Ngày 26/5: Thánh Philipphê Nêri

Chủ nhật - 25/05/2025 08:45
Ngày 26/5: Thánh Philipphê Nêri
Ngày 26/5: Thánh Philipphê Nêri
Ngày 26/5: Thánh Philipphê Nêri

---------------------------------
Mục Lục:
Ngày 26/5-1: Thánh Philipphê Nêri 1
Ngày 26/5-2: Thánh Philipphê Nêri, linh mục. 4
Ngày 26/5-3: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRI 7
Ngày 26/5-4: Thánh Philipphê Nêri, Linh Mục. 10

---------------------------------

 

Ngày 26/5-1: Thánh Philipphê Nêri


(1515-1595)
Lễ nhớ

11586 Thánh Phi lip phê Nê ri

1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

 

Philippe Néri sinh tại Florence năm 1515, theo học tại tu viện Dòng Đa-minh San Marco, nơi đây Ngày 26/5-1


Philippe Néri sinh tại Florence năm 1515, theo học tại tu viện Dòng Đa-minh San Marco, nơi đây ngài say mê các văn bản của Savonarole. Năm mười tám tuổi, ngài đến nhà chú gần núi Cassin để tập nghề buôn bán nhưng lưu lại đó không lâu vì thích sống tại Rôma hơn.

Trong Thành Đô muôn thuở, người chọn lối sống hoàn toàn thích hợp với mình: Như một người “Lữ thứ của Chúa, không nhà không cửa, nhưng tự do”. Trong trang phục ẩn sĩ, ngài chuyên tâm khổ chế và cầu nguyện, tham gia các lớp triết học và thần học, hoạt động “Tông Đồ cho người ở đường phố”, thăm viếng các tù nhân, phục vụ bệnh nhân trong các bệnh viện… Tính tình cởi mở và vui vẻ của thánh nhân thu hút lòng thiện cảm của mọi người: Người ta gọi thánh nhân là “Pippo il Buono”. (Philípphê nhân hậu).

Năm 1548, ngài qui tụ khoảng mười lăm người vào “Tu hội Chúa Ba Ngôi” nhằm chăm sóc các kẻ hành hương nghèo khó và các bệnh nhân. Ngài được thụ phong linh mục năm ba mươi tám tuổi, và gia nhập cộng đoàn các Tuyên úy nhà thờ San Girolamo. Không có nội quy, không lời khấn dòng và cũng không có cộng đoàn, mặc dù các ngài sống chung dưới một mái nhà. Kể từ năm 1552 Dòng Oratoire bắt đầu phát triển: đây là một phương pháp hoạt động Tông Đồ đặt cơ sở trên việc cầu nguyện, giảng thuyết và hát xướng thánh ca. Năm 1575, Dòng Oratoire được Đức Giáo Hoàng Grégoire XIII phê chuẩn thành Hội dòng các linh mục và giáo sĩ. Các linh mục sẽ sống chung thành cộng đoàn, phục vụ Dòng Oratoire, nhưng không tuyên khấn.

Tu hội của Phippe Néri lan tràn ở Ý và khắp châu Âu. Hội Oratoire tại Pháp được khai sinh nhờ công lao của Hồng y Bérulle. Còn tại Anh, chính Hồng y Newman đã du nhập hội vào năm 1848.

Các thánh như Charles Borromée, Ignace de Loyola, Camille de Lellis đều liên hệ với Phippe Néri, cũng như nhà soạn nhạc Palestrina và sử gia Baronius đều đi theo con đường của thánh nhân.

Phippe Néri qua đời, thọ tám mươi tuổi được phong chân phước năm 1615 và phong hiển thánh năm 1622. Ngài được tôn kính làm “vị Tông Đồ thứ hai của thành Rôma”.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Thánh lễ được mở đầu bằng câu tiền xướng ca ngợi ơn gọi của Philippe Néri “được sai đi mang Tin Mừng cho người nghèo khó và đem lại sự giải thoát cho kẻ bị áp bức” (tiền xướng nhập lễ).

Ngài được mệnh danh là “Kẻ lữ thứ của Chúa” hay “người Nghệ sĩ xảo thuật” và tự hiến làm Tông Đồ loan báo Tin Mừng bằng cách áp dụng phương pháp của Dòng Oratoire, lấy cầu nguyện, giảng thuyết và hát thánh ca làm cốt lõi. Vì quan tâm đến những kẻ sống bên lề xã hội và những người nghèo khổ nhất, nên ngài cũng đến với đám thanh thiếu niên trên đường phố và tại nơi họ sinh sống. Nhờ sức lôi cuốn của ngài chinh phục, nào thợ thủ công, kẻ bán hàng quán, các tù nhân và bệnh nhân đều được ơn sám hối. Ngài để ra hằng giờ để giải tội. Ngài khơi dậy các sáng kiến phù hợp nhằm đánh thức lương tâm của họ để họ tin Chúa và sống theo Tin Mừng. Như thế thánh nhân trở nên người cổ vũ cho phong trào “hành hương bảy thánh đường” khiến người dân xa rời với lễ hội hóa trang thường được tổ chức tại Rô-ma. Với sự đồng cảm và sáng suốt, ngài không chủ trương thay đổi con người từ bên ngoài, nhưng bằng cách yêu mến họ và gợi đến các ưu điểm nơi những kẻ đương thời.

b. Lời nguyện nhắc đến “Chúa Thánh Thần đốt lửa yêu mến trong lòng thánh Philippe Néri và hun đúc tâm hồn thánh nhân cách lạ lùng”.

Là nhà chiêm niệm trước khi trở thành người hoạt động, thánh nhân thường thích lặp đi lặp lại câu này: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy thắp lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa”. Ngọn lửa yêu mến Chúa đây đã “bùng cháy” lên và mở rộng tâm hồn ngài theo nghĩa cụ thể. Lòng mến Chúa nồng nàn cũng trở nên lòng cậy trông, tình âu yếm, niềm vui, mạnh mẽ thúc đẩy thánh nhân đến với tha nhân, nhất là những ai xa rời Hội thánh.

c. Qua lời nguyện trên lễ vật, chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta hoạt động để làm “Vinh danh Chúa và phục vụ anh em trong niềm vui luôn mãi” theo gương thánh Philippe Néri.

Với tính tình vui vẻ và cách xử sự đầy hóm hỉnh, chúng ta có thể nói được rằng ngài chính là niềm vui cho mọi người. Tất cả những ai được lôi cuốn vào niềm vui của ngài đều thấy được rằng niềm vui ấy bắt nguồn từ chính Chúa Thánh Thần đang ngự trong tâm hồn Philippe trước khi lan tỏa xung quanh. Ngài nói: “Niềm vui tăng sức mạnh cho tâm hồn, và làm cho chúng ta kiên vững trong đường ngay lành … Hãy vui lên, nhưng đừng phạm tội … Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sự bình an đích thật và gìn giữ chúng ta trong niềm vui luôn mãi.”

d. Lời nguyện hiệp lễ nhấn mạnh đến “niềm khao khát các nguồn sống chân thật” nuôi sống tâm hồn Philippe Néri và thúc đẩy ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu của con, con muốn yêu mến Ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài đừng tin Philippe này … Con đã nói với Ngài rằng con không biết Ngài. Con tìm Ngài mà chẳng thấy. Xin hãy đến với con…”

Để đạt đến các nguồn sống chân thật này, Philippe luôn tìm mọi giây phút thanh tĩnh một mình để cầu nguyện, chiêm niệm … Ngài nói: “Bạn hãy đi trong trần thế như đi trong sa mạc” sự cầu nguyện của ngài đạt đỉnh cao trong Thánh lễ: dâng Thánh lễ là thời điểm quan trọng nhất trong ngày. Ngài chia sẻ lòng sùng mộ này với các môn đệ của mình và không ngần ngại mời gọi mọi người siêng năng rước lễ, trong thế kỷ mà việc rước lễ thật là hi hữu… Cũng thế, ngài chọn việc xưng tội làm phần chủ yếu trong công tác rèn luyện đời sống thiêng liêng.

Thánh Philippe Néri là con người đáng yêu và quảng đại, thanh khiết, khiêm tốn, hoạt động và chiêm niệm; cũng như việc ngài thực thi đời sống Tông Đồ và đề cử nếp sống ấy cho các con cái thiêng liêng của mình là các linh mục Dòng Oratoire: đó là lòng khiêm tốn, bác ái, cầu nguyện và niềm vui. Như thế thánh nhân và nếp sống Tông Đồ của ngài vẫn luôn mãi là mẫu mực mang tính hiện thực một cách kỳ lạ đối với chúng ta.

Enzo Lodi

---------------------------------

 

Ngày 26/5-2: Thánh Philipphê Nêri, linh mục


(1515-1595)

1. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ

 

Thánh Philipphê Nêri sinh năm 1515 tại Florentia, nước Ý. Tên riêng của ngài hồi còn nhỏ là Ngày 26/5-2


Thánh Philipphê Nêri sinh năm 1515 tại Florentia, nước Ý. Tên riêng của ngài hồi còn nhỏ là “bé Phil tốt lành.” Thánh Philipphê Nêri có tính tình vui vẻ và thân thiện đến nỗi ai gặp ngài cũng đều quý mến ngài. Suốt ba năm, Philipphê Nêri nghiên cứu môn thần học và triết học; và ngài đã là một sinh viên xuất sắc. Nhưng đặc biệt Philipphê Nêri là một Kitô hữu năng động. Ngài sống đơn sơ và rất chăm chỉ. Ngài cũng làm nhiều việc tốt cho những người sống xung quanh ngài. Philipphê Nêri giúp đỡ các trẻ em, thăm viếng những người đau yếu bệnh tật, làm bạn với những người cô đơn phiền sầu. Nói tóm lại, vì tình yêu Chúa Giêsu, Philipphê Nêri đã đến với mọi người mỗi khi có thể.

Thánh Philipphê Nêri giúp thiết lập một hội giáo dân chuyên giúp đỡ và chăm lo cho những người hành hương túng nghèo. Hội này vẫn từng bước hoạt động như một bệnh xá danh tiếng tại Rôma. Vị linh mục hướng dẫn ngài nhận thấy rằng Philipphê Nêri đã hy sinh rất nhiều để giúp các Kitô hữu Rôma hâm nóng lại lòng hăng say nhiệt thành. Nhưng phải đợi đến năm ba mươi sáu tuổi, Philipphê Nêri mới có ơn kêu gọi làm linh mục. Sau đó, thánh nhân bắt đầu thi hành thừa tác vụ hết sức cao cả của mình. Mỗi ngày, Philipphê Nêri sẵn lòng dành ra nhiều giờ để ban bí tích Hòa giải. Hối nhân đến xưng tội với ngài ngày một đông hơn. Nhưng cha Philipphê rất bình thản. Ngài chẳng bao giờ đánh mất đi sự nhẫn nại dịu dàng!

Giáo dân dần dần nghiệm thấy rằng đôi lúc cha Philipphê Nêri có thể đọc được tâm hồn của họ. Trong một vài trường hợp, ngài có thể tiên báo tương lai. Thiên Chúa cũng đã dùng cha Philipphê Nêri để làm những công việc lạ lùng. Nhưng trên tất cả, điều mà Philipphê Nêri muốn làm là đem Đức Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Để tránh sự ngưỡng mộ của họ, đôi lúc cha Philipphê Nêri đã hành động cách ngớ ngẩn. Thánh nhân muốn được mọi người làm lơ và quên đi việc họ nghĩ ngài thánh thiện.

Dù vậy, trông cha Philipphê Nêri vẫn toát ra một sự khác lạ và nhờ ngài mà cả thành phố Rôma đã sống tốt lành hơn. Có lần thánh Philipphê Nêri đã nghĩ đến chuyện muốn trở nên một nhà thừa sai truyền giáo nơi các miền đất lạ. Thánh nhân bị lôi cuốn mạnh mẽ bởi gương sáng đời sống của thánh Phanxicô Xaviê, người đã mất năm 1552 tại cửa ngõ nước Trung Hoa. Philipphê Nêri chỉ mới làm linh mục được một năm thì thánh Phanxicô qua đời.

Vậy thánh nhân có bỏ Rôma để tình nguyện dấn thân cho những xứ truyền giáo không? Một đan sĩ Xitô thánh thiện đã nói với ngài: “Rôma chính là vùng đất truyền giáo của cha đấy!” Sau đó, cha Philipphê Nêri thấy tâm hồn mình tràn ngập bình an.

Thánh Philipphê Nêri dùng năm năm cuối đời của ngài để ban bí tích Hòa giải cho giáo dân. Thánh nhân về trời năm 1595, hưởng thọ tám mươi tuổi. Đến năm 1622, Đức Thánh cha Grêgôriô XV đã tôn phong Philipphê Nêri lên bậc hiển thánh.

II.CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH.

Con đường nên thánh của thánh Philipphê Nêri là con đường chính Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường sống tốt lành và làm cho những người khác cũng biết sống tốt lành như Chúa.

Chúng ta thấy ngay từ khi còn thơ ấu người ta đã gán cho Philipphê Nêri một danh xưng rất đẹp: “Bé Phil tốt lành”

Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa chữa một người vừa câm vừa điếc ở miền Thập Tỉnh. Sau khi được chứng kiến phép lạ Chúa làm, dân chúng đã phấn khởi và hô lên rằng: “ Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”

Thánh Augustinô sau này cũng khuyên các giáo dân của Ngài: “ Vậy thưa anh em, không những chúng ta phải lo sống tốt lành, mà còn phải lo cư xử tử tế trước mặt người đời nữa”

Như vậy con đường nên thánh không phải là con đường xa lạ khó tìm. Nó là con đường có mặt ngay trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Lịch sử còn ghi: “Nhưng trên tất cả, điều mà Philipphê Nêri muốn làm là đem Đức Chúa Giêsu đến cho mọi người”

Philipphê ý thức thật rõ cuộc sống không có Chúa là cuộc sống như thế nào. Đó là cuộc sống bất hạnh, đầy tội ác

Hôm đó ở Tréblinka, đại tá SS.Wirth chỉ huy trưởng trại giam tù binh của Quốc xã Đức nổi giận vì phòng hơi ngạt lại hỏng vào đúng khi có tin điện: Một chiếc tàu chở người Do Thái từ Varsovie tới, và bất hạnh hơn nữa chính là ngày Himler và Erich đến thanh tra trại.

Không làm sao được hắn phải tập trung tất cả các xe có hơi ngạt, nhưng mỗi lần chỉ được 20 người. Thời gian không cho phép chậm trễ, hắn bắt các nạn nhân giơ tay lên trời để cho có thể nhét thêm người. Vào phút chót, hắn khám phá ra còn hai phần trống giữa các đầu người và trần xe, hắn cho nhét thêm chục đứa trẻ.

Khi xe đã đầy tới mức tối đa, quân Đức đóng cửa lại cho động cơ chạy, chỉ trong khoảng một phút, không khí bên trong đầy Oxyde da carbonne. Khi xe tiến vào Tréblinka để ngừng lại trước các hố đào sẵn, tất cả nạn nhân đều đã chết ngạt. Bấy giờ họ chỉ việc đẩy xác xuống, lục lọi miệng để nhổ răng bạc và vàng, rồi sau đó lấp hố.

Ngược lại khi có Chúa thì tất cả đều tốt đẹp và hoàn toàn hạnh phúc.

Có một người đàn bà đạo đức nọ, trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống bà, đó là giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận giải phẫu vì hy vọng còn sống cho người con trai của bà. Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến giờ đau khổ của bà. Vào thời mà thuốc tê chưa có, bệnh nhân thường qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà vẫn can đảm chịu đựng. Thế nhưng, vào cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình và kêu: “Lạy Chúa”.

Chứng kiến cảnh đau đớn của mẹ, đứa con trai không làm chủ được cảm xúc, đã thốt lên những lời xúc phạm đến Chúa. Lúc đó, người đàn bà nghiêm chỉnh bảo con:

- Hỡi con, hãy im đi. Con đã cho mẹ làm đau đớn hơn các bác sĩ nhiều; con đã làm sỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ.

Nói xong, bà mở tay cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ, và đó là thuốc tê đã làm dịu cơn đau của bà. Sau mấy tháng quằn quại đau đớn, người đàn bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà trao ảnh chuộc tội cho con trai và căn dặn:

- Con hãy giữ lấy ảnh này, vì đó sẽ là niềm an ủi cho con.

---------------------------------

 

Ngày 26/5-3: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRI


Linh Mục (1515 – 1595)

 

Thánh Philipphê Nêri sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có Ngày 26/5-3


Thánh Philipphê Nêri sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đáng cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nơi cha mẹ và các cha dòng Đaminh ở tu viện thánh Marcô.

Năm 1533 ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ông cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và ngài đi bộ về Rôma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Rôma.

Một người đồng hương ở Rôma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học, ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.

Sau nhiều năm, ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư, các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.

 Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng : Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, ngài thụ phong linh mục năm 1551.

 Nhiệt tâm của ngài thật mãnh liệt khi ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, ngài mở cửa phòng cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là “Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo”.

 Mỗi chiều ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay ngài. Các linh mục muốn dấn thân phù giúp ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.

 Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng có một bạn trẻ đến báo tin cho ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi :

Học xong anh sẽ làm gì ?

 • Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật.

Rồi sao nữa ?

 • Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.

 Rồi sao nữa ?

 • Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước.

Rồi sao nữa ?

 • Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.

 Rồi sao nữa ?

 • Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.

Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp :

Rồi sao nữa ?

Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.

Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà, giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy :

 • Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.

 Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói :

 • Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?

Và thánh Nhân khuyên nhủ :

 • Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.

Với những bức thư của thánh Phanxicô Xaviê từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thầy dòng khổ tu đã nói với thánh nhân :

 • Dân Ấn Độ của ngài ở tại Rôma này.

Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành “Tông đồ thành Rôma”.

Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xaviê vị “Tông đồ của dân Ấn độ” cũng được tuyên phong với ngài.

Năm 1575, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII đã cho ngài và anh em linh mục thuộc nhóm ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Rôma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết.

Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêri.

Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm :

 • Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu

---------------------------------

 

Ngày 26/5-4: Thánh Philipphê Nêri, Linh Mục


 (1515-1595)

Kính ngày 26 tháng 5

 

Thánh Philipphê Nêri sinh tại Florence, nước Ý năm 1515 trong một gia đình đạo đức và quyền Ngày 26/5-4


Thánh Philipphê Nêri sinh tại Florence, nước Ý năm 1515 trong một gia đình đạo đức và quyền quý. Mồ côi mẹ từ khi mới chào đời, nhưng Philipphê được người kế mẫu thương yêu và săn sóc tận tình. Ngài có năng khiếu đặc biệt về văn chương, tính tình vui vẻ dễ thông cảm và hòa hợp với mọi người. Tuy còn nhỏ nhưng người đã sớm nuôi lý tưởng hiến thân cho Thiên Chúa và các linh hồn, nên sau khi từ chối quyền thừa hưởng gia tài lớn lao do người cậu ruột để lại, ngài đến cư ngụ ở Rôma (1534). Sau khi đã học hết triết lý và thánh kinh, năm 1551, ngài chịu chức linh mục, rồi ghi tên vào dòng Giảng Thuyết lưu động. Ngài chủ trương sống vui vẻ bình dân để cảm hóa mọi người. Thực vậy, ngài đã gây được rất nhiều ảnh hưởng nơi tín hữu cũng như nơi dân ngoại. Ngài đúng là hiện thân của tình bác ái sâu xa. Với một đời sống nội tâm dồi dào, ngài hăng

say làm việc suốt ngày, và khi đêm xuống, ngài lại đi cầu nguyện. Ngài thường nói: “Với người yêu mến Chúa thì không có gì nặng nhọc, mệt mỏi, nhưng đầy hân hoan trong nguồn sống chân thật”.

Trước hiện tình sa đọa trong Giáo Hội lúc bấy giờ, ngài chủ trương: Người ta chỉ có thể phục hưng tổ chức nhân loại bằng sự thánh thiện chứ không thể phục hưng sự thánh thiện bằng tổ chức nhân loại. Năm 1593, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIV muốn phong ngài làm Hồng Y, nhưng vì khiêm nhường, ngài từ chối và xin đi về tu viện để sống đời chay tịnh và cầu nguyện.

Hai năm sau, ngài qua đời (1595). Xác ngài được mai táng trong nhà nguyện dòng “Chúa Ba Ngôi” và ngày 14/5/1622, Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với thánh Ignatiô Loyola, thánh Têrêxa cả và thánh Phanxicô lập dòng.

(Theo nhóm truyền giáo Châu Kiên Long Đà Lạt)

Posted in: Học Hỏi Sống Đạo

---------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây