hiểu sức người có hạn và lòng tin nhỏ bé này có thể can đảm nhìn Chúa và khẩn cầu cùng Ngài, khi gió bão và sóng lớn của cuộc đời đang đe dọa tôi không? Và chẳng biết lúc đó tôi còn có thể tin tưởng và hy vọng vào Thiên Chúa không? Một Thiên Chúa là Ánh Sáng vẫn chiếu sáng trong bóng đêm. Một Thiên Chúa là tất cả đời tôi.
Và nếu đứng trước ngưỡng cửa của sự chết, thì tôi sẽ thấy điều gì là ý nghĩa và quan trọng trong cuộc đời? Trang sách của cuộc đời được lật tiếp. Tôi đọc được câu chuyện thật cảm động từ quê hương:
11 giờ ngày 18.2.2002, em HTT trút hơi thở cuối cùng khi tuổi đời vừa tròn 22 cái xuân. Người cô ruột của em điện thoại cho tôi biết hiện trạng của em trước khi qua đời. Tôi vội vã đến chia buồn với gia đình. Cùng với gia đình em, tôi làm một số việc trong lúc tang gia bối rối.
Em HTT là ai và tại sao lại ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ như vậy ? Có lẽ chúng ta sẽ không bỡ ngỡ khi nghe tin một người bị tai nạn giao thông hay bị nhiễm HIV / AIDS. Vâng, em là một chàng trai trẻ đầy hứa hẹn và đã bị nhiễm HIV / AIDS. Chuyện quá khứ của em tôi không muốn bàn đến nhiều, vì đến “thánh nhân còn có quá khứ” nữa là. Tôi chỉ muốn nói đến sự biến đổi không ngờ của em từ ngày em biết mình bị nhiễm vì “tội nhân còn có tương lai” mà. Tôi không dám phong cho em làm thánh vì đó là chuyện của Giáo Hội, song em đã để lại trong tôi một ấn tượng đẹp từ ngày tôi gặp em.
Đầu tháng 5 năm 2001, tình cờ cô ruột của em cho tôi biết em bị nhiễm HIV / AIDS khi đi khám bác sĩ. Em buồn lắm và không còn thiết sống nữa. Qua sự việc đó tôi đã tìm gặp em và tâm sự như một người bạn. Lúc đầu em còn ngại ngùng và không muốn thổ lộ, song dần dần em đã cho tôi biết về cuộc sống và về nguyên do hư hỏng của em. Từ một cậu học trò đầy hứa hẹn nhưng do buồn chuyện gia đình và chiều theo lối sống buông thả của một số bạn xấu, em đã tập hút, chích và làm những chuyện xấu xa khác nữa. Rồi chuyện gì đến phải đến. Em vẫn qua được kỳ thi tú tài, nhưng trong một đợt khám nghĩa vụ quân sự theo lứa tuổi, người ta đã cho em biết em có vấn đề về máu. Nửa tin, nửa ngờ, cô ruột của em đưa em đi xét nghiệm tại trung tâm thành phố, cả cô cháu đều tối sầm mặt mũi khi cầm tờ giấy xét nghiệm với ký hiệu HIV dương tính. Trời đất dường như sụp đỗ, song người cô em đã bình tĩnh động viên, an ủi và đưa em về Sài-gòn để lo lắng và chăm sóc. Và lúc đó tôi đã gặp em. Em nói từ ngày biết mình bị nhiễm, em buồn lắm dù có cô luôn lo lắng. Nhiều lúc cơn nghiện đến em muốn bỏ đi và tiếp tục làm những chuyện xấu cho quên sự đời.
Tôi và một số bạn bè đã động viên và giúp em lấy lại tinh thần để luôn nghĩ đến điều tốt đẹp mà hiện nay em có thể làm. Em đã nghe theo và sẵn sàng giúp việc cho gia đình một người bà con của em, với những công việc vừa sức mình. Trong khi đó, người cô ruột của em vì công việc nên phải đi xa một thời gian nhưng luôn viết thư, điện thoại động viên tinh thần của em. Dù đang bận công việc, nhưng cô vẫn luôn tìm kiếm, hỏi han thầy hay thuốc giỏi để chữa trị cho em. Song lực bất tòng tâm với cơn bệnh quái ác này, cơ thể của em dần dần suy sụp đã khiến người cô tốt lành và gia đình em thật đau khổ.
Chính lúc này, em lại là người an ủi và chấp nhận nỗi đau em đã tự gây nên mà không một lời oán trách hay giận hờn ai nữa. Em đã cố gắng làm những gì có thể để có ích cho gia đình và những người thân yêu của em trong những ngày em còn sống. Trong dịp tết Nhâm Ngọ vừa rồi, người cô ruột ấy lại muốn tặng em một món quà em ưa thích, song em bảo: “Đừng cô ơi, tốn tiền lắm. Cô hãy để số tiền mua quà ấy cho người khác cần hơn con.” Câu nói dễ thương ấy làm cô em ứa nước mắt. Trước những ngày em vĩnh viễn ra đi, em đã sống như một vị thánh nhỏ, sẵn sàng chấp nhận việc mình đã làm và xin mọi người hãy tha thứ vì những việc em đã làm.
Em đã được Chúa gọi về trong bình an và thánh thiện. Mọi người khóc thương em vì tuổi đời còn quá trẻ. Ba mẹ em đứng bên xác con mà lòng nặng trĩu và đầy ân hận. Mọi người không ngờ em lại ra đi đột ngột vào lúc này vì em vẫn còn khá khoẻ mạnh và lẽ ra ngày hôm sau sẽ đi tái khám theo định kỳ.
Xong, mọi việc đã được an bài. Chúa đã thương gọi em về như một phần thưởng dành cho em, kẻo sự đời lại làm hoen úa một người con vừa mới quay về sau sự lầm lỗi. Không có sự gì là muộn màng, khi con người biết hối lỗi.
Khi đọc câu chuyện về em HTT lòng tôi sen lẫn xao xuyễn với phấn chấn, đau khổ với hy vọng, bất an với bình an. Tôi cảm phục HTT về sự can đảm của em. Từ trong thế giới của đêm đen em đã vươn dậy. Dù sóng gió cuộc đời là xì ke ma túy đang đe dọa trong chính em, nhưng em vẫn lướt thắng. Đứng trước ngưỡng cửa của sự chết em đã can đảm cúi đầu nhận lỗi của mình trước cuộc đời, trước mẹ cha và người thân. Với quá khứ đó và với vết thương cùng căn bệnh hiểm nghèo đang đe dọa, em vẫn tiếp tục bước những chặng đường còn lại trong đời. Những chặng đường của ăn năn, của đền đáp và của dựng xây. Thật vậy, con đường của tình yêu và con đường của niềm tin vào Chúa cần được dựng xây trở lại. Đường cong của cuộc đời cần được nắn thành đường thẳng đưa về vương quốc của nước Trời.
Đặt mình trong vị trí của HTT tôi tự hỏi mình xem có thể sống như em không? Tôi không biết mình có đủ can đảm để nhìn thấy được tội lỗi của mình, hay lại như Ca-in trốn chạy? Rồi cơn nghiện tiếp tục quấy rầy, làm sao tôi có thể thoát ra đây? Cơn bệnh hiểm nghèo ngày càng gặm nhấm cơ thể tôi, làm cho tôi mất đi sức đề kháng trước các vi-trùng, tôi có thể chịu đựng được không? Và nếu đứng trước ngưỡng cửa của sự chết, thì tôi sẽ thấy điều gì là ý nghĩa và quan trọng trong cuộc đời?
Với Alfred và với HTT tôi trở về với câu chuyện cuộc đời của tôi. Tôi muốn đi tìm thực sự cho mình cái ý nghĩa cuộc đời. Cái ý nghĩa mà thường ngày tôi không nhìn thấy được. Có lẽ do đôi mắt tôi quá mù tối. Có thể do những lo lắng cuộc đời đã vùi câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời vào trong “đất khô”. Cũng có lúc câu hỏi đó xuất hiện và bắt tôi phải đi tìm câu trả lời. Tôi cũng suy nghĩ và tìm được những tia sáng cho ý nghĩa cuộc đời. Tiếc rằng, khi trở về cuộc đời, tôi lại lạc bước trong lo lắng, trong bận bịu và trong đam mê, để rồi tôi sống mà chẳng biết mình sống để làm gì. Tệ hơn là tôi sống mà chẳng còn màng tới ý nghĩa của cuộc sống.
Hôm nay, trong dòng đời tôi gặp Alfred và HTT, những người đã sống và đã vất vả vật lộn với câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Cuối cùng họ đã tìm được. Con người của họ đã để lại cho tôi một vấn nạn cho chính cuộc sống của tôi, và thúc đẩy tôi lần nữa phải đi tìm cho mình câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Hy vọng rằng, tôi sẽ tìm được câu trả lời. Và câu trả lời đó sẽ không bị dòng đời cuốn trôi, mà ở lại với tôi trong đời sống thường ngày, nhờ đó tôi có thể sống mà biết mình sống để làm gì.
Trong quá trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống, tôi phải bắt đầu ở đâu và với cái gì?
Với Alfred và với HTT, tôi mường tượng:
Dòng đời vẫn trôi đều, cuộc sống thường ngày với công việc và với bao lo lắng vẫn ở với tôi. Nhưng một ngày nọ tôi cảm thấy mình mệt mỏi và đau trong cơ thể, mà tôi chẳng biết đau cái gì và chẳng biết chính xác ở chỗ nào trong phần bụng. Sau đó tôi đi khám bệnh. Mấy ngày trôi qua tôi đến phòng khám và chờ nhận kết quả khám nghiệm. Cô y tá gọi tên tôi. Tôi vào phòng khám. Bác sĩ chào đón tôi và mời tôi vào phòng riêng. Sau đó, một cách nghiêm chỉnh bác sĩ báo tin là ông kiếm thấy một cục bướu gần ruột. Giờ đây cần phải mổ để thử xem cục bướu đó lành hay ác. Nghe bác sĩ nói mà tôi bối rối và bất an vô cùng. Tôi như rơi vào một hố sâu của cuộc đời. Nhưng trấn tĩnh lại, tôi hẹn bác sĩ tuần sau sẽ đến để được mổ.
Đúng ngày hẹn tôi tới nhà thương. Bác sĩ mổ xong, hai ngày hôm sau ông ta vào phòng tôi nằm. Thật đau lòng, ông báo cho tôi biết đó là cái bướu ác. Không thể tin vào những gì mình nghe được. Tôi bối rối và suy nghĩ lung tung. Tôi lo lắng vô cùng và chẳng còn thiết đến ăn uống nữa. Tối đến mắt tôi không thể nhắm lại được.
Ngày qua ngày tôi “ôm ấp” cơn bệnh mới. Tôi chẳng hiểu tại sao với tuổi đời còn trẻ tôi lại phải mang cơn bệnh hiểm nghèo này. Càng lo lắng, càng suy nghĩ tôi càng bế tắc. Tôi đau đớn và gia đình của tôi cũng đớn đau với tôi. Sau đó tôi được bác sĩ làm những phương pháp trị liệu và mổ tới mổ lui, để hy vọng có thể diệt được những cái “bướu ác độc” kia. Mấy tháng trị liệu và giải phẫu qua đi, tôi khỏe lại được chút, nhưng sau đó lại cảm thấy đau đớn ở chỗ khác. Cuối cùng, bác sĩ khám và đành nói sự thật, là ông bất lực, vì bệnh Ung Thư của tôi ở thời kỳ cuối. Các ung bướu ác độc đã lan khắp mọi nơi trong cơ thể, vì vậy tôi không còn sống bao lâu nữa. Có thể cuộc đời còn kéo dài khoảng từ 04 – 06 tháng.
Tôi đau đớn khi nghe ông nói. Tại sao lại như vậy? Cuộc đời còn dài trước mắt tôi mà. Mới hơn ba mươi, tại sao tôi lại phải chào vĩnh biệt cuộc đời?
Không, tôi còn muốn sống lắm. Còn bao nhiêu điều tôi muốn làm. Vừa đi dạy học được mấy năm, giờ đây tôi phải giã biệt nghề nghiệp mà tôi đã ôm ấp bao năm trời sao? Rồi ai sẽ lo các em học sinh của tôi? Và gia đình tôi nữa?
Trong đau khổ tôi sống những ngày còn lại. Nhưng rồi tôi suy nghĩ và thấy rằng: “Nếu mình cứ đau khổ mãi như vầy thì cũng chẳng đi tới đâu!” Tôi nhớ lại hình ảnh của Alfred và HTT, giờ đây là hai người bạn thân của tôi. Họ cũng đã đau khổ và bị hành hạ nhiều, nhưng họ đã đứng vững trước những đe dọa của cuộc đời, cuối cùng dù biết rằng chẳng bao lâu mình phải chết, nhưng họ đã biết chọn một thái độ sống đúng đắn cho những ngày còn lại .
Ba chúng tôi mỗi người đều có sự đe dọa riêng và khác nhau, nhưng chúng tôi có một mẫu số chung là phải đối diện với sự chết. Sự chết gần kề, cuộc sống gần tàn, nhưng ý nghĩa cuộc sống không thể mất đi.
Nhưng ý nghĩa cuộc đời là gì và tôi tìm thấy ý nghĩa đó ở đâu? Giờ đây câu hỏi này trở nên sống động trong cuộc sống của tôi. Tôi loay hoay và bắt đầu tìm kiếm.
– Đầu tiên tôi nhìn HTT. HTT đã ăn chơi, đã lầm lỡ và rồi cuối cùng em đã phải “ôm ấp” hậu quả đau thương. Hơn nữa em phải mang một cơn bệnh hiểm nghèo. Trong hoàn cảnh đó em đã đau. Nỗi đau của cuộc đời, của chính một lần sa chân lỡ bước. Thật thê thảm biết bao khi nhìn thấy HTT đang đau và đau… Tệ hãi hơn, cái đau đó được tăng theo cấp số nhân khi em biết rằng, chẳng bao lâu em sẽ chết.
Nhưng cái quý báu ở đây, là HTT không chỉ biết ở lại trong đau đớn để nếm mùi đớn đau, mà sâu hơn em đã đón nhận mình là kẻ tội lỗi, và đã xin mọi người tha thứ. Em đã “gật đầu đồng ý” với những hậu quả tệ hại để lại cho chính mình sau những cuộc ăn chơi.
Nơi Alfred tôi cảm được sự đau khổ và sợ hãi. Trong đêm tối của ngục tù và đe dọa của ác thần từ bên ngoài, Alfred đã run lẩy bẩy. Nước mắt và máu của cuộc đời đã chảy ra. Đau thương chừng nào, khi chứng kiến Alfred đang đau và đau… Trong đêm đen của ngục tù, Alfred đã đồng ý đón nhận đau khổ, đồng ý sự thử thách mà Chúa gởi tới cho cha. Giờ đây phần còn lại là làm sao vững vàng và bền tâm.
Qua tấm gương của HTT và Alfred, tôi học được điều đầu tiên cần có trong lúc tôi đang mang cơn bệnh hiểm nghèo và sẽ phải chết là: “Can đảm ở lại trong đau đớn, cảm nhận mùi vị của đớn đau và biết “gật đầu đồng ý” cùng đón nhận thực tại cuộc sống của tôi. Thêm vào đó, tôi cần vững vàng và bền tâm.”
– Nhìn Alfred tôi đặt câu hỏi, tại sao cha lại có thể tìm được một sự bình an thẳm sâu ngay trong lúc Cha bị hành hạ, tra tấn và đe dọa? Điều gì giúp Alfred có được sự bình an như vậy?
Cả HTT cũng thế, tại sao em lại có thể can đảm ăn năn trở về và quyết tâm thay đổi cuộc đời, dù đời em chỉ còn sống một vài tháng nữa thôi? Dựa vào đâu mà em có thể “quay 180 độ” như vậy và tìm được bình an trong cuộc sống?
“Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta… và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình an thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều”.
“Tôi luôn hy vọng vào Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài
Lời của Alfred vẳng đến tai tôi làm cho tôi tỉnh người và khám phá ra rằng. Điều giúp Alfred có được bình an trong đêm đen là niềm tin và hy vọng vào Chúa của Alfred. Nơi HTT tôi cũng cảm được sự tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Thực vậy, nếu không tin tưởng vào Chúa và hy vọng vào Ngài, thì làm sao em có thể “gật đầu” chấp nhận lầm lỗi, và “quay gót” lìa xa đường cũ để trở về với chính lộ? Với HTT có lẽ những ngày còn lại trong đời em mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa… Ngài có nhiều cách để vực em dậy và dìu em tiếp tục tiến bước.
Như vậy, Alfred và HTT đã ngỏ lời với tôi rằng: “Trong lúc này tôi cần phải tin tưởng và hy vọng tuyệt đối vào Chúa.” Đó là tâm tình thứ hai tôi cần có.
– Trong niềm tin và hy vọng vào Chúa Alfred và HTT đã sống, dù đường đời có thật nhiều bóng đêm. Cho dù bóng đêm có dày đặc và mạnh mẽ đến đâu, vẫn không nuốt chửng được ánh sáng. Ánh sáng của Thiên Chúa. Ánh sáng đó đã được chiếu tỏa trong chính đời sống trong bóng đêm, trong chính đau khổ của Alfred: “Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi, Georg (tên ngoài của cha Alfred) đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng Georg đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương.”
Trước khi chết, các tử tội thường được hỏi mình muốn hưởng điều gì trong giây phút cuối cùng. Người thì muốn có một bữa ăn thật ngon, người thì muốn được gặp lại người thân… Còn với Alfred thì chỉ có hai thái độ rất nhỏ bé quan trọng nhất đối với Cha: “Cầu nguyện và Yêu thương.” Tại sao vậy? Cầu nguyện là một hành động quan trọng nhất và đem lại ý nghĩa cuộc đời cho Alfred sao? Trong giây phút tuyệt vọng và cuối đời này còn cầu nguyện với Chúa để làm gì? Ngài có đến để giải thoát không? Với những tên lính thì chắc chắn là không rồi: “Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày.”
Nhưng với Alfred, thì cả cuộc đời của cha là thuộc về Chúa, và Chúa là tất cả đối với cha. Vì vậy, cuộc đời cha dù vui hay buồn, dù sung sướng hay đau khổ, cha vẫn cầu nguyện. Đặc biệt trong lúc đau thương này, Alfred còn cảm thấy cần thiết phải cầu nguyện hơn bao giờ hết. Trong thinh lặng Alfred gặp Chúa, và chính Ngài sẽ xoa dịu nỗi đau khổ mà cuộc đời gây ra cho cha. Ngài sẽ giải thoát Alfred khỏi mảnh lưới bất nhân với đe dọa, với sợ hãi, và dẫn Alfred tới đồng cỏ xanh tươi, nơi đó Alfred tìm được bình an. Một sự bình an nội tâm thẳm sâu, mà quyền lực của ác thần, của loài người không thể hủy diệt.
Yêu thương – gần chết mà vẫn còn muốn yêu thương!
Yêu Chúa, vì cuộc đời của Alfred thuộc về Chúa. Yêu Chúa, nên Alfred dành thời giờ để gặp Chúa, để nguyện cầu, tán dương và phụng sự Chúa. Phụng sự Chúa trong chính đau khổ của mình.
Yêu thương cả những người hành hạ mình, yêu thương những người muốn bá chủ thế giới, và gây ra bao nhiêu đau khổ cho nhân loại, yêu thương cả ngục tối cuộc đời đang bao phủ mình.
Vâng, gần chết nên cần yêu thương. Không chỉ yêu thương người mà còn yêu thương mình. Thực vậy, chính vì yêu thương mình, mà Alfred biết ý thức chịu và đón nhận đau đớn, biết vững tâm và cậy trông tin tưởng vào Chúa. Vì yêu mình mà Alfred đã tỉnh táo biến đổi nước mắt và máu của chính mình thành nguyện cầu và yêu thương. Và vì yêu mình mà Alfred muốn yêu anh chị em, dù người đó là kẻ mỗi ngày hành hạ mình. Cái sâu sắc của yêu mình là vậy. Yêu mình giúp mình yêu người và yêu Chúa.
Nơi HTT tôi cũng cảm thấy hương hoa yêu thương rất rõ ràng và sống động.
Vì yêu mình mà HTT đã biết nhìn lại và ăn năn. Nhưng không chỉ thế, yêu mình còn thúc đẩy mình tới một hành động rất cụ thể là biết đón nhận đau thương và hậu quả tội lỗi mình gây ra. Yêu mình nên dám can đảm nói với mình rằng: “Tôi là người tội lỗi.”
Yêu mình giúp tôi yêu người. Khi biết tự mình đau đớn thế nào về những gì mình gây ra cho mình, thì anh chị em mà mình một cách trực tiếp hay gián tiếp gây đau khổ cho họ, cũng đau đớn như vậy và đôi khi hơn mình nữa. Vì thế, cần phải “mở cửa”, cần phải bỏ mặt nạ cuộc đời xuống và không sợ mắc cở, để đi đến anh chị em và xin họ tha thứ. Một hành động yêu thương tuyệt vời. Với yêu thương, HTT đã tiếp tục sống những ngày còn lại thật tốt lành với anh chị em và với chính mình. Một hành động diễn tả sự yêu thương anh chị em của HTT để lại cho tôi một ấn tượng sâu sắc: “Trong dịp tết Nhâm Ngọ vừa rồi, người cô ruột ấy lại muốn tặng em một món quà em ưa thích, song em bảo : “Đừng cô ơi, tốn tiền lắm. Cô hãy để số tiền mua quà ấy cho người khác cần hơn con.”
Yêu mình và yêu anh chị em được gói gọn trong tình yêu dành cho Chúa. Chắc chắn khi thay đổi cuộc đời mình, HTT đã hiểu được tình Chúa dành cho mình ra sao, nên có lẽ những ngày còn lại trong đời HTT đã sống với Chúa cách gần gũi. Người kể chuyện đã nói: “ Trước những ngày em vĩnh viễn ra đi, em đã sống như một vị thánh nhỏ.”
Nhìn Alfred và HTT tôi gẫm lại cuộc đời mình lúc này. Chỉ còn một vài tháng nữa tôi sẽ chào cuộc đời. Tôi sẽ làm gì để những giây phút còn lại sẽ tràn đầy ý nghĩa? Không gì khác hơn là cần ý thức sống Yêu Thương và Nguyện Cầu.
Trở về với mình, với hoàn cảnh bệnh hoạn và sẽ phải chết trong mấy tháng sắp tới, mà tôi đang mường tượng. Tôi cám ơn Alfred và HTT, hai người bạn của tôi thật nhiều. Tôi cảm tạ Thiên Chúa từ nhân dường bao. Giờ đây, tôi đã biết mình phải sống thế nào. Tôi cần:
(1) “Can đảm ở lại trong đau đớn, cảm nhận mùi vị của đớn đau và biết “gật đầu đồng ý” cùng đón nhận thực tại cuộc sống của tôi. Thêm vào đó, tôi cần vững vàng và bền tâm.”
(2) “Trong lúc này tôi cần phải tin tưởng và hy vọng tuyệt đối vào Chúa.”
(3) Lúc này, điều quan trọng nhất là Yêu Thương và Nguyện Cầu.
Đóng cuốn sách cuộc đời lại và kết thúc bài tập mường tượng. Tôi muốn dừng viết ở đây và đứng lên để trở lại cuộc sống thường ngày của tôi, thì tôi lại nghe được lời Thánh I-Nhã nhắc nhở: “ Xét coi, ví như tôi đang ở vào giờ chết, thì thái độ và quy tắc mà lúc ấy tôi muốn mình tuân theo trong công việc lựa chọn hiện bây giờ như thế nào, và rắp tâm quyết định hoàn toàn tuân theo quy tắc đó” (Linh Thao 186) Lời dạy bảo của I-Nhã nhắc nhở tôi rằng: “Tôi có làm bao nhiêu bài tập mường tượng, tôi có rút ra nhiều bài học thật hay qua những tấm gương đi trước, hay tôi có biết bao nhiêu ý tưởng tốt lành và đẹp đẽ, hơn nữa tôi có tìm được cho mình ý nghĩa cuộc đời là gì, mà tôi không rắp tâm quyết định hoàn toàn tuân theo những giá trị, những quy tắc, những kim chỉ nam tôi đã tìm thấy, thì tất cả sẽ chẳng giúp ích gì.
Như vậy, thật đẹp khi tôi nói với mình rằng: “Cuộc đời tôi chỉ có ý nghĩa, khi tôi biết sống đón nhận mọi sự, cả niềm vui lẫn nỗi buồn và ý thức vững tâm và bền bỉ sống, đặc biệt trong những lúc khổ đau. Cuộc đời của tôi chỉ giá trị thực sự, khi tôi biết tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Và cuộc đời tôi cần phải được sống động hóa trong hai thái độ đơn sơ và nhỏ bé: Nguyện cầu và Yêu Thương.”
Nhưng thật tệ hại, khi tôi nói mà tôi không ý thức tập sống những điều đó. Như vậy, thì thật uổng cho những gì tôi mới mường tượng, mới học được. Một cách nào đó, tôi đang đánh lừa chính bản thân mình.
Hai người bạn của tôi là Alfred và HTT sẽ nhìn và buồn với tôi, khi họ chỉ thấy tôi nói hay, nghĩ tốt mà sống chẳng ra gì. Và nếu lời nói tôi và suy nghĩ của tôi không đi đôi với cuộc sống tôi, thì tôi có yêu thương mình thật không?
“Yêu thương phải đặt trong hành động hơn là trong lời nói” (Linh Thao 230).
Mọi người trên trần gian đều mang lấy hậu quả tội nguyên tổ, nên từ lúc được sinh ra chúng ta 2/11-169
Mọi người trên trần gian đều mang lấy hậu quả tội nguyên tổ, nên từ lúc được sinh ra chúng ta nghiêng chiều về tội lỗi và ích kỷ (Khởi Nguyên 8, 21). “Nếu chúng ta nói mình không có tội, chúng ta tự lừa dối chính mình” (1 Gioan 1, 8). Khi chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng ta qua Bí tích Rửa tội và Giải tội, nhưng chúng ta phải làm việc đền tội để thanh tẩy hậu quả tội lỗi với đời sống ăn chay, cầu nguyện, hy sinh phục vụ, làm việc bác ái từ thiện, trả của lại cho người khác theo đức công bằng, hoặc thanh luyện dưới luyện ngục nếu chúng ta đền tội trên trần gian chưa đủ. Có nhiều tội, sau khi được tha tội qua bí tích Giải tội, chúng ta khó lòng đền tội cho đủ trên trần gian như tội giết người, phá thai, làm mất thanh danh người khác, vu cáo, phá hạnh phúc gia đình người khác, ngoại tình, làm gương xấu….. Vì vậy, có những Linh hồn phải thanh tẩy ở Luyện ngục đến ngày tận thế.
Về Công Phúc, sách Giáo Lý số 426 (2006-2010 /2025-2026) dạy rằng: Công phúc là điều đem lại quyền được thưởng cho một hành động tốt. Trong những liên hệ với Thiên Chúa, con người tự mình không có gì được gọi là công phúc, vì họ lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho con người khả năng lập công nhờ kết hợp vào đức ái của Ðức Kitô, nguồn mạch các công phúc của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, công phúc của những việc lành trước hết là do ân sủng của Thiên Chúa, thứ đến mới do ý chí tự do của con người.
Chỉ trong đời sống ân sủng, không vướng mắc một tội trọng nào, chân thành sám hối và kết hợp với Chúa Giêsu để thờ phượng và phục vụ thì mới sinh công phúc. Hội Thánh còn chỉ định những việc có ân xá để chúng ta lập thêm công phúc và giúp các Linh hồn nơi Luyện ngục được thanh tẩy sớm hơn. (Xem bản ơn Đại Xá)
Để đời sống chúng ta lập được nhiều công phúc và đền tội cho mình và nhân loại, chúng ta có thể làm những việc trong tầm tay chúng ta như sau:
1) Xưng tội vào đầu mỗi tháng với ý chỉ để nhận ơn Đại Xá hay Toàn Xá 2) Dự Thánh Lễ và Rước Lễ mỗi ngày, hoặc ít nhất Thứ Bảy và Chúa Nhật, hoặc một ngày nào trong tuần.
3) Ghi danh vào nhóm Mân Côi và liên kết lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày.
4) Hoặc đọc Kinh Thánh, hoặc Chầu Thánh Thể mỗi ngày nửa giờ.
5) Đọc bản ơn Đại Xá để chúng ta không bỏ lỡ những cơ hội nhận ơn Đại Xá, chẳng hạn, viếng nghĩa trang từ ngày 1- 8 tháng 11.
6) Mỗi ngày cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng bằng việc đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng.
Như vậy, mỗi ngày, mỗi người đều nhận được một ơn Đại Xá, có thể cứu giúp một Linh hồn nơi Luyện ngục về thẳng Thiên Đàng do lòng Thương Xót Chúa nhờ kết hiệp với Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Mỗi ngày qua đi, chúng ta mất đi một cơ hội đời đời, không bao giờ níu kéo được.
Nếu mỗi tuần chúng ta cố gắng để đạt được 2 ơn Đại Xá cho các Linh Hồn, thì mỗi năm, mỗi người có thêm 100 người bạn thánh thiện trên Thiên Quốc. Mỗi gia đình với hai vợ chồng nổ lực, mỗi năm gia đình có 200 người bạn thánh hổ trợ gia đình và con cái. Mỗi Giáo xứ có được 100 người như vậy, mỗi năm Giáo xứ có thêm được 10.000 vị thánh hổ trợ cho chúng ta trong cuộc chiến cam go giành các Linh Hồn về cho Chúa. Các Linh Hồn khi được về Thiên Đàng chắc chắn sẽ cầu nguyện và hổ trợ chúng ta cho tới khi họ thấy các ân nhân của họ được an toàn hưởng hạnh phúc với họ trên Thiên Quốc.
Thánh nữ Magarita thành Cortona có lòng thương các linh hồn Luyện ngục lắm. Trong truyện đời thánh nữ, người ta kể rằng: Khi qua đời, thánh nữ đã thấy vô số linh hồn mà người đã cứu khỏi Luyện ngục đã mặc hình người đón linh hồn thánh nữ vào thiên quốc.
Thánh Philip Nêri cũng được nhiều linh hồn con thiêng liêng hiện ra với người sau khi họ qua đời, hoặc để xin người cầu nguyện, hoặc để cảm ơn người đã cứu giúp. Khi thánh nhân qua đời, một linh mục dòng người được thấy vô số linh hồn đến vây quanh và đưa người vào Thiên đàng.
************
Lời Cầu Nguyện Của Thánh Gertrude Cho Các Đẳng Linh Hồn
Thiên Chúa đã từng nói với Thánh Gertrude rằng: cứ mỗi lần lời cầu nguyện này được đọc lên thì sẽ có 1,000 linh hồn được thoát khỏi lửa luyện ngục. (Đọc với tâm tình như thánh Gertrude)
“Lạy Cha Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Bửu Huyết của Chúa Giêsu Con Chí Thánh Cha, hiệp cùng các Thánh Lễ được cử hành trong ngày hôm nay trên khắp toàn cầu để chỉ cho các Linh Hồn nơi chốn Luyện hình, cho các tội nhân ở khắp nơi, trong Giáo Hội phổ quát, nơi quê hương con và trong chính gia đình con. Amen.”
Thánh Nữ Gertrude, người Đức, là vị Nữ Tu Dòng Kín thuộc Dòng Biển Đức. Mỗi ngày, Thánh Nữ lúc nào cũng chiêm niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu; và cứ mỗi lần chiêm niệm như vậy, nước mắt của Thánh Nữ cứ tuôn tràn ra. Thánh Nữ đã thực hiện rất nhiều việc đền tội cho các linh hồn, và Đức Mẹ đã hiện ra rất nhiều lần với Thánh Nữ. Thánh Nữ rất sùng kính Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ và luôn cầu nguyện cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục. Thánh Nữ qua đời vào năm 1334. Giáo Hội dành ngày 16 tháng 11 để Kính Thánh Nữ Getrude.
******** Ngày 22 tháng 8 năm 1934, Chúa Giêsu dạy Sơ Consolata Bertrone: để cứu các linh hồn con hãy thường xuyên đọc:
Giêsu Maria Giuse, con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn.
***** Ngày 1-10-1917 Chúa Giêsu phán cùng nữ tu Beninha: “Thế giới đang chạy theo đà hủy diệt của nó, nhưng Ta sẽ dùng đội quân những linh hồn dũng cảm chiến đấu dưới sự hướng dẫn của Ta để ngăn chận nó trong cuộc chạy đua choáng váng này.”
Xin bạn hãy tận hiến cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria, sống kết hiệp với Chúa trong đời sống cầu nguyện, và chính Chúa sẽ dạy bạn biết phải làm gì trong trận chiến đức tin ngày hôm nay. Bạn chiến đấu với sức mạnh của chính Chúa ở trong bạn. Cầu nguyện với tất cả tâm tình yêu mến là sức mạnh đầu tiên của bạn. Thánh Bênađô đã từng nói: Ai không cầu nguyện, thì không cần ma quỷ cám dỗ, tự mình liều mất đức tin”. Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu và Ngài đã chiến thắng thế gian. Vì vậy, chúng ta đã biết trước phần thắng đã thuộc về những ai yêu mến Chúa. Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Rev. Peter Lê Quang
*****************
Những kinh, những việc có đại xá:
Điều kiện lãnh đại xá:
1. Xưng tội (trước hoặc sau ngày lãnh đại xá (trong vòng một tháng), 2. Rước lễ (chính ngày lãnh đại xá), – Có ý hướng nhận ơn Đại Xá. 3.Cầu nguyện theo ý ĐGH (đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng),
4. Lần Chuỗi Mân Côi theo Hội, hoặc trong nhà thờ, hoặc gia đình; hoặc đọc Kinh Thánh 30 phút; hoặc chầu Thánh Thể 30 phút; hoặc làm những việc có Đại xá dưới đây.
– Khi viếng nhà thờ để lãnh đại xá sẽ đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Tin kính.
1. CÁC KINH CÓ ĐẠI XÁ
(Theo số trong Bảng Liệt Ân xá do Tòa Xá giải công bố năm 1968 )
22. Đọc kinh “Lạy Đức Chúa Giêsu rất nhân lành rất cam thay vô cùng” sau khi Rước lễ các Thứ Sáu Mùa Chay, và Tuần Thương khó trước Ảnh tượng Chúa Tử nạn. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.
26. Đọc chung kinh “Lạy Đức Chúa Giêsu rất nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội” vào ngày lễ kính Trái Tim Chúa để đền tạ Chúa. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.
27. Đọc chung kinh “Lạy Đức Chúa Giêsu rất êm ái dịu dàng, là Đấng đã chuộc tội loài người ta” vào ngày lễ Chúa Giêsu Vua. Đọc các ngày khác, hay đọc riêng chỉ được tiểu xá.
48. Đọc chung và suy ngắm 50 kinh Mân côi trong nhà thờ, hoặc nhà nguyện công, hoặc với gia đình, cộng đồng tu trì, hay hội đạo đức. Ngoài ra chỉ được tiểu xá.
59. Hát kinh “Đây Nhiệm tích vô cùng cao quí” tối Thứ Năm Tuần Thánh và lễ Mình Thánh Chúa. Hát các lúc khác chỉ được tiểu xá.
60. Hát kinh Tạ Ơn Chúa (Te Deum) chiều ngày cuối năm. Hát lúc khác chỉ được tiểu xá.
61. Hát kinh “Xin Chúa Ngôi Ba” (Veni Creator Spiritus) ngày đầu năm mới và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Các lúc khác chỉ được tiểu xá.
2. CÁC VIỆC CÓ ĐẠI XÁ
(Khi viếng Nhà thờ, đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Tin kính)
3. Viếng Chúa, chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ. Không đủ nửa giờ chỉ được tiểu xá.
11. Viếng một trong bốn đại Thánh đường Rôma vào lễ Bổn mạng đại thánh đường ấy, hoặc vào bất cứ Lễ buộc nào trong năm, hoặc tùy ý chọn ngày nào một lần trong năm.
12. Lãnh phép lành Đức Giáo Hoàng ban cho thành Rôma và Thế giới (dù qua radio, TV).
13. Viếng nghĩa địa cầu hồn trong vòng 8 (tám) ngày đầu (1 -8 ) tháng 11.
17. Thờ lạy và hôn kính Thánh giá ngày Thứ Sáu Tuần thánh theo nghi lễ Giáo hội.
23. Dự nghi lễ bế mạc Đại Hội Thánh Thể.
25. Cấm phòng ba ngày trọn.
28. Giờ nguy tử, dù không thể có Linh mục tới ban các Bí tích cuối cùng và phép lành Tòa Thánh, Giáo hội cũng ban đại xá (toàn xá) cho những ai trong đời sống đã có thói quen đọc kinh cầu nguyện (trường hợp này thói quen đó thay ba điều kiện xưng tội, rước lễ, cầu theo ý Đức Giáo Hoàng. Người nguy tử hôn kính tượng Thánh giá, giục lòng ăn năn tội để lãnh đại xá, dù hôm đó đã lãnh đại xá rồi).
35. Dùng Thánh giá, tràng hạt, ảnh đeo Đức Giáo Hoàng hay Đức Giám Mục đã làm phép (để tôn kính, lần hạt…) vào ngày lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô Phaolô, và đọc bản tuyên xưng Đức Tin (kinh Tin kính). Dùng Thánh giá, tràng hạt, ảnh đeo do Linh mục làm phép chỉ được tiểu xá.
41. Nghe vài bài giảng trong kỳ có Linh mục tới giảng đại phúc, cấm phòng và dự nghi lễ trọng thể bế mạc. Nghe các bài giảng lúc khác chỉ được tiểu xá.
42. Người Rước lễ lần đầu và những người giúp cho việc Rước lễ ấy.
43. Linh mục dâng lễ đầu tay trọng thể và những người dự lễ ấy.
49. Linh mục tuyên hứa lại trung thành với Ơn gọi tu trì, và cho những ai dự lễ trọng kỷ niệm 25, 50, 60 năm thụ phong Linh mục.
50. Cung kính đọc Kinh Thánh đủ nửa giờ. Không đủ nửa giờ chỉ được tiểu xá.
Ai ngăn trở, (ví dụ già lão, bệnh nạn, tù tội…), nếu suy ngắm sự Thương khó Chúa nửa giờ cũng được.
65. Viếng nhà thờ giáo xứ ngày lễ Bổn mạng nhà thờ ấy, hoặc ngày 02 tháng 8 (ngày GH ban đặc ân Portiuncula cho nhà thờ Đức Bà Thiên Thần tại thành Portioncula, nước Ý).
66. Viếng nhà thờ, hoặc bàn thờ ngày được làm phép hiến thánh.
67. Viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện công hay bán công vào Chúa Nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ các Thánh để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.
68. Viếng nhà thờ, nhà nguyện dòng ngày kính Vị Thánh Sáng lập.
69. Dự một nghi lễ tại nhà thờ trong thời gian Đức Giám Mục hay Đại diện thăm mục vụ Giáo xứ. Nếu chỉ viếng nhà thờ trong thời gian đó thì được tiểu xá.
70. Tuyên lại lời hứa khi lãnh Bí tich Rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh, hoặc vào ngày kỷ niệm được Rửa tội theo mẫu quen dùng. Tuyên lại lúc khác chỉ được tiểu xá. (có thể đọc kinh Tin kính: Tôi tin kính ĐCT.. NHỜ THÔNG HIỆP VÀO CÔNG CUỘC CỨU ĐỘ CỦA CHÚA GIÊSU, MỖI ƠN ĐẠI XÁ
CỨU MỘT LINH HỒN NƠI LUYỆN NGỤC VỀ THẲNG THIÊN ĐÀNG
Đây là vài hình ảnh ở Bảo Tàng Viện Luyện Hình (Small Purgatory Museum) tại Rôma và những 2/11-170
Đây là vài hình ảnh ở Bảo Tàng Viện Luyện Hình (Small Purgatory Museum) tại Rôma và những lời giải thích.
Lm Victor Jouet, được Thánh GH Piô X động viên, đã thành lập bảo tàng viện này nhằm giúp người ta tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, và nhờ lòng sùng kính này mà giúp đỡ các linh hồn nơi Luyện Hình.
Ngày 1-11-1731, cố Tu viện trưởng Panzini (Dòng Biển Đức Olivetan ở Mantua, Ý) hiện về với Mẹ Isabella Fomari (Dòng Thánh Clara ở Todi) khi Mẹ đang ngồi ở bàn làm việc. Tu viện trưởng Panzini nói rằng ngài đang chịu đau khổ nơi Luyện Hình. Lúc đó ngài đặt bàn tay đang cháy lên bàn làm việc của Mẹ Isabella và đã in hình bàn tay lên chiếc bàn đó. Sau đó, ngàidùng ngón tay đang cháy vẽ hình Thánh Giá lên bàn. Ngài cũng chạm tay vào tay áo của Mẹ Isabella và khiến tay của Mẹ Isabella bị phỏng và chảy máu. Áo và máu của Mẹ Isabella Fomari không có ở bảo tàng viện này, nhưng còn một miếng gỗ của chiếc bàn kia.
Mẹ Isabella đã kể lại cho Lm Isidoro Gazata nghe chi tiết. Lm Isidoro đã cho điều tra để xác định vết cháy kia là vết cháy do lửa siêu nhiên.
Ngày 5-6-1894, cố Nữ tu Maria Thánh Louis Gonzaga đã hiện về với Nữ tu Margherita và cho biết Chị đang chịu đau khổ nơi Luyện Hình.
Nữ tu Maria là người đạo đức nhưng khi bị bệnh lao phổi, Chị buồn và cầu xin cho được mau chết để bớt đau đớn. Vài ngày sau, Chị qua đời trong vẻ thánh thiện.
Khi hiện về, Nữ tu Maria mặc áo dòng, xung quanh có bóng mờ. Chị nói với Nữ tu Margherita rằng Chị đang ở trong Luyện Hình để đền tội vì thiếu kiên nhẫn khi bị bệnh nên đã cầu xin được chết sớm hơn ý Chúa định, và Chị xin Nữ tu Margherita cầu nguyện cho Chị.
Để chứng tỏ mình đang chịu đau khổ trong Luyện Hình, Chị đã chạm tay vào chiếc gối đầu của Nữ tu Margherita và làm lủng một lỗ. Sau đó, Chị đã hiện về hai lần để cảm ơn Nữ tu Margherita đã cầu nguyện cho mình, và cho biết rằng Chị sẽ sớm được cứu thoát khỏi Luyện Hình. Chị cũng đưa ra vài lời khuyên cho các nữ tu trong cộng đoàn Dòng Thánh Clara.
Ngày 5-3-1871, chị Palmira Rastelli hiện về với cô bạn Maria Zaganti để xin người anh của chị là Lm Sante Rastelli dâng lễ cầu hồn cho chị. Chị mới qua đời hơn ba tháng, và đang ở trong Luyện Hình. Chị Palmira đã đặt mấy ngón tay lên sách kinh của Maria và để lại vết cháy của ba ngón tay trên đó.
Thánh Catherine Genoa nói về Luyện Hình rằng có sự đau khổ trong lửa, nhưng đồng thời cũng có tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa và sự an ủi là cuối cùng thì các linh hồn trong đó cũng sẽ được lên Thiên Đàng. Chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho các linh hồn. Họ sẽ không bao giờ quên chúng ta đã cầu nguyện cho họ. Chúng ta thật hạnh phúc được là người Công giáo, biết về sự hiệu quả của ân xá và lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Hình. Nếu chúng ta giúp đỡ họ, sẽ có người khác giúp đỡ chúng ta sau khi chúng ta qua đời.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ TraditionalCatholicPriest.com)
Thiên Chúa Người tác tạo ra nhân loại chúng ta và cho sống nơi Trần Gian này thật là điều đáng 2/11-171
Thiên Chúa Người tác tạo ra nhân loại chúng ta và cho sống nơi Trần Gian này thật là điều đáng quý và vô giá biết là chừng nào vì không gì trên Trần Gian có thể cho được và có được, vì sao? Thưa vì nếu chúng ta không được sinh ra và sống trọn kiếp người (của từng người) ở Trần Gian này thì chúng ta hoàn toàn là hư không, linh hồn chúng ta sẽ không có và có nơi để Đi Về sau khi đã mãn phần sống ở Trần Gian này. Thú vị biết bao và cảm tạ sao cho xiết một Thiên Chúa Đấng đầy quyền năng đã tác tạo ra chúng ta.
Là bậc cha mẹ người Công Giáo khuyên tất cả nên dạy dỗ con cái của mình sống tốt từ khi chúng có trí khôn. Từ khi chúng ở tuổi học hỏi là nhìn, nghe và rồi bắt chước trực tiếp ngay ở cha mẹ của chúng. Do đó mà quan trọng lắm thay khi cha mẹ trẻ cần cố gắng để thay đổi chính mình, hy sinh để dạy dỗ con cái nên người hữu ích cho xã hội tương lai, được trở nên sáng lạn và nên tốt đẹp.
Vì có phải sanh con ra mà không dạy dỗ chúng lại để cho người ăn kẻ ở họ dạy con cái mình thì e rằng sẽ có nhiều điều chúng học bắt chước hẳn không được tốt?. Hay vì sự sinh sống cần phải có mà chúng ta đưa con cái đến những nhà trẻ ở tuổi quá sớm để họ trừng trị và tra tấn con cái của mình. Hay tệ hơn nữa là chúng ta chẳng có một ý niệm gì hoặc có trách nhiệm gì trên chúng con cái mà chỉ hiểu cách thiển cận là lấy nhau thì phải có con mà chẳng có sự chuẩn bị nào cả.
Nhưng điều thiết yếu mà chúng ta cần lắm là làm sao để giữ linh hồn tránh xa được mọi chước cám dỗ, mọi cạm bẫy giăng mắc trên Trần Gian này trong một cuộc sống mà cơm, áo, gạo, tiền luôn là ưu tiên, luôn là điều hằng ngày mà không cho phép chúng ta không nghĩ tới. Như không ăn sao sống? Không có phương tiện xe cộ sao đi làm được hay đi được đến đâu?. Không tiền sao có được thuốc men những khi gặp đau yếu, bệnh tật?. Không tiền sao lấy vợ lấy chồng rồi sống ở đâu, v.v…???.
Nhưng chúng ta cũng cần học hỏi để nhận biết đâu là ở mức giới hạn, bao nhiêu là đủ để sống có hạnh phúc và có nhiều ở mức bao nhiêu để chúng ta không đánh mất hạnh phúc gia đình và mất cả linh hồn sống đời cho những thứ không cần thiết có. Cho những của chóng qua mà mãi mãi không luôn là của ta. Cùng nhận thức rằng chúng ta có thể bất thình lình từ giã cõi đời mà không kịp cho một lời trăn trối nhắn gửi gì đến người thân thương của chúng ta.
Thử hỏi chúng ta sung sướng gì khi tiệc tùng ăn nhậu cho nhiều. Thoải mái gì khi được nằm giường Lèo. Hạnh phúc chi khi trong nhà chất chứa toàn những thứ không cần thiết nhưng phải có thì mới thỏa lòng? Trong khi ta phung phí như thế nhưng lòng ta lại rất hạn hẹp hay đóng hẳn cửa lòng trước những mảnh đời khốn khổ đang sống chung quanh chúng ta.
Mà thật sự hỏi lòng mình rằng có phải sự rộng rãi chúng ta đối với người là thật sự cho người hay không? Hay hành động chia sẻ trong khả năng khiêm tốn đó mới thực sự là chúng ta làm cho chúng ta sau này? Vì ai có lòng bác ái càng nhiều thì tên và nhà của chúng ta sau này nó mới có được ở Trên Trời thưa anh chị em!.
Tháng 11 là tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Ngục là tháng nhắc nhở chúng ta hãy trở về cùng Chúa để được Chúa nuôi dưỡng xác hồn vì thời giờ chúng ta có hạn. Hãy làm nhiều việc bác ái để cầu nguyện cho các linh hồn đang ở Luyện Ngục sớm về hưởng Nhan Thánh Chúa qua việc chúng ta siêng năng đọc kinh Mân Côi, tham dự Thánh lễ, xin Lễ, v.v…
Năm 1884, Đức Ông Paul-Joseph Buguet (1843-1918) thành lập Hội Phạt Tạ tại Chappelle-Montligeon 2/11-172
Năm 1884, Đức Ông Paul-Joseph Buguet (1843-1918) thành lập Hội Phạt Tạ tại Chappelle-Montligeon, miền Trung nước Pháp. Hội Phạt Tạ có mục đích đền tội và cầu nguyện cho các Linh Hồn bị bỏ rơi, các Linh Hồn mồ côi, được mau giải thoát ra khỏi Lửa Luyện Ngục. Một thời gian sau ngày thành lập, Hội Phạt Tạ được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903) nâng lên hàng Tổng Hội.
Rất nhanh sau đó, Hội Phạt Tạ được truyền bá khắp thế giới. Không một quốc gia nào lại không biết đến Hội, và mỗi quốc gia đều có hàng ngàn thành viên. Báo chí, tác phẩm của Hội viết bằng tiếng Pháp, được chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau. Hội có các thành viên nhiệt thành ở khắp các nước Âu Châu, Phi Châu, Úc Châu, trong toàn Châu Mỹ và ngay cả miền Cận Đông nữa.
Hội Phạt Tạ có trụ sở tại đền thánh Đức Mẹ Montligeon. Đền Thánh được cung hiến ngày 28-8-1928 với tước hiệu ”Đức Mẹ Giải Thoát Các Linh Hồn khỏi Lửa Luyện Hình”. Bức tượng được tôn kính trong Đền Thánh, có hình Đức Mẹ MARIA bồng Đức Chúa GIÊSU. Đức Chúa GIÊSU đang cúi xuống đội triều thiên cho Linh Hồn của một tín hữu vừa được giải thoát khỏi Luyện Ngục đang quỳ dưới chân Đức Mẹ MARIA, về phía bên phải. Tín hữu này đôi tay chắp trước ngực và ngước mắt nhìn Đức Mẹ MARIA. Dưới chân Đức Mẹ MARIA về phía bên trái, là hình Linh Hồn của một tín hữu còn bị giam cầm, đang ngồi, hai tay xếp lại trên đầu gối và bị mang còng. Tín hữu này ngước mặt van lơn nhìn Đức Mẹ MARIA.
Bức tượng Đức Mẹ MARIA và Đức Chúa GIÊSU này được đội triều thiên ngày 19-9-1935, thể theo ý muốn của Đức Thánh Cha Pio XI (1922-1939). Hai năm sau, ngày 12-7-1937, Đức Hồng Y Eugenio Pacelli, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh – sau này lên ngôi Giáo Hoàng với tên Pio XII – đến Montligeon, quỳ gối cầu nguyện tại đền thánh Đức Mẹ Giải Thoát các Linh Hồn khỏi Lửa Luyện Tội. Khi được bầu làm Giáo Hoàng, Đức Pio XII (1939-1958) chấp nhận tước hiệu ”Người Bảo Trợ Hội Phạt Tạ”. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963), ghi tên gia nhập Hội Phạt Tạ từ năm 1929. Còn Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978) thì ban Phép Lành Tòa Thánh cho Hội Phạt Tạ và cho tất cả những thành viên của Hội.
Ngày 20-5-1908, Đức Thánh Giáo Hoàng Pio X (1903-1914), ban 100 ngày ân xá cho mỗi thành viên Hội Phạt Tạ, mỗi khi đọc lời nguyện sau đây, để cầu cho Các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, dâng lên Đức Mẹ Montligeon (Đức Mẹ Giải Thoát các Linh Hồn khỏi Lửa Luyện Hình):
Kính lạy Đức Trinh Nữ MARIA Vinh Hiển, xin Mẹ hãy thương xót đoái nhìn đến những Linh Hồn thánh thiện, còn đang bị cầm giữ một thời gian thanh luyện, cách xa Chúa và xa Mẹ, Người Mẹ rất từ bi nhân hậu của các ngài. Xin Mẹ hãy bẻ gãy xích xiềng và mau giải thoát các ngài khỏi vực thẳm, nơi các ngài đang than khóc, hướng vọng về thiên quốc và mong mau đến ngày được hạnh phúc kết hiệp vĩnh viễn cùng Chúa, Đấng mà lòng các ngài hằng ước ao khao khát. Xin Mẹ để ý cách riêng đến những Linh Hồn bị bỏ rơi nhất. Chúng con đặc biệt khẩn cầu cùng Mẹ đoái thương đến các ngài. Ôi lạy Mẹ nhân ái, xin Mẹ hãy chấp nhận lời chúng con nài van. Chúng con dâng lời tha thiết kêu van Mẹ, lạy Mẹ MARIA, xin Mẹ hãy quy tụ tất cả chúng con về Trời, bên cạnh Đức GIÊSU KITÔ Chúa chúng con, Người Con Đáng Kính Đáng Tôn của Mẹ, là Đấng Hằng Sống, Hằng Trị, cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần, đến muôn thưở muôn đời chẳng cùng. Amen. Lạy Đức Mẹ MARIA Montligeon, xin cầu cho các Linh Hồn bị bỏ rơi nơi Luyện Ngục.
… ”Lạy THIÊN CHÚA, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm. Lạy THIÊN CHÚA, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Thánh Vịnh 51(50) 3-14).
(Maria Simma, ”Les Âmes du Purgatoire m’ont dit”, Editions du Parvis, 1990, trang 120)
Không gì tuyệt hảo cho bằng khi chúng ta siêng năng đọc kinh Mân Côi, cầu nguyện, tham dự 2/11-173
Không gì tuyệt hảo cho bằng khi chúng ta siêng năng đọc kinh Mân Côi, cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, xin Lễ và làm việc bác ái để cầu cho tất cả linh hồn nơi Luyện Ngục; Nơi mà họ đã hoàn toàn bất lực, tê liệt và chỉ còn biết cầu cứu vào những người thân, họ hàng, bạn bè đang còn sống cùng những người hảo tâm không từng quen biết.
Nhưng thưa có chắc rằng người thân của họ có còn nhớ đến họ như con cái sau khi đã xâu xé tranh giành nhau của hồi môn cha mẹ để lại mà hằng ngày chúng phung phí cho đến sạch cạn?. Do đó mà nơi Luyện Ngục có vô số các linh hồn mồ côi chẳng một ai còn nhớ đến họ nữa.
Phúc cho những người đang sống còn biết nhớ đến người đã qua đời mà sự đóng góp dù là rất nhỏ trong khả năng rất hạn hẹp do từ lòng yêu mến lâu ngày cũng tích góp thật lớn để cứu giúp được nhiều linh hồn được lên Thiên Đàng, thưa có phải?. Chỉ một điều mà chúng ta không biết tỏ tường là sự mầu nhiệm và công việc thiêng liêng Thiên Chúa làm cho các linh hồn này cách nào nhưng hiểu rằng Thiên Chúa và Mẹ Maria rất cần sự đóng góp tích cực qua hành động bác ái của chúng ta để thanh toán bớt sự đông đúc của các linh hồn nơi Luyện Ngục và làm giảm bớt sự đau đớn lâu dài của họ nếu chúng ta cầu nguyện giúp cho họ.
Giáo Hội Công Giáo đã dành nguyên một tháng 11 để kêu gọi tất cả mọi tín hữu hãy nhớ đến người thân của mình cùng linh hồn mồ côi trong tháng này vì ai biết tội lỗi của những linh hồn này đã bị giam cầm ở Luyện Ngục cho đến bao giờ mới được thả ra? Vì thời gian nơi ấy thì hoàn toàn khác lắm với thời gian ở Trần Gian này và tội lỗi họ phạm bị giam nơi Luyện Ngục cũng bị phạt cách rất khác với nơi giam giữ ở dương trần, thưa có phải?.
Hình thức mà chúng ta thương yêu linh hồn nơi Luyện Ngục cũng giống như hình thức chúng ta cho kẻ đói ăn nơi Trần Gian này vậy. Có nghĩa người nghèo thì không bao giờ là hết và chúng ta cho đến chết cũng không bao giờ giúp cho họ hết được cảnh nghèo khổ nhưng nếu chúng ta có thể vừa giúp lại vừa động viên kéo thêm nhiều người khác trợ giúp mà đối với Thiên Chúa thì Người chỉ cần có thế nơi chúng ta mà thôi … rồi thì Chúa sẽ có cách riêng của Người.
Vì một con chim én không thể làm nên mùa Xuân nhưng thưa mười con nó cùng cất tiếng hót lên một lượt sẽ bảo đảm cho hết thảy chúng ta một mùa Xuân rất Xuân và tràn đầy hy vọng. Thiên Chúa Người dạy chúng ta là sống liên kết chặt chẽ với người thân đã qua đời cùng những linh hồn anh chị em mồ côi nơi Luyện Ngục.
Có phúc đức lắm không khi được họ trả ơn? Thưa câu trả lời sẽ là vô cùng vì những gì họ trả ơn lại thì tiền của Trần Gian không thể mua được đâu – Như họ có thể giúp cho chúng ta thoát được sự hiểm nghèo, tránh được tai nạn của người đưa đến hay của thiên tai đưa đến, tìm được việc làm cùng tháo gỡ những rối rắm mà chúng ta đang đối diện với, v.v…
Nói chung là tất cả mọi công việc mà chúng ta làm vì lòng yêu mến những người đã qua đời thì đều kể là việc làm bác ái để cầu xin Thiên Chúa và Mẹ Maria có thể đem về Trời thật nhiều linh hồn nhất là trong tháng 11 này. Amen.
Hôm đó là khoảng 3 giờ chiều, ngày 20 tháng 11 năm 2012, nghe tiếng ai la trong điện thoại: 2/11-174
Hôm đó là khoảng 3 giờ chiều, ngày 20 tháng 11 năm 2012, nghe tiếng ai la trong điện thoại: “Vân ơi,! thằng Nam chết rồi!” Tôi hoảng hốt la hỏi lại: “Ai gọi vậy? Nam chết hồi nào? Tại sao chết?” Bên kia la trả lời: “Pháp đây! thằng Nam mới chết, chắc là đột qụy?” Tôi bần thần hồi lâu rồi tỉnh trí tự hỏi: “ Nam chết thật rồi sao?”
Kể từ đó lòng tôi quay quắt, muốn tức tốc bay về, nhưng trớ trêu thay! Bản thân đang rơi vào hoàn cảnh éo le: con mắt phải mờ dần, chẳng đi được đâu xa. Điều có thể làm được cho Nam lúc đó là bấm máy soạn tin nhắn báo và xin lời cầu nguyện cho linh hồn Phêrô, gởi những người thân quen . Mình biết Chúa gọi Nam đi bất ngờ, mà bạn không biết có kịp chuẩn bị gì không? Ước nguyện sống đời thánh hiến không thành, những tính toan bình thường không đạt, Nam có oán trách gì ai? Mình biết một vài người thân và bạn bè than phiền cách ứng xử của Nam, nhưng suy cho cùng do bản tính nhu mì, vì tình nghĩa phu thê, bạn không thể làm gì hơn.
Nhớ ngày tháng về quê sống sau thời gian lang bạt đây đó, mình chọn Nam là một trong những người bạn thân tình. “Bạn bè ta quanh quẩn năm ba đứa
Thỉnh thoảng tâm tình uống rượu giải khuây”(trích thơ Long Vân).
Bạn lúc đó đã là thầy thuốc bắc nổi tiếng, tôi mở lớp dạy Anh văn. Bạn sống khép kín, ít ra ngoài; tôi lãng mạn, thích ngao du uống rượu, làm thơ. Biết bao kỷ niệm với Nam tưởng chừng không thể nào quên…
Dòng đời một lần nữa xô đẩy tôi đi. Tôi vào Sàigòn đúng ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời 15 tháng 08/1992. Ngày đi không kịp đến từ giã bạn. Bạn vẫn là người để tôi lưu luyến nơi quê nhà, thỉnh thoảng thơ từ, đôi lần kèm vài câu thơ. “Mưa Sài Gòn không như mưa ngoài xứ
Bạn bè ngồi ly rượu ấm trong tay”
Có dịp về quê thăm gia đình, không lần nào tôi không ghé bạn, lúc rượu, lúc bia, thỏa tâm tình. Nhớ có những lần bạn tiễn tôi ra đường chờ đón xe. Nhớ nhất có lần đến bạn, sau vài chung rượu, tôi thổ lộ về quê xài hết không có tiền vào lại Sàigòn. Nam mỉm cười, mắt vụt sáng, nói: “Mình mới bốc thuốc cho một người được năm chục ngàn, Vân cầm lấy đi xe” Tình nghĩa bạn dành cho tôi tuyệt vời thế đó! Mà giờ đây đôi mình cách ngăn mãi mãi cả trong không gian và thời gian.
Vài tháng trước ngày bạn ra đi, tôi có dịp về quê, nghe tin thầy Phúc mới qua đời, tôi tính lễ chiều chủ nhật xong sẽ ghé thắp nhang cho người quá cố, sẵn dịp thăm bạn. Lòng nhủ lòng nhưng lại không thực hiện. Sau này, cùng với cái chết của anh Đaminh Đinh Quang Tín tôi nghiệm cho mình một nhắc nhở: việc gì mình muốn làm cho người nào thì hãy làm lúc người đó còn sống, để khỏi hối tiếc, ân hận về sau. Tôi thật hối tiếc không ghé thăm Nam, càng ân hận đã chần chừ không đến thăm anh Tín, dù biết anh đang bệnh- Xin anh tha lổi cho em, thật tình em không nghĩ Chúa gọi anh đi sớm như vậy. Cứ tưởng anh rồi sẽ lành bệnh, nghe tiếng điện thoại của em, anh nói: “ Thằng Long Vân đó hở! mày đang ở đâu đấy?” Anh ra quán chổ em ngồi chờ, uống với nhau vài chai bia, tâm tình dăm ba chuyện. Lần nào cũng vậy, trả tiền quán xong, anh dúi cho em năm ba chục, giọng nhỏ nhẹ: “Này cầm lấy đi!”) Những ân tình nặng trỉu.Thế mà giờ đây người bạn vong niên thành phố không còn, người bạn tâm giao ngoài quê đã mất. Buồn ơi là buồn!
Nam ơi có hiểu được lòng Vân, nghe tin bạn chết lòng mình lúc đó cuống cuồng, se sắt như kẻ không hồn. Nhưng biết làm được gì đây? Khi không thể về nhìn hình hài bạn lần cuối. Đêm đó khó ngủ, mình tiếp tục bấm máy báo cho bạn bè năm xưa học chung lớp Ký túc Xá Phanxicô Nha Trang: Đức (Đà Lạt), Mai văn Lý (Đaklak). Sáng mai ấy, giữa bao người tiễn đưa Nam đến nơi an nghỉ cuối cùng, không có Vân. Không có Vân nhỏ giọt lệ khóc thương Nam trên hang mộ rồi khép lại đưa bạn vào giấc ngủ ngàn thu.
Người ta nói: “chết là hết”, nhưng tôi không cho là vậy. Chết không phải là hết, chỉ là kết thúc một hành trình tạm bợ, để bắt đầu một hành trình mới, vĩnh cửu. Tháng linh hồn, nhớ Phêrô Bạch Duy Nam. Nhớ Nam được Chúa gọi về đã bốn năm nay, tôi nguyện mong bạn đã bước vào hành trình vĩnh cửu nơi Thiên Quốc và giờ này đang dõi mắt nhìn xuống phù hộ cho tôi.
Thánh là những phàm nhân được nhận lãnh Thiên Quốc , vì vậy các thánh không cần chúng ta 2/11-175
Thánh là những phàm nhân được nhận lãnh Thiên Quốc , vì vậy các thánh không cần chúng ta cầu nguyện, ngược lại, chúng ta cần các thánh cầu bàu cho chúng ta. Các đẳng linh hồn là những phàm nhân chưa được nhận lãnh Thiên Quốc, vì vậy, các đẳng linh hồn rất cần chúng ta cầu nguyện cho họ trong chốn luyện hình.
Vâng, hai thành phần trên, mặc nhiên là những thành phần không còn trong thân xác như chúng ta. Đồng thời cũng chờ ngày ”xác loài người ngày sau sống lại”. Để có một cuộc sống vĩnh hằng bên Đấng Hằng Hữu.
Như vậy, người còn sống trên trần gian , rồi chắc chắn sẽ đi một trong hai “con đường đó”, rồi sẽ đến bên ĐẤNG HẰNG HỮU. Điều chắn chắn, con đường được nhận lãnh triều thiên Thiên Quốc như các thánh là không dễ, nên đó là thiểu số. Vậy, còn lại là số đông, trong đó có chúng ta.
Vậy Giáo Hội là Mẹ chúng ta giáo huấn cho chúng ta biết, Gíao Hội có ba thành phần:
– Một là : Giáo Hội khải hoàn. (chiến thắng, vinh quang)
– Hai là : Gíao Hội khổ luyện ( đau khô, đền tội hết thì giờ chiến đấu, hết tự do)
– Ba là : Giáo Hội : Lập công ( hy sinh, đền tội còn thì giờ chiến đấu, còn tự do)
Như vậy, Giáo Hội Công giáo là một Mầu Nhiệm Hiệp Thông. Theo đó, công lao của các thánh, chúng ta được thông phần, ngược lại, việc hy sinh lập công của chúng ta qua các việc lành phúc đức, Thánh lễ và Chuỗi Mân Côi và những sự hy của chúng ta kết hợp cùng Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Giêsu khi cầu nguyện cho các linh hồn, thì họ sẽ được ân thưởng. Theo đó, việc cầu nguyện cho các linh hồn là một việc lành thánh, nên Giáo Hội dành ra một tháng “CẦU HỒN “ là vậy.
Tháng các linh hồn mười một Mùng hai là ngày các đẳng chớ quên Cầu cho cha mẹ, người trên Ông bà, cô bác lênh đênh luyện hình Ai ơi, xin chớ vô tình ! Tháng năm còn sống mà quên nguyện cầu Lập công, đền tội chưa sâu Đến giờ Chúa gọi “âu sầu” khóc than Sự nghiệp tiền của giàu sang Sẽ bỏ lại hết, chẳng mang được gì Chỉ mang một thứ ”biết đi” Đó là “Bác Ái” khó gì làm đâu! Nhưng, khốn nỗi chẳng mấy ai Thực thi điều ấy để làm “sản gia” Bây giờ “lửa nóng” sém da Xuýt xoa, xoa xuýt, ôi! Cha nóng rần Bạc tiền, cơm áo quà thân Không giúp kẻ khó, cứ vun vào mình Bây giờ tội cứ đinh ninh Đền chưa đủ tốt, thực tình khó ra Biết rằng, Chúa sẽ thứ tha Vì Ngài chính là :Thiên Chúa Tình Yêu Mầu Nhiệm hiệp thông cao siêu Chính điều hồng phúc tình yêu bởi Ngài Các thánh cũng ở trong Ngài Tình Yêu chan chứa không sai chút nào Ngay trong luyện tội hôm nay Cũng tình yêu Chúa mỗi ngày chớ quên Thành phần còn gọi ” thế nhân ” Cũng bởi Tình Chúa muôn lần cao siêu Ôi, Lửa Thánh Thần cháy muôn chiều Ngài luôn tắm gội “phì nhiêu” linh hồn Ôi, Lạy Thiên Chúa, Đấng vĩnh tồn Xin thương ban xuống muôn hồn người ta Tắm gội sạch hết nhuốc nha Trở nên trinh trắng Lòng Cha đợi chờ Ôm vào lòng, ẵm như con thơ Nâng niu như trứng , đó là : “XÓT THƯƠNG” Thiên Chúa chính Là Tình Thương Tha muôn tội lỗi như gương trong lành Nên trắng như tuyết, sạch như tranh Chính là Thiên Chúa lòng lành vô biên./. Amen (xin cầu cho LH Giuse) 02/11/2016
HIỆP SỐNG TIN MỪNG LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN Ga 6,32-40
LỜI CHÚA: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,40).
CÂU CHUYỆN:
1) NGUỒN GỐC LỄ CẦU HỒN (02/11):
Thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này nằm trong phần đất của đế quốc 2/11-176
Thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này nằm trong phần đất của đế quốc Germany. Ngài là một người nhân đức, hằng ngày cầu nguyện hi sinh và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.
Một hôm, một đan sĩ trong đan viện Cluny đi viếng Đất thánh. Trên đường trở về Đan viện, tàu chở vị đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn sĩ và được ẩn sĩ chia sẻ: “”Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ trong đan viện của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên thiên đàng và làm cho quỉ dữ thêm đau khổ dưới Hỏa ngục”.
Sau khi nghe biết sự việc, cha Odilo đã lập lễ Cầu Hồn vào ngày 2 tháng 11 và cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998. Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nuớc Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma. Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn. Trong những ngày đó họ đến đất thánh thăm viếng, sửa sang mồ mả của cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn. Họ hát những bài ca cổ truyền để xin cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục. Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là “Ngày người chết”. Ngày đó, người ta tụ họp các trẻ mồ côi tới gia đình mình để cho chúng ăn, cho quần áo, quà bánh và đồ chơi… Tại miền quê nước Balan: nửa đêm lễ các linh hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo xứ, để các linh hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu xin được sớm thoát khỏi luyện ngục. Sau đó các linh hồn sẽ về thăm nhà mình, thăm nơi làm việc khi họ còn sống, nên các gia đình có người qua đời đều mở cửa sổ suốt đêm ngày 2/11 để đón các linh hồn.
2) CHỨNG TÍCH VỀ LUYỆN NGỤC: Có rất nhiều chứng tích về các linh hồn từ luyện ngục về xin cầu nguyện. Ở đây xin kể ra hai chuyện được lưu trữ tại bảo tàng Rôma:
– Chứng tích 1: Mẹ hiện về với con trai:
Bà Leleux, trong đêm 21-6-1789, đã hiện về với người con trai của bà là Joseph Leleux ở Wodecq (Bỉ). Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải xin lễ cho bà, đồng thời bảo con bà phải sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa bãi, khô khan nguội lạnh. Bà cầm tay con và in dấu cháy cả bàn tay bà vào ống tay áo của con. Kết qủa là anh đã trở lại sống thánh thiện, đã lập một hội đạo đưc dành cho giáo dân, các hội viên trong hội này đã thi đua nên thánh. Anh đã qua đời cách thánh thiện ngày 19-4-1825.
– Chứng tích 2: Mẹ chồng hiện về với con dâu:
Nhạc mẫu của bà Magarita Demmerlé thuộc giáo xứ Ellinghen, giáo phận Metz, qua đời năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với con dâu. Bà buồn bã nhìn con dâu như có ý xin điều gì. Bà Magarita Demmerlé lên tiếng hỏi thì được bà mẹ chồng cho biết là mình về để xin con (dâu) cầu nguyện cho mình bằng cách đi hành hương lên Đền Đức Mẹ ở Mariental. Người con dâu đã làm y như lời mẹ chồng xin. Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện về với con dâu một lần nữa và báo cho biết là mình đã được ra khỏi Luyện ngục mà lên Thiên đàng. Bà Magarita xin một bằng chứng thì bà mẹ chồng liền in cả bàn tay mình lên trang sách Gương Phước đang để mở trên bàn…và từ đó bà không còn hiện về nữa.
3.SUY NIỆM: TƯỞNG NHỚ TIỀN NHÂN:
1) Đức Kitô thiết lập Nước Trời: Nước Trời trần gian là Hội Thánh ở trần gian hôm nay và Nước trời trên Thiên đàng mai sau. Điều kiện để được gia nhập vào Nước Trời Hội Thánh ở trân gian là phải có lòng sám hối tội lỗi và tin vào Chúa Giêsu, phải được tái sinh bởi nước và Thánh Thần như lời Đức Giêsu đã kêu gọi khi ra giảng đạo: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Người cũng dạy: “Không ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Phải thực hành giới răn bác ái bằng cách thực thi Tám mối phúc (x. Mt 5,3-12). Ngoài ra, để có được sự sống vĩnh cửu trên Thiên đàng, đòi người ta phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24), phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa” (x. Mc 8,34), và “cùng chết với Chúa để cùng được sống lại với Người” (Rm 6,8).
2) Mầu nhiệm các thánh thông công: Chúa Giêsu chỉ thiết lập một Hội Thánh duy nhất trên nền đá tảng đức tin của tông đồ Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Hội thánh do Đức Giêsu thiết lập gồm ba tình trạng: Một là Hội Thánh Lữ Hành trần gian gồm các tín hữu đang sống, đang phải chiến đấu chống lại ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Hai là Hội Thánh Vinh Quang trên Thiên đàng gồm các thánh nam nữ đang được hưởng hạnh phúc với Chúa. Ba là Hội Thánh Đau Khổ gồm các linh hồn đang được thanh luyện trong chốn luyện hình, để họ ngày thêm thanh sạch thánh thiện và hy vọng một ngày nào đó sẽ được về Thiên đàng. Còn những ai chối bỏ Thiên Chúa, nghe theo ma quỷ phạm các tội ác mà không chịu hồi tâm sám hối, là đã tự loại mình ra khỏi Hội Thánh và sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời, “chung số phận với tên Ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
3) Bổn phận đối với các linh hồn trong luyện ngục: Đức Giêsu đã mặc khải về sự thanh luyện ở đời sau khi nói: “Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi nơi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5,26). Luyện ngục chính là phương cách Chúa dùng để thanh luyện các linh hồn khi chết vẫn còn mang vết nhơ tội lỗi hay chưa đền bù những thiệt hại đã gây ra cho tha nhân khi còn sống ở trần gian. Cầu xin Chúa giúp họ ngày một nên thanh sạch thánh thiện để sớm được Chúa rước về Thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Do đó, trong tháng các linh hồn này, mỗi tín hữu chúng ta cần dọn mình lãnh các ơn đại xá tiểu xá (với các điều kiện thường lệ), để chuyển các ơn ấy cầu cho các linh hồn trong chốn luyện hình; Ngoài ra, cần siêng năng lần hạt Mân Côi, xin lễ và làm những việc bác ái để đền tội thay cho các linh hồn là thân nhân, hay các linh hồn mồ côi … để họ sớm được về trời. Khi lên trời chắc họ sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Còn các linh hồn bị sa hỏa ngục do đã trở thành quỷ dữ, thì không còn thuộc về Hội Thánh nữa, nên chúng ta không cần cầu nguyện cho họ.
4) Về việc cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi: Thực ra, Hội thánh từ xưa đến nay không đặt vấn đề “linh hồn mồ côi” trong niềm tin và trong thực hành. Hội thánh không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi, linh hồn nào có thân nhân cầu nguyện, nên trong mọi thánh lễ dù có người xin lễ cầu riêng cho linh hồn thân nhân, thì vẫn có lời cầu chung cho tất cả “các tín hữu đã ly trần trong tình thương của Chúa”, gồm mọi tín hữu và cả các linh hồn chưa nhận biết Chúa. Như vậy: Nói linh hồn mồ côi chỉ là nói theo cách suy nghĩ của loài người chúng ta, nhưng cũng không sai với giáo lý và sự thực hành của Hội Thánh.
Thật vậy, trong phụng vụ thánh lễ hay kinh nhật tụng, Hội thánh vẫn khuyến khích việc cầu nguyện chung cho các linh hồn cũng như riêng từng linh hồn theo ý người xin lễ để cầu cho linh hồn mới qua đời cũng như cầu chung cho các linh hồn. Việc cầu nguyện ấy chắc sẽ mang lại lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Từ đó, có thể suy ra: những linh hồn không có thân nhân xin lễ cầu nguyện sẽ bị thua thiệt, nên đức ái buộc các tín hữu còn sống cũng phải cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi này. Linh hồn mồ côi chính là những linh hồn bị quên lãng, vẫnđang được thanh luyện trong chốn luyện hình, nên rất cần được các tín hữu chúng ta vì đức bác ái hãy tưởng nhớ, xin lễ và làm các việc lành để cầu cho họ nữa.
4.LỜI CẦU:
Lạy Chúa, xin cho các linh hồn đã qua đời được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Nhân tháng các linh hồn sắp tới, xin cha cho biết: 1. Chúa có phạt ai xuống hỏa ngục không ? 2. Luyện 2/11-177
Nhân tháng các linh hồn sắp tới, xin cha cho biết:
Chúa có phạt ai xuống hỏa ngục không ? Luyện ngục ,hỏa ngục khác nhau như thế nào ? Tín điều các Thánh thông công là gì ?
Trả lời : Chúa có phạt ai xuống hảo ngục không ?
Thiên Chúa là tình thương, Người chậm bất bình và hay tha thứ. Người tạo dựng con người chỉ vì yêu thương vô vị lợi và “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4). Nghiã là Chúa muốn cho mọi người được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trên Thiên Đàng, là nơi không còn đau khổ , bệnh tật, nghèo nàn, bất công và chết chóc nữa.
Hạnh phúc Thiên Đàng là hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe lòng người chưa hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người.” ( 1 Cor 2: 9) Như Thánh Phaolô đã viết.
Nhưng muốn hưởng hạnh phúc Thiên Đàng thì phải yêu mến Chúa và tuân giữ các giới răn của Người.
Tại sao ? tại vì Thiên Chúa là “ tình thương” nên “ ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” ( 1 Ga 4 : 8)
Biết Thiên Chúa là tình thương , mà quả thật Người là tình thương thì lẽ tự nhiên ta phải yêu mến Người với tất cả tâm trí và nghị lực để đáp trả phần nào tình thương quá lạ lùng của Chúa dành cho con người. Vả Lại, yêu mến Chúa chỉ có lợi cho ta chứ Chúa không được lợi lộc gì vì Người đã quá đủ hạnh phúc , vinh quang và giầu sang nên không cần ai thêm gì cho Người nữa.
Tuy nhiên, vì Thiên Chúa tạo dựng con người với hai đặc tính độc đáo là có lý trí và ý muốn tự do ( intelligence and free will) và Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng cho con người sử dụng hai khả năng đó, nên vấn đề thưởng phạt mới được đặt ra cho riêng con người mà thôi.Nghĩa là nếu con người , qua lý trí, nhận biết có Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất và muôn vật – trong đó có con người- thì con người phải sử dụng ý muốn tự do của mình để chọn yêu mến Chúa và sống theo đường lối của Người để được cứu rỗi và vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, chiếu theo ánh sáng của lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa là:
“ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa !, Lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” ( Mt 7 : 21)
Nhưng thế nào là thi hành ý muốn của Chúa Cha ?
Chúa Giê su đã chỉ rõ cho ta cách thi hành ý muốn của Chúa Cha như sau :
“ ai yêu mến Thầy , thì sẽ giữ lời Thầy Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” ( Ga 14: 23)
Giữ lời Thầy có nghĩa là thực thi những gì Chúa đã rao giảng và dạy bảo , cụ thể là hai Điều Răn quan trọng nhất, đó là mến Chúa và yêu người, như Chúa đã nói với một luật sĩ Do Thái xưa. ( Mt 22: 37-39)
Như vậy , thực thi hai Điều Răn đó là chứng minh cụ thể lòng yêu mến Chúa và xứng đáng được “ Cha Thầy và Thầy đến ở” với ta như Chúa Giê su nói trên đây.
Là con người , ai lại không muốn hạnh phúc, sung sướng và bình an ? nên yếu mến Chúa là yêu mến chính nguồn hạnh phúc, an vui vĩnh cửu đó.Như thế, chỉ có lợi cho con người khi chọn yêu mến Chúa, chứ tuyệt đối không có lợi lộc gì cho Chúa hết. Chúng ta phải xác tín điều này, để đừng ai nghĩ rằng Thiên Chúa được lợi lộc gì khi ta yêu mến và tuân giữ các giới răn của Người. .
Đó là điều chắc chắn ta phải tin khi thi hành các Điều Răn của Chúa để không giết người, trộm cắp. gian dâm, thông dâm, mãi dâm, ấu dâm, phái thai, ly dị, thù oán người khác, kỳ thị chủng tộc, nói xấu , vu cáo làm hại danh dự và đời tư của người khác, bất công , bóc lột người làm công cho mình, và dửng dưng trước sự đau khổ, nghèo đói của anh chị em đồng loại, và buôn bán phụ nữ và trẻ gái cho
Kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn và tội lỗi.
Nếu ta tuân giữ các Điều Răn của Chúa để không làm những sự dữ hay tội lỗi nói trên, thì chúng ta đã yêu mến Chúa cách cụ thể để được “ ở lại trong tình thương của Người” như Chúa Giêsu đã dạy trên đây. Ngược lại, nếu ai dùng “ ý muốn tự do= free will để làm những sự dữ nói trên thì đã tự ý và công khai khước từ Thiên Chúa và tình thương của Người. Như thế họ phải lãnh chịu mọi hậu quả của việc mình làm vì tự do chọn lựa.
Chính vì con người có tự do để chọn lựa , hoặc sống theo đường lối của Chúa để được chúc phúc; hay khước từ Chúa để sống theo ý riêng mình và chạy theo những lôi cuốn của thế gian , nhất là những cám dỗ của ma quỉ để tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất và mọi thú vui vô luân vô đạo, như thực trạng sống của con người ở khắp nơi trong thế gian tục hóa ngày nay.Nếu ai chọn sống như vậy, thì cũng đã tự ý chọn nơi cư ngụ cuối cùng cho mình, sau khi phải chết trong thân xác có ngày phải chết đi này.Thiên Chúa yêu thương con người và đã cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô. Nhưng Thiên Chúa cũng gớm ghét mọi tội lỗi, vì tội lỗi và sự dữ đi ngược lại với bản chất yêu thương, công bình và thánh thiện của Người. .
Nhưng cho dù Thiên Chúa quá yêu thương con người như vậy, mà con người không cộng tác với ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, bằng quyết tâm sống theo đường lối của Chúa và xa tránh mọi sự dữ và tội lỗi thì Chúa vẫn không thể cứu ai được. Lý do là Chúa không tiêu diệt hết mọi tội lỗi và vì con người còn có tự do để cộng tác với ơn cứu chuộc của Chúa , hay khước từ ơn cứu chuộc này để sống theo thế gian và làm nô lệ cho ma quỉ, kẻ thù của Thiên Chúa.
Như vậy, nếu Thiên Đàng là nơi dành cho những ai thực tâm yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Người và quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi, thì hỏa ngục phải là nơi dành cho những ai đã cố ý khước từ Chúa và tình thương của Người để sống theo ma quỷ và làm những sự dữ nói trên như đang diễn ra ở khắp nơi trên thế giới trống vắng niềm tin này. Như thế, phải có hỏa ngục dành cho những kẻ gian ác đã tự ý chọn cho mình nơi ở vinh viễn xa lìa Thiên Chúa ngay từ ở đời này. Nghĩa là họ đã tự ý chọn hỏa ngục vì cách sống của họ, chứ không phải vì Thiên Chúa muốn phạt ai ở chốn này, vì Người là Cha đầy yêu thương và “ không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.” ( 2 Pr 3 : 9).
Sự khác biệt giữa hỏa ngục và Luyên tội :
Chúa Giê su thường nói đến hỏa ngục là nơi lửa không bao giờ tắt ( Mt 5: 22).
Thánh Gioan Tông Đồ đã coi những kẻ sát nhân là những kẻ không có sự sống đời đời ,tức là phải xa lìa Thiên Chúa trong nơi gọi là hỏa ngục:
“ Phàm ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga: 15)
Nhưng cần phân biệt điều này: con người dù tội lỗi đến đâu, mà biết sám hối ăn năn thì vẫn được Chúa thương tha thứ. Cụ thể là Chúa Giêsu đã tha thứ cho người gian phi ( kẻ trộm lành) nhận biết tội mình và xin Chúa tha thứ:
“ Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” ( Lc 23: 39-43) .
Ngược lại, chỉ những ai tội lỗi mà không hề sám hối để xin Chúa tha thứ , đặc biệt là tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội hoàn toàn từ chối lòng thương sót của Chúa cho đến chết , thì sẽ không bao giờ được tha thứ, như Chúa Giê su đã nói rõ trong Tin Mừng Thánh Marcô.( Mc 3: 29)
Lại nữa, những ai chết đang khi mắc tội trọng ( mortal sin) thì cũng chịu hình phạt hỏa ngục, căn cứ theo giáo lý của Giáo Hội. ( X SGLGHCG, số 1035) . Tuy nhiên , cần nói lại là Thiên Chúa không tiền định cho ai phải xuống hỏa ngục , hoặc muốn phạt ai trong nơi “lửa không hề tắt” này. Nhưng vì con người có tự do trong đời sống thiêng liêng, nên nếu ai dùng tự do này để xa lìa Chúa , để tự do làm những sự dữ mà không hề biết ăn năn, xin Chúa thứ tha thì đã tự ý chọn hỏa ngục làm nơi cư ngụ cuối cùng cho mình.
Trái với hỏa ngục , Luyên ngục hay Luyên tội ( Purgatory) là nơi các linh hồn thánh ( holy souls) được thanh luyện để đạt được sự thánh thiện cần thiết trước khi vào Thiên Đàng vui hưởng Thánh Nhan Chúa là nguồn vui hạnh phúc của các thánh và các thiên thần.Các linh hồn đang “ tạm trú” ở đây là những người đã ra đi trong ơn nghĩa Chúa, tức là được bảo đảm về ơn cứu độ, nhưng vẫn cần được thanh luyện để đạt mức thánh thiện cân xứng trước khi gia nhập hàng ngũ các Thánh trên Thiên Quốc. Các linh hồn thánh này không thể làm thêm việc thiện, và cũng không thể phạm tội được nữa vì thời giờ đã mãn cho họ trên trần gian này. Vì thế, trong khi còn được thanh luyện ở nơi đây, các linh hồn mong đợi các Thánh trên Thiên Đàng và các tín hữu còn sống cứu giúp họ bằng lời cầu nguyện và các việc lành. Ngược lại, các linh hồn cũng có thể cầu xin đắc lực cho các tín hữu còn sống trên trần thế và trong Giáo Hội lữ hành. Nhưng các Thánh trên Trời, các linh hồn thánh trong Luyện ngục và các tin hữu còn sống không thể giúp gì cho các linh hồn đã lìa xa Chúa trong hỏa ngục, vì không có sự hiệp thông nào giữa nơi này với Thiên Đàng, Luyện ngục và Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế.
3 – Tín điều các Thánh Thông Công ( communion of Saints )
Tín điều này dạy: chỉ có sự hiệp thông giữa Giáo Hội vinh thắng ( Triumphal Church) trên trời và Giáo Hội lữ hành ( Pilgrim Church) trên trần thế cùng với Giáo Hội đau khổ ( Suffering Church) trong Luyện Tội. Nghĩa là các Thánh trên Trời , các linh hồn thánh trong Luyện tội và các tín hữu còn sống và đang hiệp thông với Giáo Hội, cả ba thành phần này được hiệp thông với nhau trong cùng một niềm tin, tôn thờ Thiên Chúa , nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Các Thánh nam nữ trên trời hiệp thông với các linh hồn thánh trong Luyện Tội và các tín hữu trên trần gian bằng lời nguyện giúp cầu thay đắc lực trước Tòa Chúa cho các linh hồn và các tín hữu còn sống. Các linh hồn trong Luyện tội không thể tự giúp mình được nhưng có thể cầu xin cho các tin hữu còn sống. Các tín hữu có thể làm việc lành như cầu nguyện. làm việc bác ái và xin lễ cầu cho các linh hồn trong Luyên Tội ( cách riêng trong tháng 11 là thánh dành cầu nguyện cho các linh hồn) được mau vào Thiên Đàng hưởng Thánh Nhan Chúa.
Đó là nội dung tín điều các Thánh thông Công giữa các Thánh trên Thiên Đàng, các linh hồn thánh trong Luyện Tội và các Tín hữu trên trần thế.
Như thế, chỉ có những ai đang xa lìa Chúa ở chốn hỏa ngục thì không được thông hiệp với các Thánh trên trời , các Linh hồn trong Luyện tội và các Tín hữu còn sống trên trần gian này.Do đó, không ai có thể làm gì để cứu giúp họ được nữa.
Vậy chúng ta hãy cố gắng làm việc lành trong tháng 11 này để cầu cho các linh hồn được mau hưởng Thánh Nhan Chúa.Chắc chắn các linh hồn sẽ biết ơn và cầu xin Chúa cách đắc lực cho chúng ta.
Đối với người bình thường thì cái chết luôn là một đề tài kiêng kỵ, người ta dường như muốn lẩn 2/11-178
Đối với người bình thường thì cái chết luôn là một đề tài kiêng kỵ, người ta dường như muốn lẩn tránh nó. Thế nhưng có những trường hợp không thể…lẩn đó là khi người thân yêu ruột thịt của chúng ta qua đời. Đứng trước ngôi mộ mới đắp khói hương nghi ngút. Mọi người đều đã ra về chỉ còn mình ta với câu hỏi quay quắt = Xác thân nằm đó còn …hồn thì ở đâu ?
Sở dĩ cái chết của những người mà chúng ta rất đỗi yêu thương, cha mẹ vợ chồng con cái ..mới gợi cho ta nỗi niềm thắc mắc là bởi những con người ấy đã sống với ta một quãng thời gian lâu dài với biết bao là yêu thương gắn bó mà nay lại phải chia ly không ngày gặp lại !!! Chết là một sự chia ly và sự chia ly ấy có nghĩa một người còn ở lại trên cõi đời này còn người kia thì ra di biền biệt sang cõi đời khác. Thật sự thì có hay không một cõi đời khác để người chết ra đi, đó là một nan đề triết học mà cho đến nay vẫn chưa được giải quyết.
Với duy vật thì chết là hết chuyện chẳng có gì để nói. Tuy nhiên nói thì vậy nhưng đối với những con người có đầu óc suy tư chẳng hạn J.P. Sartre thì cái chết vẫn là một bí ẩn khôn dò “ Điều cần ghi nhận đầu tiên là tính chất phi lý của sự chết” Sở dĩ chết là phi lý bởi vì nó mù quáng và đột ngột chấm dứt mọi dự phóng. Theo triết gia hiện sinh này thì con người tất yếu là dự phóng và dự phóng ấy chỉ là những hoài vọng vô ích ở cõi đời này tuyệt nhiên chẳng có quan hệ gì với cõi đời sau.
Chết có phải hết hay còn, đó là đề tài muôn thuở của triết học cho cả Đông lẫn Tây. Để tránh cái tệ nạn viển vông, đức Khổng trả lời cho đệ tử là Tử Cống “ Cho người chết là mất hẳn không biết gì nữa là bất nhân không nên theo. Cho người chết là còn biết như lúc còn sống là bất trí không nên theo” ( Chi tử nhi tri tử chi, bất nhân, nhi bất khả vi giã; chi tử như tri sinh chi, bất trí, nhi bất khả vi giã – Lễ Ký ).
Cho người chết là mất hẳn không còn gì nữa là bất nhân bởi như thế sẽ chẳng còn có tưởng niệm có cầu nguyện tóm lại chẳng còn có đời sống tâm linh tôn giáo gì cả. Ông HCM một người tự nhận là CS vô thần mà khi làm di chúc vẫn nói mình đi theo ông Mác ông Lê. Vậy thử hỏi cái việc…đi theo ấy là đi đâu ? Phải có nơi có chốn để …đi chứ đâu thể nói…khơi khơi vậy được ? Cần có nơi có chốn mới có thể …đi. Đây là vấn đề hết sức quan hệ trong lãnh vực tâm linh, không thể bỏ qua.
Đạo Công giáo hiện đang rơi vào khủng hoảng mà nguyên nhân gây ra cho nó chính là vì đã không xác định được cái nơi chốn để về. Trước đây Giáo Hội vẫn tin và giảng dạy về bốn sự sau hết gọi là Tứ Chung ( Novissimis ): Chết, Phán xét, Thiên Đàng, Hoả Ngục. Tín hữu luôn tin rằng sau khi chết con người sẽ chịu phán xét, kẻ lành lên Thiên Đàng hưởng phúc đời đời còn kẻ dữ sẽ phải phạt trong Hoả Ngục muôn kiếp. Tin có Thiên Đàng có Hoả Ngục tức là tin đó là hai nơi chốn có thực. Cần có lòng tin như thế chúng ta mới cố gắng làm lành lánh dữ để được lên Thiên Đàng và khỏi sa Hoả Ngục.
Tin vào đời sau, có thưởng có phạt đó không phải dị đoan nhưng là niềm tin chính đáng ( chánh tín ) của người có đạo. Thế nhưng niềm tin Thiên Đàng, Hoả Ngục có nơi có chốn ấy ngày nay đã bị thần học thẳng thừng bác bỏ “ Nếu bạn đã từng nghĩ như tôi hoặc vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng Luyện Ngục và Hoả Ngục là những nơi chốn thì sai rồi. Bạn cứ mở cuốn Toát yếu Giáo Lý Công Giáo do đức giáo hoàng Benedicto đương kim soạn thảo ra mà xem thì sẽ thấy quan niệm về Nơi Chốn của Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hoả Ngục như là những Nơi Chốn là sai bét tè le” ( Nguồn Lm Ansgar Phạm Tĩnh = Tháng Các Linh Hồn – Tìm hiểu Thiên Đàng – Luyện Ngục & Hoả Ngục )
Thay cho quan niệm Thiên Đàng, Hoả Ngục có nơi chốn, thần học cho rằng đó chỉ là những tình trạng “ Thiên Đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn . Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không còn bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào sẽ được quy tụ quanh Chúa Giê Su và Đức Maria, các thiên thần và các Thánh….” Thiên Đàng là tình trạng và Hoả Ngục cũng thế “ Hoả Ngục là tình trạng xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa….Đức Ki Tô diễn tả thực tại Hoả Ngục bằng những lời này = Quân bị nguyền rủa kia đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời” Mt5 25, 41).
Ở đây ta thấy có sự bất nhất; trước thì nói Thiên Đàng không phải nơi chốn sau lại bảo Thiên Đàng là nơi quy tụ…Không có nơi có chốn thì làm sao…quy tụ được đây ? Lại nữa Hoả Ngục cũng phải có nơi có chốn bởi nếu không thì kẻ dữ sẽ…vào đâu khi nghe Chúa phán hãy đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời ?
Cả Thiên Đàng lẫn Hoả Ngục chẳng những đều có nơi có chốn hơn nữa còn có nhiều tầng bậc cao thấp khác nhau. Thánh Phao Lô có lần đã được dẫn đưa tới tầng trời thứ ba “ Tôi biết một người trong Đức Ki Tô cách mười bốn năm trước đây đã được cất lên đến tầng trời thứ ba. Hoặc trong thân thể tôi chẳng biết hoặc ngoài thân thể tôi cũng chẳng biết có ĐCT biết. Tôi biết thể nào người đó hoặc trong thân thể hoặc ngoài thân thể tôi cũng chẳng biết có ĐCT biết đã được cất lên đến Lạc Viên ( Paradis ) nghe những lời không thể nói mà người nào cũng không được phép nói ra” ( 2C 12, 2 =4).
Thánh Phao Lô nói ngài đã được cất lên tới tầng thứ ba. Điều này cho thấy rõ ràng Thiên Đàng có một nơi chốn chứ chẳng phải tình trạng như thần học nói. Thiên Đàng như một nơi chốn hoàn toàn khác với tình trạng ở chỗ. Một đàng Thiên Đàng là nơi cư ngụ vĩnh viễn của Chúa Giê Su, Đức Mẹ, các Thánh và những kẻ lành còn tình trạng chỉ là trạng thái lúc có lúc không và mang tính chất bất định. Mặt khác Thiên Đàng phải là một nơi chốn mang tính vĩnh viễn mới khiến cho ta quy hướng mong mỏi được về chứ có ai lại muốn về với cái tình trạng bất định làm gì ?
Nguyên nhân sâu xa khiến thần học bác bỏ Thiên Đàng như một nơi chốn là bởi người ta đã không nhận ra chiều kích tâm linh của Thiên Đàng cũng như của Hoả Ngục. Thiên Đàng, Hoả Ngục là lãnh vực thuộc tâm giới chứ không phải vật giới. Tâm giới thuộc vô hình còn vật giới thuộc hữu hình. Con người chết tức từ cõi hữu hình bước sang cõi vô hình. Gọi là vô hình bởi vì giác quan không thể cảm nhận chứ nó thực sự là một cõi, một thế giới với vô vàn vô số tầng bậc khác nhau. Theo quan điểm nhà Phật thì cõi vô hình ấy gồm có sáu nẻo đó là: Thiên, Nhân, Atula, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa Ngục. Nguyên nhân khiến con người sau khi chết phải vào sáu nẻo luân hồi là do cái nghiệp dẫn dắt. Nghiệp nhân nào thì có quả báo của nghiệp đó. Cũng theo quan điểm Phật giáo thì mục đích rốt ráo của việc tu hành là để thoát khỏi lục đạo luân hồi hầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Trong tinh thần hội nhập hôm nay thiết nghĩ chỉ có thuyết Nghiệp Báo của Phật giáo mới có thể giải đáp thoả đáng được cho câu hỏi “ Chết rồi đi đâu”. Triết học đề ra cho mình ba vấn đề. Một là con người bởi đâu sinh ra. Hai là sống trên đời để làm gì và ba là chết rồi đi đâu ? Đề ra nhưng không thể giải quyết, triết học đương nhiên lâm vào bế tắc. Riêng với thần học, một thứ triết duy lý trá hình thì sự thất bại còn não nề hơn chẳng những không biết chết về đâu mà còn phủ nhận cả cái nơi cần trở về ấy nữa. Bởi nguyên do nào mà thần học lại đi đến chỗ phủ nhận cả Thiên Đàng lẫn Hoả Ngục ? Xin thưa là vì vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm Đấng Thần Linh Tạo Hoá. Quan niệm đấng Tạo Hoá đưa đến hai hệ quả. Một là Thuyết Định Mệnh, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng và như thế được lên Thiên Đàng hay phải xuống Hoả Ngục đều do Chúa quyết định. Hai là Thiên Chúa không bao giờ dựng nên Hoả Ngục bởi vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu chẳng khi nào lại …nỡ đày đoạ con cái mình vào nơi khốn nạn áy !!!
Dẫu sao Thuyết Định Mệnh ngày nay chẳng còn mấy ai chấp nhận. Tuy nhiên nếu bảo rằng tôi phải trách nhiệm về đời mình thì người ta có thể lập luận, điều ấy chỉ đúng trong cuộc sống hiện tại còn đời sau thì không. Tại sao ? Bởi vì cái đời sau nghĩa là sau khi chết ấy tôi có còn phải là tôi nữa đâu ? Chính vì cho rằng sau khi chết tôi không còn phải là …tôi nên mới có những người tự kết liễu đời mình bởi nghĩ chết là hết…cái nợ đời. Thật sự thì chẳng bao giờ hết được…nợ vì rằng đây chính là cái “ Nghiệp” mà mỗi người đã vương mang từ muôn kiếp. Thi hào Nguyễn Du nói “ Đã mang lấy nghiệp vào thân. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”
Nghiệp dịch từ chữ Phạn là Karma nghĩa của nó là Tác Ý. Tất cả tư tưởng lời nói việc làm là do ý muốn làm động cơ khởi phát và ý muốn ấy cứ lập đi lập lại để thành ra Nghiệp. Ý muốn thuộc về Tâm là cái vô hình nhưng nó quyết định cho mọi hành vi con người. Có ý muốn tốt sẽ hành động tốt, ngược lại ý muốn xấu sẽ hành động xấu. Đức Ki Tô nói “ Không có cây tốt lại sanh trái xấu cũng không có cây xấu lại sanh trái tốt. Cứ xem quả thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi lùm gai. Cũng không hái trái nho nơi chà chuôm. Người thiện do lòng chứa thiện mà phát ra điều thiện. Kẻ ác do lòng chứa ác mà phát ra điều ác. Vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” ( Lc 6, 43 – 45).
Chứa ở đây là chất chứa, có chất chứa những ý muốn thiện lành thì mới có thể có những hành động thiện lành. Ngược lại cứ chứa chấp những ý muốn xấu xa ác độc thì sẽ hành động ác. Người đời coi thường những ý muốn khởi phát ở nơi Tâm tưởng nó vô hại mà không biết rằng mình đang tạo nghiệp. Nghiệp nhân nào sẽ có nghiệp quả đó. Được lên Thiên Đàng hay phải đoạ đày muôn kiếp trong Hoả Ngục hoàn toàn không do một đấng thần linh nào đó quyết định nhưng là do nghiệp dẫn. Hiểu như thế thì vấn đề quan trọng của mỗi người có đạo chúng ta là phải làm sao tạo cho mình một cái nghiệp lành để hưởng quả lành tối thượng là Nước Thiên Đàng đời đời.
Tạo nghiệp lành để hưởng quả lành và nghiệp lành ấy không gì bằng là thi hành Thánh Ý Chúa trong tư tưởng lời nói việc làm.” Chẳng phải mỗi kẻ nói cùng Ta rằng lạy Chúa lạy Chúa mà vào Nước Trời được đâu nhưng chỉ những kẻ biết vâng theo Ý Chỉ của Cha Ta trên trời mà thôi” ( Mt 7, 21). Vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa là một việc khó mà dễ. Nói là khó, rất khó bởi vì vẫn còn thấy có Ta ( Ngã chấp). Còn dễ là biết bỏ cái Ta không thật đó đi. Bỏ cái Ta có nghĩa là bỏ hết dục vọng còn chứa chấp ở nơi mình, khi ấy Đấng Cha tức bộ mặt xưa nay ( Bổn lai Diện Mục ) sẽ hiện tiền “ Cứ phá bỏ được những dục vọng bên ngoài thì sẽ thấy cái thiện căn bản của lòng mình được no đầy” ( Dĩ khử phù ngoại dụ chi nhi sung kỳ bản nhiên chi thiện.( Trung Dung – Chương một ).
Bỏ dục vọng tức bỏ đi những ý muốn xấu ác chỉ có thế thôi. Thế nhưng để làm được việc làm này thì phải có ơn Chúa. Mặc dầu ơn Chúa là cái không thể thiếu nhưng nếu ta không cộng tác tức không gắng sức tạo cho mình một cái nghiệp lành bằng cách tham dự Thánh Lễ hàng ngày cách sốt sắng và chuyên cần đọc Kinh Mân Côi thì cũng vô ích “ Song ai bền đỗ đến cùng thì mới được cứu” ( Mt 10, 22).
Trong nhà một số gia đình công giáo trước đây thường treo hai tấm ảnh tượng trưng chết lành và 2/11-179
Trong nhà một số gia đình công giáo trước đây thường treo hai tấm ảnh tượng trưng chết lành và chết dữ. Bức ảnh chết lành mô tả người hấp hối với vẻ mặt hân hoan tay cầm thánh giá, sốt sắng đón nhận những bí tích cần kíp sau cùng cho được rỗi linh hồn từ vị linh mục trao ban. Những người thân vây quanh giường bệnh như có ý đang hiệp thông cầu nguyện cho người đang cơn lâm tử được ơn chết lành. Thần thiêng hơn đó là hình ảnh các thiên thần chờn vờn chuẩn bị đón đưa linh hồn người sắp qua đời lên chốn thiên đàng nơi Chúa Ba Ngôi ngự trị.
Bức ảnh chết dữ mô tả khung cảnh trái ngược: người sắp tạ thế ngoảnh mặt làm ngơ trước sự hiện diện của vị linh mục, đắm đuối nhìn tấm hình quỷ dữ phô bày như có vẻ đang quyến luyến những lạc thú trần tục. Hai quỷ dữ khác lởn vởn lôi kéo linh hồn người sắp chết về hỏa ngục nơi chúa quỷ Lucifer đang chực chờ.Trong khi người thân và vị thiên thần hộ thủ che mặt khóc lóc trước cái chết cận kề mất ơn nghĩa Chúa cùa người đang cơn nguy tử trên giường bệnh. CHẾT LÀNH TRONG ƠN NGHĨA CHÚA
Thánh kinh viết: “Hồn những người đức nghĩa ở trong tay Thiên Chúa.” Thánh Ambrôsiô huấn giảng nếu Thiên Chúa giữ gìn linh hồn kẻ lành thì ai cướp được? Tuy vậy trong giờ hấp hối, dù là người thánh thiện cũng phải chịu sự cám dỗ của ma quỷ. Nhưng Thiên Chúa không ngừng bênh vực tôi tớ trung tín của Người. Người luôn theo dõi để gia tăng ơn lực cho họ trong cơn nguy hiểm. Thánh kinh viết: “Qúy thay trước mặt Giavê, cái chết của những ai thành tín với Ngài.” Thánh sử Gioan viết trong sách Khải Huyền: “Chúa gọi kẻ chết trong ơn nghĩa Người là kẻ có phúc. Vì chết là chấm dứt mọi gian lao và được vào sự sống đời đời…Người sẽ lau sạch nước mắt họ. Phiền muộn, kêu khóc và khó nhọc sẽ không còn nữa, vì các chuyện cũ đã qua.”
Đối với người sống trong ơn nghĩa Chúa chết không phải là hết. Chết là bước vào một cuộc sống mới vĩnh hằng. Như lời thánh Bênađô nói: “Sự chết không chỉ là chấm dứt mọi cực khổ mà còn là cửa ngỏ dẫn vào sự sống đời đời.” Đây là cửa ngỏ dẫn vào Nhà Chúa. Như Thánh Vịnh viết: “Này đây cửa nhà Giavê, những người công chính sẽ được bước vào.” Đối với người công chính bao lâu linh hồn còn trong thân xác là còn xa cách Chúa, còn tha hương vướng vất trần gian, chưa về được Quê Trời là quê thật của mình. Chính vì vậy thánh Augustinô kêu van: “Hỡi sự chết! Ai mà không trông mong ngươi, vì ngươi là tận cùng của mọi cực khổ nhưng là khởi đầu của hạnh phúc đời đời.”
Người công chính cả một đời sống kính sợ Chúa, lúc chết ra đi an lành trong tay Chúa như sách Khôn Ngoan viết: “Hồn những người đức nghĩa ở trong tay Thiên Chúa…Ai kính sợ Chúa sẽ hưởng tận cùng phúc lạc, lúc lâm chung sẽ được chúc lành…Dẫu chết sớm vẫn được nghỉ yên. ” Sinh thuận tử an như lời thánh Augustinô nói:kẻ sống thánh thiện không lẽ phải chết dữ ?
CHẾT DỮ MẤT LINH HỒN
Sách Châm Ngôn viết: “Lúc gần chết chúng sẽ gọi Ta, nhưng Ta sẽ chẳng trả lời.” Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galát răn dạy: “Lúc còn sống ta thường khinh dễ luật Chúa, đến giờ chết lại mơ ước phần thưởng đời đời như thể là nhạo báng Chúa. Anh em đừng có lầm tưởng. Thiên Chúa không để người ta nhạo báng Người. Hễ đời này ai gieo giống gì thì đời sau sẽ gặp giống đó. Kẻ nào ở đời này gieo giống vui sướng xác thịt thì đời sau sẽ thu hoạch sự hư thối, khốn nạn và sự chết đời đời.”
Kẻ tội lỗi cả một đời sống xa Chúa, đam mê thú vui trần tục, tôn thờ các loài thọ tạo đến lúc lâm chung ma quỷ khuấy khuất khiến nó bối rối dằn vặt không được an bình như sách Êzêkiel viết: “Bồi hồi ập đến, chúng tìm an bình nhưng không có.” Thánh Bênađô cho rằng kẻ có tội lúc còn sống buông trôi theo đàng tội lỗi, đến giờ chết dẫu có ra sức gỡ mình cho khỏi hình phạt đời đời cũng chẳng được. Hơn nữa những sự khốn nạn đè nặng trên nó nên nó sẽ phải khốn nạn trong chốn đời đời. Bởi nó đã yêu tội lỗi đến mức đó là đã yêu nguy cơ mất linh hồn, nên Chúa để nó chết trong nguy cơ nó hằng ôm ấp.
Chính Thiên Chúa đã mượn lời tiên tri Isaia phán dạy: “Kẻ có tội đã quay lưng lại với Ta, mà trìu mến loài thọ tạo, đến giờ chết mới xin Ta cứu vớt. Khốn cho nó! ‘Hãy kêu các loài thọ tạo mà mày đã thờ lạy xưa nay đến cứu mày.’’’Và cuối cùng hãy nghe những lời thánh Hiêrônimô quả quyết sau những chứng nghiệm thực tế: “Kẻ nào suốt đời ăn ở hoang đàng thì chẳng được chết lành bao giờ”.
Khi tu viện Đức Bà được khởi công tại Aversa, gần thành phố Napoli, Nam Ý, cha Hilarion Thánh-Antôn 2/11-180
Khi tu viện Đức Bà được khởi công tại Aversa, gần thành phố Napoli, Nam Ý, cha Hilarion Thánh-Antôn, được chỉ định làm người điều khiển công cuộc xây cất. Cha Hilarion là một tu sĩ thánh thiện. Mỗi buổi sáng, cha đều dâng thánh lễ trước khi bắt đầu công việc.
Một ngày, ông Gioan đến xin giúp lễ cho cha Hilarion. Ông là giáo dân phụ cha trong chức vụ quản lý. Sáng hôm ấy, cha Hilarion dâng lễ cầu nguyện cho các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Ông Gioan cũng rước lễ hiệp ý với cha .. Sau thánh lễ, cha Hilarion mời ông chia sẻ bữa ăn trưa thanh đạm với mình. Ông Gioan nhận lời.
Đến giờ, ông Gioan đến nơi như đã hẹn. Vừa bước vào dãy nhà trong, nơi hành lang, ông gặp ngay một thanh niên dáng điệu thanh nhã, ăn mặc sang trọng, đang đứng đó. Chàng ngỏ ý muốn gặp cha Hilarion để bàn về một vấn đề quan trọng. Ông Gioan vội báo tin cho cha Hilarion biết. Nhưng cha nhất mực từ chối, không muốn gặp chàng thanh niên, lấy lý do không phải giờ tiếp khách. Ông Gioan trở ra giải thích việc cha Hilarion không thể tiếp chàng. Nhưng chàng thanh niên nài nĩ xin gặp cha. Chàng nói rõ hơn ý hướng của chàng: “Nhân danh tình yêu Thiên Chúa, xin cha Hilarion hãy chia sẻ cho tôi một ít bánh ăn của cha”.
Khi nghe ông Gioan lập lại lời xin, cha Hilarion tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Cha tự nhủ: “Làm sao một thanh niên nhã nhặn quý phái như thế, đáng lý phải rộng tay làm phúc cho người khác, đàng này, lại ngửa tay xin bánh ăn của một thày dòng?”. Dầu nghĩ vậy, cha Hilarion vẫn vui vẻ ra gặp chàng. Cha xin chàng vui lòng đợi một chút. Rồi cha đi vào nhà trong, đến thùng đựng bánh, lấy ra một ổ bánh. Cha rút nhằm chiếc bánh ngon nhất, dù cha không có ý chọn. Cha định đổi ổ bánh khác, ít ngon hơn để biếu cho chàng ăn xin. Nhưng một ý nghĩ thoáng hiện ra trong đầu: “Tại sao lại có sự so đo khác biệt này? Biết đâu chàng thanh niên lại chẳng là một thiên thần, sứ giả của Thiên Chúa, đến từ Trời Cao? Bởi vì, quả thế, chàng đã vào tận nhà trong, khi mà mọi cổng ra vào đã đóng kín?”.
Nghĩ thế, nên cha Hilarion giữ nguyên ổ bánh mì ngon và chọn thêm một vài thức ăn khác, rồi đem tất cả biếu cho chàng thanh niên ăn mặc sang trọng kia. Cha xin chàng vui lòng chấp nhận các thức ăn đạm bạc, vì chàng đến bất ưng. Rồi cha để chàng ngồi đó dùng bữa và lui vào phòng bên cạnh để ăn trưa với ông Gioan.
Nhưng cả hai người không tài nào ăn được một miếng. Bởi lẽ, cả hai gần như hoảng hồn, ngẩn ngơ với nghi vấn: “Làm sao người thanh niên có thể vào tận nhà trong, khi các cửa ra vào đều đóng kín?”. Đối với cha Hilarion, người khách lạ với dung nhan tuyệt mỹ, không ai khác là một Thiên Thần đến từ Trời Cao. Trong khi ông Gioan lại nói:
– “Biết đâu người khách là một trong những Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình, chúng ta đã cùng nhau cầu nguyện trong thánh lễ sáng nay?”.
Sau một lúc, ước tính người khách đã dùng bữa xong, ông Gioan liền đến chào từ biệt. Vừa trông thấy ông, chàng thanh niên nhã nhặn đứng lên và nói: – “Thưa ông, chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Hãy cùng nhau đọc một kinh LẠY CHA và một kinh KÍNH MỪNG, cầu cho các Đẳng Linh Hồn còn bị giam cầm trong Lửa Luyện Tội”. Nói xong, người khách quỳ ngay xuống, chắp tay lại, ngước mắt lên Trời và sốt sắng đọc kinh. Xong, chàng đọc thêm lời nguyện của ngày Chúa Nhật và kinh Truyền Tin. Rồi đứng lên, chàng cầm lấy tay ông Gioan và nói:
– “Xin ông thưa lại với cha Hilarion rằng: Kể từ nay, đừng cầu nguyện cho Linh Hồn thân phụ của cha nữa, bởi vì, ngay chính lúc này đây, Linh Hồn thân phụ cha bay thẳng lên Trời”. Nói xong, chàng thanh niên biến mất, như sương mù tan đi khi có ánh sáng mặt trời.
Ông Gioan kinh hoảng, đứng im như trời trồng. Khi hoàn hồn, ông gọi to tiếng: “Cha, cha Hilarion ơi!”. Nhưng tiếng kêu như bị chặn đứng trong họng. Khi cha Hilarion chạy đến thì ông Gioan nằm bất tỉnh. Phải lâu lắm cha mới làm cho ông tỉnh lại và kể cho cha nghe lời người thanh niên nói. Cả hai đồng thanh dâng lời cảm tạ lòng nhân từ của Chúa, đã đoái thương cho hai người chiêm ngưỡng một phần nào dung nhan tuyệt vời của Linh Hồn được gọi vào hưởng tôn nhan Chúa.
(“Le Ciel Parmi Nous”, Editions Bénédictines, 1997, trang 142-145).
Vào năm 1827, tại thủ đô Paris nước Pháp có một thiếu nữ giúp việc nghèo thật nghèo nhưng vô 2/11-181
Vào năm 1827, tại thủ đô Paris nước Pháp có một thiếu nữ giúp việc nghèo thật nghèo nhưng vô cùng quảng đại. Cô tên Têrêsa. Têrêsa có thói quen lành thánh: mỗi tháng xin một thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục. Nhưng rồi Thiên Chúa thử thách cô bằng một chứng bệnh hiểm nghèo, khiến cô vô cùng đau đớn. Têrêsa bị mất việc làm và tiêu tán tiền của. Ngày cảm thấy kha khá, Têrêsa ra khỏi nhà với vỏn vẹn 20 xu trong túi. Cô rảo qua các khu phố để tìm việc làm. Khi đi ngang nhà thờ thánh Eustache, Têrêsa ghé vào cầu nguyện. Bỗng cô sực nhớ ra là tháng ấy, cô chưa xin lễ cho các đẳng Linh Hồn. Nhưng Têrêsa thoáng chút do dự. Số tiền 20 xu cũng là lương thực cho cô trong ngày hôm ấy. Nhưng Têrêsa không do dự lâu. Cô biết mình phải làm gì. Bất ngờ một linh mục bước vào nhà thờ, chuẩn bị dâng thánh lễ. Têrêsa hỏi cha có bằng lòng dành thánh lễ hôm ấy để cầu cho các đẳng Linh Hồn không. Cha vui vẻ nhận lời với số tiền dâng cúng 20 xu của Têrêsa .. Thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn chỉ có vị linh mục chủ tế và một giáo dân tham dự.
Lễ xong, Têrêsa ra khỏi nhà thờ tiếp tục đi lang thang tìm việc làm. Têrêsa thật sự lo lắng vì đi mãi mà không có hy vọng gì hết. Bỗng một chàng trai dáng vẽ quí tộc tiến đến gần và hỏi: “Cô tìm việc làm phải không?”. Têrêsa nhanh nhẹn trả lời: “Thưa ông phải”. Người thanh niên nói tiếp: “Cô hãy đến đường X nơi nhà số Y, chắc chắn cô sẽ có việc làm và sẽ được hạnh phúc”. Nói xong, chàng trai bỏ đi ngay không đợi nghe lời Têrêsa rối rít cám ơn.
Khi tìm được căn nhà đúng số đã chỉ, Têrêsa thấy một cô giúp việc từ trong nhà đi ra, nét mặt cau có khó chịu. Têrêsa rụt rè hỏi thăm bà chủ có nhà hay không? Cô kia đáp lửng lơ: “Có lẽ có .. có lẽ không .. nhưng có hệ gì! vì đâu có dính dáng gì đến tôi”. Nói xong, cô gái ngoay ngoảy bỏ đi.
Têrêsa run rẩy bấm chuông. Một tiếng nói dịu dàng bảo vào. Têrêsa bỗng đối diện với một phụ nữ cao niên quí phái. Bà nhẹ nhàng bảo Têrêsa hãy trình bày cho bà biết cô muốn gì. Têrêsa nói nhanh:
– “Thưa bà, sáng nay cháu hay tin bà cần một người giúp việc. Cháu xin đến nhận chỗ làm này. Người ta bảo đảm với cháu là bà sẽ tiếp nhận cháu với lòng nhân hậu”.
Bà chủ ngạc nhiên nói với Têrêsa:
– “Điều cháu vừa nói thật là lạ. Sáng nay bà chả cần ai hết. Nhưng cách đây nửa giờ bà vừa đuổi một cô giúp việc vì nó chễnh mãng trong việc làm. Chuyện này chưa hề có người nào biết, ngoại trừ bà và cô giúp việc. Vậy thì ai đã chỉ cho cháu đến đây?”.
Têrêsa đơn sơ trả lời:
– “Một thanh niên dáng điệu sang trọng, cháu gặp ngoài đường, đã bảo cháu đến đây”.
Bà chủ nhà thử tìm cho biết người thanh niên ấy là ai, nhưng vô hiệu.
Bỗng Têrêsa nhìn lên và trông thấy tấm hình một chàng trai treo trên tường. Têrêsa mừng rỡ kêu lên:
– “Thưa bà, bà không cần phải tìm đâu cho xa. Đây chính là gương mặt người thanh niên đã nói chuyện với cháu. Chính anh ta đã chỉ đường cho cháu đến đây”.
Vừa nghe xong, bà chủ nhà kêu lên một tiếng thất thanh, như muốn ngã xuống bất tỉnh. Xong, bà bảo Têrêsa tỉ mỉ kể lại cho bà nghe, bắt đầu từ chuyện cô có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn, đến Thánh Lễ sáng hôm ấy, rồi chuyện gặp gỡ chàng thanh niên.
Khi Têrêsa chấm dứt, bà chủ âu yếm ôm hôn cô và nói:
– “Cháu không phải là đầy tớ giúp việc cho bà, nhưng từ giờ phút này, cháu là con gái bà. Chàng thanh niên mà con trông thấy chính là đứa con trai độc nhất của bà. Con bà chết cách đây hai năm và ngày hôm nay chính con đã giải thoát nó ra khỏi Lửa Luyện Hình. Bà chắc chắn như thế. Bà hết lòng ghi ơn con. Giờ đây chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho tất cả những Linh Hồn còn chịu thanh tẩy trong Lửa Luyện Ngục trước khi được vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời.
(Jacques Lefèvre, “Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints”, Editions Résiac, 1995, trang 35-37)
Vâng, Các thánh Nam Nữ là ai ? Thưa, là tất cả mọi người đang ở trong Nước Trời chiêm ngưỡng Thánh 2/11-182
Vâng, Các thánh Nam Nữ là ai ? Thưa, là tất cả mọi người đang ở trong Nước Trời chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa. Hay nói theo từ ngữ Thánh Kinh, thánh là những linh hồn ưu tuyển, hoặc là những người : Đã gặt áo mình trong Máu “Con Chiên”. Có nghĩa là tất cả mọi thành phần dân Chúa đã sống và chết vì “Giáo Huấn “ của Đức Kitô, Đấng là tình yêu muôn thuở.
Như vậy, cũng có thể định khác : “thánh là những linh hồn đã sống và chết vì tình yêu Thiên Chúa”. Bởi vì, như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha, để sống và chết như thế nào, thì những người bước theo Đức Kitô,. Cũng sống và chết như vậy.
Vâng, nhưng Tin Mừng (Mt 5, 1- 12) hôm nay, mà chúng ta quen đọc và nghe , được gọi là “ Công Thức nên thánh”, hay là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI.
Đó là Đoạn Lời Chúa nói về “tiêu chuẩn” hay “ quy định” nên thánh. Nhưng, câu đầu tiên nói về “Tâm Hồn” nghèo khó : “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Vâng, tâm hồn nghèo khó, có nghĩa là tự nguyện “sống khó nghèo” vì Nước Trời.
Vậy, thế nào là “ Tâm Hồn nghèo khó” ? Thưa , “Tâm hồn nghèo khó” là “tâm hồn biết cho đi” tâm hồn quảng đại vì tha nhân. Chứ , tâm hồn nghèo khó không hẳn nhiên là “ người nghèo” vật chất. Vì, người nghèo vật chất chưa chắc họ đã có tâm hồn quảng đại để cho đi. Người có “tâm hồn quảng đại” sẵn sàng cho đi chính là “ người giàu có”.
Chúng ta suy niệm rõ ràng “Tám Mối Phúc Thật” không phải Thiên Chúa “đề cao” cái nghèo hay sự nghèo nàn, mà là Thiên Chúa “tuyên dương “ cái giàu, sự giàu có, tức sự “ QUẢNG ĐẠI “cho đi, vì Thiên Chúa chính là ”ÔNG CHỦ” giàu có nhất cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Không phải Chúa Giêsu “ nghèo khó”, mà là Chúa cho đi tất cả, cho đi chính mình, một sự “ quảng đại” của Đấng Tối Cao là cho đi tất cả. Vậy, khi cho đi tất cả không phải là “ NGHÈO” mà là chính lúc giàu nhất.
Vì cuối cùng của những “Mối Phúc” chính là “Sự giàu có “ nhất đó là “ NƯỚC TRỜI”. Vâng, rõ ràng là như vậy, vì Thiên Chúa không làm cho chúng ta bị “ nghèo” đi, nhưng trái lại, Người muốn cho chúng ta “GIÀU CÓ”.
Qủa thật, khác với trần gian đó là “sự nghèo” và “ sự giàu”, sự giàu có của trần gian thì người ta cho là “có phúc”, điều đó không sai, nhưng trần gian đã hưởng phúc rồi thì còn đâu , đời sau hưởng phúc nữa, nếu không biết cho đi, không biết chia sẻ, nhưng chia sẻ thế nào được, nếu trần gian tôi cũng bị nghèo.
Bởi vì, nghèo là sự bất hạnh nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nếu tôi nghèo vật chất , nhưng tôi giàu tâm linh thì tôi mới có phúc, còn nếu tôi giàu vật chất, nhưng tôi nghèo tâm linh, thì tôi mới bất hạnh. Còn nếu tôi giàu cả hai, thì tôi thật hạnh phúc cả đời nầy lẫn đời sau.
Nhưng, Hiến Chương Nước Trời chính là điều khuyên tôi chọn lựa, nếu tôi chọn hạnh phúc , tức sự giàu có Nước Trời, thì tôi phải hy sinh đời nầy, có nghĩa là” sự giàu có” Nước Trời có nghĩa là ÂN SỦNG SIÊU NHIÊN đòi buộc tôi phải “trả giá”, cũng như cuộc sống trần gian, nếu tôi muốn làm giàu, thì tôi phải ra sức làm việc, nhưng một khi làm hết sức chưa chắc tôi đã giàu.
Như vậy, Tám Mối Phúc Thật là hình ảnh của “tám loại thánh”, theo đó, chúng ta có thể biết được trong Nước Trời có mấy loại thánh. Thưa , có “tám loại thánh”. Như vậy, có thể kết luận: Thánh là những linh hồn thực thi “Tám Mối Phúc Thật”.
Vì rõ ràng, không phải tất cả những người nghèo “vất chất” mà được nên thánh hết thảy đâu, nhưng những ai vì Nước Trời mà trở nên sống nghèo, thì họ mới trở thành người được hưỡng hạnh phúc Nước Trời. Vì, đơn giản rằng : không ai ở “âm phủ” mà xài tiền “ dương thế”, ở đâu thì xài tiền ở đấy.
Nếu sống ở đời nầy, mà chúng ta biết “ làm giàu” cho đời sau, thì đời sau chúng ta có cái phúc để hưởng, có nghĩa là có “Tâm hồn nghèo khó”, là tâm hồn biết chia sẻ, tâm hồn quảng đại, tâm hồn hy sinh, tâm hồn trao ban chính mình. Còn nếu, chúng ta chỉ biết làm giàu vật chất, chỉ tích lũy cho mình, không biết trao ban cho tha nhân, thì làm sao chúng ta có” Tâm hồn nghèo khó” được, mặc nhiên , Nước Trời không thuộc về chúng ta.
Theo đó, các thánh là những người biết cho đi những gì mình có vì Nước Trời, mặc nhiên, Nước Trời là của họ. Như vậy, sự giàu có là cần thiết, nhưng khác nhau là “tạm thời” tức sự hữu hạn , và “ vĩnh hằng” tức sự vô hạn mà thôi.
Kết luận: Thánh là những phàm nhân sống/chết vì Nước Trời. Tất cả các thánh đều như vậy. Ân sủng là đến từ Thiên Chúa , chứ không do bởi một phàm nhân nào. Vì, tất cả đều là phàm nhân.
Xét về Hội Thánh, thì các thánh là thành phần Hội Thánh khải hoàn , là một bộ phận dân Chúa đã được “ ngụp lặn” “ hay là “tắm gội” trong Máu Con Chiên, có nghĩa là đón nhận ơn Cứu Độ và sinh sôi ơn Cứu Độ của Đức Kitô cho thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con trở nên chứng nhân Nước Trời, xin thương ban cho những ai biết đón nhân, nghe theo, thực thi đều trở nên chứng nhân Tin Mừng Nước, vì đó là Hạnh Phúc đích Thật cho họ ./. Amen
Suy Niệm Lễ Nhất – Ngày Lễ Các Linh Hồn (Ga 6, 51 – 59)
Con người sinh ra là để sống, để vươn lên. Ai trong chúng ta cũng đều có một mơ ước một khát 2/11-183
Con người sinh ra là để sống, để vươn lên. Ai trong chúng ta cũng đều có một mơ ước một khát vọng riêng cho mình, cho dù đó là mơ ước nhỏ hay to, cao xa hay thấp hèn. Nếu con người sống mà không có mơ ước thì chỉ như một cỗ máy. Khát vọng vươn lên đó chính là mục đích sống của con người. Niềm tin Kitô giáo dạy cho chúng biết, con người có xác có hồn, có đời này và đời sau. Vì thế, ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc ở đời tạm thế này, người tín hữu phải đạt được sự sống đời đời mai sau nữa. Nhưng đâu là bí quyết để sống trường sinh là một câu hỏi lớn ?
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương”, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ, sống đời tạm này. Từ của ăn vật chất nuôi sống thể các, Chúa gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì tìm kiếm của ăn thiêng liêng, lương thực trường tồn, lương thực ấy là chính Chúa Giêsu (x. Ga 6). Thế là khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải luôn cho họ: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Ngày xưa Chúa Giêsu gọi mời những người Do thái, ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy đến mà ăn Bánh Giêsu. Nếu chúng ta muốn sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người : “Là Bánh Hằng Sống … ai ăn … sẽ được sống đời đời” (Ga 6,51).
Sự sống đời đời, tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Thiên Chúa là Đấng làm cho sống, là nguồn mạch sự sống. Vì thế, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời (x.Ga 6, 54). Hơn nữa còn được Chúa đến cắm lều ngay nơi lòng chúng ta: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56).
Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là lấp đầy khát vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là trường sinh bất tử.
Nếu như trong sa mạc xưa kia, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, thì nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh.
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm qua, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc của Thiên Chúa. Khi chiếm ngắm các ngài, chúng ta có thêm động lực để phấn đấu hầu lấp đầy khát vọng làm thánh của chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là sự sống trường sinh, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Xin cho những kẻ khi còn sống đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa đã rước Mình và Máu Thánh Chúa được sống muôn đời. Amen.
Bà Maria Agatha Simma sinh ngày 5-2-1915 tại Sonntag, nước Áo, trong một gia đình nghèo thật 2/11-184
Bà Maria Agatha Simma sinh ngày 5-2-1915 tại Sonntag, nước Áo, trong một gia đình nghèo thật nghèo. Bà có lòng yêu thương cách riêng các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Vì thế, bà được Thiên Chúa chọn làm vị tông đồ giúp đỡ các Linh Hồn. Chúa cho phép các Linh Hồn nơi Luyện Hình hiện về với bà để xin bà cầu nguyện hoặc làm việc đền bù phạt tạ thay cho các ngài. Bà cũng được đặc ân nhờ dịp này, hỏi các Linh Hồn về số phận của một vài Linh Hồn khác: còn bị giam nơi Lửa Luyện Hình hay đã về Thiên Quốc rồi. Bà Maria Agata Simma kể:
Chỉ vào những ngày thứ bảy đầu tháng hoặc vào những ngày Lễ kính Đức Mẹ, tôi mới có thể hỏi xem một Linh Hồn còn đền tội nơi Lửa Luyện Hình hay không. Khi một Linh Hồn hiện ra và sau khi đã trình bày những gì Linh Hồn cần xin để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình, mà Linh Hồn vẫn còn đứng đó, thì tôi hiểu rằng, tôi có thể đặt một vài câu hỏi. Dĩ nhiên tôi không thể hỏi thẳng về số phận của chính đương sự, bởi vì, điều dễ hiểu là Linh Hồn này chỉ được ra khỏi Luyện Ngục sau khi người ta đã thi hành điều Linh Hồn xin .. Thường thì một Linh Hồn chỉ có thể cho biết về số phận của một Linh Hồn khác. Và Linh Hồn khác đó cũng có thể được phép hiện về để xin người ta làm việc lành hầu giải thoát mình khỏi Lửa Luyện Tội.
Có khi phải đợi 2 hoặc 3 năm, hoặc ít hơn, mới nhận được câu trả lời. Tùy theo lòng Nhân Lành của Thiên Chúa ban phép. Thường thì các Linh Hồn nơi Luyện Ngục không thể cho biết Linh Hồn nào bị rơi xuống hỏa ngục. Tuy nhiên, không vì thế mà kết luận rằng: không có hỏa ngục! Trái lại, chắc chắn có hỏa ngục và có rất nhiều người bị rơi vào đó! Nếu có ai hỏi tôi rằng: phương thế nào hữu hiệu nhất, giúp khỏi bị rơi vào hỏa ngục, tôi xin thưa:
– “Hãy sống khiêm nhường. Kẻ nào có lòng khiêm nhường không bị rơi vào hỏa ngục; còn kẻ nào kiêu ngạo thì kẻ đó có nguy cơ bị trầm luân đời đời kiếp kiếp trong lửa hỏa ngục!”.
Có người hỏi tôi: “Trong Luyện Ngục có các trẻ em bị giam cầm không?”, tôi xin thưa: “Có, đôi khi có cả các trẻ em chưa cắp sách đến trường nữa. Vừa khi một đứa trẻ biết điều gì không tốt mà vẫn làm thì đứa trẻ đó phạm một lỗi. Dĩ nhiên đối với trẻ em thời gian trong Luyện Ngục không kéo dài lâu, cũng không khủng khiếp lắm, bởi vì đứa trẻ chưa có trí phán đoán hoàn toàn. Thế nhưng đừng nghĩ rằng, một đứa trẻ chưa hiểu gì! Không hẳn thế. Một đứa trẻ hiểu hơn là chúng ta tưởng nghĩ! Trẻ em thường có một lương tâm bén nhạy hơn người lớn!
Một ngày, một người đàn ông đến xin tôi hỏi thăm về số phận của người vợ quá cố. Câu trả lời cho biết là bà vẫn còn bị giam trong Lửa Luyện Hình. Điều đáng nói: bà này là thành viên của nhiều Hội Đoàn, trong ấy, người ta có thể nhận lãnh ơn toàn xá trong giờ lâm tử. Do đó, người ta nghĩ bà đã được lên Thiên Đàng lâu lắm rồi!
Tôi xin một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình giải thích lý do. Linh Hồn đó trả lời: “Để được nhận lãnh hoàn toàn một ơn toàn xá cho chính mình, người đó không được dính bén bất cứ sự gì nơi trần gian này. Đây là một đòi hỏi triệt để. Lấy ví dụ: một người mẹ trẻ có năm đứa con dại đang quây quần bên giường chết. Vậy mà, người mẹ trẻ sắp chết đó phải thưa cùng Chúa:
– “Con chỉ muốn điều Chúa muốn. Sống hay chết tùy ý Chúa!”.
Thật là đòi hỏi khe khắt. Đúng vậy. Vì thế, cần phải luôn sống trong sự từ bỏ hoàn toàn và liên miên, mới có thể đạt đến tâm tình không dính bén bất cứ điều gì, vào giờ Chúa gọi từ bỏ tất cả để về với Ngài nơi Thiên Quốc!
Một Linh Hồn kể cho tôi nghe như sau. Tôi chết ngay tại chỗ trong tai nạn xe môtô, trên một đường phố ở thủ đô Vienne của nước Áo. Tôi bị tử nạn vì không tôn trọng luật đi đường. Đó là số phận của tôi. Tôi hỏi Linh Hồn:
– “Lúc đó, anh đã sẵn sàng để ra đi về thế giới bên kia chưa?”. Linh Hồn thú nhận:
– “Tôi chưa sẵn sàng, nhưng Thiên Chúa Nhân Từ luôn ban cho một người – không bao giờ chủ ý phạm tội, hoặc không vì kiêu căng mà phạm tội chống lại Thiên Chúa – một thời gian ngắn hai hay ba phút để ăn năn tội cách trọn. Chỉ người nào khi ấy vẫn còn từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, mới bị kết án trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục”.
Linh Hồn này còn nói thêm một điều đáng suy nghĩ. Trong nhiều trường hợp, người ta nói:
– “Đã đến giờ Chúa định cho người ấy phải chết”. Thật ra không luôn luôn đúng như vậy. Chỉ đúng trong trường hợp một người chết không do ý muốn hoặc lỗi của mình. Còn trong trường hợp của tôi, theo chương trình của Chúa, đáng lý tôi còn sống thêm được 30 năm nữa! Vì thế, chúng ta không có quyền đánh liều, đưa mạng sống chúng ta vào vòng nguy hiểm, trừ khi có lý do chính đáng! ..
…..
Hồi ấy là năm 1954, vào khoảng 14 giờ 30 phút chiều. Trên đường đi đến làng Marul, tôi gặp một bà lão. Tôi thầm nghĩ: “Hẳn cụ này phải 100 tuổi!”, bởi lẽ tôi thấy bà cụ già quá già! Tôi liền thân mật cất tiếng chào cụ. Bà lão nói:
– “Sao lại chào tôi? Bởi vì, chả ai còn thèm chào tôi nữa!”.
Tôi an ủi:
– “Cụ đáng được chào như bất cứ người nào khác”. Thế là bà cụ bắt đầu than thở: – “Không một ai còn tỏ dấu gì thân thiện đối với tôi. Chả ai thèm cho tôi cái gì để ăn và tôi phải nằm ngủ bên lề đường”.
Nghe bà lão than van như vậy, tôi tự nhủ: – “Không thể nào xảy ra như thế được! Hẳn là bà cụ đã mất trí, bị điên điên khùng khùng rồi!”.
Nghĩ thế, nên tôi tìm cách chứng minh cho bà cụ thấy là không thể nào xảy ra như vậy được. Nhưng bà cụ cương quyết nói:
– “Nhưng thực sự là như thế!”.
Tôi bèn nghĩ, có lẽ bà cụ làm cho người ta nhàm chán, nên không ai muốn giữ bà lâu, thêm vào đó, tuổi bà lại cao. Tôi liền mời bà về nhà để ăn và ngủ tại nhà tôi. Bà cụ lại nói:
– “Nhưng tôi lại không có tiền để trả”.
Tôi trả lời:
– “Không sao hết. Điều quan trọng là cụ phải chấp nhận tất cả những gì cháu dâng cho cụ. Nhà cháu không có nhiều tiện nghi lắm, nhưng vẫn hơn là ngủ ngoài đường”.
Nghe tới đây, bà lão vội vàng nói:
– “Tôi xin hết lòng cám ơn. Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho bà. Bây giờ, tôi được giải thoát!”. Nói xong, bà cụ biến mất.
Ngay lúc ấy, tôi mới nhận ra bà lão là một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Chắc chắn khi còn sống, bà cụ đã từ chối không tiếp rước và giúp đỡ một người nào đó, trong cơn túng bẫn. Giờ đây, bà cụ phải đợi cho đến khi có một người sẵn sàng giúp đỡ bà ngay, không so đo do dự, chỉ khi ấy, bà mới được giải thoát khỏi Lửa Đền Tội.
……
Một hôm, một Linh Hồn hiện về và hỏi tôi:
– “Bà có nhận ra tôi không?”. Tôi đáp không. Linh Hồn liền nói:
– “Có. Bà đã có lần trông thấy tôi. Hồi năm 1932, bà cùng đi xe lửa với tôi đến Hall. Hôm ấy, tôi ngồi trong cùng một toa với bà”. Nghe tới đây, tôi nhớ lại rõ ràng chuyến đi hôm ấy. Phải rồi, đây là người đàn ông khi ngồi trong xe lửa đã lớn tiếng chỉ trích Hội Thánh và Kitô Giáo. Mặc dầu lúc ấy tôi mới có 17 tuổi, nhưng tôi đã hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề. Tôi thẳng thắn nói với ông ta rằng:
– “Bác không phải là người đàng hoàng, vì bác sao nhãng những việc thật thánh thiện”.
Ông ta trừng mắt nhìn tôi:
– “Cháu còn quá trẻ, mà dám cho bác một bài học sao? Không, bác không cho phép như thế đâu!”. Không hiểu sao tôi vẫn bạo dạn nói:
– “Dầu vậy, cháu vẫn là người thông minh hơn bác!”. Nghe thế, người đàn ông cúi gầm mặt xuống và từ đó không mở miệng nói lời nào cả. Khi ông bước xuống xe lửa, tôi liền thầm thĩ kêu van cùng Chúa:
“Xin Chúa đừng để Linh Hồn này bị hư mất đời đời!”.
Bây giờ, Linh Hồn này nói với tôi: “Chính nhờ lời cầu nguyện của bà hôm ấy mà tôi được cứu thoát, nếu không tôi đã bị trầm luân trong hỏa ngục rồi! Cám ơn bà nhiều lắm”.
…….
Một Linh Hồn hiện về với thùng rác cầm tay. Tôi hỏi:
– “Đây là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng cho tôi! Khi còn sống, tôi cầu nguyện rất ít. Họa hoằn lắm tôi mới đến nhà thờ xem lễ một lần. Nhưng một hôm, trước lễ Giáng Sinh, tôi đã tình nguyện quét dọn nhà cửa cho một bà cụ nghèo thật nghèo. Nhờ thế mà tôi được cứu rỗi. Điều này chứng tỏ rằng: tất cả đều tùy thuộc nơi việc chúng ta có thi hành đức bác ái hay không!”.
Lần khác, Linh Hồn một Linh Mục hiện về với cánh tay phải đen thui, trông thật hãi hùng! Tôi hỏi lý do Linh Hồn trả lời:
– “Đáng lý tôi phải thường xuyên ban nhiều phép lành hơn nữa! Vậy bà hãy nói với tất cả các Linh Mục bà có dịp gặp, rằng: Xin các cha hãy chúc lành nhiều hơn nữa. Bởi vì, các Linh Mục càng ban nhiều phép lành, càng phân phát được nhiều ơn thiêng, có sức mạnh đẩy xa sự dữ cùng tà ma phá hoại loài người”.
Lần kia, một Linh Hồn sau khi trình bày với tôi những gì Linh Hồn cần để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình, liền nói thêm: “Nếu người ta làm cho tôi điều ấy, tôi sẽ được hài lòng”. Chỉ có vậy, không thêm không bớt điều gì nữa, ngoại trừ chi tiết ông ta sống tại đâu và qua đời khi nào.
Tôi lập lại những gì Linh Hồn này xin cho các thân nhân. Các thân nhân tỏ dấu nghi ngờ không tin. Họ muốn biết có phải tất cả các Linh Hồn khi hiện về đều nói câu: “Nếu người ta làm cho tôi điều ấy, tôi sẽ được hài lòng”. Tôi trả lời:
– “Không, cho đến bây giờ thì đây là lần đầu tiên, một Linh Hồn nói như thế”. Các thân nhân muốn biết thêm tại sao Linh Hồn lại nói như vậy. Tôi trả lời: “Không biết!”. Họ liền nói:
– Thế thì chúng tôi biết tại sao. Đó là phương châm của thân phụ quá cố chúng tôi. Lúc còn sống, người thường nói: “Nếu các con làm điều đó, cha rất hài lòng”. Vì thế, chúng tôi tin lời bà.
Những người này không còn đến nhà thờ tham dự thánh lễ Chúa nhật nữa. Đối với họ, đây là giới luật của Hội Thánh chứ không phải một giới răn đến từ Thiên Chúa. Tôi giải thích cho họ hiểu:
“Nơi cuộc sống vĩnh cửu, một giới răn do Giáo Hội đặt ra cũng có giá trị y như một giới luật đến từ Thiên Chúa. Chỉ có sự khác biệt duy nhất: Giáo Hội có thể xóa bỏ hay thay đổi một giới luật do Giáo Hội đặt ra, trong khi giới răn đến từ Thiên Chúa thì bất biến. Giáo Hội không được phép cũng không có quyền thay đổi giới luật của Thiên Chúa”.
Một Linh Hồn thú nhận với tôi rằng:
– “Tôi đã phạm một tội ác chống lại Thiên Chúa. Một ngày, trong cơn giận bốc cao, tôi vứt mạnh Thánh Giá Chúa Giêsu xuống đất, rồi lấy chân đạp nát! Vừa đạp, tôi vừa thách thức: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thật sự, Ngài không để cho điều ấy xảy ra! Nhưng Thiên Chúa không dung tha cho kẻ nào dám chế nhạo Ngài. Tôi bị phạt nằm cứng đơ tại chỗ. Nhưng hình phạt bất toại này lại là ơn cứu rỗi cho tôi!”. Kể xong, Linh Hồn xin tôi nhắn lại với người vợ, những gì bà phải làm để có thể giảm bớt hình phạt nặng nề của ông nơi Lửa Luyện Ngục.
Khi tôi lập lại những điều ông ta nói với vợ, bà này tỏ ra vô cùng kinh hãi. Từ lâu, bà đã rời bỏ Giáo Hội Công Giáo. Bà nói với tôi:
– “Chuyện chồng tôi xúc phạm đến Thánh Giá Chúa Giêsu, chỉ duy nhất hai vợ chồng chúng tôi biết. Tôi không hề tiết lộ với ai. Chồng tôi cũng không thể nào kể lại cho ai nghe. Nếu Linh Hồn đó có thể nói như thế, tôi xin tin lời bà”.
Sau đó, bà ta ăn năn thống hối và trở về với Giáo Hội Công Giáo.
Linh Hồn một bác sĩ hiện về than thở về hình phạt nặng nề ông đang phải đền trong Lửa Luyện Ngục. Lý do là khi còn sống, trong lúc hành nghề, ông đã chích thuốc cho các bệnh nhân làm giảm cơn đau, nhưng cùng lúc, khiến họ chóng chết. Giờ đây, ông mới thấy rõ tầm quan trọng và giá trị lớn lao của đau khổ, nhất là những đau khổ được chấp nhận với lòng kiên nhẫn, nang lại một giá trị vô biên. Linh Hồn nói:
– “Người ta được phép làm giảm bớt các đau đớn quá lớn, nhưng không được quyền rút ngắn cuộc sống của các bệnh nhân, bằng những phương tiện hóa học, y khoa”.
……..
Một ngày, một người đàn ông đến nhà tôi. Ngay từ nơi hành lang, ông cất tiếng hỏi với một giọng khinh khi:
– “Cái bà thường đùa giai với vụ các Linh Hồn ở Luyện Ngục hiện về, đang trốn xó nào rồi?”.
Tôi trả lời:
– “Xin ông đi về phía này. Tôi đang đứng ở đây. Và không có chuyện đùa giai với các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình đâu!”.
Nghe vậy, ông ta lầm bầm trong miệng, rồi đi thẳng vào vấn đề:
– “Bà có phải là người mà ông E. hiện về với bà không?”. Thì ra ông ta là người nhà của ông E. mà tôi đã thông truyền lại những gì ông E. nhắn gởi. Ông E. muốn người nhà phải hoàn trả lại tài sản đã chiếm hữu cách bất chính.
Sau khi nghe tôi xác nhận, ông ta nổi giận đùng đùng, quát tháo ầm ĩ:
– “Tài sản nào đã chiếm hữu bất chính mà chúng tôi phải hoàn trả lại?”.
Tôi trả lời:
– “Tài sản nào thì tôi không biết. Ông E. chỉ nhờ tôi nói lại với người nhà như thế. Chính người nhà của ông E. phải biết rõ đâu là tài sản đã chiếm hữu bất chính và phải hoàn trả lại cho chủ nhân”.
Vừa trả lời, tôi vừa nghĩ là ông ta biết rõ tài sản nào. Thế rồi, theo lời ông ta nói, tôi biết ông là người không sống đạo và chỉ trích mọi người từ Đức Thánh Cha đến các Giám Mục, Linh Mục và Giáo Hội Công Giáo. Tôi từ từ giải thích cho ông hiểu mọi chuyện. Ông dịu hẳn lại và nói:
– “Nếu quả đúng như vậy, tôi phải thay đổi cuộc sống. Tôi không tin tưởng nơi một Linh Mục nào hết, nhưng giờ đây, tôi phải bắt đầu đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, bởi vì, bà không thể nào biết được trong gia sản của chúng tôi, có những tài sản mà chúng tôi đã chiếm hữu cách bất hợp pháp. Kể cả các thân nhân họ hàng của chúng tôi, phần đông cũng không biết điều này..”.
Lần kia, Linh Hồn hiện về với tôi là một bà mẹ gia đình. Linh Hồn nói:
– “Tôi bị giam cầm đền tội nơi Lửa Luyện Ngục trong vòng 30 năm trời. Lý do là vì tôi đã ngăn cản không cho phép con gái tôi gia nhập dòng tu”.
Linh Hồn nói thêm:
– “Khi các bậc cha mẹ phải dâng con cho Chúa và khi Thiên Chúa gọi con cái vào chức vụ Linh Mục hoặc đời sống tu trì, mà cha mẹ ngăn cản, cha mẹ chịu một trách nhiệm vô cùng nặng nề .. Có rất nhiều người trẻ, đáng lý đã trở thành linh mục hoặc tu sĩ, nhưng không được cha mẹ cho phép. Các cha mẹ này phải trả lẽ nặng nề trước mặt Thiên Chúa”.
Một người đàn ông viết cho tôi rằng, vợ ông qua đời đã hơn một năm. Nhưng kể từ đó, đêm nào phòng ông cũng bị đập ầm ầm, không ngủ được. Ông xin tôi đến, xem có thể làm được gì giúp ông không.
Tôi nhận lời nhưng nói trước có lẽ tôi không làm được gì nhiều. Nếu vợ ông chưa được phép hiện về, đành phải phó thác mọi sự trong tay Chúa Quan Phòng. Tôi đến và ngủ trong phòng đó. Vào khoảng 23 giờ 30 phút, tiếng đập cửa bắt đầu nổi lên. Tôi cất tiếng hỏi: “Linh Hồn muốn gì? Tôi có thể làm gì giúp cho Linh Hồn?”. Tôi không thấy ai cũng không nghe tiếng trả lời. Tôi nghĩ là bà này chưa được phép nói. Sau khoảng 5 phút, một con hà mã xuất hiện. Trông thật khủng khiếp. Tôi liền rảy nước thánh và hỏi:
“Tôi phải làm cách nào để giúp Linh Hồn?”. Vẫn không có tiếng trả lời. Tức khắc, xuất hiện một con rắn khổng lồ. Con rắn quấn chặt quanh con hà mã, như để bóp chết. Rồi cả hai con thú biến mất. Tôi buồn rầu tự nhủ: “Không lẽ Linh Hồn này bị trầm luân đời đời sao?”. Một lúc sau, một Linh Hồn khác xuất hiện. Linh Hồn này an ủi tôi:
– “Đừng sợ. Bà ấy không bị rơi xuống hỏa ngục đâu. Nhưng bà bị một thứ hình phạt nơi Luyện Tội dữ dằn nhất. Lý do là khi còn sống, bà đã giữ mối hận thù triền miên với một phụ nữ khác. Phụ nữ này đã nhiều lần tìm cách xin lỗi và làm hòa, nhưng bà ấy nhất định từ chối, ngay cả khi bị bệnh nặng gần chết!”.
Câu chuyện Linh Hồn trên đây cho thấy Thiên Chúa trừng phạt nặng nề những tội phạm lỗi đức bác ái, chống lại người thân cận.
(Maria Simma, “Les Âmes du Purgatoire m’ont dit”, Editions Du Parvis, 1990).
Lễ Các Đẳng Linh Hồn là dịp để con người trần gian nhìn lại thân phận mỏng giòn của mình. Đời 2/11-185
Lễ Các Đẳng Linh Hồn là dịp để con người trần gian nhìn lại thân phận mỏng giòn của mình. Đời người như chiếc lá rụng rơi ngay tức thì. Đời người gió thoảng mây trôi, nay còn, mai mất.
Ai rồi cũng qua đi theo thân xác hữu hạn, phải qua đi, nhưng số ít khi qua đi được tháp nhập vào Thiên Chúa, đó là thành phần các thánh, còn lại đa số khi linh hồn lìa khỏi thân xác thì phải trải qua thanh luyện nơi chốn luyện hình.
Thiên Chúa dựng nên con người trong thân xác hữu hạn có một linh hồn bất tử. Linh Hồn đó luôn khắc khoải và chờ đợi. Trong thân xác hữu hình, linh hồn đợi chờ một sự ”trở về”, thân xác con người hữu hạn chết đi, dù già , trẻ, lớn , bé, giàu nghèo sang hèn, tri thức hay ngu dốt. Tất cả sẽ trở về, dù muốn hay không.
Khi trở về, mang theo một sự trống rỗng, kèm theo tội lỗi, tức sự ngông cuồng, con người đó không tránh khỏi sự thanh luyện. Luyện ngục không phải nơi giam cầm vĩnh viễn, mà là nơi “đợi chờ”. Đợi chờ ngày được giải thoát, ai có thể biết chắc linh hồn mình thoát được luyện ngục.
Thân xác không còn đau khổ, nhưng linh hồn “đau khổ”, một sự đau khổ không có thời gian, sự thanh luyện là nơi Thiên Chúa yêu thương trong sự nhẫn nại của Ngài. Nhưng, linh hồn trong luyện hình không còn cơ hội “lập công”. Họ như người bất lực 100 %, sự đau khổ , thất bại hoàn toàn, nhưng vẫn còn có cơ hội được cứu, đó là lời cầu nguyện, việc làm hy sinh cho họ.
Các Đẳng Linh Hồn là tất cả những người Công Giáo đã chịu Phép Rửa Tội, không phân biệt tuổi tác, chức vụ, cấp bậc, địa vị. Có thể là cha mẹ, ông bà, hoặc con cháu, bạn bè, người thân, sơ, người tu hành , đủ mọi tầng lớp.
Ai qua đời đều được xin lễ, cầu nguyện, nhưng chừng mực nào đó có thể chưa đủ, hoặc chưa đến. thời gian trôi qua, có thể trở thành Linh Hồn mồ côi, không ai nhớ đến.
Như vậy, linh hồn thân nhân, mặc nhiên, được nhớ đến để cầu nguyện, còn những linh hồn “bơ vơ” thì sao? Thiên Chúa cũng đóai thương đến họ, nhưng không thiên vị , sự công thẳng không nhún nhường, sự công minh tuyệt đối. Sau luật pháp trần thế vẫn có sự công thẳng siêu nhiên.
Thiên Chúa vẫn dành cho sự “ ưu ái “ là đền tội. Khác với hỏa ngục, nơi giam giữ vĩnh hằng. Luyện hình nơi chốn vẫn còn tình yêu, vì vậy, Thiên Chúa luôn tha thứ cho họ. Một sự tha thứ qau lời cầu bàu của các thánh, và sự cầu nguyện, hy sinh của người còn sống.
Thánh Vịnh 129 là lời cầu xin cho các linh Hồn.
Nơi vực sâu tôi van lơn Chúa, Khẩn cầu Ngài xin khá nghe lời, Hãy lắng tai thẩm nhận van nài Nếu chấp tội nào ai sống được ? Nhờ ơn Chúa thứ tha tội ác Khiến loài người suy phục kính tôn, Tôi trông cậy Chúa Trời khoan nhân Linh Hồn tôi cậy trông lời Hứa…. Như vậy, Lời Hứa tha thứ từ Thiên Chúa dành cho những kẻ tín trung.tin vào ơn Cứu Độ của Ngôi Hai Cứu Thế, sự tha thứ khi biết ăn năn.
Kẻ nào kêu cầu sẽ được cứu.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc các Linh Hồn, xin nghe lời con cầu khẩn, dù muôn lần bất xứng, nhưng con tin vào Lời Hứa thứ tha, mà cầu xin cho các linh hồn, cho họ được giải thoát, hầu sự công minh và ngay thẳng của Chúa đáng được ca tụng muôn đời ./. Amen
Hằng năm, cứ vào tháng 11, người Công Giáo tận hưởng một mùa sinh hoạt tôn giáo thú vị 2/11-186
Hằng năm, cứ vào tháng 11, người Công Giáo tận hưởng một mùa sinh hoạt tôn giáo thú vị, đầy nghĩa tình. Mùa này khởi đi từ ngày 1 tháng 11, ngày lễ các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, ngày tôn vinh tất cả những con người đã cống hiến cuộc đời của mình cho Thiên Chúa và tha nhân, đã trung tín và đã đi đến cùng cuộc đời trong ơn nghĩa Chúa. Kính Thánh nói họ là những người “đi qua những đau khổ lớn lao mà đến” và Kinh Thánh cũng nói họ “đông vô số kể, từ muôn nước muôn dân”.
Mùa Hội Tình Thương kéo dài hết tháng 11, được gọi là Tháng các Linh Hồn, vì từ ngày mồng 2 tháng 11, đúng hơn là chiều 1 tháng 11, từ tâm trạng tung hô ngợi ca Thiên Chúa nơi các bậc Thánh nhân, người tín hữu tưởng nhớ đến tất cả những người đã khuất và thiết tha cầu nguyện cho họ được bình an. Những người đã khuất trong đó có những người thân yêu của mình nên từ trong đáy lòng, trong khoảng sâu thẳm của con tim, người tín hữu Công Giáo chú tâm và trào tràn cảm xúc sống những ngày yêu thương này với kinh nguyện
Khi thời gian lùi dần vào cuối tháng 10, đó là lúc các gia đình Công Giáo xôn xao viêc đi viếng mộ thân nhân, họ ra nghĩa trang để thăm viếng, xem xét mộ phần, tu bổ hoặc làm mới, họ dọn cỏ, quét lá, thắp nhang. Ban Trị Sự nghĩa trang tất bật làm rạp, dọn dẹp chung khu nghĩa trang, chuẩn bị cho ngày hội tưng bừng đông đảo vào chính ngày 2 tháng 11. Ở Sàigòn, Bình Hưng Hòa là khu nghĩa trang lớn nhất và lâu đời nhất, các nghĩa trang khác trong lòng thành phố như Nghĩa Trang Đô Thành đường Lê Văn Duyệt nay là đường CMT8, Nghĩa trang Thánh Minh Tương Tế đường Thoại Ngọc Hầu nay là đường Pham Văn Hai đã bị giải tỏa từ lâu. Đáng kể nhất là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, một nghĩa trang đẹp, sang trọng với những hàng cây lâu năm, yên tĩnh và an bình như những con người năm im dưới đáy mộ, nghĩa trang này bị giải tỏa ngay từ những năm đầu “giải phóng”, đặt dấu chấm hết cho một khu đất đầy tính văn hóa, nhân văn và thiên nhiên giữa lòng thành phố. Có thể nói không một bạn sinh viên học sinh nào thời đó mà không có những kỷ niệm đẹp của những giờ khắc êm đềm học bài hoặc dạo chơi trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
Sáng sớm ngày 2 tháng 11, các ngã đường vào nghĩa trang Bình Hưng Hòa đã rơi vào tình trạng kẹt cứng, các nhân viên giao thông làm việc hết sức vất vả, các nghĩa trang đầy hoa đèn, cờ quạt, tưng bừng đủ mọi màu sắc của ngày hội, lố nhố dáng người đầy ắp các nghĩa trang, tiếng kèn, tiếng trồng, tiếng âm thanh khuyếch đại của các nghi thức cầu nguyện và Thánh Lễ, vang động cả một góc trời. Nghĩa trang trở thành một vùng lễ hội náo nhiệt… Rồi ngày hội tan dần về buổi chiều, một vài nghĩa trang lác đác dâng lễ muộn, nhưng cả tháng 11, nhang đèn hoa nến được bày biện khắp các ngôi mộ nơi người thân yêu đang yên nghỉ.
Ở các tỉnh lẻ thì không khí có phần khác hơn, mỗi Giáo Xứ có một nghĩa trang, tất cả mọi người qua đời trong Giáo Xứ đều được chôn cất ở nghĩa trang đó, vì thế mỗi nghĩa trang tách biệt nhau và có thể nói toàn bộ Giáo Xứ “di chuyển” ra nghĩa trang với người quá cố trong những ngày nay. Nghĩa trang như một công viên hoa, hoa tươi khắp nơi, ngôi mộ nào cũng được người thăm chăm chút cho thật đẹp, thật thân thương, từng ngôi mộ được trang hoàng nối tiếp các ngôi mộ khác làm thành một công viên tuyệt đẹp, sống động với những làn khói hương nghi ngút.
Trong những lần đi tham dự các khóa học hoặc làm việc ở nước ngoài, tôi có dịp đến các nghĩa trang ở một số nước vào những ngày đầu tháng 11. Nghĩa trang ở Liège, nước Bỉ, buồn thê thảm, bầu trời xám xịt lạnh lẽo mùa đông, rộng thênh thang người viếng nghĩa trang lác đác lẻ loi.
Thế nhưng nghĩa trang ở Roma đúng là ngày hội, một lễ đài uy nghi trang trọng trải thảm đỏ dựng ngay cổng nghĩa trang, những tiệm bán hoa chung quanh nghĩa trang đầy người tấp nập, bên trong nghĩa trang, mỗi ngôi mộ là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, có những bức tượng chỉ cần có thêm âm thanh nữa chúng ta sẽ lầm tưởng là người thật.
Ngôi mộ cũ của Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận được đặt trong lòng tường dưới một căn hầm, đối diện qua ngõ nhỏ, chếch lên cao là ngôi mộ của Đức Ông Vinh Sơn Thụ, gần đó, vài bước thôi là một căn Nhà Nguyện nhỏ, chúng tôi thường dâng lễ ở đây khi có dịp ra viếng mộ ngài. Bây giờ ngài được phúc trên Thiên Đàng, xin phù hộ cho đất nước dân tộc của chúng ta.
Ở Sàigòn gần đây các nghĩa trang bị giải tỏa theo cơn sốt đất, người tín hữu Công Giáo quen dần với việc hỏa táng, đáp ứng nhu cầu này, các Giáo Xứ lần lượt xây dựng các nhà đặt Hài Cốt, đặt hũ Tro của người quá cố, những cái tên đã được ghi trên khu cửa ngôi nhà này âm vang niềm tin và nỗi vui mừng phục sinh: Nhà Chờ Phục Sinh, Nhà Yên Nghỉ, Nhà Hài Cốt, Nhà Phục Sinh, Nhà Cha, Nhà Vượt Qua… Ngày 2 tháng 11, ngày hội được tổ chức ngay tại ngôi nhà này, khói nhang nghi ngút, người ra vào thăm viếng tấp nập.
Không chỉ có ra viếng và tổ chức lễ hội ở nghĩa trang, người tín hữu Công Giáo còn xin dâng lễ và tụ họp đọc kinh trong gia đình trong tháng 11 này để cầu nguyện cho thân nhân và các người đã qua đời. Hành động này bày tỏ Đức Tin, sự hiệp thông và lòng yêu mến đối với người quá cố.
Ngày mồng Hai Tết cũng là ngày đặc biệt mà mọi gia đình Công Giáo dành riêng để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cùng với những ngày kỷ niệm của các đấng sinh thành nữa.
Tháng 11 nhắc ta về tình yêu thương gia đình, gợi chúng ta nhớ đến những người thân yêu đã khuất, tạo dịp cho chúng ta bày tỏ tình yêu mến đối với họ và với nhau, nuôi dưỡng và phát triển mối liên kết huyết nhục trong Đức Tin.
Sử liệu Giáo Hội Công Giáo ghi lại không biết bao nhiêu chứng tích, về sự hiện hữu của Hỏa 2/11-187
Sử liệu Giáo Hội Công Giáo ghi lại không biết bao nhiêu chứng tích, về sự hiện hữu của Hỏa Ngục. Xin trích thuật trường hợp đầu tiên.
Một nhà trí thức đạo đức Công Giáo người Nga, ông Gaston de Segur, đã viết cuốn sách nói về Hỏa Ngục. Ông không quên trưng dẫn cuộc hiện về của một người bị trầm luân. Ông viết. Câu chuyện xảy ra tại Moscou vào năm 1812, ngay trong chính gia tộc tôi. Cậu tôi, -tử tước Rostopchine-, lúc ấy là thống đốc quân sự tại Moscou. Cậu giao thân với tướng tử tước Orloff, một người tài giỏi, nhưng lại khô khan đạo nghĩa.
Tối nọ, sau khi dùng bữa chiều, tử tước Orloff bắt đầu nói chuyện đùa với một tướng .. -tạm gọi là tướng Victor-, vốn theo triết thuyết “hoài nghi” của Voltaire (1694-1778). Dần dần câu chuyện đưa đến vấn đề tôn giáo, thường bị hai người chọn làm đề tài chế nhạo. Và dĩ nhiên, trong đó có đề tài Hỏa Ngục.
Tử tước Orloff khiêu khích trước:
– “Không rõ bên kia nấm mồ, có cái gì khác hiện hữu không?”. Tướng Victor đáp liền:
– “Được rồi. Nếu quả thực có cái gì đó, thì một người trong hai ta, ai chết trước, sẽ hiện về báo cho người kia biết. Anh đồng ý không?”. Tử tước Orloff gật đầu:
– “Đồng ý”. Rồi ông giơ tay bắt tay bạn, như cử chỉ giao kèo: phải trung tín giữ lời đã hứa.
Sau đó một tháng, tướng Victor nhận lệnh rời thủ đô Moscou, để đảm trách một chức vụ quan trọng trong quân lực Nga, vì hoàng đế Napoléon 1 (1769-1821) của Pháp, vừa tuyên chiến với nước Nga .. 3 tuần sau, vào sáng sớm tinh sương, tướng Victor đi một vòng để do thám địa điểm của địch. Bỗng ông bị một viên đạn bắn xuyên bụng. Ông gục ngã và chết ngay tại chỗ. Chính lúc đó, linh hồn ông ra trước tòa Chúa.
Tử tước Orloff đang ở Moscou và không hay biết gì về thảm họa xảy đến cho bạn mình. Vậy mà, cùng ngay buổi sáng hôm ấy, mặc dầu đã thức giấc, nhưng tử tước Orloff vẫn còn nằm rán lại trong giường. Bỗng chốc, ông trông thấy chiếc màn che giường động đậy, rồi, chỉ cách đó hai bước, xuất hiện rõ ràng gương mặt tái mét của người quá cố. Tướng Victor, một tay đặt trên ngực, dõng dạc tuyên bố:
– “Quả thật có Hỏa Ngục và tôi đang bị trầm luân trong ấy!”. Nói xong, người quá cố biến mất. Tử tước Orloff nhảy ra khỏi giường, mình mặc nguyên bộ đồ ngủ, chân mang dép ngủ, đầu tóc bù xù, đôi mắt thất thần, gương mặt nhợt nhạt như một miếng giẻ rách. Ông đâm đầu chạy một mạch đến nhà cậu tôi, kể lại cho cậu nghe câu chuyện vừa xảy ra. Lúc ấy cậu tôi cũng vừa thức dậy. Cậu kinh ngạc khi thấy tử tước Orloff xuất hiện như một tên điên. Cậu tôi hỏi ngay:
– “Có chuyện gì xảy ra cho tử tước vậy?”. Ông Orloff vừa thở hổn hển vừa trả lời: – “Tôi nghĩ là mình sẽ bị điên vì sợ hãi quá độ. Tôi vừa trông thấy tướng Victor!”. Cậu tôi không hiểu nên hỏi:
– “Ủa, tướng Victor đã về lại Moscou rồi sao?”. Tử tước Orloff vừa buông người trên chiếc đi-văng, vừa đáp:
– “Ồ, không phải vậy. Ông không bao giờ trở lại nữa, và đây mới là điều làm tôi kinh hoàng!”. Nói xong, tử tước Orloff thuật lại cuộc hiện về của tướng Victor, với đầy đủ chi tiết nghe thật rợn rùng!.
Cậu tôi tìm lời để trấn an tử tước Orloff, lấy lý do có lẽ ông chỉ là nạn nhân của một ảo tưởng mà thôi. Và rất có thể, tướng Victor chưa chết!.
Thế nhưng, 10 ngày sau, quân lực Nga hoàng gởi điện cho cậu tôi, báo tin tướng Victor đã tử nạn, vào đúng y buổi sáng mà tử tước Orloff đã trông thấy ông hiện về. Câu chuyện thứ hai được ghi trong sử liệu của thánh Francesco De Geronimo (1642-1716), hay cũng gọi là ”Di Girolamo”, một vị thánh nổi tiếng vào thế kỷ 18. Thánh Girolamo là một linh mục dòng Tên, sinh tại Taranto, nhưng hoạt động tông đồ và qua đời tại Napoli, miền Nam nước Ý. Mục vụ nổi bật nhất của ngài là giảng các tuần đại phúc. Vào thời kỳ ấy, các buổi giảng thuyết thường diễn ra nơi các đường phố, tại các công viên, giữa các quảng trường, hay trong các khu vực có những nhà điếm. Mục đích của thánh nhân là mời gọi mọi người hồi tâm thống hối, trở về cùng Thiên Chúa và sống ngay chính.
Một hôm, thánh Geronimo giảng trước đám đông, kéo đến nghe ngài nơi quảng trường thành phố Napoli. Gần đó, trong căn nhà có cửa sổ nhìn xuống quảng trường, có một phụ nữ trắc nết sinh sống. Với chủ đích quấy phá và lấn át tiếng nói của vị thánh, bà cất tiếng la hét ầm ĩ và múa máy lung tung. Mọi lời khuyến cáo bà im đi, đều vô hiệu. Thánh Geronimo đành bỏ dở buổi giảng thuyết hôm ấy.
Ngày hôm sau, thánh nhân trở lại chỗ cũ. Ngạc nhiên vì thấy cửa sổ phòng bà kia đóng kín mít, thánh nhân hỏi lý do tại sao. Người ta cho ngài biết, bà ta đã bất ngờ qua đời trong đêm. Thánh nhân liền nói: “Chúng ta hãy đi xem bà”. Một số đông đi theo ngài và trông thấy xác bà còn nằm sóng soài dưới đất .. Như được linh hứng, thánh nhân cất tiếng hỏi:
– “Hỡi Catarina, nhân danh Chúa, hãy nói cho mọi người đang có mặt đây biết, bà đang ở đâu”. Tức khắc, đôi mắt người quá cố hé mở, đôi môi động đậy. Rồi bằng một giọng khàn khàn, khủng khiếp, bà trả lời:
– “Ở trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân trong Hỏa Ngục đời đời kiếp kiếp!”.
Mọi người hiện diện toát mồ hôi lạnh, dựng tóc gáy!. Lúc xuống cầu thang, thánh Geronimo lẩm nhẩm lập lại:
– “Trong Hỏa Ngục mãi mãi .. Ôi Thiên Chúa công minh, đáng sợ biết là chừng nào!”.
Đa số những người chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó, không muốn trở về nhà, trước khi xét mình kỹ lưỡng, thành tâm thống hối và sốt sắng lãnh nhận bí tích Giải Tội.
Linh mục Francesco De Geronimo được Đức Giáo Hoàng Pio 7 (1800-1823) tôn phong chân phước ngày 2-5-1806 và được Đức Giáo Hoàng Gregorio 16 (1831-1846) nâng lên hàng hiển thánh ngày 26-5-1839. Trong hồ sơ xin phong thánh cho ngài, ghi lại chứng từ của một người như sau:
-“Con có mặt trong biến cố kinh hoàng ấy. Nhưng con không biết trình bày ra sao, diễn tả như thế nào cho đúng tâm tình của con cũng như của mấy người khác. Con chỉ biết nói rằng, cứ mỗi lần có dịp đi ngang quảng trường và trông thấy cánh cửa sổ ấy, con như còn nghe rõ ràng tiếng nói khàn khàn khủng khiếp: – “Trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục!”. Câu chuyện thứ ba xảy ra tại Roma, mấy ngày trước lễ Truyền Tin vào năm 1873. Nơi căn nhà của các cô gái làng chơi, tức các cô gái hành nghề mại dâm, có một cô gái bị thương nơi tay. Vết thương ban đầu tưởng nhẹ, nhưng bỗng trở nặng cách bất ngờ. Cô gái được đưa vào nhà thương và qua đời ngay đêm hôm ấy.
Trong cùng đêm đó, nơi căn nhà mại dâm, một cô gái khác, không hay biết gì về điều xảy đến cho bạn mình ở nhà thương. Nhưng cô cất tiếng hét ầm ĩ, gây xáo trộn trong nhà và làm náo động các căn nhà chung quanh. Không ai làm cho cô im được. Người ta phải gọi cảnh sát đến can thiệp. Sau cùng, cô kể cho mọi người nghe như sau. Người bạn gái qua đời ở nhà thương, hiện về với thân mình rực lửa và nói với cô rằng:
-“Tôi bị trầm luân muôn kiếp trong Hỏa Ngục. Vậy nếu cô không muốn bị cùng số phận như tôi, hãy tức khắc rời bỏ cái chốn nhơ nhớp này và trở về cùng Thiên Chúa!”.
Kể xong, cô đứng ngồi không yên và mong cho trời mau sáng, để dọn đồ ra khỏi nhà. Mọi người ngỡ ngàng và càng kinh ngạc hơn nữa, khi sáng sớm hôm sau, nhận tin cô gái bị thương nơi tay, đã qua đời trong đêm ấy tại nhà thương.
Về phần bà chủ căn nhà mại dâm, bà kinh hoàng đến độ, lâm trọng bệnh. Nghĩ tới cuộc hiện về của cô gái khốn khổ bị rơi xuống Hỏa Ngục, bà liền hồi tâm và ăn năn thống hối. Bà xin rước linh mục đến để nhận lãnh các Bí Tích. Giáo quyền cử một linh mục thánh thiện. Đó là đức ông Sirolli, cha sở nhà thờ “San Salvatore in Laura”. Trước sự hiện diện của nhiều nhân chứng, đức ông Sirolli bắt buộc bệnh nhân phải công khai phản cung các lời bà đã xúc phạm chống lại Đức Giáo Hoàng. Bà cũng phải long trọng từ bỏ việc điều hành căn nhà mại dâm nhục nhã này. Bệnh nhân khiêm tốn thi hành mọi đòi buộc của vị linh mục. Bà sốt sắng nhận lãnh các Bí Tích sau cùng và trút hơi thở trong ơn nghĩa Chúa. Toàn thể dân thành Roma đều biết và kể cho nhau nghe biến cố có một không hai ấy.
(Dom Giuseppe Tomaselli, ”Y A-T-IL UN ENFER?”, Tequi, 1965, trang 24-28).
Lửa là một trong nhu cầu của sự sống. Vì vậy, lửa rất cần thiết cho sự sống con người trần gian 2/11-188
Lửa là một trong nhu cầu của sự sống. Vì vậy, lửa rất cần thiết cho sự sống con người trần gian . Dù tin hay không , đây vẫn là chân lý. Chân lý thì không thể phủ nhận.
Théo đó, con người nhân thế, tồn tại sự sống, dù cho thiếu thốn tiện nghi, nhưng không thể thiếu lửa. nhưng, kỳ thực , lửa cũng mang lại “sự chết”, bởi vì, khi “lửa” không được điều tiết, hay không được khống chế, mặc nhiên, khi ấy, lửa đem lại sự chết.
Như vậy, lửa trần gian hữu hình, vừa mang lại sự sống cho con người, vừa mang lại sự chết cho họ. Hằng ngày, nếu muốn có lửa, chúng ta phải bỏ tiền ra mua, kỳ thực là chúng ta mua thứ chất đốt, chất cháy, chứ không phải mua lửa.
Khi chúng ta chết, lửa cũng là tác nhân giúp cho việc mai táng chúng ta. Tác dụng chính của Lửa là “thiêu đốt”, lửa đốt cháy tất cả tùy theo nhiệt độ của từng loại mà được thiêu hủy. Lửa cũng có cấp độ, mà người ta gọi là “ nhiệt độ” của nó.
Như vậy, cái gì có hữu hình, thì mặc nhiên có vô hình, từ đó, chúng ta hiểu được có “Lửa siêu nhiên”, là “Lửa không hề tắt”. Lửa hữu hình là lửa có thời hạn, dù có trận cháy nào, hoặc có ngọn lửa nào ở trần gian đều được giập tắt. Có những ngọn lửa nhân tạo, người ta cứ châm thêm chất cháy cho nó liên tục, như ngọn lửa Olympic của Thế vận Hội. nhưng, những lúc cần ngưng nghĩ, người ta cũng ngừng cho nó cháy.
Như vậy, “Lửa không hề tắt” mặc nhiên không ở giữa thế trần, mà ở nơi cần đến nó, đó là “nơi thanh luyện”, Thanh luyện tạm thời và thanh luyện vĩnh hằng.
Lửa không hề tắt là “Lửa” nói trong Thánh Kinh, không phải là tự nghĩ ra để “hù dọa” nhân thế, mà là “Lửa tình yêu”, “Lửa siêu nhiên” là nơi “thiêu đốt” , những kẻ không có niềm tìn vào Thiên Chúa. Lửa ấy không hề tắt , bởi vì, lửa ấy là “LỬA HUYỀN SIÊU” , Lửa mà tình yêu Thiên Chúa qua Đức Kitô, thôi thúc, hầu thanh luyện tạm thời hoặc vĩnh viễn, cũng là hồng ân sau cùng cho thế nhân.
Vì sự tạo dựng bởi Thiên Chúa không phải là sự vô ích cho nhân thế tội lỗi muốn làm gì thì làm, mà là một sự trả lẽ” CÔNG BÌNH TUYỆT ĐỐI”, nơi Đấng Tạo Thành, Đấng vĩnh hằng duy nhất. Vì tất cả, sẽ chỉ là “Phàm Nhân “ mà thôi, dù là các thánh.
Vì vậy, phải có một “NGỌN LỬA TUYỆT ĐỐI” , dù nhân thế tin hay không ? Đó là “LỬA KHÔNG HỀ TẮT”. Vì mặc nhiên, có linh hồn bất tử, thì phải có lửa bất tử, dù cho học thuyết của vị thánh nầy, thánh kia, có nói về “lửa” LUYỆN HÌNH , hay HỎA NGỤC, chỉ là thuyết tượng trưng đi chăng nữa, nhưng bản thân con vẫn “xác quyết” rằng : Có “LỬA KHÔNG HỀ TẮT”.
Lửa không hề tắt, đồng thời , cũng chính là “TÌNH YÊU” duy nhất, vô biên của Thiên Chúa là Cha toàn năng.
Lửa ấy vẫn THANH LUYỆN hằng ngày trên trần thế và trong chốn Luyện Hình, sau cùng là HỎA LÒ, nơi thanh luyện mãi mãi, dành cho những kẻ “TỰ KIÊU “.
Như vậy, “LỬA HUYỀN SIÊU”, hay “ LỬA KHÔNG HỀ TẮT”, biểu hiện uy quyền và tình yêu BẤT BIẾN của Thiên Chúa là Cha Toàn Năng.
Xin cho những ai chưa từng nghe nói về “LỬA” nầy, được Thánh Thần soi sáng, thúc giúc, hầu nhận biết và xác tín , để mưu ích cho chính họ và tha nhân./. Amen
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc các linh hồn, xin cho những người đang sống biết ý thức về “ LỬA HUYỀN SIÊU”, hầu nơi họ cháy lên ngọn “LỬA TÌNH YÊU” bởi Thánh Thần Chúa, để mai này, họ được bớt đi “ LỬA KHÔNG HỀ TẮT” nơi thanh luyện tạm thời hoặc đời đời./. Amen
Xin nhờ đoạn chia sẻ nầy, để cầu nguyện cách đặc biệt cho Các Đẳng Linh Hồn trong chốn luyện hình, nhất là những linh hồn vắng lời cầu nguyện. Mong thay.
Năm 1977, vùng truyền giáo cho người dân tộc thiểu số mà chúng tôi dấn thân bị xóa sổ sau 2/11-189
Năm 1977, vùng truyền giáo cho người dân tộc thiểu số mà chúng tôi dấn thân bị xóa sổ sau một trận nổi loạn của một nhóm anh em dân tộc có vũ trang. Anh em Tu Sĩ Linh Mục chúng tôi, kẻ bị bắt ngồi tù, kẻ bị quản thúc tại nhà dân, nhiều chị em Nữ Tu bị bắt, bị kết án, các cộng đoàn Nữ Tu bị giải tán, Bản thân tôi thì chạy về được Sàigòn bình an. Có một nhóm chạy dạt về Bến Thủ, Long An, là quê của một vị Nữ Tu đứng tuổi, cùng đi với chị là một vị Nữ Tu già, cả cuộc đời dấn thân và yêu thương người dân tộc.
Sau đại nạn kể trên, có dịp tôi thường tìm cách về Long An thăm các chị để an ủi lẫn nhau, nâng đỡ và giữ vững tinh thần truyền giáo. Căn nhà các chị ở nền đất nện, sạch bóng, vách lá gió thổi mát rượi nằm ven con kênh nhỏ hiền hòa. Tôi ngỏ ý muốn đi thăm cha Xứ (dân miền Nam gọi Linh Mục là “Ông Cố”), người ta dẫn tôi ra Đất Thánh để gặp vì “Ông Cố” gần như cả ngày ở ngoài đó.
“Ông Cố” là một Linh Mục còn trẻ, dáng người thanh mảnh cao ráo, có lòng yêu mến các linh hồn một cách đặc biệt, cha lo lắng chăm sóc cả khu Đất Thánh gọn gàng sạch sẽ. Tôi ra đến nơi thấy trên tay cha đang cầm cái bình tưới bông, cây cuốc thì dựng dứng kế bên. Vậy là anh em chúng tôi quen nhau từ dạo đó. Buổi chuyện trò ngoài Đất Thánh, cung cách hiền hòa dịu dàng khiêm tốn, chân thành, đơn sơ của “Ông Cố” đã nhanh chóng chinh phục tôi, một hình ảnh đẹp về một Linh Mục cứ còn mãi trong tôi. Ngài chia sẻ về tình cảm và lòng tin mà ngài dành cho các linh hồn với niềm xác tín về sự mấu nhiệm Các Thánh Thông Công.
Trong các buổi giáo lý hoặc huấn đức, có đôi lần chúng ta nói về sự trợ giúp dành cho chúng ta đến từ các Đẳng Linh hồn, rồi khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho các Đẳng cũng như kêu cầu các Đẳng trợ giúp chúng ta những khi ngặt nghèo, không thiếu những câu chuyện như vậy. Tuy nhiên hình như chúng ta lại tập trung cầu nguyện cho các Đẳng nhiều hơn là tìm kiếm một sự hiệp thông trong mầu nhiệm Các Thánh Thông Công, sự hiệp thông có khi chỉ được hiểu một chiều.
Tự trong nguyên gốc của việc xây dựng Nhà Thờ, cộng đoàn chọn lựa khu đất cao ráo nhất, thuận tiện nhất cho việc đi lại để xây dựng Nhà Thờ, luôn luôn phía đầu Nhà Thờ (phía cung thánh), sau phòng thánh là Đất Thánh, Thánh Lễ chủ tế quay lên, đàng sau chủ tế là cộng đoàn lữ hành, phía trước chủ tế là cộng đoàn thanh luyện và vinh quang. Hình ảnh đó lột tả ý nghĩa của hai chữ PHỤNG VỤ, toàn thể Hội Thánh (kẻ sống cũng như người đã khuất) cùng thờ phượng Thiên Chúa. Sau này vì nhiều lý do người ta không còn quy hoạch Đất Thánh ở đầu Nhà Thờ nữa, và trong Thánh Lễ chủ tế quay xuống để họp đoàn cùng với Giáo Dân, nhưng Phụng Vụ Thánh Lễ vẫn là của toàn thể Hội Thánh (Vinh quang, Lữ hành và Thanh luyện).
Đất nước chúng ta đang trải qua những thử thách lớn lao, những nguy cơ không chỉ còn treo lơ lửng nhưng đang đổ ập xuống đầu dân tộc chúng ta. Môi trường thiên nhiên bị tàn phá nặng nề, thực phẩm nhiễm độc trên cả mức báo động, bầu không khí ô nhiễm khắp nơi, ung thư, tai nạn giao thông… hàng năm cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng. Xã hội đảo điên, tội ác đe dọa sự an bình, giáo dục xuống cấp trầm trọng, con người sống giả dối… Không phải chỉ xã hội, người khác, ai đó ngoài chúng ta, mà ngay chính trong mỗi người chúng ta cũng đang phải chịu một sức trương căng như thế.
Chúng ta đang nhắc lại lời khuyên dạy ở Fatima, chúng ta đang cố bảo nhau quay trở lại với kinh Mai Khôi, đã có những sáng kiến thực hiện sao cho thích hợp với cuộc sống hiện tại, những nhóm nhỏ lần chuỗi với nhau, các cộng đồng cơ bản lần chuỗi với nhau, lần chuỗi online… Tại sao chúng ta không cùng với các Đẳng lần chuỗi cầu nguyện cho đất nước, dân tộc chúng ta. Lời cầu nguyện của các Đẳng linh hồn chắc chắn rất có thế giá trước tôn nhan Chúa. Không chỉ cầu nguyện cho các Đẳng, hãy thử cùng các Đẳng cầu nguyện.
Đức cha Ercoli Attuoni là Tổng Giám Mục giáo phận Fermo, thuộc Đông Bắc nước Ý. Ngài qua 2/11-190
Đức cha Ercoli Attuoni là Tổng Giám Mục giáo phận Fermo, thuộc Đông Bắc nước Ý. Ngài qua đời cách thánh thiện ngày 31-5-1941. Khi còn sống, đức cha thường rao giảng và viết về một thói quen tốt lành, vẫn được thi hành trong Giáo Hội Công Giáo tại Ý thời bấy giờ. Hàng năm, cứ vào 2-11, ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, mọi gia đình Công Giáo – đặc biệt là những gia đình Công Giáo khá giả – đều dành một phần thức ăn và vật dụng để làm phúc cho những người nghèo. Công việc bác ái này được nhường lại cho các Đẳng Linh Hồn còn bị giam nơi Lửa Luyện Hình .. Và trong thời thơ ấu, đức cha Ercoli Attuoni đã từng sống nhờ của bố thí này, vì gia đình ngài thuộc một trong những gia đình nghèo nhất trong vùng.
Ercoli Attuoni sinh ngày 18-4-1875 tại Stazzema, thuộc tỉnh Lucca, miền Bắc nước Ý. Song thân là ông Cherubino và bà Gloriosa. Ercoli là một cậu bé ngoan ngoãn, chăm học và gan dạ. Nhưng gia đình cậu quá nghèo. Mỗi năm, vào ngày 2-11, Ercoli xách bị đi quanh làng để nhận của bố thí, đem về nuôi sống cả gia đình, đặc biệt trong mùa đông giá lạnh.
Những gia đình Công Giáo giàu có làng Stazzema chuẩn bị những bao hột bắp khô hoặc bột bắp, rồi để sẵn bên trong cửa ra vào. Khi các cậu bé của các gia đình nghèo đi qua, họ liền đổ vào bị cho các cậu. Bột bắp là thức ăn chính yếu của các gia đình nghèo miền Bắc nước Ý.
Giống như các cậu bé nghèo khác, Ercoli đi chân không, vai mang bị, vui tươi đến gỏ cửa các gia đình vừa giàu có vừa tốt bụng. Đó là gia đình các bà Frasia, Betta, Luisetta và Giovanna. Đi đến đâu, cậu Ercoli cũng được mọi người quý mến đổ đầy bột bắp vào bao. Cứ mỗi lần như thế, Ercoli lại lễ phép cám ơn và thưa:
– ”Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho Ông Bà!”. Rồi khi nào túi ăn xin đã đầy ứ, Ercoli vui mừng mang bị nhanh chân trở về nhà. Khi đến cửa, cậu bé la thật lớn cho mẹ và cả nhà đều nghe:
– ”Mẹ ơi, chiếc bị đầy kín miệng, không còn chỗ để bỏ thêm một hột nào nữa mẹ à!”.
Ngay chiều hôm đó, bà Gloriosa lấy bột bắp vừa xin được buổi sáng, chuẩn bị món ăn cho cả gia đình. Đây là thức ăn làm phúc .. dành cho các Đẳng Linh Hồn. Bù lại, ăn tối xong, toàn gia đình cùng nhau quỳ gối lần hạt Mân Côi và cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời.
Và gia đình nghèo nhưng đạo đức này – đã từng nhận lãnh ân phúc của các gia đình khá giả – được Chúa thương và chúc phúc. Cậu bé nghèo Ercoli được một số ân nhân trong làng giúp đỡ. Cậu xin gia nhập chủng viện và được chịu chức linh mục. Linh mục Ercoli Attuoni sau đó trở thành một giám mục tài đức, giúp ích cho mọi người. Nhưng đức cha Ercoli không bao giờ quên mình xuất thân từ một gia đình nghèo, sống nhờ của làm phúc vào ngày lễ cầu cho các Đẳng Linh Hồn. Do đó, đức cha luôn khuyến khích mọi gia đình Công Giáo giàu có đừng bao giờ bỏ quên thói quen lành thánh này. Một thói quen vừa sinh ích cho các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình vừa giúp đỡ các gia đình trong cơn túng bẫn. Đây là công việc bác ái rất đẹp lòng Chúa và được Chúa chúc lành.
.. ”Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người .. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn; Ta khát, các con đã cho uống; Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước; Ta trần truồng các con đã cho mặc; Ta đau yếu, các con đã thăm nom; Ta ngồi tù, các con đã đến thăm” (Matthêô 25, 31-36).
Hỏi: Nhân tháng cầu cho các linh hồn ( tháng 11) xin cha giải thích rõ về hai nơi gọi là Luyện 2/11-191
Hỏi: Nhân tháng cầu cho các linh hồn ( tháng 11) xin cha giải thích rõ về hai nơi gọi là Luyện ngục và Hỏa ngục.
Trả lời:
Trong niềm tin Kitô Giáo, căn cứ vào Kinh Thánh và Giáo lý của Giáo Hội thì chắc chắn phải có ba nơi gọi là Thiên Đàng, Luyện ngục và hỏa ngục ( hell) mà những người chết đi trong thân xác sẽ phải bị phán xét để đến một trong ba nơi này.
Thật vây. trước hết là Luyên ngục hay Luyện tội ( purgatory) là nơi mà các linh hồn thánh ( holy souls) đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa nhưng chưa được hoàn hảo đủ để vào ngay Thiên đàng. Các linh hồn này phải “tạm trú” trong nơi gọi là Luyện tội này để được thanh tẩy một thời gian dài ngắn tùy theo mức hoàn hảo đòi hỏi trước khi được vào Thiên Đàng vui hưởng Thánh Nhan Chúa cùng các Thánh các Thiên Thần
Dù chưa được vào Thiên Đàng, nhưng các linh hồn thánh ở Luyện tội có thể cầu xin đắc lực cho các tín hữu còn sống, và ngược lại, các tín hữu có thể cứu giúp các linh hồn nơi Luyện Tội bằng các việc lành như : cầu nguyện, lần chuỗi , làm việc bác ái, như cứu giúp người nghèo khó, bệnh hoạn, nhất là xin lễ cầu cho các linh hồn đặc biệt làm trong tháng cầu cho các linh hồn (tháng 11 dương lịch ).
Khác với luyện ngục và hỏa ngục, Thiên Đàng là nơi dành cho những ai , khi còn sống trên trần gian này, đã quyết tâm đi tìm Chúa và sống theo đường lối của Người, để xa lánh mọi sự dữ, sự tội và bước đi theo Chúa Kitô, là : “Con đường là Sự thật và sự Sống” ( Ga 14: 6).
Ngược lại, hỏa ngục là nơi dành cho những kẻ -khi còn sống- đã hoàn toàn khước từ Thiên Chúa và tình thương của Người để sống theo ý muốn riêng mình , và buông theo những quyến rũ của ma quỉ và thế gian để làm những sự dữ như : giết người, giết thai nhi, thù hận, cướp của , cờ bạc, bất công, bóc lột, hiếp dâm, ngoại tình, khủng bố, gây ra chiến tranh, giết hại dân lành, trẻ em.. buôn bán phụ nữ và trẻ nữ để bán cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn và tội lỗi, như thực trạng của thế giới vô luân , vô đạo ngày nay…
Nếu bọn này không sám hối và từ bỏ những con đường tội lỗi kia để xin tha thứ, thì chúng sẽ kết thúc đời mình trong nơi gọi là hỏa ngục.Và đây là sự lựa chọn của con người, chứ không phải là sự trừng phạt của Thiên Chúa là Cha đầy lòng yêu thương và mong “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhân biết chân lý.” 1Tm2:4), như Thánh Phaolô đã quả quyết.
Sau đây là bằng chứng có nơi gọi là hỏa ngục :
I- Thánh Kinh đã cho ta biết về nơi gọi là hỏa ngục như sau :
“ Khi ra vê, mọi người sẽ thấy xác những kẻ phản loạn chống lại Ta,vi giòi bọ rúc tỉa, chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tàn lụi. Chúng sẽ là đồ ghê tởm cho mọi người phàm.” ( Ís 60:24)
Khi đến trần gian rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đã đôi lần nói đến hỏa ngục và hình phạt ở nơi này như sau:
“ Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì móc nó đi; thà chột một mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết, lửa không hề tắt.” ( Mc 9: 47-48)
Nơi khác, Chúa còn nói rõ hơn nữa :
“ anh em đừng sợ những kẻ giết chết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn , anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục . ( Mt 10: 28; Lc 11: 4-5)
II- Giáo lý của Giáo Hội về Hỏa ngục
Giáo lý của Giáo Hội nói rõ hỏa ngục là “ nơi này dành cho những ai- cho đến lúc chết- vẫn từ chối tin và trở lại. Đó là nơi cả hồn lẫn xác sẽ bị hư mất . Và danh từ “ hỏa ngục “ được dùng để chỉ tình trạng ly khai chung cuộc khỏi mọi hiệp thông với Thiên Chúa và các Thánh ở trên Trời”, ( x. SGLGHCG số 633, 1033).
Vì thế, Giáo Hội luôn cảnh giác các tin hữu về thảm họa đáng sợ này để mong mọi người ý thức rõ và quyết tâm sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này hầu tránh hậu quả phải hư mất đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục. Cụ thể , giáo lý của Giáo Hội nói rõ thêm như sau:
“ linh hồn của những người chết trong tình trạng đang có tội trọng, sẽ lập tức xuống hỏa ngục, lửa vĩnh viễn.” ( x. SGLGHCG số 1035)
Nghĩa là những ai sa xuống hỏa ngục thì vĩnh viễn phải xa lìa Chúa và không ai có thể làm gì để cứu họ được nữa, vì không có sự hiệp thông nào giữa hỏa ngục và Thiên Đàng, các tín hữu còn sống trên trần gian hay đang còn được tinh luyện trong Luyện tội.
Các Thánh trên trời không cần ai giúp gì nữa, nhưng có thể nguyện giúp cầu thay cách hữu hiệu cho các linh hồn trong Luyện tội và cho các tín hữu còn sống trên trần thế và ở trong Giáo Hội. Các linh hồn có thể cầu xin đắc lực cho các tín hữu còn sống, và ngược lại, các tín hữu có thể cứu giúp các linh hồn bằng việc lành như cầu nguyện, làm việc bác ái, xin lễ cầu cho các linh hồn được mau chóng tiếp nhận vào Thiên đàng. Đây là nội dung tín điều các Thánh thông công mà Giáo Hội dạy cho con cái mình sống và thực hành để mưu ích cho mình và cho các linh hồn trong luyện tội.
Thiên Chúa không muốn phạt ai trong hỏa ngục, vì Người là tình thương và hay tha thứ.
Nhưng vì con người có tự do để sống theo lương tâm, theo đường lối của Chúa, hay khước từ Chúa để làm những sự dữ, sự tội mà không biết sám hối ăn năn cho đến lúc phải lìa đời, nên đã tự ý chọn hỏa ngục cho mình, chứ không phải vì Chúa muốn phạt ai ở chốn đau khổ vĩnh viễn này. Chắc chắn như vậy.
Tuy nhiên, không cần phải đợi đến chết mới biết có hỏa ngục. Ngược lại, hỏa ngục có mặt ngay trên trần gian tục hóa, vô luân vô đạo này và ở những nơi sau đây:
Mãi dâm thì đã có từ khi có con người trên trần thế này.Nhưng buôn bán phụ nữ cho nô lê tình dục ( sexual slavery) và ấu dâm ( child prostitution) thì mới có trong thời đại vô luân tục hóa ngày nay mà thôi.
Thật vậy, ở khắp nơi đang có những kẻ đi tìm thú vui xác thit rất man rợ nơi các trẻ em còn thơ dại và nơi những phụ nữ bị lừa dối ,dụ dỗ cho đi làm có lương cao , nhưng thực tế là để làm nô lệ tình dục do bọn ma cô và tú bà khai thác để làm tiền trên thân sác và tinh thần đau khổ của các nạn nhân. ..
Đây là tội ác vô cùng khốn nạn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả ở Hoa Kỳ. Và Việt Nam, là một trong những nguồn cung cấp trẻ em và phụ nữ cho hoạt động đầy tội ác này.
Điều đáng buồn hơn nữa là có những cha mẹ đã mất hết lương tri, và bản chất con người ( human nature) nên đã lạm dụng tình dục với chính con cái của mình. Tệ hại hơn nữa là có những người cha đã hiếp dâm con gái của mình mới –6-7 -8 tuổi rồi bán chúng cho bọn buôn người đem đi bán lại cho bọn ma cô, tú bà đang hành nghề “ấu dâm” ở trong và ngoài nước; theo như tin cho biết của một ân nhân đang dấn thân lo cứu giúp các trẻ em nạn nhân này.
Như thế, tất cả cha mẹ liên hệ, bọn ma cô buôn người và các kẻ đi tìm thú vui vô cùng khốn nạn và tội lỗi trên, đều đang sống trong hỏa ngục do chính chúng tạo ra ngay ở trên trần gian này, chứ không cần phải đợi đến chết mới được xuống hỏa ngục để bị thiêu đốt đời đời. Hỏa ngục do chính chúng tạo ra cho chúng vì thực chất của đời sống họ là hỏa ngục .Tội lỗi của bọn này thật ghê sợ vì không những chúng tạo hỏa ngục cho chúng, mà còn mang hỏa ngục đó đến cho các nạn nhân đáng thương, là những trẻ thơ còn trong trắng, nhưng đã bất hạnh sa vào cạm bẫy tội lỗi của chúng, khiến thể xác bị thương tật và tinh thần bị trấn thương nặng . Đây là tội ác chỉ có trong thời đại vô luân vô đạo hiên nay mà thôi. Và những kẻ đang làm sự dữ này đã phỉ nhổ vào mọi niềm tin có Thượng Đế, có Thiên Chúa là Đấng cực tốt cực lành, đầy yêu thương, nhưng chê ghét mọi tội lỗi và sự dữ.
Cho nên, chúng xứng đáng để nghe lời chúc dữ sau đây của Chúa Giêsu :
“ Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã. Những khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn này vấp ngã.” ( Lc 17: 1-2)
Thánh Phaolô cũng lên án tội dâm ô và các tội khác như sau :
“ Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ : đó là dâm bôn ô uế, phóng đãng …và những điều khác giống như vậy. Tôi báo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo : những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” ( Gl 5: 19-21)
Những sự dữ mà bọn người nói trên đang làm là một tội vô cùng lớn lao, vì nó đi ngược lại hoàn toàn với bản chất thánh thiện , trọn tốt trọn lành của Thiên Chúa, và chỉ thích hợp với bản chất của ma quỷ, tức bè lũ Sa tăng,Lu-ci-fe, kẻ thù của Thiên Chúa, đã bị Tổng lãnh Thiên Thần Mi-ca-e đánh đuổi ra khỏi Thiên đàng vì tội kiêu căng dám chống lại Thiên Chúa.
Thực tế đã cho biết là các đường dây buôn người, buôn bán phụ nữ và trẻ em đang hoạt động mạnh ở trong và ngoài nước để cung cấp thú vui vô luân vô đạo cho bọn người đang bán linh hồn cho ma quỉ và giữ chỗ trước trong hỏa ngục đời sau.
Tại sao lại có những cha mẹ đem bán con cái ( con gái) của mình cho bọn buôn người nói trên ???. Thật là điều đau buồn mà những ai còn chút lương tri phải rùng mình ghê sợ và lên án, vì đây là thảm trạng chưa từng thấy trong xã hội loài người từ xưa đên nay.Chỉ có loài thú vật mới không biết gì là liêm sỉ, vì không có lý trí và lương tâm nên chúng có thể ăn thịt nhau và làm tình lẫn lộn với nhau mà không hề biết xấu hổ.
Nhưng là con người , và là cha mẹ mà đem bán cái cái cho bọn buôn người , nhất là lại hãm hiếp con gái trước khi bán chúng cho bọn bất lương, thì quả thật là điều ghê tởm không thể tưởng tượng được, như đang xẩy ra trong hoàn cảnh của một xã hội phi luân, vô đạo hiện nay.Những cha mẹ này cùng với bọn ma cô, tú bà và những kẻ đi tìm thú vui vô cùng khốn nạn kia quả thực đang tạo hỏa ngục cho các nạn nhân của chúng khi nhẫn tâm xô đẩy biết bao trẻ em thơ dại,và phụ nữ bị lường gạt vào cái hỏa ngục của bọn chúng. Do đó, những vui thú mà bọn người man rợ kia đi tìm – tức khách mua vui đủ mọi lớp tuổi, cùng với tiền bạc mà bọn buôn người , bọn ma cô tú bà kiếm được nhờ hoạt động tội lỗi này, đã giúp cho bọn chúng có dư tiền và điều kiện để mua lò hỏa ngục tối tân cho chúng được thiêu đốt đời đời mai sau.Chắc chắn như vậy.
Nhưng tại sao lại có loại hỏa ngục này ?
Phải chăng vì môi trường xã hội đã quá hư thối không còn chất luân lý, đạo đức nào như thực trạng bên nhà , hoặc vì tự do quá trớn và luật pháp có nhiều khe hở như ở Hoa kỳ này, đã làm phát sinh những thảm họa như nạn buôn người- hay nói đúng hơn, là buôn phụ nữ và trẻ em bán cho bọn ma cô tú bà hành nghề mãi dâm và ấu dâm ở rất nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Á Châu, như Trung cộng, Ấn Độ, Cambốt, Thái Lan, Lào, Sri Lanka, Phi luật Tân, Mã lai và Việt Nam..
2- Nạn bất công, bóc lột và hà hiếp người thấp cổ bé miệng
Thiên Chúa là sự công bằng, chính trực tuyết đối, nên ai bất công, bóc lột sức lao động và tiền bạc của người khác là xúc pham đến sự công bằng của Chúa.
Thật vậy, chỉ vì có những kẻ muốn vơ vét của cải cho đầy túi tham mà nạn bóc lột xảy ra trong chế độ cai trị hà khắc, bất công, vô nhân đạo và bạo tàn. Đây là thứ hỏa ngục khác đang tồn tại ở những nơi có bất công xã hội, vắng bóng luân lý và đạo đức, vì người cai trị cố bám lầy quyền bính để kéo dài sự đau khổ và bất công cho người dân không may rơi vào ách thống trị của tập đoàn trộm cướ p, núp dưới danh nghĩa giải phóng , dân chủ giả hiệu, nhưng thực chất chỉ để thỏa mãn tham vọng quyền lực và vơ vét của cải , làm giầu cho bọn chúng trên xương máu của người dân xấu số. Chúng không có lương tri nên không hề quan tâm gì đến phúc lợi của người dân, cách riêng của người nghèo đói, nạn nhân của chế độ bóc lột và bất công như thực trạng đang phơi bày ở nơi có hỏa ngục này.
3- khủng bố vì cuồng tin tôn giáo và tham vọng chính trị:
Thế giới đang sống trong đe dọa của khủng bố ( terrorism), vì bọn cuồng tín tôn giáo- tức bọn Hồi giáo quá khich ( ISIS) muốn độc tôn giáo phái của mình, nên tìm mọi cách để triệt hạ các tôn giáo khác bằng hành động khủng bố, bắt cóc, giết người, chặt đầu con tin, hiếp dâm và đốt phá cơ sở thờ phượng của các tôn giáo khác. Đây là tai họa lớn đang xảy ra cho các Kitô hữu ( Christians) thuộc các Giáo hội Công Giáo Đông Phương, Chính Thống giáo và Tin Lành ở các nước Iraq, Iran, Ai Cập, Syria ,Lybia , Sudan…mà cộng đồng thế giới , đặc biệt là Mỹ và Âu Châu, đang làm ngơ khiến cho các Kitô hữu thiểu số ở các nước có đông Hồi giáo nói trên phải khốn khổ vì bị bách hại và giệt chủng ( genocide) bởi những kẻ cuồng tín muốn tiêu diệt KitôGiao( Christianity) để độc quyền thống trị cả về tôn giáo lẫn chính trị. Đây là hỏa ngục mà bọn cuồng tín kia đang gây ra cho những người mà chúng coi là kẻ thù phải thanh toán, để chúng được độc tôn truyền bá tôn giáo và tham vọng chính trị của chúng.
Sau hết, những kẻ đang cai trị độc ác , cha truyền con nối ở một số nơi trên thế giới, cũng tạo hỏa ngục cho chính người dân chẳng may sống dưới ách cai trị độc đoán và bất lương của chúng, như thực trạng ở Bắc Hàn hiện nay. Bọn cai trị độc ác này cũng đang mua trước cho chúng một chỗ an nghỉ đời đời trong chốn hỏa ngục , nếu chúng không biết ăn năn sám hối kịp thời để từ bỏ con đường gian ác.
Tóm lại, trong thế giới tục hóa, vô luân ngày nay, con người đã tạo hỏa ngục ở nhiều nơi cho chính mình và cho người khác, chẳng may sa vào vòng tay tội lỗi của họ. Dù họ có niềm tin hay không, nhưng cách sống của họ chắc chắn đã vô tình nói lên khát vọng muốn được thiêu đốt đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục. Và chắc chắn phải có nơi này, vì tội ác của những kẻ đang làm những sự dữ nói trên sẽ dẫn đưa chúng cuối cùng phải dừng chân ở chốn này, để được thiêu đốt cho xứng với những sự dữ mà chúng đang làm, đang tạo hỏa ngục cho người khác – đặc biệt là cho các trẻ em nạn nhân của thú “ấu dâm”vô cùng khốn nạn, cũng như cho các nạn nhân của bọn cuồng tín tôn giáo và độc tài chính trị.
Là người tín hữu Chúa Kitô, Chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện để xin Chúa sớm phá tan những sự dữ nói trên, hầu cho con người ở khắp nơi được sống trong lành mạnh, an bình, tự do và nhân ái để phát huy mọi giá trị tinh thần và đạo đức, xứng đáng với nhân phẩm và phù hợp với niềm tin có Thiên Chúa hayThượng Đế, là Đấng tối cao chê ghét mọi tội lỗi và sự dữ do ma quỷ xúi dục và con ngưởi mất lương tri đang tích cực cộng tác ở khắp nơi trên thế giới phi nhân và phi luân này.
Chúa nói: “ Ai có tai nghe thì nghe.” ( Mt 13:43; Mc 4:23;Lc 8:8 )
Tháng 11, những ngày cuối Năm Phụng Vụ, Phụng Vụ Giáo Hội hướng chúng ta đến ngày cánh 2/11-192
Tháng 11, những ngày cuối Năm Phụng Vụ, Phụng Vụ Giáo Hội hướng chúng ta đến ngày cánh chung, ngày thế mạt, ngày mà Chúa Giêsu sẽ lại đến trong vinh quang để xét xử muôn dân.
Bởi vậy, vừa vào tháng 11, chúng ta có lễ Các Thánh Nam Nữ, là những người được Chúa ban phúc trường sinh, được sống trong Nước Thiên Chúa, được hưởng thánh nhan Chúa, sống trong tình yêu Chúa bình an và hạnh phúc muôn đời. Các Thánh hưởng phước Thiên Đàng là thành phần của Giáo Hội Chúa Kitô, là Giáo Hội Khải Hoàn, vì họ đã chiến thắng ma quỷ ba thù mà giữ vững một lòng Tin Cậy Mến Chúa.
Hôm nay, ngày 2 tháng 11, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhớ đến những người ra đi trước chúng ta, còn vướng mắc tội lỗi, còn chưa yêu mến Chúa đủ, còn phải được thanh luyện trong luyện ngục chờ ngày Chúa xót thương, mở cửa thiên đàng. Đây cũng là thành phần của Giáo Hội Chúa Kitô có tên gọi là Giáo Hội Trầm Luân, Giáo Hội Thanh Luyện.
Còn chúng ta, những người đang trên hành trình về Nước Thiên Chúa, gọi là Giáo Hội Lữ Hành. Giáo Hội Lữ Hành hiệp thông với niềm vui chiến thắng của Giáo Hội Khải Hoàn, và luôn tha thiết cầu xin Chúa thứ tha cho bao người còn đang trong Giáo Hội Trầm Luân.
Hôm nay, đứng trước các phần mộ ông bà cha mẹ và những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta, đang an nghỉ tại nghĩa trang thân yêu này, thiết tưởng, những nấm mộ đang mời gọi chúng ta hãy luôn gẫm suy về sự chết, sự sống lại, và lòng hiếu thảo của những người còn đang sống.
Về sự chết
Sự chết cố định. Giờ chết bất ngờ. Ai cũng biết rồi đây mình sẽ chết, nhưng không ai biết được giờ chết của mình, cách chết của mình.
Tôi chẳng nhớ bài hát nào, có câu: “Trời vào thu Việt Nam buồn lắm em ơi…” Người viết ca khúc này muốn nói về chuyện buồn gì thì tôi chẳng bận tâm. Tôi chỉ thấy đúng là có những chuyện buồn của mùa thu hôm nay, ngay trong lòng tôi, và có thể ngay trong lòng mỗi chúng ta, khi nghĩ về sự chết.
Lại có một ca khúc khác của Phạm Duy, có câu: "Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều. Hàng cây trút lá nghĩa trang đìu hiu…" Đúng! Mùa thu thật buồn!
Buồn vì kiếp người vào thu với những chuyển biến kỳ dị trong cơ thể: sức khỏe mỏng dần, và mỗi ngày như bước gần tới sự tàn vong của kiếp người. Ngày xưa ở tuổi 30, 40 có thể đi cuốc đi cày cả hai tiếng đồng hồ mà không hề thấy mệt, bây giờ, chỉ vài nhát cuốc, chỉ nửa đường cày đã phải đứng lại mà thở pheo pheo…Không phải mùa thu của cuộc đời đã đến rồi đấy sao.
Mới vào thu mà đã buồn như thế…
Nhìn sang nhà bên kia, có đôi ông bà cuối thu đang ho sù sụ, bà mớm cho ông từng miếng cơm, sú cho ông từng miếng nước, hai người níu lấy nhau đi, cả bốn chân đi còn thêm cái gậy, mà không vững. Còn cảnh nhà ai kia, ông cụ đã quá mùa thu, bước vào cảnh đông tàn, nguyệt tận, con cháu hết lòng lo mà bệnh viện trả về, nằm chờ Chúa gọi về với Chúa.
Vâng kiếp người là thế, ai rồi cũng tới lúc phải giã từ cuộc đời này. Nhưng đời sống con người không chỉ đơn giản sống, rồi già đi, yếu bệnh rồi chết.
Điều đáng nói hơn, đó là giờ chết bất ngờ, nên có thể nói rằng: ngày nào cũng là ngày tận thế của ai đó, và của chính mỗi người chúng ta nữa. Có biết bao cái chết bất ngờ mỗi ngày. Bản tin 60 giây, các trang mạng xã hội, các báo đài hầu như ngày nào cũng báo tin có người chết. Chết cách này, chêt cách kia, đủ cách chết… Bệnh ung thư chết, bệnh tai biến chết, tai nạn xe chết, tai nạn máy bay chết, thiên tai dịch họa chết… Nghe đâu mỗi ngày có cả ngàn người chết. Cái chết nào cũng thương tâm.
Nhưng cũng có những cái chết vô duyên, lãng xẹt như: ngoại tình đánh ghen chết; say xỉn đâm nhau chết; nợ nần vài chục triệu hoặc sợ cha mẹ la rầy treo cổ tự tử chết; bị người tình phụ ra sông nhảy cầu chết; ghét nhau một tiếng đại ca, một cái nhìn đểu, đâm nhau chết; hơn thua nhau chút nhan sắc chảnh chọe, thuê người chém chết; hết tiền hút chích cho thỏa cơn nghiện xùi bọt mép chết; ông già 72 tìm vui bên cô nàng 27 lăn ra chết; đúng là những cái chết lãng xẹt, những cái chết vô duyên.
Lại còn có những cái chết thật kinh khủng, do lòng người ác độc gây nên: tranh giành quyền lực thanh trừng nhau, đầu độc nhau chết; muốn diệt khẩu, ém nhẹm tội lỗi của mình, giết người chết; hiếp dâm cướp tài sản, đâm người chết; sửa sắc đẹp chết, quăng xác xuống sông cho khỏi ai biết chết; vợ hư thân mua xăng về đốt chồng chết; chồng nghi vợ ngoại tình bóp cổ vợ chết; ngáo đá lên cơn đụng ai cũng chém chết, cháu chém bà chết, con cái chém cha mẹ chết, chém luôn cả người yêu chết; bị xúc phạm, bị tổn thương chỉ vì một câu nói mà hộc máu chết... Và còn kinh khủng hơn nữa là cả ngàn ngàn thai nhi phải chết vì lòng mẹ quá ác độc, không chỉ là phá thai ở bất kỳ tuần tuổi nào, mà còn có người mẹ bỏ con vào hố rác cho kiến cắn chết, có người mẹ khác ném con từ tầng lầu cao xuống cho chết. Thật quá kinh khủng!
Toàn cảnh xã hội hôm nay và những cách chết, cho thấy rằng: con người có cách đối xử với nhau thực vô lý: ai cũng sợ mình chết, mà không hề tôn trọng và bảo vệ sự sống cho ai; ai cũng giữ sĩ diện của mình mà không hề tôn trọng sĩ diện kẻ khác, ai cũng sợ mình phải chết, mà lại có thể giết chết kẻ khác một cách tàn nhẫn. Chính tội lỗi của con người là nguyên nhân gây ra bao nhiêu cái chết.
Sự chết đến với con người quá dễ dàng, và cũng không ai dám biết trước mà ngăn cản nó. Sự chết là kết quả của sự dữ. Mà sự dữ là do ma quỷ cố ý gây nên. Ma quỷ không muốn cho con người tỉnh thức và sẵn sàng. Ma quỷ muốn cho con người mất linh hồn, mất Nước Thiên Chúa.
Về sự sống lại
Vâng, con người phải chết và có quá nhiều cách chết. Nhưng, dù có chết cách nào đi nữa, thì Thiên Chúa là Cha xót thương luôn mở rộng vòng tay đón nhận tất cả con cái của Người vào trong Nước vĩnh cửu của Người. Vì thế, phải luôn sẵn sàng tỉnh thức để đón nhận ngày tận thế của mình, để được Thiên Chúa đón thẳng vào Nước Người.
Đó là niềm tin chắc chắn của mỗi tín hữu Chúa Giêsu Kitô.
Vì mỗi tín hữu, đã được Thánh Thần của Chúa Cha kêu gọi tới hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su Kitô. Như vậy, Chúa Giêsu Kitô là quà tặng quý giá của Thiên Chúa ban cho chúng ta, vì lòng thương xót vô biên của Người.
Thế mà, Chúa Giêsu lại nói: “Những kẻ cha đã ban cho con”. Hóa ra, trong tâm tư của Chúa Giêsu, mỗi tín hữu lại là một quà tặng quý giá mà Chúa Cha trao ban cho Người. Lẽ ra chúng ta phải quý chuộng Đức Giêsu biết bao và không thể tách rời xa Người, thì ngược lại, Đức Giêsu yêu mến và quý chuộng mỗi chúng ta đến nỗi Người xin với Cha rằng: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn rằng Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con”.
Vinh quang ấy chính là Sự Sống Lại của Con Thiên Chúa làm người.
Vinh quang ấy chính là Sự Sống Viên Mãn và Vĩnh Cửu của Người, vì Người là Thiên Chúa.
Đó là niềm tin và niềm hy vọng của mỗi chúng ta, các Kitô hữu.
Hãy luôn sống đẹp lòng Chúa, là hãy yêu mến Chúa, là hãy tuân giữ lề luật Chúa, nhất là luật mến Chúa, yêu người.
Hạnh phúc biết bao cho ai được chết trong khi lòng còn đang tin tưởng yêu mến Chúa nồng nàn, khi lòng còn đang bác ái yêu thương và sẻ chia cho người, phục vụ sự sống của người.
Hạnh phúc biết bao cho ai được chết đang khi còn thực thì Lời Chúa dạy, đang còn thực thi tám mối phúc thật trong cuộc sống của mình.
Hạnh phúc biết bao cho ai được chết đang khi còn sống trong ân nghĩa với Chúa, bởi chúng ta tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ đón họ về trong Nước Chúa, vì Chúa Giêsu đã tha thiết van xin: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn rằng Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con”.
Về chữ Hiếu
Đứng trước các phần mộ, thắp hương nghi ngút, hoa nến từng bừng, dâng kinh cầu nguyện, tưởng như thế là ta làm ơn cho những người đã ra đi, hãy trả hiếu cho ông bà cha mẹ đấy sao?
Có ai trong chúng ta nghe được ông bà cha mẹ và những người thân yêu chúng ta đang ở dưới mộ sâu kia nói gì không? Chắc hẳn là họ không còn nói được lời nào nữa. Nhưng chính sự im lặng của các ngôi mộ đang nói với chúng ta nhiều điều quý giá:
- sự chết cố định giờ chết bất ngờ, hãy luôn tỉnh thức, hãy sống trong ân nghĩa Chúa.
- hãy luôn hướng lòng về Thiên Chúa là cùng đích cuộc đời của chúng ta.
- hãy tin tưởng Chúa Giêsu và sự Phục Sinh của người.
Cách đặc biệt, hãy nghe các phần mộ của ông bà cha mẹ nhắn nhủ với các con: hãy yêu mến Chúa và yêu thương nhau.
Chữ hiếu đối với ông bà cha mẹ không phải là mồ yên mả đẹp, cung đình nguy nga mà anh chị em trong nhà con trai con gái, con dâu con rể lại còn cứ lời qua tiếng lại.
Chữ hiếu đối với ông bà cha mẹ không phải là làm cỗ lình đình, nhiều mâm đông khách mà anh chị em trong nhà lại còn cứ bất hòa bất thuận với nhau.
Chữ hiếu đối với ông bà cha mẹ không phải là khói hương nghi ngút, là nến hoa rực rỡ, là kèn trống se sua… mà anh chị em trong nhà lại còn cứ hơn thua nhau, ganh tỵ nhau, bôi bác, bài xích nhau.
Hãy lắng nghe tiếng nói từ các phần mộ ông bà cha mẹ rằng: chữ hiếu đối với ông bà cha mẹ chính là anh chị em hãy sống đạo cho đàng hoàng, hãy mến Chúa trên hết mọi sự và hãy yêu thương nhau, hãy giúp đỡ nhau, hãy tha thứ cho nhau, hãy đoàn kết hiệp nhất với nhau, và hãy sống xứng đáng là con cái của Thiên Chúa.
Như thế mới là lời nguyện đích thực cho những kẻ đã qua đời.
Như thế mới là lễ hy sinh xứng đáng cho các linh hồn trong luyện ngục.
Như thế mới là đáp hiếu cho ông bà cha mẹ cách trọn vẹn
Và như thế, mới hy vọng sum họp với ông bà cha mẹ trong cõi đời sau.
Ai cũng phải chết. Phải chuẩn bị sẵn sàng cho giờ chết là hãy luôn sống trong ân nghĩa với Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Và cụ thể nhất là: hãy kính mến Chúa luôn, hãy yêu thương hết mọi người luôn.
Đó là điều mà mà Thiên Chúa khát khao nơi mỗi chúng ta,
Đó là điều mà ông bà cha mẹ đang khát khao nơi mỗi chúng ta.
Tháng các linh hồn, trong khi chúng ta hy sinh, dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn, thì các linh hồn từ những nấm mồ im lặng kia cũng gửi cho chúng ta những lời tình như quà tặng quý giá về sự chết, sự sống lại và về chữ hiếu đúng nghĩa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn Tin Cậy Mến Chúa hết lòng, và yêu thương nhau, yêu thương mọi người, để làm lễ dâng cầu thay cho ông bà cha mẹ và các linh hồn được Chúa thứ tha những hình phạt còn nơi luyện ngục, và Chúa cho lên chốn nghỉ ngơi cùng Chúa. Amen.
Chiều nay 2 tháng 11, Lễ Các Đẳng Linh Hồn, tôi và đứa cháu nội sang nghĩa trang Tân Bình thắp 2/11-193
Chiều nay 2 tháng 11, Lễ Các Đẳng Linh Hồn, tôi và đứa cháu nội sang nghĩa trang Tân Bình thắp hương cầu nguyện cho ông bà, còn các con cháu thì dự lễ và cầu nguyện cho mẹ chúng tại Trà Cổ. Nghĩa trang giờ này dường như đã trở thành một vườn hoa với muôn màu rực rỡ. Người người lặng lẽ đi lại giữa các phần mộ, khói nhang phảng phất, rì rầm đọc kinh.
Cầu nguyện xong, hai ông cháu trở về lễ đài tham dự Thánh Lễ đồng tế trong đó có cả cha Thăng là cháu gọi bằng cậu hiện là chánh xứ Quảng Tâm cũng về dự. Ngước lên lễ đài thấy có hai câu đối treo dọc xuống ghi hàng chữ chân phương:
“Đường trần gian qua mau như gió thoảng, Chốn Thiên Đàng tồn tại mãi thiên thu”.
Đọc xong hai hàng chữ ấy tôi chợt nghĩ miên man về cuộc thế mau qua và sự vĩnh hằng của Thiên Đàng. Nơi nghĩa trang này cũng như bao nghĩa trang khác vẫn im lìm nằm đó những nấm mồ. Còn dưới lòng đất là những nắm xương có khi lâu lắm rồi chỉ còn là… mùn đất! Có phải chỉ là những nắm xương rời rạc hay còn là gì nữa?
Vâng, có lẽ không chỉ trong niềm tin Công Giáo mà với người đời cũng vậy, cũng vẫn tin còn có một cái gì đó… linh thiêng. Chẳng vậy mà nàng Kiều trước mộ Đạm Tiên đã không khỏi buồn rầu thốt lên lời cảm thán:
“Nỗi niềm tưởng đến mà đau… Thấy người nằm đó, biết sau thế nào?”
Cái biết sau của nàng là biết cái phận hồng nhan bạc phận của mình sau này rồi ra cũng chết, nhưng chết rồi sẽ ra sao, có như cái mả “vùi nông một nắm, mặc dầu cỏ hoa” này chăng?
Thân phận con người trước cái chết càng nghĩ càng thấm. Tuy nhiên với những kẻ có niềm tin thì đó lại là niềm hy vọng lớn lao: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời…
Tôi vẫn nuôi hy vọng và ngày càng tin rằng cha mẹ mình hiện đang hưởng phúc Thiên Đàng. Riêng với người cha, dù người mất đã lâu lắm rồi, nhưng trong tôi vẫn ghi khắc hình dáng của người với biết bao thương nhớ…
Làng Vĩnh Thọ quê tôi là họ lẻ nằm ven sông Hồng cùng xóm với xướng ngôn viên nổi tiếng Nguyễn Ngọc Ngạn. Xóm Giáo nghèo, có lẽ chỉ có khoảng dăm chục nóc gia nhưng cũng có cha xứ là cha Quang sau này làm Đức Cha. Cha tôi trong nhiều năm liền làm phó trương coi sóc khoảng năm sáu họ lẻ khác. Vào dịp chịu Phép Thêm Sức, bọn nhỏ chúng tôi phải đi bộ từ lúc trời còn tối mịt để vào Bách Lộc cách đó khoảng bảy cây số.
Sống trong thời chiến tranh tao loạn, làng tôi lại là Làng Tề, cha tôi khi đó chưa tới tuổi năm mươi, người sinh năm 1904, vóc dáng nhỏ nhắn trung bình, nhưng giờ đây nhớ lại, tôi cho rằng cha mình là người vừa khôn khéo đối xử mọi mặt, vừa cương nghị biết cộng tác với cha xứ trải qua bao khó khăn, nguy hiểm.
Nói nguy hiểm thật không có gì quá đáng, bởi lẽ sau này nhắc đến, tôi được biết trong cái Họ Đạo nhỏ bé đó mà đã có vài người tuy chỉ là quản giáo hoặc có ít chữ nghĩa như chú Nghiêu cũng bị Việt Minh bắt đi tù mãi tận trên đường ngược không có ngày về!
Còn nhớ trong những năm tháng ấy cha tôi không khi nào dám ngủ ở nhà, chẳng biết ở đâu. Có lần cha con phải vào ngủ trong… bốt Kim Lũ, nơi mà ông anh đóng lính ở đó. Ngay đêm ấy du kích mò về đốt cháy rụi ngôi Nhà Thờ lợp tranh của cha Vịnh và những căn nhà dọc con phố chợ.
Mấy hôm sau, vào lúc trời còn mờ sáng, cha con tôi dắt díu nhau lúp xúp đi qua những ruộng ngô ruộng khoai về làng. Chẳng hiểu sao sau ngần ấy năm dài đằng đẵng tôi vẫn còn nhớ như in cái cảnh tượng xa xa trên một gò đất cao lô nhô có bóng mấy người đàn ông, từ đó phát ra những tiếng trống tom tom nghe rất đanh và… buồn.
Ôi chao! cái tiếng trống rời rạc ấy cứ đeo đuổi tôi trong suốt cuộc đời cùng với hình ảnh người cha lận đận cùng vận nước điêu linh. Có lần tôi thấy cha ngồi lặng lẽ vẻ bất động trước thềm trong buổi chiều tà khi nghe tin cậu Kiên, em vợ của cha vừa bị người ta đâm chết tại gốc muỗm rìa làng Phú Châu. Nghe tiếng khóc rấm rứt của mẹ sau bếp tôi cũng không thấy sợ bằng cái dáng vẻ lặng lẽ của cha.
Cái dáng vẻ bất động ấy tôi lại bắt gặp một lần nữa khi người ngồi trên tấm phản gỗ trong căn nhà lá ở trại Lộc Hưng, Chí Hòa, khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh lần thứ nhất ngày 11.11.1960…
Lần thứ hai Tổng Thống Diệm bị đảo chánh và giết chết ngày 2.11.1963 thì tôi không có nhà, đang ở trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, bị động viên khóa 10 Hạ Sĩ Quan Trừ Bị. Vào chủ nhật tiếp tân tại Vườn Cộng Hòa sau đảo chánh ít ngày, cha tôi cùng ông chánh Diu khăn đóng áo dài lên thăm hai chúng tôi trong bộ quân phục mới tinh. Cha chỉ nói ít lời nhắn nhủ động viên rồi nhìn chúng tôi với ánh mắt đăm chiêu, chẳng biết thời thế này rồi sẽ tới đâu?
Tôi là con út trong bốn anh chị em, sinh ra thì đã ốm yếu gầy mòn bởi vậy có tên là Út Đọn. Có lẽ chính vì thể trạng như thế cha lại càng yêu thương tôi hơn? Còn nhớ khi trọ học ở trại Văn Côi, thị xã Sơn Tây, cha hay ghé thăm. Mỗi lần như vậy cha đều đem cho, khi thì hộp sữa bò, khi thì chai thuốc bổ hiệu Kim Tân…
Giờ đây nghĩ lại tôi thấy đó là tất cả tấm lòng của người cha lo cho con trai. Để có được tấm lòng ấy tôi chắc cha đã nhiều phen… bụng đói, đi bộ dưới trời nắng cả vài cây số. Ngày đó làm gì có xe có cộ và tiền đâu mà ăn hàng ăn quán?
Càng nghĩ tôi càng thương cha quá đỗi quá chừng, thế nhưng biết làm sao được khi cha không còn ở trên cõi đời này nữa? Nhưng rồi ngẫm nghĩ, tôi lại có niềm tin rằng cha hiện đang ở trên Thiên Đàng và người hẳn cũng hài lòng về tôi. Vì đâu lại dám tưởng như thế? Đó là vì dù không khi nào nói ra nhưng tôi biết cha rất kỳ vọng vào đứa con trai của mình.
Dù gia đình nghèo nhưng cha vẫn cố gửi tôi lên tỉnh học với sự giúp sức của cha quan thầy là cha Thiện trước là phó xứ Vĩnh Thọ. Học trên tỉnh được một năm thì thi vào Chủng Viện Tông, Sơn Tây, đậu vào tràng thử nhưng chưa học được ngày nào thì… di cư vào Nam. Vào Nam tôi lại học hết tiểu học rồi thi vào Tiểu Chủng Viện Phanxicô (Bùi Chu Di Cư) học được bốn năm, Chúa không chọn nữa thì về. Trong một lần cùng với mấy cha trong địa phận, cha có ra thăm tôi tại Chủng Viện Phước Tỉnh nằm sát bờ biển. Hai cha con ngồi trên bực thềm ngó mông ra biển khơi mênh mang dạt dào sóng vỗ. Ôi lần đó chắc cha vui lắm và lại càng kỳ vọng ở tôi hơn nữa. Thế nhưng…
Trước biến cố 75, khi đó tôi và vợ con đã chuyển vào ở trong Khu Gia Binh Bộ Tổng Tham Mưu, còn ông bà thì về ấp Tân Bình, Hố Nai, gần vợ chồng bà chị gái tôi đã ở đó trước không lâu. Ở trong Khu Gia Binh mới được vỏn vẹn chưa tới một năm thì biến cố xảy ra, tôi bị đuổi khỏi đó với vài thứ vật dụng cá nhân. Muốn gỡ vài tấm tôn đem theo cũng không được.
Cùng với cả nước trong những tháng năm gian khổ ấy, cha ở với vợ chồng tôi, còn mẹ thì ở với vợ chồng chị gái. Cha thì ngày càng già yếu, còn tôi phần thì vất vả mưu sinh phần thì sống mà không còn hy vọng gì cả. Cha ốm có vài ngày không ăn gì, chỉ vài muỗng sữa rồi… ra đi nhẹ nhàng như trong một giấc mơ sau khi đã Xưng Tội, Rước Lễ, chịu Xức Dầu lần sau hết.
Ngồi trong đêm một mình bên cha dưới hai ngọn nến và cây Thánh Giá ở đầu giường. Tôi không nghĩ ngợi được gì và cũng chẳng cầu nguyện chi, bởi cho đến khi ấy vẫn chưa được Ơn Chúa cho trở lại. Dẫu vậy nhưng tôi thâm tín rằng ngay khi ấy cha vẫn thấy tôi, đứa con tội nghiệp của người.
Cha ơi! Cha vẫn còn kỳ vọng ở con chứ? Giờ đây con đã được ơn trở lại và con mong mỏi có ngày sẽ được gặp cha, không phải trong chốn thế gian khổ lụy này, nhưng là trên cõi vĩnh phúc đời đời chẳng bao giờ còn xa nhau nữa…
Tháng 11, tháng của báo hiếu. Tháng của lòng tri ân tình cha, tình mẹ. Thế nên , khi nghe những ca 2/11-194
Tháng 11, tháng của báo hiếu. Tháng của lòng tri ân tình cha, tình mẹ. Thế nên , khi nghe những ca từ của những bài hát về cha, về mẹ, ôi sao thật ngọt ngào, thắm thiết! Có lẽ nhiều người vẫn thầm hát bài “Bông Hồng cài áo” mỗi khi chạnh lòng nhớ về mẹ cha:
“Mẹ, Mẹ là dòng suối diệu hiền Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên Là bóng mát trên cao Là mắt sáng trăm sâu Là ánh đuốc trong đêm Khi lạc lối. Tình mẹ thật nhẹ nhàng như dòng suối làm mát cuộc đời từng người con. Thật ấm cúng nồng nàn như nắng ấm nương rau:
Mẹ, Mẹ là dòng suối ngọt ngào. Mẹ, Mẹ là nải chuối, buồng cau Là tiếng dế đêm thâu Là nắng ấm nương rau Là vốn liếng yêu thương Cho cuộc đời.”
Thế nhưng, cho dù có thương cha, nhớ mẹ thì cũng có ngày con không còn mẹ cha, sẽ là những ngày tăm tối như lời bài hát so sánh:
“Như đóa hoa không mặt trời, Như trẻ thơ không nụ cười, Và đời mình không lớn khôn thêm Như bầu trời thiếu ánh sao đêm”
Ý của bài hát này tác giả đã lấy cảm hứng từ ngày Mother’s day được tổ chức vào Chúa nhật thứ 2 của Tháng Năm tại Châu Âu. Và năm 1962 được tổ chức tại Nhật với phong tục cài cho những ngươì con không còn mẹ một bông hồng trắng, và còn mẹ một bông hồng đỏ. Và nhà sư Nhất Hạnh đã đem về Việt Nam, cổ võ trong ngày Vu Lan. Thế nên, phong tục này không phải là truyền thống của Phật Giáo mà là của Tây Phương. Biểu tượng của Phật Giáo là hoa sen, còn bông hồng là biểu tượng tình yêu của Châu Âu, nhưng dù sao chúng ta cũng thấy việc cầm bông hồng trên tay hay cài lên áo để nhớ về tình thương của mẹ thật nồng ấm biết bao.
Nồng ấm bởi vì Mẹ là một dòng suối, là một kho tàng vô tận. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà Thiên Chúa đã tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Thế nên, đừng đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: “trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!”. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình mới có cảm nghĩ: “Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!”
Thế nên, tôi nghĩ rằng bài hát muốn nói với chúng ta những người còn mẹ, ngay hôm nay hãy cầm tay mẹ mà hỏi: ” Mẹ ơi, mẹ có biết không ?”. Và chắc chắn Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và lúc này hãy nhìn vào mắt mẹ, mà nói: “Mẹ có biết là con thương mẹ không ?”. Mẹ sẽ rất sung sướng, sẽ rất hạnh phúc vì được nghe những lời yêu thương từ con.
Không chỉ là mẹ mà cả những người cha tuy thầm lặng nhưng luôn hết lòng yêu thương ta. Tình cha không mặn mà như tình mẹ nhưng tình cha vẫn mãi là chỗ dựa cho con sự tự tin vào đời. Không có cha con cái sẽ cảm thấy mình hụt hẫng giữa chợ đời đầy mưu mô xảo quyệt mà không có chỗ tựa nương. Thế nên, hãy trân trọng tình cha, tình mẹ. Hãy dành cho các ngài sự quan tâm, tình yêu mến, đừng đợi đến khi không còn họ mới thảng thốt nói lên lời xót xa ân hận vì mình đã không sống tròn đạo hiếu làm người.
Hôm nay nhân ngày lễ các linh hồn, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy dành tình yêu cho ông bà cha mẹ qua việc cầu nguyện cho các ngài. Chúng ta hãy nài xin lòng thương xót của Chúa đón nhận các ngài và tha thứ những yếu đuối trong thân phận con người của các ngài. Vì nhân vô thập toàn, ai mà không có lỗi trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng chí thánh. Chúng ta hãy nhớ đến người quá cố để làm điều gì đó nhằm cứu vớt họ. Có thể là nhường cho các ngài những ơn toàn xá trong 8 ngày đầu tháng. Có thể là làm những việc lành phúc đức để đền bù cho những thiếu sót trong cuộc đời các ngài. Có thể là những lời kinh ta trao gởi họ cho lòng thương xót của Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tận dụng những ngày này như là mùa báo hiếu cha mẹ và tri ân anh em bè bạn những người đã giúp đỡ chúng ta mà nay đã không còn. Xin cho họ được nghỉ yên bên Chúa. Amen.
Hàng năm, cứ đến những ngày đầu tháng 11, khi tiết trời vào thu, hàng cây thay lá, Giáo hội lại 2/11-195
Hàng năm, cứ đến những ngày đầu tháng 11, khi tiết trời vào thu, hàng cây thay lá, Giáo hội lại nhắc chúng ta nhớ đến cùng đích đời đời của mỗi người là Nước Trời. Giáo hội cũng dành tháng 11 để dạy mỗi người bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn ông bà tổ tiên, đồng thời nhắc các tín hữu chuẩn bị cho ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Kính nhớ ông bà tổ tiên là nét đẹp trong văn hoá Việt Nam. Việc bày tỏ lòng thảo hiếu không chỉ là văn hoá mà còn là Đạo hiếu, Đạo làm người. Như thế, những ai không chu toàn đạo làm con, đạo làm người này, thì cũng không thể chu toàn đạo làm con Chúa được. Tuy nhiên, không phải mọi người Công Giáo đều ý thức được điều này, vì thế, đã xảy ra biết bao tình trạng ngược đãi đối với ông bà cha mẹ, bỏ bê việc hiếu thảo, khiến cho nhiều người ngoại giáo nghĩ rằng : Theo đạo Công Giáo là phải từ bỏ ông bà tổ tiên, không được giỗ chạp.
Chắc chắn là con người, ai cũng phải chết. Người ta tưởng rằng khoa học ngày nay có thể kéo dài tuổi thọ, xua đi cái chết của con người, nhưng thực tế lại không như vậy. Con người dường như chết trẻ hơn, các bệnh tật, nhất là ung thư, ngày càng phổ biến hơn. Có những người giàu có, cuộc sống không thiếu thốn, họ đủ tiền để đi chữa bệnh ở ngoại quốc, nhưng vẫn không thoát khỏi cái chết. Có những người mới ngày hôm qua còn gặp mặt cười nói, thì hôm sau đã nằm yên bất động. Nhắc lại một vài trường hợp như thế để mỗi người thấy rằng, cuộc sống này thật mong manh, kiếp nhân sinh thật vắn vỏi. Vậy mà có nhiều người vẫn cố tình quên điều đó, họ bỏ qua Thiên Chúa để bám vào trần gian như cùng đích của cuộc đời mình.
Ông Gióp đã trải qua những quãng đời giàu có phong lưu, rồi mất trắng trở về tay không, từ một người khoẻ mạnh, bạn hữu tới lui, trở thành một người bệnh tật ghê tởm, mọi người xa tránh. Dù vậy, ông vẫn xác tín vào Thiên Chúa và hy vọng mạnh mẽ vào cuộc sống đời sau. Trong bài đọc một, ông Gióp đã nói lên niềm xác tín của mình : Tôi biết rằng, Đấng cứu chuộc tôi hằng sống, và sau hết, tôi sẽ từ bụi đất sống lại, và trong chính xác thịt tôi, tôi sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa của tôi. Lời tuyên xưng này cho thấy, ông đặt trọn niềm hy vọng cuộc đời của ông vào nơi Chúa. Điều ông chờ đợi duy nhất sau cuộc sống này là được nhìn thấy Thiên Chúa bằng chính con mắt của mình chứ không còn phải nhìn bằng đức tin nữa.
Niềm tin vào sự sống đời sau được củng cố nhờ vào lời mặc khải của Chúa Giêsu. Ngài đã quả quyết với chúng ta rằng : Ai đến với Tôi sẽ không bao giờ bị loại trừ, không bao giờ bị hư mất, nhưng Tôi sẽ ban cho họ sự sống đời đời. Thiên Chúa khi tạo dựng con người, Ngài muốn cho con người hạnh phúc. Tuy nhiên do tội nguyên tổ và tội của mỗi người, cũng như do sự lôi kéo của ma quỷ, xác thịt và thế gian đã khiến chúng ta xa Chúa và quên mục tiêu đời mình là tìm về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã được sai đến để chỉ cho con người con đường hạnh phúc, để đưa tất cả nhân loại về với Chúa Cha. Ngài đã chấp nhận cái chết để đem lại sự sống cho con người. Tuy nhiên, chỉ những ai tin Chúa Giêsu, lắng nghe và bước theo Ngài thì mới có thể đạt tới sự sống hạnh phúc được.
Tham dự ngày lễ Cầu hồn hôm nay, mỗi người hãy dừng lại để suy nghĩ và chỉnh sửa cuộc sống của mình, để sống làm sao cho trọn đạo với Chúa và với những bậc tiền nhân.
Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Chúng ta không thể kể hết, không thể đo đếm được công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Chúng ta có thể nhìn thấy những tấm gương hy sinh của các bậc cha mẹ : Có những người cha già tám mươi tuổi vẫn phải vất vả nuôi những đứa con tật nguyền, có những người mẹ hốc mắt thâm quầng vì nhiều đêm thức trắng trông con đau ốm. Ngược lại, có những người con ném cha mẹ ra đường để giành của cải, có những người cha phải nhắm mắt trong tủi nhục vì con cái ngỗ nghịch.
Ngày lễ Cầu hồn hôm nay nhắc chúng ta sống thảo hiếu, sống trọn tình với người còn sống cũng như những người đã khuất. Chắc chắn đứng bên phần mộ người thân đã ra đi, những hình ảnh, những ký ức của người thân sẽ lại trở về với mỗi người. Có thể là những ký ức, kỷ niệm thật vui và hạnh phúc, vì những năm tháng tròn đầy được sống cùng nhau, đã sống hết mình, hết tình với nhau ; nhưng cũng có nhiều ký ức khiến mỗi người tự xấu hổ và hối hận. Có những người khi cha mẹ người thân còn sống đã tỏ ra vô tình dửng dưng, thiếu yêu thương, thiếu chăm sóc. Có những người cứ nghĩ rằng mỗi tháng trả cho cha mẹ vài triệu là đã hết công sinh thành dưỡng dục, vì thế, khi cha mẹ đau yếu liệt lào, họ chưa được một lần tự tay chăm sóc cho cha mẹ. Nay khi cha mẹ qua đời, họ cố gắng xây mộ thật to để che mắt thế gian và để đánh lừa sự áy náy trong tâm hồn mình.
Không chỉ bổn phận thảo hiếu với cha mẹ, mỗi người còn mang trách nhiệm, bổn phận với vợ, chồng, con cái. Nhiều người khi vợ, chồng còn sống đã thiếu sót bổn phận, coi thường khinh rẻ nhau, chửi bới đánh đập nhau suốt ngày, thế nhưng, lúc người kia mất đi, họ khóc vật vã, kể lể để dối lòng mình. Có những người lúc sống không nhìn mặt nhau, thế nhưng lúc chết lại đòi cho được nằm cạnh nhau, việc làm đó chỉ là sự giả dối để che mắt thế gian. Điều quan trọng không phải nằm chỗ nào, sang hay hèn, mộ to hay nhỏ, những điều quan trọng là mình đã sống, đã đối xử với người thân thế nào khi họ còn sống. Điều quan trọng hơn nữa là phải sống làm sao để cùng nhau lên thiên đàng, để tránh rơi vào cảnh “Thiên đàng hoả ngục hai bên”.
Chúng ta hãy sống sao cho mỗi lần tháng 11 về, mỗi lần ra thăm mộ, mỗi người không phải áy náy hối hận, không còn những giọt nước mắt muộn màng. Muốn vậy thì ngay bây giờ, chúng ta hãy sống với nhau cho tròn đầy :
Với mẹ cha, hãy hết lòng yêu thương kính trọng, vâng lời. Hãy chia sẻ gánh nặng kinh tế và lo lắng với các ngài. Hãy làm vơi đi sự nhọc nhằn trên đôi vai của cha mẹ, hãy làm cho cha mẹ nở nụ cười hạnh phúc và tự hào vì con cháu. Lúc các Ngài tuổi cao sức yếu, hãy kiên nhẫn và kính trọng, vì ngày xưa các ngài đã từng hết sức kiên nhẫn với chúng ta. Đừng làm gì khiến cha mẹ tủi nhục, đừng đối xử với cha mẹ như con ăn đứa ở trong gia đình, cũng đừng kể công, tính sổ với các ngài, vì các ngài chưa bao giờ tính công sinh thành, nuôi dưỡng chúng ta. Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó, hôm nay chúng ta biết kính trọng, yêu mến mẹ cha của mình, thì sau này, con cháu cũng sẽ biết yêu mến, kính trọng chúng ta. Đừng bao giờ trở thành gương xấu cho con cháu trong việc thảo hiếu mẹ cha.
Với anh chị em, vợ chồng và những người chung quanh, hãy nhớ rằng, chúng ta sẽ không sống mãi trên cuộc đời này, sẽ có ngày chúng ta phải chia tay nhau. Vì thế, khi còn có cơ hội gần nhau, bên nhau, hãy yêu thương nhau cho thật tình, hãy yêu mến hết mình, đừng so đo tính toán thiệt hơn. Cuộc sống thật vắn vỏi, hãy loại trừ những tranh chấp hơn thua, nhỏ mọn để sống quảng đại với nhau ; hãy nói với nhau những lời lẽ chân tình, dễ nghe và cư xử với nhau với lòng nhân ái, để khi người thân mất đi, chúng ta sẽ không phải hối hận vì đã yêu quá ít.
Sau cùng hãy nhớ rằng, sau cánh cửa sự chết, chúng ta sẽ gặp lại nhau. Chúng ta sẽ muốn nhìn thấy nhau trong tình trạng nào, vui hay buồn, hạnh phúc hay bất hạnh ? Vì thế, đừng bao giờ nuôi hận thù đối với nhau, cũng đừng đem hận thù xuống nấm mồ, vì thù hận sẽ không thích hợp với Nước Trời là nơi hạnh phúc. Nếu cố tình nuôi dưỡng thù hận, chúng ta sẽ không vào Nước Trời và không thể gặp lại nhau được nữa.
Thiên đàng là nơi hạnh phúc, có Thiên Chúa là Cha đang chờ đợi mỗi chúng ta, nơi đó là quê hương đích thực và cùng đích của mọi người. Xin cho chúng ta trên hành trinh trần thế đừng bao giờ quên cùng đích cuộc đời của mình. Xin cho mỗi người luôn biết chuẩn bị sẵn sàng cho ngày trở về, để khi ngày ấy đến, chúng ta thanh thản ra đi mà không phải hối tiếc vì đã không làm gì cho Chúa, cho mình và cho những người chung quanh. Amen.
Xin đừng quên tôi!” là ý nghĩa theo tiếng Anh của một loài hoa: Forget-me-not. Tiếng Việt gọi 2/11-196
“Xin đừng quên tôi!” là ý nghĩa theo tiếng Anh của một loài hoa: Forget-me-not. Tiếng Việt gọi là Lưu Ly Thảo. Hoa nhỏ và có màu tím buồn. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy trong tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, nó vẫn mang những ý nghĩa khác. Với người Công giáo, Lưu Ly Thảo cũng đang nhắc nhở về lời kêu cứu khẩn khoản của các linh hồn nơi luyện hình: “Xin đừng quên tôi!”.
Là những người thuộc Giáo hội Chiến đấu, Giáo hội Lữ hành, chúng ta vừa mừng kính chư thánh thuộc Giáo hội Khải hoàn, những người đã được hưởng Phúc Trường Sinh, chúng ta gọi họ là Thánh. Giáo hội muốn chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị-thánh-tương-lai, đặc biệt trong Tháng Cầu Hồn, vì chắc chắn họ sẽ được hưởng phúc trường sinh nay mai, trong đó có những người thân thiết của chúng ta. Họ được vào Thiên đàng sớm hay muộn là nhờ chúng ta, vì lúc này họ đành “bó tay”, chịu thúc thủ, không thể làm gì được.
Thánh Gioan Tông đồ cho biết thị kiến: “Tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách. Biển trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa” (Kh 20:12-15). Các linh hồn nơi luyện hình đã được cấp Visa-Sự-Sống, chỉ còn chờ ngày “bay” về Thiên Đàng thôi.
Khi cầu nguyện cho họ thì lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phanxicô Assisi nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Tuy nhiên, dù các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được “phân loại” là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11:25-26).
Thiên Chúa yêu thương mọi người, chỉ muốn mọi người được về sống chung với Ngài trên Thiên quốc, Ngài không phân biệt ai và không muốn ai phải mất Ngài. Thánh Phaolô nói: “Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc Ben-gia-min. Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước” (Rm 11,1-2a).
Thánh Phaolô nói thêm: “Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị. Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được ơn phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy!” (Rm 11:11-12).
Vô tri bất mộ – không biết không thích. Biết rồi thích. Thích rồi mến. Mến rồi yêu. Yêu rồi mê. Mê rồi say. Say rồi bạo (bạo dạn), tức là can đảm. Thánh Phaolô đã theo “chuỗi hệ lụy” đó, thế nên ngài phải nói ra: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ. Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ, như có lời chép: Từ núi Sion, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ những điều vô đạo khỏi nhà Gia-cóp. Đó sẽ là giao ước của Ta với chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng” (Rm 11:25-27).
Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa thương xót, thế nên Ngài mới kêu gọi chúng ta theo Ngài. Để làm gì? Để Ngài trao ban hạnh phúc trường sinh. Ngài là Đấng trung tín tuyệt đối: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:28-29). Thật là hạnh phúc cho những tội nhân khốn kiếp như chúng ta.
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đặt giả thuyết: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? (Tv 130:3). May mà đó chỉ là giả thuyết, không là sự thật: “Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130:4). Kiếp lữ hành quá khổ, ai cũng muốn được giải thoát, nhưng chẳng tìm đâu ra ngoài Thiên Chúa: “Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông” (Tv 130:5-6). Lính gác đêm hoặc ngày cũng đều mỏi mệt lắm, chỉ mong hết giờ gác. Nhưng niềm khao khát Chúa còn hơn vậy. Thật tốt lành cho người nào biết tìm kiếm Chúa như thế! Tìm được Ngài rồi thì hạnh phúc gấp bội, hoàn toàn an tâm: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23:1).
Tìm kiếm Chúa làm gì? Có ai thấy Chúa đâu mà tìm? Những người vô thần bảo “tôn giáo là thuốc phiện ra ngủ”, chính Karl Marx còn quyết tâm triệt tiêu niềm tin tôn giáo kia mà? Không thấy Chúa sao vẫn muốn triệt? Thiên Chúa là Sự Sống mà sao họ lại muốn giết chết sự sống? Phải chăng tự mâu thuẫn? Gương Saolê nhãn tiền còn đó! Cũng tương tự, người ta công khai nhận mình theo chủ nghĩa duy vật mà sao vẫn thắp nhang khấn vái người quá cố? Phải chăng duy vật chỉ là “cái hộp” đựng “duy tâm” hoặc “duy linh” bên trong? Lại tự mâu thuẫn!
Một hôm, tại hội đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51).
Thế nên, người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Nếu là chúng ta lúc đó thì chắc chắn cũng thế thôi!
Nhưng Đức Giêsu nói “dài hơi” và đầy tính quyết liệt: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:53-58). Tuy nhiên, đầu óc “bã đậu” của phàm nhân làm sao hiểu thấu!
Nghe nói vậy, không ai khác là chính các môn đệ còn nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Kiểu như phàm nhân nói: “Giòi trong xương giòi ra”. Các đệ tử ruột còn chưa nghe nổi thì ai nghe nổi? Chúa Giêsu biết các đệ tử xì xầm, nhưng Ngài làm ngơ, nói với đầu gối còn hơn!
Các linh hồn nơi luyện hình cũng đã từng ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa, rồi các ngài cũng sẽ được sống đời đời như lời Chúa Giêsu đã hứa, dù lúc này còn phải chịu thanh luyện trong “lửa”. Mà Chúa đã hứa thì chắc cú!
Thánh Faustina tâm sự: “Tôi bị thiêu đốt trong lòng bằng lửa yêu mến Chúa và muốn cứu các linh hồn mà tôi cảm thấy mình bị thiêu đốt. Tôi sẽ chiến đấu với ma quỷ bằng Vũ khí Lòng Chúa Thương Xót. Tôi khao khát cháy bỏng là cứu các linh hồn. Tôi đi xuyên qua sức mạnh và hơi thở của thế giới và mạo hiểm đến nỗi các biên giới và các vùng đất hoang vu nhất để cứu các linh hồn. Tôi làm điều này bằng cách cầu nguyện và hy sinh” (Nhật Ký, số 754). Tình yêu của Thánh Faustina lớn lao quá!
Các linh hồn ngày đêm kêu than van vỉ: “Xin đừng quên tôi!”. Giáo hội Lữ hành hãy lắng nghe họ, xin cho họ hưởng nhờ những “giọt nước mát lạnh”.
Thiên Chúa là tất cả. Ước gì mọi người đều nói được như Thánh Thomas Aquino, Linh mục Dòng Đa-minh, Tiến sĩ Giáo hội, tác giả bộ Tổng luận Thần học “kếch sù”, rằng: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài mà thôi”. Đó là phần thưởng cao quý nhất và tuyệt vời nhất.
Lạy Thiên Chúa, xin thương xót mà tha thứ hình phạt cho các linh hồn, cho họ được sớm mãn hạn tù tội, xin cho các linh hồn về hưởng phúc trường sinh bên Ngài muôn đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen
Ngôi thánh đường nhỏ bé của giáo xứ tôi nằm cạnh nghĩa trang bé nhỏ của giáo xứ. Đứng bên đây 2/11-197
Ngôi thánh đường nhỏ bé của giáo xứ tôi nằm cạnh nghĩa trang bé nhỏ của giáo xứ. Đứng bên đây thánh đường ngó bên kia thánh đường là những người thân thương trong giáo xứ đã ra đi trước chúng tôi. Không chỉ có nghĩa trang nhỏ bé này nhưng đâu đó ở các nghĩa trang và thậm chí đâu đó và tro cốt của ông bà cha mẹ của chúng ta vì có thể có những người xưa đã khuất nhưng không tìm thấy dấu vết bởi chiến chinh.
Nhìn những nấm mộ đó, nơi những người thân của ta nằm đó, ta lại nhớ đến phận người. Phận người vẫn không thể nào thoát khỏi cái định mệnh của kiếp người : sinh – lão – bệnh – tử. Phận người là thế đó như theo kiểu cách nói của cố nhạc sĩ họ Trịnh :
Con chim ở đậu cành tre, Con cá ở trọ trong khe nước nguồn. Tôi nay ở trọ trần gian Trăm năm về trốn xa xăm cuối trời
***
Sương kia ở đậu miền xa Con sáo ở trọ bao la đất trời Nhân gian về trọ nhiều nơi Bâng khuâng vì những đôi môi rất hồng
***
Mây kia ở đậu từng không Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người Tim em người trọ là tôi Mai kia về trốn xa xôi cũng…gần
***
Mây kia ở đậu từng không Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người Môi xinh nở đậu người xinh Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều
***
Xin cho về trọ gần nhau Mai kia dù có ra sao cũng đành Trăm năm ở đậu ngàn năm Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
***
Ơ hay là một vòng sinh Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời
***
Phận người là thế, ở trọ để rồi cuộc đời khép lại sau cái chết.
Sau cái chết, tùy niềm tin của tôn giáo và gần hơn nữa là niềm tin của mỗi người khác nhau. Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết chỉ là khép lại cuộc sống trần gian để bước vào vương quốc vĩnh cửu.
Với Trịnh Công Sơn thì : “Người chết nối linh thiêng vào đời”.
Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp ta suy nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta. Và: nay tôi, mai anh. Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được “triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.
Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng, trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình. Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết sẽ xẩy ra cho mình. Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta. Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.
“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như vậy. Nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ… Vì sợ người chết, sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.
Có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”. Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.
Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói : “Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.
Đồng quan điểm với ông Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói : “Người chết mở mắt cho người sống”, cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.
Ông Stephen Leacock nói : “Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm. Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi. Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới. Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.
Khi ta nhìn thấy những nấm mồ ở nghĩa trang như muốn nhắc nhở ta : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh. “Hôm nay” là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.
Nhưng còn chữ “Ngày mai” là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói : “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ). Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.
Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết). Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên. Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả. Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây, Thoát chốc mà già đã tới ngay (Nguyễn Khuyến)
Dù cuộc sống cứ mãi trôi nhưng rồi thi thoảng ta phải dừng lại lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức nhận định một cách khách quan :
Tại sao tôi sống ? Sống để làm gì ? Chết rồi, ra sao ?
Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao ! Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.
Lẽ sống của người Ki tô hữu ngày hôm nay được làm rõ trong tất cả các bài đọc. Với tất cả lẽ sống đó, niềm tin đó ta lại hân hoan sống trong trần gian này với niềm vui, với niềm tin và hy vọng một ngày kia ta cũng sẽ đoàn tụ với cha ông chúng ta trên thiên đàng nơi mà Chúa đã dọn sẵn cho những ai mà Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.
Cuộc đời này rất ngắn và rất vội, Giáo Hội dành ra tháng 11 này cách đặc biệt để ta có dịp báo hiếu, cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, những người đã khuất trước chúng ta. Và, cũng nhắc nhớ phận người của mỗi người chúng ta. Ngày nào đó, ta cũng phải trở về với tro bụi trong quy luật hạn hữu của con người nhưng chuyện cần thiết và quan trọng nhất là sống làm sao để mai ngày được ơn cứu độ.
Sống ở đời, giàu hay nghèo, sang hay hèn, đại gia hay tiểu gia không phải là vấn đề. Không phải là vấn đề bởi lẽ ta thấy dù giàu hay nghèo, sang hay hèn đó khi nhắm mắt lìa đời chỉ có vài mét đất như nhau mà thôi. Vì thế, chuyện cần và đủ cho cuộc đời của mỗi người đó là sau khi chết ta có được một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa hay không ?
Với phận con người mỏng dòn và yếu đuối để rồi ta lại cứ tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện cho những người đã khuất và cầu nguyện cho chính bản thân chúng ta để ngày mỗi ngày ta biết trút bỏ những gì không là cần thiết, những gì làm vướng víu không để ta thanh thoát về với Chúa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta tiếp tục tin tưởng, cầu nguyện và tín thác những người thân của ta trong tay Chúa cũng như cuộc đời của ta trong tay Chúa vậy.
Theo lịch sử Hội thánh: Thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany 2/11-198
– Theo lịch sử Hội thánh: Thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức. Ngài luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Một hôm, một đan sĩ Dòng của ngài đi hành hương Đất thánh. Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ. Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết: “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn. Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn được ra khỏi hang lửa nói trên. Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ. Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận”. Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của ngài. Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã thiết lập lễ Cầu cho các linh hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rôma từ giữa thế kỷ 11.
– Giáo lý Hội Thánh Công giáo do Đức Thánh cha Gioan Phaolo 2 ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau:
Số 1030: Cần có Luyện ngục: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng”.
Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580). Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39).
Số 1032: Người sống cứu người chết: Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (x. 2 Mcb 12,46).
– Ngày 10 tháng 8 năm 1915: Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.
– Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).
2- GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG:
Chúa Giêsu thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh “Lữ Hành”, hai là Hội Thánh “Vinh Thắng”, ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau:
– Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giêsu. Như Dân Ítraen xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Họ được Chúa ban cho 2 thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.
– Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Khi còn sống ở trần gian, các ngài đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giêsu, nên ngày nay các ngài đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa.
– Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giêsu, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ. Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
3- TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG:
Ngọai trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giêsu dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giêsu và cầu nguyện cho nhau. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:
Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”. Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hòan tòan thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Bấy giờ các ngài sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian.
Riêng khái niệm về Lâm-bô: Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả (1200-1280), nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội. Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội. Về sau khái niệm này ít được đề cập đến. Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội”. Trong đó Ủy Ban cho rằng: “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải. Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”. Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giêsu như lời Chúa phán: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Tóm lại: Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ (x. GLHTCG số 1261).
4- PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG”:
– Không thích nói đến cái chết: Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết. Nhà tỷ phú Mỹ WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc. Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết! Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một toà lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ.
– “Sinh ký tử quy” (Sống gửi thác về): Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà. Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ. Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng kia để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.
– Chết là bắt đầu một cuộc sống mới: Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết! Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ ! Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!” Nhưng đức tin Kitô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng. Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét. Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình. “Sinh ký tử quy”: Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta. Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).
– Đền tội khi sống lúc chết: Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa không làm theo thánh ý Thiên Chúa. Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư. Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm. Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình.
5- LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa quan tâm đúng mức ! Con thật dại khờ khi nghĩ rằng mình sẽ có đủ thời gian chuẩn bị trước khi chết. Nhưng lời Chúa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng thái độ sẵn sàng. Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận ra con không, hay Chúa sẽ bảo con: “Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,23).
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen. Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34).- Amen.
Tháng 11 lại về, bầu trời như có chút u buồn, cái buồn của trời lập đông mau tối nồng thêm cái 2/11-199
Tháng 11 lại về, bầu trời như có chút u buồn, cái buồn của trời lập đông mau tối nồng thêm cái không khí se lạnh làm cho người ta cảm thấy chạnh lòng khi nghĩ về cuộc đời, nghĩ về người cha, người mẹ đã không còn. Nghĩ về cuộc đời thật chóng qua như loài hoa sớm nở chiều tàn. Nghĩ về những người cha người mẹ mà công đức của họ quá cao vời khiến chúng ta ngậm ngùi tưởng nhớ và mong làm một chút việc gì đó có ích cho mẹ cha.
Thật chạnh lòng khi nhớ về những người đã khuất. Thật nuối tiếc về tình yêu mẹ cha dành cho ta nay đã không còn, chỉ đọng lại trong ta một nỗi buồn miên man.
Có một bạn trẻ hồi ức về tuổi thơ của mình. Một tuổi thơ mất mẹ khi còn quá nhỏ nên chẳng hiểu hết nỗi đau. Chỉ thấy vắng mẹ rồi đơn sơ hỏi cha rằng:
“Một ngày hỏi mẹ ta đâu? Cha buồn cố nén giọt sầu hôn con Bảo rằng mẹ đã lên non Suối vàng ở đó nhặt xong mẹ về »
Đứa trẻ ngày lại ngày ngóng trông mẹ về mà sao cứ hun hút bóng mẹ. Suối vàng ở đâu mà mẹ nhặt mãi không về. Con ngày đêm mong nhớ. Mẹ vẫn biền biệt. Con tưởng rằng vì ham nhặt suối vàng mà mẹ chẳng chịu về. Khiến lòng buồn và lệ cứ rơi.
“Sớm chiều trông ngóng mẹ quê Ham chi giàu có mẹ ơi! con buồn Mưa tuôn nước đổ trên nguồn Lệ con tuôn mãi mỏi mòn tháng năm.
Rồi nỗi buồn lại nối tiếp nỗi buồn. Khi đứa trẻ mồ côi nhận ra nỗi đau vì mẹ đã về suối vàng là vĩnh viễn không về trần gian, thì cũng là lúc ngậm đắng nỗi đau của kẻ mồ côi cả mẹ lẫn cha.
“Nhớ nhung ngậm đắng âm thầm Thế rồi cha cũng bạc phần ra đi Lên non tìm mẹ làm chi? Giật mình …. con hiểu biệt ly – vô thường.
Cuộc đời thì vô thường, nay còn mai mất. Dẫu biết vậy, nhưng mất cha mất mẹ là một mất mát mà không có gì bù đắp được. Vì mẹ cha là một tác phẩm tuyệt đẹp về tình yêu con người, đó chính là bông hoa đẹp nhất của tạo hóa, là những nốt nhạc trầm bổng, những cung thanh cung điệu của bản nhạc giữa cuộc đời này. Tình yêu mẹ cha đã làm nên niềm vui và hạnh phúc cho con. Tình yêu ấy đã làm nên biết bao hình ảnh đẹp về tình người cho con cái.
Hôm nay, trong không gian nghĩa trang đang ấm dần bởi những nén hương, những ngọn nến của biết bao người con đang thắp lên trên phần mộ của những bậc sinh thành. Chúng ta cũng trào dâng niềm cảm mến tri ân về biết bao nghĩa cử cao đẹp mà cha mẹ đã làm cho chúng ta khi còn sống. Họ đã lặng im nơi chín suối hay dưới nấm mồ hoang lạnh. Điều họ cần nơi chúng ta không chỉ là một nén hương tỏ lòng tri ân, mà quan yếu là nhớ đến họ để cầu nguyện cho họ, để làm việc hy sinh phúc đức cho họ. Đây là bổn phận đối với Thiên Chúa mà họ phải làm khi còn sống, thế nhưng trong thân phận bất toàn họ đã thiếu sót. Họ đã không chu toàn đủ vì còn phải lao nhọc vì chúng ta. Họ còn phải hy sinh vì chúng ta. Nay họ cần được thanh luyện để xứng với tình yêu của Chúa. Thế nhưng, “lực bất tòng tâm”. Họ lại không còn cơ hội hay khả năng để lập công cho mình.
Vì thế, trong đạo hiếu Việt Nam luôn mời gọi con cái hãy biết đền ơn đáp nghĩa mẹ cha qua những thánh lễ cầu nguyện cho tổ tiên, qua những hy sinh bác ái để lập công đền tội cho cha mẹ chúng ta. Sách giáo lý Công Giáo đã viết:
“Chúng ta hãy cứu giúp và tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Nếu con cái ông Job được thanh luyện nhờ sự hy sinh của ông, thì tạo sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những việc hiến dâng của chúng ta sẽ đem lại an ủi cho các linh hồn ấy? Vậy chúng ta đừng ngần ngại giúp những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ”.
Ước mong tháng 11 sẽ là cơ hội để chúng ta tỏ lòng tri ân với cha mẹ, ông bà, anh em bạn hữu không chỉ bằng nén hương thắp lên trước phần mộ mà bằng cả tấm lòng mong muốn làm điều gì đó để đền bù cho họ vì những thiếu sót trong thân phận con người. Xin cho các linh hồn sớm được nghỉ yên trong tình yêu Chúa qua những lời cầu nguyện và những hy sinh của chúng ta trong tháng dành cho các đẳng linh hồn này. Amen
Có vẻ như ý nghĩa của hai ngày lễ, lễ Các Thánh Nam Nữ và lễ Cầu Hồn (thói quen vẫn gọi như 2/11-200
Có vẻ như ý nghĩa của hai ngày lễ, lễ Các Thánh Nam Nữ và lễ Cầu Hồn (thói quen vẫn gọi như thế), đã quá rõ ràng và đơn giản: một lễ mừng chung tất cả mọi vị thánh, nhất là các vị không có ngày kính riêng, và một dịp cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội, chưa được lên thiên đàng vui hưởng với các thánh. Một ngày mừng cho các vị đã thành công, ngày khác nhắc nhở hỗ trợ các vị chưa đạt tới đích. Cứ cho là như thế đi, tuy nhiên nếu dựa trên Lời Chúa hoặc nhìn từ khía cạnh ơn cứu độ, ta thấy vẫn cần phải khám phá lại ý nghĩa đích thực của hai ngày lễ này, đặc biệt ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn.
Trước hết cần khảng định: khái niệm về ‘Các Thánh’ như chúng ta có ngày nay (beatified, canonized, blessed, saint), tức là các vị được Hội Thánh tuyên phong, đã không hề tìm thấy trong Thánh Kinh, nhất là trong Tân Ước. Phao-lô đã gọi tập thể các tín hữu Cô-rin-tô là những người được hiến thánh, là dân thánh (1Cr 1:2-3), cho dầu ngay sau đó, trong cùng lá thư ấy, ngài đã thẳng thắn vạch ra tất cả các tội lỗi họ phạm, thậm chí cả tà dâm và loạn luân. Nói chung Phao-lô gán từ thánh hay các thánh cho toàn thể các Ki-tô hữu và từ Hội Thánh cho cộng đoàn qui tụ họ lại, bất luận đã hoàn thiện, tốt lành hay chưa. Điều kiện duy nhất để họ được gọi với danh xưng cao quí này là: họ có tin Đức Ki-tô Giê-su là Cứu Chúa hay không. Cũng vậy thị kiến của Gio-an về các thánh trên trời được ghi trong sách Khải Huyền cho thấy họ là ‘một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ’. Điểm chung nhất của họ là ‘đứng trước Con Chiên’ và ‘đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên’.
Trong nhãn quan đó, Các Thánh Nam Nữ mà chúng ta mừng kính hôm qua đâu phải chỉ là ‘các thánh’ đã được tuyên phong. Chúng ta mừng kính tất cả những ai đã đặt trọn niềm tin vào Đức Ki-tô Giê-su Cứu Chúa; đúng hơn chúng ta mừng chính sự bao quát của lòng từ ái Chúa đang tràn ngập nhân loại, một lòng thương xót vô biên đang chủ động len lỏi tới từng con người, kể cả những người tội lỗi nhất. Thánh Gio-an đã tóm lược điều này cách tài tình: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Do đó trong ngày lễ này, không phải các vị thánh là trọng tâm mà Con Chiên Cứu Độ mới đúng là tâm điểm chúng ta phải qui hướng về để tôn vinh và ca ngợi. Ki-tô hữu chúng ta tuyên dương: “phúc cho tất cả những ai đã biết đón lấy ơn cứu độ và lòng thương xót của Thiên Chúa, nhờ tin vào Đức Ki-tô Giê-su!” Đây chính là mối phúc duy nhất và vĩ đại nhất cho toàn thể nhân loại, cho nên tất cả những gì đưa tới nó, hay đóng góp vào việc tiếp nhận nó, đều được coi là ‘phúc’. Trong bài giảng trên núi về các mối phúc, thực ra vế thứ nhất của bản liệt kê không thể gọi là phúc, đơn giản là vì chúng không thể mang bất cứ hạnh phúc nào cho con người. Chỉ riêng trong Tin Mừng mà Đức Giê-su rao giảng chúng mới được coi là ‘phúc’, lý do duy nhất vì chúng cống hiến phương thế hay qui tắc đưa con người tới đón nhận tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, để họ ‘giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên’. Do đó lễ Các Thánh Nam Nữ chính là ngày chúng ta dành ra để ca ngợi lòng thương xót cứu độ mà Chúa đã thành công trong việc cống hiến cho rất nhiều người.
Thế còn ngày lễ Cầu Cho Các Tín hữu đã Qua Đời, hay là lễ Các Đẳng Linh Hồn nơi Luyện Tội hôm nay thì sao, nó có ý nghĩa gì? – Nếu lấy ơn cứu độ của Chúa làm trọng tâm thì ngày này chính là để mời gọi ta nhìn vào sự đón nhận của mỗi chúng ta. Nếu đã mừng lòng từ ái Chúa trải rộng bao la tới hết mọi người và từng người không trừ một ai, thời ta càng có lý do để thôi thúc, để mong mỏi mỗi người và mọi người nhận biết và đón lấy tình yêu thương xót này với tất cả cõi lòng mình. Than ôi, thực tế đã không được như vậy! Ngay cả trong số những con người được coi là tốt lành thánh thiện nhất (kể cả nhiều vị chức sắc trong Giáo hội), đã mấy người biết ném mình trọn vẹn trong vòng tay nhân ái của Cha? Chúa không đòi chúng ta phải hoàn toàn sạch mọi tội… để được vào thiên quốc như nhiều người vẫn lầm tưởng, điều duy nhất Người mong đợi là hãy hết lòng đón nhận ơn tha thứ vô điều kiện của Người, như trường hợp tên cướp cùng bị đóng đinh trên thập giá. Ấy vậy mà mấy người trong chúng ta đã biết làm điều này cách nghiêm túc và triệt để? Ta vẫn chẳng mơ ước được sạch tội hơn là đón lấy lòng thương xót hài hà của Chúa là gì! Do đó ta vẫn nghĩ là luyện ngục sẽ là nơi các ‘tín hữu’ đã qua đời phải chịu thanh luyện, hơn là chốn niềm khao khát lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa được nung nấu. Đền tội, xóa tội hay đón nhận cách triệt để ơn cứu độ thứ tha, điều nào quan trọng hơn? Do đó không thể có việc cầu nguyện cho các đẳng linh hồn bằng công nghiệp của riêng mình hay của Hội Thánh đi nữa, nhưng chỉ có thể bằng gia tăng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa với thái độ khiêm nhu. Thánh Lễ chính là giờ phút tốt nhất để chúng ta cùng nhau cử hành việc đón nhận này, chúng ta – những tín hữu còn sống cùng với các đẳng linh hồn đã qua đời, đồng cử hành ơn cứu độ của Thập Giá Đức Ki-tô.
Lạy Chúa, con tin vào sức mạnh phi thường của tình yêu thương xót Chúa qua việc mừng kính các thánh. Con ca ngợi Con Chiên Sát Tế đã mở ấn niêm phong để mọi người có thể tới giặt và tẩy áo mình trong máu Chiên. Con cậy trông lòng từ ái Chúa sẽ mạnh hơn cả sự cứng cỏi của con và của nhiều tín hữu đã qua đời, và do đó con khiêm tốn phó thác các linh hồn ấy cho lòng thương xót vô bờ của Chúa. A-men.