TinMừng – TN 13 – Thứ 2 03.07.2023 Th. Tôma TĐ, kính: Con đường theo Chúa.
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
* Vào lúc Đức Giêsu chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tôma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của Tôma, Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giêsu đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức Giêsu cho Tôma thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, Tôma mới tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28). Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn Độ. Từ thế kỷ 4, người ta mừng ngày rước hài cốt của ngài về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7.
-----------------------------
Lời Chúa: Ga 20, 24-29
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”. Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông Tôma đã không ở với nhóm môn đệ khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông. Có vẻ có một sự xa cách nào đó giữa Tôma và mười ông kia. Chuyện này trở nên rõ hơn khi ông Tôma từ chối tin vào lời của họ: “Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25). Ông đòi tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay. Thấy dấu đinh nơi bàn tay Thầy, xỏ ngón tay mình vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy: đó là những điều kiện ông đòi để tin. Tôma không đứng dưới chân thập giá như người môn đệ Chúa yêu, nhưng ông đã được nghe chuyện Thầy bị đóng đinh, bị đâm nơi cạnh sườn. Đối với ông, nếu Thầy thực sự phục sinh, thì thân xác Thầy vẫn còn phải mang những vết thương đó. Phục sinh không làm mất đi những vết sẹo của tình yêu cứu độ. Đấng phục sinh lại có ý chiều ông, đó mới là chuyện lạ. Ngài biết óc thực tiễn của ông, và Ngài không muốn mất ông (Ga 17, 12). Ngài dám thỏa mãn những đòi hỏi táo bạo và cụ thể của ông, để đưa ông về với đức tin, về với cộng đoàn. Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu phục sinh đến như thể cho một mình ông thôi, và mời ông làm những điều ông đòi hỏi. Chẳng rõ Tôma có dám thực hiện hay không, nhưng chính thái độ bao dung và yêu thương của Thầy đã chinh phục ông. Môi ông bật lên lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong Tân Ước: “Lạy Chúa của tôi; lạy Thiên Chúa của tôi” (c.28). Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin!” Chúng ta ngày nay tuy không được hưởng kinh nghiệm như thánh Tôma, nhưng chúng ta lại được hưởng một mối phúc mà ngài không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (Ga 17, 20), trong đó có Tôma. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tôma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chuyện Chúa phục sinh không do một ảo giác tập thể. Tôma là một người hoàn toàn tỉnh táo. Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những Tôma: hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn… Thầy Giêsu dạy chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án. Quanh chúng ta vẫn có nhiều người chưa biết Chúa, họ cũng đòi thấy và đụng chạm đến Thiên Chúa. Kitô hữu chúng ta phải có kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa, để làm chứng được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (c. 25). Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ. Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau. Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ. Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi. Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ. Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Sứ điệp: Dù không được thấy Chúa hiện ra, nhưng ta tin vào lời chứng của các tông đồ là những người đã thấy Chúa. Phúc cho ai không thấy mà tin. Ai tin sẽ được ơn bình an của Chúa Phục Sinh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời con đầy ắp những lo toan sợ hãi. Có những lúc con cảm thấy đời sống thật nặng nề, có những lúc con bị chìm ngập bởi cái lo cơm ăn, áo mặc, bởi nỗi vất vả truân chuyên. Có những lúc con quay quắt vì buồn phiền. Có những lúc con hoang mang sợ hãi nghi ngờ những người xung quanh. Và như các tông đồ ngày xưa, con đã đóng kín cửa tâm hồn trong buồn phiền sợ hãi.
Lạy Chúa Phục Sinh, dù con không thấy Chúa, nhưng con tin Chúa vẫn hiện diện bên con như đã hiện đến với các tông đồ để trao ban ơn bình an và tha thứ.
Xin Chúa chỉ cho con thấy các vết tích thương đau của Chúa như đã chỉ cho Thánh Tôma để con cũng bật lên lời tin yêu trìu mến: “Lạy Chúa con và là Thiên Chúa của con”.
Xin hãy nói với con, và lặp đi lặp lại trong đời con lời cầu chúc bình an của Chúa, để con không còn cô đơn và sợ hãi giữa cuộc đời phong ba bão táp.
Xin cho con cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, bởi khi con nhận biết mình được tha thứ nhiều, con cũng sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn.
Và lạy Chúa, ngày hôm nay, khi con lãnh nhận hai món quà quý giá của Chúa là ơn bình an và ơn tha thứ, xin cho con cũng biết trao tặng cho thế giới những gì con đã lãnh nhận để những ai gặp con, cũng tìm được sự bình an của Chúa Phục Sinh. Amen.
Hai lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau:
1. Chúa Giêsu nâng đức tin của các một đệ lên một bậc: từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng mà giác quan kiểm nghiệm được (câu 20 “Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài”; câu 25, Tôma đòi điều kiện “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài...) lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe (câu 29 “Phúc cho những ai không thấy mà tin”)
2. Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau:
- Em có bằng lòng lấy anh không?
- Bằng lòng.
- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp “kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế?
- Vì em yêu anh!
Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin. (Góp nhặt)
2. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao. (Góp nhặt)
3. “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
“Xoảng...!” Cái bình vỡ. “Hư quá! Mẹ đã bảo rồi”. Không phải một lần nhưng nhiều lần xảy ra như thế. Mặc dù đã được me báo trước, nhưng tôi vẫn cứ muốn thử xem sao.
Lớn lên, tôi hiểu biết nhiều hơn nhưng cũng đa nghi hơn. Cái gì hơi khác thường là tôi đòi phải có bằng chứng rõ ràng. Với một công thức mới chưa được chứng minh, tôi không tài nào nhớ được. Và đôi khi, trong những giây phút trao lòng, tôi cũng đã hỏi: “Không biết có Chúa thật không?”.
Cuộc sống càng phát triển, dường như con người chỉ muốn tin vào những cái có thể cân, đong, đo, đếm được mà thôi.
Nhưng thước đo nào đủ cho chiều cao thập tự. Cán cân nào đủ đo tình yêu của Người.
Lạy Chúa, xin cho con biết vững tin vào tình yêu cứu độ. (Epphata)
4. “Tôma, vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29)
Trong một vụ tai nạn xe hơi, thầy của tôi bị thương trầm trọng tưởng chừng như không qua khỏi. Ấy vậy mà sau hai tháng điều trị, Thầy đã chóng bình phục và trở về với cuộc sống thường ngày. Khi tôi vào thăm, Thầy đã đón tôi với nét mặt tươi vui và thái độ hân hoan lạ thường. Tôi thắc mắc không hiểu sao với vết thương như thế mà Thầy có thể chịu đựng nổi trước những lưỡi dao len lỏi vào từng tớ thịt, cắt xén, thêm bớt… Thầy vui vẻ trả lời: “Cứ mỗi lần như thế, Thầy lại nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thánh giá, và nỗi đau của Thầy như tan biến hết”. Tôi đã làm cho Thầy chưng hửng khi hỏi lại: “Thầy có thấy Chúa đâu mà lại tin như vậy?”.
Tâm trạng và thái độ của tôi lúc ấy cũng giống như tâm trạng của Tôma trong Phúc Âm. Đã có lúc tôi tự hỏi: Chúa ở đâu? Sao tôi chẳng thấy? Và tôi không còn thiết nghĩ đến Chúa nữa. Tôi đi lễ chẳng qua vì tôi “lỡ” chịu phép Rửa Tội. Đến nhà thờ mà tâm hồn cứ để tận đâu đâu.
Lời Chúa nói với Tôma đã làm tôi bừng tỉnh, mắt như mở ra. Và tôi thấy Chúa đang mỉm cười với chính mình.
Chúa Giêsu ơi, đức tin của con như hạt sương mai đậu trên nhành cây, để nguyên thì còn mà đụng vào thì sẽ mất. Xin thêm niềm tin cho con, để con dù không thấy Chúa nhưng vẫn tin Ngài đang hiện diện bên con trong cuộc đời. (Hosanna)
Sau 30 năm sống ẩn dật, Chúa Giêsu lên đường đi rao giảng Tin Mừng, mạc khải cho thế gian những mầu nhiệm về Nước Trời. Trong thời gian này, Chúa đã chọn một số tông đồ, lập thành một cộng đồng nhỏ bé, nhưng thân thiết và đầy tình thương. Tất cả đi theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và cùng lãnh sứ mạng loan báo tin lành như Chúa. Trong số những người được đặc ân lãnh nhân trực tiếp lời Chúa để thành những sứ giả, những bạn hữu và những tông đồ của Người, chúng ta thấy có thánh Tôma (Thomas).
Theo những tài liệu cổ, tên thực của thánh nhân là Giuđa. Nhưng vì Giuđa là một tên gọi rất phổ biến của người Do Thái, nên thánh nhân mới có một tên đệm khác là Tôma. Riêng tên Toma, theo danh từ Do Thái có nghĩa là “sinh đôi”.
Về gia tộc của thánh nhân, chúng ta không biết rõ, trừ một truyền thuyết cho rằng: Ngài sinh ở Antiôkia và có một người chị cùng sinh đôi tên là Lydia.
Ngoài ra, chỉ Phúc âm mới cho chúng ta biết chắc chắn một vài điểm về thân thế và tính tình của thánh Tôma. Thánh Tôma là một trong số các tông đồ Chúa Giêsu đã chọn. Nếu đọc sổ kể tên các tông đồ trong Phúc âm, chúng ta thấy thánh nhân được xếp thứ bảy theo thánh Matthêô, thứ tám theo thánh Marcô và thánh Luca và thứ sáu trong Công vụ sứ đồ. Riêng thánh Gioan, Ngài cho chúng ta biết thánh Tôma vốn tính rất nhiệt thánh và tận tụy. Lần kia Chúa Giêsu muốn vào xứ Giuđêa để thăm ông Lazarô bạn của Người vừa mới qua đời, các tông đồ đều nhao nhao lên ngăn cản, sợ người Do Thái sát hại. Chỉ một mình thánh Tôma mới nhận thấy sự quyết định cương quyết của Thầy mình. Vì thế Ngài đã kêu lên: “Nào, tất cả chúng ta cùng đi để cùng được chết với Thầy” (Ga 11,16). Rồi khi Chúa Giêsu loan tin: “Thầy sẽ đi dọn chỗ cho chúng con, khi Thầy đã đi và sẵn chỗ cho chúng con rồi, thì Thầy sẽ trở lại, đem các con cùng đi với Thầy, hễ Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. và vì các con biết Thầy đi đâu, nên các con cũng biết đường đi nữa”. Thánh Tôma liền thưa với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con chẳng biết Thầy đi đâu, làm sao biết đường được” (Ga 14,26). Lại nữa, khi Chúa sống lại và hiện ra với các môn đồ, nhưng lần đó Tôma vắng mặt. Khi thánh nhân trở về, mọi người đều mừng rỡ kể lại cho Ngài nghe việc Thầy hiện ra. Thánh Tôma bỡ ngỡ tỏ thái độ không tin và còn tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đanh ấy và nếu tôi không sờ vào vết thương nơi sườn Thầy thì tôi không tin” (Ga 20,25).
Tám hôm sau, Chúa lại hiện đến với các tông đồ; lần này có cả Tôma ở đó. Sau khi ban bình an cho tất cả, Chúa quay lại bảo thánh Tôma: “Tôma, con hãy đặt ngón tay con vào đây và xem bàn tay Thầy, con hãy giơ tay con ra sờ vào cạnh sườn Thầy, và đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin chắc”. Hốt hoảng vì những lời Chúa phán, Tôma vội vã thưa cương quyết: “Lạy Chúa tôi và là Chúa Trời của tôi”. Nhưng Chúa ngắt lời và phán tiếp: “Vì con đã thấy Thầy nên con tin, nhưng phúc cho kẻ không thấy mà tin” (Ga 20,29). Sau hết, thánh Tôma là một trong bảy tông đồ được Chúa hiện ra trên bờ hồ Tiberia trước khi về trời.
Từ ngày ấy, thánh Tôma luôn luôn sống đoàn tụ với các tông đồ chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và khi đã được đầy ơn Thánh Linh rồi, Ngài cùng với các môn đệ chia tay nhau đi rao giảng Phúc âm. Thánh nhân giảng đạo tại những nơi nào chúng ta không biết. Theo sử gia Eusèbe thì hình như Ngài giảng đạo tại xứ Parthie. Nhưng theo một truyên thuyết khá kỳ cựu thì thánh nhân đem tin lành đến cho những xứ của mấy nhà bác học, trứơc kia đã đến thờ lạy Chúa Giêsu tại hang Bêlem. Ngoài ra, nhiều văn kiện khác lại cho rằng: Thánh Tôma giảng Phúc âm cho dân Aán Độ, đã gặp thấy ở đó nhiều người Kitô giáo xưng mình là đồ đệ của thánh Tôma. Hơn thế, các tín hữu Ấn Độ có truyền tụng lại rất nhiều phép lạ mà họ cho rằng: Chúa đã làm vì lời cầu nguyện của thánh Tôma. Dưới đây là một trong nhiều tích truyện.
Lần kia, vua Sagame và các tăng ni Bàlamôn tìm mọi cách ngăn cản, không cho thánh tông đồ cất ngôi nhà thờ như đã định, họ viện lý rằng khu đất ấy dành riêng để xây tư dinh cho nhà vua. Thế rồi một hôm bể động, nhiều đợt sóng to đổ vào bờ đem theo một cây gỗ quý rất lớn. Nhà vua muốn đem cậy gỗ ấy về làm vật liệu xây cung điện. Nhưng vì cây gỗ quá nặng đến nỗi hàng trăm con voi kéo không nổi. Trong lúc các quan triều lúng túng chưa biết tìm kế nào đưa trọn cây gỗ về triều cho vua, thì thánh Tôma được Chúa soi sáng, Ngài đến thẳng đền vua và mạnh dạn tâu: “Nếu đức vua bằng lòng cho tôi xây ngôi nhà thờ dâng kính Thiên Chúa, tôi sẽ giúp vua, một mình kéo cây gỗ về thành không cần đến một người lính hay một con voi nào”. Nhà vua ngỡ ngàng, cho rằng thánh nhân nói khoác. Nhưng sau, theo lời bàn của giới chư tăng, nhà vua đồng ý và định ngày kéo gỗ. Đến ngày đã định, vua và các quan triều đến chứng kiến công việc. Dân chúng cũng kéo đến xem chật ních. Thánh tông đồ, bình tĩnh bước ra chào vua rồi quỳ xuống cầu nguyện. Đoạn Ngài đứng dậy buộc giây vào đầu cây gỗ, giơ tay làm dấu thánh giá và kéo đi một cách nhẹ nhàng, trước con mắt kinh hoàng của mọi người.
Dầu vậy, đến nay lịch sử vẫn chưa xác quyết thánh Tôma có giảng đạo tại những xứ sở nào. Và cũng chưa rõ thánh nhân chết ở đâu và bằng cách nào. Nhiều người cho rằng: thánh nhân qua đời tại Eùdesse hay một thành nào gần đó. Nhưng ý kiến khác lại cho rằng: thánh tông đồ chịu tử đạo tại Ấn độ.
Hợp ý với Giáo hội trong ngày lễ kính Ngài, chúng ta hãy khẩn khoản xin Ngài bênh vực hộ giúp và thầm nguyện noi theo gương mẫu đức tin của Ngài với một lòng tôn sùng xứng đáng.
Chúng ta vừa nghe một câu chuyện mà chúng ta đã thuộc lòng từ khi còn nhỏ. Câu chuyện hôm nay đã trở thành một gợi hứng cho rất nhiều bài với rất nhiều khía cạnh khác nhau. Riêng tôi, tôi chỉ xin chia sẻ với anh chị em một vài cảm nghĩ rất riêng tư của mình.Tôi muốn nói tới những đức tính của Tôma làm tôi nể phục.
Trước hết là sự minh bạch và rõ ràng trong lập trường của ông.
Tôma không phải là người trung lập. Ông có một lập trường rất rõ rệt. Ông sống quyết liệt, không sống nửa vời. Ông nhất định không chịu nói là mình tin khi ông không tin. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi ngờ. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng.
Đó là thái độ mà tôi tưởng Chúa cũng thích. Chính vì thế mà không những Chúa không khiển trách Tôma mà còn xem như bằng lòng với ông khi hiện ra với ông trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa không thích thái độ dở dở ương ương, thái độ nửa vời vì nó là một thái độ rất khó chịu và rất nguy hiểm.
Để cho người ta thấy thái độ nửa vời nguy hiểm như thế nào thì người Tây phương đã viết nên câu chuyện này. Hồi đó, dưới hỏa ngục, các tướng quỷ tranh luận với nhau về đề tài: “Đâu là phương pháp hữu hiệu nhất để chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa?” Trên khán đài nồng nặc mùi diêm sinh và bên dưới là các tướng lãnh tranh luận sôi nổi với nhau.
Tên thứ nhất đứng lên tuyên bố:
Đối với tôi, lòng ham mê ăn uống là thù địch số một của Chúa. Thử hỏi vì lý do gì mà Ađam và Evà sa ngã phạm tội ở vườn địa đàng? Thưa cũng chỉ vì thèm ăn một trái táo. Rồi đến Esau mất quyền trưởng nam cũng chỉ vì một bát cháo đậu xanh.
Một tràng pháo tay vang dội.
Kế đó tên quỷ thứ hai cứng rắn phản đối tên thứ nhất. Hắn cho rằng lòng tham của cải mới chính là thù địch số một của Chúa. Giuđa là một thí dụ.
Tên quỷ thứ ba tiến lên. Theo hắn thì lòng kiêu ngạo chính là chủ của mọi tính hư nết xấu.Sự sa ngã của các thiên thần là thí dụ.
Tên quỷ thứ tư bước lên khán đài ngang nhiên tuyên bố:
Không, thù địch số một của Chúa chính là lòng ham mê nhục dục và mọi thú vui giác quan.
Nghe những lời đó quỷ vương phân vân không biết phải trao chiến thắng về cho ai, bởi vì ai cũng có lý cả. Sau cùng, từ chỗ quan khách đang ngồi chăm chú theo dõi, tên quỷ thứ năm dõng dạc chậm rãi tiến ra. Với giọng vừa mỉa mai vừa cứng rắn, hắn lên tiếng đả kích tất cả các lý luận trên và phủ nhận mọi bằng chứng đã được đưa ra. Sau đó hắn nói dằn từng tiếng:
Kẻ thù số một của Chúa không hẳn là lòng ham mê, tham lam cũng không phải là tính kiêu ngạo, tất cả những thói xấu đó đứng riêng rẽ một mình chẳng khác nào con dao cùn, nhưng nếu tổng hợp tất cả những thói xấu đó lại thành một hợp chất khác tuy không tên tuổi, không ai để ý tới, nhưng chúng sẽ là một khí cụ lợi hại và hiệu nghiệm nhất. Đó là lòng lạnh nhạt, không nóng cũng không lạnh. Những kẻ lạnh nhạt không hẳn là những người thù địch chống lại Chúa một cách trắng trợn, nhưng chúng cũng không phải là những người thân thiện gì với Chúa, đó mới chính là kẻ thù tai hại hơn cả.
Đây chúng ta hãy nghe lại những lời mạnh mẽ Chúa nói trong sách Khải Huyền với dân Laodiciae: “Ta biết các việc ngươi làm. Ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng ta (Kh 3, 15-16)
Ngày hôm nay chẳng thiếu những người giữ đạo cho có, chỉ hình thức, lạnh chẳng ra lạnh, nóng cũng chẳng ra nóng. Những người như thế đang là mối nguy cho Chúa hôm nay.
Đức tính thứ hai mà tôi cảm phục nơi con người của Tôma là khi đã biết chắc chắn, ông sẽ đi cho đến cùng.
Đây là đức tính của những anh hùng. Người anh hùng khi đã biết chắc chắn, họ sẽ đi cho đến cùng. Khi Tôma nói: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi”(Ga 20, 28) thì ông đã biết ông phải sống như thế nào rồi. Tôma không đứng ở vị trí lưng chừng. Ông không làm bộ hoài nghi chỉ nhằm chơi trò ú tim tinh thần. Sở dĩ ông nghi ngờ là vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã biết chắc rồi, ông hoàn toàn tuân phục.
Theo một cuốn sách ngoại kinh có nhan đề “Các công việc của Tôma” người ta thấy Tôma được mô tả là một con người rất trung thực. Sau đây là một trích đoạn có liên quan đến Tôma.
“Sau khi Chúa sống lại, các môn đệ được phân bổ khu vực để đi rao truyền Tin Mừng cho mọi người. Mỗi người phải đến một nơi nào đó để mọi người trên khắp thế gian đều được nghe Tin Mừng. Tôma bắt thăm nhằm xứ Ấn Độ. Thoạt đầu Tôma không chịu. Ông nói:
Tôi là một người Do thái, làm sao lại có thể đến sống giữa những người Ấn độ mà truyền giảng chân lý cho họ được?
Tối đến, Chúa Giêsu hiện ra với ông và bảo
Này Tôma, đừng sợ, hãy đến Ấn độ và giảng ở đó, vì ân sủng của Ta ở cùng con.
Lúc đó có một thương gia tên Abbanes từ Ấn đến Giêrusalem. Ông này được vua Gundaphorus sai đi để tìm cho nhà vua một người thợ mộc giỏi để đem về Ấn Độ. Tôma vốn là một thợ mộc. Chúa Giêsu đến cùng Abbanes ngoài chợ và hỏi:
Ông có muốn mua một thợ mộc không?
Abbanes đáp: - Muốn.
Chúa Giêsu nói: - Tôi có một tên nô lệ làm thợ mộc và tôi muốn bán!
Rồi Chúa chỉ Tôma đang đứng đàng xa. Hai bên ngã giá và Tôma bị bán. Tờ biên nhận viết như sau: “Tôi tên là Giêsu, con trai Giuse thợ mộc, nhìn nhận có bán tên nô lệ của tôi là Tôma cho ôngAbbanes, thương gia của Gundaphorus, vua dân Ấn.” Sau khi viết xong giấy bán, Chúa Giêsu đi tìm Tôma, đưa ông đến với Abbanes. Abbanes hỏi:
Có phải người đó là chủ của anh không?
Tôma đáp: - Phải.
Abbanes nói: - Tôi đã mua anh từ ông ta.
Tôma yên lặng. Sáng hôm sau, Tôma dậy thật sớm để cầu nguyện, sau đó ông đến thưa với Chúa Giêsu: - Lạy Chúa, con xin nhận bất cứ nơi nào Chúa muốn, nguyện ý Ngài được nên trọn.
Và sau đó ông lên đường.
Vâng! Đó chính là Tôma một người chậm tin, chậm thuần phục, nhưng khi đã thuận phục thì thuận phục hoàn toàn.
Câu chuyện còn tiếp tục kể rằng vua Gundaphorus ra lệnh cho Tôma xây một cung điện. Tôma bằng lòng. Nhà vua cấp tiền đầy đủ cho ông mua vật liệu và thuê nhân công, nhưng ông đem phân phát hết cho người nghèo. Ông luôn luôn tâu với vua rằng ngôi nhà đang được xây cất.
Sau một thời gian nhà vua sinh nghi bèn cho gọi Tôma đến hỏi: - Ngươi xây cung điện cho ta xong chưa?
Ông đáp: - Bây giờ hoàng thượng chưa thể đến xem được, nhưng sau khi lìa bỏ đời này thì hoàng thượng sẽ thấy.
Thoạt đầu nhà vua nổi cơn thịnh nộ và người ta tưởng là tánh mạng của Tôma lâm nguy, nhưng cuối cùng như một phép lạ, nhà vua tin Chúa. Và như thế, Tôma đã đem Kitô giáo đến Ấn độ.
Kính thưa anh chị em
Con người của Tôma là thế. Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Nhưng một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng. Đức tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi. Ông là người muốn biết rõ và sau khi đã biết, ông đã sống chết với gì gì ông biết.
Tôma là người Do Thái, miền Galilêa, sống bằng nghề chài lưới. Chúa Giêsu đã chọn ngài vào số mười hai tông đồ, và ngài đã từ bỏ mọi sự để chỉ thuộc về Thầy Chí Thánh mà thôi.
Tôma tỏ ra đơn sơ, nhiệt thành và tận tụy. Khi Ladarô chết, các tông đồ run sợ vì thấy Chúa Giêsu về Giêrusalem, nơi các ông biết rõ là người biệt phái đang tìm cách giết Người, các tông đồ ngăn cản: “Thưa Thầy, vừa đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại qua đó nữa sao?”. Nhưng Tôma trung tín và có phần bi quan, ông góp ý: “Cả chúng ta nữa, hãy đi qua để chết với Ngài” (Ga 11,8-10).
Trong cuộc đàm thoại trước khi chịu tử nạn, Chúa Giêsu tìm cách an ủi các tông đồ, Ngài nói: “Lòng các con đừng xao xuyến... Ta đi dọn chỗ cho các con và Ta đi đâu, các con biết đường rồi”. Tôma thưa lại với nhiệt tình muốn theo Chúa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao mà biết được đường?”. Và Chúa Giêsu trả lời ông: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,1-6)…
Khi Chúa Giêsu sống lại, các môn đệ khác nói với ông là Chúa đã sống lại nhưng ông thấy các ngài đều sợ và các cửa đều đóng kín, nên ông muốn được thấy Chúa nhãn tiền: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Sau đó, Chúa cho ông được thấy Người, và ông đã tin (Ga 20,25-28).
Sau ngày lễ Hiện xuống, các tông đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Theo Êusêbiô, thánh Tôma đi giảng đạo ở Parthia. Theo một truyền thống khác, ngài đã được gặp các đạo sĩ, những vị đã kính viếng Chúa Hài đồng thuở trước, và rửa tội cho họ.
Một truyền thống sáng sủa và mạnh mẽ hơn cho rằng ngài là vị tông đồ của dân Ấn Độ (Trích từ Đỉnh đồi yêu thương) và được phúc tử đạo tại đó.
Suy niệm
Không có mặt trong nhà tiệc ly lúc Chúa Phục Sinh hiện ra, Tôma vẫn sợ hãi vì trước những biến cố vừa xảy ra: Thầy bị kết án, bị giết chết.. niềm tin của Tôma bị sụp đổ, vì Thầy đã chết và mọi sự liên quan đến Thầy đã chấm dứt. Chúa Kitô Phục Sinh lại có mặt giữa lòng tin bị thử thách của Tôma, Ngài mời ông chạm đến các thương tích của Ngài và khuyên ông đừng cứng lòng.
Tâm hồn chai đá của ông đã được phục sinh, khiến sợ hãi được thay thế bằng bình an, bao nhiêu vết thương được chữa lành. Trong ánh sáng Phục sinh cùng Thần Khí ông thốt lên với niềm tin: “Lạy Chúa của tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Ga 20,28).
Các môn đệ và nhất là tông đồ Tôma là hình ảnh của những thử thách, yếu tin của nhân gian qua mọi thời và nhất là con người thời nay: Trước những đau khổ và sự dữ, lòng sợ hãi luôn ngự trị, lòng tin bị lung lay và trở nên chai cứng. Đức Kitô Phục sinh, Đấng đã mặc lấy những đau khổ và thương tích của con người, đồng thời đã tỏ ra tình yêu, lòng thương xót qua các thương tích, chính các thương tích đụng chạm và chữa lành mọi yếu đuối thương tích của chúng ta.
Trước những nghi nan, do dự của Kitô hữu trong mọi thời, trước những nỗi sợ hãi và thất vọng của con người ngày nay, cùng với Tôma, chúng ta cũng tái khám phá tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, khi đến bên Ngài, đấng luôn hiện diện bên chúng ta, hiện diện với thân xác huyền diệu như xưa Ngài vẫn vào nhà tiệc ly dù cửa đóng kín (x. Ga 20,19). Ngài luôn bên cạnh mà chúng ta không biết.
Thật thế, chúng ta đang cần và luôn cần gặp gỡ Ngài, nhận biết Ngài là Thiên Chúa thật quyền năng và Ngài đang ở giữa chúng ta.
Ý lực sống:
“Tông đồ Tôma đã công nhận Chúa Giêsu là “Đức Chúa và là Thiên Chúa” khi ngài đặt tay mình vào trong vết thương cạnh sườn Người. Thật không lạ gì, nhiều vị thánh đã gặp trong tim của Chúa Giêsu sự diễn đạt sâu xa nhất của mầu nhiệm tình yêu này” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI).
Khi nói đến ai đồng dạng với “Tôma”, điều đó không có gì là nâng bi. Đó là thái độ bình thường của bất cứ tín hữu nào, bất cứ Kitô hữu nào.
Tôma không tin các bạn tông đồ, đúng thế; nhưng ông không do dự khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho tin. Không phải là lời chứng của các tông đồ làm chúng ta tin Đức Kitô Phục Sinh, Con Thiên Chúa, và phúc cho chúng ta, chính Đức Kitô làm chúng ta tin.
Các sách Tin Mừng...
Chúng ta biết chắc rằng các sách Tin Mừng không được Đức Giêsu viết ra. Chúng ta biết chắc rằng những bài giảng của Đức Giêsu chỉ là những bản tóm tắt, sơ sài biết bao. Tuy nhiên, khi Gioan, Luca, Matthêu hay Mác-cô viết rằng: “và Đức Giêsu nói....”, chúng ta tin những lời các thánh sử Tin Mừng truyền lại cho chúng ta, những lời đó chúng ta nghe chính miệng Đức Kitô.
Tôma...
Chính Ngài làm chứng cho chúng ta về Đức Kitô Phục Sinh, nhưng cũng nói cho mỗi người chúng ta rằng, chúng ta cũng có thể tin các thánh sử Tin Mừng, các Ngài là những chứng nhân chính thức, còn chính Đức Kitô cho chúng ta đức tin nhờ các Ngài và nhờ Giáo Hội.
Khi Giáo Hội dạy, Giáo Hội nói lời Chúa cho chúng ta. Giáo Hội chỉ là người mang tiếng nói của Ngôi Lời. Chính Ngôi Lời nói, luôn luôn là thế. Các Giám Mục là người kế vị các tông đồ, không phải là các nhà thần học. Nên chúng ta phải chú ý nghe các Ngài, thì không nhất thiết phải luôn luôn nghe theo các Ngài. Đức tin không lay chuyển nhưng khoa học thì liên tục tiến triển.
Tôma còn nhắc nhở chúng ta chỉ có một tiếng nói chính thức và chúng ta cũng phải biết kính trọng trí khôn chúng ta và đức tin chúng ta, đừng để bất cứ ai, bất cứ cái gì nhồi sọ chúng ta, coi chừng nhiều tiên tri giả chung quanh chúng ta.
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa?
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ TRONG NHÓM 12:
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu: ”Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (Ga 11,8). Chúa nói với các môn đệ: “ Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê” (Ga 11,7). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ: ”Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế: ”Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinhvà không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25). Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ ĐÃ ĐƯỢC PHÚC TỬ ĐẠO:
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét: ”Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi” (Mt 10,17-22). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại: ”Anh em hãy đi khắp mọi nơi...” (Mt 28,19) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
“Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế doạ sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe doạ của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe doạ của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hoá ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại...
Buồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ...”
Con đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc...
Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôi không kiểm chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm khi, chúng ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của người Kitô.
Thánh Thomas (Tôma) Tông Đồ hay cũng còn được gọi là là Đi-đy-mô, xuất thân từ một gia đình nghèo túng tại Galilea, Do-thái. Tuy nhiên, không ai biết về ngày tháng năm sinh của Ngài, cũng không ai biết Ngài đã sinh ra tại địa điểm cụ thể nào ở Galilea. Theo tương truyền, Ngài đã đến Mailapur, một khu vực thuộc thánh phố Madras của Ấn-độ ngày nay, và đã chết tại đó vào năm 72 sau Chúa Kitô với tư cách là một vị Tử Đạo. Ngài là một trong nhóm 12 Tông Đồ, tức những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, đã đồng hành với Chúa Giêsu suốt ba năm trường với tư cách là những người bạn và những môn sinh (xc. Ga 15,15). Tên của Ngài được đặt theo tiếng Aram: ta'am (Thomas), có nghĩa là "một cặp“ hay "người được sinh đôi“. Vì thế, trong Kinh Thánh, Thomas cũng được gọi là Didymos, vì từ Thomas được dịch sang tiếng Hy-lạp là δίδυμος (didymos). Theo truyền thống Syria, Thánh Nhân cũng còn được gọi là Judas Thomas, vì tại đó, Thomas được hiểu là tên đệm, hay tục danh.
Trong các Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo, Thánh Thomas được tôn kính với tư cách là vị Thánh Tông Đồ Tử Đạo. Trong các Giáo hội Tin Lành cũng có ngày tưởng nhớ tới Ngài.
1. Hình ảnh của Thánh Thomas trong Kinh Thánh
Thánh Thomas được cả bốn Tin Mừng nhắc tới trong bảng danh sách các Tông Đồ. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tức ba cuốn Tin Mừng đầu tiên, Ngài đứng bên cạnh Thánh Mát-thêu - viên quan ngành thuế (Mt 10,3; Mc 3,18; Lc 6,15). Trong sách Công Vụ Tông Đồ, người ta thấy Ngài đứng bên cạnh Tông Đồ Philiphê (Cv 1,13). Tin Mừng theo Thánh Gioan đã cung cấp một số chi tiết đặc biệt về Thánh Nhân, mà những chi tiết đó đã mô tả một cách rõ nét về những tính cách nơi con người Ngài.
a. Thomas là người đa nghi
Trước tiên, con đường dẫn tới việc tuyên xưng Đức Tin vào Con Thiên Chúa được trình bày nơi Thánh Thomas, dựa trên nền tảng căn bản phát xuất từ mối tương quan cá nhân của Ngài với Chúa Giêsu. Tin Mừng theo Thánh Gio-an (xc. Ga 20,19-29) đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn như thế:
“Vào chiều ngày ấy, tức ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
Sở dĩ Thánh Thomas bị gọi là người "đa nghi“ là vì, như được trình bày trong đoạn văn Kinh Thánh nêu trên, trước khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giê-su Phục Sinh thì Ngài đã nghi ngờ về sự phục sinh của Chúa, cho tới khi chính Ngài tận mắt thấy được những vết đanh trên người của Đấng Phục Sinh.
b. "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống"
Một chi tiết tiếp theo về Thánh Thomas được ghi lại trong trình thuật về Bữa Tiệc Ly (xc. Ga 14,4). Trong Bữa Tiệc này, sau khi loan báo về cái chết đang đến gần của Ngài, Chúa Giê-su đã nói rằng, Ngài sẽ đi để dọn chỗ cho các Môn Đệ, để Ngài ở đâu thì các ông cũng sẽ được ở đó với Ngài; và Ngài đã giải thích cho các ông rằng: „Thầy đi đâu thì anh em cũng đã biết đường đến đó rồi“ (Ga 14,4). Nhưng Thánh Thomas đã xen vào và nói: „Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?“ (Ga 14,5). Câu hỏi của Thánh Nhân đã tạo điệu kiện cho Chúa Giê-su tuyên bố một lời rất nổi tiếng: "Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).
c. “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!“
Thánh Thomas lại xuất hiện một lần nữa trong Tin Mừng trước khi Chúa Giê-su làm cho La-gia-rô phục sinh. Trong một khoảnh khắc đầy nguy ngập đối với cuộc sống của Ngài, Chúa Giê-su đã quyết định đi tới Bê-ta-ni-a để làm cho La-gia-rô được sống lại, và như thế, Ngài đã lên đường trong sự nguy hiểm, vì Bê-ta-ni-a nằm rất gần Giê-ru-sa-lem, nơi các thủ lãnh của dân đã quyết định làm mọi cách để khử trừ Chúa Giê-su (xc. Ga 10,22-39), do đó, chỉ cần nói tới đi đến Giê-ru-sa-lem thôi thì tất cả các môn đệ của Chúa Giê-su lẫn những người đi theo Ngài đều cảm thấy kinh hoàng và sợ hãi (xc. Mc 10,32). Trước sự quyết tâm của Chúa Giê-su và trước nỗi do dự của các Tông Đồ khác, Thánh Thomas đã nói với họ: „Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!“
2. Thánh Thomas đã nghi ngờ về cuộc Thăng Thiên của Đức Maria
Theo tương truyền, Thánh Thomas cũng là một Tông Đồ duy nhất đã không có mặt trong cuộc Thăng Thiên của Đức Maria. Khi được các Tông Đồ khác thuật lại cho biết sự kiện vừa nêu, Ngài cũng đã tỏ ra nghi ngờ giống như Ngài đã từng nghi ngờ về cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế Đức Mẹ đã hiện ra với kẻ đa nghi này và trao cho Ngài dây thắt lưng của Mẹ như là bằng chứng về việc cả hồn lẫn xác của Mẹ đều đã được nghinh đón trên Thiên Đàng. Do đó, trong nền kiến trúc Barock, hình ảnh Đức Maria cầm dây thắt lưng chính là một Mô-típ rất được yêu chuộng và phổ biến trong nghệ thuật Ki-tô giáo.
3. Những tương truyền về hoạt động tông đồ của Thánh Thomas
Cuốn Didache, tức cuốn Giáo lý của các Thánh Tông Đồ - một trong những tác phẩm Kitô giáo cố nhất ngoài 27 cuốn sách của Tân Ước – xuất hiện vào khoảng năm 100 sau Chúa Kitô, chứa đựng những bằng chứng cổ nhất bằng văn bản về hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại Ấn-độ. Theo cuốn sách này, Ngài đã thành lập Giáo hội tại Ấn-độ và tại những khu vực lân cận.
Khoảng một trăm năm sau, những tài liệu được gọi là những văn kiện về Thánh Thomas mới xuất hiện. Những tác phẩm này đã tường thuật lại một cách khá giống nhau về những công việc của Thánh Thomas, nhưng được thêu dệt thêm bởi rất nhiều những tình tiết giầu tính tưởng tượng, và có vẻ như bị ảnh hưởng nhiều bởi ngộ đạo thuyết.
Giáo phụ Ô-ri-gen cho biết rằng, trước tiên Thánh Thomas đã đến loan báo Tin Mừng tại Irak và Iran. Sau đó Ngài mới đến miền Nam Ấn-độ để hoạt động Tông Đồ, và vì những hoạt động truyền giáo của mình, nên Ngài đã bị giết tại Mailapur – một khu vực thuộc miền Nam Ấn-độ - vào năm 70 của thế kỷ thứ nhất. Người ta vẫn còn giữ được nhiều văn bản nói về những hoạt động của Thánh Thomas tại Ấn-độ, nhưng những văn bản đó xuất hiện sau thời Ô-ri-gen. Trong đó có những bản văn của Thánh Hieronymô (347-420), và của những người sống cùng thời với Ngài là Thánh Gaudentiô thành Brescia và Thánh Paulinô thành Nola (354-431).
Thánh Grêgôriô thành Tours (538-594) đã không chỉ cho chúng ta biết rằng, Thánh Thomas Tông Đồ đã hoạt động và chết tại Ấn-độ, nhưng còn cho biết thêm là, Ngài đã được mai táng tại đó trong một thời gian dài, và sau đó, các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển tới Edessa, nhưng nơi có ngôi mộ nguyên thủy của Ngài vẫn còn được tiếp tục tôn kính tại Ấn-độ. Thánh Isidor thành Sevilla (560-636) cũng nói tương tự như thế về Thánh Thomas, và cũng nói về cách thức lãnh nhận ơn Tử Đạo của Ngài tại Ấn-độ.
Một truyền thống khác phát sinh tại Nam Ấn-độ, và có nguồn gốc từ thời các Thánh Tông Đồ, và luôn tồn tại từ đó tới nay, đã cho biết về những hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại đó, và cho biết rằng, Ngài đã thành lập 7 giáo đoàn đầu tiên tại vùng duyên hải Malabar, cũng như cho biết về cuộc Tử Đạo của Ngài tại Mailapur nằm đối diện với vùng duyên hải Coromandel. Ngay cả truyền thống có tính địa phương của Ấn-độ về Thánh Thomas cũng xác nhận về việc các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển một phần lớn về Edessa, mà tại đây, trong các cuộc khai quật sau sau này, người ta đã phát hiện ra một ít Thánh tích vẫn còn sót lại của Ngài.
Ibas Edessa đã cho xây dựng một ngôi Thánh Đường tại quê hương của ông để tôn kính các Thánh Tích của Thánh Thomas. Còn hộp sọ được cho là của Thánh Thomas thì hiện tại đang được bảo quản trong Nhà Thờ Chính Tòa Sioni tại Tiflis, Giorgia, và được tôn kính tại đó bởi Giáo hội Tông Truyền Chính thống Giorgia như là Thánh Tích. Trong cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1258, phần lớn Thánh Tích của Thánh Thomas đều được chuyển từ Edessa về Ortona, Ý, và những Thánh Tích đó vẫn đang được bảo quản tại đó cho tới tận ngày nay, trong một hòm đựng Thánh Tích đặt trong Nhà Nguyện nằm bên dưới Vương Cung Thánh Đường Ortona. Ngôi mộ nguyên thủy của Thánh Thoams tại Ấn-độ hiện đang là một điểm hành hương có sức lôi cuốn rất mạnh. Ngoài Vương Cung Thánh Đường kính Thánh Thomas được xây dựng ngay trên ngôi mộ trước đây của Ngài tại Mylapore, thuộc thành phố Chennai, thì tại khu vực phía Nam Ấn-độ cũng còn vô số những điểm hành hương khác, mà những điểm hành hương này đều có liên quan đến Thánh Thomas cũng như liên quan tới những hoạt động truyền giáo của Ngài tại đó. Sau đây là một số địa điểm nổi tiếng nhất:
1. Thánh Đường kính Thánh Thomas trên núi Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Ngài đã Tử Đạo tại đó;
2. Thánh Đường kính Thánh Thomas nằm trên một ngọn núi nhỏ khác tại Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Thánh Thomas đã đến ẩn náu tại đó trước khi chịu Tử Đạo;
3. Núi và Thánh đường Malayattoor tại Kerala: đây là nơi được cho là Thánh Thomas đã đến sống ẩn dật tại đó trong một thời gian dài để cầu nguyện và suy niệm;
4. Thánh Đường Codungallur: theo tương truyền, nơi đây đã từng là một thành phố cảng nổi tiếng, và vào năm 52, Thánh Thomas đã cập bến tại đây, và là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy do Thánh Thomas thành lập. Một cánh tay của Thánh Nhân đang được tôn kính tại đây. Cánh tay này đã được chuyển đến từ Ortona, nước Ý, như là một món quà của Đức Piô XII nhân dịp mừng kỷ niệm 1900 năm Ngày thánh Thomas đặt chân tới Ấn-độ.
5. Thánh Đường Palayur: đây là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy tại vùng duyên hải Malabar, và nguyên là một đền thờ của người Ấn giáo. Sau khi hầu hết các Giáo sĩ Bà-la-môn gia nhập Giáo hội Công giáo, Thánh Thomas đã biến ngôi đền này thành một ngôi Thánh Đường.
Theo một số truyền thống khác, mà những truyền thống này có lẽ có nguồn gốc từ ngộ đạo thuyết và từ phái Manichê, Thánh Thomas được coi là người anh em song sinh của Chúa Giêsu.
Thánh Thomas còn bị gán là tác giả của một cuốn Tin Mừng và của nhiều tác phẩm khác. Nhưng tất cả các tác phẩm này đều bị liệt vào số các sách Ngụy Thư.
4. Việc tôn kính Thánh Thomas
Tại Châu Âu, ngoài việc được tôn kính với tư cách là Thánh Tông Đồ Tử Đạo, Thánh Thomas còn được tôn kính với tư cách là vị Bổn Mạng của những người làm nghề thợ nề và thợ mộc. Bên cạnh đó, Ngài còn được tôn kính là Bổn mạng của các Thần học gia.
Trước đây Giáo hội mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12, nhưng từ năm 1969, với cuộc cải tổ Phụng Vụ, Giáo hội đã mừng kính Ngài vào ngày mồng 03 tháng 07 với bậc Lễ Kính, tức Lễ Bậc II. Ngày mồng 03 tháng 07 được coi là ngày di chuyển các Thánh Tích của Thánh nhân từ nơi Ngài được phúc Tử Đạo, tức từ Kalamina về Edessa hồi thế kỷ thứ III.
Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Thomas vào ngày mồng 06 tháng 10.
Còn các Giáo hội Tin Lành thì vẫn tiếp tục mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.
Và Giáo hội Anh giáo cũng mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.
Thánh Tôma (còn có tên gọi là Điđimô) là một trong mười hai tông đồ của Chúa Giêsu. Có lẽ thánh Tôma được biết đến nhiều nhất bởi sự kiện được ghi trong Tân Ước là: các tông đồ khác kể lại cho ông là đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện ra với họ sau khi chịu chết, nhưng ông không tin và đòi được tận mắt nhìn sự việc thì mới tin. Ngày khác, khi Giêsu lại hiện ra với các tông đồ, cũng có mặt Tôma, thì ông đã tin và thốt lên câu nói nổi tiếng: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Gioan 20, 24-28). Lời tuyên xưng ấy đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước. Nhờ ngài mà Kitô Hữu có được lời nhận định của Đức Giêsu: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin" (Gioan 20,19).
Phúc Âm, đặc biệt là Phúc Âm thánh Gioan, đã cho ta thấy ngài là người rất nhiệt thành và tận tụy. Một lần Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để cho Lazarô sống lại, nhưng nơi đó người Do Thái đang âm mưu giết Chúa, nên Tôma đã can đảm nói: "Nào chúng ta cùng đi để được chết với Thầy”(Gioan 11,16b). Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Đức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến có Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đi rao giàng khắp nơi, và thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthi, Medes, và Ba Tư; sau cùng ngài đến Ấn Độ, đem đức tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaca, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là "Kitô hữu của thánh Tôma". Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự cố đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết ở nơi gọi là Calamine.
Thánh Tôma chia sẻ số phận của thánh Phêrô, thánh Giacôbê và Gioan (những người "con của sấm sét"), thánh Philipphê và lời thỉnh cầu dại dột của ngài khi muốn được nhìn thấy Chúa Cha - thật vậy mọi tông đồ đều có những khiếm khuyết và thiếu hiểu biết. Tuy nhiên chúng ta không thể chỉ chú ý đến các khuyế điểm này, vì Đức Kitô đã không chọn những người vô dụng. Sự yếu đuối của các ngài vì bản tính loài người cho thấy sự thánh thiện là quà tặng của Thiên Chúa, chứ không phải công sức của con người; món quà ấy được ban cho những con người bình thường đầy khiếm khuyết; chính Thiên Chúa là người từ từ biến đổi những khuyết điểm ấy trở thành hình ảnh của Đức Kitô, can đảm, trung tín và nhân hậu.
Giáo Hội kính nhớ ngài vào ngày 3 tháng 7 hằng năm. Hợp ý với Giáo Hội, chúng ta hãy xin Chúa, nhờ lời bầu cử của thánh nhân, thêm đức tin cho chúng ta, nhất là trong thế giới duy vật ngày nay. Bằng việc quyết tâm noi gương Thánh Tôma tông đồ, chúng ta luôn cố gắng tìm tòi học biết niềm tin vào Chúa Kitô, để giúp những người cứng lòng được tin thật Người là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ trần gian.
Thánh Thomas Tông Đồ được mô tả như một con người sáng suốt, thực tế và quả cảm theo Phúc Âm của Gioan. Ông có biệt danh là Didymô nghĩa là song sanh. Thomas đoán chắc những việc lớn lao sẽ diễn ra ở Jérusalem dịp lễ Vượt Qua "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Người" (Gn 11, 6)
Thật tội nghiệp cho Thánh Tôma! Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi" trong suốt 20 thế kỷ. Nhưng nếu ngài nghi ngờ thì ngài cũng đã tin. Lời ngài tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!" (coi Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế. Cũng nhờ ngài mà Kitô Hữu chúng ta có được lời nhận định của Ðức Giêsu: "Anh tin là vì anh đã thấy Thầy. Phúc cho những người không thấy mà tin" (Gioan 20:29).
Thánh Tôma cũng nổi tiếng vì sự can đảm của ngài. Có thể điều ngài nói là do bốc đồng – vì ngài cũng bỏ chạy như các tông đồ khác khi Ðức Giêsu bị bắt bớ – nhưng chắc chắn ngài đã không giả dối khi nói lên ý muốn cùng chết với Ðức Giêsu. Ðó là khi Ðức Giêsu đề nghị đến Bêtania sau khi Lagiarô từ trần. Vì Bêtania rất gần với Giêrusalem, điều đó có nghĩa phải đi bộ ngang qua phần đất của kẻ thù và rất có thể sẽ bị giết chết. Nhận biết sự kiện này, Thánh Tôma nói với các tông đồ khác, "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Thầy" (Gioan 11:16b).
Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Ðức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến cố Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông Ðồ đi rao giảng khắp nơi, và Thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthia, Medes và Persia (Ba Tư); sau cùng ngài đến Ấn Ðộ, đem Ðức Tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaba, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là "Kitô Hữu của Thánh Tôma" theo lễ điển Malabar còn làm chứng tá cho tương truyền ấy. Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết năm 72 ở nơi gọi là Calamine.
Trong các hình của thánh nhân tay cầm một cây thước thợ nề mà theo tương truyền thánh nhân đã xây cung điện cho vua Guduphara ở Ấn Độ. Lễ kính thánh nhân ngày 03 tháng 7 là ngày chuyển dời thánh tích của thánh nhân về Edessa ở Mesopotamia.
Trong một căn phòng hậu phẫu, có nhiều bệnh nhân với những bệnh lý khác nhau. Các bệnh nhân thường hay kêu la đau đớn và tỏ vẻ khó chịu với thân nhân của mình. Tuy nhiên, những người hiện diện ở đó thật ngỡ ngàng khi nhìn thấy và chứng kiến một bệnh nhân trạc tuổi 60, ông không kêu ca, không trách móc, nhưng có lúc lại nở nụ cười tươi. Hỏi thăm, mới biết ông là người Công Giáo và phải mổ để cắt thận vì sỏi quá nhiều.
Trong lúc trò chuyện, có một người hỏi thăm ông: “Tại sao các bệnh nhân khác thì đau đớn và kêu la, còn ông thì không?” Trong tiếng nói nhỏ nhẹ, ông nói: “Mỗi lần cơn đau đến với tôi, tôi nhớ đến Chúa chịu đóng đinh. Ngài còn đau đớn hơn tôi nhiều, vì thế, tôi luôn cầu xin Chúa giúp sức để vượt qua cơn đau và tôi cũng xin Chúa cho mình được thông phần đau khổ với Ngài”. Thật tuyệt vời, Đức Giêsu là điểm tựa của ông, và cuộc thương khó, cái chết của Ngài đã làm cho ông can đảm, vui vẻ đón nhận đau đớn vì lòng yêu mến Chúa.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc đối thoại giữa thánh Tôma và các Tông đồ khác, hẳn ai cũng biết ngài là người cứng lòng tin, bởi vì thánh nhân đã từng nói: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”. Như vậy, với ngài, không thấy là không tin. Thấy thì mới tin. Niềm tin của Tôma chính là: tay phải sờ, mắt phải thấy thì mới có sự thuyết phục. Niềm tin của thánh nhân là niềm tin của lý trí.
Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn Tôma, các Tông đồ khác và cả chúng ta ngày hôm nay phải đạt tới mức độ vượt lên trên những gì là khả giác của đời thường, để tiến tới một đức tin trưởng thành, tức là không thấy mà vẫn tin: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Mong thay lời tuyên tín của thánh Tôma khi xưa: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” cũng là lời cầu nguyện và xác tín của mỗi chúng ta, và, lời chúc phúc của Đức Giêsu cho Tôma: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” cũng là lời chúc phúc cho chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, đức tin của chúng con còn non yếu, xin Chúa giúp cho đức tin của chúng con được lớn mạnh và trưởng thành. Xin cho chúng con tin tưởng vào Lời Chúa và những lời dạy của Giáo Hội. Xin cho chúng con biết luôn tìm đến Chúa như là điểm tựa của cuộc đời chúng con. Amen.
Thánh Thomas Tông Đồ được mô tả như một con người sáng suốt, thực tế và quả cảm theo Phúc Âm của Gioan. Ông có biệt danh là Didymô nghĩa là song sanh. Thomas đoán chắc những việc lớn lao sẽ diễn ra ở Jérusalem dịp lễ Vượt Qua "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Người" (Gn 11, 6)
Thật tội nghiệp cho Thánh Tôma! Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi" trong suốt 20 thế kỷ. Nhưng nếu ngài nghi ngờ thì ngài cũng đã tin. Lời ngài tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!" (coi Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế. Cũng nhờ ngài mà Kitô Hữu chúng ta có được lời nhận định của Ðức Giêsu: "Anh tin là vì anh đã thấy Thầy. Phúc cho những người không thấy mà tin" (Gioan 20:29).
Thánh Tôma cũng nổi tiếng vì sự can đảm của ngài. Có thể điều ngài nói là do bốc đồng – vì ngài cũng bỏ chạy như các tông đồ khác khi Ðức Giêsu bị bắt bớ – nhưng chắc chắn ngài đã không giả dối khi nói lên ý muốn cùng chết với Ðức Giêsu. Ðó là khi Ðức Giêsu đề nghị đến Bêtania sau khi Lagiarô từ trần. Vì Bêtania rất gần với Giêrusalem, điều đó có nghĩa phải đi bộ ngang qua phần đất của kẻ thù và rất có thể sẽ bị giết chết. Nhận biết sự kiện này, Thánh Tôma nói với các tông đồ khác, "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Thầy" (Gioan 11:16b).
Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Ðức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng. Truyền thống nói rằng, sau biến cố Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông Ðồ đi rao giảng khắp nơi, và Thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthia, Medes và Persia (Ba Tư); sau cùng ngài đến Ấn Ðộ, đem Ðức Tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaba, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là "Kitô Hữu của Thánh Tôma" theo lễ điển Malabar còn làm chứng tá cho tương truyền ấy. Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết năm 72 ở nơi gọi là Calamine.
Trong các hình của thánh nhân tay cầm một cây thước thợ nề mà theo tương truyền thánh nhân đã xây cung điện cho vua Guduphara ở Ấn Độ. Lễ kính thánh nhân ngày 03 tháng 7 là ngày chuyển dời thánh tích của thánh nhân về Edessa ở Mesopotamia.
Lời Bàn
Thánh Tôma chia sẻ số phận của Thánh Phêrô, Thánh Giacôbê và Gioan, những người "con của sấm sét," Thánh Philípphê và lời thỉnh cầu dại dột của ngài khi muốn được nhìn thấy Chúa Cha – thật vậy mọi tông đồ đều có những khiếm khuyết và thiếu hiểu biết. Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ chú ý đến các khuyết điểm này, vì Ðức Kitô đã không chọn những người vô dụng. Sự yếu đuối của các ngài vì bản tính loài người cho thấy thánh thiện là quà tặng của Thiên Chúa, chứ không phải công sức của con người; món quà ấy được ban cho những con người bình thường đầy khiếm khuyết; chính Thiên Chúa là người từ từ biến đổi những khuyết điểm ấy trở thành hình ảnh của Ðức Kitô, can đảm, trung tín và nhân hậu.
Thường khi nói tới ông Tôma, mọi người nghĩ ngay tới người môn đệ cứng lòng tin. Sở dĩ, người ta nghĩ như vậy, là vì vị Tông Đồ này đã nhất quyết không chịu tin Thầy mình là Đức Giêsu sống lại và hiện ra với nhóm Mười Hai, cho dù tất cả Tông Đồ đoàn đều khẳng định như thế. Lý do mà vị Tông Đồ này đưa ra là: “Vì tôi chưa thấy nên tôi chưa tin”.
Chúng ta có thể thông cảm cho Tôma, vì vào thời bấy giờ, những khái niệm như: Kẻ chết sống lại, Phục Sinh… là một điều quá xa lạ đối với người đương thời. Chúng ta đừng đòi hỏi Tôma phải có một đức tin chắc chắn về việc thân xác sống lại như chúng ta ngày hôm nay. Chính các Tông Đồ cũng chỉ có thể hiểu được màu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu sau khi Ngài sống lại và Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Điểm tiếp theo, nếu chúng ta chỉ gán Tôma với danh hiệu “Vị Tông Đồ cứng tin” thì e rằng hơi oan uổng cho ngài. Chúng ta biết rằng, chính vì việc không tin của Tôma mà Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết một điều quan trọng, một mối phúc mới, đó là: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Hơn thế nữa, chúng ta nhận thấy ở đây có sự tiến triển vượt bậc về cách nhận biết Đức Giêsu của ông Tôma. Từ chỗ không tin Đức Giêsu đã sống lại thật, ông đã đi đến chỗ tin nhận Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa” - một cách hiểu hoàn toàn mới mẻ đối với ngay cả các Tông Đồ. Đến như Phêrô cũng chỉ tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, trong khi Tôma lại tuyên xưng Đức Giêsu là “Chúa” và là “Thiên Chúa”.
Niềm tin cần phải được kiểm chứng, đó cũng là thái độ của con người ngày hôm nay. Có lẽ do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, nên người ta đòi mọi sự đều phải được kiểm chứng, phải được cân đong đo đếm. Thế nhưng, họ không biết được rằng, trong cuộc sống, không phải bất cứ thứ gì cũng có thể chứng minh một cách rạch ròi, đó là chưa kể đến những lãnh vực nhạy cảm như: tình cảm, tình yêu, sự hy sinh, lòng vị tha, sự quảng đại…
Niềm tin vào Chúa phục Sinh đã giúp ông biến đổi cuộc đời. Từ việc ông đòi hỏi phải được nhìn thấy bằng mắt, phải sờ được bằng đôi tay, thì giờ đây, bằng đôi mắt của đức tin và sự cảm nghiệm thiêng liêng, ông đã trở nên một Tông Đồ nhiệt thành cho Chúa. Tương truyền rằng, ngài đã đi sang tận miền Ấn Độ xa xôi để truyền giảng Tin Mừng ơn cứu độ và chịu tử đạo ở đó.
Khi chiêm ngắm đời sống và gương sáng của thánh nhân, chúng ta có dịp nhìn lại đức tin của chúng ta. Kể từ khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được gọi là người Kitô hữu (người có Chúa Kitô), hay người tín hữu (người tin vào Chúa Kitô), đáng lý ra, chúng ta là những người được hưởng lời chúc phúc của Chúa Giêsu như lời Ngài nói trong Bài Tin Mừng hôm nay: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Thế nhưng thử hỏi, chúng ta đã và đang thực hành niềm tin đó ra sao?
Chúng ta hạnh phúc hơn Tôma, bởi vì mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta không chỉ được đụng, được chạm, mà còn được đón Chúa ngự vào trong tâm hồn chúng ta, nhưng, mấy người cảm nghiệm được sự hiện diện đích thực của Chúa?
Mỗi khi nhắc đến Thánh Tôma Tông đồ, chúng ta hay có tư tưởng, đây là vị Tông đồ cứng lòng, “có thấy mới tin”. Nhưng thực ra, khi nhìn toàn bộ những trang Kinh Thánh nói về ngài, thì chúng ta sẽ thấy ngài thuộc mẫu người “không chấp nhận lối mòn” trong cách sống, trong suy nghĩ, để tìm ra được cách tốt nhất đi theo Thầy Giêsu.
1/ Không chấp nhận lối mòn suy nghĩ.
Trong Tin mừng Gioan 10, 22-39, kể sự kiện tại Giêrusalem, nhân lễ Cung Hiến Đền Thờ, Chúa Giêsu xưng mình là Con Thiên Chúa trước mặt những người Do Thái, vì thế họ đã lượm đá để ném Chúa Giêsu, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ. Sau đó Chúa Giêsu nghe tin Lazarô qua đời, và Người quyết định trở lại Giêrusalem, để hồi sinh cho anh, thì bị các môn đệ ngăn cản: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìn cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao? Thế nhưng Người vẫn cương quyết đi, chính lúc này thánh Tôma đã tỏ thái độ ủng hộ Chúa Giêsu: “cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”. Điều này cho thấy, thánh nhân là một mẫu người, không chấp nhận lối mòn suy nghĩ, không chấp nhận một kiểu định kiến, không chấp nhận điều gì mà không thử sức mình, đây là kiểu đặc trưng của dân tộc Do Thái, cho đến hôm nay họ vẫn vậy. Còn chúng ta thì sao? phải chăng chúng ta dễ bị bước tường định kiến ngăn chặn bước tiến của chúng ta, trên con đường đức tin, con đường sống đạo, và ngay cả trên con đường học tập và sự nghiệp.
2/ Không chấp nhận làm điều mình không hiểu.
Sự kiện diễn ra ở chương 14 Tin mừng Gioan, khi Chúa Giêsu loan báo cuộc ra đi của Người là để dọn chỗ cho các ông, để các ông cùng ở với Người, và Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đi đâu, anh em biết đường rồi”. Nơi ở, đường đi, điều này làm cho các ông rối trí, thế nhưng không một ai dám hỏi lại Người. Nhưng Tôma thì khác, ông không chấp nhận làm điều mình không hiểu, không làm điều mình không biết, vì thế Tôma đã mạnh dạn hỏi Chúa Giêsu thay cho anh em: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Nhờ câu hỏi này mà các môn đệ và cả chúng ta hôm nay nữa đã được Chúa Giêsu đưa ra câu định nghĩa thời danh: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Vâng chúng ta hãy cám ơn Tông đồ Tôma, vì nhờ ông mà hôm nay chúng ta hiểu ra con đường Giêsu, và dám sống cho sự thật, có biết bao người kitô hữu chân chính, thà ngheo, thà khổ, vì can đảm đi trên con đường Giêsu.
3/ Không chấp nhận niềm tin áp đặt, nhưng phải tự mình khám phá
Trong ngày mừng kính Thánh Tôma hôm nay, với sự trân trọng và yêu mến, hẳn là những gương sáng, những nhân đức hay con đường linh đạo của ngài, sẽ được phơi bầy ra cho cộng đoàn học hỏi chứ không phải là những khuyết điểm của vị thánh. Trong lập luận đó, chúng ta nhìn vào bài Tin mừng hôm nay. Lần hiện ra lần thứ nhất không có Tôma, điều này cho phép chúng ta hiểu, ngài đã đi vào nơi thanh vắng để khám phá lại những gì đã xẩy ra cho Thầy của mình. Nếu như hai môn đệ trên đường Emmau phải được Chúa Giêsu Phục Sinh cắt nghĩa kinh thánh, mới hiểu được mọi điều đã được loan báo về Đức Giêsu, thì có thể chính Tôma, đã tự mình khám phá ra điều đó. Vì thế khi thánh Tôma nói: “Nếu tôi không thấy dấu đanh nơi bàn tay Ngài, và không xỏ ngón tay vào các lỗ đinh, và không đặt bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không tin” (Ga 20,25), hẳn là thánh Tôma đã khám phá ra một điều quan trọng. Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 nói rằng: “ Tôma cho rằng, các dấu hiệu hùng hồn nhất về căn cước của Chúa Giêsu từ nay chính là các vết thương, đó là dấu tích tỏ lộ Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào” (Bài huấn từ thứ tư 27. 9. 2006) Về điều này thánh nhân không sai lầm, Cứu Chuộc không thập giá thì không phải cứu chuộc, môn đệ chối từ thập giá không phải là môn đệ. Vì thế 8 ngày sau, khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra, thánh nhân đã tuyên xưng một cách hùng hồn nhất trong toàn thể Tân Ước: “Lạy Chúa của con, lạy thiên Chúa của con”.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Tôma Tông đồ, là cơ hội để chúng ta “Tân Phúc Âm Hóa” nơi mỗi người chúng ta, nhớ đó làm mới lại niềm tin, mới lại tình yêu và mới lại cách sống đạo, hãy nhìn vào mẫu người Tôma, để chúng ta “Tân Phúc Âm Hóa” nơi chính mình.
"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".
Lời Chúa: Mt 8, 23-27
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?"
Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Nếu mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên,
nhiều vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.
Bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con người.
Ngày nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,
nhưng do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời cao.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,
không phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.
Ngài đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng gió.
Thầy Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).
Ngài xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).
Đi theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.
Cơn bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ,
khiến con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.
Giữa cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các môn đệ,
Thầy Giêsu vẫn ngủ yên.
Dường như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.
“Thưa Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).
Lời đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.
Nhưng Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.
Giữa tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,
Thầy Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,
hậu quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).
Thầy đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,
vì tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.
Lắm khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão,
dù có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.
Chúng ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,
khi chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.
Nhưng Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế (c. 26).
Tại sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết?
Nếu có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.
“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.
Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.
Đừng ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.
Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.
Không hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.
Không hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm nghèo.
Điều quan trọng là lòng ta được bình an,
vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Ði trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Đời sống được ví như con thuyền vượt biển. Luôn tràn đầy sóng gió. Có rất nhiều khó khăn thử thách. Nhưng Thiên Chúa là Chúa Tể muôn loài. Vận mệnh chúng ta ở trong tay Thiên Chúa. Mọi thế lực trần gian phải tùng phục Thiên Chúa. Vì thế nếu ta ở trong Chúa. Ở với Chúa. Ở bên Chúa. Ta sẽ bình an vô sự. Nếu có hiểm nguy Chúa cũng sẽ giúp ta vượt qua. Hôm nay các tông đồ vượt biển. “Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền”. Các tông đồ sợ hãi. Nhưng Chúa Giê-su nói: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin! Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển lặng như tờ”. Thiên nhiên tùng phục Chúa. Sóng và biển phải vâng lệnh Chúa. Chúa cứu thoát chúng con. Vì Chúa là Chúa Tể muôn loài.
Nhưng khi con người phạm tội, Chúa phải trừng phạt. Đó là trường hợp Xơ-đôm và Gô-mô-ra. “Đức Chúa làm mưa diêm sinh và lửa từ Đức Chúa, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Người phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ trên đất”. Vì khi phạm tội họ ra khỏi Chúa. Chống lại Chúa. Không có Chúa họ phải chết. Áp-ra-ham luôn ở trong Chúa. Ở bên Chúa. Ở với Chúa. Nên Chúa nghe lời ông cầu nguyện. Cứu ông Lót là cháu ông Áp-ra-ham> “Như vậy, khi Thiên Chúa phá huỷ các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỉ cuộc tàn phá”. Ai ở trong Chúa sẽ được cứu. Ai ở ngoài Chúa sẽ điêu tàn. Vì Chúa là Chúa Cả Trời Đất (năm lẻ).
Đó là điều A-mốt nhắc nhở cho dân Ít-ra-en. Thiên Chúa là Chúa Tể. “Giả như tai hoạ xảy ra trong thành, lẽ nào lại không do Đức Chúa? Vì Đức Chúa là Chúa Thượng không làm điều gì mà không bày tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ, tôi tớ của Người được biết”. Ít-ra-en đã được cứu thoát. Cần phải nhớ thân phận mong manh bọt bèo của mình. “Các ngươi khác nào thanh củi được rút khỏi đống lửa cháy; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta”. Đã được cứu thoát khỏi Ai-cập. Nhưng họ không ý thức. Cãi lại lệnh Chúa. Nên họ sẽ bị trừng phạt. “Ta đã làm cho các ngươi phải sụp đổ như chính Thiên Chúa đã làm sụp đổ thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra; các ngươi khác nào thanh củi được rút khỉ đống lửa cháy; thế mà các ngươi vẫn không chịu trở về với Ta”(năm chẵn).
Xin cho con luôn ở với Chúa. Ở trong Chúa. Ở bên Chúa. Để con không còn sợ hãi. Vượt qua mọi sóng gió của cuộc đời. Lạy Chúa là Thiên Chúa, Vua cai trị lòng con.
Ông John Newton sống nghề buôn bán các nô lệ. Trong lần vượt đại dương, thuyền của ông gặp bão lớn gần chìm; lúc đó, vì quá lo sợ, ông đã thốt lên: "Lạy Chúa, xin cứu con; qua được cơn nguy hiểm này, con sẽ từ bỏ nghề buôn bán vô nhân đạo này và sẽ làm nô lệ Chúa". Và rồi, khi thuyền ông cập bến Mỹ Châu sau đó, ông đã từ bỏ mọi sự, trở thành nhà rao giảng Tin Mừng nổi tiếng.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. "Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất". Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Tôi đã có thái độ nào khi gặp những cơn bão tố trong cuộc đời? Những cơn bão tố đó làm cho tôi gặp Chúa hay xa rời Ngài?
Ước gì chúng ta cũng có thái độ như các Tông Ðồ xưa: "Lạy Thầy, xin cứu chúng con". Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức rằng chúng ta cần đến Chúa hơn cơm bánh hằng ngày, hơn không khí để thở. Chúa là sức mạnh, là khiên thuẫn chở che, xin Ngài gìn giữ chúng ta luôn vững mạnh trong đức tin giữa những cơn thử thách.
Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động rất mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất.” (Mt. 8, 23-25)
Hai con thuyền
Con thuyền của các môn đệ bị sóng ập vào làm ta tự nhiên nghĩ đến Hội thánh mà người ta thường ví như một con thuyền. Ta có thể đẩy so sánh đi xa hơn một chút và nghĩ rằng Hội thánh của thời đại ta đang bị chìm gióng như con thuyền của các tông đồ xưa.
Có một số người thực sự nghĩ như vậy và họ có lý. Họ nói: Hội thánh từ mấy thập niên nay đã mất đi nhiều tín đồ. Thậm chí cả những vị chủ chăn cũng đã ít nhiều quay lưng lại với Hội thánh. Hội thánh vẫn tiếp tục lên tiếng nơi diễn đàn công cộng, nhưng người ta ít nghe Hội thánh rồi. Các khuynh hướng bộc lộ trong các cộng đoàn Kitô hữu dẫn đến những cuộc tranh chấp gay go: phe bảo thủ chống lại phe cấp tiến, phe tiên phong kình với phái ôn hòa. Người ta dám nói có thể có phe ly khai.
Như vậy ta phải nghĩ gì về Hội thánh hôm nay? Có thể mường tượng một tương lai thế nào cho Hội thánh?
Tin mà không ngây ngô
Phản ứng của người có lòng tin sẽ phải dựa vào lời Chúa Giêsu để được soi sáng: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin?” Đó mới thực sự là phản ứng của những người có niềm tin lạc quan. Họ dám chắc rằng Hội thánh sẽ qua khỏi cơn khủng hoảng, sẽ tìm lại được luồng khí mới, và một sức năng động mới. Họ đã nhìn thấy những dấu chỉ của hồi sinh là sự trở về với cầu nguyện, lòng xác tín sâu xa của những người mới tin, v.v.
Chúng ta có lý do để lạc quan. Chúa Giêsu sẽ không bao giờ ngủ, dù rằng bề ngoài người ta tưởng như Người ngủ. Người vẫn ở bên Hội thánh của Người. Chắc chắn Người sẽ làm cho Hội thánh sống lại như chính Người đã sống lại vậy. Nhưng lòng tin của ta không được tự mãn và ngây ngô. Đức Kitô nhờ ta mà hành động. Người cậy dựa vào ta để làm cho Hội thánh trở nên đúng như hình ảnh thực của mình. Ta đừng quá hy vọng vào phép lạ, khi khoanh tay ngồi chờ đợi tất cả từ trên cao.
Trước cảnh bão táp dữ dội, sóng cuồn cuộn dâng, hẳn ai là người không sợ? Nhất là lúc đó, chúng ta lại là người đang ở tâm điểm của thiên tai!
Hôm nay, các môn đệ cũng trải qua cơn cuồng phong, biến động mạnh của biển, khiến sóng lớn và nước ập vào thuyền, vì thế các ông lo sợ, hoảng loạn, nên đã tìm hết cách để chống trả với thiên tai và hy vọng con thuyền gặp được an toàn.
Hình ảnh con thuyền chuyên chở Đức Giêsu và các môn đệ hôm nay chính là hình ảnh của Giáo Hội và mỗi chúng ta trên hành trình dương thế. Có những lúc Giáo Hội gặp phải những khó khăn, thử thách, hay cuộc đời của chúng ta lắm khi gặp phải sự bất an, thất bại, chán trường ...
Thật vậy, những trận cuồng phong thiên hình vạn trạng từ bên ngoài với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên, những tai nạn, bệnh tật ập đến, tiền tài tiêu tan theo mây khói, bị ức hiếp tột cùng, bị quá thiệt thòi vì những đổi trắng thay đen của lòng người; hay từ bên trong bản thân do những xung đột giữa thiện và ác, giữa bao dung và kết án, giữa tha thứ và hận thù, tất cả đã làm cho không biết bao người phải lung lay đức tin và hoang mang...
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Ngài, vì: bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống, Chúa vẫn còn đó trên chiếc thuyền của Giáo Hội và trong cuộc đời của chúng ta. Vì thế, không gì và không có cách nào, dù quyền lực của thế gian, của sự ác, bất công và ma quỷ cũng không phá đổ nổi Giáo Hội của Chúa. Đi theo và trở thành môn đệ thì phải hiểu được quy luật căn bản, tất yếu của hành trình đức tin là: qua đau khổ rồi mới đến vinh quang; qua cái chết rồi mới được phục sinh.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết cậy trông nơi Chúa. Xin cho chúng con biết can đảm trung thành với ơn gọi và sứ mạng của mình, dù gặp phải bão táp phong ba. Những lúc như thế, xin Chúa soi sáng cho chúng con biết thưa với Chúa như các môn đệ khi xưa: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con!". Amen.
Sứ điệp: Giáo Hội luôn phải lữ hành giữa sóng gió biển đời, nhưng nhờ sự hiện diện quyền năng của Chúa Giêsu Phục Sinh, Giáo Hội sẽ vượt qua mọi gian nan thử thách và bước đi trong bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con nhìn thấy Giáo Hội nơi con thuyền của các tông đồ. Giáo Hội của Chúa lữ hành trên trần gian luôn phải đương đầu với sóng gió biển động. Qua chặng đường hai ngàn năm lịch sử, đã có rất nhiều lúc Giáo Hội gặp phải muôn ngàn thử thách gian nan. Các tông đồ xuống thuyền theo Chúa, nhưng đâu phải vì vậy mà không gặp sóng gió. Chúng con đi theo Chúa đâu có được miễn khỏi gian nan.
Thế mà dường như Chúa chẳng quan tâm gì tới chúng con. Chúa vẫn ngủ mà chẳng ra tay cứu giúp. Chúa để chúng con chèo chống một mình, cuống cuồng hoảng sợ.
Lạy Chúa, chúng con bắt chước các tông đồ đánh thức Chúa và kêu cầu xin Chúa cứu chúng con. Thực ra, chúng con tin rằng Chúa vẫn ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Chúa đã sống lại và làm chủ tất cả mọi quyền lực. Chúa đã hứa gìn giữ Giáo Hội Chúa, dù quyền lực tử thần cũng không thắng nổi Giáo Hội. Chúng con tin thế, nhưng lòng tin chúng con còn quá yếu kém, nên chúng con hốt hoảng mỗi khi gặp sóng gió.
Xin Chúa thêm đức tin để chúng con nhận ra Chúa vẫn hiện diện với chúng con. Đôi lúc chúng con mất kiên nhẫn vì không thấy Chúa hành động, vì không tìm ra lối thoát. Xin Chúa giúp chúng con nhận ra rằng dù Chúa ngủ, nhưng Chúa vẫn là Chúa quyền năng. Xin Chúa dạy chúng con biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa, không phải với thái độ hốt hoảng, nhưng với thái độ bình thản đầy tin tưởng.
Lạy Chúa, có Chúa đồng hành, chúng con an tâm chu toàn sứ mạng Chúa trao. Amen.
Ghi nhớ: “Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ”.
Có câu chuyện về một viên đại úy hải quân, khi về hưu ông làm thuyền trưởng trên một chiếc tàu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày.
Trong một chuyến đi chơi, tàu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy già khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.
Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tàu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp: “Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tàu của tôi”.
Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Theo Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr. 458).
Suy niệm
Chúa Giêsu cùng các môn đệ xuống thuyền, thuyền vẫn lướt sóng hướng về bến bỗng cuồng phong nổi lên. Phong ba bão táp với những cơn sóng nhấp nhô như muốn nhấn chìm con thuyền, mọi người đều cố gắng chống chọi với cơn phong ba mà lòng đầy sợ hãi. Nhưng “Người vẫn ngủ”, hình ảnh phác họa như là Thiên Chúa bỏ mặc con người trước phong ba bão tố cuộc đời, “Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa giữa những tuyệt vọng, đau khổ của con người, hình ảnh bất lực của Thiên Chúa trước sự dữ. Chúa ngủ biểu tượng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá: Chúa Giêsu như đã thất bại, quyền lực sự dữ tưởng như đang ngự trị…
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, đó là hình ảnh về Ngài sẽ trỗi dậy Phục sinh và sự Phục sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo hội. Người trỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ!. Ngài trỗi dậy từ giấc ngủ, và Ngài chế ngự mọi sóng gió phong ba.
Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn ngay cả khi bình an hay chúng ta vất vả lao đao giữa dông tố ngoài biển khơi. Trong bão tố phong ba chúng ta cũng hành động như các tông đồ xa xưa, chúng ta đánh thức Ngài trỗi dậy để xin Ngài cứu giúp: “Lạy Thầy, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất” (Lc 8,25).
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin giữa những cơn phong ba thử thách của cuộc đời.
Vâng, xin cho chúng con luôn vững tin…
Ý lực sống:
“Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ”. (Tv 107,29-30)
Chúa Giêsu dẹp yên biển động làm cho các môn đệ từ chỗ kém lòng tin đến chỗ khâm phục quyền năng Thiên Chúa nơi Người. Hình ảnh con thuyền làm cho chúng ta liên tưởng đến Giáo hội cũng có lúc gặp phong ba bão tố, nhưng Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành và bảo vệ Giáo hội bằng sức mạnh và quyền năng của Người. Mỗi tín hữu cũng phải ý thức sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống, để chúng ta an tâm và biết kêu cầu Chúa mỗi lúc gặp gian nan, khốn khó.
Rõ ràng là qua phép lạ dẹp yên bão tố trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn mạc khải thêm cho các môn đệ biết về Ngài, đồng thời Ngài cũng muốn huấn luyện họ để họ thêm vững vàng về đức tin.
Người Do thái cho rằng, biển cả là sào huyệt của quỉ dữ, biển động là dấu quỉ dữ lộng hành. Họ cũng nghĩ rằng, chỉ một mình Thiên Chúa và những kẻ được Thiên Chúa ban đặc quyền mới có thể chế ngự được sức mạnh của biển cả. Như vậy, việc Chúa dẹp bão tố hôm nay chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa.
Tin mừng nói đang lúc bão thì Chúa Giêsu ngủ: Chúa Giêsu ngủ không phải vì Ngài quá mệt. Thực ra Ngài chỉ “làm bộ” ngủ thôi, để xem các môn đệ của Ngài có an tâm giữa giông tố bão táp khi có Ngài hiện diện giữa họ không. Thế nhưng, các ông đã sợ hãi cuống cuồng chứng tỏ các ông chưa vững tin. Bởi đó, sau phép lạ Chúa đã trách: ”Hỡi những kẻ yếu lòng tin” (Mt 8,26).
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn giông tố xảy ra trong cuộc sống con người, để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Điều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra.
Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xảy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xảy ra đã làm cho các Tông đồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa: “Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”. Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông đồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chòng chành giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tàu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời.
Trong một chuyến đi xa, ông thuyền trưởng cho con đi theo trên một con tàu lớn chở nhiều hành khách. Bỗng một hôm, một cơn bão lớn nổi lên khi con tàu đang lênh đênh giữa biển, hành khách thì cuống cuồng lo sợ, thuỷ thủ thì vất vả tìm mọi cách chống đỡ, chỉ một mình em bé bình tĩnh đứng nhìn cảnh vật như chẳng có chuyện gì xảy ra. Lấy làm lạ, một người đến hỏi em: “Em không sợ tàu chìm sao?” Em đáp: “Chìm sao được, ba tôi lái tàu mà”. Em bé bình tĩnh không sợ vì tin tưởng ở tài lái tàu của ba em.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện. Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố cũng giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố. Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết cậy trông vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.
Truyện: Ta đã vác con trên vai
Ngày nọ, một thầy dòng mơ thấy mình đang đi dọc theo bờ biển với Chúa. Ông nhìn xuống bãi cát, thấy có bốn dấu chân: hai của ông và hai của Chúa.
Nhưng ông cũng nhận thấy có những đoạn đường chỉ có hai dấu chân. Và ông nhớ lại: đó là những ngày ông buồn khổ nhất và cực nhọc nhất. Ông bèn than thở với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã nói với con là nếu con theo Chúa, thì Chúa sẽ ở với con luôn luôn. Nhưng giờ đây con thấy rằng, những lúc con chao đảo nhất, thì lại chẳng thấy dấu chân Chúa đâu. Con không hiểu tại sao Chúa lại bỏ con giữa lúc con cần Chúa nhất như thế?”
Chúa đáp: “Con ạ. Ta chẳng bao giờ bỏ con. Con chỉ thấy hai dấu chân trên cát, vì trong những lúc khốn khó đó, Ta đã vác con trên vai và mang con đi”.
Qua phép lạ dẹp yên bão táp, Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các môn đệ biết thêm về Ngài, đồng thời huấn luyện đúc tin các ông:
- Người do thái cho rằng biển cả là sào quyệt của quỷ dữ, biển động là dấu quỷ dữ lộng hành. Họ cũng nghĩ rằng chỉ một mình Thiên Chúa và những kẻ được Thiên Chúa ban quyền đặc biệt mới có thể chế ngự được sức mạnh của biển cả. Vậy việc Chúa Giêsu dẹp yên bão biển chứng tỏ Ngài có sức mạnh của Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu ngủ đang lúc bão: không phải vì Ngài quá mệt. Thực ra Ngài "làm bộ" ngủ thôi, để thử xem các môn đệ có an tâm giữa giông bão khi có Ngài hiện diện giữa họ không. Các ông đã sợ hãi cuống cuồng chứng tỏ các ông chưa vững tin. Bởi đó sau phép lạ, Ngài đã trách "Hỡi những kẻ yếu lòng tin".
B.... nẩy mầm.
1. "Chúa Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Ngài, và đây biển động dữ dội": con đường Chúa dẫn các môn đệ đi theo không phải là một con đường bằng phẳng êm ả, nhưng nhiều khi đi trong tăm tối, nhiều lúc đi vào bão táp phong ba. Nếu người môn đệ thực sự tin vào Ngài thì luôn phó thác trong an bình. Ngược lại, khi gặp tối tăm hay bão táp mà cuống cuồng sợ hãi thì đó là dấu người ấy còn kém lòng tin.
2. "Thế mà Ngài vẫn ngủ": Chúa Giêsu vẫn xử sự như thế, xưa cũng như nay. Chính vì thế mà nhiều người đã phải lo sợ cuống cuồng: Sao Chúa vẫn ngủ? Sao Chúa không ra tay? Chúa vắng mặt rồi ư? Hay Chúa đã chết? Hay Chúa đã bỏ con? Nhân đức phó thác là như thế: vẫn an tâm giữa phong ba bão táp cho dù không thấy Chúa hành động gì cả. Ước gì tôi có tinh thần phó thác đến mức độ ấy.
3. Một người hành hương gặp bệnh dịch đang vào Baghdad. Anh hỏi bệnh dịch: "Mi định làm gì ở đó?"
- Tôi sẽ giết 5.000 người.
Người hành hương rùng mình và thay đổi dự định. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó và được biết không phải 5.000 nhưng là 50.000 người chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Ông buộc tội: "Anh nói láo. Anh nói sẽ chỉ giết 5000 người thôi mà".
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ: "Tôi chỉ giết có 5.000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ". (Góp nhặt)
4. Mỗi khi nghĩ tới nhân đức phó thác là tôi nhớ đến 2 bức tranh: hình bức thứ nhất vẽ một đứa bé nằm ngủ ngon lành trong vòng tay ôm của me, ngoài kia trời đang mưa lớn, những tia chớp xé trời, những tiếng gầm làm rung rinh các cánh cửa; bức thứ hai vẽ mặt biển đang nổi cơn, chiếc tàu đã tan thành những mảnh vụn, một người ướt ngoi ngóp đang ôm chặt một tảng đá nhô lên khỏi mặt biển, phía trên tảng đá có tượng Thánh giá. Bức hình được hoạ sĩ đề tên là Espérance!
1. Rõ ràng là qua các phép lạ dẹp yên bão tố trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn mặc khải thêm cho các môn đệ biết về Ngài, đồng thời Ngài cũng muốn huấn luyện họ để họ được thêm vững vàng về đức tin.
Người Do Thái cho rằng, biển cả là sào huyệt của quỷ dữ, biển động là dấu quỷ dữ lộng hành. Họ cũng nghĩ rằng, chỉ một mình Thiên Chúa và những kẻ được Thiên Chúa ban đặc quyền mới có thể chế ngự được sức mạnh của biển cả. Như vậy, việc Chúa dẹp yên bão tố hôm nay chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa.
Tin Mừng nói đang lúc bão thì Chúa Giêsu ngủ: Chúa Giêsu ngủ không phải vì Ngài quá mệt. Thực ra Ngài chỉ “làm bộ” ngủ thôi, để xem các môn đệ của Ngài có an tâm giữa giông tố bão táp khi có Ngài hiện diện giữa họ không. Thế nhưng, các ông đã sợ hãi cuống cuồng chứng tỏ các ông chưa vững tin. Bởi đó, sau phép lạ Chúa đã trách “Hỡi những kẻ yếu lòng tin” (Mt 8,26).
2. Bão tố trên biển là cảnh thường xảy ra. Bác sĩ W.M. Christie từng ở nhiều năm tại xứ Galilê đã kể lại kinh nghiệm của ông trong những cơn bão như thế này: Gió dường như thổi từ khắp các hướng cùng một lúc. Từ những khe núi nhỏ hẹp trong vùng đồi núi, gió ào ào thổi xéo góc xuống mặt hồ. Ông nói: “Có lần, một đoàn du khách đang đứng trên bờ hồ Tibêriát. Họ đang say mê nhìn ngắm mặt nước hồ phẳng lặng như gương, thì thình lình gió ập đến. Chỉ trong 20 phút thôi là mặt hồ đã trắng xóa những lượn sóng bạc đầu. Những lượn sóng lớn đến nỗi bắn lên cả các tháp canh ở góc tường vây quanh thành, làm cho đoàn du khách bó buộc phải tìm chỗ núp để tránh những lớp bụi nước làm tối mắt họ, dầu họ ở cách xa bờ hồ đến 200m”. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tiếng mà bầu trời nắng đẹp đã biến thành cảnh cuồng phong gầm thét dữ dội.
Chúa Giêsu và các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay cũng ở vào hoàn cảnh như thế. Giữa giờ phút kinh hoàng đó mà Chúa Giêsu vẫn ngủ. Sợ quá các môn đệ đã đánh thức Ngài dậy, và sau đó bão trở nên hoàn toàn yên lặng.
2. Qua biến cố này chúng ta học được bài học gì ?
a/ Chúa luôn ở với Giáo Hội.
Giáo Hội được ví như một con thuyền giữa biển khơi. Trên con thuyền đó có Chúa. Thức hay ngủ điều đó không quan trọng. Quan trọng là có sự hiện diện của Ngài. Con thuyền không thể nào bị chìm khi có Ngài trên đó. Đức Thánh Cha Bênêđictô XI nói rằng, trong cuộc đời Giáo Hoàng của Ngài, có rất nhiều lần những thử thách và khó khăn bủa xuống trên đầu ngài như những cơn phong ba bão táp, những lúc như thế ngài thường nhìn ngắm bức tranh vẽ cảnh Chúa dẹp yên bão tố và ngài cảm thấy tâm hồn được bình an.
b/ Chúa luôn ở với mỗi người chúng ta.
Biển cũng tượng trưng cho cuộc đời của mỗi người: hành trình cuộc đời có lúc cũng lắm chông gai, như biển khơi có lúc nổi cơn sóng gió. Điều chúng ta cần phải luôn xác tín là Chúa luôn yêu thương chúng ta. Chúa thức hay ngủ việc đó không quan trọng. Quan trọng là Chúa vẫn hiện diện với chúng ta một cách âm thầm lặng lẽ, cả trong lúc chúng ta phải chèo chống với cảnh ngược gió trên biển đời.
Đây là một câu chuyện đẹp ở vùng Nam Mỹ:
Ngày nọ, một thầy dòng mơ thấy mình đang đi dọc theo bờ biển với Chúa. Ông nhìn xuống bãi cát, thấy có bốn dấu chân: hai của ông và hai của Chúa.
Nhưng ông cũng nhận thấy có những đoạn đường chỉ có hai dấu chân. Và ông nhớ lại: đó là những ngày ông buồn khổ nhất và cực nhọc nhất. Ông bèn than thở với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã nói với con là nếu con theo Chúa, thì Chúa sẽ ở với con luôn luôn. Nhưng giờ đây con thấy rằng, những lúc con chao đảo nhất, thì lại chẳng thấy dấu chân Chúa đâu. Con không hiểu tại sao Chúa lại bỏ con giữa lúc con cần Chúa nhất như thế?’’
Chúa đáp: “Con ạ, Ta chẳng bao giờ bỏ con. Con chỉ thấy hai dấu chân trên cát, vì trong những lúc khốn khó đó, Ta đã vác con và mang con đi”.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng Kitô hữu.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
TinMừng – TN 13 – Thứ 4: Chúa chữa 2 người bị quỉ ám.
"Ông đến lúc này để hành hạ các quỷ".
Lời Chúa: Mt 8,28-34
Khi ấy, Chúa Giêsu lên thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy. Và chúng kêu lên rằng: "Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?". Cách đó không xa có một đàn heo lớn đang ăn. Các quỷ nài xin Người rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo". Người bảo chúng rằng: "Cứ đi". Chúng liền ra khỏi đi nhập vào đàn heo. Tức thì cả đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước. Các người chăn heo chạy trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám.
Thế là cả thành kéo ra đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.
Theo cha Gabrielle Amorth, vị trừ quỷ chính của giáo phận Rôma,
“số người bị quỷ ám đã gia tăng rất nhiều.”
Trong vòng tám năm, chính cha đã trừ cho hơn hai mươi ngàn trường hợp.
Con số kinh khủng này hẳn là một nhắc nhở cho những ai nghĩ rằng
quỷ vắng bóng trong thế giới của khoa học kỹ thuật,
quỷ chỉ là huyền thoại của thế giới cách đây hai ngàn năm thời Đức Giêsu,
hay quỷ ám thật ra chỉ là bệnh thần kinh vào thời y khoa chưa phát triển.
Trong cuộc hội kiến vào tháng 8-1986, Đức Gioan Phaolô đã nói
sự hiện diện của quỷ trong thế giới “ngày càng trở nên ghê gớm hơn
khi con người và xã hội quay lưng với Thiên Chúa.”
Tin Mừng hôm nay là trình thuật đầu tiên về trừ quỷ của thánh Mátthêu.
Chuyện này đã được Máccô kể lại với nhiều chi tiết hấp dẫn hơn (Mc 5, 1-20).
Nhưng trong Mátthêu, khuôn mặt Đức Giê su lại nổi bật hơn nhiều.
Ngài đã cùng với các môn đệ qua bờ bên kia sau khi gặp cơn bão biển.
Khi Ngài đến vùng đất của người Gađara, ở phía đông nam Hồ Galilê,
hai người bị quỷ ám từ mồ mả đi ra, đến gặp Ngài (c. 28).
Mồ mả là nơi dành cho người chết, nơi bị coi là nhơ uế, nơi của thần dữ.
Có hai nét giúp ta nhận ra sự hiện diện của quỷ nơi những người bị ám.
Họ rất dữ tợn đến nỗi không ai dám qua lại con đường ấy (c. 28).
Họ nhận biết ngay Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (c. 29).
Sức mạnh kinh khủng và sự hiểu biết lạ lùng là thế mạnh của thần dữ.
Nhưng đây cũng là điểm yếu của quỷ khi đứng trước Đức Giêsu.
Chính vì thế chúng hoảng sợ khi thấy mình bị đe dọa:
“Chưa tới lúc mà ông đã đến đây hành hạ chúng tôi sao?”
Đức Giêsu đến sớm quá và khiến cho quyền lực của chúng phải sụp đổ.
Khi đọc bài Tin Mừng này, chúng ta thường có nhiều câu hỏi.
Tại sao quỷ lại xin nhập vào đàn heo? Tại sao Đức Giêsu lại đồng ý?
Đàn heo chết đuối thì quỷ ra sao? Phải đền người chủ đàn heo thế nào?
Mátthêu có vẻ không quan tâm đến những câu hỏi ấy.
Điều ông quan tâm là làm nổi bật quyền năng của Đức Giêsu.
Chỉ một lời Ngài phán: “Đi !” là đuổi được quỷ ra khỏi hai người.
Nước Trời đến đem lại bình an cho hai người quỷ ám ở trong mồ mả,
và cho những ai qua lại lối đi ấy.
Không thấy các người dân ngoại chăn heo kêu ca về chuyện mất đàn heo,
nhưng họ lại trở nên những người loan báo cho dân thành về mọi chuyện.
Tiếc là dân thành đã không muốn đón tiếp Ngài.
Quỷ hấp dẫn con người bằng quyền lực và tri thức của chúng.
Nhưng thực sự chúng là kẻ thù không đội trời chung của con người.
Chúng phân ly con người, đẩy người sống vào mộ người chết,
biến con người thành mối đe dọa cho con người (c. 28).
Chúng thích có mặt ở đàn vật ô uế, thích gieo vãi sự ô uế khắp nơi (c. 31).
Xin Chúa cho ta thấy được sự lộng hành của quỷ dữ trong thế giới hôm nay.
Và xin Chúa cứu ta khỏi nanh vuốt của ác thần.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin ;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống ;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống ;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Tại sao ma quỷ vẫn còn hiện diện. Và tiếp tục hoành hành? Vì sự thoả hiệp của ta. Ma quỷ như loài ký sinh trùng. Chỉ sống được nhờ vào cơ thể người khác. Cơ thể đó trở thành đau bệnh. Như hai người bị quỷ ám ở Ga-đa-ra. Họ mất hết nhân tính. Hung hăng như loài thú dữ. Họ ở trong mồ mả. Vì họ thuộc thế giới kẻ chết. Và sẽ phục vụ đắc lực để mở rộng thế giới chết chóc đang phát triển trong chính bản thân họ. Chúa Giê-su đến cứu con người. Xua đuổi ma quỷ. Cho con người trở lại nhân tính. Trở lại sự sống. Bắt ma quỷ phải trở về nơi của chúng. Đó là súc vật. Là dơ bẩn. Là chết chóc. Nhưng buồn thay. Thay vì đón nhận Chúa để xua đuổi ma quỷ. Họ đón nhận ma quỷ nên từ chối Chúa. Họ chấp nhận con cái phải chết. Để bảo vệ được tài sản. Ma quỷ vẫn còn đất dung thân. Vì họ đã thoả hiệp với chúng.
Không thoả hiệp. Đó là điều A-mốt luôn cảnh báo dân. “Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ”. Tại sao? Vì hai lý do: “Rồi các ngươi sẽ được sống và như vậy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh sẽ ở cùng các người”. Và làm điều lành, theo A-mốt, là thực thi công lý: “Hãy ghét điều dữ và chuộng điều lành, nơi cửa công, hãy thiết lập công lý”. Ghét điều dữ. Tìm điều lành. Ở với Thiên Chúa. Như thế mới có sự sống. Thoả hiệp. Sẽ không có Chúa. Sẽ chết. Ma quỷ đang làm điều dữ. Đó là bất công. Gian ác. Hãy làm cho công lý toả rạng. Có Thiên Chúa. Có sự sống (năm chẵn).
Thoả hiệp. Đó là điều ta thường làm. Như tổ phụ Áp-ra-ham. Khi đã có I-xa-ác rồi vẫn muốn giữ Ít-ma-en ở trong nhà. Xa-ra không chịu vì ghen tức. Nhưng Thiên Chúa cũng không chịu thái độ thoả hiệp đó. Vì hai lý do. I-xa-ác đến từ lời hứa của Thiên Chúa. Ít-ma-en là toan tính của con người. I-xa-ác là con của người vợ chính thức trong hôn nhân tự do. Ít-ma-en là con của người nô lệ trong dục vọng của con người. Thiên Chúa dạy Áp-ra-ham phải để Ít-ma-en ra đi. Đó là tôn trọng Thiên Chúa và tin tưởng vào lời hứa của Người. Đó là tách bạch rõ ràng tự do và nô lệ, con chính thức và con ngoại hôn. Không thoả hiệp nhập nhằng. Ý định của Thiên Chúa không thể pha trộn dục vọng của con người. Con cái tự do không thể sống chung với con cái nô lệ (năm lẻ).
Chúng ta sẽ sống thế nào. Chọn Thiên Chúa. Chấp nhận thiệt thòi vật chất. Hay chọn vật chất. Sống chung với ma quỷ. Để Thiên Chúa ra đi?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người, hai cách thức Chúa đến với họ.
Mẫu người thứ nhất có thể thấy được nơi hai người bị quỷ ám. Họ là những con người bị đẩy ra bên lề xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì lúc đó họ đang bị quỷ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỷ nhập vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xẩy ra làm rúng động những người dân trong thành.
Mẫu người thứ hai là dân cư miền Gađara. Những người này có đời sống vật chất đầy đủ và tiện nghi, nhưng dường như không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa đến với họ qua dấu lạ chữa lành hai người bị quỷ ám mà từ lâu họ đã chối từ, và sự kiện đàn heo bị quỷ nhập lao xuống biển chết chìm. Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ để kéo chú ý của người dân trong thành về việc Chúa đến, nhưng họ đã bỏ mất cơ hội để tiếp xúc với Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Bởi vì, như Tin Mừng kể lại, sau khi gặp Ngài, họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Họ làm thế vì sợ phải gánh chịu những thiệt hại vật chất do sự hiện diện của con người lạ lùng này. Những lợi lộc hay những thiệt thòi vật chất có thể làm cho con người khép kín tâm hồn, trở nên mù quáng trước sự hiện diện yêu thương, bình an và cứu rỗi của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta một tâm hồn thanh thoát, biết mở rộng để đón nhận những dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, để sẵn sàng đến gặp Chúa, sống với Chúa và trở thành dụng cụ hữu hiệu của Chúa cho những người xung quanh.
Khi Đức Giêsu sang bờ bên kia, và đến miền Ga-đa-ra, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Và kìa, chúng la lên rằng: “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi có can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đến đây làm khổ chúng tôi sao?” (Mt. 8, 28-29)
Phép lạ kỳ cục
Phép lạ vừa được kể lại cho chúng ta có thể bị chúng ta coi như hơi kỳ quặc. Lúc ấy Chúa Giêsu muốn giải thoát cho hai người bị quỷ ám. Hai người này đã khuấy động đời sống dân làng vì không ai dám lại gần họ và qua lại lối ấy. Thật là ý tưởng ngộ nghĩnh khi cho bọn quỷ nhập vào bầy heo và khiến chúng lao xuống biển! Chẳng lẽ Chúa Giêsu không có thể làm cách khác sao? Tại sao Chúa đã không đơn giản ra lệnh cho các thần ô uế buộc chúng phải cút đi ngay? Khi cho quỷ nhập vào bầy heo. Người đã làm cho dân chúng nơi đó phải sợ hãi. Những người chủ bầy heo hẳn đã phát điên lên khi nhìn đoàn vật chết chìm dưới biển. Kết cục là họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Phép lạ này có lẽ hơi lạ thường, nhưng lại bao hàm một giáo huấn mà ta cần phải suy nghĩ.
Phải biết trả giá
Chúa có ý dạy ta điều này: để giải thoát con người khỏi sự dữ, đôi khi Chúa đòi người ta phải trả giá một chút cho ơn giải thoát ấy. Chắc chắn những người dân làng ấy mong cho hai người bị quỷ ám kia được cứu thoát. Nhưng muốn cho điều ấy xảy ra, mà họ đã không sẵn sàng chịu tốn công tốn của một chút.
Ta có thể có được vô số những áp dụng cho hôm nay. Ta mong được Chúa cứu ta khỏi sự dữ tiềm ẩn trong ta. Mà ta có sẵn sàng thực hiện những cố gắng cần thiết để góp phần vào việc này không? Ta mong muốn cho thế giới hôm nay người ta sống công bình với nhau hơn. Nhưng ta có bằng lòng xả thân chịu khổ để chiến đấu cho công bình không? Ta mong cho trên mặt đất này, không còn người nào phải chịu cảnh đói ăn thiếu mặc. Nhưng ta có vui lòng chia sẻ cơm áo, của cải của ta và sẵn sàng từ bỏ một nếp sống tiện nghi thái quá không?
Ta phải ý thức rõ ràng điều ấy. Nhiều điều không được thực hiện, nhiều điều vẫn không có, bởi tại ta không chịu “chi trả” đó thôi.
Trong sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 26 tại Madrid, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã viết: “Có một xu hướng duy đời (laïciste) mạnh mẽ muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống con người và xã hội, toan tính kiến tạo một ‘thiên đường’ không có Thiên Chúa.
Nhưng kinh nghiệm dạy rằng một thế giới không có Thiên Chúa là ‘một hỏa ngục’ trong đó, trổi vượt những ích kỷ, chia rẽ trong các gia đình, oán thù giữa cá nhân và các dân tộc, thiếu tình thương, niềm vui và hy vọng”.
Và trong thông điệp “Spe Salvi” Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết: “Một nền nhân bản vắng bóng Thiên Chúa sẽ là một nên nhân bản phi nhân” (Thông điệp Spe Salvi, số 78).
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ ra khỏi hai chàng thanh niên ở Giêrasa. Sau đó, ma quỷ đã xin Đức Giêsu cho nhập vào đàn heo và lao xuống biển. Thấy thế, những người chăn heo chạy chốn và báo tin cho những người trong thành về sự kiện vừa mới diễn ra trước mắt họ, vì thế, dân trong thành đã ra đón Ðức Giêsu, nhưng khi gặp Ngài, họ đã xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ.
Những gì xảy ra thời Đức Giêsu khi xưa, thì trong xã hội hôm nay cũng đã, đang và sẽ xảy đến với chúng ta. Thật vậy, vẫn còn đó những cám dỗ về tiền tài, danh vọng và xác thịt do ma quỷ gây nên. Vẫn còn đó những thửa đất và môi trường thuận lợi cho ma quỷ hoành hành. Những thửa đất đó là: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, bất nhân nơi nhân tâm của con người.
Bên cạnh đó, hình ảnh chốn chạy của những người chăn heo vẫn còn tái diễn nơi những người thiếu trách nhiệm, sống vô kỷ luật và tán tận lương tâm. Và, vẫn còn đó hình ảnh những người sẵn sàng tin Chúa, nhưng không chấp nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời như dân thành khi xưa đã mời Chúa ra khỏi nơi ở của họ.
Những thứ mà con người hôm nay hay lựa chọn thay cho những giá trị Tin Mừng là: tiền bạc bất chính, danh vọng hư ảo, hận thù ghét ghen, ma men tối ngày, ma đề triền miên, ma xác thịt , quỷ dâm loạn ... Mỗi lần chúng ta lựa chọn các điều xấu xa như thế, ấy là lúc hình ảnh những người trong thành ra đón Chúa nhưng lại không thích Chúa ở lại trong thành của họ vì biết bao điều khuất tất họ đang làm lại tái diễn cách sống động nơi chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết chọn Chúa, đi theo Chúa và sống những giá Tin Mừng trong cuộc đời. Xin Chúa cũng giúp chúng con vượt qua được những cơn cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng uy quyền mạnh mẽ giải thoát ta khỏi ách thống trị của quỷ dữ. So với sự tự do và bình an của Chúa đem lại, sự thiệt hại vật chất dù lớn đến đâu cũng chẳng đáng kể là bao.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhìn vào hai người bị quỷ ám ở miền Ga-da-ra, con nghĩ đến thân phận tội lỗi của đời con. Cũng như họ, thân xác và linh hồn con mòn mỏi vì sống trong cô đơn, oán giận, tăm tối, sống tách biệt và gây sợ hãi cho nhiều người chung quanh.
Nhưng lạy Chúa, cũng như họ, con dám đứng ra để đón tiếp Chúa, vì con tin Chúa là Đấng quyền năng. Chỉ có Chúa mới có thể giải thoát con khỏi ách thống trị của quỷ dữ. Con tin Chúa sẽ đem lại cho con tự do và sự bình an sâu thẳm. Chính Chúa sẽ trả lại cho con một đời sống trong niềm vui và tình yêu. Con sẽ không còn là người làm cho người khác kinh hãi và xa lánh nữa.
Xin Chúa đừng xa lánh con, nhưng hãy đến ở bên con, nâng đỡ con, và ban cho con sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Bởi vì con tin rằng: nếu con biết cậy dựa nơi quyền năng Chúa, nếu con mở lòng đón nhận ơn Chúa, thì con sẽ loại trừ được quỷ dữ của đam mê dục vọng, con sẽ chiến thắng được quỷ dữ của tính mê nết xấu.
Lạy Chúa Giêsu, để được sống trong tự do và bình an, con biết sẽ phải hy sinh. Nhưng dù có thiệt hại về vật chất lớn lao như dân thành Ga-da-ra, con vẫn hân hoan vui sướng, vì biết rằng tự do và bình an Chúa ban cho con vẫn quý hơn bội phần. Xin đừng để con vì nuối tiếc những sự trần gian, mà để cho quỷ dữ thống trị mãi mãi. Lạy Chúa, xin thương xót con. Amen.
Một thanh niên say rượu, đi ngang qua đám đông đang nghe giảng. Anh muốn tỏ ra “ta đây” và làm cho nhà giảng thuyết mất mặt: “Chào, này ông bạn ơi, về nhà đi thôi, đừng giảng nữa, ma quỷ chết hết rồi!”.
Vị giảng thuyết lạnh lùng nhìn anh nói: “Ma quỷ chết rồi à? Vậy là từ nay anh mồ côi rồi!”. Chàng ta xấu hổ lủi mất dạng, trong khi đám đông được trận cười khoái chí.
Suy niệm
Những trang đầu của Kinh Thánh cho biết: Ma quỷ đã giăng bẫy lôi kéo nguyên tổ Ađam và Eva chống lại Thiên Chúa và gây nên hậu quả của tội bất tuân - tội nguyên tổ làm con người chịu biết bao đau khổ và phải chết... Quyền lực của bóng tối, sự dữ bao trùm…
Trong Tin Mừng hôm nay, hai người bị ma quỷ ám hại rất đau khổ: Vốn là người bình thường, trở thành rất hung bạo, quấy phá đến nỗi không ai dám đến gần và qua lại nơi họ trú ẩn. Hình ảnh đó cho thấy ma quỷ chính là nguyên nhân gây nên đời sống bất ổn trong tâm hồn của người bị nó ám và cho cả người chung quanh, nên họ phải luôn sống trong tình trạng lo sợ.
Đức Giêsu ra lệnh cho quỷ xuất khỏi hai người và cho nó nhập vào đàn heo khi chúng xin, và cả đàn lao xuống biển, Ngài minh chứng cho mọi người biết quyền năng của Ngài trên mọi ác thần... đàn heo của họ quỷ đã nhập vào lao xuống biển. Như thế Đức Giêsu đã chứng minh cho họ biết rằng Satan phải vâng lệnh Ngài, rút lui về sào huyệt của nó, để không còn tung hoành trên mặt đất làm hại ai nữa. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, biển là sào huyệt của ác thần, của ma quỷ, như lời thánh Gioan nói về ngày cánh chung, ngày Đức Giêsu toàn thắng sự dữ: “Biển đã trả lại những người chết trong nó; tử thần và âm phủ hoàn lại những người chết chúng giam giữ” (Kh 20,13). Và “tôi thấy một trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã qua, và biển không còn nữa” (Kh 21,1).
Việc Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma quỷ, vốn luôn mai phục trong tâm hồn của con người khi gây bất an, chia rẽ, lòng tham muốn lợi lộc của cải trần gian…
Chúng ta tin và xin quyền năng của Đức Giêsu đến để trục xuất quỷ dữ ra khỏi tâm hồn chúng ta.
Ý lực sống:
“Chúa Con có cho các ngươi được tự do thì các ngươi mới đích thực là tự do” (Ga 8,36).
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại là Ghêrasa. Sức mạnh của quỉ dữ thật lớn, nhưng Chúa Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỉ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người: dân chúng chạy ra xem và yêu cầu Ngài rời khỏi xứ sở họ, một phần vì sợ uy quyền Chúa đã trừ ma quỉ dữ tợn, phần khác cũng vì sợ bị thiệt hại vật chất.
Qua bài Tin mừng trên, nhiều người trong chúng ta không khỏi thắc mắc tự hỏi ma quỉ là gì? Nó có thật không? Nó từ đâu đến? Sao nó lại có ác ý gây sự với người tốt bụng và làm những điều xấu xa để phá rối thế gian? Ai là người có quyền lực trừ khử được nó?
Theo thần học và giáo huấn của Hội thánh thì quỉ Satan là một thiên thần Thiên Chúa tạo dựng. Lúc đầu, Satan là một thiên thần tốt lành, nhưng sau đó nó sa ngã vì tính kiêu ngạo, bất tuân phục đối với Chúa và đã bị Thiên Chúa tống xuống hỏa ngục. Quỉ Satan tìm mọi cách để quyến rũ con người xa lìa và chống lại Thiên Chúa, nhưng chính nó đã lôi kéo nguyên tổ chúng ta là ông Adong và bà Evà. Những quyền năng của quỉ Satan không phải là vô hạn, vì nó cũng chỉ là một loài thụ tạo từ Thiên Chúa mà ra, nó không thể chiến thắng Thiên Chúa để làm chủ thế gian và ngăn chặn việc xây dựng Nước trời. Mặc dù Satan hoành hành, thù nghịch với Thiên Chúa, và mặc dù nó đã gây ra nhiều tai hại cho con người và xã hội, nhưng nó đã bị đánh bại ngay từ thuở ban đầu như đã được mạc khải trong sách Sáng thế hay trong thư thứ nhất của thánh Gioan. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá huỷ công việc của ma quỉ.
Trong việc Chúa chữa lành cho người bị quỉ ám này, chúng ta thấy có hai cách thức hành xử của hai hạng người khác nhau: đó là hai người bị quỷ ám và dân thành Ghêrasa.
Hạng người thứ nhất: có thể thấy được nơi hai người bị quỉ ám. Họ là những người bị đẩy ra bên lề xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì lúc đó họ đang bị quỉ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỉ nhập vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xảy ra làm rúng động những người dân trong thành.
Hạng người thứ hai là dân thành Ghêrasa, họ đã không nhìn nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế qua những dấu lạ mà Người đã làm. Trái lại, họ lại mời Người đi nơi khác, vì sợ bị thiệt thòi tài sản và sợ bị người Do thái quấy nhiễu; vì sợ sệt, an phận thủ thường và vì lòng ích kỷ, họ từ chối tin nhận vào Thiên Chúa và sự cứu rỗi. Người dân thành Ghêrasa chỉ nhìn thấy những mối lợi nhỏ nhặt trước mắt, mà họ không nhìn thấy được món lợi lớn lao hơn, đó là sự sống vĩnh cửu trong Nước trời. Có một điều đáng để chúng ta lưu ý là chính Satan nhìn nhận Chúa Giêsu và kính sợ Người, thì trong khi đó chúng ta là con cái của Thiên Chúa, thế mà có nhiều người lại từ chối tin nhận Người. Trong trường hợp này, chính quỉ Satan đã làm chứng tá cho chúng ta về sự hiện hữu của Chúa nơi trần gian (Mỗi ngày một tin vui).
Dù cho quyền năng của Thiên Chúa có hoàn toàn chiến thắng thế lực của ma quỉ, thì Ngài cũng đành bó tay trước sự tự do của con người. Cả dân chúng miền Ghêrasa đến đón Chúa Giêsu, nhưng không phải để đón tiếp mà để xin Ngài đi nơi khác. Con người nhẫn tâm chối từ Thiên Chúa vì con người còn quyến luyến của cải, còn tiếc rẻ miếng mồi ngon của quỉ dữ. Họ sợ phải hy sinh, Chúa Giêsu còn ở đàng xa mà họ đã mất đàn heo, thì một khi Ngài ở gần họ, có lẽ họ sẽ phải mất tất cả.
Truyện: Chiến thuật của ma quỉ
Rowlan Hill, một nhà giảng thuyết trứ danh, trong một bài giảng đã kể câu chuyện như sau: Ngày nọ, tôi xuống phố, thấy một bầy heo chạy theo một người. Tôi thấy lạ nên để ý xem. Lạ hơn là bầy heo theo người đó vào lò sát sinh.
Tôi thắc mắc hỏi người đó làm cách nào mà dụ bầy heo tài tình như vậy. Ông bèn đáp: “Ngài không thấy đó sao? Tôi mang theo rổ đậu, thỉnh thoảng vãi mấy hạt xuống đường. Thế là bầy heo tham ăn cứ chạy theo tôi”. Rồi ngài giảng tiếp: “Tôi nghĩ ma quỉ cũng áp dụng chiến thuật đó. Nó mang theo rổ đậu, rải trên đường trần và đám đông xô nhau chạy theo, đến tận lò sát sinh vĩnh hằng”.
Phép lạ này mặc khải uy thế của Đức Chúa Giêsu chế ngự một đối thủ còn đáng gờm hơn nữa, đó là quỷ dữ.
Đối với người Do Thái, heo là giống ô uế. Miền đất Ghêrasa này đầy heo vì đó là vùng của dân ngoại, nơi ngự trị của ma quỷ.
Sức khống chế của ma quỷ rất mạnh, đến nỗi chúng đã lôi hai nạn nhân của chúng sống trong mồ mả, và “chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua lại đường ấy”.
Nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng hoàn toàn: cả đàn heo (do quỷ nhập) đã nhào xuống biển chết chìm trong đó.
Cũng nên chú ý phản ứng của dân miền đó: Họ nhận biết uy quyền của Chúa Giêsu, nhưng vì tiếc của, họ xin Ngài rời miền của họ.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Cũng như dân miền Ghêsara, tôi vẫn biết rằng uy quyền Chúa vượt hơn uy quyền của ma quỷ. Thế nhưng tôi muốn tiếp tục sống dưới quyền của ma quỷ, sống với “bầy heo” còn hơn là đi theo Chúa mà phải từ bỏ.
2. Rowlan Hill, một nhà giảng thuyết trứ danh, trong một bài giảng đã kể chuyện sau: ngày nọ, tôi xuống phố, thấy một bầy heo chạy theo một người. Tôi thấy lạ nên để ý xem. Lạ hơn là bầy heo theo người đó vào lò sát sinh! Tôi thắc mắc hỏi người đó làm cách nào mà dụ bầy heo tài tình vậy. Ông đáp: Ngài không thấy đó sao ? Tôi mang theo rổ đậu, thỉnh thoảng vãi mấy hạt xuống đường. Thế là bầy heo tham ăn chạy theo”. Rồi Ngài giảng tiếp: “tôi nghĩ ma quỷ cũng áp dụng chiến thuật đó. Nó mang theo rổ đậu, rải trên đường trần và đám đông xô nhau chạy theo, đến tận lò sát sinh vĩnh hằng”.
3. Thái độ dân miền Ghêrasa cho ta thấy thêm được rằng không phải Chúa Giêsu lúc nào cũng đáng yêu và được người ta thích đến gần đâu. Có nhiều lúc người ta thấy Chúa đáng sợ và người ta không muốn Chúa đến gần mình. Nhất là khi Chúa đòi người ta phải từ bỏ, khi Ngài muốn trục xuất một tên quỷ dữ thường trú bấy lâu nay ra khỏi người ta. Tôi tự hỏi: hiện giờ đối với tôi Chúa đáng yêu hay đáng sợ ? Tôi muốn Chúa đến với tôi hay tôi xin Ngài tránh xa tôi ?
1. Câu chuyện Chúa Giêsu cho quỉ nhập vào đàn heo, đã gây nên nhiều thắc mắc: tại sao Chúa lại để cho người ta thiệt hại cả đàn heo như thế? Các thánh Giáo phụ đã bàn cãi rất nhiều về vấn đề này. Sở dĩ người ta đặt ra vấn đề này là vì người ta nhìn sự việc dưới lăng kính vật chất. Còn nếu nhìn theo góc nhìn giá trị thì sự việc sẽ khác hoàn toàn. Sự việc giải thoát cho hai con người bất hạnh cũng như giải thoát cho cả vùng khỏi nỗi khiếp sợ triền miên do ma quỉ gây ra, so với sự thiệt hại vật chất thì có đáng là bao.
Là những con người có lương tri, chẳng lẽ chúng ta lại dám đem giá trị của một linh hồn bất tử của con người ra mà so sánh với giá giá trị của một bầy heo sao! Có khi nào chúng ta lại phàn nàn rằng mất bầy heo để phục hồi tâm trí cho hai người đáng thương kia và trả lại sự an bình cho cả một vùng đất sống của bao nhiêu người là giá quá đắt? Nói vậy, không có nghĩa là chúng ta khuyến khích hoặc dung thứ cho những hành vi đối xử tàn ác với thú vật, nhưng chỉ có nghĩa là chúng ta phải bảo tồn ý thức về giá trị quân bình trong cuộc sống.
2. Bài Tin Mừng hôm nay còn một điểm mà chúng ta phải lưu ý: Đó là lời tuyên xưng của ma quỉ và phản ứng của dân thành Garada.
a- Rõ ràng là ma quỉ đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, trong khi người Do thái lại cho Chúa nói phạm thượng khi Ngài tự xưng mình như thế. Đây không phải là lần duy nhất ma quỉ tuyên xưng như vậy. Một câu hỏi có thể đặt ra tại đây: Tại sao họ lại từ chối không chịu tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa như vậy? Có nhiều lý do, nhưng xét cho cùng thì cũng chỉ vì quyền lợi vật chất riêng tư của họ mà thôi. Thường có quyền thì có lợi. Nếu dân chúng bỏ họ mà theo Chúa hết thì điều mà họ lo là họ sẽ mất quyền và cũng như mất lợi (mất uy tín, mất danh vọng ăn trên ngồi trước). Họ tiêu diệt Chúa Giêsu vì niềm tin độc thần thì ít mà vì quyền lợi thì nhiều.
b- Dân chúng xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Khi những kẻ chăn heo chạy về thành phố thuật lại sự việc đã xảy ra, thì dân thành đã xin Chúa Giêsu rời khỏi xứ họ tức khắc. Thánh Matthêô không nêu lên lý do tại sao họ làm như thế, tuy nhiên cứ theo phản ứng đầu tiên ấy, thì có lẽ bởi vì họ nghĩ: nếu ông ta tiếp tục làm các phép lạ như thế giữa họ, thì chắc họ sẽ còn phải hấng chịu nhiều thiệt hại hơn nữa. Họ từ chối Chúa vì quyền lợi vật chất. Rõ ràng ở đây tính vị kỷ của con người được biểu lộ thật rõ ràng. Đối với họ, hai người được phục hồi lý trí chẳng có gì quan trọng, điều quan trọng đối với họ là bày heo đã chết. Thường thường người ta nói rằng: “Tôi chẳng cần bận tâm đến chuyện gì xảy ra cho người khác chừng nào quyền lợi, tiện nghi và sự thoải mái của tôi vẫn được bảo toàn”.
Người Do thái cũng như dân ngoại từ chối Chúa Giêsu chỉ vì quyền lợi vật chất. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Có khi nào vì quyền lợi vật chất mà ta từ chối Chúa hay từ chối lời Chúa không? Có khi nào ta chọn quyền lợi vật chất hơn chọn Chúa không?
Một anh thợ mộc nọ đã có bốn con, nhà nghèo, đến nói với tôi rằng: con muốn chuyển gia đình đến một nơi khác làm ăn, hy vọng sẽ khá hơn. Nhưng con cứ do dự hoài. Bởi vì chỗ con định đến lại xa nhà thờ, ở giữa dân ngoại. Nếu con ra đi thì con cái con sẽ không có chỗ học giáo lý và cả gia đình cũng sẽ khó mà đến nhà thờ ngày Chúa nhật được.
Một chọn lựa khó khăn, mà ai trong chúng ta cũng có thể gặp hàng ngày. Chọn tham dự thánh lễ hay coi một cuốn phim hay. Chọn giữa sự tha thứ và hận thù. Chọn giữa một buổi đi chơi với bạn bè hay đi học giáo lý. Trong cuộc sống, tôi thường chọn Chúa hay chọn quyền lợi riêng tư của tôi?
Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: “Chúng con phải lựa chọn”. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Thành công hay thất bại là tùy ở những chọn lựa mỗi ngày của ta.
Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn, vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), nhà vua nói:
- Con muốn chọn cái nào?
Ngần ngừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
Vua cha hỏi:
- Tại sao con lại chọn thanh kiếm?
Hoàng tử cầm thanh kiếm lên chỉ vào vương miện, đáp:
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Lời Chúa: Mt 9, 1-8.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường.
Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội".
Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.
Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác ! (Mc 2, 4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa. Amen.
Người bại liệt bị bệnh tật trói buộc. Không thể cử động chân tay, hoặc di chuyển theo ý muốn. Anh không có tự do. Đó là hình ảnh một tâm hồn tội lỗi. Tội lỗi là sợi dây trói buộc khiến con người mất tự do. Không thể làm điều mình muốn. Giải phóng thể xác thì dễ. Giải phóng tâm hồn thật khó. Giải phóng tâm hồn là khai thông bế tắc giữa con người với Thiên Chúa. Trong Chúa con người mới có tự do. Mới có thể làm được điều tốt. Theo thánh ý Chúa. Như người bại liệt có thể tuân lệnh Chúa. Khi Chúa truyền cho anh: “Đứng dậy, vác giường mà đi về nhả”. Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà”.
A-mốt là một người tự do. Ông không sợ nhà vua. Cũng không sợ tiên tri giả A-mát-gia. Thẳng thắn tuyên án phạt với nhà vua Gia-róp-am. “Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ”. Và lệnh trừng phạt tiên tri giả A-mát-gia. “Vợ ngươi sẽ làm điếm trong thành phố, con trai con gái ngươi sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia từng mảnh, còn ngươi, ngươi sẽ chết trên một miền đất ô uế”. Ông chỉ biết vâng lời Thiên Chúa. “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta”. Ông tự do vì ở trong Chúa. Vì có thể làm theo thánh ý Chúa bất chấp những chướng ngại (năm chẵn).
Tổ phụ Áp-ra-ham là một con người hoàn toàn tự do. Ngài có thể làm theo ý Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tin vào Chúa không đòi điều kiện nào. Tin vô điều kiện. Tin đến độ sẵn sàng tuân hành thánh ý trong cả những hoàn cảnh khó khăn nhất. Đó là sát tế I-xa-ác, người con duy nhất. Dù trong lúc tuổi già, không còn hy vọng sinh con. Dù lời hứa của Chúa cho một dòng dõi đông đúc như cát biển sao trời. Ngài hoàn toàn tự do vì luôn ở trong Chúa. Ý chí của ngài hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế nên ngài được đầy ân sủng. “Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta” (năm lẻ).
Xin cứu con khỏi ách nô lệ tội lỗi. Xin cho con được tâm hồn tự do. Trong sạch. Hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Để con được sự sống đời đời.
Con người là con vật xã hội. Xã hội không dành riêng phần đất cho những người tự đóng kín vào mình. Vừa mở mắt chào đời, con người đã phải đón nhận sự nâng đỡ của người khác, rồi trong suốt cuộc đời, không ai có thể tự hào mình không cần nhờ vả đến ai. Sống là một luân lưu của những trao đổi và cảm thông. Tôi phải nhờ đến người khác và cũng có bổn phận để người khác nhờ đến tôi.
Ðời sống đức tin cũng không ra ngoài định luật ấy. Ơn cứu độ được gửi đến cho tất cả, chứ không cho riêng một ai, mỗi cá nhân đón nhận nhưng rồi phải san sẻ cho người khác. Sự thánh thiện hoặc tội lỗi của một người cũng có ảnh hưởng đến người khác. Chúa Giêsu đã lên án mạnh mẽ những ai làm cớ vấp phạm cho người khác xa lìa Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật lại một phép lạ xẩy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm tin, dù cho có gặp nhiều cản trở, nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn lành của Chúa, và củng cố niềm tin nơi nhiều người xung quanh.
Khi Đức Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Và kìa, người ta khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” Và kìa mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.” (Mt. 9, 1-3)
Đức Giêsu, người hay làm phép lạ
Nếu đọc một mạch hết các Phúc âm, người ta có cảm tưởng là Chúa Giêsu đã làm vô số các phép lạ. Phải nói là rất nhiều, nên các thánh ký đã cẩn thận lưu ý ta rằng còn nhiều phép lạ khác không được kể lại trong các sách Phúc âm.
Điều này khiến ta có thể đặt ra ít nhiều câu hỏi: Tại sao Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều việc lạ lùng như vậy? Tại sao thời Chúa Giêsu các phép lạ thường hay xảy ra, còn thời chúng ta thì hiếm có thế? Tại sao có phép lạ?
Ý nghĩa các phép lạ
Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để có ý phô trương hay làm lóa mắt người ta, càng không phải để mời mọc những kẻ tin vào Người hy vọng mình có được một cuộc sống chan hòa những cảnh tuyệt vời, lạ lùng, và phi thường.
Sinh thời, các phép lạ Chúa làm đều đáp ứng những mục tiêu rõ rệt. Các phép lạ ấy có mục đích chỉ cho ta thấy Đức Giêsu đúng là Con Thiên Chúa. Các phép lạ ấy cũng tỏ cho thấy Chúa Cha đã ban cho Người cũng như cho những kẻ kế vị Người những quyền năng thiêng liêng. Nhất là các phép lạ được thực hiện cốt để người ta tin vào lời của Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Trích đoạn Phúc âm ta đọc lại hôm nay nói lên ý nghĩa này rõ rệt. Dân chúng ngạc nhiên trước tiên không phải vì người bại liệt được chữa khỏi, nhưng vì phép lạ ấy chứng tỏ việc “Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền tha tội”. Phép lạ như con dấu chứng thực cho sự việc này.
Thiên Chúa còn làm phép lạ nữa không? Chắc chắn, còn. Nhiều không? Ai dám nói được điều này. Có một điều chắc chắn. Ay là ta không được nuôi dưỡng lòng tin của mình bằng các phép lạ, nhưng phải bằng Lời Chúa.
Xem lại thứ Sáu tuần 1 TN, thứ Sáu tuần 6 TN và thứ Hai tuần 2 MV
Trong một căn phòng hậu phẫu, có nhiều bệnh nhân với những bệnh lý khác nhau. Các bệnh nhân thường hay kêu la đau đớn và tỏ vẻ khó chịu với thân nhân của mình. Tuy nhiên, những người hiện diện ở đó thật ngỡ ngàng khi nhìn thấy và chứng kiến một bệnh nhân trạc tuổi 60, ông không kêu ca, không trách móc, nhưng có lúc lại nở nụ cười tươi. Hỏi thăm, mới biết ông là người Công Giáo và phải mổ để cắt thận vì sỏi quá nhiều.
Trong lúc trò chuyện, có một người hỏi thăm ông: “Tại sao các bệnh nhân khác thì đau đớn và kêu la, còn ông thì không?” Trong tiếng nói nhỏ nhẹ, ông nói: “Mỗi lần cơn đau đến với tôi, tôi nhớ đến Chúa chịu đóng đinh. Ngài còn đau đớn hơn tôi nhiều, vì thế, tôi luôn cầu xin Chúa giúp sức để vượt qua cơn đau và tôi cũng xin Chúa cho mình được thông phần đau khổ với Ngài”. Thật tuyệt vời, Đức Giêsu là điểm tựa của ông, và cuộc thương khó, cái chết của Ngài đã làm cho ông can đảm, vui vẻ đón nhận đau đớn vì lòng yêu mến Chúa.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc đối thoại giữa thánh Tôma và các Tông đồ khác, hẳn ai cũng biết ngài là người cứng lòng tin, bởi vì thánh nhân đã từng nói: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Như vậy, với ngài, không thấy là không tin. Thấy thì mới tin. Niềm tin của Tôma chính là: tay phải sờ, mắt phải thấy thì mới có sự thuyết phục. Niềm tin của thánh nhân là niềm tin của lý trí.
Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn Tôma, các Tông đồ khác và cả chúng ta ngày hôm nay phải đạt tới mức độ vượt lên trên những gì là khả giác của đời thường, để tiến tới một đức tin trưởng thành, tức là không thấy mà vẫn tin: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Mong thay lời tuyên tín của thánh Tôma khi xưa: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" cũng là lời cầu nguyện và xác tín của mỗi chúng ta, và, lời chúc phúc của Đức Giêsu cho Tôma: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin" cũng là lời chúc phúc cho chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, đức tin của chúng con còn non yếu, xin Chúa giúp cho đức tin của chúng con được lớn mạnh và trưởng thành. Xin cho chúng con tin tưởng vào Lời Chúa và những lời dạy của Giáo Hội. Xin cho chúng con biết luôn tìm đến Chúa như là điểm tựa của cuộc đời chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chữa lành thân xác con người là việc rất cần thiết. Nhưng chữa lành linh hồn còn quan trọng hơn bội phần. Chúa muốn chúng ta hãy trân trọng tâm hồn mình và mọi tâm hồn khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi người bất toại đến với Chúa, chắc chắn anh chỉ muốn Chúa chữa lành thân xác, và chỉ một mục đích duy nhất ấy mà thôi. Nhưng đối với Chúa thì khác. Chúa nhìn thấy tâm hồn anh đáng quý hơn thân xác bội phần. Vì thế, trước hết Chúa đã nói với anh lời tha thứ. Chúa đã cứu chữa tâm hồn anh trước. Chúa ban lại cho anh sự sống cả trong tâm hồn lẫn nơi thân xác.
Vâng, Chúa ơi, con cũng cần Chúa ban ơn tha thứ, vì con đã coi rẻ tâm hồn mình. Con dùng thật nhiều thời giờ cho công việc làm ăn, nhưng lại tiếc với Chúa ít phút cầu nguyện. Con tiêu nhiều tiền bạc trong cuộc vui giải trí, mà không biết sử dụng tiền bạc để làm phúc hoặc giúp việc công ích. Con miệt mài học hành trau dồi kiến thức, nhưng lại so đo tính toán hơn thiệt khi cần bồi dưỡng đời sống tâm linh. Xin Chúa tha thứ và cho con biết quý trọng linh hồn mà Chúa đã cứu chuộc bằng giá máu của Chúa.
Lạy Chúa, người bất toại đã nhiều năm tháng yên ổn trên giường. Nhưng khi được Chúa chữa lành, chính chiếc giường ấy lại đè nặng vai anh trên đường về nhà. Mặc dù thế, anh vẫn hân hoan vì đã được tha thứ và được chữa lành. Lạy Chúa, khi chữa lành linh hồn con, Chúa cũng muốn con chấp nhận những hy sinh nào đó để con được lớn lên, được Chúa giải thoát. Xin Chúa thương giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế”.
Năm 1992 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã khởi xướng ngày Quốc tế cầu nguyện cho bệnh nhân hàng năm vào lễ Đức Mẹ Lộ Đức ngày 11 tháng 2. Năm 1858, Lộ Đức là một thị trấn nhỏ tọa lạc giữa đồi núi có khoảng 5.000 cư dân, nằm ở phía nam nước Pháp, giáp ranh nước Tây Ban Nha, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette - một trẻ em 14 tuổi từ ngày 11/02 đến ngày 16/07/1858.
Và cũng từ biến cố hiện ra từ năm 1858 đến nay, những cuộc hành hương tuôn đến Lộ Đức, đặc biệt là các bệnh nhân được đưa đến bằng đủ mọi phương tiện, có những người liệt giường được anh chị em bạn hữu cõng đến, hay trên băng ca, xe lăn… đã có trên 6.000 trường hợp được lành bệnh, Giáo hội đã công nhận và tuyên bố 68 trường hợp là phép lạ, do sự can thiệp và bầu cử đặc biệt trong yêu thương của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Thiên Chúa chọn Lộ Đức để biểu lộ tình thương của Ngài qua trung gian nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Qua đó, Ngài đã bày tỏ vinh quang cho nhân loại, khi chữa lành nhiều bệnh tật của nhiều anh chị em được đem đến Lộ Đức.
Ấn tượng nhất mà tôi ghi nhận giữa những đoàn hành hương là các bệnh nhân được các anh chị em tín hữu đưa đến viếng và rước Đức Mẹ vào các buổi chiều tối… từng bước đi của họ là bước đi của niềm tin…
Suy niệm
Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: “Hỡi con, tội con được tha”. Đức Kitô gắn liền việc chữa lành với lời tha tội. Theo Cựu ước, bệnh tật, đặc biệt là bệnh bại liệt, là dấu chỉ chứng tỏ người bệnh đã phạm tội (Lv 21,16-21). Chúa Giêsu đến kéo con người ra khỏi bệnh tật và tội lỗi. Ở đây, Ngài không ám chỉ tội của người bệnh là nguyên nhân gây bệnh. Ngài cũng không cho rằng tội của anh bại liệt lớn hơn những người khác. Người chỉ muốn khẳng định rằng anh trong tư cách là con người cũng là một tội nhân như mọi người khác và tội cũng là một căn bệnh, một căn bệnh của linh hồn, qua đó Ngài khẳng định cho mọi người biết “Con Người có quyền tha tội”. Khi tha tội, Ngài cứu chữa cả bệnh phần xác và bệnh phần hồn, là những biểu hiện khác nhau của căn bệnh nơi nhân loại. Anh bại liệt được giải phóng cả hồn lẫn xác khi Chúa Giêsu ra lệnh: “Con hãy trỗi dậy, vác giường mà về nhà con”. Sau này Chúa Giêsu sử dụng động từ “Hãy trỗi dậy” để nói về cuộc Phục sinh của Ngài (x. Mc 16,6). Lệnh Chúa truyền cho anh hãy trỗi dậy, không chỉ đứng lên đi được nhưng còn có ý nghĩa: “Hãy trỗi dậy” - “Hãy sống lại!”. Theo lệnh truyền của Thầy, anh đứng dậy, vác giường đi về, anh được tự do và thoát khỏi sự trói buộc vào chõng với căn bệnh bại liệt. Hơn hết anh được sống lại bằng đời sống mới phục sinh không còn trong kiếp tội nhân.
Chúa Giêsu khi ra lệnh cho anh bất toại trỗi dậy, Ngài cũng truyền cho chúng ta - cũng hãy trỗi dậy từ bất toại, bất toại của những căn bệnh thể xác nhưng cũng bất toại về linh hồn bị trói buộc bởi tội lỗi và hệ luỵ của tội. Thực tế cho hay người ta thường khao khát mong mỏi được chữa lành bệnh tật thể xác hơn là tâm linh. Và con người chúng ta quá chú tâm đến việc được chữa lành bệnh tật thể xác hơn là ơn được tha tội, được đổi mới và được trỗi dậy qua ơn chữa lành tâm linh được sinh ra bởi đức tin và việc tiến bước theo đức tin.
Thánh Mátthêu thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người bất toại. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài chính là vị Thẩm phán tối cao sẽ nắm quyền xét xử nhân loại. Người dùng quyền đó để tha tội cho người ta. Bất cứ ai tin vào Chúa đều được hưởng nhờ lòng nhân hậu và tình yêu của Người. Như anh bất toại hôm nay, cũng như những người đã khiêng anh, vì đã tin vào Chúa Giêsu, không những được Người chữa lành bệnh phần xác mà cả tâm hồn anh cũng được trong sạch. Điều đó cho chúng ta thấy, tin vào Chúa Giêsu làm cho con người được lành mạnh và biến đổi.
Qua câu chuyện Chúa chữa người bất toại này, chúng ta thấy Chúa Giêsu là Đấng có quyền tha tội:
- Quyền này thuộc về một mình Thiên Chúa, người đời không ai có quyền tha tội. Bởi thế khi Chúa Giêsu nói tha tội thì các luật sĩ bảo Ngài là phạm thượng.
- Muốn được tha tội thì điều kiện là phải có lòng tin: Thấy họ có đức tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: “Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi”.
- Không những đức tin là của cá nhân, nhưng cũng có đức tin tập thể như trong trường hợp này (của những người khiêng người bất toại): “Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói...”.
- Còn một điều đáng lưu ý nữa là Chúa Giêsu tha tội trước khi chữa bệnh. Nghĩa là Ngài coi tội còn nguy hại hơn bệnh tật phần xác.
Bệnh tật bởi đâu mà ra? Trong trường hợp người bất toại này, có lẽ đã có sự liên hệ giữa tội lỗi và bệnh tật của anh ta, nên trước khi làm phép lạ chữa bệnh cho anh, Chúa đã tuyên bố tha tội cho anh. Bởi vì người Do thái cho bệnh tật là do tội lỗi, là hình phạt của tội lỗi, thì nếu muốn khỏi bệnh, trước hết phải khỏi tội đã. Vậy Chúa tha tội cho người bất toại là Chúa cất căn cớ đi, thì bệnh tật là hình phạt cũng sẽ hết. Chúa Giêsu hành động như vậy là rất hợp lý.
Người Do thái tuy cũng nghĩ như thế và công nhận như thế, nhưng họ lại cho là Chúa nói phạm thượng. Theo họ, tội phạm đến Chúa, thì ngoài Chúa ra, không ai có quyền tha tội. Họ suy luận đúng, nhưng họ không công nhận Chúa có quyền tha tội, vì nếu công nhận như thế tức là công nhận Ngài là Thiên Chúa rồi. Bởi đó, đối với họ, không bao giờ có thể chấp nhận được.
Vì thế, để minh chứng cho biết Ngài có quyền tha tội, Chúa Giêsu đã chữa lành cho người bất toại. Như vậy, Chúa đã dùng việc làm để trả lời cho họ biết: Ngài đã làm cho người bất toại tức khắc khỏi bệnh, điều đó chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, mà nếu là Thiên Chúa, thì Ngài có quyền tha tội.
Qua bài Tin mừng hôm nay ta thấy một phép lạ xảy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người bất toại được khiêng đến cho Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng người bất toại, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Hình ảnh những người thân khiêng người bất toại đến với Chúa, mong được Chúa chú ý đến sự khốn khổ của họ, cho thấy niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu và lòng yêu thương dành cho người anh em đang phải khốn khổ vì bệnh tật. Lòng tin của họ đã được Chúa Giêsu không chỉ thấy sự đau khổ của người bất toại, mà còn thấy lòng tin của những người khiêng anh ta đến. Tin mừng nói rõ ràng, thấy lòng tin của “họ” như vậy, Người đã chữa lành... Đó là một sự khích lệ lớn cho chúng ta cầu xin cho một ai đó, khi chúng ta trở thành trung gian nối dài tính trung gian của Đức Kitô đem Chúa đến cho họ.
Con người là con vật xã hội. Xã hội không dành riêng phần đất cho những người tự đóng kín vào mình. Vừa mở mắt chào đời, con người đã phải đón nhận sự nâng đỡ của người khác, rồi trong suốt cuộc đời, không ai có thể tự hào mình không cần nhờ vả đến ai. Sống là một luân lưu của những trao đổi và cảm thông. Tôi phải nhờ đến người khác, và cũng có bổn phận để người khác nhờ đến tôi.
Truyện: Biết chia sẻ cho nhau
Tại một thị trấn nọ có một gia đình nghèo. Cha mẹ làm việc vất vả cả ngày ở nhà máy, các con còn nhỏ ở nhà một mình.
Một hôm, có một người hành khất đến xin bố thí. Một em bé ra mở cửa đăm đăm nhìn người ăn xin rồi chạy vào nhà. Một lúc sau, em trở ra nhỏ nhẹ thưa:
- Chú ơi, chúng cháu rất muốn tặng chú cái gì đó, thế nhưng nhà cháu cũng chẳng có gì để ăn hôm nay, chúng cháu đang đói lắm chú ạ! Chúng cháu rất áy náy phải từ chối chú vậy, chú đừng buồn nhé.
Người hành khất lặng lẽ bỏ đi. Đến sập tối thì ông ta quay lại gõ cửa. Em bé lại ái ngại từ chối như ban sáng. Người ăn xin lúc đó mới nói:
- Các cháu dễ thương của chú, chú không xin các cháu bố thí nữa đâu, nhưng chú lại có cái này để tặng các cháu.
Nói đoạn, người ấy mở chiếc bị đeo bên hông ra, đưa cho mấy đứa bé một vài khúc bánh mì nhỏ và một vài đồng bạc. Ông ta dặn dò:
- Các cháu hãy lấy bánh chia nhau ăn đi kẻo đói lắm rồi, còn tiền thì đợi ba mẹ về, bảo là chú biếu. Chú chỉ là một người ăn xin tàn tật, nhưng chú sẵn sàng chia sẻ với gia đình các cháu, bởi vì các cháu dễ thương và tốt bụng quá.
Câu chuyện mặc khải Chúa Giêsu là Đấng có quyền tha tội:
Quyền này thuộc về một mình Thiên Chúa. Bởi thế khi Chúa Giêsu nói tha tội thì các luật sĩ bảo Ngài là phạm thượng. Muốn được Chúa tha tội thì điều kiện phải có là đức tin: “Thấy họ có đức tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi”.
Đáng chú ý, đức tin trong câu chuyện này là đức tin của tập thể, thân nhân người bất toại: “Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói”.
Điểm thứ hai đáng chú ý nữa là Chúa Giêsu tha tội trước khi chữa bệnh. Nghĩa là Ngài coi tội còn hơn bệnh tật phần xác.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Quyền tha tội thuộc về một mình Thiên Chúa, vì bất cứ tội nào, dù hại đến thân nhân hay hại chính đến tội nhân, xét cho cùng cũng xúc phạm đến Chúa, bởi vì những người đó là con của Chúa. Khi tôi lười biếng không chu toàn bổn phận, tôi cũng xúc phạm tới Chúa, Đấng đã ban cho tôi những khả năng đế phục vụ.
2. Trong bài Phúc Âm này, hình như người bất toại không làm gì cả. Những kẻ có công chính là thân nhân của anh. Đức tin khiến Chúa tha tội và chữa lành cho anh cũng chính là đức tin của các thân nhân anh. Vì thế phép lạ này là kết quả của đức tin tập thể. Khi cá nhân không làm nổi thì tập thể có thể giúp sức, trong lĩnh vực tự nhiên cũng như trong lĩnh vực siêu nhiên.
3. Tội tác hại hơn bệnh. Khi tôi mắc bệnh, tôi lo chữa trị. Vậy khi tôi mắc tội, tôi có mau mắn chữa trị không ?
4. Đức tin là điều kiện để được tha tội. Tôi lãnh nhận bí tích giải tội như thế nào: như một thủ tục, như một thói quen, hay với đức tin ? Đức tin của tôi khi xưng tội là như thế nào ?
1. Với câu chuyện hôm nay, Chúa tế nhị muốn nói với mọi người rằng, Ngài là Thiên Chúa vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Những người luật sĩ và Pharisêu hiểu rất rõ điều đó, cho nên khi Chúa Giêsu nói tha tội thì các luật sĩ bảo Ngài là phạm thượng.
Muốn được Chúa tha tội thì điều kiện phải có là đức tin: “Thấy họ có đức tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi” (Mt 9,2).
Có hai điểm đáng chú ý trong bài Tin Mừng hôm nay:
Điểm thứ nhất là Chúa Giêsu tha tội trước khi chữa bệnh. Nghĩa là Ngài coi tội còn nặng hơn bệnh tật phần xác.
Điểm thứ hai, đức tin trong câu chuyện này là đức tin của tập thể, của những thân nhân người bất toại: “Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói.” (Mt 9,2)
2. Rõ ràng qua câu chuyện hôm nay, Chúa muốn xác định một điều: Quyền tha tội thuộc về một mình Thiên Chúa. Tội, bất cứ dưới hình thức nào xét cho cùng cũng là xúc phạm đến Chúa.
Khi làm phép lạ vì thấy họ có lòng tin, dường như Chúa cũng muốn tế nhị nói với mọi người rằng: Biết thương yêu giúp đỡ nhau là điều đẹp lòng Chúa. Lý do là vì đối với Chúa thì tất cả mọi người đều phải là anh em của nhau. Và đã là anh em thì phải biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Nay người, biết đâu mai lại là ta.
Tục ngữ có câu: Giúp người tức là tự giúp mình.
Trước cổng một nghĩa trang nọ, người ta thấy có một chiếc xe sang trọng dừng lại. Tài xế tiến về phía người giữ cổng và nói:
- Xin anh giúp tôi một tay cho người đàn bà này xuống xe, vì bà ta rất yếu không đi được nữa.
Vừa ra khỏi xe, người đàn bà tự giới thiệu và nói với người giữ cổng nghĩa trang:
- Từ hai năm qua, mỗi tuần tôi là người đã gửi đến cho anh 5 đô-la để mua hoa và đặt trên mộ con trai tôi. Tôi đến đây để chào từ biệt và cám ơn anh vì đã mua hoa giùm cho tôi.
Nói xong những lời đó, bà tưởng sẽ nhận được những lời cám ơn từ môi miệng của một con người mà bà nghĩ rằng, đã làm ơn cho anh ta từ hai năm qua. Thế nhưng, bà không thể ngờ rằng, bà lại nhận được những lời chẳng làm cho bà vui lòng chút nào:
- Thưa bà, tôi lấy làm tiếc vì bà đã làm công việc ấy.
Người đàn bà cảm thấy như bị tát vào mặt, nhưng vẫn còn đủ bình tĩnh để hỏi lại người thanh niên tại sao anh lại lấy làm tiếc vì một cử chỉ đẹp như thế.
Người thanh niên giải thích:
- Thưa bà, tôi lấy làm tiếc vì những người đã chết, như con trai bà chẳng hạn, thì làm sao mà còn thấy được một cánh hoa nào nữa.
Bị chạm tự ái, người đàn bà liền lên giọng:
- Anh có biết là anh đã làm tổn thương một người như tôi không?
Người thanh niên trả lời:
- Tôi xin lỗi bà. Khi tôi nói như thế, tôi chỉ muốn cho bà hiểu rằng, hiện có rất nhiều người đang cần đến những cánh hoa của bà hơn. Tôi là hội viên của một tổ chức chuyên đi thăm những người già lão, các bệnh viện, và hiện có nhiều người đang sống thật cô độc. Chính họ mới là những người đang cần đến những cánh hoa của chúng ta. Họ có thể nhìn và ngửi được những cánh hoa của chúng ta.
Người đàn bà ngồi bất động trong chiếc xe sang trọng một lúc, rồi ra hiệu cho tài xế nổ máy.
Vài tháng sau bà trở lại nghĩa trang, nhưng lần này không cần ai giúp đỡ, bà tự động bước xuống xe với dáng vẻ vui tươi nhanh nhẹn hơn. Điều ngạc nhiên là những lời bà vui vẻ nói với người thanh niên giữ cổng:
- Anh nói có lý, tôi đã mang hoa đến cho những người già lão bệnh tật. Quả thật điều đó làm cho họ hạnh phúc, nhưng người được hạnh phúc hơn chính là tôi. Các Bác sĩ không biết được cái bí quyết làm cho tôi được khỏe mạnh và hạnh phúc, nhưng tôi đã khám phá ra cái bí quyết ấy, tôi đã tìm ra lẽ sống. Tôi đến đây để cám ơn anh. Vâng! Giúp người tức là tự giúp mình.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được,
giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ,
cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ:
giữa biển đời mang con tim núi lửa
với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả
cho mọi người được hạnh phúc yên vui;
còn phần con xin gởi hết nơi Ngài
là Thiên Chúa, là Tình Yêu và là Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời. Amen.
TinMừng – TN 13 – Thứ 6: Kêu gọi người thu thuế Mát-thêu.
"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".
Lời Chúa: Mt 9, 9-13
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?"
Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.
Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,
kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).
Khi Thầy gọi Mátthêu, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.
Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,
dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.
Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.
Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”
Mátthêu không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.
Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.
Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.
Mátthêu nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).
Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.
Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,
nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.
Mátthêu có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?
Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?
Trong nhóm Mười Hai, Mátthêu có chỗ đứng đặc biệt,
người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.
Mátthêu làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,
vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.
Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,
đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.
Khi trở nên môn đệ của Thầy, Mátthêu đã trở nên người phục vụ đồng bào.
Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.
Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!
Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.
Mátthêu đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.
Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.
Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,
nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,
để thế giới nghe và hiểu được.
Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,
phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.
Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?
Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,
nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).
Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?
Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?
Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy
Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.
Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,
dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.
Áp-ra-ham là người trung tín với lời Chúa hứa. Chúa đã hứa cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Ông không dám chung đụng với dân ngoại. Vì thế phải tìm vợ cho I-xa-ác trong dòng họ của ông. Thật là một sự trung tín đáng trân trọng. Ông vẫn nghĩ dòng dõi Chúa hứa là theo phương diện huyết thống thể lý. Nhưng ông cũng đã hiểu phải có một dòng dõi mới sống theo Lời Chúa Hứa. Nên bằng mọi cách phải đưa cô dâu đến. “Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó” (năm lẻ).
Quan niệm đó dần dần được Thiên Chúa thanh luyện. Khi dân Do thái không trung thành với Lời Chúa, lời hứa theo phương diện huyết thống thể lý mất hiệu nghiệm. A-mốt cho thấy dân phạm tội nên đánh mất lời hứa. “Chúng sẽ thất thểu từ biển này qua biển nọ, từ phương bắc đến phương đông, chúng sẽ lang thang để kiếm tìm lời Đức Chúa mà không gặp được”. Lòng họ trở nên thửa đất bờ ruộng, nơi chim trời đến tha mất Lời Chúa. Lòng họ trở nên gai góc sỏi đá bóp nghẹt Lời Chúa (năm chẵn).
Chúa Giêsu đến mở ra một chân trời mới, thiết lập dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái và Luật sĩ, Kinh sư tự hào mình là dòng dõi Áp-ra-ham nhưng lại đóng chặt cửa lòng không nghe Lời Chúa. Những kẻ tội lỗi lại mở lòng đón nhận. Một lời kêu gọi, lập tức Lê-vi chỗi dậy theo Chúa. Bỏ bàn thu thuế đầy tiền bạc. Bỏ nghề thu thuế nhiều lợi nhuận. Bước theo Chúa vào con đường phiêu lưu vô định.
Đây quả là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Biệt phái, Luật sĩ, Kinh sư tự hào là con cháu Áp-ra-ham nhưng không nối tiếp truyền thống thiêng liêng của tổ phụ. Chính Mát-thêu và những người tội lỗi nối tiếp truyền thống này. Như Abraham vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ quê hương, gia đình, tài sản, Lê-vi vừa nghe Lời Chúa đã từ bỏ tiền của, nghề nghiệp. Như Áp-ra-ham lên đường đến miền đất Chúa hứa, Lê-vi và các bạn lên đường theo Chúa Giê-su. Như Áp-ra-ham chỉ biết vâng lời Chúa không tính toán so đo, kể cả sát tế I-xa-ác dâng hiến Chúa, Lê-vi không tính toán, theo Chúa mà chẳng có gì thủ thân. Đây đích thực là dòng dõi mới của Áp-ra-ham. Dòng dõi theo đức tin chứ không còn theo huyết thống.
Tôi thuộc dòng dõi cũ hay dòng dõi mới của Áp-ra-ham? Tôi khép kín hay mở rộng tâm hồn lắng nghe, đón nhận và thực hành Lời Chúa?
Trong hầu hết các nền văn hóa hiện hữu trên thế giới, bữa ăn là một thời điểm, một nghi lễ đặc biệt trong đời sống con người. Con người thường chia giờ giấc trong ngày theo các bữa ăn. Bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày, trong đó mọi thành phần trong gia đình có mặt bên nhau, do đó bàn ăn thường là biểu trương của hiệp nhất. Vì là giờ hiệp nhất, nên bữa ăn cũng là giờ linh thiêng trong cuộc sống. Người ta vẫn nói: "Trời đánh tránh bữa ăn". Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp nhất, cho nên thời xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc Âm thường ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới". Nước Trời giống như một tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế", Chúa Giêsu đả phá những tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn giáo là tình thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
Bỏ nơi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người.
Đức Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi khéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.” (Mt. 9, 9-12)
Người tội lỗi được kêu gọi
Chúa Giêsu quan tâm lo lắng cho những người ốm đau bệnh tật, vì chính họ cần đến Người. Những người mà vì họ Chúa đã đến và kêu gọi đi theo Người, đó là những người tội lỗi, chứ không phải những người công chính.
Những người tội lỗi ám chỉ tất cả những-ai-kia mà xã hội có suy nghĩ, có giáo dục và hãnh diện về tính liêm khíết của mình, xua đuổi, không nhìn nhận và khinh bỉ. Thời Chúa Giêsu người ta gọi những người tội lỗi là tất cả những ai không tuân giữ tỉ mỉ những điều Luật truyền. Từ ngữ người tội lỗi cũng áp dụng cho tất cả những ai cụ thể đang sống trong tội lỗi, đang làm điều xấu. Chính vì những con người đó mà Chúa Giêsu được sai đến.
Nếu Chúa Giêsu yêu thương người tội lỗi, thì Người lại gớm ghét sự tội. Nếu quả Chúa kêu gọi những người tội lỗi, chính là để cho họ trở nên những người công chính. Nên ta có thể tự hỏi: Dù rằng đã là những con người tội lỗi, nếu ta đang trở nên những người công chính, nếu suốt cuộc đời, ta tìm sống thánh thiện và công chính, thì Chúa Giêsu có còn quan tâm đến ta không, có vẫn gọi ta đi theo Người không?
Những người công chính được kêu gọi
Đương nhiên ta phải trả lời có, vì thực ra Chúa luôn luôn kêu goi mọi người: người công chính cũng như người tội lỗi. Lý do đơn giản. Trước thánh nhan Người chẳng có người nào là hoàn toàn công chính. Những kẻ được nên công chính vẫn mang thân phận người tội lỗi.
Chỉ có những người mà thực tế Chúa Giêsu không có thể làm gì được cho họ, đó là những kẻ tưởng rằng mình quả là công chính nên không thấy được nữarằng mình vẫn và luôn luôn cần được tha thứ, được cứu độ, được thanh tẩy và được biến đổi.
Xem CN 10 TN A, thứ Bảy tuần 1 TN và thứ Bảy sau lễ Tro.
Trong dịp lễ tạ ơn của một tân linh mục, mọi người hiện diện được nghe thấy cha mới chia sẻ lúc đầu lễ rằng: “Cộng đoàn cùng với con tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con Thiên Chức linh mục, mặc dù con bất xứng, yếu hèn và vô dụng. Nhưng vì yêu thương, nên Chúa đã gọi và chọn con tiến lên bàn thánh để con trở thành linh mục của Chúa”. Câu nói đó của tân linh mục diễn tả một sự cảm nghiệm sâu xa tình thương mà Chúa dành cho cha.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Mátthêu, người thu thuế, hẳn ông cũng cảm thấy mình bất xứng vì công việc bất chính của ông đang làm. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã gọi ông để ông trở thành môn đệ.
Khi nghe thấy tiếng Chúa mời gọi, ông đã cảm nghiệm được tình yêu của Đức Giêsu, nên ông đã dứt khoát đứng dậy, rời khỏi bàn thu thuế, nơi ông đang làm việc, nơi ông đã gắn bó, nơi là sự nghiệp đã nuôi sống ông và gia đình ông, để đáp lời mời gọi đầy trìu mến và đi theo Đức Giêsu.
Thật vậy, một tình yêu, một lòng mến, Đức Giêsu đã gọi ông. Cũng một tình yêu, một lòng mến, ông đã đáp lại tiếng Đức Giêsu mời gọi, để tiếp bước trên hành trình loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa trong cuộc đời môn đệ nơi ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhận ra mình bất xứng để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Mặt khác, từ những gì đã cảm nghiệm, Chúa cũng muốn mời gọi chúng ta sẵn sàng cảm thông cho những yếu đuối của anh chị em mình, sống khiêm tốn và đón nhận Thánh giá trong hành trình môn đệ của mình như một hồng ân.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã được Chúa yêu thương quá nhiều, dù chúng con bất xứng. Xin Chúa cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng con, để rồi chúng con ra đi loan báo về tình yêu đó cho anh chị em mình. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu tỏ lòng ưu ái và cứu vớt những người tội lỗi. Ngài chính là Đấng cứu thế phải đến để chữa lành mọi tật nguyền hồn xác của ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, càng suy gẫm con càng thấy tình Chúa yêu thương con thật quá bao la. Con được Chúa yêu thương không phải vì con xứng đáng mà vì Chúa muốn yêu thương con. Chúa ơi, từ đáy lòng con, con biết con là kẻ tội lỗi. Nhưng cũng như thánh Mat-thêu, con càng tội lỗi bất xứng thì Chúa lại càng yêu thương và kêu gọi con.
Lạy Chúa Giêsu, tình yêu của Chúa phủ lấp tội lỗi của con. Vì thế, Chúa không để con phải ngụp lặn mãi trong tội. Trái lại, Chúa đã đi bước trước và đã đến tìm gặp con trong chính vũng lầy tội lỗi, như Chúa đã đích thân đến trạm thu thuế để gọi thánh Mat-thêu. Chúa đã tạo cho con những cơ may để làm lại cuộc đời.
Nhưng lạy Chúa, đã biết bao lần con để những cơ may đó qua đi. Con càng chần chừ lưỡng lự, Chúa càng kiên nhẫn đợi chờ. Tình yêu bao dung của Chúa luôn khích lệ con. Cứ mỗi một ngày mới đến, là một lời mời gọi của Chúa lại gởi đến cho con. Xin cho con biết lắng nghe và quảng đại đáp lại lời Chúa mời gọi như thánh Mat-thêu, mau mắn và dứt khoát không chút ngần ngại.
Và lạy Chúa, xin Chúa dùng con và biến con nên khí cụ của lòng thương xót Chúa. Xin Chúa dạy con biết tìm đến những anh chị em tội lỗi và xấu số trong xã hội, và tỏ lòng ưu ái cảm thông với họ. Ước gì lời nói ngọt ngào và thái độ hiền dịu của con sẽ là bước mở đầu để anh chị em con trở về với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ”.
1. Chính thánh Mattêu, là người thu thuế, đã thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi ông làm môn đệ Ngài. Tuy là người tội lỗi, khi được Chúa kêu gọi ông đã đi theo Ngài không chút do dự. Việc gọi Matthêu và việc Chúa Giêsu ăn uống đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, cho thấy Ngài tỏ lòng ưu ái đối với họ. Những người Biệt phái thắc mắc và chỉ trích Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã trả lời bằng cách nêu rõ sứ mệnh của Ngài là sứ mệnh của một Lương y, một vị Mục tử nhân hiền, luôn yêu thương săn sóc những con chiên đau ốm và bị thương.
2. Chúa Giêsu đã cư xử với Matthêu với tất cả tấm lòng cảm thông, tha thứ, và yêu thương của Ngài. Tại sao thế? Bởi vì Ngài luôn quan tâm đến những người tội lỗi để giúp họ cải tà qui chính.
Một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thế nào chấp nhận được; người khỏe mạnh thì không cần đến bác sĩ... Cũng thế, Chúa Giêsu không còn là Đấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Người Do thái coi người thu thuế, một hạng người được coi là tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Đế quốc La Mã, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi, không tốt. Nhưng Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái và luật sĩ luôn nghĩ xấu cho hạng người này. Chúa thì lại nói: “Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính mà là gọi những kẻ tội lỗi”, và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”.
3. Sau khi đã bỏ mọi sự theo Chúa, Matthêu liền tổ chức ăn mừng, ông kêu gọi nhiều bạn bè thân hữu đến dùng tiệc, dĩ nhiên là có nhiều người thu thuế và tội lỗi, không loại trừ biệt phái và luật sĩ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc âm ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
4. Chúa Giêsu đã không gọi những người công chính làm môn đệ của Người, nhưng Chúa đã chọn ông Matthêu là một người thu thuế bị xã hội Do thái thời đó khinh rẻ và thù nghịch. Và chính thánh Matthêu cũng đã dạy cho chúng ta một bài học về thái độ khiêm tốn, luôn ý thức rằng mình là người tội lỗi và cậy trông vào lòng thương xót của Chúa. Nếu ta biết nhận thức một cách sâu xa về tình thương của Chúa không phải bằng những ý nghĩa trừu tượng hay mơ hồ, nhưng bằng với sự xác tín, thì người đó sẽ trở thành một tông đồ đích thực của Người. Như thánh Phaolô xác quyết rằng: “Người tông đồ của Chúa là người có đầy đức tính khiêm tốn, hiền hòa và kiên nhẫn theo gương Thầy là Đức Kitô”. (Mỗi ngày một tin vui).
5. Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm tông đồ cho Chúa. Thế nhưng bạn có đáp lại lời kêu gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn tôi nặng trĩu trước lời mời gọi?
Một số người được Chúa mời gọi khi còn niên thiếu, số khác được Chúa tỏ cho biết ơn gọi khi đã lớn khôn. Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên hệ xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Chúa gọi thì không phân biệt quá khứ bạn là ai, nhưng chỉ thấy bạn từ lúc bạn bắt đầu bước theo. Cùng với ơn soi sáng cho bạn nhìn thấy ơn gọi, điều quan trọng là bạn không mặc cảm với quá khứ, mau mắn đáp trả, bỏ lại mọi sự và bước theo Chúa.
6. Truyện: Lòng quảng đại của vị thiền sư.
Trong các giai thoại về những thiền sư nổi tiếng ở Nhật Bản, người ta đọc được một câu chuyện như sau:
Một buổi tối nọ, thiền sư Shechery đang ngồi thiền thì có một tên cướp xông vào nhà, hắn dí gươm vào cổ nhà tu hành và dọa sẽ giết nếu không trao hết tiền bạc cho hắn. Vị thiền sư không để lộ một chút sợ hãi nào, ông chỉ vào cái hộp, rồi nói với tên cướp: “Tiền đựng trong cái hộp kia, ngươi hãy để cho ta yên”, nói xong ông tiếp tục tụng niệm.
Sau một lúc, ông nhìn lại và nói tiếp với tên cướp: “Đừng lấy hết tiền của ta, để lại cho ta một ít, vì ngay mai ta phải đóng thuế”. Nhưng tên cướp đã không màng gì đến lời yêu cầu của vị thiền sư. Hắn lấy hết tiền trong cái hộp và nhét đầy túi, hắn vừa ra đến cửa, nhà sư nói vọng ra: “Ngươi không biết nói một tiếng cám ơn khi nhận quà sao”? Không quá tiếc lời với khổ chủ, tên cướp đành nói tiếng cám ơn và bỏ đi.
Vài ngày sau, vị thiền sư được tin là kẻ gian ác đã sa lưới pháp luật. Hắn nêu đích danh vị thiền sư là người đã bị hắn uy hiếp. Thiền sư Shechery được mời ra tòa để làm chứng. Trước mặt mọi người ông đã tuyên bố như sau: “Đối với riêng cá nhân tôi thì người này không phải là tên cướp. Tôi đã cho anh ta tiền và anh ta đã mở miệng cám ơn tôi”.
Vì có quá nhiều tiền án tiền sử, cho nên tên cướp đã bị tống giam. Sau khi mãn hạn tù, anh ta đã tìm đến với vị thiền sư và xin làm đồ đệ của ông.
Thánh Mátthêu tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi chính ông:
Ông là một người thu thuế tội lỗi.
Chính Chúa Giêsu là người đi bước trước tới ông: “Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy Ngài phán bảo ông.”
Bởi thế ông rất mừng và mau chóng đáp lời: “Ông đứng dậy và đi theo.”
Ông mừng đến nỗi ngay sau đó mở tiệc khoản đãi Chúa Giêsu và các bạn thu thuế của mình.
Qua kinh nghiệm này, thánh Mátthêu hiểu Chúa Giêsu là thầy thuốc của những kẻ tội lỗi bệnh tật linh hồn: “Ta đến không phải để kêu gọi kẻ công chính nhưng đến để kêu gọi người tội lỗi.”
Suy gẫm
1. Bản thân tôi cũng là một kẻ tội lỗi được Chúa thương kêu gọi đi theo Ngài. Lẽ ra tôi phải luôn nhớ mãi hồng ân ấy và cũng quảng đại với những người tội lỗi như tôi. Thế nhưng hình như khi tôi được Chúa gọi rồi thì tôi liền quên ngay chuyện đó. Tôi tự coi mình là công chính và lên mặt khó chịu với những kẻ tội lỗi. Tôi không muốn Chúa kêu gọi thêm những người tội lỗi nào nữa cả.
2. Trước lúc Chúa Giêsu gọi, Mátthêu “ngồi”: tư thế không muốn thay đổi, tại “bàn thu thuế”: môi trường sống tội lỗi. Nhưng ngay khi được Chúa Giêsu gọi, ông nhanh chóng “đứng dậy” và “đi theo.” Thái độ này biểu hiện sự dứt khoát thay đổi, một hành trình mới.
3. Chúa Giêsu thầy thuốc chữa trị những nỗi đau của con người, Ngài đến là nhằm kêu gọi những kẻ tội lỗi, Ngài bảo “Ta muốn lòng nhân từ.” Bây giờ tôi là đại diện của Chúa. Tôi sống và cư xử như thế nào để người ta hiểu Chúa của tôi là như thế? Tôi thấy có cần điều chỉnh hay sửa đổi gì trong cách sống và cư xử của tôi?
4. Đồ phế thải và người phế thải:
Abbé Pierre chuyên giúp những người nghèo và vô gia cư để họ tự lực cánh sinh từ những vật dụng phế thải. Cha kể lại câu chuyện sau đây:
“Có một cựu tù nhân sống lang thang không nhà cửa nên thất vọng dùng dao cắt mạch máu của mình. Có người gọi điện thoại cho Cha. Cha lập tức đến nơi. Cha không một lời an ủi nhưng nói với ông ta như ra lệnh: “Anh đừng tự vẫn. Còn quá nhiều người kém may mắn cần sự giúp đỡ của tôi. Tôi cũng đang bệnh và cần sự giúp đỡ của anh.” Nghe những lời đó, đôi mắt lờ đờ của người đàn ông sáng lên và từ đó ông trở thành một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha.
5. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu thương chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm trong bốn bức tường Nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ thì nơi đó có Chúa hiện diện, có bình an, có Nước Trời.
1. Thánh Mátthêô tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi chính ông:
Là một người thu thuế tội lỗi, ông bị mọi người khinh khi ruồng bỏ. Vậy mà Chúa Giêsu đã đích thân đến tìm ông.
Chính Chúa Giêsu là người đi bước trước: “Chúa Giêsu đi ngang qua, Ngài phán bảo ông”. Và bằng một cái nhìn đầy lòng yêu thương Chúa kêu gọi ông.
Ông rất mừng và mau chóng đáp lời: “Ông đứng dậy và đi theo” (Mt 9, 9).
Ông mừng đến nỗi ngay sau đó ông đã mở tiệc khoản đãi Chúa Giêsu, các môn đệ của Chúa và các bạn cùng làm nghề thu thuế với mình.
Qua kinh nghiệm này, thánh Mátthêô hiểu Chúa Giêsu là thầy thuốc của những kẻ tội lỗi, bệnh tật linh hồn: “Ta đến không phải để kêu gọi kẻ công chính nhưng đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).
2. Chúa Giêsu là thầy thuốc chữa trị những nỗi đau của con người. Ngài đến nhằm kêu gọi những kẻ tội lỗi. Ngoại trừ những con người luôn có sẵn một mối hận thù đối với Ngài, còn ngoài ra thì ai gặp Ngài cũng cảm thấy họ gặp được một Đấng đầy yêu thương với cái nhìn cảm thông, tha thứ, quảng đại luôn mở rộng vòng tay đón nhận mọi người kể cả những người tội lỗi.
Chúa Giêsu đã cư xử với Matthêô trong bài Tin Mừng hôm nay bằng tất cả tấm lòng cảm thông, tha thứ và yêu thương ấy. Tại sao thế? Bởi vì Ngài luôn quan tâm đến những người tội lỗi để giúp họ sửa lại cuộc sống của mình.
Chẳng phải riêng gì Matthêô mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra được sự tử tế, sự quan tâm, tình khoan dung được thể hiện qua những cử chỉ và lời nói đầy tình thương của Chúa. Chẳng ai gặp Ngài mà lại không cảm nhận được ánh mắt từ bi nhân hậu ấy. Từ những môn đệ đầu tiên gặp Ngài dọc theo biển hồ Galilé đến Matthêô, rồi đến Giakêu, một trong những thủ lãnh của những người thu thuế, rồi đến người đàn bà phạm tội ngoại tình, tới ông Phêrô sau khi phạm tội chối Thầy và nhất là người trộm cùng bị đóng đinh bên hữu Ngài. Tất cả đều đã một lần bắt gặp ánh mắt toát ra sự tử tế, lòng cảm thông và lòng nhân hậu của Chúa.
Vâng! Chúa là như thế, còn chúng ta thì sao?
Sau khi thắng trận lớn, Sở Trang Vương mở đại yến khao tướng sĩ để tưởng thưởng công lao và lòng trung thành. Vua truyền cho các cung nữ của mình ra hầu tiệc. Đang ăn bỗng một trận gió làm đèn đuốc tắt hết. Lợi dụng bóng tối, một quan đại phu ôm chầm lấy người đẹp đang chuốc rượu cho mình và hôn. Người đẹp chính là nàng Hứa Cơ đang được nhà vua sủng ái nhất. Hứa Cơ bèn giật đứt giải mũ của vị quan ấy và đem trình vua xin ngài trừng trị đích đáng.
Thay vì phẫn nộ, vua ra lệnh cho các quan đều bỏ giải mũ khi đèn sáng. Không ai hiểu tại sao ngoài ba người liên quan. Sở Vương nói:
- Trong nguy biến, các quan đã liều thân vì nước, khi vui say, các quan quên lễ phép một chút, có sao đâu? Lẽ nào vì một chuyện nhỏ mà quên đi lòng hy sinh cao cả của người khác.
Hai năm sau, nước Sở đánh nhau với nước Tần. Đánh luôn năm trận mà trận nào cũng có một viên quan võ liều chết xông ra phía trước, đánh rất dũng cảm làm cho quân Tần phải lui binh. Nhờ vậy, quân Sở đại thắng. Sở Trang Vương lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Trẫm đãi khanh cũng như mọi người khác, cớ sao khanh lại hết lòng giúp trẫm như vậy?
Võ quan trả lời:
- Thần rắp tâm đem tính mạng dâng cho bệ hạ đã lâu, nhưng nay mới có dịp đáp đền nghĩa xưa. Thần đây chính là người ngày xưa đã bị giật đứt giải mũ mà bệ hạ không nỡ hành tội.
Vâng! Tội lỗi thì ai mà chả có. Có ai trong cõi đời này thích mang tội trong mình mãi đâu. Vấn đề là làm sao cho người có tội tìm được cơ hội để đền được tội mình. Không phải Matthêô không ý thức được mình là người có nhiều lỗi lầm làm cho nhiều người ghét bỏ. Rất may là Matthêô đã gặp được Chúa. Đúng là Chúa đã ban cho ông một cơ hội bằng vàng và ông đã không phụ lòng Chúa. Chúng ta phải cám ơn Chúa vì nhờ đó mà chúng ta có được một người viết lại cuộc đời của Chúa để truyền lại cho các thế hệ mai sau trong đó có chúng ta.
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa,
một quả tim quảng đại, biết mỗi ngày vươn lên cao,
vượt lên trên mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
để con luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào có thể khuấy động hồn con.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
và cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".
Lời Chúa: Mt 9, 14-17
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?"
Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
Mỗi năm người Do thái dành một ngày chính thức để cả nước ăn chay.
Đó là ngày lễ Xá tội (Lv 23, 29).
Tuy nhiên cũng có những ngày ăn chay khác có tính tập thể
để kỷ niệm những biến cố đau buồn của dân tộc.
Ngôn sứ Giôen đã mời người ta ăn chay, khóc lóc và than van (Ge 2, 12).
Vào thời Đức Giêsu, các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và nhóm Pharisêu
còn ăn chay do lòng đạo đức riêng, có người hai lần một tuần (Lc 18, 12).
Nhìn chung bầu khí ăn chay không phải là bầu khí vui tươi phấn khởi.
Bởi đó có người cố mang bộ mặt rầu rĩ để khoe là mình đang ăn chay.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu bị các môn đệ của Gioan tra hỏi
về chuyện tại sao các môn đệ của Ngài lại không ăn chay như họ (c. 14).
Đối với họ ăn chay là một việc đạo đức quan trọng, không thể thiếu
trong đời sống của một nhóm như nhóm các môn đệ Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trả lời họ bằng một câu hỏi khác.
Gián tiếp Ngài nhận mình là chàng rể, các môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Chính vì thế chuyện ăn chay than khóc hoàn toàn không hợp chút nào.
Bầu khí vui tươi là nét đặc trưng của thời kỳ Đấng Mêsia đến.
Đúng là cần phải sám hối, vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 4, 17),
nhưng Nước Trời được ví như một tiệc cưới lớn (Mt 22, 1-14; 25, 1-13),
nên phải đón lấy Nước này trong niềm vui của ngày hội.
Chỉ khi nào chàng rể Giêsu bị đem đi trong cuộc Khổ nạn,
khi ấy các môn đệ của Ngài mới ăn chay.
Các Kitô hữu sơ khai vẫn giữ việc ăn chay (Cv 13, 2; 14, 23; 2 Cr 6, 5)
đặc biệt vào những ngày thứ tư và thứ sáu (sách Điđakhê 8, 1),
thay vì thứ hai và thứ năm như người Do thái.
Nhưng họ ăn chay không phải để chờ một Đấng chưa đến,
mà để chuẩn bị lòng mình đón đợi một Đấng sắp lại đến trong vinh quang.
Đức Giêsu đem đến những giáo huấn và tinh thần mới mẻ.
Liệu có thể ghép những cái mới đó vào cái khung của lối sống cũ không?
Bằng hai ví dụ, Ngài cho thấy điều đó khó thực hiện và gây nguy hại.
Miếng vải mới được vá vào chiếc áo cũ, sẽ co lại và làm áo rách thêm.
Rượu mới được đổ vào bầu da cũ, thì bầu sẽ bị nứt mà rượu lại chảy ra.
Đối với Đức Giêsu, muốn giữ được cả bầu lẫn rượu mới, thì cần có bầu mới.
Bầu mới chính là cách sống mới Luật Tôra của Thiên Chúa
như đã được Ngài giải thích lại trong Bài Giảng trên núi.
Kitô hữu được định nghĩa là những người luôn sống trong niềm vui,
bất chấp những bách hại và giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Chàng rể đã bị đem đi, nhưng Chàng rể vẫn đang ở lại (Mt 28, 20).
Bầu khí của tiệc cưới và rượu mới
vẫn là bầu khí của mọi cộng đoàn Kitô hữu hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Thiên Chúa luôn bất ngờ. Vì luôn yêu thương. Luôn đi bước trước. Luôn có sáng kiến. Bất ngờ vì vượt quá sức tưởng tượng của con người. Bất ngờ vì luôn yêu thương, tha thứ. Và nhất là sửa chữa lại những sai lầm của con người một cách trổi vượt. Kế hoạch đầu tiên trao gửi cho bà E-và đã thất bại. Lập tức Chúa có sáng kiến tuyển chọ Áp-ra-ham để thiết lập một dân riêng. Dân tộc mà Chúa yêu thương tuyển chọn luôn thay lòng đổi dạ, phản bội Chúa. Họ lãnh lấy hậu quả thảm khốc. Mất nước. Thành quách xiêu đổ. Dân bị lưu đầy. Đất đai thuộc về đế quốc nên phải nộp hoa màu cho kẻ xâm lược. Nhưng sau một thời trừng phạt, Chúa lại yêu thương phục hồi họ. “Ta sẽ đổi vận mạng của Ít-ra-en dân Ta: chúng sẽ tái thiết những thành phố điều tàn và định cư ở đó; chúng sẽ uống rượu vườn nho mình trồng, ăn thổ sản vườn mình canh tác” (năm chẵn).
Nhưng khi cần Chúa sẵn sàng làm ra những con người mới. Để có thể hoàn thành kế hoạch của Chúa. Vua Sa-un không vâng lời Chúa. Lập tức Chúa tuyển chọn Đa-vít. E-sau thất bại vì đã ham ăn mà bán chức trưởng nam. Chúa lập tức tuyển chọn Gia-cóp. Và Gia-cóp trở thành tổ phụ được hưởng mọi phúc lành. “Xin Thiên Chúa ban cho con sương trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào. Các dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con” (năm lẻ).
Kế hoạch sau cùng vô cùng tuyệt hảo. Đó là Con Một Chúa xuống thế làm người ở với chúng ta. Đó là một sáng kiến vô cùng mới mẻ. Cao siêu vượt quá trí khôn loài người. Chúa lập ra đạo mới vượt xa đạo cũ. Đạo cũ chuyên chăm giữ luật. Đạo mới sống với Chúa trong tình yêu. Chúa lập ra một dân mới thay thế dân cũ. Dân cũ căn cứ vào huyết thống Áp-ra-ham. Dân mới căn cứ vào đức tin của Áp-ra-ham. Đạo mới là tấm áo mới may bằng vải mới. Là chất rượu mới thơm tho mãnh liệt. Con người vì thế phải đổi mới để thích hợp. Phải trở thành áo mới. Không thể vá áo cũ. Phải trở thành bầu da mới. Để chứa đựng rượu mới nồng nàn. Không đổi mới sẽ như manh áo cũ rách tả tơi. Như bầu da cũ nổ tung khi gặp rượu mới. Phải đổi mới. Như Gia-cóp có thể thay thế E-sau. Như Đa-vít trổi vượt Sa-un. Như các môn đệ vượt qua các kinh sư và biệt phái.
Xin cho con không ngừng từ bỏ con người cũ. Không ngừng đổi mới. Để con trở thành bầu da mới. Chứa đựng được rượu mới của Chúa.
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Chẳng ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu da sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.” (Mt. 9, 16-17)
Đức Giêsu, con người tự do
Chúa Giêsu yêu mến các truyền thống, nhưng Người không phải là con người bảo thủ. Người thông thạo Lề Luật, vàbiết cách tuân thủ, nhưng không làm nô lệ cho Luật. Người tôn trọng những cái cũ, nhưng không để cho những cái đó làm trở ngại cho đời sống được canh tân và được thể hiện vuông tròn.
Chúa Giêsu yêu thích cái mới, tạo nên cái mới, sống chết vì sự canh tân. Phúc âm của Người, chính là nguồn sinh lực mới mẻ và tươi mát. Không có chi lải nhải. Chúa Giêsu không chống lại việc giữ chay theo Luật truyền. Người thường ăn chay. Nhưng không ngại bãi bỏ việc giữ chay không có lý do thích hợp vì nó cản trở niềm vui chan hòa của con người. Chúa Giêsu nhìn nhận rằng người ta không thể suốt đời cứ huênh hoang tự đắc về những tập tục cũ kỹ và những cách suy nghĩ lỗi thời. Người đã rao giảng sự canh tân thường xuyên con người, việc làm và cách làm. Người luôn có những bước khởi đầu mới mẻ, với nhiệt tình hăng say luôn mới. Người là con người tự do, có khả năng xông pha mạo hiểm.
Chúng ta có là những con người tự do không?
Chúng ta có là những con người tự do như Chúa Giêsu không? Mặc dầu vẫn phải tôn trọng quá khứ, chúng ta có được khả năng sống luôn hướng về tương lai không? Dù ở tuổi nào, ta vẫn có được óc sáng kiến, tinh thần sáng tạo chứ? Có những ngày nào, ta thấy thích thú đoạn tuyệt với nhưng lề thói cũ, sẵn sàng hướng về những phiêu lưu mới mẻ, sẵn sàng đương đầu với những thách đố mới không?
Nếu cuộc sống của ta chẳng bao giờ có được điều chi mới mẻ, nếu lòng tin của ta không hề thúc đẩy ta làm được việc gì mới lạ, nếu ta chỉ sống với những gì đã cũ kỹ, dã qua, đã được làm rồi, nếu cuộc đời thường ngày của ta, mỗi ngày chỉ là rập theo vết xe lăn cũ, thế thì chúng ta đã tự giam hãm mình vào những bầu rượu cũ và chúng ta đang sống xa, rất xa tinh thần Phúc âm rồi đấy.
Xem lại CN 8 TN B, Thứ Hai tuần 2 TN, thứ Sáu sau lễ Tro, và thứ Sáu tuần 22 TN.
Đã nhiều lần Đức Giêsu bị những người Pharisêu cho rằng Ngài không giữ Lề Luật của Môsê. Họ kết án Đức Giêsu là người vô kỷ luật. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã phủ nhận chuyện đó và Ngài đã khẳng định: “Tôi đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn”. Thật vậy, Lề Luật Cựu Ước chỉ là một sự chuẩn bị cho Con Người và sứ vụ của Đức Giêsu đến mà thôi.
Nhưng nay, thời đã điểm và Đức Giêsu đã đến, Ngài hiện diện như những gì các tiên tri đã tiên báo và Lề Luật của Môsê hướng tới. Vì thế, giờ đây, chính Ngài là nội dung của Luật, nên hãy sống với một tinh thần mới chứ không phải mong đợi nữa, vì Chàng Rể là Đức Giêsu đã đến.
Tinh thần mới ở đây chính là lòng bao dung, tha thứ, hiền hòa, nhân hậu, từ bỏ con đường tội lỗi. Đổi mới bầu da cũ là bỏ đi nếp sống không còn phù hợp với Tin Mừng và thay vào đó là những cách sống mà Đức Giêsu đã vạch ra, đó là: “Mến Chúa và yêu người”. Thiên Chúa không thể đổ tràn ân sủng mới của Ngài vào trong một thân thể cũ với đầy những tội lỗi, những thù hằn, ghen ghét ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức mình là người tội lỗi, để đáng được đón nhận
Sứ điệp: Đi vào giao ước mới thì phải mang lấy tinh thần mới. Đối với Chúa Giêsu, giữ đạo chỉ có giá trị thực sự khi lấy Chúa làm trung tâm và hết lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua Tin Mừng, con biết Chúa khó chịu lắm khi thấy người Do Thái giữ đạo kiểu hình thức. Chúa thấy họ quên mất rồi những mục đích của luật lệ. Chúa ban luật lệ để nhờ đó con người biết lối biểu lộ lòng mến yêu và trung tín với Chúa. Nhưng họ đã bóp méo đạo Chúa: điều chính hóa ra phụ và điều phụ thành ra chính. Phương tiện trở nên mục đích, còn mục đích lại bị coi thường.
Lạy Chúa, Chúa đã đến uốn nắn lại những sai lầm trong việc giữ đạo. Chúa thiết lập giao ước mới để kiện toàn giao ước cũ. Chúa muốn chắp lại đôi cánh cho lề luật, để lề luật thật sự trở thành phương tiện chở con đi về với Chúa. Lòng yêu mến chính là đôi cánh cho lề luật. Xin dạy con giữ luật với lòng yêu mến, để luật lệ khỏi biến thành cái ách nặng nề làm khổ con và kéo con đi trệch đường. Xin dạy con đừng bao giờ tự bằng lòng với chính mình trong cách sống đạo chỉ có hình thức bên ngoài, nhưng biết giữ đạo vì lòng mến Chúa chân thành.
Tuy thế, lạy Chúa, tự nhiên con khó mến Chúa. Đức mến là một ân huệ. Nếu Chúa không ban cho, thì con chẳng thể mến Chúa. Xin Chúa tăng thêm lòng mến cho con để con cảm thấy niềm vui được sống trong lề luật của Chúa. Chúa đã ban rượu mới là giao ước mới cho con, thì xin Chúa cũng giúp con biến đổi tâm hồn mình thành bình da mới đầy tình yêu mới, để đời con mỗi ngày mỗi đẹp lòng Chúa hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ”.
Người Do Thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều. Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay anh chị em Hồi giáo vẫn tuân giữ trong suốt tháng Ramadan (tháng thứ 9 của âm lịch Ả Rập).
Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm (âm lịch), bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.
Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do Thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo ăn chay một năm hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.
Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích ý nghĩa việc ăn chay:
Thứ nhất: Để kiềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: “Sự thèm muốn bị kiềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.
Thứ hai: Nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Đaniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.
Thứ ba: Ăn chay để đền bù cho những tội lỗi của mình: “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.
Suy niệm
Việc giữ chay theo truyền thống Do Thái giáo, liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Cho nên, khi chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế mọi người chay tịnh chuẩn bị như cách sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đón Ngài.
Đức Giêsu không loại bỏ việc ăn chay. Ngược lại Ngài đã dạy các môn đệ rằng, chỉ có ăn chay cầu nguyện mới trừ được quỷ (x. Mt 17,21). Chính Ngài có bốn mươi ngày ăn chay trong hoang địa trước khi bắt đầu sứ vụ công khai (x. Lc 4,1-2). Ngài nhấn mạnh đến chiều kích tâm hồn của ăn chay: Không hình thức vụ lợi bên ngoài nhưng là ẩn sâu trong tâm hồn.
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đến như tân lang trong tiệc cưới – tiệc cứu độ tình yêu đem niềm vui đời đời cho chúng ta. Gioan Tiền hô giới thiệu Đức Giêsu như là tân lang vẫn được mong đợi: Nay tân lang đã đến và có cô dâu, và tuyên bố ông là “bạn của tân lang” (x. Ga 3,29).
Đức Giêsu tự giới thiệu như là “Chàng Rể” (x. Mc 2,18-20). Sau này thánh Phaolô tông đồ cũng nhấn mạnh: Đức Kitô - Hôn phu và Giáo hội - Hiền thê (x. 2Cr 11,2; Ep 5,25-33). Thánh Âugustinô đã viết: “Hôn phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của Đức Chúa hiện thân”....
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế - Tân lang đang hiện diện, do đó các môn đệ là các phù rể, là bè bạn Ngài đang dự tiệc cưới thì không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Vì thời của Ðấng Cứu Thế - Tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột và chay tịnh.
Chỉ khi “Tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay” (Mt 9,15). Đức Giêsu nhấn mạnh đến cái chết của Ngài. Một khi Ngài rời khỏi thế gian để lên cùng Cha, lúc đó các môn đệ ăn chay. Ngày nay, Giáo hội vẫn tha thiết kêu mời con cái mình ăn chay hướng lòng chờ đợi ngày Đức Giêsu lại đến trong ngày quang lâm.
Xin cho chúng ta hiểu tâm tình căn bản của người môn đệ trong thời Tân ước là tâm tình được đổi mới nên luôn vui tươi. Cũng như hiểu ý nghĩa chay tịnh: Chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến trong thức tỉnh với trọn tâm tình yêu mến chứ không phải với hình thức bên ngoài... Hãy xé lòng đừng xé áo như lời ngôn sứ Gioen đã nhắc nhở, kêu mời (x. Ge 2,12).
Ý lực sống:
“Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái” (Thánh Âugustinô).
Môn đệ ông Gioan thấy môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay thì hỏi: sao môn đệ Ngài không ăn chay? Chúa đáp: Trong tiệc cưới, bao lâu chàng rể còn ở lại thì bạn bè vẫn vui mừng, chừng nào chàng rể đi rồi thì họ mới buồn rầu chay tịnh. Qua bài Tin mừng, Chúa Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới, trong đó chính Ngài là chàng rể, còn các môn đệ là phù rể. Vậy nên chỉ sau khi chàng rể bị đem đi, nghĩa là sau cái chết của Chúa Giêsu, thì lúc đó các môn đệ mới giữ chay: giữ chay vì thương nhớ, và để đón chờ Chúa trở lại.
Ăn chay, cầu nguyện, làm phúc bố thí là ba sinh hoạt chính trong đời sống đạo đức của Do thái giáo. Họ có một cuộc ”đại chay” bắt buộc nhân ngày lễ xá tội. Đồng thời họ cũng có những cuộc chay tịnh khác mang tính cách tập thể, chẳng hạn gặp ngày tổ quốc gặp hoạn nạn. Ngoài ra, những người đạo đức còn ăn chay vì lòng sốt sắng, như các môn đệ của Gioan Tẩy giả và những người Biệt phái, họ thường ăn chay mỗi tuần hai lần vào ngày thứ hai và thứ năm. Chung qui lại, ăn chay đối với Do thái giáo bao gồm ba ý nghĩa chính:
- Để tỏ lòng sám hối và xin ơn.
- Để chờ đợi Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân khỏi ách đô hộ ngoại bang.
- Lòng đạo đức nhiệt thành.
Ý nghĩa việc ăn chay
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Đấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Đấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Đấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần trông đợi nữa. Đó là thái độ hợp thời và hợp lý; họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Đấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan (Mỗi ngày một tin vui).
“Rượu mới thì đổ vào bầu da mới”
Chúa đến khai mạc một luật mới, một hiến chương mới của Nước trời. Luật mới này đòi hỏi con người, cụ thể là người Do thái thời đó, phải thay đổi hoàn toàn đời sống, hay nói một cách gợi hình hơn “phải lột xác”. Việc ăn chay, do đó, sẽ chẳng giống như luật cũ. Hai thí dụ Chúa dùng để giải thích cho đòi hỏi đó rất linh động và gợi hình, là không nên lấy vải mới vá vào áo cũ, không đổ rượu mới vào bầu da cũ. Tức là Chúa quyết liệt khẳng định: bây giờ là lúc phải theo luật mới của Tân ước.
Chúng ta có thể đưa ra một số chứng từ cụ thể trong Tin mừng để thấy bản chất luật mới của Chúa Giêsu: thương yêu là căn bản trong tương quan của mỗi người đối với Thiên Chúa và với tha nhân – tôn trọng sự thật, chân lý, lẽ phải ngay từ trong thâm tâm – không trình diễn, khoe khoang những việc đạo đức, chỉ cần chính tâm, thành ý, làm hơn là nói – không nệ luật cứng nhắc, máy móc, nhưng phải uyển chuyển trên tiêu chuẩn bác ái v.v...(Lm. Phạm Văn Phượng).
Ngoài ra, ăn chay đối với người Kitô hữu cũng có nghĩa là “dấn thân” cho một thế giới mới, xây dựng một trật tự và một nếp sống mới trong những mối tương quan mới về hiệp nhất, yêu thương với Chúa và với anh chị em chung quanh ta.
Trong bài giáo huấn hồi tháng 3 năm 1979, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của sự chay tịnh như sau: “Chay tịnh là khước từ khoái cảm, các kích thích lạc thú và ngay cả thức ăn của uống, tự nó không phải là mục đích, nhưng nó phải mở đường cho những giá trị sâu xa hơn mà con người nội tâm cần phải được nuôi dưỡng. Một sự khước từ, một sự hãm dẹp thân xác như thế, phải giúp tạo nên trong con người những điều kiện, để có thể sống những giá trị cao cả mà nó hằng khao khát”.
Truyện: Ý nghĩa việc ăn chay
Có một đan sĩ nọ, trong một phút yếu lòng, đã phạm một tội rất nặng. Thầy cảm thấy hối hận sâu xa và quyết định bỏ ba năm để đền tội. Ngày kia, thầy đến hỏi Đức Viện phụ:
- Thưa cha, ba năm trời có đủ để khóc than và đền bù tội lỗi của con không?
- Ba năm nhiều quá! Viện phụ đáp.
- Vậy thưa cha, chỉ cần một năm thôi cũng đủ hay sao?
- Cha nghĩ một năm cũng quá nhiều!
- Vậy con nghĩ 40 ngày ăn chay đánh tội nhiệm nhặt là đủ rồi, hay cha vẫn thấy còn quá nhiều?
Bấy giờ Viện phụ mới kết luận: “Cha tin chắc rằng khi một người thành tâm thống hối tội lỗi của mình đã phạm và quyết chí từ nay không tái phạm tội ấy nữa, thì chỉ cần một ngày đau buồn đền tội và một ngày hôm sau, khi bình minh trở lại, người ấy phải vui mừng đón nhận cuộc sống mới!”
Sự trưởng thành thực sự mà con người có thể đạt được qua sự chay tịnh không chỉ là thắng vượt được những dục vọng và đam mê thấp hèn của bản thân, mà chính là biết xa lánh tội lỗi và đưa con người đến gần Chúa và tha nhân hơn.
Nhân dịp trả lời cho các môn đệ của Gioan Tẩy giả về việc ăn chay, Chúa Giêsu cho biết ý nghĩa và tinh thần của việc đạo đức này:
- Ăn chay không phải chỉ để chu toàn quy định của luật
- Mà là để bày tỏ nỗi buồn khi phải xa cách "chàng rể", nghĩa là do tội mà phải xa cách Chúa.
- Tâm tình căn bản của người môn đệ Chúa trong thời Tân Ước là tâm tình vui mừng vì được sống với "chàng rễ".
B.... nẩy mầm.
1. Thánh Phaolô đã kêu gọi "Anh em hãy vui lên. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui luôn trong Chúa". Kitô giáo là đạo của niềm vui vì là đạo của ơn cứu thoát và là đạo của Tin Mừng. Tâm tình thường xuyên của tôi phải là vui mừng trong Chúa. Và niềm vui của tôi còn phải tỏa lan sang cho những người sống chung quanh tôi nữa.
2. Cho dù cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có là trọng tâm của Kitô giáo, cho dù hy sinh khổ chế có là con đường tu đức của các kitô hữu, thì Tin Mừng vẫn là tên gọi của Đạo Chúa. Kitô giáo thiết yếu là một Tin Mừng, một Tin Mừng để đón nhận, để sống và để loan báo. Mà nói đến Tin Mừng là nói đến hân hoan (Chờ đợi Chúa).
3. Người Ai Cập ăn chay để được trẻ trung hơn.
Người Hi Lạp ăn chay để tinh thần được nhanh nhẹn hơn.
Người thổ dân Nam Mỹ ăn chay để bày tỏ lòng can đảm.
Người vẽ tượng thánh ăn chay để vẽ cho đẹp hơn.
Người Do Thái ăn chay để ăn năn tội, để thương tiếc kẻ chết, để xin Chúa đặc biệt trợ giúp, để chuẩn bị đón Chúa đến.
Người Kitô hữu không ăn chay vì những lý do trên, bởi Chúa đã đến rồi, nhưng ăn chay để đón chờ Chúa lại đến, để Danh Chúa hiển sáng, Nước Chúa trị đến và ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Như thế, ăn chay đối với người kitô hữu cũng có nghĩa là dấn thân cho một thế giới mới, xây dựng một trật tự và một nếp sống mới trong những tương quan mới với Chúa và anh em.
Xin cho con biết chết đi cho tội lỗi, để sống lại với Chúa và cho Chúa (Hosanna).
4. Sau mấy ngày hội thảo đầy căng thẳng, hai nhà truyền giáo Theodore Cuyler và Charles Spurgeon đi ra ngoài xả hơi. Họ chạy nhảy giữa cánh đồng như thể các học sinh được nghỉ học, vui chơi thoả chí. Cuyler kể một câu chuyện vui làm Spurgeon bật cười sảng khoái. Rồi thình lình ngài nói:
- Này bạn Theodore, chúng ta hãy quì gối cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta tiếng cười vui vẻ vừa rồi.
Và rồi cả hai nhà truyền giáo vĩ đại đó thản nhiên quì trên bãi cỏ xanh tươi cám ơn Chúa trước quà tặng là tiếng cười đó.
Đâu có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và cười vui? Vì một đàng là biểu hiện của sức khoẻ tâm linh, một đàng là của sức khoẻ thể xác. (Góp nhặt). ------------------------------------------