Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS- Xếp gọn trong Tuần 1-2024

Thứ bảy - 06/04/2024 10:03
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS- Xếp gọn trong Tuần 1-2024
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS- Xếp gọn trong Tuần 1-2024

Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS
Xếp gọn trong Tuần 1-2024
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
Lời Chúa: Mt 28, 8-15. 3
Suy Niệm 1: “Chào chị em!”. 3
Suy Niệm 2: Bàn tay che mặt trời 5
Suy Niệm 3: Phép lạ Phục Sinh. 6
Suy Niệm 4: Kiểm duyệt tin tức. 7
Suy Niệm 5: Hãy Về Báo Tin Cho Các Anh Em Ta. 9
Suy Niệm 6: Đừng giữ Thầy lại 10
Suy Niệm 7: Cảm nghiệm sự sống lại của Chúa. 11
Suy Niệm 8: Phản ứng khác nhau về Chúa Phục Sinh. 12
Suy Niệm 9: Chúa đã sống lại thật chăng. 14
Suy Niệm 10: Chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh. 16
Suy Niệm 11: Sự kiện Chúa Giêsu chịu chết và sống lại 19
Suy Niệm 12: Chúa sẽ gặp các tông đồ ở Galilêa. 21

Thứ 3: 22
Lời Chúa: Ga 20, 11-18. 23
Suy Niệm 1: Tôi đã thấy Chúa. 23
Suy Niệm 2: Giêsu, mục đích cuộc đời 25
Suy Niệm 3: Niềm tin Phục Sinh. 26
Suy Niệm 4: Trong ta như trong Maria Mađalêna. 27
Suy Niệm 5: Tôi Ðã Xem Thấy Chúa Phục Sinh. 28
Suy Niệm 6: Yêu để tin và làm chứng. 29
Suy Niệm 7: Mang lại niềm vui Phục Sinh cho người khác. 31
Suy Niệm 8: Hãy đi loan tin Chúa phục sinh. 32
Suy Niệm 9: Chúa hiện ra với bà Maria Madalena. 33
Suy Niệm 10: Các phụ nữ báo tin cho môn đệ. 35
Suy Niệm 11: Thay đổi vì Chúa sống lại 38
Suy Niệm 12: Bà Maria thấy Chúa sống lại 40

Thứ 4: 42
Lời Chúa: Lc 24, 13-35. 42
Suy Niệm 1: Mời ông ở lại với chúng tôi 43
Suy Niệm 2: Trở nên khác biệt 44
Suy Niệm 3: Trên đường Emmaus. 46
Suy Niệm 4: Sao các bạn buồn. 47
Suy Niệm 5: Chúa Ðã Sống Lại 48
Suy Niệm 6: Lời Chúa đem lại niềm vui và hy vọng. 49
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu thuyết phục 2 môn đệ Emmaus. 50
Suy Niệm 8: Chúa Phục sinh hiện diện trên đường Emmaus. 51
Suy Niệm 9: Trên đường đi Emmaus. 53
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu phục sinh tác động nơi các môn đệ. 55
Suy Niệm 11: Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống, ở kề bên ta. 57
Suy Niệm 12: Hai môn đệ nhận ra Chúa. 60

Thứ 5: 61
Lời Chúa: Lc 24, 35-48. 61
Suy Niệm 1: Anh em là chứng nhân. 62
Suy Niệm 2: Giêsu, điểm tới của Thánh Kinh. 64
Suy Niệm 3: Ðau khổ là một hồng ân. 65
Suy Niệm 4: Mở trí cho hiểu Kinh Thánh. 65
Suy Niệm 5: Thầy Ðây Ðừng Sợ. 67
Suy Niệm 6: “Bình an cho anh em”. 68
Suy Niệm 7: Chúa vẫn sống mãi đến muôn đời 70
Suy Niệm 8: Chúa Phục Sinh ban bình an. 70
Suy Niệm 9: Đời sống chứng nhân. 72
Suy Niệm 10: Cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu Phục sinh. 74
Suy Niệm 11: Chúa Phục Sinh hiện diện trong cuộc sống của người tin Chúa. 76
Suy Niệm 12: Chúa tử nạn và rồi mới phục sinh. 78

Thứ 6: 80
Lời Chúa: Ga 21, 1-14. 80
Suy Niệm 1: Chúa đó. 80
Suy Niệm 2: Phục sinh vũ trụ. 82
Suy Niệm 3: Tìm lại được bản thân. 83
Suy Niệm 4: Đức tin mai sau. 84
Suy Niệm 5: Chúa Hiện Ra Trên Biển Hồ Tibêria. 85
Suy Niệm 6: “Chúa đó”. 87
Suy Niệm 7: Chúa Phục Sinh hiện diện trong Giáo Hội và trong cuộc sống mỗi người 88
Suy Niệm 8: Tiếp tục ra khơi, dù cả đêm vất vả. 89
Suy Niệm 9: Chúa hiện ra ở bờ biển hồ Tibêria. 90
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trên biển hồ Tibêria. 92
Suy Niệm 11: Cảm nếm niềm vui vì Chúa luôn hiện diện với 94
Suy Niệm 12: Chúa trao các tông đồ bánh và cá. 97

Thứ 7: 98
Lời Chúa: Ga 21, 1-14. 98
Suy Niệm 1: Chúa đó. 99
Suy Niệm 2: Phục sinh vũ trụ. 101
Suy Niệm 3: Tìm lại được bản thân. 102
Suy Niệm 4: Đức tin mai sau. 103
Suy Niệm 5: Chúa Hiện Ra Trên Biển Hồ Tibêria. 104
Suy Niệm 6: “Chúa đó”. 105
Suy Niệm 7: Chúa Phục Sinh hiện diện trong Giáo Hội và trong cuộc sống mỗi người 107
Suy Niệm 8: Tiếp tục ra khơi, dù cả đêm vất vả. 107
Suy Niệm 9: Chúa hiện ra ở bờ biển hồ Tibêria. 109
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trên biển hồ Tibêria. 111
Suy Niệm 11: Cảm nếm niềm vui vì Chúa luôn hiện diện với 113
Suy Niệm 12: Chúa trao các tông đồ bánh và cá. 115

----------------------------------
 

Thứ 2:

Phép lạ Phục Sinh.
Thứ Hai tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó".

 

Lời Chúa: Mt 28, 8-15


Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu".
Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: “Chào chị em!”


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên.

Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria.
Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ
về sự phục sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7),
các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống.
Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương,
vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu
Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi,
nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van.
Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ
Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến.
Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn.
Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng,
các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói.
Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ,
các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh.
Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt.
Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9).
Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào.
Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ.
Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại
cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê.
Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.”
Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó.
Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ
Như vậy các bà có thể thấy được và đụng chạm được Đấng phục sinh.
Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài.
Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em:
“Hãy đi và báo cho anh em của Thầy...” (c. 10).
Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài.
Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ.
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên.
Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh.
Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời.
Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần,
mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm.
Đức Giêsu phục sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng,
dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình,
dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ.
Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu.
Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Bàn tay che mặt trời


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa phục sinh. Điều kỳ diệu chưa từng có. Chưa trí khôn nào nghĩ tới. Như một mặt trời mọc lên chiếu soi khắp cùng thế giới. Làm bừng lên chân lý trong tâm hồn các môn đệ. Một niềm vui vô bờ bến. Vì Chúa đã chiến thắng. Con người được cứu chuộc. Lịch sử sang một trang mới hào hùng. Trí khôn mở ra. Các môn đệ chợt hiểu thấu tất cả.

Thì ra đó là kế hoạch của Thiên Chúa. Đã được báo trước từ ngàn đời. Thiên Chúa đã hứa cho một người thuộc dòng dõi Đa-vít sẽ lên kế vị. Và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận. Còn hơn thế nữa Đấng ấy sẽ từ cõi chết sống lại. Thánh Phê-rô, trong niềm xác tín mãnh liệt, đã nhắc lại cho dân Do thái: “Thưa anh em, …Thiên Chúa đã thề với người (vua Đa-vít) là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cói âm ty và thân xác Người không phải hư nát”. Quả thật, “theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết”.

Kế hoạch cho thấy quyền năng của Thiên Chúa vô cùng cao siêu. Không trí khôn nào hiểu thấu. Không sức mạnh nào ngăn cản được. Kế hoạch cũng cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa là vô bờ bến. Vượt qua mọi yếu đuối tội lỗi. Vượt qua cả cái chết. Để đưa con người đến sự sống. Mà Chúa Ki-tô, Con yêu dấu của Người là Trưởng Tử đi đầu. Cho chúng ta được đi theo: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan”.

Một cuộc đời mới khởi đầu. Không còn sợ hãi nữa. Nhưng bắt đầu lại từ đầu. Để làm chứng cho Chúa: “Chị em đừng sợ! Hãy về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê, Họ sẽ được thấy thầy ở đó”. Ga-li-lê là khởi đầu. Ga-li-lê sẽ bắt đầu lại. Tươi mới. Phấn khởi. Tràn đầy niềm vui và hi vọng.

Nhưng thế lực sự chết vẫn còn cố gắng chống lại Chúa. Vẫn còn mưu toan lừa dối: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Thánh Âu-tinh đã vạch rõ thủ đoạn gian dối: Các anh là lính canh. Tại sao ngủ. Nếu ngủ làm sao biết là họ đến lấy xác. Nếu thức làm sao để họ lấy. Đúng là vải thưa không che được mắt thánh. Bàn tay không che nổi ánh mặt trời. Chỉ tối mắt mình. Mặt trời vẫn chiếu soi rạng rỡ.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Phép lạ Phục Sinh


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Truyện các thánh ẩn tu trong sa mạc thời Giáo Hội tiên khởi có kể lại câu chuyện như sau:

Một người đàn ông nọ nghe đồn về rất nhiều phép lạ do các bậc chân tu thánh thiện thực hiện, nhưng ông không chấp nhận một lời đồn đại nào, ông chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe. Thế là ông lên đường để diện kiến cho bằng được vị chân tu, ông gọi một đệ tử lại và hỏi:

- Thầy của anh đã làm được bao nhiêu phép lạ rồi?

Người đệ tử trả lời:

- Không thể đếm xuể được. Trong xứ của ông, người ta xem như là phép lạ mỗi khi Thiên Chúa làm theo ý muốn của con người. Còn ở đây thì trái lại, chúng tôi coi là phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa.

Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt. Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật. Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.

Hai ngàn năm qua và mãi mãi về sau, sứ điệp Phục Sinh vẫn tiếp tục được loan báo. Phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn. Các Tông Ðồ và những phụ nữ được Chúa hiện ra có lẽ diễm phúc hơn chúng ta. Thế nhưng, các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước việc Chúa sống lại và hiện ra. Những lính canh mồ cũng chứng kiến các điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ.

Phép lạ thiết yếu không phải là một việc phi thường, nhưng trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ khi nào con người tin nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Chúa ngự, chính là chiều theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.

Nguyện xin ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng và hướng dẫn tâm tư hành động của chúng ta, để trong mọi sự, chúng ta sống theo thánh ý Ngài, và như vậy, cảm nhận được phép lạ của tình yêu Ngài trong từng phút giây của cuộc sống.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Kiểm duyệt tin tức


Và Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”

Các bà đang đi, thì kìa mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. (Mt. 28, 9-11)

Ngày nay, những phương tiện thông tin đầy quyền lực và phong phú đa dạng làm cho chúng ta không bao giờ biết được chính xác những sự kiện, những biến cố: báo chí tố cáo nhau giữa phe đảng đã kiểm duyệt tin tức để có lợi cho phe nhóm mình. Những tố cáo và cải chính xen lẫn nhau trên mặt báo hàng ngày. Không ai có thể thấy đâu là sự thật.

Bản văn Tin mừng hôm nay đem ra ánh sáng cho thấy khó có một thông tin khách quan. Xét về sự kiện phục sinh thì có nhiều lối cắt nghĩa bất đồng ý kiến nhau. Có hai lý do đáng chúng ta lưu ý về những khó khăn này:

Trước hết, phía những chứng nhân, những người tiếp nhận tin tức, Đức Giêsu đã sống lại vì Người đã hiện ra với tôi. Thánh sử Tin mừng rất cẩn thận ghi lại nhiều chi tiết tỏ cho thấy sự hiện diện của một thân xác, không phải bóng ma: Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đã ôm chân Người, chỗ khác cho thấy, Người sống lại ăn uống, đốt lửa nướng cá, cho sờ mó vào chân tay Người. Nhưng những chứng nhân này lại sợ hãi. Lúc ban đầu họ sợ hãi bị chế nhạo làm cho họ im lặng trước sự phục sinh của Đức Kitô. Vì thế sứ điệp giải phóng và phục sinh của Đức Kitô cũng đã bị bóp nghẹt trong chính con người chúng ta.

Những kẻ chứng kiến khác thì lại nói quanh co tự bảo vệ mình, bảo vệ quyền lợi mình, công việc mình hay bảo vệ cái tin bịa đặt của mình như các thượng tế và kỳ lão đút tiền cho lính canh mồ để họ loan tin các môn đệ ăn trộm xác Người. Thế lực chính trị thuê mướn thế lực tư pháp, quan tòa, luật sư để bảo vệ đảng của mình. Người ta âm mưu dựng nên những bằng chứng ma, hay mua chuộc những nhân chứng giữ im lặng.

Nhiều lần, chúng ta cũng vì sợ bị chế nhạo mà làm chứng quanh co hay để kẻ khác mua chuộc sự im lặng và lợi dụng đầu cơ những bằng chứng. Chúng ta phải giật mình hổ thẹn rằng Đức Giêsu đã bị tố cáo khiếm diện, Người bị loại trừ, bị tuyên bố là chết rồi.

Những nhân chứng mới của phục sinh không thoát khỏi sự an toàn giả tạo, nếu không quan tâm đặc biệt đến Tin mừng phục sinh, nếu không tuyên bố công khai những điều đã hiểu biết về đêm vượt qua.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Hãy Về Báo Tin Cho Các Anh Em Ta


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Cách đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay có một lon thực phẩm tươi, chắc chắn người ta vẫn không dám yên tâm thưởng thức những món ăn uống tiện dụng này. Ngày nay, chúng ta yên tâm thưởng thức là nhờ công trình nghiên cứu của ông Louis Paster, nhà ký sinh trùng học người Pháp sống vào thế kỷ XIX. Ông đã nghiên cứu các vi sinh để rồi dùng chúng hoặc tiêu diệt chúng. Dùng vi sinh trong việc tiêm các thuốc chủng ngừa, chữa bệnh chó dại, hoặc tiêu diệt chúng trong các quá trình lên men trong đồ ăn, thức uống. Ðây là những đóng góp lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại.

Tuy nhiên, ông còn có các đóng góp khác ít được ai nhắc đến, đó là những đóng góp cho niềm tin. Trong lúc các bạn đồng nghiệp nhìn vào kính hiển vi chỉ thấy có một số tế bào liên kết với nhau, chẳng có gì hơn nữa, thì trái lại, khi nhìn vào chiếc kính hiển vi, Louis Paster lại reo lên: "Thật kỳ diệu! Còn một điều gì ẩn nấp ở đàng sau nữa: đó là Thượng Ðế".

Anh chị em thân mến!

Qua những khám phá nhà bác học thời danh Louis Paster đóng góp cho nhân loại, chúng ta có thể rút ra được nhiều điều, đặc biệt là cách nhìn các diễn biến và thái độ phải có trước các diễn biến ấy. Cùng một sự kiện, nhưng mỗi nhà bác học lại có một cái nhìn khác nhau. Cùng một tìm tòi khám phá, những mỗi người lại đạt được kết quả riêng biệt.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai thái độ khác nhau trước biến cố Chúa Kitô Phục Sinh. Một bên là các phụ nữ và một bên là nhóm lính canh. Ðối diện với họ đều là ngôi một trống. Với nhóm phụ nữ, ngôi một trống là dấu chỉ Tin Mừng Phục Sinh và là khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu, nhưng họ vội vã đi báo tin vui cho các môn đệ. Nhóm lính canh, họ cũng được nhìn thấy ngôi mộ trống và điều đó không lạ gì đối với họ. Vì thế, ngôi mộ trống không là khởi điểm và tin tưởng của niềm tin, mà còn khiến cho họ càng rời xa niềm tin, càng muốn khỏa lấp niềm tin. Lời đồn đãi ấy vẫn còn vang dội đối với người Do Thái cho đến ngày nay.

Với sự kiện Chúa sống lại, lời nói của nhóm lính canh là những chứng từ có thể đáng tin cậy, vì họ là những người canh giữ mồ đêm hôm ấy. Nếu không vì sợ hãi quyền lực của hội đường Do Thái hoặc không vì chút lợi lộc, tiền của thì chắc chắn họ sẽ là sứ giả loan Tin Mừng Phục Sinh.

Trước Tin Mừng Phục Sinh ai cũng vội vã: các bà thì loan tin cho các môn đệ, còn nhóm lính canh thì vội vã báo tin cho hội đường Do Thái. Ai cũng vội vã, nhưng tùy thái độ mỗi bên mà Tin Mừng Phục Sinh được công bố hay bị dập tắt. Người Kitô hữu cũng là những người được đối diện với Tin Mừng Phục Sinh. Họ được trao cho nhiệm vụ loan báo lại cho người khác biết tin vui này. Chắc chắn lời nói của họ là những chứng từ giá trị, vì họ đã được đón nhận sức sống Phục Sinh của Ðức Kitô.

Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước những áp lực trần thế, hoặc vì sức quyến rũ của chức tước, lợi lộc... họ đành tâm phản bội Tin Mừng. Vì thế cho đến hôm nay, họ còn hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô, về Giáo Hội.

Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh, Ðấng đã chiến thắng quyền lực của tội lỗi, ban cho mỗi người chúng ta lòng tin yêu và can đảm. Tin yêu để chúng ta nhận biết được sự hiện diện của Ngài qua các biến cố cuộc sống, dù cho có vẻ trống vắng, u buồn như ngôi mồ trống của Ðức Kitô. Và khi nhận ra được Ngài, chúng ta sẽ can đảm loan truyền Ðức Kitô cho tất cả mọi người, bất chấp mọi gian lao thử thách.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được bắt chước các tông đồ cũng như các phụ nữ nhiệt thành tìm kiếm Chúa trong yêu mến và hăm hở ra đi rao truyền tin vui Phục Sinh của Chúa Kitô. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Đừng giữ Thầy lại


 (Mt 28, 8 -15)

Để diễn tả niềm tiếc thương với người mới chết, nhất là người quá cố ấy là cha, mẹ, anh chị em hay con cháu của chúng ta, thường chúng ta hay ra mộ để cắm nhang, đốt nến... rồi khóc lóc thảm thiết... Hành vi này là lẽ thường tình và nó cũng rất nhân văn! Qua nghĩa cử này, người ta vừa biểu lộ niềm tiếc thương, vừa diễn tả tâm tình biết ơn với người đã khuất.

Cũng trong tâm trạng ấy, nên hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc các phụ nữ đi ra mộ để khóc thương và xức thêm dầu thơm vào xác Chúa. Họ là những người đã từng lặn lội theo Đức Giêsu trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, vì thế, tình cảm Thầy và trò thật thắm thiết, keo sơn, nên chuyện đi ra mộ để làm những việc trên là chuyện đương nhiên nơi một người có lòng mến...

Tuy nhiên, những gì diễn ra trước mắt các bà khi các bà đi ra mộ và chứng kiến đã là điều bất thường và không khỏi ngỡ ngàng! Ngôi mộ thì trống; xác thì mất; lại xuất hiện các thiên thần kèm theo lời loan báo giật gân: Chúa đã sống lại! Sự hốt hoảng, hoang mang chen lẫn vui mừng đang mãnh liệt xâm chiếm tâm hồn các bà.

Khi các bà còn đang quá bối rối, thì Đức Giêsu đã hiện ra với các bà và cất lên tiếng nói thân thương hồi nào: "Chào chị em!". Khi nhận ra Chúa, các bà hết đỗi vui mừng và sụp lạy Ngài. Hành vi này cho thấy thái độ trân trọng, yêu mến và tôn thờ mà các bà dành cho Đức Giêsu. Thái độ này đi ngược hẳn với những động thái của nhóm Thượng tế và Kỳ mục! Họ là những người vốn đã có kế hoạch xóa sổ con người Giêsu cũng như những ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng và trong xã hội. Vì thế, họ lại tiếp tục đưa ra những kế sách mới, vu khống cho các môn đệ là đang đêm đến lấy xác Đức Giêsu và loan tin đồn là Ngài đã sống lại!

Nhưng sự thật vẫn là sự thật, vì thế, Đức Giêsu đã hiện ra trực tiếp với các phụ nữ và trấn an các bà. Đồng thời ngay lập tức, Ngài muốn cho các bà vượt qua tâm lý, tình cảm tự nhiên, để đi đến một tình cảm trưởng thành và một tình yêu sứ vụ. Vì thế, Ngài nói: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó".

Sứ điệp của Đức Giêsu trao ban cho các phụ nữ cũng chính là sứ điệp cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là: sống và loan truyền Chúa chịu chết, tuyên xưng Chúa sống lại cho mọi người, mọi nơi và mọi lúc.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết như mẫu gương của các phụ nữ hôm nay. Xin Chúa giúp cho chúng con khi đã yêu mến và tin tưởng vào Chúa, thì cũng can đảm ra đi chia sẻ niềm tin ấy cho người khác, để họ cũng gặp được niềm vui cứu độ như chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Cảm nghiệm sự sống lại của Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, Ngài mời gọi mọi người cùng cảm nghiệm sự sống lại đó, trong cuộc sống của mỗi người hôm nay.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, sự sống lại của Chúa đã làm thay đổi tầm nhìn và suy nghĩ của mọi người. Những kẻ đã lên án chống đối Chúa tưởng mình đang vinh quang chiến thắng, bỗng sững sờ thất bại trước sự việc không thể lường trước. Còn những ai theo Chúa, đang thất vọng chán nản thì hân hoan phấn khởi. Trong số đó, con thấy có một số phụ nữ theo Chúa đến cùng, ngay cả trong những giờ phút đen tối nhất, giờ đây họ được diễm phúc cảm nghiệm sự sống lại của Chúa, được làm sứ giả đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho các tông đồ.

Lạy Chúa, cuộc sống trần gian của con không thể kéo dài mãi, sức khỏe đã yếu đi, tinh thần và sự hăng say làm việc giảm sút. Cuộc đời này qua đi thật mau. Dù con vẫn biết cuộc sống đời này như một chiếc cầu nối liền vào cuộc sống vĩnh cửu, nhưng con vẫn bi quan lo sợ mỗi lần con nghĩ tới sự chết.

Lạy Chúa, các phụ nữ ra thăm mồ đã vui mừng. Chúa bảo họ đừng sợ. Phần con, con cảm thấy niềm tin nơi con quá yếu kém, chưa cảm nhận được sự phục sinh của Chúa. Xin Chúa củng cố và tăng thêm đức tin nơi con, để con ý thức những gì trong cuộc sống hiện tại là những viên gạch xây dựng cho căn nhà Nước Trời. Mỗi sáng thức dậy con đang bước vào một ngày mới với đầy lòng tín thác vào ân sủng của Chúa. Xin Chúa ban cho con niềm vui Phục Sinh để từng ngày sống của con trở nên một sứ điệp mang lại niềm vui và lòng tin cho mọi người, nhờ đó chúng con cùng nhau hy vọng sẽ sống lại trong ánh sáng phục sinh vinh quang của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Phản ứng khác nhau về Chúa Phục Sinh.


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một câu chuyện dụ ngôn cổ kể lại rằng: Có bốn người đàn ông cùng đi xuyên qua một khu rừng. Bất thình lình có một bức tường cao cản bước đường của họ. Tò mò, họ làm một cái thang để nhìn xem cái gì ở sau bức tường đó. Người thứ nhất trèo lên tới đỉnh thang nhìn qua, bỗng anh la lên thích thú… Cũng giống như vậy với phản ứng của người thứ hai và ba… Còn người thứ tư khi lên đến đỉnh thang, anh mỉm cười vì nhìn thấy những khung cảnh thật tuyệt vời: một khu vườn xanh tươi phì nhiêu, với những cây trĩu quả đủ các loại, dòng suối trong mát đầy cá bơi lội, và những thú hoang dã cùng những súc vật nuôi dạo chung quanh suối và khu vườn xanh tươi. Đứng trước cảnh xuân xanh tuyệt vời đó, anh bị cám dỗ không nói ra với ai, chỉ muốn hưởng thụ một mình như ba người bạn trước. Nhưng anh nghĩ đến gia đình, bạn bè, hàng xóm và quay trở về để chia sẻ với họ niềm vui mà anh đã khám phá…

Suy niệm

Đức Kitô Phục sinh Halléluia… Cả bốn Tin Mừng và sách Công vụ tông đồ đều trình bày biến cố Đức Giêsu Phục sinh hiện ra (Mt 28,9-20; Mc 16,1-19; Lc 24,13-53; Ga 20,11-23; Cv 1,6-11).

Sự kiện Phục sinh được sáng tỏ qua các chứng từ: Tảng đá được lăn ra, ngôi mộ trống, thiên thần loan báo... Một biến cố đưa đến hai thái độ, hai hậu quả đối nghịch:

Các phụ nữ sau khi thăm mồ Chúa vui mừng hân hoan ra đi loan Tin Mừng Phục sinh biểu lộ tâm tình của Maria trong Ca tiếp niên Phục sinh reo vui:

…Tôi đã thấy mồ Đức Kitô đang sống
và vinh quang của Đấng Phục sinh,
thấy các thiên thần làm chứng,
thấy khăn liệm và y phục.
Đức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh…

Thật thế, các môn đệ và những người theo Ngài, đang ủ rũ héo tàn vì Thầy mình vừa qua đời tang thương như một tử tội, cái chết của Ngài tựa như mùa đông băng tuyết giết chết niềm tin. Chúa Giêsu sống lại như mùa xuân về nơi tâm hồn các ngài...

Trong lúc đó Tin Mừng Phục sinh làm các tư tế, hàng niên trưởng và quân lính lo sợ trốn chạy lui vào chỗ kín để bàn bạc chống lại tin vui Phục sinh trong sự cố chấp...

Sự Phục sinh đem niềm vui cho những người tin. Với kẻ không tin, biến cố phục sinh càng làm cho họ thất vọng ê chề như người bị bệnh mắt không thể tiếp nhận được ánh sáng huy hoàng rực rỡ của ban mai.

Thật thế, nếu chúng ta tin và gắn chặt với Ðức Giêsu Phục sinh, thật hạnh phúc tuyệt vời cho chúng ta. Nhưng khi chúng ta từ chối Tin Mừng Ðức Giêsu, chúng ta sống trong sự bất hạnh của sự cố chấp trong thất vọng.

Ý lực sống: “Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng” (1Cr 15,54).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa đã sống lại thật chăng


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Các bài Tin mừng trong tuần bát nhật mừng Đức Giêsu Phục sinh đều ghi lại các cuộc hiện ra của Đức Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, cách riêng với bà Maria Mađalena, để củng cố niềm tin và sai các bà đi báo tin cho các Tông đồ. Ngoài ra, Tin Mừng còn nói đến việc các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái mua chuộc các lính canh mồ để phản bác việc Đức Kitô sống lại.

2. Thánh Matthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa Phục Sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Đức Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt.

Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các Tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật.

Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.

3. Đức Giêsu đã Phục sinh với các chứng từ rõ ràng không thể chối cãi được. Đối với Đức Giêsu, phục sinh là chiến thắng hoàn toàn sự chết, thế gian và xác thịt, nghĩa là thân xác phục sinh không thể chết được nữa, thân xác phục sinh không thể bị giới hạn trong không gian hoặc thời gian. Chẳng hạn Đức Giêsu khi phục sinh vẫn đi vào nhà các môn đệ khi cửa đóng kín, vẫn có thể hiện diện nhiều nơi như vừa đồng hành với môn đệ trên đường Emmau nhưng khi các môn đệ đó quay lại thì lại được các môn đệ ở nhà kể lại vừa gặp Chúa.

Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Phục Sinh và được trao nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này... Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin Mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Đức Kitô và về Giáo hội.

4. Trở lại sự kiện giả dối của giới cầm quyền Do thái giáo mà bài Tin Mừng kể ra, chúng ta thấy sự kiện này cũng phản ánh một thực tế bất công và dối trá nơi cuộc sống này đã có từ ngàn xưa. Thậm chí ngày nay còn đáng sợ hơn.

Chân lý loài người luôn thuộc về kẻ mạnh, người ta dùng tiền để mua chuộc và đổi trắng thay đen, biến công thành tội, sự thật bị xuyên tạc bóp méo. Đặc biệt những Kitô hữu và những người dám sống thật luôn bị thua thiệt và bị vu oan giáng họa kết tội cách bất công. Người ta dùng tiền và quyền để bịt miệng và để kết án.

Thế nhưng, chính sự thật thì người ta  sẽ không mãi mãi trù dập nó được, sự kiện Phục sinh vẫn được hàng tỷ người trên thế giới tuyên xưng và phát triển đã hơn 2000 năm lịch sử... Các môn đệ của Chúa lúc bị xuyên tạc, các ngài không cần kêu oan mà cứ mạnh dạn tuyên xưng những gì mình thấy và sống mầu nhiệm Phục Sinh cách hoàn hảo.

5. “Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy...”.

Nhà cầm quyền Do thái giáo đã mua chuộc lính canh mồ, khiến họ chối bỏ sự kiện Chúa đã sống lại mà chính họ đã chứng kiến. Dĩ nhiên – trong hôm nay – tin đồn lệch lạc này vẫn được loan truyền khắp thế giới con người... Sự kiện đưa chúng ta đến hai vấn đề: đó là Hối lộ là chuyện muôn thuở và Tham nhũng luôn nhằm bóp méo sự thật,

Kho tàng truyện cổ dân gian có câu chuyện của hai nhân vật Cải và Ngò...

Hai người nông dân cục mịch có chuyện với nhau nên... ục nhau...

Cả hai đem chuyện kiện nơi ông Lý. Cải sợ kém thế nên lót tay ông Lý 5  đồng... Ngò thì lót 10 đồng... Xử kiện, ông Lý vẫn phạt Cải một chục roi... Cải giơ 5 ngón tay... ý nhắc là Cải đã đưa trước 5 đồng. Thầy Lý lấy năm ngón bàn tay trái úp lên năm ngón bàn tay phải và phán:Tao biết mày “phải”, nhưng nó “phải” bằng hai mày...

6. Truyện: Niềm vui Phục Sinh.

Vậy là đã qua ngày sinh nhật vui vẻ với nhiều lời chúc, hoa và quả. Tôi trở về với cuộc sống thường nhật. Hụt hẫng! Cố níu kéo cảm giác hạnh phúc hôm qua. Nhưng đành bất lực.

... Có một niềm vui bên cạnh tôi chẳng bao giờ tan biến nhưng tôi nào hay biết: Chúa của tôi phục sinh. Một niềm vui trọng đại, một ân điển lớn lao, cho bạn và cho tôi.

Bởi lẽ:

Tình yêu đã chiến thắng.

Sự thật đã lên ngôi.

Bạn và tôi hãy xóa bỏ hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được phục sinh nơi Ngài.

Ước gì niềm vui của Đấng Phục Sinh tràn ngập hồn con, để con đem sinh khí cho người tuyệt vọng; đem nụ cười cho kẻ khóc than; làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa; dọi ánh sáng vào nơi tối tăm; đem niềm vui và hạnh phúc đến mọi người; xây Thiên đàng ngay trần thế hôm nay (Epphata, ban mục vụ giới trẻ TP/HCM).

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Thánh Mát-thêu thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh:

1. (Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống, gặp thiên thần. Thiên thần cho hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà đi báo tin cho các môn đệ và bảo họ Chúa Giêsu chờ họ tại Galilê). Trong tâm trạng vừa sợ vừa vui mừng, các bà chạy đi báo tin cho các môn đệ.

Tâm trạng sợ hãi: không phải là sợ hãi, mà là nỗi sợ tôn giáo, tâm trạng của người ý thức Thiên Chúa đang có mặt hoạt động. Vậy các bà “sợ” nghĩa là các bà ý thức Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại.

Vui mừng: vì Thầy mình đã sống lại.

2. Đang khi các bà chạy đi báo tin thì Chúa Giêsu hiện ra. Câu đầu tiên của Ngài là “đừng sợ”. Rồi Ngài lặp lại lời thiên thần: Hãy đi báo tin cho các môn đệ, bảo họ rằng Ngài chờ họ ở Galilê.

“Đừng sợ”: Trong Thánh kinh, từ Cựu ước tới Tân ước, khi hiện ra với loài người, Thiên Chúa (hay thiên thần) đều nói “đừng sợ” (x. St 15,1 26,24 46,3 Tl6,23 Lc1,12.30 2,10 Mt14,27…).

Nếu như “sợ” là tâm trạng của con người khi biết mình đang ở trước mặt Thiên Chúa vì thấy mình bất xứng, thì lời nói “đừng sợ” có nghĩa là Thiên Chúa tự xóa khoảng cách giữa Ngài với loài người; hơn nữa, Thiên Chúa đem lại cho loài người sự bình an và vui mừng.

Khi nói về các môn đệ, Chúa Giêsu gọi họ là “anh em”: sự Phục sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Ngài với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài.

3. Phản ứng của giới thượng tế và kì lão: đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc họ xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu sống lại.

B. Suy Niệm (...nẩy mầm)

1a. “Đừng sợ”: từ nỗi “sợ hãi” trong lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết, các bà đã chuyển sang “kính sợ” khi nhận thấy quyền năng Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” đi kèm với nỗi “vui mừng hớn hở”. Khi ta thực sự tin vào quyền năng Chúa, ta sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí còn có thể “vui mừng hớn hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.

1b. Một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ong nghĩ về phận mình và cảm thấy chán trường. Ông ném bó củi xuống và than vãn: “cuộc sống cơ cực quá, không thể chịu nổi nữa! Ươc gì thần chết rước tôi đi!”.

Vừa nói xong thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: “Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều gì ?”. Ông già kinh sợ nói: “Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai không ?” (Góp nhặt).

2a. Chúa Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài: sự Phục sinh của Chúa đã cứu chuộc tội lỗi của loài người, ban lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu.

2b. Một giáo viên cấp II đang vào sổ hai cậu học sinh mới chuyển trường. Cô thấy tên họ của chúng giống nhau, dáng người và quần áo như nhau nên hỏi:

- Hai anh em sinh đôi phải không ?

- Không.

Rồi cô đọc thấy ngày tháng năm sinh của chúng chỉ cách nhau sáu tháng. Cô lại hỏi:

- Hai anh em họ phải không ?

- Không, chúng em là anh em ruột.

- Ồ, cô nghĩ có sự nhầm lẫn trong việc ghi ngày sinh của các em. Hai anh em về nói mẹ ghi lại ngày sinh của mình rồi đưa lại cho cô vào sáng mai nhé ?

- Tại sao vậy ?

- Bởi vì nếu hai anh em không sinh đôi mà lại là anh em ruột, thì Nam không thể lớn hơn Tâm có sáu tháng.

Hai cậu nhìn nhau. Rồi Nam quay lại, mỉm cười nói với cô giáo: “Nhưng em không phải là người lớn hơn; vì cô biết đó, một trong hai chúng em là con nuôi. Nhưng chúng em không biết ai là con nuôi.” (Góp nhặt).

3. “Tin Mừng hôm nay đề cập tới hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục sinh: Một của các phụ nữ, một của nhóm lính canh. Đối diện với ngôi mộ trống, các phụ nữ nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Phục sinh và khởi điểm cho niềm hy vọng, tuy lo âu, nhưng họ cũng vui mừng vội vã đi báo tin cho các môn đệ. Còn đối với nhóm lính canh, ngôi mộ trống đã không là khởi điểm của sự tìm kiếm và tin tưởng, mà còn khiến họ xa rời niềm tin, chỉ vì sợ hãi và vì chút lợi lộc…

Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Phục sinh và được trao cho nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này…Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin Mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô và về Giáo hội” (Mỗi ngày một tin vui”).

4. Vậy là đã qua này sinh nhật vui với nhiều lời chúc, hoa và quà. Tôi lại trở về với cuộc sống thường nhật. Hụt hẫng! Cố níu kéo cảm giác hạnh phúc hôm qua. Nhưng đành bất lực!

…Có một niềm vui bên cạnh tôi chẳng bao giờ tan biến nhưng tôi nào hay biết: Chúa của tôi Phục sinh. Một niềm vui trọng đại, một ân điển lớn lao, cho bạn và cho tôi.

Bởi lẽ:

Tình yêu đã chiến thắng;
Sự thật đã lên ngôi.

Bạn và tôi hãy xóa đi hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được Phục sinh nơi Ngài.

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Sự kiện Chúa Giêsu chịu chết và sống lại

 

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Các bài Tin Mừng trong tuần bát nhật Phục sinh đều tường thuật về những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Chúa sống lại. Phụng vụ đã chọn những bản văn có trong 4 quyển Tin Mừng để trình bày cho chúng ta thấy bốn cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau, về sự kiện Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.

1. Hôm nay thánh Mátthêô thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh:

Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống. Họ gặp thiên thần. Thiên thần cho họ hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo họ đi báo tin cho các môn đệ, bảo cho các môn đệ biết là Chúa chờ họ tại Galilê.

Sự Phục sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Chúa với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài. Chúa đã gọi môn đệ là “anh em”

Và cuối cùng chúng ta thấy tiền bạc lại được sử dụng vào những mục đích xấu: Người ta đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc chúng. Tiền bạc lại một lần nữa làm xuyên tạc sự thật.

2. Vâng, việc Chúa sống lại rõ ràng đã đem lại nhiều thay đổi thật lạ lùng:

+ Những người có liên hệ với Chúa sẽ không còn sợ hãi nữa. Với việc Chúa Phục Sinh những người phụ nữ đã biến nỗi “sợ hãi” khi chứng kiến việc Chúa chịu nạn chịu chết, sang lòng “kính sợ” trước quyền năng của Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” này đi kèm với niềm “vui mừng hớn hở”. Vâng, đó là một kết quả hết sức bất ngờ đối với các bà đạo đức. Khi con người thực sự tin vào quyền năng Chúa, thì họ sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí họ còn có thể “vui mừng hớn hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.

Một tu sĩ dòng tên thuật lại câu trả lời đầy xúc động sau đây của một thủy thủ sắp chết. Anh luôn sống đạo đức. Đây là điều hiếm ở nơi các thủy thủ, và trong buổi sáng hôm đó, anh nhận của ăn đàng. Buổi chiều, khi linh mục đến để gặp lại anh và thấy anh rất yếu, bèn hỏi:

- Con đã sẵn sàng cho chuyến đi lớn lao chưa ?

- Thưa Cha, hoàn toàn sẵn sàng.

- Con không sợ ư ?

- Sợ ? Con sợ ư ? Nhưng tại sao lại sợ ?

Và đặt tay lên ngực, nơi Chúa ngự đến buổi sáng, anh nói thêm:

- Hoa tiêu đã xuống thuyền, vậy con còn sợ gì nữa chứ ?

+ Chúa Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài. Sự Phục sinh của Chúa không những đã cứu chuộc loài người, trả lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa, lại còn biến con người trở “anh em” với Chúa Giêsu! Đây là một hồng ân thật cao cả lớn lao hơn tất cả những hồng ân khác.

Một người hát thánh ca rất nổi tiếng của Mỹ được mời lên một con tàu chở khách, để hát cho những hành khách trên tàu nghe.

Đêm đó, tất cả những hành khách tập hợp trên boong tàu để thưởng thức tiếng hát rất hay của anh.

Tiếng hát của anh ta làm tất cả khán giả rung động tâm hồn. Khi anh ta vừa hát xong, thì một ông khách cao to, da đen bước đến bên cạnh anh hỏi:

- Xin hỏi, trước đây anh đã từng đầu quân ở Bắc Mỹ phải không ? Anh có còn nhớ vào một đêm trăng sáng năm 1862, anh đứng gác trên một vọng gác không ?

- Tôi nhớ. Anh ta đáp. Nhưng trong lòng hơi lo lắng vì không hiểu ý của ông ta muốn gì.

- Phần tôi, tôi còn nhớ rất rõ. Người đó nói. Lúc đó tôi đang ở bên đối địch với anh. Tôi nhìn thấy anh đứng trên vọng gác. Anh ở chỗ sáng. Tôi ở trong tối, nhất cử nhất động của anh tôi đều thấy rõ. Khi tôi định lên đạn, thì nhìn thấy anh đang chuẩn bị cất tiếng hát. Thật lòng tôi muốn bắn anh ngay nhưng tự nhiên có cái gì đó cản lại, chờ cho đến khi anh hát xong thì tôi sẽ bắn. Bài hát hôm đó cũng chính là bài hát anh vừa mới hát. Những lời trong bài hát ấy đã khiến tôi rất xúc động. Thế là tôi không còn can đảm để có thể bắn anh nữa”.

Nghe tới đây, người hát thánh ca không cầm được nước mắt. Anh giang rộng hai cánh tay ôm chầm lấy ông khách.

Một bài hát đã đánh đổi được một mạng người, làm cho kẻ thù trở thành bạn bè. Việc đó quả là một điều kì diệu.

Trên chiến trường trước kia, họ là kẻ thù của nhau, nhưng bây giờ họ đã trở thành bạn bè.

Việc Chúa Phục sinh đã làm cho các môn đệ và cả chúng ta trở thành anh em của Ngài. Đây là một hồng ân. Hãy tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu muôn đời.

Lạy Chúa, xin làm cho tâm hồn chúng con tràn ngập niềm vui của những người được Chúa cứu chuộc, để chúng con biết đem sinh khí đến cho những người đang tuyệt vọng, đem nụ cười đến cho kẻ đang khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, xây dựng một thiên đàng của Chúa trên trần thế hôm nay. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa sẽ gặp các tông đồ ở Galilêa


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Những người biệt phái, luật sỹ, kỳ lão, trưởng tế rất sợ Chúa khi Chúa còn sống. Họ sợ sự ảnh hưởng của Chúa đối với dân chúng quá lớn, để rồi dân chúng sẽ theo Chúa và bỏ họ. Đàng khác, họ mặc cảm thua sút Chúa về mọi phương diện, cho nên họ giết Chúa, không cho Chúa sống nữa và rồi coi như là  họ rất yên tâm khi Chúa đã chết. Nhưng mà sau ba ngày Chúa sống lại. Các lính canh về báo cho họ biết về điều này. Họ lại càng sợ hơn nữa, cho nên họ cho lính tiền để đừng nói cho một ai biết cả: “Ðang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu. Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay” (Mt 28, 11 – 15). Do đó, họ là những người không thuận với Chúa, là phân tán những gì do Chúa làm ra: “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán” (Lc 11, 23).

Về phần các tông đồ của Chúa, sau khi Chúa chết, các ngài vì sợ người Do Thái sẽ bắt bớ và giết mình như Chúa, cho nên các ngài đi tản mác khắp mọi nơi. Chính Chúa sống lại sẽ qui tụ các ngài. Vì thế, khi Chúa gặp các bà vừa ra khỏi mồ Chúa trong tâm trạng vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng chạy đi báo tin cho các môn đệ của Chúa biết những gì mà các bà đã thấy thì Chúa nói rằng hãy đi báo tin cho các anh em Chúa phải trở về Galilêa, ở đó, họ sẽ được gặp Chúa (Mt 28, 8 – 10). Như vậy, chính Chúa sau khi chịu chết và sống lại sẽ là Đấng qui tụ muôn dân nước khắp nơi trên mặt đất qua muôn thế hệ lại bên Chúa và rồi Chúa sẽ dâng điều ấy lên cho Thiên Chúa Cha và Chúa Cha sẽ phán dạy chúng ta phải suy phục quyền bính của Chúa: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô (Ep 1, 10), và đã đặt Chúa làm vua, làm thủ lãnh, làm đầu, làm trưởng tử của chúng ta.

Như vậy, Chúa phục sinh là nỗi sợ hãi của ma quỷ, của những người chống đối Chúa. Ngược lại, Chúa phục sinh là niềm vui cho tất cả mọi người chúng ta, là các con cái của Chúa. Chúa phục sinh là nơi hội ngộ, qui tụ chúng ta để rồi Chúa sẽ sắp xếp lại trật tư trong vũ trụ, trong cuộc sống của chúng ta. Chúa làm như vậy vì chính tội lỗi đã làm phân tán chúng ta, sự chết đã hoành hành thống trị chúng ta, bây giờ Chúa đã đánh bại nó bằng việc Chúa sống lại, cho nên Chúa sẽ làm cho thế giới này, cuộc sống này không còn mất trật tự, hỗn độn như xưa nữa. Chúng ta rất vui mừng, sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện vì được sống trong thế giới mới, thế giới trật tự, bình an của Chúa.

Lạy Chúa phục sinh, ngày hôm nay, chính Chúa qui tụ chúng con lại trong Hội Thánh của Chúa, mà một cách cụ thể là nơi phụng vụ thánh lễ. Nơi thánh lễ, Chúa lấy Lời Chúa và Thánh Thể Chúa để qui tụ, để dưỡng nuôi chúng con, xin Chúa ban ơn nâng đỡ, thúc đẩy chúng con luôn biết siêng năng đi tham dự thánh lễ mỗi ngày để chúng con được lớn lên trong tình yêu của Chúa, để mỗi ngày chúng con mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn trong đời sống đức tin và rồi sẵn sàng làm chứng nhân cho mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa nơi môi trường chúng con đang sống đây. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 3:


Niềm tin Phục Sinh
Thứ Ba tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Tôi đã trông thấy và Người đã phán với tôi những điều ấy".

 

Lời Chúa: Ga 20, 11-18


Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?"
Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tôi đã thấy Chúa


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Maria Mácđala là con người yêu mến.
Theo Tin Mừng Gioan, bà đã theo Thầy Giêsu đến tận Đồi Sọ,
đã đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Thầy (Ga 19, 25).
Hầu chắc bà đã tham dự cuộc mai táng Thầy và biết vị trí của ngôi mộ.
Hơn nữa, bà là nguời ra mộ sớm nhất vào ngày thứ nhất trong tuần.
Rồi bà chạy về báo tin cho các môn đệ về chuyện xác Thầy không còn đó (20, 1-2).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bà lại có mặt ở ngoài mộ lần nữa (c. 11).
Ngôi mộ như có sức giữ chân bà.
Chỉ tình yêu mới giải thích được điều đó.
Maria là con người tìm kiếm.
Đấng phục sinh hỏi bà: “Bà tìm ai?” (c. 15).
Bà chỉ có một mối quan tâm duy nhất, đó là tìm lại được xác Chúa của bà.
Bà đã nói với Phêrô: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ,
và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20, 2).
Bà đã nói với vị thiên thần ngồi trong mộ điệp khúc tương tự:
“Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu” (c. 13).
Khi gặp Thầy Giêsu, bà tưởng là người làm vườn, nên cũng nói:
“Nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết
ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về (c. 15).
Đối với Maria, mất xác Thầy là mất chính Thầy,
nên bà cứ bị ám ảnh bởi chuyện người ta để Người ở đâu.
Maria là con người đau khổ.
Bà đã khóc nhiều từ khi xác Thầy không còn đó.
Cả thiên thần và Đức Giêsu đều hỏi bà cùng một câu hỏi: “Tại sao bà khóc?”
Ai sẽ là người lau khô nước mắt của bà Maria Macđala?
Ai sẽ là người giúp bà tìm thấy điều bà tìm kiếm?
Đức Giêsu phục sinh đến gặp bà dưới dạng một người làm vườn.
Thậm chí bà nghi ngờ ông này có dính dáng đến chuyện mất xác Thầy.
“Maria”: Đức Giêsu gọi tên bà với một cung giọng quen thuộc.
Bây giờ bà mới nhận ra Thầy và reo lên: “Rabbouni!”
Có những lời của Đức Giêsu được thực hiện.
“Ai tìm thì sẽ thấy”, “Ai khóc lóc sẽ được vui cười”.
Maria đi tìm xác Thầy, nhưng bà đã gặp được một điều quý hơn nhiều,
đó là chính Thầy đang sống.
Maria đã khóc lóc, nhưng niềm vui bà gặp được lớn hơn nhiều.
Chẳng có giọt nước mắt nào là vô ích trước mặt Thiên Chúa.
Hãy nếm niềm vui bất ngờ của Maria.
Bà được Chúa sai đến với các môn đệ, cũng là anh em của Ngài.
Bà gói ghém kinh nghiệm bà mới trải qua trong một câu đơn giản:
“Tôi đã thấy Chúa!” và Chúa đã nói với tôi (c. 18).
Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không có kinh nghiệm này.
Thấy Chúa và nghe được Chúa nói: đó là ước mơ của chúng ta trong cầu nguyện.
Nhưng đừng quên Maria đã yêu cách nồng nhiệt và can đảm
và đã đau khổ tìm kiếm Thầy Giêsu.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen.

-------------------------------
 
 

Suy Niệm 2: Giêsu, mục đích cuộc đời


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su hỏi Ma-đa-lê-na: “Chị tìm gì”? Xác định mục đích cuộc đời là rất quan trọng. Nếu không có mục đích, ta không biết mình đi đâu, làm gì. Thánh Bê-na-đô ngày nào cũng tự hỏi mình: “Bê-na-đô, ngươi là ai? Ngươi đến đây làm gì”?

Chúa Giê-su luôn hỏi ta câu đó. Người đã hỏi hai môn đệ đầu tiên: “Các anh tìm gì”?(x. Ga 1, 35-39) Hôm nay Người lại hỏi Mađalêna: “Chị tìm gì”? Người hỏi ta hằng ngày: “Con tìm gì”? Ta có trả lời được không?

Xác định được mục đích ta sẽ không lẫn lộn, dừng lại ở những gì không phải mục đích. Ma-đa-lê-na chỉ đi tìm Chúa. Bà nhất quyết phải gặp được Chúa. Dù gặp thiên thần sáng láng tốt lành bà cũng không vui nên vẫn khóc và đi tìm. Vì Chúa mới là mục đích duy nhất. Vì Chúa mới là sự thiện tuyệt hảo. Vì Chúa mới là sự mỹ tuyệt đối. Chỉ có Chúa mới thỏa mãn mọi khát khao sâu thẳm trong tâm hồn.

Xác định được mục đích ta sẽ phải chọn lựa. Giữa Chúa và những gì không phải Chúa. Giữa Chúa và trần gian. Giữa sống theo Thần Khí và theo thói thế gian. Nên thánh Phê-rô khuyên nhủ các tín hữu đầu tiên: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này”. Rất nhiều người muốn theo Chúa, nhưng không thể bỏ trần gian. Như chàng trẻ tuổi giầu có muốn được sự sống đời đời. Nhưng khi Chúa bảo phải về bán hết của cải thì buồn rầu. Chàng quay lưng lại với Chúa ngay. Vì chàng luyến tiếc trần gian(x. Mc 10, 17-22).

Chọn lựa phải có từ bỏ. Từ bỏ sẽ có đớn đau. Ma-đa-lê-na vì tìm Chúa mà phải khóc lóc. Những người tín hữu đầu tiên cũng đau đớn trong lòng. Như Chúa đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ khóc lóc. Còn thế gian sẽ vui mừng”(Ga 16, 20).

Nhưng đúng như lời Chúa nói: “Ai tìm sẽ thấy”(Mt 7, 7) và “Phúc cho ai khóc lóc vì họ sẽ được an ủi”(Mt 5, 5). Ma-đa-lê-na đã được gặp Chúa. Nói sao cho vừa niềm vui của bà. Và lời chứng của bà giá trị biết bao. Dù chỉ đơn sơ: “Tôi đã thấy Chúa”.

Tôi có thấy Chúa không? Nói khác đi người khác nhìn vào đời sống tôi có thấy Chúa không. Nếu tôi sống đơn sơ khó nghèo không coi trọng những gì của trần gian, người khác sẽ nhìn thấy Chúa. Nếu tôi yêu thương phục vụ vô vị lợi những người nghèo khổ, tôi chiếu tỏa ánh sáng của Chúa là tình yêu. Người khác sẽ nhận ra.

Lạy Chúa xin cho con thực sự đi tìm Chúa và chỉ tìm một mình Chúa mà thôi. Và con chắc chắn sẽ gặp Chúa. Để con có thể nói với mọi người: “Tôi đã thấy Chúa”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Niềm tin Phục Sinh


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong một đêm tao ngộ do một nhóm thân hữu tổ chức tại Sydney, Australia, vào một tối Chúa Nhật cuối tháng 4/2001, nhạc sĩ Vũ Thành An, tác giả của những bài ca không tên bất hủ, đã xuất hiện không như một nhạc sĩ, mà như một nhà truyền đạo. Ở cao điểm của đêm tao ngộ, nhạc sĩ Vũ Thành An đã giới thiệu và trình bày những tác phẩm mà ông gọi là Những bài ca nhân bản và thánh ca. Như ông đã giải thích, những bài ca nhân bản đề cao tình người và những bài thánh ca ca tụng tình yêu Chúa này nói lên chính cuộc đổi đời của ông. Những dòng tâm sự và giọng hát của tác giả đã được khán thính giả đón nhận như một bài giảng thuyết về mầu nhiệm Phục Sinh.

Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Ðấng Phục Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Ðiều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Chúa Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.

Quả thật, Ðấng Phục Sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay. Ðể tin nhận Ngài, con người luôn làm một bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng.

Niềm tin Phục Sinh mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta niềm tin ấy và xin Ngài củng cố niềm tin ấy cho chúng ta.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Trong ta như trong Maria Mađalêna


Bà Ma-ri-a đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mồ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phái chân. (Ga. 20, 11-12)

Ngày nay, chúng ta gặp thấy một bà đáng tội nghiệp là bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, một bà đã theo Đức Giêsu tới chân thánh giá đầy đau khổ tang tóc. Trong bà chẳng thấy được một chứng cớ nào.

Trước hết, chúng ta gặp thấy bà đầy xao xuyến, lo âu, sợ hãi bên nấm mồ: “Tôi không biết người ta đã đặt Ngài ở đâu”. Dù bà đã ở đó lúc táng xác Người, tuy ở đó vẫn còn dấu vết Đức Kitô.

Chúng ta đã biết, theo Thánh kinh, Đức Kitô đang hiện diện trong Giáo hội, trong cộng đồng các tín hữu, trong mỗi người. Nhưng những ai đến gặp Người thì chỉ thấy những dấu vết như mộ trống. Họ vẫn chẳng thấy chắc chắn.

Chúng ta thấy có người giải thích cho Ma-ri-a Ma-đa-lê-na thì bà không biết tên mãi tới khi người ấy gọi tên bà, bà mới nhận ra Người.

Như vậy, chỉ có thể nhận ra Đức Giêsu khi người ta được gọi tên, được tiếp xúc với riêng mình. Có thể người ta trách những ai đã bỏ Giáo hội và cộng đoàn ngày Chúa nhật đã không có ai tiếp xúc cá nhân với họ, con người vô danh trong cộng đồng chúng ta đã giết chết sự nhận biết Đức Kitô. Vậy đừng bỏ rơi ai bị vô danh trong cộng đoàn tín hữu. Cần phải quan tâm đến từng người, lo cho từng người tiếp xúc với Đức Kitô, để mỗi người được Đức Kitô gọi tên họ.

Ma-ri-a muốn giữ Đức Giêsu lại cho mình. Cũng như chúng ta muốn giữ Người lại cho chúng ta vì chúng ta cần Người lấp đầy vào chỗ buồn sầu trong cuộc sống hiện tại để làm chỗ trú ẩn cho chúng ta trước những nghịch cảnh, những cơn hấp hối. Bao nhiêu người trong chúng ta đã giữ Đức Kitô lại cho mình, mà không chia sẻ, không bao giờ nói về Người, không bao giờ cất tiếng rao giảng về Người? Đâu là dấu chỉ chúng ta kính mến Đức Kitô? Trong giờ phụng vụ chúng ta chia sẻ lời Chúa với nhau hơn hay là thờ ơ lãnh đạm hơn?

Sau hết, khi đã hủy diệt được nỗi sợ hãi và ước vọng chiếm đoạt Đức Giêsu cho riêng mình, nhờ cú sốc được gọi tên riêng mình và được cảm nghiệm sâu xa Thầy đã sống lại, Ma-ri-a cũng được sống lại trong cởi mở và hiên ngang đi làm chứng về Thầy.

C.G

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Tôi Ðã Xem Thấy Chúa Phục Sinh


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Trong thời gian sống tại thành phố Paris, thi sĩ Viler Maria thường có thói quen đi bách bộ vào mỗi buổi chiều. Dọc theo lối đi của thi sĩ có một bà già ngày ngày ngồi ăn xin. Bà ta ngồi đó âm thầm câm nín, dáng vẻ trơ trơ không cảm xúc, ngay cả khi nhận quà bố thí bà cũng chẳng biểu lộ một dấu hiệu biết ơn nào.

Ngày kia, thi sĩ đi bách bộ với người bạn gái trẻ, cô ta quá đỗi ngạc nhiên khi thấy thi sĩ đi ngang qua chỗ ngồi của bà già ăn xin mà chẳng cho bà chút gì. Ðọc được tư tưởng của bạn gái, nhà thơ trả lời: "Quà tặng phải đưa vào tận con tim, chứ không phải chỉ đưa bằng đôi tay".

Qua ngày hôm sau, thi sĩ đến chỗ hẹn với đóa hồng vừa hé nở trên tay. Dĩ nhiên cô gái nghĩ rằng đóa hồng đó dành riêng cho cô, lòng cô rộn lên với tư tưởng: "Ôi! Thi sĩ quá quan tâm đến mình biết bao". Nhưng không. Thi sĩ đã đến trao đóa hồng đó vào đôi tay gầy guộc của bà già ăn xin và rồi sự lạ đã xảy ra là bà già bấy lâu trơ trơ như khúc gỗ giờ đây đã hồi sinh. Bà vội vàng đứng dậy, bước tới cầm tay thi sĩ và hôn lên đôi tay của thi sĩ. Rồi với cử chỉ nâng niu, bà ôm chặt lấy đóa hoa hồng vào lòng và thanh thản bước đi.

Suốt một tuần qua đi, bà mới trở lại chỗ ngồi ăn xin hằng ngày cùng với vẻ câm nín và vô hồn như trước kia. Người bạn gái hỏi thi sĩ xem suốt tuần qua không xin ăn thì bà sống bằng gì. Thi sĩ trả lời: "Bà sống bằng đóa hoa hồng".

Anh chị em thân mến!

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan cũng thuật lại cho chúng ta câu truyện của một người đàn bà đang u buồn tuyệt vọng, nhưng bỗng nhiên nhận được món quà trao tận con tim, một niềm vui không gì đo lường được, đó là niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh.

Ðọc lại đoạn Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy sự tuyệt vọng của Maria Madalena lúc này đến mức nào. Theo Chúa Giêsu và các môn đệ trên đường rao giảng Tin Mừng, chắc chắn bà đã nghe nói, đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã làm, từ việc chữa lành bệnh tật cho đến việc làm cho kẻ chết sống lại, từ việc khiến gió biển im lặng cho đến chuyện hóa bánh ra nhiều.

Thế nhưng, tất cả đều sụp đổ khi bà đếm từng vết máu và mồ hôi loang vãi trên đường tử nạn, khi theo dõi từng hơi thở thoi thóp của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hay khi xác Ngài được mai táng trong mồ, và hôm nay cả đến thân xác cũng bị đánh cắp mất, chẳng còn gì hy vọng nữa. Như vậy, tất cả chỉ là tuyệt vọng, Nhưng chính trong tận cùng của sự tuyệt vọng ấy, chính trong thử thách mịt mù ấy, bà đã được tặng ban một món quà không phải trên đôi tay, nhưng món quà ấy được trao tặng vào chính con tim của bà. Ðó là bà được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và Ngài đã gọi tên bà một cách thân mật, ngọt ngào.

"Gọi tên" đó là một dấu chỉ thân mật giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, giữa những người mục tử tốt lành và đoàn chiên. Người mục tử tốt lành nhận biết từng con chiên của mình, và Ngài gọi tên từng con chiên một và cho chúng vào hưởng niềm no thỏa trong đồng cỏ xanh tươi. Không chỉ riêng Madalena, nhưng mỗi người Kitô hữu đều được tặng ban món quà này. Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy là họ đã được gọi tên, được đổi mới, được nâng lên hàng con cái dấu yêu của Thiên Chúa, được thông phần vào sức sống Phục Sinh trong nhiệm thể Ðức Kitô.

Sư sống Phục Sinh này không phải chỉ là một đóa hồng tạm bợ, chỉ hồi sinh con người trong thời gian ngắn ngủi, nhưng là đóa hồng vĩnh cửu có thể cho con người sống đúng địa vị làm người, làm con Thiên Chúa đến muôn đời. Con người chỉ trở nên buồn thảm, câm nín là vô hồn khi họ không biết nâng niu, quí chuộng mà bỏ xa sự sống Phục Sinh của Ðức Kitô.

Lạy Chúa, nếu tội lỗi làm cho con vô cảm, u buồn, tuyệt vọng, thì xin cho con được luôn nhớ rằng: Chúa đang đứng bên con và đang gọi tên con. Con không nhận thấy, không nghe biết vì con không nhiệt tâm yêu mến, tìm kiếm như thánh nữ Maria Madalena. Biết kiếm tìm trong tinh thần yêu mến chắc chắn con sẽ không thất vọng vì Chúa đang ở bên con, đang đợi chờ con.

-------------------------------

 

Suy Niệm 6: Yêu để tin và làm chứng


Chuyện kể rằng: sau khi Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận bị bắt một thời gian, người ta không còn cách nào liên lạc được với ngài. Ngài đã đi vào cõi biệt vô âm tín. Vì thế, giáo dân nghĩ là ngài đã chết trong tù, nên nhiều người có lòng quý trọng, yêu mến và cảm phục ngài bởi nhân đức anh hùng, nhất là lòng đạo đức, nhân từ, hiền hậu và yêu thương, vì thế họ đã diễn tả lòng biết ơn và kính trọng của họ với ngài bằng cách: cầu nguyện và xin lễ cầu hồn cho ngài. Tuy nhiên, một thời gian sau, ngài được trả tự do và xuất hiện trước công chúng... Tin vui mừng này loan đi cách nhanh chóng, vì thế, chẳng mấy chốc, nhiều người đã biết được tin và họ không ngừng tạ ơn Chúa, trong số những người vui mừng nhất, có lẽ phải kể đến, đó chính là thân mẫu Đức Hồng Y.

Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy cảnh tang tóc, sầu thương, u buồn, tuyệt vọng đang  bao phủ tâm trạng Maria Madalena! Bà buồn vì tình cảm mà bà dành cho Đấng đã yêu thương và cứu thoát bà khỏi chết, thoát ra khỏi con đường tội lỗi, ban những lời dạy tuyệt vời..., hơn nữa, sự hy vọng của bà vào Đấng đã chữa lành mọi bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều... sẽ đem lại cho bà một chỗ dựa vững chắc... Nhưng sau những trận đòn chí mạng, những mệt nhọc của chặng đường lên Gôngôtha, và cuối cùng là cái chết trên thập giá và được an táng trong mộ như bao nhiêu người khác... đã làm cho bà thất vọng. Sự tuyệt vọng ấy đi đến đỉnh điểm là ngay cả xác chết rồi mà cũng còn bị mất... Như thế, đặt mình vào tâm trạng của bà, chúng ta mới thấy được sự xót xa buồn tủi là dường nào!

Tuy nhiên, giữa cảnh sầu thương tang tóc ấy, đã bừng lên một niềm vui vô đối, không gì có thể sánh bằng, đó là Tin Mừng Phục Sinh. Phần thưởng của Đức Giêsu dành cho bà chính là cho bà thấy Ngài và Ngài đã gọi tên bà một cách thân mật, ngọt ngào: “Maria”.

Gọi tên là dấu chỉ thân mật của Thầy và trò, của cha mẹ với con cái, của người mục tử với đoàn chiên. Gọi tên là dấu nhận và biết cách cụ thể, là bảo vệ chở che.

Vì thế, khi vừa nghe thấy Thầy gọi tên mình, bà đã vội vàng thưa: “Rapbuni” (nghĩa là: lạy Thầy).

Nếu việc gọi tên là dấu chỉ, cách thức cho biết người được gọi thuộc về người gọi và người gọi phải có bổn phận với người mà họ đã gọi, thì khi người được gọi nghe thấy và thưa lại chính là sự xác minh cách cụ thể mối tương quan trên.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta về Bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Khi lãnh nhận Bí tích này, chúng ta được đổi tên thành Kitô hữu và được gọi vào hàng con cái của Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Đức Kitô phục sinh.

Đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không ngừng tạ ơn Chúa và lo sống xứng đáng bổn phận của mình. Nhất là trở nên chứng nhân của Chúa phục sinh trong môi trường và xã hội hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban cho chúng con biết nhận ra tình thương của Chúa khi Chúa phục sinh chúng con từ đau khổ, tội lỗi thành bình an, hạnh phúc và niềm vui qua Bí tích Rửa Tội khi mỗi người chúng con được mang một tên mới và thuộc về Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 7: Mang lại niềm vui Phục Sinh cho người khác


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, Ngài mời gọi mọi người cùng cảm nghiệm sự sống lại đó, trong cuộc sống của mỗi người hôm nay.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, sự sống lại của Chúa đã làm thay đổi tầm nhìn và suy nghĩ của mọi người. Những kẻ đã lên án chống đối Chúa tưởng mình đang vinh quang chiến thắng, bỗng sững sờ thất bại trước sự việc không thể lường trước. Còn những ai theo Chúa, đang thất vọng chán nản thì hân hoan phấn khởi. Trong số đó, con thấy có một số phụ nữ theo Chúa đến cùng, ngay cả trong những giờ phút đen tối nhất, giờ đây họ được diễm phúc cảm nghiệm sự sống lại của Chúa, được làm sứ giả đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho các tông đồ.

Lạy Chúa, cuộc sống trần gian của con không thể kéo dài mãi, sức khỏe đã yếu đi, tinh thần và sự hăng say làm việc giảm sút. Cuộc đời này qua đi thật mau. Dù con vẫn biết cuộc sống đời này như một chiếc cầu nối liền vào cuộc sống vĩnh cửu, nhưng con vẫn bi quan lo sợ mỗi lần con nghĩ tới sự chết.

Lạy Chúa, các phụ nữ ra thăm mồ đã vui mừng. Chúa bảo họ đừng sợ. Phần con, con cảm thấy niềm tin nơi con quá yếu kém, chưa cảm nhận được sự phục sinh của Chúa. Xin Chúa củng cố và tăng thêm đức tin nơi con, để con ý thức những gì trong cuộc sống hiện tại là những viên gạch xây dựng cho căn nhà Nước Trời. Mỗi sáng thức dậy con đang bước vào một ngày mới với đầy lòng tín thác vào ân sủng của Chúa. Xin Chúa ban cho con niềm vui Phục Sinh để từng ngày sống của con trở nên một sứ điệp mang lại niềm vui và lòng tin cho mọi người, nhờ đó chúng con cùng nhau hy vọng sẽ sống lại trong ánh sáng phục sinh vinh quang của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 8: Hãy đi loan tin Chúa phục sinh


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Maria Mađalêna, hay “Maria Mácđala”, người được Ðức Kitô chữa khỏi bảy quỷ (x. Lc 8,1-3). Maria Mađalêna bị “nhận diện sai lầm” trong 20 thế kỷ vì người ta cho rằng cô là người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt rửa chân Ðức Giêsu (x. Lc 7,36-50). Và người ta cũng lầm lẫn Maria Mađalêna với Maria thành Bêtania, em của Martha. Ba người tên Maria (Ngoài Đức Maria - Mẹ của Chúa Giêsu) mà Tân ước đề cập là ba nhân vật khác nhau.

Maria Mađalêna là một trong những người đã giúp đỡ Ðức Giêsu và nhóm Mười hai bằng các phương tiện của họ (x. Lc 8,2-3). Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Ðức Giêsu với Ðức Mẹ và Gioan tông đồ. Khi táng xác Chúa, Maria Mađalêna và Maria vợ ông Clêôphas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa Giêsu. Maria là một trong những nhân chứng “chính thức” đã được chọn để chứng kiến sự Phục sinh và loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh.

Suy niệm

Maria Mađalêna và các chị em lúc ban đầu đi ra thăm mộ với những bước đi nặng nề, sợ hãi tâm hồn lạnh lẽo đang than thở khóc lóc… bỗng trở nên vui tươi, rạng rỡ vì gặp Ðấng Phục Sinh…

Bà quá vui mừng và muốn giữ Ngài lại cho riêng mình. Nhưng Ðức Giêsu thúc giục bà hãy loan tin Ngài đã phục sinh: “Ðừng giữ Ta lại... hãy đi gặp anh em Ta và hãy báo tin”....

Theo mệnh lệnh của Đấng Phục sinh, Mađalêna hoan ca reo vui ra đi loan báo cho các môn đệ: Thầy đã sống lại và “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18).

Sứ điệp tin mừng Phục sinh là niềm vui khôn tả nhưng luôn khẩn cấp không thể chần chừ trì hoãn vì Ðức Giêsu đã chết, sự chết làm tiêu tan tất cả và Ngài đã Phục sinh thông ban cuộc sống mới cho chúng ta: Cuộc sống được ra khỏi bóng tối của thế gian và những sự ràng buộc của nó, ra khỏi mùa đông lạnh lẽo đầy sự chết của ngôi mồ biểu tượng quyền bính của thần chết và bước vào ánh sáng của mặt trời công chính vừa bừng dậy sau giấc ngủ của đêm dài, bước trong sự ấm áp của nắng xuân Phục sinh.

Chúa Kitô Phục sinh về cùng Cha. Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta. Ngài về để mở đường đón chúng ta cùng về bên Cha.

Maria Mađalêna hoan ca loan báo tin mừng Chúa sống lại tựa những bông hoa tươi nở của mùa xuân Phục sinh, tâm hồn của chúng ta cũng bừng tỉnh đâm chồi, nảy lộc, kết những bông hoa của niềm tin vào Đấng Phục sinh:

Con muốn sống mùa xuân tươi trong Chúa
Để tình con với Thầy chẳng hề phai
Như hoa tươi tô đậm mãi Thiên ngai
Xuân phục sinh, Nguồn sống mãi bất tận. (Cao Trí Dũng, Mùa xuân phục sinh).

Ý lực sống: “Nếu miệng bạn tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Chúa và con tim bạn tin rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết thì bạn sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,9).

-------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa hiện ra với bà Maria Madalena


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Hôm mai táng Đức Giêsu, vì ít thời gian, người ta đã xức thuốc thơm cách hối hả. Sáng ngày sau, mấy bà đã đưa thuốc thơm đến mồ để làm lại cách chu đáo hơn. Khi đến nơi, các bà thấy ngôi mộ trống vì xác Ngài không còn nữa. Và Chúa hiện ra  để củng cố đức tin cho các bà và sai họ đi báo tin cho các Tông đồ. Bài tường thuật của thánh Gioan hôm nay, ghi lại việc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với bà Maria Madalena.

2. Khi thấy mồ Chúa mở toang, xác Chúa không còn trong mồ, bà Maria Madalena chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Mặc dầu bán tín bán nghi, hai ông Phêrô và Gioan cũng chạy ra mộ xem thực hư thế nào. Maria Madalena cũng chạy ra theo, ông Phêrô và Gioan, sau khi quan sát kỹ và thấy rõ xác Chúa không còn, hai ông ra về, một mình bà Maria Madalena ở lại mộ, ngậm ngùi, khóc lóc, thương nhớ Chúa, và Chúa đã hiện ra với bà, lúc đầu bà không nhận ra, nhưng sau một vài câu trao đổi, bà nhận ra Chúa và Chúa bảo bà hãy mau vể kể lại cho các môn đệ hiện đang ở trong nhà Tiệc ly.

3. Bà Maria tức tốc chạy về nhà gặp các môn đệ đang nóng lòng chờ đợi. Họ vây quanh  bà và hỏi: “Maria, chị hãy nói đi, chị đã thấy gì”? Bà Maria đáp: “Tôi đã thấy Chúa, Chúa đã hiện ra với tôi, Chúa gọi tên tôi và Chúa phán: “Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con, về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con”. Những lời bà Maria nói đã phá tan mọi lo lắng, nghi ngờ nơi các Tông đồ, và lòng các ông tràn ngập vui mừng.

4. Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Đấng Phục Sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Điều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Đức Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Madalena cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.

5. Quả thật, Đấng Phục sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay.

Để tin nhận Ngài, con người luôn làm bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng (Mỗi ngày một tin vui).

6. Lúc này lúc khác – qua những biến cố, những dữ kiện – Chúa vẫn lên tiếng gọi thẳng tên chúng ta nhằm để chúng ta biết Người sống lại và hằng sống... Những lần gọi thẳng tên như thế sẽ giúp chúng ta bình an và đi tới để nói cho mọi người rằng: chúng ta có Chúa Sống lại cùng đi...

Cô bé đi học về muộn... Ở nhà bố mẹ rất lo...

Thấy cô về, bố mẹ hỏi xem cô đã đi đâu và làm gì?

- Con dừng lại giúp bạn con... Xe đạp của bạn con bị hỏng.
- Nhưng con đâu có biết sửa xe?
- Đúng ạ! Nhưng con dừng lại để cùng khóc với bạn ấy.

7. Truyện: Cần biết tên từng người.

Dù bà Maria không còn thấy gì và không nhận ra ai nữa cả, nhưng khi Đức Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng  sáng trở lại, “Ta biết các chiên Ta... Chiên Ta biết tiếng Ta...”. Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận ra tiếng Ngài không?

Một sinh viên Cao đẳng sư phạm đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.

Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả những học sinh thân yêu của anh tụ tập xung quanh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.

Tất cả các em đều được gọi nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng.

Tên người thật quan trọng (góp nhặt).

------------------------------

 

Suy Niệm 10: Các phụ nữ báo tin cho môn đệ


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Thánh Mát-thêu thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh:

1. (Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống, gặp thiên thần. Thiên thần cho hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà đi báo tin cho các môn đệ và bảo họ Chúa Giêsu chờ họ tại Galilê). Trong tâm trạng vừa sợ vừa vui mừng, các bà chạy đi báo tin cho các môn đệ.

Tâm trạng sợ hãi: không phải là sợ hãi, mà là nỗi sợ tôn giáo, tâm trạng của người ý thức Thiên Chúa đang có mặt hoạt động. Vậy các bà “sợ” nghĩa là các bà ý thức Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại.

Vui mừng: vì Thầy mình đã sống lại.

2. Đang khi các bà chạy đi báo tin thì Chúa Giêsu hiện ra. Câu đầu tiên của Ngài là “đừng sợ”. Rồi Ngài lặp lại lời thiên thần: Hãy đi báo tin cho các môn đệ, bảo họ rằng Ngài chờ họ ở Galilê.

“Đừng sợ”: Trong Thánh kinh, từ Cựu ước tới Tân ước, khi hiện ra với loài người, Thiên Chúa (hay thiên thần) đều nói “đừng sợ” (x. St 15,1 26,24 46,3 Tl6,23 Lc1,12.30 2,10 Mt14,27…).

Nếu như “sợ” là tâm trạng của con người khi biết mình đang ở trước mặt Thiên Chúa vì thấy mình bất xứng, thì lời nói “đừng sợ” có nghĩa là Thiên Chúa tự xóa khoảng cách giữa Ngài với loài người; hơn nữa, Thiên Chúa đem lại cho loài người sự bình an và vui mừng.

Khi nói về các môn đệ, Chúa Giêsu gọi họ là “anh em”: sự Phục sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Ngài với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài.

3. Phản ứng của giới thượng tế và kì lão: đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc họ xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu sống lại.

B. Suy Niệm (...nẩy mầm)

1a. “Đừng sợ”: từ nỗi “sợ hãi” trong lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết, các bà đã chuyển sang “kính sợ” khi nhận thấy quyền năng Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” đi kèm với nỗi “vui mừng hớn hở”. Khi ta thực sự tin vào quyền năng Chúa, ta sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí còn có thể “vui mừng hớn hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.

1b. Một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ong nghĩ về phận mình và cảm thấy chán trường. Ông ném bó củi xuống và than vãn: “cuộc sống cơ cực quá, không thể chịu nổi nữa! Ươc gì thần chết rước tôi đi!”.

Vừa nói xong thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: “Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều gì?”. Ông già kinh sợ nói: “Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai không?” (Góp nhặt).

2a. Chúa Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài: sự Phục sinh của Chúa đã cứu chuộc tội lỗi của loài người, ban lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu.

2b. Một giáo viên cấp II đang vào sổ hai cậu học sinh mới chuyển trường. Cô thấy tên họ của chúng giống nhau, dáng người và quần áo như nhau nên hỏi:

- Hai anh em sinh đôi phải không?

- Không.

Rồi cô đọc thấy ngày tháng năm sinh của chúng chỉ cách nhau sáu tháng. Cô lại hỏi:

- Hai anh em họ phải không?

- Không, chúng em là anh em ruột.

- Ồ, cô nghĩ có sự nhầm lẫn trong việc ghi ngày sinh của các em. Hai anh em về nói mẹ ghi lại ngày sinh của mình rồi đưa lại cho cô vào sáng mai nhé?

- Tại sao vậy?

- Bởi vì nếu hai anh em không sinh đôi mà lại là anh em ruột, thì Nam không thể lớn hơn Tâm có sáu tháng.

Hai cậu nhìn nhau. Rồi Nam quay lại, mỉm cười nói với cô giáo: “Nhưng em không phải là người lớn hơn; vì cô biết đó, một trong hai chúng em là con nuôi. Nhưng chúng em không biết ai là con nuôi.” (Góp nhặt).

3. “Tin Mừng hôm nay đề cập tới hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục sinh: Một của các phụ nữ, một của nhóm lính canh. Đối diện với ngôi mộ trống, các phụ nữ nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Phục sinh và khởi điểm cho niềm hy vọng, tuy lo âu, nhưng họ cũng vui mừng vội vã đi báo tin cho các môn đệ. Còn đối với nhóm lính canh, ngôi mộ trống đã không là khởi điểm của sự tìm kiếm và tin tưởng, mà còn khiến họ xa rời niềm tin, chỉ vì sợ hãi và vì chút lợi lộc…

Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Phục sinh và được trao cho nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này…Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin Mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô và về Giáo hội” (Mỗi ngày một tin vui”).

4. Vậy là đã qua này sinh nhật vui với nhiều lời chúc, hoa và quà. Tôi lại trở về với cuộc sống thường nhật. Hụt hẫng! Cố níu kéo cảm giác hạnh phúc hôm qua. Nhưng đành bất lực!

…Có một niềm vui bên cạnh tôi chẳng bao giờ tan biến nhưng tôi nào hay biết: Chúa của tôi Phục sinh. Một niềm vui trọng đại, một ân điển lớn lao, cho bạn và cho tôi.

Bởi lẽ:

Tình yêu đã chiến thắng;

Sự thật đã lên ngôi.

Bạn và tôi hãy xóa đi hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được Phục sinh nơi Ngài.

------------------------------

 

Suy Niệm 11: Thay đổi vì Chúa sống lại


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Việc Phục Sinh của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn ý nghĩ và tình cảm của con người trước cái chết. Trường hợp bà Maria Mađalêna là một thí dụ. Khi thấy xác Chúa không còn ở trong mồ, bà buồn, bà khóc. Nhưng rất may Chúa đã hiện ra với bà, gọi tên bà và bà đã nhận ra Chúa. Mọi sự thay đổi bắt đầu từ đây.

Người ta kể khi thấy chồng gần đất xa trời, bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, nhờ ông tìm cho người chồng sắp quá cố của bà là Tổng Thống Charles De Gaulle đã về hưu một nơi an nghỉ cuối cùng. Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi. Trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói:

- Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng cho người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs. (Một số tiền rất lớn...nếu tính theo thời giá hôm nay thì khoảng gần 5 tỷ đồng VN)

Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp:

- Ông nhà thật xứng đáng được hưởng sự ưu đãi đó.

Vừa nghe tới đó bà vội vàng đáp lại một lời làm cho ông cụt hứng:

- Nhưng ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà! (Góp nhặt)

(Ý bà muốn nói Chúa Giêsu chỉ cần ngôi mộ có ba ngày thôi cho nên đâu cần phải quá tốn phí cho một thi hài, dù thi hài đó là thi hài của một vị tổng thống!)

2. Phải nói là tình cảm của Maria Mađalêna đối với Chúa Giêsu thật hết sức đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc. Cả thế giới này không còn một ý nghĩa gì đối với bà nữa. Thiên thần hiện ra bà coi như không! Chính Chúa Giêsu ở trước mặt mà bà cũng tưởng là người giữ vườn. Nhưng rồi khi bà nhận ra Chúa, bà đã vui mừng hớn hở chạy đi báo tin cho mọi người ngay. Tóm lại, đối với Maria, Chúa Giêsu là tất cả. Mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ. Gặp lại Chúa là có lại tất cả.

Người ta kể lại vào hồi Đức Quốc xã giam giữ những người có đạo, có một người đàn bà rất nổi tiếng tên là Archengette. Bà Archengette bị giam cùng với hàng trăm ngàn người khác. Có lần bà đã kể lại: Một buổi chiều kia, một cô bạn tù ghé vào tai tôi se sẽ hỏi:

- Chị có biết ngày mai là ngày gì không? Mai là lễ Phục Sinh đấy chị ạ.

Tôi ngạc nhiên nói bâng quơ:

- Đã đến lễ Phục Sinh rồi sao?

Lễ Phục Sinh là ngày lễ trọng, và là ngày vui của toàn thể nhân loại, vì Chúa Giêsu đã sống lại, để mở cánh cửa cuộc sống trường sinh cho con người, thế mà chúng tôi lại bị giam giữ trong căn nhà tù này, xa cách mọi người thân yêu, cô đơn, đau khổ...Tôi đi đi lại lại trong căn nhà chật hẹp, hôi hám. Đầu óc thì còn đang theo đuổi những ý tưởng vừa mới xuất hiện. Mặt mũi buồn so.

Bỗng tôi nghe thấy có tiếng kêu lớn, phá tan bầu không khí im lặng đang nặng nề đè trên chúng tôi. Tiếng kêu ấy thế này: “Chúa Kitô đã sống lại”.

Tôi kinh ngạc nhìn cô bạn tù. Đôi mắt cô long lanh. Hai hàng giọt lệ đang từ từ chảy ra, để cho chúng lăn trên đôi gò má cao nhô lên giữa khuôn mặt xanh xao gầy ốm của cô. Thế rồi bỗng khuôn mặt ấy tươi hẳn lên.

Tiếp đó từ trong các phòng khác của nhà tù, tôi đều nghe thấy tiếng trả lời, tưởng như tiếng vang vọng không ngừng:

“Chúa Kitô đã sống lại... Chúa Kitô đã sống lại”.

Những tiếng phát ra từ trong các phòng nhà tù đó, đã trở thành một điệp khúc như của một bài ca chiến thắng.

 Bọn lính canh tù bực tức đến tột độ. Gương mặt của chúng hằm hằm giận dữ. Rồi chúng mở cửa phòng chúng tôi đang ở, nhào vào, lôi cô gái bạn tù ốm yếu của chúng tôi đi.

Bốn ngày sau, cô được trả trở về phòng với chúng tôi. Cô bé của chúng tôi thật là đáng thương. Đôi má của cô đã hóp, sau 4 ngày lại càng hóp thêm. Gương mặt xanh như tầu lá. Lúc sau nhờ cô kể lại chúng tôi mới biết, cô đã bị nhốt trong một căn phòng chật hẹp tối tăm và phải nhịn đói suốt 4 ngày nay. Tôi còn nhớ thật rõ lúc chạy ra cửa để dìu cô vào phòng, cô thều thào nói với tôi:

- Chị ơi, em đã loan báo sứ điệp Phục Sinh trong nhà tù này. Tất cả mọi chuyện khác đều không quan trọng.

Nếu ngày xưa đã có những người như Mađalêna, đã có cô bé can đảm dám loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người thì ngày nay cũng phải có những người can đảm như Maria Mađalêna, như cô bé trong nhà tù! Thế giới hôm nay, một thế giới càng ngày càng trở nên xa lạ với Chúa Giêsu đang cần những con người như thế.

 Lạy Chúa, giữa thế giới đầy bận rộn và náo nhiệt này, xin cho chúng con biết lắng tai nghe tiếng Chúa. Xin hãy mở rộng đôi tay còn khép kín của chúng con, để chúng con biết mau mắn thi hành “sứ điệp” Chúa gửi đến cho chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 12: Bà Maria thấy Chúa sống lại


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Trong các sách Tin Mừng, có lẽ chị Maria là một trong những người nữ theo Chúa khóc nhiều nhất. Chị khóc khi chị quỳ dưới chân Chúa, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Chúa, lấy tóc mình lau rồi hôn chân Chúa và lấy dầu thơm mà đổ lên (xLc 7, 36 – 50). Chị khóc lúc này là vì chị ăn năn sám hối tội lỗi chị đã phạm đến Chúa quá nặng nề và rồi Chúa đã xót thương tha thứ tội lỗi cho chị. Đàng khác, chị cũng còn khóc trong những ngày anh Lazarô qua đời (xGa 11, 1 – 45). Đặc biệt hôm nay, từ sáng sớm chị đi ra mồ Chúa để thăm Chúa, vì ngày táng xác Chúa quá cận kề ngày Sabát, nên không có thời gian nhiều. Vì thế, dường như tất cả các công việc ngày ấy có vẻ như hơi vội vàng, gấp gáp cho xong,  kẻo trễ thôi chứ liệm xác vẫn chu đáo đàng hoàng cho Chúa. Vì là vội vàng cho nên lòng trí của chị suy tưởng về Chúa cũng phải lùi lại để rồi nguyên cả ngày Sabát hôm đó, chị nghĩ nhiều về Chúa và chị mong trời mau sáng của ngày thứ nhất trong tuần để chị ra mồ viếng Chúa. Chị đã khóc thật nhiều khi không thấy xác Chúa còn ở trong mồ nữa: “Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc …” (Ga 20, 11), “Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai” (Ga 20, 15).

Tiếng khóc của chị vào buổi sáng sớm tinh sương của ngày mới, giữa một khung trời mênh mông yên tĩnh không một tiếng lay động khi mà vạn vật chưa thức giấc hẳn sau một đêm dài ấm áp của những ngày xuân mới đã làm xé lòng bao nhiêu con người chúng ta ngày hôm nay. Tiếng khóc đó thể hiện tình yêu quá nồng nàn của chị đối với Chúa, dù Chúa đã chết và đang nằm yên lành trong ngôi mồ, dường như mọi sự đều khép lại, chấm hết, không còn hy vọng gì nữa, nhưng vì Chúa là tất cả của chị mà, Chúa có sống hay Chúa có chết thì Chúa vẫn là Chúa của chị, chị vẫn yêu Chúa đến cùng như mọi ngày trong cuộc đời của chị: “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu” (Ga 20, 13), để rồi chúng ta dừng lại ở đây, suy nghĩ lại bản thân mình, chúng ta nhận thấy sao mà chúng ta quá nhỏ nhoi, quá ích kỷ, quá hèn mạt, quá khốn nạn, quá dơ nhớp, quá bẩn thỉu, quá hôi tanh, quá bị khinh bỉ …khi chúng ta còn so đo tính toán thiệt hơn từng giây phút đến với Chúa trong thánh lễ, trong các việc đạo đức thờ phượng Chúa, và còn sống hơn thua, tranh chấp, ganh tỵ với anh chị em của mình. Chúng ta hãy điều chỉnh cuộc sống chúng ta theo ý Chúa khi mà chưa qua muộn màng, kẻo sau này chúng ta hối hận, núi tiếc.

Trong lúc chị khóc như vậy thì chính Chúa, Người đang đứng bên cạnh chị mà chị không nhận ra, chị tưởng là người giữ vườn: “Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết, ông đã đặt Người ở đâu để tôi đến lấy xác Người” (Ga 20, 15b) để rồi Chúa gọi chính tên chị “Maria”, chị quay mặt lại và thưa Chúa: “Rabbi, nghĩa là lạy Thầy” (Ga 20, 16). Chi đã gặp được Chúa phục sinh nhờ tiếng gọi của Chúa. Tiếng gọi ấy là tiếng gọi của người mục tử đối với con con chiên của mình (x Ga 10, 1 – 18). Tiếng gọi của tình yêu, tiếng gọi của trái tim để rồi chỉ có tình yêu thì mới có thể nghe, mới có thể hiểu và mới có thể đáp lại mà thôi. Sau đó Chúa giao cho chị sứ mạng đi báo tin cho các tông đồ của Chúa biết Chúa sống lại: “Chúa Giêsu bảo bà: Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con. Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy (Ga 20, 17 – 18). Vì thế, Giáo Hội Đông Phương nói rằng chị là tông đồ của các tông đồ.

Lạy Chúa phục sinh của chúng con, xin Chúa thương ban cho chúng con một tình yêu nồng nàn thẳm sâu đối với Chúa để chúng con sống hết mình vì Chúa, luôn làm theo ý Chúa và thương yêu anh chị em của chúng con, sống tốt với anh chị em của chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 4:

Trên đường Em-mau.
Thứ Tư tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".

 

Lời Chúa: Lc 24, 13-35

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Em-mau, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".

Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.

Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất.

Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Mời ông ở lại với chúng tôi


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Dưới dáng dấp một người khách lạ,
Chúa Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau.
Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc,
quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua.
Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ,
khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành.
Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn,
Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ.
Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt:
“Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra...”
Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?”
Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn.
Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự.
“Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng...”
Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ.
Cả niềm tin cũng trở nên chai lì,
họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái gút của vấn đề,
những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp.
Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô
lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ?
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ.
Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua
để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt.
Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro,
nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ.
Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào,
khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại.
Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều.
Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ
thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng là của chúng ta.
Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên.
Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi.
Nhưng chính lúc Ngài biến mất,
ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài.
Ngài đến lúc ta không ngờ.
Ngài đi mà ta không giữ lại được.
Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.
Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay
qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ.
Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu.
Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ.
Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta.
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân,
tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng...
Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.
 
Cầu nguyện:

Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen. (Cha Piô)
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Trở nên khác biệt


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa là Đấng Khác, Hoàn Toàn Khác. Vượt mọi tầm hiểu biết của con người. Vượt mọi định nghĩa, công thức của con người. Vượt mọi ý định thâu tóm của con người. Đó là kinh nghiệm của các môn đệ sau ngày Chúa Phục Sinh. Đặc biệt với các môn đệ đi đường Em-maus hôm nay. Quả thật Thiên Chúa Khác Biệt làm nên những khác biệt. Ai được gặp gỡ với Chúa cũng đều trở nên khác biệt. Hai môn đệ Em-maus gặp được Chúa đã trở nên khác. Bản thân đổi khác. Buồn bã bỗng biến thành mừng vui. Ê chề thất vọng bỗng trở thành tràn trề hi vọng. Âm thầm trốn chạy bỗng công khai quay về.

Bài sách Công vụ Tông đồ trình bày một Phê-rô hoàn toàn đổi khác. Một người nhút nhát chối Thầy, nay bỗng công khai rao giảng trong hội đường. Một người trốn tránh nay thành một chứng nhân kiên cường. Một bác thuyền chài dốt nát nay thành một nhà giảng thuyết hùng hồn. Nghe ngài nói xong hàng ngàn người xin rửa tội.

Thực ra Chúa Phục Sinh vẫn hiện diện bên ta. Nhưng làm sao cho sự hiện diện của Chúa trở nên sống động và cụ thể? Lời Chúa hôm nay hướng dẫn cho ta 3 cách.

Thứ nhất: Biến hiện diện của Chúa thành sống động và cụ thể bằng cách sốt sắng dâng thánh lễ. Trình thuật Em-maus chính là một cử hành Thánh Thể. Chúa giải nghĩa Thánh Kinh. Chúa làm phép và bẻ bánh.

Thứ hai: Làm cho Chúa hiện diện bằng thực hành bác ái. Chính lòng hiếu khách, sự chia sẻ huynh đệ, đã giữ chân Chúa ở lại. Nhờ đó các ngài đã thấy Chúa hiển hiện cụ thể sống động trước mặt các ngài.

Thứ ba: Thánh Phê-rô, siêu thoát tất cả những giá trị trần gian, để chỉ có Chúa Phục Sinh ngự trong ta như thánh nhân nói: Tình, tiền, tài thì tôi không có. Nhưng tôi chỉ có Chúa Giê-su trong tôi. Khi ngài không có gì hết, sức mạnh của Chúa hoạt đông, chữa lành người què bẩm sinh.

Xin cho tất cả chúng ta được Chúa Phục Sinh làm cho nên khác biệt. Cho chúng ta biết dâng thánh lễ sốt sắng như chính Chúa Giê-su dâng lễ. Biết có lòng hiếu khách, bác ái chia sẻ như hai môn đệ Em-maus. Biết siêu thoát của cải danh vọng chức quyền như thánh Phê-rô. Để biến sự hiện diện của Chúa Phục Sinh thành cụ thể và sống động. Thế giới hôm nay như người què đang cần Chúa Phục Sinh đến chữa lành để có thể bước đi trên con đường ngay chính và hạnh phúc.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Trên đường Emmaus


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành Emmaus. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang trên đường trở về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất hiện, không phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái lại, Người gây nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.

Cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Ðấng Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Ðấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và nỗi khổ, bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình. Nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể thỏa mãn được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt đối hóa những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình bị vong thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến tranh nghèo khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực trước cái chết. Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi: "Ðâu là ý nghĩa của tất cả những điều đó? Ðâu là ý nghĩa của thân phận con người?"

Chính lúc ấy, Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu lên những câu hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái chết đau thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.

Ðây chính là kinh nghiệm mà người bạn đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên đường Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.

Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.

Ước gì sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh và hai người môn đệ trên đường Emmaus cảm nhận được lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không lẫm lũi bước đi trong đơn độc mà trái lại, hân hoan tiến bước với Ngài.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Sao các bạn buồn


Cùng ngày hôm ấy hai môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc vừa mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (Lc. 24, 13-16)

Hai môn đệ trở về Em-mau, con đường quê cũ, con đường đời thường đều đều. Nhưng hôm nay như đầy hố sâu, vắng lạnh, như kẻ đưa ma trở về, như gặp tai nạn, như cơn bệnh tái phát, lớp trẻ như thấy tương lai đen tối, như cảnh cô đơn hiu quạnh mất bạn chăn gối. “Các bạn có vẻ bi thảm, cái gì đã xảy ra vậy?”.

Đó chính là những cái chết tuyệt vọng. Người ta phải biết xây dựng lại cái đời sống chán đời và cái tương lai chôn chết đời mình để đừng sống trong những cái chết đó nữa.

Đó là điều không thể tha thứ được khi đánh mất hy vọng giải thoát như các môn đệ trên đường Em-mau: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu thoát Ít-ra-en”. Chúng ta cũng nói đúng như thế khi chúng ta gặp thất bại: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng kế hoạch đó sẽ thành công, thì chúng tôi sung sướng biết mấy, nhưng nay đầy những trắc trở”. Ai đánh mất hy vọng, không còn ước muốn gì nữa, thì đã biến mình thành con vật rồi. Thật khốn khổ!

Bao nhiêu Kitô hữu trong chúng ta đang đi trên đường Em-mau như vậy? Con đường dẫn tới hố tuyệt vọng. Họ đã không bao giờ sống hy vọng được giải thoát, được cứu độ, được vinh quang. Họ đã quay lưng đi, đi trong buồn thảm như hai môn đệ.

Chính lúc này, người khách bộ hành trở nên quan trọng, ông đến đồng hành với họ, nói với họ, đàm đạo với họ và giải thích lời Chúa cho họ.

Chính lúc này cần đón nhận họ, làm cho họ thấy những dấu chỉ của lòng thương yêu, của sự chia sẻ bánh thánh cùng với cộng đoàn trong ngày Chúa nhật để ánh sáng phục sinh soi sáng cho họ qua các dấu chỉ được nghe lời Chúa và được bẻ bánh.

Được đón tiếp vào nơi bình an như vậy, đức tin và đức cậy sẽ nẩy sinh trong họ, nếu họ biết mở lòng, mở con tim, xả hết nỗi buồn sầu u ám ra, cho niềm vui phục sinh tràn vào.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chúa Ðã Sống Lại


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Trên đường về làng Emmau có hai kẻ song hành. Họ âm thầm bước đi bên nhau, mỗi người một suy nghĩ nhưng có cùng một mẫu số chung là tuyệt vọng. Và tuyệt vọng cũng là điều dễ hiểu vì Thầy họ, một người đầy uy quyền mà phải đầu hàng trước hội đường Do Thái, phải gục ngã trước uy quyền của thần chết.

Bởi thế, dù bước đi bên nhau mà tưởng chừng như độc hành. Cùng trên đoạn đường đi ấy, một người thứ ba xuất hiện đi cùng và đối thoại trao đổi cách thân tình. Vì thế, lòng họ ấm áp lại và rồi tâm hồn họ đã hồi sinh thực sự khi Ngài bẻ bánh trao cho họ. "Trao bánh" là ban một cử chỉ thông hiệp thân mật và là mối dây thông cảm thân tình giữa Thầy và Trò.

Thế giới hôm nay cũng không thiếu những tâm hồn cô độc tuyệt vọng. Tuyệt vọng vì mất niềm tin, vì không thấy ý nghĩa cuộc đời. Tuyệt vọng vì chiến tranh bạo lực, vì những cấu xé tranh giành giữa con người cùng chung một dòng máu. Tuyệt vọng vì nghèo đói, bị khinh bỉ, bị đặt ra ngoài lề xã hội.

Giữa những cảnh tuyệt vọng ấy, bổn phận người Kitô hữu là gì nếu không phải là đốt lên ngọn lửa yêu thương để sưởi ấm tâm hồn. Bổn phận này không đòi hỏi phải có những tổ chức rộng lớn, nhưng phương tiện tân kỳ hoặc những khả năng phi thường, nhưng chỉ cần những đối thoại trao đổi đơn sơ nhưng đầy tình Chúa và tình người cũng mang lại những giá trị của nó: "Phải chăng trong lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong khi Ngài đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"

Một cử chỉ cầm tay và ngồi bên giường bệnh nhân hàng giờ của người nữ y tá chẳng là gì, nhưng nếu không có cử chỉ ấy thì giá trị của cuộc giải phẫu sẽ chẳng lường trước được.

Lạy Chúa, nếu cuộc sống đã làm cho con đau lòng tuyệt vọng thì xin Chúa cho con biết tìm về Lời Chúa và Mình Chúa để lấy lại sức mạnh cho tâm hồn. Vì Lời Chúa sẽ hâm nóng tâm hồn giá lạnh của con; và bàn tiệc Thánh Thể sẽ cho con được hồi sinh. Ðể như hai môn đệ trên đường Emmau, một khi đã được hồi sinh, con sẽ đến với người anh em để nói cho họ về niềm tin vui Phục Sinh, về tình thương của Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Lời Chúa đem lại niềm vui và hy vọng


Xem lại CN III Phục Sinh A

Có những dấu chỉ, biến cố, sự kiện, khi nhắc đến, người ta nghĩ ngay tới một người hay nhóm người liên hệ.

Cũng vậy, hôm nay, khi nói đến làng Emmaus, người ta nghĩ ngay đến sự kiện, biến cố liên quan trực tiếp đến Đức Giêsu phục sinh. Emmaus cách Giêrusalem khoảng 29 km. Đây là đoạn đường mà hai môn đệ đã đi sau cái chết của Đức Giêsu.

Con đường Emmaus mà hai môn đệ hồi hương lần này là con đường mang đậm tâm trạng buồn chán và côi cút của hai môn đệ khi các ông trở về trong nỗi thất vọng vì lý tưởng sụp đổ. Buồn vì người Thầy quý yêu đã bị người ta giết chết cách oan nghiệt, phũ phàng. Thất vọng vì Thầy mình đã bị ngã gục cách ê chề dưới bàn tay hung ác của con người. Vì thế, tương lai, lý tưởng, vận mạng của mình cũng sụp đổ tan tành.

Những bước đi thất thểu và lầm lũi khi trời đã về chiều, cộng thêm sự cực nhọc, đói khát đã làm cho tinh thần và thể xác, cả hai cùng uể oải.

Đang mang tâm trạng u ám như vậy, Đức Giêsu đã hiện ra với hai ông và bộ hành cùng họ. Ngài nhỏ to chuyện đời, chuyện đạo với các ông. Tuy nhiên, vì nỗi kinh hoàng của cuộc khổ nạn, và nhất là cái chết tức tưởi trên thập giá của Thầy mình, nên các ông không hề nghĩ rằng Đấng đã chết thì cũng là Đấng Phục Sinh đang hiện ra và trò chuyện với các ông.

Tuy nhiên, lòng họ chỉ bừng sáng lên khi Ngài kể chuyện Kinh Thánh, và nhất là niềm hy vọng được nhóm lên nhờ việc Ngài soi sáng để các ông hiểu được về sứ vụ của Đấng Cứu Thế qua những đoạn Thánh Kinh nói về Ngài. Nhưng lòng họ vẫn nặng trĩu u buồn, nên Đức Giêsu giờ này vẫn chỉ là một vị khách quý trong tâm tưởng của họ.

Chỉ khi trời đã tối và các ông mời Ngài ở lại với và dùng bữa với tư cách là khách mời, rồi cũng lúc này, Đức Giêsu làm những cử chỉ quen thuộc như lúc sinh thời, khi ấy họ mới nhận ra và lòng họ bừng cháy lên niềm tin tưởng, hân hoan vì những lời Kinh Thánh nói về Ngài đã thực sự ứng nghiệm.

Tâm trạng của hai môn đệ này được ví như thửa đất khô cằn nay được nước tưới..., nên lập tức, họ đã quay lại với cộng đoàn và không ngừng tuyên tín những điều đã thấy, đã nghe cho những anh em còn ở lại Giêrusalem.

Sứ điệp lời Chúa hôm nay dạy cho ta những bài học sau:

Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi.

Thánh Thể là niềm hy vọng, an ủi, là chóp đỉnh của cuộc đời chúng ta.

Khi đã lãnh nhận được niềm vui của Lời Chúa và sức sống nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng hãy lên đường để làm chứng và loan báo về Chúa cho người khác như hai môn đệ trên đường Emmaus hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin hãy đến và hiện diện trong cuộc đời chúng con, để cuộc đời chúng con có Chúa là niềm vui, bình an, hạnh phúc. Xin cũng cho chúng con biết sẵn sàng lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa đến với những người đang thất vọng và đau khổ. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu thuyết phục 2 môn đệ Emmaus


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Trong tăm tối hãi hùng của bản án tử Thập giá, Tin mừng Phục Sinh vừa lóe sáng, nhưng không đủ sức thuyết phục những con người thất vọng đang trở về quê cũ. Chúa Phục Sinh đã đến để họ nhận ra Ngài và nên nhân chứng cho Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Phục Sinh, điều chắc chắn nơi các môn đệ của Chúa, là tận mắt chứng kiến Chúa chết trên thập giá, còn việc Chúa sống lại đối với họ chỉ là một tin đồn, không có chứng cớ thuyết phục. Để chọn lựa giữa cái chắc chắn và tin đồn, các tông đồ đã chọn cái chắc chắn, một cái chắc chắn đưa đến thất vọng và thối lui. Nhưng Chúa đã sống lại và đã hiện diện giữa nỗi thất vọng của các môn đệ, đã chia sẻ nỗi lòng của họ, đã dùng Lời Kinh Thánh soi sáng cõi lòng họ và nhất là đã dùng dấu chứng của phép Thánh Thể để tỏ mình cho họ, để đem họ trở về, để kéo họ ra khỏi vũng lầy thất vọng. Chúa đã làm cho buổi chiều tối âm u ấy bừng sáng một sức mạnh diệu kỳ. Chúa đến biến đổi đôi chân nặng nề thành nhanh lẹ để vụt dậy chạy về Giêrusalem hô to Tin mừng Phục Sinh.

Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống của con có những cái chắc chắn trước mắt, cái chắc chắn đầy tăm tối của ngày mai, cái chắc chắn của một cơn bệnh nan y kéo dài, cái chắc chắn của cuộc sống gia đình lắm bất hòa chia rẽ … Bao nhiêu cái chắc chắn làm cho cuộc sống con ra tăm tối, bấp bênh, bất ổn … Xin Chúa cho con nhận ra Chúa đã phục sinh và đang hiện diện giữa chúng con. Xin cho con biết đến với Lời Chúa và nhất là bí tích Thánh thể để kín múc ánh sáng niềm vui, hy vọng và sức mạnh. Xin Chúa ở lại với con luôn mãi. Amen.

Ghi nhớ: “Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chúa Phục sinh hiện diện trên đường Emmaus


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Cộng đoàn Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris trong đệ nhị thế chiến. Ban đầu quy tụ những người đầu tiên là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích, nói chung là tất cả những người thiếu thốn, khốn khó trong cuộc sống hằng ngày… Đấng sáng lập là cha Phêrô (Pierre), là một nhân vật sau này đầu thế kỷ XXI được nhân dân Pháp yêu mến nhất trong các nhân vật nổi bật của nước Pháp. Cha Phêrô thường nói với những người mới đặt chân đến cộng đoàn: “Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác…”. Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn mình trở thành hữu ích cho người khác. Đó là sự khích lệ mà cha Phêrô luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng, một cái nhìn rất nhân bản, khuyến khích mọi người bất hạnh luôn vươn lên trong cuộc sống…

Hơn cả một ý nghĩa nhân bản, khi cha Phêrô đặt tên Emmaus cho cộng đoàn, ngài và cộng đoàn nhớ lại câu chuyện hai môn đệ của Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục sinh: Nhận ra Chúa đồng hành với môn sinh trên đường Emmaus. Cũng như hai môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ trong con đường Emmaus cuộc đời. Cha Phêrô và các anh em cộng sự đã tìm gặp Đấng Phục Sinh trong lữ hành cuộc đời, như hai môn đệ trên đường Emmaus, đó là tất cả hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống, nhưng vẫn thăng tiến bước về Giêrusalem với niềm hân hoan Chúa Phục Sinh hiện diện…

Suy niệm

Sau ngày Sabát, nghĩa là ngày thứ ba từ khi Chúa Giêsu chịu chết, hai môn đệ trong nhóm 72 của Ngài, trong tâm trạng buồn rầu chán nản vì niềm tin vào Thầy bị dập tắt, họ đã rời bỏ Giêrusalem về lại quê hương là một làng mang tên Emmaus. Bản văn Tin Mừng xác định cụ thể Emmaus là một ngôi làng cách Giêrusalem về phía tây bắc khoảng 60 dặm, dặm - đơn vị đo lường của Hy Lạp cổ (stadious - một dặm = 192m), khoảng cách đó có thể ước lượng với đơn vị đo lường hiện đại là khoảng 11,5 cây số.

Trên đường về Emmaus, Đức Giêsu Phục Sinh đã đến bên cạnh họ, nhưng họ không nhận ra Ngài. Thấy họ buồn rầu vì cái chết gây xôn xao của Thầy mà họ tin là Đấng Mêssia, Chúa đã giải thích cho họ, dựa theo Kinh Thánh, rằng Đấng Mêssia phải chịu đau khổ và chết để đi vào vinh quang. Sau đó, theo lời nài nỉ của hai môn đệ, Ngài cùng vào nhà với các ông. Ngài ngồi vào bàn, đọc lời chúc lành trên bánh, bẻ ra và trao cho các ông. Chính lúc ấy, hai môn đệ mới nhận ra Thầy, nhưng Ngài đã biến mất, để lại cho họ sự ngỡ ngàng trước tấm bánh được bẻ ra, dấu chỉ của sự hiện diện. Lập tức hai người đã trở về Giêrusalem loan báo Chúa Phục sinh mà họ đã thấy và thuật lại tất cả điều đã xảy cho các môn đệ.

Đường Emmaus của các môn đệ tượng trưng cuộc lữ hành của chúng ta trên dương thế. Tâm trạng của các ông là hình ảnh điển hình cho những kinh nghiệm về cuộc khủng hoảng đức tin của mỗi người chúng ta đối diện hằng ngày làm cho chúng ta mệt mỏi thất vọng và bào mòn niềm tin. Nhưng trên đường cuộc sống, giữa những thử thách khủng hoảng, Chúa Giêsu đến bên cạnh và giúp cho các môn đệ thanh luyện đức tin trong ý nghĩa của các Lời Kinh Thánh quy về Đấng Thiên Sai - Giêsu.

Toàn bộ diễn tiến của trình thuật lại đường Emmaus, chúng ta nhận thấy phác hoạ cuộc sống hàng ngày với trung tâm điểm là thánh lễ. Cuộc lữ hành của hai môn đệ, Chúa đến và dẫn đưa các ông vào thánh lễ trung tâm điểm của cuộc đời mà Ngài luôn hiện diện: Tin mừng Luca nhấn mạnh các ông lắng nghe Tin Mừng: “Đoạn Người bắt đầu từ Môisê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người”. Sau đó Ngài cử hành Thánh Thể: “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho hai ông” (Lc 22,19-20. Chúa Giêsu đã làm những cử chỉ như trong bữa tối cuối cùng lập ra bí tích Thánh Thể và truyền cử hành cho đến ngày tận thế chính là thánh lễ hằng ngày. Chúng ta thông hiệp vào bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Trong thánh lễ giữa cuộc đời chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Kitô Phục sinh giữa chúng ta.

Giữa những bước đi thăng trầm của cuộc đời, chúng ta xin cùng Chúa rằng: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Chiều về, ngày sắp tàn là lúc bóng đêm buông xuống, và sự dữ cùng bóng tối hoành hành; thế lực bóng tối mà chúng con phải chiến đấu. Xin Chúa luôn ở lại với chúng con trên đường đời đầy chông gai và thử thách. Xin Chúa lưu lại với chúng con, để dạy chúng con biết sống như những Kitô hữu “biết trỗi dậy” và “hồi sinh”.

Chúa Phục sinh hiện diện trên đường Emmaus, là niềm tin chúng ta cần phải bám lấy, tín thác trong hành trình của cuộc đời. Dù đang sầu khổ, thất vọng vì những mất mát ê chề trong cuộc sống. Dù đang quằn quại trong đau khổ của thể xác và tinh thần. Dù đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi… Bám vào Chúa đang hiện diện một cách huyền nhiệm.

Ý lực sống: “Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh” (Tv 15,11a).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Trên đường đi Emmaus


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau Matthêu và Gioan, đến phiên thánh Luca tường thuật. Tin Mừng Luca được gọi là “Tin Mừng của người môn đệ”, Luca tường thuật tác động việc Đức Giêsu chết và sống lại nơi các môn đệ. Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, biến đổi con người từ thái độ ngờ vực đến thái độ tin nhận một cách xác tín và làm chứng cho Tin mừng Phục sinh.

2.Trên đường về Emmau, Đức Giêsu Phục sinh đã đến bên cạnh họ, nhưng họ không nhận ra Ngài. Thấy họ buồn rầu vì cái chết gây xôn xao của Thầy mà họ tin là Đấng Messia. Chúa đã giải thich cho họ, dựa theo Kinh Thánh, rằng Đấng Messia phải chịu đau khổ và chết để đi vào vinh quang. Sau đó, theo lời nài nỉ của hai môn đệ, Ngài cũng vào nhà với các ông. Ngài ngồi vào bàn, đọc lời chúc lành trên bánh, bẻ ra và trao cho các ông. Chính lúc ấy, hai môn đệ mới nhận ra Thầy, nhưng Ngài đã biến mất, để lại cho họ sự ngỡ ngàng trước tấm bánh được bẻ ra, dấu chỉ của sự hiện diện. Lập tức hai người đã trở về Giêrusalem loan báo Chúa Phục sinh mà họ đã thấy và thuật lại tất cả cảc điều đã xẩy ra cho các môn đệ.

3. Đức Giêsu đã nhận lời mời của hai ông, dừng lại ở quán trọ Emmau, Ngài quan tâm đến nhu cầu của các ông. Ngày nay cũng vậy, Ngài luôn luôn dừng lại khi được yêu cầu và sẵn sàng ở lại với những ai cần đến Ngài. Đúng thế, Đức Giêsu là Đấng luôn luôn biết dừng chân khi được mời gọi, Ngài là Đấng luôn luôn hiểu thấu khi được cầu cứu, Ngài là Đấng luôn luôn chữa lành khi được đụng tới, Ngài là Đấng luôn luôn ở lại với những ai cần đến Ngài, Ngài là Đấng luôn luôn quan tâm và thương xót tất cả mọi người, chẳng trừ ai.

4. Đường Emmau của các môn đệ tượng trưng cho cuộc lữ hành của chúng ta trên dương thế. Tâm trạng của các ông là hình ảnh điển hình cho những kinh nghiệm về cuộc khủng hoảng đức tin của mỗi người chúng ta đối diện hằng ngày làm cho chúng ta mệt mỏi thất vọng và bào mòn niềm tin. Nhưng trên đường cuộc sống, giữa những thử thách khủng hoảng, Đức Giêsu đến bên cạnh và giúp cho các môn đệ thanh luyện đức tin trong ý nghĩa của các Lời Kinh Thánh quy về Đấng Thiên Sai – Giêsu.

5. Để làm sống lại đức tin đã bị lung lay, người môn đệ cần có ba yếu tố: Kinh Thánh, Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin.

Lời Chúa là của ăn nuôi sống đức tin. Toàn bộ Kinh Thánh đều qui về Đức Giêsu Kitô. Khi bị thử thách, người môn đệ không nên cắt đứt với Lời Chúa, nhưng hãy kiên trì đọc, Suy Niệm và khiêm tốn xin Chúa giải thích lời Chúa cho mình hiểu. Tâm hồn hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe Chúa giải thích Kinh Thánh.

Nhưng Kinh Thánh mới chỉ là khởi đầu của một cuộc trở về, một cuộc phục hồi đức tin còn được thể hiện khi hai môn đệ nhận ra Đức Giesu lúc Ngài bẻ bánh. Từ ngữ “Bẻ bánh” trong cộng đoàn Kitô tiên khởi có nghiã là cử hành Bí tích Thánh Thể: Bí tích Thánh Thể hoàn tất điều mà Lời Chúa khơi dậy trong tâm hồn con người.

Cuối cùng, đích điểm của cuộc trở lại là cộng đoàn đức tin: đức tin được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Mình Chúa không thể chỉ dừng lại hoặc giới hạn nơi cá nhân, mỗi môn đệ là thành phần của cộng đoàn đang tuyên xưng đức tin: đức tin không bao giờ chỉ là đức tin riêng rẽ, nhưng là đức tin trong một cộng đoàn: “Tôi tin”, đồng thời cũng là “Chúng tôi tin” (Mỗi ngày một tin vui)

6. Giữa những bước đi thăng trầm của cuộc đời, chúng ta xin cùng Chúa rằng: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Chiều về, ngày sắp tàn là lúc bóng đêm buông xuống, và sự dữ cùng bóng tối hoành hành, thế lực bóng tối mà chúng con phải chiến đấu. Xin Chúa ở luôn với chúng con trên đường đầy chông gai và thử thách. Xin Chúa lưu lại với chúng con, để dạy chúng con biết sống như những Kitô hữu “biết chỗi dạy” và “hồi sinh”.

7. Truyện: Cộng đoàn Emmau của cha Phêrô.

Cộng đoàn Emmau khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thánh phố Paris trong đệ nhị thế chiến. Ban đầu qui tụ những người đầu tiên là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích, nói chung là tất cả những người thiếu thốn khốn khổ trong cuộc sống hằng ngày...

Đấng sáng lập là cha Phêrô (Pierre), là một nhân vật sau này đầu thế kỷ XXI được nhân dân Pháp yêu mến nhất trong các nhân vật nổi bật của nước Pháp. Cha Phêrô thường nói với những người vừa đặt chân đến cộng đoàn: “Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác...”. Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn mình trở nên hữu ích cho người khác. Đó là sự khích lệ mà cha Phêrô luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng, một cái nhìn rất nhân bản, khuyến khích mọi người bất hạnh luôn vươn lên trong cuộc sống.

Hơn cả một ý nghĩa nhân bản, khi cha Phêrô đặt tên Emmau cho cộng đoàn, ngài và cộng đoàn nhớ lại câu chuyện hai môn đệ của Đức Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Nhận ra Chúa đồng hành với môn sinh trên đường Emmau. Cũng như hai môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Đức Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ trong con đường Emmau cuộc đời. Cha Phêrô và các anh em cộng sự đã tìm gặp Đấng Phục Sinh trong lữ hành cuộc đời, như hai môn đệ trên đường Emmau, đó là tất cả hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống, nhưng vẫn tiến bước về Giêrusalem với niềm hân hoan Chúa Phục Sinh hiện diện.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu phục sinh tác động nơi các môn đệ


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Sau Mát-thêu và Gioan, đến phiên thánh Luca tường thuật. Tin mừng của Luca được gọi là “Tin mừng của người môn đệ”, nên thánh Luca tường thuật tác động việc Chúa Giêsu chết và sống lại nơi các môn đệ.

1. Có hai môn đệ, nhưng Lu-ca chỉ nêu tên một người là Clêôpha, người kia không tên, có lẽ Lu-ca muốn độc giả hiểu người vô danh ấy là bất cứ môn đệ nào, độc giả có thể coi mình là chính môn đệ ấy và chia sẽ cảm nghiệm của người môn đệ ấy.

2. Cái chết của Chúa Giêsu đã khiến người môn đệ hoang mang, bỏ cuộc hành trình theo Chúa để trở về quê của mình.

3. Nhưng Chúa Giêsu Phục sinh không bỏ họ. Ngài vẫn đồng hành với họ dù họ không nhận ra Ngài.

4. Chúa Giêsu cùng Thánh kinh và việc “bẻ bánh” (bí tích tạ ơn) để làm sống lại niềm tin nơi họ.

Ý chính của tường thuật này: Chúa Giêsu Phục sinh vẫn đang sống, Ngài ở kề bên chúng ta. Hai nơi thuận tiện nhất để tôi nhận ra Ngài là Thánh kinh và dự lễ.

B. Suy Niệm (...nẩy mầm)

1. Khi không nêu tên người môn đệ kia, thánh Luca muốn tôi hiểu rằng mỗi người chúng ta có thể là người môn đệ ấy, nên cũng có thể chia sẻ cảm nghiệm của người môn đệ ấy với Chúa Giêsu Phục sinh: Chúa Giêsu Phục sinh vẫn đang sống và đang đồng hành với chúng ta trong hành trình đời ta mặc dù con mắt xác thịt ta không nhận ra Ngài. Những nơi ưu tiên ta có thể gặp thấy Ngài là Thánh kinh và Thánh lễ.

2. “Xin Ngài ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày đã sắp tàn”. Một lời rất hay, ta có thể dùng làm lời cầu nguyện mỗi khi cảm thấy cảnh đời như màn đêm tăm tối đang phủ đầy xuống chúng ta.

3a. Muốn đọc Thánh kinh với một tâm hồn cháy bừng lên, ta hãy đọc với Chúa Giêsu Kitô.

3b. Một bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao bà dùng một thí dụ để giải thích:

Một hôm tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất kỹ và đọc đi đọc lại 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng là vì tôi biết đó là lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyrian).

4. “Để làm sống lại đức tin đã bị lung lay, người môn đệ cần có 3 yếu tố: Thánh kinh, Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin…Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta cần kiểm điểm lại xem chúng ta có thái độ nào đối với Lời Chúa. chúng ta sống Bí tích Thánh thể ra sao, chúng ta hiệp nhất với cộng đoàn tin xưng đức tin thế nào” (“Mỗi ngày một niềm vui”).

5. Tôi rất quý bạn bè. Chỉ mong sao bạn được hạnh phúc: những gì có thể làm cho bạn vui hơn được một chút, là tôi nguyện cố gắng. Nhưng trước nỗi buồn chán, thất vọng của bạn, tôi thật lúng túng, vụng về cũng khi cũng “xìu” luôn.

Hôm nay thánh Lu-ca cho thấy Chúa Giêsu Phục sinh là người bạn tuyệt vời.

Hai môn đệ trên được Emau cũng là người bạn của Chúa. Họ đang chán trường, thất vọng, buông xuôi tất cả. Thế mà Chúa Giêsu đã giúp vui mừng chỗi dậy, quay lại Giê-ru-sa-lem…thất vọng thành hy vọng tràn trề.

Chúa Giêsu đã làm gì ?

Ngài đến và cùng đi với họ. Gợi cho họ thổ lộ nỗi lòng và giải thích Thánh kinh cho họ nghe, cảm thông, đồng bàn với họ. Chia sẻ cơm bánh với họ. Ngài đã đồng hành với họ trong vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của họ.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin cho con là người bạn tốt lành của anh em, bằng cách đồng hành với họ trên mọi nẻo đường cuộc sống. (Epphata).

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống, ở kề bên ta


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Sau Mátthêô và Gioan, đến phiên thánh Luca tường thuật. Tin Mừng của Luca được gọi là “Tin Mừng của người môn đệ”.

Có hai môn đệ, nhưng Luca chỉ nêu tên một người là Clêôpha, người kia không tên, có lẽ Luca muốn độc giả hiểu người vô danh ấy là bất cứ môn đệ nào của Chúa. Độc giả cũng có thể coi mình là chính môn đệ ấy để được chia sẻ với người môn đệ này những cảm nghiệm thật thú vị trên đường.

Hai môn đệ này là những người đã có một thời theo Chúa. Thế nhưng, cái chết của Chúa đã khiến họ hoang mang và bỏ cuộc. Họ đang cùng nhau trên đường trở về quê quán của mình.

Hai môn đệ đã bỏ Chúa nhưng Chúa không bỏ họ. Ngài vẫn đồng hành với họ dù họ không nhận ra Ngài.

Để làm sống lại niềm tin nơi hai môn đệ này, Chúa Giêsu đã dùng hai phương thế: Thánh Kinh và việc “bẻ bánh”. Thánh Kinh và Bí tích Tạ ơn đã giúp họ tìm lại được niềm tin và cuộc đời của họ đã được đổi mới.

Như vậy, chúng ta có thể nói: Ý chính của bài tường thuật này là: Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống, Ngài ở kề bên chúng ta. Hai nơi thuận tiện nhất để chúng ta nhận ra Ngài là Thánh Kinh và Thánh Lễ.

2. Khi không nêu tên người môn đệ kia, thánh Luca dường như muốn cho chúng ta hiểu rằng, mỗi người chúng ta là người môn đệ ấy. Hãy đặt mình vào con người của người môn đệ ấy để cảm nghiệm được niềm vui khi nhận ra Chúa Phục Sinh.

Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta hãy chạy đến với Thánh Kinh, Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin để xây dựng lại. Thánh Kinh, Thánh Thể và cộng đoàn đức tin là ba cột trụ vững chắc để nâng đỡ niềm tin của chúng ta.

Jacques Loew là người phu khuân vác ở bến tàu. Anh là đảng viên của đảng Lao Động Thụy Sĩ. Bỗng một hôm anh nảy ra ý định thử đi tìm hiểu điều mà những người Công giáo vẫn tin tưởng là có thực đó là “có một Thiên Chúa”. Anh muốn biết điều đó có thực hay không ? Muốn là làm. Anh tìm đến một dòng khổ tu và nói rõ ý định của mình với cha bề trên của dòng. Với nụ cưới thật tươi trên môi, cha bề trên rất cảm động nói với anh những lời này:

- Anh đã đi đúng đường rồi đó, anh cứ tiếp tục đi đi. Anh hãy coi tu viện đây như là nhà của anh.

Rồi cha bề trên giơ tay chỉ nhà nguyện và nói:

- Đây là nhà nguyện, nếu anh muốn xin mời anh vào.

Lúc ấy nhà nguyện đang có Thánh lễ. Jacques Loew đi vào. Anh quì xuống như bao người khác. Rồi anh cứ quì mãi trong khi những người khác đã thay đổi vị thế, khi ngồi, khi đứng. Đến lúc đã mỏi gối, anh ngồi lên thì lúc đó lại là lúc mọi người khác trong nhà nguyện đều quì sụp xuống vì đó là lúc truyền phép Mình Máu Thánh Chúa.

Đến lúc rước lễ, hầu như tất cả đều lên rước lễ, trừ anh thì cứ ngồi lại tại chỗ. Anh nghĩ thầm trong lòng: Mình thật không giống ai.

Ngồi ngó những người lên rước lễ đi xuống, anh nhận ra có rất nhiều khuôn mặt khác nhau: người học thức, kẻ có địa vị cao ngoài xã hội, và dĩ nhiên cũng có cả những người bình dân nữa. Jacques Loew tự hỏi: Sao những người này mê tín thế ? Ăn miếng bánh nhỏ bằng đồng xu kia để làm gì ? Họ có điên không ?

Nhưng rồi ý tưởng trên đây của Loew đã bị một tư tưởng khác tấn công: không lẽ tất cả những người học thức, có địa vị ngoài xã hội hơn mình, họ lại điên, còn mình thì lại khôn sao ? Hay là ngược lại, tôi điên ?

Thế rồi, Jacques Loew bắt đầu đi tìm hiểu về phép Thánh Thể với cha bề trên. Sau một thời gian, anh đã tâm sự: “Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: “Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh”. Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới biết là chúng tôi là anh chị em với nhau trong Chúa Kitô. Có những người mà trước đó gặp ở ngoài đường, chúng tôi dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng tôi thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi, bởi chúng tôi cùng tin Tin Mừng, cùng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Chúa Kitô”.

Sau này Jacques Loew đã trở thành một linh mục. Ngài đã hoạt động rất tốt trong phong trào Linh Mục thợ.

Lạy Chúa,
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn.
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Hai môn đệ nhận ra Chúa


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Hai môn đệ trên đường Emmaus trở về quê của mình. Emmaus là nơi các ngài sinh sống trước khi đi theo tiếng gọi làm môn đệ của Chúa. Chính tiếng gọi của Chúa đã làm thay đổi cuộc sống của các ngài. Các ngài đã giã từ tất cả để dấn thân lên đường với Chúa cho dù có biết bao gian nan, thử thách, hiểm nguy vẫn còn đó. Dường như dù là với những thử thách hiểm nguy đó, các ngài vẫn chịu được với một chút hy vọng sẽ được Chúa dành một chỗ nào đó cho các ngài khi Chúa hiển trị trong Nước Chúa. Thế nhưng mọi sự đều đảo lộn tất cả khi Chúa đi vào cuộc tử nạn. Đến hôm nay là ngày thứ ba rồi mà vẫn không có tin tức gì cả, cho nên mọi ước mơ các ngài như bị chấm hết, mọi dự tính như bị khép lại, không biết bao giờ mới có được như vậy trong cuộc đời này nữa, xem như là một kỷ niệm mà thôi. Do đó, lòng của các ngài buồn bã vô cùng, ở lại Giêrusalem, nơi phồn hoa đô thị làm chi nữa, nơi đây các ngài sẽ không có chỗ đâu, còn trở về quê Emmau, trở về với cuộc sống đời thường như bao ngày, coi như thời gian theo Chúa vừa rồi, mất công ăn việc làm được coi như là thời gian đi tìm cơ hội sống mới, là thời gian thử nghiệm không thành để khỏi áy náy băn khoăn mỗi khi nghĩ đến nó (x Lc 24, 18 – 24). Đây là đêm tối cuộc đời của các ngài. Thật là đúng với tường thuật của thánh sử Luca trong bài Tin Mừng hôm nay, không gian vũ trụ đất trời mà các ngài trên đường về quê là: “Trời đã về chiều và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29). Và rồi “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du).

Giũa lúc tâm trạng của các ngài ngổn ngang rối bời trăm bề như thế, Chúa hiện ra cùng đi với các ngài, Chúa nghe các ngài nói lên tâm trạng của các ngài, chắc Chúa cũng cảm nhận được sự chua xót, thất vọng quá lớn của các ngài. Chúa biết nguyên nhân từ đâu đã làm cho các ngài có một tâm trạng như thế, là vì trong lúc gặp thử thách, các ngài đã quên mất Lời Chúa, các ngài không biết dựa vào Lời Chúa để Chúa nâng đỡ và giúp các ngài vượt qua và tìm lối đi cho cuộc sống. Vì thế, Chúa đã bắt đầu lại điều căn bản của đời người là phải dựa vào Lời Chúa thì mới có thể hiểu được các vấn đề đang xảy ra trong cuộc sống. Cho nên Chúa đọc Kinh Thánh, giải thích các đoạn Kinh Thánh từ Môsê cho đến các tiên tri, những đoạn nói vế Chúa để cho các ngài hiểu và rồi khi Lời Chúa đã làm sáng tỏ các vấn đề cuộc sống theo Chúa của các ngài. Nhân việc Chúa ngồi bàn ăn với các ngài. Chúa cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ngài, đôi mắt thể lý và đôi mắt đức tin của các ngài được mở ra và các ngài nhận ra Chúa. Các ngài hiểu được theo Chúa là theo Chúa chịu khổ nạn rồi mới sống lại. Vì vậy, những điều suy nghĩ của các ngài trước kia theo Chúa có vẻ vật chất, lợi lộc bây giờ đã nhường chỗ cho việc dấn thân trở về lại Giêrusalem, báo tin Chúa sống lại, để rồi các ngài sống chết cho sứ mạng cao cả này (x Lc 24, 28 – 35).

Lạy Đấng phục sinh của chúng con, hai môn đệ trên đường Emmaus đã tìm lại được ánh sáng cuộc đời là nhờ Chúa. Ngày hôm nay, chúng con sống đạo tốt được cũng là nhờ vào Lời Chúa và Thánh Thể Chúa. Lời Chúa và Thánh thể Chúa là lương thực nuôi sống linh hồn chúng con, là nguồn dưỡng chất để thêm sức mạnh cho chúng con vượt qua đêm tối của cuộc sống, đó là những gian nan thử thách, thất bại, tuyệt vọng của chúng con trong cuộc đời làm người này. Xin Chúa giúp chúng con biết siêng năng đọc Lời Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ, rước Chúa nhiều hơn nữa. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 5:

Ðau khổ là một hồng ân.
Thứ Năm tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Đấng Kitô phải chịu thương khó như vậy, rồi mới được tôn vinh".

 

Lời Chúa: Lc 24, 35-48

Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma.

Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Đoạn Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.

Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Anh em là chứng nhân


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con.
Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma.
Có lần Ðức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ,
nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ,
họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.
Ðấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách
để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng.
Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài
để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt.
Ngài còn ăn một miếng cá nướng
để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.
Khi các môn đệ yếu đức tin,
họ coi Ðức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma.
Nhưng khi đức tin của họ được củng cố,
họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa,
vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ,
giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược,
hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau.
Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến.
Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài.
Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.
Ðức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ.
Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại.
Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời.
Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi
ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế.
Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.
Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết.
Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động.
Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người.
Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ.
Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không đâu.
Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt,
và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết.
Họ phải là nguồn sống dồi dào,
sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.
Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui.
Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học.
Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc.
Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền.
Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa,
nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình,
chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh,
bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.
Chuyện Ðức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin.
Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ
thì người ta có thể gặp đươc Ðấng đang sống.

Cầu nguyện:

Giữa một thế giới
chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được
cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa:
“Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho cả nhân loại. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Giêsu, điểm tới của Thánh Kinh


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nếu có ai đưa cho ta một bản đồ bí mật chỉ chỗ cất giấu kho tàng, chắc chắn ta không ngần ngại bỏ công sức nghiên cứu tìm tòi cho ra con đường dẫn đến kho tàng đó. Thánh Kinh chính là tấm bản đồ chỉ cho ta chỗ kho tàng chôn giấu trong ruộng. Thánh Kinh cho ta biết kho tàng cao quí nhất là Chúa Giê-su. Sao ta không cất công nghiên cứu kỹ lưỡng tấm bản đồ quí giá này để tìm cho ra kho tàng Giê-su?

Nếu có ai bảo ta Chúa hiện ra ở chỗ này, Mẹ hiện ra ở chỗ nọ, chắc chắn ta không ngại bỏ công sức, thời giờ và tiền bạc để đến kính viếng nơi linh thiêng in dấu chân Chúa, thấp thoáng tà áo Mẹ. Thánh Kinh là nơi Chúa tỏ mình, sao ta không chịu đến chiêm ngưỡng dung nhan thực sự của Chúa?

Thánh Giê-rô-ni-mô quả quyết: Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giê-su. Không biết ở đây không chỉ là không biết đến. Nhưng còn là không biết cặn kẽ. Người Do Thái rất thông thuộc Thánh Kinh. Thế mà không biết Chúa Giê-su.

Hôm nay Chúa Giê-su đã mở lòng trí cho các Tông đồ hiểu Thánh Kinh. Và dẫn chứng Mô-sê, các tiên tri và các Thánh Vịnh đều chép về Người. Và những điều ấy đã được ứng nghiệm.

Trong bài giảng đầu tiên, thánh Phê-rô cũng nhắc lại cho người Do thái thấy mọi điều trong Thánh Kinh, từ Mô-sê cho đến các tiên tri đều ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su.

Chúa Giê-su là điều Thánh Kinh hướng đến. Người là Đấng hoàn thành lời hứa. Người là Đấng thực hiện những lời tiên báo về Đấng Cứu Thế. Người chính là điểm đến của Thánh Kinh.

Xin cho chúng con biết yêu mến Thánh Kinh. Vì Chúa ẩn mình trong đó. Xin cho con đọc Thánh Kinh với lòng yêu mến. Chỉ có ánh sáng của trái tim mới thấu hiểu được sứ điệp tình thương trong Thánh Kinh. Xin cho con đọc Thánh Kinh với lòng khao khát Chúa. Chỉ có người khát nước mới tìm được nguồn nước hằng sống. Xin cho con biết kiên tâm tìm kiếm Chúa là kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng Thánh Kinh. Xin cho con biết mài dũa Thánh Kinh để lộ ra viên ngọc Giê-su cao đẹp.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðau khổ là một hồng ân


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong ánh sáng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị của đau khổ. Khi hiện ra cho hai môn đệ Emmaus, Chúa Giêsu đã dẫn giải cho các ông về ý nghĩa của đau khổ trong tương quan với sự phục sinh của Ngài. Ngài đã trải qua đau khổ để tiến vào vinh quang. Cuộc khổ nạn là tiền đề bắt buộc của sự sống lại. Như Phêrô có lần đã can ngăn, các môn đệ khách cũng không chấp nhận được sự kiện Chúa Giêsu phải chết, và vì thế các ông cũng không tin ở sự phục sinh của Ngài.

Trong ánh sáng Phục Sinh, chúng ta được mời gọi để nhìn vào nỗi cay cực khốn khổ hiện tại của chúng ta. Trong huấn thị về việc làm cho chết êm dịu công bố năm 1990, Bộ Giáo Lý Ðức Tin đã viết:

"Sự đau khổ, nhất là trong những giây phút cuối đời, mang một ý nghĩa đặc biệt trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Quả thực, đau khổ là tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và kết hợp với Hy Tế cứu rỗi của Ngài. Hy Tế mà Ngài đã dâng hiến như của lễ đẹp lòng Chúa Cha".

Mẹ Têrêsa Calcutta thì coi đau khổ như một hồng ân của Chúa, Mẹ nói:

"Tôi tự hỏi thế giới này sẽ ra sao, nếu không có những người vô tội đang đền bù cho tất cả chúng ta. Mỗi ngày, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu được lặp lại trong cuộc sống của những người đau khổ. Ðau khổ không phải là một trừng phạt. Ðau khổ là một hồng ân. Chính vì thế cần có tâm hồn trong sạch để nhận ra bàn tay Chúa, để cảm nhận tình yêu của Ngài trong đau khổ của chúng ta".

Ước gì ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô chiếu dọi vào tăm tối của những đau khổ thử thách của chúng ta, để trong mọi sự chúng ta luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa và làm chứng cho tình yêu ấy bằng thái độ phó thác và yêu thương.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Mở trí cho hiểu Kinh Thánh


Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây!” (Lc. 24, 36-39)

Trong đoạn Kinh thánh này, thánh Lu-ca đã thâu tóm lại vào buổi chiều phục sinh tất cả các việc xảy ra suốt bốn mươi ngày từ ngày phục sinh đến ngày Đức Giêsu lên trời. Thực vậy, mười một tông đồ chỉ có thể dần dần “lãnh hội được đầy đủ sứ điệp phục sinh” (theo chú giải bản dịch TOB).

Đối với những kẻ thấy Người họ tưởng là ma, Đức Giêsu đã cho họ xem những lỗ đinh đóng ở chân tay Người. Đối với kẻ quá vui mừng khi thấy Thầy thật rồi, Đức Giêsu cho họ cùng ăn uống với Người. Đối với kẻ coi cuộc thương khó là gương mù, gương xấu, Người giải thích Thánh kinh để họ nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đối với kẻ còn do dự, Người đòi họ trở nên nhân chứng rao giảng Tin mừng từ thành Giê-ru-sa-lem cho đến cùng cõi trái đất.

Tin Đức Giêsu không phải là đặc ân riêng cho mình, mà chính là ơn gọi làm chứng về Tin mừng đến mọi nơi. Mỗi cuốn Tin mừng đều biểu lộ cho người ta thấy nhiệm vụ chính thức của các tông đồ và của Giáo hội là rao giảng Tin mừng “và có thể chỉ một đoạn nhỏ Tin mừng cũng đủ trình bày tổng quát về ý nghĩa mầu nhiệm phục sinh” (A. George). Đức Giêsu lên trời để Chúa Thánh Thần hiện xuống soi sáng cho những chứng nhân của Người thiết lập.

Đức tin của chúng ta phải thành ơn gọi thúc đẩy chúng ta vượt ra khỏi những vấn đề cá nhân để tiến sâu vào sứ mệnh phổ biến ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần luôn linh ứng hướng dẫn Giáo hội, nhưng chính chúng ta chậm trễ theo ơn Ngài, chính những cánh buồm tâm hồn chúng ta không mở căng ra. Các mầu nhiệm nói về các vết thương Đức Kitô như những môi miệng kêu gọi tình yêu của kẻ đã nhận biết. Chúng ta sẽ lấy gì, làm gì để tỏ lòng mến Thiên Chúa? Chịu lấy những vết thương hằn sâu trong hy sinh để thành chứng nhân của Đức Kitô, hay chỉ coi đó là những nhãn mác lòe loẹt ngoài mặt thôi?

Trong khi chờ đợi Chúa lại đến, chúng ta phải sống âm thầm dấn thân mạo hiểm nhiều, chứ không chỉ giải những đáp số, nhưng chịu trách nhiệm săn sóc chăm lo cho chính bản thân mình và anh em mình. Khi Đức Giêsu hiện đến, Người chỉ hỏi một điều giản dị: “Các con có gì ăn không?”. Đối với chúng ta phải sống cuộc đời tạm bợ, phải làm việc mò mẫm luôn, phải kiếm ăn vất vả nặng nhọc … không phải là những chứng nhân diễn kịch cho khán giả coi, nhưng là gợi lên ý nghĩa hy sinh tử đạo …

L.P

---------------------------------
 
 

Suy Niệm 5: Thầy Ðây Ðừng Sợ


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’

 – Radio Veritas Asia)

Vào một ngày nọ, từ mảnh vườn nhỏ nằm phía sau nhà, bỗng có một tiếng khóc của cậu con trai duy nhất mới 5 tuổi khiến cho cha mẹ cậu lo lắng. Họ vội vàng bỏ dở công việc chạy ra ẵm lấy cậu bé. Tiếng khóc của cậu nức nở đầy tức tối và tiếc nuối. Vừa khóc, cậu vừa chỉ vào con rùa nằm bật ngửa bất động: con rùa thân yêu của cậu bé đã chết, làm cho cậu bé khóc một hồi rồi mới dỗ dành được. Họ hứa sẽ cử hành đám tang con rùa thật trọng thể. Cha cậu sẽ lấy chiếc hộp sắt đẹp nhất mà bấy lâu nay gia đình đựng bánh kẹo để làm hòm đựng con rùa. Sau khi chôn cất xong, mẹ cậu sẽ làm một bữa tiệc để mời bạn bè của cậu và những người đã dự đám tang con rùa.

Tiếng khóc đã biến mất, thay vào đó là một nụ cười. Ðể trấn an cậu, người cha lại hứa hẹn thêm: "Ba sẽ dẫn con ra phố và mua cho con chùm bong bóng và những quả bóng tròn to tướng, mặc sức con vui đùa với chúng bạn. Ðang khi cậu mỉm cười sung sướng với giấc mơ của mình, thì trước sự ngạc nhiên của mọi người, chú rùa đã lật sấp trở lại rồi từ từ bò đi. Thấy chú rùa như vậy, cậu bé vội hét lên: "Ba ơi, chúng ta giết quách con rùa đi cho rồi".

Anh chị em thân mến!

Thái độ đau buồn hoặc vui mừng của cậu bé trước cái chết của chú rùa thân yêu cũng giúp cho chúng ta hiểu được tâm trạng của các tông đồ sau cái chết của Thầy mình là Ðức Kitô. Tâm trạng ấy được thánh Luca tường thuật thật rõ nét trong bài Tin Mừng hôm nay.

Sau khi Chúa Giêsu đã chết và xác Ngài được chôn cất trong mồ, các môn đệ rơi vào tình cảnh đau buồn, tuyệt vọng. Họ ngồi lại với nhau vì sợ người Do Thái; họ ngồi lại với nhau để than khóc u sầu hơn là đợi chờ hy vọng. Có hai môn đệ không chịu nổi cảnh này đã bỏ về quê. Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với hai ông và hai ông vội vã trở về Giêrusalem báo Tin Mừng. Nhóm còn lại vẫn chưa tin việc Chúa Kitô Phục Sinh. Rồi Chúa Giêsu lại hiện ra giữa họ, nhưng họ vẫn nghi ngờ là ma, không nghĩ là Thầy mình. Vì thế, Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy thân xác thật sự của Ngài. Họ vẫn chưa tin, Ngài lại phải xin một miếng cá nướng và ăn uống bình thường với họ và họ được trấn an.

Tuy nhiên, chỉ khi được Kinh Thánh soi sáng về ý nghĩa biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, chỉ khi được Chúa Giêsu soi lòng mở trí cho thì các môn đệ mới vững tâm và vui mừng thật sự. Và chính lúc này Ngài trao cho họ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.

Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui: vui vì được Chúa từ trời cao xuống viếng thăm, vui vì được ban tặng ơn cứu rỗi, vui vì từ thân phận nô lệ tội lỗi được nâng lên hàng con cái và vui vì cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đang đón chờ. Một tôn giáo của niềm vui nhưng đã bị coi là tôn giáo của khổ chế, hy sinh, và thập giá vì cuộc sống của các thành viên chưa phản ánh đủ căn bản của niềm tin, như các môn đồ được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay.

Thực tế, cuộc sống trước mắt đã khiến cho các Kitô hữu u buồn và bi quan mà quên đi sự cao quí của hy sinh Thập Giá. Ðau khổ dẫn đến vinh quang. Cái chết trên Thập Giá sẽ mang lại sự phục sinh khải hoàn. Ðành rằng, con người bị hạn hẹp trong không gian và thời gian, không thể biến viễn ảnh thành hiện tại.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà viễn ảnh trở thành ảo ảnh phản ánh Phục Sinh vinh quang của Kitô hữu là nối dài của điểm khởi đầu biến cố Phục Sinh của Ðức Kitô. Ðây là một biến cố đã được Ðức Kitô báo trước và đã xảy ra và mãi mãi là chất men làm sống dậy những cuộc sống khác.

Lạy Chúa, trên hành trình đức tin, nhiều lúc con đã ngại ngùng sợ hãi không dám dấn thân vào con đường Chúa mời gọi con bước tới. Con đường ấy có quá nhiều chông gai, thử thách. Xin Chúa cho con hiểu rằng, bên trên các gai nhọn là đóa hồng rực rỡ. Bên trên lớp mây mù ảm đạm là vầng thái dương huy hoàng. Có được một xác tín như vậy, chắc chắn cuộc sống của con sẽ là chuỗi ngày vui mừng, hy vọng và tràn trề cậy trông vào Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Bình an cho anh em”


Xem lại CN III Phục Sinh B

Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều người vênh vang tự đắc, kiêu ngạo, ích kỷ, bất nhân và luôn tìm cách hại người khác bằng nhiều thủ đoạn...! Lại có những người tự ty, buồn khổ, chán trường, thất vọng và đôi khi lại tìm đến cái chết để kết liễu cuộc sống mà họ cho là “bể khổ” trần ai.

Cả hai lựa chọn trên đều không tốt và không có hậu. Như thế, họ đều là những người gây gương xấu. Nguyên nhân cốt lõi của vấn đề khiến cho họ có những lựa chọn như vậy là: không có bình an thực sự trong tâm hồn.

Hôm nay, Tin Mừng thánh Luca trình thuật nỗi sợ hãi bao trùm lên các Tông đồ, mặc dù các ông đang được hai môn đệ trên đường Emmaus báo tin Chúa đã sống lại và đã hiện ra với các ông.

Nỗi sợ hãi của các môn đệ càng dâng lên tột độ khi thấy Đức Giêsu hiện ra và đứng giữa các ông.

Biết được tâm lý nơi môn sinh của mình, nên sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã hiện ra với các ông và câu đầu tiên Ngài ban cho các ông là: “Bình an cho anh em”.

Đây là lời trấn an, sau hàng loạt những ngày đen tối trong lo âu sợ hãi...

Khi ban bình an cho các ông, Đức Giêsu muốn gạt đi nơi họ lòng sợ hãi đến tự ty, sự ngờ vực đến thất vọng... và khơi gợi lên trong lòng họ niềm tin và sự gắn bó với sứ vụ mà Ngài sắp trao phó.

Cũng từ đây, Đức Giêsu đã khai mở lòng trí để họ nhớ lại những đoạn Kinh Thánh đã nói trước về Ngài cũng như sứ vụ cứu chuộc mà Ngài đã thi hành.

Đến đây, các ông xác tín chính là Thầy mình đang hiện diện ở giữa họ, nên họ vui mừng khôn tả.

Chính niềm vui và bình an của Chúa phục sinh đã làm cho các môn đệ quên hết sợ hãi và lo lắng, vì thế, các ông đã sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, bất chấp mọi gươm đao hay đầu rơi máu đổ. Hơn nữa, các ngài còn coi những đau khổ đó là phần thưởng Chúa ban. Điều này đã được sách Công Vụ Tông Đồ nghi lại: “Chúng tôi vui mừng hân hoan vì thấy mình xứng đáng được chịu khổ vì Đức Kitô”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa. Trở thành nhân chứng của Ngài khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.

Nhưng trước hết, chúng ta phải có được sự bình an của Chúa trong tâm hồn, để đẩy lui những lo lắng, sợ hãi, bực bội, tức giận, hận thù, ganh ghét, kiêu ngạo..., có thế, chúng ta mới trở nên chứng nhân của Chúa cách đúng nghĩa.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban bình an của Chúa xuống cho chúng con, xin cho chúng con sau khi đã đón nhận được bình an của Chúa thì cũng biết chia sẻ bình an đó cho anh chị em chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa vẫn sống mãi đến muôn đời


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã chịu tử nạn và được an táng trong huyệt đá. Đối với các tông đồ, dường như tất cả đều sụp đổ. Nhưng thật bất ngờ, chính lúc ấy, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện diện và mang lại bình an cho các ông.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong ánh sáng Phục Sinh, con hiểu ra những điều Chúa đã báo trước khi tử nạn. Nhưng đối với các tông đồ thì khác: các ông vẫn không hiểu và còn nghi ngờ việc Chúa hiện ra. Chúa đã chịu chết. Nhưng Chúa vẫn sống mãi đến muôn đời.

Lạy Chúa, trong cuộc sống hôm nay, con gặp nhiều va chạm, đối đầu với những nghịch cảnh. Đã có lúc con bối rối và nghi ngờ. Con đã nghi ngờ mọi người, và cũng nghi ngờ cả bản thân con. Những việc trong đời sống làm con cảm thấy bất ổn và sợ hãi. Nhưng con đâu có ngờ rằng Chúa Phục Sinh đang đứng đây, bên cạnh con. Nếu Chúa đã xin các môn đệ một miếng bánh và đã ăn trước mặt các ông, thì hôm nay, chính Chúa đã bẻ Bánh Thánh là chính Thân Mình Chúa và chia phần cho con. Nếu Chúa đã ăn uống để chứng tỏ cho các môn đệ biết Chúa đang sống thật, thì khi con lãnh nhận Lời và Mình Máu Chúa, con cũng được bảo đảm sự sống đời đời.

Lạy Chúa, con tin Chúa vẫn chia sẻ niềm đau nỗi khổ với con. Chúa vẫn hiện diện bên con ngay cả khi con không tưởng nghĩ đến Chúa. Xin Chúa ban thêm đức tin để con nhận ra ơn Chúa đang hoạt động trong con. Xin Chúa giúp con vững chí sống một đời sống tốt để chứng tỏ rằng con vẫn tin Chúa đang hiện diện trong con, trong anh chị em con và khắp cả vũ trụ này. Amen.

Ghi nhớ: “Ðấng Kitô phải chịu thương khó như vậy, rồi mới được tôn vinh”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chúa Phục Sinh ban bình an


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Có lần người ta hỏi đại thi hào Dante của nước Italia rằng: “Đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống”. Ông đã trả lời như sau: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: Đó là sự bình an”.

Ðó là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ nào, chúng ta cũng luôn ghi lời cầu: xin cho họ được an nghỉ nghìn thu. Phải chăng trong cuộc sống hiện tại, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được hòa bình và an nghỉ? Trong những phút giây cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta: “Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con” (Trích Lẽ sống).

Suy niệm

Khi các tông đồ đang tụ họp nghe các môn đệ từ Emmaus trở về tường thuật gặp Chúa Phục Sinh. Các ông đang bàn tán, tranh luận. Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, các ông sợ hãi vì tưởng thấy ma! Chúa nói: “Sao anh em lại hoảng hốt?” (Lc 24,38).

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta luôn phải đối diện với sự sợ hãi từ nhiều hoàn cảnh làm tác động đến tâm lý: trước một sự nguy hiểm mà chúng ta gặp phải hay một mối nguy chúng ta được cảnh báo như thiên tai, động đất, sóng thần, chiến tranh. Có khi chúng ta hoang mang chính mình vì sợ bị thất bại, những lo lắng thái quá đó làm chúng ta sống thiếu bình an. Đôi khi sợ khẳng định mình vì tự kỷ mình thua kém người khác trong học tập, trong công việc... Sợ vì một sự việc đã xảy ra nơi bản thân hoặc gia đình vì cảnh chết chóc của chiến tranh, vượt biên hoặc lo lắng sợ hãi những chuyện không vui, thiếu may mắn và nguy hiểm sẽ xảy ra trong hiện tại hoặc tương lai cho bản thân hoặc gia đình mình như gặp tai ương.

Chúng ta hoang mang khi nghe hoặc nhìn thấy những sự việc, hiện tượng hoặc chính bản thân mình cảm nghiệm như tai nạn, tra tấn, tù đày… Sợ phải sống trong những đau khổ về tinh thần, sợ mất những gì chúng ta đang có, sợ những đau đớn về thể lý, bệnh nan y của thời đại. Chúng ta cần có sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh trong cuộc đời như Ngài hiện diện giữa lúc các môn đệ đang hoang mang sợ hãi.

Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”… cùng với các môn đệ chia sẻ bữa ăn và mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh để các ông hiểu về sự chết và phục sinh của Ngài ứng nghiệm Kinh Thánh. Ðức Giêsu Phục Sinh cũng hiện diện và chúc lành cho mọi gia đình hòa thuận, khu xóm an vui, giáo xứ êm ấm... là những cộng đoàn được Chúa chúc phúc…

Xin Chúa Phục Sinh đến với gia đình chúng ta, giáo xứ cộng đoàn và làm nên sự hiệp nhất. Chính Ngài hướng dẫn và đem bình an hạnh phúc cho chúng ta.

Ý lực sống: “Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con” (Ga 14,27).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Đời sống chứng nhân


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Thánh Luca tiếp tục tường thật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Phục sinh, lần này là hiện ra cho các Tông đồ ở Giêrusalem:

a) Hai môn đệ Emmau vừa trở về báo tin cho các Tông đồ hay là Đức Giêsu đã sống lại.

b) Đức Giêsu hiện ra với các ông ở nhà Tiệc ly:

- Ngài chứng minh cho các ông hiểu rằng sau khi sống lại, Ngài vẫn là một như trước (có tay chân xác thịt, biết ăn uống).

- Ngài cắt nghĩa bài học Kinh Thánh: Đức Kitô phải trải qua cái chết mới tới phục sinh.

- Ngài bảo các ông hãy nhân danh Ngài “rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân”.

2. Ban tối, khi các Tông đồ đang tụ họp trong nhà Tiệc ly để nghe các môn đệ từ Emmau trở về thuật lại việc đã gặp Chúa Phục sinh. Các ông đang bàn tán, tranh luận, Chúa Phục sinh hiện ra với các ông làm các ông hoảng sợ vì thấy ma! Nhưng Chúa đã trấn an các ông: “Sao anh em lại hoảng hốt, Thầy đây”(Lc 24,38).

Đức Giêsu không một lời trách móc về sự cứng tin của các ông, lại còn chúc lành và còn cho các ông xem các thương tích của Ngài, ăn cá nướng và mật ong trước mặt các ông, để chứng minh cho các ông biết chính là Ngài chứ không phải là ai khác, là người đã sống với các ông trước đây. Với tất cả những lời nói và cử chỉ đó, Chúa muốn minh chứng cho các môn đệ biết Ngài đã sống lại thật sự.

3. “Chính Thầy đây. Hãy sờ xem: ma đâu có xương thịt như Thầy có đây” (Lc 24,39).

Đức Giêsu xác định cho các môn đệ là chính Ngài, không là ai khác, Ngài có xương có thịt như xưa. Vì vậy ngày nay Chúa Phục sinh đang sống và hiện diện ngay trong cuộc sống của những người tin Chúa. Đây không  phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự thật. Đức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một. Chúng ta phải xác tín thật mạnh về sự thật đó để rồi từ đó chúng ta xây dựng nên một xã hội huynh đệ hơn.

4. “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.

Đức Giêsu truyền cho các Tông đồ phải là chứng nhân của Ngài. Nhìn vào lịch sử truyền giáo, chúng ta thấy các Tông đồ, những chứng nhân trung thực, đã đi rao giảng Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cho muôn dân, nghĩa là sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế... các ông đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các Ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.

5. Chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Không cần phải làm những công việc hiển hách, lớn lao, chỉ làm những công việc bình thường theo nhiệm vụ của mình, miễn sao làm gương sáng cho người khác để từ đó họ sẽ biết Chúa.

Vào giây phút cuối cuộc đời, văn sĩ John Bayer đã nói những lời từ giã người vợ thân yêu như sau: “Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.

 “Trong gương mặt của mình tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa”. Mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống như thế nào, để anh em chung quanh có thể nói tương tự: “Trong gương mặt của anh, tôi có thể nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn vô cùng”.

Đó là ơn gọi cao cả của mỗi người Kitô hữu được gọi trở nên giống Chúa, và làm cho những người khác nhìn thấy Chúa như trong Tin Mừng theo thánh Matthêu. Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi Kitô hữu đến độ Chúa so sánh cuộc sống của họ như đèn sáng: “Các con là ánh sáng thế gian”. Ánh sáng đó cần phải chiếu sáng trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời” (Hạt giống âm thầm, tr 178).

6. Truyện: Làm chứng bằng đời sống.

Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài “Truyền giáo năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị sử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến của những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hòa hợp.

Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu: “Tại Phi châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn, không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở báo chí, phim ảnh... chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình Công giáo tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 208).

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu Phục sinh


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Thánh Lu-ca tiếp tục tường thuật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu Phục sinh, lần này là hiện ra cho các tông đồ ở Giê-ru-sa-lem:

1. Hai môn đệ từ Emmau vừa trở về cho các môn đệ hay Chúa Giêsu đã sống lại.

2. Chúa Giêsu hiện ra:

Ngài chứng minh cho các ông hiểu rằng sau khi sống lại, Ngài vẫn là một như ngày trước (có chân tay xương thịt, biết ăn uống).

Ngài cắt nghĩa bài học Thánh kinh: Đức Kitô phải qua cái chết mới tới Phục sinh.

Ngài bảo các ông nhân danh Ngài “rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân”.

B. Suy Niệm (...nẩy mầm)

1. “Chính Thầy đây. Hãy sờ xem: Ma đây có xương thịt như Thầy có đâu”: Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và hiện diện bên cạnh tôi. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự thật. Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một. Tôi phải sống với niềm tin xác tín ấy.

2a. “Các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”: không những tôi phải sống với niền tin xác tín rằng tôi đang sống với Chúa Phục sinh đang hiện diện bên cạnh, mà còn phải làm sao cho cách sống đó khiến người ta nhìn vào và cũng tin như thế.

2b. Một bề trên tu viện công giáo đến tìm vị ẩn sỹ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện của ông:

Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắo nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà tu viện bây giờ chẳng khác nào ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ.

Vị bề trên hỏi tu sỹ Ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay tình trạng nào đưa tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Và ông giải thích: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong qúi vị, mà qúi vị không nhận ra Ngài”.

Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các Tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế đang cải trang vậy? Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ có thể là Đấng Cứu Thế.

Vậy là từ đó mọi người đối xử với nhau như là đối xử với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắn\p nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (Trích “Món quà Giáng Sinh”).

3. “Bình an cho chúng con. Này Thầy đây, đừng sợ”: trong khoảng thời gian vắng Chúa, các môn đệ rất hoang mang và sợ hãi. Nay Chúa đã trở lại và đang ở với họ, họ tìm lại được bình an. Xin Chúa luôn ở với con, để ban cho con được bình an giữa bao xáo trộn của cuộc đời.

4. Chúa nói với họ: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?”.

Ở đời ai cũng sợ một điềi gì đó. Hãy nói thật cho tôi biết bạn sợ cái gì nhất? Còn tôi, tôi sợ cuộc sống nhất, tôi sợ tất cả những gì thuộc về cuộc sống này.

Bạn thử nghĩ xem, là sao tôi tránh được lo sợ khi quanh tôi giá trị con người được tính bằng nhan sắc, tiền bạc gia thế. Còn lẽ phải, sự công bằng lúc nào cũng thuộc về tay kẻ mạnh. Còn tình yêu ư? Lúc nào cũng chỉ là kẻ bịp bợm, nếu không nói là giải trí bản năng. Vì sự sinh tồn, vì hưởng thụ, vì lòng tham, vì ích kỉ…con người lao vào cấu xé lẫn nhau, làm khổ nhau.

Tôi sợ mình không đủ dũng cảm để đấu tranh dành lấy công bằng. Tôi sợ mình không đủ cao thượng để hy sinh nhường đường cho kẻ khác. Tôi sợ một ngày nào đó vì sự sinh tồn tôi phải bán tất cả để tìm lấy cho mình một chỗ đứng, khi đó tôi không còn là tôi nữa…Nỗi sợ hãi làm tôi không còn tin vào bất cứ điều gì, tôi không tin vào tình người: tôi không tin người tốt sẽ được sống hạnh phúc.

Tôi không hiểu sống để là gì, khi hiện tại tương lai đầy ắp nỗi sợ hãi. Tôi muốn thoát khỏi sự sợ hãi, tôi muốn được bình an…và trong cơn hoảng loạn, tôi đã nghĩ đến cái chết… tôi quên mất mình đang sống mùa Phục sinh, Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa Phục Sinh hiện diện trong cuộc sống của người tin Chúa


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Thánh Luca tường thuật tiếp về cuộc hiện ra lần thứ hai của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ của Ngài. Lần này Chúa hiện ra cho các tông đồ ở Giêrusalem:

Trong lúc hai môn đệ vừa trở về từ Emmau đang kể lại cho nhóm mười một việc Chúa hiện ra với các ông ấy như thế nào thì Chúa Giêsu hiện đến.

Ngài chứng minh cho các ông hiểu sau khi sống lại, Ngài vẫn là một như trước: cũng có chân tay xương thịt, và cũng biết ăn uống.

Ngài dùng Thánh Kinh để cắt nghĩa.

Ngài bảo các ông nhân danh Ngài “rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội”. (Lc 24,47)

2. “Chính Thầy đây. Hãy sờ xem: Ma đâu có xương thịt như Thầy có đây” (Lc 24,39). Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống và hiện diện ngay trong cuộc sống của những người tin Chúa. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự thật. Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một. Chúng ta phải xác tín thật mạnh về sự thật đó để rồi từ đó chúng ta xây dựng nên một xã hội huynh đệ hơn.

Ngày kia, có một đan viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn giáo tại chân núi Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông điều khiển. Trước kia tu viện này là một trong những trung tâm Công giáo thu hút không biết bao nhiêu là khách hành hương hằng năm. Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở.

Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như không còn. Nhà nguyện vắng tanh không ai lui tới. Một số nhỏ tu sĩ còn lại thì sống trong uể oải, buông thả…Vị viện phụ muốn hỏi vị tu sĩ Ấn giáo xem đâu là nguyên nhân đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?

Sau khi nghe viện phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn giáo mới ôn tồn nói:

- Cái tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn: đó là tội vô tình.

Vị tu sĩ Ấn giáo mới giải thích như sau:

- Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài.

Nhận được lời giải thích của vị tu sĩ Ấn giáo, đức viện phụ hối hả quay trở về tu viện, trong lòng ông không khỏi miên man đặt câu hỏi: “Ai là người được Đấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để ở lại với loài người?”. Cả tu viện bây giờ không có đến 10 người. Đấng Cứu Thế ở với ai đây? Chắc không thể là mình, vị tu viện trưởng nghĩ như thế vì ông biết mình là một con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện. Cũng chẳng có người nào toàn vẹn, xứng đáng để Đấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng của họ. Thế nhưng, ông vẫn tin lời của vị tu sĩ Ấn giáo là Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó trong cộng đoàn.

Với niềm xác tín ấy, ông qui tụ tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng, Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Nghe tin ấy, đôi mắt mỗi người đã mở to và ai nấy bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc chắn là: bởi vì Đấng Cứu Thế đã cải trang cho nên không ai có thể nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Đấng Cứu Thế. Và từ đó mọi người sống với nhau như chính mình đang sống với Đấng Cứu Thế. Rồi chẳng mấy chốc bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Cuộc sống thánh thiện như thế không mấy chốc được đồn thổi đi khắp nơi. Và các tín hữu lại từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến gõ cửa nhà dòng.

2. Vâng! Nếu người người ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không còn có lý do để tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người làm cho họ không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi thứ bất hoà, chiến tranh xáo trộn trong xã hội.

Kinh nghiệm cho chúng ta thấy khi con người chối bỏ Thiên Chúa thì cũng có nghĩa là họ sẽ chối bỏ con người.

Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người. Từ nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi một con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa tử nạn và rồi mới phục sinh


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Từ xưa tới nay, chẳng một ai đã chết rồi mà sống lại, thế nên làm sao mà con người chúng ta tin được chuyện này khi mà nó chẳng xảy ra trong cuộc sống. Đó quả là một chuyện quá viễn vong, hão huyền, nhiều lúc chúng ta mò kim đáy biển đã không thể được rồi nhưng xem ra nó cũng còn có thể, còn việc người chết sống lại không thể có, không thể hy vọng. Suốt hai ngàn năm qua, Giáo Hội rao giảng về việc Chúa chịu chết và sống lại để cứu con người chúng ta khỏi chết đời đời. Mà cái chết của Chúa là cái chết không bình thường như bao cái chết của con người, nhưng là cái chết bị treo trên thập giá, bị đâm thủng trái tim, thì làm gì sống lại được nỗi, do vậy con người chúng ta cũng không dễ gì đón nhận nếu không có ơn Chúa giúp. Thực sự con người chúng ta có được đức tin như thế này, chúng ta phải muôn ngàn đời tạ ơn Chúa.

Các tông đồ ngày xưa theo Chúa và được nghe Chúa ba lần nói trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, ngay cả Chúa cũng cho thấy vinh quang của Chúa trên núi Tabo khi chấp nhận cuộc khổ nạn đó, ấy thế mà khi đối diện với thực tế cuộc sống thì mọi chuyện lại khác. Các ngài bỏ Chúa chạy trốn, không một ai dám theo Chúa cho đến cùng ngoại trừ thánh Gioan. Sau khi sống lại, Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Các ngài thấy Chúa rồi và đang đứng với các môn đệ khác kể lại cho họ nghe thì Chúa lại hiện đến đứng giữa họ. Chúa phán bình an cho các con ! Này Thầy đây, đừng sợ. Nhưng mọi người bối rối vì tưởng mình thấy ma (Lc 24, 36 – 37).

Trước sự sợ hãi, bối rối của các tông đồ, Chúa bắt đầu trấn an các ngài, Chúa đi từ điểm căn bản của cuộc sống, đó là kiểm chứng bằng giác quan. Có sờ, có đụng, có thấy tận mắt thì mới tin. Chúa nói: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy ? Hãy xem tay chân Thầy: Chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: Ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ” (Lc 24, 38 – 41).

Chúa lại đi bước tiếp: “Chúa hỏi: Ở đây các con có gì ăn không? Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ” (Lc 24, 42 – 43). Có lẽ đến đây, tâm hồn các tông đồ bình tĩnh lại, còn tin Chúa sống lại thì chưa chắc chắn lắm, Chúa lại tiếp tục nữa là Chúa lấy lời Chúa trong Kinh Thánh nói về Chúa, nói về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, vì đó là nền tảng của đức tin mỗi khi các tông đồ cũng như chúng ta ngày hôm nay hay gặp khủng hoảng, và rồi cuối cùng, chắc chắn các tông đồ đã tin Chúa sống lại thật, không còn sợ hãi nữa, và sẵn sàng đi khắp nơi làm chứng cho sự chết và phục sinh của Chúa: “Ðoạn Người phán: Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Người lại nói: Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy (Lc 24, 44 – 48).

Lạy Chúa phục sinh, Chúa rất kiên trì để giúp các tông đồ tin vào việc Chúa đã sống lại, chúng con ngày hôm nay, chúng con gặp bao sóng gió của cuộc đời, đức tin của chúng con dường như bị cuốn hút, mất tăm hơi giữa cuộc sống phàm tục tục chỉ có vật chất này, chúng con xin Chúa luôn ở với chúng con, giúp chúng con giữ vững đức tin bằng cách siêng năng suy gẫm lời Chúa mỗi ngày, bám vào lời Chúa để chúng con đứng vững và vượt qua thử thách sóng gió này. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 6:

Tìm lại được bản thân.
Thứ Sáu tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

 

Lời Chúa: Ga 21, 1-14


Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.
Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế.
Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Chúa đó


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa,
trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:
“Tôi đi đánh cá đây.”
Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
“Chúng tôi cùng đi với anh.”
Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.
Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến
thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.
Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.
Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.
Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín,
nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài
là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,
được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.
Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn.
qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.
Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.
Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông và nói: “Anh em đến mà ăn” (c.12).
Chúa phục sinh vẫn đến với chúng ta giữa đời thường,
giữa những vất vả lo âu, giữa những thất bại trống vắng.
Chúa vẫn đứng trên bờ mà ta cứ tưởng người xa lạ.
Ngài vẫn nhẹ nhàng chạm đến nỗi đau của ta: “Các con không có gì ăn ư?”
Ngài vẫn mời ta bắt đầu lại dù mệt nhọc và thất vọng:
“Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền.”
Chúa phục sinh quyền năng vẫn phục vụ như xưa.
Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay bây giờ nhen lửa và nướng cá.
Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly
bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.
Hãy nếm bầu khí huynh đệ của buổi sáng hôm ấy bên bờ hồ.
Các môn đệ ngồi vòng tròn quanh Thầy xưa.
Họ hết mệt, hết đói vì có cá và bánh.
Họ được hong ấm nhờ lửa than hồng, và nhất là nhờ được gần Thầy.
Hôm nay tôi cũng được mời sống cho người khác như Đấng phục sinh.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Phục sinh vũ trụ

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Rất gần mà rất xa. Bình thường nhưng lại rất khác thường. Thân tình nhưng lại rất cao cả. Đơn sơ nhưng đầy quyền năng. Đó là những gì các môn đệ cảm nghiệm được về Chúa Ki-tô phục sinh. Người đi trên bờ hồ như một bạn chài. Nhưng lại chỉ dẫn cho các ngư phủ bắt được một mẻ cá đầy lưới đến hai thuyền chở mới hết. Người đốt lửa, nướng cá và bánh như một người bạn thân tình. Nhưng lại quyền năng uy nghi như vị Chúa Tể. Vì Chúa đã phục sinh.

Chúa phục sinh khiến mọi sự thay đổi. Chúa giờ đây vẫn còn giữ những vết thương. Nhưng đã mặc lấy vinh quang Người đã có bên Chúa Cha.

Cuộc phục sinh của Chúa làm thay đổi vận mệnh con người. Danh Người oai phong vượt đất trời. Quyền Người dũng mãnh bao trùm vũ trụ. Có thể cứu giúp con người. Giải thoát họ khỏi bệnh tật. Và giải phóng được linh hồn khỏi ách ma quỉ thế gian.

Phép lạ chữa người què từ thuở mới sinh làm chấn động Giê-ru-sa-lem. Các thượng tế phải hội họp. Và chất vấn Phê-rô: “Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?” Phê-rô nhân cơ hội giảng giải cho họ: “Nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh”.

Không chỉ chữa khỏi bệnh tật, Danh Chúa còn đem lại ơn cứu độ. Biến đổi số phận con người. Cho họ được trở thành bất tử. Sống lại với Người. Để được sự sống đời đời. Như Phê-rô minh chứng: “Ngoài Người ra,không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”.

Phục sinh là một biến cố lớn lao. Biến đổi vận mệnh con người. Biến đổi cả vũ trụ thế giới. Làm cho tất cả được phục sinh. Được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Chúa. Được mắt thấy tai nghe. Được cảm nghiệm ơn phục sinh. Phê-rô và các môn đệ đem cả sinh mạng làm chứng cho Chúa.

Lạy Chúa xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Tìm lại được bản thân


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tiền của, quyền bính, danh vọng, không đương nhiên mang lại cho con người hạnh phúc. Một lần nữa thế giới lại học biết chân lý ấy qua kinh nghiệm con người giàu có và danh tiếng nhất nước Mỹ hiện nay, là ông Tonner, nhà tỉ phú sáng lập hệ thống truyền hình CNN. Trong một phỏng vấn mới đây dành cho tạp chí The New York, nhà tỉ phú này cho biết rằng mình thất vọng đến nỗi đã có lúc nghĩ tới việc tự tử. Con người đã từng được xem là một trong những người quyền thế nhất nước Mỹ, nhất là sau khi ông đã tặng hàng tỉ Mỹ kim cho tổ chức Liên Hiệp Quốc, giờ đây tự nhận mình là nạn nhân của một cuộc chiến tranh đủ mọi mặt, từ công việc kinh doanh, đời sống gia đình và ngay cả niềm tin tôn giáo. Thất bại trong đời sống gia đình là điều thê thảm nhất đối với ông. Ông và nữ tài tử Folda đã ly dị nhau sau tám năm chung sống. Lý do chính khiến cho hai người chia tay nhau là vì Folda đã trở thành một tín hữu Kitô. Tonner đã có lần nói rằng Kitô giáo là tôn giáo dành cho những người thua cuộc và gọi Ðức Gioan Phaolô II là một tên ngu ngốc. Với tất cả những gì mình đang có trong tay, ông đã có lý khi gọi các tín hữu Kitô là những người thua cuộc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo mà con người giàu có và quyền thế này không thể hiểu được chính là thua để thắng, mất để được, chết để sống. Lẽ ra, trong nỗi thất vọng ê chề khiến ông chỉ còn nghĩ tới một lối thoát duy nhất là tự tử, Tonner phải hiểu được lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: "Chiếm được cả thế gian mà đánh mất chính bản thân, nào được ích gì?"

Chỉ sau khi được Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra, các môn đệ của Ngài mới hiệu được cái nghịch lý vĩ đại ấy của Kitô giáo. Khi Thầy mình bị treo lên thập giá, giấc mộng công hầu khanh tướng của các môn đệ cũng tan thành mây khói. Trong nỗi thất vọng ê chề, họ đã buồn bã quay về với nghề cũ để rồi vất vả thâu đêm mà không bắt được con cá nào. Ðó là hình ảnh của một cuộc sống trống rỗng chán chường mà nhiều người vẫn tiếp tục lao mình vào. Có tất cả trong tay mà vẫn thấy thiếu thốn, hưởng mọi sự mà vẫn không thỏa mãn, được bảo đảm trong mọi sự mà vẫn không có được bình an. Hiện ra với các môn đệ sau khi các ông đã vất vả thâu đêm mà không bắt được con cá nào và cho các ông được mẻ cá lạ lùng, Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng không có Ngài, các ông không thể làm được gì và một cuộc sống thiếu vắng Ngài là thiếu tất cả.

Lần đầu tiên những người chài lưới đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu, lần này họ không những bỏ mọi sự mà còn bỏ chính bản thân mình. Họ hiểu rằng chỉ khi trút bỏ cuộc sống con người của mình, họ mới thực sự được lấp đầy bởi chính Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Với Ngài, họ tìm lại được bản thân và có được điều mà không một của cải nào trên trần gian này có thể mua sắm được, đó là sự bình an trong tâm hồn. "Bình an cho các con", đó là điều mà Chúa Kitô Phục Sinh luôn chào chúc cho các môn đệ mỗi lần hiện ra cho các ông.

Ước gì chúng ta cũng biết sẵn sàng trút bỏ mọi sự để cảm nếm được sự bình an đích thực của Ðấng Phục Sinh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Đức tin mai sau


Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các mên đệ không nhận ra đó là Đức Giêsu, Người nói với các ông: “Này các chú không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga. 21, 4-6)

Ngày nay, điều gắn bó tôi với Tin mừng chính là thái độ của các môn đệ. Sau khi đã trông thấy Đức Giêsu sống lại, đã tin vào Người, đã cảm nghiệm rõ ràng lạ lùng, các ông không làm gì khác mà chỉ biết trở về quê đi đánh cá. Rõ ràng các ông không biết phải xử thế nào, phải sống ra sao vì các ông thất nghiệp và chỉ biết theo sở thích và thói quen cũ là nghề đánh cá, các ông đi ra khơi.

Mai sau đức tin của chúng ta cũng quy tụ những người như thế đó. Chúng ta sẽ thấy mình có sự thay đổi nồng nhiệt theo chân Đức Kitô, sau một cuộc tĩnh tâm, sau một cao điểm nguyện ngắm hay một cuộc đại lễ lạ lùng, chúng ta thấy mình không biết làm gì, cư xử ra sao. Chúng ta cũng như mấy môn đệ bên bờ hồ nhỏ với ý nghĩ này: “Này bây giờ, chúng ta hãy trở về sống đời thường, dù nó vô ích vô vị”.

Mai sau đức tin của chúng ta gặp nhiều khó khăn, trở ngại vì phải chấp nhận kiểm thảo luôn, không thể hành trang một mình được, cần phải đón nhận một người vô danh nào đó chỉ hướng cho đi hướng nào, làm ở đâu: “Hãy thả lưới bên phải”. Còn cần phải tiếp nhận được nuôi dưỡng, ngồi xuống chia sẻ của ăn, trong Tin mừng hôm nay, những con cá các môn đệ ăn không phải do các ông đánh bắt. Trước khi các ông kéo thuyền vào bờ, cá và bánh đã được nướng rồi.

Đức Giêsu như muốn cho các ông hiểu rằng các tông đồ phải biết nương tựa đến tột đỉnh: Người bảo với các ông đánh cá ở đâu, và Người cho các ông đầy cá, chứ các ông đánh thâu đêm chẳng được gì cả. Cá và bánh đã được Người dọn sẵn rồi.

Mai sau đức tin của chúng ta sẽ có thể dễ thấm nhuần nếu chúng ta không quên điều đã diễn ra trên bờ hồ mà Đức Giêsu đã ra dấu chỉ và chúng ta biết chấp nhận lãnh lấy của nuôi do chính Người đã dọn sẵn cho chúng ta, ước mong chúng ta biết ngồi xuống lãnh nhận ơn Ngài ban.

C.G

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chúa Hiện Ra Trên Biển Hồ Tibêria.


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Một người da đỏ rời bỏ nơi cư trú ở thôn quê để về thành phố thăm lại người bạn da trắng. Anh nhìn thấy cuộc sống náo nhiệt và xô bồ của thành phố đã tạo cho anh không ít ngạc nhiên và thích thú. Lúc hai người đang dạo chơi trên đường phố, thình lình người da đỏ chợt dừng lại và đập nhẹ vào vai người bạn da trắng và nói nhỏ: "Chúng ta hãy dừng lại tí chút, anh có nghe thấy gì không?" Người da trắng quay lại và mỉm cười nói với bạn: "Tiếng máy nổ, tiếng còi, tiếng gầm của xe buýt, tiếng bước của người qua lại. Còn anh, anh nghe thấy gì?" "Tôi nghe thấy tiếng kêu của một chú dế mèn gần đâu đây đang gáy". Anh bạn da trắng đứng lại, lắng tai và chăm chú nghe kỹ hơn, nhưng rồi lắc đầu đáp: "Tôi nghĩ là anh đang đùa, làm gì mà có dế mèn ở đây. Mà dù cho có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe được tiếng nó gáy giữa muôn vàn náo động của thành phố sầm uất nhộn nhịp này". Người da đỏ nghiêm trang trả lời: "Có mà. Tôi nghe tiếng nó gáy chỉ đâu đây thôi". Nói rồi anh bước lại gần bức tường cách đó vài thước, một dây nho dại đang bò trên vách tường, dưới gốc nho là một bụi cỏ và vài chiếc lá khô đủ để cho một chú dế ẩn nấp và đang cất tiếng gáy.

Cuối cùng anh bạn da trắng cũng thấy được con dế. Bấy giờ anh gật đầu thán phục: "Lỗ tai của người da đỏ các anh quả thật là thính hơn bọn da trắng chúng tôi nhiều". Thế nhưng, người da đỏ lắc đầu đáp lại: "Chẳng phải vậy đâu. Tôi sẽ chứng minh cho anh thấy". Ðoạn anh ấy rút trong túi ra một đồng tiền và cho lăn nhẹ trên vệ đường, tiếng va chạm leng keng của đồng tiền cũng thật nhỏ, tưởng chừng như mất hút giữa những tiếng động ồn ào của thành phố. Vậy mà như có một hiệu lệnh, đồng tiền lăn trên đây thì mọi chiếc đầu, mọi cặp mắt đều quay về đó. Lượm đồng tiền lên và cho vào túi, người da đỏ mỉm cười với bạn mình. Vì thế, lỗ tai của người nào cũng nghe rõ như nhau, nhưng có khác chăng là nó chỉ nghe quen với âm thanh và những điều người ta lưu tâm đến.

Anh chị em thân mến!

Thông thường thì khả năng nghe biết của mọi người như nhau và có những giọng nói thật giống nhau. Tuy nhiên, giữa những giọng nói giống nhau đó, có giọng được cất lên, có giọng lại như chìm vào trong thầm lặng.

Thật vậy, trong ba năm theo Thầy trên đường rao giảng Tin Mừng, chắc hẳn các môn đệ đã quá quen thuộc với giọng nói của Thầy mình. Thế mà vì những nhọc nhằn suốt đêm chẳng bắt được một con cá nào, các ông đã không nhận ra Ngài, chỉ có lòng mến sắt son mới cho phép thánh Phêrô nhận ra Thầy mình, và ông đã thốt lên bằng một câu nói thật vắn gọn: "Thầy đó".

Trước đây, chỉ vì lòng mến đã thôi thúc Gioan chạy đến mồ trước, nhưng ông lại đợi Phêrô để cả hai cùng vào để xác nhận việc Thầy mình đã sống lại. Cũng chính do lòng mến mộ mà các ông đã giới thiệu cho các bạn hữu biết việc Chúa Kitô Phục Sinh.

Ðây là điều mà Kitô hữu ở mọi thời đại đều phải bắt chước gương của các tông đồ. Vì đến với Chúa là một điều tốt, nhưng sẽ tốt hơn nếu có nhiều người khác nữa cùng đến với Ngài.

Lạy Chúa, trong cuộc sống con không dám xin Chúa cất đi những nhọc nhằn, vì đó là thân phận tội lỗi của con người. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng Tin Mến, để giữa những nghịch cảnh cuộc đời, con có thể nhận ra được sự hiện diện của Chúa, tìm được niềm vui và hy vọng trong Chúa. Từ đó, con có thể đem Chúa đến cho người khác, hầu cho họ luôn tin yêu vào sự Phục Sinh vinh quang của Chúa. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Chúa đó”


Xem lại Chúa nhật III Phục sinh C.

Sau khi nhận tin báo từ Maria Madalêna là các ông sẽ được thấy Đức Giêsu phục sinh tại Galilê (x. Mt 28,10). Tuy nhiên, ngày và giờ thì không biết, nên trong khi chờ đợi, các ông đã tranh thủ đi đánh cá. Tuy nhiên, lần ra quân đầu tiên của các ông đã thất bại.

Thánh sử Gioan trình thuật: họ thức suốt đêm để đánh cá, nhưng tới sáng, họ vẫn trắng tay, không bắt được con cá nào!

Vì thế, họ sửa soạn giặt lưới để đi nghỉ sau một đêm vất vả cực nhọc. Đúng lúc ấy, Đức Giêsu hiện ra và đứng trên bãi biển gọi các ông với những từ rất thân thương, gần gũi: “Này các chú, không có gì ăn ư”. Khi họ đáp không có, Đức Giêsu truyền lệnh cho họ thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Kết quả đúng như lời Đức Giêsu nói. Tổng tất cả là 153 con. Ngay lập tức, người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nhận ra Thầy của họ và reo lên: “Chúa đó!”.

Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tác giả cho biết đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Tuy nhiên, lần này có những điểm đặc biệt vì ngoài việc củng cố niềm tin, chúng ta thấy có những tình tiết khác:

Thứ nhất, vâng lời Chúa thì sẽ được thành công cách mỹ mãn hơn cả suy tính của con người. Có Chúa mọi chuyện sẽ được êm đẹp. Thuyền đầy cá và lưới không rách chứng minh điều đó.

Thứ hai, qua mẻ cá lạ với 153 con, muốn nói lên các ông sẽ là lưới người như lưới cá và ơn cứu độ phải được loan đi đến với hết mọi người, mọi nơi và mọi thời.

Thứ ba, công cuộc truyền giáo là của mọi người, không riêng rẽ. Vì thế, sự hiệp nhất để cùng nhau thi hành sứ vụ là điều cần thiết. Một mình không thể chu toàn. Lưới đầy cá và phải nhờ các thuyền khác cùng kéo lên cho thấy đặc tính này.

Cuối cùng, yêu mến thì sẽ nhận ra Chúa và đi vào mối tương quan mật thiết với Ngài cách đặc biệt như Gioan.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Sống tín thác vào Ngài ngay trong những biến cố đau buồn, thất vọng nhất của cuộc đời. Sống tình hiệp nhất, yêu thương và làm chứng cho Chúa trong thời đại chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin củng cố lòng mến và ban cho chúng con những ơn cần thiết để chúng con chu toàn trách nhiệm Chúa trao phó trong cuộc đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Phục Sinh hiện diện trong Giáo Hội và trong cuộc sống mỗi người


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu Phục Sinh đang hiện diện trong Giáo Hội và trong cuộc sống mỗi người. Khi ta tin tưởng làm theo lời Chúa dạy, Chúa sẽ làm cho mọi việc được thành công ngoài sức tưởng tượng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bao lần trong cơn gian nan thử thách, con mong ước có Chúa hiện diện bên con để nâng đỡ chở che. Những lúc thất bại hoặc cô đơn giữa đám đông cuộc đời, con mong gặp được Chúa để Chúa hướng dẫn ủi an. Con mong chờ Chúa nhưng không gặp được Chúa. Thật ra Chúa vẫn đến và hiện diện bên con mà con chẳng nhận ra Chúa, nên con vẫn còn sợ hãi, có khi thất vọng chán chường. Chúa như vắng mặt trong cuộc đời con.

Lạy Chúa, nhờ mầu nhiệm Chúa Phục Sinh, xin cho con biết nhận ra Chúa vẫn có mặt sống động trong Giáo Hội và trong cuộc sống con mọi nơi mọi lúc, như xưa Chúa đã tỏ mình cho các tông đồ bên biển hồ Tibêria. Xin cho con hiểu rằng Chúa hiện diện để mong con đến gặp Chúa và lắng nghe Lời Chúa, để Chúa bày tỏ tình yêu quan tâm dẫn dắt và ban ơn giúp con đạt tới ơn cứu độ.

Xin cho con luôn biết lắng nghe và can trường phó thác sống theo Lời Chúa, trong lúc gặp may mắn cũng như lúc gian nan trong đêm tối của cuộc đời. Chúa vẫn lên tiếng mời gọi con, hướng dẫn dạy bảo con. Xin đừng để những nỗi đau, những day dứt, những hoang mang, những thất bại làm át đi tiếng nói yêu thương của Chúa. Xin đừng để con vì chạy theo những đam mê hoặc những lôi cuốn của cuộc đời, mà lòng trí trở nên tối tăm không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa là Đấng yêu thương và quyền năng, xin Chúa nâng đỡ Giáo Hội trong mọi nghịch cảnh và giúp cho Giáo Hội thành công trong sứ mạng truyền giáo. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tiếp tục ra khơi, dù cả đêm vất vả


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận kể lại một chứng từ:

Một buổi sáng tháng 10 năm 1975, tôi ra dấu cho một cậu bé 7 tuổi tên là Quang, đi dự lễ 5 giờ về, khi trời chưa sáng: “Con nói với mẹ mua cho cha mấy bloc lịch cũ!” Chiều tối, khi mặt trời bắt đầu lặn, Quang đem lại cho tôi các cuốn lịch bloc. Từ khi ấy, trong tháng 10 và tháng 11 năm 1975, hằng đêm tôi viết cho dân tôi thông điệp từ cảnh tù đày. Mỗi sáng, cậu bé tới lấy các tờ lịch, đem về nhà cho các anh chị chép lại thông điệp…

Và ngài đã viết tác phẩm Đường hy vọng của ngài như vậy đó… Tư tưởng này được chia sẻ với Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Giáo triều Rôma Mùa chay năm 2000 và khắp thế giới khi ngài giảng thuyết...

Suy niệm

Ra khơi suốt đêm, những mẻ lưới không bắt được con cá như Gioan nhấn mạnh: “Đêm ấy họ vẫn không bắt được gì” (Ga 21,3). Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, Ngài vừa mới trải qua một cuộc vượt biển, vượt biển trần gian xuyên qua cái chết đến phục sinh và Ngài đang hiện diện ở phía bên kia, bến bờ khác trong ánh sáng của một “ngày mới - Phục sinh”. Nhưng các môn đệ không nhận ra Người! Những gian nan, vất vả, sương mù của hoàn cảnh đã che khuất các Ngài.

Ngài ra lệnh hãy tiếp tục ra khơi, dù cả đêm vất vả nhưng: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền…” (Ga 21,6). Thánh ý Thiên Chúa, đôi khi nó không hợp với lý lẽ của con người, đã suốt đêm mà không được gì, nhưng trong thiên ý, cứ thực thi thì sẽ thấy hiệu quả. Các môn đệ Chúa sau này bước đi trong thánh ý dù giàu những điều kiện khắc nghiệt nhất mà đối với người đời là không thể, là điên rồ…

Lưới đầy với 153 loại cá, theo giải thích của thánh Giêrônimô, các nhà vạn vật học thời xưa cho biết trên thế giới có 153 loại cá, đủ các loại cá này hợp với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về nước Trời (x. Mt 13,47). Giáo hội của Chúa như mẻ lưới hội tụ tất cả mọi dân tộc. Giống như người mục tử chân chính quy tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ chuồng khác ngoài Israel (x. Ga 10,1b), như Con Người lôi kéo tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (x. Ga 12,32; 6,44). Các tông đồ ra khơi để kéo mẻ lưới đó theo thánh ý của Thầy Giêsu, và các thừa tác viên tiếp tục sứ mạng xuyên suốt thời gian.

Mọi người quây quần bên Thầy, Chúa Giêsu Phục Sinh trao bánh trường sinh cho anh em nhưng cũng chính là tấm bánh được bẻ ra và trao ban. Hình ảnh của bẻ bánh trao ban là hình ảnh sống động của người mang bất cứ một trách nhiệm nào trong gia đình, công sở và cộng đồng. Người có trách nhiệm là người trao bánh và như tấm bánh được bẻ ra trao cho anh em, đó là nghĩa cử tình yêu của người dấn thân.

Người mang sứ mạng ra khơi, tung lưới, phải có điều kiện kiên định của tình yêu. Đó là nguồn sức mạnh trong sứ vụ, sau này tông đồ Phaolô cũng cảm nghiệm: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14).

Chúng ta cũng đã từng cảm thấy vô vọng trước những hoàn cảnh đau khổ, thiếu thốn, lo lắng, gian nan… trong cuộc sống, trong hành trình ra khơi với trách nhiệm, với sứ vụ. Hãy tin vào sức mạnh tình yêu với Thiên Chúa, Ngài sẽ thay đổi được tất cả, dù với chỉ hạt bụi: Trở nên người sống động theo hình ảnh Thiên Chúa (St 2,7) hòn đá có thể trở nên con cái Abraham (x. Mt 3,9).

Ý lực sống: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con”. (Tv 18,2)

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa hiện ra ở bờ biển hồ Tibêria


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Tin Mừng Gioan. Gioan viết để tường thuật về việc Chúa hiện ra với các Tông đồ trên bờ biển hồ Tibêria. Nhờ mẻ cá lạ mà các Tông đồ nhận ra Chúa. Người đầu tiên nhận ra Chúa là Gioan, và kế đến là các Tông đồ khác. Cuối cùng, là một bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò đã nhận ra nhau.

2. Tin mừng cho biết, lúc đó ông Phêrô cùng 6 ông khác là Tôma, Nathanael, Giacôbê, Gioan và hai môn đệ khác không kể rõ tên, tất cả là bảy người. Đêm hôm đó các ông cùng nhau đi thả lưới bắt cá nhưng vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Đến gần sáng, các ông chèo thuyền vào gần bờ thì có một người lạ đứng trên bờ hỏi các ông có bắt được gì không và bảo các ông thả lưới bên phải thuyền, các ông làm theo đề nghị đó, và thật lạ lùng, cá đâu nhiều đến nỗi không sao kéo thuyền vào được.

3. Tin Mừng còn cho biết, các môn đệ bắt được 153 con cá lớn mà lưới không bị rách. Các nhà chú giải Thánh Kinh vẫn xem con số 153 là tượng trưng cho 153 loài cá dưới biển. Cũng cần phải nói thêm rằng, chi tiết “lưới nhiều cá mà không bị rách, thuyền chở nặng gần chìm” cũng là một ý nghĩa biểu tượng mà tác giả Tin Mừng muốn chuyển tải. Giáo hội qui tụ muôn dân nhưng vẫn đủ chỗ, không bao giờ thiếu chỗ cho các công dân gia nhập Nước Trời, và ân sủng của Thiên Chúa mà các chứng nhân mang đến cho mọi người không bao giờ bị vơi.

4. Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ để họ tiếp tục sứ mệnh của Ngài. Nhưng rồi trong cuộc sống theo Chúa, cũng có những lúc thăng trầm, nhất là các ông đã bị thử thách nặng nề với cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá. Đó là mầu nhiệm mà lúc đầu các ông không hiểu, mặc dầu nhiều lần Đức Giêsu đã loan báo và giải thích về cái chết có giá trị cứu rỗi của Ngài.

Trong lúc các ông trở về với nghề cũ tại biển hồ Tibêria và tâm hồn chờ đợi một dấu lạ gì đó từ Chúa Giêsu Phục sinh. Chính lúc đó, Đức Giêsu hiện ra, và một lần nữa, Ngài thực hiện phép lạ mẻ cá lạ lùng để qua đó Ngài tái xác nhận rằng Thiên Chúa không thay đổi chương trình cứu rỗi của Ngài; Ngài vẫn trung thành với lời mời gọi và sứ mệnh đã trao cho các môn đệ. Con số 153 con cá ở đây tượng trưng cho mọi dân tộc trên thế giới, đã đến lúc các Tông đồ phải làm chứng cho Chúa nơi mọi dân tộc (Mỗi ngày một tin vui).

5. Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu muốn bảo cho các Tông đồ biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã, vì Giáo hội của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).

Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu độ, Chúa dùng các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.

6. Đức Giêsu Phục sinh tuy không còn hiện diện một cách xác thể để các môn đệ có thể chạm đến Ngài, nhưng Ngài vẫn hiện diện với họ một cách vô hình: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”, và chắc chắn sẽ xuất hiện đúng lúc để giúp cho công việc đã trao cho họ được trổ sinh hoa trái. Điều cần thiết là họ phải tuân theo mệnh lệnh của Ngài, bởi vì “Không có Thầy, các con không thể làm gì được”.

7. Chúng ta đã từng cảm thấy vô vọng trước những hoàn cảnh đau khổ, thiếu thốn, lo lắng, gian nan... trong cuộc sống, trong hành trình ra khơi với trách nhiệm, với sứ vụ. Hãy tin vào sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa, Ngài sẽ thay đổi được tất cả, dù với chỉ hạt bụi: Trở nên người sống động theo hình ảnh của Thiên Chúa (St 2,7) hòn đá có thể trở nên con cái Abraham (x. Mt 3,9).

8. Truyện: Ngài đi đâu đó?

Câu chuyện “Quo vadis” được kể như sau: Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Nêrông đang bắt bớ đạo. Nhiều người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, các tín hữu khuyên Phêrô chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo Thánh.

Khi ra khỏi cổng, Phêrô gặp Chúa vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quo vadis?”, nghĩa là Ngài đi đâu đó? Chúa trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu và quay lại Rôma. Ông an ủi và giúp đỡ các tín hữu sắp chịu cực hình giữ vững niềm tin.

Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hỏa thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì ông nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trên biển hồ Tibêria


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Phần cuối của đoạn Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan) tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria.

1. Theo gợi ý của ông Phêrô, số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.

2. Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi: các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11).

3. Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu: đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.

4. Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.

B. Suy Niệm (...nẩy mầm)

1. Trong những lần hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại, Chúa Giêsu không bao giờ nói nửa lời trách móc tội các ông đã bỏ Ngài hay chối Ngài, cũng không nói nửa lời ám chỉ, mà toàn những lời dịu dàng, an ủi, khích lệ. Các ông cũng không một lời xin lỗi Chúa, thế mà Chúa vẫn tha. Tha thứ đâu cần phải nói ra bằng lời, ăn năn đâu cần phải thốt ra bằng tiếng. Chúa đến với ta, ta ở bên cạnh Chúa thế là đủ.

2. Sự tha thứ của Chúa không diễn tả bằng lời, nhưng bằng thái độ: “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ. Ngài cũng cho các như thế”.

3. “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến liền nói với Phêrô: “chính Chúa đó”: Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa. Ông nhận ra Chúa nhờ một kỉ niệm mà mẻ các lạ giúp ông nhớ lại. Khi đã yêu thì từng chi tiết, từng biến cố, đếu nhắc ta nhớ đến người mình yêu. Xin cho con yêu Chúa đủ để mỗi sự lành trong ngày đều khơi lên kỉ niệm của con về Chúa.

4a. Trong lòng Phêrô ngổn ngang nhiều tình cảm: Mặc cảm phạm tội, hối hận, nhớ Chúa và mong gặp lại Ngài. Nhưng mạnh nhất là tình cảm mong nhớ Chúa. Bởi khi vừa nghe Gioan nói “Chúa đó”, bao nhiêu tình cảm khác biến đâu hết, chỉ còn mỗi tình cảm muốn gặp lại Chúa. Vì thế ông “liền khoác áo vào rồi nhảy xuống biển” bơi tới Chúa. Dù con có thế nào đi nữa, nhưng xin cho con luôn nhớ Chúa và quên đi tất cả khi gặp lại Chúa.

4b. Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân: số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa với dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ: 0,000.001.

Tuy nhiên nếu số “một” đứng đầu thì sau nó càng nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng ấy. Thí dụ: 1.000.000.

Chính Chúa là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta. Thì càng làm nhiều chừng nào thì giá trị của chúng càng cao chừng đó. Ngược lại Chúa càng xa tâm trí chừng nào thì công việc ta làm càng ít chùng ấy. (Frank Mihalic).

5. “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Chúa Giêsu”.

Mỗi ngày tôi học và làm việc theo một thời khóa biểu kín mít mà tôi tự đặt ra cho mình, tối về mệt mỏi tôi lại lăn ra ngủ. Tôi thường thấy mình rơi vào những khoảng trống, cảm thấy mình lạc lõng cô đơn và đâm ra chán nản. Thế rồi tôi được một vị “Kĩ sư tâm hồn” khuyên mỗi ngày nên dành cho Chúa một vài phút.

Từ đó mỗi tối trước khi ngủ, tôi đã dành ra ít phút để nhìn lại những ơn Chúa ban của một ngày sống và nhìn lại chính mình. Tôi thấy còn nhiều bóng tối phủ lấp tâm hồn tôi.

Thật hạnh phúc mỗi khi trên giường ngủ mà có thể mỉm cười với chính mình. Những giây phút tĩnh nguyện cuối ngày đã giúp tôi khám phá ra màu nhiệm của Chúa hiện diện và đồng hành với tôi trên khắp các nẻo đường.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, những bóng tối trong tâm hồn và những bận tâm khác đã thoả lấp làm con không nhận ra được sự hiện diện của Chúa. Một vài phút dành cho Chúa chẳng là gì so với 24 giờ mà Chúa dành cho con, thế mà con không biết! Cảm ơn Chúa, cảm ơn người “kĩ sư tâm hồn” đã mở mắt con. (Epphata)

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Cảm nếm niềm vui vì Chúa luôn hiện diện với


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Tin Mừng Gioan. Gioan viết để tường thuật về việc Chúa hiện ra với các tông đồ trên bờ biển hồ Tibêria. Nhờ mẻ cá lạ mà các tông đồ nhận ra Chúa. Người đầu tiên nhận ra Chúa là Gioan, và kế đến là các tông đồ khác. Cuối cùng, là một bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò đã nhận ra nhau.

1. Có một chi tiết nhỏ nhưng khá thú vị nếu chúng ta để ý: Đó là khi hiện ra với các môn đệ sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu luôn hiện ra với các ngài trong những khung cảnh của cuộc sống đời thường. Chắc là Chúa phải có một dụng ý khi làm như thế. Thí dụ trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy Chúa có hẹn với các môn đệ của Chúa là Ngài sẽ gặp họ ở Galilê, nhưng Chúa không xác định rõ nơi chốn. Rõ ràng trước đó các môn đệ đã tụ tập nhau lại và họ chờ đợi Chúa. Thế nhưng, Chúa đã không đến với họ lúc họ chờ đợi mà lại đến với họ lúc họ cùng nhau đi làm việc.

Rất nhiều người trong chúng ta tưởng rằng, muốn được gặp Chúa thì chúng ta phải đi tới nơi nọ nơi kia, phải đến Đền thờ nọ Đền thờ kia. Việc Chúa hiện ra với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay có lẽ phải là cơ hội cho chúng ta suy nghĩ lại. Chúng ta có thể gặp được Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Nhà văn Julia A. Manhan kể lại rằng: Ngày nọ, có một cậu bé muốn gặp Chúa. Cậu nghe nói rằng, phải qua một cuộc hành trình dài mới đến được nơi Chúa ở. Vì thế, cậu bé chuẩn bị những chiếc bánh ngọt và một hộp 6 lon nước cho vào cái túi nhỏ rồi lên đường.

 Khi cậu đi được vào khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà cụ ngồi trong công viên mắt đăm đăm nhìn những con chim bồ câu. Cậu ngồi xuống cạnh bà và mở túi ra. Chưa kịp đưa nước lên uống thì cậu thấy bà lão có vẻ đói bụng. Cậu lấy chiếc bánh mời bà lão. Bà nhận chiếc bánh với đầy vẻ biết ơn và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà đẹp đến nỗi cậu bé muốn được nhìn lại lần nữa. Thế là cậu đưa thêm cho bà lon nước. Bà lại mỉm cười với cậu. Cậu bé rất thích thú.

Hai bà cháu ngồi với nhau ở đó suốt cả buổi chiều, ăn uống và mỉm cười, nhưng không ai nói lời nào.

Trời tối, đứng lên chuẩn bị ra về, nhưng vừa đi được một bước, cậu quay lại, chạy về phía bà lão và ôm bà. Bà đã tặng lại cậu bé nụ cười đẹp chưa từng thấy.

Một lát sau cậu về đến nhà. Khi cậu bé vừa mở cửa, mẹ cậu đã sửng sốt khi nhìn thấy niềm vui rạng rỡ trên con mình.

Mẹ cậu hỏi:

- Hôm nay có chuyện gì mà con hạnh phúc thế?

Cậu trả lời:

- Con đã ăn bữa trưa với Chúa!

Bà chưa kịp nói gì thì cậu bé thêm:

- Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp mà con chưa từng thấy!

Trong khi đó, bà lão trở về nhà cũng đem theo một niềm hạnh phúc. Con trai bà cụ rất ngạc nhiên khi thấy vẻ bình an thanh thản trên khuôn mặt mẹ, anh hỏi:

- Mẹ ơi, hôm nay con có điều gì làm mẹ hạnh phúc thế?

Bà lão đáp:

- Mẹ ăn bánh trong công viên với Chúa!

Trước khi cậu con trai kịp nói thì bà thêm:

- Con biết không, Chúa trẻ hơn mẹ tưởng nhiều!

2. Con người ai cũng mong muốn được hạnh phúc. Nhưng nhiều khi hạnh phúc chỉ như một chiếc bóng. Chúng ta mãi mê chạy theo một chiếc bóng mà quên rằng, niềm vui đích thực, hạnh phúc đích thực lại nằm ngay trong chính tầm tay của chúng ta. Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay cho chúng ta thấy điều đó.

Tin Mừng thuật lại, các môn đệ đã thả lưới thâu đêm mà không bắt được con cá nào. Tình cờ có một người lạ mặt xuất hiện bảo họ hãy thả lưới bên phải và mẻ cá nhiều đến nỗi lưới muốn rách và thuyền muốn chìm. Chúa Giêsu đến với các môn đệ như một người vô danh, không kèn, không trống, không một biểu dương rầm rộ nào. Ngài đến một cách kín đáo nhẹ nhàng. Ngài hiện diện một cách âm thầm và vô danh như chính sinh hoạt thường nhật của chúng ta. Chúa Giêsu đã chọn cảnh sống thường ngày của con người để hiện ra với các môn đệ. Ngài đến vào giữa lúc các ông đang thả lưới. Ngài tham dự vào bữa ăn của các ông. Ánh lửa mà Chúa Giêsu đã đốt lên bên bờ hồ Tibêria buổi sáng hôm đó đã soi sáng tâm hồn các môn đệ, để các ông hiểu rằng, Chúa Kitô Phục Sinh đang có mặt trong từng phút, từng giây của cuộc sống con người và chỉ có sự hiện diện ấy mới có đủ sức biến những sinh hoạt tầm thường nhất của con người như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ trở thành những niềm vui đích thực trong cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con cảm nếm được niềm vui vì có Chúa luôn hiện diện với chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa trao các tông đồ bánh và cá


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Thánh sử Gioan tông đồ trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay nói rằng đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với các tông khi Chúa từ cõi chết sống lại. Thời gian Chúa hiện ra là vào buổi sáng sớm. Địa điểm là ở bờ biển hồ Galilêa. Sinh hoạt của các tông đồ lúc này là cùng nhau đi dánh cá.

Thời gian Chúa hiện ra là vào buổi sáng sớm của một ngày mới, điều ấy có nghĩa là không gian lúc này rất yên tĩnh, chỉ có tiếng vi vu của những làn gió ban mai lướt nhẹ trên mặt nước biển và những ngọn cỏ cây quanh đây sau một giấc ngủ đêm an lành vẫn còn vươn đọng những giọt sương mai trên đó. Không gian bình yên, tĩnh lặng như thế giữa đất trời bao la mênh mông thật là xứng hợp cho cuộc gặp gỡ của Chúa với các tông đồ. Chúa là nhân vật chính lúc này, vai trò của Chúa như là một thầy dạy, một người chỉ đạo, một người điều khiển sinh hoạt, nghề nghiệp, cuộc sống mưu sinh của các tông đồ: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được” (Ga 21, 6). Tuy thánh Phêrô là người đứng đầu các tông đồ, điều khiển các tông đồ, nhưng không có Chúa thì cũng chỉ là con số không, mặc dù có vất vả bao nhiêu trong cuộc sống đi chăng nữa thì con số không vẫn là con số không: “Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Ðiđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: Tôi đi đánh cá đây. Các ông kia nói rằng: Chúng tôi cùng đi với ông. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: Này các con, có gì ăn không? Họ đồng thanh đáp: Thưa không. Chúa Giêsu bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá” (Ga 21, 1 – 6). Như vậy, chỉ có Chúa thì việc Chúa hướng dẫn dạy dỗ các ngài mới có hiệu quả, và các ngài không có bị phân tâm bởi môi trường sống, để rồi các ngài mới hiểu và gắn bó với Chúa hơn.

Khi các tông đồ lên bờ biển rồi, Chúa bảo các ngài lại ăn vì Chúa đã chuẩn bị bữa ăn sẵn sàng cho các ngài rồi: “Lạy Chúa, khi ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê” (Tv 144, 16). Khi ăn như vậy, và những gì đã xảy ra trước đó, các ngài biết đó chính là Chúa của mình đã sống lại từ cõi chết. Các ngài cảm thấy gần gũi, gắn bó với Chúa và dường như không còn sợ hãi như những lần trước nữa, để rồi qua đó chúng ta thấy rằng mỗi khi Chúa hiện ra với các tông đồ sau khi Chúa từ cõi chết sống lại, Chúa luôn dùng lời Chúa và Thánh Thể Chúa là hai nguồn ơn thánh và dưỡng chất để nâng đỡ đức tin các tông đồ, nhờ đó mà các tông đồ đã vượt qua được sự sợ hãi, các thử thách mà tin vào Chúa, trung thành với Chúa, làm chứng nhân cho Chúa đến cùng: “Chúa Giêsu bảo rằng: Các con hãy lại ăn. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: Ông là ai? Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại (Ga 21, 9 – 14).

Lạy Chúa phục sinh, điều Chúa mong muốn nơi chúng con là chúng con phải sống với nhau, làm việc chung với nhau để giúp nhau nên thánh, và biết vâng lời các đấng bậc trong Giáo Hội, cộng tác với các ngài để xây dựng Giáo Hội ngay tại trần thế này mỗi ngày một vững mạnh hơn. Xin Chúa giúp chúng con biết siêng năng học hỏi lời Chúa và rước Thánh Thể Chúa, để thêm sức mạnh, giúp chúng con sống và đem hết khả năng để làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống của chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 7:

Tìm lại được bản thân.
Thứ Sáu tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

 

Lời Chúa: Ga 21, 1-14


Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào.
Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế.
Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Chúa đó


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa,
trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:
“Tôi đi đánh cá đây.”
Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
“Chúng tôi cùng đi với anh.”
Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.
Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến
thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.
Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.
Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.
Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín,
nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài
là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,
được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.
Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn.
qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.
Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.
Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông và nói: “Anh em đến mà ăn” (c.12).
Chúa phục sinh vẫn đến với chúng ta giữa đời thường,
giữa những vất vả lo âu, giữa những thất bại trống vắng.
Chúa vẫn đứng trên bờ mà ta cứ tưởng người xa lạ.
Ngài vẫn nhẹ nhàng chạm đến nỗi đau của ta: “Các con không có gì ăn ư?”
Ngài vẫn mời ta bắt đầu lại dù mệt nhọc và thất vọng:
“Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền.”
Chúa phục sinh quyền năng vẫn phục vụ như xưa.
Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay bây giờ nhen lửa và nướng cá.
Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly
bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.
Hãy nếm bầu khí huynh đệ của buổi sáng hôm ấy bên bờ hồ.
Các môn đệ ngồi vòng tròn quanh Thầy xưa.
Họ hết mệt, hết đói vì có cá và bánh.
Họ được hong ấm nhờ lửa than hồng, và nhất là nhờ được gần Thầy.
Hôm nay tôi cũng được mời sống cho người khác như Đấng phục sinh.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Phục sinh vũ trụ


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Rất gần mà rất xa. Bình thường nhưng lại rất khác thường. Thân tình nhưng lại rất cao cả. Đơn sơ nhưng đầy quyền năng. Đó là những gì các môn đệ cảm nghiệm được về Chúa Ki-tô phục sinh. Người đi trên bờ hồ như một bạn chài. Nhưng lại chỉ dẫn cho các ngư phủ bắt được một mẻ cá đầy lưới đến hai thuyền chở mới hết. Người đốt lửa, nướng cá và bánh như một người bạn thân tình. Nhưng lại quyền năng uy nghi như vị Chúa Tể. Vì Chúa đã phục sinh.

Chúa phục sinh khiến mọi sự thay đổi. Chúa giờ đây vẫn còn giữ những vết thương. Nhưng đã mặc lấy vinh quang Người đã có bên Chúa Cha.

Cuộc phục sinh của Chúa làm thay đổi vận mệnh con người. Danh Người oai phong vượt đất trời. Quyền Người dũng mãnh bao trùm vũ trụ. Có thể cứu giúp con người. Giải thoát họ khỏi bệnh tật. Và giải phóng được linh hồn khỏi ách ma quỉ thế gian.

Phép lạ chữa người què từ thuở mới sinh làm chấn động Giê-ru-sa-lem. Các thượng tế phải hội họp. Và chất vấn Phê-rô: “Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?” Phê-rô nhân cơ hội giảng giải cho họ: “Nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh”.

Không chỉ chữa khỏi bệnh tật, Danh Chúa còn đem lại ơn cứu độ. Biến đổi số phận con người. Cho họ được trở thành bất tử. Sống lại với Người. Để được sự sống đời đời. Như Phê-rô minh chứng: “Ngoài Người ra,không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”.

Phục sinh là một biến cố lớn lao. Biến đổi vận mệnh con người. Biến đổi cả vũ trụ thế giới. Làm cho tất cả được phục sinh. Được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Chúa. Được mắt thấy tai nghe. Được cảm nghiệm ơn phục sinh. Phê-rô và các môn đệ đem cả sinh mạng làm chứng cho Chúa.

Lạy Chúa xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Tìm lại được bản thân


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tiền của, quyền bính, danh vọng, không đương nhiên mang lại cho con người hạnh phúc. Một lần nữa thế giới lại học biết chân lý ấy qua kinh nghiệm con người giàu có và danh tiếng nhất nước Mỹ hiện nay, là ông Tonner, nhà tỉ phú sáng lập hệ thống truyền hình CNN. Trong một phỏng vấn mới đây dành cho tạp chí The New York, nhà tỉ phú này cho biết rằng mình thất vọng đến nỗi đã có lúc nghĩ tới việc tự tử. Con người đã từng được xem là một trong những người quyền thế nhất nước Mỹ, nhất là sau khi ông đã tặng hàng tỉ Mỹ kim cho tổ chức Liên Hiệp Quốc, giờ đây tự nhận mình là nạn nhân của một cuộc chiến tranh đủ mọi mặt, từ công việc kinh doanh, đời sống gia đình và ngay cả niềm tin tôn giáo. Thất bại trong đời sống gia đình là điều thê thảm nhất đối với ông. Ông và nữ tài tử Folda đã ly dị nhau sau tám năm chung sống. Lý do chính khiến cho hai người chia tay nhau là vì Folda đã trở thành một tín hữu Kitô. Tonner đã có lần nói rằng Kitô giáo là tôn giáo dành cho những người thua cuộc và gọi Ðức Gioan Phaolô II là một tên ngu ngốc. Với tất cả những gì mình đang có trong tay, ông đã có lý khi gọi các tín hữu Kitô là những người thua cuộc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo mà con người giàu có và quyền thế này không thể hiểu được chính là thua để thắng, mất để được, chết để sống. Lẽ ra, trong nỗi thất vọng ê chề khiến ông chỉ còn nghĩ tới một lối thoát duy nhất là tự tử, Tonner phải hiểu được lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: "Chiếm được cả thế gian mà đánh mất chính bản thân, nào được ích gì?"

Chỉ sau khi được Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra, các môn đệ của Ngài mới hiệu được cái nghịch lý vĩ đại ấy của Kitô giáo. Khi Thầy mình bị treo lên thập giá, giấc mộng công hầu khanh tướng của các môn đệ cũng tan thành mây khói. Trong nỗi thất vọng ê chề, họ đã buồn bã quay về với nghề cũ để rồi vất vả thâu đêm mà không bắt được con cá nào. Ðó là hình ảnh của một cuộc sống trống rỗng chán chường mà nhiều người vẫn tiếp tục lao mình vào. Có tất cả trong tay mà vẫn thấy thiếu thốn, hưởng mọi sự mà vẫn không thỏa mãn, được bảo đảm trong mọi sự mà vẫn không có được bình an. Hiện ra với các môn đệ sau khi các ông đã vất vả thâu đêm mà không bắt được con cá nào và cho các ông được mẻ cá lạ lùng, Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng không có Ngài, các ông không thể làm được gì và một cuộc sống thiếu vắng Ngài là thiếu tất cả.

Lần đầu tiên những người chài lưới đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu, lần này họ không những bỏ mọi sự mà còn bỏ chính bản thân mình. Họ hiểu rằng chỉ khi trút bỏ cuộc sống con người của mình, họ mới thực sự được lấp đầy bởi chính Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Với Ngài, họ tìm lại được bản thân và có được điều mà không một của cải nào trên trần gian này có thể mua sắm được, đó là sự bình an trong tâm hồn. "Bình an cho các con", đó là điều mà Chúa Kitô Phục Sinh luôn chào chúc cho các môn đệ mỗi lần hiện ra cho các ông.

Ước gì chúng ta cũng biết sẵn sàng trút bỏ mọi sự để cảm nếm được sự bình an đích thực của Ðấng Phục Sinh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Đức tin mai sau


Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các mên đệ không nhận ra đó là Đức Giêsu, Người nói với các ông: “Này các chú không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga. 21, 4-6)

Ngày nay, điều gắn bó tôi với Tin mừng chính là thái độ của các môn đệ. Sau khi đã trông thấy Đức Giêsu sống lại, đã tin vào Người, đã cảm nghiệm rõ ràng lạ lùng, các ông không làm gì khác mà chỉ biết trở về quê đi đánh cá. Rõ ràng các ông không biết phải xử thế nào, phải sống ra sao vì các ông thất nghiệp và chỉ biết theo sở thích và thói quen cũ là nghề đánh cá, các ông đi ra khơi.

Mai sau đức tin của chúng ta cũng quy tụ những người như thế đó. Chúng ta sẽ thấy mình có sự thay đổi nồng nhiệt theo chân Đức Kitô, sau một cuộc tĩnh tâm, sau một cao điểm nguyện ngắm hay một cuộc đại lễ lạ lùng, chúng ta thấy mình không biết làm gì, cư xử ra sao. Chúng ta cũng như mấy môn đệ bên bờ hồ nhỏ với ý nghĩ này: “Này bây giờ, chúng ta hãy trở về sống đời thường, dù nó vô ích vô vị”.

Mai sau đức tin của chúng ta gặp nhiều khó khăn, trở ngại vì phải chấp nhận kiểm thảo luôn, không thể hành trang một mình được, cần phải đón nhận một người vô danh nào đó chỉ hướng cho đi hướng nào, làm ở đâu: “Hãy thả lưới bên phải”. Còn cần phải tiếp nhận được nuôi dưỡng, ngồi xuống chia sẻ của ăn, trong Tin mừng hôm nay, những con cá các môn đệ ăn không phải do các ông đánh bắt. Trước khi các ông kéo thuyền vào bờ, cá và bánh đã được nướng rồi.

Đức Giêsu như muốn cho các ông hiểu rằng các tông đồ phải biết nương tựa đến tột đỉnh: Người bảo với các ông đánh cá ở đâu, và Người cho các ông đầy cá, chứ các ông đánh thâu đêm chẳng được gì cả. Cá và bánh đã được Người dọn sẵn rồi.

Mai sau đức tin của chúng ta sẽ có thể dễ thấm nhuần nếu chúng ta không quên điều đã diễn ra trên bờ hồ mà Đức Giêsu đã ra dấu chỉ và chúng ta biết chấp nhận lãnh lấy của nuôi do chính Người đã dọn sẵn cho chúng ta, ước mong chúng ta biết ngồi xuống lãnh nhận ơn Ngài ban.

C.G

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chúa Hiện Ra Trên Biển Hồ Tibêria.


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Một người da đỏ rời bỏ nơi cư trú ở thôn quê để về thành phố thăm lại người bạn da trắng. Anh nhìn thấy cuộc sống náo nhiệt và xô bồ của thành phố đã tạo cho anh không ít ngạc nhiên và thích thú. Lúc hai người đang dạo chơi trên đường phố, thình lình người da đỏ chợt dừng lại và đập nhẹ vào vai người bạn da trắng và nói nhỏ: "Chúng ta hãy dừng lại tí chút, anh có nghe thấy gì không?" Người da trắng quay lại và mỉm cười nói với bạn: "Tiếng máy nổ, tiếng còi, tiếng gầm của xe buýt, tiếng bước của người qua lại. Còn anh, anh nghe thấy gì?" "Tôi nghe thấy tiếng kêu của một chú dế mèn gần đâu đây đang gáy". Anh bạn da trắng đứng lại, lắng tai và chăm chú nghe kỹ hơn, nhưng rồi lắc đầu đáp: "Tôi nghĩ là anh đang đùa, làm gì mà có dế mèn ở đây. Mà dù cho có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe được tiếng nó gáy giữa muôn vàn náo động của thành phố sầm uất nhộn nhịp này". Người da đỏ nghiêm trang trả lời: "Có mà. Tôi nghe tiếng nó gáy chỉ đâu đây thôi". Nói rồi anh bước lại gần bức tường cách đó vài thước, một dây nho dại đang bò trên vách tường, dưới gốc nho là một bụi cỏ và vài chiếc lá khô đủ để cho một chú dế ẩn nấp và đang cất tiếng gáy.

Cuối cùng anh bạn da trắng cũng thấy được con dế. Bấy giờ anh gật đầu thán phục: "Lỗ tai của người da đỏ các anh quả thật là thính hơn bọn da trắng chúng tôi nhiều". Thế nhưng, người da đỏ lắc đầu đáp lại: "Chẳng phải vậy đâu. Tôi sẽ chứng minh cho anh thấy". Ðoạn anh ấy rút trong túi ra một đồng tiền và cho lăn nhẹ trên vệ đường, tiếng va chạm leng keng của đồng tiền cũng thật nhỏ, tưởng chừng như mất hút giữa những tiếng động ồn ào của thành phố. Vậy mà như có một hiệu lệnh, đồng tiền lăn trên đây thì mọi chiếc đầu, mọi cặp mắt đều quay về đó. Lượm đồng tiền lên và cho vào túi, người da đỏ mỉm cười với bạn mình. Vì thế, lỗ tai của người nào cũng nghe rõ như nhau, nhưng có khác chăng là nó chỉ nghe quen với âm thanh và những điều người ta lưu tâm đến.

Anh chị em thân mến!

Thông thường thì khả năng nghe biết của mọi người như nhau và có những giọng nói thật giống nhau. Tuy nhiên, giữa những giọng nói giống nhau đó, có giọng được cất lên, có giọng lại như chìm vào trong thầm lặng.

Thật vậy, trong ba năm theo Thầy trên đường rao giảng Tin Mừng, chắc hẳn các môn đệ đã quá quen thuộc với giọng nói của Thầy mình. Thế mà vì những nhọc nhằn suốt đêm chẳng bắt được một con cá nào, các ông đã không nhận ra Ngài, chỉ có lòng mến sắt son mới cho phép thánh Phêrô nhận ra Thầy mình, và ông đã thốt lên bằng một câu nói thật vắn gọn: "Thầy đó".

Trước đây, chỉ vì lòng mến đã thôi thúc Gioan chạy đến mồ trước, nhưng ông lại đợi Phêrô để cả hai cùng vào để xác nhận việc Thầy mình đã sống lại. Cũng chính do lòng mến mộ mà các ông đã giới thiệu cho các bạn hữu biết việc Chúa Kitô Phục Sinh.

Ðây là điều mà Kitô hữu ở mọi thời đại đều phải bắt chước gương của các tông đồ. Vì đến với Chúa là một điều tốt, nhưng sẽ tốt hơn nếu có nhiều người khác nữa cùng đến với Ngài.

Lạy Chúa, trong cuộc sống con không dám xin Chúa cất đi những nhọc nhằn, vì đó là thân phận tội lỗi của con người. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng Tin Mến, để giữa những nghịch cảnh cuộc đời, con có thể nhận ra được sự hiện diện của Chúa, tìm được niềm vui và hy vọng trong Chúa. Từ đó, con có thể đem Chúa đến cho người khác, hầu cho họ luôn tin yêu vào sự Phục Sinh vinh quang của Chúa. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Chúa đó”


Xem lại Chúa nhật III Phục sinh C.

Sau khi nhận tin báo từ Maria Madalêna là các ông sẽ được thấy Đức Giêsu phục sinh tại Galilê (x. Mt 28,10). Tuy nhiên, ngày và giờ thì không biết, nên trong khi chờ đợi, các ông đã tranh thủ đi đánh cá. Tuy nhiên, lần ra quân đầu tiên của các ông đã thất bại.

Thánh sử Gioan trình thuật: họ thức suốt đêm để đánh cá, nhưng tới sáng, họ vẫn trắng tay, không bắt được con cá nào!

Vì thế, họ sửa soạn giặt lưới để đi nghỉ sau một đêm vất vả cực nhọc. Đúng lúc ấy, Đức Giêsu hiện ra và đứng trên bãi biển gọi các ông với những từ rất thân thương, gần gũi: “Này các chú, không có gì ăn ư”. Khi họ đáp không có, Đức Giêsu truyền lệnh cho họ thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Kết quả đúng như lời Đức Giêsu nói. Tổng tất cả là 153 con. Ngay lập tức, người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nhận ra Thầy của họ và reo lên: “Chúa đó!”.

Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tác giả cho biết đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Tuy nhiên, lần này có những điểm đặc biệt vì ngoài việc củng cố niềm tin, chúng ta thấy có những tình tiết khác:

Thứ nhất, vâng lời Chúa thì sẽ được thành công cách mỹ mãn hơn cả suy tính của con người. Có Chúa mọi chuyện sẽ được êm đẹp. Thuyền đầy cá và lưới không rách chứng minh điều đó.

Thứ hai, qua mẻ cá lạ với 153 con, muốn nói lên các ông sẽ là lưới người như lưới cá và ơn cứu độ phải được loan đi đến với hết mọi người, mọi nơi và mọi thời.

Thứ ba, công cuộc truyền giáo là của mọi người, không riêng rẽ. Vì thế, sự hiệp nhất để cùng nhau thi hành sứ vụ là điều cần thiết. Một mình không thể chu toàn. Lưới đầy cá và phải nhờ các thuyền khác cùng kéo lên cho thấy đặc tính này.

Cuối cùng, yêu mến thì sẽ nhận ra Chúa và đi vào mối tương quan mật thiết với Ngài cách đặc biệt như Gioan.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Sống tín thác vào Ngài ngay trong những biến cố đau buồn, thất vọng nhất của cuộc đời. Sống tình hiệp nhất, yêu thương và làm chứng cho Chúa trong thời đại chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin củng cố lòng mến và ban cho chúng con những ơn cần thiết để chúng con chu toàn trách nhiệm Chúa trao phó trong cuộc đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Phục Sinh hiện diện trong Giáo Hội và trong cuộc sống mỗi người


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu Phục Sinh đang hiện diện trong Giáo Hội và trong cuộc sống mỗi người. Khi ta tin tưởng làm theo lời Chúa dạy, Chúa sẽ làm cho mọi việc được thành công ngoài sức tưởng tượng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bao lần trong cơn gian nan thử thách, con mong ước có Chúa hiện diện bên con để nâng đỡ chở che. Những lúc thất bại hoặc cô đơn giữa đám đông cuộc đời, con mong gặp được Chúa để Chúa hướng dẫn ủi an. Con mong chờ Chúa nhưng không gặp được Chúa. Thật ra Chúa vẫn đến và hiện diện bên con mà con chẳng nhận ra Chúa, nên con vẫn còn sợ hãi, có khi thất vọng chán chường. Chúa như vắng mặt trong cuộc đời con.

Lạy Chúa, nhờ mầu nhiệm Chúa Phục Sinh, xin cho con biết nhận ra Chúa vẫn có mặt sống động trong Giáo Hội và trong cuộc sống con mọi nơi mọi lúc, như xưa Chúa đã tỏ mình cho các tông đồ bên biển hồ Tibêria. Xin cho con hiểu rằng Chúa hiện diện để mong con đến gặp Chúa và lắng nghe Lời Chúa, để Chúa bày tỏ tình yêu quan tâm dẫn dắt và ban ơn giúp con đạt tới ơn cứu độ.

Xin cho con luôn biết lắng nghe và can trường phó thác sống theo Lời Chúa, trong lúc gặp may mắn cũng như lúc gian nan trong đêm tối của cuộc đời. Chúa vẫn lên tiếng mời gọi con, hướng dẫn dạy bảo con. Xin đừng để những nỗi đau, những day dứt, những hoang mang, những thất bại làm át đi tiếng nói yêu thương của Chúa. Xin đừng để con vì chạy theo những đam mê hoặc những lôi cuốn của cuộc đời, mà lòng trí trở nên tối tăm không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa là Đấng yêu thương và quyền năng, xin Chúa nâng đỡ Giáo Hội trong mọi nghịch cảnh và giúp cho Giáo Hội thành công trong sứ mạng truyền giáo. Amen.

Ghi nhớ: “Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tiếp tục ra khơi, dù cả đêm vất vả


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận kể lại một chứng từ:

Một buổi sáng tháng 10 năm 1975, tôi ra dấu cho một cậu bé 7 tuổi tên là Quang, đi dự lễ 5 giờ về, khi trời chưa sáng: “Con nói với mẹ mua cho cha mấy bloc lịch cũ!” Chiều tối, khi mặt trời bắt đầu lặn, Quang đem lại cho tôi các cuốn lịch bloc. Từ khi ấy, trong tháng 10 và tháng 11 năm 1975, hằng đêm tôi viết cho dân tôi thông điệp từ cảnh tù đày. Mỗi sáng, cậu bé tới lấy các tờ lịch, đem về nhà cho các anh chị chép lại thông điệp…

Và ngài đã viết tác phẩm Đường hy vọng của ngài như vậy đó… Tư tưởng này được chia sẻ với Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Giáo triều Rôma Mùa chay năm 2000 và khắp thế giới khi ngài giảng thuyết...

Suy niệm

Ra khơi suốt đêm, những mẻ lưới không bắt được con cá như Gioan nhấn mạnh: “Đêm ấy họ vẫn không bắt được gì” (Ga 21,3). Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, Ngài vừa mới trải qua một cuộc vượt biển, vượt biển trần gian xuyên qua cái chết đến phục sinh và Ngài đang hiện diện ở phía bên kia, bến bờ khác trong ánh sáng của một “ngày mới - Phục sinh”. Nhưng các môn đệ không nhận ra Người! Những gian nan, vất vả, sương mù của hoàn cảnh đã che khuất các Ngài.

Ngài ra lệnh hãy tiếp tục ra khơi, dù cả đêm vất vả nhưng: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền…” (Ga 21,6). Thánh ý Thiên Chúa, đôi khi nó không hợp với lý lẽ của con người, đã suốt đêm mà không được gì, nhưng trong thiên ý, cứ thực thi thì sẽ thấy hiệu quả. Các môn đệ Chúa sau này bước đi trong thánh ý dù giàu những điều kiện khắc nghiệt nhất mà đối với người đời là không thể, là điên rồ…

Lưới đầy với 153 loại cá, theo giải thích của thánh Giêrônimô, các nhà vạn vật học thời xưa cho biết trên thế giới có 153 loại cá, đủ các loại cá này hợp với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về nước Trời (x. Mt 13,47). Giáo hội của Chúa như mẻ lưới hội tụ tất cả mọi dân tộc. Giống như người mục tử chân chính quy tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ chuồng khác ngoài Israel (x. Ga 10,1b), như Con Người lôi kéo tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (x. Ga 12,32; 6,44). Các tông đồ ra khơi để kéo mẻ lưới đó theo thánh ý của Thầy Giêsu, và các thừa tác viên tiếp tục sứ mạng xuyên suốt thời gian.

Mọi người quây quần bên Thầy, Chúa Giêsu Phục Sinh trao bánh trường sinh cho anh em nhưng cũng chính là tấm bánh được bẻ ra và trao ban. Hình ảnh của bẻ bánh trao ban là hình ảnh sống động của người mang bất cứ một trách nhiệm nào trong gia đình, công sở và cộng đồng. Người có trách nhiệm là người trao bánh và như tấm bánh được bẻ ra trao cho anh em, đó là nghĩa cử tình yêu của người dấn thân.

Người mang sứ mạng ra khơi, tung lưới, phải có điều kiện kiên định của tình yêu. Đó là nguồn sức mạnh trong sứ vụ, sau này tông đồ Phaolô cũng cảm nghiệm: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14).

Chúng ta cũng đã từng cảm thấy vô vọng trước những hoàn cảnh đau khổ, thiếu thốn, lo lắng, gian nan… trong cuộc sống, trong hành trình ra khơi với trách nhiệm, với sứ vụ. Hãy tin vào sức mạnh tình yêu với Thiên Chúa, Ngài sẽ thay đổi được tất cả, dù với chỉ hạt bụi: Trở nên người sống động theo hình ảnh Thiên Chúa (St 2,7) hòn đá có thể trở nên con cái Abraham (x. Mt 3,9).

Ý lực sống: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con”. (Tv 18,2)

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa hiện ra ở bờ biển hồ Tibêria


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Tin Mừng Gioan. Gioan viết để tường thuật về việc Chúa hiện ra với các Tông đồ trên bờ biển hồ Tibêria. Nhờ mẻ cá lạ mà các Tông đồ nhận ra Chúa. Người đầu tiên nhận ra Chúa là Gioan, và kế đến là các Tông đồ khác. Cuối cùng, là một bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò đã nhận ra nhau.

2. Tin mừng cho biết, lúc đó ông Phêrô cùng 6 ông khác là Tôma, Nathanael, Giacôbê, Gioan và hai môn đệ khác không kể rõ tên, tất cả là bảy người. Đêm hôm đó các ông cùng nhau đi thả lưới bắt cá nhưng vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Đến gần sáng, các ông chèo thuyền vào gần bờ thì có một người lạ đứng trên bờ hỏi các ông có bắt được gì không và bảo các ông thả lưới bên phải thuyền, các ông làm theo đề nghị đó, và thật lạ lùng, cá đâu nhiều đến nỗi không sao kéo thuyền vào được.

3. Tin Mừng còn cho biết, các môn đệ bắt được 153 con cá lớn mà lưới không bị rách. Các nhà chú giải Thánh Kinh vẫn xem con số 153 là tượng trưng cho 153 loài cá dưới biển. Cũng cần phải nói thêm rằng, chi tiết “lưới nhiều cá mà không bị rách, thuyền chở nặng gần chìm” cũng là một ý nghĩa biểu tượng mà tác giả Tin Mừng muốn chuyển tải. Giáo hội qui tụ muôn dân nhưng vẫn đủ chỗ, không bao giờ thiếu chỗ cho các công dân gia nhập Nước Trời, và ân sủng của Thiên Chúa mà các chứng nhân mang đến cho mọi người không bao giờ bị vơi.

4. Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ để họ tiếp tục sứ mệnh của Ngài. Nhưng rồi trong cuộc sống theo Chúa, cũng có những lúc thăng trầm, nhất là các ông đã bị thử thách nặng nề với cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá. Đó là mầu nhiệm mà lúc đầu các ông không hiểu, mặc dầu nhiều lần Đức Giêsu đã loan báo và giải thích về cái chết có giá trị cứu rỗi của Ngài.

Trong lúc các ông trở về với nghề cũ tại biển hồ Tibêria và tâm hồn chờ đợi một dấu lạ gì đó từ Chúa Giêsu Phục sinh. Chính lúc đó, Đức Giêsu hiện ra, và một lần nữa, Ngài thực hiện phép lạ mẻ cá lạ lùng để qua đó Ngài tái xác nhận rằng Thiên Chúa không thay đổi chương trình cứu rỗi của Ngài; Ngài vẫn trung thành với lời mời gọi và sứ mệnh đã trao cho các môn đệ. Con số 153 con cá ở đây tượng trưng cho mọi dân tộc trên thế giới, đã đến lúc các Tông đồ phải làm chứng cho Chúa nơi mọi dân tộc (Mỗi ngày một tin vui).

5. Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu muốn bảo cho các Tông đồ biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã, vì Giáo hội của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).

Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu độ, Chúa dùng các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.

6. Đức Giêsu Phục sinh tuy không còn hiện diện một cách xác thể để các môn đệ có thể chạm đến Ngài, nhưng Ngài vẫn hiện diện với họ một cách vô hình: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”, và chắc chắn sẽ xuất hiện đúng lúc để giúp cho công việc đã trao cho họ được trổ sinh hoa trái. Điều cần thiết là họ phải tuân theo mệnh lệnh của Ngài, bởi vì “Không có Thầy, các con không thể làm gì được”.

7. Chúng ta đã từng cảm thấy vô vọng trước những hoàn cảnh đau khổ, thiếu thốn, lo lắng, gian nan... trong cuộc sống, trong hành trình ra khơi với trách nhiệm, với sứ vụ. Hãy tin vào sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa, Ngài sẽ thay đổi được tất cả, dù với chỉ hạt bụi: Trở nên người sống động theo hình ảnh của Thiên Chúa (St 2,7) hòn đá có thể trở nên con cái Abraham (x. Mt 3,9).

8. Truyện: Ngài đi đâu đó?

Câu chuyện “Quo vadis” được kể như sau: Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Nêrông đang bắt bớ đạo. Nhiều người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, các tín hữu khuyên Phêrô chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo Thánh.

Khi ra khỏi cổng, Phêrô gặp Chúa vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quo vadis?”, nghĩa là Ngài đi đâu đó? Chúa trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu và quay lại Rôma. Ông an ủi và giúp đỡ các tín hữu sắp chịu cực hình giữ vững niềm tin.

Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hỏa thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì ông nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trên biển hồ Tibêria


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Phần cuối của đoạn Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan) tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria.

1. Theo gợi ý của ông Phêrô, số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.

2. Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi: các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11).

3. Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu: đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.

4. Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.

B. Suy Niệm (...nẩy mầm)

1. Trong những lần hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại, Chúa Giêsu không bao giờ nói nửa lời trách móc tội các ông đã bỏ Ngài hay chối Ngài, cũng không nói nửa lời ám chỉ, mà toàn những lời dịu dàng, an ủi, khích lệ. Các ông cũng không một lời xin lỗi Chúa, thế mà Chúa vẫn tha. Tha thứ đâu cần phải nói ra bằng lời, ăn năn đâu cần phải thốt ra bằng tiếng. Chúa đến với ta, ta ở bên cạnh Chúa thế là đủ.

2. Sự tha thứ của Chúa không diễn tả bằng lời, nhưng bằng thái độ: “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ. Ngài cũng cho các như thế”.

3. “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến liền nói với Phêrô: “chính Chúa đó”: Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa. Ông nhận ra Chúa nhờ một kỉ niệm mà mẻ các lạ giúp ông nhớ lại. Khi đã yêu thì từng chi tiết, từng biến cố, đếu nhắc ta nhớ đến người mình yêu. Xin cho con yêu Chúa đủ để mỗi sự lành trong ngày đều khơi lên kỉ niệm của con về Chúa.

4a. Trong lòng Phêrô ngổn ngang nhiều tình cảm: Mặc cảm phạm tội, hối hận, nhớ Chúa và mong gặp lại Ngài. Nhưng mạnh nhất là tình cảm mong nhớ Chúa. Bởi khi vừa nghe Gioan nói “Chúa đó”, bao nhiêu tình cảm khác biến đâu hết, chỉ còn mỗi tình cảm muốn gặp lại Chúa. Vì thế ông “liền khoác áo vào rồi nhảy xuống biển” bơi tới Chúa. Dù con có thế nào đi nữa, nhưng xin cho con luôn nhớ Chúa và quên đi tất cả khi gặp lại Chúa.

4b. Trong toán học, chúng ta biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân: số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa với dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ: 0,000.001.

Tuy nhiên nếu số “một” đứng đầu thì sau nó càng nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng ấy. Thí dụ: 1.000.000.

Chính Chúa là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta. Thì càng làm nhiều chừng nào thì giá trị của chúng càng cao chừng đó. Ngược lại Chúa càng xa tâm trí chừng nào thì công việc ta làm càng ít chùng ấy. (Frank Mihalic).

5. “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Chúa Giêsu”.

Mỗi ngày tôi học và làm việc theo một thời khóa biểu kín mít mà tôi tự đặt ra cho mình, tối về mệt mỏi tôi lại lăn ra ngủ. Tôi thường thấy mình rơi vào những khoảng trống, cảm thấy mình lạc lõng cô đơn và đâm ra chán nản. Thế rồi tôi được một vị “Kĩ sư tâm hồn” khuyên mỗi ngày nên dành cho Chúa một vài phút.

Từ đó mỗi tối trước khi ngủ, tôi đã dành ra ít phút để nhìn lại những ơn Chúa ban của một ngày sống và nhìn lại chính mình. Tôi thấy còn nhiều bóng tối phủ lấp tâm hồn tôi.

Thật hạnh phúc mỗi khi trên giường ngủ mà có thể mỉm cười với chính mình. Những giây phút tĩnh nguyện cuối ngày đã giúp tôi khám phá ra màu nhiệm của Chúa hiện diện và đồng hành với tôi trên khắp các nẻo đường.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, những bóng tối trong tâm hồn và những bận tâm khác đã thoả lấp làm con không nhận ra được sự hiện diện của Chúa. Một vài phút dành cho Chúa chẳng là gì so với 24 giờ mà Chúa dành cho con, thế mà con không biết! Cảm ơn Chúa, cảm ơn người “kĩ sư tâm hồn” đã mở mắt con. (Epphata)

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Cảm nếm niềm vui vì Chúa luôn hiện diện với


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Tin Mừng Gioan. Gioan viết để tường thuật về việc Chúa hiện ra với các tông đồ trên bờ biển hồ Tibêria. Nhờ mẻ cá lạ mà các tông đồ nhận ra Chúa. Người đầu tiên nhận ra Chúa là Gioan, và kế đến là các tông đồ khác. Cuối cùng, là một bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò đã nhận ra nhau.

1. Có một chi tiết nhỏ nhưng khá thú vị nếu chúng ta để ý: Đó là khi hiện ra với các môn đệ sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu luôn hiện ra với các ngài trong những khung cảnh của cuộc sống đời thường. Chắc là Chúa phải có một dụng ý khi làm như thế. Thí dụ trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy Chúa có hẹn với các môn đệ của Chúa là Ngài sẽ gặp họ ở Galilê, nhưng Chúa không xác định rõ nơi chốn. Rõ ràng trước đó các môn đệ đã tụ tập nhau lại và họ chờ đợi Chúa. Thế nhưng, Chúa đã không đến với họ lúc họ chờ đợi mà lại đến với họ lúc họ cùng nhau đi làm việc.

Rất nhiều người trong chúng ta tưởng rằng, muốn được gặp Chúa thì chúng ta phải đi tới nơi nọ nơi kia, phải đến Đền thờ nọ Đền thờ kia. Việc Chúa hiện ra với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay có lẽ phải là cơ hội cho chúng ta suy nghĩ lại. Chúng ta có thể gặp được Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Nhà văn Julia A. Manhan kể lại rằng: Ngày nọ, có một cậu bé muốn gặp Chúa. Cậu nghe nói rằng, phải qua một cuộc hành trình dài mới đến được nơi Chúa ở. Vì thế, cậu bé chuẩn bị những chiếc bánh ngọt và một hộp 6 lon nước cho vào cái túi nhỏ rồi lên đường.

 Khi cậu đi được vào khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà cụ ngồi trong công viên mắt đăm đăm nhìn những con chim bồ câu. Cậu ngồi xuống cạnh bà và mở túi ra. Chưa kịp đưa nước lên uống thì cậu thấy bà lão có vẻ đói bụng. Cậu lấy chiếc bánh mời bà lão. Bà nhận chiếc bánh với đầy vẻ biết ơn và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà đẹp đến nỗi cậu bé muốn được nhìn lại lần nữa. Thế là cậu đưa thêm cho bà lon nước. Bà lại mỉm cười với cậu. Cậu bé rất thích thú.

Hai bà cháu ngồi với nhau ở đó suốt cả buổi chiều, ăn uống và mỉm cười, nhưng không ai nói lời nào.

Trời tối, đứng lên chuẩn bị ra về, nhưng vừa đi được một bước, cậu quay lại, chạy về phía bà lão và ôm bà. Bà đã tặng lại cậu bé nụ cười đẹp chưa từng thấy.

Một lát sau cậu về đến nhà. Khi cậu bé vừa mở cửa, mẹ cậu đã sửng sốt khi nhìn thấy niềm vui rạng rỡ trên con mình.

Mẹ cậu hỏi:

- Hôm nay có chuyện gì mà con hạnh phúc thế?

Cậu trả lời:

- Con đã ăn bữa trưa với Chúa!

Bà chưa kịp nói gì thì cậu bé thêm:

- Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp mà con chưa từng thấy!

Trong khi đó, bà lão trở về nhà cũng đem theo một niềm hạnh phúc. Con trai bà cụ rất ngạc nhiên khi thấy vẻ bình an thanh thản trên khuôn mặt mẹ, anh hỏi:

- Mẹ ơi, hôm nay con có điều gì làm mẹ hạnh phúc thế?

Bà lão đáp:

- Mẹ ăn bánh trong công viên với Chúa!

Trước khi cậu con trai kịp nói thì bà thêm:

- Con biết không, Chúa trẻ hơn mẹ tưởng nhiều!

2. Con người ai cũng mong muốn được hạnh phúc. Nhưng nhiều khi hạnh phúc chỉ như một chiếc bóng. Chúng ta mãi mê chạy theo một chiếc bóng mà quên rằng, niềm vui đích thực, hạnh phúc đích thực lại nằm ngay trong chính tầm tay của chúng ta. Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay cho chúng ta thấy điều đó.

Tin Mừng thuật lại, các môn đệ đã thả lưới thâu đêm mà không bắt được con cá nào. Tình cờ có một người lạ mặt xuất hiện bảo họ hãy thả lưới bên phải và mẻ cá nhiều đến nỗi lưới muốn rách và thuyền muốn chìm. Chúa Giêsu đến với các môn đệ như một người vô danh, không kèn, không trống, không một biểu dương rầm rộ nào. Ngài đến một cách kín đáo nhẹ nhàng. Ngài hiện diện một cách âm thầm và vô danh như chính sinh hoạt thường nhật của chúng ta. Chúa Giêsu đã chọn cảnh sống thường ngày của con người để hiện ra với các môn đệ. Ngài đến vào giữa lúc các ông đang thả lưới. Ngài tham dự vào bữa ăn của các ông. Ánh lửa mà Chúa Giêsu đã đốt lên bên bờ hồ Tibêria buổi sáng hôm đó đã soi sáng tâm hồn các môn đệ, để các ông hiểu rằng, Chúa Kitô Phục Sinh đang có mặt trong từng phút, từng giây của cuộc sống con người và chỉ có sự hiện diện ấy mới có đủ sức biến những sinh hoạt tầm thường nhất của con người như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ trở thành những niềm vui đích thực trong cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con cảm nếm được niềm vui vì có Chúa luôn hiện diện với chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa trao các tông đồ bánh và cá


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Thánh sử Gioan tông đồ trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay nói rằng đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với các tông khi Chúa từ cõi chết sống lại. Thời gian Chúa hiện ra là vào buổi sáng sớm. Địa điểm là ở bờ biển hồ Galilêa. Sinh hoạt của các tông đồ lúc này là cùng nhau đi dánh cá.

Thời gian Chúa hiện ra là vào buổi sáng sớm của một ngày mới, điều ấy có nghĩa là không gian lúc này rất yên tĩnh, chỉ có tiếng vi vu của những làn gió ban mai lướt nhẹ trên mặt nước biển và những ngọn cỏ cây quanh đây sau một giấc ngủ đêm an lành vẫn còn vươn đọng những giọt sương mai trên đó. Không gian bình yên, tĩnh lặng như thế giữa đất trời bao la mênh mông thật là xứng hợp cho cuộc gặp gỡ của Chúa với các tông đồ. Chúa là nhân vật chính lúc này, vai trò của Chúa như là một thầy dạy, một người chỉ đạo, một người điều khiển sinh hoạt, nghề nghiệp, cuộc sống mưu sinh của các tông đồ: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được” (Ga 21, 6). Tuy thánh Phêrô là người đứng đầu các tông đồ, điều khiển các tông đồ, nhưng không có Chúa thì cũng chỉ là con số không, mặc dù có vất vả bao nhiêu trong cuộc sống đi chăng nữa thì con số không vẫn là con số không: “Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Ðiđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: Tôi đi đánh cá đây. Các ông kia nói rằng: Chúng tôi cùng đi với ông. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: Này các con, có gì ăn không? Họ đồng thanh đáp: Thưa không. Chúa Giêsu bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá” (Ga 21, 1 – 6). Như vậy, chỉ có Chúa thì việc Chúa hướng dẫn dạy dỗ các ngài mới có hiệu quả, và các ngài không có bị phân tâm bởi môi trường sống, để rồi các ngài mới hiểu và gắn bó với Chúa hơn.

Khi các tông đồ lên bờ biển rồi, Chúa bảo các ngài lại ăn vì Chúa đã chuẩn bị bữa ăn sẵn sàng cho các ngài rồi: “Lạy Chúa, khi ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê” (Tv 144, 16). Khi ăn như vậy, và những gì đã xảy ra trước đó, các ngài biết đó chính là Chúa của mình đã sống lại từ cõi chết. Các ngài cảm thấy gần gũi, gắn bó với Chúa và dường như không còn sợ hãi như những lần trước nữa, để rồi qua đó chúng ta thấy rằng mỗi khi Chúa hiện ra với các tông đồ sau khi Chúa từ cõi chết sống lại, Chúa luôn dùng lời Chúa và Thánh Thể Chúa là hai nguồn ơn thánh và dưỡng chất để nâng đỡ đức tin các tông đồ, nhờ đó mà các tông đồ đã vượt qua được sự sợ hãi, các thử thách mà tin vào Chúa, trung thành với Chúa, làm chứng nhân cho Chúa đến cùng: “Chúa Giêsu bảo rằng: Các con hãy lại ăn. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: Ông là ai? Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại (Ga 21, 9 – 14).

Lạy Chúa phục sinh, điều Chúa mong muốn nơi chúng con là chúng con phải sống với nhau, làm việc chung với nhau để giúp nhau nên thánh, và biết vâng lời các đấng bậc trong Giáo Hội, cộng tác với các ngài để xây dựng Giáo Hội ngay tại trần thế này mỗi ngày một vững mạnh hơn. Xin Chúa giúp chúng con biết siêng năng học hỏi lời Chúa và rước Thánh Thể Chúa, để thêm sức mạnh, giúp chúng con sống và đem hết khả năng để làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống của chúng con. Amen.

---------------------------------


 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây