--------------------------------- Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai. 08/04 – Thứ Hai tuần 2 Phục Sinh – Lễ TRUYỀN TIN. Lễ Trọng. “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.
* Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng ngày Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Biến cố này được thánh Luca tường thuật lại trong phần đầu sách Tin Mừng của người.
Phụng vụ ngày hôm nay được soi sáng nhờ lời của tác giả Thánh Vịnh 39. Lời này đã được tác giả thư Do Thái đặt lên miệng Chúa Kitô khi Người bước vào trần gian: “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà.
Chín tháng trước khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo hội mừng lễ Truyền Tin. Lễ Truyền Tin là lễ trọng, lễ Con Thiên Chúa xuống thế giới này làm người. Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm lớn, đã bắt đầu từ giây phút này đây. Nhưng sự trọng thể và lớn lao ấy lại diễn ra rất đỗi bình thường và bé nhỏ. Galilê là vùng đất của dân ngoại, Nadarét chỉ là một tỉnh nhỏ ít danh tiếng. Đây là nơi sinh sống của Chị Maria, một thiếu nữ đã đính hôn với ông Giuse. Sứ thần Gáprien được Thiên Chúa sai đến với người trinh nữ Do thái ấy vào lúc Chị đang sống đời sống thường nhật như các cô gái khác. Chị sống bên cha mẹ, chờ ngày về nhà chồng. Chị có biết đời mình sắp bước vào một khúc quanh mới không? Thiên Chúa cần Chị Maria cho công trình cứu độ thế giới của Ngài. Lễ Truyền Tin là lễ Thiên Chúa hỏi ý một thụ tạo, một thiếu nữ nhỏ bé. Ngài tôn trọng tự do mà Ngài đã ban cho Chị, Ngài cần sự ưng thuận của Chị. Qua trung gian sứ thần Gáprien, Thiên Chúa muốn Chị làm Mẹ của Con Ngài. Người Con ấy là Vua thuộc dòng Đavít, là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa. Chị Maria đã hết sức bối rối trước lời chào của sứ thần. Lời chào ấy khiến Chị phải suy nghĩ và sợ hãi (c. 29, 30). Và khi được báo tin mình sẽ thụ thai, Chị đã hỏi lại: “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào?” vì cho đến nay Chị vẫn còn là trinh nữ, chưa về chung sống với Giuse (c. 34). Trước khi nói tiếng Xin Vâng, Chị Maria đã suy nghĩ cầu nguyện nhiều. Chị biết mình được Thiên Chúa mời gọi bước vào cuộc phiêu lưu. Cuộc hôn nhân với Giuse, người mà Chị yêu mến, hẳn sẽ không như cũ. Điều gì sẽ xảy ra nếu Chị mang thai bây giờ? Giuse sẽ nghĩ sao? Ai sẽ tin chuyện Chị được thụ thai bởi Thánh Thần (c. 35)? Maria đã nói tiếng Xin Vâng không phải vì thấy rõ con đường Chúa muốn. Xin Vâng là mềm mại, buông mình để Chúa dẫn đi giữa đêm đen, yên tâm không phải vì mình làm chủ được tương lai, nhưng vì tin nó nằm trong tay Chúa. Xin Vâng là để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ. Chị Maria đã dám chấp nhận mọi hậu quả khi nói tiếng Xin Vâng. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa.” (c. 38). Tiếng Xin Vâng của Chị Maria đã cho Con Thiên Chúa có chỗ trong thế giới. Nhờ những tiếng Xin Vâng của tôi, Đức Giêsu đi vào được thế giới hôm nay. Tôi có kiên nhẫn cưu mang Ngài trong đời tôi, để cho Ngài lớn lên cứng cáp, trước khi sinh ra Ngài cho môi trường tôi đang sống không? Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán. Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen. -------------------------------
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta". Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta". Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây". Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Ðức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa. Ðức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Ðức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Ðức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Ðức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Ðáp lại, Ðức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Ðức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Ðó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Ðức Mẹ theo chương trình của Chúa, Ðức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Ðức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh Ý Thiên Chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa "Xin vâng", Ðức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do-thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Ðức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa "xin vâng", nên Ðức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh Ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Ðấng Cứu Thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Ðức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Ðức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê-su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân Thập Giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Ðức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Ðức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Ðức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa chay là Mùa đặc biệt nhắc nhở và giúp chúng ta "trở lại”đúng địa vị của con người được tạo dựng theo hoạ hình của Thiên Chúa, đúng địa vị trong mọi tương hệ với Thiên Chúa là Cha, với mọi người là anh chị em, với vũ trụ tạo thành là người quản lý. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Ðức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Ðức Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời "xin vâng”của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó "xin vâng”đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng bà Ê-li-da-bét (Lc 1, 39 – 45). Đi thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Ê-li-da-bét. Theo Đức Mẹ, thì mình được Chúa thương, là để mình biết thương người khác. Mình được Chúa chọn cộng tác với Chúa trong việc cứu độ, thì mình phải quyết tâm dấn thân góp phần cứu độ người khác. Mình nhận ơn Chúa ban, thì mình sẽ cố gắng chia sẻ ơn đó cho người khác.
Thiết tưởng đó là một giao ước mới về bác ái liên đới phát sinh từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Đức Mẹ trong kinh Tạ Ơn "Linh hồn tôi tung hô Chúa” (Lc 1, 46 – 55). Tâm tình Đức Mẹ là lời nói chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa. Tâm tình Đức Mẹ là khát vọng cứu độ tỏa ra sức nóng của tình yêu thương xót, nhưng lại khiêm nhường tế nhị đối với đồng bào, nhân loại. Tâm tình Đức Mẹ là cái nhìn tiên tri sâu sắc của trái tim khiêm nhường về tương lai dành cho những kẻ khiêm tốn.
Thiết tưởng đó là một bài ca mới về khiêm tốn khởi đi từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Thiết tưởng đó là một con đường mới về sự nghèo khó được vạch ra từ lời xin vâng. Con đường mới đó, bài ca mới đó, giao ước mới đó đều nói lên Đức Mẹ là con người mới. Mới về nhiều phương diện, nhưng nhất là về phương diện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ, để đổi mới con người của Mẹ (Lc 1, 35).
Qua việc Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ, Chúa Thánh Thần đã đưa tình yêu thương xót của Thiên Chúa vào nhân loại, đã mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, đã khai mở một nguồn mạch ơn thánh cứu độ vô cùng phong phú cho mọi người thiện chí.
Do đó, Đức Mẹ là con người mới, là tác phẩm tuyệt vời của Chúa Thánh Linh. Với đặc điểm là Đức Mẹ có một trái tim giống trái tim Chúa Giêsu, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, cháy rực lửa tình yêu thương xót.
Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào, để chuẩn bị mừng Lễ Truyền Tin một cách sống động sát với thời sự.
Thời sự hiện nay, nếu nhìn về góc độ xin vâng ý Chúa, thì đó là cả một vấn đề đáng phải lo ngại. Bởi vì có những người coi trọng ý Chúa và xin vâng ý Chúa. Cũng có những người coi thường ý Chúa và chống lại ý Chúa. Có những người hiểu sai ý Chúa, vô tình hoặc cố tình. Có những người gán cho ý Chúa những ý riêng của mình. Có những người muốn ý Chúa hợp theo ý riêng mình, cho dù ý riêng mình là quái gở. Thời sự hôm nay là Ít-ra-en, quê hương của Đức Mẹ, đang là mảnh đất diễn ra vòng xoáy hận thù và đổ máu. Vòng xoáy kinh hoàng này càng ngày càng mở rộng trên đất, đồng thời càng xoáy sâu vào lòng dân. Từ mảnh đất này hằng ngày truyền đi khắp năm châu những tin đau đớn, gây nên băn khoăn nặng nề cho hoà bình thế giới. Thời sự này làm cho rất nhiều người phải khóc, phương chi Đức Mẹ.
Nhưng theo tôi, thời sự hiện nay quan trọng nhất chính là chuyện của bản thân ta. Ta có lắng nghe ý Chúa không? Và ta có xin vâng ý Chúa thực không? Đoạn Phúc Âm sau đây sẽ gợi ý cho ta thấy rõ ý Chúa về ta trong thời sự hôm nay:
"Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy". "Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13, 1 – 5).
Suy gẫm đoạn Phúc Âm trên, tôi có cảm tưởng là Chúa muốn báo tin cho từng người chúng ta biết rõ ý Chúa. Đó là đừng quá bận tâm xét đoán người khác, nhưng hãy ưu tiên lo phần rỗi của mình. Lo bằng cách sám hối ăn năn, đổi mới chính mình. Cách đó là cách tốt nhất để góp phần vào việc cứu độ người khác.
Chúa báo tin cho chúng ta ý Chúa là như thế đó. Rất rõ ràng. Ở Fatima Đức Mẹ cũng báo cho chúng ta tin đó. Cũng rất rõ ràng. Chúng ta hãy đáp lại bằng lời xin vâng.
Xin vâng của chúng ta là một hành trình dài đi về với Chúa. Hãy bước đi với những bước nhỏ. Như hằng ngày cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng và chuỗi Mai Khôi. Như hằng ngày đến bên trái tim Đức Mẹ, để xin trái tim Đức Mẹ chia sẻ cho ta bầu khí thinh lặng, chiêm niệm, lửa bác ái nồng nàn và sức mạnh lạ lùng của khiêm nhường nghèo khó. Như hằng ngày thực hiện đôi ba việc bác ái, thương cảm liên đới với những người nghèo, bệnh tật, xa Tin Mừng, bị xã hội loại trừ. Như hằng ngày tập nói và làm những gì mang tính cách phục vụ hoà bình hiệp nhất trong yêu thương và tế nhị. Như hằng ngày dùng lòng tin mến biến những mệt mỏi khổ đau của mình thành của lễ đền tội tạ ơn, và xin ơn an bình cho gia đình quê hương và thế giới.
Nếu lời xin vâng của chúng ta được hiệp thông sâu sắc với lời xin vâng của Đức Mẹ, thì đây sẽ là một hy vọng mới cho tương lai bản thân ta, cho Hội Thánh ta, cho quê hương Việt Nam chúng ta, và cho tất cả nhân loại.
Sứ điệp: Nhờ lời ưng thuận của Đức Maria, Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng người Mẹ đồng trinh. Thiên Chúa là Đấng khởi xướng mọi hoạt động cứu độ, nhưng Ngài cần sự hợp tác của con người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Con của Chúa Cha, Chúa đã nhập thể, đã trở thành người trong lòng Đức Mẹ đồng trinh. Với tâm hồn thánh thiện đầy ân sủng và thân xác tinh tuyền, Mẹ đã được Chúa chọn làm cung thánh để từ đó Chúa đi vào lịch sử loài người. Mẹ đã cưu mang Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Chúa trong thân xác. Tâm hồn Mẹ tràn đầy Chúa nên thân xác Mẹ cũng được Chúa cư ngụ, để rồi Mẹ ban tặng Chúa cho chúng con. Mẹ đã khiêm tốn ưng thuận để Chúa đi vào cuộc đời Mẹ và làm chủ cuộc đời Mẹ, nhờ vậy Chúa đã đi qua cuộc đời Mẹ để đến với chúng con.
Lạy Chúa, hôm nay, Chúa đang muốn đi qua cuộc đời con để đến với thế giới, Chúa cũng đang muốn hiến mình cho con, để qua con, Chúa hiến mình cho nhân loại hôm nay. Xin Chúa giúp con biết khiêm tốn đón nhận Chúa và ưng thuận Lời Chúa mời gọi. Con không thể đem Chúa đến cho anh em nếu con chẳng có Chúa trong lòng. Hằng ngày, nhờ thánh lễ, Chúa lại muốn nhập thể trong con. Xin cho con biết đón nhận Chúa vào cuộc đời mình. Nhờ đức tin và tình yêu mến, nhờ tâm hồn trong sạch và khao khát Chúa, con sẽ được cưu mang Chúa trong tâm hồn. Nhờ việc rước lễ, con sẽ được cưu mang Chúa trong cả thân xác nữa. Xin Chúa ở với con luôn mãi. Con xin dâng hiến đời con cho Chúa, để Chúa dùng con như khí cụ của tình thương cứu độ của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.
Vai chính trong tường thuật này là Đức Mẹ Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau:
- Một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27)
- Nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì”đầy ơn phước”và được”Thiên Chúa ở cùng” (câu 28)
- Được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33)
- Dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38: Fiat =“Tôi xin vâng”...).
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Đức Mẹ Maria hỏi”Việc đó xảy đến thế nào được, vì”.... Thiên Thần đáp”không có việc gì mà Chúa không làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Mẹ Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2. Mặc dù”không có việc gì mà Chúa không làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Trinh Nữ Maria hợp tác. Và Đức Trinh Nữ Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Tôi xin vâng”.…
3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)
4.”Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,28-29)
Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.
Lạy Chúa. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata)
Đức Mẹ có hai nhân đức rất quan trọng này: lòng kính sợ Thiên Chúa và sự khiêm nhường
Lòng kính sợ Thiên Chúa
Sách thánh vịnh nói: "Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan” (Tv 111,10). Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.
+ Trước hết vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Chúa. Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay, Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của sứ thần Gabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.
+ Thứ đến là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.
- Trong việc đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập
- Trong việc đưa Chúa Giêsu trở về
- Nhất là theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha.
Lòng khiêm nhường
Các nhà tu đức học đều coi "Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức". Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:
- Đức Mẹ đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…
- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)
"Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)
"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.
Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ "Ngôi Lời nhập thể”từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng "Lễ Truyền Tin”vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ: Lễ của Ngôi Lời làm "con Đức Trinh nữ”và lễ Đức trinh nữ là "Mẹ Thiên Chúa".
Ngay từ đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
2. Quang cảnh Truyền tin
Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ: "Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao".
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể".
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền".
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Truyện: Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich
Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.
Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.
Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.
Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền".
Quang cảnh tới đây hạ màn.
II. VÀI SUY TƯ TỪ LỄ TRUYỀN TIN
1. Thiên Chúa là Đấng toàn năng.
Trước việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh, Maria thắc mắc và hỏi lại sứ thần: “Việc ấy xẩy ra cách nào được, vì..."? Sứ thần liền đáp: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể” (Lc 1,37).
Câu trả lời của sứ thần nói lên quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sáng tạo muôn vật từ hư vô, quyền năng Ngài không giới hạn. Quyền năng của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với yêu thương, nên trong lịch sử cứu độ, Ngài luôn đi bước trước trong sáng kiến yêu thương con người. Chỉ với bài Tin mừng hôm nay thôi cũng đủ thấy sáng kiến táo bạo của Ngài.
Thiên Chúa lại muốn trở thành một con người, đó là sang kiến táo bạo thứ nhất. Hơn thế nữa, không muốn đột nhiên xuất hiện cách phi thường mà lại muốn làm người con bình thường sinh ra bởi một người nữ như bao nhiêu người khác. Đây chẳng phải là sáng kiến táo bạo thứ hai sao?
Táo bạo và kỳ diệu hơn nữa đã làm phát sinh sáng kiến thứ ba thật tuyệt vời và mầu nhiệm, đó là: người phụ nữ ấy lại đồng trinh trước và sau khi sinh con. Thực ra, không có gì Thiên Chúa không làm được. Một Vị Thiên Chúa mà còn làm con người được, thì chuyện bảo vệ sự đdồng trinh cho Đức Maria trước và sau khi sinh thì có nghĩa lý gì đâu?
Cũng vậy, nếu sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra cho các Tông đồ trong lúc cửa vẫn đóng kín, thì việc Ngài hạ sinh mà tấm lòng băng trinh của Mẹ Maria vẫn còn nguyên vẹn lại không được chấp nhận sao? Quả thật, không có gì Thiên Chúa không làm được. Điều đó mời gọi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng có thể có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động nơi chúng ta.
2. Thiên Chúa cần con người cộng tác
Nhưng có một điều mà "Thiên Chúa không làm được", đó là "Thiên Chúa không thể cứu độ con người nếu con người không cộng tác với Ngài". Lời quả quyết này có vẻ nghịch thường, nhưng nội dung bài Tin mừng hôm nay là như thế. Thiên Chúa không làm được không phải vì quyền năng Ngài bị giới hạn, nhưng vì yêu thương, tôn trọng tự do của con người nên Ngài không làm được những điều mà con người không cộng tác.
Mặc dù Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể ép buộc Maria phải làm theo ý định của Ngài vì Ngài có khả năng làm như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn. Điều Ngài muốn là thấy Maria tự nguyện đáp lại ý muốn của Ngài vì Thiên Chúa yêu thích những ai cho một cách vui lòng.
Ôi! Thiên Chúa nhân từ dườg nào! Một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối mà lại phải đi hỏi ý kiến của một thiếu nữ nhỏ bé, quê mùa, và lo lắng chờ đợi trước quyết định của cô, dù nó là một đặc ân cao cả, mà nếu chấp nhận thì sẽ có lợi cho toàn thể nhân loại và riêng cho thiếu nữ nữa.
Truyện: Chiếc đồng hồ báo thức
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm một chỗ ở xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hố ấy hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không dùng nó. Mẹ anh đáp.
Qua câu truyện trên, chúng ta thấy rằng trong cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta muôn vàn ơn, nếu chúng ta không biết sử dụng thì nó cũng trở nên vô dụng đối với chúng ta.
3. Lời Fiat của Đức Maria
Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".
Bình luận về câu trả lời trên, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexicô City đã nói: “Virgo fidelis: Đức Nữ trung tín thật thà. Đức trung tín của của Maria nghĩa là gì? Trung tín bao gồm chiều kích gì?
- Chiều kích thứ nhất là tìm kiếm. Trước hết, Maria tỏ ra trung tín khi Ngài bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của chương trình Thiên Chúa nơi mình và cho thế giới. Quomodo fiet? Sự việc xẩy ra như thế nào? Ngài hỏi sứ thần Truyên Tin (...).
- Chiều kích thứ hai của trung tín gọi là tiếp nhận, chấp nhận. Lời Quomodo fiet? trên môi Maria chuyển thành một lời fiat: Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền, tôi sẵn sàng, tôi chấp nhận. Đây là giờ phút hệ trọng của đức trung tín, giờ phút mà con người cảm thấy mình sẽ không bao giờ hiểu thấu được từ "như thế nào"; trong kế hoạch của Thiên Chúa có các khu vực mang tính nhiệm mầu nhiều hơn là tính sáng sủa rõ ràng; cho dù có ra sức phấn đấu đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tài nào lĩnh hội đầy đủ sự việc (...)
- Chiều kích thứ ba của đức trung tín là sự kiên định, kiên trì sống theo nhừng điều mình tin tưởng, sẵn sàng điều chỉnh cuộc đời mình cho phù hợp với mục tiêu mình theo đuổi. Sẵn sàng chấp nhận bị hiểu lầm, bắt bớ còn hơn là ngôn hành bất nhất, tin một đàng mà làm thì một nẻo, điều này gọi là tính kiên định.
- Tuy nhiên mọi sự trung tín đều phải trải qua cuộc thử thách khốc liệt nhất: sự thử thách của thời gian. Do đó, chiều kích thứ tư là tính thủy chung như nhất. Kiên trì ngày một ngày hai thì dễ. Kiên trì trong suốt cuộc đời thì khó và đây mới là điều quan trong. Kiên trì đang khi hào hứng, hồ hởi phấn khởi thì dễ, còn vẫn giữ được sự kiên trì trong cơn thử thách khốn quẫn mới khó. Và chỉ có sự kiên trì kéo dài cho đến suốt đời mới là tín trung.. Lời thưa "Fiat": xin vâng của Đức Maria trong buổi truyền tin trở nên viên mãn trong tiếng fiat xin vâng âm thầm mà Mẹ lặp lại dưới chân Thập giá (Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexico City, 26 tháng 01 năm 1979).
Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các thánh Giáo phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại.
Truyện: Tờ giấy và cây viết
Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.
Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi".
Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người".
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.
Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng kia, nếu không chấp nhận để cho bàn tay Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động, thì sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Thiên Chúa, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tờ giấy không hiểu được những hành động của cây viết vẽ những dấu lạ trên mình nó, con người cũng chắc chắn không thể nào hiểu được ý định của Thiên Chúa là ý định khôn ngoan, hợp lý nhất để đưa con người đến hnạh phúc.
Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.
Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại". Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là "Mẹ kẻ sống", và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính một trong những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Biến cố sứ thần của Thiên Chúa truyền tin cho Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
1- Lễ Truyền tin như anh chị em vẫn thấy luôn được cử hành lồng vào trong khung cảnh của Mùa Chay và Mùa Phục sinh. Và nếu anh chị em để ý một chút thì chúng ta thấy cách đây một tuần Giáo Hội cho chúng ta mừng kính lễ thánh Giuse. Tại sao Giáo Hội lại cho mừng hai lễ này trong khung cảnh của Mùa Chay và Mùa Phục sinh như thế? Chắc phải có lý do của nó. Giáo Hội là người mẹ rất khôn ngoan. Giáo Hội muốn đưa ra những tấm gương cụ thể để cho con cái của mình biết phải sống như thế nào trong Mùa Chay và Mùa Phục sinh. Cũng như trong Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, hai hình ảnh đặc biệt được Giáo Hội coi như mẫu mực là Thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Mẹ Maria, thì trong mùa Chay và Mùa Phục sinh Giáo Hội cũng đưa ra hai khuôn mặt mẫu mực như thế. Thay vì Thánh Gioan Tẩy Giả thì là Thánh Giuse và vai trò của Đức Mẹ thì chắc là không bao giờ có thể thiếu. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta có dịp để suy gẫm về Người.
2- Nói về Đức Mẹ như lời thánh Bênađô thì”chẳng bao giờ cho đủ”. Mỗi lần nói về vai trò của Đức Mẹ trong công trình cứu chuộc của Chúa thì chúng ta thường hay nghĩ đến cách thức Chúa thực hiện những việc lạ lùng nơi con người của Đức Mẹ hơn là nghĩ đến những yếu tố đặc biệt khiến Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn. Thậm chí chúng ta còn thấy nhiều nhà tu đức còn cho là Thiên Chúa luôn có quyền làm theo ý muốn của mình. Họ cho rằng việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ quê mùa, nghèo khó để làm Mẹ Thiên Chúa là cốt ý để làm bẽ mặt những kẻ quyền thế, giàu có sang trọng ở trong thế gian.
Tôi không phủ nhận ý kiến đó. Thế nhưng đối với tôi nếu chỉ nghĩ về Thiên Chúa như thế thì chưa đủ. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng hành động khác thường. Có những lúc Ngài cũng hành động theo những qui luật bình thường. Khi nói thế, tôi muốn nói tới những lý do khiến Chúa đã đặc biệt để ý đến Đức Mẹ và tuyển chọn Ngài vào một công tác rất quan trọng trong chương trình cứu độ của Người.
Thế thì Đức Mẹ đã có những yếu tố nào để Thiên Chúa làm như vậy? Tôi thấy nơi Đức Mẹ có hai nhân đức rất quan trọng này:
Trước hết đó là lòng kính sợ Thiên Chúa.
Thứ đến là sự khiêm nhường.
a- Lòng kính sợ Thiên Chúa.
Sách Thánh vịnh nói: “Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan” (Tv 111,10). Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.
+ Trước hết vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Chúa. Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay, Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của sứ thần Grabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.
+ Thứ đến là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Trong việc đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập Trong việc đưa Chúa Giêsu trở về Nhất là theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha. b- Đức tính đặc biết thứ hai của Đức Mẹ đó là lòng khiêm nhường.
Các nhà tu đức học đều coi”Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức”. Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:
– Đức Mẹ đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc”quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…
– Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
“Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tì hèn mọn” (Lc 1,48)
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)
Vâng tất cả là bởi Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường – Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng khiêm nhường thật thẩm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn điạ đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.
Trong thi tập: “Người Làm Vườn”. Thi hào Tagore của Ấn Độ đã ca ngợi người đàn bà như sau:
Hỡi người đàn bà! Người không chỉ là tuyệt tác của Thượng Đế. Người còn là công trình của con người. Chính con người vẫn mãi mãi tiếp tục tô điểm cho người bằng tâm tình của họ. Các thi sĩ dệt cho người một mạng lưới của những vần thơ óng ả. Các hoạ sĩ mặc cho người một chiếc áo choàng bất tử. Biển khơi dâng hiến cho người ngọc ngà châu báu. Người thợ mỏ mang vàng đến cho người. Người làm vườn ôm ấp vỗ về người bằng muôn hoa cỏ đồng nội. Khát vọng của lòng người đã trải dài vinh quang của họ trên tuổi xuân của người. Hỡi người đàn bà! Người một nữa là đàn bà, một nữa là mộng mơ.
Anh chị em thân mến.
Những vần thơ trên đây đáng được dành riêng để ca tụng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Nhưng có lẽ trên trần gian này không có lời nào có thể làm hài lòng Mẹ cho bằng chính lời của Chúa Giêsu, Con Mẹ. Mẹ Maria tuyệt mỹ, bởi vì Mẹ giống Chúa Con. Mẹ giống Chúa Con là bởi vì cả cuộc sống lúc nào Mẹ cũng tuân theo thánh ý Chúa. Trước khi được liên kết với Chúa Giêsu bằng máu mủ ruột thịt, Mẹ đã được liên kết với Ngài bằng hai chữ”xin vâng”.
Lạy Mẹ, chúng con được gọi Mẹ bằng chính âm thanh của Chúa Giêsu đã từng gọi trong suốt cuộc đời của Ngài. Mẹ được Chúa Giêsu gọi bằng mẹ không những vì đã sinh ra Ngài mà còn bởi vì đã sống vâng phục như chính Ngài.
Xin mẹ hãy phù giúp chúng con biết nhìn ngắm Mẹ và nhờ đó mỗi ngày một trở nên giống Con Mẹ hơn. Amen.
-------------------------------
Suy niệm 9. Đức tin bé nhỏ đặt vào Thiên Chúa lớn lao
--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?”.”Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao”.
Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
Suy niệm
Theo Kinh Thánh, trinh nữ Maria đã đính hôn cùng thánh Giuse và hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Cùng hòa chung với toàn dân, Maria cũng luôn khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế đến với Dân Người.
Bỗng nhiên, Maria đón một vị khách lạ đến, vị khách đó chính là Sứ thần Gabriel mang một sứ điệp từ trời cao làm thay đổi cả cuộc đời Maria: Nàng được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế. Giữa những bối rối của bản thân: Quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa như ước mơ cuộc đời hay trở nên một người mẹ theo thánh ý của Thiên Chúa? Maria đã đặt đời mình trong niềm tin và vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Dù chưa sáng tỏ sự việc nhưng Maria vẫn tín thác xin vâng: “…tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sự vâng phục trọn vẹn trong đức tin của Maria là một thái độ sẵn sàng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Sự vâng phục như tỏ lộ ý chí của Maria: “Điều gì Chúa nói, tôi tin và tôi luôn xin vâng”. Tin và tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, Maria học biết trước tinh thần của Đức Cứu Thế muốn nơi dương gian mà Ngài đã thực hiện”Xin ý Cha được thực hiện” (Mt 26,39).
Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.
Tâm tình và thái độ khiêm nhu trước Thiên Chúa của Mẹ, đốt lên ngọn nến để chờ đợi sẵn sàng đón Chúa. Ngọn nến soi tỏ chúng ta sống tâm tình tin và vâng phục: Bản ngã và cuộc sống của mình tan hoàn toàn trong thánh ý Thiên Chúa.
Sống tâm tình chờ đợi là sống trong ánh sáng của niềm tin. Tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Không có niềm tin cuộc đời như một đêm tối không ánh sao. Tin sẽ mang đến niềm vui. Tin là sức mạnh cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng như Maria vui tươi hy vọng vào Thiên Chúa biểu lộ qua bài ca Magnificat và tinh thần phục vụ (x. Lc 1,39-56).
Ý lực sống: ‘‘Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.(Dt 10,7)
Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn “ (x. Bài giảng 69, 3, 4).
Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Sự kiện ấy diễn ra trong không gian và thời gian: “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria “ (Lc 1, 26-27). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiaret hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.”Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội ". Nên tôi nói: “Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo cứu chuộc thế gian.
Kế hoạch của Thiên Chúa dần dần được thể hiện trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng: “Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.
Từ Abraham đến Đức Maria
Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham "cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12). Đưa chúng ta về Nagiaret, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với”Cha chúng ta."
Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một quốc gia vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu của Chúa. Sứ thần Gabriel nói, "Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai [...] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người [...] và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1, 31-33).
Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1, 34).
Lời "xin vâng”của Abraham và Đức Maria
Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời "xin vâng”cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Elizabeth. Thiên Thần Gabriel nói về Elizabeth để trấn an Đức Maria: "Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già” (Lc 1, 36).
Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi”việc đó xảy ra thế nào được?”chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa”xin vâng”bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.
Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa "xin vâng”của Đức Maria tại Nagiaret mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ "đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” (Hymne Ave Regina Caelorum).
Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa?
Chúng ta cầu xin cho mọi người trong Năm Phúc Âm Hóa Gia Đình này được đối mới về đức tin, không chỉ chung chung, nhưng là một đức tin có ý thức và can đảm tuyên xưng như vẫn đọc trong Kinh Tin Kính: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người ".
Tại Nagiaret, Chúa Giêsu”đã ngày càng tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 52). Chúng ta xin Thánh Gia để bảo vệ tất cả các gia đình khỏi các mối đe dọa hiện nay đang đè nặng trên các gia đình. Chúng ta phó thác cho Thánh Gia tất cả những ai đang nỗ lực bảo vệ sự sống và cổ võ việc tôn trọng phẩm giá con người. Chúng ta phó dâng cách riêng các gia đình trên thế giới cho Mẹ Maria.
Tại Nagiaret, nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, chúng ta xin Đức Maria giúp Hội Thánh rao giảng "Tin Mừng”khắp mọi nơi. Trong "Năm Phúc Âm Hóa Gia Đình", chúng ta xin xin Mẹ dạy chúng ta con đường khiêm tốn, vâng phục và niềm vui Phúc Âm để phục vụ anh chị em.
Ước gì trên hành trình dương thế, có Mẹ Maria đồng hành, nhờ lời”xin vâng”của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại. Chúng ta có thể thư”xin vâng”với Chúa Kitô, ngõ hầu toàn thể nhân loại "giao hòa với Thiên Chúa.”Amen.
-------------------------------
Suy niệm 11. Mẹ thưa xin vâng khi thi hành thánh ý Chúa
--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta theo Sứ Thần Gabriel đến Nagiarét gặp một trinh nữ mà thiên hạ muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3, 4).
Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Một sự kiện diễn ra trong không gian và thời gian: “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27 ). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiarét hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.”Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội”. Nên tôi nói: ”Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo nhất để cứu chuộc thế gian.
Kế hoạch của Thiên Chúa được thể hiện từng bước trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng: ”Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.
Từ Abraham đến Đức Maria
Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham”cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12 ). Dẫn chúng ta về Nagiarét, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với”Cha chúng ta.”
Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một dân tộc vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng được Chúa xức dầu. Sứ thần Gabriel nói,”Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1, 31-33).
Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1, 34).
Lời ”xin vâng” của Abraham và Đức Maria
Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời”xin vâng”cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Isave. Thiên Thần Gabriel nói về Isave để trấn an Đức Maria: “Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già” (Lc 1, 36).
Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi”việc đó xảy ra thế nào được?”chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa”xin vâng”bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.
Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa”xin vâng”của Đức Maria tại Nagiarét mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ”đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” (Hymne Ave Regina Caelorum).
Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa?
Chúng ta cầu xin cho những người sống đời thánh hiến, để họ biết đón nhận Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa, suy ngẫm Lời Chúa như Mẹ Maria, nhất là sống theo Chúa Kitô, khiết tịnh, thanh bần và vâng phục là một sự chú giải sống động về Lời Chúa. Xin cho họ được luôn thưa”xin vâng”với trọn bản thân và tất cả lòng chân thành, hoàn toàn sẵn sàng đối với thánh ý Chúa và lượng từ bi của Ngài.
Trong năm Phúc Âm Hóa Giáo xứ, xin cho mọi người biết quan tâm đến nhau, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân. Vì Giáo hội luôn ý thức rằng: “Nếu một chi thể đau, thì tất cả các chi thể khác cũng đau” (1 Cr 12,26), nên Đức khẳng định: “Mỗi cộng đoàn Kitô được kêu gọi hãy vượt qua ngưỡng cửa nối kết họ với xã hội xung quanh, với những người nghèo và những người xa xăm. Giáo Hội tự bản chất là thừa sai, không co cụm vào mình, nhưng được sai tới tất cả mọi người. Sứ mạng của Giáo Hội là kiên nhẫn làm chứng về Ðấng muốn mang tất cả thực tại và mỗi người về cùng Chúa Cha… Tôi ước mong sao ở đâu Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và cộng đoàn của chúng ta, ở đó trở thành những honf đảo từ bi giữa lòng biển cả dửng dưng!” (Sứ điệp Mùa Chay năm 2015)
Ước gì trên hành trình dương thế, có Mẹ Maria đồng hành, chúng ta có thể thưa: Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa thực hiện nơi con những gì Chúa muốn trong mọi hoàn cảnh của đời con. Amen.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng trọng thể lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Nói cách khác, hôm nay, chúng ta long trọng mừng biến cố Thiên Chúa chính thức thực hiện lời hứa cứu độ với nhân loại khi trao ban Con của Người xuống thế và nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.
Qua biến cố vĩ đại này, tinh thần phụng vụ hướng chúng ta về hai mẫu gương vâng phục của Đức Giêsu và Mẹ Maria, đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta noi gương Đức Giêsu và Mẹ Maria để sống sự vâng phục trong cuộc sống đạo hôm nay.
1. Vâng phục để cứu độ
Khi nói đến sự vâng phục, chúng ta nhớ ngay đến đoạn Kinh Thánh mà thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Philípphê, ngài viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7).
Sự vâng phục này là khởi đầu của nguồn ơn cứu độ, vì nếu Đức Giêsu không vâng phục Thiên Chúa để trở thành Đấng Emmanuen, nhằm cứu chuộc nhân loại tội lỗi, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ phải chọn con đường khác. Tuy nhiên, con đường tự hủy mà Đức Giêsu đã chọn là con đường tuyệt vời nhất, bởi vì nó diễn tả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đã được thánh Gioan nhắc đến, ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Sự vâng lời của Đức Giêsu hoàn toàn được diễn ra trong tự do và tự nguyện, vì thế, Ngài đã nói: “Lạy Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa”Tv 39, 8a – 9a); hay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34 ). Chính nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tự do này, mà Đức Giêsu trở thành nguồn ơn cứu độ đến muôn ngàn đời. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài đã vâng lời và vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự và đã chấp nhận đổ máu mình ra nhằm cứu chuộc con người.
Chính vì sự vâng phục này, mà nhân loại đón nhận được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật.
2. Vâng phục để đồng công cứu chuộc
Khi nói đến sự vâng phục của Đức Giêsu, chúng ta không thể không nói đến sự vâng phục của Đức Maria. Mặc dù phụng vụ canh tân ngày nay không còn tập trung nơi Đức Maria như trước kia vào thời Trung Cổ. Tuy nhiên, khi nói đến ơn cứu chuộc của Đức Giêsu nhờ sự vâng phục mà có, thì Giáo Hội cũng luôn đề cao sự cộng tác của Mẹ Maria trong công cuộc ấy cũng bằng chính sự vâng phục nơi Mẹ.
Sự vâng phục của Mẹ Maria được đánh giá rất cao trọng, bởi vì khi Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, kế hoạch riêng tư của Mẹ hoàn toàn sang trang và chuyển hướng khác, để nhường cho chương trình và ý định của Thiên Chúa trên toàn thể nhân loại.
Nói như thế, là vì Đức Mẹ ngay từ khi còn nhỏ đã khấn giữ mình đồng trinh để thuộc trọn về Chúa và phụng sự Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại có chương trình riêng cho người thiếu nữ Sion này, đó là muốn Mẹ nhận lời và cưu mang Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại.
Biết được ý định ngàn đời của Thiên Chúa, nên sau khi đã nghe lời giải thích của sứ thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà,vì thế,Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35 ), Mẹ Maria đã mau mắn trong tự do để thưa lên với Thiên Chúa ngang qua sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38 ). Nhờ hai tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại tràn đầy niềm hân hoan, vì từ nay, Con Thiên Chúa đã đến và ở với loài người.
Khi chọn Mẹ Maria, người thiếu nữ Sion để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc, Thiên Chúa đã khai mở một kỷ nguyên mới, thiết lập một dân tộc mới thay thế cho dân cũ đã bị cái chết bao phủ do tội bất tuân của Evà. Từ nay, muôn đời sẽ khen Mẹ diễm phúc, vì từ cung lòng Mẹ đã cưu mang Đấng là Nguồn Ơn Cứu Độ, Nguồn Mạch Sự Sống.
Cũng chính lời xin vâng này, mà cuộc đời của Mẹ đã kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trọn vẹn. Mẹ đã trở thành Đấng đồng công cứu chuộc với Con Chí Ái của mình.
3. Người Kitô hữu sống tinh thần vâng phục
Sứ điệp Lời Chúa và tinh thần phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu và Mẹ Maria như là mẫu gương tuyệt hảo cho sự vâng phục trong đời sống đức tin hằng ngày của mỗi người.
Nếu trước kia, nơi Đức Giêsu, Ngài đã tự nguyện trút bỏ vinh quang để vâng phục Thiên Chúa Cha qua việc đến trần gian trong thân phận là một con người nhằm cứu chuộc nhân loại; và nếu Mẹ Maria khi vâng lời Thiên Chúa và sẵn sàng để cho thánh ý của Người được thực hiện, thì đến lượt chúng ta, nếu muốn trở nên người môn đệ đích thực của Chúa trong lòng Giáo Hội hôm nay, thiết nghĩ con đường tự khiêm tự hạ và vâng phục trong lòng mến của Đức Giêsu và Mẹ Maria chính là lựa chọn của chúng ta.
Tuy nhiên, với sự yếu đuối của con người và với những trào lưu hiện sinh của nhân loại ngày nay, chúng ta rất khó có thể vâng phục, nhất là sự vâng phục của đức tin!
Nhiều khi chúng ta biện hộ cho việc bất tuân của mình bằng những chuyện như: vâng phục là mất tự do; vâng phục làm cho con người bị lệ thuộc. Hiểu theo nghĩa tâm lý hay triết học thì thật đúng như vậy. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa đức tin dưới ánh sang Lời Chúa thì không phải vậy, bởi vì: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên”nô lệ tội lỗi” (SGLHTCG. Số 1733).
Thực tế cho thấy, những ai trung thành với Chúa, người đó đạt tới đích trong sự viên mãn. Những ai biết gắn bó cuộc đời của mình với Thiên Chúa trong sự vâng phục, cuộc sống của người ấy vui tươi bình an và hạnh phúc.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con chính người Con Một duy nhất của Cha đến trần gian qua cung lòng Mẹ Maria, để chúng con được hưởng dồi dào ơn cứu chuộc của Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Xin Cha ban cho chúng con biết noi gương Con Một Cha và Đức Trinh Nữ Maria để sẵn sàng hiến dâng cuộc đời của mình trong sự vâng phục nhằm cộng tác vào công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới hôm nay. Amen.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhiều ông chủ thường chọn cho mình một trợ lý để hỗ trợ mình trong công việc. Tiêu chuẩn để được trở thành trợ lý xứng đáng, đó chính là sự khiêm nhường. Nếu khiêm nhường thì sẽ dễ dàng đón nhận ý chủ và thi hành cách trung thực. Ngược lại, nếu tự kiêu tự đại, người trợ lý rất khó chấp nhận ý chủ và sẵn sàng đưa ý mình thay ý chủ. Như vậy, công việc của ông chủ sẽ bị người trợ lý phá hoại nếu hắn không tuân thủ mệnh lệnh trong sự khiêm tốn, và lẽ tất yếu, rất khó trung thành!
Hôm nay, Lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể, chúng ta thấy toát lên hai nhân vật chính: một là sứ thần, hai là Mẹ Maria. Sứ Thần là người truyền tải sứ điệp của Thiên Chúa cho Mẹ Maria, còn Mẹ Maria là người đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa qua sứ thần.
Khiêm nhường để đón nhận Ý Chúa
Nội dung sứ điệp rất đặc biệt. Người đón nhận đóng vai trò rất quan trọng. Bởi vì khi đón nhận, ngay tức khắc, Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa khi sẵn sàng để Con Thiên Chúa là Đức Giêsu xuống thế và nhập thế nơi cung lòng mình.
Đây là một tin vừa gây shock, vừa hãnh diện nơi Mẹ. Shock là vì Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, ấy vậy mà giờ Thiên Chúa lại thách đố Mẹ khi truyền cho mình phải mang thai, cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa. Hãnh diện vì trong muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã chọn mình. Tuy nhiên, dù shock hay hãnh diện, Mẹ đã khiêm tốn để xin vâng trong lòng mến.
Từ thái độ khiêm nhường để đón nhận lời xin vâng, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thành hiện thực. Cũng kể từ khi lời xin vâng đầy xác tín và khiêm nhường ấy, mà: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1, 14). Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của thiên thần, đây là giây phút Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời mà Mẹ đã được hấp thụ bởi cha mẹ của mình. Vâng phục Chúa, qua lời thiên thần truyền, Mẹ nhận mình là một người tôi tớ. Rõ ràng trong sự vâng phục, qua tiếng xin vâng của Mẹ, Mẹ đã tin tưởng, phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.
Cũng chính lời xin vâng của Mẹ như thế, mà từ nay, Mẹ trở thành Evà mới thay thế cho Evà cũ đã bất tuân. Từ nay mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
Trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đóng vai trò Nữ Hoàng và cũng là Nữ Tỳ của Thiên Chúa. Trở thành Mẹ nhân loại, Mẹ đóng vai trò Từ Mẫu và là Đấng Bầu Chữa cho con cái của mình. Nhưng dù trong vai trò nào, Mẹ luôn luôn chuyển cầu lòng thương xót của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Đây là niềm vui và tự hào nơi Mẹ. Chính trong tâm tình này mà Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Đấng Giàu Lòng Xót Thương đã đoái nhìn đến thân phận hèn yếu nơi Mẹ. Vì thế, mẹ đã mượn lời của bài ca Manifiat mà trong lịch sử cứu độ, những người hèn mọn đã cất lên để ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho mình và dòng tộc mình..
Qua lời kinh này, đức khiêm nhường lại càng đậm nét hơn nơi Mẹ, vì thế, Mẹ đã dâng lại cho Chúa tất cả vinh dự mà Người ban tặng cho Mẹ.
2. Sứ điệp Ngày Lễ
Mỗi khi mừng lễ Thiên Chúa Nhập Thể, hay còn gọi là lễ Truyền Tin, Giáo Hội mong muốn con cái của mình khám phá ra sứ điệp nền tảng của ngày lễ:
Trước tiên, đó chính là noi gương Thiên Chúa. Người đã yêu thương thế gian và Người yêu đến cùng, bằng việc trao ban chính Con Một của mình để biểu lộ lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Thứ đến, việc nhập thế của Đức Giêsu lộ hiện rõ đức khiêm nhường. Thật thế, Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận từ bỏ vinh quang, mang lấy kiếp phàm nhân, sống như người trần thế để cứu chuộc con người.
Cuối cùng, học nơi Mẹ Maria bài học vâng phục thẳm sâu. Sự vâng phục nơi Mẹ được khởi đi từ đức khiên nhường, nên khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã sẵn sàng đón nhận trong sự tín thác. Có thể nói: nhân đức khiêm nhường chính là điểm nổi bật nơi Mẹ Maria. Vì khiêm nhường, nên Mẹ Maria mới sẵn sàng vâng lời tuyệt đối để trở thành nữ tỳ của Thiên Chúa. Cũng chính nhờ nhân đức này mà Mẹ được thuộc trọn về Chúa là Đấng hằng yêu quý những tâm hồn khiêm tốn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Ngày hôm nay, sống đức khiêm nhường quả là một thách đố đối với mọi thành phần. Chúng ta nói về đức khiêm nhường thì rất hay và “kêu”, nhưng khi đòi hỏi phải sống đặc tính của đức khiêm nhường thì lại là một “miếng xương” khó nuốt.
Thật vậy, nhiều người vẫn xin Chúa ban cho mình ơn khiêm nhường, nhưng khi Chúa gửi thử thách đến, nhất là những thử thách đụng đến lòng tự trọng, danh dự, thế là ta sẵn sàng nổi khùng và phàn nàn, trách móc nếu không muốn nói là khẳng khái khước từ!
Cũng vẫn có nhiều người sẵn sàng từ bỏ nhiều thứ như: tiền, tình, quyền… để đi theo Chúa, nhưng cái tôi thì không chấp nhận bỏ. Những người đó, họ đâu biết rằng: bỏ mọi sự, nhưng cái tôi không bỏ thì kể như chưa bỏ gì cả!
Mừng lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể, xin cho chúng ta biết noi gương Thiên Chúa để xót thương mọi người như Chúa đã xót thương đến nhân loại tội lỗi. Biết noi gương Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa – người, chấp nhận tất cả để cho người khác được hạnh phục và được cứu độ. Noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng khiêm nhường và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa, để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Chúng ta cần hiểu rằng: đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Khi có được nhân đức này, chúng ta mới hy vọng thuộc về Chúa cách trọn vẹn nhờ loại bỏ được những thói xấu như: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa đã mạc khải cho chúng con về tình thương cao vời của Thiên Chúa ngang qua biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu. Xin Chúa ban cho chúng con học được bài học khiêm nhường thẳm sâu nơi Mẹ Maria.
Ước gì qua sự khiêm nhường của mỗi người chúng con, kế hoạch và thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc đời mỗi chúng con. Amen. ------------------------------
Mỗi khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu cuộc truyền tin: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà. Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ðây chính là lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.
Quả thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng một câu trả lời đầy thuyết phục, một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môsê hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả lời giản dị mà có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm. Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ. Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.
Thay cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm. Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn, khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa”Xin Vâng”của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa”Xin Vâng”của Mẹ Maria ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. Hôm nay, khi về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.
Người ta không ngớt hỏi về tiểu sử của cô thiếu nữ Do Thái, cô đã biết nắm giữ những điều chính xác của Chúa, và trong đám chị em cô. Cô đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có phải có một phụ nữ độc nhất đã được ghi tên trong lịch sử không? có phải có một phụ nữ độc nhất đã là đối tượng của tình yêu trinh trong của nhiều quân tử không? có phải có một bà độc nhất đã nhận bao nhiêu lời cầu khẩn của nhiều ông trong cơn quẫn bách đã chạy đến cùng bà và nhận được an ủi không?
Không, người ta không ngừng chiêm ngắm mầu nhiệm lạ lùng này, đã hoàn toàn đặt vào thiện tâm thiện chí của một phụ nữ trẻ, vào lời đáp ngắn gọn: “Fiat Voluntas tua”. Xin vâng ý Ngài. Và đồng thời những vui mừng được làm người mẹ, đặc biệt cùng với thảm kịch bi đát nhất trong suốt lịch sử: Sinh hạ Con Thiên Chúa, và cái chết trên thánh giá.
Cần phải có một đức tin sâu xa để tin nhận những biến cố như thế và đừng thử giải nghĩa theo lý trí loài người. Một đức tin sâu thẳm như đức tin của Ma-ri-a để thư xin vâng.
Và nếu người ta nghĩ ra rằng Thiên Chúa đợi chúng ta đáp cùng lời như thế, thì sao? Nếu Thánh Thần chỉ đợi chúng ta xin vâng để Ngài ngự đến và biến đổi đời sống chúng ta, thì sao? Nếu Thánh thần chỉ đợi chúng ta hết lòng xin vâng để làm cho chúng ta tiến tới trong đường lối của Ngài, thì chúng ta nghĩ sao?
Xin vâng đôi khi dễ dàng vì nó gợi lên những niềm vui sâu xa như niềm vui mà Thánh Phaolô ở trong tù viết thư cầu chúc cho giáo đoàn Philip.
Xin vâng khó hơn đối với một cuộc đời đầy những giờ phút khó khăn, đôi lúc được hạnh phúc an ủi.
Xin vâng khó nhất, lúc đứng dưới chân thập giá, lúc tất cả hình như mất hết. Sự xin vâng của thiếu nữ Ma-ri-a kéo dài không ngừng trong đời sống đau khổ làm Mẹ như thế.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống xin vâng như vậy.
Hôm nay lễ Mẹ truyền tin. Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi mái nhà nhỏ bé miền quê Nagiaret. Nơi đó đã diễn ra một cuộc đối thoại lịch sử giữa sứ thần Chúa và cô thôn nữ Maria. Sứ thần Chúa đã viếng thăm đột ngột. Ðột ngột quá nên chẳng có gì chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất đối với cô Maria. Sứ thần thì chủ động - Maria thì bối rối. Lời sứ thần nói như đã được chuẩn bị chu đáo. Còn Maria thì phân vân, đắn đo từng lời. Sứ thần Chúa đã mang đến cho cô một thông điệp thật bất ngờ và quá cao vời. Cao vời đến nỗi cô không dám nghĩ mình được phước đức như vậy? Vì có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ là Mẹ Ðấng Cứu Thế? Có bao giờ phận nữ nhi thường tình như cô lại được giao trọng trách cao quý như vậy? Cô đã không dám tin điều đó. Vì cô cảm thấy mình bất xứng và bất tài. Thế nhưng, sứ thần Chúa đã trấn an cô. Cô được chọn không vì tài năng hay sắc đẹp. Cô được chọn vì cô hằng sống đẹp lòng Thiên Chúa. Từ trời cao Chúa đã nhìn thấy tấm lòng cô. Một tấm lòng thanh khiết vẹn tuyền. Một tấm lòng bao dung độ lượng. Một tấm lòng bác ái yêu thương. Nhưng tất cả những phẩm chất đó vẫn không thể giúp cô hoàn thành chương trình của Thiên Chúa. Cô phân vân và do dự. Vì phận nữ nhi yếu đuối, vì việc phu thê cô chưa bước tới. Sứ thần Chúa đã trấn an cô: "Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Chúa sẽ rợp bóng trên cô". Maria với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác sắt son đã thưa vâng để chương trình Thiên Chúa được thực hiện.
Ngược lại, trước đó sáu tháng. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Giacaria cũng diễn ra trong âm thầm, ấm cúng. Sứ thần Chúa cũng đề nghị với Giacaria về việc Thiên Chúa sắp làm nơi ông. Nhưng ông đòi dấu lạ. Lòng tin của ông đòi bằng chứng. Sứ thần Chúa đã để ông câm lặng, như dấu chỉ về những điều mà Thiên Chúa sắp làm cho gia đình ông.
Có thể thấy hai cuộc truyền tin nhưng hai thái độ khác nhau. Maria thì tin vào quyền năng Chúa có thể thực hiện được mọi sự. Giacaria thì hoang mang lo lắng. Maria để Chúa thực hiện theo ý định của Chúa. Giacaria đòi dấu lạ để kiểm chứng. Chính hai thái độ đón nhận sứ điệp khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Maria thì hết lời ngợi khen Chúa. Giacaria thì câm nín. Nhưng dầu trong cách đón nhận nào, thì Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình của mình trong sự cộng tác của con người.
Ðiểm chung của Maria và Giacaria chính là đời sống hằng đẹp lòng Thiên Chúa. Dầu ở hoàn cảnh cô thôn nữ nhà quê hay một tư tế đền thờ. Các ngài đã làm tất cả chỉ để đẹp lòng Chúa. Các ngài đã sống hết mình với bổn phận bằng tình yêu nồng nàn với Chúa và tha nhân. Cuộc sống của các ngài luôn rạng ngời biết bao hy sinh làm nên nhân đức. Các ngài đã sống đẹp giữa dòng đời đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về các ngài.
Phải chăng đó cũng là cách sống chung của những người con cái Chúa? Là người ky-tô hữu chúng ta phải lan tỏa hương thơm bác ái cho anh em. Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống sao cho người khác nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ. Khi chúng ta sống hết mình vì Chúa, Chúa sẽ làm tất cả những điều tốt đẹp xuống trên cuộc đời chúng ta, như chính Ngài đã nói: "Các con hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho sau". Ðiều đó Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của Maria, của Giacaria. Khi các ngài sống hết mình phụng thờ Chúa, thì Chúa lại làm biết bao điều cao siêu trên cuộc đời các ngài.
Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ. Amen.
Sinh ra trong cuộc đời có nhiều điều chúng ta cần phải cám ơn. Cám ơn Thượng Đế đã cho ta làm người. Cám ơn mẹ cha đã đón nhận chúng ta. Cám ơn cuộc đời đã cho ta niềm vui. Nhưng, xem ra chúng ta ít cám ơn về món quà sự sống mà Thượng Đế và mẹ cha đã ban tặng cho chúng ta. Có mấy ai đã một lần cám ơn mẹ cha đã sinh ra chúng ta?
Có một người con gọi về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ? – Ừ, C đó hả? – Dạ… – Có chuyện gì không con? – …Dạ, không Mẹ…hôm nay sinh nhật con… – Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con. – Không sao đâu Mẹ ạ. Con…con chỉ muốn nói với Mẹ rằng…hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ. Mẹ đã cho chúng ta một ngày sinh nhật thật tuyệt vời bên lòng mẹ, với tiếng khóc chào đời trong niềm vui của mọi người. Mẹ đã tặng chúng ta sự sống, tình yêu, lòng quảng đại đón nhận chúng ta làm con của mẹ. Có biết bao đứa trẻ bất hạnh đã bị mẹ từ chối cho sinh ra. Có biết bao đứa trẻ ao ước được mừng một lần sinh nhật trong cuộc đời mà không có. Thế nên, ta được sinh ra, được mừng sinh nhật đầu đời là hạnh phúc to lớn mà chính mẹ tặng ban cho chúng ta.
Thế mà, chúng ta dường như chưa bao giờ cám ơn món quà của mẹ. Chúng ta cám ơn ai đó tặng ta con búp bê, cái khăn tay, cái móc khóa mà quên cám ơn mẹ đã tặng ta cả cuộc đời. Đôi khi còn đòi hỏi nơi mẹ điều này điều kia, vì tưởng rằng đó chỉ là bổn phận của mẹ phải làm cho con, mà quên rằng có biết bao bà mẹ đã từ chối đón nhận con, từ chối hy sinh cho con.
Hôm nay lễ Mẹ Maria được sứ thần truyền tin. Phúc âm ghi lại hành trình làm mẹ của Mẹ Maria thật cao cả, tuyệt vời. Mẹ đón nhận làm Mẹ của Con Chúa Trời trong sự đơn sơ khiêm tốn. Mẹ đón nhận thiên chức làm mẹ trong cái nhìn của đức tin để vượt qua mọi sợ hãi mà sinh Con Chúa Trời làm người. Nếu không có lòng quảng đại Mẹ đã khước từ gánh nặng của bóng thập giá ngay từ lúc truyền tin. Nếu không có đức tin Mẹ sẽ không đủ can đảm đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt qua trí hiểu của con người. Mẹ Maria đã đón nhận mang trong mình một mầm sống trong niềm tín thác xin vâng.
Mẹ xin vâng dầu Mẹ chưa hiểu hết. Mẹ xin vâng dầu phải đối diện với nguy nan, vì sinh con mà không qua người đàn ông, chắc chắn theo luật Do Thái Mẹ phải chết... Thế nhưng, Mẹ vẫn tin vào quyền năng của Chúa sẽ bao phủ trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đón nhận tất cả với niềm tín thác nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ đã quảng đại đảm nhận vai trò làm Mẹ với Con Chúa Trời. Chúng con cũng cám ơn Mẹ đã quảng đại tiếp tục đón nhận chúng con làm con của Mẹ. Chúng con xin dâng hồn xác chúng con trong sự che chở, gìn giữ của Mẹ. Xin Mẹ xưa đã cưu mang, gìn giữ, nuôi nấng Con Chúa Trời thì xin Mẹ cũng che chở nâng đỡ từng cuộc đời chúng con. Và xin cho các bà mẹ trên thế gian biết vượt qua nỗi sợ hãi để sinh con ra trong cuộc đời. Xin đừng vì một chút sợ hãi của đói nghèo, của bệnh tật, của danh dự mà cướp đi sự sống của các thai nhi. Xin cho các bà mẹ luôn giầu lòng quảng đại để chấp nhận mọi đứa con theo thánh ý Chúa. Amen
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Ðức Giê-su. Ðang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt hơn 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
Vậy mà Giáo Hội Ki-tô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1,14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a và đã làm người"
Ðức Giê-su, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Ðức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Ðấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Ðối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Ki-tô Giáo lại khẳng định: Ðiều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26-38: Truyền tin cho Ðức Ma-ri-a để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Ki-tô Giáo. Ðoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Ðức Ma-ri-a, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong ngày hôm nay muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Ðức Ma-ri-a, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Lu-ca dùng từ "bao trùm lên”không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Ðức Ma-ri-a với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Ðức Ma-ri-a, nơi Ðức Giê-su cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Ðức Ma-ri-a thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Ðức Ma-ri-a thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Ðức Giê-su bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Ðức Ma-ri-a tạo nên hình hài Ðức Giê-su. Ðức Giê-su mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Ðức Ma-ri-a và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Qua lời "Xin Vâng”của Ðức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Ðau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Ðức Giê-su đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phao-lô trong Thư Gl 4,4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Ðó là niềm tin vững chắc của người Ki-tô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Ðức Giê-su đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Ðức Giê-su, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết” (Ga 15, 15).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Ðức Giê-su không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Ðức Giê-su mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Ðức Giê-su. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Ðức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người.
Chính Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 trong Thông Ðiệp Ðấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. Con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.
Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ngôi Hai làm người để cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công trình cứu độ đựơc khởi đầu cách âm thầm, giản dị tại một làng quê nghèo, với một thôn nữ bình thường chẳng mấy người biết tới.
Sứ Thần đến Nazareth và cung kính thưa với người nữ ấy rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!" (Lc 1,28). "Ðấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, "tình thương nhập thể của Thiên Chúa" (Thông điệp: Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phước, Thiên Chúa đã sai Sứ thần Gabriel đến báo tin và thỉnh ý ngài tại làng quê Nazareth.
Sứ thần cung kính bái chào vì thấy Đức Mẹ cao trọng và trong sạch hơn các thiên thần. Tước hiệu “Bà đầy ơn phước”xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ”,vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông.
Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài đáp tiếng “xin vâng” cách tự do và từ đó Đức Mẹ trở nên thầy dạy tuyệt vời cho nhân loại.
1/ Đức Mẹ đựơc Thiên Chúa tuyển chọn.
Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người nữ hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nổi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nổi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen. Ai cũng ước mong như thế.
Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:
• Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.
• Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.
• Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.
• Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.
Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”.
Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc mà thôi. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, và cũng bởi Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Nhờ lòng khiêm nhường nên Đức Mẹ đựơc quyền năng Thiên Chúa bao phủ.
Sứ thần nói với Đức Mẹ: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu (Xh 40,34) nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Thánh Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Thánh sử so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.Quyền năng Chúa Thánh Thần bao trùm, cùng với máu thịt của mình, Đức Maria đã tạo nên hình hài Đức Giêsu.Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Mẹ và Ngài vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavit muốn xây cho Ngài; nhưng trái lại Thiên Chúa hứa cho Đavit một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavit (2 Sm 7,1-16). Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa,nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó chính là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong (Rm 16,25-27).
2/ Đức Mẹ đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”.
Thiên Chúa không chọn lựa cách độc đoán. Ngài tôn trọng tự do của người đựơc chọn. Ngài sai Sứ Thần đến và muốn Đức Mẹ hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nổi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa nhân loại, thực hiện chương trình cứu độ. Giây phút Đức Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân.
Nếu như Nguyên Tổ bị con rắn cám dỗ bằng lờinghi nan, lừa lọc dối trá, gây cuộc nổi loạn, và Adam và Evà đã sa ngã, đau khổ sự chết tràn vào thế gian; thì Sứ thần Gabriel đề nghị một sự tự do ưng thuận. Đức Maria thưa “Xin vâng”, lời ấy đã làm cho Ngôi Hai làm người. Từ đây, nhờ Đức Maria, tin tưởng và vâng phục, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Thái độ “Xin vâng” của Mẹ hoàn toàn khác với Ađam Evà trong câu chuyện vườn địa đàng. Sau khi ăn quả cấm trái lệnh Chúa, Ađam đã đổ lỗi cho Evà, Evà đổ lỗi cho con rắn. Và đó chính là thảm kịch của con người: không ai nhận lỗi, không ai chịu trách nhiệm, không ai có thiện chí nên xã hội mãi chậm tiến, nên hạnh phúc trở thành khó khăn xa vời. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ luôn đảm nhận trách nhiệm và chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23).
3/ Đức Mẹ là nhà giáo dục tài giỏi.
Thư chung HĐGM Việt Nam năm 2008, với chủ đề "Giáo dục Kitô giáo"có viết: “Thánh Cả Giuse và Đức Maria là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nazareth mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín”.(Thư HĐGMVN 2008, số 20).
Thiên Chúa đã tín nhiệm Mẹ khi để Con Một là Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong gia đình Nazareth dưới sự dìu dắt và dạy dỗ của Mẹ. Như thế chúng ta có thể nói rằng Đức Maria là nhà giáo dục tài giỏi và trở thành gương mẫu cho tất cả mọi nhà giáo dục.
“Giáo Hội ước mong mỗi gia đình Kitô giáo phải là trường học đầu tiên để thông truyền, dạy dỗ và bảo dưỡng cho con cái về đời sống đức tin, đức ái, đời sống cầu nguyện, tình liên đới, vị tha, hài hòa, quảng đại, những đức tính nhân bản như khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. Các môi trường khác như giáo xứ hay học đường chỉ tiếp tay với gia đình chứ không thể thay thế gia đình trong vấn đề giáo dục đức tin, đức ái. Cha mẹ phải là những nhà giáo dục tuyệt đối cần thiết cho sự phát triển hài hoà và bền vững của đời sống đạo đức cho mọi người trong gia đình.Gương sáng của cha mẹ và những bậc cha anh đóng vai trò quan trọng để giáo dục lương tâm cho những thế hệ nối tiếp”. (Thư HĐGMVN 2008); “Trong suốt lịch sử mấy trăm năm của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, gia đình vẫn là cái nôi thông truyền đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin và gương mẫu trong đời sống đạo đức. Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp này của gia đình công giáo. Hãy xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, và mái ấm tình thương. Đây là phương thế cụ thể và hữu hiệu nhất để anh chị em góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội và từng người chúng ta”. (Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin mời gọi Dân Chúa hướng lòng về Đức Mẹ như mẫu gương Đức Tin: “Mẹ có phúc hơn mọi người nữ vì đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện (x. Lc 1,42). Trong ngày Truyền Tin, Mẹ dạy chúng ta sống đức tin khiêm tốn và vâng phục: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa thực hiện nơi tôi điều thiên sứ truyền” (Lc 1,38). Bằng những bước chân vội vã lên đường thăm viếng bà Elisabeth, Mẹ thúc đẩy chúng ta sống đức tin dấn thân loan báo Tin Mừng, đem niềm vui cứu độ đến cho mọi người. Dưới chân thập giá, Mẹ nêu gương cho chúng ta về đức tin chứa chan hy vọng”.
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và lòng yêu mến. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao lên tới Thiên Chúa.Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa khó mở nhất. Mở được cả cánh cửa Nước Trời.
Đức Maria đã hiện diện trên núi Calvariô vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Ga19,25) và trong nhà Tiệc Ly vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv1,14), chắc hẳn Mẹ cũng là một chứng nhân ưu tuyển của Chúa Kitô Phục sinh; như vậy là hoàn tất việc tham dự vào hết các giai đoạn chính yếu của mầu nhiệm Vượt qua. Ngoài ra, khi đón tiếp Đức Kitô Phục sinh, Đức Maria là dấu hiệu và điểm chỉ tiên báo cho một nhân loại đang hy vọng vào sự hoàn thành sung mãn của mình với việc kẻ chết được sống lại.
Trong mùa Phục sinh, cộng đoàn Kitô hữu khi hướng về Thân mẫu của Thiên Chúa, đã mời Người hãy vui mừng: “Lạy Nữ Vương Thiên đàng, hãy vui mừng, alleluia!”. Họ nhắc lại niềm vui của Đức Maria vì cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, kéo dài qua lời mời gọi của thiên sứ vào lúc Truyền tin “hãy vui lên”, ngõ hầu Mẹ trở thành “nguyên nhân vui mừng” cho toàn thể nhân loại.
Hãy lắng nghe những lời giáo huấn của Đức Mẹ và hãy noi gương giáo dục của Đức Mẹ để sống tốt lành và thánh thiện hơn.
Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà thánh Luca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.
– Thể văn báo tin việc sinh hạ: *Thiên sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được? – Thiên sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu. *Ví dụ: báo tin về sự sinh ra của Isaac (St 17), Samson (Tl 13, 1-23), Samuel (1Sm 1), Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-25). *Nội dung sứ điệp là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.
– Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng: *Thiên sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận. *Ví dụ: Maisen (Xh 3, 1-12), Geđeon (Tl 6, 11-23) *Thiên sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.
– Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” (Xh 19, 7; 24, 3-7; Er 10, 12; Nkm 5, 12).
Cả ba thể văn bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin. Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho ông Zacaria và cho Đức Maria.
– Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41). Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8, 23; Mt 4,14).
– Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1, 6). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước. Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.
– Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược. Thái độ của Thiên sứ: * Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ. * Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh. Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nơi thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng “
– Công trạng và ân huệ * Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1, 13). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo tinh thần Cựu ước. * Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa. Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28). Mọi sự đều là ân huệ và tình thương của Chúa.
– Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1, 20). Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc 1, 45. 38). Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa ” (Lc 1, 15). Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao ” (Lc 1, 32), “Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thấy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh “ ( 1Cr 1, 27). Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc. 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”. Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện ” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt. Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng “. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại “. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh ” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống “. Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ. Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).
Ngắm thứ nhất Mùa Vui: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai. Lời kinh mỗi người chúng ta dâng lên từ mầu nhiệm này là xin cho mình được sống khiêm nhường. Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của Thiên thần. Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời. Vâng phục Chúa, qua “xin vâng” như lời Thiên thần truyền. Mẹ nhận mình là một người tôi tá. Rõ ràng, trong sự vâng phục, trong tiếng xin vâng của Mẹ là một niềm trông cậy. Mẹ tin tưởng phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.
Đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Giữa lòng Mùa Chay Thánh, mừng lễ Truyền Tin, học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường. Mùa Chay là mùa sám hối để canh tân. Mùa Chay là mùa đổi đời, trút bỏ đi những gì là cồng kềnh, những gì là cũ kỹ, những gì là tăm tối, những gì là tội lỗi để khoác vào đời sống của mình một tấm áo mới trong niềm tin yêu Chúa. Lòng khiêm tốn, sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Marialà mẫu gương cho chúng ta noi theo. Luôn thưa xin vâng với Chúa trong khiêm nhường của người tôi tớ, để cảm nghiệm mình được hân hạnh cộng tác với Chúa và thấy Chúa đang làm biến chuyển tâm hồn sẵn sàng cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Đó là niềm vui muôn thưở của người Kitô hữu hôm nay.
Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà thánh Luca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.
– Thể văn báo tin việc sinh hạ: *Thiên sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được? – Thiên sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu. *Ví dụ: báo tin về sự sinh ra của Isaac (St 17), Samson (Tl 13, 1-23), Samuel (1Sm 1), Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-25). *Nội dung sứ điệp là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.
– Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng: *Thiên sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận. *Ví dụ: Maisen (Xh 3, 1-12), Geđeon (Tl 6, 11-23) *Thiên sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.
– Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” (Xh 19, 7; 24, 3-7; Er 10, 12; Nkm 5, 12).
Cả ba thể văn bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin. Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho ông Zacaria và cho Đức Maria.
– Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41). Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8, 23; Mt 4,14).
– Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1, 6). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước. Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.
– Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược. Thái độ của Thiên sứ: * Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ. * Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh. Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nơi thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng “
– Công trạng và ân huệ * Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1, 13). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo tinh thần Cựu ước. * Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa. Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28). Mọi sự đều là ân huệ và tình thương của Chúa.
– Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1, 20). Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc 1, 45. 38). Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa ” (Lc 1, 15). Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao ” (Lc 1, 32), “Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thấy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1, 27).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc. 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”. Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện diện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt. Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng “.
Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại “. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria ; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh ” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống “.
Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ. Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Một lời thật ngắn nhưng âm vang cả đời. Một lời vừa biểu lộ sự hiến dâng cộng tác tích cực, vừa thể hiện niềm yêu mến tin tưởng phó thác. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).
Ngắm thứ nhất Mùa Vui: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai.
Lời kinh mỗi người chúng ta dâng lên từ mầu nhiệm này là xin cho mình được sống khiêm nhường.
Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của Thiên thần. Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời. Vâng phục Chúa, qua “xin vâng” như lời Thiên thần truyền. Mẹ nhận mình là một người tôi tá. Rõ ràng, trong sự vâng phục, trong tiếng xin vâng của Mẹ là một niềm trông cậy. Mẹ tin tưởng phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình. Là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ nhân loại, để từ đó một cách thường hằng, Mẹ nên Hiền Mẫu chuyển cầu che chở nâng đỡ ủi an mọi người trên đường lữ thứ trần gian. Và một cách đặc biệt, Mẹ nên nguồn cậy trông cho tất cả những ai, không phân biệt lương giáo, đang gặp phải những nỗi đau trong đời như đau đớn xác thân vì bệnh tật, đau khổ tinh thần vì thất vọng thử thách, đau buồn vì cảnh gia đình tan tác hay đau thương vì nỗi vĩnh quyết chia xa hoặc đau điếng mãn tính cấp tính vì tình đời đen bạc… Hãy bền lòng cậy trông ký thác, phần còn lại là kiên tâm làm theo hướng dẫn của Mẹ.
Đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Giữa lòng Mùa Chay Thánh, mừng lễ Truyền Tin, học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường.
Mùa Chay là mùa sám hối để canh tân. Mùa Chay là mùa đổi đời, trút bỏ đi những gì là cồng kềnh, những gì là cũ kỹ, những gì là tăm tối, những gì là tội lỗi để khoác vào đời sống của mình một tấm áo mới trong niềm tin yêu Chúa. Lòng khiêm tốn, sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương cho chúng ta noi theo. Luôn thưa xin vâng với Chúa trong khiêm nhường của người tôi tớ, để cảm nghiệm mình được hân hạnh cộng tác với Chúa và thấy Chúa đang làm biến chuyển tâm hồn sẵn sàng cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Đó là niềm vui muôn thưở của người Kitô hữu hôm nay.
--tonggiaophanhanoi.org “Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.” (Lc 1,26-27)
Suy niệm: "Tin” mà thiên sứ Gáprien "truyền” cho đức trinh nữ Maria chính là chương trình của Thiên Chúa để cứu độ con người. "Tin” ấy Thiên Chúa "đã nhiều lần nhiều cách ”truyền dạy qua các ngôn sứ (x. Dt 1,1) mà giờ đây được hiện thân qua chính Người Con nhập thể trong lòng trinh nữ Maria. Đức Maria đã cộng tác bằng việc đón nhận "tin” này với niềm vâng phục của đức tin (x. GLHTCG, 148).
"Được truyền tin” rồi, Mẹ lại tiếp tục "truyền tin” mà Mẹ đã nhận bằng cách ban tặng Đức Giêsu Đấng Cứu Thế cho nhân loại chúng ta, như Mẹ đã nói: "Người bảo gì, anh em cứ làm theo” (Ga 2,5).
Mời Bạn: Xã hội hôm nay tràn ngập thông tin: tin lành, tin dữ, tin vui không vui, tin thật, tin giả.... Muốn hay không, chúng ta đều "bị” nghe hoặc "được” nghe". Để khỏi là nạn nhân của sự bùng nổ thông tin ấy, chúng ta phải:
- biết sàng lọc thông tin và phân định để nhận ra tin lành đến từ Thiên Chúa;
- và trở thành tác nhân truyền tin lành của Ngài đến với tha nhân.
Chia sẻ: Bạn đã dùng các phương tiện truyền thông hiện đại để loan truyền Tin Mừng cho tha nhân chưa?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày bạn thực hiện sứ mạng "truyền tin” bằng một lời nói hoặc hành động để chuyển thông tin lành của Chúa đến cho tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con luôn nhận ra mình "được truyền tin” để biết sống "truyền tin” như Đức Maria. Amen.
Sau tuần bát nhật Phục sinh, Tin Mừng Chúa phục sinh vẫn còn đang vang vọng trong lòng mỗi người chúng ta. Nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Đức Giêsu, ân sủng và niềm vui đang trào tuôn trên toàn thể nhân loại; ân sủng ấy hệ tại việc Thiên Chúa nâng con người lên địa vị làm con Thiên Chúa, khi Ngài cho Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, sống lại từ cõi chết. Từ nay, với Đức Giêsu, nhân loại được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa. Đó là đích điểm của một hành trình, được khởi đầu với biến cố truyền tin Thiên Chúa nhập thể làm người mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Đây là lễ của việc Thiên Chúa đi bước trước trong sáng kiến cứu độ nhân loại; Đây cũng là lễ của sự hợp tác của nhân loại với Thiên Chúa trong công trình cứu độ của Thiên Chúa.
Nhìn từ phía Thiên Chúa, phụng vụ của ngày lễ hôm nay làm sáng lên tình yêu cứu độ đối với nhân loại. Khi sai thiên sứ đến truyền tin cho Mẹ Maria, Thiên Chúa tỏ rõ Ngài là Đấng trung tín với lời đã hứa. Khi vâng phục thánh ý Chúa Cha đi vào trong nhân loại, Ngôi Lời Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã chấp nhận từ bỏ địa vị Thiên Chúa để trở thành một người như chúng ta giữa lòng nhân loại. Với mầu nhiệm nhập thể, Con Một Thiên Chúa đã khai mở con đường cứu độ bằng chính sự vâng phục của Ngài: “Khi đến trong thế gian, Chúa Giê su phán: Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa. Vì thế Lễ truyền Tin còn là lễ tưởng niệm bước đầu công cuộc cứu chuộc, khi thiên tính kết hợp mật thiết với nhân tính trong ngôi vị độc nhất của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Hóa ra, từ mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa đến mầu nhiệm Vượt qua của Ngài, chúng ta nhận ra đây chính là việc Thiên Chúa thực hiện giấc mơ của nhân loại: Con người muốn trở thành thần linh, muốn biết lành biết dữ. Không những thế, với Con Thiên Chúa làm người, con người còn được trở thành con Thiên Chúa. Là giáo lý viên, chắc chắn chúng ta nắm rõ chân lý này: mọi khát vọng sâu xa của con người đều do chính Thiên Chúa đặt để trong sâu thẳm tâm hồn con người để nhờ đó, dẫn đưa họ đến với Ngài. Thế nhưng chúng ta tự hỏi: Vậy tại sao con người từ thuở khi thiên lập địa đã trở thành tội đồ và rồi kéo theo toàn thể giống nòi phải liên lụy trong kiếp tội lỗi lầm than khi muốn thực hiện giấc mơ thành thần linh. Và vẫn xẩy ra như thế mỗi khi con người muốn thỏa mãn những khát vọng sâu xa nhất của mình. Vậy đâu là sự khác biệt giữa tội lỗi và hạnh phúc được cứu độ? Ánh sáng dẫn chúng ta đến câu trả lời đầy thuyết phục đến từ Mẹ Maria: Phúc cho Mẹ vì Mẹ đã tin.
Vâng, tin là thái độ hoàn toàn trái ngược với thái độ bất tuân tội lỗi của nguyên tổ muốn tự mình thỏa mãn những khát vọng của con người. Ở đây, chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa tội và phúc. Tội là muốn từ chối Thiên Chúa, là gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, để tự mình định đoạt và lấy mình làm tiêu chuẩn để xác định thiện và ác. Trái lại, phúc là tình trạng ân sủng trong Thiên Chúa dành cho những kẻ tin, đón nhận tất cả từ Thiên Chúa như là ân ban của Ngài.
Sự hợp tác của con người với Thiên Chúa bằng lòng tin
Thật vậy, nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn toàn vâng phục và thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Vì tin, Mẹ xác tín vào Lời của Thiên sứ Gabriel: Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể đối với loài người, đã trở thành có thể nhờ quyền năng Thiên Chúa. Vì tin, Mẹ đã thưa tiếng xin vâng để chương trình cứu độ của Thiên Chúa được khởi sự. Như thế, nhờ tin, Mẹ biết rằng, quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa và cũng là mẹ thật của loài người. Đức trinh nữ Maria đại diện cho dân tộc của mình và cho toàn thể nhân loại hợp tác với sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa bằng thái độ tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ đã thưa tiếng xin vâng khi Thiên Chúa ngỏ lời.
Chắc chắn trước khi nói tiếng xin vâng, Mẹ đã suy nghĩ nhiều. Mẹ biết mình được Thiên Chúa mời gọi bước vào một cuộc phiêu lưu của lòng tin. Quả vậy, khi thưa tiếng xin vâng, không biết điều gì sẽ xẩy ra nếu Mẹ mang thai bây giờ khi chưa về chung sống với Giuse? Giuse sẽ nghĩ sao? Ai sẽ tin chuyện Mẹ được thụ thai bới Thánh Thần? Khi nói tiếng xin vâng, cũng không phải Maria đã thấy rõ con đường Chúa muốn, nhưng xin vâng là phó mặc để Chúa dẫn đi giữa đêm đen. Mẹ yên tâm thưa tiếng xin vâng không phải vì mẹ làm chủ được tương lai, nhưng yên tâm vì tin rằng tương lai nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Xin vâng là để cho những dự tính và ước mơ của riêng mình tan biến để hòa mình vào chương trình của Thiên Chúa. Hơn nữa, khi thưa tiếng xin vâng, Maria đã dám chấp nhận mọi hậu quả sẽ xẩy đến. Trên hết, khi nói: Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin hãy thực hiện cho tôi theo như lời Người đã nói, Mẹ Maria đã cho Con Thiên Chúa có lối để đi vào các nẻo đường của nhân loại, để nhân loại có cơ may duy nhất để trở thành thần linh, được trở thành con Thiên Chúa. Sau cùng, Mẹ Maria đã thưa tiếng xin vâng không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong suốt cuộc đời Mẹ. Với lòng tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, Mẹ đã luôn luôn đảm nhận trách nhiệm và chu toàn thánh ý Chúa. Mẹ đã đáp lời không phải là trong sự nhẹ nhàng dễ dãi, nhưng là trong đau khổ và nước mắt. Sự vâng phục trong đức tin của Mẹ là mẫu gương cho sự hợp tác giữa Thiên Chúa và nhân loại để ơn cứu độ được thực hiện. Đúng như lời thánh Augustino; “Để dựng nên con, Chúa không cần con; nhưng để cứu độ con, Chúa cần đến con’. Ngài cần sự ưng thuận và sự hợp tác của con người. Niềm tin của mẹ còn ngời sáng, lan tỏa sang những người đã gặp gỡ mẹ. Nhờ tin, Mẹ đã nói với các gia nhân trong tiệc cưới tại Cana: Hễ người bảo gì thì hãy làm theo. Và kết quả là một phép lạ đã xảy ra.
Kính thưa cộng đoàn, các thầy cô và anh chị em giáo lý viên thân mến,
Mừng lễ Truyền tin hôm nay, chúng ta tự hỏi: chúng ta có xác tin vào tình yêu và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, khi chúng ta giảng dạy Giáo lý và làm chứng cho Tin mừng không? Theo gương Mẹ Maria, chúng ta cũng là những người có phúc, khi chúng ta tín thác vào Chúa như Mẹ và sẵn sàng thuận theo thánh ý của Thiên Chúa. Nhờ tiếng xin vâng của anh, của chị của tôi, Đức Giê su đi vào cuộc đời của tôi, đi vào thế giới hôm nay. Nhờ sự quyết tâm vâng phục thi hành ý muốn của Thiên Chúa qua Giáo hội, mỗi giáo lý viên chúng ta hợp tác để Chúa Giêsu được sinh ra trong tâm hồn nhiều người. Sau cùng, tôi có biết noi gương Mẹ Maria kiên nhẫn cưu mang Chúa Giêsu trong đời tôi để Ngài lớn lên cứng cáp, trước khi sinh Ngài cho môi trường tôi đang sinh sống không?
Trước tiên, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy cô thiếu nữ Ma-ri-a không hề ngu ngơ khờ dại, nhắm mắt vâng lời một cách thiếu suy xét. Cô đã có một phản ứng tức thì khi nghe thiên sứ báo tin cô sẽ thụ thai, cô ngỡ ngàng thắc mắc: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
Xin lưu ý là: cô Ma-ri-a đã phản ứng ngỡ ngàng, chứ không phải là phản đối, phản kháng. Cô chỉ băn khoăn thắc mắc rằng: bằng cách nào mà Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ nhập thể làm người, sẽ đầu thai để trở thành một bé trai sinh ra từ cung lòng mình? Lý do thắc mắc ngỡ ngàng của cô thật quá rõ ràng: cô chỉ mới đính hôn với ông Giu-se cơ mà?
Thiên sứ liền trấn an cô: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà". Thiên sứ còn quả quyết: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Đến đây thì cô Ma-ri-a đã vui mừng và mạnh dạn thốt lên lời Xin Vâng tuyệt vời: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".
Trong phút chốc, cô Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đức Giê-su Ngôi Hai Thiên Chúa. Tất cả chỉ nhờ một lời ngắn gọn, một thái độ vâng phục chan chứa lòng Tin Cậy Mến. Có thể nói, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn quyết định hướng đi cuộc đời Mẹ, hầu Mẹ được cộng tác với Thiên Chúa trong kế hoạ
Lời Xin Vâng của Mẹ trở thành một mẫu mực tuân phục Thiên Chúa cho chúng ta noi theo. Nói mạnh hơn, lời Xin Vâng ấy là một lời chất vấn, một thách đố hùng hồn trước thảm kịch bất tuân phục Thiên Chúa của con người trong thời đại của chúng ta.
Tự do ly dị, phá thai vô tội vạ, cướp bóc bạo lực, đua xe bạt mạng, nghiện ngập xì-ke ma túy, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng, cha mẹ độc đoán hoặc ghẻ lạnh với con cái, con cái nhục mạ hoặc thờ ơ bỏ rơi cha mẹ, học trò đánh đập thầy cô, vợ chồng xô sát với nhau và chiến tranh khủng bố bạo tàn khắp nơi trên thế giới... Hình như con người quá kiêu hãnh về mình, muốn gạt bỏ Ý Thiên Chúa để tự quyết lấy đời mình! Phần chúng ta thì sao? Chúng ta được gọi là Ki-tô hữu, tức là chúng ta thuộc về Đức Ki-tô, là môn đệ của Thầy Giê-su chí thánh, đã và luôn tin cậy phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Vậy chúng ta có mở ngỏ cuộc đời mình cho ý định yêu thương của Thiên Chúa không?
Chúng ta có bao giờ nghĩ rằng chính mình cũng đang được mời gọi: Hãy để cho Thiên Chúa "truyền tin”cho mình ngay giữa cái thế giới hôm nay đang bùng nổ về thông tin. Và Thiên Chúa sẽ gửi đến cho chúng ta một bản tin như thế nào? Phải chăng đó chính là "Tin Mừng", "Tin Vui", "Tin Lành", "Tin Tốt Đẹp", "Tin Bình An", "Tin Hy Vọng”cho mảnh đời đã có quá nhiều "tin buồn, quá nhiều "tin... tức”của chúng ta? Và một khi nhận được một "Tin Mừng”như thế, chúng ta có sẵn sàng mau mắn thưa Xin Vâng trước mọi biến cố, nhất là những nghịch cảnh trong cuộc sống hôm nay được lồng vào trong, được ẩn dấu trong một nội dung Tin Mừng kỳ diệu của Sự Sống Yêu Thương chăng?
Chúng ta hãy bắt chước Đức Ma-ri-a để luôn tìm đọc Lời Chúa, để nhẫn nại cầu nguyện trong niềm xác tín rằng: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: "Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giê-su muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ... Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi... Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Mẹ..."
Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ...
Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác...
Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử Đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy...
Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.
Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những "sứ giả", những "thiên thần”được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta...
Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời "Truyền Tin” của Thiên Chúa thông qua một "sứ giả", một "thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà".
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên là Roncalli, ngài đã lấy khẩu hiệu: “Vâng Phục và Bình An”.
Ngài kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng thấy Hồng Y Daronius già cả đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị hồng y ấy đều lấy một ít tiền tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó, ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và Bình An”. Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về.
Hình ảnh cao đẹp và lời nói đanh thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài đã chọn câu ấy làm tâm niệm và đã thực hiện trong suốt cuộc đời.
Khi chọn”Vâng Phục và Bình An”là tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo hoàng, các ngài đã noi theo lời tâm niệm”xin vâng”của Mẹ và hơn thế nữa, là con đường sống của Mẹ Maria. Lời”Xin vâng”là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”đã làm thay đổi tất cả cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định của chương trình cứu độ.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Luca, sứ thần Gabriel đã được sai đến để báo tin vui cho Mẹ Maria: Mẹ sẽ trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Đứng trước một biến cố quá bất ngờ, một sứ mệnh quá lớn lao, Mẹ Maria bối rối và xao xuyến trong lòng. Sứ thần Gabriel đã giải thích để Mẹ Maria thấu hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria đã thưa lời xin vâng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.
Lời”xin vâng”của Mẹ Maria
Lời xin vâng của Mẹ Maria chính là khởi đầu cho Mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Thật vậy, Chúa Giêsu không đến trần gian như một thiên thần, hay như một vị thần siêu việt. Và Chúa cũng không muốn cứu chuộc trần gian mà không đổ một giọt máu nào. Trái lại, Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc loài người. Chúa thực sự là người như mọi người chúng ta. Chúa đã tiếp nhận bản tính nhân loại nơi cung lòng Mẹ Maria.
Lời”xin vâng”của Mẹ Maria cũng là khởi đầu cho địa vị cao cả của Mẹ: đó là được trở thành Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”cũng gắn liền với những ân huệ khác của Mẹ: trọn đời đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác về trời.
Như thế, nhờ lời”xin vâng”, Mẹ Maria thực sự”có phúc hơn mọi người nữ”. Lời”xin vâng”đã mang đến một”Tin Mừng”lớn lao cho toàn thể nhân loại. Và đặc biệt là cho mỗi người chúng ta: qua lời”xin vâng”, không những Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà Mẹ còn là Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của mọi người chúng ta. Chính lời”xin vâng”đã làm nên tình mẫu tử thiêng liêng giữa Mẹ Maria và nhân loại. Lời”xin vâng”như nhịp cầu đưa chúng ta bước vào cung lòng hiền mẫu của Mẹ Maria.
Lời”xin vâng”của người tín hữu hôm nay
Mẹ Maria đã cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau lời”xin vâng”, Mẹ Maria đã phó thác tất cả đời mình trong bàn tay từ ái của Thiên Chúa, để Người toàn quyền định đoạt số phận của mình. Mẹ Maria chỉ còn biết vâng theo ý Chúa hoàn toàn.
Mẹ Maria cũng là người như chúng ta. Mẹ cũng có những ước vọng riêng mong đạt tới. Mẹ cũng có những chương trình cá nhân cần hoàn thành. Nhưng đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã từ bỏ chính mình để đáp lại bằng lời”xin vâng”. Mẹ đã sẵn sàng từ bỏ con đường riêng của mình để đi vào con đường Thiên Chúa sắp đặt. Đó chính là nét đẹp tuyệt vời của hai chữ”xin vâng”.
Hôm nay, Chúa vẫn đang cần những lời”xin vâng”của chúng ta, đang cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục những gì Ngài làm còn dang dở. Ngài muốn dùng chúng ta như những khí cụ trong bàn tay Ngài. Chúa vẫn muốn nhìn bằng đôi mắt của ta, yêu thương bằng trái tim của ta, làm việc bằng đôi tay của ta và bước đi bằng đôi chân của ta.
Trong ngày lễ Truyền Tin, hơn bao giờ hết, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu để chiêm ngưỡng lời”xin vâng”tuyệt hảo của Ngài. Là một vị Thiên Chúa cao cả, nhưng Ngài đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã hủy bỏ mình ra không, đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Phil 2, 6-8).
Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Do Thái, cũng nhắc đến sự vâng phục của Chúa Giêsu trước thánh ý Chúa Cha. Cũng thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu chính là một lời”xin vâng”kéo dài: từ hang đá Bêlem đến đỉnh Núi Sọ, Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ý Cha trong mọi giây phút của cuộc đời. Ngài chấp nhận uống chén đắng hơn là khước từ ý Cha.
Chớ gì lời”xin vâng”của Mẹ Maria sẽ dẫn đưa chúng ta đến lời”xin vâng”của Chúa Giêsu, và từ đó giúp ta cũng bắt chước các Ngài để luôn thưa lời”xin vâng”trong cuộc sống hằng ngày, thay cho những lần chúng ta”nói không”trước Thiên Chúa và anh em mình.
Ngày 08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:
– Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận không?
Sau giây phút yên lặng với giòng nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả lời:
– Ước gì con không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài đã trả lời:
– Con xin nhận như một thánh giá Chúa trao phó.
Qua lời”xin vâng”đầy nước mắt ấy, Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh Phêrô và đã trở thành một vị thánh Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự đổi mới, canh tân.
Mỗi ngày, khi đọc kinh Truyền Tin, chúng ta lặp lại lời”xin vâng”của Mẹ Maria. Chính lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta cũng hãy noi theo Mẹ Maria để luôn vâng theo ý Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con đường”xin vâng”là con đường ngắn nhất giúp ta đạt tới sự trọn lành và nhờ vậy, đạt được hạnh phúc Nước Trời mai sau.
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta họp nhau nơi đây để cử hành trọng thể lễ Truyền Tin. Trước đây, vào thời Trung cổ và Cận đại, vì lòng yêu mến Đức Maria, người ta nhấn mạnh đến việc Truyền Tin cho Đức Maria, và cho rằng lễ này là lễ trọng về Đức Maria. Đây là một sự lầm lẫn làm biến dạng ý nghĩa ban đầu của ngày lễ. Chính vì thế, phụng vụ canh tân sau Công đồng Vatican 2 đã quay trở lại ý nghĩa nguyên thuỷ của ngày lễ, đó là ngày lễ được Giáo Hội lập ra để kính nhớ một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo chúng ta, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa như câu xướng trước Phúc Âm nói rõ: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Nếu như mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi dạy cho chúng ta bài học về sự hiệp nhất trong tình yêu, và mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô ghi khắc vào tâm trí chúng ta hình ảnh sống động về một tình yêu tự hiến, thì mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay là một mẫu gương cho chúng ta về sự vâng phục.
Sự vâng phục của Đức Kitô:
Trước hết, đó là sự vâng phục của Đức Kitô. Đây là một sự vâng phục căn bản và nền tảng để nhờ đó công trình cứu độ được khởi đầu. Sự vâng phục này đã được thánh Phaolô tóm tắt rất hay trong một ca vãn gởi tín hữu thành Philip: “Ngài, phận là phận của một vì Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa… Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá!” (Pl 2, 6-8). Như thế, người con mà Đức Maria sắp sinh ra không những là con của Mẹ trong tư cách là một con người, nhưng còn là Con Thiên Chúa như lời thiên sứ truyền tin: “Đấng Bà sẽ sinh ra là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Hay nói theo cách nói của phụng vụ qua các lời nguyện trong Thánh lễ hôm nay, thì người con đó vừa là”Thiên Chúa thật và là người thật”. Như thế, việc Nhập Thể của Ngôi Hai là kết quả một sự vâng phục hoàn toàn của Chúa Con đối với Thánh ý Chúa Cha.
Đây không phải là một sự vâng phục miễn cưỡng nhưng là một sự vâng phục hoàn toàn trong tự do như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: “Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại với các môn đệ tại bờ giếng Giacóp cũng đã tuyên bố: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 34). Và tác giả thư Do thái còn khẳng định: chính nhờ sự vâng phục này, Đức Kitô trở thành một của lễ có giá trị tuyệt đối đến muôn đời trước mặt Thiên Chúa, tác giả viết: “nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ”. Vâng, Đức Kitô chỉ hiến dâng thân mình một lần là đủ đem lại ơn cứu độ cho muôn người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ”của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiệu và của lễ đền tội, Chúa không muốn, cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật”.
Sự vâng phục của Đức Maria:
Kế đến là sự vâng phục của Đức Maria. Thật vậy, dù trọng tâm của ngày lễ hôm nay là việc Nhập Thể của Ngôi Hai, chúng ta cũng không thể không nói đến sự cộng tác tích cực của Đức Maria. Mẹ chính là”thiếu nữ Sion”, là”người trinh nữ”, người được Thiên Chúa tuyển chọn từ muôn thuở để làm Mẹ Con Thiên Chúa. Điều này được thánh sử Luca diễn tả cách khéo léo qua lời chào của sứ thần: ‘Kính chào Bà đầy ơn phước”. Bởi vì, theo bình thường, đúng ra sứ thần phải chào: “Kính chào bà Maria”, nhưng ở đây, tên Maria đã được thay bằng”đầy ơn phước”. Như thế, Mẹ đã được đổi tên, mà việc đổi tên trong Thánh Kinh là dấu chỉ cho thấy một người được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt để làm công việc của Ngài. Hơn nữa ở đây, sứ thần còn thêm: “Thiên Chúa ở cùng Bà”. Mẹ được đầy ơn phước, vì luôn có Chúa ở cùng. Mẹ là”thiếu nữ Sion”được Thiên Chúa tuyển chọn thay thế cho dân cũ là Israel để sinh ra Đấng Messia, khởi đầu cho một dân mới là Giáo Hội.
Mặc dù được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn từ đời đời, nhưng qua việc gởi sứ thần đến báo tin, cho thấy Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài chờ đợi nơi Mẹ một lời đáp trả trong tự do. Và Thiên Chúa đã không uổng công chờ đợi. Sau khi nghe lời giải thích của sứ thần: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”, mặc dù chưa hiểu hết Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhưng trong niềm tin, Mẹ đã cất lời thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền”. Mẹ đã thưa hai tiếng”Xin vâng”trong tư cách của một con người tự do. Và với lời thưa”xin vâng”này, Mẹ Maria đã gắn chặt cuộc đời mình với Con Thiên Chúa qua việc thụ thai. Mẹ xứng đáng với tước hiệu là”Đấng hiệp công cứu chuộc”.
Tóm lại, nhờ sự vâng phục của Ngôi Hai Thiên Chúa và Mẹ Maria, việc Nhập Thể đã được thực hiện. Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính nhân loại, ở cùng nhân loại, để nhờ đó, con người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa như lời chúng ta kêu xin trong lời nguyện nhập lễ: “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria để cứu độ loài người… Xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người”. Như thế, với mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn tất lời hứa cách đó hơn 700 năm mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Isaia: “Này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Và chúng ta hôm nay:
Lắng nghe lời Chúa trong ngày mừng kính mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay, mời gọi từng người chúng ta cũng biết sống tinh thần vâng phục như Đức Giêsu và Mẹ Maria đã sống khi xưa. Hai chữ”Xin vâng”mới nghe qua thật dễ, nhưng thực hiện lại không dễ chút nào. Nó đòi hỏi từng người chúng ta phải bỏ ý riêng, nghĩa là, từ bỏ chính con người mình,để thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, con người thời nay cũng thường bị dị ứng khi nói đến hai chữ”vâng phục”. Bởi lẽ, chúng ta thường nghĩ rằng, vâng phục làm mất tự do. Nhưng thực ra, chính khi vượt thắng những đam mê tội lỗi, và những dục vọng của bản thân, để sống vâng phục theo Thánh Ý Chúa, chúng ta mới thực sự là người tự do. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 1731, 1733 khẳng định: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên”nô lệ tội lỗi”“ (SGL. 1733) (x. Ga 8, 34).
Đối tượng đầu tiên chúng ta cần vâng phục đó là Thiên Chúa. Chúng ta hãy can đảm tuân giữ các giới răn của Người, nhất là giới răn bác ái. Chúng ta hãy tuân giữ các giới răn không phải như một người nô lệ, nhưng như một phương thế để biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Kế đó, chúng ta hãy vâng phục cha mẹ, và những người hướng dẫn mình trong chân lý, để làm được việc đó, mỗi người chúng ta cần bỏ đi những tự ái, kiêu căng và cả những mặc cảm tự ti. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta xứng đáng đón Con Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể nhờ việc hiệp lễ. Rồi khi trở về nhà, chúng ta hãy can đảm sống những gì Chúa đã dạy bằng cách sống yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Sống được như vậy, chúng ta đã cùng với Mẹ Maria góp phần làm cho mầu nhiệm Nhập Thể được tiếp tục kéo dài và trở nên hiện thực trong đời sống hàng ngày. Amen.
Thiên Chúa không chấp nhận Satan, và Satan luôn chống lại Thiên Chúa, vì Satan cực kỳ kiêu căng, còn Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường.
Tình yêu và đức khiêm nhường là sự thánh thiện hằng hữu của Thiên Chúa toàn năng, toàn ái, giàu có, chí thánh.
Biến cố Truyền Tin cho thấy tình yêu và lòng khiêm nhường vô cùng sâu thẳm của Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật, mà bằng lòng cúi mình xuống để”hỏi ý kiến”của một cô thôn nữ về việc có chấp nhận cưu mang Con Thiên Chúa làm người không. Với quyền năng của Ngài, chỉ cần Ngài phán một lời là xong đấy chứ! Nhưng không, Ngài trung thành giữ nguyên ý định ban đầu khi tạo dựng con người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (STK 1,26). Thiên Chúa tự do, và con người giống hình ảnh Ngài cũng được Ngài tôn trọng tự do đúng mức. Thiên Chúa quyền năng có thể sai Con của Ngài xuống thế không qua lòng dạ một con người, hoặc Ngài có thể đặt ngay Con của Ngài vào cung lòng Trinh Nữ Maria, nhưng Ngài đã không làm như thế. Việc”thỉnh ý một người phàm”vẫn luôn là quan trọng đối với Ngài, vì đó là bản tính khiêm tốn và là chương trình tình yêu của Ngài.
Thánh Luca trình bày rõ: “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc 1, 26).
Qua lời chào của Sứ Thần Thiên Chúa – có thể nói là tiếng nói chính thức của Thiên Chúa với một cô thôn nữ quê mùa – cho thấy, Thiên Chúa còn khiêm tốn hơn nữa..”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1, 28). Thiên Chúa đã khen tặng Đức Maria là người đầy ơn phúc, mặc dầu Ngài biết, ơn phúc ấy của chính Ngài thương ban, ơn phúc ấy chính là”Thiên Chúa luôn ở cùng Bà”. Việc khen tặng, chúc tụng của Thiên Chúa dành cho Đức Maria, chắc chắn phát xuất từ chương trình và lòng yêu thương chân thành của Ngài. Lời chúc tụng của Thiên Chúa chân thật, không thể nói là đầu môi chót lưỡi giả dối như những lời khen tặng của loài người. Sự chân thật ấy minh chứng cho sự khiêm tốn của Thiên Chúa. Một Thiên Chúa đáng chúc tụng, đáng tôn thờ trong khắp cả và thiên hạ lại chúc tụng một tạo vật của mình mang thân phận tơ liễu mong manh!
Cuộc hội đàm thiên địa trở nên ý vị hơn nữa, khi Thiên Chúa lắng nghe ý kiến của Đức Maria và khiêm tốn chịu khó giải thích ý định của Ngài với minh họa rõ nét, đầy sức thuyết phục:
-“Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
-“Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
-“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Đúng là”đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được”. Và bằng cách khiêm tốn tự hạ rất thẳm sâu, Ngài đã làm được điều Ngài muốn nơi Mẹ Maria, là sự đồng ý để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể.”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Mẹ Maria xin vâng để Chúa Thánh Thần thành sự ý định của Thiên Chúa. Lời xin vâng có tính trọn hảo, vì có thể nói, Mẹ Maria tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ không thể biết, và cũng không nhất thiết phải biết chuyện gì sẽ xảy đến với người con mà mình sẽ sinh ra. Một lời xin vâng khiêm tốn vì chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, để Thiên Chúa thực hiện chương trình Ngài, xin vâng không đặt điều kiện.
Từ ấy, Chúa Con xin vâng để nhập thể theo lệnh của Chúa Cha. Lòng khiêm tốn của Thiên Chúa Cha được thực hiện nơi Chúa Con – làm thai nhi con người thật trong lòng một người nữ. Là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, nhưng phải theo kế hoạch của Cha là”làm con người thật, con người sinh bởi lòng mẹ thế gian”.
Mừng lễ Mẹ Truyền Tin, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang ấy là tình yêu và đức khiêm tốn luôn hằng hữu nơi Ngài. Sáng kiến của tình yêu cứu chuộc nơi Thiên Chúa là không kể đến sĩ diện, là từ bỏ ngôi vị, là tự hạ thẳm sâu. Tình yêu đáp lại tình yêu nơi Mẹ Maria là xin vâng tuyệt đối, là phó thác hoàn toàn.
Đức khiêm nhường của Trời và Đất gặp gỡ nhau trong ngày Truyền Tin, làm thành một cuộc hạnh ngộ cứu chuộc, khai sinh sức mạnh chiến thắng lòng kiêu căng của satan và tội lỗi.
Thiên Chúa vẫn trung thành kế hoạch cứu chuộc của Ngài. Ngài đang hỏi ý kiến bạn, hỏi ý kiến tôi về việc có bằng lòng để cho ơn cứu chuộc nhập thể. Ngài tôn trọng tự do của bạn, của tôi, nhưng vì yêu, Ngài đã khiêm tốn giải thích cặn kẻ bằng Lời Tin Mừng, bằng Lời đã hóa thành nhục thể, bằng Lời đã tự hạ thẳm sâu cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài muốn cứu chuộc bạn, cứu chuộc tôi. Ngài vẫn kiên trì hỏi ý kiến, giải thích…
Lạy Mẹ Maria, xin nguyện giúp cho chúng con ơn khiêm nhường sâu thẳm, để chúng con nhận ra rằng: chúng con cần ơn cứu chuộc, cần Chúa Giêsu Nhập Thể trong lòng. Xin cho chúng con lòng tin yêu phó thác để có thể thưa lời Xin Vâng như Mẹ: “Nầy tôi là tôi tá Chúa. Xin hãy thành sự trong tôi, như lời Sứ Thần truyền”.
Khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, chúng ta chiêm ngắm hình ảnh người nữ tỳ của Thiên Chúa nơiMẹvà xin cho được ‘Ở khiêm nhường’. Nhưng, sự khiêm nhường nơi Đức Maria đã được Kinh thánh diễn bày như thế nào?
Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Tin mừng Luca thuật lại biến cố truyền tin mà hôm nay Giáo hội mừng kính. Thần sứ Gabriel đến gặp Đức Maria và trao lời cầu ngỏ. Đức Maria chỉ là một cô gái quê, cư dân thành Nazareth, không học thức cao sang, không danh giá quyền quý và chẳng có một nét ưu việt nào dưới con mắt người đời. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ được tuyển chọn để trở nên Thân mẫu Đấng Cứu Thế. Điều Thiên Chúa muốn luôn khác xa với sự toan tính của con người. Các ngôn sứ thời cựu ước đã từng loan báo về việc Đấng Messia sẽ được sinh ra do một trinh nữ. Bài đọc 1 trong phụng vụ hôm nay nhắc lạicho chúng ta lời tiên báo ấy qua miệng ngôn sứ Isaia. Như vậy, Đức Maria đã được tuyển chọn không phải do tình cờ, nhưng kế hoạch ấy đã có trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đời đời. Mẹ được chọn không phải vì Mẹ đã đắc thủ cho mình những nhân đức trổi trang hơn hẳn các phụ nữ khác, hay do một yếu tố lịch sử nào đó tác động từ bên ngoài. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, chỉ vì Chúa muốn như vậy, thế thôi. Ơn gọi luôn là một mầu nhiệm rất khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc suy lý của con người. Chúa đã chọn Mẹ hoàn toàn do ý định của Ngài, và như một hệ quả tất yếu, Chúa cũng phú mặc cho mẹ những phẩm tính cao trọng, tương xứng với thiên chức ‘Mẹ Thiên Chúa’ hay ‘Mẹ Đấng Cứu thế’. Tâm hồn Mẹ được gìn giữ không bị lây nhiễm bất cứ ô nhơ nào, ngay cả tội nguyên tổ. Cung lòng của Mẹ đã trở nên như ngôi đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa đến ẩn ngự.
Sự đáp trả tự do.
Trước lời cầu ngỏ của thần sứ, Mẹ đã thưa: “Xin vâng - Fiat”. “Xin hãy thực hiện nơi tôi những điều Chúa muốn”. Mẹ hoàn toàn tự do để lựa chọn giữa việc chấp thuận hay chối từ nhưng sự từ chối đã không xảy ra. Lời thưa xin vâng của mẹ có một ý nghĩa sâu xa mà Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào đó như một quy chuẩn căn bản để thực hiện sự khiêm tốn nội tâm. Khiêm nhường ở đây không phải chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản như trong xã hội hiện nay người ta vẫn hay đề cao. Nền tảng của sự khiêm tốn nơi mẹ chính là sự tự hư vô hóa chính mình để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm ngự. Mẹ thuộc trọn về Chúa, không còn giữ lại chút gì cho mình và đãhoàn toàn để cho Thiên Chúa điều hướng. Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”. Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của Ngài cũng đã dạy chúng ta: “Anh em hãy trang điểm mình bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1P5,5).
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa đã an bài và quyết định sẵn, nên tình thế không thể đổi thay. Qủa thật, từ đời đời Thiên Chúa đã tiên liệu, nhưng nơi Mẹ, sự đáp trả vẫn được thực hiện trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự chọn lựa tự do nơi mỗi người chúng ta. Thánh Augustinô đã từng cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng để cứu rỗi con, Chúa cần có con cộng tác” (Trích trong sách ‘Confessio’). Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện cộng tác vào trong chương trình của Thiên Chúa để kế hoạch cứu chuộc được thực hiện. Vì thế, lời đáp trả của Mẹ có một giá trị tuyệt đối, vì đã khai mở chân trời ơn cứu độ, khi Mẹ bắt đầu cưu mang Đấng Messia trong cung lòng của mình. Đây là điểm nhấn của sự khiêm tốn nơi Đức Maria để mỗi khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, chúng ta đi sâu vào ý nghĩa của mầu nhiệm này.
Thầy dạy đức tin.
Bà Elizabeth đã nói về Mẹ: “Phúc cho bà là người đã tin” (Lc 1,45). Mẹ đã tin như lời sứ thần nói, là không có gì màThiên Chúa không thể làm được (Lc1, 37).Khi Thần sứ cầu ngỏ,Đức Maria đã ngơ ngác hỏi lại với lýluận rất đơn sơ: “Việc đó xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng”. Mẹ đặt câu hỏi vì Mẹkhông phải là một ‘Siêu Thiên Chúa’,nhưng Mẹ cũng chỉ là một thụ tạogiống chúng ta. Tuy nhiên, Mẹlà thụ tạo toàn hảovì đã đặtniềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã gọi Giáo hội là Mẹ và là Thầy(xem Tông thư Mater et Magistra). Những gì nói về Giáo hội cũng ám thị về Đức Maria. Mẹ đã trở nên Mẹ của Ngôi Hai và cũng là Thầy dạy đức tin cho chúng ta khi mẹ đón nhận Chúa Giêsu được tượngthai trong cung lòng mình. Lời thưa xin vâng trong biến cố truyền tin là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin, và cuộc hành trình này đạt đến đỉnh điểm khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá,hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu trong hy tế cứu độ. Từ khuôn mẫu nội tâm này, mẹ đã trở nên Thầy dạy đức tin cho tất cả mọitín hữu.
Học nơi Mẹ để sống hoàn thiện ơn gọi.
Sống sung mãn ơn gọi của mình là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta đến sự hoàn thiện. Phát nguồn từ Thiên Chúa,chúng ta được tạo thành và đi vào hiện hữu. Đồng thời, cũng chỉ duy nhất một mình Thiên Chúalà cùng đích tối hậu mà chúng ta phải vươn đạt tới. Để sống mầu nhiệm ơn gọi, trước hết chúng ta cần phải nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi, tức là phải khám phá ra ước mơ của Thiên Chúa nơi mình. Ngài muốn tôilà ai, chứ không phải muốn tôilàm gì. Chúa đã muốn Đức Mariatrở nên Mẹ Đấng Cứu thế, còn phương cách thực hiện như thế nào, Chúa sẽ sắp xếp, chứ không phải do Mẹquyết định. Nơi chúng ta cũng vậy. Muốn khámphá và đi vào lộ trình ơn gọi, không có mẫu gương nào hoàn hảo cho bằng chính Đức Maria để chúng ta quy chiếuvào. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa. Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thơ Do Thái cũng gợi lại hình ảnh Đức Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, này con đến để thi hành thánh ý của Cha”. Đức Giêsu đã khiêm tốn vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá (Phil 2, 8). Đó cũng là sự khiêm nhường mà Đức Maria đã sao chép lại để trở nên gương mẫu cho chúng ta.
Kết luận
Thế gian như một quán trọ, và chúng ta là những lữ khách. Đường đời muôn nẻo mắcgiăng với biết bao cạm bẫy. Chỉ khi nào chúng ta biết trải lòng mình ra, khiêm tốn tìm kiếm và thực hiệnnhững gì Thiên Chúa muốn, chúng ta mới đi đúng đường và sống hoàn thiện ơn gọi của mình. Đứng trước mọi biến cố hay mọi chọn lựa, chúng ta hãy họclấy tư thế nội tâm giống như Mẹ đểluôn thưa lên: “Tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”.
Không biết – về tốc độ đẩy tin tức đi nhanh nhất có thể – thì – ở thời điểm này – khoa học về truyền thông đã đụng trần rồi hay chưa…
Ai nghĩ sao và có thêm những cố gắng gì hơn nữa…thì không biết, nhưng bản thân người viết…thì nghĩ như thế đấy: về mặt tốc độ tin tức…thì khó có thể nhanh hơn được nữa…Những mặt khác và những tiện dụng khác…thì không dám nói, nhưng về mặt tốc độ…thì … là như thế…
Tuy nhiên “nhanh” … chưa hẳn là “tốt”…và nhanh không có nghĩa là thoát khỏi tình trạng “vấp phải đá” và “quàng phải giây” …
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây (Ca dao)
Thú thật mỗi buổi sáng, cái khoái của tuổi hưu là còn có thể lướt mạng, lang thang vùng này vùng khác với trăm ngàn những mẩu chuyện vui buồn ở mọi nơi và trong mọi lúc: những việc người ta làm, những điều người ta nói, những góc khuất ở đây đó…Cả đống rác rến truyền thông được quăng lên… Người viết may mắn lắm mới vớ được đôi ba mẩu chuyện đời đáng kể để làm vốn cho những bài viết của mình… Còn lại là những thứ để mà “xóa”…thế thôi…Nhưng vẫn phải lướt…vì không có gì buồn cho bằng tuổi hưu mà không có việc chi đó để mà làm…
Đừng nói đến cầu nguyện…Không ai cầu nguyện suốt cả ngày chứ đừng nói chi đến tuần, đến tháng, đến năm…
Đừng nói đến “đọc sách”…vì cũng chẳng can đảm lắm để mà đọc ngày này qua ngày khác: nào là bệnh mắt, nào là bệnh cột sống, nào là bệnh đau đầu…
Khoái trá vẫn là chuyện lướt mạng…và khoái trá hơn nữa vẫn là chuyện còn đủ đầu óc để mà sàng, mà lọc hầu có thể gom lượm được đôi ba điều hay, điều tốt – hữu ích cho mình và có thể chia sẻ với người…
Cho nên – dù sao thì vẫn tạ ơn Thiên Chúa đã cho thế giới con người những bộ óc tìm tòi và cám ơn những sáng kiến cải thiện đời sống con người nơi những bộ óc đặc biệt – quý vị có thể là không muốn nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng chi tiết và tỷ mỷ với hàng vạn, hàng ngàn những giây nhợ li ti trong não bộ của quý vị… để quý vị suy nghĩ, thử nghiệm…và chào hàng…Bản thân người viết…thì…vẫn hết sức khâm phục sự siêu việt của Thiên Chúa qua những công trình của con người…
Thế nhưng những người sử dụng thành quả của những bộ óc kiệt suất…thì lại quá tệ…
Cả những người có đầu óc…lẫn những cô cậu trẻ người non dạ…
Người ta nói đến thứ quyền lực thứ 4: quyền lực của truyền thông…Và khi đề cập đến quyền lực của truyền thông…thì người ta nghĩ ngay đến những “mặt trái” của thứ quyền lực này: lèo lái quần chúng cứng hay mềm theo ý mình muốn và mang lại lợi ích cho mình hay cho những người thuê mướn mình – nghĩa là ngòi bút bị bẻ cong…Bút viết thì hết thời rồi, nhưng bàn phím cũng là một thứ bút, bởi vì cũng hình thành những giòng chữ…
Lớp trẻ “tự sướng”…thì ưng chi nói nấy, nói bằng thứ ngôn ngữ mà những người ở tuổi của người viết phải mất cả giờ đoán già đoán non mới mò hết một hàng chữ viết của chúng…Và bản thân lớp trẻ “tự sướng” này cũng chẳng hiều chi về những kiểu nói, những cụm từ của thế hệ người lớn tuổi…Đã đôi ba lần người viết được yêu cầu giải thích “gấp” về những cụm từ như Hội Nhập Văn Hóa, Phúc Âm Hóa, Tân Phúc Âm Hóa, Tái Phúc Âm Hóa…để kịp đi làm bài thi…Cho thấy không mấy người trẻ hiểu gì, và không hiểu – dĩ nhiên – cũng không sống…Mong rằng các đấng bậc có trách nhiệm quan tâm hơn về phương diện này: khi người ta không hiểu được ý nghĩa của các cụm từ thì người ta cũng sẽ mù tịt về sứ điệp mà cụm từ muốn trình bày…Mà mỗi cụm từ chuyên biệt như trên – muôn rõ ràng – thì chí ít cũng ba bốn tiết học…chứ “gấp” chỉ là giải pháp vá đắp…
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây
Thật vậy, Thiên Chúa không bao giờ vội vàng trong công việc của Người, vì Người trân trọng con người…
Giáo Hội mừng Lễ Truyền Tin và giới thiệu với con người mô-típ truyền tin của Thiên Chúa thực hiện với con người vì ơn cứu rỗi và hạnh phúc của con người…Chúng ta thấy được gì qua sự kiện Truyền Tin này?
Thứ nhất: Thiên Chúa cực kỳ kiên nhẫn khi chuẩn bị một tin quan trọng vào bậc nhất cho con người chúng ta – một sự kiên nhẫn trải dài suốt lịc sử của Cựu Ước, không phải vì Thiên Chúa, nhưng là vì con người và để cho con người được chuẩn bị đủ hầu có thể đón nhận tin vui ấy…Đây cũng là bài học cho những người làm công việc truyền tin: không phải cho mình và vì mình, nhưng là cho người và vì người…nên phải cẩn trọng, phải kiên nhẫn…
Thứ hai: Thiên Chúa tuyệt vời trong thái độ trân trọng đối tượng được chọn để loan tin…Trong sự kiện là Đức Maria và – qua Đức Maria – là toàn thể nhân loại…Một cô bé chỉ khoảng độ trên dưới 16 tuổi, vô danh tiểu tốt trong một làng quê cũng chẳng có danh tiếng gì…Nhưng Thiên Chúa nhìn thấy con người ấy, Thiên Chúa nhận ra khuôn mặt của nhân loại nơi con người ấy: một khuôn mặt đẹp và đáng để được làm cho rạng rỡ hơn nữa…Thiên Chúa cũng muốn những người làm công tác truyền thông biết trân trọng đối tác mình nhắm tới và đưa ra những gì làm cho khuôn mặt nhân loại ngày càng rạng rỡ hơn…Bởi vì mỗi một con người là một tuyệt tác phẩm có một không hai của Tạo Hóa…Làm hư hoại đi thì quả thực là…không biết nói sao!!!
Thứ ba: người đưa tin là một “nhân vật” có uy tín và đáng tin cậy: trong sự kiện là sứ thần Ga-bri-el…Truyền tin thời @ là mạng…và trên mạng là những tin tức: thượng vàng hạ cám, thậm chí dẫy đầy những thứ bẩn thỉu trong ngôn ngữ cũng như hình ảnh, bẩn thỉu cả trong lãnh vực thông thường lẫn địa chính trị của phe nhóm, của chủ thuyết…Ông bạn lão thành “trà dư tửu hậu” với người viết một nhận định về những trùm quyền lực thế giới: bọn họ là những tay nghiện games không thua gì bọn trẻ!!! Nghĩa là cuộc thế sự được coi như một thứ “Game Show”… Không lạ gì mà chỉ thấy lửa khói và chém giết khắp mặt đất dễ thương này…Buồn da diết ở chỗ phần đa số con người bị coi như những “đối tượng” phải tiêu diệt…để có được bàn thắng!!!
Thứ tư: Thiên Chúa tuyệt đối trân trọng chọn lựa của con người đứng trước đề nghị của Người…Không có chuyện áp đặt…Không có chuyện cưỡng bức…Thông tin của con người khi được quăng lên một phương tiện truyền thông nào đó thì – nhiều hay ít – cũng có những “ý đồ” nhằm khuynh loát đám đông…Đấy không phải là đường lối của Thiên Chúa và không là cách “ truyền thông” của Người…Dĩ nhiên không có thứ truyền thông nào trong thế giới con người mà không nhắm một mục đính, nhưng truyền thông có lương tâm buộc chúng ta cố gắng khách quan tối đa để trân trọng “đối tượng” của mình…Không phải mèo khen mèo dài đuôi, nhưng phải nói thẳng là những người tin Chúa làm truyền thông tương đối có nhân văn…Phải chăng cũng là nhờ Tin Mừng Chúa…
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô – trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội làn thứ 50 – ngày 24/10/2016 – có nói:
“Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội, nhưng chúng cũng có thể làm gia tăng sự phân cực và chia rẽ giữa các cá nhân và các nhóm. Thế giới kỹ thuật số là một quảng trường, là nơi gặp gỡ mà ở đó người ta có thể yêu thương hay gây đau thương, tham gia một cuộc thảo luận bổ ích hay ném đá nhau tàn nhẫn. Tôi cầu xin cho Năm Thánh này, khi được sống với lòng thương xót, “ giúp chúng ta cởi mở hơn trong đối thoại, để có thể hiểu biết và cảm thông nhau nhiều hơn…Mong sao Năm Thánh sẽ giải tỏa mọi thái độ khép kín và thiếu tôn trọng, cũng như loại bỏ mọi hình thức bạo lực và kỳ thị” ( Misericordiae Vultus, 23). Internet có thể giúp chúng ta trở nên những công dân tốt hơn. Việc tham gia các mạng kỹ thuật số đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm đối với người thân cận của mình – dù chúng ta không nhìn thấy họ nhưng họ vẫn có thật và có một phẩm giá phải được tôn trọng…Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia.”
Và Ngài kết luận:
“Truyền thông – dù ở đâu và bằng cách nào – cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đấy là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao. Tôi muốn dùng từ “sự gần gũi” để nói về sức mạnh của truyền thông này. Cuộc gặp gỡ giữa truyền thông và lòng thương xót sẽ mang lại hoa trái vì nó tạo nên được sự gần gũi để chăm sóc, an ủi, chữa lành, đồng hành và chung vui với nhau. Trong một thế giới vụn vỡ, phân mảnh và phân cực, truyền thông với lòng thương xót…có nghĩa là giúp kiến tạo sự gần gũi lành mạnh, tự do và huynh đệ giữa con cái Thiên Chúa và mọi người anh chị em của chúng ta trong một gia đình nhân loại duy nhất.”
Nhân ngày lể kính sự kiện thiên sứ Ga-bri-el vâng lới Thiên Chúa đến gặp gỡ Đức Maria để thông báo và xin ý kiến Đức Maria về việc việc Thiên Chúa muốn chọn Ngài cộng tác với Thiên Chúa hầu phục hồi tình trạng nguyên tuyền cho con người qua tạo dựng mới nơi Đức Ky-tô Thương Khó – Tử Nạn – Phục Sinh, xin được chia sẻ một đôi suy nghĩ về Truyền Thông.
“Kính chào bà, đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà!”. Nghe lời ấy, Đức Mẹ thật bối rối, vì trong lúc cầu nguyện, sứ thần hiện đến cùng Mẹ và thưa cùng. Thật vậy, lời chào ấy là một lời chào” trần đầy ân phúc”, bởi vì chưa có một thụ tạo nào cao quý, trọng vọng như Mẹ. Có thể nói từ cổ chí kim, vô tiền khoáng hậu, chưa có nhân vật nào được diễm phúc nhận lời chúc mừng của sứ thần như Mẹ. Vâng, chính Mẹ cũng lấy làm bối rối.Tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, “ … Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Nhưng, Đức Mẹ càng ngạc nhiên hơn, vì: “ tôi không biết đến việc vợ chồng”. Vâng, chúng ta thấy sự đối đáp giữa sứ thần Gapriel và Đức Maria là một sự đối đáp rất “tự nhiên “ và chân thành. Vì, không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con?! vâng, một sự đối đáp rất hiển nhiên, không một chút do dự. Nhưng, sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (c 35).
Vâng, sự đối đáp giữa sứ Thần và Đức Trinh Nữ Maria đến đây được kết thúc, vì không còn gì để trao đổi nữa, sau khi sứ thần nói tiếp: “Kìa người chị họ của Trinh Nữ, người mà thiên hạ vẫn chê cười vì không có con, mà nay đã mang thai được sáu tháng. Vì, không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được.(c 36 -37)
Vâng, bởi đâu, Đức Trinh Nữ Maria đạt được điều diễm phúc như vậy? Vâng, chúng ta suy tư về Mẹ nhé!
Thứ nhất: Đặc tính khiêm nhường thẳm sâu.
Bởi vì, Mẹ là một kiệt tác như được uốn nắn, gọt giũa, tô điểm, và trân quý nhất trong bàn tay Thiên Chúa, một thụ tạo thấp hèn, nhưng chiếm được “Thánh Ý “, nói cách khác là đẹp lòng Thiên Chúa. Đến đây chúng ta có thể hiểu được Mẹ HOÀN TOÀN không tỳ vết cả thể xác lẫm tâm hồn, Mẹ thánh khiết vẹn tuyền, mà các thánh ví như “bình pha lê” dưới ánh sáng mặt trời. tiếp đến Mẹ được Chúa Thánh Thần ban tràn ân sủng, và Ngôi Hai ngự xuống. Như vậy, cung lòng vẹn sạch không tỳ ố trước và sau khi nhận “TRUYỀN TIN “ của Mẹ thật là một “diễm phúc”, và như vậy, Giáo Hội tuyên tín Mẹ là ” ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TÔI” là như vậy.
Thứ Hai: Mau mắn tín trung vào Mầu Nhiệm Truyền Tin.
Do nhận được một đăc ân trọng đại là sự khiêm nhường thẳm sâu, Đức Trinh Nữ Maria như ngập tràn ân sủng bởi Trời cao. Linh hồn và thể xác của Mẹ hoàn toàn thánh thiện như pha lê trong suốt, vì vậy, Sự thánh thiện nầy, ngày nay, như người Kitô được sạch tội trọng và được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vậy. Và từ tận sâu thẳm tâm hồn Mẹ, Mẹ đã cất lên bài ca Ngợi Khen ( Magnificat) tuyệt vời vô song.
Thứ ba: Đáp lại và cộng tác vào công trình Cứu Chuộc nhân loại của Thiên Chúa.
Vâng, Mẹ đã gánh vác trọng trách là Mẹ Đấng Cứu Chuộc, có nghĩa là Mẹ cưu mang và ôm trọn mầu nhiệm làm Người, đau khổ, Tử nạn và Phục Sinh của Con của Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì vậy, Mẹ đã được kêu mời để trở nên một “thụ tạo” tuyệt hảo, tham dự vào công cuộc “khổ hình sinh ơn cứu độ” của Đức Kitô.
Như vậy, Mẹ mang lấy cuộc đời Chúa Cứu Thế không những phần nhân tính mà còn phần siêu nhiên của Chúa Giêsu, nếu không mầu nhiệm cứu độ không hoàn tất được. Và, những nỗi khổ đau cảu Mẹ, gọi là ”sầu bi” là những đau thương bởi cuộc đời Chúa Cứu Thế, và như thế, Mẹ được gọi là: “Người Nữ Thánh Thể”.
Vâng, Mẹ được diễm phúc vì Mẹ được đi trọn cuộc hành trình cứu độ tại thế trần của Ngôi Hai Thiên Chúa. Rõ ràng, từ giây phút nhập thể, là ngày Mẹ nhận ơn truyền tin, đến hành trình Nhập Thế, và kết thúc ngày Chúa Phục Sinh. Có thể nói, mầu nhiệm Mẹ nhận được ơn Truyền Tin, mà sứ thần gọi Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc “ không phải hiểu như thế gian, mà là đước gắn liền với mầu nhiệm Làm Người, rao giảng, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô.
Theo đó, hành trinh thiêng liêng của Đức Mẹ, ngày mà Mẹ nhận sứ vụ cưu mnag, sinh hạ Đấng Cứu Thế, ngày mà Mẹ được gọi là diễm phúc, không phải là ngày bắt đầu hưởng “ vinh hoa phú quý”., mà ngày mang lấy “trọng trách” Thập giá, và quả thật, Mầu Nhiệm thập giá nơi Mẹ thật “ âm thầm” nhưng không kém phần đau thương. Nỗi đau của một người Mẹ có một Người Con đền thay tội lỗi nhân gian là một nỗi đau “ khôn tả”, nhưng “TRÀN ĐẦY DIỄM PHÚC”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho loài người ơn cứu chuộc, nhưng Cha đã kêu mời những con người cách riêng như Đức Trinh Nữ Maria, thánh Cả Giuse là người cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. Xin Cha thương ban cho những ai tiếp bước Người được nhờ lời chuyển cầu của Ba Đấng mà ban ơn cứu độ cho chúng con, và cho chúng con xứng đáng bước theo Người./. Amen.
Tuân phục là một nhân đức quan trọng,quý hơn cả lễ vật(1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), và có liên quan đức tin: có tin tưởng thì mới vâng lời. Đức Mẹ là người tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa nên cũng tuyệt đối tuân phục Ngài. Lễ Truyền Tin nói lên điều đó. Đức tuân phụclà một trong ba lời khấn của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng kiên cố là đức khiêm nhường.
Mùa Chay đầy gai nhọn và đinh sắc, phủ màu tím khổ đau của Đức Kitô, nhưng lại có niềm vui khởi đầu Ơn Cứu Độ: Chúa Cha trao ban Con Một cho nhân loại. Lễ Truyền Tin là Đại Hỉ Tínkhông chỉ riêng cho Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ lời “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta có Đấng Em-ma-nu-en, là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Mầu nhiệm thứ nhất Mùa Vui: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin biếtSỐNG KHIÊM NHƯỜNG.
Thật tuyệt vời, chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui được nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi là I-sa-ve) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, tin vui sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa!
Đối với hỉ tín thứ nhất, chúng ta có Thánh ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Đối với hỉ tín thứ nhì (nhưng lớn hơn), chúng ta có Thánh ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria.
Chắc hẳn chẳng có bút sách hoặc văn lực nào có thể nói đầy đủ về Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một Kiệt Tác của Thiên Chúa, một loại kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc phàm nhân không thể nào hiểu nổi chuyện “thụ thai mà còn đồng trinh”, có so sánh như “ánh nắng chiếu qua tấm kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần nào thôi. Và càng khó hiểu hơn về một thụ tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Ê-li-da-bét đã xác nhận và reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Quá đỗi nhiệm mầu và vô cùng kỳ diệu!
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đãnóivới vua A-khát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh” (Is 7:11). Thiên Chúa cho phép xin, nhưng ông không dám xin: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7:12). Đó là cách sống đức tin và khiêm nhường, tấm gương sáng ngời để mỗi chúng ta cần phải thường xuyên “soi” mình xem dung nhan linh hồn thế nào rồi.
Ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm túc cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7:13-14).
Chắc hẳn đây cũng là lời cảnh báo với chúng ta, vì chúng ta vẫn có “máu nổi loạn” là làm phiền Thiên Chúa, khoái sự lạ, tính tò mò lớn hơn niềm tin. Đơn giản như khi đi đường, thấy có gì “khác thường” là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả, thậm chí còn thêm đủ thứ “gia vị”. Biết bao người đã và đang là “nạn nhân” của những “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Tương tự, người ta chỉ mong được thấy “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, rỉ tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính cuộc sống của những người đó chẳng thấy có gì thay đổi tích cực về tâm linh. Như thế cũng chỉ là vô ích. Thậm chí có người còn nói thấy Chúa, thấy Mẹ, hoặc thấy “người lạ” nào đó, muốn người khác biết mình là “thị nhân” đấy!
Thế nhưng các “dấu lạ” nhãn tiền hằng ngày lại không mấy ai thực sự để ý, hoặc chúng ta cố ý làm ngơ. Có thật vậy sao? Đúng như thế!Các “dấu lạ” minh nhiên về KHÔNG KHÍ để chúng ta hít thở từng giây để có thể sống, về ÁNH SÁNG, và đặc biệt là phép lạ THÁNH THỂ hằng ngày tái diễn trên bàn thờ, chính Chúa Giêsu vẫn hiện diện sống động thực sựở giữa chúng ta, cụ thể là nơi Nhà Tạm.
Đức vâng lời là nhân đức thể hiện sự khiêm nhường. Vâng lời là lời khấn thứ nhất của các tu sĩ, sau đó mới là sống nghèo khó và khiết tịnh (có dòng còn thêm một hoặc hai lời khấn khác). Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này con xin đến!’. Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Điều này được thể hiện rõ nét nơi Đức Mẹ, vì Đức Mẹ cũng là người ít nói, biết được gì thì cũng “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19).Quả thật, im lặng là vàng!
Với niềm vui trong lòng, tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh. Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương” (Tv 40:11). Đây cũng phải là quyết định của mỗi Kitô hữu. Hành động như vậy là hợp tác với Thiên Chúa, là loan báo Tin Mừng, là truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm, là truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là cố gắng hoàn thiện,là đem Chúa đến với người khác để họ khả dĩ nhận biết Ngài và cũng được Ngài cứu độ.
Tuy nhiên, Thánh Phaolô cũng nói: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7). Vì vâng lời, cậu bé Sa-mu-en đã biết chân thành thân thưa: “Người là Đức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt” (1 Sm 3:18). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tuân phục mà cầu nguyện như vậy hằng ngày!
Đức tuân phục cứ được lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Với tinh thần tuân phục tuyệt đối, Đức Mẹ đã mau mắn nói lời “xin vâng”, vì ý Chúa chứ không vì ý riêng. Và chính Đức Kitô cũng hoàn toàn tuân phục, dù Ngài cũng có sự giằng co của nhân tính trước khi nhận “chén đắng”.
Qua trình thuật Lc 1:26-38,Thánh sử Luca cho biết: Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.Nghe lời ấy, Thôn nữ Mariarất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
E ngại là bản tính nhân loại, thế nên Đức Maria nhẹ nhàng thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Thế nhưng sứ thần quả quyết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC”.
Ôi, thật tuyệt vời! Và thế là không còn nghi ngờ vàcũng chẳng ngần ngại chi ráo trọi, Đức Maria nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).Một câu nói đầy ắp sự can đảm với tầm nhìn tương lại rộng lớn.Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định mau mắn với đại sự như vậy. Đây là động thái quan trọng, vì nhờ Đức Mẹ vui lòng “xin vâng” mà Ngôi Hai nhập thể để bắt đầu Chương Trình Cứu Độ.
Sau khi hoàn thành sứ vụ, Tổng thần Gáp-ri-en từ biệt ra đi. Và Đức Maria bắt đầu trang đời mới với trọng trách mới và đầy gian khó.Xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa và tạ ơn Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ là Nhà Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos).Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên Nhà Tạm của Thiên Chúa Ngôi Hai. Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận rằng “chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6:16).
Lạy Thiên Chúatoàn năng,xin Ngài cứ thực hiện những gì Ngài thấy tốt cho cuộc sống của con trên trần gian này, mặc dù có thể trái ý con, xin giúp con luôn biết xin vâng tuyệt đối và mau mắn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin hướng dẫn và nâng đỡ để con vững bước theo bước Mẹ đã đi. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Sứ điệp đa dạng và nhiều mức độ. Sứ điệp có thể vui hay buồn, bình thường hoặc quan trọng, cũng có thể là sứ mệnh, trọng trách. Lễ Truyền Tin là Sứ Điệp từ Thiên Chúa trao cho Đức Maria, là tin mừng, là hỷ tín, nhưng cũng là trách nhiệm nặng nề.
Dù sợ, nhưng khi hiểu ra vấn đề, Đức Maria đã mau mắn vui vẻ chấp nhận, không so đo, không tính toán. Từ đó, Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa bắt đầu trở nên hiện thực. Và rồi Thánh sử Gioan xác nhận: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, vàNgười đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1:14ab).
Trình thuật Is 7:10-14 ngắn gọn nhưng chứa một sứ điệp tuyệt vời. Ngày xưa, vua A-khát được Thiên Chúa cho phép: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Nhưng ông e ngại với lòng khiêm nhường, và ông trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Sứ điệp này cảnh báo chúng ta “đừng đùa với lửa”, vì có những lần chúng ta đã từng thử thách Thiên Chúa mà chúng ta không biết hoặc tìm cách biện hộ cho mình.
Ông I-sai-a đưa ra một sứ điệp cho dân chúng với lối “hỏi–đáp” đơn giản: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Đó là lời tiên báo về Đức Maria, một thôn nữ miền Na-da-rét, được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa.
Là thục nữ và được giáo dục đạo đức của Cha Mẹ – ông Gioakim và bà Anna, nên Cô Gái Trẻ Maria không chỉ thánh thiện mà còn khiêm nhường – nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Thiên Chúa ưa thích tính khiêm nhường chứ không cần thứ gì khác, như Thánh Vịnh xác nhận: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đãmở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Cô Gái Trẻ Maria cũng luôn “xin vâng” trong mọi sự, theo cách mà Kinh Thánh đã đề cập: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:8-9). Cả cuộc đời Đức Maria đã sống vuông tròn theo Thánh Ý Chúa, và cuộc đời Mẹ là “lời nói” vang ngân mãi mọi thời đại: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Vì khiêm nhường mà người ta mới có thể vâng lời. Hai nhân đức này là nhân đức đối nhân, không là nhân đức đối thần, nhưng vẫn có tầm quan trọng lắm, và luôn có hệ lụy với nhau theo tính liên đới. Thánh Phaolô chứng minh và đề cập đức vâng lời: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7).
Thánh Phaolô tiếp tục dẫn chứng về ý muốn của Thiên Chúa Cha và đức tuân phục của Thiên Chúa Con: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễxá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.
Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Tương tự, phàm nhân cũng luôn yêu quý những người biết tự nguyện, chứ không miễn cưỡng.
Chúa Giêsu là Chiên Hiến Tế Thánh, vô giá, dâng một lần nhưng có hiệu lực từ hồng hoang tới tận thế. Chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi, bất xứng, nhưng nếu biết khiêm nhường thì vẫn có giá trị đối với Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải dâng lễ tế nhiều lần, dâng lễ đền tội cho chính mình và cho người khác.
Thánh sử Luca cho biết về việc Sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Sự kiện này chỉ được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 1:26-38), ba Tin Mừng kia không có. Thánh Luca cho biết: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứthần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria”. Rất rõ ràng các chi tiết!
Cuộc đối thoại siêu nhiên nhưng có vẻ rất tự nhiên, như một đoạn video clip, rất sống động, rất đời thường.
Sứ thần vào nhà và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối vì “kỳ thí mồ” đi, chả hiểu ất giáp chi ráo trọi. Lạ thế nhỉ! Nhưng Sứ thần liền nói một hơi dài: “Này Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chịđẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Đức Maria vẫn thấy chưa ổn, vẫn ngại lắm, nên thưa với Sứ thần: “Mèn ơi, việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.
Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽrợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Và để chắc cú, Sứ thần dẫn chứng cụ thể: “Này nhé, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị đấy, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bịmang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Lạy Chúa tôi, nhẹ cả mình! Hai năm rõ mười, thế là an tâm, chả lo sợ chi nữa. Bấy giờ Đức Maria liền nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳcủa Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời “xin vâng” này là điều quyết định rất quan trọng để rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta”.
Xin vâng là tuân phục Thánh Ý Chúa, dù biết rằng “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), nhưng chắc chắn không là điều dễ thực hiện, mà phải nỗ lực rất nhiều và phải cậy nhờ ơn Chúa.
Xin tạ ơn Thiên Chúa, vì thương xót nhân loại mà Ngài lập Kế Hoạch Cứu Độ rất kỳ diệu. Xin cảm ơn Đức Maria, nhờ lời xin vâng của Mẹ mà chúng con diễm phúc được Chúa Giêsu đến ở cùng và chia sẻ vui buồn với chúng con, đồng thời chúng con cũng được làm con cái Mẹ.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin Ngài hành động nơi chúng con theo Thánh ÝNgài, xin giúp chúng con luôn can đảm “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong lúc gian nan khốn khó. Xin Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay và đồng hành với chúng con, giúp chúng con kiên cường sống trọn ba đức đối thần suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Đối với một người phụ nữ, khoảnh khắc làm mẹ thật cao cả và thiêng liêng. Hạnh phúc biết bao trong giây phút đầu tiên cưu mang trong cung lòng đứa con của mình. Tuy nhiên hoàn cảnh làm mẹ đến với Mẹ Maria theo cách rất đặc biệt. Hành trình làm mẹ của Mẹ Maria đến trong một khung cảnh vừa kỳ lạ nhưng cũng thật đơn sơ, vừa bất ngờ nhưng lại rất thánh thiêng và sâu sắc.
Lời Chúa trong ngày lễ Truyền tin đưa chúng ta đến một viễn cảnh thật thiêng liêng trong giây phút làm mẹ của Đức Maria. Đó là một hành trình thật cao cả và tuyệt vời. Mẹ đón nhận Con Thiên Chúa trong sự khiêm hạ đơn hèn. Mẹ đón nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa trong cái nhìn của đức tin để vượt qua những gian nan thử thách. Mẹ đã xin vâng trong sự tín thác để đồng hành cùng con mình đến tận hơi thở cuối cùng.
Nếu không có lòng quảng đại thì Mẹ đã khước từ đau khổ của bóng thập giá ngay từ giây phút truyền tin.
Nếu không có một đức tin mạnh mẽ thì Mẹ không thể đủ can đảm để đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt trên hiểu biết của con người.
Nếu không tín thác trọn vẹn cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa thì Mẹ đã không đáp lời xin vâng trước biến cố quá lớn lao ấy.
Mẹ xin vâng cho dẫu Mẹ chưa hiểu. Mẹ xin vâng cho dẫu phải đối diện với nguy nan. Lời xin vâng khiêm hạ nhưng chứa chất một sự cậy trông lớn lao. Mẹ tin tưởng phó thác cả cuộc đời mình cho Đấng đã tuyển chọn Mẹ. Lời thưa xin vâng ấy đã đưa Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.
Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế. Có Mẹ chúng ta sẽ vượt qua được mọi thăng trầm của trên dòng đời lắm nổi trôi hôm nay, để một ngày không xa chúng ta sẽ cùng Mẹ chung hưởng vinh phúc trên Nước Trời.
Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Vì yêu thương nên Ngài đã đặt con người sống trong vườn Địa Đàng với biết bao ân huệ. Thế nhưng, con người nghe theo lời xúi giục của ma quỷ đã sa ngã phạm tội, nên bị Thiên Chúa tước mất mọi ân sủng, đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng.
Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi con người. Ngài đã nói với con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và người nữ, Người Nữ sẽ đạp giập đầu mày” (St 3,15).
Khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Thiên Thần đến gặp Đức Mẹ và loan báo ý định của Ngài. Sau khi nghe Thiên Thần loan báo, Đức Mẹ bối rối vì không hiểu lời Thiên Thần, hay nói đúng hơn, Đức Mẹ phân vân giữa chức vụ làm mẹ Thiên Chúa và việc giữ mình đồng trinh, nên Mẹ thưa với Thiên Thần rằng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1,34). Thiên Thần đã giải thích cho mẹ biết, việc Mẹ thụ thai và sinh con là do Chúa Thánh Thần. Để thuyết phục Đức Mẹ, Thiên Thần còn đưa ra dẫn chứng về việc thụ thai trong tuổi già của bà Êlizabet cách đây 6 tháng. Cuối cùng Thiên Thần kết luận: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Sau khi nghe Thiên Thần giải thích, Đức Mẹ đã thưa xin vâng: “Này tôi là tôi tới Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1,38). Nhờ tiếng thưa “Xin Vâng” của Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thể Làm Người, lịch sử Cứu Độ đã bắt đầu sang trang và biến Mẹ từ một thiếu nữ Do thái trở thành Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Khi nói về tầm quan trọng hai tiếng xin vâng của Mẹ, công đồng Vatican II đã lặp lại lời của các Giáo Phụ xưa rằng: Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (x. Lumen gentium, số 56). Thánh Bênađô thì kêu lên rằng: “Ôi trinh nữ, Adam đang khóc lóc cầu khẩn Mẹ trả lời, Đavit cũng khẩn cầu, các tổ phụ cũng không ngớt nài xin. Câu trả lời ấy cả thế giới này đang phủ phục dưới chân Mẹ và chờ đợi nó. Bởi việc giải thoát cho những ai đang đau khổ, chuộc lại kẻ giam cầm, trả tự do cho người bị kết án và sau cùng là phần rỗi của mọi con cái Adam, của toàn thể dòng dõi Mẹ đều tùy thuộc vào lời thưa của Mẹ”.
Đối với Mẹ, để thưa xin vâng, Mẹ phải chấp nhận hy sinh, hy sinh vì lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhân loại. Lời thưa xin vâng của Mẹ, thể hiện sự phó thác tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Bởi vì, lời thưa xin vâng không chỉ thực hiện trong biến cố truyền tin mà còn kéo dài trong suốt cuộc sống của Mẹ. Sau biến cố truyền tin là cả hành trình dài đầy gian nan đau khổ. Từ việc bị Thánh Giuse hiểu nhầm, đến việc sinh con trong hang đá nghèo hèn, lạnh lẽo. Việc bà Anna loan báo về sự đau khổ của Hài Nhi khi Mẹ đưa Chúa Giêsu dâng trong đền thờ. Việc đưa con trốn sang Ai cập khỏi Hêrôđê lùng bắt. Suốt ba mươi năm tại làng quê Nazaret, Mẹ sống âm thầm cùng với Thánh Giuse nuôi Chúa Giêsu khôn lớn. Sau đó, Mẹ đã đồng hành với con suốt ba năm trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Đặc biệt, khi Mẹ chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của con mình trên thập giá… Qua những biến cố đau thương như vậy, để thưa xin vâng, Mẹ phải có một niềm phó thác và một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Chính bà Êlizabeth đã xác nhận điều đó khi nói với Mẹ rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Như vậy, để cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu rỗi nhân loại, Mẹ Maria đã thực hiện lời xin vâng một cách trọn vẹn bằng cả cuộc sống.
Đối với chúng ta hôm nay, sự vâng lời luôn luôn cần thiết: Người dưới vâng lời người trên, con cái vâng lời cha mẹ, học sinh vâng lời thầy cô, vợ chồng lắng nghe nhau… Đó không chỉ là nét đẹp của cuộc sống hằng ngày và để gia đình, xã hội có tôn ti trật tự mà còn là điều kiện để gia đình hạnh phúc và xã hội bình yên. Chúng ta thử hình dung: Nếu trong một gia đình mà con cái không vâng lời cha mẹ, vợ chồng không biết lắng nghe nhau; ở nhà trường, học sinh không vâng lời thầy cô; xã hội không có trên dưới… thì gia đình, nhà trường, xã hội đó sẽ như thế nào? Thực tế cho chúng ta thấy, vì không biết vâng lời cho nên con cái hư hỏng, trò đánh thầy, hỗn loạn nhiều nơi trong xã hội chúng ta đang sống.
Trong lĩnh vực tôn giáo, “Đức Vâng Lời” lại còn quan trọng hơn gấp bội phần. Đức vâng lời được thể hiện qua việc lắng nghe tiếng Chúa. Tiếng Chúa qua Lời Chúa và các giới răn. Thực hành lời Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa một cách trọn vẹn là chúng ta đang giữ nhân đức vâng lời. Đức vâng lời còn được thể hiện qua việc vâng nghe sự dạy bảo của các vị bề trên coi sóc linh hồn chúng ta. Đó có thể là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục hay cha mẹ anh chị của chúng ta. Đối với các cộng đoàn dòng tu, vâng lời các vị bề trên không chỉ là nhân đức mà còn thực hiện một trong ba lời khấn.
Việc tuân giữ đức vâng lời không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là khi không hiểu ý bề trên (như trường hợp của Đức Mẹ) hay khi sự vâng lời đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh, thậm chí là phải đổ máu (như trường hợp các thánh tử đạo). Vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng luôn và trong mọi hoàn cảnh hãy thưa với Thiên Chúa như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, nhân loại đã bước sang một trang sử mới là trang sử Cứu Thế. Ngày hôm nay, để viết lên những trang sử đẹp, rất cần nhiều tiếng thưa xin vâng trong gia đình, Giáo Hội và xã hội. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta biết noi gương Mẹ, chấp nhận hy sinh để luôn thưa xin vâng trong những điều đẹp ý Chúa. Amen.
Mỗi khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu cuộc truyền tin: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà. Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà". Ðây chính là lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.
Quả thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng một câu trả lời đầy thuyết phục một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môisen hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả lời giản dị mà có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm. Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ. Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.
Thay cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm. Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn, khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ Maria ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. Hôm nay, khi suy niệm về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.
Ngày hôm nay Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng, làm biến đổi toàn thể nhân loại và mở ra một chương mới trong lịch sử cứu độ, đó là biến cốthiên thần báo tin cho Đức Mẹ. Tin Mừng kể lại: sự kiện truyền tin xảy ra tại làng Nadarét, thuộc miền Galilê, nước Do Thái. Sứ Thần Gáprien được Thiên Chúa sai đi, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria. Lúc đó, Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse, nhưng chưa chung sống.
Sứ thần báo cho Đức Maria biết một tin vui rất trọng đại: Thiên Chúa muốn Đức Maria làm mẹ Đấng Cứu Thế. Sau phút giây do dự, suy nghĩ và tìm hiểu, Đức Maria tin rằng đây là thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ an tâm mà thưa tiếng “xin vâng”: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần nói”(Lc 1,38).
Truyền tin mầu nhiệm nhập thể
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại sự kiện sứ thần Gáprien truyền tin cho Đức Maria. Tiếng “xin vâng” của Mẹ đã đưa Mẹ đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thánh Luca tường thuật một cách nhẹ nhàng, gây một niềm vui khôn tả: và đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và được gọi là con Đấng Tối Cao.
Sự kiện trọng đại này đã được tóm tắt thành Kinh Truyền Tinmà các Kitô hữu đạo đức vẫn đọc lên hàng ngày: “Đức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần truyền tin cho rất thánh Đức Bà Maria, và rất thánh Đức Bà chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần…Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời. Tôi xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền”. Lời kinh ngắn gọn, nhưng gói gém toàn bộ chân lý đức tin của Kitô giáo. Vì thế, khi chúng ta đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô mà còn nguyện xin ơn được thông hiệp vào mầu nhiệm ấy nữa.
Qua biến cố truyền tin, Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người và ở cùng chúng ta, để cứu độ chúng ta. Vì thế, trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng niềm tin về biến cố này như sau: “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã xuống thế làm người…”. Để có thể cứu độ con người, Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận thân phận thấp hèn của con người, để từ đó nâng phẩm giá con người lên.
Đức Maria đón nhận mầu nhiệm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Mẹ đã lắng nghe Thiên Thần đưa tin, rồi tìm hiểu trước khi đón nhận một cách khiêm tốn. Thật vậy, Mẹ đã chất vấn sứ thần Gáprien: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Sau khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã chấp nhận với một tâm hồn cởi mở, tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Mẹ quả thật là người biết lắng nghe lời Chúa và cất giữ những lời ấy để suy đi nghĩ lại trong lòng. Đồng thời, Mẹ đã nói lên tiếng thưa “xin vâng” trong niềm tín thác, biểu lộ một đức tin và lòng tuân phục chân thành.
Vì thế, đối với Đức Maria, chức làm mẹ thuần túy chưa phải là niềm vinh dự lớn lao nhất, mà là niềm tín thác mẹ đặt nơi Chúa, như lời thánh Augustinô đã dạy:“Đức Maria có đức tin vào Đức Kitô hơn là vì Mẹ cưu mang nhục thể Đức Kitô… mối quan hệ mẫu tử của Mẹ có thể chẳng ích lợi gì đối với Mẹ nếu Mẹ chẳng vui sướng cưu mang Đức Giêsu trong trái tim hơn là trong dạ Mẹ. Mẹ đã thụ thai Đức Kitô trong đức tin trước khi Mẹ thụ thai Ngài trong dạ…Chính qua đức tin, Mẹ đã sinh hạ Ngài”.
Chính vì vậy, Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo Hội gọi Đức Maria là mẫu gương phi phàm cho Giáo Hội trong đức tin và đức mến. Di sản ngàn đời của Mẹ để lại cho chúng ta là đức tin và đức mến. Đức tin phải có một địa chỉ đi về đó là đức ái. Mà đức ái là việc lắng nghe và tuân giữ lời Chúa.
Đến lượt chúng ta
Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào cảm nghiệm được hai tiếng xin vâng của Đức Mẹ. Nhờ việc sùng kính Đức Mẹ cách sốt sắng, đặc biệt noi gương Mẹ nói tiếng “xin vâng” để chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta sẽ đón nhận nhiều ơn lành qua tay Đức Mẹ. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, chúng ta là con người yếu đuối và tội lỗi, nênchúng ta không xứng đáng đón nhận nguồn ân sủng nơi Ngài. Vậy nên chúng ta cần có Mẹ như là chiếc cầu nối để chuyển thông ân sủng cho chúng ta. Như thánh Bênađô đã nói: “Tội nhân ạ, chính vì bạn không xứng nhận ơn Chúa, mà Chúa đã ban mọi ơn cho Mẹ, để bạn đến nhận lấy từ tay Mẹ”.
Chuyện kể rằng: một hôm có hai mẹ con được vào diện kiến nhà Vua. Nhà Vua đã bảo người hầu đưa ra rất nhiều kẹo. Rồi nhà vua bảo đứa bé ngửa bàn tay ra và nói: “Bây giờ trẫm chỉ cho con vừa đủ trong hai bàn tay thôi”. Khi đó, đứa bé rất khôn ngoan đã nói rằng: “Thưa Đức Vua, vậy thì con sẽ nhờ mẹ của con lấy dùm, vì bàn tay của mẹ to hơn”. Nhà vua đã khen đứa bé khôn ngoan và đã thưởng cho nhiều kẹo và những phần thưởng có giá trị khác.
Trong cuộc sống đức tin của chúng ta hôm nay cũng thế, nếu chúng ta biết tin tưởng, sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, thì Đức Mẹ sẽ che chở, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, và chúng ta sẽ nhận được rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa. Chúng ta có rất nhiều hy vọng vì Đức Mẹ rất thương yêu và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Thánh Bênađô đã nói: “Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời”. Với niềm hy vọng đó, những khi gặp khó khăn thử thách, đau khổ, chúng ta hãy đến với mẹ và cùng với Đức Mẹ hát lên bài ca xin vâng: Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó, xin Mẹ dạy con hai tiếng “Xin Vâng”.
Vào các dịp sinh nhật hoặc các dịp đặc biệt chúng ta thường có thói quen tặng người thân những món quà và đồng thời cũng đã từng nhận được những món quà dễ thương. Tặng quà là thể hiện tấm lòng yêu thương quý mến của người tặng dành cho người nhận, qua món quà người trao như muốn trao tặng tình cảm và cả con người mình cho người nhận. Còn người nhận khi đón nhận món quà thường rất vui không phải vì giá trị của món quà, mà vì thấy rằng mình có một vị trí đặc biệt trong trái tim của người tặng. Tuy nhiên ngày nay với thời buổi con người đáng giá tình cảm của nhau trên thang giá trị vật chất, và lối suy nghĩ thực dụng đã khiến việc trao tặng và nhận quà bị mất đi vẻ đẹp và ý nghĩa ban đầu, nhiều người đã đánh giá tình cảm của nhau theo giá trị của món quà hơn là tấm lòng và tình yêu thương của người trao.
Hôm nay mừng lễ Đức Mariia được truyền tin, chúng ta nhận ra tấm lòng của Thiên Chúa khi trao tặng cho nhân loại một món qua vô giá là Đức Giêsu Con của Ngài, và Trinh nữ Maria là người đại diện đã đón nhận với một sự trân trọng cung kính và khiêm tốn.
Bài đọc một cho thấy vợ chồng vua Akhat đã từ chối đón nhận món quà của Thiên Chúa. Lúc đó nhà vua không có con trai nối dòng, vua và hoàng hậu lại sa đà vào lối sống của dân ngoại, chay theo việc cúng bái thần Baal. Nhà vua đã lập đàn cúng bái để xin có con nối dõi, trước việc làm sai trái và gây gương xấu này, tiên tri Isai đã cảnh cáo nhà vua và nói với nhà vua: Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi ban cho một dấu dưới âm phủ hoặc trên chốn trời cao. Nhưng vua Akhat đã nhất mực không xin Chúa, ông lấy lý do là không dám thử thách Thiên Chúa.
Trước sự cứng đầu của vua Akhat, tiên tri Isai đã nói, dù vua không xin thì Thiên Chúa cũng sẽ cho một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên Người là Emanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Lời tiên báo này thật lạ lùng: Một trinh nữ sẽ mang thai. Điều này vượt quá sức tưởng tượng của con người, tuy nhiên đó không phải lá điều khó khăn đối với Thiên Chúa.
Đến thời đã định, Thiên Chúa đã thực hiện lời tiên báo này và cô trinh nữ được tuyển chọn để đón nhận lời hứa, đón nhận món quà đặc biệt này chính là Đức trinh nữ Maria. Câu chuyện trong Tin Mừng cho thấy, với sự tôn trọng sự tự do của con người, Thiên Chúa đã cho sứ thần Gabriel đến để hỏi ý kiến Đức Maria. Thiên thần vào nhà Đức maria và chào rằng kính chào bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà. Lời chào hết sức trân trọng và lạ lùng khiến cho Đức Maria bối rối vì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng thiên thần đã trấn an và giải thích: Maria Đừng sợ, này đây nàng sẽ mang thai và sinh hạ một con trai… Con Trẻ sẽ được gọi là con Đấng tối Cao. Một món quà hết sực bất ngời và hết sức lớn lao, Maria cảm thấy mình nhỏ bé thấp kém trước quyền năng của Thiên Chúa. Maria cũng chẳng hiểu thế nào là: Quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm trên bà .. Đấng thánh bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Mặc dù không thể hình dung điều gì sắp xãy ra cho mình, nhưng với lòng khiêm tốn và biết ơn, Maria đã thưa: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Khác với sự kiêu ngạo của Eva ngày xưa, và khác với sự cứng lòng của vợ chồng vua Akhát, Đức Maria đã trở thành người phụ nữ đại diện cho cả nhân loại ngoan ngoãn, khiêm tốn cúi đầu, để đón nhận món quà tình yêu của Thiên Chúa, Mẹ thưa tiếng xin vâng để trao phó trọn cuộc đời mình cho chương trình lớn lao của Thiên Chúa, đo là chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa và đã chuẩn bị từ ngàn xưa.
Với lời Thưa vâng này, Đức Maria đã mở rộng tâm hồn để cho Ngôi Hai Con Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình, và qua Mẹ Ngài bước vào thế giới này và Mẹ trở thành một cộng tác viên nhiệt thành, trung tín của Người trong chương trình mà Thiên Chúa Cha đã thực hiện. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người, và Đức Giêsu chính là món quà của Thiên Chúa được ban tặng cho nhân loại. Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhật trút bỏ vinh quang, để mang lấy thân phận con người trở nên giống phàm nhân để cứu chuộc nhân loại chúng ta.
Chúa Giêsu đã không đến trần gian bằng một cách thức nào khác, mà đã đến trong thân phận của con người, đầu thai trong cung lòng của một người trinh nữ. Là Đấng tạo dựng muôn loài, giờ đây, Đức Giêsu lại chấp nhận mang thân phận của tạo vật và còn làm con của con người. Với sự hạ mình thẳm sâu và vâng phục hoàn toàn như thế, Đức Giêsu đã trở thành một người con hiếu thảo của Chúa Cha. Điều mà mọi người cha mong đợi đó là sự ngoan ngoãn vâng lời của con cái, thì cũng vậy Thiên Chúa vui lòng đón nhận sư ngoan ngoãn vâng lời của Đức Giêsu con của Ngài, chấp nhận mang thân phận thụ tạo, và còn vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Mừng lễ Đức Maria được truyền tin hôm nay, chúng ta cảm tạ và khâm phục tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Một Thiên Chúa trung thành với lời đã hứa, trung thành với tình yêu dành cho con người. Con người có là chi, vũ trụ này có là gì trước mặt Thiên Chúa, thế mà Ngài chấp nhận đánh đổi con của Ngài, trao tặng người con ấy cho trần gian.
Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì Chúa đã thương cho Đức Maria được cộng tác vào trong chương trình lớn lao này của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể cứu con người bằng nhiều cách, nhưng Thiên Chúa vẫn để cho con người cộng tác vào công việc của Ngài, và Đức Maria đã cộng tác hết mình với công việc lớn lao này. Thiên Chúa đã vô cùng quảng đại đã trả lại cho Mẹ bằng nhiều đặc ân vô cùng cao trọng mà không ai trong nhân loại có được những đặc ân ấy.
Cùng với tiếng xin vâng của Đức Maria, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời chúng ta, sử dụng chúng ta cho chương trình cứu chuộc của Ngài. Sẵn sàng dâng trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa đang muốn chúng ta cộng tác với Ngài để đem Đức Giêsu đến trong gia đình trong xóm ngõ và mọi môi trường sống của chúng ta. Amen.
Đức Maria vừa được sứ thần Chúa đến báo tin là được chọn làm Mẹ Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Và sau khi đã nghe sứ thần giải đáp những điều còn thắc mắc, Mẹ chỉ vắn tắt thưa cùng sứ thần: Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.
Là Mẹ của con Thiên Chúa, tức là Mẹ của Thiên Chúa, nhưng Đức Maria vẫn chỉ coi mình là nữ tỳ. Cũng như Đức Kitô, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nhưng cũng khẳng định là mình đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người. Nói cách khác, tuy thực sự là Thầy và là Chúa, nhưng Đức Kitô muốn sống giữa anh em nhân loại của mình như một người tôi tớ chứ không như một ông chủ. Và Ngài cũng muốn cho cộng đoàn Dân Chúa, mà Ngài lập ra, phải luôn tôn trọng nguyên tắc Ngài đã ấn định: Vua Chúa các dân thì lấy quyền mà thống trị và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em thì phải nên người nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.
Trong xã hội phong kiến ngày xưa, vua quan được coi như cha mẹ của dân: dân chi phụ mẫu. Ngày nay, tuy phần lớn các quốc gia đã trở thành dân chủ và nhiều người lãnh đạo chính quyền vẫn tự xưng mình là "công bộc", là "đầy tớ”của nhân dân. Nhưng trong thực tế, thì chỉ thấy người ta đón tiếp, chào hỏi long trọng và hết lòng phục vụ các người đầy tớ ấy, mà chẳng ai đón tiếp, chào hỏi người dân, nhất là những người nghèo và những kẻ làm tôi thực sự.
Còn Đức Maria và Chúa Giêsu thì vẫn trước sau như một. Chỉ biết sống vì mọi người và cho mọi người, hay nói cách khác, lấy sự phục vụ mọi người làm phương châm. Chúa Giêsu thì chủ tâm thực hiện sứ vụ người tôi tớ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã phác hoạ, còn Mẹ Maria thì chỉ thích sống như một người nữ tỳ của Chúa.
Giáo Hội, một mặt là nhiệm thể Đức Kitô, một mặt cũng là hình ảnh nối tiếp của Đức Maria, nên cũng phải thể hiện vai trò làm tôi tớ và nữ tỳ của Thiên Chúa. Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, người mẹ nào cũng trước hết làm mẹ, làm tôi tớ rồi mới làm thầy dạy con cái mình. Con càng nhỏ dại, mẹ càng phải vất vả hầu hạ và nhất là con càng đau yếu, thì mẹ càng pảhi chăm sóc tận tình. Giữa chức vụ làm mẹ và làm thầy thì có bổn phận làm tôi tớ. Người ta phải yêu mến cha mẹ, phải sống trọn chữ hiếu. Người ta phải tôn kính thầy mình. Nhưng không ai có bổn phận phải biết ơn tôi tớ. Trái lại kẻ làm tôi thường bị khinh rẻ và cư xử bất công. Người ta đã bất công như thế nào đối với Chúa Giêsu chỉ vì Ngài đã không dùng quyền năng để áp đặt trên họ một quyền thống trị, mà lại chỉ muốn hầu huyện mọi người như tôi tớ. Vậy nếu ngày hôm nay Giáo Hội có bị coi thường, bị ngược đãi, thậm chí có bị bách hại, thì âu cũng là lẽ thường, bởi chính Đức Kitô cũng đã từng bị ngược đãi và bị giết. Cũng chính Người đã báo trước cho các môn đệ biết trước số phận đang chờ đón họ. Thà chúng ta tự coi mình như những đầy tớ vô dụng, làm tất cả những gì Chúa dạy phải làm, rồi sau đó có bị quên ơn, ngược đãi, còn hơn là tự tôn mình làm thầy, làm chúa thiên hạ, rồi sau bị người ta nguyền rủa và lên án: Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chính vì chỉ muốn làm nữ ty của Chúa, nên Đức Maria đã được chọn làm Mẹ Thiên Chúa và được mọi đời khen ngợi là người diễm phúc.
Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ: Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.
Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ: “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Lời xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.
Qua lời xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.
Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả sự từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Adong Evà ngày xưa.
Lời Xin Vâng của Mẹ chấm dứt vai trò của Cựu Ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân Ước. Lời Xin Vâng của Mẹ là tiếng nói đầy thảo hiếu của một người con. Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu: tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy.
Ngày xưa ma quỷ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỷ đã dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại trở nên tốt lành. Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỷ thì hôm nay Maria tin vào lời của sứ thần Thiên Chúa. Đó là những sự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô: “Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống”.
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Thiên Chúa chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ Maria ngày xưa.