"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Dothái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Dothái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được ?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". - Ðó là Lời Chúa.
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao ? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu ?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". - Ðó là Lời Chúa.
"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa". - Ðó là Lời Chúa.
“Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa."(Mc 15:37-39)
Sự Chết
Thiên Chúa cho con người được có sự sống và hiện hữu trên thế gian. Đây là một hồng ân vô: 2/11-51
Thiên Chúa cho con người được có sự sống và hiện hữu trên thế gian. Đây là một hồng ân vô cùng cao quý. Mỗi người chúng ta được mở mắt chào đời và được đồng hành với nhân loại trong một khoảng thời gian và không gian. Không một thụ tạo nào được sống mãi. Có sinh thì có tử. Có lúc bắt đầu rồi sẽ có lúc kết thúc. Chúng ta không đi ra ngoài quy luật tự nhiên này. Chúng ta không thể bám víu vào cái thế giới hay thay đổi và sẽ qua đi này. Vũ trụ chung quanh luôn thay đổi, mọi loài thụ tạo cũng thay đổi không ngừng. Muôn vật đều xuôi theo một dòng chảy. Sự sống này nối tiếp sự sống khác. Thiên Chúa đã sắp đặt thời gian cho mỗi loại thụ tạo. Con người chúng ta được chia sẻ sự sống từ chính Thiên Chúa. Ngài chính là nguồn của mọi sự sống. Sự sống truyền sinh sự sống. Sự sống của nguyên tổ được nối kết từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự sống là một dây chuyền không ngừng nghỉ. Sự sống sẽ không chết nhưng con người sẽ chết. Chúng ta đi vào đời với thân xác vật chất này, rồi sẽ có ngày chúng ta ra đi và thân xác sẽ tan biến. Chúng ta ai cũng muốn sống và sống lâu, nhưng ước muốn sống đời đó chỉ có trong cõi đời sau.
Truyện kể có một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ông ném bó củi xuống đất và than vãn: Cuộc sống cơ cực quá, tôi không chịu nổi nữa rồi. Ước gì thần chết rước tôi đi. Vừa nói xong, thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều chi? Ông già kinh sợ nói: Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai được không? Đôi khi chúng ta nguyền rủa cuộc đời vì sự lam lũ, khổ cực và bất công nhưng chúng ta vẫn muốn sống. Vì sự sống là một món qùa. Món qùa chỉ riêng cho chúng ta. Mỗi con người có một định mệnh và số vận riêng, không có ai giống ai. Bởi thế, đừng khi nào chúng ta so sánh hơn thiệt trong sự sống với người khác.
Giờ Nào Ngày Nào
Con người bắt đầu được hiện hữu là một ân huệ. Chúng ta biết không phải mọi sự sống đã bắt đầu đều được sinh ra và nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Có hàng triệu triệu thai nhi bị giết chết ngay khi còn trong trứng nước trong cung lòng của người mẹ. Sự sống mới khởi đầu nhưng đã bị tiêu diệt, thật là không may mắn. Có những người được sinh ra, lớn lên và sống một cuộc đời dài trên 100 năm. Thí dụ: Ông cụ Shigechiyo Izumi người Nhật sống tới 120 tuổi 237 ngày hay bà cụ Jeanne Calment người Pháp sống tới 122 tuổi 164 ngày. Dù con người có hiện hữu một giây một phút hay 120 năm, so với đời đời thì cũng chẳng là chi. Thiên Chúa hằng hữu đời đời, Chúa muốn chia phần sự sống với các loài thụ tạo, đặc biệt với con người. Như thế chúng ta hãy quý trọng từng giây, từng phút Chúa ban cho để sống trọn vẹn kiếp người. Không ai có quyền trên sự sống của con người, chỉ mình Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành. Con người không làm nên sự sống mà chỉ nhận lãnh và cộng tác với Thiên Chúa trong tiến trình hình thành và phát triển.Tác giả sách Xuất Hành đã ghi rõ: Ai xúc phạm đến sự sống của người khác, họ có lỗi trước mặt Thiên Chúa. Ai đánh cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết. Ai bắt cóc người, dù đã bán đi hay còn giữ trong tay, thì phải bị giết chết. Kẻ nào nguyền rủa cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết (Xh 21:15-17).
La Fontaine kể chuyện ngụ ngôn: Một ông cụ già đang cuốc đất trồng cây. Chợt có ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói: Cụ lẩm cẩm quá, già rồi còn trồng cây gì nữa. Thôi cụ ơi, việc đó để cho tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa. Ông cụ trả lời: Chắc gì lão chết trước và chắc gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu chứ! Trẻ và già không khác chi nhau về truyện sự chết. Thời gian sau, ba cậu vì công việc, kẻ đi lính, người đi kinh doanh và kẻ lái xe hàng. Cả ba đều chết cả hoặc vì ngộ nạn hoặc chết trận. Cụ già buồn và khóc thương ba người bạn trẻ.
Sẵn Sàng
Ông Job trong đau khổ đã thốt lên: Quả thật, con biết Ngài bắt con quay về cõi chết, về nhà hội ngộ của tất cả nhân sinh (Job 30:23). Sự chết đến thật bất ngờ, mấy ai biết chắc chắn giờ mình sẽ ra khỏi thế gian. Trong lịch sử nhân loại, chúng ta nhận biết rằng mỗi người có sự chết khác nhau. Có khi chết riêng mình vì già nua, bệnh hoạn hay tai nạn hoặc bị giết. Có những cuộc chết đồng loạt qua những tai ương của thiên nhiên hoặc do chiến tranh con người gây nên. Nhìn qua vài biến cố xảy ra chung quanh chúng ta, chúng ta hiểu được ý nghĩa của sự sống. Trong 20 năm qua đã có 43 cuộc động đất, mỗi cuộc động đất đã chết đi nhiều người. Những trận động đất lớn đã gây thiệt hại vô kể về của cải, nhà cửa và nhân mạng: Ngày 20 tháng 6, 1990, một trận động đất, địa chấn 7.4 tại Iran có 50,000 người chết. Ngày 17 tháng 8, 1999 trận động đất tại Turkey, địa chấn 7.6 có 17,118 người chết. Ngày 26 tháng 1, 2001, động đất ở Peru có 20,023 người tử thương. Ngày 26 tháng 12, 2003 động đất tại Miền Nam Iran, số tử vong là 31,000 người. Ngày 26 tháng 12, 2004 động đất và sóng thần cướp đi 227,898 tại Sumatra. Ngày 8 tháng 10 năm 2005, cuộc động đất tại Pakistan có 80,361 người chết. Ngày 12 tháng 5, năm 2008 động đất tại Sichun, Trung Quốc, có 87,587 người chết. Ngày 12 tháng 1, 2010 động đất tại Haiti có trên 50 ngàn người đã ra đi.
Trên đây là một vài con số tiêu biểu của những biến cố mà con người ra đi đồng loạt không được chuẩn bị. Chúng ta nên biết rằng luật sinh tồn và chuyển động của thiên nhiên vẫn tiếp diễn. Các nhà khoa học có thể học biết được phần nào sự diễn tiến trong thiên nhiên nhưng tất cả các cuộc động đất đã xảy ra đều là những biến cố bất ngờ. Nên chúng ta luôn trong tư thế tỉnh thức
Truyện kể rằng có một binh sĩ người Pháp bị trọng thương nằm điều trị trong quân y viện. Anh ta càng ngày càng kiệt sức. Một đêm kia viên y tá trực phòng anh đang mơ màng ngủ gật, bỗng nghe anh lính hét lên: Có tôi đây. Không hiểu gì, người trực ban đến bên giường người hấp hối hỏi: Anh muốn gì? Anh trả lời: Tôi không muốn chi hết. Nhưng tôi nghe trên trời có tiếng điểm danh, thiên thần kêu tới tên của tôi, tôi liền thưa: Có tôi đây. Sau đó, anh đã thở hắt ra và trút linh hồn.
Sinh Ký Tử Quy
Ai trong chúng ta cũng đã chứng kiến những cảnh chết chóc trong gia đình hoặc những người chung quanh. Sự chết có ý nghĩa gì đối với những người còn sống. Người chết đã chết, nhắm mắt xuôi tay, không thể làm gì được nữa. Cuộc đời tạm này kể là chấm dứt. Nhưng sự chết đó ảnh hưởng đến nhiều người khác. Đối với người sống, người đã chết càng thân, càng gần thì càng cảm thấy đau đớn như cắt da cắt thịt. Nỗi đau thứ nhất là sự chia cắt giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, ông bà, chú bác, cô dì và những người thân. Thứ đến là chia cắt sống chết giữa mối quan hệ tình cảm và tương quan mà chúng ta đã cùng sống và cùng chia xẻ trong hành trình. Thứ ba là sự mất mát đáng buồn của những người đã ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta. Thật vậy, có nhiều người chết nằm đó nhưng chúng ta không có những cảm thương giống nhau. Sự thương nhớ và đau buồn còn tùy thuộc vào mức độ liên hệ tình cảm và sự thân thích. Nhưng sự chết nào cũng là sự mất mát và trống vắng trong gia đình. Vợ mất chồng, chồng mất vợ, con cái mất cha mẹ, cha mẹ mất đi con cái, anh chị em mất nhau, đây là nỗi đau. Thường chúng ta thấy nơi những vòng hoa phúng điếu ghi lại những tâm tình thương nhớ và đau buồn: Vô Cùng Thương Tiếc, Thành Kính Phân Ưu hay Nhớ Thương Mãi Mãi…
Người sống khi sống muốn gần bên nhau, khi chết cũng muốn được chôn cất cạnh bên. Có biết bao nhiêu vợ chồng đã sắm sẵn cho mình những chiếc mộ đôi để được bên nhau đời này và đời sau. Bà Ruth ngày xưa cũng đã có tư tưởng ở bên nhau khi mãn phần: Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất. Xin Chúa phạt con thế này và thêm thế kia nữa, nếu con lìa xa mẹ mà không phải vì cái chết! "(Ruth 1:17).
Trong một xứ nọ, có một thiếu nữ đau bệnh nặng. Theo lời bác sĩ, bệnh tình của cô không thể chữa trị vì cô bị sưng màng óc tới kỳ cuối. Sau khi sốt sắng đón nhận các bí tích cuối cùng, cô đã trả lời một cách tuyệt diệu như sau với cha xứ khi cha hỏi cô còn ước ao gì? Cô thưa: Con muốn đau đớn nhiều hơn rồi chết. Cô thường lập đi lập lại ước muốn này. Một ngày kia người bạn của cô gợi những ý tưởng đạo đức về cái chết, cô nói: Tôi còn muốn chịu đau đớn nhiều hơn nữa để bù lại các tội lỗi tôi đã phạm và rồi chết liền để tránh khỏi phạm thêm những tội mới. Và sau những cơn đau đớn khủng khiếp, cô đã tắt thở cách nhẹ nhàng và ra đi bình an.
Luôn Tỉnh Thức
Chết không phải là hết mà là qua đời. Qua đời này tới đời kia. Truyện kể có một cha xứ sống với một giáo xứ đồng quê. Ngài đã giữ lại tất cả các thống kê lý lịch và chi tiết của mỗi người trong xứ đạo. Để thuyết phục có sự sống đời đời sau khi người ta chết như lời Chúa Giêsu đã hứa. Trong sổ ghi danh, mỗi khi có người trong xứ qua đời, ngài đã không xóa tên khỏi sổ. Ngài chỉ đơn giản ghi chú “đổi địa chỉ”. Đã chuyển sống một nơi khác. Những người thân ra đi, họ không biến mất nhưng là đi trước chúng ta. Chúng ta không còn phải nhìn cái chết như sự tận diệt mà là một con đường mới dẫn chúng ta về nhà Cha của chúng ta. Tổ phụ Isaác cũng không có luật trừ. Ông biết ngày giờ ông sẽ phải ra đi. Sách Sáng Thế Ký diễn tả: Ông Isaác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông bèn gọi Êxau, con trai lớn của ông, ông nói: "Con ơi!" Cậu thưa: "Dạ, con đây." Ông nói: "Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào (Stk 27:1-2).
Sự sẵn sàng tỉnh thức luôn là mời gọi khẩn thiết cho mọi người. Sự chết không trừ một ai, già trẻ lớn bé, khỏe mạnh hay bệnh họan. Mỗi người đều có thể đối diện với cái chết bất cứ khi nào.
Truyện kể về cậu Berchman đang hăng say chơi banh với chúng bạn. Cha xứ tiến đến hỏi các cậu: Nếu một giờ nữa Chúa đến gọi chúng con ra khỏi thế gian, chúng con sẽ làm gì bây giờ. Một cậu thưa: Con sẽ chạy về nhà xin lỗi mẹ con, vì con đi đá banh mà không xin phép mẹ. Cậu khác nói rằng: Con sẽ chạy vào nhà thờ cầu nguyện và xin cha giải tội. Đến lượt Gioan Berchman nói: Con sẽ cứ tiếp tục chơi banh cho tới khi Chúa đến gọi con. Mọi việc trong ngày con đã hoàn tất và giờ này là giờ chơi banh của con.
Ra Đi Một Mình.
Chết là một chuyến đi xa nhất, không ai có kinh nghiệm về sự chết. Ra đi không bao giờ trở lại. Chuyến đi xa nhất mà cũng cô đơn nhất. Ra đi một mình và để lại đàng sau tất cả gia đình, con cháu, người thân thuộc và để lại tất cả của cải mà mình đã nỗ lực gom nhặt từng ngày. Chết là một chia ly phũ phàng nhất trong các lọai chia ly. Vì thế, ít người dám nghĩ đến hay nói đến cái chết và hầu như ai cũng tìm cách tránh né về cái chết. Chấp nhận cái chết hay không, mỗi người đều phải đối diện hằng ngày. Cái chết vẫn xảy ra hằng ngày và gặp gỡ từng người. Ai có thể nói rằng tôi sẽ sống tới ngày mai. Chúng ta không biết cái gì sẽ xảy ra trong giây phút tới. Hãy phó thác đời mình trong sự quan phòng của Chúa. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta có can đảm đón nhận và chuẩn bị cái chết xứng đáng không? Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phúc Sinh, chúng ta đã chứng kiến biết bao những anh hùng dám chấp nhận cái chết để làm chứng niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Các Đấng Tử Đạo đã oai phong anh dũng chấp nhận cái chết vì Nước trời. Như thế, các Ngài đâu có sợ cái chết.
Ở Thành Strasbourg bên Nước Đức, hiện có một chiếc đồng hồ vĩ đại cổ thời đặt trên một tháp cao. Đồng hồ được kiến trúc một cách thần kỳ. Cứ 15 phút thì xuất hiện trên mặt số một cậu bé gõ chuông. 30 phút thì xuất hiện một thanh niên. 45 phút xuất hiện một cụ già ra gõ chuông và đúng 1 giờ thì thần chết xuất hiện gõ chuông. Đúng 12 giờ đêm, Chúa Giêsu và các Tông đồ lần lượt xuất hiện để phán xét. Thời gian nhắc nhở cho mỗi người chúng ta, thời gian là món qùa vô giá. Chúng ta hãy sống và sống cho có ý nghĩa từng phút giây trong đời. Chúng ta đừng hoang phí thời gian Chúa ban mà không sinh hoa quả.
Chuẩn Bị Hành Trình
Chúng ta được sinh ra làm người và được làm con Chúa, đây là một hạnh phúc tuyệt vời. Qua niềm tin, chúng ta được nhận biết rõ về ý nghĩa của cuộc đời. Sống ở đời là để nhận biết Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã tạo dựng muôn loài. Sống để yêu thương anh chị em đồng loại và xây dựng một xã hội tốt đẹp để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời. Đây là mục đích tối quan trọng cho mỗi một thành viên trong cộng đoàn nhân lọai. Chúng ta không thể ích kỷ tìm danh lợi hay thu góp của cải cho riêng mình mà phải biết chia sẻ cho nhau. Lời lãi được cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích chi, thánh Luca nhắc nhở chúng ta: Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? (Lc 9:25).
Chúng ta cần có thái độ khôn ngoan thật, sự khôn ngoan trong Chúa Thánh Thần. Truyện kể một ông vua tự cho mình là người khôn ngoan. Vua thường chễ diễu những người ngu đần khờ dại. Nhà vua hay nhạo cười và diễu cợt người khác. Một ngày kia, vua trao cho anh khờ một chiếc gậy. Vua nói: Hãy cầm lấy chiếc gậy này cho tới khi anh tìm ra được một người ngu dại hơn anh. Năm tháng trôi qua, Vua chuẩn bị băng hà. Gia đình, quan quyền, chức sắc, đầy tớ và anh khờ cũng đứng xung quanh giường của vua. Vua nói: Trẫm gọi mọi người đến để chia tay, trẫm sẽ phải ra đi vĩnh viễn. Trẫm đã đi một hành trình dài và trẫm sẽ không trở lại nữa. Anh khờ bước tới và nói: Thưa Hoàng Đế, xin hỏi một câu trước khi vua ra đi. Trong quá khứ, bất cứ nơi nào vua muốn đến, vua đã sai tới các cận vệ và lính tráng để chuẩn bị cho chuyến du hành. Tôi có thể hỏi: Vua đã sẵn sàng chuẩn bị cho chuyến du hành cuối cùng này chưa. Vua trả lời: Alas, trẫm chưa chuẩn bị chi cả. Rồi anh khờ nói: Vua hãy cầm lấy cây gậy này, cuối cùng tôi đã tìm được người ngu đần và dại khờ hơn chính tôi. Ông vua cho mình là khôn ngoan một đời, nhưng thật dại khờ khi đối diện với tử thần. Thánh Matthew đã viết: Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? (Mt 16:26).
Tâm Niệm
Lạy Chúa, từ ngàn đời Chúa đã yêu thương chúng con. Chúa đã cho chúng con được sinh vào đời và được nhận biết Chúa là Cha yêu thương. Xin Chúa dẫn dắt chúng con trong cuộc hành trình về nhà Chúa. Đừng để chúng con bị lạc buớc trên đường đời. Chỉ có Chúa là cùng đích và ý nghĩa cuộc sống của chúng con. Chúng con chọn làm tôi tớ của Chúa, chúng con sẽ có tất cả. Dù sự sống hay sự chết, xin đừng khi nào tách biệt chúng con ra khỏi tình yêu của Chúa. Xin Chúa chúc lành cho đời sống chúng con.
Trong đời sống mỗi người chúng ta, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những : 2/11-52
Trong đời sống mỗi người chúng ta, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hòa đồng giữa anh chị em ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
Nếu đạo hiếu của người sống đối với người chết chỉ là đi viếng nghĩa trang, chỉ là tu sửa lại những nấm mồ cao thấp, chỉ là tổ chức đám ma đông người đi đưa, nhiều cha đồng tế, những đám giỗ linh đình náo nhiệt thì thực sự những cái đó, nó mong manh hời hợt biết bao ! Vì sau những buổi lễ lạc linh đình đó, hoặc ngay cả lúc những nghi thức ấy đang diễn ra, thì những xác người chết vô tri cứng lạnh nằm trong áo quan, hay tăm tối trong những nấm mồ sâu dưới lòng đất, những người ấy có nhận được gì không ? Còn linh hồn của những vị ấy, nếu vui thỏa được bằng những nghi thức nghèo nàn trần tục kia, thì thử hỏi cõi thiên đàng cao sang, hoặc chốn thẳm sâu địa ngục, còn có nghĩa gì đối với chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Kitô hôm nay ?
Khi người chết nằm xuống rồi, thì linh hồn người ấy đi vào một cõi khác, một cõi vô cùng bí nhiệm, một cõi mà không một ai ở trần gian này biết được nó ở đâu ? Không biết nó sinh hoạt thế nào ? Việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Không phải tốt cho người đã chết, mà là tốt cho người đang sống là chúng ta. Để từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Và để cho chúng ta, những người đang nhởn nhơ vui sống, thấy rằng cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là chỗ này đây : ba tấc đất sâu, và một nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Để trong tháng các linh hồn này, mỗi con người dù là Đức Giáo Hoàng hay vua chúa, linh mục hay giáo dân, dù giàu sang của chìm của nổi hay nghèo nàn mạt rệp, dù danh vọng chức tước đạo đời đầy mình hay chỉ là tên vô danh tiểu tốt,… tất cả cùng có dịp hồi tâm lại. Những nấm mồ, những hũ đựng hài cốt nhắc nhở ta đừng bám víu, bám chặt lấy những cái bồng bềnh trôi nổi nay còn mai mất của thế gian, như tiền của, danh vọng, chức quyền. Mỗi người hãy coi sự sống vĩnh cửu vô cùng vô tận mới là cùng đích của cuộc đời. Cuộc sống mà dù muốn hay không, mọi người đều phải đi vào cõi đó, “một cõi đi về”! Cuộc sống thật ấy chỉ bắt đầu từ cõi đó, với hai bàn tay trắng và một thân xác trần truồng ai cũng như ai. Thánh Phaolô quả quyết: “Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn, áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. Còn những kẻ muốn làm giầu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người đắm chìm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1Tm 6,7-10)
Sống và chết là hai ngả vô cùng cách biệt. Người sống không thể liên lạc với người chết bằng bát cơm quả trứng, hay bằng nén nhang khói tỏa nghi ngút, hoặc ngay cả bằng những bài kinh nỉ non thảm thiết dài lê thê, mà người đọc cứ lập đi lập lại trong những giờ kinh giỗ buồn chán.
Chúng ta những người đang sống chỉ liên lạc được với những người hôm nay đang ở cõi đời đời, nơi một con người thôi. Con người ấy đang nắm trong tay tất cả thời gian, không gian, tất cả vận mạng kẻ sống cũng như người chết. Con người đó là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng Phục Sinh. Chỉ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng cầm chìa khóa sự chết, mọi người mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống tạm bợ mau qua hôm nay, và bí nhiệm của cuộc sống vĩnh cửu ngày mai. Chỉ nơi thập giá cứu chuộc của Chúa chúng ta, nơi trái tim yêu thương của Thiên Chúa mở ra, mọi người có mặt ở trần gian, từ Ađam cho đến người cuối cùng trên trái đất này, mới thấy được rằng : sự chết từng là cái án khủng khiếp cho hết mọi người, thì hôm nay lại là nguồn an ủi vô biên cho những kẻ tin vào Đức Giêsu Kitô, vì xác tín rằng : nấm mồ không phải là chung cuộc cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Vì Đức Giêsu Kitô đã phục sinh. Ngài đã đặt sự chết dưới bệ chân của Ngài, thì những ai đang sống trong sự sống của Đức Giêsu hôm nay là những kẻ sẽ không phải chết bao giờ nữa. “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết.” Chính Đức Giêsu Kitô đã bảo đảm với những kẻ yêu mến Ngài như vậy.
Chỉ những gì liên kết trong một thân mình thì mới thông hiệp được với nhau. Bàn tay phải muốn cảm thông nỗi đau của bàn tay trái thì hai bàn tay đó cần phải dính liền vào trong một thân thể. Cũng vậy, người tín hữu còn sống muốn hiệp thông với người tín hữu đã chết, thì cả hai đều phải là chi thể của một thân mình – thân mình Đức Giêsu Kitô. Khi Ngài thương xót những người đang sống ở trần gian bị lao đao dằn vặt bởi tội lỗi và muôn ngàn thứ đau khổ, thì cùng một lúc lòng thương xót ấy lan ra khắp thân mình Ngài, thấm vào kẻ sống thì cũng thấm vào người chết đang là chi thể của Ngài. Lúc ấy hai người ở hai thế giới cách biệt muôn ngàn trùng mới hiệp thông được với nhau, mới biết thương nhau, và khi thương nhau thì ngày đêm mới tha thiết nhớ cầu nguyện cho những người đã nằm xuống.
Những người dù là có đạo, mà trong cuộc sống hôm nay, sống ngoài Đức Giêsu như kẻ vô đạo, thì đừng hòng nói là thương xót các linh hồn nơi luyện tội, vì nơi bản thân họ không có lòng trắc ẩn với những người đau khổ đang sống quanh họ, thì làm sao mà họ có được khả năng hiệp thông với kẻ đã chết, hiện đang ở cõi thiêng liêng vô hình?
Bởi thế trong ngày lễ cầu cho các linh hồn, Hội Thánh đòi buộc những ai muốn lãnh ơn đại xá, phải xưng tội rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, nghĩa là người đó phải ở trong Đức Giêsu Kitô và ở trong Hội Thánh của Ngài. Có đủ điều kiện ấy, thì người đó đã trở thành chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô và lời cầu nguyện của họ cho những người đã khuất mới có giá trị.
Chúng ta là những Kitô hữu, và hơn nữa chúng ta còn là những người bạn thân thiết của trái tim Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta không được nghĩ rằng : tôi cứ lo kiếm sao cho có nhiều tiền rồi ngày giỗ ngày tết, tôi rải tiền ra xin lễ cho nhiều để ông bà cha mẹ anh em tôi mau được lên thiên đàng. Ngoài ra tôi muốn sống sao thì sống, tôi không quan tâm gì đến ai. Nếu nghĩ và làm như vậy là xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa, bởi vì coi rẻ tình thương của Đức Giêsu Kitô. Nếu như ta không có khả năng xin lễ, hay có ai bỏ quên ông bà cha mẹ, thì chính Chúa sẽ bù đắp tất cả bằng lòng thương vô biên của Ngài, Đấng phục sinh.
Trong tháng các linh hồn, mỗi người hãy tha thiết nài xin Đức Giêsu làm cho tâm hồn chúng ta được say mê yêu mến trái tim Ngài. Xin Ngài làm cho trái tim chúng ta trở nên mềm dịu để mở ra đón nhận tình yêu lạ lùng ấy. Lúc ấy con người chúng ta sẽ đổi mới không phải hời hợt bên ngoài như thay một màu áo, đổi một đôi giày, mà thay đổi từ sâu thẳm bên trong tâm hồn bằng sức mạnh của Thánh Thần. Lúc ấy một sinh khí mới của lòng mến sẽ bùng lên, chúng ta sẽ luôn sống hiệp thông được với những người đã khuất và liên kết trong tình huynh đệ với những người đang sống, bởi vì chúng ta đầy Thần khí Đức Giêsu Kitô.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin Chúa cho chúng con nhận biết mình là những tạo vật có cuộc sống mong manh nay còn mai mất để chúng con biết luôn luôn cậy nhờ vào sức mạnh của tình yêu nơi trái tim Chúa trong đời sống hàng ngày của chúng con. Xin cho chúng con được hiệp thông với những người đã qua đi bằng cách biết yêu thương những người đang sống với chúng con trong đời sống hôm nay, và chính nhờ tình yêu Chúa trong chúng con mà biết yêu mến những người đã ra đi trước. Chúng con yêu mến các linh hồn ấy bằng lời cầu nguyện, bằng Thánh lễ và bằng mọi việc yêu thưong bác ái hằng ngày trong sự kết hợp với Chúa Giêsu Kitô chứ không phải trong bản chất yếu đuối của chúng con. Amen
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện xảy ra giữa Đức Giêsu và hai tên gian: 2/11-53
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện xảy ra giữa Đức Giêsu và hai tên gian phi khi Người bị treo trên thập giá. Ngược trở lại, chúng ta biết rằng trước khi có cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và hai kẻ cùng bị đóng đinh với Người, thì nhóm Kỳ mục, một thành phần của thượng hội đồng Do Thái, đã nhạo báng Đức Giêsu rằng : “Mi là kẻ phá được đền thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào !” (Mt 27,40). Kẻ khác còn thêm : “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu hắn thật là Đấng Kitô của Thiên Chúa !” (Lc 23,35). Đồng thời, bọn lính tráng cũng hùa theo mà chế giễu : “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi !” (Lc 23,37).
Tuy nhiên, trước thái độ bất kính và lăng nhục đó, Đức Giêsu không những không oán trách họ, mà còn tỏ ra thông cảm cho sự vô tri mù tối đó, và hơn thế nữa, Người còn nài xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ làm khốn mình : “Lạy Cha, xin tha tội cho họ, vì họ không biết việc họ làm !” (Lc 23,34).
Tiếp theo đó là những diễn biến mà chúng ta đọc thấy trong bài Tin Mừng hôm nay : một trong hai tên gian phi cùng bị treo trên thập giá với Đức Giêsu hôm ấy cũng tiếp tục nhạo báng Người rằng : “Ông không phải là Đấng Kitô sao ? Hãy tự cứu mình và cứu cả chúng tôi với !” (Lc 23,39). Rõ ràng anh này là người Do Thái, nên anh đã hiểu Đấng Kitô như nhóm Kỳ mục đã hiểu, tức là yêu cầu Đức Giêsu bày tỏ tính Mêsia của Người bằng cách tự ban cho mình được thụ hưởng ân huệ tối hảo của Đấng Mêsia. Đồng thời, anh cũng yêu cầu Đức Giêsu cứu anh ta khỏi hình phạt mà anh ta đáng phải nhận do tội lỗi của mình gây ra. Như vậy, một cách nào đó, anh ta đã phủ nhận tội lỗi của mình và không biết ăn năn, sám hối.
Ngược lại với anh gian phi thứ nhất, anh gian phi thứ hai có thái độ hoàn toàn khác với nhóm Kỳ mục, các lính tráng và cũng khác ngay cả với anh bạn đồng nghiệp của mình. Nếu trước đây khi làm điều bất chính thì lương tri anh mù tối, nhưng nay trong giờ phúc lâm chung, anh lại tỏ ra sáng suốt và biết cậy trông vững vàng hơn. Anh đã ý thức và nhìn nhận tội lỗi của mình, đã kịp nghĩ lại và đánh giá đúng về mình, chấp nhận hình phạt do tội lỗi của mình gây ra và kính sợ Thiên Chúa : “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm” (Lc 23,41). Điều đó đã nói lên lòng thống hối của anh. Đồng thời, anh đã một lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, Đấng vô tội đã phải chịu cực hình với mình là kẻ có tội : “Khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Khi nói lên điều ấy, anh đã thực sự tin vào điều được ghi ở tấm bảng trên đầu Đức Giêsu : “Đây là vua người Do Thái” (Lc 23,38). Như vậy là mặc nhiên anh đã tuyên xưng Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia, là Đấng cứu độ, và đồng thời anh cũng đứng vào hàng ngũ những “chứng nhân” cho sự vô tội của Người. Vì thế, lời thỉnh cầu của anh đã được Đức Giêsu chấp nhận. Người khẳng định với anh : “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43). Về điều này, Thánh Gioan cũng đã khẳng định lại trong thư thứ nhất của Ngài như sau : “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.” (1Ga 1,9).
Quả thật, Chúa không bao giờ chấp tội vô tri của con người. Vì Chúa là Đấng yêu thương ta, đã thí cả mạng sống mình mà cứu chuộc chúng ta, nên Người không muốn cho một ai phải hư mất, chỉ trừ những ai cố chấp mà tách rời mình ra khỏi tình yêu của Chúa mà thôi (Mt 18,14 ; Ga 17,12) .Chúa cũng chẳng bao giờ có thành kiến với bất kỳ ai, bằng chứng là đã đón nhận một người có quá khứ tội lỗi như anh trộm lành trong bài Tin mừng hôm nay, khi anh ta biết ăn năn trở lại. Với Chúa, dù con người có tội lỗi đến đâu, nhưng nếu đừng cố chấp, mà phải có lòng phục thiện, phải biết ăn năn sám hối và tin tưởng, đồng thời cậy trông vào tình yêu của Chúa, thì dù cho sự quay trở về này có diễn ra vào giờ phút chót của cuộc đời chăng nữa, Người vẫn chấp nhận và sẽ cứu độ chúng ta, vì “ ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5,20), và bởi vì Người đến cũng chính là “để cứu những gì đã hư mất” (Mt 18,11), những người tội lỗi (1Tm 1,15).
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết nhận thức đúng đắn về mình, biết mình là kẻ tội lỗi, để từ đó biết ăn năn sám hối, đồng thời thấy được lòng nhân ái của Chúa mà an lòng và kêu xin Người nhớ đến, xin Người thứ tha lỗi lầm như lời kêu gọi của Thánh Phao lô : “ Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.” (Cv 3,19) Để trong giờ phút lâm chung của đời mình, chúng ta được hưởng cùng một lời hứa của Đức Giêsu như Người đã hứa với anh trộm lành khi xưa : “Hôm nay sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Hằng năm, chúng ta thường dành những ngày tưởng nhớ cầu nguyện cho người thân thuộc, người: 2/11-54
Hằng năm, chúng ta thường dành những ngày tưởng nhớ cầu nguyện cho người thân thuộc, người làm ơn cho đời ta khi xưa, mà nay đã khuất núi trở về đời sau.
Nhớ đến người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian là cách sống đạo đức.
Cách sống này nói lên lòng biết ơn với người đã qúa cố.
Và lối sống tình người này cũng nói lên tâm tình lòng liên đới giữa con người với nhau: „ Ông Bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cháu, bạn bè, người cùng lý tưởng, người quen thân, người làm ơn…dù đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian, nhưng tinh thần cùng hình ảnh, lời nói cử chỉ và việc làm gương sáng… của họ vẫn hằng luôn sống động trong tâm tưởng người còn đang sống trên trần gian. Nhớ về họ với tâm tình lòng biết ơn và lòng ngưỡng phục!“
Tâm tình lòng biết ơn người qúa cố biểu lộ cung cách sống làm người, như Perikles, một chính trị gia Hylạp sống vào năm 429 trước Chúa giáng sinh, đã có suy tư: „Một dân tộc được đánh gía theo như cung cách họ đối xử với người qúa cố“.
Chúng ta có thể, từ suy tư đó, nói lên được rằng: „Một con người được đánh gía cũng tùy theo như cung cách người đó sống đối xử với thân nhân đã qua đời!“
1.Hai cảnh sống
Lối sống đạo đức lòng hiếu thảo với người qua cố nói lên lòng tin: người còn sống cũng như người đã qua đời hằng cùng liên kết với nhau.
Trong đời sống, hai cảnh tượng sống và chết thường diễn ra song song với nhau. Tham dự một đám tang sẽ thấy rõ điều này hơn.
Một bên đường, cảnh những người hối hả đi làm ăn sinh sống. Họ bận rộn suy nghĩ, hay có khi cười nói chuyện với nhau, trao đổi cung cách cùng về kinh nghiệm trong việc sinh sống làm ăn.
Một hình ảnh về sức sống đang phát triển vươn lên. Hình ảnh của sự sống.
Một bên đường đối diện, đoàn người đưa rước người qúa cố đến nơi an nghỉ ngàn thu trở về lòng đất mẹ. Đoàn người đưa rước đó trong đau thương buồn bã, hay trong dòng nước mắt im lặng cúi đầu theo sau cỗ áo quan bao bọc người qúa cố.
Một hình ảnh về mất mát, về lòng thương cảm tình người. Hình ảnh về sự chết.
Và hai hình ảnh cảnh sống đan bện vào nhau còn diễn tả điều gì còn ẩn chứa thâm sâu hơn nữa: Lòng tin!
2. Hình ảnh lòng tin
Hai hình ảnh đó cũng là hình ảnh của ngày giỗ kỉ niệm người đã qúa vãng, ngày nhớ đến những người qúa cố như ngày 02.11. hằng năm: Người còn sống thăm viếng nhớ về người đã qua đời.
Vào những ngày đó, hay ở nơi chốn phần mộ, chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu trong niềm tin.
Chúa Giêsu, người đã qua đời nằm chôn sâu trong nầm mồ, cũng như người còn đang sống gặp gỡ nhau qua lời kinh cầu nguyện, qua hành động thương cảm cùng Lời nói của Ngài còn để lại trong Kinh Thánh, qua biểu tượng cây Thánh gía và sự phục sinh sống lại của Ngài.
Triên Tri Elisa, vị Ngôn sứ của Thiên Chúa ngày xưa gặp một bà góa nghèo. Bà góa này tiếp rước Tiên Tri về nhà như một người khách của Thiên Chúa. Một ngày khác, con trai bà qua đời. Tiên Tri Elija hay tin đau buồn này. Ông đến chia buồn cùng cầu nguyện với. Và xin Thiên Chúa làm phép lạ ban cho cậu con trai đã chết được sống lại. ( 2 Các Vua 4,8-37)
Thiên Chúa đã nhậm lời. Người mẹ góa bụa có lại người con trai được sống trở lại với mình.
Chúa Giêsu dọc đường đi rao giảng về nước Thiên Chúa cũng đã gặp bà góa thành Nain và đoàn người đưa con trai bà đã qua đời ra nghĩa trang. Động lòng thương cảm, Ngài dừng lại sờ vào cỗ áo quan và gọi người chết sống trở lại: Này anh, hãy chỗi dậy“ ( Lc 7,14).
Phép lạ đã xảy ra. Người mẹ góa bụa có lại người con trai được sống trở lại với mình.
Mỗi khi dâng Thánh lễ cầu nguyện cho người đã qua đời, hay ra thăm viếng phần mộ, lòng tin nói với ta: Chúa Giêsu đã sống lại hằng liên kết với người đã qua đời, bằng lòng thương xót qua ơn cứu chuộc cho khỏi hình phạt tội lỗi. Ngài ban cho họ sự sống trên nước hằng sống.
Khi đứng bên nấm mồ người thân yêu ruột thịt đã qua đời, tình yêu mến, sự lo lắng săn sóc đã trao cho nhau khi xưa, những kỷ niệm ngày xưa đã cùng nhau trải qua, như cuốn phim đời sống chiếu diễn lại sống động trong trái tim tâm hồn. Và ta như cảm thấy mình được trao tặng và chút nào như được biến đổi.
Điều này củng cố thêm lòng tin về sự sống lại của người đã qua đời trong đời sống chúng ta: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Ngoài cổng thành Nain, Chúa Giêsu đã trao sự sống cho cậu thanh niên qua đời, cho mẹ anh ta và cho mọi người đang sống trong buồn thương. Qua đó, họ cảm nhận thấy lòng thương xót, tình yêu của Chúa Giêsu mang đến sự sống. Nên họ hết lời ca ngợi „ Một Tiên Tri vĩ đại đang có mặt giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã đoái thương nhìn đến dân của Người“ ( Lc 7,16)
Ngày lễ lòng hiếu thảo như ngày lễ 02.11. hay ngày lễ Giỗ tưởng nhớ người đã qua đời, là ngày ca ngợi tình yêu, lòng thương xót Thiên Chúa. Đồng thời cũng cám ơn Ngài, đã trao tặng cho con người Chúa Giêsu như người Bạn, một người biểu lộ tình liên đới, sự an ủi cho những người gặp cảnh sầu khổ đau buồn.
Chúa Giêsu qua sự chết và sống lại của Người đã biến đổi nấm mồ người đã qua đời thành nơi chốn niềm hy vọng và sự sống lại.
Và từ nấm mồ, nơi chốn niềm hy vọng và sự sống lại vang vọng lên lời: “ Những gì ngày trước tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại!“ Lễ cầu cho các Linh hồn đã qua đời, 02.11.
Cây có gốc mởi nở nghành sanh ngọn Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu Người ta có gốc từ đâu Có cha có mẹ rồi sau có mình
Lòng hiếu thảo và biết ơn của con cháu đối với ông bà cha mẹ rất quan trọng trong tâm thức người: 2/11-55
Lòng hiếu thảo và biết ơn của con cháu đối với ông bà cha mẹ rất quan trọng trong tâm thức người dân Việt nam. Tình cảm này không những được thể hiện qua cách đền ơn đáp nghĩa của con cháu đối với ông bà cha mẹ khi còn sống mà cả khi các Ngài đã qua đời, con cháu vẫn thực hiện việc cúng giỗ để báo hiếu, ghi nhớ công ơn những người đã gầy dựng nên cuộc đời mình. Việc cúng giỗ mang một sắc thái đặc biệt trong tín ngưỡng ngàn đời của dân tộc Việt nam,đó là tín ngưỡng Tôn Kính Tổ Tiên hay Đạo Ông Bà.
Người Việt nam tin rằng: con người có hồn có xác,chết chưa phải là hết hẳn, thể xác chết nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại và lui tới với những người thân trong gia đình.Hồn mới thật cao quý là tinh anh của con người ”Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Văn hoá truyền thống dân tộc gặp được ánh sáng Tin mừng soi dẫn và người Việt nam Công giáo chúng ta hướng tới một thực tại cao cả hơn đó là sự sống lại, là hạnh phúc Thiên đàng.
Giáo hội dành tháng 11 cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,nên tháng 11 là tháng của niềm hy vọng Phục sinh. Đây là thời gian mà mỗi khi thắp nén nhang trên phần mộ người chết,nhìn theo làn khói nhẹ toả bay ta cũng nâng tâm hồn lên tới Chúa là nguồn sự sống của mình. Và mỗi khi đặt bó hoa tươi trên phần mộ người thân yêu,ta thấy được mùa xuân vĩnh cửu đang bừng lên từ khắp những nấm mồ chung quanh. Quả that: sự sống thay đổi chứ không mất đi.
Sau thánh lễ chúng ta ra về, trên nghĩa trang này chỉ còn hương khói và những ngọn nến lung linh. Bầu khí tĩnh mịch thật trầm lắng và thánh thiện. Cảnh vắng lặng của một thế giới đang tan thành bụi đất như đang nói về sự rũ bỏ những vướng víu để đạt tới thành toàn viên mãn. Vài người thắp nến trên phần mộ người thân thương, ánh sáng toả ra một vùng nhỏ, toả vào ký ức nhớ những người thân đã khuất bóng. Gia đình cùng đọc kinh rồi im lặng để hình ảnh người đã khuất hiện dần lên trong trí nhớ. Những kỷ niệm lung linh nhập nhoà, bởi hình hài thể phách vật chất không còn nữa. Nơi đây là thế giới của tan rã, chỉ có bụi đất và cỏ cây, những người chết không còn nói năng,ăn uống, đi đứng, cảm xúc, nghĩ ngợi, nổi niềm, không ham muốn, không lo âu, không hoạch định không gắng sức. Họ đã bước vào cõi đời đời sau khi đã đi qua thế giới hữu hạn, họ trải qua mùa đông ảm đạm của sự chết để đi vào mùa xuân vĩnh cửu của sự sống thiên quốc. Như hạt lúa gieo xuống lòng đất tuy có bị thối đi nhưng chính từ trong hạt giống bị chết đi đó,môt cây lúa mới mọc lên,con người cũng vậy, chỉ có thể bước vào sự sống đời đời qua ngưỡng cửa sự chết.
Trong Phúc Âm,các phụ nữ đã đến thăm mồ Chúa và các bà được Thiên sứ báo tin Người đã phục sinh. Các bà đã thấy chính Chúa Phục sinh xuất hiện ngay bên nấm mộ sự chết. Vậy thì hôm nay, khi cùng nhau cử hành thánh lễ nơi nghĩa trang – Đất Thánh, bên phần mộ những người thân yêu đã chết,người Kitô hữu chúng ta lắng nghe lời Đấng Phục Sinh khẳng định: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. Và chúng ta cũng thưa với Chúa Giêsu như Macta xưa rằng: Lạy Chúa, con tin, Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống, Đấng phải đến thế gian.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã chết và sống lại để tiêu diệt sự chết và trao ban sự sống bất diệt cho chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì tình thương Người đã quy tụ chúng ta lại chung quanh bàn Tiệc Ly của Người để chúng ta hiệp thông với nhau, hiệp thông giữa những người đang sống và những người đã an giấc nơi đây đang được chiêm ngưỡng Chúa và hăng liên kết với chúng ta trong mối dây liên hệ mới bền vững muôn đời.
Ở Âu Châu, tháng mười một là một tháng u buồn ảm đạm nhất trong năm : Khí trời mới vào đông tuy: 2/11-56
Ở Âu Châu, tháng mười một là một tháng u buồn ảm đạm nhất trong năm : Khí trời mới vào đông tuy chưa có tuyết rơi, nhưng rất lạnh lẽo giá buốt, sương mù dăng dăng dầy đặc và những làn mưa phùn bay phất phơ trong từng cơn gió lạnh, làm thấm ướt cả áo măng-tô của các khách bộ hành qua lại trên phố xá. Và cũng chính tháng mười một đã được Giáo Hội chọn làm Tháng Các Linh Hồn, nghĩa là thời gian dùng để kính nhớ và cầu nguyện cho các người đã quá cố.
Hành động đó đã minh nhiên chứng minh rằng chết không phải là hết, nhưng sau khi chết con người còn tiếp tục sống và sống một cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng ở đây một câu hỏi được đặt ra là sau khi từ bỏ cõi đời này, chỉ có Thiên Đàng là nơi vĩnh cửu duy nhất sẽ đón nhận các các người đã quá cố hoặc còn có nơi nào khác nữa, hay nói rõ hơn, có hỏa ngục hay không?
Theo tâm lý tự nhiên ngày nay, đa số người đương thời có khuynh hướng muốn được yên thân sống thoải mái dễ dãi, chứ không muốn nhắc đến luân lý, đạo đức hay tội lỗi nữa. Vì thế họ cũng không muốn đề cập tới vấn đề hỏa ngục, nếu không nói là họ phủ nhận sự hiên hữu của hỏa ngục.
Nhưng ít nhất vẫn còn có Sting, tên thật là Gordon Summer (1951), một ca sĩ nhạc Rock nổi tiếng người Anh, luôn tin có hỏa ngục, một nơi có mặt của mọi thành phần xã hội : từ các quan tòa, các luật sư, các Hồng Y, Giám Mục, các nhạc sĩ, các ca sĩ, v.v…! Trong một bài hát thuộc loại nhạc kích động với tựa đề bằng tiếng Anh: «Saint Augustine in Hell» (Thánh Augustinô ở trong hỏa ngục), Sting đã hát: «They’re all here,You’re not alone» (Tất cả họ đều có mặt ở đây. Chứ không phải một mình anh đâu). Bài hát đề cập tới việc vị thánh nhân đã ra sức vất vả chống lại sự cám dỗ về đức trong sạch khi phải đứng trước một người phụ nữ nhan sắc đầy quyến rủ.
Thật cả là một hiện tượng quá ngạc nhiên, hoàn toàn vượt quan niệm thường tình: Trong hỏa ngục cũng có cả sự hiện diện của những bậc vĩ vọng, những người khi còn sống đã từng đóng vai trò người bảo vệ luân lý, đạo đức và công bằng, và theo sự phán đoán bình thường nhân loại, thì họ là những người sau khi chết sẽ được bay thẳng về Thiên Đàng. Còn hỏa ngục là nơi chỉ dành cho những kẻ đã phạm những tội ác nặng nề chống lại nhân loại, như: Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nero, Giu-đa, Napoléon, hay những bọn khủng bố, nhửng kẻ giết người như ngóe, bọn phản bội hại người hay những kẻ cực đoan đã gây nên bao tang thương đau khổ và chết chóc cho hàng triệu người vô tội, tiêu hủy cả một nền văn hóa của nhân loại, và không ngừng gieo rắc hận thù, ghen ghét trên khắp thế giới.
Cái hố sâu trong hỏa ngục
Vâng, theo quan niệm đại chúng thì những kẻ đã gây nên những tội ác như thế cần phải được trừng phạt một cách đích đáng, và - dựa theo luật công bằng - sự trừng phạt đó có thể vượt sang cả bên kia thế giới vĩnh cửu nữa.
Tuy nhiên, trong cuộc sống cụ thể, người ta thường dùng danh từ «hỏa ngục» như một cách so sánh hay có tính cách ẩn dụ, để ám chỉ những khó khăn to nhỏ trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ: Trong một chuyến đi nghĩ hè xa mà phải ngồi chờ cả ngày tại phi trường hay tại nhà ga xe lửa, hết ngồi rồi lại đứng, bởi vì máy bay hay tàu bị trục trặc hay vì một sự cố nào đó xảy ra, nên phải hủy chuyến bay hoặc phải đến trể; khi khởi công xây nhà mà trời cứ mưa tầm tả cả ngày; khi con cái và mọi người trong nhà đau ốm liên miên, nhưng tiền dành dụm lại không còn, vay mượn thì không ai cho; hay: cảnh phải lam lũ vất vả cả ngày mà kiếm không đủ cơm nuôi gia đình; nhất là khi cuộc sống trong gia đình hoàn toàn thiếu đầm ấm, bất hạnh phúc, vợ chồng lục đục bất hòa với nhau suốt ngày v.v… Bấy giờ đó quả là «hỏa ngục!» và người ta mới cảm nhận được sự đau đớn và thất vọng chua xót trong lòng trước niềm khao khát được cơm no áo ấm, được một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc.
Nhưng cả khi phải đối mặt với những thử thách và khó khăn vất vả như thế, người ta cũng chưa hẳn tin hỏa ngục như là một nơi có thực. Trái lại, người ta đã tương đối hóa hỏa ngục và sử dụng nó như một kiểu chơi chữ, như một nơi giả tưởng để diễn tả một sự chịu đựng đắng cay nào đó mà thôi. Đó chính là điều mà các nhà tâm lý học, triết gia và văn họa sĩ của thế ký XX vừa qua đã làm, và quan điểm đó của họ đã để lại một ảnh hưởng sâu rộng trong ngôn ngữ cũng như trong tư tưởng của các tầng lớp xã hội.
Quả vậy, nhà phân tâm học Sigmund Freud và giáo sư tâm lý học C.G. Jung đã diễn tả ý niệm «hỏa ngục» chỉ còn như là cái vực sâu thẳm nhất của nội tâm con người; còn trong cuốn tiểu thuyết nổi danh «Doctor Faustus» của ông, văn hào Thomas Mann đã coi «hỏa ngục» như là biểu hiệu cho sự man rợ ghê tởm, xảy ra dưới chế độ diệt chủng Đức Quốc Xã; trong khi đó, triết gia Jean-Paul Sartre - bằng một hình thức hiện sinh nhẹ nhàng – lại cho thấy rằng «hỏa ngục» luôn luôn là «những người khác». Hỏa ngục được coi như một nơi hoàn toàn và tuyệt đối không có sự hiện diện của Thiên Chúa, dù một lời nói hay một dấu hiệu cũng hoàn toàn không.
Tuy nhiên, điều đó không luôn luôn như vậy. Đặc biệt nhất là các bức hình thời trung cổ trình bày về ngày Phán Xét Chung - mà ngày nay người ta còn tìm thấy trên trần các nhà thờ chánh tòa và vương cung thánh đường cỗ hay trong bản văn Sách Khải Huyền của thánh Gioan tông đồ - đã vẽ lên một cách rõ ràng và đầy ấn tượng tình trạng của những kẻ bị kết án trầm luân trong hỏa ngục. Trong khi đó, chữ «hỏa ngục» trong tiếng Do-thái là «Ge hinnom», hoàn toàn chỉ có nghĩa là vùng thống trị của ma quỷ mà thôi; khác với chữ «âm phủ» (nước của những kẻ chết) mà trong tiếng Do-thái là «Scheol» và cũng khác với các quan niệm Hy Lạp thời thượng cổ về nước của kẻ chết, tức thế giới của tối tăm.
Những trình bày về hỏa ngục chỉ muốn nhắm cảnh giác và làm cho người xem động lòng lo sợ, hầu họ biết ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống, dựa trên ý nghĩa Kinh Thánh và những lời dạy của Chúa Cứu Thế, ví dụ: «Thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hỏa ngục.» (Mt 18,8-9)
Trong vùng ảnh hưởng nền văn hóa Tây phương nói chung, những hình ảnh trình bày về hỏa ngục hay những suy diễn tưởng tượng về hỏa ngục rất đa dạng. Vâng, có khi hỏa ngục được coi như một nơi của thù oán; có khi lại được coi như một lò lửa cháy bừng bừng đến vô tận; và nhiều khi còn được coi như núi hỏa ngục. Trong cuốn tiểu thuyết nổi danh «La Divina Commedia» của ông, Dante Alighieri (1265-1321), một thi hào người Ý, còn trình bày hỏa ngục như một cái hố sâu mà Satan đã gây ra khi y bị rơi từ Thiên đàng xuống.
Còn các danh họa Kitô giáo, như Hieronymus Bosch (1450-1516), Peter Paul Rubens (1577-1640), Sandro Botticelli (1445-1510), hay Michelangelo (1475-1564), đều trình bày hỏa ngục như chặng đường cuối cùng của cuộc sống con người, chứ không còn là nơi thanh luyện hay cải hóa nữa. Và có lẽ đó cũng là quan niệm chung của các nền văn hóa và các tôn giáo khác.
Điều đó cũng nói lên rằng các danh họa Kitô giáo trên đã luôn luôn trung thành với các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội. Bởi vì dựa theo lời Đức Giêsu trong Phúc Âm, nhiều thánh Giáo phụ từ thế kỷ I cho tới thế kỷ III, ví dụ như Clemens de Rom, Irenée de Lyon, đã khẳng định rằng người ta không được phép đùa giỡn với một cuộc sống bên kia biên giới sự chết được, vì đó là một sự thật minh nhiên. Và sau cái chết chỉ còn lại hai nơi cư ngụ duy nhất cho con người: Hoặc Thiên đàng hoặc hỏa ngục, có lẽ tạm thời còn có một nơi tạm trú thứ ba, đó là Lửa Luyện Tội. Ngoài những chỗ đó ra, tuyệt đối không còn bất cứ nơi chốn nào khác nữa.
Thế nhưng, bổng nhiên Origênê (185-254), thuộc hàng Giáo phụ, lại giới thiệu một suy tư thần học mới : Thuyết «Apocatastase» - sự cứu vớt muôn loài muôn vật. Origênê cho rằng sau cuộc sống đời này, tất cả mọi tạo vật đều được trở về cùng Thiên Chúa Tạo Hóa, còn hỏa ngục hoàn toàn trống rỗng. Đó quả là một quan điểm có thể được coi là hấp dẫn, mang tính cách nhân bản và tiến bộ. Vì thế, nhiều Giáo phụ thuộc thế kỷ IV và thế kỷ V, như Gregoire de Nyssan đã chấp nhận thuyết đó.
Nhưng thuyết Apocatastase của Origênê chỉ kéo dài đến năm 553 thì hoàn toàn chấm dứt. Công đồng đại kết Constantinople II đã tuyên cáo: «Nếu ai nói hay nghĩ rằng hình phạt dành cho ma quỷ và những kẻ vô đạo chỉ có tính cách tạm thời và trong một lúc nào đó sẽ được chấm dứt hay sẽ có sự hồi phục lại cho ma quỷ và những kẻ vô đạo, thì bị dứt phép thông công.»
Lời khẳng định: Từ hỏa ngục không hề có con đường nào dẫn tới cùng Thiên Chúa, là một quan điểm trải qua bao thế kỷ đã được chứng thực bởi các thị kiến của nhiều vị thần bí, như Anna Catharina Emmerick, Anna Sch#fer hay chân phước Padre Piô, v.v…và trên nguyên tắc, mãi cho tới nay Giáo Hội vẫn không chối bỏ. Trái lại, trong cuốn Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (SGLHTCG), được phát hành năm 2005, còn được xác định: «Giáo Hội dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời. Sau khi chết, linh hồn kẻ còn mang tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu cực hình ‘lửa đời đời’» (SGLHTCG phần 1, đoạn 2, chương 3, mục 12, số 1035). Chính Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI trong cuốn sách mới nhất của Người «Chúa Giêsu thành Na-da-rét» cũng đã xác nhận rằng có hỏa ngục, và là một nỡi vĩnh viễn dành cho những ai chối từ tình yêu Đức Kitô.
Án phạt đời đời
Tuy nhiên, ở đây người ta cũng có thể chân thành nêu lên câu hỏi: Ngày nay còn có bao nhiêu người và bao nhiêu cơ quan đoàn thể trong Giáo Hội thực sự coi trọng những phát biểu đó nữa? Trong thời đại ngày nay, ai còn đầy xác tín nói về hoả ngục và về án phạt đời đời? Và nếu trường hợp có người còn can đảm dám làm chuyện đó, thì anh ta sẽ quả quyết thế nào về hỏa ngục: là một nơi chốn, một tình trạng hay chỉ là một cảm giác?
Thế hệ của những nhà thần học cũng như những vị giáo phẩm trong Giáo Hội ngày nay, xem ra có một sự đồng thuận cho rằng, hỏa ngục không phải là một nơi chốn dành để trừng phạt những kẻ có tội với các đau khổ thể xác, nhưng là một điều có tính cách trừu tượng, hay nói đúng hơn, đó là sự «xa lìa Thiên Chúa», như chính ĐTC Gioan Phaolô II khi sinh thời cũng đã từng phát biểu. Nhưng nói chung, tất cả những nhà thần học này đều trung thành với giáo huấn của Giáo Hội về hỏa ngục.
Nhưng bên cạnh đó còn có những nhà thần học khác đã tìm cách dựa theo khoa chú giải Kinh Thánh có tính cách phê bình sử quan, để đưa ra một con đường trung dung khác, thay vì quan điểm «sự cứu rỗi cho muôn loài muôn vật» và «sự hiện hữu của hỏa ngục». Theo quan điểm thứ ba này thì hỏa ngục hiện hữu thực sự và như một «khả hữu thực tiễn» (Karl Rahner). Nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ có một linh hồn nào đó sẽ bị lạc đường sa vào chỗ ấy, bởi lẽ tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thì bao la vô tận.
Sự chia lìa vĩnh cửu với Thiên Chúa
Đặc biệt tại đa số các cộng đoàn Kitô giáo thuộc vùng lãnh thổ nói tiếng Đức, xem ra người ta có khuynh hướng chọn lối cắt nghĩa thứ hai. Các giáo sĩ ngày nay ít đề cập đến hỏa ngục trong các bài giảng của mình, vì họ thường quan niệm rằng: trong vấn đến tín ngưỡng, nên tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người, hay nói rõ hơn, nên để giáo dân tự do sống đạo theo sự ý thức của họ, chứ không nên giữ đạo vì do sợ hãi khỏi phải xuống hỏa ngục. Phải chăng đây là một quan niệm hoàn toàn đúng đắn?
Một điều không thể phủ nhận được là quan niệm trên đã từ từ làm cho người ta quên đi sự nguy hiểm về cuộc sống xa lìa vĩnh cửu với Thiên Chúa, nguồn sống và nguồn mọi hạnh phúc của con người. Đồng thời nó cũng dẫn tới một hậu quả khác nữa, đó là khuynh hướng tương đối hóa tội lỗi, nghĩa là chỉ có tội nhẹ, chứ không còn có tội trọng nữa; và điều đó cũng muốn nói rằng con người không còn nguy hiểm sợ mất sự sống vĩnh cửu nữa.
Hay sự im lặng không muốn đề cập tới hỏa ngục như thế còn có những lý do khác nữa? Phải chăng sự im lặng đó còn nhắm tránh cho người tín hữu mặc cảm tội lỗi, bởi vì trong nhiều thế kỷ qua, các bài giảng về hỏa ngục đã làm cho các tín hữu đâm ra áy náy sợ hãi, vì lo mất linh hồn? Hoặc: phải chăng vì do những lý do quyền lực, kinh tế hay chính trị, v.v… mà người ta đã từng làm cho cuộc sống tâm linh của các tín hữu trở thành lệ thuộc và mất tự do, khi trình bày cho họ hình ảnh về hỏa ngục?
Nếu sự thể thực sự là như vậy, thì cần thiết phải tìm cách giải quyết ngay cái mặc cảm phiền phức đó. Nhưng phải chăng để làm cho công cuộc Phúc Âm hóa của Giáo Hội, mà Đức Gioan Phaolô II cũng như Đức Bênêđíctô XVI đã khởi động và cổ vũ, trở nên khả tín và khả thi, nếu khi người ta trình bày công cuộc Cứu Rỗi của Đức Kitô và viễn tượng về Nước Trời, tuyệt đối không được đả động tới những thực tại ngược lại, hay nói rõ hơn, không được đề cập tới hỏa ngục?
Nếu sứ mệnh của Giáo Hội không chỉ dừng lại nơi những hoạt động thiêng liêng và từ thiện được dành cho mọi tầng lớp xã hội như các đoàn thể từ thiện khác vẫn làm, thì Giáo Hội cần phải tái khám phá ra sự hiện hữu của hỏa ngục như một biểu hiệu sự công bằng của Thiên Chúa, chứ không phải như một dụng cụ để hành hạ hay trả thù. Vâng, mặc dù nói đến hỏa ngục là một điều ít ai muốn nghe, nhưng sự hiện diện của hỏa ngục cũng góp phần vào việc sống trọn tinh thần Phúc Âm.
Ai trong chúng ta cũng công-nhận đức-tin là cần thiết trong việc sống đạo và hành-đạo và: 2/11-57
Ai trong chúng ta cũng công-nhận đức-tin là cần thiết trong việc sống đạo và hành-đạo và phải lấy đức tin làm căn-bản cho cuộc sống một Ki-tô hữu. Điều này có nghĩa là ngay những khi hay ở những nơi mà cuộc sống bên ngoài dường như không có bất cứ dấu chỉ nào cho thấy có các cơ-cấu của Hội-thánh Chúa hiện-diện như không có nhà thờ, không có linh-mục cũng như các nam nữ tu-sĩ hoặc bất cứ một dấu hiệu nào nhắc nhở cho ta về Chúa và về đạo thì chính những hoàn-cảnh như vậy đòi hỏi ngườ?n phải sống đạo bằng cách tiếp-xúc và giao-cảm với Thiên-Chúa từ trong chốn thẳm sâu của tâm-hồn. Mối giao-cảm này được thể-hiện rất đơn sơ qua những phút giây cầu nguyện vì như kinh-nghiệm của rất nhiều vị thánh hay những đan-sĩ chuyên sống đời chiệm-nghiệm cho biết thì cầu nguyện chính là đối-thoại với Thiên-Chúa bằng tâm-tình tin, cậy và mến. Dựa trên tâm-tình này, hàng năm Hội-thánh dành ra nguyên tháng 11 của năm Phụng-vụ để cầu-nguyện cho các linh-hồn đã qua đời. Đấy là thời-gian đặt trọng-tâm vào tình liên-đới giữa những con người sống trong hai thế-giới cách nhau bởi một biên-giới vô hình nhưng rất rõ là cuộc sống và cõi chết mà người ta chỉ có thể nghĩ đến nhau, vẫn cảm thấy gần nhau và có trách-nhiệm với nhau khi vững tin rằng con người là một hợp-thể giữa hồn với xác. Trong cái hợp-thể này sẽ chỉ có xác tan thành bụi tro, còn hồn thì thuộc phần tâm-linh bất-diệt trong Chúa. Không hẳn chỉ có Công-giáo tin và lý-luận như vậy, mà hầu như bất kỳ tôn-giáo nào cũng xác-quyết con người ta có một phần đời thiêng-liêng kéo dài mãi sau khi chết.
Tín-lý Công-giáo có rất nhiều điều phải vận-dụng một nhân-đức tin vững vàng để hiểu và tuân giữ theo bằng cách thực-hành đức tin đó trong các việc sinh-hoạt hàng ngày; trong cách thế ứng-xử với tha-nhân. Nho-giáo cũng có quan-niệm rằng phải có sự hiệp-nhất giữa tri và hành để đạt đến phần cao cả của tinh-thần vì con người chính là "linh ư vạn-vật". Tuy vậy, phải nhìn nhận rằng có rất nhiều lúc người tin không dễ gì giữ được niềm tin đó vì những khủng-hoảng bên trong hoặc trở ngại bên ngoài. Chính vì vậy mà Hội-thánh không ngừng hướng-dẫn cộng-đoàn Dân Chúa phải nhìn vào thực-tại đời sống chênh-vênh này để nuôi dưỡng lòng tin cho vững chắc và phải có tâm-tình xác-tín; nghĩa là biết rõ tại sao mình tin và lòng tin dựa trên căn-bản nào. Khi đã mạnh dạn trả lời được các nghi-vấn này thì sẽ không bị nao-núng khi bị người khác mỉa mai hay chất-vấn và sẽ tránh được những mặc-cảm khi bị chê bai là chậm tiến về phương-diện khoa-học hya mê-tín, dị-đoan và lạc-hậu...như phần lớn các trào-lưu vật-chất ngày nay đã nhân-danh khoa-học để đánh giá về các niềm tin tôn-giáo như vậy.
Một trong những điều mà tín-lý đức tin buộc chúng ta phải tin là tín-điều "Các thánh cùng thông-công". Đây là một mối dây liên-kết rất thân tình và chặt chẽ giữa các người tin với nhau và thực-sự bằng đức tin mà giao-cảm được với nhau. Tín-điều này nói lên tinh-thầniệp-nhất cao-độ và một tương-quan nghĩa tình bao la. Theo tín-điều này, Hội-thánh Chúa bao gồm ba tập-hợp là Hội-thánh chiến-đấu, Hội-thánh đau khổ và Hội-thánh vinh-thắng khải-hoàn. Hội-thánh chiến-đấu là toàn-thể cộng-đồng tín-hữu đang sống ở trần-gian, đang phải chiến-đấu với mọi thế-lực của tội lỗi và các tà-thuyết duy-vật. Hội-thánh đau khổ hay Hội-thánh thanh-luyện gồm mọi tín-hữu đã qua đời mà đang còn chịu nhiều thử-thách trong luyện-ngục và Hội-thánh chiến-thắng khải-hoàn là thành-phần dân Chúa đã được vào cõi vinh-phúc. Cả ba tập-hợp Hội-thánh này có mối dây liên-lạc thiêng-liêng với nhau để cùng chia sẻ nguồn ân-phúc nơi Đấng Cứu-độ cũng như cùng liên-đới với nhau trong tội lỗi. Chính vì quan-niệm rằng một khi đã được gọi là cộng-đồng những người tin thì mọi người cũng phải cùng chung phần trách-nhiệm về cả sự tội và sự phúc của nhau và chính vì Hội-thánh nhìn nhận giá-trị của mối giao-cảm này mà có tín-điều "Các thánh cùng thông-công".
Lẽ đạo là vậy, niềm tin đã nên như vậy nhưng thực sự trong cuộc sống của Ki-tô hữu đã thể-hiện được bao nhiêu phần trăm của tín-điều này. Nói chung, ít nhất thì cũng mỗi tuần, Ki-tô hữu phải đọc kinh Tin-kính một lần trong Thánh-lễ Chúa-nhật, có nghĩa là ít nhất thì mỗi tuần cũng có tuyên-xưng tín-điều này một lần cùng với một số những tín-điều căn-bản khác, nhưng sợi dây liên-kết đã thắt được bao mối chặt, bao mối ơ-hờ lỏng lẻo thì thực chỉ có Thiên-Chúa mới đếm nổi mà thôi. Và cái khó là ở đâu, ở nút thắt nào không kết lại được?
Chúng ta có thể tin nhận rằng mọi người đều chung phần trách-nhiệm về sự tội cũng như sự phúc của nhau, nhưng để chu-toàn cái trách-nhiệm này chúng ta đã thực-sự thông-công theo lẽ nào. Đối với những ngườ?h em đã ra đi, dù còn đang chịu thanh-luyện hay đã đạt cõi phúc trường-sinh, những Ki-tô hữu xem ra cũng dễ tỏ bày tâm-tình liên-kết qua kinh-nguyện và Thánh-lễ dâng mỗi ngày để cầu cho phần linh-hồn của họ. Nhưng cái mối cảm-thông, liên-kết này đã thật khó khăn nơi chính cái tập-hợp của Hội-thánh đang chiến-đấu với mọi mưu chước của thế-gian. Đó là cộng-đoàn Dân Chúa đang sống đạo, đang thi-hành sứ-mạng rao giảng Tin Mừng. Giữa lòng Hội-thánh này, những kinh nguyện không thôi chưa đủ mà còn phải cầu-nguyện bằng việc làm nữa. Nhìn lại từ những đơn-vị nho nhỏ là gia-đình Công-giáo, các hội-đoàn trong giáo-xứ đến các tập-thể rộng lớn đáng lẽ ra đều được đòi hỏi phải có sự thông công nhiều qua cách suy-nghĩ và sống sao cho tình huynh-đệ được thể-hiện để thông-công. Sự thông-công chỉ có được qua sự nâng-đỡ và liên-đới với nhau, dìu giắt nhau, chia sẻ và xây-dựng tình người với nhau để sống Tình Chúa trong một mối hiệp-thông chân-thành nhưng liệu mỗi tấm lòng, mỗi tâm-hồn có thực-sự thông qua được cái biên-giới nhỏ hẹp của cái tôi đáng ghét và ích-kỷ, chỉ lo sao cho được sống còn mà thay vì là phải sống cùng và sống với anh em hay không? Đó mới chính là mối giao-cảm thâm sâu phát-xuất từ một Giáo-hội duy-nhất, thánh-thiện, công-giáo và tông-truyền vậy.
Dịp kỷ niệm 1.000 năm ngày viện phụ Odilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny, cổ võ việc: 2/11-58
Dịp kỷ niệm 1.000 năm ngày viện phụ Odilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny, cổ võ việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục vào ngày 02.11 hằng năm, Đức Thánh Cha đã gửi một Sứ-điệp đến Đức giám mục Autun, Chalon và Mâcon kiêm Viện-phụ Đan viện Cluny, nhiệt liệt khuyến khích các tín hữu sốt sắng cầu nguyện cho người quá cố để họ được tha thứ mọi hình phạt do tội lỗi. Sứ-điệp được công bố tại Rôma ngày 12.9.1998 với nội dung như sau :
Kính gửi Đức cha Raymond Séguy, Giám mục Autun, Chalon và Mâcon, Viện phụ Cluny,
Trong năm kỷ niệm một ngàn năm thành lập lễ các linh hồn do thánh Odilon (+1049), viện phụ thứ năm của đan viện Cluny, đồng thời kỷ niệm một trăm năm vị tiền nhiệm của Đức cha là Đức hồng y Perraud thành lập Hiệp-hội các bà Cluny chuyên cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, kỷ niệm bốn mươi năm thành lập tạp chí "Lumière et Vie", Ánh Sáng và Sự Sống chuyên cổ võ việc cầu nguyện cho người quá cố, tôi vui lòng hiệp ý với tất cả những người trong năm nay tham dự các buổi lễ cầu nguyện cho những người đã ra đi trước chúng ta.
Thực vậy, sau ngày lễ các thánh, trong đó Giáo Hội hân hoan cử hành tình hiệp thông của các thánh và ơn cứu độ con người, thánh Odilon đã nhắn nhủ các đan sĩ cầu nguyện đặc biệt cho những người quá cố, nhờ đó góp phần cách huyền diệu giúp các linh hồn ấy đạt tới hạnh phúc. Từ Đan viện Cluny, thói quen long trọng cầu nguyện cho những người quá cố dần dần được phổ biến và ngày nay vẫn còn thịnh hành trong Giáo Hội hoàn vũ.
Khi cầu nguyện cho những người qua đời, Giáo Hội chiêm ngưỡng trước tiên mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô, Đấng đã đạt cho chúng ta ơn cứu độ và sự sống đời đời qua cái chết của Người trên thập giá. Vì thế, cùng với thánh Odilon, chúng ta có thể lặp lại không ngừng : "Thập Giá là nơi tôi nương náu. Thập Giá là Đường và là Sự Sống cho tôi. Thập Giá là khí giới vô địch của tôi. Thập Giá đẩy lùi mọi sự dữ. Thập Giá phá tan tăm tối". Thập Giá của Chúa nhắc nhở cho chúng ta rằng : toàn thể cuộc sống được Ánh sáng Phục Sinh soi chiếu; không có tình trạng nào hoàn toàn là tuyệt vọng, hư mất? vì Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết và mở cho chúng ta con đường sự sống chân thật? Ơn cứu độ được hiện thực nhờ hy tế của Chúa Kitô, nhờ đó con người chuộc tội mình và được giao hòa với Thiên Chúa.
Niềm hy vọng của chúng ta dựa trên Hy Tế của Chúa Kitô. Sự phục sinh của Ngài khai mạc thời kỳ sau hết. Niềm tin vào sự sống vĩnh cửu như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính đồng thời mời gọi hy vọng vui tươi sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền. Tin "xác loài người sẽ sống lại" là nhìn nhận rằng có một mục đích sau cùng, một cứu cánh chung cuộc của mọi đời người. Cứu cánh ấy thỏa mãn được mọi ước muốn của con người đến độ không còn mong ước sự gì khác ngoài mục đích ấy. Thánh Augustinô đã diễn tả cùng một ước muốn đó cách tuyệt hảo khi nói rằng : "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn chúng con sẽ được an nghỉ cho đến khi nào được ở trong Chúa".
Vì thế, tất cả chúng ta đều được mời gọi sống với Chúa Kitô ngự bên hữu Chúa Cha và chiêm ngưỡng Ba Ngôi Chí Thánh, vì Thiên Chúa là đối tượng chính của niềm cậy trông Kitô-giáo. Cùng với ông Gióp, chúng ta có thể thốt lên : Giờ đây "tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa" (G 19,25t). Chúng ta cũng nhớ rằng : Nhiệm Thể Chúa Kitô đang chờ đợi sự hiệp nhất vào ngày tận thế, khi tất cả mọi chi thể được ở trong hạnh phúc hoàn toàn, và "Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi người" (1 Cr 15,28).
Thực vậy, Giáo Hội hy vọng ơn cứu độ vĩnh cửu cho mọi con cái mình và cho mọi người. Chúng tôi tin rằng Giáo Hội là cần thiết cho ơn cứu độ, vì Chúa Kitô là Đấng Trung Gian Duy Nhất và là Con Đường Cứu Độ. Ngài sẽ cứu chúng ta trong Thân Thể Ngài là Giáo Hội. Nhưng ý Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, và những ai không vì lỗi của họ mà không được biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, họ vẫn trung thành tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng thi hành thánh ý Chúa được nhìn nhận qua những mệnh lệnh của lương tâm, thì những người ấy có thể được ơn cứu rỗi, và số người đó chỉ có Thiên Chúa biết.
Trong khi chờ đợi sự chết hoàn toàn bị đè bẹp, con người tiếp tục cuộc lữ hành trên mặt đất; có những người sau khi hoàn tất cuộc sống còn phải chịu sự thanh tẩy; sau cùng có những người được hưởng vinh quang và chiêm ngưỡng Ba Ngôi Thiên Chúa trong ánh sáng viên mãn. Chỉ có công nghiệp của các thánh, lời cầu nguyện huynh đệ của chúng ta, trợ giúp những ai đang chờ đợi được hưởng kiến Thiên Chúa. Việc cầu nguyện cho người quá cố cũng như đời sống của những người đang sống theo các giới răn của Chúa đạt được những công nghiệp nhắm hoàn tất ơn cứu độ. Trong tình bác ái huynh đệ ? chúng ta đáp ứng ơn gọi sâu xa của Giáo Hội, đó là cứu vớt những linh hồn yêu mến Chúa đời đời. Đối với các linh hồn trong luyện ngục, tình trạng phải chờ đợi hạnh phúc vĩnh cửu, mong mỏi được gặp gỡ với Đấng được yêu mến khiến họ đau khổ vì hình phạt phải chịu do tội lỗi khiến họ phải xa Chúa, nhưng chắc chắn rằng sau khi hoàn tất thời kỳ thanh luyện, linh hồn sẽ đến gặp Đấng mình hằng ao ước.
Sự chiêm ngưỡng cuộc sống những người đã theo Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta sống đời kitô tươi đẹp và ngay chính, làm cho chúng ta xứng đáng với nước Chúa. Vì thế chúng ta được mời gọi hãy sống "tỉnh thức - siêu nhiên", theo kiểu nói của Đức hồng y Perraud, để chúng ta chuẩn bị mỗi ngày cho đời sống vĩnh cửu. Như Đức hồng y John Newman đã nhấn mạnh : "không những chúng ta phải tin, nhưng còn phải tỉnh thức; không những yêu mến, nhưng còn phải tỉnh thức; không những vâng phục, nhưng còn phải tỉnh thức". Có thể sự tỉnh thức là một thử thách xem mình có phải là kitô-hữu hay không, vì tỉnh thức có lẽ là tách rời khỏi cái hiện tại và sống với tư tưởng về Chúa Kitô như Ngài mong muốn xưa kia và như Ngài sẽ trở lại, mong ước Ngài đến trong vinh quang.
Những lời chuyển cầu và kêu xin của Giáo Hội được dâng lên Thiên Chúa có một giá trị rất lớn lao. Chúng là đặc tính của một tâm hồn, phù hợp với lòng từ bi Chúa. Chúa luôn để cho tâm hồn Ngài bị xúc động vì những lời khẩn cầu của con cái, vì Ngài là "Thiên Chúa của kẻ sống". Trong lời nguyện chung và lời cầu cho người quá cố, cộng đoàn phó dâng cho Chúa Cha đầy tình thương xót tất cả những người quá cố, để qua việc thanh tẩy trong lòng, họ được luyện sạch và được hạnh phúc trường sinh. Khi phó thác các linh hồn ấy cho Chúa, chúng ta nhìn nhận mình liên đới với họ và chúng ta tham dự vào phần rỗi của họ trong mầu nhiệm tuyệt diệu về tình hiệp thông của các thánh. Giáo Hội tin rằng các linh hồn còn bị cầm giữ trong luyện ngục được trợ giúp nhờ lời cầu nguyện của các tín hữu, nhất là bằng thánh lễ đền tội dâng trên bàn thờ cũng như bằng việc làm phúc và các việc đạo đức khác. Thực vậy, sự thánh thiện được sống thực sự chỉ phát xuất từ sự tham gia vào đời sống thánh thiện của Giáo Hội, và chính nó cũng là sự đóng góp đầu tiên và cơ bản cho sự thánh thiện của Giáo Hội vốn là một cộng đồng các thánh hiệp thông.
Vậy, tôi khuyến khích các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu nguyện cho những người qua đời, những người thân thuộc và mọi anh chị em đã quá cố, để họ được tha thứ các hình phạt do tội lỗi và được nghe tiếng Chúa gọi : "Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nơi an nghỉ đời đời trong vòng tay nhân từ của Ta đã dọn sẵn cho con hạnh phúc trường cửu".
Sau khi chiếc quan tài của bạn lạnh lùng được hạ sâu xuống lòng đất xong, mọi người ra về: 2/11-59
Sau khi chiếc quan tài của bạn lạnh lùng được hạ sâu xuống lòng đất xong, mọi người ra về mà lòng không khỏi bùi ngùi, xót xa và thương tiếc. Bởi đó là cuộc chia tay vĩnh viễn, để không bao giờ có thể nhìn thấy bạn nữa !…
Chúng tôi không thể hiểu được tại sao ngày hôm trước mới gặp nhau nhưng rồi ngày hôm sau bạn đã âm thầm lặng lẽ ra đi. Hình ảnh đau xót nhất có lẽ là khi chúng tôi phải chứng kiến cảnh tượng bạn nằm đó mà nghìn trùng xa cách…
Xưa nay mọi người vẫn thường tự hỏi “Không lẽ kiếp người lại bi đát đến thế sao ?”. Vâng, sự ra đi của bạn hiển nhiên là một quy luật bất di bất dịch của kiếp nhân sinh. “Sinh, bệnh, lão, tử”.
Nhưng hôm nay chính sự ra đi của bạn đã phục sinh tâm trạng và ý nghĩ của chúng tôi - những người còn “lang thang cõi trần” – về định mệnh của mình.
Bạn ra đi nhưng bạn vẫn còn đó. Chúng tôi tin như thế. Bạn nhắm mắt xuôi tay nhưng đó không phải là sự khép lại của cuộc sống, mà chính là sự chấm dứt của hữu hạn để mở ra vô hạn. Cái chết được nhìn nhận như một bản lề của cuộc sống. Sự im lặng của bạn chính là sự thăng hoa đã đạt đến tột đỉnh. Bạn đã về nhà Cha, ở chốn cao hơn, xa hơn…
Chúng tôi chạnh lòng nghĩ đến một nghịch lý này, đó là trong khi chúng tôi đang than khóc, tiếc nuối cho bạn thì bạn lại đang thương xót cho chúng tôi. “Sinh ký tử quy”, bạn đã đến được chỗ phải đến, đã kết thúc cuộc hành trình “Một cõi đi về”. Ngày hôm nay, sở dĩ bạn im lặng là vì cuộc sống và con người của bạn đã biến đổi. Bạn đã vượt qua không gian và thời gian để đi vào thực tại mênh mông diệu vợi của vĩnh cửu, của vô tận.
Bạn đang cao hơn, xa hơn…là chúng tôi tưởng !
Chính vì bạn cao hơn, xa hơn, kỳ diệu hơn nên chúng ta không thể “nói với nhau” bằng những cách thông thường. Nhưng bạn vẫn có “tín hiệu” đấy chứ ? Trong im lặng thẳm sâu của lòng mình, chúng tôi đã nghe được “tín hiệu” của bạn. Bạn không còn sử dụng những hoạt động bình thường như nói, nghe, suy nghĩ, cười, khóc…nữa mà duy nhất giữa chúng ta hiện hữu một sự “giao cảm” đặc biệt. Đó cũng là một sự “thông hiệp” kỳ diệu, gần gũi và sâu xa vô cùng.
Trong sự thông hiệp này, điều cần thiết và quan trọng là chúng tôi không “nói” gì mà trái lại cần “nghe” bạn nhiều hơn. Lý do chính là vì bạn đã quá hiểu cuộc sống này rồi. Phần chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn chưa có một chút kinh nghiệm nào về cuộc-sống-sau–cái-chết cả !
Bởi vậy, bắt được “tín hiệu” của bạn để “nghe” bạn “nói”, quả thực, là một điều hấp dẫn và thú vị vô cùng. Vì bạn là một Kitô hữu đích thực nên chúng tôi tin rằng bạn đang hiện hữu và hiện diện như Đức Kitô, bởi vì bạn đã ở trong Ngài, đã thuộc về Ngài. Mà Đức Kitô thì hằng sống. Vậy bạn cũng đang sống và hoạt động với Ngài, trong Ngài.
Thông điệp của bạn không gì khác hơn là sứ điệp của Đấng Phục Sinh và của Thiên Chúa.
Bạn sẽ nhắc bảo chúng tôi rằng “Về Thiên Chúa chỉ có một điều cần và đủ để nói, đó là YÊU THƯƠNG”. Bí mật của Thiên Chúa mà bạn muốn thông chia cho chúng tôi cũng là lời mạc khải của thánh Gioan : “Thiên Chúa là Tình Yêu”(Deus Caritas est).
Thật là đơn giản nhưng chắc chắn bạn đang hạnh phúc tràn đầy với “thực tại đơn giản” ấy. Hiện tại, chúng tôi chỉ có thể chạm vào sự thật đơn giản ấy bằng lòng tin yêu và hy vọng, còn bạn, bạn đã “chiếm” được rồi. Thiên Chúa như thế nào, bạn đã “xem thấy” như vậy.
Đôi lúc, vì còn trong thân xác, nên chúng tôi không hiểu rằng sở dĩ bạn “im lặng”, có khi đến lạnh lùng, chỉ vì bạn đã ở trong cõi vĩnh hằng của Thiên Chúa. Bạn vô hạn còn chúng tôi hữu hạn. Bạn tuyệt đối còn chúng tôi tương đối. Bạn bất tử còn chúng tôi đang hành trình vượt qua.
Hiện tại, khoảng cách giữa bạn và chúng tôi, xa mà gần, gần mà xa. Nhưng có một điều chắc chắn là bạn đang hút chúng tôi về với bạn. Bởi vì bạn muốn chúng tôi cùng chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với bạn. “Phúc cho những ai đã chết, mà chết trong Chúa” (Kh 14,13) * 27-10-2007
Ca dao Việt Nam thì nhiếu lắm. Nó là sự đúc kết kinh nghiệm sống của bao nhiêu người qua bao: 2/11-60
Ca dao Việt Nam thì nhiếu lắm. Nó là sự đúc kết kinh nghiệm sống của bao nhiêu người qua bao nhiêu thế hệ mà thành. Dành riêng cho chữ hiếu, ca dao Việt Nam lại càng phong phú. Có lẽ chữ hiếu đứng hàng đầu trong ca dao Việt Nam. Bất cứ ai sinh ra làm người, nếu không từ giã cuộc đời quá sớm, đều có thể chứng kiến những cái chết của những người thân yêu của mình. Là người Công giáo, chúng ta mang trong mình dòng máu Việt Nam. Vì thế, nếu người Việt Nam đặt chữ hiếu lên hàng đầu, thì người Công giáo Việt Nam lại càng khắc sâu lề luật của Thiên Chúa trao ban một cách tuyệt đối về nghĩa đạo hiếu. Bởi nếu người Việt Nam, tự bản chất, vốn yêu mến chữ hiếu, thì người Công giáo nói chung và người Công giáo Việt Nam nói riêng, có lề luật Thiên Chúa ban làm hướng đạo cho mình.
Chẳng hạn, khi khiển trách người Dothái về lối sống vụ hình thức, hay những kiểu làm dối trá nhằm tự đánh lừa lương tâm trong việc giữ đạo hiếu, Chúa Giêsu đã nói thẳng, nói dứt khoát: "Thiên Chúa dạy: ‘Ngươi hãy thảo kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử’. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thảo kính cha mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ Lời Thiên Chúa" (Mt 15, 4- 6).
Với thái độ lấp liếm như thế, họ đã bị Chúa Giêsu vạch trần: "Hỡi những kẻ đạo đức giả kia, tiên tri Isaia đã nói rất đúng về các ông: ‘Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân’" (Mt 15, 7- 9).
Bởi vậy, nếu sự hiếu thảo là trách nhiệm không thể thiếu của người Công giáo, thì tháng 11, tháng kính nhớ những người đã khuất mặt là dịp để ta ý thức lại bổn phận thảo hiếu của mình. Sự ý thức này đặt trên nền tảng của giới luật Thiên Chúa ban:
I. ĐIỀU RĂNG THỨ IV: THẢO KÍNH CHA MẸ
"Ngươi hãy thờ kính cha mẹ để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi" (Xh 20, 12).
Đó là điều răn thứ IV trong Mười điều răn, Thiên Chúa ban cho trần gian qua ông Môisen. Lặp lại chính lề luật Thiên Chúa ban, trong kinh Mười Điều răn, Giáo Hội dạy: "Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ".
Thứ tự của mười lề luật mà Thiên Chúa ban gồm hai phần rõ rệt (Xh 20, 2-17):
- Phần thứ nhất, gồm ba giới răn đầu quy về Thiên Chúa (thờ phượng một Chúa duy nhất, tôn kính danh Người, dành ngày Sabbat để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa).
- Phần thứ hai là bảy giới răn còn lại hướng về loài người (thảo kính cha mẹ, tôn trọng sự sống, giữ thân xác thanh sạch, hãy sống công bằng, giữ tư tưởng trong sạch và không tham lam), thì điều răn thứ nhất trong phần thứ hai này, không nhắm bất cứ đối tượng nào khác nhưng chính là gia đình, là cha mẹ.
Như vậy, với thứ tự như thế trong lề luật đến từ Thiên Chúa, cha mẹ chỉ đứng hàng thứ hai ngay sau Thiên Chúa. Cha mẹ cũng là đối tượng đầu tiên của tình yêu mà con người dành cho nhau. Vì thế, sau lòng kính mến đối với Thiên Chúa, con người phải dành sự kính tôn của mình đặc biệt đối với cha mẹ.
Và còn hơn bất cứ một tình yêu dành cho đối tượng nào của loài người, tình yêu dành cho cha mẹ chính là thảo kính cha mẹ mình. Ta không buộc phải yêu ai bằng tình yêu thảo kính, ngoại trừ cha mẹ. Chỉ có cha mẹ mới xứng đáng được yêu kính bằng tất cả tình yêu thiêng liêng nhất, sâu đậm nhất xuất phát tận trái tim yêu thương của một người con.
Đó là tình yêu thảo hiếu mà loài người phải sống. Không ai có quyền vượt qua lằn ranh của lề luật ấy. Bởi lề luật ấy là lề luật chính Thiên Chúa trao ban, nếu ta không tuân giữ, cũng đồng nghĩa với việc ta chống lại Thiên Chúa. Bất tuân lời của ai, là xúc phạm đến chính người đó. Không đón nhận Lời Thiên Chúa trao ban, là chính lúc ta xúc phạm đến chính Thiên Chúa, Đấng là tác giả của Lề luật.
Đạo Công giáo trước hết là đạo của tình yêu. Hiếu nghĩa nằm trong bổn phận của lòng yêu thương này. Ta không được lãng quên trách nhiệm hiếu nghĩa với những ai đã có công sinh thành mình. Chỉ có sống hiếu, con người mới có thể có khả năng chứng tỏ tình yêu của mình dành cho nhau. Bởi nếu cha mẹ, và tất cả những ai có công dưỡng dục như chính cha mẹ mình, ta không thể yêu thương thảo hiếu, làm sao có thể nói đến tình yêu dành cho anh chị em quanh mình!
II. TẤM GƯƠNG HIẾU THẢO CỦA CHÚA GIÊSU.
Rất nhiều lần Thánh Kinh, đặc biệt là các sách Tin Mừng cho thấy nơi Chúa Giêsu là cả một tâm hồn thảo hiếu. Đó là bằng chứng xác đáng và bài học cao cả cho mỗi người chúng ta.
1. Đối với Chúa Cha.
Chúa Giêsu luôn luôn làm tròn bổn phận của một người con và luôn luôn đẹp lòng Chúa Cha (Ga 8, 29). Chính Chúa Cha đã nhiều lần công khai tuyên bố Chúa Giêsu là Con yêu quý của mình, là Người Con luôn làm đẹp lòng mình (Mt 3, 17; 17, 5).
Còn Chúa Giêsu đến trần gian là để làm việc của Chúa Cha, làm theo ý Chúa Cha: "Điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy" (Ga 19). Đó cũng là lý do mà Người ưu tiên làm việc của "Cha trên trời" (Lc 3, 49). Người đã không tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm vinh quang Chúa Cha (Ga 7, 4). Bởi Chúa Giêsu nên một với Chúa Cha, vì thế, chỉ có ai hiệp nhất với Người, kẻ đó mới có Chúa Cha nơi mình, như cành nho gắn liền cây nho (Ga 15, 4; 17, 21- 23; 14, 20- 21; ). Tin Mừng còn ghi nhận Chúa Giêsu luôn luôn gặp gỡ và kết hợp với Chúa Cha trong sự cầu nguyện liên lỷ (Lc 6, 12; Mt 11,25- 26; 14, 23; 15, 23; 26, 36- 46; 26, 42- 44; 27, 46; Ga 6, 11; 11, 41; 12, 27- 28; 14, 16; 17, 1- 26…).
Nhiều lần Chúa Giêsu khẳng định, Người được Chúa Cha sai đến trần gian, vì thế Người tuân hành ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã không hành động, không giảng dạy, không xét đoán, không thực hiện điều gì mà không theo ý Chúa Cha và quy về Chúa Cha: "Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi" (Ga 6, 38. 57; 8, 16). Hay đúng hơn, chính Chúa Cha hoạt động nơi Chúa Giêsu: "Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình" (Ga 14, 10).
Chúa Giêsu luôn luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh. Người vâng phục thánh ý Chúa Cha cách tuyệt đối, dù đứng trước cái chết: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con mà xin theo ý Cha" (Mt 26, 39). Và cuối cùng, nhận lấy cái chết bi thương trên đồi Sọ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ lòng yêu mến, sự thảo hiếu của Người đối với Chúa Cha lên đến cực độ (Ga 19, 28- 30).
2. Đối với Đức Maria và thánh Giuse.
Mặc dù luôn luôn hướng về Chúa Cha, và ưu tiên thực hiện thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn không quên nghĩa vụ thảo hiếu với người cha, người mẹ trần thế của mình. Thánh Luca đã từng ghi nhận chi tiết này: "Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiaret và hằng vâng phục các ngài" (Lc 3, 51).
Về mặt nhân trần, là con của Đức Maria, và nghĩa tử của thánh Giuse, Chúa Giêsu rất mực yêu mến cha mẹ. Người là con ngoan trong gia đình Nagiaret. Người đã lao động cùng với cha mẹ trần thế để sinh sống. Là Thiên Chúa nhập thể, Chúa Giêsu hướng về Chúa Cha ngay trên trần thế, nhưng tình yêu đối với Chúa Cha nơi Chúa Giêsu, không bao giờ lấy mất tình yêu mà Người dành cho Đức Mẹ và thánh Giuse.
Dù không được nhấn mạnh khía cạnh vâng phục và yêu thương thảo kính đối với cha mẹ trần gian, nhưng các Tin Mừng, trong khi ghi nhận cuộc đời và những hoạt động của Chúa Giêsu, đã hé mở cho ta một tình yêu lớn lao mà Chúa Giêsu dành cho Đức Maria và thánh Cả Giuse.
Chẳng hạn, tại tiệc cưới Cana, chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2, 4). “Giờ chưa đến”, nghĩa là lúc đó chưa phải đã đến lúc Chúa Giêsu công khai chứng minh quyền năng Thiên Chúa của mình, nhưng Chúa Giêsu vẫn vâng lời Đức Mẹ đề nghị: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3), thực hiện phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu ngon.
Một người con thảo hiếu như Chúa Giêsu, chắc chắn không để mẹ mình phải hụt hẩng khi thốt lên lời đề nghị ấy. Dù không có gì liên can giữa "bà và tôi", và dù "giờ" chưa đến, nhưng vì Đức Maria, vì lời khẩn cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã không từ chối, nhưng đã hành động.
Trong cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu vui lòng nhận lấy tước hiệu "con của bác thợ mộc Giuse, con của bà Maria" khi được người đồng hương gán cho mình (Ga 6, 42; 7, 27; Lc 4, 22- 23). Nhất là trên thánh giá, khi biết mình sắp trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và trối thánh Gioan cho Đức Mẹ, càng là bằng chứng cho thấy tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với mẹ mình (Ga 19, 26- 27).
Phải chăng hành động trao gởi này, là cách thức Chúa Giêsu muốn an ủi Đức Mẹ, muốn làm dịu đi những đau khổ, những cô đơn mà Đức Mẹ gánh chịu? Phải chăng Chúa Giêsu mong muốn bên cạnh người mẹ của mình, luôn luôn có một người con nâng đỡ, chở che luc ấy, cũng như trong những năm tháng già nua tuổi tác?
Chúa Giêsu đã sống đạo hiếu hoàn hảo. Đến lượt chúng ta, bước theo Người, làm môn đệ của Người, chúng ta cũng hãy là những người con thảo hiếu với tất cả những ai có công sinh thành, dưỡng dục chúng ta.
III. THÁNG CÁC LINH HỒN VÀ LÒNG THẢO HIẾU.
Dù đích thực là Thiên Chúa, tấm gương làm con của Chúa Giêsu vẫn sáng mãi và được nêu cao muôn đời để bất cứ ai, nếu sống trong cuộc đời này biết mình không vô cội vô nguồn, sẽ cố gắng nên tốt lành trong trách nhiệm làm con như Người.
Có một điểm mạnh nơi Chúa Giêsu dạy ta một bài học lớn và ý nghĩa hơn bất cứ một bài học nào trong cuộc đời. Điểm mạnh đó là, dù là Thiên Chúa – Đấng hằng hữu từ đời đời, tác thành và cứu chuộc mọi loài – một khi đã chọn cho mình một người mẹ, người cha trần thế, Chúa Giêsu vẫn thảo hiếu với người cha, người mẹ ấy, huống hồ là chúng ta, những con người được sinh ra bởi những con người.
Đàng khác, tháng các linh hồn, Hội Thánh dành kính nhớ tất cả những ai đã qua đời, nay còn đang được thanh luyện trong luyện ngục. Sự kính nhớ này, trước tiên hướng về những người thân thuộc, cách riêng là tổ tiên, ông bà cha mẹ của mình. Sự tưởng nhớ dành cho những người khuất mặt không còn có thể thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể "nâng khăn, sửa túi”, nhưng là sự tưởng nhớ tận đáy tâm hồn và lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người còn sống.
Là Kitô hữu, lòng kính nhớ các Đẳng linh Hồn nói chung và ông bà cha mẹ của mỗi một người, nay đã qua đời nói riêng, có thể thực hiện bằng cách thế mà Hội Thánh hướng dẫn và chấp nhận: dâng thánh lễ, lời cầu nguyện, lời kinh, tiếng ca, sự hy sinh, chay tịnh, bố thí, lãnh bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và hòa giải… của cá nhân hay tập thể, hay của mỗi gia đình để hưởng nhờ ơn Chúa, nhường lại cho ông bà cha mẹ đã ra đi và cho cả các Đẳng Linh Hồn.
Chúa cần sự nỗ lực cộng tác của ta với ơn cứu độ của Chúa. Bởi Chúa không cứu độ loài người cách áp đặc, nhưng cần tâm hồn nhiệt thành của ta để ơn cứu độ trở thành giá trị cứu độ đích thực cho chính ta và cho anh chị em quanh mình.
Không chỉ dừng lại nơi những người đã qua đời, tháng các Linh Hồn còn nhắc ta bổn phận thảo hiếu với chính những người thân còn sống cạnh bên ta. Sách Giáo lý Công giáo khi bàn về bổn phận của con cái, đã viết: "Lòng tôn kính của con cái đối với cha mẹ (hiếu thảo) phát xuất từ sự biết ơn đối với những người đã cho chúng được và nhờ tình yêu và lao công của họ, giúp chúng lớn lên về tầm vóc, khôn ngoan và ân sủng. ‘Hãy hết lòng tôn kính cha con, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy con lấy chi đáp đền cho cân xứng’ (Hc 7, 27- 28)” (số 2215).
Thực tế của đời sống hằng ngày, ta chứng kiến biết bao cuộc chia ly rơi nước mắt của bao nhiêu người, cũng có thể là của chính ta. Nhưng trong những giọt nước mắt ấy, chắc không thiếu gì giọt ân hận vì đã sống thiếu bổn phận nghĩa hiếu. Vô phúc cho tất cả những ai phải mang niềm ân hận này suốt đời vì không sống tròn chữ hiếu.
Hãy sống ngay hôm nay, sống cho hoàn hảo chữ hiếu trong chính lúc này, lúc còn có thể sống, để mai này, dù có chia tay với người thân, lòng ta thanh thản nhẹ nhàng, không cảm thấy mất bình an vì bất hiếu. Hãy làm cho giọt nước mắt tiếc thương người thân ra đi, không lẫn một giọt hối hận cay đắng nào!
Nhưng tháng các Đẳng Linh Hồn còn nhắc ta về một chữ hiếu rộng hơn, thuộc về điều răn thứ IV. Đó là lòng biết ơn của ta đối với tất cả những ai làm ơn cho mình. Sách Giáo lý Công giáo ghi nhận: "Điều răn này còn rộng mở tới bổn phận của học trò đối với thầy, thợ với chủ, kẻ thuộc cấp đối với người chỉ huy, công dân đối với tổ quốc và với tất cả những người điều hành cai trị đất nước” (2199a).
Ca dao Việt Nam có viết: "Cây có gốc mới nở nghành sanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, người ta có gốc từ đâu? Có cha có mẹ, rồi sau có mình". Nếu lòng thảo hiếu dành cho các bậc sinh thành hết sức quan trọng đối với người Việt Nam, thì điều đó đối với các tín hữu Công giáo lại càng lớn lao và là một đòi buộc ngặt không thể thoái lui hay chối cãi. Lòng thảo hiếu của đức tin Công giáo lớn đến nổi, không chỉ là điểm quy chiếu giữa những con người với nhau, mà còn có lề luật hoàn hảo của Thiên Chúa và mẫu gương sống động của chính Đấng Thiên Chúa làm người làm chuẩn mực tuyệt đối hướng dẫn đời sống hiếu thảo của mọi người…
Lạy Chúa, xin dẫn đưa linh hồn ông bà, cha mẹ, anh chị em của chúng con đã qua đời về dự tiệc vui trong nhà Chúa muôn đời…
Niên lịch Phụng vụ năm nay giữ nguyên lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời trùng vào ngày Chúa: 2/11-61
Niên lịch Phụng vụ năm nay giữ nguyên lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời trùng vào ngày Chúa Nhật chứ không rời lại, điều này nói lên tầm quan trọng của việc nhớ đến những anh chị em đã khuất. Dù đang sống hay đã chết, ta đều có mối quan hệ với nhau và với Chúa. Nhưng đặc biệt nhất, mối quan hệ giữa ta với Đức Giê-su Ki-tô mới quyết định cho tương lai vĩnh cửu của ta. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói với ta về mối quan hệ ấy.
1. Thiên Chúa hằng sống (bài đọc Cựu Ước – G 19:1.23-27a)
Đó là lời tuyên xưng của ông Gióp, một người hoàn toàn vững lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, mặc dù ông phải trải qua biết bao gian nan thử thách. Ông không chỉ muốn tuyên xưng ngoài miệng, nhưng còn ước ao lời tuyên xưng này được ghi chép để đời. Vậy ông tuyên xưng điều gì về Thiên Chúa? Ông tuyên xưng rằng: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất”. Vẫn sống có nghĩa là hằng sống, vĩnh cửu, không bao giờ bị mai một. Vũ trụ luôn biến đổi. Núi non, sông biển không thể tồn tại theo thời gian. Cỏ cây, sinh vật cũng chỉ có thời, rồi phải chết. Sau cùng, tất cả đều biến đổi, ngoại trừ Thiên Chúa, vì “Người đứng lên trên cõi đất”, hay nói rõ hơn, Người có uy quyền tuyệt đối trên mọi tạo vật vì Người là Đấng Tạo dựng.
Tuy nhiên, việc ông Gióp tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng hằng sống không đơn thuần là hình ảnh một Thiên Chúa ở ngoài quan hệ với con người, mà là một Thiên Chúa đã tạo dựng con người để họ sống trên mặt đất, đồng thời là một Thiên Chúa muốn con người sẽ được hạnh phúc “ngắm nhìn” Người vĩnh viễn. Nói khác đi, Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của những người sống cuộc sống lữ hành trên đời này, mà còn là Thiên Chúa của những người được sống cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Niềm tin này của ông Gióp đặt nền móng cho niềm tin vào sự sống đời đời, sự sống các tín hữu tốt lành đã khuất đang chờ đợi được Thiên Chúa thưởng ban.
Ngoài đức tin vào Thiên Chúa là Đấng hằng sống, ông Gióp còn nói lên niềm vào sự sống đời sau. Cuộc sống đời này là tạm bợ, vì “da tôi đây bị tiêu hủy”. Nhưng cuộc sống mai sau là cuộc sống vĩnh cửu, vì “được nhìn ngắm Thiên Chúa” là Đấng vĩnh cửu. Cuộc sống vĩnh cửu sẽ kết hiệp ta với Thiên Chúa trong mối quan hệ không bao giờ mất được. Trong cuộc sống đời này, rất nhiều khi ta thấy Thiên Chúa là “người xa lạ”; nhưng trong cuộc sống mai sau, ta được hiệp nhất với Thiên Chúa tình yêu. Với tình yêu, Thiên Chúa không bao giờ là người xa lạ đối với ta và ngược lại ta không xa lạ đối với Thiên Chúa và sẽ không phải nghe lời Người quở mắng: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7:23).
2. Kế hoạch Thiên Chúa ban cho ta sự sống đời đời (bài Tin Mừng – Ga 6:37-40)
Thiên Chúa không chỉ ban cho ta sự sống thể chất chóng qua, nhưng Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Thực ra trong chương trình tạo dựng, sự sống đời đời đã là đối tượng: cuộc sống trong vườn địa đàng là biểu tượng cho sự sống đời đời. Nhưng sau khi phạm tội bất tuân, nguyên tổ loài người đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và phải lãnh nhận hậu quả tội mình là cái chết. Thiên Chúa muốn sửa lại những đổ vỡ do tội lỗi con người gây nên và ban lại cho con người sự sống đời đời. Người sửa lại bằng cách sai Con Một là Chúa Giê-su Ki-tô xuống thế thực hiện một kế hoạch. Chúa Giê-su đã công bố kế hoạch này hết sức rõ ràng: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:38-39). Được “sống lại trong ngày sau hết” chính là khởi đầu cho cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng điều kiện để có được khởi đầu tốt đẹp này, người ta phải “thấy người Con và tin vào người Con”. Thấy không phải bằng con mắt thịt, nhưng bằng con mắt tâm hồn, bằng trái tim và ý chí quyết theo Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su sẽ cho ta được sống lại trong ngày sau hết. Đây là điều vô cùng quan trọng. Hẳn ta còn nhớ Chúa đã khẳng định với bà Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (Ga 11:25). Khi nói “Thầy là sự sống lại”, Chúa Giê-su đã cho ta thấy Người là tác nhân phục hồi sự sống cho kẻ đã chết, hoặc chính Người chủ động làm cho kẻ đã chết được sống lại. Việc Người cho ông La-da-rô sống lại là hình ảnh báo trước việc Người sẽ cho tất cả những ai tin vào Người được sống lại trong ngày sau hết.
Thiên Chúa dùng Con Một Người để ban cho ta sự sống lại và sự sống đời đời. Tuy nhiên cứu độ không phải là việc Thiên Chúa áp đặt, mà là hồng ân loài người được tự do lãnh nhận hoặc chối từ. Hay nói theo kiểu nói của Chúa Giê-su, ta được quyền tự do “đến với Người” hoặc từ chối Người. Nếu ta đến với Người, Người sẽ dạy và giúp ta “sống lại” mỗi ngày trong cuộc đời. Thực vậy, sống lại trong ngày sau hết không phải là biến cố đột xuất và thiếu chuẩn bị. Trái lại, người tín hữu phải “sống lại” mỗi ngày, để trở nên hoàn thiện hơn, giống Chúa Ki-tô hơn, gần ngưỡng cửa thiên đàng hơn. Cuộc sống lại liên tục ấy được thực hiện nhờ cố gắng của ta, do ân sủng Chúa Ki-tô và sức mạnh đổi mới của Chúa Thánh Thần.
3. Ta được sống đời đời là nhờ cái chết của Chúa Ki-tô (bài đọc Tân Ước – Rm 5:5-11)
Chúa Giê-su mặc khải kế hoạch Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta được thực hiện qua bản thân Người. Còn thánh Phao-lô lại giải thích rõ ràng hơn về phương thức Chúa Giê-su đã thực hiện kế hoạch ấy. Ngài nêu lên yếu tố đem lại sự sống đời đời, đó là cái chết của Chúa Ki-tô. Thật là lạ lùng! Cái chết của Chúa Ki-tô đầy ý nghĩa. Thánh Phao-lô đã đề cao cái chết hoàn toàn có tính cách hy sinh của Chúa Ki-tô khi ngài lý luận như sau: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”. Giả như ta hết thảy đều là người công chính hoặc lương thiện thì cái chết của Chúa Ki-tô vì chúng ta cũng chưa nói lên được mức độ yêu thương. Nhưng vì ta hết thảy đều là những kẻ tội lỗi nên cái chết của Chúa Ki-tô mới nói lển mức độ Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế nào.
Quả thực, Chúa Giê-su đã đóng vai trò A-đam Mới, làm ngược lại tất cả những gì A-đam cũ đã làm. A-đam cũ thì lấy cái sống để gieo cái chết cho toàn thể nhân loại. Ngược lại, Chúa Giê-su thì lấy cái chết để đem lại sự sống cho loài người. A-đam cũ lấy sự sống mà mang lại hận thù và chia rẽ (Ca-in giết A-ben), còn Chúa Giê-su lấy cái chết để chứng minh tình yêu của Thiên Chúa và hòa giải ta với Thiên Chúa. Hòa giải với Thiên Chúa là bước đầu đưa ta đến việc được cứu độ.
Cái chết của Chúa Giê-su không phải là cái chết nhẹ nhàng, nhưng là cái chết đổ máu trên thập giá. Máu Chúa Ki-tô không những hòa giải ta với Thiên Chúa, giống như máu con chiên bị sát tế trong Đền Thờ, nhưng Máu Chúa Ki-tô còn đem lại cho ta sự sống, giống như máu con chiên vượt qua đã cứu sống dân Ít-ra-en.
Khi cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, ta không những sống mối quan hệ đã từng có với họ, mà còn đặc biệt nhận thức mối quan hệ giữa Chúa Ki-tô và các tín hữu còn sống cũng như đã qua đời. Cũng như họ, ta đã được nên công chính và hòa giải với Thiên Chúa nhờ Đức Ki-tô thì ta với họ đều sống niềm hy vọng được cứu thoát trọn vẹn trong tương lai. Họ là những người đang chờ đợi tương lai, còn ta sống trên trần gian thì đang chuẩn bị cho tương lai. Đích tới của tất cả cùng là được sống hạnh phúc bên cạnh Thiên Chúa.
4. Sống lời Chúa
Thiên Chúa là Đấng hằng sống mời gọi ta chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Người. Nhờ cái chết và phục sinh của Chúa Ki-tô, Thiên Chúa thực hiện kế hoạch giúp ta thoát khỏi nanh vuốt của tội lỗi và tử thần, để Người tiếp tục mời gọi ta sống ơn công chính hóa làm con cái xứng đáng của Người. Mầm sống vĩnh cửu đã được gieo vào lòng ta cần được nuôi dưỡng phát triển do nỗ lực của ta và nhờ ơn sủng Chúa ban, để được viên mãn trong tương lai. Các tín hữu đã qua đời là những người đã cố gắng sống ơn gọi ấy và đang chờ đợi ơn cứu độ trọn vẹn. Để sống mối quan hệ với họ và với Chúa Giê-su, ta đặc biệt nhớ đến họ trong ngày lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời. Tuy nhiên, đây không phải là dịp duy nhất để ta làm điều ấy, nhưng ta có thể nhớ đến họ bất cứ khi nào, đặc biệt trong phần cầu nguyện cho những người đã qua đời của Thánh lễ và những lúc ta cầu nguyện riêng.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su nói: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi”. Vậy tôi có đến với Chúa Giê-su không? Đến để làm gì? Tôi có “thấy” Người bằng con mắt đức tin không và tôi có “tin vào” Người không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhận lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho lòng chúng con luôn trông cậy vững vàng. Chính Đức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, lễ cầu cho các Tính hữu đã qua đời).
Tháng 11 hằng năm, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời:” Ngay từ : 2/11-62
Tháng 11 hằng năm, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời:” Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Hội Thánh lữ hành đã hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã qua đời, vì cầu nguyện để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh ( 2 Mcb 12, 45 ). Chúng ta hãy dâng thánh lễ và các việc lành để cầu cho các tín hữu đã qua đời “.
Quả là hạnh phúc và đầy tin tưởng đối với những tín hữu còn sống và đã qua đời bởi vì mầu nhiệm các thánh thông công. Người sống và người chết xem ra xa cách, nhưng trong lòng tin lại rất gần gũi nhau. Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau :” Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”. Và rồi, nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau :” Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha…”.
Như thế, có một sự gắn bó mật thiết giữa kẻ sống và người chết, có một sự linh thánh đan kết giữa thế giới con người với thế giới vô hình. Cầu nguyện cho những người đã khuất cũng có nghĩa là chúng ta nghĩ đến chính cái chết của mỗi người chúng ta. Con người còn sống đang đứng giữa vực thẳm sâu vời vợi của sự chết, tưởng chừng giữa người chết và kẻ sống không bao giờ có thể gần gũi nhau được. Nhưng trong lòng tin chết thay đổi chứ không mất đi, một cách vô cùng huyền nhiệm, thánh thiêng, người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi giây vô hình nhưng mật thiết thâm sâu.Do đó, sự chết đối với chúng ta là những Kitô hữu không còn là một ngõ cụt, không còn là một chấm hết, nhưng trong tình yêu của Đức Kitô “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ) đã nối kết người sống và người chết bằng một mối giây yêu thương bất diệt.Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Thessalonica và trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô đã viết :” Như Chúa Giêsu đã chết và sống lại, thì những ai đã an giấc trong Người, cũng sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng với Người. Và, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng sẽ được Thiên Chúa cho sống “.
Chúa Giêsu đã phán :” Chính Tôi là sự sống lại. Ai tin vào Tôi, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Tôi, sẽ không phải chết bao giờ “ ( Ga 11, 25-26 ). Đức Kitô là tình yêu. Nên, yêu thương chính là sinh lại và được sống trong sự sống mới của Chúa.
Tháng 11, Hội Thánh thúc giục chúng ta nhớ tới những người quá cố. Đây cũng là dịp để chúng ta đền ơn báo hiếu tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người thân thương trong gia đình. Đây cũng là dịp tốt để chúng ta tưởng nhớ đến những người đã làm ơn cho chúng ta bằng cách này hay cách khác. Và như thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta tích cực, siêng năng tham dự thánh lễ, lần chuỗi Mân Côi, đọc kinh cầu nguyện, làm những việc lành phước đức để cầu nguyện cho các linh hồn. Tháng 11, Giáo Hội cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến bến bờ, nhớ đến đích đến bởi vì cuộc sống trần thế chỉ là tạm bợ mà thôi.
Thiên Chúa là đích, là bến bờ. Chúng ta hãy nhắm đích mà tiến bước. “ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thánh Thần của Người, đang ngự trong anh em, để làm cho thân xác phải chết của anh em được sự sống mới “ ( Rm 8, 11 ) hoặc “ Chúng ta nóng lòng mong đợi Đấng Cứu Độ, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người “ ( Pl 3, 20-21 ).
Xin Chúa nâng đỡ, tăng thêm đức tin còn yếu kém của chúng con để chúng con luôn một niềm hy vọng rằng lời cầu nguyện, những việc lành của chúng con làm và thánh lễ chúng con dâng cầu cho các linh hồn, sẽ được Chúa thương giải thoát. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Có người nói chết là hết, ông bà anh chị em nghĩ thế nào ? 2. Tại sao Giáo Hội lại dành tháng 11 để cầu cho những người quá cố ? 3. Cầu nguyện cho những người quá cố là nghĩa vụ hay bổn phận ? 4. Yêu thương là gì ? 5. Nghĩa cử bất tử là gì ?
"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Suy Niệm:
Ngày 2 Tháng 11 Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời (Ys 25,6-9; 1C 15,51-67; Yn 6,51-59)
Là việc rất hợp lý, khi chúng ta mừng lễ các thánh ở trên trời ngày hôm qua, thì ngày hôm nay: 2/11-63
Là việc rất hợp lý, khi chúng ta mừng lễ các thánh ở trên trời ngày hôm qua, thì ngày hôm nay chúng ta lại kính nhớ các linh hồn ở trong luyện ngục. Đó có thể nói chỉ là hai mặt của một mầu nhiệm, mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Chúng ta tin rằng tất cả những ai đã an nghỉ trong Chúa vẫn còn hiệp thông với cộng đồng các tín hữu Chúa đang sống ở đời này. Hết thảy mọi người còn liên kết với Đức Yêsu, thì cho dù họ chết hay họ sống, họ vẫn ở trong Thân Thể mầu nhiệm của Người. Và vì thế họ vẫn liên hệ với nhau như các tế bào và bộ phận trong cùng một thân thể.
Mầu nhiệm hiệp thông này, cộng đồng Dân Chúa không bao giờ muốn quên. Đặc biệt mỗi khi họp nhau cử hành phụng vụ, những người sống vẫn nhớ đến những anh em đã ra đi trước về đời sau. Trong số những người này, theo quan niệm thông thường, một phần giờ đây đang ở trên Thiên quốc, tức là đã xứng đáng ở trước mặt Chúa, diện đối diện; phần còn lại đang chờ được tinh luyện thêm để đáng được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa mà không phải hổ ngươi.
Người ta phân chia ra như vậy căn cứ vào lòng tin đánh giá rất cao sự thánh thiện của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người trong cuộc sống ở trần gian này. Nhưng chẳng ai có thể biết tỷ lệ giữa hai thành phần như thế nào. Chỉ biết đang khi Lời Chúa mạc khải về số các thánh trên trời thì nhiều không thể đếm được, chẳng có mạc khải nào về số các tín hữu ở trong luyện ngục. Đó có thể là một điều phấn khởi cho chúng ta mỗi khi nghĩ đến số phận anh em đã ra đi trước chúng ta về đời sau. Hơn nữa, chúng ta còn có những bài sách Thánh như Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay cho phép chúng ta nghĩ về thế giới các linh hồn với lòng đầy tin tưởng.
A. Chúa Sẽ Tế Độ
Thật vậy, ngay Isaia cũng đã rao giảng cho Dân Chúa một niềm tin vô cùng phấn khởi. Có lẽ bấy giờ ông chỉ thấy Yêrusalem tiêu điều tang tóc vì bị quân thù tàn phá. Ông đã nói lên những lời tiên tri của Chúa để Dân đang khóc lóc tin tưởng vào Đấng có thể tế độ. Ông nhìn thấy Chúa sẽ thết muôn dân một tiệc linh đình trên núi Sion. Các nước sẽ đổ về. Tiệc đầy cao lương. Rượu hãm từ lâu. Không còn thấy ưu sầu tang tóc nữa. Mọi người được lau sạch nước mắt. Dân Người hết mọi tủi nhục. Và đặc biệt nhất chính tử thần cũng bị vùi đi.
Như đã nói, có lẽ lúc đầu Isaia chỉ muốn đem lại cho con cái Yêrusalem một niềm tin vào sự thay đổi vận mạng trong một tương lai gần. Nhưng Thánh Thần đã đưa tâm trí ông đi thật xa và đã hướng dẫn tư tưởng ông về thời cánh chung, ông không nói riêng về vận mạng Yêrusalem nữa; nhưng đã nhìn thấy tương lai cuối cùng của moị dân tộc. Chúa sẽ ngự xuống trên Núi Thánh của Người để tế độ mọi dân nước. Người làm như một hoàng đế lớn mở tiệc đãi muôn dân thiên hạ, vì chính Người đã giơ tay gỡ đi cái khăn liệm phủ khắp muôn dân và cái màn sô đan khắp các nước, đã từng che mắt con người khi còn sống và phủ lên thân thể họ khi đã chết. Người sẽ vùi dập tử thần, là kẻ thù cuối cùng của con người. Người sẽ ban lại cho nhân loại nhục nhã và khóc lóc vì tội lỗi, vẻ mặt hân hoan sáng sủa của dân được cứu độ.
Viễn tượng ấy thật là táo bạo. Người ta không thể nghĩ ra được. Đó thật là mạc khải của Chúa. Người cho chúng ta thấy lòng thương bao la của Người. Và cả quyền năng cao cả của Người nữa, vì không oai hùng và kỳ diệu sau khi vùi dập được tử thần, nhấc được khăn tang che khắp mặt đất, làm cho nhân loại khóc than, tủi hổ được hân hoan tươi sáng? Chắc chắn Isaia có thể tin như vậy là vì ông biết Chúa là Đấng tín thành sẽ giữ mọi lời giao ước. Ngay từ ngày gọi Abraham, Người đã chẳng hứa sẽ chúc phúc cho dòng dõi của ông và muôn dân thiên hạ sao? Quang cảnh thời cánh chung mà Isaia mô tả trong bài sách hôm nay đã tựa vào Lời Chúa và vào chính Người. Thế nên ông đã kết thúc bằng những câu:
"Trong ngày ấy, người ta sẽ nói: này đây Thiên Chúa của ta; chính nơi Người, ta trông cậy... Ta hãy hân hoan sung sướng trong ơn tế độ của Người".
Tuy nhiên, đối với chúng ta hiện nay, niềm tin vào hạnh phúc mai ngày còn có những cơ sở rõ ràng và chắc chắn hơn nữa, mà bài Tin Mừng hôm nay là một. Chúng ta hãy nghe Lời Chúa theo tác giả Yoan.
B. Người Ta Sẽ Được Sống Đời Đời
Theo mạch văn, hôm ấy Đức Yêsu đang nói với người Do Thái về Bánh hằng sống... Họ đã đến tìm Người vì hôm trước thấy phép lạ Người nuôi mấy ngàn dân với 5 cái bánh và 2 con cá. Người bảo họ hãy tìm kiếm Bánh hằng sống chứ đừng chỉ lo có bánh ăn vào rồi lại đói. Họ xin Người giới thiệu thứ Bánh ban sự sống muôn đời đó. Và Người đã làm cho họ hiểu: Bánh đó là chính Người đã được Chúa Cha sai đến trần gian. Người đã nói lời hằng sống cho họ. Họ hãy tin và giữ Lời Người để được sống muôn đời.
Nhưng Bánh hằng sống cũng còn là chính Người nơi mầu nhiệm Thịt và Máu Người... Đó là điều Người muốn tuyên bố trong đoạn Tin Mừng Yoan hôm nay.
Đối với chúng ta đã có đức tin, những lời này thật là sáng sủa. Nhưng đối với người Do Thái thời bấy giờ và người chưa có đức tin ngày nay, đó là những lời rất sống sượng. Ai mà chấp nhận được? Trước hết, ai có thể lấy thịt máu mình cho người khác ăn? Họa chăng chỉ có nơi những bộ lạc man rợ ăn thịt người. Và cho dù có như vậy đi nữa, thì kết quả cũng chẳng thể nào có sự sống đời đời.
Thế nên, ở đây Đức Yêsu đã không nói theo nghĩa đen. Chẳng bao giờ Người nghĩ đến chuyện có thể đem máu thịt trong thân thể hữu hình của Người cho người ta làm của ăn và của uống. Tuy nhiên khi nói như vậy, Người đã chắc chắn sẽ ban Thịt Máu của Người cho người ta. Và Người đã làm điều đó trong cuộc tử nạn. Người đã nộp mình và đổ máu ra vì phần rỗi của mọi người.
Cụ thể, việc ấy đã xảy ra một lần trong lịch sử, bởi vì Đức Yêsu chỉ có một thân thể hữu hình thôi. Thân thể thịt máu ấy, Người đã ban cho nhân loại khi chấp nhận chịu nộp trong tay lý hình để chúng làm cho Người phải đổ máu ra cho đến giọt cuối cùng. Nhưng vì là Thiên Chúa, Người còn làm được việc mà chẳng con người nào có khả năng làm. Người có thể làm cho việc ban Thịt và Máu cho loài người vượt ra khỏi khuôn khổ thời gian và không gian.
Quả vậy, chiều tối trước ngày chịu nạn, Người đã ngồi bàn ăn với môn đệ. Và trong bữa ăn này Người đã cầm lấy bánh rượu đưa cho môn đệ và bảo họ hãy cầm lấy mà ăn mà uống vì đó là Mình và Máu Người sẽ bị nộp và sẽ đổ ra vì phần rỗi của loài người. Lúc ấy, Lời Người nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay mới rõ ràng. Người ta mới thấy làm sao Người có thể ban Thịt và Máu Người làm của ăn của uống. Và bí tích Thánh Thể này ban sự sống, vì Mình Máu Chúa ban nơi đây là để chịu nộp và đổ ra trong mầu nhiệm Thánh giá vì phần rỗi của loài người.
Chúng ta tin như vậy và không cần giải thích thêm. Chúng ta chỉ cần lưu ý một điểm: Chúa đã ban Thịt Máu Người không những cho người ta được sống, sống sự sống Thiên Chúa, mà còn cho được sống đời đời, là sống mãi mãi; không phải sống sự sống trần gian nhưng là sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chính tư cách trường sinh này làm cho "Bánh hằng sống" của Chúa ban khác với mọi lương thực khác, kể cả manna mà người Do Thái đã được ăn nơi sa mạc, vì những kẻ ăn manna cũng đã chết; nhưng những người ăn Bánh của Chúa sẽ được sống muôn đời. Và để khẳng định rõ hơn, Người đã nói: Người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết; nghĩa là Mình-Máu Chúa không giữ người ta trong sự sống ở đời này, mà chỉ đảm bảo sự sống đời đời của họ. Hiện nay sự sống ấy còn bị che giấu trong thân xác của họ, nhưng khi xác đất vật hèn này đã bỏ sự hư nát đi, sự sống ấy sẽ tỏ hiện và tồn tại muôn đời.
Đó là niềm tin của chúng ta. Nó củng cố và giải thích niềm tin của Isaia cũng như của mọi người công chính. Ai ai cũng muốn sự sống đời đời và hạnh phúc trường sinh. Nhưng phải đợi Chúa Yêsu đến đem lại bảo chứng cho lòng trông đợi của người ta. Người thí mạng sống mình để tiêu diệt tội lỗi và sự chết. Việc phục sinh của Người làm chứng Thiên Chúa đã vùi dập tử thần và cất nhắc chiếc khăn tang trùm trên các nước. Người ban Thịt Máu Người cho chúng ta nơi Bí Tích Thánh Thể để chúng ta được sự sống đời đời ngay từ bây giờ. Chúng ta hãy đón nhận, giữ lấy và phát triển cho đến ngày đi vào cõi trường sinh. Bao giờ và thế nào?
Chúng ta hãy nghe lời thư Phaolô.
C. Anh Em Hãy Ở Kiên Vững
Các người Corinthô nói riêng và mọi tín hữu thời thánh Tông đồ nói chung đã có niềm tin như chúng ta. Họ tin rằng Lời Chúa hứa ban sự sống đời đời cho mọi kẻ ăn Thịt và uống Máu Người. Nhưng nhiều tín hữu của Chúa đã qua đời. Những người đang sống cũng sẽ chết nếu Chúa không mau trở lại vùi dập tử thần đang đe dọa đời sống con người. Phải hiểu Lời Chúa hứa làm sao?
Thú thật, thánh Phaolô bấy giờ cũng có lúc tưởng Ngày Chúa đến không còn xa. Về sau ngài không nghĩ như vậy nữa. Nhưng ngay từ đầu, ngài đã khẳng định không ai có thể đi vào sự sống đời đời với cái thân xác hư nát hiện nay. Nó phải biến đổi. Thân xác những anh em tín hữu đã qua đời đang biến đổi rồi. Thân xác những người đang sống mà gặp Ngày Chúa đến cũng sẽ biến đổi. Nó phải bỏ sự hư hoại để mặc lấy sự bất tử. Chúng ta không hiểu được sự biến đổi này thế nào. Nhưng chắc chắn sẽ có sự trường sinh, vì "nọc của sự chết là tội, mãnh lực của tội là Lề luật"; thế mà tạ ơn Thiên Chúa, Người đã ban cho chúng ta toàn thắng tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô. Chính Người đã giải thoát chúng ta khỏi Luật pháp, cứu chuộc ta khỏi tội lỗi, và toàn thắng sự chết cho chúng ta trong mầu nhiệm tử nạn - phục sinh. Thế nên ở nơi Người, chúng ta có sự sống đời đời - Người thông ban cho chúng ta nơi Bí tích Mình Máu Người. Chúng ta hãy kiên vững!
Lời khuyên này an ủi chúng ta ngày hôm nay khi nhớ đến các tín hữu đã qua đời. Chúng ta không chắc chắn về số phận cụ thể của họ bây giờ như thế nào. Nhiều người lại là thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Nhưng chúng ta có niềm tin. Chúng ta tin vào Lời Chúa hứa ngay từ thời các tổ phụ Dothái, mà bài sách Isaia hôm nay còn nhắc lại. Đặc biệt chúng ta tin vào Lời Chúa Yêsu Kitô. Các anh em tín hữu của chúng ta đã tin theo Chúa và lãnh nhận Bí tích Thánh Thể là Bánh ban sự sống đời đời, thì chúng ta tin họ đang chờ ngày sống lại, trong ngày sau hết. Và khi tin như vậy, chúng ta thấy rõ nghĩa vụ hiện nay của mình; vừa phải năng chịu lấy Mình Máu Thánh Chúa cho mình, vừa phải cậy trông Bí tích tử nạn - phục sinh có sức tế độ các linh hồn đã qua đời. Nhất là chúng ta phải chứng tỏ sức mạnh của Lời Chúa và của Mình Máu Thánh Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận bằng nếp sống phù hợp hơn với mầu nhiệm thánh giá cứu độ của Chúa Yêsu Kitô. Chính khi có nếp sống như vậy mà nghĩ đến các tín hữu đã qua đời để dâng lễ và cầu nguyện cho họ, thì chúng ta chắc chắn Chúa sẽ cất khăn tang đang phủ trên họ và lau sạch nước mắt cho họ để họ được mừng rỡ trong ánh sáng của sự sống trường sinh.
Với những tâm tình như vậy, chúng ta hôm nay hãy dâng lễ và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, đặc biệt cho bà con quyến thuộc và bằng hữu của chúng ta.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Những tài liệu lịch sử về lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên của Hội Đồng Giám Muc Việt Nam: 2/11-64
Những tài liệu lịch sử về lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên của Hội Đồng Giám Muc Việt Nam
VietCatholic xin đăng lại dưới đây những tài liệu lịch sử của Hội Đồng Giám Muc Việt Nam đã được dùng làm những hướng dẫn quan trọng cho các lễ nghi tôn kính ông bà tổ tiên của người Công Giáo Việt Nam.
u QUYẾT NGHỊ VỀ LỄ NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN
Thông cáo
Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc: 2/11-20
Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14-6-1965, về các lễ nghi tôn kính Ông Bà tổ tiên, như sau:
"Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động" (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14-06-1974)
1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày "kỵ nhật" được "cúng giỗ" trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm "Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên" trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.
5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các "yêu thần, tà thần".
Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm... Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải "thảo kính cha mẹ", đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tại Nha Trang ngày 14-11-1974
Ký tên:
- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Quy Nhơn
v THÔNG CÁO của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về việc tôn kính tổ tiên, Ngày 20-10-1964.
Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thụ Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam.
Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây: I.- Giáo hội Công Giáo đối với nền văn hóa và truyền thống các dân tộc.
1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật Viện, ngày 20-2-1946).
2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).
3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là "đường đi, là chân lý và là nguồn sống" và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa với muôn vật.
Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 20-11-1964)
Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã giải thích lý do của quyết định Tòa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đã cho công bố thông cáo này.
II. Thể thức áp dụng Huấn thị Plane compertum est.
1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.
2) Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL1917).
3) Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Tòa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.
Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965
wSacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492
§1 Người tín hữu không được phép tham dự cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức của người không Công giáo.
§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài vì trách nhiệm dân sự hoặc vì danh tiếng, bởi có lý do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đã được Giám mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công Giáo, các đám cưới và những cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh lợi.
Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ ở Einsiedeln, Thụy Sĩ, vào ngày Lễ Nến 2-2-1968: 2/11-65
Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ ở Einsiedeln, Thụy Sĩ, vào ngày Lễ Nến 2-2-1968. Đền thánh được các tín hữu Công Giáo năng lui tới kính viếng, hành hương.
Nhưng mùng 2 tháng 2 năm ấy là một ngày trong tuần và trời mùa đông thật lạnh. Đền thánh vắng vẻ không một bóng người. Bà Aloisia Lex đến đền thánh cầu nguyện cùng với mấy người bà con. Đang quỳ cầu nguyện bỗng bà đưa mắt nhìn lên bàn thờ chính và trông thấy một Nữ Tu cao tuổi đang đứng đó. Nữ Tu mang y phục đan sĩ, nhưng tu phục trông thật cổ xưa, như thuộc về mấy thế kỷ trước. Bà liền tiến về phía Nữ Tu và được Chị trao cho một tờ giấy kinh. Bà nhận lấy và lơ đãng bỏ vào túi. Cùng lúc ấy, một hiện tượng lạ lùng diễn ra. Cửa nhà thờ bỗng mở toang và bà trông thấy một đoàn ngũ tín hữu hành hương, đông vô kể, tiến vào nhà thờ. Các tín hữu ăn mặc thật nghèo nàn và chân lướt trên mặt đất, giống như những bóng ma. Đoàn tín hữu hành hương dài như bất tận, cứ tiếp tục nối đuôi nhau tiến vào nhà thờ. Trong nhà thờ, có một Linh Mục đứng đó và hướng dẫn cho các tín hữu biết phải đi đâu.
Trông thấy đoàn tín hữu đông vô kể bà tự hỏi: - Làm sao đền thánh nhỏ bé lại có thể chứa hết một đoàn người hành hương đông đảo đến như thế!?
Vừa thắc mắc tự hỏi, bà vừa quay mặt đi hướng khác, trong khoảnh khắc vừa bằng thời gian thắp lên một ngọn nến. Nhưng khi nhìn lui thì bà lại thấy nhà thờ trống trơn, vắng vẻ như trước!
Lòng đầy kinh ngạc, bà Aloisia Lex chạy đến hỏi những người bà con thì họ cho biết là họ không trông thấy một ai, kể cả Nữ Tu cao tuổi! Bà Aloisia bối rối, không biết mình mơ hay thật. Nhưng khi cho tay vào túi thì bà lại rút ra tờ giấy Kinh mà Nữ Tu đã trao cho bà. Tờ giấy Kinh là bằng chứng bà không mơ! Đây là Kinh do chính Đức Chúa GIÊSU dạy thánh nữ Mechtilde đọc trong một lần Ngài hiện ra với thánh nữ.
Thánh nữ Mechtilde (1241-1299) là người Đức. Thánh nữ được đặc ân trông thấy Đức Chúa GIÊSU hiện ra nhiều lần. Và một trong những lần hiện ra ấy, Đức Chúa GIÊSU đã dạy cho chị Kinh Lạy CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục. Tiếp đó, cứ mỗi lần đọc Kinh Lạy CHA này, thánh nữ Mechtilde trông thấy đông đảo các Linh Hồn trong Luyện Ngục được rước về Trời.
Sau đây l Kinh Lạy CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục:
Lạy CHA chúng con ở trên trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Thiên Quốc, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không yêu mến CHA đủ, cũng không tôn vinh CHA cân xứng, đúng với địa vị của CHA, Đấng vừa là Chúa vừa là CHA, đã vì lòng nhân lành mà nhận các Linh Hồn làm con của CHA. Trái lại, các Linh Hồn vì phạm tội mà xua đuổi CHA ra khỏi lòng họ, nơi mà CHA vẫn hằng mong muốn ở lại.
Để đền bù các lỗi phạm này, con xin dâng CHA tình yêu và lòng kính trọng mà Con CHA nhập thể, đã bày tỏ cùng CHA, suốt thời gian sống tại thế. Con cũng xin dâng CHA mọi việc hãm mình, mọi đền bù mà Con CHA đã làm và chính nhờ các việc lành này mà Con CHA tẩy xóa và chuộc đền các tội lỗi loài người. Amen.
Chúng con nguyện danh CHA cả sáng. Con nài van CHA, lạy CHA chí lành, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tôn vinh danh thánh CHA cách cân xứng. Các Linh Hồn đã nhiều lần gọi tên CHA cách bất cẩn và đã làm ô danh tên gọi Kitô-hữu bằng đời sống bất xứng của mình.
Để đền bù tội lỗi các Linh Hồn đã phạm, con xin dâng lên CHA mọi danh dự mà Con Chí Ái CHA đã làm cho danh CHA được cả sáng, bằng lời nói và bằng việc làm, suốt trong thời gian tại thế của Con CHA. Amen.
Nước CHA trị đến. Con cầu xin CHA, lạy CHA chí nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tìm kiếm cũng không hề ước mong cho Nước CHA trị đến, ước mong với lòng nhiệt thành và chú tâm đến Nước CHA, là Nước duy nhất nơi được an nghỉ đến muôn đời.
Để đền bù cho sự hờ hững làm việc lành của các Linh Hồn, con xin dâng lên CHA niềm mong ước dạt dào của Con Chí Thánh CHA, Ngài không ngừng cầu mong cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục được mau mau vào hưởng hạnh phúc trong Nước của Ngài. Amen.
Ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA chí nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn đặt ý muốn của họ dưới ý muốn của CHA; họ đã không chu toàn thánh ý CHA trong mọi sự và rất thường khi, họ chỉ sống và hành động theo ý muốn của họ mà thôi.
Để đền bù cho sự bất tuân của các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, con xin dâng lên CHA sự thuần thục hoàn hảo của Trái Tim đầy tình yêu của Con Chí Thánh CHA đối với thánh ý CHA và sự tuân phục sâu xa nhất mà Con CHA bày tỏ cùng CHA, khi Con CHA vâng phục CHA cho đến chết trên Thánh Giá. Amen.
-------------------
Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Con cầu xin CHA, lạy CHA chí nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn lãnh Bí Tích Thánh Thể với lòng ao ước đủ; các Linh Hồn cũng thường nhận Bí Tích này với sự lo ra chia trí và không có lòng mến, hay đôi lúc còn dám nhận lãnh cách bất xứng, hoặc tệ hại hơn nữa, đó là chểnh mãng trong việc nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể.
Để đền bù mọi tội lỗi trên đây mà các Linh Hồn đã vấp phạm, con xin dâng lên CHA sự thánh thiện cao cả và sự trầm mặc lớn lao của Đức GIÊSU KITÔ, Chúa chúng con, Con Chí Thánh CHA, cũng như tình yêu nhiệt thành mà qua đó, Đức Chúa GIÊSU đã ban cho chúng con hồng ân khôn sánh là bí tích Thánh Thể. Amen.
Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vì đã vấp ngã phạm bảy mối tội đầu, cũng như không muốn yêu thương, cũng chẳng tha thứ cho kẻ thù của mình.
Để đền bù cho mọi tội lỗi trên đây, con xin dâng lên CHA lời kinh đượm đầy tình yêu mà Con Chí Thánh CHA đã thân thưa cùng CHA, xin CHA thứ tha cho kẻ thù của Ngài, lúc Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá. Amen.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Con cầu xin CHA, lạy CHA chí nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì, rất thường khi các Linh Hồn đã không chống trả các cơn cám dỗ và các dục tình, nhưng đã đi theo kẻ thù của điều lành và đã chìu theo các quyến rũ của xác thịt.
Để đền bù cho các tội lỗi trên đây dưới mọi hình thức mà các Linh Hồn nơi Luyện Ngục đã phạm, con xin dâng lên CHA chiến thắng vinh quang mà Đức GIÊSU KITÔ Chúa chúng con đã chiến thắng trên thế giới này, cũng như đời sống rất thánh thiện, việc làm và những lao cực, sự đau khổ và cái chết nhục nhã của Ngài. Amen.
----------------
Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Con cầu xin CHA, lạy CHA chí nhân, xin CHA hãy giải thoát chúng con khỏi mọi biến loạn, nhờ công nghiệp của Con Chí Ái CHA và xin dẫn đưa chúng con, cũng như dẫn đưa các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục vào trong Nước CHA, Nước của vinh quang vĩnh cửu, giống y như CHA vậy. Amen.
... Lạy CHA chúng con ở trên Trời, chúng con nguyện danh CHA cả sáng, Nước CHA trị đến, ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Nước Thánh hay nước phép là nước đã được Linh mục làm phép nhân Danh Thiên Chúa là: 2/11-66
Nước Thánh hay nước phép là nước đã được Linh mục làm phép nhân Danh Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống thể xác và linh hồn. Linh mục cầu xin Chúa ban phép lành cho nước để những ai tin tưởng mà dùng được Chúa ban ơn tha tội, được ơn chống lại bệnh hoạn và mưu kế ma quỉ (Lời nguyện khi làm phép nước).
*Khi giáo dân thành tâm tôn kính làm dấu Thánh giá nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần thì được ơn Tiểu xá Giáo hội ban (Tông huấn Ân xá, số 55).
Khi làm dấu Thánh giá với Nước thánh, giục lòng ăn năn tội thì được những ơn ích sau:
1. Được tha các tội mọn (do lòng ăn năn). 2. Được tha một số hình phạt tạm (do ân Tiểu xá). 3. Được sức khỏe phần xác theo Ý Chúa (do hiệu lực Nước thánh). 4. Được ơn chống cám dỗ (do hiệu lực Nước thánh).
*Thánh Luca thuật lại dụ ngôn Chúa kể về người giàu và Lagiarô nghèo. Từ dưới Hỏa ngục người nhà giầu ngửa cổ lên van nài tổ phụ Abraham sai Lagiarô nhỏ xuống cho một giọt nước giải khát, nhưng tổ phụ Abraham nói là không được nữa, bởi đôi bên đang ở trong tình trạng khác, không còn giống như khi còn sống (Lc 16,24).
* Lịch sử Giáo hội Rôma cũng kể lại, nhờ rảy Nước thánh do Đức Giáo Hoàng Stephanô 6 làm phép đã giết được cả bầy châu chấu phá hại mùa màng.
* Linh mục Đắc Lộ (Alexander de Rhodes) kể rằng nhờ làm dấu Thánh giá bằng Nước thánh và rẩy Nước thánh mà các giảng viên giáo lý của ngài ở Việt nam đã được rất nhiều ơn lạ. Một lần ngài nhờ 6 giảng viên giáo lý đi thăm một làng có nhiều người bệnh, nhờ Nước thánh, họ đã chữa được 272 bệnh nhân (Charity p. 133).
Nước thánh có thể mưu ích cho người hiện ở đó mà cũng có thể mưu ích cho các linh hồn Luyện ngục. Một giọt Nước thánh nhiều khi có giá trị hơn một kinh dài, bởi nhiều khi đọc kinh dài, người ta khó cầm trí trọn vẹn được. Các linh hồn Luyện ngục khát khao Nước thánh lắm.
* Một người chết được chôn ở nghĩa địa thành Roma, nước Ý, đã chết 17 năm. Ông ta hiện về với Đấng Đáng kính Đaminh Giêsu Maria nài xin rảy Nước thánh cho mình để linh hồn ông ta được mát mẻ.
* Một thầy dòng Carmelô để sọ người trên bàn làm việc của thầy để dễ suy sự chết, một hôm thầy lấy Nước thánh rảy trên sọ ấy, liền nghe tiếng xin: "Rảy nữa! Rảy Nước thánh nữa!"
* Bà Đáng kính Mình Thánh Chúa thấy một sơ bạn đã qua đời thường hiện về xin rảy Nước thánh trên mộ mình để linh hồn được mát mẻ dưới Luyện ngục.
* Bà đáng kính Lindmayer đôi khi được Chúa nhắc cho rảy Nước thánh cho các người đã chết. Bà có thói quen rảy Nước thánh rồi mới đi ngủ. Một hôm bà vội vàng lên giường, quên rảy Nước thánh như thói quen thì nghe tiếng các linh hồn nài van, bà lập tức chỗi dậy rảy Nước thánh và không thấy tiếng kêu nài như trước (Charity 133).
* Trong hồ sơ xin phong thánh cho Cha Domenico di Gesù Maria, qua đời năm 1630 tại Roma, có ghi lại câu chuyện sau đây.
Cha Domenico là đan sĩ dòng Kín Cát-Minh. Theo thói quen của dòng, các đan sĩ thường đặt trong phòng riêng một quan tài thật bằng gỗ. Chiếc quan tài giúp đan sĩ vừa suy niệm về sự chết vừa nhớ cầu nguyện cho những người đã qua đời. Khi Cha Domenico đến sống tại một đan viện ở Roma, thì trong căn phòng dành cho ngài, đã có đặt một quan tài. Một đêm, Cha Domenico nghe rõ từ quan tài phát ra tiếng nói thật lớn gần như là tiếng thét:
- Không ai nhớ đến tôi!
Tiếng nói lập lại nhiều lần và vang ra xa nên tất cả dãy phòng cạnh Cha Domenico đều nghe rõ. Cha Domenico rất kinh hãi. Cha nghĩ đến hiện tượng ma quỷ quấy phá các đan sĩ. Cha liền quỳ xuống, tha thiết cầu xin THIÊN CHÚA soi sáng cho biết phải làm gì. Sau đó, Cha lấy Nước Thánh và rảy lên quan tài. Lần này, cũng cùng tiếng nói, khẩn khoản:
- Nước Thánh! Nước Thánh - Xin thương, xin thương xót!
Cha Dominico liền hỏi tiếng nói là ai và muốn gì ? Người chết trả lời:
- Con là một người Đức, đến Roma hành hương các Nơi Thánh và qua đời tại đây. Xác con được chôn từ lâu năm tại nghĩa trang thành phố Roma. Trong khi Linh Hồn con còn bị giam cầm nơi Lửa Luyện Hình, chịu nhiều hình khổ đớn đau, để thanh tẩy các tội đã phạm. Nhưng con bị mọi người quên lãng. Không còn ai nhớ đến con để làm việc lành phúc đức và cầu nguyện cho con. Vậy xin Cha hãy động lòng thương xót, rảy Nước Thánh liên tục trên con, và nhất là xin Cha hãy khẩn cầu cùng THIÊN CHÚA Nhân Từ, xin Ngài sớm giải thoát con ra khỏi Chốn Luyện Hình.
Cha Dominico liền hứa sẽ đặc biệt cầu nguyện cho người quá cố mồ côi.
Cha ăn chay, hãm mình và cầu nguyện thật nhiều cho ông. Chỉ mấy ngày sau, người chết hiện ra trong phòng Cha Dominico, báo tin cho ngài biết ông được lên Thiên Đàng và hứa sẽ đền đáp ơn ngài cách bội hậu.
"Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các linh hồn mồ côi được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng Amen. (”L'Aldilà .. Stupenda realtà”, Editrice Comunità, 1992, trang 38-39- Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)
Nếu các linh hồn Luyện ngục xin chúng ta một chút Nước phép để các ngài được mát mẻ, chúng ta đừng tiếc. Khi vào hay ra khỏi cửa nhà thờ đừng quên giơ tay chấm Nước phép làm dấu Thánh giá, giục lòng ăn năn tội, lãnh ân xá cầu cho các linh hồn.
Nhiều giáo dân đạo đức quen làm dấu Thánh giá bằng Nước phép trước khi ra khỏi nhà và khi trở về, khi rời khỏi phòng, trước khi đi ngủ, khi bị cám dỗ.
Cha Mẹ nên dạy con cái năng dùng Nước phép để chúng được ơn phù hộ hồn xác và cứu giúp các linh hồn Luyện ngục.
Cứ mỗi độ tháng các linh hồn tôi lại nhớ đến câu chuyện “xin lễ” cười ra nước mắt của một linh: 2/11-67
Cứ mỗi độ tháng các linh hồn tôi lại nhớ đến câu chuyện “xin lễ” cười ra nước mắt của một linh mục kể lại năm nao. Câu chuyện kể về một bà góa nghèo ở một giáo xứ nọ, một hôm bà lão chống gậy khập khiễng đến gặp cha chánh xứ để xin lễ. Bước vào văn phòng giáo xứ, bà cụ mở lời: Xin cha cho con “xin lễ đời đời.”
Vừa nghe hết câu, cha xứ trợn mắt nhìn bà cụ đang đứng trước mặt mình, ăn mặc sơ sài, dáng dấp già yếu làm cha xứ thoạt nhớ đến hình ảnh bà góa nghèo ở trong Tin Mừng của Thánh Mácô, có điều bà cụ này không đến với vài đồng xu, mà trên tay cầm cả một phong thư dầy cộm và chắc có lẽ đây cũng là cả gia tài mà bà cụ gom góp được bấy lâu nay.
Sau một thoáng xúc động, cha chánh xứ hỏi: “Cụ à, cụ xin lễ đời đời là ý gì vậy?”
Bà cụ thật thà trả lời: “Là khi nào con qua đời, cha làm lễ cho con, bây giờ xin cha giữ tiền trước giùm con”
Cha xứ cũng thành thật nói: “Sao vậy cụ! Cụ có dư giả gì đâu, xin cụ cứ mang tiền về đi để lo mua thức ăn, thuốc men bổ dưỡng cho cụ.”
Bà cụ mở mắt tròn xoe, và nói: “Thế còn lễ cho con?”.
Cha xứ lại phải cố gắng để trấn an bà: “Lo gì bà! Con cháu sẽ lo cho bà. Bà yên tâm đi.” Bà cụ vẫn cố nài nỉ: “Nhưng lỡ nếu con cháu không lo xin lễ cho con thì thật là khốn khổ cho thân con.”
Lần này cha xứ phải giải thích cặn kẽ hơn: “Bà yên tâm, nếu nhỡ con cháu có quên thì còn có Chúa. Chúa là Cha của chúng ta mà. Nếu con cháu có quên bà cụ thì Chúa sẽ không quên bà đâu. Không ai thương bà bằng Chúa. Chúa thương lo cho bà còn hơn cả bà lo cho chính mình nữa đó. Chúa đã nói rồi mà: có bà mẹ nào nỡ lòng bỏ rơi con mình đã cưu mang đâu, nhưng giả như có bà mẹ nào như thế thì Chúa cũng không bao giờ bỏ rơi bà đâu.”
Bà cụ mở mắt tròn xoe, tay nắm chặt, gật gật đầu như bắt đầu thấm ý.
Cha quản xứ nói tiếp: “Bà cứ nghe tôi đi, bà cụ cầm cái gói tiền này đem về đi. Nhớ để cho Chúa lo. Tôi cũng không bảo đảm đâu. Nếu lỡ tôi cũng quên, cũng sơ sót thì sao? Chỉ có Chúa thương bà cụ là bảo đảm nhất thôi.”
Bà cụ đứng tần ngần một hồi lâu rồi mới chịu cầm lại gói tiền, không quên cám ơn cha rồi ra về. Cha chánh xứ nhìn theo dáng đi tiều tụy của bà cụ mà thấy thương, chợt nghĩ trong lòng: “Không khéo bà cụ lại đem gói tiền tới một nhà thờ khác để “xin lễ đời đời” thì thật là thương cho bà cụ.”
Nghĩ đến cái chết của mình, lắm lúc chúng ta chỉ nghĩ đến Luyện Ngục mà vì thế chúng ta thường quên đi Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Chúng ta thường biến Thiên Chúa thành ông chủ nợ khắt khe lo đòi cho tới đồng xu cuối cùng mới chịu buông tha cho con nợ của mình. Vì thế, thay vì sống phó thác trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa thì lại tính toán, muốn sòng phẳng, đôi khi ỷ lại vào chính mình và tìm những bảo đảm cho đời sau của mình nơi chính những khả năng của mình từ những việc lành phúc đức, cho đến việc đầu tư xin lễ v.v và v.v.
Thánh Teresa đã nói “Luyện Ngục là nơi của tình yêu” và Ngài bảo “Nếu tôi vào luyện ngục tôi rất bằng lòng. Tôi sẽ làm như 3 trẻ Do Thái ở trong lò lửa, tôi vừa đi dạo trong lửa cháy vừa hát thánh ca của tình yêu.” Nếu hiểu luyện ngục là nơi “thanh luyện của tình yêu”, là nơi để con cái Thiên Chúa cởi bỏ hết những gì là tham lam bất chính, những gì là tội lỗi trần tục còn xót lại trước khi nhắm mắt lìa đời để mặc lấy áo vinh quang trong ngày ra trình diện Thiên Chúa là Cha yêu thương là Đấng tốt lành thì chúng ta có lý do để hy vọng rằng Thiên Chúa hằng yêu thương chúng và “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” cho dù chúng ta ở nơi dương thế hay ở trong chốn luyện hình.
Vì thế, lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa và lòng tin thương nhớ những người đã ra đi trước chúng ta phải là lòng tin yêu cảm tạ và hy vọng. Nói như lời Thánh Phaolô tông đồ, chúng ta không được buồn sầu như những người không có đức tin, những kẻ không có hy vọng. Bởi vì nếu chúng ta chết là chết trong Đức Kitô, là “Được an nghỉ trong Đức Kitô” và trước sau gì “Thiên Chúa cũng đem họ đi làm một với Ngài” (1 Tx 4:13). Chính niềm tin này mang đến cho ta niềm hy vọng rằng cho dù những người thân yêu quá cố của chúng ta còn hay hết thời gian thanh luyện nơi chốn luyện hình thì họ cũng đã thuộc về Đức Kitô, và họ chỉ có một con đường để đi về: đó là con đường về cùng Thiên Chúa là Cha yêu thương của họ và của tất cả chúng ta.
Bởi vậy, lòng thương nhớ của chúng ta phải dẫn đưa chúng ta đến những việc làm cụ thể để tỏ lòng quan tâm và cũng để tỏ lòng bác ái đối với những người đã khuất. Thánh Teresa Thành Avila đã nói: “Không có việc bác ái nào lớn hơn việc bác ái dành cho những người đã chết.” Và không có lời cầu nguyện nào tha thiết và cao quí hơn cho bằng lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Giêsu Kitô, qua hy tế Thập Giá của Ngài được tái diễn trên bàn thờ mỗi ngày. Qua Thánh Lễ và Thánh Thể chúng ta được liên kết với Chúa Kitô, và được hiệp thông với nhau, những người còn sống cũng như những kẻ đã qua đời nhờ mầu nhiệm các thánh cùng thông công, qua đó chúng ta chia sẻ cho nhau những ân huệ trong kho tàng Ân Sủng của Hội Thánh.
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết:
“Người Kitô hữu không đơn độc khi cố gắng tinh luyện mình khỏi tội lỗi và thánh hóa mình nhờ ơn Thiên Chúa.” Cuộc sống của mỗi con cái Thiên Chúa được nối kết một cách kỳ diệu, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, với cuộc sống của tất cả các anh em Kitô hữu khác, trong sự duy nhất siêu nhiên của Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô ...” Vì vậy trong sự hiệp thông của các Thánh, “có một mối liên kết yêu mến và một cuộc trao đổi dồi dào mọi ơn ích giữa chư vị đang hưởng phúc quê trời , những kẻ đã được nhận vào chốn luyện tội và những người còn đang tiếp bước hành trình trần gian...” (Phaolô VI, Tông Huấn Indulgentiarum doctrina, 5)
Trong cuộc trao đổi kỳ diệu này, “mọi người được hưởng nhờ sự thánh thiện của nhau còn hơn là bị thiệt thòi vì tội lụy của nhau. Như vậy, sự hiệp thông của Dân Thánh giúp cho hối nhân được thanh luyện nhanh chóng và hữu hiệu hơn.” (GLGHCG, 1475)
Nhớ đến những người đã ra đi trước chúng ta, những kẻ đã an giấc trong Đức Kitô cũng là dịp để nhắc nhở chúng ta, những người đang sống rằng hễ những ai tin vào Đức Kitô, những ai trung thành với Ngài thì Ngài sẽ không bỏ rơi bao giờ. Vậy thì đối với chúng ta, những người đang sống, những người mang trong mình niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy sống trung thành với Chúa với hết lòng yêu mến của mình để khi giờ chết đến, cho dù chúng ta không biết thế giới bên kia ra sao, chúng ta vẫn có thể vui vẻ nhắm mắt xuôi tay, phó thác mọi sự cho chúa, và với tất cả niềm tin yêu trông cậy chúng ta yên hàn ra đi trong Chúa. Ước gì giờ phút chúng ta nhắm mắt lìa đời cũng là giây phút chúng ta nghe được lời Chúa nói với chúng ta như Người đã nói với người trộm lành trên Thánh Giá: “Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta.” (Lc. 23,43)
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cách đặc biệt hướng về các đẳng Linh Hồn là những người: 2/11-68
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cách đặc biệt hướng về các đẳng Linh Hồn là những người đã ra đi trước chúng ta, trong đó có cha mẹ, ông bà tổ tiên nội ngoại, bạn bè của chúng ta,… vi mục đích là tỏ tình liên đới với các ngài. Người công giáo có nhiều cách thức để tỏ tình liên đới đối với những người đã khuất. Chẳng hạn ở Philiphin, vào ngày lễ giỗ, đặc biệt là ngày lễ Các Đẳng, cả gia đình cùng ra nghia trang, ăn uống, sinh hoạt và sống bên mộ người thân trọn cả ngày. Ở Việt nam chúng ta, thì có tập tục trang hoàng bông hoa đèn nến nơi lăng mộ, viếng nghĩa trang, sửa sang bàn thờ, thắp nén hương, đơm hoa quả…. Đây là những cách thế biểu lộ nét nghĩa tình rất cao đẹp đối với những người đã khuất. Tuy nhiên cách thức có ý nghĩa nhất vẫn là dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho các ngài.
1. Khi chúng ta dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho những người đã khuất là chúng ta trực tiếp bày tỏ tấm lòng mình:
- Thứ nhất là tấm lòng biết ơn. Biết ơn các ngài vì nhờ có các ngài mới có ta trên đời. Biết ơn các ngài vì nhờ các ngài chúng ta được thừa hưởng gia tài cao quý là đức tin vào đạo Chúa. Biết ơn các ngài vì nhờ các ngài mà chúng ta có được giáo xứ thân yêu này. Biết ơn các ngài vì đó cũng là lẽ thường của đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
- Thứ hai là tấm lòng thảo hiếu. Kitô hữu không phải là người bất hiếu vong ân như một thời bị hiểu lầm; trái lại chúng ta có một tháng để tỏ lòng hiếu thảo. Nếu bên Phật giáo chỉ có một ngày báo hiếu, đó là ngày lễ Vu lan, thì chúng ta có đến một tháng đế sống tình con thảo. Ngoài ra chúng ta còn có rất nhiều ngày khác nữa, các ngày lễ giỗ, ngày cầu hồn, ngày Mùng hai Tết …
- Thứ ba là tấm lòng bác ái. Bác ái Kitô giáo không chỉ được thể hiện đối với những người còn sống mà cả đối với những người đã qua đời. Đức bác ái thúc đẩy ta cầu nguyện và dâng những việc lành phúc đức cho tất cả các linh hồn bên kia thế giới. Lời cầu nguyện có thể rút bớt thời gian thanh luyện của các ngài nơi luyện ngục. Hãy dùng lời cầu nguyện và sự hy sinh để bày tỏ tình bác ái yêu thương đối với các ngài.
2. Ngoài ra, khi chúng ta dâng các việc lành và cầu nguyện cho những người đã khuất cũng là cách thế tuyên xưng niềm tin của mình:
- Trước hết là tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời đời. Đó là sự sống mà chính Đức Kitô đã khai mở cho chúng ta: “Ngài là hoa quả đầu mùa của người kẻ yên giấc”.
Nếu không tin vào sự sống mai sau thì chẳng ai cầu nguyện cho các linh hồn làm gì và cũng chẳng có lễ cầu hồn, như Thánh lễ ngày hôm nay. Nếu không tin vào sự phán xét cá nhân và sự thưởng phạt ngay sau khi chết, thì mọi lời cầu nguyện và nghĩa cử ta làm cho người chết đều trở nên vô nghĩa. Bởi thế bên Giáo hội Tin lành họ không có chuyện cầu hồn hay xin lễ cho các đẳng, vì họ không tin vào sự phán xét cá nhân, vào sự thưởng phạt ngay sau khi chết. Còn chúng ta khi dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho những người đã khuất là chúng ta gián tiếp tuyên xưng niềm tin vào sự sống, sự thưởng phạt sau khi chết.
- Thứ đến là tuyên xưng niềm tin vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Đức Kitô đã nối kết chúng ta bằng mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Thập giá và sự phục sinh của Chúa Kitô đã nối kết người còn sống và người đã chết một cách nhiệm mầu. Giáo hội lữ hành nơi trần thế và Giáo hội đang thanh luyện nơi luyện ngục có thể chuyển thông các công phúc cho nhau. Chính vì thế mà lời cầu nguyện và việc việc hy sinh của những người còn sống trở nên có giá trị vô cùng.
- Sau nữa là tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Có thể nói luyện ngục là nơi mà lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện rõ nét nhất. Thiên Chúa đã ban cho con người đặc ân được cộng tác vào công nghiệp của Đức Kitô để cứu độ mình và cứu độ anh chị em mình, dẫu mình tội lỗi bất xứng.
Tóm lại, khi dâng các việc lành phúc đức và cầu nguyện cho những người đã khuất là chúng ta trực tiếp bày tỏ lòng biết ơn, lòng thảo hiếu, và lòng bác ái đối với các ngài; đồng thời cũng là cách thế chúng ta gián tiếp tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời đời, vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, và vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức được điều đó để chúng ta sống tốt bổn phận của mình đối với những người đã qua đời. Amen.
Tuesday, 01 November 2011 16:34 Antôn Vũ Hữu Lệ OFM (dịch)
Tháng 11 có lễ kính nhớ Các Tín Hữu đã ra đi trước, hay lễ “Các Đẳng” vào ngày 2-11. Trong bài: 2/11-69
Tháng 11 có lễ kính nhớ Các Tín Hữu đã ra đi trước, hay lễ “Các Đẳng” vào ngày 2-11. Trong bài này, cha Van Hove sj cung cấp một cái nhìn gọn gàng đối với việc thực hành cầu nguyện cho những người đã khuất, và cung cấp một lịch sử ngắn gọn về Ngày Lễ Các Đẳng.
***
Như có lần Hồng y Giuse Ratzinger nói rất rõ về điểm khác biệt chủ yếu giữa người Tin Lành và Công giáo là việc cầu nguyện của người Công giáo cho người đã khuất: "Quan điểm của tôi là nếu Luyện ngục không hiện hữu, thì chúng ta cần phải tạo ra nó." Tại sao vậy?
"Vì một một số lý do như tính cấp bách, tính người và tính phổ biến – đều có trong mọi thời và mọi nền văn hoá – như là việc “cầu nguyện cho người thân yêu của ta đã ra đi.” Calvin, nhà Cải Cách tại Geneva, đã thấy một người phụ nữ bị đánh đập vì người ta thấy bà đang cầu nguyện tại phần mộ của người con trai và như thế là phạm tội mê tín, theo Calvin. "Về lý thuyết, Phong trào Cải Cách từ chối chấp nhận Luyện tội, và cũng thường xuyên phủ nhận việc cầu nguyện cho cho những người đã khuất. Thực ra các thành viên thuộc của Giáo Hội Lutherô Đức quốc ít nhất trong thực hành đã quay về điểm ấy và đã khám phá ra sự công chính hoá về mặt thần học tại đây. Cầu nguyện cho những người thân yêu đã ra đi là điều hết sức khẩn thiết cần phải được nhấn mạnh; nó là sự chứng thực rất đẹp về tình liên đới, lòng mến và sự trợ giúp, vươn tới bên kia rào cản của cái chết. Hạnh phúc hay nỗi bất hạnh của một người thân yêu đối với tôi, giờ đây đã đi qua bên kia biên bờ, trong chừng mực nào đó tuỳ thuộc vào việc liệu tôi có nhớ đến hay quên người ấy; người ấy không ngớt cần tình yêu của tôi." [1]
Người Công giáo không chỉ là những người cầu nguyện cho người đã khuất. Tập tục này cũng là tập tục của người Do-thái, và theo truyền thống thì người Công giáo đã dựa vào bản văn sau đây từ Kinh Thánh của người Do-thái, cộng với một số đoạn trong Tân ước, để biện minh cho niềm tin của họ:
38 “Thế rồi Ông Giu-đa thu quân và đến thành A-đu-lam. Đã đến ngày thứ bảy, họ thanh tẩy theo tục lệ và mừng ngày sa-bát ở đó.39 Ngày hôm sau, vào lúc phải làm, quân của ông Giu-đa đi thu các tử thi những người bị giết chết và đưa về chôn cất với những người thân trong phần mộ tổ tiên.40 Nhưng bên trong áo trận của mỗi tử thi, người ta đều tìm thấy lá bùa của tượng thần ở Giam-ni-a: đó là điều luật cấm; vì thế ai cũng thấy rõ bởi lý do nào những người ấy đã bị giết chết.41 Vậy mọi người chúc tụng Đức Chúa, vì Người là thẩm phán công minh đã phơi bày ra ánh sáng những điều bí ẩn.42 Họ bắt đầu khẩn nguyện, xin Chúa tẩy sạch tội lỗi đã phạm. Vị anh hùng Giu-đa khuyên nhủ toàn quân giữ mình sạch tội, vì họ đã nhìn thấy nhãn tiền những việc xảy ra là do tội của những người đã bị giết chết.43 Ông Giu-đa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại.44 Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn.45 Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức.46 Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,38-46). [2]
Ngoài người Do-thái, nhiều dân tộc cổ xưa cũng đã cầu nguyện cho những người đã khuất. Một số xã hội như vào thời cổ Ai-cập, mang bộ mặt “đưa đám” và đã dựng nên việc thực hành này. Điều cần phải làm là đào sâu tinh thần con người đối nghịch lại với khái niệm tiêu tan sau khi chết. Mặc dù có một số điều hiển nhiên đối với ngày lễ trong phụng vụ Kitô giáo na ná với Ngày lễ Các Đẳng của chúng ta ngay từ thế kỷ thứ tư, Giáo Hội vẫn từ từ đưa vào một lễ như thế vì tại Âu châu, do sự cố chấp của những nghi thức của lương dân cổ đối với người chết. Thực ra, phản ứng của anh em Tin Lành về việc cầu nguyện cho người quá cố có thể dựa trên những tàn tích này nhiều hơn và lòng mộ đạo đã bị biến dạng từ thời tiền-Kitô giáo hơn là trên học thuyết Công giáo chân thực như đã được Giáo Hội Tây phương và Đông phương thể hiện. Học thuyết về luyện tội, đúng ra được hiểu như là việc cầu nguyện cho kẻ đã qua đời, lẽ ra không bao giờ gây cớ vấp phạm cho bất cứ ai tuyên xưng đức tin nơi Đức Kitô. Học thuyết này, đúng ra được hiểu là cầu nguyện cho người qua đời, lẽ ra không bao giờ được đưa ra để tấn công những người tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô.
Khi chúng ta bàn bạc về Lễ Các Đẳng là chúng ta nhìn vào một ngày lễ thuộc phụng vụ mà chính nó đã trở thành công thức thuộc giáo lý đã được xác định, vì Giáo Hội thường chỉ làm sáng tỏ điều chưa được xác định rõ mà bây giờ đang bị xói mòn hay đang bị đe doạ. Tài liệu minh nhiên đầu tiên cho thấy việc cử hành này có từ thời thánh Isidore Seville (+ 636; vị giáo phụ cuối cùng của các Giáo phụ Tây phương) qui luật đan tu bao gồm luật phụng vụ cho tất cả những người qua đời vào ngày sau lễ Ngũ Tuần. [3] Thánh Odilo (962-1049 AD) là viện phụ của đan viện Cluny tại Pháp, đã đặt ngày cho việc cử hành phụng vụ đối với các tín hữu đã ra đi vào ngày mồng hai tháng Mười Một.
Trước đó, các ngày khác đã được thấy quanh khắp thế giới Kitô giáo, và những người Ac-mê-ni vẫn còn sử dụng ngày thứ hai đầu sau Phục Sinh cho mục đích này. Ngài đã cho công bố sắc lệnh là tất cả các đan viện của Dòng Cluny hàng năm phải duy trì ngày lễ này. Vào ngày 1-11 chuông phải được gióng lên và về sau Bộ kinh Thần Vụ cho Người Qua Đời (Office of the Dead) phải được cử hành và vào ngày hôm sau tất cả các linh mục sẽ cử hành Thánh lễ cầu cho sự an nghỉ của các linh hồn nơi luyện ngục. Sự tuân thủ các các tu sĩ Biển đức thuộc Đan viện Cluny đã sớm được thích nghi bởi các tu sĩ Biển Đức khác và bởi các tu sĩ thuộc dòng thánh Brunô (Carthusians) là những người đã được cải tổ từ dòng Biển Đức. Đức giáo hoàng Sylvester vào năm 1003 đã chấp thuận và khuyên thực hành. Cuối cùng các linh mục triều đã giới thiệu việc tuân giữ qui định phụng vụ này, và từ thế kỷ thứ 11 đến 14 việc tuân giữ này đã lan rộng khắp nước Pháp, Đức, Anh và Tây Ban Nha.
Sau cùng, trong thế kỷ 14, Rôma đã đặt ngày tưởng nhớ tất cả các tín hữu đã ra đi trong Các Sách Kinh (Thần vụ) của Tây phương hay Giáo Hội La-tinh. Ngày 2-11 được chọn để ghi nhớ tất cả các linh hồn thánh thiện, cả các thánh trên trời và cả các linh hồn nơi luyện ngục, lẽ ra nên được cử hành trong hai ngày liên tiếp. Theo cách này, niềm tin Công giáo vào sự hiệp thông các thánh sẽ được thể hiện. Từ nhiều thế kỷ, lễ Các Thánh đã được cử hành vào ngày đầu tháng 11 rồi, việc tưởng nhớ các linh hồn trong nơi Luyện ngục được thiết lập vào ngày sau đó. Ngày lễ Các Thánh có từ thế kỷ thứ 4, nhưng sau cùng được ấn định vào ngày 1-11 do đức giáo hoàng Gregoriô IV vào năm 835. Hai ngày lễ nối kết các vị-đang-là-thánh với các vị gần-như-là-thánh và đã-là-thánh-rồi trước sự phục sinh từ kẻ chết.
Cách ngẫu nhiên, việc thực hành của các linh mục trong việc cử hành ba Thánh Lễ vào ngày này thì có nguồn gốc phần nào gần đây và ngày tháng chỉ lui lại tới khoảng năm 1500 với các tu sĩ Đa-minh vùng. Đức giáo hoàng Benêđictô XIV đã mở rộng tới toàn thể Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và châu Mỹ La-tinh vào năm 1748. Đức giáo hoàng Beneđictô XV vào năm 1915 đã ban: “Đặc ân ba thánh lễ” cho Hội Thánh toàn cầu. [4]
Vào ngày lễ Các Đẳng, phải chăng chúng ta có thể cầu nguyện cho những người trong lâm-bô? Lâm-bô (limbus) không phải là khái niệm cổ xưa trong Giáo Hội, và là một lối hiểu ngoại suy thần học (extrapolation) nhằm cung ứng cho việc giải thích những trường hợp không bao gồm trong bộ ba thiên đàng-luyện ngục-hoả ngục. Hồng y Ratzinger thì thiên về việc đặt thuyết này sang một bên, và nó không xuất hiện như một lý thuyết được dạy trong bộ sách mới Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. [5]
Giáo lý về Luyện tội, có trước cả phụng vụ về Lễ Các Đẳng, được đưa vào một công thức trong các khoản không được công bố bởi công đồng Florence (1439) và Trentô (1545-1563). Chân lý về học thuyết này đã có trước khi nó trở nên rõ ràng, dĩ nhiên, và chỉ từ những nhu cầu về lịch sử đã thúc đẩy cả Công đồng Florence lẫn Trentô phải công bố khi họ đã làm xong. Việc chấp nhận học thuyết này vẫn còn tồn tại một niềm tin cần thiết của đức tin công giáo.
Về các “ân xá” (indulgences) thì thế nào? Các ân xã được rút ra từ kho tàng ân sủng của GH được áp dụng cho những người đã ra đi vào ngày Lễ Các Đẳng, cũng như vào các ngày khác, theo những tiêu chuẩn về luật lệ của Giáo Hội. Người tín hữu thực hiện vai trò chuyển cầu của họ trong việc cầu nguyện nài xin lòng nhân từ của Chúa tuôn đổ trên những người đã qua đời. Chủ yếu, việc thực hành thúc đẩy các tín hữu đảm nhận lấy trách nhiệm. Đây là ý kiến của Michael Morrissey: “Ngược với quan điểm pháp lý và thương mại thông thường, giáo huấn về cơ bản là cố gắng thuyết phục các tín hữu thể hiện trách nhiệm đối với những người đã qua đời và sự hiệp thông của các thánh. Vì Giáo Hội dạy rằng cái chết không phải là sự chấm dứt cuộc sống, nên cả hai đều không chấm dứt các mối tương quan với những người thân yêu đã qua đời, cùng với các thánh tạo nên Thân Mình Đức Kitô trong “Giáo Hội Khải Hoàn.”
Hôm nay mối bận tâm về mặt thần học đang giảm sút đối với học thuyết ân xá là do có sự gia tăng nhấn mạnh đến các bí tích, đến đời sống cầu nguyện của người Công giáo, và sự tham gia tích cực vào thế giới như là những yếu tố cấu thành đời sống tâm linh. Đúng hơn, có lẽ đấy là do quan điểm cá nhân mang tính địa phương trong một nền văn hoá hiện đại làm cho điều ấy nặng nề hơn để có thể thấy trách nhiệm của mình, chứ chưa nói đến sự liên đới với bà con họ hàng và bạn hữu đã quan đời. [6] Rồi, như với mọi Kitô hữu, Ngày Lễ Các Đẳng phải cử hành với mầu nhiệm đức ái, rằng tình yêu Thiên Chúa vượt quá mọi sự, ngay cả cái chết. Các mối dây của tình yêu liên kết chúng ta là những thọ tạo, đang sống và đã chết, và Chúa là Đấng đã phục sinh, được cử hành cả vào ngày lễ Các Thánh và Lễ Các Đẳng mỗi năm.
Tất cả những ai đã được Rửa tội trong Đức Kitô và đã chọn Người thì sẽ tiếp tục sống trong Người. Nấm mồ không ngăn trở tiến trình hướng tới một sự kết hiệp sâu xa hơn với Người. Nó chỉ là mức độ của sự gần gũi đối với Người mà chúng ta cân nhắc khi chúng ta cử hành ngày lễ Các Thánh một ngày, và lễ Các Đẳng vào ngày sau đó. Luyện ngục là một phúc lành lớn bởi vì nó cho thấy người nào yêu mến Thiên Chúa thì làm thế nào họ lại có thể thất bại trong tình yêu, và sau đó chữa lành nỗi thẹn thùng của họ. Phần lớn chúng ta hoặc không giữ trọn các giới răn hoặc đã không thất bại thực hiện trọn vẹn chúng. Con người rất tầm thường của chúng ta khiến chúng ta xấu hổ. Luyện ngục khoả lấp lỗ hổng ấy. Cuối cùng, chúng ta biết điều gì để hoàn thành tất cả có ý nghĩa. Phần lớn chúng ta hoặc không thù ghét hoặc không hoàn toàn thất bại trong việc thực thi đức ái. Luyện ngục dạy chúng ta tận căn ý nghĩa của tình yêu, khi Thiên Chúa ghi dấu lại sự thất bại của chúng ta đối với tình yêu trong thế giới này tiến tới sự hoàn thiện của tình yêu trong thế giới mai sau.
Như các bí tích trên trần gian này cung cấp cho chúng ta một quá trình biến đổi thành Kitô, cũng thế Luyện ngục tiếp tục tiến trình ấy cho tới khi việc giống Người được hoàn tất. Tất cả đều là ân sủng. Cầu nguyện tích cực cho người qua đời là "giới luật thánh” (holy mitzvah)[1][1] hay hành động của đức ái trên phần việc/bổn phận của chúng ta thúc đẩy tiến trình ấy. Giáo hội khuyến khích và thực hiện điều ấy với ý thức đặc biệt và trong sự hiệp thông vào Ngày Lễ Các Thánh, cho dẫu đó là điều luôn luôn và bổ ích ở khắp mọi nơi nhất thiết phải cầu nguyện cho người đã qua đời. ----------------------- Ghi chú:
[1] Xem Joseph Cardinal Ratzinger, The Ratzinger Report: An Exclusive Interview on the State of the Church, với Vittorio Messori (San Francisco: Ignatius Press, 1985) 146-147. Michael P. Morrissey nói về điểm này: "Những nhà Cải Cách Thệ Phản bác bỏ học thuyết về Luyện tội, dựa trên giáo huấn cho rằng ơn cứu độ là bởi đức tin chỉ nhờ ân sủng, lời cầu nguyện chuyển cầu không có tác dụng gì đối với người đã qua đời." Xem "Afterlife" của tác giả trong The Dictionary of Catholic Spirituality, ed. Michael Downey (Collegeville: Michael Glazier/Liturgical Press, 1993) 28.
[2] 2 Maccabees 12:38-46. Từ The Holy Bible, Revised Standard Version, Containing the Old and New Testaments. Catholic Edition. (London: The Catholic Truth Society, 1966) 988-989.
[3] Xem Michael Witczak, "The Feast of All Souls", trong The Dictionary of Sacramental Worship, xb. Peter Fink, SJ, (Collegeville: Michael Glazier/Liturgical Press, 1990) 42.
[4] "Ba thánh lễ được phép chính thức được mỗi linh mục cử hành, nhưng một ý chỉ được qui về cho các Linh hồn Nghèo (mồ côi) và lễ kia cho ý chỉ của đức giáo hoàng. Phép này được đức giáo hoàng Benêđictô ban trong suốt chiến tranh thế giới 1914-1918 vì sự tàn bạo của cuộc chiến ấy và vì kể từ thời Cải Cách và do sự tịch thu tài sản của GH, các đòi buộc đối với các thánh lễ nhân các dịp kỷ niệm đã được thực thi như là những tặng phẩm và tài sản hầu như không thể tiếp tục theo cách thức đã được định sẵn. Một số nhà giáo luật tin rằng khoản Giáo luật 905 của Bản Luật mới đã huỷ bỏ thực hành này. Tuy nhiên, Sách các phép (Sacramentary), đã in ưu tiên đối với Khoản này, cung cấp 3 Thánh lễ tách rời nhau cho ngày này." Xem Jovian P. Lang, OFM, Dictionary of the Liturgy (New York: Catholic Book Publishing Company, 1989) 21. Xem cả Francis X. Weiser, The Holyday Book (New York: Harcourt, Brace and Company, 1956) 121-136.
[5] Đức Ratzinger đã khẳng định: “Lâm-bô (Limbus) chưa bao giờ là một chân lý đức tin được xác định. Cách cá nhân—và ở đây tôi nói thêm trong tư cách là nhà thần học chứ không phải là một Bộ trưởng của Thánh Bộ—tôi bác bỏ điều ấy vì nó chỉ là một giả thuyết thần học. Nó tạo nên bộ phận của một luận đề thứ yếu để ủng hộ một chân lý một cách tuyệt đối về ý nghĩa đầu tiên đối với đức tin, nghĩa là sự quan trọng của bí tích Rửa Tội. Để đặt nó thành những lời của Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: "Thật, tôi nói thật với ông, trừ phi được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, ông không thể vào được Nước Trời" (Ga 3,5). Ta không nên do dự loại bỏ ý niệm “lâm bô" nếu thấy cần (và thật cần lưu ý rằng chính các nhà thần học đã đề nghị “lâm bô", cũng nói rằng các bậc cha mẹ có thể dự phòng cho con cái ý niệm lâm bô bằng việc ước ao phép rửa và qua việc cầu nguyện); nhưng mối bận tâm ở phía sau nó ắt không được bỏ đi. Phép rửa không bao giờ là một vấn đề ngoài rìa đối với đức tin; không phải là lúc này, hoặc sẽ không bao giờ". Xem Ratzinger, The Ratzinger Report, 147-148.
[6] Morrissey, "Afterlife" trong The Dictionary of Catholic Spirituality, 28-29.
Fr. Brian Van Hove, SJ trong Ignatius Insigh, November 1, 2008
Khi Đức Gioan 23 lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn dấu nhẹm sự: 2/11-70
Khi Đức Gioan 23 lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn dấu nhẹm sự nguy kịch của căn bệnh, họ bảo ngài chỉ bị chứng lở bao tử. Nhưng Đức Gioan 23 biết rõ bệnh tình của mình hơn ai hết, vì thế ngài nói: "Tôi đã dọn sẵn hành trang".
Ông Giacômô Manzu, một nhà điêu khắc nổi tiếng người ý viết hồi ký về những giây phút sau hết của cuộc đời Đức Gioan 23 như sau: Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, linh mục Capovilla, bí thư riêng của Đức Thánh Cha đến bên giường bệnh, hôn tay bệnh nhân và hỏi xem ngài thấy thế nào. Đức Gioan 23 trả lời: "Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và an bình như thể tôi đang ở trong Chúa. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo".
Linh mục Capovilla thưa: "Xin cha đừng lo. Những người phải lo là chính chúng con, vì con đã nói chuyện với bác sĩ...". Đức Gioan 23 ngắt lời hỏi: "Họ đã nói với con những gì?".
Nghẹn ngào, linh mục bí thư của ngài nói: "Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với cha sự thật: hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay cha sẽ được về Thiên Đàng".
Nói xong, linh mục bí thư quỳ xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng ôn tồn nói: "Hãy ngước mắt nhìn lên. Bình thường, người bí thư của tôi rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng bây giờ phải trở nên mềm nhũn. Cha đã nói với người bề trên của cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng của một linh mục: Hôm nay cha sẽ được vào Thiên Đàng".
Chúng ta đang sống trong tháng 11:
- Đây là tháng Giáo Hội dành riêng để tưởng nhớ đến những người quá cố.
- Đây là tháng chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu cho ông bà, tổ tiên, tháng để trả nghĩa cho cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc đã qua đời bằng những kinh nguyện, bằng những chuỗi lần sốt sắng, nhất là bằng cách siêng năng tham dự tích cực và cố gắng sống thành lễ để thực hành những công việc bác ái như thánh lễ đòi hỏi.
Nhưng, vào tháng 11 hằng năm, Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở chúng ta phải nhớ bến bờ chúng ta phải tới, nhắc nhở khúc quẹo ngoặt nhất trong đời chúng ta sẽ phải đi.
- Đó là từ giã cõi đời.
- Đó là nhắm mắt xuôi tay.
- Đó là sự thật: ai trong chúng ta cũng phải chết.
Ước gì chúng ta có được sự bình thản trong giờ lâm tử như Đức Gioan 23. Ước gì, như ngài, chúng ta có được sự bình an trong tâm hồn và có niềm hy vọng để tin tưởng rằng: lời Chúa Giêsu phán với người trộm lành cũng được áp dụng cho chúng ta: "Hôm nay con sẽ được cùng Ta về Thiên Đàng".
Nhưng, nếu Thiên Đàng là bến bờ, là Đức Mến, thì cuộc sống của chúng ta phải định hướng theo đó.
Nếu Thiên Chúa là cùng đích của giây phút cuối cùng, thì trong những chuỗi ngày sống, chúng ta cũng phải hướng mục và xây dựng theo tiêu chuẩn đó. Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Cách đây hơn một trăm năm, khi đường sắt vừa mới được phát minh, nhu cầu đi lại mỗi lúc: 2/11-71
Cách đây hơn một trăm năm, khi đường sắt vừa mới được phát minh, nhu cầu đi lại mỗi lúc một bành trướng, một văn sĩ nọ, trong quyển lịch sử của xe lửa và đường sắt, đã ghi ra một số chỉ dẫn cho hành khách. Trong một chương có tựa đề "Những lời khuyên trước khi lên đường", ông đã đưa ra vài căn dặn như sau: "Trước khi bắt đầu cuộc hành trình, hành khách nên quyết định: mình sẽ đi đâu, sẽ lên chuyến xe lửa nào và ở đâu, tại nơi nào sẽ đổi tàu...".
Trong một đoạn khác, ông nhắc nhủ hành khách như sau: "Khuyên quý khách mang theo hành lý càng ít bao nhiêu càng tốt... Riêng với các bà, các cô, không được phép mang quá ba hành lý và năm gói nhỏ".
Những lời khuyên trên đây xem chừng như không có chút giá trị nào đối với hệ thống đường sắt hiện tại ở Việt Nam. Chen chúc nhau để có được một chỗ ngồi thích hợp, đã là quá lắm rồi, còn chỗ đâu để xác định số hành lý phải mang theo.
Nhưng dù thanh thản trong một con tàu đầy tiện nghi, hay chen chúc nhau trong một wagon chật hẹp bẩn thỉu, mỗi khi bước vào xe lửa, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nghĩ đến chuyến đi của cuộc đời... Ðời cũng là một chuyến đi.
Bước lên chiếc xe lửa của cuộc đời, ai trong chúng ta cũng được mời gọi để chuẩn bị cuộc hành trình bằng một số câu hỏi cơ bản: tôi sẽ đi về đâu? Tôi phải mang những gì cần thiết cho cuộc hành trình?
Trên một số tuyến đường liên tỉnh tại Phi Luật Tân, thỉnh thoảng hành khách có thể đọc được một bảng hiệu có thể làm cho họ phải giật mình suy nghĩ: có thể đây là chuyến đi cuối cùng của bạn. Thật ra, ít có ai khi lên đường, lại có ý nghĩ ấy. Có lẽ người ta nghĩ đến công việc, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những thú vui đang chờ đợi hơn là phải dừng lại với ý nghĩ của một cái chết bất ngờ.
Thái độ khôn ngoan nhất mà Chúa Giêsu thường lặp lại trong Tin Mừng của Ngài: đó là "Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào". Con người sinh ra để chết. Nói như thế không hẳn là một phát biểu bi quan về cuộc đời, mà đúng hơn là một cái nhìn trong suốt về hướng đi của cuộc đời.
Giá như ai trong chúng ta cũng biết rằng: công việc ta đang làm trong giây phút này đây là công việc cuối cùng trong cuộc đời, thì có lẽ mọi việc đều có một ý nghĩa và một mục đích khác hẳn.
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1,200 người tại 20 thành phố: 2/11-72
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1,200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt như sau: "Nếu bạn chỉ còn một ngày nữa để sống, bạn sẽ làm gì?". Kết quả của cuộc thăm dò được phân chia như sau:
- 57% những người được phỏng vấn trả lời rằng họ sẽ sống ngày cuối cùng với gia đình. 12% muốn ở một mình hoặc với bạn bè.
- 26% người đàn ông được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình. 42% khác thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè.
- 32% đàn ông lẫn đàn bà muốn được sống với gia đình trong những giây phút cuối đời.
- 6% người đàn ông muốn được sống bên vợ...
Trên đây có lẽ chỉ là những con số không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất cả mọi người. Nhưng xuyên qua kết quả đó, chúng ta cũng có thể đọc được một thái độ chung của con người khi đứng trước sự chết: đó là sự cô đơn...
Cái chết là một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt ra cho bạn giây phút này đây, bạn sẽ làm gì?
Có lẽ chúng ta còn nhớ chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị chết...
Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: nếu ngay bây giờ, chúng con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?
Một số trả lời rằng sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số cho biết sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành v.v... Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: "Nếu trong giây lát tôi có chết, tôi cũng sẽ tiếp tục cuộc chơi".
Có lẽ đó là câu trả lời làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành mạnh là một bẩn phận, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận hằng ngày.
Nếu chúng tabiết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng giây phút... thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ đó. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại, sẽ không phải hãi sợ trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Chúng ta đang cầu cho các đẳng linh hồn. Giáo Hội kêu mời chúng ta dâng các việc đạo đức và hy sinh để cầu cho họ. Ðó là những việc làm không thể thiếu sót trong nghĩa vụ liên đới của người Kitô. Nhưng còn có một việc làm khác không kém giá trị: đó là sự trung thành của chúng ta trong những bổn phận hằng ngày. Người có niềm tin trưởng thành thực sự, luôn nhìn thấy ý nghĩa và giá trị của những bổn phận vô danh và nhàm chán hằng ngày...
KÍNH GỬI MỘT ĐOẠN SUY NIỆM CỦA TIẾN SĨ TRẦN MỸ DUYỆT TRÍCH TRONG "SỐNG ĐẠO GỮA ĐỜI" xuất bản 2004
1. KHÁI NIỆM VỀ CHẾT LÀNH 2. NGÁNG TRỞ ƠN CHẾT LÀNH 3. ỨNG DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG
Hạnh phúc người để luôn giờ chết trước mắt và ngày ngày dọn mình sẵn luôn” . Thường xuyên: 2/11-73
“Hạnh phúc người để luôn giờ chết trước mắt và ngày ngày dọn mình sẵn luôn” . Thường xuyên suy niệm về sự chết, người Kitô hữu sẽ có dịp nhắc nhở mình về cứu cánh của cuộc đời, và phải sống thế nào để đạt được cứu cánh đó. Ngoài ra, không có gì bóc lột con người cách trần trụi hơn sự chết, cũng như không đau khổ nào mà con người sợ hãi bằng khi đối diện với sự chết. Do đó, ý nghĩa của sự chết sẽ giúp ta sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, thử thách trong cuộc sống bằng tinh thần thánh hóa và từ bỏ.
KHÁI NIỆM VỀ CHẾT LÀNH
Chết tốt lành hay chết trong ơn thánh của Thiên Chúa, còn gọi là chết mà không mang trong tâm hồn những trọng tội xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Ðức Kitô đã đề cập tới cái chết này qua dụ ngôn Mười Trinh Nữ.
Ý nghĩa dụ ngôn Mười Trinh Nữ đã cho ta ý niệm rõ ràng về sự chết, đó là mọi người đều được kêu gọi về với Thiên Chúa qua cái chết của mỗi cá nhân, hay việc Ðức Kitô thình lình đến với toàn thể nhân loại trong ngày thế mạt. Theo Thánh Phaolô, không có cách chết nào hơn cách nào, vì khi Ðức Kitô xuống thế lần thứ hai, mọi kẻ chết sẽ chỗi dậy.
Ðiều quan trọng là khi thời giờ đến, lúc ta phải ra đón Ðức Kitô như mười cô trinh nữ ra đón chàng rể, ngọn đèn tình yêu của ta, tức là lòng kính mến Thiên Chúa có còn cháy sáng hay không? Nếu luồng gió tội lỗi làm tắt ngọn đèn yêu mến trước giờ chết, ta còn có cơ hội thắp sáng lại bằng tâm tình thống hối. Nhưng nếu khi ta bước qua ranh giới sự chết mà đèn tắt, thì thời giờ đã chấm dứt!
“Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đón đôi tân hôn. Trong bọn có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại lúc cầm đèn lại không đem dầu theo. Năm cô khôn ngoan khi cầm đèn lại đem theo bình dầu. Vì chàng rể đến trễ, nên các cô đều ngủ thiếp đi. Nửa đêm có tiếng gõ cửa: “Kìa, tân lang đến. Hãy ra đón chàng”.
Các cô liền thức giấc, sửa soạn đèn. Các cô khờ dại mới nói với các cô khôn ngoan rằng: “Xin các chị cho chúng em ít dầu, vì đèn chúng em tắt rồi.” Mấy cô khôn ngoan trả lời: “E không đủ cho chúng em và các chị đâu. Các chị ra ngoài hàng mua thì hơn”.
Họ vừa đi mua, thì chàng rể tới. Những cô sẵn sàng cùng vào tiệc cưới với chàng, và cửa đóng lại. Một lúc sau, năm cô kia mới tới và gõ cửa: “Xin mở cửa cho chúng tôi vào với.” Nhưng có tiếng trả lời rằng ta không biết các cô là ai”.
Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì không biết ngày và giờ nào Con Người sẽ tới” (Mt 25:1-13).
Người Kitô hữu phải giữ cho ngọn đèn yêu mến của mình được luôn cháy sáng, vì theo Thánh Gioan Thánh Giá, trong lúc xế chiều của cuộc đời ta sẽ được xét xử theo tình yêu. Nhưng để ngọn đèn tình yêu đó cháy sáng được, ta cần phải có dầu. Vậy dầu của ngọn đèn yêu mến này là gì?
Trong đời sống Kitô hữu, dầu của ngọn đèn tình yêu là đức tin, là dầu thánh được xức trên trán ta khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Thánh Nữ Catarina Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh thì cho rằng đó là đức khiêm nhường. Nhờ sự hòa trộn giữa đức tin, dầu Thanh Tẩy, và đức khiêm nhường sẽ đem lại những hoa trái tốt.
Tình mến trọn hảo đòi hỏi đức tin vững mạnh, đời sống khiêm nhường, cũng như sự bền đỗ trong ơn thánh sủng mà Thiên Chúa đã ban cho ta khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Nếu giờ chết đã được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, thì dù ta có sợ hãi đôi chút vì đức tin còn yếu kém, hoặc đời sống bị chao đảo do những cám dỗ và khuyết điểm, ta vẫn tin tưởng ra trước tôn nhan Thiên Chúa, vì biết rằng Ngài không từ chối ta khi ta đã cố gắng kiếm tìm và thực hiện ý Ngài trong cuộc sống.
NGÁNG TRỞ ƠN CHẾT LÀNH
Ðối với nhiều người, sự sợ hãi ghê gớm nhất khi nghĩ đến giờ chết, là không biết mình sẽ chết như thế nào. Qua dụ ngôn Mười Trinh Nữ, Ðức Kitô đã cho biết rõ ràng về cái chết của mỗi người bằng cách căn cứ vào đời sống của người đó. Nhưng qua tình thương của Thiên Chúa, ta có thể tin tưởng rằng Ngài không muốn ai chết trong lúc ngọn đèn tình yêu của họ hết dầu. Ngoại trừ trường hợp giống như năm cô trinh nữ đã không giữ được đèn mình cháy sáng.
Do đó, thái độ cẩn trọng của ta là phải giữ cho ngọn đèn tình yêu luôn cháy sáng, bằng việc chuẩn bị và lo lắng cho đèn luôn luôn có đủ dầu. Ðây là hành động khôn ngoan của người tìm kiếm Thiên Chúa, một ân huệ của Chúa Thánh Thần. Nhờ ánh sáng và sự soi dẫn của nó, ta biết tìm kiếm những giá trị thật của cuộc đời. Cuộc sống có giá trị được xây dựng trên sự kính mến Thiên Chúa, trên những hành động bác ái với anh chị em đồng loại, cũng như trên những việc làm tiết chế và tự chủ đối với tính tình hoặc xu hướng xấu.
Nhờ sống và hành động dưới sự hướng dẫn của đức khôn ngoan, ta sẽ có một tâm hồn bình an. Ðức khôn ngoan giải thoát ta khỏi những băn khoăn lo lắng thái quá về cuộc sống. Nó cho biết mình phải làm gì, và hành động tới đâu, rồi để phần còn lại trong sự tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Nhưng để có ơn khôn ngoan cần thiết trong cuộc sống, ta phải cầu nguyện. Nhờ kinh nguyện và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, ta sẽ tìm được sự khôn ngoan chân thật, cũng là chính Thiên Chúa.
Tóm lại, trở ngại lớn nhất đối với ơn chết lành là không sống đạo một cách chân thành, hăng say và bền bỉ. Không tuân giữ những luật lệ cần thiết cho đời sống đức tin của người Kitô hữu. Trở ngại thứ hai là phủ nhận tình thương, và sự tha thứ của Thiên Chúa.
ỨNG DỤNG VÀO ÐỜI SỐNG
Cuộc hành trình của mỗi Kitô hữu trên dương thế dài hay ngắn, lâu hay mau, tất cả đều được kết thúc bằng cái chết. Khi bước vào biên giới vĩnh cửu, con người phải bỏ lại tất cả những gì mình có thuộc về thế giới vật chất. Sự tước đoạt trần trụi này chỉ cái chết mới có thể làm được. Ứng dụng ý nghĩa của sự chết vào cuộc sống và để chuẩn bị cho mình một giờ chết tốt lành, sẽ giúp ta hăng hái và kiên trì sống đạo giữa muôn thách đố của cuộc đời.
- Trước hết, ta phải làm trọn bổn phận đã được Thiên Chúa trao phó. Ðức Kitô, trong Bữa Tiệc Ly, đã cho ta thấy Ngài sẵn sàng trước cái chết vì Ngài đã chu toàn Thánh Ý của Thiên Chúa Cha về Ngài: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất. Con đã chu toàn công việc mà Cha đã trao phó cho con” (Jn 17:4). Là Kitô hữu, trong cuộc sống mỗi ngày trên dương thế, ta cũng phải lo hoàn tất Thánh Ý của Thiên Chúa. Hành động như vậy, như Ðức Kitô, ta tôn vinh Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.
- Ta phải chuẩn bị cho giờ chết của mình bằng đời sống cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa. Nhờ kết hợp với Ngài qua tâm tình và đời sống cầu nguyện, ta sẽ được ngọn lửa tình yêu đốt nóng, như tác giả Thánh Vịnh đã thưa lên với Chúa: “Vì Ngài thân xác tôi hao mòn và linh hồn tôi khao khát”.
- Ta chuẩn bị giờ chết bằng cách nhận thức như Thánh Ambrôsiô, cho rằng Thiên Chúa định liệu sự chết như một phương thuốc để chữa tội lỗi. Một thứ thuốc mà ta không nên sợ hãi, bởi vì Vị Lương Y Tốt Lành đã cho toa đúng liều lượng vì lợi ích của mỗi người.
Ý nghĩa từ bỏ ở đây là ta phải sẵn sàng để bất cứ lúc nào Thiên Chúa muốn, Ngài có thể đến để đón ta ra khỏi thế gian.
- Ta phải chuẩn bị giờ chết bằng cách suy ngắm về cái chết của Ðức Kitô trên thánh giá. Ngài đã chết và sống lại cho ta. Do đó, ta cũng sẽ chết và sống lại cho Ngài. Nếu trong khi suy niệm về sự chết của Ngài ta sống với Ngài trong giờ chết của Ngài, Ngài và Ðức Trinh Nữ Maria cũng sẽ ở bên ta trong giờ chết của ta.
Từ đó, ta hiểu tại sao Giáo Hội dậy ta phải cầu xin với Ðức Trinh Nữ Maria để được Mẹ cầu bầu cho ta trong giờ chết: “Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Vì Mẹ đã đứng dưới chân thập giá Ðức Kitô, và đã chứng kiến cái chết đau đớn của Con Mẹ cho các linh hồn, nên hiểu rõ hơn ai hết giá trị cao quí của một linh hồn, cũng như tầm quan trọng của giây phút linh hồn đó giã từ trần gian để bước vào vĩnh cửu.
- Sau cùng, ta phải chuẩn bị giờ chết bằng cách sốt sắng tham dự các bí tích, nhất là Bí Tích Hòa Giải.
Mỗi khi phạm một tội trọng, tức là ngọn đèn tình yêu của ta bị vụt tắt, và dầu kính mến bị đổ khỏi bình. Tâm tình và việc làm hòa giải sẽ giúp ta có thêm dầu và thắp sáng lại ngọn đèn yêu mến.
Do đó, ta không những phải thống hối khi biết mình phạm tội trọng qua Bí Tích Hòa Giải, mà còn phải để tâm tu tỉnh mỗi ngày bằng tình mến để thanh tẩy tâm hồn cho thêm phần đẹp đẽ, như đổ thêm dầu vào đèn mặc dù đèn của ta chưa hẳn đã hết dầu.
Chúa Kitô đã đến qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Ngài đang đến qua các bí tích ta lãnh nhận thường ngày trong Giáo Hội. Người sẽ đến để kêu gọi ta về với Ngài bằng cái chết của mỗi cá nhân, cũng như ngày thế mạt chung cho toàn thể nhân loại. Hãy chuẩn bị dâng tặng Ngài niềm vui do hành động sẵn sàng của ta. Ðây là ý nghĩa từ bỏ trọn vẹn nhất của một Kitô hữu qua việc thực hành đức tin trong đời sống.
LTS: Bài viết này được dịch ra từ cuốn sách nhỏ có nhan đề: Read me or Rue It (Hãy Đọc về Tôi hay là Hãy Hủy Lấy Tôi), được viết ra bởi một linh mục Dòng Đa Minh, Cha Paul O’ Sullivan, và được hiệu chính bởi Đức Hồng Y Giáo Chủ của Thành Lisbon (bên Bồ Đào Nha). Sách được in ra bởi nhà xuất bản Tan Books and Publishers, Inc. có địa chỉ là P.O.Box 424, Rockford, IL 61105. Sách này hiện đang có trong tủ sách của Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Đồng Trinh (Basilica of Assumption) tại Baltimore, MD - Vương Cung Thánh Đường Đầu Tiên tại Hoa Kỳ.
Phần Dẫn Nhập (Trang xiii trong Sách):
“Các anh, bạn hữu của tôi ơi, hãy thương, hãy thương tôi, vì bàn tay của Thiên Chúa đã đánh tôi!” (Sách Yob, đoạn 19, câu 21).
Thì đây chính là lời cầu nguyện động lòng nhất mà các linh hồn cô đơn nơi lửa luyện ngục đang: 2/11-74:
Thì đây chính là lời cầu nguyện động lòng nhất mà các linh hồn cô đơn nơi lửa luyện ngục đang khẩn thiết kêu gọi những người bè bạn của họ ở trần gian, các linh hồn ấy đang năn nỉ, kêu nài sự giúp đỡ của họ, trong nổi đau đớn cùng cực và khan cả cuốn họng. Rũi thay, lại có rất nhiều người trong chúng ta lại bỏ mặc, lại cố làm câm điếc trước lời kêu cứu rằng: chúng ta hãy biết cầu nguyện cho các linh hồn ấy!
Thật không thể hiểu nổi làm sao mà rất nhiều người Công Giáo, thậm chí cả với những người rất sốt sắng, ngoan đạo, lại đáng hổ thẹn làm ngơ đến các linh hồn nơi lửa luyện ngục. Trông có vẽ là hầu như mọi người không mấy tin vào nơi luyện ngục. Rõ ràng là vẫn còn rất nhiều người có ý tưởng rất mơ hồ về nơi luyện ngục.
Ngày, tuần, và tháng, năm cứ trôi qua mà họ không hề biết xin lể cho các linh hồn! Cũng rất ít khi mà chúng ta cùng đi dự thánh lễ để cầu nguyện cho các linh hồn, cũng như rất ít khi chúng ta cầu nguyện hay nghĩ về họ, những người đã chết! Trong khi chúng ta cứ mãi mê đắm chìm trong hạnh phúc và tràn đầy sức khỏe nơi trần thế, trong khi chúng ta cứ mãi bận rộn với công ăn việc làm, cứ mãi vui chơi, giải trí, thì các linh hồn cô đơn, quạnh quẻ ấy, cứ hằng ngày phải chịu lấy những cực hình không thể tuốt ra lời, nơi ngọn lửa thiêu đốt ở nơi luyện ngục.
Đâu là những nguyên nhân cho sự nhẫn tâm tàn bạo và kinh khủng này? Thưa, đó chính là sự ngu muội, sự thô bạo, và sự ngu dốt không thể nào có thể nào có thể giải thích cho được của chúng ta.
Con người thời nay đã không nhận biết được nơi luyện ngục chính là gì. Con người hoàn toàn chẳng hề hay biết gì về những nổi đớn đau khủng khiếp, và họ không hề hay biết rằng những linh hồn đó đã phải gánh chịu trong ngần ấy năm trời dài đăng đẵng nơi những ngọn lửa thiêu đốt, cực hình. Và kết quả là, con người dửng dưng hay chẳng thèm biết ngó ngàng gì tới những linh hồn nơi lửa luyện tội, và thậm chí còn xấu xa hơn cả chính là, con người đã tàn nhẫn phó mặc các linh hồn mồ côi đang ở nơi luyện ngục, mà các linh hồn ấy đang hoàn toàn cậy trông vào sự giúp đỡ của con người.
Hỡi các bạn độc giả, hãy đọc qua cuốn sách nhỏ này với sự thận trọng, với sự quan tâm, và bạn sẽ được chúc phúc nếu như biết nghĩ đến những linh hồn côi đơn đó.
Qua Bài Dịch này, mời Quý độc giả hãy cùng tìm hiểu về các mục sau:
A. Nơi Lửa Luyện Ngục Là Gì? B. Có Đúng Tất Cả Mọi Sự Đều Là Sự Thật Không? C. Các Linh Hồn Vẫn Còn Ở Nơi Luyện Ngục Trong Khoảng Thời Gian Bao Lâu? D. Tại Sao Phải Cầu Nguyện Cho Các Linh Hồn Mồ Côi? E. Làm Sao Chúng Ta Có Thể Giúp Đỡ Cho Các Linh Hồn? F. Các Linh Hồn Sẽ Làm Gì Cho Những Ai Đã Giúp Đỡ Họ? G. Làm Cách Nào Để Đạt Được Ơn Toàn Xá H. Hãy Đọc Và Thức Tỉnh!
---------------------
A. Nơi Lửa Luyện Ngục Là Gì?
(Trang 1 trong Sách)
Thưa, đó chính là lò lửa tù ngục, là nơi mà hầu như tất cả các linh hồn bị đẩy vào sau khi họ chết đi và cũng từ chính nơi đó, họ phải gánh chịu những nổi đớn đau dữ dội nhất. Và sau đây là những gì mà các Vị Tiến Sĩ của Giáo Hội nói cho chúng ta biết về Lửa Luyện Tội:
Thánh Tôma thành Aquinas, người được mệnh danh là Vị Hoàng Tử của Các Nhà Thần Học, nói, lửa nơi luyện ngục cũng tương tự như là lửa nơi hỏa ngục về tính cường độ, và chỉ cần một sự tiếp xúc hết sức nhỏ nhen và nhạy bén nào thì nó còn đau đớn hơn tất cả những gì mà con người trên trái đất có thể chịu đựng nổi. Nói cách khác, nó đớn đau gấp trăm ngàn lần, so với tất cả những nổi đau gộp lại của con người ở trần gian.
Thánh Augustinô, vị Bác Sĩ Chữa Lành Vĩ Đại Nhất, nói, để được thanh tẩy mọi tội lỗi đã phạm phải trước đó, trước khi được nhận vào nước thiên đàng, thì các linh hồn sau khi chết đi phải qua một ngọn lửa đau đớn gấp ngàn lần, hơn hẳn tất cả những gì mà họ có thể thấy, có thể cảm giác hoặc có thể nhận được ở trên đời này. Dẫu rằng, ngọn lửa này là nhằm để tẩy rửa và làm thanh sạch các tâm hồn, nhưng nó vẫn còn là gay gắt hơn tất cả những gì mà chúng ta có thể chịu đựng được trên trái đất này.
Thánh Cyril thành Alexandria chẳng cần ngần ngại khi phải nói rằng: “Sẽ thật là xứng hợp khi phải chịu đựng tất cả những hình thức tra tấn trên trái đất này cho đến ngày Phán Xét còn hơn là sống một ngày nơi lửa luyện ngục.”
Một vị Thánh vĩ đại khác cũng đã từng nói: “Ngọn lửa trần gian của chúng ta, nếu như đem nó so sánh với ngọn lửa nơi luyện ngục, thì nó cũng giống như là một nguồn gió mát thổi đến vậy.”
Tại làm sao mà những nổi đớn đau nơi luyện ngục lại quá dã man và dữ dội đến như vậy?
Thưa có 5 nguyên nhân chính:
Nguyên Nhân 1: Ngọn lửa mà chúng ta có thể nhận thấy được nơi trần gian được tạo nên bởi lòng nhân từ của Thiên Chúa, để nâng đỡ và hổ trợ cho cuộc sống của con người. Mặc dầu, nó được dùng như là một hình thức để dày vò, thì nó chính là một ngọn lửa kinh khiếp nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng được.
Nguyên Nhân 2: Ngọn lửa nơi luyện tội, trái lại, chính là ngọn lửa được tạo ra bởi công lý của Thiên Chúa để trừng phạt và để thanh tẩy chúng ta, chính vì vậy, nó không thể nào đem ra so sánh cho được, vì lẽ, nó rất kinh kiếp, hãi hùng.
Nguyên Nhân 3: Ngọn lửa của chúng ta, hầu như là để đốt cháy đi thân xác to béo của chúng ta, vốn được làm từ đất sét; trong khi đó, lửa luyện ngục thì lại tác động lên khía cạnh tâm linh của linh hồn, vốn chẳng thể nào có thể nói ra được, vì chưng nó rất nhạy bén với nổi đớn đau.
Nguyên Nhân 4: Ngọn lửa của chúng ta càng trở nên mãnh liệt bao nhiêu, thì tốc độ hủy diệt của chúng đối với những nạn nhân càng nhanh bấy nhiêu, và chính những nạn nhân đó không thể nào có thể chịu đựng cho được; trong khi đó, thì lửa nơi luyện ngục lại gây ra nổi đau đớn kịch liệt nhất và tàn bạo nhất, nhưng không hề giết chết đi các tâm hồn hay làm giảm nhẹ đi sự nhạy bén của các tâm hồn.
Nguyên Nhân 5: Và dĩ nhiên, chẳng có gì làm ngạc nhiên cả vì tính kinh khiếp của ngọn lửa nơi luyện ngục, nổi đớn đau về sự mất mát hay về sự tách rời với Thiên Chúa, mà các linh hồn phải chịu đau khổ nơi luyện ngục, thì hoàn toàn khốc liệt hơn rất nhiều. Linh hồn khi được tách rời khỏi thân xác, nó luôn khẩn cầu đến bản chất thiêng liêng đến từ Thiên Chúa. Nó được chứa chất với một mong muốn cao độ để được bay tới Ngài. Thế nhưng, rũi thay, nó đã bị giữ lại. Không ngôn từ nào có thể diễn tả cho được nỗi đớn đau, thống khổ của ước muốn không được làm thỏa mãn này.
Cho dẫu nó có điên loạn tới đâu đi chăng nữa, thì nếu con người có suy nghĩ, thì con người phải biết cách chú trọng đề phòng tất cả mọi tình huống, và đừng bỏ mặc thờ ơ, để tránh cho một số phận hết sức kinh khiếp này.
Thật là trẻ con khi nói rằng nó không thể nào là như vậy được, thì đó cho thấy, chúng ta chẳng hiểu gì cả về lửa luyện ngục, do vậy, không nên nói hay nghĩ về nó thì hơn. Thì cho dẫu như vậy, sự thật vẫn luôn luôn lúc nào cũng là như vậy-cho dẫu chúng ta có tin hay không, cho dẫu chúng ta có thực hiện hay không-thì những nổi đớn đau nơi lửa luyện tội thì vượt xa hẳn tất cả những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng hay nhận thức cho được. Thì đó chính là những ngôn từ của Thánh Augustinô.
B. Có Đúng Tất Cả Mọi Sự Đều Là Sự Thật Không? (Trang 4 trong Sách)
Sự tồn tại của lửa luyện ngục là một điều hoàn toàn chắc chắn mà không có người Công Giáo nào vẫn còn nghi ngờ gì về nó nữa. Tất cả chúng ta đều được giảng dạy từ những buổi còn thơ ấu nhất về Giáo Hội, và nó đã được chấp nhận bằng một niềm tin không hề bị rung lay ở bất kỳ nơi đâu khi Kinh Thánh của Thiên Chúa đã được rao truyền và giảng dạy.
Học thuyết này đã được mạc khải trong Kinh Thánh và đã được rao truyền lại từ đời này sang đời khác, từ thời còn là Truyền Thống cổ xưa, được giảng dạy bởi một Giáo Hội không thể nào sai lầm cho được và đã được hàng triệu triệu các tín hữu từ thế hệ này sang thế hệ khác tin tưởng vào. Tuy nhiên, như lời dẫn nhập, nhưng rất nhiều người vẫn còn rất mơ hồ và thiển cận về đề tài quan trọng nhất này. Họ giống như là một người nhắm mắt lại và cố bước đi trên những bờ rìa của một vách núi thẳng đứng cheo leo hùng vĩ. Họ sẽ cố nhớ cho được và chỉ hiểu được sơ sơ, nhè nhẹ về ngôn từ nơi luyện ngục-hay cố né tránh nó đi, hơn là cố hiểu rõ, suy nghĩ rõ về nó hơn và để đem ra áp dụng các biện pháp mà Thiên Chúa đã tỏ bày để tránh nó đi.
Chẳng cần phải nghĩ nó là một số mệnh. Vì lẽ, nó chẳng là gì hơn, ngoài việc biết chuẩn bị cho bản thân chúng ta một nơi luyện tội thật dài dẵng, thật sợ hãi và thật là khắt khe.
Vị Hoàng Tử Tao Nhã
Một vị hoàng tử tao nhã, người mà vì một số lý do chính trị, đã phải lưu biệt nơi quê cha, đất tổ, đến mua một lâu đài rất đẹp và các bất động sản tại Pháp Quốc. Chẳng may là vị hoàng tử đó đã mất đi đức tin khi còn ở thưở thiếu thời, và đó cũng là khi mà câu chuyện của vị hoàng tử được viết vào một cuốn sách, về tội chống lại Thiên Chúa và sự hiện hữu của một cuộc sống đời sau.
Đang mãi rảo rê trong khu vườn của mình, vị hoàng tử chợt gặp một bà già nghèo nàn đang phải khóc lóc một cách rất thảm thương. Vị hoàng tử ấy liền hỏi bà đâu chính là nguyên nhân của nổi sầu khổ.
Bà đáp, “À, thưa hoàng tử, tôi chính là vợ của Jean Marie, người quản gia trước kia của ngài, vốn đã chết cách đây hai ngày rồi. Ông ta là một người chồng tốt đối với tôi và là một đầy tớ tôi trung của Thượng Hoàng. Vì căn bệnh của ông ấy quá lâu, do đó, tôi phải tiêu hết tất cả tiền tiết kiệm để lo thuốc men cho ông, và giờ thì tôi chẳng còn một đồng xu nào cả để xin lễ và cầu nguyện cho hương hồn của ông.”
Vị hoàng tử, động lòng với nổi sầu khổ của bà già nghèo, liền nói một vài lời an ủi chân tình, và mặc dầu thú nhận rằng, không còn tin tưởng nữa vào một cuộc sống đời sau, liền đem cho bà vài đồng tiền bằng vàng để cho bà có thể xin lể cho hương hồn của người quá cố.
Không lâu sau đó, cũng vào một buổi chiều nọ, và vị hoàng tử đang mãi mê học hành và chăm chú vào cuốn sách học của mình. Vị hoàng tử ấy liền nghe một tiếng gỏ cửa thật mạnh, và chẳng thèm ngó lên, liền kêu gọi mời người khách đó tự nhiên vào. Cánh cửa từ từ mở ra và một người đàn ông bước vào, và đứng đối diện với bàn viết của vị hoàng tử.
Khẻ ngước nhìn lên một chút, vị hoàng tử lấy làm kinh ngạc khi nhìn thấy lại Jean Marie, người quản gia đã chết của mình, đang nhìn ông với một nụ cười đôn hậu.
Ông liền nói, “hoàng tử ạ, tôi đến đây để cám ơn ngà vì những thánh lễ cầu nguyện mà ngài đã giúp vợ tôi để bà ấy có thể cầu nguyện cho hương hồn của tôi. Cám ơn ngài vì đã cứu lấy những giọt máu của Chúa Kitô, đã đổ ra cho tôi, và giờ đây tôi đang lên thiên đàng, thế nhưng Thiên Chúa đã cho phép tôi trở lại trần gian để gởi lời tạ từ vì của bố thí rộng lượng của ngài.”
Sau đó, ông liền gợi cảm rằng: “Thưa hoàng tử, có một Thiên Chúa đó ạ! Thật đúng là có một cuộc sống đời sau, thật đúng là có thiêng đàng và hỏa ngục.”
Sau khi nói xong những lời này, ông liền biến mất. Vị hoàng tử khi đó mới nhận biết ra, và ngài qùy xuống và liên lũy đọc kinh Tin Kính (Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng,.. .....)
Thánh Antoninus và các bạn
Sau đây là một chuyện kể lại, nhằm có ý dạy bài học.
Thánh Antoninus, là một vị Tổng Giám Mục nổi tiếng của thành Florence, kể rằng: có một người đàn ông sùng đạo chết đi, ông ta chính là người bạn rất tri kỷ của nữ tu viện dòng Đa Minh là nơi mà vị Thánh đã cư trú. Có rất nhiều thánh lễ và rất nhiều kinh cầu được dâng lên cho vị linh hồn quá cố này. Thì vị Thánh này rất là lấy làm đau buồn, sau khoảng một thời gian dài, thì linh hồn của người đàn ông quá cố này, đã xuất hiện ra với vị Thánh, nói rằng ông đang phải gánh chịu những nổi khổ rất là đau đớn.
Thì vị Tổng Giám Mục mới la lên rằng: “Ồ, hỡi người bạn thân của tôi, có phải bạn vẫn còn trong lửa luyện ngục hay chăng, có phải bạn chính là người đã có một cuộc sống hết sức gương mẫu và thánh thiện chăng?”
Thì linh hồn đớn đau đó trả lời rằng: “Vâng, đúng vậy, và tôi cũng vẫn còn ở nơi lửa luyện ngục trong một thời gian dài vì khi còn sống, tôi đã thờ ơ và không biết cầu nguyện cho các linh hồn nơi lửa luyện tội. Và giờ đây, Thiên Chúa bằng sự xét đoán công minh đã dùng những lời kinh cầu nguyện, mà mọi người dành cho tôi, cho những linh hồn, mà đúng lý ra tôi phải biết cầu nguyện cho khi tôi còn sống. Thế nhưng, Thiên Chúa, bằng việc xét xử công minh của Ngài, cũng sẽ cho tôi tất cả những ơn ích mà trước kia tôi đã làm, khi tôi vào nước thiêng đàng; nhưng trước tiên vẫn là, tôi phải chuộc những tội mà tôi đã thờ ơ với những người khác.”
Thì quả đúng như vậy, quả đúng đó là những ngôn từ của Thiên Chúa: “Những gì con bị cầm buộc ở dưới đất, thì trên trời cũng bị cầm buộc.”
Hãy nhớ rằng, tất cả những ai đọc lên những dòng chữ này, rằng là số phận bi thảm của người đàn ông ngoan đạo này cũng sẽ là số phận của tất cả những ai thờ ơ cầu nguyện hay từ chối cầu nguyện để giúp đỡ các linh hồn.
C. Các Linh Hồn Vẫn Còn Ở Nơi Luyện Ngục Trong Khoảng Thời Gian Bao Lâu? (Trang 8 trong Sách)
Khoảng thời gian mà các tâm hồn bị lưu giữ lại nơi lửa luyện ngục tùy thuộc vào:
1. số tội lổi mà các linh hồn ấy đã phạm phải khi còn sống; 2. sự hiểm độc, ác ý và sự chủ ý cùng với những hành động đã gây ra; 3. sự ăn năn hối cải đã thực hiện được, hay chưa thực hiện được, sự hài lòng đã thực hiện được, hay chưa thực hiện được vì tội lổi khi còn sống; 4. phần nhiều cũng tùy thuộc vào những lời kinh cầu được gởi đến sau khi họ chết đi.
Điều có thể chắc chắn nói được rằng chính là, theo nguyên tắc, thì tất cả các linh hồn đều phải trải qua thời gian nơi lửa luyện tội lâu hơn những gì mà con người thường hay nghĩ và tưởng tượng đến. Sau đây là phần trích dẫn về một số trường hợp đã được kể lại chi tiết qua những đời sống và mạc khải của những vị Thánh:
Cha của Thánh Louis Bertrand là một người Công Giáo hết sức gương mẫu, vì lẽ thường chúng ta ai cũng biết, vì ông là cha của một vị Thánh lớn. Ông ta cũng đã từng mong ước là được trở thành một vị tu sĩ ẩn hèn cho đến khi ông nhận biết ra rằng đó không phải là ý định của Thiên Chúa dành cho ông.
Khi ông chết đi, sau nhiều năm dài sống và thực thi tất cả mọi đức tính của một người Kitô giáo, của người con là một vị Thánh của ông, ông hoàn toàn hiểu rõ được sự rùng mình về sự công minh, chánh trực của Thiên Chúa, do đó, ông đã xin lễ liên lũy, và khẩn khoản nài xin Thiên Chúa không ngớt cho linh hồn của người con quá cố mà ông rất đỗi thương yêu.
Thế nhưng ông cố của vị Thánh vẫn còn nơi lửa luyện tội, do đó, đã buộc người cha của vị Thánh phải cầu nguyện gấp trăm ngàn lần. Ông nguyện cầu cho những tội nặng và ăn chay trường cùng với việc xin lễ và cầu nguyện mỗi ngày. Và sau gần tám năm trôi qua, người cha của Ông đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi nơi lửa luyện ngục.
Chị của Thánh Malachy, bị lưu đày nơi lửa luyện ngục trong khoảng một thời gian rất dài, mặc cho những thánh lễ cầu xin, những lời cầu nguyện và cả những việc bị hành xác, bị sĩ nhục can trường của vị nữ Thánh cho chính người chị của mình!
Chuyện có liên quan đến một nữ tu thánh thiện ở Pampluna, người đã thành công giải thoát tất cả những nữ tu dòng kín Carmêlô khỏi nơi lửa luyện ngục, vì rằng hầu hết những linh hồn này đã ở đó tới 3 nhiệm kỳ rồi, khoảng từ 30 đến 60 năm rồi!
Các nữ tu dòng kín Carmêlô thường ở nơi lửa luyện ngục khoảng từ 49, 50 cho đến 60 năm! Vì rằng, khi còn sống, các nữ tu đã phải gánh chịu hết tất cả mọi tội lỗi cho trần gian.
Thánh Vinh Sơn Ferrer, sau cái chết của người chị ruột, vị Thánh đã hăng hái cầu nguyện sôi nổi cho linh hồn quá cố của người chị ruột và xin dâng rất nhiều thánh lễ để cho linh hồn chị được siêu thoát. Và người chị ấy đã hiện ra rất lâu và nói với vị Thánh rằng: nếu không nhờ sự chuyển cầu mạnh mẽ của vị Thánh gởi tới Thiên Chúa, thì giờ đây chắc có lẽ, chị vẫn còn lưu lại nơi lửa luyện tội một thời gian rất dài, vô định.
Trong Dòng Đa Minh, theo đúng luật, phải cầu nguyện cho các đấng bản quyền, bề trên giám tỉnh bằng tên, vào đúng những ngày kỷ niệm của họ. Rất nhiều trong số những vị này đã băng hà từ hàng trăm năm qua! Các vị này xứng đáng là những người hết sức đặc biệt vì lòng mộ đạo và sự thông minh xuất chúng của các vị. Luật này không nhất thiết cần phải có sự phê chuẩn của Giáo Hội.
Chúng tôi không muốn ám chỉ rằng tất cả những linh hồn đều phải lưu giữ lại nơi lửa luyện tội trong một khoảng thời gian dài như nhau để chuộc tội. Rất nhiều linh hồn đã phạm ít tội hơn và đã đền tội nhiều hơn. Do đó, hình phạt của các linh hồn đó, thì kém phần kinh hãi hơn.
Tuy nhiên, những trường hợp mà chúng tôi trích dẫn ở trên, là nhằm để nói rõ được ý tưởng chủ đạo của bài viết, vì nếu chúng ta muốn được gần gũi, nhìn thấy được những gương sáng và muốn nhận được sự thông công chuyển cầu của các vị Thánh lớn trong khi chúng ta còn sống và khi chết đi với sự hổ trợ của lời nguyện cầu liên lũy thì chúng ta cũng sẽ phải lưu lại một khoảng thời gian nơi lửa luyện tội.
Tại sao phải có sự chuộc tội quá lâu vậy?
Thì sau đây chính là những lý do, vốn dĩ, chẳng có khó khăn gì khi phải nhận ra:
1. Tính hiểm ác của tội lỗi là vô cùng lớn. Đối với chúng ta, nó trông có vẽ là một tội nhỏ, nhưng thực tế, đó lại là những tội lỗi hết sức trầm trọng chống lại lòng nhân từ vô bờ bến của Thiên Chúa.
Khi chúng ta nhìn thấy các Thánh phải khóc lóc thảm thiết vì những tội lỗi của họ, thì nhiêu đó, cũng đã đủ. Vì chúng ta yếu đuối, do đó, chúng ta bị ma quỷ cám dỗ. Đó là điều hoàn toàn đúng, thế nhưng Thiên Chúa đã đổ tràn biết bao nhiêu hồng ân để cho chúng ta biết cách khắc phục những nhược điểm của chúng ta, Ngài ban cho chúng ta ánh sáng để nhìn thấy được tính nghiêm trọng của những tội chúng ta đã phạm, và Ngài cũng còn đưa ra những sức ép cần thiết để giúp chúng ta biết chế ngự mọi cơn cám dỗ. Nếu chúng ta vẫn còn quá yếu đuối, thì tất cả là tội lỗi của chính chúng ta. Vì lẽ, chúng ta không biết dùng ánh sáng và sức mạnh mà Thiên Chúa đã rộng lòng ban cho chúng ta, chúng ta không biết cầu nguyện, chúng ta không biết lãnh nhận các phép bí tích, như là chúng ta phải nên.
2. Một nhà thần học gia nổi tiếng và hết sức thông thái đã nói như thế này: nếu các linh hồn bị đẩy vào hỏa ngục ngàn đời, mãi kiếp, vì một tội trọng, thì chẳng có gì phải ngạc nhiên khi các linh hồn khác phải bị lưu lại nơi lửa luyện ngục, những người mà khi còn sống đã phạm phải biết bao nhiêu thứ tội nhẹ, mà một số trong đó lại là tội truyền kiếp. Và cũng thế, nếu các linh hồn ấy đã phạm quá nhiều tội trọng mà họ không hề biết hối hận, biết ăn năn, biết đền tội, thì án phạt sẽ phải rất đau đớn, và do đó, họ cứ bị lưu giữ mãi nơi lửa luyện tội, cho đến khi họ biết ăn năn, đền tội.
Thiên Chúa đã nói với chúng ta rằng: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: ngươi sẽ không ra khỏi đó, bao lâu ngươi chưa trả nốt đồng xu cuối cùng.” (Sách Máthêu, chương 5, câu 26).
Các vị Thánh cũng đã phạm phải một vài tội nhẹ, và các vị ấy đã biết ăn năn, hối hận rất nhiều. Chúng ta phạm rất nhiều tội, thế nhưng chúng ta không hề biết hối hận, biết ăn năn, cũng như chẳng hề biết đền tội gì cả.
Tội Nhẹ
Sẽ thật là khó khi phải đếm và tính toán vô số các tội nhẹ mà mỗi người Công Giáo đã lỗi phạm, vì lẽ:
1. Có vô số tội về lòng tự ái; về sự ích kỷ; về những nghĩ suy, những từ ngữ và những hành động ham muốn nhục dục, dưới rất nhiều hình thức; những tội ta phạm về lòng bác ái trong suy nghĩ, qua ngôn từ, và trong hành động; sự biếng lười; lòng kiêu căng tự phụ; sự ghen tuông; sự nhạt nhẽo, hờ hững; và vô số các tội khác.
2. Có những tội bỏ xót qua mà chúng ta rất ít chú ý tới. Chúng ta yêu mến Thiên Chúa rất ít, tuy nhiên Ngài có hàng trăm ngàn những lời yêu thương dành cho chúng ta. Chúng ta cư xử với Ngài rất ư là lạnh nhạt, rất ư là lãnh đạm và thờ ơ, cũng như là bội phản lại ơn nghĩa của Ngài.
Ngài chết cho mỗi người trong chúng ta. Thế mà có bao giờ chúng ta biết cám ơn Ngài như là chúng ta phải chưa? Ngài vẫn còn hiện hữu ở đó, ngày, đêm chờ đợi chúng ta nơi bàn thờ; đợi chờ mòn mỏi sự viếng thăm của chúng ta, và Ngài rất ư là nhiệt tình để tìm cách giúp đỡ chúng ta, thế mà rất hiếm khi chúng ta lê bước để đến với Ngài! Ngài đã đến ngự trong mỗi trái tim của chúng ta nơi Phép Thánh Thể, và chúng ta chối từ việc đến thăm Ngài. Ngài dâng hiến mình Ngài cho chúng ta trên bàn thánh vào mỗi thánh lễ sáng và ban cho chúng ta những biển cả hồng ân, và ơn huệ cho những ai biết suy gẫm về sự hy sinh khổ giá vĩ đại của Ngài cho nhân loại lầm lỡ. Tuy nhiên, rũi thay, rất nhiều người trong chúng ta quá biếng lười để cùng đi với Ngài đến đồi Calvê! Quả là một sự bội bạc ơn nghĩa đến dường bao!
3. Trái tim của chúng ta rất ít kỷ, chai cứng và đầy lòng tự ái. Chúng ta có những ngôi nhà hạnh phúc, có những thức ăn cao lương, mỹ vị, có quần áo ấm để mặc khi trái gió trở trời, và có hàng ngàn những điều tốt đẹp khác. Trong khi đó, rất nhiều người, sống chung quanh chúng ta, đang phải đói ăn, thất thưởi, rày đây, mai đó, không nhà, không cửa, và không nơi nương tự, dòng đời của họ, cứ mặc, trôi mãi, theo năm tháng, của gió bụi, của tăm tối, và chúng ta chỉ cho họ có một chút xúi thôi; trong khi đó, chúng ta tiêu xài phung phí và chẳng cần biết nghĩ đến ngày mai.
4. Cuộc sống được trao ban, là để cho chúng ta biết cách phục vụ Thiên Chúa, để cứu rỗi tất cả các linh hồn. Tuy nhiên, hầu hết những người Kitô giáo rất là thỏa lòng để dành cho Chúa chỉ 5 phút cầu nguyện vào ban sáng và 5 phút cầu nguyện vào lúc đêm về! Số thời gian còn lại là để dành cho công ăn việc làm, cho việc nghĩ ngơi và những niềm hoan lạc, vui thích. Mười phút cho Thiên Chúa, cho những linh hồn bất tử của chúng ta, cho những việc cao trọng mà chúng ta phải làm, để cho việc cứu rỗi chúng ta. 23 giờ và 50 phút còn lại là để dành cho một cuộc sống hoán chuyển đời tạm! Liệu đó có công bằng đối với Thiên Chúa hay không?
Có thể là chúng ta biện luận rằng công ăn việc làm của chúng ta, sự nghĩ ngơi của chúng ta, và những gì chúng ta phải gánh chịu chính là cho Thiên Chúa!
Nếu đúng thế, thì quả là giá trị của chúng ta rất là vĩ đại. Thế nhưng sự thật chính là vẫn còn có rất nhiều người rất ít khi và rất sợ khi phải nghĩ đến Thiên Chúa trong suốt một ngày của họ. Họ chỉ biết nghĩ, biết lao động, biết nghĩ ngơi và ngủ nghĩ chỉ cho riêng bản thân họ mà thôi. Thiên Chúa chiếm chổ rất ít trong một ngày dài của họ, cũng như trong tâm trí của họ. Thì đây đúng là một sự sỉ nhục lớn đối với Trái Tim Yêu Thương của Thiên Chúa, mà chúng ta chẳng bao giờ nghĩ đến cả.
Tội Trọng
Rất nhiều người Kitô giáo chẳng may phạm phải tội trọng khi họ còn sống, nhưng mặc dầu là họ đã thú tội, thế nhưng nó vẫn chưa đủ.
Chân Phước Bede nói rằng, đối với những ai trong khi còn sống, đã phạm phải rất nhiều trọng tội, và đã biết thú tội nơi giường bệnh ngay vào giờ phút lâm tử, thì họ vẫn còn bị lưu giữ lại nơi lửa luyện tội cho đến Ngày Phán Xét.
Thánh Gertrude qua sự mạc khải, vị Thánh cho biết rằng, những ai đã phạm trọng tôi và đã chưa ăn năn, đền tội đủ, sẽ không được phép sẽ chia với những lời cầu nguyện thường ngày của Giáo Hội trong khoảng một thời gian dài!
Kết Luận
Tất cả những tội lỗi, dù là trọng tội hay tội nhẹ, đều chất chứa khoảng cho đến 20, 30, 40, và 60 năm của cuộc sống chúng ta. Mỗi người trong chúng ta phải biết cách chuộc lỗi sau khi chúng ta chết đi. Đó chính là lý do tại sao, chúng ta cứ phân vân và thắc mắc, tại sao các linh hồn phải lưu lại nơi lửa luyện tội quá lâu đến như vậy?
Sử liệu các cha dòng Capucino ghi lại câu chuyện liên quan đến những cực hình các đẳng: 2/11-75
Sử liệu các cha dòng Capucino ghi lại câu chuyện liên quan đến những cực hình các đẳng Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục.
Cha Hippolyte de Scalvo là người tôi tớ tín trung của Chúa. Cha đặc biệt có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn. Cha luôn luôn cầu nguyện cho các vị được mau mau giải thoát khỏi chốn Luyện Hình. Cầu nguyện chưa đủ, cha Hippolyte còn ăn chay hãm mình đền bù thay cho các đẳng và thường thuyết giảng về Luyện Ngục. Cha nhắc các tín hữu nhớ cầu nguyện, dâng các hy sinh và việc lành phúc đức để cầu cho các Linh Hồn được sớm về hưởng tôn nhan Chúa. Sáng nào cũng thế, cha Hippolyte thức dậy thật sớm để nguyện kinh cầu cho những người quá cố. Chúa Nhân Lành đã dùng gương vị tôi tớ Ngài để giúp các tín hữu hiểu phần nào những hình phạt các đẳng Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Hình.
Năm ấy cha Hippolyte được Bề Trên gởi đến Flandres, một thành phố nằm ở biên giới hai nước Pháp và Bỉ, để mở một tu viện các cha dòng Capucino. Trong số các tu sĩ cùng đi với cha Hippolyte có một thầy dòng hết sức đạo đức. Nhưng vừa đến nơi, vị tu sĩ này ngã bệnh nặng và đột ngột từ trần.
Sáng hôm sau đó, cha Hippolyte quì cầu nguyện trong nhà thờ, sau giờ Kinh Sáng. Bỗng chốc cha thấy xuất hiện trước mặt mình vị tu sĩ quá cố, dưới hình một bóng ma phủ đầy lửa. Người quá cố thú tội cùng Cha Bề Trên với lời rên rỉ não nề về một lỗi nhẹ mà thầy đã quên xưng khi còn sống. Thú tội xong, thầy thưa: "Xin cha cho con việc đền tội tùy ý cha và xin cha ban phép lành cho con hầu con được giải thoát khỏi khuyết điểm khiến con phải đau khổ vô ngần trong Lửa Luyện Ngục". Cảm kích trước tình trạng thảm sầu của vị tu sĩ thuộc quyền quá cố, cha Hippolyte vội vàng nói ngay:
- "Nhân danh quyền được phép, tôi xin tha tội cho thầy và chúc lành cho thầy. Còn về việc đền tội, vì thầy bảo là tôi có quyền ra việc đền tội, thì xin thầy hãy ở trong Lửa Luyện Ngục cho đến giờ Kinh Thứ Nhất, tức vào khoảng 8 giờ sáng nay".
Cha Hippolyte nghĩ rằng mình đã khoan hồng khi ra việc đền tội cho tu sĩ quá cố chỉ ở lại nơi Luyện Hình vài giờ! Nào ngờ, vừa nghe xong án lệnh, thầy dòng đạo đức như rơi vào trạng huống tuyệt vọng. Thầy vừa chạy vòng vòng trong nhà thờ vừa kêu la thảm thiết:
- "Ôi tấm lòng không đại lượng! Ôi người cha không biết cảm thương một Linh Hồn sầu não! Sao cha lại trừng phạt cách khủng khiếp một lỗi nhẹ mà nếu con còn sống, hẳn cha chỉ ra một việc đền tội cỏn con. Cha quả thật không biết tí gì về những kinh hoàng các Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục!".
Nghe lời trách cứ nặng nề của vị tu sĩ quá cố, cha Hippolyte như "dựng tóc gáy" và cảm thấy vô cùng ân hận. Cha tìm cách "vớt vát" cái vô ý thức của mình. May mắn thay, cha nghĩ ra được một diệu kế. Cha vội vàng đánh chuông, gọi các tu sĩ trong cộng đoàn vào nhà thờ nguyện Kinh Giờ Một. Khi các tu sĩ có mặt đầy đủ, cha Hippolyte kể lại câu chuyện vừa xảy ra và cùng với cộng đoàn bắt đầu đọc ngay Kinh Giờ Một, hầu cho thầy dòng quá cố được sớm giải thoát khỏi lửa luyện hình.
Từ ngày đó cho đến khi qua đời, trong vòng 20 năm trời, Cha Hippolyte de Scalvo không bao giờ quên câu chuyện đã xảy ra. Trong các bài giảng, cha thường lập lại câu nói của thánh Anselmo (1033-1109): "Sau khi chết, hình phạt nhẹ nhất đón chờ ta trong Lửa Luyện Hình trở thành lớn lao hơn tất cả những gì trí khôn ta có thể tưởng tượng được khi còn sống trên trần gian này".
(Jacques Lefèvre, "Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints", Editions Résiac, 1995, trang 24-26).
Mỗi lần viếng nghĩa trang, là một dịp nhắc nhớ cho mỗi chúng ta niệm khúc quí giá về tình: 2/11-76
Mỗi lần viếng nghĩa trang, là một dịp nhắc nhớ cho mỗi chúng ta niệm khúc quí giá về tình người, về chữ hiếu, về cuộc sống đời này, về một niềm hy vọng vào đời sau. Về tình người
Nơi nghĩa trang, bao người đã sống, nay đang nằm I'm lìm trong lòng đất. Họ đã trở về tro bụi. Trong số đó, có thể có những người đã sống một cuộc sống ý nghĩa, tốt đẹp trước mặt Chúa và mọi người. Nhưng là con người, phàm AI không tội lỗi, không thiếu sót.
Đứng trước hàng dãy phần mộ của những người đã Ra đi, chúng ta khiêm tốn nhận Ra mọi người cùng là thân phận người mỏng dòn yếu đuối với nhau, gợi lên trong lòng chúng ta sự đồng cảm và thương xót: Đồng cảm thân phận yếu hèn, thương xót những con người đã Ra đi khi còn vương mắc bao tội tình, lầm lỗi. Tội với Thiên Chúa, lầm lỗi với con người.
Và, nơi nghĩa trang này, còn gợi lên trong chúng ta lòng thương xót cả những con người đã Ra đi do tội của người khác: tội của cha mẹ giết con mình, tội của những người quyến rủ vào con đường trác táng, nghiện ngập, tội của người trả thù đâm chém nhau, tội của những người ghen tương không có lòng tha thứ, tội của những người dùng quyền lực áp bức bất công, tội của người thanh trừng nhau tranh quyền đoạt lợi, tội của những con người dững dưng vô cảm mặc AI chết đói chết khát, bệnh hoạn chết dần chết mòn….
Thiết tưởng, từ nghĩa trang, lòng thương xót này không chỉ là một cảm xúc thoáng qua, nhưng sẽ lưu lại trong lòng và biến đổi cuộc sống chúng ta thành những con người sống có tình thương, có trái Tim biết yêu và lòng quảng đại, không hơn thua, ganh ghét, nhưng là yêu thương chia sẻ cho nhau những gì là tốt đẹp nhất trong cuộc đời.
Về chữ Hiếu
Một người thân gửi thân xác nơi nghĩa trang, là một giao điểm linh thiêng cho tất cả những người còn sống trong tộc họ, giao điểm nối kết mọi tâm tư tình cảm, giao điểm gặp nhau đầy ý nghĩa huyết thống của mỗi người và cũng là giao điểm hóa giải bao bất ổn của họ tộc. Nếu người thân là Đấng Sinh Thành, là Cha Mẹ, Ông Bà, thì ý nghĩa giao điểm linh thiêng kia càng rõ nét hơn.
Đứng trước mộ phần không chỉ
- Với lòng ngưỡng mộ và biết ơn những công đức cao dày của Đấng Sinh Thành,
- Với lòng sám hối vì những vô ơn bất hiếu khi chư vị còn sống,
- Với lòng Mến, cùng với lòng Cậy nhờ Đức tin nguyện xin Chúa ban cho chư vị ơn Cứu Rỗi…
- Mà còn nguyện hứa với chư vị rằng sẽ sống tình gia đình, tình huynh đệ càng lúc càng thắm nồng với nhau hơn.
Vâng, thực hành chữ Hiếu, hay đạo Hiếu không chỉ là những hình thức, những lễ nghi, mà là một biến đổi tận căn do ân sủng khi đi từ chữ Hiếu đến việc giữ luật Điều Răn thứ tư: Thảo Kính Cha Mẹ, điều răn của chính Thiên Chúa ban ra.
Về cuộc sống đời này
Với những tín hữu Phật Giáo, Ấn Độ Giáo hoặc Bàlamôn, và cả những người theo Khổng Giáo, Lão Giáo….thì tư tưởng “sắc sắc, không không, có đó rồi lại không đó”, “cuộc đời là hư vô”, “mọi sự là hư vô” gần như mang một nỗi bi quan tuyệt vọng. Nó dẫn con người ta đến một ngõ cụt của cuộc đời không lối thoát hiểm. Không ai tránh được chỗ cùng tận là tro bụi, không ai thoát được nỗi phủ phàng là hư vô. Bởi vậy, họ hoài mong một cuộc hóa thân, hóa kiếp, luân hồi. Nỗi hoài mong nầy, họ dựa trên cách ăn nết ở của họ, dựa trên chính công nghiệp của họ. Bởi vậy mới có những lời khuyên răn rất dân gian: “Ở hiền, gặp lành” hay “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”….
Còn sự sống đời này của những người công giáo chúng ta thì sao? Hãy nghe sách Giảng Viên nói về cuộc đời:
“Ông Cô-he-lét nói : "Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”. ( x. Gv 1, 2-9)
Nhưng từ chỗ phù vân ấy, Ông Cô-he-lét đã nhận ra:
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Giáo lý công giáo dạy cho chúng ta biết rằng, mọi sự trên trần gian nầy phải đến chỗ phù vân ấy, hư vô ấy là do hậu quả của tội nguyên tổ. Nhưng, tội nguyên tổ đã được xóa đi nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô.
Bởi vậy, biết cuộc đời là hư vô, Người công giáo vẫn không dừng lại ở chỗ bi quan tuyệt vọng vì thân phận phải trở về tro bụi của mình, cũng không dám tự sức mình có thể cứu vớt cho mình khỏi tình trạng bi đát ấy, nhưng người công giáo có đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, và chỉ nhờ vào công nghiệp của Ngài mà họ được cứu sống: thoát cảnh hư vô, và sống cuộc sống vĩnh hằng trong Thiên Chúa.
Về cuộc sống đời sau
Vậy, khi tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì dẫu biết “mọi sự là hư vô” nhưng vẫn có giá trị riêng của nó: hư vô ở đời này là khởi điểm ngưỡng vọng một cuộc sống đời sau hằng hữu. Chính cái ý thức hư vô thôi thúc chúng ta buông bỏ cuộc đời tạm bợ, và bằng lòng trao phó cuộc đời này cho Đức Giêsu, để Ngài phục hồi từ hư vô thành hằng hữu.
- Thân xác từ hư vô, nhờ công nghiệp cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã được thánh hóa nên Cung Điện Chúa Thánh Thần, nên nhà tạm của Chúa Giêsu Thánh Thể, nên Đền Thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
- Của cải vật chất thế gian chắc chắn sẽ trở về hư vô, nhưng đang trở nên phương tiện cho chúng ta cộng tác với công nghiệp của Chúa Giêsu, nhờ biết cách sử dụng của cải thế gian mà mua lấy nước Thiên Đàng.
- Quỹ thời gian của mỗi người sẽ cạn dần đi, sẽ ít đi, nhưng từng phút giây đang trở nên càng có giá trị cứu rỗi cho chính mình, nếu biết dùng mỗi phút giây hiện tại với lòng sám hối, lòng tạ ơn, với lời chúc tụng, và nên của lễ tận hiến cho vinh danh Chúa.
- Sự chết không dẫn chúng ta về hư vô, nhưng là khởi điểm của một cuộc sống mới, vì chúng ta đã và đang cùng sống, cùng chết với Đấng đã sống, đã chết, và đã sống lại.
Như vậy, cuộc đời trần gian này “Mọi sự là hư vô”. Nhưng Mọi Sự Trong Đức Giêsu Kitô đang trở nên phần rỗi cho chúng ta, đang chuẩn bị cho chúng ta một cuộc sống hằng hữu trong Thiên Chúa.
Thế thì:
Không còn niềm đau nào nơi “thành phố tro bụi”. Không còn nỗi buồn nào nơi heo hút nghĩa trang. Không còn hoang mang nào khi chiều vàng héo úa Không còn khăn tang nào quấn trên đầu nhân gian
Chỉ còn một tình thương, một tình thương vĩnh cửu Chỉ còn một niềm tin, Đấng Hằng Hữu vinh quang Trong Ngài, ta sống và ta chết từng giây phút Để trong Ngài, ta cùng sống cuộc sống mới hân hoan.
Có nhiều tiếng để chỉ cái chết của một người; nhưng động từ “QUA ĐỜI” có một ý nghĩa đặc: 2/11-77
Có nhiều tiếng để chỉ cái chết của một người; nhưng động từ “QUA ĐỜI” có một ý nghĩa đặc biệt đối với những người có niềm tin vào cuộc sống đời sau, tin con người khác các con vật khác, vì con người vừa có phần xác, vừa có phần linh hồn. Đối với loài vật, chết là hết không còn gì nữa; nhưng đối với con người, chết chỉ là qua cuộc đời này để sang một cuộc đời khác. Trong tiếng Anh cũng thường dùng từ “Pass Away” và trong Kinh Tiền Tụng về Lễ Cầu Hồn cho những người đã qua đời, có câu “Nơi Chúa Kitô, niềm hy vọng sống lại vinh phúc đã chiếu tỏa trên chúng tôi, để những ai buồn sầu về số phận chắc chắn phải chết, cũng được an ủi, vì Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Đối với các tín hữu của Chúa, sự sống thay đổi, chứ không mất đi, và khi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chổ cư ngụ vĩnh viễn trên trời.” Trong sách Kinh Thánh Cựu Ước, có câu “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với những người không hiểu biết, thì hình như các Ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta là đi vào chỗ tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an…Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các Ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏa ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau… (Sách Khôn Ngoan 3: 1-9). Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói; “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống…” (Phúc Âm Gioan 11: 25…)
Sự sống lại trong nước Chúa của chúng ta sau cái chết là nhờ vào cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Lên Trời vinh hiển của Chúa Kitô. Trong Thánh Lễ an táng, trước khi rước quan tài người quá cố lên gần Cung Thánh, có nghi thức làm phép xác ở cuối nhà thờ, vị chủ tế rẩy nước thánh trên quan tài và đọc : “ Xin Chúa làm phép thi thể của…. Với nước thánh nhắc nhở Bí Tích Rửa Tội, như Thánh Phaolô viết: tất cả chúng ta đã được rửa tội trong Chúa Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người… Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hiệp nhất với Người trong sự sống lại giống như vậy.” Các Bài Đọc Sách Thánh trong ba Lễ ngày lễ các linh hồn đều lưu ý chúng ta về chủ điểm: “Sự sống thay đổi chứ không mất đi” nhờ vào cuộc Tử Nạn, sự Sống Lại và Lên Trời vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô.
Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chính là lúc chúng ta cũng chết đi với tội lỗi và sống lại với Chúa Kitô trong cuộc sống mới, một cuộc sống không còn nô lệ với tội lỗi, với đam mê xác thịt, nhưng được sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Vậy trong tháng 11 là tháng cuối cùng của Niên Lịch Phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các vị đã qua đời. Trong đó, có những vị đã được nên Thánh và chúng ta kính chung vào ngày 1/11 hằng năm (Tất cả các vị đã được lên Nước Chúa đều là Thánh, dù mỗi ngày trong suốt năm phụng vụ của Giáo Hội đều có lễ kính một vị thánh đặc biệt nào đó để chúng ta có dịp suy ngẫm về cuộc sống tuyệt vời của các Ngài nơi trần gian, mà tạ ơn Chúa cho các Ngài, và noi theo đời sống hy sinh, bác ái, thánh thiện của các Ngài, nhất là cái chết anh hùng của các Thánh Tử Đạo - Như các Thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông của chúng ta).
Còn có những vị đã qua đời mà chưa được lên Nước Chúa, vì chưa được thanh luyện xứng đáng, chưa đền bù xứng đáng những lỗi phạm về phép công bằng, và phải thanh luyện nơi luyện tội, thì Giáo Hội cầu nguyện chung vào ngày 2/11 và khuyến khích chúng ta cầu nguyện nhiều cho các vị trong suốt tháng Linh Hồn; dù chúng ta vẫn cầu nguyện hằng ngày cho các linh hồn, và trong mỗi Thánh lễ đều có phần kinh đọc cầu cho các Linh Hồn trong các Kinh nguyện Thánh Thể.
Việc dâng lễ Kinh các Thánh và cầu cho các Linh Hồn nơi luyện tội là thuộc mầu nhiệm liên kết giữa Giáo Hội trên Thiên Quốc (Giáo Hội Chiến Thắng), Giáo Hội nơi Luyện Tội (Giáo Hội đau khổ) và Giáo Hội Trần Thế (Giáo Hội chiến đấu).
Vậy sự chết dù là điều chắc chắn xẩy ra cho mọi người chúng ta và thường xẩy ra lúc chúng ta không ngờ. Dẫu vậy, chúng ta không bi quan, sợ hãi, nhưng đặt tin tưởng nơi Chúa Phục Sinh. Miễn là chúng ta hãy luôn sống sẵn sàng: thánh hóa bản thân, tôn thờ Chúa và hết lòng phục vụ Chúa qua những người nghèo khó, bịnh tật, những người cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngày phán xét, Chúa sẽ phân xử chúng ta theo những việc bác ái, yêu thương mà chúng ta đã làm trong suốt cuộc đời chúng ta: “ Khi Cha đói, các con đã cho Cha ăn; khi Cha khát, các con đã cho Cha uống; khi Cha mình trần, các con đã cho Cha áo mặc…”(Matthêu 25:31-46).
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh thiên: 2/11-78
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh thiên đàng”. Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. “Liên minh thiên đàng”. Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh thiên đàng” tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hãng bưu điện “Liên minh thiên đàng” của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi.
Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ.
Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế: 2/11-79
Những ý nguyện cuối cùng của ngài Alexander Đại Đế khi sắp chết. Ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài phán rằng:
1 - Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó.
2 - Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu, ...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và ...
3 - Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần của ngài, rất đổi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế.
Ngài Alexander đã giải thích như sau:
1 - Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng mt khi phi đối mt với ci cht, thì chính h (l những người ti gii nht) cng khng c ti no để cứu chữa.
2 - Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng ca ci, ti sn m ta gom gp được ở trn th gian ny, s mi mi ở li trn th gian ny (một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giả cỏi đời).
3 - Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho mọi người thấy rằng chng ta đến với th giới ny với hai bn tay trng v khi rời khi th giới ny chng ta cng chỉ c hai bn tay trng.
Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng, kho tàng quí giá nhất trong cuộc đời này là TÌNH YÊU THƯƠNG
Ở đời người ta vẫn cho rằng: hạnh phúc là giầu sang, là phú quý, có nhà cao cửa rộng, có vợ: 2/11-80
Ở đời người ta vẫn cho rằng: hạnh phúc là giầu sang, là phú quý, có nhà cao cửa rộng, có vợ đẹp con khôn, có quyền lực, có tiền để hưởng lạc mọi thú vui trần gian.... Chính vì lẽ đó, người ta sẵn sàng làm mọi sự để đạt được những thứ ấy. Đôi khi họ bất chấp mọi thủ đoạn, họ dùng mọi phương tiện, mọi mưu kế để theo đuổi hạnh phúc trần gian. Có khi vì những hạnh phúc thông thường ấy, họ không ngần ngại hy sinh, gian nan, kể cả bỏ người thân để kiếm tìm. Thông thường họ vẫn nghĩ đó là chuyện nên làm và cần phải làm để tồn tại trong thế giới đầy thị phi này.
Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giêsu về hạnh phúc hoàn toàn ngược lại với cách suy nghĩ của thế gian. Hạnh phúc của Chúa Giêsu không phải nằm trong cái chúng ta nắm lấy mà là ở trong cái chúng ta cho đi. Không phải ở trong điều chúng ta tìm cách thoả mãn, hưởng thụ mà hệ tại ở việc chúng ta sống tự chủ bản năng, sống thanh thoát với đam mê. Không phải ở trong việc chúng ta tìm sự nhàn rỗi hay trốn tránh trách nhiệm mà quan yếu là dám đối diện với sự thật, để bảo vệ cho sự thật, bảo vệ cho công lý, cho dù có vì đó mà tù đầy hay thiệt thòi . . .
Có lẽ, thế gian vẫn cho những ai sống điều này là điên rồ. Thế gian đến rồi đi. Hiện hữu rồi mất đi. Họ nghĩ rằng cuộc sống trần gian là để hưởng thụ nên tìm mọi cách để hưởng thụ kẻo chết là hết như có người đã từng nói: “Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau”. Họ lao vào cuộc đời tìm kiếm danh lợi thú để thoả mãn lòng tham của mình. Vâng, nếu chết là hết thì không cần ăn ngay ở lành, không cần làm việc lành phúc đức, không cần “trồng cây hạnh ở đời”. Chết là hết thì hãy cố gắng tranh thủ mà hưởng lạc kẻo uổng phí cuôc đời. Nhưng, thực ra chết không phải là hết. Ngoài sự sống trần gian này chúng ta còn có một sự sống hoàn hảo hơn. Nơi đó là trọn vẹn. Con người không cần phải bon chen, không phải lo hưởng thụ vì đã tròn đầy hạnh phúc.
Chúa Giêsu khi đề ra các mối phúc, Ngài hướng con người tới hạnh phúc trường tồn. Ngài dẫn dắt con người vượt qua hạnh phúc tạm để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc đời này người ta ví tựa như cuộc sống của bào thai, một cuộc sống tăm tối trong bụng mẹ chỉ là cuộc sống tạm bợ ngắn ngủi trong 9 tháng 10 ngày. Cuộc sống ấy không chỉ kéo dài tới đấy là hết, mà toàn bộ cuộc sống ấy là để chuẩn bị cho một cuộc sống khác dài hơn gấp bội, có thể tới 90 năm. Cũng vậy, người kitô hữu quan niệm rằng đằng sau cuộc sống ngắn ngủi này là cả một đời sống vĩnh cửu dài vô tận. Vì thế, người kitô hữu - những kẻ theo Đức Giêsu - tuy sống trong thế giới này nhưng tâm hồn vẫn hướng về một thế giới khác tốt đẹp hơn, rộng lớn hơn, lâu dài hơn rất nhiều.
Hôm nay, mừng lễ các thánh nam nữ ở trên trời là lời khẳng định có đời sau của niềm tin kytô hữu chúng ta. Các thánh là những người đã vượt qua niềm vui mau qua để tiến vào niềm vui bất diệt. Các ngài đã sống một cuộc đời không chọn vinh hoa phù vân nhưng chọn Chúa làm gia nghiệp. Các ngài đã sống một cuộc đời tự chủ bản năng để không vì danh lợi thú mà bán rẻ lương tâm, mà đánh mất nhân phẩm con người. Các ngài đã trung kiên làm chứng cho sự thật, và bảo vệ công lý cho dù có thua thiệt đời này, nhưng các ngài đã chiếm trọn đời sau.
Xin chư vị các thánh cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta biết sống theo tin mừng, biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là giá trị trần gian mau qua. Xin nhờ lời bầu cử của các ngài xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan và lòng dũng cảm để sống theo thánh ý Chúa. Amen
Thành công lớn nhất trong cuộc đời, có phải: - Là những công trình khoa học để lại cho nhân: 2/11-81
Thành công lớn nhất trong cuộc đời, có phải:
- Là những công trình khoa học để lại cho nhân loại? - Là những tác phẩm văn học, nghệ thuật đồ sộ lưu danh tới nghìn thu? - Là đôi ba tòa lâu đài, là dăm bảy công ty, là nơi nào cũng có bất động sản mang tên mình? - Là tài sản kếch xù cho con cháu tận hưởng? - Là đã tạo nên cơ ngơi sự nghiệp vững chắc nơi xứ người? - Là đã khẳng định tên tuổi mình trong danh mục các danh nhân thế giới? - Là có con làm Giám Mục, Linh Mục, làm quan lớn, là cho con cái ăn học đến nơi đến chốn, là lo được cả cho con thành thất thành gia đàng hoàng trọng thể? - Là đã xây dựng những ngôi nhà thờ đồ sộ, những công trình Giáo Hội thật khang trang, hoặc đã giúp đỡ cả trăm ngàn lượt người khốn khó? - Là trăm ngàn việc lớn việc nhỏ giúp ích cho đời?
Có thể còn bao nhiêu định nghĩa về sự thành công ở đời này, con người ta theo đó chúc tụng nhau, truyền tụng cho nhau, và rút kinh nghiệm sống sao để được những thành công như thế.
Có vẻ như không có điều gì vô lý, khi nhìn những hoa trái của một đời người mà kết luận người ấy đã thành công, hay thất bại.
Có người còn cho rằng cuộc sống với những thành công như thế là có ý nghĩa, cho mình và cho đời: một cuộc sống thật đáng sống. Và khi con người ta chết đi, thì công trình của họ vẫn sống, vẫn giá trị. Bởi, có ai sống mãi trên thế gian để tận hưởng cái vinh quang cuộc đời, cái thành công của mình đâu. Sự chết vẫn đang rình rập, chờ đợi.
Vì sự chết cố định đó, mà đã có biết bao người lại cho rằng: sự chết là một thất bại chua chát cho con người. Bởi vì sự chết chấm dứt một đời người, sự chết làm dừng lại tất cả, làm tiêu tan tất cả. Sự chết thật tồi tệ!
Mặc nhiên ai cũng phải chấp nhận sự chết là một phần của sự sống con người. Vì tự ngàn xưa đến nay, sự chết không miễn trừ ai.
Vì thế, trước mắt chúng ta, bao nhiêu con người thành công đang nằm nhắm mắt xuôi tay, hư nát, biến tan thành tro bụi, tại nghĩa trang này, tại nghĩa trang kia, trong lòng biển, trong lòng đất… như một sự thật kinh hoàng. Sự chết sẽ trả lời cho họ, cho chúng ta về sự thành công lớn nhất trong cuộc đời.
Đối với các Ki-tô Hữu Công Giáo, thì thiết tưởng:
Thành công lớn nhất trong đời người là được chết trong Chúa Ki-tô, để được sống lại với Người.
Quả thật như thế! Chính vì sự chết là một thất bại của đời người, mà Thiên Chúa sai Con Một của người đến thế gian, loan báo Tin mừng ơn Cứu Rỗi và ban ơn Cứu Rỗi là sự Sống Lại Vĩnh Cửu dành cho những ai TIN vào con của Người.
Như vậy, nếu những con người thành công trên thế gian này, mà không chiếm hữu được sự thành công “được chết và được sống lại” thì rõ ràng là những thành công kia đã trở nên vô ích cho chính họ.
Ngược lại, đối với những con người sống ở đời xem như gặt hái toàn là những đau khổ, thất bại trong đời, mà nếu họ “được chết và sống lại với Chúa Ki-tô” thì quả là họ đã thành công, và thành công ấy không mất đi, không tiêu tan được.
Biết bao người đang nằm tại nghĩa trang này, trong đó có cả ông bà cha mẹ chúng ta, người thân của chúng ta đã đi qua một cuộc đời trong âm thầm đau khổ, trong chua chát bẻ bàng, có khi chẳng để lại cho đời điều gì tốt đẹp, tưởng như là thất bại ê chề, nhưng không, chúng ta tin là họ đã nắm chắc phần thành công lớn nhất trong cuộc đời vì họ đã ước ao được chết trong Chúa và sống lại với Người.
Tuy nhiên, phàm ai không còn những yếu đuối hư hèn, những lần vấp ngã vì yêu chuộng sự thế gian hơn yêu yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta nguyện xin Chúa cho các linh hồn được Chúa thứ tha và đem vào lòng Chúa hưởng Nước Chúa vinh quang muôn đời.
Hôm nay, trước các phần mộ của những người thành công, có cơ hội cho mỗi chúng ta đặt lại vấn đề ưu tiên số một cho những việc cần phải làm trong đời sống trần gian.
Lạy Chúa,xin giúp chúng con có được thành công lớn nhất trong đời là được chết trong Chúa Chúa Ki-tô, trong ân nghĩa Thiên Chúa để được sống lại trong Nước Chúa. A men.
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật 2/11-82
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!".
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần Chỉ mong con lớn nên thân với đời Những khi trái nắng trở trời Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên Trọn đời vất vả triền miên, Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
"Đố ai đếm được lá rừng, Đố ai đếm được mấy từng trời cao Đố ai đếm được những vì sao, Đố ai đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.
Tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta2/11-83
Tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.
Tin mừng
Ga 17,24-26
Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Suy niệm
Thư của thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Rôma cho chúng ta biết khi chúng ta còn là những tội nhân thì Đức Kitô đã tự nguyện chịu chết vì chúng ta rồi. Nhờ cái chết của Người mà ơn cứu độ đã được đem đến cho mọi sinh linh. Huống hồ chi khi chúng ta đã thực sự là con cái Chúa qua Bí tích Rửa tội, thì chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của Đức Kitô. Tất cả mọi người, chúng ta và cả những người đã qua đời; những người đã chết, cũng như những người sẽ chết đã trở thành con cái Chúa qua Bí tích Rửa tội, chắc chắn chúng ta cũng sẽ được cứu độ nhờ Máu Đức Kitô nếu chúng ta biết sống sự sống của Đức Kitô.
Bài Tin Mừng trong Thánh Lễ I là lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu. Sau lời nguyện này Ngài đi vào cuộc khổ nạn và đỉnh cao là cái chết trên thập giá. Điều hết sức kỳ diệu là đứng trước giờ phút khủng khiếp đó, những lời nói cuối cùng của Chúa Giêsu không phải là lời tuyệt vọng, bi quan nhưng là những lời đầy hy vọng và vinh quang. Lời đó là gì? Thưa lời đó là: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì chúng cũng ở đấy với con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con”. Có nhà chú giải khi đọc câu kinh thánh này đã phải thốt lên: “Ôi sự vinh hiển của Kitô hữu thật lớn lao biết bao”. Chúng ta phải biết đâu là vinh quang của Đức Kitô? Có ba cách nói về vinh quang của Đức Kitô, đó là thập giá của Ngài, là vâng lời Chúa Cha một cách trọn vẹn, là qua đời sống của Ngài mà mọi người nhìn thấy được mối liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha.
Nối kết lại giữa hai bài đọc, chúng ta sẽ thấy một ý tưởng nỗi bật mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn gởi đến cho chúng ta, đó là khi chúng ta tham dự vào vinh quang của Đức Kitô là chúng ta được tham dự vào sự sống của Ngài. Những người đã chết, khi còn sống nếu sống với vinh quang của Chúa thì bây giờ chắc chắn đang hưởng sự sống của Chúa. Chúng ta là những người sẽ chết nếu tham dự vào vinh quang của Đức Kitô thì chắc chắn cũng sẽ được thông phần sự sống với Ngài. Từ đó chúng ta hãy tìm hiểu để sống với vinh quang của Chúa.
1. Thập giá là vinh quang của Chúa
CG không nói đến việc Ngài bị đóng đinh, nhưng nói đến việc Ngài được tôn vinh. Do đó trước tiên và trên hết, vinh hiển của một Kitô hữu là thập giá mà người ấy phải vác. Chịu khổ vì Chúa là một vinh dự và vinh quang. Đừng bao giờ nghĩ rằng thập giá của chúng ta là hình phạt, nhưng phải hiểu nó là vinh quang. Khi lãnh một nhiệm vụ càng nặng nề, thì vinh dự của người ấy càng lớn lao. Trở nên một Kitô hữu rất khó, nhưng đó là vinh quang, danh dự mà Chúa ban cho chúng ta. Giữ đạo, một cách cụ thể giữ những điều luật của Chúa không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì nếu dễ thì chắc chắn không có chuyện bỏ ngày Chúa Nhật, không có chuyện bài bạc, không có chuyện tham lam, trộm cắp, lường gạt, gian dối… Bởi vì có khó khăn, gian khổ, mà chúng ta phải vượt qua như vậy thì chúng ta mới thấy được giá trị Nước Trời mà Chúa hứa ban quý giá biết là chừng nào; chúng ta mới thấy được vinh quang mà chúng ta đạt được lớn lao biết là dường bao.
2. Vâng lời Chúa Cha một cách trọn vẹn
Thứ hai, vâng lời Chúa Cha một cách trọn vẹn là vinh hiển của Chúa Giêsu. Chúng ta chỉ tìm thấy vinh quang, sự sống của chúng ta không phải do làm theo những điều mình thích, mà do vâng theo ý Chúa. Khi cố gắng làm theo những điều mình thích như phần đông vẫn cố làm, chúng ta chỉ chuốc lấy đau khổ, rắc rối cho mình và cho người khác. Sự vâng lời càng trọn vẹn thì vinh quang càng lớn lao. Con người thì ai cũng thích tiền bạc, vì vậy mà có người mãi mê kiếm tiền, bất chấp thủ đoạn, quên hết những bổn phận với Chúa. Trong khi đó Chúa muốn chúng ta sống gắn bó với Chúa, tuân giữ những điều luật của Ngài. Đến một lúc nào đó, những người theo sở thích của mình, lo chạy theo tiền bạc mà bỏ Chúa cũng sẽ thở dài, hỡi ôi, tiền bạc của cải chỉ là phù vân!
3. Đời sống phản chiếu vinh quang Chúa Cha
Thứ ba, vinh quang của CG nằm trong sự kiện nhờ đời sống của Ngài mà người khác nhìn thấy được sự liên hệ đặc biệt với Chúa Cha. Vinh quang của người Kitô hữu ở chỗ người khác thấy được vinh quang Thiên Chúa nơi cuộc sống của họ. Khi tiếp xúc với chúng ta trong gia đình, trong khu xóm, trong họ đạo… người khác nhận thấy nơi chúng ta toát ra một sự gắn bó với Chúa, một tình yêu thương dành cho mọi người không phân biệt một ai, một sự quan tâm đến đời sống, nhất là đời sống đức tin của họ.
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh và mời gọi chúng ta sống vinh quang của Chúa. Mà vinh quang của Chúa là thập giá trong đời sống đức tin, là làm theo ý Chúa một cách tuyệt đối, là phản chiếu vinh quang của Chúa qua đời sống của chúng ta. Khi sống được như vậy là chúng ta đang thông phần sự sống của Chúa và bảo đảm cho chúng ta sự sống mai sau. Đứng trước những ngôi mộ này đây, ngoài việc cầu nguyện những người đang an nghỉ ở đó, chúng ta còn phải nghĩ đến số phận mai này của chúng ta cũng như vậy mà thôi. Nhưng may mắn hơn là chúng ta còn có giờ để chuẩn bị cho sự sống mai sau của mình bằng cách sống với vinh quang của Đức Kitô: vác thập giá mỗi ngày, sống theo thánh ý Chúa và phản chiếu vinh quang của Chúa.
Bài đọc thêm
"Canh" trong đêm của người Do thái
Thỉnh thoảng, trong Tin mừng, chúng ta nghe nói đến canh hai, canh ba… Đó là khoảng thời gian trong đêm của người Do thái. Có người dựa vào lời của bài thánh ca "đêm năm canh, ngày sáu khắc" để nói rằng, đêm của người Do thái được chia làm 5 năm. Có đúng vậy không?
Không đúng như vậy.
Từ xa xưa, người Do thái thường chia một đêm thành 3 canh:
- Canh nhất (x. Ac 2,19); - Canh giữa đêm (x. Tl 7,19); - Và canh cuối hoặc canh sáng (x. Xh 14,24; 1Sm 11,11).
Nhưng đến thời Tân Ước, họ theo quy ước của người Rôma, chia một đêm thành 4 canh như sau: - Canh 1: từ 6 giờ chiều đến 9 giờ tối. - Canh 2: từ 9 giờ đến 12 giờ. - Canh 3: từ 12 giờ đến 3 giờ. - Canh 4: từ 3 giờ đến sáng.
Thí dụ: Mátthêu viết: "vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ" (Mt 14,25).
Trên đây là một câu tiếng Ý được ghi ở gian phòng cuối của một nghĩa trang có một không hai trên thế: 2/11-84
Trên đây là một câu tiếng Ý được ghi ở gian phòng cuối của một nghĩa trang có một không hai trên thế giới, Cimitero dei Cappuccini, địa chỉ số 27, Via Veneto, Roma, nơi lưu giữ 16.000 bộ xương khô của các thầy Dòng Cappuccino ( một nhánh lớn Dòng Anh Em Hèn Mọn của Thánh Phanxicô ).
Đầu đuôi là thế này: cuối năm 2001, chúng tôi có dịp “lang thang” sang đến Rôma. Sau khi được may mắn diện kiến và trò chuyện với Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận ( lúc ấy ngài chưa là Hồng Y ), chúng tôi được mấy anh em DCCT đang học Kinh Thánh và Luân Lý ở đây làm hướng dẫn viên cho đi thăm các di tích cổ lừng danh như Vương Cung Thánh Đường Laterano, Đền Thờ Đức Bà Cả, Hang Toại Đạo, Hí Trường Coliseum...
Thế rồi một hôm chúng tôi tìm đến Cimitero dei Cappuccini. Cha Nguyễn Thể Hiện bảo: “Anh biết không, bên này hôm nào học hành mệt mỏi căng thẳng quá, em thường đến đây như một nơi để lắng lòng, để tịnh tâm... Lạ lắm mà hay lắm anh ạ !”
Mà lạ thật, gọi tên là nghĩa địa nhưng thật ra lại là một nhà bảo tàng và triển lãm toàn là những xương sọ, xương sườn, xương ống quyển, xương cánh tay, xương quai xanh, xương bánh chè, xương chậu, cả những lóng xương ngón tay, ngón chân...
Mỗi phòng triển lãm được sắp xếp đúng y như một một gian trong Tu Viện: Nhà Nguyện, Nhà Ăn, Nhà Nghỉ... Gian nào cũng có mấy bộ xương khô mặc áo Dòng màu nâu hẳn hoi, khi thì đang quỳ cầu nguyện, lúc thì đang ngồi ăn với nhau, lại có khi nằm ngủ, hai tay chắp trước ngực... Các vật dụng trang trí trên tường, trên trần, chung quanh phòng đều được làm từ những xương với cốt của các Tu Sĩ.
Mà phải xin khẳng định lại: đây là những bộ xương thật sự, chứ không phải là thứ đồ nhựa composite giả cổ. Khách hành hương chỉ có thể mua các bộ post card chứ không được quyền chụp hình, vì các tia ánh sáng đèn flash sẽ làm cho các bộ xương sớm bị hủy hoại.
Thế rồi đến gian phòng cuối cùng, mọi người ngỡ ngàng vì nó trống huơ trống hoác, chỉ có một tấm bảng để chính giữa phòng, trên ghi những hàng chữ bằng các thứ tiếng Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha. Xin ghi lại bản tiếng Ý vì dẫu sao đây là một nghĩa trang – bảo tàng nằm trên đất Ý: "NOI ERAVAMO COME VOI E VOI SARETE COME NOI". Xin được dịch thoát ra tiếng Việt như thế này: “ĐIỀU CÁC BẠN ĐANG LÀ THÌ CHÚNG TÔI ĐÃ LÀ – ĐIỀU CHÚNG TÔI ĐANG LÀ THÌ CÁC BẠN SẼ LÀ”.
Khách hành hương đọc xong, chưa kịp hiểu ngay với lối chơi chữ, nhẩm đi nhẩm lại, chú ý đến việc biến đổi cách dùng thì của động từ trong câu, lúc ấy mới à lên một tiếng, hiểu và thấm thía được cái hàm ý triết học nhân sinh rất hài hước dí dỏm. Ai cũng lao xao bàn tán với nhau vì phát hiện ấy, và rồi tất cả chợt lắng xuống, lẳng lặng ra về, khuôn mặt đăm chiêu, tâm hồn canh cánh một nỗi suy tư...
Tháng 11 đã về. Tháng của màu tím trước khi bước vào Mùa Tím của Phụng Vụ, tháng mà các nghĩa trang Công Giáo tự nhiên đông đảo người tảo mộ, khói nhang nghi ngút. Xin cũng là tháng để nghiệm sinh sâu xa về cái sống cái chết, về cuộc trăm năm đời người.
Tháng Mười Một huyền ảo trong làn khói tỏa nghi ngút từ những nén nhang tại các gia đình: 2/11-85
Tháng Mười Một huyền ảo trong làn khói tỏa nghi ngút từ những nén nhang tại các gia đình, trong các Nhà Thờ và ở các nghĩa địa, cùng với những ánh sáng lung linh từ những ngọn đèn, cây nến... Đó là biểu hiện bề ngoài mang đậm dấu ấn tâm tình lồng trong từng Thánh Lễ, lời kinh nguyện, việc bác ái, sự hy sinh… của những lữ-khách-trần-gian thành kính dâng lên Thiên Chúa để xin đại xá cho các đẳng linh hồn.
Nét đạo đức và vẻ thánh thiện ấy đẹp biết bao, chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng mà phóng thích các linh hồn thoát khỏi chốn cực hình khốn khổ !
Tháng Mười Một là Tháng Đại Xá, vì có biết bao ơn đại xá được thực hiện dành cho các linh hồn. Tháng Mười Một cũng là Tháng Bổn Phận, Tháng Yêu Thương, Tháng Đền Ơn Đáp Nghĩa, vì những người còn lưu ký trần gian có dịp đền đáp công ơn của các vị tiền nhân – tổ tiên, ông bà, cha mẹ,…
Tháng Mười Một nhắc nhở mỗi người chúng ta đều phải “uống nước nhớ nguồn” và “ăn cây nào rào cây nấy”, không chỉ cố gắng sống Hiếu Thảo trong cuộc sống đời thường mà còn cả trong đời sống tâm linh.
Tháng Mười Một đẹp thật ! Đẹp vì bao hồng ân và ơn nghĩa hòa quyện thành khối yêu thương kính dâng Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Tháng Mười Một còn đẹp vì trời đất đang mùa Thu, thiên nhiên biến đổi, không khí chuyển lạnh, cây cối thay lá… Ở các nước Tây Phương có những loại lá với nhiều sắc màu, rực rỡ như hoa, thế nên người ta gọi lá chính là “hoa của mùa Thu”. Tháng Mười Một nở rộ Hoa Linh Hồn, những Tân Thánh Nhân được nhập đoàn Chư Thánh nơi Thiên Quốc.
Tháng Mười Một là lúc bước gần cuối năm, một năm kết thúc gợi nhớ thời điểm chấm dứt đời người. Những chiếc lá vàng úa gợi nhớ sự từ giã trần gian, người này chia tay những người khác để bước vào cõi vĩnh hằng.
2Mcb 12, 43 – 46 cho biết: “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi”.
Chúng ta vẫn luôn tin rằng “xác người ta sẽ sống lại”, và khi linh hồn ra khỏi luyện ngục thì sẽ được vào Thiên Quốc, thế nên chúng ta tích cực và chân thành cầu xin Thiên Chúa tha hình phạt cho các linh hồn nơi luyện ngục. Và rồi chính những linh hồn đó sẽ cầu bầu cho chúng ta.
Không chỉ từ ngày 1 tới ngày 8 tháng Mười Một, mà là cả tháng Mười Một, thậm chí là hàng ngày trong suốt năm, chúng ta vẫn có thể lãnh ân xá và làm các việc lành để nhường cho các linh hồn. Dù một việc rất nhỏ, và dù chỉ là việc cá nhân, nhưng chúng ta làm vì yêu mến Chúa và cứu các linh hồn, thì việc nhỏ đó vẫn được Thiên Chúa coi là công phúc, độc đáo là người này có thể làm việc lành thay cho người khác. Thiên Chúa quá đỗi “hào phóng” với chúng ta.
Trong Chuỗi Mai Khôi, sau mỗi chục, chúng ta cũng vẫn cầu xin Lòng Chúa Thương Xót: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Lời cầu nguyện chứa chan yêu thương, thật đẹp biết bao !
Ngày đầu Tháng Mười Một là ngày kính mừng các-thánh-hiển-vinh, ngày thứ nhì tưởng nhớ các-thánh-tương-lai, công việc tốt lành đó được thực hiện bởi các-thánh-đang-chiến-đấu-trên-đường-lữ-hành-trần-gian, tức là chính chúng ta, cũng là các-thánh-tương-lai. Mọi người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy đều là thánh, vì thế mà gọi là Hội Thánh. Hội Thánh ấy do Chúa Giêsu thiết lập, gồm ba thành phần: Hội Thánh vinh hiển, Hội Thánh đau khổ, và Hội Thánh chiến đấu hoặc lữ hành. Đó là mầu nhiệm “các thánh cùng thông công”. Một chuỗi liên đới yêu thương. Tuyệt vời lắm !
Thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” ( Rm 6, 5 ). Ai cũng phải nên thánh, vì Chúa Giêsu muốn như vậy. Không thể không nên thánh, dù chỉ là thánh vô danh, là thánh nhỏ nhất trên Thiên Quốc !
Muốn làm thánh thì phải tin Đức Kitô là Thiên Chúa làm người cứu độ chúng ta và phải thật lòng ăn năn sám hối. Ăn năn có hai dạng: Ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn.
Ăn năn tội cách trọn là dạng tích cực, dạng “cao cấp”, là vị tha. Tội nhân ăn năn tội cách trọn là ăn năn vì yêu mến Chúa, vì cảm thấy mình xấu xa bất xứng với Đấng Chí Thánh, chứ không sợ bị luận phạt.
Ăn năn tội cách chẳng trọn là dạng tiêu cực, dạng hạ cấp, là vị kỷ. Tội nhân ăn năn tội cách trọn là ăn năn chưa hẳn vì yêu mến Chúa, chưa hẳn cảm thấy mình xấu xa bất xứng với Đấng Chí Thánh, mà chỉ vì sợ bị luận phạt, sợ phải sa hỏa ngục.
Tuy nhiên, thật là may phúc cho chúng ta, bởi vì dù chúng ta “ăn năn tội cách trọn” hoặc “ăn năn tội cách chẳng trọn” thì Thiên Chúa vẫn vui lòng chấp nhận. Đó là một dạng “siêu đại xá” Thiên Chúa dành cho chúng ta !
Cực hình hoặc lửa nơi luyện ngục và hỏa ngục không như cực hình và lửa như chốn trần gian. Cực hình khốn khổ nhất là không được diện kiến Thánh Nhan Thiên Chúa, còn lửa trần gian chỉ là “gió mát” so với “siêu lửa” ở luyện ngục và hỏa ngục. Cực hình và lửa thiêu ở luyện ngục và hỏa ngục giống nhau, chỉ khác điều này: Linh hồn ở luyện ngục chịu cực hình một thời gian rồi được phóng thích, còn linh hồn ở hỏa ngục chịu cực hình đời đời. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Ở đời thường còn vậy, huống chi cõi vĩnh hằng !
Chúa Giêsu luôn thao thức vì không muốn mất bất kỳ một người nhỏ bé nào trong chúng ta, Ngài muốn tất cả phải nên thánh, vĩnh cư với Ngài trên Thiên Quốc, nhưng điều đó hoàn toàn tùy thuộc mỗi chúng ta, vì Ngài cho chúng ta hoàn toàn tự do chứ Ngài không hề ép buộc. Cả chương 17 ( gồm 26 câu ) trong Tin Mừng theo Thánh Gioan là lời cầu thống thiết của Chúa Giêsu kính dâng Chúa Cha trước khi Ngài “uống chén đắng”, làm hy tế đền tội thay cho chúng ta qua cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Chúa Giêsu khao khát mọi người NÊN MỘT, và Ngài muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng được ở đó. Thánh Tâm Ngài đầy ắp yêu thương và tốt lành vô cùng, không trí tuệ nào có thể tưởng tượng nổi !
Lạy Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng con, chúng con xin cảm tạ Ngài. Xin giúp chúng con biết đoàn kết để “nên một” theo Thánh Ý Ngài, để bất kỳ ai gặp chúng con thì cũng đều nhận thấy Chúa hiện diện nơi chúng con, và xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng với Giá Máu Cứu Độ của Ngài. Vì công nghiệp của Đức Kitô, xin Chúa xót thương mà tha thứ hình phạt cho các linh hồn, và cho các linh hồn được hưởng Tôn Nhan Chúa muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Lễ Thánh Martin de Porres, Tu sĩ “tấm lòng vàng” của Dòng Đa Minh, 3.11.2013
Tháng 11 là tháng cuối cùng trong Niên Lịch Phụng Vụ, tượng trưng cho cuối đời của con người. Vì thế: 2/11-86
Tháng 11 là tháng cuối cùng trong Niên Lịch Phụng Vụ, tượng trưng cho cuối đời của con người. Vì thế, Giáo Hội dành tháng 11 để hướng tâm trí chúng ta về đời sau và tưởng nhớ đến những vị đã qua đời. “Sinh Ký Tử Quy!”, “Sống Gởi Thác Về!” “Về với Chúa là Cha chúng ta nơi quê hương thật Nước Trời”.
Trong số các vị đã qua đời, có những vị đã được thưởng công trên Nước Chúa, được hưởng hào quang Thiên Quốc, và là các Thánh mà Giáo Hội kính chung vào ngày 1/11 hàng năm. Có những vị còn đang trong Luyện Ngục để đền tội và được thanh luyện để trở nên thánh thiện xứng đáng được hưởng Thánh Nhan Chúa, là Đấng hoàn toàn thánh thiện. Giáo Hội cầu nguyện chung cho các vị đó vào ngày 02/11 (Lễ Các Linh Hồn) và suốt tháng 11 (Tháng Các Linh Hồn), dù chúng ta vẫn nhớ cầu cho các linh hốn ấy trong kinh, lễ hàng ngày.
Tất cả các vị đã được lên Thiên Đàng đều là Thánh. Tuy nhiên, có những vị có đời sống đặc biệt, Giáo Hội lập Lễ kính nhớ riêng, để chúng ta cầu nguyện với các Ngài và noi gương đời sống thánh thiện của các Ngài, như Lễ Thánh Phanxicô Khó Nghèo, Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Nữ Têrêsa Avila mà chúng ta mừng trong tháng 10 vừa qua.
Trong Lễ Các Thánh, Bài Đọc I (Sách Khải Huyền 7: 2-4, 9-140) cho chúng ta thấy “các Ngài thật đông đảo, không thể nào đếm nổi… Các ngài thuộc mọi dân tộc, mọi chi họ, mọi nước và ngôn ngữ…” Các Ngài là những vị Thánh Tông Đồ, các Ngài là những vị đã sống đời sống tu sĩ độc thân, các Ngài cũng là những giáo dân đã sống thánh thiện trong đời sống gia đình.
Theo Bài Phúc Âm (Matthêu 5: 1-12) nói về ‘Tám Mối Phúc Thật’, thì các Thánh là những vị đã có tinh thần khó nghèo, khiêm tốn, hiền lành, nhẫn nhục trong đau khổ, luôn sống công chính, có lòng thương yêu giúp đỡ mọi người, sống đời sống thanh khiết trong bậc tu trì hay đời sống gia đình. Các Ngài luôn sống hòa hợp với mọi người để xây dựng hòa bình. Các Ngài cũng là những vị đã sẵn sàng hiến mạng sống mình để làm chứng cho công bằng xã hội, cho đức tin nơi Chúa. Các Ngài đã sống xứng đáng là con cái của Thiên Chúa là Cha. Các Ngài đã đặt niềm hy vọng nơi Chúa, và luôn lo thánh hóa bản thân để nên giống Chúa là Đấng Cực Thánh (Bài Đọc II: 1 Gioan 3: 1-8).
Trong suốt năm Phụng vụ và đặc biệt trong Tháng 11, Giáo Hội khuyến khích chúng ta năng suy gẫm đời sống tốt lành của các Thánh, và quyết tâm noi gương các Ngài, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ đời sống ham mê lạc thú thế gian, và cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta nên thánh thiện trong việc chu toàn bổn phận hàng ngày và vâng theo Thánh ý Chúa trong mọi sự.
Trong số các vị thánh, có những vị lúc đầu đã sống như những “đứa con hoang đàng’ theo đam mê thế tục, nhưng rồi nhờ ơn Chúa giúp, đã ‘quyết tâm sám hối trở về’ và thay đổi hẳn đời sống, như Thánh Augustinô (354-430), Phanxicô Assissi (1181-1226), Thánh Têrêsa Avila (1515-1582, Camillus Lellis (1550-1614), Cha Charles de Foucauld (1858-1916) v.v…
Tất cả là nhờ ơn Chúa, nhưng chính chúng ta phải có “quyết tâm cải sửa và trở về!”
Việc đọc và suy gẫm đời sống các Thánh cũng giúp chúng ta cải thiện đời sống, như Thánh Ignatius Loyola (1491-1556), vị sáng lập Dòng Tên, trong thời gian bị đau ốm, đã đọc sách “Hạnh Các Thánh” và nhờ đó mà nhìn ra được con đường các Thánh đã đi, rồi Ngài “quyết tâm trở về”, quyết tâm sửa đổi đời sống, dâng hiến cả cuộc đời để phục vụ Chúa và Giáo Hội.
Trong tinh thần kính nhớ các vị đã qua đời, trong Tháng 11 này, chúng ta hãy dâng nhiều Thánh Lễ, dâng các hy sinh, hãm mình, các kinh nguyện, nhất là lần chuỗi Mân Côi, viếng nghĩa trang để cầu cho các Linh Hồn nơi luyện tội được sớm về hưởng Nhan Thánh Chúa là Cha chúng ta, cùng với Mẹ Maria và các Thánh. Cũng xin tiếp tục dâng những hy sinh, hãm mình và cầu nguyện nhiều cho các vị Chủ Chăn, các Linh Mục trong “Năm Thánh Linh Mục” này.
Một lần nọ, trước ngày lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, cha sở thông báo: “Ngày mai là lễ các: 2/11-87
Một lần nọ, trước ngày lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, cha sở thông báo: “Ngày mai là lễ các đẳng, chúng ta nhớ cầu nguyện cho các đẳng”. Thế rồi, công an xã mời cha đến xã làm việc một tuần lễ, với lý do là “Chúng ta chỉ có một đảng, sao linh mục kêu gọi cầu nguyện cho các đảng?” [1]!
Lễ ngày 2 tháng 11 có nhiều cách gọi. Cuốn “Những ngày lễ Công Giáo” chính thức của giáo phận ghi là: “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời”, người ta thường gọi là “Lễ các đẳng linh hồn”, hay vắn tắt hơn thì gọi là “Lễ các đẳng”.
1. Nguồn gốc
Việc cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2Mcb 12,43-46).
Giáo hội từ những thế kỷ đầu cũng đã có cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Thánh Augustinô, thế kỷ IV, đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc này. Thánh Ôđilô, Tu viện trưởng Dòng Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện cho những người đã qua đời vào ngày 2/11, ngay sau lễ Các Thánh. Sáng kiến này được Giáo Hội đưa vào lịch Phụng vụ Rôma. Công Đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Công Đồng Vaticanô II cũng dạy: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh..." (GH 50), về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng dạy: "Khi được về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa... các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha..." (GH 49). Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu phải đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời liên quan đến niềm tin về luyện ngục và các thánh thông công.
2. Thuật từ tiếng Latin
Lễ này tiếng Latin là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, tiếng Anh gọi là “Commemoration of all the Faithful Departed”, có khi cũng gọi là All Souls’ Day (Lễ các linh hồn) hay Defuncts’ Day (Lễ các người đã qua đời). Uỷ Ban Phụng Tự dịch là “Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời” là đúng, nhưng bình dân vẫn gọi là “Lễ các đẳng”. Vậy chúng ta tìm hiểu từ vựng này
3. Nghĩa của các, đẳng
3.1. Các: Có chín chữ Hán, ở đây là chữ各, nghĩa là (đại từ). (1) Mỗi một: Các bất tương đồng (không ai giống ai). (tt). (2) Khác: Các biệt. (3) Tất cả, hết thảy: Các vị (quý vị).
3.2. Đẳng: có hai chữ Hán, ở đây là chữ等, nghĩa là (dt.) (1) Thứ bậc: Thượng đẳng (bực trên nhất); Trung đẳng (bực giữa); Hạ đẳng (bực dưới nhất, hạng bét). (2) Phức số: Ngã đẳng (Nhóm chúng tôi). (3) Bậc thang: Thổ giai tam đẳng (Cầu thang đất có ba bậc). (đt.) (4) Ðợi chờ: Đẳng đãi (Chờ đợi). (5) Bằng nhau, đều: Đại tiểu bất đẳng (Lớn nhỏ không đều). (6) Cân lường. (tt.) (7) Hạng: Nhĩ thị hà đẳng nhân (Anh là hạng người nào). (pht.) (8) Vân vân: Đẳng đẳng.
4. Nghĩa của từ “các đẳng"
Các đẳng là tất cả thứ bậc. Thuật từ “Các đẳng linh hồn” để chỉ tất cả các linh hồn người quá cố trong luyện ngục [2] (thuộc thành phần Hội thánh đau khổ), phân biệt với “Các thánh nam nữ” là các phúc nhân trên thiên đàng (Hội Thánh vinh quang). [3] Có người cho rằng quan niệm về “linh hồn mồ côi” và “các đẳng linh hồn” v.v. chịu ảnh hưởng tư tưởng “cô hồn các đẳng” của ngoại giáo. Như Phật Giáo chia địa ngục ít nhất có 18 tầng và quỷ cũng có nhiều cấp bậc. Trong “Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh” [4] có rất nhiều thứ quỷ: quỷ đau đầu, quỷ mặc áo rách, quỷ ngủ bờ ngủ bụi, quỷ đói, quỷ nam căn [5] bị thối rửa… Hay trong xã hội loài người cũng chia làm nhiều giai cấp, tức là thứ bậc khác nhau trong xã hội: sĩ, nông, công, thương, binh... Trong tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn” [6] đề cập đến 10 hạng “cô hồn”: Thiền tăng, nho sĩ, đạo sĩ, thiên văn địa lý, lương y, quan liêu, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” [7] cũng nói đến 10 loại: Vua chúa, tể thần, đại tướng, kẻ ham giàu, kẻ ham danh, thương nhân, binh lính, quý nữ, kỹ nữ, bần nhân gặp nạn chết oan... Con số 10 chỉ là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn tồn tại trong “lục đạo” [8] mà thôi. Phải chăng, chính những hoàn cảnh này đã ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của chúng ta?
Thực ra, trong xã hội trần gian bao giờ cũng có nhiều thứ bậc, đẳng cấp, giai tầng... Khi lìa trần, người ta không thể mang theo mình bất cứ của cải vật chất nào. Mọi thứ bậc, đẳng cấp, địa vị của con người ở trên đời không có ý nghĩa gì trước Tòa Phán Xét. Thiên Chúa xét xử con người theo “công trạng” [9] nó đã làm ra. Chúa không hỏi chúng ta là ai, thuộc giai cấp nào trên thế gian, nhưng Chúa sẽ hỏi chúng ta về “nén bạc” (ân sủng và tình yêu) mà Chúa giao phó đã được sinh lợi thế nào. Như Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Nên nhớ Người sẽ không khiển trách họ về hạnh kiểm, tội lỗi hay lời báng bổ; mà chỉ vì không ích lợi gì cho ai. Như kẻ đã chôn nén của bạc mình, đời sống y không có gì khiển trách, nhưng y không làm ích gì cho ai khác.” [10]
Vì vậy, khi nói “các đẳng linh hồn”, chúng ta nghĩ tới tất cả các linh hồn của mọi hạng người trên đời này đã quá cố và đang còn phải thanh luyện trong luyện ngục. Họ có thể là ông bà, tổ tiên, thân nhân, bạn hữu của chúng ta hay là những người xa lạ. Khi còn ở đời này, có thể họ là người giàu sang quyền quý hay nghèo khó mọn hèn. Họ có thể là những Kitô hữu hữu danh hoặc “Kitô hữu vô danh”. [11] Tất cả họ đều là chi thể của Chúa Kitô, giờ đây đang thuộc về Giáo Hội đau khổ và cần đến lời cầu nguyện của chúng ta.
“Các đẳng linh hồn” không có nghĩa là trong luyện ngục các linh hồn vẫn có sự phân chia đẳng cấp, điạ vị như khi còn ở thế gian hay trong Luyện Ngục có bao nhiêu đẳng cấp, thứ hạng linh hồn. Trong Luyện Ngục, tình trạng thanh luyện của họ có thể khác nhau, nhưng được “phân cấp” như thế nào thì chúng ta không biết.
Khi nói “linh hồn mồ côi”, chúng ta nghĩ tới linh hồn của hạng người phải đơn độc trong cuộc lữ hành đức tin khi còn ở trên đời. “Đơn độc”, “cô quả”, “mồ côi”.... hiểu theo nghĩa đời thường là không có người thân thích, bạn bè, không có ai đồng hành để được quan tâm, nâng đỡ đời sống đức tin. Họ có thể là những tín hữu cô nhi, quả phụ hay kẻ cơ bần sống đời đơn chiếc. Họ cũng có thể là những tín hữu giàu sang, con đàn cháu đống, bạn hữu tứ phương mà thực ra những người quen biết xung quanh họ không ai có niềm tin Công Giáo như họ để xin lễ hay cầu nguyện cho họ. Và nay, những linh hồn đó đang ở trong Luyện Ngục, đang cần đến lời cầu nguyện từ Giáo Hội chiến đấu [12].
“Linh hồn mồ côi” không phải là linh hồn không được Chúa đoái trông chăm sóc, ít được Chúa yêu thương hay bị Ngài lãng quên. Điều đó hoàn toàn sai lầm. Mọi linh hồn đều được Thiên Chúa tạo dựng. Mọi người đều được Chúa yêu thương bằng một tình yêu riêng biệt, không ai giống ai, Ngàivẫn không ngừng gọi chúng ta bằng chính tên riêng của từng người: “Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho” (Is 62,2) và tình yêu đó luôn luôn đầy tràn: “Ơn của Ta đủ cho ngươi” (2Cr 12,9).
Bản văn Công Giáo đầu tiên sử dụng từ “các đẳng” mà chúng tôi được biết là “Văn Tế Các Đẳng Linh Hồn” của cha Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874): “Nhớ các đẳng xưa: Tay Chúa dựng hình, tính thiêng gởi xác. Di luân tài mạng chịu thiên tư, lý dục thị phi đầy địa bộ...”. Cụm từ “các đẳng”, “các đẳng linh hồn” đã được sử dụng từ lâu trong Giáo hội tại Việt Nam để chỉ các tín hữu đã qua đời đang còn thanh luyện chờ ngày hưởng phúc thanh nhàn bất diệt. Lịch phụng vụ của Roma xưa nay ghi lễ ngày 02/11 là “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”. Lịch phụng vụ ởViệt Nam thì dịch là: “Lễ Các Linh Hồn” [13], “Lễ Linh Hồn” [14], “Lễ Cầu Cho Mọi Tín Hữu Qua Đời” [15], sau này dịch là “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Thiết nghĩ cách dịch “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời” thì sát nghĩa với nguyên bản, nhưng nên hiểu đó vẫn là nói tắt, vì đầy đủ phải là Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời Đang Còn Thanh Luyện (hay đang ở luyện ngục). Cách nói “Lễ các đẳng” cũng là cách nói tắt, mang âm hưởng văn hóa bản địa về “cả thảy vong linh” thuộc “thập loại chúng sinh” gồm cả “cô hồn các đẳng”! Phải chăng các tiền nhân của chúng ta đã hội nhập văn hóa trong khi tạo ra cụm từ này để phiên dịch?
Trường hợp những ngày lễ Feria V in Cena Domini, Feria VI in Passione Domini, chúng ta dịch là Lễ Tiệc Ly (Thứ Năm Tuần Thánh), Lễ Tưởng Niệm Cuộc Thương Khó của Chúa (Thứ Sáu Tuần Thánh), nhưng người bình dân vẫn quen gọi là “Lễ Rửa Chân”, “Lễ Hôn Chân”... vừa đơn giản, tượng hình lại dễ nhớ. Tất nhiên không đủ nghĩa, không nên sử dụng nữa.
Kết luận
Giáo dân Việt Nam chúng ta có thói quen xin lễ cho các linh hồn tổ tiên nội hay ngoại, linh hồn thân nhân, linh hồn mồ côi, linh hồn ngoại đạo, thai nhi, linh hồn người chết vì tai nạn… và trong Thánh lễ hàng ngày, Hội Thánh luôn cầu nguyện cho mọi người đã qua đời. Đó là những thực hành rất tốt để tưởng nhớ người đã qua đời, thực thi bổn phận “hợp thông cùng các thánh”.
Ngày “Commemoratio omnium Fidelium Defunctorum”, chính xác là ngày “Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời”. Còn “Lễ Các Đẳng” là cách nói vắn tắt, hiểu theo giáo lý Công Giáo như đã trình bày, thì không đúng cho lắm, những nếu đặt trong bối cảnh văn hoá Việt Nam thì việc tiếp tục sử dụng nó cũng không có gì ngăn trở. _______________________________________________ Ghi chú :
[1] Trong văn nói, một số người Nam bộ phát âm “các đẳng” thành “các đảng”, cũng như “cô hồn” thành “cu hồn”, nên “cúng cô hồn các đẳng” thì nói là: “cúng cu hồn các đảng”.
[2] Lưu ý là luyện ngục không phải là một hoả ngục ngắn hạn, luyện ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục và sự thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn là một ‘nơi chốn’, lại càng không thể nói ‘thời gian’ bao lâu (x. GLCG số 1030-1032).
[3] Thời xưa chưa có mục từ “tất cả”. Các danh từ chỉ tổng lượng thời xưa là: Cả, cả và, cả thảy, hết cả, hết thảy.
[4] Phật thuyết quỷ vấn Mục Liên kinh, gồm 17 chuyện, theo truyền thuyết thì do An Thế Cao dịch, nhưng được ghi nhận là thất dịch, thuộc đời lưỡng Tấn.
[5] Tức bộ phận sinh dục.
[6] Còn gọi là “Phật kinh thập giới”, không rõ tác giả, viết dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1442-1497), là áng văn viết bằng chữ Nôm cổ theo thể biền ngẫu.
[7] Tác phẩm của Nguyễn Du (1765-1820), được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn cầu siêu để giải thoát cho hàng triệu linh hồn.
[8] Theo giáo lý Phật Giáo, con người chúng ta do lực của nghiệp và phiền não của chính bản thân mà cứ mãi luân hồi chuyển sinh trong 6 chủng loại thế giới sinh tồn đầy những khổ đau, gọi là lục đạo đó là: thiên, a-tu-la, nhân, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục.
[9] Xem BGCN, Số 07/2010, tr. 106.
[10] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng XX sách Công Vụ tông đồ (Jean Comby, Để đọc lịch sử Giáo Hội, q.I, tr.115).
[11] Có những người vì lý do nào đó mà không lãnh nhận bí tích Rửa Tội được, nên không trở thành Kitô hữu. Nhưng nếu họ sống theo những giá trị của Phúc Âm thì, nói theo từ ngữ của nhà thần học Karl Rahner, họ cũng là những “Kitô hữu vô danh” (Chrétien anonyme).
[12] Công đồng Florence (1431) đã định tín: Có luyện ngục để thanh luyện các linh hồn. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội.
[13] Niên Giám 1964, tr.11. [14] Địa phận Hà Nội, Sách Lễ, Nxb Hiện Tại, 1967. [15] Sách Lễ Giáo Dân, 1971, tr. xxix và tr. 1572. Cách dịch này rất dễ hiểu lầm là: Lễ cầu cho mọi tín hữu chết hết (!)
Có ai trong chúng ta mà đã không hơn một lần đến viếng người thân và đã trầm ngâm bên ngôi mộ: 2/11-88
Có ai trong chúng ta mà đã không hơn một lần đến viếng người thân và đã trầm ngâm bên ngôi mộ. Có biết bao hình thức khác nhau của ngôi mộ: một đá, mộ xây, mộ xi măng, mộ đất. Mỗi ngôi mộ thường chỉ được ghi vài dòng chữ đơn sơ nói lên tên, tuổi ngày sinh và ngày mất của người nằm bên dưới ba tấc đất. Dừng chân suy tư bên những ngôi mộ, có lẽ mỗi người chúng ta đã tự hỏi: phải chăng cuộc đời con người, đã có thời huy hoàng là thế, mà nay chỉ còn lại ngôi mộ lanh lẽo với vài dòng chữ đó thôi sao?
Không! Ngôi mộ không chỉ là nấm đất vô hồn. Đó là nơi an nghỉ của một con người, một cuộc đời. Nằm dưới ngôi mộ là cả một lịch sử đời người với những tháng ngày vinh quang xen lẫn với ô nhục; với những giọt nước mắt và những nụ cười; với một thời yêu thương và một thuở giận hờn… nói tóm lại, dưới ngôi mộ là cả một chặng đường của một con người có Thiên Chúa luôn đồng hành. Vì vậy, ngôi mộ đá có biết bao điều nói với chúng ta:
1- Điều thứ nhất ngôi mộ đá nói với chúng ta: cuộc đời này thật mỏng manh quá đỗi. Như bông hoa phù dung sớm nở tối tàn, cuộc đời thật ngắn ngủi. Mới ngày nào còn cắp sách đến trường, hôm nay đã lên ông lên bà, rồi già lão, bệnh tật, rồi chấm dứt cuộc đời. Khi nghĩ về cuộc đời quá ngắn ngủi như thế, xin đừng mưu mô tính toán mà làm gì. Xin đừng chia rẽ và giận ghét làm chi. Cuộc đời này ngắn lắm, tiền bạc trên thế gian này nhiều lắm, bàn tay ta có tham mấy cũng chẳng vơ vét hết được. Rồi đến lúc bàn tay xuôi xuống, lạnh cóng, cô đơn, chẳng nắm giữ được gì.
2- Điều thứ hai ngôi mộ đá nói với chúng ta: đây chỉ là một điểm dừng. Những ngôi mộ đá không nằm yên bất động mãi mãi. Cũng như cuộc đời này chỉ là cõi tạm, là quán trọ, ngôi mộ chỉ là một chỗ dừng chân. Thân xác con người được an táng trong lòng đất như hạt giống được gieo xuống. Hạt ấy bị mục nát, nhưng đó là điều cần thiết để mọc lên một cây mới. Sẽ có ngày Thiên Chúa mở tung các ngôi mộ. Sẽ có ngày Ngài cất tấm khăn tang bao trùm thế giới. Khi ý thức ngôi mộ chỉ là nơi dừng chân, chúng ta được yên ủi, vì chúng ta không mãi mãi mất những người thân, nhưng họ đang an giấc trong bụi đất, chờ ngày phục sinh. Chính vì vậy, một số nghĩa trang công giáo được gọi là “nhà chờ”, một số phòng chứa hài cốt được gọi là “phòng đợi.” Đây chính là nơi chờ đợi đến ngày ra trình diện trước nhan Chúa và để gặp gỡ Ngài.
3- Điều thứ ba ngôi mộ đá nhắc nhở chúng ta về một ngôi mộ trống: sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần -Tin Mừng Thánh Gioan kể lại - Maria Mađalêna ra mồ từ sáng sớm và bà thấy ngôi mộ trống. Ngôi mộ ấy là mộ của Đức Giêsu. Ngài đã được an táng ba ngày trước và nay không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chiến thắng tử thần. Thân xác Người không bị hư nát trong mồ. Thiên Chúa đã cho Người sống lại vinh quang. Cùng với Người, những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại như vậy “ai tin Ta sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 47). Như vậy, ngôi mộ nhắc nhở chúng ta về biến cố Đức Giêsu phục sinh và đồng thời nhắc chúng ta rằng những người đang an nghỉ nơi đây sẽ được sống lại. Người lành được sống lại để hưởng vinh quang; kẻ dữ được sống lại để lĩnh án phạt đời đời.
Như vậy, khi dừng chân suy niệm bên mộ người thân, chúng ta hãy lắng nghe điều được phát biểu qua những nấm mộ tưởng chừng như vô tri vô giác và lạnh băng ấy. Suy nghĩ về cuộc đời, về linh hồn, về sự chết cũng giúp chúng ta hãy cố gắng sống hoàn thiện hơn.
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những: 2/11-89
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ. Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là: 2/11-90
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan. Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những: 2/11-91
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta. - Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta. - Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót. - Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết: Một người: 2/11-92
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết: Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
“Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô: 2/11-93
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy ra. Khi chúng ta giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đã được quyền năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc, và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có đầy tràn hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn đời của người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến “linh hồn những người công chính” đã chết. Tác giả viết “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết”.
Tất cả những ai còn sống trong thân xác trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa”. Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật: 2/11-94
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một: 2/11-95
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. "Làm sao các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh".
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: "Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời" (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Có một cậu bé hỏi bố rằng: “Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều: 2/11-96
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ Nuôi con khó nhọc đến giờ Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần Chỉ mong con lớn nên thân với đời Những khi trái nắng trở trời Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên Trọn đời vất vả triền miên, Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
"Ai rằng công mẹ như non Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi gửi buồng cau, Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy. Ai về tôi gửi đôi giầy, Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to như bể! Công dưỡng dục, lớn tợ sông! Em nguyện ở vậy không chồng, Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa đậu nhánh đa đa, Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa. Mai sau cha yếu, mẹ già. Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?”
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn: 2/11-97
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại. - Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được. - Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Tôi chọn bài hát “Nếu chỉ còn một ngày để sống” của Nhạc sĩ Hoài An với những ca từ gợi ý: 2/11-98
Tôi chọn bài hát “Nếu chỉ còn một ngày để sống” của Nhạc sĩ Hoài An với những ca từ gợi ý để suy niệm trong thánh lễ tại nghĩa trang tối nay.
Nếu chỉ còn một ngày để sống, người đưa tôi về đến quê nhà. Để tôi thăm làng xưa nguồn cội, cho tôi mơ, mơ tiếng Mẹ Cha. Nếu chỉ còn một ngày để sống, người cho tôi một khúc kinh cầu. Người tôi thương êm ấm môi cười, cho con tôi bước đời yên vui. Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta trả ơn cuộc đời. Làm sao ta đền đáp bao người, nâng ta lên qua bước đời chênh vênh. Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta chuộc hết lỗi lầm. Làm sao ta thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông. Nếu chỉ còn một ngày để sống, muộn màng không lời hối lỗi chân thành. Buồn vì ai ta làm ai buồn, xin bao dung tha thứ vì nhau. Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp. Phải chăng ta có lúc vội vàng, nên ra đi chưa được bình an. Cho tôi như bóng mây, lang thang qua cõi này. Cho tôi được ngắm sao trên trời, giữa hương đồng cỏ nội. Cho tôi như khúc ca, bay đi xa rất xa. Cho tôi được cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người, bằng những lời ca.
Tối nay, chúng ta dâng lễ hiệp thông cầu nguyện cho anh chị em đang an nghĩ nơi Đất Thánh này. Không gian tĩnh mịch, trầm lắng và thánh thiện. Cảnh vắng lặng của một thế giới an bình. Khói hương quyện bay trên các phần mộ. Nhớ về các những người thân yêu đã khuất bóng.Những kỷ niệm lung linh nhập nhoà soi vào trí nhớ bao thân thương hình bóng những người đã an giấc ngàn thu.
Ngày 1/11, có lễ kính Các Thánh là những Đấng thuộc Giáo Hội vinh hiển trên thiên đàng. Ngày 2/11 là lễ nhớ Các Đẳng là những vị thuộc Giáo Hội thanh luyện. Chúng ta đang sống thuộc Giáo Hội lữ hành chiến đấu. Bây giờ, tôi và anh chị em đứng ở giữa, chưa đi lên mà cũng chưa xuống dưới. Cứ coi như tôi là gạch nối giữa hai nơi trong nguyện cầu, tưởng niệm. Rồi đây tôi sẽ thuộc về một trong hai cộng đoàn này.
Tháng 11, ngước lên cao, tôi khẩn xin Các Thánh cầu thay nguyện giúp; nhìn xuống dưới, tôi liên kết với Các Đẳng bằng kinh nguyện thánh lễ và việc lành phúc đức. Như vậy, tháng cầu hồn là tháng cử hành thực tại thánh, một liên hệ thánh của Giáo Hội hiệp thông.
Bài ca “Nếu chỉ còn” thay lời cho người đã ra đi nói lời tri ân với người đang sống: Cho tôi được cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người, bằng những lời ca.
Những người đã ra đi yên nghĩ trong lòng đất, họ cần điều gì nhất? Họ cần đến lòng thương xót Chúa. Họ cần chúng ta nhớ đến họ bằng tình yêu thương của trái tim. Họ muốn chúng ta đừng quên họ nhưng hãy nhớ đến họ bằng kinh nguyện và thánh lễ. Ông bà cha mẹ, những thân bằng quyến thuộc cần chúng ta cầu nguyện tưởng nhớ đến họ. Người đã khuất sống mãi trong trái tim tình yêu, trong lòng nhớ ơn thiết nghĩa của chúng ta. Giọt nước mắt khi người ta khóc, chính là những viên kim cương lấy từ trái tim để tặng cho người mình nhớ thương đã an nghĩ.
Tôi nhớ lời một ca khúc “Không Tên” của Nhạc sĩ Vũ Thành An: “Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa?”. Sống mà không được nhớ tới là sống trong lạnh lẽo của mộ sâu. Đau khổ nhất của người đang sống chính là cô đơn, là không được ai nhớ đến.Thiệt thòi lớn nhất của người đã chết là bị quên lãng. Người đã chết chẳng cần ăn mặc, không nói năng, không nổi niềm, không đi đứng. Họ đã bước vào cõi thinh lặng ngàn thu. Họ chỉ cần chúng ta nhớ đến và cầu nguyện. Họ muốn chúng ta cho họ những bông hoa tưởng nhớ, những nụ hoa cầu nguyện, những mật hoa bác ái, những hương hoa hy sinh.
Người Công Giáo được khuyến khích thực hiện những điều thiết thực, như xin Lễ, dự Lễ, đọc kinh cầu nguyện, làm việc lành phúc đức… để chuyển cầu cho những người đã ra đi mà còn đang vướng mắc một vài trở ngại nào đó khiến họ chưa hoàn toàn chia sẻ vinh quang và hạnh phúc với Thiên Chúa. “Cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý tưởng lành thánh” (2 Mcb 12, 46; GH, 50). Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ giúp họ, mà còn làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn” (GLCG, số 958). Những việc lành phúc đức cho chúng ta một cảm giác hạnh phúc và ý nghĩa bởi vì thân nhân của chúng ta đã và sẽ còn được tưởng nhớ đến mãi.
Bao nhiêu tư tưởng cao siêu, bao nhiêu câu chuyện yêu đương đẹp như thần thoại cũng đều gói gọn trong cỗ quan tài. Bao nhiêu khối óc vượt nhân thế, bao nhiêu tính toán siêu vời cũng vỏn vẹn trong chiếc quan tài. Mênh mông như cuộc đời sau cùng cũng im lặng trong lòng đất. “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”, ai cũng về với cát bụi thôi.Nghĩa trang là nơi an bình yên tĩnh cho mọi người.
Tháng 11, Giáo Hội mở kho tàng ân phúc của Thiên Chúa, tạo dịp để các tín hữu mở rộng tấm lòng hướng về người đã khuất. Các nguồn ân đại xá hay tiểu xá dành cho các linh hồn nơi luyện hình chính là những quà tặng của ân tình. Trao cho người đã khuất, dù chỉ là một món quà mọn cũng là vô giá, vì các linh hồn trong luyện hình giờ đây không thể làm được gì cho bản thân. Mầu nhiệm Giáo Hội thông công là một trong những mầu nhiệm đẹp của tình yêu.
Được sống và được yêu là điều hạnh phúc nhất. Sự sống là hồng ân Chúa ban. Và nếu chỉ còn một ngày để sống, tôi sẽ làm gì?
Lời ca ước mong: Xin đưa tôi về đến quê nhà để tôi thăm làng xưa nguồn cội, để tôi nghe tiếng nói của Mẹ Cha, của người thân yêu. Xin cho tôi một khúc kinh cầu, xin chuộc hết lỗi lầm để thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông.
Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp. Đẹp vì hồng ân sự sống, đẹp vì tình người chan hòa, đẹp vì hiệp thông trong mầu nhiệm thánh lễ nối kết người đang sống và người đã an giấc ngàn thu.
Tối nay, bên những người thân yêu đang an nghĩ nơi đây, xin nói thay cho họ những lời này: Cho tôi được cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người, bằng những lời ca.
Giáo hội dành tháng 11 cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, nên tháng 11 là tháng của niềm hy vọng Phục sinh. Đây là thời gian mà mỗi khi thắp nén nhang trên phần mộ người chết, nhìn theo làn khói nhẹ toả bay ta cũng nâng tâm hồn lên tới Chúa là nguồn sự sống của mình.Và mỗi khi đặt bó hoa tươi trên phần mộ người thân yêu, ta thấy được mùa xuân vĩnh cửu đang bừng lên từ khắp những nấm mồ chung quanh.Quả thật: sự sống thay đổi chứ không mất đi. Chết là cửa để bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Chuyến đi đời đời ấy lại tùy thuộc vào những tích chứa, những công phúc đã lập trong cuộc sống tại thế này.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cứu chuộc con người. Nhờ lời bầu cử của Các Thánh trên trời, và lời cầu nguyện của người lành dưới thế, xin Chúa thương xót những tín hữu đang còn thanh luyện bằng tình thương mà Chúa đã ban cho họ là cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, để họ được sớm về hưởng nhan thánh Chúa. Amen.
Trong ca khúc “Diễm xưa”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết một câu rất triết lý: “Ngày sau sỏi đá cũng : 2/11-99
Trong ca khúc “Diễm xưa”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết một câu rất triết lý: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…”. Tại sao sỏi đá lại cần có nhau? Có lần ghé thăm Chùa Hang ở Long Hương, tôi tình cờ “khám phá” ra ý nghĩa những ca từ đó.
Sỏi và đá không cân xứng nhau chút nào. Đá lớn, sỏi nhỏ. Những viên sỏi nhỏ phải cần tựa vào tảng đá lớn chứ. Nhưng thật lạ lùng, những tảng đá dù lớn cũng cần đến những viên đá nhỏ chèn bên dưới chân để nó vững vàng với thời gian. Đôi khi tảng đá lớn cần điểm tựa nơi viên sỏi nhỏ để đứng vững. Một dáng đá đẹp cũng cần những viên đá nhỏ đỡ nâng. Như thế, để tồn tại, sỏi đá cũng cần có nhau.
“Sỏi đá cũng cần có nhau”, phương chi là con người. Người với người sống để yêu nhau. Người sống và người chết cũng luôn cần có nhau.
Mầu Nhiệm Hội Thánh Thông Công là một trong những mầu nhiệm đẹp của tình yêu. Tháng 11 đã về. Người sống nhớ đến những người đã an nghĩ, hiệp thông cầu nguyện, dâng những hy sinh hãm mình, những việc bác ái như là nghĩa cử biểu lộ lòng yêu thương đối với người đã khuất với tình hiệp thông trong Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Mỗi khi dâng lễ, đọc “Kinh nguyện Thánh Thể III”, tôi cảm nhận đây là kinh nguyện hiệp thông sâu xa của Đại Gia Đình Hội Thánh vinh thắng, lữ hành và thanh luyện: "Lạy Chúa, chúng connguyện xin Của Lễ hoà giải này đem lại bình an và cứu độ cho tất cả thế giới. Xin thương ban cho Hội Thánh Chúa trên đường lữ thứ trần gian được vững mạnh trong đức tin và đức mến, cùng với tôi tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng …và Đức Giám Mục… chúng con, cùng toàn thể hàng Giám Mục và giáo sĩ khắp nơi, và tất cả dân riêng Chúa.
Xin Chúa thương nhậm lời cầu của gia đình mà Chúa đã muốn tụ họp trước tôn nhan Chúa đây. Lạy Cha nhân từ, xin thương đoàn tụ mọi con cái Cha đang tản mác khắp nơi về với Cha.
Xin Cha thương đến anh chị em chúng con đã ly trần và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã sống đẹp lòng Cha mà nay đã lìa cõi thế. Xin thương nhận hết thảy vào nước Cha, nơi chúng con hy vọng sẽ tới để cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con, nhờ Người, Cha rộng ban muôn ơn lành cho thế gian. ".
Lời kinh tuyệt đẹp, trọn vẹn trong tình yêu hiệp thông.
Giáo hội mở kho tàng ân xá là công nghiệp của Các Thánh để nhường cho các linh hồn nơi luyện tội. Giáo hội khuyến khích tín hữu dâng lễ, lần chuỗi, viếng thăm các nghĩa trang, tảo mộ, cầu nguyện cho các linh hồn. Đó là sự hiệp thông trong đức tin, trong bí tích, trong đức ái, trong cầu nguyện và là mối hiệp thông mật thiết trong đại gia đình Giáo hội.
Trong tương quan “cũng cần có nhau”, đặc biệt là với những người đã qua đời, Kitô hữu được gọi là người “tận tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống”.
Mỗi khi thắp nén nhang trên phần mộ người chết, nhìn theo làn khói nhẹ toả bay, ta cũng nâng tâm hồn lên tới Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi khi đặt bó hoa tươi trên phần mộ người thân yêu, ta thấy được mùa xuân vĩnh cửu đang bừng lên từ khắp những nấm mồ chung quanh.
Hương khói và những ngọn nến lung linh. Một bầu khí tĩnh mịch trầm lắng và thánh thiện nơi nghĩa trang. Cảnh vắng lặng của một thế giới đang tan thành bụi đất như đang nói về sự rũ bỏ những vướng víu để đạt tới thành toàn viên mãn. Vài người thắp nến trên phần mộ người thân thương, ánh sáng toả ra một vùng nhỏ,toả vào ký ức nhớ những người thân đã khuất bóng.Gia đình cùng đọc kinh rồi im lặng để hình ảnh người đã khuất hiện dần lên trong trí nhớ. Những kỷ niệm lung linh nhập nhoà, bởi hình hài thể phách vật chất không còn nữa. Nghĩa trang là thế giới của tan rã, chỉ có bụi đất và cỏ cây. Những người chết không còn nói năng,ăn uống,đi đứng, cảm xúc,nghĩ ngợi, nổi niềm, không ham muốn, không lo âu, không hoạch định, không gắng sức. Họ đã bước vào cõi đời đời sau khi đã đi qua thế giới hữu hạn. Họ trải qua mùa đông ảm đạm của sự chết để đi vào mùa xuân vĩnh cửu của sự sống thiên quốc. Như hạt lúa gieo xuống lòng đất tuy có bị thối đi, nhưng chính từ trong hạt giống mục nát, một cây lúa mới mọc lên (Ga 12, 24). Con người cũng vậy, chỉ có thể bước vào sự sống đời đời qua ngưỡng cửa sự chết. Chết là điều kiện để triển nở và thành toàn.Chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ sung mãn hơn.Cuộc sống đời này và mọi sự trong đó chỉ là tạm bợ và tất cả sẽ qua đi, để hướng đến đích điểm của nó. Tiến trình qua đi và hướng đến này được thực hiện bằng sự chết đi - sống lại liên tục trong chính sự sống của vạn vật và con người, trên phương diện vật chất cũng như tinh thần. Trong đó, định hướng thành toàn thì luôn luôn bền vững, nhưng phương cách biến chuyển để thành toàn thì luôn thay đổi.
Thường tình, phải có mùa đông giá lạnh, mới tới được mùa xuân ấm áp.Thường tình, lá cũ phải rụng xuống, mới nảy sinh ra mầm non. Cũng vậy, phải có những khổ đau, phải có sự chết mới có sự sống lại: “Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12, 25). Trong mạch thời gian, sự sống và cái chết đổi chỗ lẫn nhau. Sự sống thay đổi chứ không mất đi.
Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho nhân loại con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Người đã thực hiện. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa đã làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống.
Sự sống mới trong Chúa Kitô sẽ không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống,đối với Người tất cả đều đang sống”.
Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã Sống Lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh.
Chúa Giêsu đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng. Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người.
Thập Giá Ðức Kitô trở nên con đường giao hoà và như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người.
Từ nay, yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Thánh Phaolô viết: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (1 Cr 1, 12); “Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1). Những ai có lòng tin sẽ coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.
Cho đến lúc hồn ta trong hơi thở Vẫn yên vui về cõi chết xa xôi. Và u buồn là những đoá hoa tươi, Và đau khổ là chiến công rực rỡ. (Chế Lan Viên)
Tin và sống trong ân tình của Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: "Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết" ( Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14 ). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.
Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho nhân loại niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của con người hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc mỗi người sống theo Tin Mừng Chúa Giêsu. Niềm hy vọng ấy thôi thúc người đang sống hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 này để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Cần có nhau trong cuộc sống và trong niềm tin để giúp nhau đạt đến hạnh phúc viên mãn.
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình: 2/11-100
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ. Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm "lành", vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài "Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con". Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.