Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng". Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?" Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria". Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16), Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23), nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét. Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài. Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia. Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35), và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22), Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ. Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…) Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen, nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc. Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu? Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm. Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ. Đó là những người nghèo sức khỏe, họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xatan (Lc 13, 16), Đó là những người nghèo đời sống tâm linh, họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn. Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức. Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ. Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui. Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20). Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác, đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ. Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về. Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh. Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục. Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm. Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng. Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23). Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27). Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa. Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri. Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi. Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa. Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản. Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu, hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình. Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có. Cầu nguyện:
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong... Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Có gì đó cay đắng và đau xót. Bao năm mòn mỏi đợi chờ Đấng Cứu Thế, nhưng khi Chúa Giê-su đến thực hiện lời hứa, ứng nghiệm những tiên báo trong Lề Luật và các Tiên Tri thì người Do thái không những không tin, thậm chí còn chối bỏ và muốn giết Người. Còn gì đau đớn hơn khi: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Chúa Giê-su đã dành hết tâm huyết cho quê hương. Loan báo lời I-sai-a ứng nghiệm. Loan báo chương trình cứu nhân độ thế khởi đầu. Công bố chương trình hành động của việc cứu độ. Nhưng chuyến trở về quê hương thật bẽ bàng. Có lẽ vì họ có thiên kiến Người xuất thân nghèo hèn, trong gia đình bác thợ mộc Giuse. Và họ đã lỡ cơ hội. Đánh mất niềm hi vọng.
Họ có ngờ đâu chính sự nghèo hèn, sự thất bại của Chúa Ki-tô, đặc biệt cái chết nhục nhã trên thánh giá của Người chính là cơ hội cho một đức tin chân thực hoàn toàn khác biệt với niềm tin dựa trên những giá trị trần gian. Chính vì thế, với giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chỉ rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Đó là một sứ điệp thô nhám, mộc mạc, không trau chuốt, tô vẽ. Nhưng đó là chân lý, là niềm hi vọng. Để những ai tin Chúa có một đức tin nguyên tuyền không dựa vào sự khôn ngoan của người đời. “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì hác ngoài Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá…Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (năm chẵn).
Chính nhờ Chúa Giê-su Ki-tô chịu chết và sống lại mà ta có niềm hi vọng. Vì ta cũng sẽ được sống lại với Chúa. Và cả những người thân yêu của chúng ta cũng thế. Vì thế thánh Phao-lô an ủi dân Tét-xa-lô-ni-ca: “Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su…. Rồi đến chúng ta là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (năm lẻ).
Đó chính là niềm hi vọng lớn lao cho chúng ta. Đó chính là niềm an ủi, là động lực giúp ta vượt qua quãng đường trần thế đầy chông gai thử thách. Đó cũng chính là đích tới của chúng ta những người đặt trọn niềm tin nơi Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Quả thật Thiên Chúa đã dùng sự yếu hèn mà thắng vượt những sự hùng mạnh của thế gian. Dùng sự điên rồ của thánh giá mà thắng sự khôn ngoan của con người.
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc: "Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.
Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.
Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.
Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc. 4, 21-22)
Giờ Thiên Chúa đã điểm cho Đức Kitô xuất hiện. Ngài vừa chuẩn bị sứ mệnh trong một cuộc tình lâu dài và kham khổ trong hoang địa. Ngài định thi hành sứ vụ công khai bằng cuộc thăm viếng ngôi làng nhỏ bé nơi sinh trưởng của Ngài là Na-gia-rét. Ngài vào hội đường lúc giờ kinh phụng vụ và lên tiếng giải thích bài sách tiên tri I-sai-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, cho kẻ bị tù đầy được tự do và cho người mù được thấy ánh sáng, giải phóng cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”
Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh” những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài, họ chưa hiểu Ngài. Ngài nói với họ: Tôi, Người đang nói với ông bà anh chị em là chàng thanh niên của ông bà và anh chị em đều biết rõ tôi, tôi là Người Chúa đã truyền đi thực hiện những điều lạ lùng như tiên tri I-sai-a đã nói.
Nhưng bây giờ tôi không còn là chàng thanh niên đó nữa nên các ông bà anh chị em không chấp nhận tôi, không nghe tôi, không muốn có tôi. “Tôi bảo thật: không có một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Quá khứ đã chứng tỏ hùng hồn cho điều đó. Bao nhiêu ngôn sứ như Ê-li-a và E-li-sê đã không thể làm điều gì lạ ở nơi quê mình và các ông bà anh chị em tiếp tục theo lề thói xưa nên đã khinh thường tôi. Tôi chỉ là con ông Giu-se. Tôi không thể thông thái hơn các ông bà. Không có gã thanh niên nào nơi các ông bà, giám yêu sách đòi làm ngôn sứ cho các ông bà. Đó có phải là trò đùa không.
Đó là thứ dỡn mặt quá trớn, cần phải trừ khử đi! Quả thực, “Họ đã phẫn nộ phải đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi làng, khéo lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Nhưng Ngài băng qua giữa họ mà đi”. Vì giờ rao giảng của Ngài đã tới, giờ chết của Ngài chưa điểm.
Chúng ta cũng có những ngôn sứ của chúng ta. Những gã thanh niên, thanh nữ này... Họ đang mang sứ điệp của Đức Kitô đến mọi nơi. Họ âm thầm, hiền lành và khiêm nhường trong lòng! nhưng lại không có nơi chúng ta sao?
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài được mời lên để đọc Sách Thánh. Đoạn sách mà Đức Giêsu công bố hôm nay được lấy từ sách Tiên tri Isaia nói về ơn cứu độ của Thiên Chúa cho những người nghèo. Đọc xong, Ngài tuyên bố: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
Thấy vậy, mọi người trong Hội Đường hy vọng Đức Giêsu sẽ ưu ái đặc biệt với họ. Tuy nhiên, điều mà họ mong muốn lại không được Đức Giêsu đáp ứng. Thay vào đó, Đức Giêsu muốn cho họ hiểu rằng: ơn gọi, sứ mạng của Ngài là đến với muôn dân, và đối tượng số một là những người nghèo. Nghèo về tinh thần, nghèo về vật chất, những người cô thế cô thân, thấp cổ bé họng... chứ không chỉ dành cho một số người ưu tuyển hoặc đặc quyền thân quen...!
Khi bị Đức Giêsu lật ngược ván cờ, họ sinh ra lòng căm nghét, vì thế, dân chúng đã trục xuất Đức Giêsu ra khỏi Hội Đường.
Khi Suy niệm tới đây, hẳn chúng ta xầm xì về những hành vi phũ phàng của người Dothái với Đức Giêsu! Nhưng nếu hồi tâm một chút, hẳn chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta mang trong mình tâm thức: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Và như một hệ lụy, nhiều người đã vất vả, khó khăn khi phải đối diện với sự chọn lựa theo tinh thần của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quý trọng quê hương, gia đình. Vì quê hương là nơi “chôn nhau cắt rốn”, là nơi cung cấp cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp thủa ban đầu. Gia đình là nơi chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên thành người...
Tuy nhiên, quê hương chỉ là nơi cưu mang chúng ta một thời. Gia đình là chỗ ta đi về và thể hiện tình nghĩa. Còn khi chúng ta đã trưởng thành, Chúa mời gọi chúng ta hãy đi và phải vươn xa tầm nhìn để mở rộng trái tim, để ôm ấp những người bé mọn, ốm đau, bị áp bức, bất công...
Cần phải vượt ra khỏi những kỳ thị vùng miền, giai cấp địa vị để đến với muôn dân, mọi nơi.
Được như thế, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu và trở thành người mang Tin Mừng của Ngài đến cho người nghèo...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi bất cứ nơi đâu Chúa cần chúng con hiện diện. Xin cũng ban cho chúng con trái tim của Chúa, để chúng con vượt qua mọi ranh giới, ngõ hầu đến được với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai cứu độ trần gian. Nhưng những người Do thái đồng hương với Chúa đã từ chối tiếp nhận Ngài, vì Ngài đã không thỏa mãn những tham vọng trần thế của họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con nhớ trong đoạn mở đầu Phúc âm thứ tư, Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Ngài đến nhà mình nhưng người nhà đã chẳng chịu tiếp đón Ngài”.
Lạy Chúa, điều ấy đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi những người đồng hương với Chúa tại Na-da-rét, và ngày hôm nay cũng đúng với chính con nữa.
Vâng lạy Chúa, con đã không tiếp nhận Chúa. Con quên rằng Chúa là bạn của người nghèo, của người bệnh tật, của kẻ khổ đau. Vì thế con đã xua đuổi Chúa đi khi con hất hủi anh em, khi con nhẫn tâm từ chối giúp đỡ những người nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau, sa chân lỡ bước. Con đã không tiếp nhận Chúa, vì trong lời nguyện hằng ngày, con chỉ đòi hỏi Chúa ban ơn theo ý con mà không bao giờ xin cho con biết vâng theo Ý Chúa trong mọi nghịch cảnh cuộc đời. Con đã không nhìn ra Chúa thật gần gũi với con qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Con đã xô đẩy Chúa xuống vực thẳm khi con nhào xuống vực sâu tội lỗi.
Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho con. Xin cho con nhận ra những ân huệ mà Chúa đã yêu thương phủ đầy đời con. Xin ban thêm đức tin, để con tin thật Chúa là Đấng Thiên Sai cứu độ trần gian và Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Xin cho con được sống mãi trong nhà Chúa, được luôn kết hợp với Chúa qua các bí tích, để con xứng đáng là người nhà và là người môn đệ trung thành của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”.
Một linh mục truyền giáo tại Uganđa ở châu Phi, kể chuyện việc đi dự thánh lễ ngày Chúa nhật một cách kỳ lạ như sau: Hai vợ chồng Benedetto và Filomena bị mù. Họ sống cạnh một thiếu nữ bị bại hai chân, tên là Formosa. Mỗi sáng Chúa nhật, ba người này đi dự thánh lễ tại nhà thờ cách xa hai cây số.
Cách họ đi dự lễ như sau: Formosa thấy đường nhưng không đi được, nên phải bò hai tay. Filomena đui, đi sau Formosa, cầm chân của Formosa lên. Còn Benedetto thì vừa vịn vào vai vợ, vừa đi. Cả ba người, hai đui, một bại, giúp nhau đi dự thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật như vậy!
Suy niệm
Trong khi những khát vọng và bao nỗ lực của con người qua những cuộc cách mạng trong dòng lịch sử đã không đem lại sự tự do, công bằng hoàn toàn cho con người, có một người đã vượt lên trên tất cả, vượt trên mọi cuộc cách mạng, vượt lên trên không gian và thời gian để đem lại sự tự do và bình đẳng cho mọi người, ở mọi nơi và qua mọi thời đại, đó chính là Đức Giêsu Kitô.
Chính Ngài giải phóng con người khỏi đau khổ, tù đày, áp bức và dẫn đưa con người đến một xã hội công bình, bác ái viên mãn. Đức Giêsu với tước hiệu Kitô luôn là niềm hy vọng vĩnh cửu của nhân loại mà thánh sử Luca đã trình bày với lời của ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm, cho biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19).
Ðức Giêsu được xức dầu thánh hiến và đầy tràn Thánh Thần. Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo: những kẻ nghèo tiền nghèo bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói, nghèo cả trong thân phận cùng đinh của họ. Đức Kitô cũng được sai đến với những kẻ bị giam cầm: giam cầm bởi cảnh tù đày áp bức do chính anh em đồng loại gây nên, giam cầm trong chính bản thân mình do sự tự ti mặc cảm và loay hoay mãi để tìm lối thoát mà vẫn không tìm ra. Ngài đến trong đời để giải thoát chúng ta khỏi mọi cảnh tù đày: tù đày bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam. Ngài đem đến cho người mù niềm tin, người mù hy vọng, mù lý trí và ý chí được thấy ánh sáng trong tâm linh với niềm tin. Đức Kitô đem lại tự do cho người bị áp bức và cả người gây áp bức bóc lột bằng tinh thần hối cải trong đức ái. Những trang Tin Mừng đã chỉ cho ta thấy rõ sứ mạng giải thoát của Ngài, cùng với những lời rao giảng là những dấu lạ: người què đi được, người mù được thấy, kẻ tội lỗi được ơn trở lại…
Như Đức Giêsu đã khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21). Từ “hôm nay” diễn tả hành động trong hiện tại về sứ mạng giải phóng của Đức Kitô, không chỉ là trong quá khứ mà luôn được thể hiện trong lòng nhân loại qua muôn thế hệ. Tác động giải thoát không phải trong bạo lực như cuộc cách mạng của con người đã sử dụng mà là trong tác động của Thánh Thần.
Nếu chúng ta biết để cho Ngài hành động trong niềm tin và sự phó thác, thì những lo âu, những khốn khó của chúng ta sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác. Như thế, chúng ta đã được giải thoát ngay trong chính niềm tin của chúng ta vào Ngài.
Ý lực sống:
“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tối tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”. (Lc 1,78-79)
Đức Giêsu về thăm quê hương với tình cảm thân thiện, chân thành; Người vào hội đường chia sẻ Kinh thánh với anh em đồng hương của Người. Qua đoạn sách tiên tri Isaia, Ngài thẳng thắn tuyên bố: lời sấm này đã ứng nghiệm nơi Người. Dân thành Nazareth rất thán phục ân sủng và sự khôn ngoan của Đức Giêsu với lời tuyên bố kia. Nhưng thực tế họ khó chấp nhận vì thân thế Người quá bình thường, hơn nữa khó do điều khiển được Người làm những điều họ mong muốn, họ đầy căm phẫn và định thủ tiêu Người.
Người đời vẫn nói: “Không nơi nào đẹp bằng quê hương” hoặc “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Khi nói những điều đó là người ta muốn chứng minh rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương của mình, yêu nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương.
Còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là tình cảm của người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu nói trong Tin mừng: “Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài, tại quê hương Nazareth của Ngài (Lm. Phạm Văn Phượng).
Sau hơn một năm đi giảng dạy nhiều nơi, làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài đã vang đi khắp nơi và về tới cả quê hương mình, Chúa Giêsu trở về thăm quê hương là Nazareth. Theo thói quen Ngài vào hội đường cầu nguyện và nghe Sách thánh. Ngài được mời đọc Sách thánh và mở đúng đoạn sách tiên tri Isaia nói về vai trò và sứ mạng của người Tôi tớ Thiên Chúa... Ngài gấp sách lại và tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”.
Theo câu nói đó, Chúa Giêsu muốn tự giới thiệu mình một cách xa xa: Ngài là ai, là người được Thiên Chúa sai đến, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế mà mọi người đang trông đợi. Ngài hơn cả tiên tri Êlia và Elisê. Nghe Chúa nói vậy dân làng Nazareth hết sức tức giận, kéo Ngài ra khỏi hội đường, đưa Ngài lên núi để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết đi, nhưng giờ Ngài chưa tới, nên họ không làm gì được Ngài.
Tuy tỏ ra tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giêsu, nhưng người Nazareth chỉ nhìn thấy một phương diện của Đức Giêsu là con ông Giuse, họ không thể nhận ra nơi Người, vị tiên tri cuối cùng mà Is 61 đã ám chỉ, tức là họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, bởi lẽ họ đã có thành kiến với Ngài. Thánh Luca đã mô tả thái độ thành kiến của dân chúng bằng những lời lẽ như sau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”. Câu hỏi đó chứng tỏ bắt đầu họ hoài nghi về Chúa Giêsu. Câu hỏi đó ngụ ý nói rằng: Tưởng ai chứ ông đó thì chúng ta quá biết rồi, vì ông ấy ở cùng xóm với chúng ta, con ông Giuse hàng xóm, chứ ai đâu mà lạ.
Hiểu rõ tâm trạng mù tối của dân nơi quê hương, Đức Giêsu đã diễn tả tâm tình ấy bằng kiểu nói vấn nạn: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình... Đòi hỏi này sẽ được lặp lại ở chân thánh giá rằng: “Nếu ông là Đấng Messia thì hãy tự cứu mình đi”. Đáp lại yêu sách này, Đức Giêsu trả lời bằng một câu tục ngữ: “Không một tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình”. Ý tưởng này cũng đồng nghĩa: “Bụt nhà không thiêng”.
Thành kiến được định nghĩa là một suy nghĩ, một cái nhìn khó thay đổi về việc gì đó. Khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình “như đúng rồi”, lại còn úp lên đó cái khung cứng nhắc của cảm tính, người thành kiến sẽ không thể nhìn người khác như họ là, mà trái lại sẽ đánh giá theo kiểu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông”. Chẳng những thế, người thành kiến lại thích đeo cặp kính đen, để chỉ nhìn thấy phương diện xấu xa, bi quan, tiêu cực của sự việc. Những người đồng hương đương thời với Đức Giêsu đã nhìn Người với đôi mắt thành kiến như thế. Đối với họ thì gà thì đẻ ra gà, chứ không thể đẻ ra công được. Với cái nhìn thành kiến, họ không thể nào nhận ra Đức Giêsu, mà họ vẫn tưởng là con bác thợ mộc Giuse lại là Con Thiên Chúa được (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Tránh thành kiến với người khác
Một hôm cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh tỏ vẻ khinh và nói: “Dở lắm”. Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bĩu môi nói: “Thơ mày là thơ thẩn”.
Tagore mới nghĩ ra kế sách. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích trong cuốn thơ cổ. Cậu ta lại quên đề tên của cuốn thơ cổ đó. Nhưng lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt! Tuyệt!” Rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học: “Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này”.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên mặt báo của ông... Bấy giờ ông anh cũng như thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia, để đối chiếu chứng minh và cũng dễ bề ghi xuất xứ khi đăng báo.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cách dàn cảnh bịa đặt của cậu Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với ánh mắt thán phục và hối hận cho thái độ thành kiến của mình.
Bắt đầu từ hôm nay, Phụng vụ chọn đọc Tin Mừng theo Thánh Luca
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:
1. Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.
2. Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.
3. Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Sứ mạng của chúng ta nối tiếp sứ mạng Chúa Giêsu, là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho mọi người. Nếu có ưu tiên cho ai, thì đó là những người nghèo khổ chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, chứ không phải là những người bà con bạn bè thân thuộc của chúng ta.
2. Thế nào là “loan Tin Mừng cho người nghèo khổ”? Những người nghèo khổ quanh tôi là ai? Tôi có quan tâm ưu tiên đến việc loan Tin Mừng cho họ chưa?
3. Hai chuyện Cựu Ước cho thấy các ngôn sứ Êlia và Êlisê ưu ái những người ngoại. Chúa Giêsu cũng thế. Còn tôi, hình như tôi xa lánh người ngoại, tôi e dè với họ, tôi còn giữ nhiều thành kiến về họ, tôi có thái độ tự tôn coi mình hơn họ v.v.
4. Đối với Chúa Giêsu, người dân Nadarét chỉ mong Ngài nể tình đồng hương mà ưu tiên ban cho họ nhiều đặc ân. Khi ước muốn đó không đạt thì họ quay mặt phản đối và trục xuất Ngài. Đó là một thái độ hoàn toàn vụ lợi. Phải chăng thái độ của tôi đối với Chúa cũng vụ lợi như thế?
5. Bài Tin Mừng này làm tôi nhớ đến quê hương, cha mẹ, anh chị em, bà con, bạn bè v.v. Những người này thực sự là một nguồn an ủi và trợ lực cho tôi. Xin Chúa thay tôi đền ơn vì những điều họ đã làm cho tôi. Xin cho họ luôn là trợ lực chứ đừng bao giờ là trở lực cho sứ mạng Tin Mừng của tôi.
6. Trợ lực và trở lực: Hai thanh niên lớn lên trong gia đình với một người cha nghiện rượu. Vì còn trẻ, mỗi cậu sống theo ý riêng mình.
Nhiều năm sau, một cậu trở nên người nghiện rượu không thể cải thiện. Cậu kia là người chống uống rượu. Một tâm lý gia tìm hiểu hậu quả của việc nghiện rượu gây cho những đứa trẻ trong gia đình hỏi cậu thứ nhất: “Tại sao anh trở nên người nghiện rượu?” và cậu thứ hai: “Tại sao anh trở nên người chống rượu?”
Cả hai có cùng câu trả lời: “Ông có thể mong đợi điều gì khác khi ông có người cha như tôi?” (Góp nhặt)
7. “Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19)
Tôi lênh đênh trên chiếc xuồng máy vào các xã vùng sâu của miền Đồng Tháp đã được nửa ngày. Là thành viên của đoàn công tác xã hội cứu trợ lũ lụt, hơn chục lần tôi phải leo lên bờ đất trơn tuột, sình lầy để vào những căn chòi phong phanh cũ nát. Không khí oi nồng và cảm giác chênh vênh trên mặt nước làm tôi nuốt không trôi mẫu bánh mì ăn trưa. Còn nửa trái quít, cảm thấy ăn không nổi nữa, tôi lén nhét vào tay một cậu bé ốm nhách, đen thui như cục than. Không hiểu vì vị ngọt không thể tìm thấy ở vùng đất khắc nghiệt ấy hay vì điều gì khác mà ánh mắt em nhìn tôi vui vui, thật lạ.
Một niềm vui bé con được thắp lên chỉ từ một hành động vô tình. Niềm vui ấy có lẽ sẽ được nhân lên gấp đôi trong tôi nếu tôi biết san xẻ cho em phần ăn với tất cả tấm lòng yêu thương, nhân ái.
Lạy Cha, xin cho con biết luôn luôn đem niềm vui đến mọi người, để niềm vui được nhân lên và trở thành hồng ân Chúa tuôn tràn trên nhân loại trong từng phút giây. (Hosanna).
Bắt đầu từ hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc Tin Mừng của thánh Luca.
1. Hôm nay, thánh Luca kể lại việc Chúa Giêsu trở về Nazareth để rao giảng cho những người đồng hương như một biến cố đầu tiên trong cuộc đời công khai của Ngài.
Theo thánh Luca, sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và với việc chiến thắng sự cám dỗ của ma quỉ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng tại miền đất Galilê, sau đó Chúa mới về Nazareth để rao giảng Tin Mừng tại đó. Ngài về đó đúng vào ngày nghỉ Sabat và rao giảng nơi hội đường của làng.
Trong biến cố này chúng ta có thể để ý đến hai điều:
* Trước hết là là thái độ nội tâm của Chúa. Chúa ý thức rất cao về sứ mạng truyền giáo của mình.
* Thứ đến là những phản ứng của những người nghe Chúa rao giảng. Có thể nói đây là những khó khăn tiêu biểu trong việc truyền giáo của Chúa cũng như của các tông đồ sau này.
Chúng ta hãy nhìn lại những chi tiết thánh Luca dùng để mô tả lại những người Nazareth nghe Chúa giảng nơi hội đường của họ.
+ Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc đoạn sách của Isaia, theo lời thánh Luca thì mọi người chăm chú nhìn Chúa. Chi tiết “chăm chú nhìn” nói lên thái độ nội tâm đầu tiên của những người nghe Chúa hôm đó. Chăm chú nhìn có nghĩa là thích nghe Chúa nói. Nếu không thích nghe thì chắc chắn họ sẽ chẳng cần phải chăm chú nhìn người nói chuyện với mình. Chúa Giêsu đã gặp được thái độ khá sẵn sàng nơi dân chúng tại Nazareth.
+ Rồi sau khi nghe Chúa tuyên bố đoạn trích sách tiên tri Isaia ấy được ứng dụng nơi Ngài, dân chúng đã có thái độ hồ hởi. Từ thái độ chăm chú nhìn và lắng nghe Chúa nói, dân chúng đã tiến thêm một bước nữa là rất hồ hởi. Một bước tiến bộ thật đẹp.
+ Thế nhưng, thái độ hồ hởi này đã không kéo dài được lâu. Dân chúng không đủ kiên nhẫn và can đảm. Họ đã bị vấp phạm bởi khía cạnh nhân loại của Chúa Giêsu. Thánh sử Luca đã mô tả thái độ thụt lùi của dân chúng bằng những lời lẽ như sau: “Họ bảo: ông này không phải là con ông Giuse hay sao?”(Lc 4,22) Ông ta không phải là con ông Giuse đó sao? Câu hỏi đó chứng tỏ họ bắt đầu hoài nghi về Chúa Giêsu. Câu hỏi đó ngụ ý nói rằng: “Tưởng ai chứ ông đó thì chúng ta quá biết rồi, vì ông ở cùng xóm với chúng ta, con ông Giuse hàng xóm, chứ ai đâu!”
Họ tưởng họ biết rõ Chúa, nhưng thật ra họ chẳng biết gì cả. Họ mới biết cái bề ngoài là con ông Giuse, nhưng họ chưa biết Ngài còn là Con Thiên Chúa.
Và rồi từ thái độ nghi ngờ này chẳng mấy chốc nó đã biến thành thái độ tức giận chống đối và cuối cùng là muốn thủ tiêu Ngài.
2. Còn Chúa thì sao?
Chúng ta hãy thử xem thái độ ứng phó của Chúa ra sao trước sự khước từ của những người đồng hương. Chúa đã không nao núng. Thánh sử Luca kết thúc bằng một nhận định gọn ghẽ nhưng rất ấn tưọng: “Chúa băng qua họ mà đi”(Lc 4,30). Cách nói băng qua giữa họ mà đi không có nghĩa như một sự tàng hình biến đi, nhưng nó nói lên một thái độ đáng nể phục: Chúa bình tĩnh tiếp tục chương trình của Ngài, không để cho những chống đối thù ghét cản trở công việc của Chúa.
Một tín đồ Ấn giáo xuống dòng sông Hằng để thanh tẩy và cầu nguyện.
Ông đang ngụp lặn giữa dòng sông, thì bỗng đâu rác rưởi tụ đến. Trong đống rác có con bò cạp đang chao đảo, chơi vơi giữa dòng nước. Sẵn lòng khoan dung, ông chìa tay ra để cứu vớt con vật. Cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật chích. Nhưng ông không mất kiên nhẫn. Con vật càng hung hăng, ông càng chịu đựng để nó chích liên tiếp, miễn là cứu sống được nó.
Có người theo dõi cảnh tượng đó mới trách ông:
- Ông thật là mất thời giờ vô ích. Nó là con bò cạp, bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích thôi.
Người tín đồ Ấn giáo điềm nhiên trả lời:
- Bản chất của con bò cạp là dùng nọc độc để chích, nhưng bản chất con người là cứu vớt.
Vâng, Chúa đã không ngã lòng trước sự khước từ của người dân. Nơi này không đón nhận, Chúa đi nơi khác và tiếp tục rao giảng. Như chúng ta biết, theo Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu đã xuống thành Capharnaum thuộc xứ Galilê để giảng dạy ở đó vào các ngày Sabat.
Chúng ta hãy đến với Chúa để học lấy sự kiên nhẫn của Ngài.
Shiela Murray Bethel nói: “Một trong những điều đáng khích lệ nhất mà bạn có thể làm là tự xác định chính mình - biết mình là ai, tin vào cái gì và muốn đi tới đâu”.
Xin Chúa cho chúng ta đừng quá thất vọng mỗi khi gặp khó khăn.
Xin cho chúng ta luôn biết vuợt qua những khó khăn để tiếp tục những nhiệm vụ mà Chúa trao phó.
Xin cho chúng ta luôn vững tin vào Chúa, nhất là khi gặp những trở ngại trên con đường rao giảng Tin Mừng. Amen. ----------------------------------
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thành Capharnaum, xứ Galilêa, và ở đó Người giảng dạy họ trong các ngày Sabbat. Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Người, vì lời giảng dạy của Người có uy quyền. Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: "Hãy câm đi và ra khỏi người này". Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó. Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: "Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra". Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.
Phép lạ đầu tiên được kể trong Tin Mừng Luca là một phép lạ trừ quỷ, diễn ra tại hội đường Caphácnaum vào một ngày sabát (c. 31). Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng, và họ sửng sốt trước lời dạy của Ngài, bởi lẽ lời của Ngài là lời đầy quyền uy (c. 32). Quyền uy làm sửng sốt ấy đến từ con người Ngài, vì Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Trong hội đường ngày hôm đó, có một người bị quỷ thần ô uế nhập. Anh ta tự nhiên la to, vì thấy mình bị đe dọa: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao?” Sự hiện diện và lời dạy quyền uy của Đức Giêsu, làm quỷ xuất đầu lộ diện. Nhưng nó sợ, muốn tránh Ngài trong cuộc chiến không cân sức. Quỷ biết rõ đối thủ có sức tiêu diệt mình là ai. Nó biết được điều mà dân chúng không biết về căn tính của Đức Giêsu. Ngài không phải chỉ là ông Giêsu ở Nadarét, mà còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 34). Có một sự đối lập gay gắt giữa thần ô uế và Đấng Thánh tinh tuyền. Đức Giêsu trừ thần ô uế chỉ bằng một lời quát mắng (c. 35). “Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này!” Ngài không cho quỷ nói lên danh tánh của Ngài, vì Ngài không muốn sự thật được nói lên bởi miệng những kẻ dối trá. Lời truyền lệnh của Ngài khiến thần ô uế phải xuất ra. Nó không còn được ở lại hay có quyền gì trên người này nữa. Quỷ vật anh ngã xuống, xuất ra, nhưng lại không làm hại được anh. Người trong hội đường kinh ngạc, không vì chuyện Đức Giêsu trừ quỷ, nhưng vì họ thấy uy quyền và uy lực nơi lời nói của Ngài (c. 36). Lời nói ra như một mệnh lệnh, và quỷ phải vâng nghe. Thế giới hôm nay dễ bị tấn công và thống trị bởi các thần ô uế. Thần ô uế có mặt ở khắp nơi, và có sức hấp dẫn mê hoặc con người. Ô uế nơi thân xác, nơi trí tưởng tượng, nơi những ám ảnh không ngơi. Ô uế trở thành một thứ văn hóa, xâm nhập vào mọi ngõ ngách, chi phối mọi lối nghĩ và lối hành xử của con người. Chúng ta phải nhìn nhận sức mạnh của thần ô uế trong thế giới hôm nay. Rất nhiều bạn trẻ đã phải thú nhận mình không đủ sức kháng cự lại. Đức Giêsu cho chúng ta niềm tin vào sự chiến thắng. Sự hiện diện của Ngài làm thần ô uế không thể giấu mặt. Sự thánh thiện của Ngài làm nó phải run sợ cúi đầu. Uy quyền và uy lực nơi Lời quát mắng của Ngài khiến nó phải tháo lui. Hãy để cho Đức Giêsu thánh thiện có chỗ trong đời chúng ta. Hãy tin vào sức mạnh giải phóng của Lời Ngài. Hãy để Lời Ngài nâng chúng ta dậy và cho chúng ta được tự do. Một người ở trong hội đường hay nhà thờ cũng có thể bị thần ô uế ám. Chúng ta mong Chúa cho ta khả năng trục được sự ô uế ra khỏi đời ta. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng thích tự do, nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ. Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra. Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của thân xác, tự do trước đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến của trí tuệ. Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được tự do như Chúa. Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi, khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày Sabát. Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe, khi Chúa không ngần ngại nói sự thật. Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết, vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng. Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng, để chúng con được tự do bay cao. Amen. ----------------------------------
Ô nhiễm đang là một vấn đề lớn và nan giải. Từ ô nhiễm môi trường sống với nước thải, khói xăng, khí độc đến ô nhiễm thực phẩm với chất bảo quản, với phân bón và với cách chế biến thực phẩm. Nhưng tất cả đều bắt nguồn từ sự ô uế nơi tâm hồn con người. Đừng tưởng thần ô uế chỉ có thời Chúa Giêsu. Nó vẫn hiện diện thời chúng ta và đang tác oai tác quái. Con người bị ô uế từ trong tư tưởng với những ý đồ xấu xa trục lợi. Ô uế thấm vào cả trái tim với những ước muốn tội lỗi. Con người đang hít thở bầu khí ô uế, đươc nuôi dưỡng bằng những món ăn ô uế và còn dự tính mở rộng môi trường ô uế. Những nỗ lực ngăn chặn ô uế, thanh tẩy môi trường đạo đức hầu như vô hiệu. Con người bất lực. Chỉ còn trông chờ sức mạnh của Thiên Chúa.
Có hai điều đáng sợ do ma quỉ lừa gạt. Điều thứ nhất ma quỉ trấn an chúng ta: “Không can gì đâu”. Ô uế không sao đâu. Tội lỗi không sao đâu. Điều thứ hai nó thấm nhập và trở thành một phần không thể thiếu của đời ta. Khi Chúa trục xuất thần ô uế, người bị quỉ ám ngã vật xuống như chết đi. Có những sự xấu như tiền bạc, danh vọng, chức quyền, lạc thú trở thành nhu cầu. Ta tưởng sẽ chết nếu thiếu chúng.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Tét-xa-lô-ni-ca hãy vào cuộc chiến đấu. Thần ô uế là bóng tối. Con cái Chúa là ánh sáng. Đi theo thần ô uế là ngủ mê. Đi theo ánh sáng của Chúa phải tỉnh thức. Sống theo thần ô uế là chiều theo dục vọng. Sống theo ánh sáng của Chúa là tiết độ: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (năm lẻ).
Đó chính là cuộc chiến giữa xác thịt và Thần khí. Ai sống theo xác thịt thì có sự khôn ngoan của trần gian để chiếm đoạt danh, lợi, thú của trần gian. Ai sống theo Thần Khí thì trước mặt thế gian bị coi là điên rồ, nhưng thực ra họ có sự khôn ngoan của Nước Trời: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán” (năm chẵn).
Cuộc chiến rất khốc liệt. Để dứt lìa thần ô uế ta phải đau đớn như chết đi, giống như người bị quỉ ám ngã vật xuống. Chúng ta chỉ thắng được nhờ sức mạnh của Chúa Ki-tô. Nhưng chúng ta chỉ có Chúa khi sống trong ánh sáng, khi đi theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Khi Giáo Hội sống đúng ơn gọi và sứ mệnh của mình, Giáo Hội là một sức mạnh tinh thần khiến cho các chế độ chính trị phải trọng nể hay lo sợ. Sức mạnh ấy không tới từ thế giới hay những phương tiện Giáo Hội có trong tay.
Giáo Hội múc lấy sức mạnh từ chính uy quyền của Ðấng sáng lập là Chúa Kitô. Thật thế, Chúa Kitô đã hứa ngay cả cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi Giáo Hội. Chúa Giêsu đã phú bẩm cho Giáo Hội uy quyền của chính Ngài. Tin Mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi họ lắng nghe lời giảng dạy của Ngài và nhất là khi Ngài trừ quỉ. Họ thán phục vì Ngài giảng dạy như Ðấng có uy quyền.
Trong cách đánh giá thông thường, một người xem là có uy tín khi tài năng hay đức độ của người đó được nhìn nhận, lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác, việc làm có uy tín của một người có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo. Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Ðây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu khi Giáo Hội sống và rao giảng những gì Ngài đã sống và rao giảng. Giáo Hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình khi sống phục vụ mà thôi. Càng thể hiện được bộ mặt thật ấy, Giáo Hội càng tỏ ra là một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và sự dữ và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu có nghĩa vụ phải bày tỏ bộ mặt đích thực của Giáo Hội. Sức mạnh và uy quyền của Giáo Hội được thể hiện không phải qua con số các tín hữu hay qua các biểu dương của số đông mà thiết yếu qua cuộc sống có tính thuyết phục của các tín hữu. Giữa một xã hội trống rỗng những giá trị đạo đức, các tín hữu Kitô phải thể hiện một niềm tin có sức mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Giữa một xã hội băng giá về ích kỷ, các tín hữu Kitô cần phải sống một tình mến có sức sưởi ấm tâm hồn con người. Giữa một xã hội chao đảo về thiếu định hướng, các tín hữu Kitô phải bày tỏ một niềm hy vọng có sức soi rọi vào tăm tối của cuộc sống mọi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy quyền, củng cố niềm tin, gia tăng đức mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta.
Ðược bầu làm Bề trên cộng đoàn, một tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện: - Thưa cha, thế nào là một bài giảng hay?
Vị ẩn sĩ trả lời: - Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.
Khi nói đến khoảng cách giữa nhập đề và kết luận trong một bài giảng, hẳn vị ẩn sĩ muốn nói đến sự trung thực của lời nói. Một lời nói được xem là trung thực khi giữa lời nói và thực tế không có khoảng cách, nhưng có sự thống nhất giữa lời nói và cuộc sống.
Lời nói vốn là phạm trù cơ bản nhất trong Kitô giáo. Ở khởi đầu Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tiên của Thiên Chúa là nói, nhưng khi Thiên Chúa nói thì liền có vạn vật. Không có khoảng cách giữa lời của Thiên Chúa và hành động của Ngài. Lời của Thiên Chúa là lời chân thật, nghĩa là luôn được thể hiện bằng hành động và có hiệu quả. Khởi đầu Tin Mừng của ngài, thánh Gioan cũng xác quyết: "Từ khởi thủy đã có Lời và Lời đã hóa thành nhục thể". Nơi Chúa Giêsu, lời là thực tế, nghĩa là không có khoảng cách giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: "Câm đi, hãy ra khỏi người này", thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ đương thời.
Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi".
Lời Chúa là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.
Trong hội đường có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: “Ông Giêsu Na-gia-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”quỷ vật người ấy xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. (Lc. 4, 33-35)
Ngay từ buổi đầu cuộc giảng đạo công khai, Đức Giêsu tỏ ra một người đầy uy lực. Lời và hành động của Người biểu lộ quyền bính phi thường.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Đức Giêsu đã tỏ ra là bậc thầy dạy một giáo lý vững chắc có sức đáng động và gây ấn tượng mạnh ngay tại những người Do-thái chịu ảnh hưởng của nhiều trường luật sĩ giảng dạy rất đông đệ tử. Dân chúng say mê nghe lời Người. Không phải chỉ nhờ lời nói hay. Người còn liên kết sứ điệp của Người với quyền phép trừ quỷ bằng một sức mạnh làm những người chứng kiến kinh ngạc.
Từ hai ngàn năm, Đức Giêsu không bao giờ ngừng tạo thế lực vừa bằng đạo lý, vừa bằng hành động giải phóng nhân loại, không chỉ cứu thân xác bệnh hoạn mà nhất là cứu tâm trí con người được hạnh phúc. Ngày nay hơn bao giờ hết, Người lôi cuốn mọi người khám phá về Người. Không bao giờ người ta nói về Người nhiều như ngày nay, hoặc để thử loại bỏ Người, chối không có Người hoặc bảo vệ Người rất nhiệt tình. Báo chí, truyền thanh, truyền hình, sách vở, nghệ thuật âm nhạc, quảng cáo đã thấm nhập về Đức Kitô và tuyên truyền làm cho người ta hiểu biết về Đức Kitô một cách tiêu cực hay tích cực.
Dù người ta nói gì, Người vẫn là một bậc Thầy vĩ đại trong các bậc Thầy cho mọi người trên trái đất phải suy nghĩ. Đúng như câu kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay:
“Tiếng đồn về Người lan ra khắp mọi nơi”. Và như ông Si-mê-on đã nói tiên tri: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en, vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà,thì một mũi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (Lc. 2, 34-35)
Trong xã hội hôm nay, nạn nói dối đã trở thành “đại dịch” và không ít người đang trong tình trạng “nan y”. Trước diễn biến đó, nhiều người đã phải gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh tới mọi thành phần trong xã hội... Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đã “bó tay”, bởi vì nạn thành tích, hối lộ, gian tham đã trở thành “ung thư” đang dần gặm nhấm làm sói mòn lương tâm con người.
Vì thế, không lạ gì khi người ta chẳng còn tin tưởng lẫn nhau, bởi những món ăn người ta thiết đãi nhau lại toàn là: “Bánh vẽ" lẫn "thịt lừa”. Vì thế, như một hệ lụy, bây giờ tìm được một người tử tế thật thì quả là: “Mò kim đáy biển”!
Hôm nay, Đức Giêsu đã làm cho mọi người bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài, vì lời giảng dạy của Ngài có uy quyền. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài giảng dạy không giống các Kinh Sư và Pharisêu. Mọi lời Ngài phát ra đều chân thật. Sự thật trong lời nói và hành động của Ngài đã trở thành một thể thống nhất, vì thế, đã làm cho người tiếp nhận phải suy nghĩ và tự cật vấn lương tâm.
Thật vậy, chỉ có sự thật mới giúp chúng ta trở thành người tự do đích thực. Chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta đối xử với nhau chân tình và mới giải phóng chúng ta cách trọn vẹn. Và, cũng chỉ có sự thật mới làm cho chúng ta thành con Chúa đúng nghĩa.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa để chỉ cho ma quỷ thấy sự thật của nó là kẻ chuyên gây nên gian dối, đau khổ và chết chóc cho con người. Vì thế, chỉ một lời nói: “Câm đi, hãy ra khỏi người này”, thì phép lạ liền xảy ra. Đây là sự khác biệt giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ!
Thật vậy, nhờ sự thật trong quyền năng, Đức Giêsu đã giải phóng con người thông qua hình ảnh của những người bị quỷ câm ám. Qua phép lạ này, Đức Giêsu cho thấy, con người luôn bị sự gian dối cầm buộc. Cần phải giải thoát bằng sự thật, nếu không, con người vẫn mãi bị cầm tù trong những chuyện gian tham xảo quyệt.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: chúng ta thuộc về Thiên Chúa thì phải “ly dị” sự dối trá trong tư tưởng, hành động, lời nói và việc làm. Không được sống tráo trở, dối trá, hai mặt... Nếu cứ an nhiên tự tại để sống trong sự dối trá, thì đương nhiên, chúng ta thuộc về thế giới của những kẻ gian dối, mà thủ lãnh của trong thế giới này là ma quỷ.
Điều mà chúng ta cần nhận ra hệ lụy nhãn tiền cho những ai ưa trò cầu thân nịnh bợ và sống giả tạo là: họ không có uy quyền và sức cảm hóa trong lời nói và việc làm. Đôi khi những việc đạo đức, lời nói thánh thiện của họ phát ra lại trở thành gương mù gương xấu và phản tác dụng, chẳng khác gì: “Gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”; hay như: “ngửa mặt... và nhổ nước miếng, đương nhiên nước miếng rơi chúng mặt mình???”. Mặt khác, lại là cớ cho người khác khinh bỉ, bởi vì họ đang ngu ngơ diễn xuất màn kịch vụng về đến nỗi trở nên lố bịch trên một “sân khấu ảo”.
Mỗi khi chúng ta sống như thế, hẳn chúng ta trở nên vô nghĩa với Thiên Chúa và vô dụng với tha nhân, bởi lẽ đây là hệ quả của con cái ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự thật mới đem lại cho chúng con hạnh phúc, bình an và có giá trị thực sự, bởi vì sự thật thuộc về Thiên Chúa. Gian dối thuộc về ma quỷ. Xin cho chúng con biết khôn ngoan để lựa chọn. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng quyền năng. Người đến giải thoát con người khỏi ách thống trị của quỷ dữ. Ta hãy để cho Chúa giải thoát ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không ai trong chúng con muốn đau khổ, nhưng nhìn nhận thân phận khốn cùng của mình để được Chúa giải thoát, lại là một điều khó. Chúa nhìn thấy con đau khổ, tội lỗi, và Chúa muốn giải thoát con. Nhưng cũng như người bị quỷ ám xưa, con lại không muốn chấp nhận để cho Chúa giải thoát, con muốn cắt đứt mọi liên hệ với Chúa. Chính quỷ dữ lôi kéo con chạy trốn Chúa, thúc đẩy con xua đuổi Chúa để con ở lì trong tội lỗi và ngụp lặn trong bể khổ.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con mà chẳng cần có con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không muốn. Hôm nay, con nhìn nhận thân phận khốn cùng của mình, xin Chúa đến giải thoát con. Được thoát ách thống trị của quỷ dữ để phụng sự Chúa, đó là hạnh phúc. Được thoát ách nô lệ tội lỗi để sống đời tự do thánh thiện, đó là niềm vui của con.
Xin Chúa gìn giữ con luôn sống thánh thiện trong ân sủng của Chúa. Khi nhìn thấy Chúa trừ quỷ, người ta đã kinh ngạc và dần dần nhận ra uy quyền của Chúa. Khi nhìn thấy các Kitô hữu chúng con thánh thiện, thế giới hôm nay sẽ nhận ra quyền năng cứu độ của Chúa. Khi con không nô lệ đam mê tội lỗi và quỷ dữ, đó là dấu hiệu ơn thánh Chúa đã chiến thắng nơi con. Xin Chúa giúp con sống thánh thiện, để sự thánh thiện trở thành dấu hiệu chứng tỏ cho thế giới hôm nay nhận ra sự hiện diện quyền năng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Tôi biết Ngài là ai rồi, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu có lập trường rõ ràng khi nghe giảng Lời Chúa: “Chúng ta chỉ có một việc là chăm chú nghe linh mục giảng”.
Đức Giáo hoàng, Đức Giám mục, Linh mục là những người thay mặt Chúa để giảng Lời Chúa. Vì thế, khi nghe giảng Lời Chúa, chúng ta đừng để ý đến ai giảng, nhưng hãy chú tâm vào việc nghe Lời Chúa được rao giảng mà thôi.
Suy niệm
Lời giảng dạy của Ðức Giêsu luôn có sức mạnh và uy quyền. Dân chúng kinh ngạc, lạ lùng về giáo huấn của Ngài chính từ lời Ngài có sức mạnh khiến thần ô uế phải nhào xuống và ra khỏi bệnh nhân. Ngài dùng uy quyền và phán một lời ra lệnh cho quỷ phải xuất khỏi nạn nhân bị ám. Sự hiện diện của Đức Kitô uy quyền với lời giảng dạy đầy uy quyền, khuất phục ma quỷ, tà thần. Lời đó đã làm cho niềm tin của dân chúng đặt vào Ngài, Đấng giảng dạy đầy uy quyền.
Đấng uy quyền đó là người mà sách Đệ Nhị Luật 18,15-20 đã nói về lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân, đó là tất cả niềm hy vọng của họ: Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Thật thế, Người chính là Ðức Giêsu Kitô đã khiến cho người ta phải kinh ngạc.
Lời giảng dạy của Đức Kitô đầy uy quyền vượt trên cả lời giảng dạy của các vị ngôn sứ, thánh Cyrillô thành Giêrusalem cắt nghĩa: “Những vị ngôn sứ khi giảng dạy, nói rằng: “Thiên Chúa phán”, Đức Giêsu không nói như vậy; là chủ của Lề Luật, Ngài đề cập đến những sự việc cao cả của luật: giảng từ những chữ viết luật đến ý nghĩa thật sự của Lề Luật, từ hình thức luật đến thực tế. Lời của Ngài không bao giờ là lời nịnh hót, nhưng là một sự khuyến khích dẫn đến ơn cứu độ. Người ta tin rằng Đấng Mêssia là một vị ngôn sứ, và Ngài sẽ chỉ cho thấy những cao siêu nơi các vị ngôn sứ, cho nên dân chúng ngạc nhiên vì những chủ đề trong lời giảng dạy của Ngài”.
Như Tin Mừng ghi nhận lại, Lời Ngài uy quyền so với lời giảng dạy của các bậc thông thái trong dân, thánh Bède le Vénérable giải thích các bậc thông thái trong dân dựa trên luật và các ngôn sứ còn Ngài từ uy quyền của chính Ngài: “Những người biệt phái hay những vị tiến sĩ luật giảng dạy những gì đã được Môisê và các ngôn sứ ghi chép trong luật. Nhưng Chúa Giêsu giảng dạy như là một người thầy của Môisê và như là vị Thiên Chúa uy quyền, Đấng có thể thêm hay thay đổi luật nếu các điều đó tỏ hiện sự tốt lành”. Ngài uy quyền vì Ngài làm chủ Lề Luật, tạo Lề Luật để con người được hưởng về sự tốt lành, hướng về Cha trên trời.
Ngày hôm nay vẫn còn những thần ô uế và sự dữ. Chúng ta đến bên Ngài, không chỉ để chiêm ngưỡng, ngạc nhiên và ngưỡng mộ Đấng Quyền năng như dân Do Thái xưa nghe Ngài giảng và thấy uy quyền trên thần ô uế, nhưng mở lòng đón nhận Lời quyền uy. Để Lời tác động xua đuổi mọi thần ô uế ra khỏi tâm hồn của chúng ta...
Ý lực sống
“Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát... Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại, lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên...” (Tv 91,14-15).
Sau khi rời bỏ quê nhà Nazareth, Chúa Giêsu tới Capharnaum, là thành phố nằm sát bờ biển hồ Tibêria, hôm nay thánh Luca giới thiệu cho chúng ta sức thu hút và lời uy quyền của Đức Giêsu. Trước lời giảng dạy của Đức Giêsu, dân chúng kinh ngạc, lạ lùng về giáo huấn của Người. Cũng chính Lời Người có sức mạnh mà thần ô uế phải khuất phục và ra khỏi bệnh nhân. Vì Đức Giêsu là Thiên Chúa nên Lời của Người có sức cảm hoá phi thường.
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân thành Capharnaum khi họ nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến việc Người xua trừ ma quỷ. Trong khi các luật sĩ chỉ nói suông trên toà và đặt gánh nặng lên vai người khác, thì Chúa Giêsu cư xử hoàn toàn khác: Ngài vừa giảng dạy, vừa làm phép lạ, vừa tỏ tình liên đới vừa chia sẻ với tất cả ưu ái, cảm thông. Sứ điệp của Ngài không chỉ là lời tuyên bố từ tòa cao, mà là tất cả con người Ngài. Uy quyền của Ngài phát xuất từ sự duy nhất giữa lời nói và hành động, và đó cũng chính là uy quyền của Thiên Chúa. Ngay từ trang đầu Kinh thánh, Thiên Chúa đã tự mạc khải như Đấng phán một lời liền có trời đất muôn vật. Lời Thiên Chúa là lời hữu hiệu, là lời đưa đến hành động (Mỗi ngày một tin vui).
Trong cách đánh giá thông thường, một người được xem là có uy tín khi tài năng và đức độ của người đó được nhìn nhận. Lời nói của một người có uy tín có sức thuyết phục người khác; việc làm của một người có uy tín có thể tạo được niềm tin nơi người khác. Nói chung, nơi một người có uy tín, lời nói và việc làm thường đi đôi với nhau, hoặc việc làm và cuộc sống có giá trị thuyết phục và lôi kéo.
Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có uy quyền, là bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài đã sống và sống những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài lại được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài. Đây chính là uy quyền mà Chúa Giêsu đã mặc cho Giáo hội. Giáo hội chỉ thực sự thể hiện được uy quyền của Chúa Giêsu, khi Giáo hội sống và rao giảng những gì Chúa Giêsu đã sống và rao giảng. Giáo hội chỉ thực sự thể hiện được bộ mặt đích thực của mình, khi sống phục vụ. Càng thể hiện được bộ mặt ấy, Giáo hội càng tỏ ra một sức mạnh có sức đạp đổ mọi thứ khí giới và xiềng xích của sự dữ, và trở thành chỗ dựa cho mọi người.
Nhiều người thán phục về những lời giảng dạy đầy uy quyền của Chúa Giêsu, nhưng quyền uy đó không đến từ chiêu thức mị dân của các nhà chính trị: tung tiền bạc, cho cơm bánh để mua chuộc sự ủng hộ. Lời Chúa quả thật có sức mạnh xua đuổi được ma quỉ. Lời Ngài phán ra bệnh nhân được chữa lành. Ngay cả khi Chúa cho đám đông hàng nghìn người được ăn no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá. Ngài cũng đã rao giảng Lời Chúa cho họ, và Ngài còn cảnh báo họ đừng tìm kiếm Ngài để chỉ có của ăn mau hư nát, mà hãy đến với Ngài để lãnh nhận được Lời ban sự sống đời đời. Quả thật, Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Lời đã sáng tạo vũ trụ càn khôn, là Sự thật và là Sự sống dẫn đưa nhân loại đến với Chúa Cha là nguồn mạch của sự sống đời đời (5 phút Lời Chúa).
Một lần nọ, khi đi ăn với vài người bạn ở nhà hàng, tôi làm Dấu Thánh Giá theo thói quen. Hành động của tôi lọt vào mắt của họ. Ngay tức khắc, họ xôn xao bàn tán và hỏi: “Bạn làm gì đó, vẽ bùa hả?” Tôi cười và đáp: “Mình làm Dấu Thánh Giá”. Sau đó, tôi giải thích cặn kẽ ý nghĩa và giá trị cao quí của Dấu Thánh Giá. Thế là họ hiểu ra và không bàn tán nữa. Từ đó, mỗi lần đi ăn với họ, khi tôi làm Dấu Thánh Giá, họ im lặng tôn trọng.
Nhiều người tín hữu hôm nay xem nhẹ những kiểu tuyên xưng đức tin đơn giản như thế. Có lẽ vì họ ngại ngùng trước cái nhìn soi mói của người khác, hoặc sợ bị coi là lạc hậu, cổ hủ, hay mê tín, thậm chí, họ sợ bị “khen” là con chiên ngoan đạo nữa.
Tuy nhiên, với người yêu mến Thiên Chúa đích thực, việc tuyên xưng danh Chúa lại là một niềm tự hào: Tự hào vì có Chúa trong mình, tự hào vì là con cái Chúa (Học viện Đa Minh).
Truyện: Tìm người để phụng sự
Truyền thuyết kể lại rằng: Christophorô là một người có vóc dáng cao lớn vạm vỡ. Vốn dĩ sinh ra trong một gia đình không Công giáo. Chàng chỉ ấp ủ một hoài bão lạ lùng là tìm cho được một vị quân vương cao cả nhất, để tuyệt đối tuân lệnh và phụng sự suốt đời.
Thế rồi chàng tìm gặp được một vị vua có tiếng là oai phong lẫm liệt nhất trong vùng. Chàng vui mừng vì ngỡ đã tìm được chủ theo ước nguyện.
Nhưng rồi không ngờ, một hôm, chàng đã vô tình bắt gặp nhà vua ấy đang run rẩy quỳ lạy tại một đền miếu thờ quỷ thần. Chàng liền bỏ đi ngay lập tức, với quyết tâm sẽ tìm được một ma vương quỷ thần nào đó có đủ quyền phép để theo làm nô lệ. Tức khắc, ma quỷ hiện ra và dẫn dụ chàng rảo bước khắp cánh đồng mênh mông rộng lớn.
Bất chợt, ma quỷ giáp mặt với một cây Thập giá dựng lên sừng sững ở một ngã tư đường ruộng theo phong tục của người dân Công giáo vùng ấy. Ma quỷ hoảng sợ, lấm lét nhìn Thập giá rồi bỏ chạy mất dạng!
Chàng trai thấy vậy, liền dứt khoát từ bỏ không thèm theo ma quỉ nữa, mà đứng lại trước thập giá, ngắm nhìn pho tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó thật lâu, rồi chàng quyết tâm từ nay sẽ đi theo.
Tình cờ có một linh mục quản xứ nhà quê đi qua, ngài dừng lại, cảm động trước lời thề nguyền ngây thơ và hồn nhiên của một chàng trai vạm vỡ to cao như thế, cha bước lại gần và bắt chuyện hỏi han sự tình.
Sau một thời gian ngắn, chàng trai chất phác mộc mạc ấy đã xin cha cho học đạo và chịu bí tích Thánh tẩy. Sau này, Christophorô đã phụng sự Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, để rồi khi cuộc bách hại đạo tràn đến, chàng đã được phúc chết vì đạo, để chứng minh cho mối tình thắm thiết và thuỷ chung của mình với Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Luca, đây là những hoạt động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, và những hoạt động này chứng tỏ Ngài là Đấng có uy quyền:
- Uy quyền trong lời giảng dạy, vì Ngài giảng dạy chính giáo lý của mình một cách tự tin, chứ không cần dựa vào uy thế của những bậc tôn sư tiến bối nào cả.
- và uy quyền trong hành động: Ngài đã khống chế sức mạnh của ma quỷ một cách rất dễ dàng và nhanh gọn.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng đầy uy quyền. Có lần, thính giả phải thừa nhận “Chưa từng có ai giảng dạy như ông ấy”. Giáo huấn của Chúa vượt xa tất cả các bậc tôn sư thức giả và mở ra cho con người một con đường sống tốt đẹp.
Con muốn được làm học trò trong trường của Chúa. Xin Chúa ngày ngày dạy dỗ con.
2. “Bấy giờ trong hội đường có một người bị quỷ ám”: người bị quỷ ám là người bị một thế lực xấu khống chế, người đó không còn tự do, người đó không còn là con người trọn vẹn.
Tôi có đang bị khống chế một cách nào đó không: bởi một tính xấu? những thói quen xấu? những đam mê lệch lạc? v.v. Ngày xưa Chúa đã giải thoát cho người bị quỷ ám. Xin Chúa cũng giải thoát con.
3. Nhận thấy rằng rao giảng bằng lời nói suông chưa đủ, Weizemann, thần học gia, mục sư, nhạc sĩ, bác sĩ đã dấn thân phục vụ những người nghèo nhất ở Châu Phi. Làm việc không biết mệt mỏi, trải qua bao nhiêu khó khăn, nhưng Weizemann vẫn không bao giờ mãn nguyện vì những hy sinh của mình. Năm 1952 khi được trao giải thường Nobel hòa bình, ông đã tuyên bố: “Không ai có quyền tự phụ mình đã phục vụ cho hòa bình quá nhiều, cũng không ai có quyền nói rằng mình đã mãn nguyện”. Gương phục vụ của Weizemann là một cố gắng họa lại cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ rao giảng chỉ bằng lời nói, nhưng luôn kèm theo hành động, gương sáng và cả cái chết nữa. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Ngài xuống Caphácnaum, một thành miền Galilê, và ngày sabát Ngài giảng dạy họ. Họ sửng sốt về cách Ngài giảng dạy, vì Lời Ngài có uy quyền” (Lc 4,31-32)
Thánh lễ là nơi tôi gặp gỡ Thiên Chúa, tôi thưa chuyện với Ngài và Ngài giáo huấn tôi. Trong thinh lặng và trong khoảng không gian thánh thiện của giáo đường, Ngài hiện diện một cách sống động và không ngừng tác động trên tôi. Lời Ngài cũng vang lên một cách huyền nhiệm nơi giáo đường. Nhờ Lời, tôi cảm thấy mình được biến đổi. Sự thanh thản, nhẹ nhõm, bình an đến với tôi mỗi khi tôi đến với Ngài. Lo âu, sầu khổ, chán chường, thất bại hay thành công của tôi đều được Ngài chia sẻ, ủi an. Đấy không phải là phép lạ, là uy quyền sao?
Như xưa Ngài đã làm cho dân miền Galilê sửng sốt thì Lời Ngài hôm nay cũng làm cho tôi phải ngỡ ngàng.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được quyền năng của Lời Chúa mỗi ngày một sâu sắc hơn trong đời con. (Hosanna).
Có lần thính giả nghe Chúa đã phải thừa nhận “chưa từng có ai giảng dạy như ông ấy”(Lc 4,32). Giáo huấn của Chúa vượt xa tất cả các bậc tôn sư thức giả và mở ra cho con người một con đường sống tốt đẹp.
Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, bởi vì Ngài chỉ giảng dạy những gì Ngài sống và sống trước những gì Ngài rao giảng. Lời nói của Ngài được củng cố bởi cuộc sống và những việc làm của Ngài.
Người ta thường nói muốn cho lời rao giảng có uy quyền thì nó phải có lửa. Lửa đây chính là cuộc sống.
Uy quyền của Chúa Giêsu là điều hoàn toàn mới mẻ. Khi các Rabbit giảng dạy, họ thường củng cố lời nói bằng cách trích dẫn chứng cớ, họ luôn luôn nói: có lời rằng Rabbit nọ, Rabbit kia nói. Bao giờ họ cũng dựa vào một thẩm quyền nào đó. Khi các tiên tri lên tiếng, họ thường nói: “Chúa phán như vầy”. Uy quyền của họ là một loại uy quyền được ủy nhiệm, nhưng khi Chúa Giêsu phán, Ngài nói “Ta nói cùng các ngươi”, Ngài không cần dựa vào một uy quyền nào khác để nâng đỡ Ngài. Ngài không sử dụng một loại uy quyền ủy nhiệm nào. Chính ngài là uy quyền nhập thể. Đây là một sự mới mẻ. Đây là một người nói điều mình chắc chắn biết rõ.
Trong mọi lãnh vực của đời sống, nhà chuyên môn bao giờ cũng tỏ ra có uy quyền. Một nhạc sĩ kể rằng khi Toscanini bước lên bục chỉ huy, dường như uy quyền toát ra từ ông và cả dàn nhạc cảm thấy uy quyền đó. Khi cần một lời chỉ giáo chuyên môn thì chúng ta tìm đến một chuyên gia và chúng ta tin lời ông ta nói. Chúa Giêsu là một nhà chuyên môn về đời sống. Khi Ngài nói, người ta biết rằng lời Ngài vượt quá sự khôn ngoan của loài người vì Ngài chính là Thiên Chúa.
2. Thứ đến là uy quyền trên ma quỉ.
Ma quỉ có thật. Nhiều lần Chúa Giêsu đã xua trừ ma quỉ. Ma quỉ là một thế lực xảo quyệt tinh khôn, lợi dụng mọi dịp để tấn công chúng ta. Thánh Phêrô bảo: “Ma quỉ sẽ sàng anh em như người ta sàng gạo”. Chúng ta còn nhớ sau khi đã cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc và bị Chúa đánh bại, Tin Mừng nói rõ: chúng rút lui để chờ dịp khác. Ma quỉ không dễ dàng buông tha chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thấy quyền lực của Chúa Giêsu còn mạnh hơn, Ngài đã thắng cả ma quỉ.
Ngày xưa, có lần Napoléon cầm tấm bản đồ, chỉ tay vào nước Anh, nói với đám thủ hạ:
- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục trọn thế giới rồi.
Ma quỷ cũng chỉ tay vào Thập Giá và nói:
- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục cả thế giới rồi.
Như vậy, muốn thắng ma quỉ, chúng ta phải chạy đến với Chúa.
Truyền thuyết kể lại rằng: Christophe là một người có vóc dáng cao lớn vạm vỡ. Vốn dĩ sinh ra trong một gia đình không Công giáo. Chàng chỉ ấp ủ một hoài bão lạ lùng là tìm cho được một vị quân vương cao cả nhất để tuyệt đối tuân lệnh và phụng sự suốt đời.
Thế rồi chàng tìm gặp được một vị vua có tiếng là oai phong lẫm liệt nhất trong vùng. Chàng vui mừng vì ngỡ đã tìm được minh chủ theo ước nguyện. Nhưng rồi không ngờ, một hôm, chàng đã vô tình bắt gặp nhà vua ấy đang run rẩy quỳ lạy tại một đền miếu thờ quỷ thần.
Chàng liền bỏ đi ngay lập tức, với quyết tâm sẽ tìm được một ma vương quỷ thần nào đó có đủ quyền phép để theo làm nô lệ. Tức khắc, ma quỷ hiện ra và dẫn dụ chàng rảo bước khắp cánh đồng mênh mông rộng lớn.
Bất chợt, ma quỷ giáp mặt với một cây Thập Giá dựng lên sừng sững ở một ngã tư đường ruộng theo phong tục của người dân Công giáo vùng ấy. Ma quỷ hoảng sợ, lấm lét nhìn Thập Giá rồi bỏ chạy mất dạng!
Chàng trai thấy vậy, liền dứt khoát từ bỏ không thèm theo ma quỷ nữa, mà đứng lại trước Thập Giá, ngắm nhìn pho tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó thật lâu, rồi chàng quyết tâm từ nay sẽ đi theo.
Tình cờ có một Linh Mục quản xứ nhà quê đi qua, Ngài dừng lại, cảm động trước lời thề nguyền ngây thơ và hồn nhiên của một chàng trai vạm vỡ to cao như thế, cha bước lại gần và bắt chuyện hỏi han sự tình.
Sau một thời gian ngắn, chàng trai chất phác mộc mạc ấy đã xin cha cho học đạo và chịu bí tích Thánh Tẩy. Sau này, Christophe đã phụng sự Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, để rồi khi cuộc bách đạo tràn đến, chàng đã được phúc chết vì đạo để chứng minh cho mối tình thắm thiết và thủy chung của mình với Thiên Chúa.
Ngày nay, Giáo Hội tại một số quốc gia Châu Âu vẫn mừng lễ Thánh Christophe vào ngày 25 tháng 7 hằng năm, để nêu một tấm gương theo Chúa và phụng sự Chúa trọn vẹn cả cuộc đời.
Khi ấy, Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon. Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài. Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa". Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Đức Kitô. Đến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ. Người bảo họ rằng: "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến". Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.
Sáng ngày sabát Đức Giêsu đã giảng dạy ở hội đường Caphácnaum. Lời của Ngài đầy uy quyền và uy lực. Lời ấy đã trục được quỷ khỏi một người đàn ông (Lc 4, 31-37). Có lẽ đến trưa, Đức Giêsu rời khỏi hội đường để về nhà ông Simôn. Tiếc thay bà mẹ vợ của ông lại bị sốt nặng, nằm một chỗ. Người ta yêu cầu Ngài chữa cho người phụ nữ này. Ngài đã lại gần và cúi xuống trên bà. Ngài quát mắng cơn sốt như đã quát mắng thần ô uế (c. 39). Lập tức cơn sốt phải rút lui. Bà có thể đứng dậy được để phục vụ cơm nước cho Đức Giêsu và môn đệ. Một lần nữa, chúng ta lại thấy sức mạnh của Lời Ngài. Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ chỉ bằng một lời ra lệnh. Bệnh tật, dù nhẹ đi nữa, cũng làm phiền con người, làm cản trở mọi sinh hoạt bình thường, và làm con người mất tự do. Đức Giêsu đã nâng dậy một người đang nằm, mất sức làm việc. Khi mặt trời lặn, lúc đã hết ngày sabát là ngày lễ nghỉ, người ta mới đem cho Ngài những người bị đau đủ thứ bệnh. Ngài chữa cho họ bằng cách đặt tay trên từng người (c. 40). Đức Giêsu cúi xuống và chạm vào nỗi đau của từng thân xác. Không rõ khi nào Ngài dừng tay để đi ngủ. Chỉ biết khi trời hừng sáng, Ngài đã thức dậy ra đi, đến một nơi vắng vẻ. Hẳn là Ngài cần chút thinh lặng, để xa đám đông, để gặp gỡ Cha, Ngài cần dâng cho Cha một tuần mới đang đến. Đức Giêsu không chỉ mê phục vụ cho đám đông, Ngài còn mê ở một mình, mê cầu nguyện, mê chỗ vắng. Nhưng các đám đông hối hả đi tìm Ngài, vì nhiều người cần chữa bệnh. Khi bắt được Ngài, họ không cho Ngài lìa bỏ họ (c. 42). Thành công và tiếng tăm, thiện cảm và sự thân quen gần gũi, là những điều có thể giữ chân người tông đồ. Trước sự chèo kéo của những người đau yếu đang thực sự cần Ngài, Đức Giêsu vẫn muốn giữ cho mình sự tự do của người được Cha sai. Ngài nhìn thấy cánh đồng mênh mông của thế giới. Ngài hiểu là mình không được phép dừng chân ở một chỗ, để đặt trụ sở. Ngài biết là mình được mời gọi lên đường mỗi ngày. Đâu phải chỉ có thành Caphácnaum hay Nadarét hay vùng Galilê. “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai cốt để làm chuyện đó” (c. 43). Chữ phải đến như một mệnh lệnh từ Cha, kéo Đức Giêsu đi không nghỉ. Ngài vượt qua bao biên giới của gia đình, làng quê, tỉnh thành… Rồi có ngày việc loan báo Tin Mừng sẽ trải dài đến tận cùng thế giới. Khi chữa lành cho con người, Đức Giêsu cho thấy Nước Thiên Chúa đến. Con người hôm nay cũng bị đau yếu về nhiều mặt. Mong mỗi tông đồ hôm nay cũng có khả năng chữa lành như Thầy Giêsu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta) ----------------------------------
Như mặt trời trên bầu trời tỏa sáng trên muôn loài, đem sức sống cho con người và súc vật, cho hoa nở, cho trái chín, cho giòng nước trong xanh. Như mưa từ trời rơi xuống cho khí hậu mát mẻ, cho lúa mọc, cho sa mạc có sức sống. Tình Chúa bao la ấp ủ muôn loài.
Hãy xem một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Người làm việc không biết mỏi mệt. Có giảng dậy trong Hội đường. Có chiến đấu với ma quỉ. Có đám đông mênh mông đến với Người. Nhưng cũng có thời giờ gặp gỡ riêng tư với người thân. Và nhất là có thì giờ tâm sự với Chúa Cha ngay từ sáng sớm. Người đi đến đâu là mở rộng Nước Thiên Chúa đến đấy. Phá tan vương quốc sự dữ. Diệt tan đau khổ, bệnh tật, bất hạnh. Đem đến an ủi, niềm hi vọng. Đem đến sự sống và sự sống dồi dào.
Nhiều người nhìn thấy trong đó mối lợi riêng tư, nên muốn giữ chân Người. Nhưng tấm lòng bao la, Người phải lên đường đi đến với hết mọi người ở khắp mọi nơi. Bao lâu còn khổ đau bước chân Người còn dong duổi. Ở đâu còn bất hạnh trái tim Người còn thổn thức. Tin Mừng chưa đến tận cùng trái đất tâm hồn Người chưa biết đến nghỉ ngơi. Người phải đi khắp nơi vì Nước Trời không biên giới. “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa”.
Nhưng có những môn đệ chưa hiểu điều đó, nên vẫn còn cục bộ phân chia. Kẻ theo A-pô-lô. Người theo Phao-lô. Đó là vì họ còn theo tính xác thịt chưa theo Thần Khí. Đó là vì họ còn muốn thiết lập nước trần gian chưa đi vào Nước Trời. Đó là vì họ còn ấu trĩ chưa đủ trưởng thành. “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? Khi người này nói: “Tôi, tôi thuộc về ông Phao-lô” …thì anh em chẳng là người phàm tục sao” (năm chẵn).
Người môn đệ phải có tấm lòng bao la như Chúa. Bao la để đón tiếp và cộng tác với mọi sứ giả của Chúa, dù đó là Phao-lô, Ti-mô-thê hay Ê-páp-ra. Bao la để không chỉ yêu mến người thân, cộng đoàn mà còn yêu mến cả thế giới. Bao la để cho Tin Mừng lớn lên không chỉ ở một địa phương nhưng là toàn cầu. Bao la để cho niềm tin và niềm trông cậy vươn tới Nước Trời: “Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy” (năm lẻ).
Năm 1990, trong chuyến viếng thăm Phi Châu, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến Gia Mô Su Cô, thủ đô nước Qua Tê Ðô Bu A để kính viếng Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình do tổng thống nước này cho xây cất và dâng tặng cho Tòa Thánh.
Ðược mô phỏng từ Vương Cung Thánh Ðường ở Rôma, ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa đến tám ngàn chỗ ngồi và mười ngàn chỗ đứng. Người ta không biết rõ kinh phí xây cất ngôi thánh đường này là bao nhiêu, nhưng tổng thống Kufues cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ. Vào giữa lúc dân chúng Qua Tê Ðô Bu A vẫn còn sống trong nghèo nàn lạc hậu, nhiều người đã có lý để chất vấn ông Kufues tại sao không dùng số tiền kếch sù ấy để xây cất trường học và đẩy mạnh công cuộc phát triển có lợi cho dân nghèo. Ðây cũng chính là điều kiện để Tòa Thánh đón nhận món quà của tổng thống nước này.
Ðức Thánh Cha đã đến thánh hiến Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình nhưng đồng thời cũng kêu gọi tổng thống Kufues quan tâm tới công tác giáo dục và xã hội cho dân nghèo. Do đó, tổng thống Kufues đã tặng cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo.
Ðức Thánh Cha đã thánh hiến ngôi giáo đường nguy nga nhưng đồng thời cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ, nó nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.
Rao giảng Tin Mừng không chỉ có nghĩa là công bố những chân lý liên quan đến phần rỗi linh hồn, sống đạo không chỉ có nghĩa là xây cất nhà thờ và chu toàn những việc đạo đức đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ. Góp phần phát triển xã hội, tranh đấu cho công bình, nỗ lực mang lại no cơm ấm áo và xoa dịu bao vết thương đau của con người, đó cũng là thành phần thiết yếu của công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Giáo Hội trong thế giới ngày nay như hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng khẳng định không thể xa lạ hay làm ngơ trước những vui mừng và hy vọng, đau thương và sầu khổ của con người thời đại, và những vấn đề sống còn của con người. Giáo Hội hành động như thế là vì tính cách toàn diện của ơn cứu rỗi. Thiên Chúa không chỉ cứu rỗi phần linh hồn mà cả con người với hồn lẫn xác. Giáo Hội loan báo ơn cứu rỗi toàn diện như thế là bởi vì chính Chúa Giêsu đã loan báo và thực hiện một ơn cứu rỗi như thế. Ngài không chỉ rao giảng và hứa hẹn một Nước Trời hoàn toàn xa lạ với những thực tại trần thế. Nước Trời mà Ngài rao giảng đến ngay trong những thực tại trần thế và trong cuộc sống cụ thể của con người. Ngài không chỉ tha tội trừ quỉ, chữa phần linh hồn mà còn dâng bánh và cá cho nhiều người được ăn no nê, cũng như chữa lành mọi thứ tật bệnh của con người.
Cử chỉ của Chúa Giêsu đối với nhạc mẫu của thánh Phêrô và việc Ngài đặt tay chữa những người bệnh tật ốm đau được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của một tình yêu được trải rộng đến mọi người, từng người, từng nhu cầu của con người mà Chúa Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục trong thế giới ngày nay. Cần có nhà thờ để qui tụ lại, tôn vinh Thiên Chúa và thỏa mãn nhu cầu thiêng liêng của con người, nhưng càng cần có nhà thương và trường học để phục vụ con người hơn. Gặp gỡ Thiên Chúa trong nhà thờ đã đành, nhưng gặp gỡ Ngài trong tha nhân và cuộc sống hàng ngày mới thiết thực hơn. Có những giây phút tĩnh lặng để cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là để được tỉnh thức hơn hầu gặp gỡ, yêu thương và phục vụ người anh em trong cuộc sống hàng ngày. Con đường nào cũng phải dẫn tới nhà thờ nhưng nhà thờ nào cũng có lối thông với cuộc đời. Người tín hữu Kitô gặp gỡ Chúa để múc lấy sức sống và trở lại cuộc sống hàng ngày hầu gặp gỡ và yêu thương người anh em của mình nhiều hơn.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thống nhất hai giới răn mến Chúa và yêu người và ý thức rằng cốt lõi của Ðạo là Tình Yêu.
"Chúng ta hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" đó là lời phát biểu của Mẹ Têrêsa Calcutta để gián tiếp chấp nhận lời yêu cầu của một số ký giả và những người làm phim muốn làm một cuốn phim tài liệu trình bày những công việc từ thiện do Mẹ và các Nữ tu Dòng Thừa sai bác ái thực hiện. Từ mấy chục năm nay, tinh thần và tình yêu của Mẹ Têrêsa đối với những người đau khổ bệnh tật đã được lan ra khắp nơi trên thế giới, như một tiếp tục công tác chính Chúa Giêsu đã thực hiện mà chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ". Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta". Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
Xin cho công trình giải phóng và cứu rỗi của Chúa được nhiều người quảng đại dấn thân tiếp tục. Xin cho đôi mắt đức tin chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa nơi những người đang cần được giúp đỡ.
Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Ngài bỏ họ mà đi. Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng cho thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm, việc đó.” (Lc. 4, 42-43)
Đức Kitô đã nói: “ Tôi còn phải loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cho các nơi khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Người không chỉ đến một thành, là Ca-pha-na-um, hay những vùng lân cận đó, nhưng đến tận cùng thế giới.Chữa những bà mẹ vợ và còn bao nhiêu bà khác nữa!Chữa những người bị quỷ ám và còn phải đuổi bao nhiêu thần ôuế khác nữa!
Đừng nên bóp nghẹt Người vào một chỗ: đừng nên độc quyền nắm giữ sứ điệp nước trời cho riêng mình. Cần phải loan truyền Tin Mừng cho khắp mọi nơi như Người đã muốn, như chính Người đã làm. Chúng ta không thể là những người sở hữu độc nhất và đặc quyền khai thác Tin Mừng. Hiến chế về Giáo Hội của công đồng Va-ti-can II nói với chúng ta: “ Mỗi môn đệ của Chúa Kitô, tùy theo địa vị của mình, đều phải làm tròn trách nhiệm gieo hạt giống đức tin”. (số 17). Phép rửa tội làm cho chúng ta trở nên những nhà truyền giáo. Chúng ta không chỉ là Kitô hữu cho nơi của mình. Về phần chúng ta phải mang Tin Mừng đi khắp mọi nơi chúng ta đến.
Giáo Hội phát triển nhờ những cuộc bách hại thời sơ khai thúc đẩy các môn đệ Chúa Kitô đi lập cơ sở mới ra khỏi thế giới Do-thái. Những bất mãn hiện thời của nhiều nhóm công giáo lâu đời buộc chúng ta phải cởi mở ra thế giới khác chúng ta, họ khao khát Thiên Chúa, có sức thấm nhuần và thăng tiến lời Chúa mạnh mẽ. Xưa, Đức Giêsu đã truyền lệnh cho các tông đồ: “ Nếu họ từ chối các con, thì các con hãy đi sang làng khác”. Thiên Chúa không còn áp đặt. Con Chúa cũng vậy. Suốt dòng lich sử Giáo Hội, chúng ta đã quên điều đó. Công đồng Va-ti-can II đã nhắc nhở chúng ta trong một tuyên ngôn cách mạng về tự do tôn giáo.
Thật chính đáng khi nhận biết rằng: tất cả là ơn Chúa, tất cả là sự quan phòng của Chúa, tất cả qui hướng về vinh quang cao cả của Chúa. Những người bị bỏ rơi đã được Chúa chọn, khiến chúng ta phải hiểu ơn gọi của người Kitô chúng ta là: Hãy đi đến với mọi người không trừ ai, vì không có một người nào mà Chúa không ghé mắt đoái nhìn. Còn chúng ta, phải nói gì với họ.
“Ông là Con Thiên Chúa”. Đây là lời tuyên xưng của ma quỷ khi bị Đức Giêsu trục xuất khỏi những người mà chúng làm hại. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà truyền cho chúng phải câm miệng.
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Đức Giêsu biết rất rõ trong tâm thức thực dụng của các môn đệ và những người Dothái thời bấy giờ là mong muốn và hy vọng về một Đấng Messia theo kiểu trần tục. Họ khát mong Đấng đó phải là người: giải phóng dân tộc Israel khỏi ách đô hộ của đế quốc Lamã, đem lại tự do, cơm no áo ấm và vinh quang cho đất nước...
Nhưng sứ mạng của Đức Giêsu không phải đến để giải phóng theo ý hướng của họ, mà là đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, chữa lành bệnh tật và đem lại cho họ niềm hạnh phúc thật sự là được ở với Chúa.
Vì thế, Đức Giêsu đã cấm ma quỷ nói về Ngài, vì bây giờ không phải là lúc thuận tiện để mọi người hiểu được cốt lõi sứ mạng nơi Đức Giêsu.
Thật vậy, con đường cứu độ của Đức Giêsu là con đường của vâng lời, hy sinh, phục vụ, tự hủy và chịu chết, chứ không phải là con đường nhung lụa, vũ trang, quyền lực, thống lãnh... theo kiểu nhà binh.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy sống và chu toàn sứ mạng mà Chúa trao phó trong vai trò và bổn phận của mình cách trung thành. Luôn đứng về phía người nghèo, thấp cổ bé họng, để bênh đỡ họ, vì chính Chúa đã đồng hóa Ngài với những người như thế. Đây phải là đối tượng số một của Tin Mừng và sứ mạng của người Kitô hữu. Mặt khác, đây cũng là thước đo lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tinh thần yêu thương như Chúa khi xưa, hầu nhiều người sẽ nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa khi chúng con biết yêu thương nhau. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã tỏ cho mọi người biết chính mình là ai khi chữa lành các bệnh tật và khử trừ ma quỷ. Ngài không cần ma quỷ tuyên xưng Ngài. Chính việc làm sẽ làm chứng cho Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi đọc Tin Mừng, con thấy các phép lạ Chúa làm được kể lại một cách rất bình thường, lời văn bình dị, đơn sơ, vắn gọn, khác xa với cách tường thuật về một sự kiện lạ lùng, ly kỳ như con thường đọc thấy.
Qua cách diễn tả đó, con nhận ra cách Chúa đang can thiệp vào cuộc sống của chúng con. Phép lạ Chúa làm không chú trọng vào kẻ kỳ dị bên ngoài, mà phép lạ chính là lúc Chúa đến tiếp xúc với con người và để cho con người tiếp xúc, gặp gỡ Chúa. Chúa đã cầm tay bà nhạc mẫu của thánh Phêrô để nâng đỡ bà dậy và bà đã khỏi sốt. Chúa đã gặp gỡ con người để đưa con người đến tình trạng tốt hơn. Phép lạ chính là việc Chúa làm để tác động lên đời sống thường nhật của chúng con.
Lạy Chúa, nhìn vào phương cách Chúa làm phép lạ, con nhận ra Chúa đã thực hiện bao nhiêu phép lạ trong cuộc sống con: những điều may lành con nhận được hằng ngày, các khó khăn nguy hiểm con đã vượt qua, những bất hoà trong gia đình được hàn gắn…, tất cả đều là sự can thiệp lạ lùng của Chúa: lạ lùng nhưng quá bình dị đơn sơ nên nhiều lúc con không nhận ra.
Chúa làm phép lạ không phải vì muốn được nổi danh nhưng chỉ vì thương xót chúng con. Điều Chúa muốn chính là cầm tay bà nhạc thánh Phêrô để bà được khỏi bệnh. Và bà đã chỗi dậy để tiếp đón, mời Chúa và các môn đệ dùng bữa ở nhà mình.
Trong cuộc sống của con, xin Chúa giúp con nhận ra những lần Chúa đến gặp gỡ con, nâng đỡ con, để con biết mau mắn chỗi dậy đón tiếp Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến”.
Soeur Marie Simon Phêrô, dòng Tiểu Muội bảo sanh viện (Công giáo Congrégation des Petites Soeurs des Maternités) tại nước Pháp mang bệnh Parkinson, cùng một loại bệnh mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II mắc phải. Soeur đã không đi đứng được, thân mình đau nhức và hai tay bị run đến nỗi không cầm bút viết được nữa. Mẹ bề trên đề nghị chị hãy cầu nguyện và viết tên của Đức Gioan Phaolô II lên một mảnh giấy, theo bà “vì ngài cũng mắc chứng bệnh Parkinson này, nên soeur cảm thấy có một mối liên hệ mật thiết với ngài”. Soeur đã cố gắng nhưng chữ viết chỉ nguệch ngoạc không đọc được. Các chị em trong dòng đã cầu nguyện không ngừng cho Soeur qua lời bầu cử của Đức Gioan Phaolô II.
Hai tháng sau khi Đức Gioan Phaolô trở về nhà Cha, một buổi sáng chị thức dậy lúc 4h30 sáng, đi ra khỏi giường thì không còn đau đớn. Chị rất ngạc nhiên khi thấy những chữ mình viết ra rất dễ đọc. Buổi sáng hôm sau, Soeur nhảy ra khỏi giường: Bệnh Parkinson đã biến mất, một việc kỳ lạ được kiểm chứng và xác nhận bởi một nhóm các bác sĩ y khoa tại địa phương. Soeur Marie Simon Phêrô, bây giờ đang làm việc tại một bệnh xá ở Paris…
Suy niệm
Chúa Giêsu cầm lấy tay nhạc mẫu của Phêrô đang nằm trên giường vì sốt, nâng bà “trỗi dậy”. “Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”.
Sau khi chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô, khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái là lúc kết thúc ngày cũ và bắt đầu một ngày mới, họ dẫn mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến với Đức Giêsu để Ngài chữa lành những ai đau bệnh và trục xuất thần ô uế trong những ai bị chúng ám. Hình ảnh đó như mang một hy vọng mới trong ngày mới: Được chữa lành, mạnh khỏe đời sống tinh thần và thể xác, nhưng không chỉ mạnh khỏe để sống cho mình mà mạnh khỏe để tiến bước trong tinh thần phục vụ.
Thật thế, trong đời sống hằng ngày, chúng ta đang phải chiến đấu, vật lộn với những thứ bệnh, ngay trong bản thân mình, những căn bệnh của thể xác, những căn bệnh về tinh thần như lo âu, đau khổ như Gióp đã đại diện con người nói lên tâm trạng đó (x. G 7,1-4.6-7). Hơn nữa, do mang thân phận mỏng giòn yếu đuối của kiếp người, chúng ta mang đủ thứ tội lỗi, những tính hư nết xấu, những khuynh hướng xấu, những đam mê, dục vọng mệt mỏi làm chúng ta sống vô vọng như muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta lại đang bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và thiếu hay không chăm chú thực hành những điều răn của Người (x. Tl 28,15.22), đó là căn bệnh tâm linh của mọi thời đại… Con người chỉ có thể được chữa lành và được mạnh khỏe khi nhìn nhận bệnh tình của mình và mang thái độ tin vào Đức Kitô, Đấng luôn yêu thương và sẵn sàng cứu chữa chúng ta như Ngài đã chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô và các người bệnh nhân chạy đến xin Người cứu chữa…
Khi chúng ta được chữa lành, chúng ta mau mắn trỗi dậy ra đi phục vụ anh em, đặc biệt những người bé nhỏ, cô thân cô thế, những người neo đơn, ốm đau tật nguyền… những người trong chính gia đình mình.
Ý lực sống:
Xin chữa lành, đỡ con dậy và con tiến bước phục vụ…
Thánh Luca tiếp tục tường thuật một ngày hoạt động bận rộn của Chúa Giêsu: sau khi giảng và chữa một người bị quỉ ám trong hội đường, Ngài đến nhà nhạc mẫu của ông Simon Phêrô và chữa bệnh sốt cho bà. Chiều đến, người ta vẫn còn mang tới rất nhiều bệnh nhân. Chúa Giêsu “đặt tay trên từng bệnh nhân” và cứu chữa họ. Sáng hôm sau dân chúng lại tìm Ngài, nhưng Ngài đành phải ra đi, vì “còn phải rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa cho những thành khác”.
Chúa Giêsu đến nhà nhạc mẫu của Simon Phêrô và chữa bệnh sốt cho bà. Ngài xua trừ quỷ dữ ra khỏi nhiều người, và trong rất nhiều trường hợp khác, đối với nhiều bệnh nhân mắc đủ thứ chứng bệnh, Ngài cũng chữa lành. Tất cả đều chứng tỏ lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Nói rõ hơn, với tư cách là Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu đến trần gian để giải cứu con người khỏi mọi khốn khổ phần hồn, nhưng Ngài cũng cứu giúp con người về phần xác nữa: Ngài cảm thông với những đau yếu bệnh tật của con người và chữa lành họ.
Chúa Giêsu không bao giờ quên việc chính yếu là phải loan báo một Tin mừng. Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Tôi còn phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4,43). Phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, đó là công việc hàng đầu, ưu tiên và số một của Chúa. Sau khi Chúa về trời, các Tông đồ đã tiếp tục thi hành công việc này. Các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao phó một cách rất tốt đẹp.
Rao giảng Tin mừng luôn là một việc cấp bách và liên tục, không dừng lại ở một nơi hay một nhóm người nhất định, mà phải từ nơi này đến nơi khác, cho bất cứ ai chúng ta gặp gỡ và đi đến. Cần ý thức sứ vụ của tất cả Kitô hữu chúng ta là truyền giáo, truyền giáo trong cả lời nói và hành động thiết thực qua đời sống yêu thương, bác ái và xả thân phục vụ.
Dân chúng mộ mến Đức Giêsu vì Ngài làm cho họ biết bao điều tốt đẹp: chữa bệnh, trừ quỷ, rao giảng. Thật dễ hiểu khi họ muốn giữ Ngài ở lại với họ. Điều đó không sai. Nhưng Chúa Giêsu không chấp nhận một tầm nhìn hạn hẹp như vậy. Ngài nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Để thắng cơn cám dỗ đi sai lệch trọng tâm của sứ mạng loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn luôn kết hợp với Chúa Cha qua đời sống cầu nguyện: Từ sáng sớm, Người đi ra một nơi hoang vắng để cầu nguyện, để sống thân mật với Chúa Cha, để lắng nghe Chúa Cha và nói lại cho dân chúng. Cầu nguyện trước đã rồi mới loan báo Tin mừng, hai thực hành này hoà quyện với nhau trong con người và hoạt động của Chúa Giêsu (5 phút Lời Chúa).
Nhiều lần các Tin mừng kể việc Chúa Giêsu cầu nguyện, chẳng hạn như: “Sau khi giải tán đám đông, Người đi lên núi mà cầu nguyện, chiều đến Ngài vẫn ở đó một mình” (Mt 14,23), hoặc: “Sáng sớm lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35). Chúng ta để ý đến hai chi tiết: sáng sớm thức dậy Chúa Giêsu đi cầu nguyện và chiều đến sau khi giải tán đám đông, Chúa Giêsu đi cầu nguyện.
Cầu nguyện đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Mọi người có thể cầu nguyện mọi lúc mọi nơi với nhiều phương cách. Tuy nhiên, nơi mỗi xứ đạo chúng ta từ xưa đến nay vẫn giữ được thói quen tốt là đến nhà thờ vào lúc khởi đầu và kết thúc mỗi ngày: ban sáng dâng Thánh lễ và buổi tối đọc kinh chung, nhất là kinh Mân Côi.
Theo như đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có viết trong cuốn sách Đường Hy Vọng như sau: “Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa”.
Dù là Con Thiên Chúa, với thân phận làm người, Chúa Giêsu vẫn không bỏ qua việc cầu nguyện. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận: giảng ở hội đường; giảng xong, chữa một người bị quỷ ám; rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô; chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa. Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng, để cầu nguyện và bắt đầu một ngày mới cũng rất bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
Truyện: Phải cộng tác với Chúa
Đức cha Tihamer Toth kể: Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn, nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi được hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng vĩnh cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã, người học trò hỏi:
- Tại sao thầy buồn thế?
- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là khác. Ông nói: Thiên Chúa yêu thương vô cùng, Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần, thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu dư đầy.
Luca tiếp tục tường thuật một ngày hoạt động bận rộn của Chúa Giêsu: sau khi giảng và chữa một người bị quỷ ám trong hội đường, Ngài đến nhà nhạc mẫu của Simon Phêrô và chữa bệnh sốt cho bà. Chiều đến, người ta vẫn còn mang tới rất nhiều bệnh nhân, Chúa Giêsu “đặt tay trên từng bệnh nhân” và cứu chữa họ. Sáng hôm sau dân chúng lại tìm Ngài. Nhưng Ngài đành phải ra đi vì “còn phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho những thành khác”.
B.... nẩy mầm.
1. Khi có người nào đó giống Chúa Giêsu biết quan tâm cứu giúp những người đau khổ, thì những người đau khổ vây quanh bám lấy người ấy như một đám đông gần chết đuối bám lấy chiếc phao duy nhất.
Tội nghiệp cho nhân loại khốn khổ. Xin cho có nhiều người mang tâm hồn bao la như Chúa, trong số đó cũng có con.
2. Phần cuối của bài Tin Mừng này khiến tôi hơi thất vọng: những người khốn khổ vẫn bám theo Chúa Giêsu, “họ cố cầm giữ Ngài lại”, nhưng Ngài bỏ họ mà đi, vì “còn phải rao giảng Tin Mừng cho những thành khác”.
Nhưng tôi đã hiểu: Chúa không nhắm cứu hết tất cả những đau khổ phần xác (bởi vì đã mang thân xác tất phải chịu khổ đau. Trần gian là thế!), nhưng Ngài nhằm đem cho nhân loại Tin Mừng, một thứ thuốc tiên giải thoát những đau khổ tinh thần.
3. “Đến sáng ngày, Ngài ra đi vào hoang địa”: đó là lúc Chúa Giêsu múc lấy nguồn lực cho tất cả những hoạt động rộn rịp suốt cả ngày. Ngài múc lấy nguồn lực từ việc cầu nguyện. Nơi Chúa Giêsu, cầu nguyện và hoạt động được phối hợp rất quân bình. Không phải vì bận việc mà Ngài bỏ cầu nguyện. Trái lại, càng làm việc nhiều thì Ngài càng cầu nguyện nhiều hơn.
4. “Chúa Giêsu nói với dân chúng: Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 4,43)
Tại một xứ nhỏ ở miền quê nước Pháp, có một người đàn ông ngoài 50 tuổi bị chứng bất toại. Chân không đi đứng gì được và hai tay cũng không làm gì được hơn. Suốt ngày ông chỉ biết than thân trách phận. Mặc dù ông không phải là người công giáo nhưng cha sở thỉnh thoảng đến thăm ông và mời gọi nhiều người đến thăm, chia sẻ và giúp đỡ ông. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện đến chăm sóc ông. Mỗi chúa nhựt có một thiếu nhi đến đọc truyện cho ông nghe, kể chuyện vui cho ông bớt cô đơn. Sau một thời gian, ông xin lãnh bí tích Thánh Tẩy. Ông nói: “Thưa cha, trước đây con không tin có Chúa, nhưng từ ngày con được cha đến thăm, được bác sĩ giúp đỡ, các em giúp vui, con cảm thấy như mình đã gặp được Thiên Chúa, và chính Chúa đã gởi cha, bác sĩ và các em đến với con và bày tỏ tình thương đối với con. Con tin như thế”.
Lạy Chúa, xin cho con biết đem niềm vui của Tin Mừng đến với mọi người, luôn cảm thấy được thôi thúc, được sai đi. Xin cho con biết sẵn sàng lên đường khi được Chúa mời gọi. (Hosanna).
1. Chúa Giêsu không phải chỉ quan tâm đến vấn đề tinh thần mà Người còn quan tâm đến cả những vấn đề rất cụ thể của con người như bệnh tật, đói nghèo, đau khổ v.v…
Việc Chúa quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến toàn bộ cuộc sống của con người, nhắc cho Giáo Hội hôm nay phải biết luôn nhớ đến bổn phận trần thế của mình.
Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế về Giáo Hội có nói: “Đối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa.”
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm thủ đô San José của Costa Rica để thánh hiến Vương cung thánh đường Đức Mẹ Nữ Vương Hoà Bình do Tổng thống nước này xây cất và dâng tặng Toà thánh. Vương cung Thánh Đường này được mô phỏng theo mô hình Vương cung Thánh Đường Thánh Phêrô ở Rôma. Ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa được 8000 chỗ ngồi và 10.000 chỗ đứng. Người ta không biết để xây cất ngôi thánh đường này kinh phí phải tốn bao nhiêu? Nhưng Tổng thống cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ.
Nhiều người ca tụng gia đình ông là hào hiệp đạo đức nhưng cũng không ít người đặt vấn đề: giữa lúc dân chúng Costa Rica sống trong cảnh nghèo nàn lạc hậu như thế mà gia đình ông giàu có đến như vậy thì việc làm của gia đình ông có đúng hay không? Thậm chí còn có người chất vấn ông:
- Tại sao không dùng số tiền ấy để xây trường học, đẩy mạnh công cuộc phát trển có lợi cho dân nghèo?
Rao giảng Tin Mừng không chỉ là chân lý liên quan đến phần rỗi linh hồn và sống đạo không chỉ là xây cất nhà thờ, chu toàn các việc đạo đức đóng khung trong bốn bức tường của nhà thờ, mà còn phải là góp phần nỗ lực vào công tác xã hội, mang lại cơm no manh áo và xoa dịu bao vết thương đau của con người. Giáo Hội luôn ý thức điều đó. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến để thánh hiến Thánh Đường Đức Mẹ Nữ Vương Hoà Bình, nhưng đồng thời Ngài cũng kêu gọi Tổng thống quan tâm đến công tác xã hội và giáo dục cho dân nghèo. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha đã lập tức được hưởng ứng. Tổng thống đã tặng ngay cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo. Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã thánh hiến ngôi thánh đường, nhưng đồng thời ngài cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.
2. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ quên việc chính yếu là phải loan báo một Tin Mừng. “Chúa Giêsu nói với dân chúng: tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt là để làm việc đó”. (Lc 4,43).
Phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Đó là công việc hàng đầu, ưu tiên và số một của Chúa.
Sau khi Chúa về trời, các tông đồ đã tiếp tục thi hành công việc này. Các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao phó một cách hết sức tốt đẹp.
Ngày nay, Chúa cũng muốn cho chúng ta cộng tác với Người.
Một buổi họp mặt sống động được tổ chức trong một ngôi nhà thờ làng. Qua những buổi họp mặt, nhiều người đã được ơn giải thoát.
Một lần kia, sau khi giảng, vị linh mục nói:
- Ở đây có người nào gây ảnh hưởng nhất cho anh chị em trong việc giúp người khác thành một người Kitô hữu không? Có thể đó là bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người hàng xóm của anh chị em. Tôi mong rằng, bây giờ anh chị em sẽ đứng lên và tiến đến bắt tay người nào có ảnh hưởng nhất đối với anh chị em trong việc nhận ra Đức Kitô như là Đấng cứu Độ của mình.
Ngồi bên phải vị linh mục là một bà cụ đã ngoài 75 tuổi. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một nhà giảng thuyết, hoặc một người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng ngày mà thôi.
Thế mà cả một chuỗi dài người cứ nối tiếp nhau tiến đến bắt tay cụ, họ nói:
- Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Đức Kitô đã đưa dẫn chúng tôi đến với Đức Kitô Đấng cứu Dộ.
Thật là một đời sống tươi đẹp, thánh thiện, mà nhờ đó qua bao năm tháng, người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Chúa.
Lạy Chúa,
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất
Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, qua đời sống yêu thương của chúng con. Amen. ----------------------------------
Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Ghênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng. Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”. Ông Simon thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm. Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng. Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần phải chăm nom. Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu. Ðức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơn. Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39). Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Ðấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: “Ðừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.” Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình. Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông. Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không? Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa. Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu. Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó. Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen. ----------------------------------
“Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Trong đời sống ai càng chiếm hữu được nhiều và biết dùng mọi cơ hội để có thêm được coi là khôn ngoan. Thánh Phê-rô và các bạn hôm nay chắc chắn bị nhiều người cho là dại dột. Đang mệt mỏi cần đi nghỉ, nhưng đã sẵn sàng cho Chúa mượn thuyền và còn cất công chèo thuyền cho Chúa rao giảng. Các ngư phủ chuyên nghiệp đánh cá suốt đêm không đuợc gì lại vâng theo lệnh Chúa, một người thợ mộc, tiếp tục ra khơi. Và sau một mẻ lưới phi thường, tưởng có thể là cơ hội phát triển công ăn việc làm, lại bỏ tất cả đi theo Chúa. Các ngài đã từ bỏ nhiều thứ và sau cùng từ bỏ tất cả. Bỏ cả gia đình vợ con. Bỏ cả nếp sống quen thuộc với nghề nghiệp vững vàng. Bước vào hành trình phiêu lưu. Theo đuổi một công việc mới: “thu phục người ta”. Không có gì bảo đảm. Không biết đích điểm. Không thấy tương lai. Có dại dột quá không?
Thánh Phao-lô cho biết đó là những người khôn ngoan nhất. “Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa”. Nên “nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật”. Khôn ngoan thật là biết rằng “tất cả thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki tô, và Đức Ki tô lại thuộc về Thiên Chúa”. Bỏ hết mọi sự, dâng hết mọi sự cho Chúa chính là đi vào nguồn mạch sự phong phú, là kho tàng của mọi kho tàng, là chiếm được tất cả. Vì Chúa là tất cả (năm chẵn).
Tất nhiên để đạt đến sự khôn ngoan trong Thiên Chúa, ta phải trải qua rất nhiều thử thách. Chính vì thế thánh Phao-lô luôn cầu nguyện để chúng ta “được am tường thánh ý Thiên Chúa với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khi ban cho”. Khi đó ta sẽ biết sống như Chúa đòi hỏi, sinh nhiều hoa trái và ngày càng hiểu biết Chúa hơn. Khi đó Chúa sẽ ban sức mạnh để ta kiên trì vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nhờ đó ta sẽ xứng đáng đạt tới vinh quang của Thiên Chúa trong cõi đầy ánh sáng. “Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả. Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng”. Như vậy tuy yếu đuối trước mặt thế gian, ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Điên dại trước mặt thế gian ta sẽ nên khôn ngoan. Nghèo khó trước mặt thế gian ta vô cùng giầu có vì được hưởng gia nghiệp của Chúa. Và gia nghiệp ấy bền vững mãi mãi (năm lẻ).
Lạy Chúa, xin cho con biết điên rồ, nghèo hèn và dại dột trước mặt thế gian. Để được sáng suốt, giầu sang và khôn ngoan trong Nước Trời.
Triết gia hiện sinh Pháp Albert đã có lần nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận là mình". Ông có ý nói rằng con người không chấp nhận những giới hạn và bất toàn của mình.
Con người luôn muốn nổi loạn để vượt qua chính mình. Sự nổi loạn ấy rõ ràng nhất là trong lĩnh vực khoa học. Những khám phá khoa học và những ứng dụng kỹ thuật ngày càng làm cho chính con người chóng mặt. Chúng ta thử nhìn vào dự tính sản sinh con người theo phương pháp vô tính mà hiện một số nhà khoa học đang muốn lao mình vào. Những hệ lụy của một cơn cám dỗ như thế là vô cùng khủng khiếp. Chính tính cách không dự đoán và không lường trước được ấy của những hệ lụy là cho thấy những giới hạn và bất toàn của trí khôn cũng như khả năng của con người. Con người càng tiến bộ lại càng nhận ra giới hạn của mình. Ðây phải là thái độ tự nhiên của con người. Muốn hay không, con người không thể chối cãi được những giới hạn của mình.
Con người chỉ là người khi nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận chính mình. Tin Mừng không ngừng lập lại chân lý ấy. Càng khiêm hạ, con người càng được nâng cao. Càng nhận biết những giới hạn của mình, con người càng nhận ra mối giây liên kết và lệ thuộc của mình với Ðấng Tạo Hóa, con người càng thấy được sự cao cả đích thực của mình. Ðây là lý tưởng mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta.
Sau một đêm vất vả, các môn đệ không bắt được một con cá nào. Hơn ai hết, những người đánh cá có kinh nghiệm về thời tiết, về sóng nước và có lẽ cũng hơn ai hết, lênh đênh giữa đại dương mênh mông, họ dễ cảm nhận được thân phận nhỏ bé bất toàn của con người. Nhưng thánh Phêrô chỉ thực sự ý thức được thân phận ấy khi chứng kiến mẻ cá lạ do Chúa Giêsu thực hiện. Ði sâu vào thân phận ấy, thánh nhân không chỉ thấy những giới hạn và bất toàn của mình về phương diện nghề nghiệp hay nhân bản, mà còn nhận ra một sự bất lực khác của bản thân, đó là bất lực trong ơn thánh. Thật thế, thánh Phêrô khám phá ra thân phận tội lỗi của mình.
Con người có thể nhận ra những giới hạn, bất toàn, và ngay cả lầm lỡ của mình, nhưng để thấy mình là người tội lỗi, con người phải nhận ra mối giây liên kết với Ðấng Tạo Hóa. Tội lỗi thiết yếu nói lên mối liên kết với Ðấng Tạo Hóa mà con người đã cắt đứt. Mẻ cá lạ vừa cho thánh Phêrô thấy quyền năng của Ðấng Tạo Hóa, vừa là phơi bày con người tội lỗi yếu hèn của mình. Phản ứng của thánh Phêrô là mẫu mực cho cuộc sống đức tin của người tín hữu Kitô. Phản ứng này cũng là hằng số trong cuộc đời của vị Giáo Hoàng tiên khởi này. Sau này, kinh nghiệm chối Chúa lại càng cho thánh nhân ý thức được thân phận tội lỗi của mình và đồng thời cảm nhận được quyền năng của Thiên Chúa.
Một thi hào người Ðức đã nói: "Ai biết chấp nhận những giới hạn của mình, người đó đang đi gần đến sự hoàn hảo". Thánh Phêrô được nên cao trọng có lẽ không do tài lãnh đạo hay chính sự thánh thiện cá nhân của mình mà trước tiên là ở tấm lòng khiêm tốn sám hối và tin tưởng ở quyền năng và tình yêu của Chúa. Tựu trung, đó cũng chính là tâm tình tôn giáo đích thực của con người. Có tôn giáo thiết yếu là ý thức được thân phận thụ tạo, bất lực và tội lỗi của mình, đồng thời cũng cảm nhận được tình yêu và sự tha thứ của Chúa.
Ý nghĩa của mẻ cá và ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay sẽ được sáng tỏ, nếu chúng ta nắm bắt được quan niệm của người Do thái về biểu tượng của nước, nhất là của biển cả. Người Do thái tin rằng biển cả là nơi cư ngụ của Satan và những lực lượng chống đối Thiên Chúa. Trong niềm mong đợi chung, người Do thái tin rằng chỉ có Ðấng Cứu Thế được Thiên Chúa sai đến mới có đủ uy quyền để chế ngự biển cả và giải thoát tất cả những ai đang bị chôn vùi trong đó.
Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy được quyền năng giải thoát của Ngài khi thực hiện mẻ cá lạ lùng trước mặt các ông. Chiếc lưới được thả vào lòng biển khơi để vớt cá lên, đó là hình ảnh của công cuộc cứu thoát mà Ngài đang thực hiện. Ngài đến là để lôi kéo con người khỏi vực sâu của tội lỗi và sự dữ. Chính trong ý nghĩa ấy, Chúa Giêsu dùng kiểu nói "đánh lưới người" mà Ngài sẽ trao phó cho các môn đệ và Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập; trở thành ngư phủ đánh lưới người có nghĩa là tham dự vào công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu.
Qua mẻ cá lạ lùng, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng tự sức họ, họ không thể làm được gì. Thánh Phêrô đã ý thức được điều đó: "Chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả". Thánh Phêrô không chỉ nói lên cái giới hạn bất toàn của con người, mà còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình: "Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Ý thức về thân phận ấy và sống cho đến cùng thân phận ấy là cả một cuộc chiến đấu cam go. Hơn ai hết, thánh Phêrô đã cảm nghiệm được sự yếu đuối mỏng giòn của con người khi chối Thầy; cả cuộc đời ngư phủ đánh lưới người của Phêrô chỉ trở thành hữu hiệu với ý thức ấy. Càng thấy mình yếu hèn, con người càng sống gắn bó với Chúa; càng thấy mình vô dụng, con người càng trở nên hữu hiệu trong quyền năng của Chúa. Ra đi tản mát khắp nơi để trở thành ngư phủ đánh lưới người, tất cả các môn đệ đều nhớ lại bài học của mẻ cá lạ ấy và tâm niệm lời Chúa Giêsu: "Không có Thầy, các con không làm được gì".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng nhìn vào tác động của Chúa qua Giáo Hội. Ngài vẫn hiện diện trong con thuyền Giáo Hội, và ngoài mọi suy nghĩ, tính toán của chúng ta, Ngài vẫn tiếp tục thực hiện những điều cả thể, ngay cả những lúc Giáo Hội tưởng mình bị bó tay không làm được gì. Lời nhắn nhủ của Ðức Hồng Y Etchegaray đáng cho chúng ta suy nghĩ: Người ta dễ chú ý đến tiếng động của cây rừng ngã đổ, mà lại quên đi âm thanh nhỏ bé của những mầm non đang mọc lên.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm tin vững vào sự hiện diện và tác động của Chúa trong Giáo Hội. Xin Ngài ban cho chúng ta đôi mắt tinh tường bén nhạy để nhận ra biết bao điều cả thể Ngài đang thực hiện trong những biến cố âm thầm, mất mát, thua thiệt của Giáo Hội.
Thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tấ cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô bê và Gio-an, bạn chài với ông Simon cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta.” Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà đi theo Người. (Lc. 5, 9-11)
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông Phê-rô tốt lành đã từ kinh ngạc này sang kinh ngạc khác.
Trước hết, Đức Giêsu đã chọn thuyền của ông như là thứ ngai tòa để Người ngồi giảng cho dân trên bờ chú ý nghe Người. Có thể tưởng tượng xem anh ngư phủ này hãnh diện, vinh dự chừng nào được Thầy mà mọi người đã hăm hở đi tìm.
Tiếp theo là một mẻ cá lạ lùng! dẫu bao nhiêu bạn bè với mình suốt đêm vất vả đánh cá mà chẳng được gì. Chẳng ăn gì, chẳng có gì ăn! và này đột nhiên, thật lạ chỉ một lời phán của Đức Giêsu, họ đi kéo lưới. Thật vững chắc, Phê-rô đã làm một cử chỉ đẹp để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu đầy quyền năng. Ông không do dự, lần nữa ông đã thử thời vận ra khơi thả lưới, lưới gần rách, thuyền gần chìm vì cá đầy lưới. Lạ thay phần thưởng lớn lao dành cho một hành động vâng lời nhỏ bé! Phê-rô kinh sợ. Ông té xuống chân Đức Kitô và van nài Ngài xa ông vì ông chỉ là kẻ tội lỗi, quá bất xứng đối với một vị tôn sư cao cả.
Tuy nhiên, Phê-rô không phải kinh sợ đến tận cùng. Đức Kitô chẳng những không lìa bỏ ông mà còn tuyên bố làm thay đổi đời của ông mãi mãi: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi chài lưới cứu sống người ta”. Quả thực anh là hạng người vô danh tiểu tốt thất học lại được Đức Kitô trao phó nhiệm vụ lớn lao bao quát cả biển người, anh đã cùng với Ngài và các bạn tông đồ khác không ngừng thực hiện nhịêm vụ cứu vớt người đời cho tới tận thế.
Tại sao có sự chọn lựa này! Tại sao không trao nhiệm vụ lớn lao đó cho người học thức, cho người tiến sĩ các khoa học tôn giáo đương thời của Đức Giêsu. Sự phong ban trao phó nhiệm vụ lớn lao này thật ngược đời, gây quá nhiều bối rối, khúc mắc: Một mầu nhiệm của Đức Giêsu, mầu nhịêm của Giáo Hội. Lý lẽ đức tin, nghịch hẳn lại lý lẽ của lý trí loài người. Đấng Cứu Thế bắt đầu lôi cuốn tất cả về Ngài ngay cả lúc tất cả như xa lánh Ngài như ông tiên tri báo về Ngài. Có thể Ngài đã cho phép xảy ra thách đố như thế.
Lời Chúa hôm nay thuật lại cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu gọi và chọn bốn môn đệ đầu tiên. Ngài gọi các ông không phải các ông xứng đáng. Cũng không phải các ông thuộc thành phần vai vế trong xã hội. Lại càng không phải là người tài giỏi...
Nhưng khi gọi các ông, Đức Giêsu chú trọng đến sự giản dị, bình thường, đơn sơ, chất phát và biết phó thác nơi các ông. Ngài gọi các ông từ trong công việc đời thường của họ, bởi Đức Giêsu nhận ra “chất tố” môn đệ nơi sâu thẳm tâm hồn các ông.
Thật vậy, sự quảng đại là yếu tố đầu tiên mà chúng ta có thể nhận thấy nơi Phêrô trong quá trình đáp trả lời mời gọi đầy yêu thương của Đức Giêsu. Phêrô đã quảng đại cho Đức Giêsu mượn thuyền của mình. Ông cũng không ngại khó khi sẵn sàng trèo thuyền cho Đức Giêsu giảng dạy dân chúng.
Tiếp theo là sự vâng lời. Đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì! Ấy thế mà, khi được lệnh của Đức Giêsu, các ông sẵn sàng thi hành. Nếu không có sự tùng phục, hẳn không ai lại đi làm chuyện ngược đời như vậy, bởi lẽ ngư dân chuyên nghiệp, hẳn họ biết giờ ấy và chỗ nước đó không thể có cá vào lúc này...!!!
Thứ ba, phải mang trong mình tâm tình khiêm tốn. Khi nhận ra mình yếu đuối và tội lỗi, Phêrô đã phục lạy Đức Giêsu. Khiêm tốn là điều kiện rất quan trọng để trở thành môn đệ. Nếu không khiêm tốn, hẳn chúng ta không có nguồn năng lượng từ Chúa để đủ nghị lực thi hành sứ vụ. Khiêm tốn là thái độ của người thuộc về Đức Giêsu như Ngài thuộc về Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi đã cảm nghiệm được tình thương của Chúa, các ông sẵn sàng đón nhận và lên đường.
Thật vậy, chính nhờ những đặc điểm đó, mà Đức Giêsu đã chọn Phêrô và các môn đệ khác.
Lần giở lại trong tâm tưởng, lịch sử ơn gọi của chúng ta, dù đi tu hay ơn gọi gia đình, chúng ta đều được Thiên Chúa kêu gọi: “Hãy theo Thầy”.
Theo Thầy để đáp lại lời mời gọi làm tông đồ, yêu thương và phục vụ. Theo Thầy để phản ánh tình yêu của Thầy cho mọi người. Theo Thầy để trở thành chứng nhân cho Thầy.
Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta giả điếc làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa như:
Đang sống một cuộc sống dễ dãi, hẳn không muốn đi vào con đường của thiếu thốn. Đang sống trong sự an nhàn thư thái, yên thân, hẳn không muốn ra “chỗ nước sâu” là những thử thách, nguy hiểm để tác nghiệp... Hay đang sống trong quyền lực, không dại gì lại trở nên người hiền lành, khiêm tốn... Và, không dại gì lại phải lên đường để đến nơi chẳng muốn...!
Tất cả những lý do trên, khiến hồn tông đồ của chúng ta bị héo úa tàn phai, và rất khác với các môn đệ khi xưa, bởi chúng ta vẫn còn ích kỷ theo kiểu được - thua.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy phó thác mọi sự trong tay Chúa, luôn tin tưởng cậy trông nơi Ngài. Nếu có đức tin, chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng hậu hĩnh, hơn cả sự tưởng tượng của chúng ta. Mẻ cá lớn đã chứng minh cho chúng ta điều đó.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vâng theo Lời Chúa, biết dựa vào Lời Chúa và thực thi Lời Ngài trong cuộc sống. Amen.
Sứ điệp: Trong đời sống đức tin, Thiên Chúa thường đòi ta thực hiện những việc làm có vẻ kỳ dị và vô lý. Nhưng nếu làm theo Thánh Ý Chúa, chắc chắn ta sẽ đạt được nhiều kết quả thật bất ngờ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xác tín rằng tất cả mọi nỗ lực, cố gắng của con đều trở thành vô ích nếu không có ơn Chúa phù trợ. Chúa đã trở thành điểm tựa vững chắc cho đời sống con.
Nhưng Chúa thường đòi con làm những việc có vẻ kỳ dị vô lý, như các tông đồ lại ra khơi đánh cá khi không bắt được con nào suốt một đêm vất vả. Chúa muốn con tin vào Chúa, chứ không tin vào những suy luận của riêng con.
Đối với con hôm nay, việc có vẻ kỳ dị và vô lý là sống hy sinh giữa thế giới đang lao mình vào hưởng thụ sung sướng, hoặc chấp nhận bị thiệt thòi giữa một xã hội mà ai cũng lo thu quén cho chính mình. Việc có vẻ kỳ dị và vô lý là tự chủ khước từ những đam mê cờ bạc, để dùng tiền của và thời giờ mà phục vụ lợi ích gia đình và xã hội. Việc có vẻ kỳ dị và vô lý là đi đến với bạn bè lối xóm để thăm viếng, nối lại tình thân ái yêu thương.
Lạy Chúa, khi thực hiện những công việc ấy, con cảm thấy e ngại và do dự. Nhưng con muốn cương quyết như thánh Phêrô: “Vì vâng lời Thầy, con xin thả lưới”.
Lạy Chúa, con cũng muốn thực hiện điều ấy trong các giờ kinh lễ hằng ngày. Ước gì những giờ kinh lễ ấy không trở thành những việc “cực nhọc suốt đêm mà không được gì”. Trái lại nhờ thánh lễ, xin Chúa giúp con sáng suốt nhận ra và thực hiện Ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để có thể đạt được những thành quả quá lòng ước mong. Amen.
Ghi nhớ: “Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất.
Ông bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ông trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Cô bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời: “Tôi sẽ để cho cô được tự do”. “Tự do? Tự do để làm gì?”, cô bé kinh ngạc hỏi. Ông trả lời: “Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn”. Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói: “Cháu sẽ đi theo ông”.
Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông”. Ông đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài (Theo cha Giuse Đinh Lập Liễm).
Suy niệm
Phêrô và các môn đệ theo lệnh Chúa, ra khơi thả lưới… lưới đầy cá… Phêrô đã sụp xuống và sợ hãi khi chứng kiến phép lạ tỏ tường, ông thưa: “Lạy Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi” (Lc 5:8) và Chúa đã kéo ông ra khỏi sự mặc cảm: “Đừng sợ, các con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5:10). Đức Giêsu đã đánh dấu một khúc quanh quyết định cho cuộc đời của ông, trở nên thuyền trưởng cho sứ vụ “chài lưới người”. Các tông đồ ra khơi trong sứ mạng chài lưới người như Đức Kitô đã nói. Ra khơi, các ông đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài để mang những con người tội lỗi về cho Chúa Kitô
Thật thế, các môn đệ mệt mỏi vật lộn với biển khơi thả lưới với một đêm thức trắng, nhưng thất bại chua cay không một con cá. Tâm trạng các ông thất vọng và chán nản. Chúa Giêsu lại bảo các ông hãy ra khơi một lần nữa. Ra khơi, đi vào biển lúc này với các ông là cả một sự cực hình vì vừa sống trong kinh nghiệm thất bại dù đã làm việc và thả lưới suốt đêm, nhưng vâng lời thầy, các ông vẫn ra khơi đi thả lưới.
Biển theo văn hóa Semit là nơi đáng sợ, theo chú giải của Noel Question Chúa Giêsu bảo ông Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ra chỗ nước sâu bản dịch chính xác hơn: “Ra chỗ nước trên vực thẳm - eis to bathos” tiếng Hy Lạp. Từ “bathos” có nghĩa là vực thẳm, mà có từ tiếng Pháp “bathiscaphe”: Nơi xuất phát quyền lực sự dữ, biển sâu là biểu tượng của các vực thẳm nội tâm, nơi ở của các quái vật trong hỏa ngục (x. St 7,17; Tv 74,13-24,2; Gr 38,16; Gn 2,2; Kh 9,l-3-20,3-13,1). Ra khơi, thực hành nghề đi biển, đối diện với hiểm nguy. Nhiều thủy thủ, thuyền trưởng “bị nuốt chửng, bị nhận chìm” trước cơn giận của biển cả!.
Chúa gọi các mộn đệ ra khơi, tìm chỗ sâu thả lưới, tức là phiêu lưu đi vào nơi sóng gió. Ngài muốn người môn đệ phải liều lĩnh đối diện với hiểm nguy. Đó là sẵn sàng ra đi như Chúa Giêsu ví như chiên con vào giữa hang sói (x. Lc 10,3). Ra đi cho cuộc sống mới, cho một sứ mạng mới.
Ra khơi, bỏ lại đất liền nơi có nhiều mối quen biết, an toàn, bao bọc, để mạo hiểm lênh đênh trên biển cả. Lên đường ra khơi là bỏ lại tất cả: Gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ nghề chài lưới cá để thành kẻ chài người.
Ra khơi là ra khỏi chính mình, ra khỏi những mặc cảm, khiếm khuyết bất toàn, để sống con người mới cho sứ mạng mới...
Đức Kitô hôm nay vẫn đi dọc theo bờ biển của cuộc đời chúng ta, Ngài nói với tôi và bạn, những người đang lắng nghe lời Ngài giảng dạy: “Hãy ra khơi”, ra khơi tiến vào biển cả, đối diện với phong ba bão tố. Ra khơi với tinh thần như các môn đệ năm xưa: “Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa” (Lc 5:11).
Ra khơi vào biển cả cuộc đời, nơi có bão tố gian nan mà con người phải đối diện, chúng ta mang những tâm tình cam đảm vượt khó với niềm tin vào Thầy như Theodore Roosevelt chia sẻ: “Chịu xây xát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại”. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng. Như Phêrô cọ xát với thất bại trong đêm trường thả lưới dù với tất cả sự cố gắng, nhưng chiến thắng trong ban ngày thả lưới, lưới đầy cá vì ông đã làm theo ý Thầy: “Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5:5).
Ý lực sống:
Vâng lời thầy, con quyết ra khơi, Đi vào biển cả - giông tố nhiều Tâm tư vững dạ con tung lưới Cá tôm ngập tràn thuyền đời con.
“Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”
Lời Phêrô đã thốt lên khi thấy phép lạ Chúa Giêsu thực hiện quá nhiệm mầu. Phêrô và mọi người vừa sung sướng, vừa kinh ngạc trước mẻ cá lạ lùng ấy. Ông thấy con người mình thấp hèn và giới hạn, không thể xứng với tình thương của vị Thiên Chúa quyền phép. Nhưng, Đức Giêsu hiền từ an ủi: “Đừng sợ, từ nay con sẽ thành kẻ lưới người”. Thiên Chúa không chê bỏ sự thấp hèn của con người. Ngài luôn tin tưởng, kêu gọi con người công tác với Chúa, trở thành những môn đệ chân chính của Ngài.
Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, tức là nơi sinh sống thường ngày của họ. Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là gọi họ đang lúc họ làm công việc hằng ngày của họ.
Chúa bắt đầu câu chuyện bằng cách “xin” ông Phêrô một việc rất nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra khỏi bờ một chút để Ngài giảng. Và cuối câu chuyện, Ngài “ban” cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá và một ơn còn lớn gấp bội là được làm môn đệ Ngài. Chính ông đã trả lời Chúa khi Chúa muốn ông đẩy thuyền ra xa một chút để thả lưới khi nói: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5).
Một lời quả quyết rất đẹp lòng Chúa. Nếu Phêrô đã không nghe Lời Chúa, thì sau đó ông sẽ chẳng nhận được những ơn ban to lớn kia. Như vậy chúng ta thấy, sự vâng lời Chúa đã đem lại những kết quả thật bất ngờ.
Bức tranh trên bờ hồ Giênêxarét thật đẹp, khi những người nghe Chúa Giêsu giảng chen lấn nhau để đến gần Chúa, Ngài đã làm cho các môn đệ chứng kiến mẻ cá lạ, khi các ông thả lưới bên phải mạn thuyền như lời Chúa truyền. Trước mẻ cá lạ như thế, các môn đệ đã không khỏi ngạc nhiên, và đã bỏ thuyền, lưới mà theo Chúa. Giờ đây các ông đi trên con thuyền rao giảng Tin mừng, mà người chủ thuyền là Chúa Giêsu.
Hôm nay Chúa cũng mời gọi chúng ta bước theo Chúa trên hành trình rao giảng Tin mừng, quảng đại đáp lại lời mời gọi làm chứng cho Chúa. Ngài chỉ cần chúng ta thả lưới, và Ngài sẽ thực hiện những mẻ cá lạ trong cuộc đời chúng ta. Vậy còn lý do gì mà chúng ta không thả lưới?
“Không thầy đố mày làm nên”. Phêrô rất ý thức sự thật này qua lời tuyên bố đầy xác tín: “Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà chẳng được gì, nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Ông gác qua kinh nghiệm đánh cá dày dạn của mình và nghe theo lời Thầy trong chính chuyện... đánh cá! Phêrô đã thể hiện cái tâm “tầm đạo” của ông bằng thái độ cởi mở, hoàn toàn phá chấp, sẵn sàng lắng nghe. Và ông trúng đậm: một mẻ cá đầy đến gần rách cả lưới! Nhưng đó mới chỉ là “khúc dạo đầu” có tính tượng trưng thôi; từ đây Phêrô bỏ mọi sự mà theo Đức Giêsu để trở thành một tay “đánh lưới người”. Từ đây, ông lấy lời của Thầy làm động lực và điểm tựa cho cả cuộc đời ông (5 phút Lời Chúa).
Chúng ta hãy mạnh dạn và tin tưởng khởi đầu và Chúa tiếp tục làm việc. Sau khi huấn luyện 16 anh em tiên khởi được một năm, thánh Đa Minh đã sai họ đi rao giảng Tin mừng. Đây là điều lạ lùng, vì theo lẽ thường, để trở thành một nhà giảng thuyết, người ta cần được đào tạo trong nhiều năm. Tin vào lời Chúa hứa sẽ ban ơn giúp đỡ, thánh nhân vẫn sai anh em ra đi. Kết quả là, họ đã giảng thuyết thành công và đem được nhiều người về với Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay, dù biết ông Phêrô đã vất vả suốt đêm mà không được con cá nào, Đức Giêsu vẫn bảo ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Đây là điều lạ lùng, khó hiểu đối với một ngư phủ lâu năm như Phêrô, nhưng ông vẫn tin tưởng và thực hiện. Nhờ vậy, ông đã thu được một mẻ cá lớn lao.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta làm những việc xem ra lạ lùng. Trong khi người đời cho rằng có nhiều tiền của, nhiều người hầu hạ thì hạnh phúc; còn Đức Giêsu lại dạy hãy sống yêu thương, phục vụ thì mới có hạnh phúc đích thực. Chúng ta có tin tưởng và thực hiện lời Đức Giêsu không?
Truyện: Ngài đã chọn ngươi
Trong tập lễ nhận chức của Đức Tổng Giám Mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giáo phận Sài Gòn, người ta đọc được bài thơ này:
“Khi Thiên Chúa cần người cha cho dân tộc của mình, Ngài đã chọn một cụ già. Thế là cụ Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn cho mình, Ngài lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát, lại vừa có tật nói ngọng. Thế là ông Maisen đứng lên.
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Ngài lại chọn cậu thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavít đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền tảng cho ngôi nhà Giáo hội của mình, Ngài đã chọn một anh chàng chối đạo. Thế là thánh Phêrô đã đứng lên.
Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình yêu thương của Ngài cho nhân thế, Ngài lại chọn một cô gái điếm. Đó là cô Maria Mađalena.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình, Ngài lại chọn một kẻ bắt bớ đạo của mình. Đó là ông Phaolô, gốc thành Tắcxô.
Thiên Chúa cần một ai đó để dân Ngài được qui tụ và đi đến với những người khác, Ngài đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không dám đứng lên đáp lại lời của Ngài”.
Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi tiết hơn bài tường thuật ngắn gọn trong Mt 4,19-22:
- Họ đang giặt lưới để dẹp cất, vì suốt đêm đánh không được con cá nào.
- Chúa Giêsu bảo họ thử đánh một mẻ nữa. Phêrô không tin vào sự thành công, nhưng nể lời Ngài nên ông thả lưới.
- Một mẻ lưới nhiều cá quá sức tưởng tượng đã khiến Phêrô và các bạn khám phá ra thân phận siêu phàm của Chúa Giêsu đồng thời cũng ý thức thân phận hèn hạ tội lỗi của mình.
- Khi đó Chúa Giêsu lên tiếng gọi họ theo Ngài làm môn đệ. Và họ đã từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, tức là ở nơi sinh sống thường ngày của họ; Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là trong công việc thường ngày của họ.
Chúa cũng gọi tôi trong sinh hoạt thường ngày và ở môi trường sống quan thuộc. Những tiếng gọi “Hãy theo Ta” thường xuyên vang lên trong khung cảnh bình thường mọi ngày. Nhưng tôi có nghe thấy hay không?
2. Bắt đầu câu chuyện, Chúa Giêsu “xin” Phêrô một chuyện nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra xa một chút. Cuối câu chuyện, Ngài ban cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá; và một ơn còn lớn gấp bội, là được làm môn đệ Ngài. Nếu như ban đầu Phêrô đã ích kỷ không “cho” Chúa, thì sau đó ông đâu có được “nhận” những ơn ban to lớn kia.
3. “Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”: mẻ cá lớn là kết quả của sự vâng lời Chúa.
4. Một trung sĩ đang huấn luyện các tân binh: “Các đồng chí hãy nhớ khi một sĩ quan trao cho công việc dù nặng nề đến đâu, bổn phận dù khó khăn đến đâu, các đồng chí luôn phải nhớ tiếng nói cuối cùng.”
Trong lúc các lính mới còn đang ngơ ngác nhìn, ông thêm: “Tiếng đó là: Tuân lệnh.” (Góp nhặt)
5. Khi Phêrô nhận ra thân phận tội lỗi mình và xin Chúa lánh xa, thì chính lúc đó Ngài gọi ông đi theo Ngài. Chúa không chê và không xa lánh người tội lỗi. Ngược lại Chúa còn gọi đến gần Ngài những người ý thức thân phận tội lỗi của mình.
6. “Ông Simon nói: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không ắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5)
“… Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên”. Nếu như Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao tôi lại không dám xác tín rằng: Dựa vào Chúa Giêsu, Đấng đã dám hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì tôi cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi tôi biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là sức riêng của mình.
Lạy Chúa, xin cho con biết vâng theo lời Chúa, biết dựa vào lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống. (Hosanna).
1. Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, tức là nơi sinh sống thường ngày của họ. Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là gọi họ đang lúc họ làm công việc hằng ngày của họ.
Chúa bắt đầu câu chuyện bằng cách “xin” ông Phêrô một việc rất nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra xa bờ một chút. Và cuối câu chuyện, Ngài ban cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá và một ơn còn lớn gấp bội là được làm môn đệ Ngài.
“Ông Simon nói: Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5).
Một lời quả quyết rất đẹp lòng Chúa.
Nếu như Phêrô đã không nghe Lời Chúa, thì sau đó ông sẽ chẳng nhận được những ơn ban to lớn kia. Như vậy chúng ta thấy, sự vâng Lời Chúa đã đem lại những kết quả thật bất ngờ!
Trong tập truyện các thánh ẩn tu Ai Cập vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, người ta đọc được giai thoại sau:
Có một người đàn ông kia đến xin gia nhập một tu viện. Tu viện trưởng cho người đó biết luật cơ bản nhất của đời tu là vâng lời. Người đàn ông hứa sẽ vâng theo tất cả những gì bề trên truyền lệnh. Để thử lòng người đó, tu viện trưởng dẫn ông ra vườn và cắm một cây gậy xuống đất. Ngài bảo người đàn ông hãy múc nước tưới cho đến khi nào cây gậy đó đâm chồi nảy lộc trổ bông trở lại.
Vâng lời bề trên, mỗi ngày người tu sĩ đi bộ hai dặm ra bờ sông Nil gánh nước tưới cho cây gậy khô ấy. Một năm qua rồi mà cây gậy vẫn còn trơ trơ. Lại một năm nữa qua đi, cây gậy vẫn là cây gậy khô. Nhưng người tu sĩ không nản lòng. Sang năm thứ ba, lạ lùng thay, cây gậy khô tự nhiên đâm chồi để rồi trở thành một cây tươi tốt trong vườn.
2. Khi Phêrô nhận ra tội lỗi của mình và xin Chúa lánh xa, thì chính lúc đó Chúa gọi ông. Sự việc đó chứng tỏ Chúa không chê trách và xa lánh người tội lỗi. Ngược lại, Chúa còn gọi những ai biết ý thức thân phận tội lỗi của mình.
Trước mặt Chúa lúc này là một con người Chúa muốn kêu gọi. Chúa không cần biết trước đây Phêrô như thế nào.
Vào dạo tháng 12 năm 1987, Đức Hồng Y Jean Marie Lustiger cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề: “Sự chọn lựa của Thiên Chúa”. Qua tựa đề này, ai cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành trình ơn gọi của ngài.
Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông ngoại là một thầy Rabbit uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Đức Tin Công giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie Lustiger dĩ nhiên đi ngược lại, với xác tín của gia đình, nhất là mẹ của cậu. Trước khi bị đưa lên xe chở qua trại tập trung Đức quốc xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con: “Các con hãy giữ mình, chớ theo đạo Công giáo. Đây là một cơn bệnh hiểm nghèo”.
Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của người mẹ. Jean Marie Lustiger đã nghe được tiếng gọi thầm kín ấy vào một ngày thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà thờ chính toà Orleans. Dân chúng đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng ngày hôm sau, khi cậu trở lại, nhà thờ bỗng trống vắng… Nhưng chính trong nỗi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng gọi của Chúa.
Qua quyển tự thuật trên đây, Đức hồng y Jean Marie Lustiger tuyên xưng rằng “Ơn cứu rỗi và sự hiện diện thầm kín của Đấng Cứu Thế trong nhân loại là một mầu nhiệm của lòng thương xót”. Thiên Chúa yêu thương con người một cách lạ lùng. Ngài mời gọi con người trên muôn vạn nẻo đường của con người. Do đó, theo Đức hồng y Lustiger, hy vọng, chính là tin rằng, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
Nói như thi sĩ Paul Claudel, Thiên Chúa viết bằng những đường cong. Những đường cong mà Thiên Chúa không ngừng viết để ngỏ lời với chúng ta chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi biến cố, mỗi cuộc gặp gỡ là một lời ngỏ của Thiên Chúa. Chính qua trung gian của biến cố đó mà Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta. Do đó, người Kitô sẽ không ngừng thức tỉnh để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Trong giấc ngủ say như cậu bé Samuel, trong một buổi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh như trường hợp của Jean Marie Lustiger, trong niềm vui của gặp gỡ, của thịnh đạt, trong đau khổ của bệnh tật: tiếng nói của Thiên Chúa vẫn vang dội trong lòng người.
Chúng ta biết rằng, cuộc đời của mỗi người trong chúng ta là lịch sử của một ơn gọi. Thiên Chúa yêu thương tôi và chỉ mình tôi mà thôi… Trong muôn ngàn đau khổ của cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy lập lại lời tuyên xưng của thánh Gioan tông đồ: “Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang yêu thương tôi”. ----------------------------------
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.
Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét, thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ. Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng! Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác, bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được, thì Ngài đã làm cho em. Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao, sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Em bé ấy tên là Maria. Hôm nay Hội Thánh mừng sinh nhật của Đức Maria. Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao. Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn. Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi. Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu. Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ. Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do, không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn, dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ. Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse. Chị Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái. Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người, nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn của Chị. Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài. Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Chị ước mơ. Khác với bà Evà, Chị tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng. Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới. Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường. Bài Tin Mừng hôm nay về màu nhiệm Nhập thể, gồm ba tiếng Xin Vâng. Tiếng Xin Vâng thứ nhất của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, để cứu dân mình khỏi tội. Tiếng Xin Vâng thứ hai của Đức Maria, cô trinh nữ làng Nadarét. Maria đã đón lấy Đấng Cứu thế bằng cả tâm hồn và thân xác mình. Tiếng Xin Vâng thứ ba của Thánh Giuse, người bạn đời của Đức Maria. Nghe lời trong giấc mơ, và vâng lời khi thức dậy. Nhờ tiếng Xin Vâng này mà Con Thiên Chúa có chỗ dựa của người cha, và Maria được tiếp nhận như một người vợ đàng hoàng. Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, chúng ta lại nhớ đến ước mơ của Chúa về ta. Vẫn cần những tiếng Xin Vâng của tôi để Thiên Chúa cứu cả thế giới. Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán. Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi, để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác. Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen. --------------------------------
Sứ điệp: Như Mẹ Maria, ta đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa vì Ngài luôn điều khiển mọi biến cố để thực hiện chương trình cứu độ loài người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xác tín về sự khôn ngoan tuyệt vời mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ Maria. Thiên Chúa cho Mẹ được sinh ra và chuẩn bị cho Mẹ mọi điều thiện hảo, để qua tiếng xin vâng của Mẹ, Chúa nhập thể nơi cung lòng Mẹ. Chính Thiên Chúa đã can thiệp và khởi đầu công trình cứu chuộc loài người hoàn toàn tốt đẹp. Trinh nữ Maria đã trở thành người Mẹ hoàn hảo mà vẫn trong trắng vô ngần. Phần thánh Giuse, dù với bao lo lắng, ưu tư, đã nên công chính hơn nhờ sự quyết tâm thi hành mọi lệnh truyền của sứ thần. Con xin thờ lạy sự khôn ngoan và quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Mẹ Maria đã vâng nghe Thánh Ý Thiên Chúa, đã đón nhận và sống thân mật với Chúa cả xác hồn. Nhưng Mẹ không giữ hạnh phúc cho riêng mình. Mẹ đem Chúa và hạnh phúc đến cho mọi người: Mẹ đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét để trao hồng phúc cho cả nhà; tại tiệc cưới Ca-na, Mẹ giúp cho buổi tiệc trọn niềm hân hoan…
Xin cho con noi gương Mẹ, biết đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, sống thân mật với Chúa, và hơn nữa biết giới thiệu Chúa và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Xin cho con luôn kết hợp mật thiết với Thánh Thể, luôn gắn bó với Lời Hằng Sống, để rồi chia sẻ hạnh phúc với mọi người bằng đời sống bác ái yêu thương. Lạy Chúa, xin giúp con luôn làm theo Ý Chúa để niềm tin của con như Mẹ Maria, được trọn vẹn và hân hoan trong Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Bà đã thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần”.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ. Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những trang đầu của Tin Mừng Thánh Matthêô. Qua những trang Tin Mừng đặc biệt này chúng ta có dịp suy niệm về Ơn gọi Thiên Chúa dành cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Thánh Sử Matthêô đã mở đầu chứng từ về Đức Giêsu Con Thiên Chúa với những lời sau đây: gia phả đức Giêsu Kitô, Con Vua Đavit, Con của Abraham..." (Mt l.l).
Đây là những lời loan báo về lòng từ bi Chúa đang và sẽ trải dài từ đời này sang đời khác, "vì lòng từ bi của ngài tồn tại muôn đời" (Cf Tv 100,5; l36).
Đọc lại đoạn Tin Mừng này hôm nay chúng ta thấy việc Chúa gọi Đức Maria để công tác vào chương trình cứu độ của Người thật là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này đã khởi sự và trải dài qua suốt dòng lịch sử của loài người.
1. Mầu nhiệm của tiếng Chúa gọi.
Vâng điều đầu tiên chúng ta gặp khi đọc bản văn này là mầu nhiệm tiếng Chúa gọi. Sự chọn lựa của Thiên Chúa có tính cách nhưng không và đầy tình thương, không thể hiểu được theo những lý luận của lý trí, và nhiều khi còn là điều gây gương mù nữa.
Chẳng hạn, trong sách gia phả Đức Giêsu Kitô, chúng ta thấy Abraham thay vì chọn trưởng tử Ismael, con của bà Aggar, thì lại chọn Isaac, con của lời hứa, con của bà Sa-ra, vợ của ông. Rồi, đến lượt Isaac muốn chúc lành cho trưởng nam Esau, nhưng rốt cuộc lại chúc lành cho Gia-cóp, theo một ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Gia-cóp cũng không trực tiếp thông truyền sự nối dõi giòng giống dẫn tới Đấng Messia. Ông đã không chọn Ruben, con trưởng, hoặc chọn Giuse, người được ông yêu thương nhất, người giỏi giang hơn tất cả các anh em, người đã tha thứ cho anh em mình và cứu họ thoát khỏi nạn đói ở Ai Cập. Nhưng lại chọn Giuđa, người con thứ tư, người đã cùng với các anh em khác chịu trách nhiệm về việc bán Giuse cho các lái buôn để họ đưa cậu sang Ai Cập.
Nếu việc Thiên Chúa chọn lựa các tiền nhân của Đấng Messia là một mầu nhiệm làm cho chúng ta chú ý thì việc Chúa chọn Đức Maria để cộng tác với Người lại càng làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn. Để chuẩn bị cho Con của Người nhập thể, Thiên Chúa đã không chọn những bậc cung vương quyền thế, đã không chọn những con người giỏi giang xuất chúng…. nhưng Người đã chọn một cô thôn nữ bình thường, một người con gái sống ở một nơi chẳng ai màng tới, một thiếu nữ nhà quê nghèo nàn lạc hậu. Vâng đó là công việc của Chúa.
Xét như vậy thì chúng ta thấy chẳng ai trên trần gian này xứng đáng để được Thiên Chúa chọn, chẳng ai được chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi của Chúa. Chúng ta hãy nghe lại lời của tiên tri Giêrêmia như một kinh nghiệm: Chúa đã nói: "Ta đã yêu thương con bằng tình yêu đời đời" (Ger 3,1,3). Hay như lời tiên tri Isaia "Từ lòng mẹ, Chúa đã gọi tôi" (Is 49,1). Như vậy điều làm cho một thụ tạo hãnh diện, đó là ý thức mình được gọi và được chọn vì tình thương.
2. Mầu nhiệm của tội lỗi và ân sủng
Rồi nếu chúng ta đi xa hơn một chút nữa: khi xét tên của các Vua ở trong sách gia phả Đức Giêsu, chúng ta lại có thể nhận ra rằng chỉ có hai vị là trung thành với Thiên Chúa, đó là Ezechiel và Geroboam. Những vua khác đều là những kẻ thờ thần tượng, vô luân, sát nhân... Cả trong thời kỳ sau cuộc lưu đày, trong số các vua được kể tên, chúng ta chỉ thấy có hai người còn trung thành với Chúa, đó là Salathiel và Zorobabel. Những vua khác đều là những kẻ tội lỗi hoặc không được biết đến.
Riêng đối với Đavid, người nổi danh nhất trong các vua vì từ dòng dõi này Đấng Messia đã được sinh ra thì sự thánh thiện và tội lỗi xen lẫn nhau: Ngài đã công khai xưng thú các tội ngoại tình và sát nhân trong các Thánh Vịnh do Ngài viết. Hẳn anh chị em đã có lần nghe những lời được viết trong nước mắt và cay đắng trong Thánh Vịnh 50, một Thánh vịnh đã trở thành kinh nguyện thống hối thường được dùng trong phụng vụ của Giáo Hội.
Cả những phụ nữ, những người mà Mathêu nêu tên trong đầu sách Tin Mừng của ngài như những người mẹ thông truyền sự sống, từ cung lòng phúc lành của Thiên Chúa, cũng gợi lên nơi chúng ta một sự xúc động.
Tất cả họ đều là những phụ nữ ở trong những hoàn cảnh bất hợp lệ: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mãi dâm, Rut là một người ngoại bang và về người phụ nữ thứ tư, người ta không dám nêu danh, và chỉ nói "đó là vợ của ông Uria" . Người đàn bà đó chính là bà Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.
Tuy nhiên, từ dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác này đã phát sinh ra một nguồn nước trong, và khi càng đến thời gian của Chúa thì giòng nước ấy càng trở nên sung mãn. Đến Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và đến Chúa Giêsu, Đấng Messia thì tất cả đã trở nên kỳ diệu đến lạ lùng.
Như vậy danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy phải tuyên dương mầu nhiệm từ bi của Thiên Chúa. Chúng ta thấy trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối Ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài. Vậy mà các vị lại trở nên những cột trụ của Giáo Hội. Chúng ta thấy ở thế gian này, khi một dân tộc viết lịch sử chính thức của mình, thì họ thường nói về những chiến thắng đã đạt được, những vị anh hùng nổi danh, hoặc sự cao cả của mình... Còn đối lịch sử ơn Cứu độ thì đây quả là một trường hợp duy nhất, thật đáng ngưỡng mộ, khi thấy một dân tộc không hề muốn dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sự chính thức của mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về những công trình kỳ diệu Chúa đã thực hiện giữa chúng ta đặc biệt qua việc tuyển chọn một người phụ nữ ở giữa loài người chúng ta để Người trở thành Mẹ của Thiên Chúa và Mẹ của cả loài người.
Với biến cố nhập thể, qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm cho Nước của Người hiện diện giữa chúng ta. Và như Đức Giêsu đã nói Nước ấy đang tăng trưởng từ từ, âm thầm, như một hạt cải.. . Giữa sự viên mãn của thời gian và tận thế, Giáo Hội đang hành trình như một Dân tộc hy vọng.(HY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận)
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ. Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa. Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt. Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
Sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria nhằm hướng tới ngày trọng đại: sinh ra Đấng Cứu Thế. Tiếp đến “Đấng được sinh ra làm con một người đàn bà và sống dưới Lề luật” (Gl 4,4) đã cho chúng ta được sinh lại làm con cái Chúa. Đức Maria sinh ra trong ơn thánh, không vướng mắc nguyên tội. Còn chúng ta được khỏi tội tổ tông nhờ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta mới được sự sống mới.
Chúng ta mừng Sinh nhật Đức Mẹ với niềm hạnh phúc vì luôn có Mẹ trong cuộc sống, như “Trong tiệc cưới Cana có thân mẫu Đức Giêsu” (Ga 2,1). Với Mẹ Maria chúng ta có được bông hồng cài áo. Đây là tập tục dễ thương của người Nhật, để tôn kính hiền mẫu, đã sớm du nhập vào Việt Nam.
Mừng Sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta cũng nhớ đến ngày sinh của chúng ta, để “Sao được cho ra cái giống người” (Tú Xương), hơn nữa cho ra người con Chúa. Cũng là lúc chúng ta nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, cố gắng làm vui lòng các ngài, như gương sáng của Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
Thánh lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria xuất phát từ Giáo Hội Đông Phương, có lẽ từ thánh lễ cung hiến thánh đường dâng kính thánh Anna tại Giêrusalem; địa điểm của ngôi thánh đường được cung hiến được các tín hữu tin rằng đó là nơi sanh Đức Mẹ. Theo truyền thuyết khác thì Đức Maria được sinh tại Galilê.
Vào cuối thế kỷ thứ VII bên Giáo Hội Tây Phương, Giáo Hoàng Sergius (687-701) xác nhận có 4 thánh lễ được cử hành trong năm để kính Đức trinh nữ Maria trong phụng vụ Rôma:
- lễ Truyền Tin - lễ Hồn xác về trời - lễ sinh nhật và - lễ “Gặp gỡ” (tức lễ nến ngày 2.2)
Từ ngày Sinh Nhật này (đương nhiên không có một chứng cứ khoa học nào cả!) người ta xác định ngày thụ thai là ngày 8.12.
Sự kiện cụ thể là thánh lễ này được cử hành long trong phụng vụ, cho chúng ta thấy rõ, các tín hữu lúc đó đã xác tín rằng Đức Maria khi được sinh ra đời không vương chút tội nào (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh).
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng này (và toàn bộ Tân Ước) không cung cấp cho chúng ta những chi tiết cần thiết để chúng ta biết lý lịch của Đức Maria, chỉ có vài chi tiết liên quan tới Chúa Giêsu thôi:
- Người là Mẹ của Chúa Giêsu - Người thụ thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần. - Người được Thánh Giuse mang về nhà để chăm sóc.
Từ sự kiện Thánh Kinh không quan tâm tới lý lịch Đức Maria, chúng ta có thể hiểu rằng: Maria chỉ là một con người tầm thường, sở dĩ Người được nên cao trọng là hoàn toàn do vận mạng của Người đã gắn liền với vận mạng của Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Một khối đá chẳng là gì cả, nhưng nếu được giao trong tay một nhà điêu khắc tài ba thì nó sẽ trở thành một kiệt tác nghệ thuật. Con người cũng chẳng là gì cả nhưng nếu để cho Chúa hướng dẫn đời mình thì người đó sẽ trở thành một kiệt tác của Chúa. Đức Maria là như thế. Xin Chúa và Đức Mẹ giúp con biết để cho Chúa xử dụng con như xưa đã xử dụng Đức Mẹ.
2. Có những người sinh ra trên đời đã thực sự là một diễm phúc cho đời, chẳng hạn Đức Maria. Nếu không có Người thì công trình cứu độ của Thiên Chúa đã không được thực hiện. Có những người khác sinh ra chỉ làm hại cho đời, “thà nó đừng sinh ra còn hơn”.
Phần con, lạy Chúa, xin cho con biết việc con sinh ra trên đời này có đem lại lợi ích gì cho anh chị em con không, hay con chỉ làm chật đất, tốn cơm và khổ sở cho họ.
3. Trong đoạn Tin Mừng này, số phận Đức Maria đang như ngàn cân treo sợi chỉ: nếu thánh Giuse rước Người về nhà thì mọi việc khác được giải quyết êm thắm, nhưng nếu thánh Giuse tố giác Người thì Người sẽ bị ném đá. Thế mà chúng ta không thấy Người làm gì và nói gì cả. Người phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho Người mang thai Ngôi Hai thì Thiên Chúa sẽ lo liệu cho Người.
Lạy Chúa, xin thêm cho con tinh thần phó thác trong khi thi hành nhiệm vụ Chúa giao.
4. Một nông dân trồng bụi tre nơi góc vườn. Thân tre mỗi ngày mỗi cao lớn, thẳng đuột. Ngày kia, người ấy đến nói với cây cao nhất: “Này bạn, ta cần bạn. ”Cây tre nói: “Thưa ông, tôi sẵn sàng, ông cứ sử dụng tôi theo ý ông”
- Được, ta sẽ xẻ anh ra làm đôi.
Nghe thế, cây tre phản đối:
- Xẻ tôi? Sao vậy? Trong vườn có cây nào đẹp hơn tôi đâu? Xin ông đừng...Ông dùng tôi thế nào cũng được, nhưng xin đừng xẻ tôi ra...
- Nếu không xẻ anh ra thì anh chả được việc gì.
Một làn gió nhẹ thổi qua, cây tre cúi đầu thở dài: “Thưa ông, nếu chỉ còn cách đó, thì xin ông cứ làm theo ý ông”.
Người nông dân nói tiếp: “Ta sẽ tước bỏ hết các cành của ngươi”
- Ông tước cành tôi? Như vậy còn gì là vẻ đẹp của tôi? Lạy Chúa, xin ông thương đừng làm thế...
- Nếu không tước cành, anh chả được việc gì.
Gió thổi mạnh hơn. Cây tre quằn quại trong gió và nắng. Rồi nó mạnh dạn thưa: “Thưa ông, xin ông chặt tôi đi”.
Ông chủ nói: “Bạn thân mến, thực thì ta buộc lòng phải làm bạn đau, phải tước cành, khoét đốt bạn; nếu không, ta không thể dùng bạn”.
Cây tre cúi rạp xuống đất nói: “Thưa ông, xin ông cứ việc chặt, dùng tôi theo ý ông”.
Người nông dân chặt tre, tước cành, xẻ đôi và lóc ruột làm thành cái máng chuyển nước từ dòng suối vào cánh đồng. Và sau đó, người nông dân có một vụ mùa bội thu. (Góp nhặt)
Mẹ Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha mẹ của ngài là thánh Gioankim và thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioankim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria đã chào đời là để thực hiện ý Thiên Chúa, Mẹ đã mở rộng cửa trời để đón nhận mọi người và lời xin vâng làm Mẹ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Chúng ta cử hành lễ sinh nhật Đức Mẹ, vì từ nơi ngài đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính, là Đức Kitô, Thiên Chúa chúng ta (Ca nhập lễ, lễ sinh nhật Đức Mẹ). Hôm nay mừng sinh nhật Đức Mẹ, nhân loại được hạnh phúc vì công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đã ló rạng qua việc chào đời của người nữ tử Sion mang danh Maria.
Câu chuyện
Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, khách hành hương thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (x. Ga 5,1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của thánh Gioakim và thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra.
Giáo hội Đông phương cũng như Tây phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ từ thế kỷ VI. Đến thế kỷ X, lễ được phổ biến khắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này… Khi canh tân phụng vụ, Đức Piô X bỏ lễ vọng và tuần tám ngày và truyền lễ sinh nhật Đức Mẹ như hiện nay.
Suy niệm
“Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nảy sinh từ gốc Giêsê” (Phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Giáo hội Ðông phương).
Sự son sẻ được sinh con của Anna gợi lên chủ đề quen thuộc trong Cựu ước, theo đó con trẻ là quà tặng của Thiên Chúa. Điều này được nhấn mạnh đặc biệt trong truyền thống về các tổ phụ Isaac, Giacob và Giuse… Định mệnh của Thiên Chúa chỉ bởi Thiên Chúa mà thôi. Sách Nguỵ thư của thánh Giacôbê có ghi: Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: Bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Maria trong đền thờ cho Thiên Chúa khi Maria được 3 tuổi, song thân dẫn Maria lên đền thờ tại Giêrusalem như một món quà dâng lên Chúa.
Đức Maria, người thiếu nữ Sion, một thiếu nữ Nadarét, qua lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay ai cũng biết Bà là Mẹ Đấng Cứu Thế (x. Mt 1,18-23). Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã chuẩn bị Maria cho sứ mạng trở nên Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Thế nhân gian. Ngài cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình. Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ, để Người Con chí thánh ấy thực sự là con người trọn vẹn và Maria được chọn để làm người mẹ ấy. Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại, vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao, ngày Maria chào đời chan chứa mừng vui và hy vọng.
Chính vì Maria là cung lòng, là ngai cho Con Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên thai nhi, Maria còn trong bụng mẹ được Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc Maria trong tình yêu: Được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Maria đã lớn lên thành một thiếu nữ, đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái: Lập gia đình khi đính hôn với Giuse. Tuy nhiên tình yêu và hôn nhân với Giuse mang ý nghĩa mới: Cộng tác vào chương trình cứu độ. Maria luôn đáp trả xin vâng và tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào thánh ý Ngài. Cuộc đời của Maria như một bài ca bất tận: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban” (Tv 13,6).
Chúng ta mừng sinh nhật Đức Maria trong lời cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương sắp đặt cho nhân loại có một người Mẹ tuyệt vời, cùng hiệp lòng dâng lên Mẹ Maria những lời ngợi khen vì Mẹ chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ muôn vàn ân phúc… “vì Mẹ đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30).
Ý lực sống:
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…” (Lc 1,49).
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ.
Lễ Sinh Nhật Mẹ đã được Đức Giáo Hoàng Sergiô I sống vào thế kỷ thứ VlI đưa vào trong Phụng vụ Giáo Hội. Cuộc đời của Mẹ Maria luôn luôn gắn liều với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Lúc bước vào thế gian với hồng ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã là một khởi đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử cứu rỗi. Vì thế, nếu chúng ta vui mừng với biến cố Nhập Thể và Sinh nhật của Chúa Giêsu trong lịch sử nhân loại, thì chúng ta cũng phải vui mừng và sung sướng đón mừng ngày Sinh nhật của Mẹ Maria, một người phụ nữ đã được chào chúc là Đấng “Đầy tràn ơn sủng”, và luôn "được Thiên Chúa ở cùng".
Mừng sinh nhật có nghĩa là chúng ta mừng ngày Mẹ được Chúa cho sinh ra trên cõi đời này. Việc Mẹ được sinh ra xét về phương diện trần thế thì chẳng có gì khác với mọi người. Mẹ cũng được cưu mang, cũng cất tiếng khóc chào đời. Mẹ cũng được nuôi nấng và lớn lên từ những giòng sữa của người đàn bà. Đó là bà Anna. Điều khác ở nơi Đức Mẹ là vì Đức Mẹ đã được Chúa tiền định cho Mẹ có một vai trò rất đặc biệt trong chương trình cứu độ của Người.
Với hai tiếng Xin Vâng, Mẹ đã trở thành dụng cụ trong trong bàn tay kỳ diệu của Thiên Chúa. Nơi Mẹ, Thiên Chúa đã cho con của mình được trở thành một Con Người, một con người bằng xương bằng thịt giữa loài người. Mẹ đã dùng những dòng máu, và chia sẻ xương thịt của mình để làm nên xương thịt của Chúa Giêsu. Mẹ đã dùng những giòng sữa quí báu của mình để Chúa Giêsu được lớn lên. Bằng sự chăm lo của một người Mẹ dành cho một người con, Mẹ đã làm cho Chúa Giêsu được trở thành một Con Người, một con người như mọi người ở giữa, ở với loài người để rồi từ đó Chúa thực hiện chương trình cứu độ Chúa Cha trao cho Người.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã cho Mẹ được sinh ra làm người.
Chúng ta cám ơn Chúa đã chọn Mẹ Maria để cộng tác với Chúa trong chương trình Cứu Độ.
Chúng ta cám ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria thật nhiều đặc ân để Mẹ có thể chu toàn được sứ mệnh Chúa trao phó trong chương trình cứu nhân độ thế của Chúa.
Ngày nay Mẹ đã về trời. Mẹ được về trời với cả hồn xác nghĩa là Mẹ về trời bằng cả con người mà Mẹ đã sống trên trần gian. Mẹ về trời vừa để làm mẫu gương cho chúng ta, vừa làm Đấng phù trợ đắc lực và đầy uy quyền cho cả loài người.
2. Vậy nhân dịp mừng lễ Sinh Nhật của Đức Mẹ hôm nay, một đàng chúng ta hãy cảm tạ Chúa. Nhưng đàng khác chúng ta cũng hãy cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được biết sống thế nào cho tốt để mai sau chúng ta được cùng với Mẹ hưởng hạnh phúc đời dời.
Thế nhưng phải sống thế nào đây? Đó là một câu hỏi mà mỗi người phải tự tìm ra cho mình một câu trả lời.
Vào thứ bảy 19/09/1989, ông John Ivan mừng lễ sinh nhật thứ 112, và người con trai duy nhất của ông lúc đó cũng đã 78 tuổi. Hai cha con sống yên lành tại một thành phố nhỏ Lancashire, miền tây Anh Quốc. Và nhân dịp mừng sinh nhật thứ 112 này, trả lời cho hãng thông tấn ASB đến phỏng vấn, ông John Ivan đã trình bày bí quyết sống lâu của ông bằng một bảng lề luật "bốn không một có". Bốn không là:
- Không hút thuốc. - Không uống rượu. - Không giận ghét chửi rủa kẻ khác. - Không bài bạc gian tham.
Và một có là: Có tinh thần hòa hợp với mọi người.
Trước đó không lâu, ông John Ivan cũng đã lãnh được giải thưởng "người có quả tim vàng" vì lòng tốt đại độ của ông đối với mọi người xung quanh.
Nếu để kéo dài cuộc sống trên trần gian này dài thêm thì ông John Ivan vẫn phải thực hiện bí quyết sống "bốn không một có" như ông đã làm. Vậy thì thử hỏi nếu cuộc sống trên trần gian mà còn phải có những quy luật như vậy thì để được có sự sống đời đời chúng ta càng phải có những quy luật khắt khe như thế nào?
Chúng ta hãy nhớ lại câu truyện chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Anh ta đã đến hỏi Chúa về bí quyết để được sống đời đời: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Trước hết Chúa Giêsu nhắc lại cho anh ta những điều kiện căn bản, trong đó cũng bao gồm cả những bí quyết giống như bí quyết "bốn không một có" của ông John Ivan trên đây, đó là:
- Không gian dâm, - Không giết người, - Không làm chứng gian, - Không làm hại ai - và một có là hãy thảo kính cha mẹ.
Đó là bí quyết "bốn không một có".
Chàng thanh niên đã trả lời cho Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi đã giữ cẩn thận các điều ấy từ thuở nhỏ". Đối với cuộc sống ở đời được như vậy đã là quí lắm. Nhưng cuộc sống đời đời đòi hỏi một điều gì hơn nữa.
Tin Mừng Marcô ghi tiếp: "Bấy giờ Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh rồi bảo: anh còn thiếu một điều nữa là hãy đi bán tất cả gia tài và lấy tiền làm phúc cho kẻ nghèo khó, anh sẽ được một kho báu trên trời rồi đến đây theo Ta". Anh ta đáp lại thế nào? Tin Mừng ghi: "Nghe lời ấy anh buồn rầu và chán nản bỏ đi vì anh có nhiều của cải lắm". Anh ta đã chọn của cải trần gian hơn là chọn đi theo và sống kết hiệp với Chúa Giêsu. Anh ta đã đặt giá trị vật chất lên trên cả việc đi theo Chúa để làm môn đệ cho Ngài.
Có thể chúng ta ngày hôm nay, nhiều người chúng ta cũng hành động giống như thế. Chúng ta không dám chọn Chúa và đặt Ngài làm chỗ nhất trong đời sống chúng ta. Và nếu không làm nổi việc này thì chúng ta khó mà sống an vui trên trần gian này và khó mà hưởng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, như Mẹ Maria thuở xưa, mỗi người Kitô chúng con đã được Chúa mạc khải cho biết bí quyết sống hạnh phúc, sống an vui, sống đời đời. Ðó là sống theo Chúa, kết hiệp với Chúa và sống như Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con thực hành điều Chúa đã truyền dạy và cố gắng sống như Mẹ Maria đã sống thuở xưa để mai ngày chúng con được về huởng hạnh phúc cùng Mẹ trên trời. Amen.
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và công trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
- Chồng bà đã được cứu thoát.
Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy?
Cha Vianney cắt nghĩa:
- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.
- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
- Ðó là một ơn của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
Hôm nay, lễ sinh nhật Ðức Mẹ, quyển gia phả của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và trong ngày sinh của Ðức Mẹ có một ý nghĩa đặc biệt. Quyển gia phả này được chia thành 3 phần: Phần thứ nhất kể tên các vị tổ phụ, phần thứ hai nhắc đến các vua trước thời lưu đày bên Babylon, và phần thứ ba dành cho các vua sau thời lưu đày.
Tất cả những tên tuổi được nhắc đến trong quyển gia phả của Chúa Giêsu gợi lên cho chúng ta chương trình và sự lựa chọn vô cùng lạ lùng của Thiên Chúa.
Quả thật, gia phả của Chúa Giêsu như được thánh Máthêu dựng lại là một dòng sông lịch sử được dệt bởi rất nhiều tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại cũng là lịch sử của tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu cũng đã hành xử theo cung cách ấy của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Phêrô là kẻ đã chối Ngài, Ngài đã chọn Phaolô là kẻ đã bách hại Giáo Hội của Ngài.
Thông thường, khi viết về lịch sử của dân tộc, người ta thường che dấu những thất bại để chỉ đề cao những chiến thắng, các bậc anh hùng và những hành động lẫm liệt của họ. Lịch sử của ơn cứu độ đã không được viết như thế, Thiên Chúa đã viết thẳng bằng những đường cong, Ngài đã chọn viên đá bị loại ra làm viên đá góc tường, Ngài đã chọn những con người yếu đuối và tội lỗi để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Chính trong dòng sông đầy tội lỗi ấy mà Mẹ Ngài đã được sinh ra để chuẩn bị cho Ngài một chỗ trong lịch sử nhân loại. Chính vì là thành phần của một nhân loại tội lỗi mà Mẹ mới có thể sinh ra Chúa Giêsu như một con người hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Chính vì sinh ra trong một gia đình tội lỗi mà Mẹ mới có thể cảm thông với những yếu đuối bất toàn của kiếp người. Chính vì gắn liền với một lịch sử đầy những phản bội hất ngã mà Mẹ mới là nơi nương tựa cho những người tội lỗi. Còn lời kinh nào xứng hợp để dâng lên Mẹ trong ngày sinh của Mẹ cho bằng lời kinh Kính Mừng: "Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen".
Ma-ri-a là nguồn cậy trông vì lý do tối cao của Mẹ để sống chính là Thiên Chúa. Mẹ sống vì Chúa. Mẹ khao khát làm theo thánh ý Chúa “Này tôi là tôi tớ Chúa, mong sao lời Chúa đến với tôi”. Mẹ sống vì con để chia sẻ ước muốn của con cứu độ thế giới để giải thoát mọi người khỏi áp chế của sự dữ. Mẹ cộng tác vào sứ vụ của Con. Mẹ dâng lời cầu nguyện hiến lễ cho nước Chúa ngự đến. Mẹ kết hiệp những đau đớn của Mẹ với đau đớn của Con.
Thiên Chúa là nguồn hy vọng của Ma-ri-a
Ma-ri-a hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Mạnh mẽ hy vọng, Mẹ có thể đương đầu với mọi hoàn cảnh đau khổ, dù thật bi đát. Mẹ chịu đau khổ khi Đức Giê-su bị hiểu lầm, bị oán ghét. Lòng Mẹ bị xâu xé, khi mẹ đứng dưới chân thánh giá để chứng kiến con hấp hối.
Mẹ trong lòng lời trối cuối cùng của con khi Người phó Mẹ cho Gioan : “Thưa Bà, này là con Bà... Này là mẹ con...”
Trước xác con mẹ không một chút nghi ngờ lời Người đã nói : “Ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại”. Con Mẹ đã sống lại và hằng sống ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Mẹ vui mừng về hạnh phúc và vinh quang của con Mẹ : “Mọi thế hệ sẽ khen tôi có phúc”.
Hy vọng của chúng ta là gì?
Hy vọng của chúng ta bị suy nhược vì nó không đặt vững chắc trên nền tảng tốt lành và toàn năng của Thiên Chúa.
Mẹ Ma-ri-a là mẫu mực của lòng trông cậy. Mẹ mời gọi chúng ta đặt tất cả nguồn trí tri của chúng ta, con tim của chúng ta, ý chí của chúng ta làm theo lời kêu gọi trở về với Chúa, nâng cao cái nhìn của chúng ta vượt trên trái đất này để đến với ánh sáng lời Chúa, đến với nguồn an ủi trong tình yêu của Chúa, đến với nguồn sức mạnh toàn năng của Chúa.
“Sống giữa trần gian đầy bất công, chia rẽ, đói khổ, người Kitô hữu cẫn phải trở nên niềm hy vọng cho trần gian. Đây thật là một thách đố lớn lao; thách đố quét sạch mọi hận thù. Sự hiện diện của người Kitô đem lại Tin Mừng xây dựng. Thách đố này đang thiêu đốt con tim đem yêu thương mạnh mẽ vào nơi thất vọng”. (Schutz R... Violence despacifiques P. 158)
Ngày lễ sinh nhật Mẹ Maria hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc lại gia phả của Chúa Giêsu. Ta thấy, trong suốt chiều dài lịch sử thấy Thiên Chúa đã tuyển chọn gia tộc cho Người cách đặc biệt.
Hình ảnh bốn phụ nữ được Kinh Thánh nói đến như là một tiên báo cách kín đáo về Đức Kitô, Đấng sẽ đến để cứu độ những người tội lỗi, và đón nhận mọi dân mọi nước vào vương quốc của Người. Việc tuyển chọn những nhân vật này không phải là điều đáng tự hào vì lý lịch của họ. Nhưng tiêu chuẩn của Thiên Chúa khác với con người. Người chọn sự yếu kém để nói lên lượng từ bi của Người.
Đây là "gia phả của đức tin và ân sủng". Vì cho dẫu gia phả này được đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót Chúa, được chính Thiên Chúa can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt, khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài, không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người. Chính vì một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã sinh ra để cưu mang Chúa Giêsu Đấng cứu độ chúng ta
Mẹ Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang lầm lỗi. Mẹ đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Mẹ Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Mẹ đã làm cho có sự sống viên mãn.
Hôm nay là lễ sinh nhật Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu và là Mẹ chúng ta, chúng ta không thể không vui, và cùng nhau chúc mừng tuổi Mẹ. Ngày này phải là ngày vui chung của toàn thế giới, chứ không phải riêng cho một dân tộc hay một nhóm người nào. Bởi ngày sinh của Mẹ có liên quan trực tiếp đến biến cố Ngôi Lời Nhập Thể. Ngày Mẹ chào đời đánh dấu sự nối kết giữa Tân ước và Cựu ước, chấm dứt thời kỳ chờ đợi và những lời hứa, khai mở một thời kỳ mới, thời kỳ ân sủng và ơn cứu độ trong Đức Kitô. Mẹ thật xứng : "Đức Mẹ làm cho chúng con vui mừng".
Maria! Mẹ Ngôi Hai Con Chúa Chúc tụng Mẹ! Mừng Sinh nhật hôm nay Chúa thương Mẹ ban ơn phúc dư đầy Hình ảnh Mẹ, ngàn đời con ca tụng.
Quả thật, ngày sinh nhật của Mẹ đã khai mở lời hứa của Thiên Chúa bước đầu thành sự, đồng thời, Mẹ là Nữ Tử Sion, là hy vọng của nhân loại. Mẹ ra đời để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có cuộc sinh nhật của Mẹ, mới có sự ra đời của Đức Giêsu, có Đức Giêsu mới có Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, ngày sinh nhật của Mẹ đã được đặt vào Mầu Nhiệm Nhập Thể, cứu độ. Mẹ như Sao mai dẫn lối đưa đường, Mẹ chính là hừng đông, là ánh bình minh báo trước Mặt trời công chính là Đức Kitô.
Vì thế trong ngày Đức Maria chào đời Giáo Hội đã kêu lên : "Ôi lạy Mẹ! Ngày sinh của Mẹ đã đem lại cho thế giới sứ điệp vui mừng và hy vọng. Vì Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt trời soi đường nay nẻo chính đã từ cung lòng Mẹ sinh ra, Ngài là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ, đem lại muôn phúc lành, Đấng tiêu diệt thần chết và ban phúc trường sinh".
Thánh Gioan Đamatsô đã dâng lời ca tụng : "Hết thảy mọi người hãy đến, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh ra niềm vui sướng của cả thế giới! Hôm nay đây, từ một bản tính thế trần, một thiên đàng đã thành hình dưới thế. Hôm nay đây, việc cứu rỗi đã bắt đầu cho thế giới!"
Vậy, hôm nay, mọi loài trên trời dưới đất hãy cùng nhau hoan hỷ và đồng ca, nhảy múa biểu lộ niềm vui bất cứ vật nào ở trong trần gian cũng như ở trên trần gian hãy họp nhau mừng lễ. Quả thật, hôm nay thánh điện của Đấng tạo thành muôn vật đã được xây lên, và một thọ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hoá Công.
Khi mừng sinh nhật nhau, chúng ta thường tặng nhau những bó hoa, những món quà. Mừng ngày sinh nhật của Mẹ hôm nay: "mãi mãi nhân loại sẽ khơng ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa:
Chúng con tại thế tưng bừng, Cùng nhau ca hát vang lừng bốn phương. Tạ ơn Thiên Chúa tình thương, Chọn người Trinh Nữ ngát hương ngàn đời.
Chúng ta hãy quyết hái nhiều hoa xinh đẹp để dâng kính Mẹ, tỏ lòng mến yêu Mẹ bằng những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính Mẹ, như : lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền tin, nguyện kinh cầu, một cách phi thường. Có nghĩa là miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Đức Giêsu cũng được thể thể hiện trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ. Với những lời chúc tốt lành nhất dâng về Mẹ cuộc sống hiện tại, quá khứ và tương lai làm món quà mừng Mẹ tuổi mới.
Mẹ sinh ra giữa muôn hoa hương ngát Với màu sắc lộng lẫy đẹp đất trời Mẹ rạng ngời trong hào quang vời vợi Cùng Triều Thần con Chúc khen mừng Mẹ. Amen.
Lễ Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria có liên hệ với việc cung hiến một đại giáo đường xây ở Jérusalem hồi thế kỷ V, tại nơi truyền thống vẫn xem là địa điểm nhà ông Gioakim và bà Anna, cạnh hồ tắm Bethzatha (Ga 5, 1-9). Từ thế kỷ XII, ngôi nhà thờ này, buổi đầu dâng kính Sinh nhật Đức Maria, được gọi là đền thờ thánh Anna. Lễ này, truyền sang phương Đông vào thế kỷ VI, được Đức giáo hoàng Serge I (+ 701) thiết lập tại Roma cùng với kiệu rước. Cuộc kiệu bắt đầu ở Saint-Adrien-au Forum đi đến đại giáo đường Libêrô, tức đền thờ Đức Bà Cả.
Tài liệu đầu tiên về lễ Sinh nhật Đức Maria có lẽ một bài ca vẫn còn của Romanos le Mélode (kh. 556), một bài thơ ca ngợi việc Đức Maria sinh ra, theo Ngụy phúc âm của thánh Giacôbê. Vào thế kỷ VII, thánh Jean de Damas đã có bài giảng lừng danh về sinh nhật Đức bà tại đại giáo đường thánh Anna. Có những cuốn ngụy thư khác kể về sinh nhật Đức Maria như Ngụy thư theo thánh Matthêu và phúc âm về sinh nhật Đức Bà, là tác phẩm sau này, được gán cho thánh Hiêrônimô. Ở phương Đông, lễ sinh nhật Đức bà mở đầu cho năm phụng vụ Byzantin bắt đầu vào đầu tháng chín. Tại Roma, lễ này có tuần tám ngày theo sau (quyết định của Đức Innocenl IV) và có lễ vọng (Đức Grégoire XI, năm 1378).
2. Thông điệp và tính thời sự
Tất cả phụng vụ lễ sinh nhật Đức bà đều tìm cách tạo cho lễ một nền tảng Thánh kinh
Lời nguyện trong ngày đặt quan hệ giữa việc đức Maria sinh ra với tư cách Mẹ Thiên Chúa vốn là “khởi đầu sự cứu rỗi chúng ta”. Tư tưởng đó cũng đã xuất hiện trong Điệp ca mở đầu: chúng ta hãy hân hoan mừng sinh nhật Đức trinh nữ Maria; “qua Mẹ, Mặt trời công chính đã đến với chúng ta…”. vậy nên đối tượng của lễ là chính Đức Giêsu. “Chúng ta hãy mừng Đức Trinh nữ Maria: hãy tôn thờ Con của Người” (ca dẫn nhập). “Chúng ta hãy ca tụng vinh quang của Đức Kitô hết tâm hồn khi cử hành lễ Mẹ rất thánh của Thiên Chúa” (Điệp ca giữa ngày). Điệp khúc ca vịnh Zacharie cũng ca ngợi như thế khi dịch từ apolitikion trong kinh chiều theo phụng vụ Byzantin: “Ôi Maria, ngày sinh của Mẹi loan báo niềm vui cho thế giới. Từ nơi Mẹ mặt trời công chính đã mọc lên. Đức Kitô đã biến tội lỗi thành ân sủng, sự chết thành cõi sống vĩnh hằng”. Cùng với lễ sinh nhật Đức Maria, đã mở ra thời kỳ các lễ sinh nhật trên trời (Ga 3,7) mang lại bình an. Vậy nên chúng ta cầu xin cho lễ này “mang lại bình an sung mãn cho chúng ta” (lời nguyện trong ngày), bởi vì lễ này “mang sự cứu rỗi thế giới một cách âm thầm, máu Chúa Kitô cứu chuộc Mẹ / nhưng chính Mẹ là nguồn gốc” ( Ca vãn Phụng vụ bài đọc). Lời nguyện tạ lễ lấy tinh thần từ sách lễ Paris, cũng trở lại đề tài này: “sinh nhật Đức Maria là nguồn vui, vì chính Mẹ cho thế giới được cậy trông và là bình minh của sự cứu rỗi”.
Đức giám mục Gortine là André de Crête (kh. 660 – 670) trong bài giảng lễ sinh nhật Đức Bà (phụng vụ bài đọc) cho chúng ta hiểu ý nghĩa hân hoan của lễ hôm nay: “Mọi tạo vật hãy ca hát và nhảy múa, hãy góp mình hết sức mình vào niềm hoan lạc của ngày hôm nay. Tất cả những gì hiện hữu trong thế giới hãy cùng phối hợp vào bản hòa tấu ngày lễ này. Vì hôm nay thánh đài đã được tạo tác làm nơi Đấng sáng tạo vũ trụ sẽ ngự, đang tới: và một thụ tạo, do sự sắp xếp hoàn toàn mới mẻ đó, đã được chuẩn bị để dâng lên Đấng tạo hóa một nơi cư ngụ thánh thiêng”.
Tông Huấn Marialis cultus (số 7) xếp lễ sinh nhật Đức Maria trong số các lễ “kỷ niệm những biến cố cứu rỗi trong đó Đức Trinh nữ đã phối hợp chặt chẽ với Con mình”. Vì quả thực, việc Người sinh ra đã là “bình minh báo hiệu ngày sắp tới” (Thánh thi phụng vụ bài đọc).
Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta. Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”. Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng. Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô. Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô. Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân. Mẹ chính là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống. Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thì cũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội, Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.
Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã dấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng. Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể và Mẹ của toàn thể chúng sinh. Việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng”. Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ. Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.
Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.
Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính... phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng của Mẹ để lại. Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòng khiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa. Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc. Và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Bà Êlisabét hạnh phúc khi được Đức Trinh Nữ Maria tới thăm, Tin Mừng của thánh Luca cho thấy bà Êlisabét vừa nghe lời Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:” Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc…” (Lc 1, 41-42). Việc bà Êlisabét tung hô mẹ Maria có một ý nghĩa rất đặc biệt. Mẹ là người diễm phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian này vì Mẹ đã đắc sủng nơi Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế và làm Mẹ của toàn thể nhân loại.
Thiên Chúa đã tô điểm cho công trình sáng tạo tuyệt vời của Ngài. Evà thứ nhất đã phản bội lại tình thương cao vời, tuyệt đối của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đuổi ông bà nguyên tổ ra khỏi vườn địa đàng. Nơi vườn diệu quang này, đáng lẽ ông bà tổ tiên của nhân loại sẽ vô cùng hạnh phúc vì ông bà nguyên tổ luôn diện đối diện với Thiên Chúa, được Thiên Chúa trò chuyện mỗi buổi chiều. Nhưng rồi, cái tên Evà đã bị lu mờ vì tội sa ngã: ”ăn trái cấm do sự xúi giục của ma quỉ”. Evà đã mang sự chết vào trần gian. Tuy nhiên tình thương của Thiên Chúa vẫn vượt trội trên mọi sự, mọi việc ở trần gian này. Ngài lại tô điểm lịch sử cứu độ của Ngài bằng cách chọn lựa một người nữ có tên là Maria, Evà mới. Maria, Evà mới nói lên tất cả. Vườn địa đàng từ nay thuộc về người nữ tử Sion. Evà mới điểm tô cho vườn địa đàng mà bà Evà cũ đã làm hư đi. Maria đã làm loé lên niềm hy vọng cho một trần gian đang sa cơn nguy lầm. Maria đã điểm tô cho một lịch sử đã bị ông bà nguyên tổ làm lu mờ vì tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Maria đã làm cho lịch sử hồi sinh khi ông bà nguyên tổ làm cho nó bị hoen ố vì tội lỗi. Nhân loại đáng lẽ bị đắm chìm trong sự chết, nhưng Evà mới đã làm cho nó có sự sống viên mãn.
Trình thuật của thánh Matthêu 1, 1-16.18-23 nói về gia phả của Chúa Giêsu. Quyển gia phả ấy nói lên một lịch sử đan dệt bằng biết bao tội nhân và những kẻ gian ác, nhưng lịch sử ấy lại là lịch sử của tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lịch sử này được đan kết bằng biết bao sự kiện, biết bao vụ việc vừa tội lỗi, vừa u tối, nhưng lịch sử ấy lại được chính Thiên Chúa ghé mắt đoái thương và can thiệp đúng lúc. Thiên Chúa đã viết lịch sử ấy bằng những nét đặc biệt và khác thường. Cái đặc biệt nhất vẫn là Thiên Chúa đã không bỏ rơi một nhân loại phản bội lại Ngài. Thiên Chúa đã không làm ngơ trước sự đau khổ và tội lỗi của con người, của loài người. Thiên Chúa đã hành xử thật tốt đẹp với con người, đối với từng người một. Chính vì sống trong một lịch sử, một thế giới tội lỗi mà Mẹ Maria đã cảm thông và hiểu được tình trạng của con người. Chính vì sống trong một thế giới u sầu vì phản bội mà Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu hoàn toàn giống như mọi người và đặc biệt ngoại trừ tội lỗi. Maria tên đẹp tuyệt vời gói ghém tất cả lịch sử loài người, Mẹ đã cảm thông với mọi yếu hèn, tội lỗi của nhân loại, của con người, nên Mẹ đã trở thành nơi nương tựa vững chắc của nhiều người.
Mừng lễ sinh nhật của Mẹ Maria, mãi mãi nhân loại sẽ không ngớt cùng Mẹ ca tụng Thiên Chúa: ”Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta luôn tôn kính, mến yêu Mẹ và những tràng hoa Mân Côi, những kinh nguyện chân thành dâng lên Mẹ, những đóa hoa tươi kính dâng Mẹ sẽ là những tâm tình đẹp chúng ta làm vui lòng Mẹ. Còn lời kinh nào đẹp bằng lời kinh kính mừng chúng ta dâng lên Mẹ: ”Kính mừng Maria đầy ân phước Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ và Giêsu Con lòng bà gồm phước lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: ”Lạy Mẹ, Mẹ Thiên chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”.
NGUỒN GỐC: Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, chúng ta thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (Gioan 5: 1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của Thánh Gioakim và Bà Thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra. Lễ kính Sinh Nhật Đức Maria có thể đã được mừng từ đầu thế kỷ thứ VI cùng với việc xây cất đền thờ gọi là Đền Sinh Nhật Đức Mẹ. Đền thờ này vào thế kỷ XII lại được đổi tên là Đền Thờ kính Bà Thánh Anna. Ngày nay, Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là “Lễ Kính” (có kinh Vinh Danh, có kinh Tiền Tụng riêng) trên toàn thể Giáo Hội.
Ý NGHĨA: Trong ngày Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, “chúng ta hãy hân hoan với tất cả tâm hồn, mừng kính việc sinh ra của Đức Trinh Nữ Maria, từ nơi Người đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Ca nhập Lễ).
Câu xướng trước Phúc Âm cũng ca tụng: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, Mẹ diễm phúc, Mẹ xứng đáng mọi lời ca tụng; vì từ nơi Mẹ đã xuất hiện Mặt Trời Công Chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” Theo Thánh Gioan Damascene, thì hôm nay chúng ta “muôn người như một, vui niềm vui của toàn thể nhân loại, ngày giao hoà của đất trời, ngày khởi đầu Ơn Cứu Độ nhân loại…”
Bài Đọc I trích trong sách tiên tri Mica (5: 1-4) nói đến thời một người nữ sẽ sinh ra… và cũng nói “hỡi Belem-Ephrata, ngươi là nơi thật nhỏ bé trong toàn cõi Giuđê, nhưng từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng Chăn Dắt Israel!” (Bài Đọc I cũng có thể lấy đoạn trích từ thơ Rôma (8: 28-30).
Bài Phúc Âm trích trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu (1: 1-16, 18-23) kể lại gia phả của Chúa Giêsu từ thời Abraham; đồng thời cũng kể lại việc Đức Maria chịu thai Chúa Giêsu (bởi quyền phép Chúa Thánh Thần), và việc Thánh Giuse vâng lời Sứ Thần truyền, rước Đức Maria về nhà như người vợ của mình.
SUY NIỆM: Ngày mừng Lễ Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria cũng là dịp để chúng ta nhớ đến ngày sinh ra của mỗi người chúng ta, để chúng ta nhìn vào cuộc đời của chính mình, tự nói với chính mình : “Tôi đã mừng sinh nhật thứ bao nhiêu? Tôi đã sinh ra đời được bao nhiêu năm? Tôi đã sống thế nào trong những năm tháng vừa qua như những người con của Chúa, của Mẹ Maria trong việc thánh hoá bản thân, trong việc phục vụ gia đình, xã hội và Giáo Hội Chúa? Tôi đã chu toàn thế nào bổn phận của người chồng, người vợ, của người Cha, người Mẹ, của những người con hiếu thảo? Tôi đã sống thế nào để xứng đáng là những người đã được Chúa yêu thương, gọi và chọn vào hàng Giáo Phẩm, vào đời sống tu trì như những Linh mục, Tu sĩ nam, nữ?
LỜI CẦU NGUYỆN: Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cùng nhau khiêm tốn dâng lời cầu nguyện, xin Chúa thương thánh hóa đời sống mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết noi gương đời sống của Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những Đấng đã luôn sống đẹp lòng Chúa, để chúng ta có thể sống một cuộc sống cao đẹp, biết quên mình, khiêm tốn phục vụ Chúa qua mọi người, nhất là những người đau khổ. Xin cho chúng ta luôn biết chung tay xây dựng gia đình, xã hội và thế giới, cũng như góp phần vào việc rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ hàng ngày trong cuộc sống.
Hôm nay mừng sinh nhật Đức Maria. Có thể nói: ngoài sinh nhật Chúa Giêsu, không có sinh nhật nào quan trọng, cần thiết và ích lợi cho nhân loại bằng sinh nhật của Đức Mẹ. Tuy nhiên, sinh nhật của Đức Maria chỉ diễn ra âm thầm. Về ngày sinh nhật của Đức Mẹ, kinh thánh không cho biết gì, Thánh truyền cũng không ghi lại gì cả, chỉ có một câu chuyện do một vị ẩn sĩ kể lại, được Thiên Chúa cho biết ngày 8 tháng 9 là ngày sinh nhật của Đức Mẹ. Có lẽ Giáo hội đã dựa vào câu chuyện này mà mừng sinh nhật Đức Mẹ vào ngày 8 tháng 9 chăng?
Về giáo lý và lòng tôn sùng đối với Đức Mẹ, lễ sinh nhật Đức Mẹ nhắc nhớ chúng ta hai điều. Thứ nhất, sinh nhật Đức Mẹ là rạng đông cứu rỗi. Chúng ta biết rạng đông đi trước mặt trời và báo hiệu mặt trời đến. Rạng đông là một khoảnh khắc tuyệt vời trước khi mặt trời mọc. Chúa Giêsu là mặt trời công chính, Mẹ Maria là rạng đông báo hiệu và đi trước mặt trời cao cả ấy; nghĩa là ròng rã bao nhiêu thế kỷ, nhân loại còn ở trong tối tăm, cho tới khi Đức Maria sinh ra, báo hiệu hừng dông cứu độ đã đến, báo hiệu ngày cứu chuộc sắp tới. Vì thế, trong kinh nguyện hôm nay, Giáo Hội nói lên rằng : “Lạy Nữ Vương, sinh nhật của Mẹ loan báo niềm vui cho toàn trái đất, vì mặt trời công chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, đã từ lòng mẹ sinh ra”. Do đó, chúng ta có thể nói : cũng như khúc nhạc dạo trước một bài hát, sinh nhật Đức Mẹ là dạo khúc của sinh nhật Chúa Giêsu.
Điều thứ hai nhắc nhở chúng ta hôm nay, là hãy sống khiêm nhường và âm thầm như Đức Mẹ. Chúng ta thấy, người đời tin rằng: mỗi khi có một thánh nhân ra đời, thường có những chuyện lạ, và người ta hay thêu dệt những chuyện ly kỳ chung quanh đời sống của một vĩ nhân anh hùng.
Thế nhưng, ngày sinh nhật của Đức Maria, một thánh nhân trên mọi thánh nhân, lại không có chuyện lạ nào xảy ra. Đức Mẹ sinh ra hoàn toàn âm thầm và bình thường như mọi người.
Vì thế, sinh nhật Đức Mẹ cũng như cuộc đời Đức Mẹ dạy chúng ta đức khiêm nhường và thầm lặng. Thánh lễ chúng ta mừng kính Mẹ hôm nay là lời mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, thầm lặng. Ai muốn là kẻ lớn trước mặt Thiên Chúa thì phải ở ẩn khuất trước mặt mọi người. Công việc thực hiện cho Thiên Chúa càng lớn nếu người ta càng làm trong thầm lặng. Đó là gương mẫu và là bài học khôn ngoan Đức Mẹ dạy chúng ta.
Viết về Mẹ, nói về Mẹ sẽ không bao giờ cạn vơi ý tưởng, sẽ không bao giờ ngập ngừng, miễn cưỡng. Mẹ trần thế là niềm an ủi cho cuộc đời của con người gian trần. Nhưng, người Kitô hữu luôn hãnh diện vì có một người Mẹ trên trời, Mẹ thiêng liêng mà gần gũi mỗi người, mỗi con người. Mẹ có tên gọi Maria. Cái tên sao êm dịu và dễ mến. Maria gói trọn cả ý nghĩa loài người. Mừng sinh nhật của mẹ Maria, nhân loại sẽ không ngớt lời ca ngợi Mẹ.
I.MARIA, NGƯỜI LÀ AI?
Maria thuộc dòng dõi vua Ðavít, cha của Người là thánh Gioakim, mẹ của Người là bà thánh Anna. Theo truyền thống kể lại, hai ông bà Gioakim và Anna đã già mà không có con. Với lời cầu nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nhậm lời hai ông bà, cho ông bà sinh ra Maria. Maria là người con duy nhất của thánh Gioakim và thánh Anna. Maria sinh ra và lớn lên tại làng Nagiarét, xứ Galilêa, thuộc mạn Bắc Palestina. Khi Maria đến tuổi thành hôn, thì kết hôn với Giuse thuộc chi họ vua Ðavít, làm nghề thợ mộc ở Nagiarét.
Chính trong thời kỳ đính hôn, sứ thần Gabrien thừa lệnh Thiên Chúa đến với Maria khi Maria đang trong phòng cầu nguyện. Thiên Thần loan báo cho Maria hay cô sẽ thụ thai và sinh ra Ðấng Cứu Thế. Dù đã đính hôn, nhưng Maria đã quyết dâng trọn cuộc đời cho Thiên Chúa, nên Maria rất bối rối vì cô không biết đến người nam. Trước lời giải thích của sứ thần Thiên Chúa rằng" Cô sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, nên sinh con, cô vẫn trọn đời đồng trinh". Tuy chưa hiểu hết,nhưng Maria đã thưa với sứ thần Gabrien: "Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin vâng như lời thiên thần truyền". Và chính lúc ấy, Ngôi Hai đã xuống đầu thai trong cung lòng Ðức trinh nữ Maria.
Maria là Mẹ Ðấng cứu thế, người đã sinh ra Chúa Giêsu.
II. SINH NHẬT CỦA ÐỨC TRINH NỮ MARIA CÓ Ý NGHĨA GÌ?
Dù Mẹ Maria được sinh ra trong một hoàn cảnh nghèo khó, tầm thường trước mặt người đời,trước mặt thế gian. Cuộc đời của Mẹ bao trùm bởi biết bao sự lạ. Maria đã được Thiên Chúa để ý, chọn lựa ngay từ trong cung lòng bà thánh Anna để sau này kết hôn với thánh Giuse, sinh ra Ðấng cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần, vẫn trọn đời đồng trinh và không bị người đời, xã hội nghi ngờ. Chính vì thế, ngày sinh ra của Ðức trinh nữ Maria là một ngày trọng đại, ngày vui mừng của toàn nhân loại, của thế giới, của lịch sử cứu độ. Hội Thánh đã cất vang lời chúc tụng Mẹ: "Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Ðức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng tôi ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu".
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong năm 1987 và năm 2002 khi về thăm quê hương Ba Lan của Ngài, thì cử chỉ đẹp nhất, đáng trân trọng nhất là việc Ngài viếng mộ song thân của Ngài. Viếng mộ song thân, Ðức Thánh Cha muốn gióng lên tiếng nói thâm sâu hãy hiếu thảo với cha mẹ, hãy bảo vệ gia đình. Có cha mẹ, mới có con cái. Thế cho nên, bảo vệ gia đình, làm cho gia đình hạnh phúc là điều Ðức Thánh Cha kêu gọi. Qua cử chỉ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mọi người Kitô hữu trên thế giới hãy tỏ lòng biết ơn cha mẹ, đấng sinh thành nên mình và hãy bảo vệ gia đình, vì gia đình là nền tảng của xã hội và là Giáo Hội nhỏ. Con cái là hoa quả của tình thương yêu của cha mẹ. Cây tốt sinh trái tốt. Maria là hoa quả đầu mùa và quí giá nhất của hai thánh Gioakim và Anna.
Ngày sinh của Mẹ Maria là niềm vui, hạnh phúc của toàn thể nhân loại, mặc cho nhân loại ý nghĩa cứu độ và hồng phúc.
Lạy Ðức trinh nữ Maria đầy ơn phước, xin cầu bầu cho chúng con trước toà Chúa, để chúng con luôn một niềm trung tín và cậy trông vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con luôn biết nói lời xin vâng làm theo ý Chúa.
Xin cho chúng con cùng với Mẹ hát bài Magnificat ngợi khen Thiên Chúa.
Ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ 8 tháng 9 năm 2006 vừa qua, Hội đồng Giám mục Việt Nam, sau khi họp Hội nghị thường niên tại Huế, đã công bố Thư mục vụ với đề tài : Sống đạo hôm nay. Thư mục vụ viết : “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em” (số 1). Chúng ta sẽ cùng nhau xem Đức Mẹ đã thực hành hai điểm đó thế nào và dạy chúng ta sống thế nào.
I. Gắn bó với Thiên Chúa
Đức Mẹ đã hết lòng gắn bó với Thiên Chúa, nghĩa là vâng theo ý Chúa Cha và sống với Chúa Giê-su.
1. Vâng theo ý Chúa Cha
a) Khi nghe thiên sứ truyền tin, báo cho Đức Mẹ là Đức Mẹ sẽ sinh ra Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đa-vít mà vẫn còn đồng trinh, Đức Mẹ đã bối rối. Nhưng khi được thiên sứ giải thích rằng đó là việc Thiên Chúa làm, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng phục và thưa : “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói” (Lu-ca 1,28-38). Từ đó, Đức Mẹ đã hoàn toàn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc đời, kể cả khi theo Con mình đến tận chân Thánh giá.
b) Chúng ta cũng phải noi gương Đức Mẹ để biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Như vậy chúng ta sẽ đáng được Chúa Giê-su khen là có phúc và nhận chúng ta là anh em của Chúa (Lu-ca 8,21; 11,28). Nhờ lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta đọc trong Kinh Thánh hoặc nghe đọc trong Phụng vụ, chúng ta sẽ có thể nhận ra ý Chúa muốn chúng ta làm gì trong mỗi hoàn cảnh của cuộc đời, và hoàn toàn vâng theo ý Chúa khi vui cũng như lúc buồn. Xưa trong tiệc cưới Ca-na, Đức Mẹ đã nói với các gia nhân : “Ông Giê-su bảo gì, các anh cứ làm theo” (Gio-an 2,5); nay Đức Mẹ cũng nói với chúng ta như vậy : “Đức Giê-su bảo gì, các con cứ làm theo.”
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã vâng theo ý Chúa khi nào? – Chúng ta nghe và tuân giữ Lời Chúa thế nào?
2. Sống với Chúa Giê-su
a) Từ khi thụ thai Chúa Giê-su trong lòng, Đức Mẹ đã luôn luôn gắn bó với Chúa Giê-su, sống với Chúa. Mọi suy nghĩ và việc làm của Đức Mẹ đều nhằm phục vụ người Con yêu quí, như sách Tin Mừng cho chúng ta thấy, nhất là trong cuộc đời thơ ấu của Chúa Giê-su : Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giê-su, đã dâng con trong đền thờ, đã đưa con trốn sang Ai-cập, đã ba ngày tìm con bị lạc trong đền thờ. Từ khi Chúa Giê-su ra giảng đạo, chúng ta ít thấy Đức Mẹ xuất hiện, có lẽ vì Đức Mẹ tôn trọng, không muốn gây cản trở cho hoạt động của Chúa Giê-su. Nhưng trong giờ hãi hùng nhất, là giờ Chúa Giê-su chịu thương khó, khi các môn đệ đã bỏ trốn hết, chỉ còn một mình ông Gio-an, thì chúng ta thấy Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá để cùng chịu đau khổ với Con (Gio-an 19,25-27).
b) Như vậy Đức Mẹ nêu gương cho chúng ta. Nhờ bí tích thánh tẩy, chúng ta đã trở nên một thân thể mầu nhiệm với Chúa Giê-su và được sống sự sống thần linh Chúa ban. Vì thế mỗi người chúng ta cũng có thể nói như thánh Phao-lô : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Ga-lát 2,20). Chúng ta cần ý thức điều đó để nhớ rằng : Có Chúa Giê-su luôn luôn ở với ta trong mọi giây phút cuộc đời, Chúa không bao giờ bỏ ta. Vì thế ta luôn sống với Chúa và có thể cầu nguyện với Chúa mọi nơi mọi lúc. Đặc biệt trong những giờ phút gặp khó khăn, đau khổ, ta biết rằng Chúa luôn ở bên ta, để ban ơn giúp sức cho ta vượt qua thử thách.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã sống với Chúa Giê-su thế nào? – Chúng ta phải sống với Chúa Giê-su thế nào?
II. Đến với anh chị em
Đức Mẹ luôn gắn bó và sống với Chúa, nhưng vẫn sinh hoạt như bao người khác khi sống trong gia đình Na-da-rét, đồng thời để ý đem Chúa đến cho người khác.
1. Sống đời sống gia đình
a) Thánh Gia Chúa Giê-su, Đức Mẹ và Thánh Giu-se là một gia đình không như những gia đình khác. Thế nhưng tại Na-da-rét Thánh gia đã sinh hoạt bình thường như những người khác. Đức Mẹ là một người nội trợ; Thánh Giu-se là một người thợ, lao động để nuôi sống gia đình, và cũng đã truyền nghề lại cho con, nên Chúa Giê-su khi ra giảng đạo cũng được gọi là “bác thợ” (Mác-cô 6,3), “con của bác thợ” (Mát-thêu 13,55). Thánh Gia không sống xa cách với người khác, nên ai ai cũng biết (Gio-an 6,42). Đặc biệt, Thánh Gia chú trọng đến việc giữ đạo như lề luật Chúa dạy : khi sinh con được tám ngày thì làm phép cắt bì (Lu-ca 2,21); đến thời gian luật định thì đem con lên đền thờ để tiến dâng con cho Chúa và dâng lễ vật (2,22-24); khi trẻ Giê-su được mười hai tuổi thì cả gia đình đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem nhân lễ Vượt Qua (2,41-42). Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật, nhưng cũng là người thật, nên chắc hẳn Thánh Giu-se và Đức Mẹ đã có vai trò quan trọng trong việc giáo dục Chúa Giê-su về mặt nhân bản và đạo đức (x. Lu-ca 2,51).
b) Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ để sống với Chúa trong đời sống gia đình và trong những liên lạc với người khác. Ngày nay có nhiều ảnh hưởng bên ngoài có thể gây nguy hại cho sự đoàn kết trong gia đình cũng như cho việc giáo dục con cái. Noi gương Thánh Gia, mỗi gia đình công giáo phải luôn luôn đặt ý Chúa trên hết, và như vậy giữ vững được tình yêu giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa anh em chị em, đồng thời giáo dục con cái nên những con người tốt trong xã hội, những tín hữu tốt trong Giáo Hội.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Tại Na-da-rét Đức Mẹ đã sống đời sống gia đình thế nào? – Mỗi gia đình chúng ta phải sống thế nào?
2. Đem Chúa Giê-su đến cho người khác
a) Đức Mẹ có Chúa Giê-su nhưng không ích kỷ giữ riêng cho mình, mà Đức Mẹ đem Chúa đến cho người khác. Như khi thiên sứ truyền tin đã cho Đức Mẹ biết là bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng, tuy già rồi mà đã có thai con đầu lòng, thì lập tức Đức Mẹ đi đến miền núi xa xôi để thăm bà, chia vui với bà; Đức Mẹ cũng đem Chúa Giê-su khi đó còn đang ở trong lòng Đức Mẹ đến cho bà, khiến cho người con ở trong lòng bà đã nhảy lên vì vui sướng (Lu-ca 1,36-44). Rồi khi Chúa Giê-su sinh ra, Đức Mẹ cũng đưa Chúa ra cho các người chăn chiên và các nhà chiêm tinh bái lạy (Lu-ca 2,16; Mát-thêu 2,11). Sau khi Chúa Giê-su lên trời, chúng ta thấy Đức Mẹ cùng cầu nguyện với các tông đồ và một số người khác để trông đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống như Chúa Giê-su đã hứa (Công vụ 1,13-14). Đây là lần cuối cùng Tân Ước nhắc đến “thân mẫu Đức Giê-su” : vào lúc Hội Thánh khởi đầu, Đức Mẹ có mặt, và chắc Đức Mẹ cũng đồng hành cách thiêng liêng với các tông đồ trong những bước đường truyền giáo, để cũng như Đức Mẹ, các ông đem Chúa Giê-su đến cho thế giới. Vì thế Hội Thánh quen kêu cầu Đức Mẹ là “Nữ Vương các thánh tông đồ”.
b) Đức Mẹ cũng là người hướng dẫn và đồng hành với chúng ta, để chúng ta ra đi đem Chúa Giê-su đến cho người khác. Ngày nay trên thế giới, và ngay bên cạnh chúng ta, vẫn còn vô số người chưa biết Chúa Giê-su. Chúng ta phải là những tông đồ làm chứng cho Chúa, đem Tin Mừng của Chúa đến cho họ. Khi mỗi người chúng ta làm ăn lương thiện, biết để ý đến người khác và giúp đỡ những người thiếu thốn, những người đau khổ về thể xác cũng như về tinh thần, khi mỗi gia đình chúng ta sống hoà thuận yêu thương nhau và cởi mở với những người xung quanh, là chúng ta làm chứng cho Chúa và làm cho Chúa hiện diện trong xã hội. Đặc biệt trong một thế giới đầy bóc lột, hận thù, khủng bố, người tín hữu phải làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Câu hỏi để suy nghĩ và trao đổi :
– Đức Mẹ đã đem Chúa đến cho người khác khi nào? – Ngày nay chúng ta làm chứng cho Chúa cách nào?
Bài này có lẽ hơi dài. Chúng ta (cá nhân, gia đình, nhóm nhỏ, giáo xứ) có thể đọc mỗi lần một phần, suy nghĩ, cầu nguyện, rồi trao đổi, tìm cách áp dụng cho đời sống.
Xin Đức Mẹ soi sáng cho chúng ta hiểu hơn Đức Mẹ đã sống đạo thế nào, và xin Đức Mẹ giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ sống đạo hôm nay trong lòng xã hội Việt Nam. Như vậy chúng ta sẽ thực hiện như Thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam mong ước, là “làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần xây dựng hạnh phúc cho mọi người” (số 11).
Sau khi tìm hiểu lịch sử lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cũng đã tìm hiểu lịch sử và chỗ đứng của Kinh Mân Côi trong cuộc sống Kitô hữu, đặc biệt là trong cuộc đời các Thánh. Tiếp tục trình bầy các lễ còn lại về Đức Mẹ, hôm nay chúng ta tìm hiểu lễ Sinh Nhật Đức Maria.
Liên quan tới biến cố Đức Maria sinh ra Đức Hồng Y Ildefonso Schuster, Tổng Giám Mục Milano, đã viết một trong những trang ý nghĩa như sau: “Như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, cũng thế Đức Maria tất cả rạng ngời sự sống và sự vô tội, sáng chói và vô nhiễm, bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu, là Đấng do công trình của Chúa Thánh Thần, như phụng vụ dậy chúng ta, muốn chính Người nhào nặn thân thể và linh hồn ấy một ngày kia phải dùng làm nhà tạm và đền thờ cho Người. Mẹ là bình minh loan báo ngày đã mọc lên đàng sau các ngọn đồi vĩnh cửu; Mẹ là chồi thần bí nảy sinh từ gốc Giêssê đáng kinh; Mẹ là con sông mới vọt ra từ thiên đàng và sắp tưới gội toàn thế giới; Mẹ là tấm khăn biểu tượng được trải trên mặt đất để đón sương điềm lạ; Mẹ là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống, mà trong ngày này sinh ra cho những kẻ đã có Evà như là mẹ của tội lỗi và của cái chết” (I. Schuster, Liber sacramentorum, Marietti, Torino. Edd. divv. VIII, in fine).
Đức Maria là “ngôi sao báo trước mặt trời và là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể”. Biến cố Đức Maria sinh ra được diễn tả một cách tổng kết trong điệp ca Benedictus Kinh Thần vụ của ngày lễ: “Việc Mẹ sinh ra, hỡi Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, đã báo trước niềm vui cho toàn thế giới: từ Mẹ đã sinh ra mặt trời công chính, là Chúa Kitô Chúa chúng con: Người đã cất án phạt và đã đem tới ân sủng, đã chiến thắng cái chết và ban lại cho chúng ta sự sống”.
Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là một thời sự gây kinh ngạc, bởi vì nó trực tiếp gắn liền với đề tài Chúa Kitô ánh sáng, là một đề tài rất cổ xưa (Giustino, Apl., I,57) và đã được phát triển sau đó, đặc biệt bởi các giáo phụ thuộc thế kỷ thứ IV. Và nó đã được đào sâu trong các tuần lễ phụng vụ quốc gia. Chẳng hạn tuần lễ phụng vụ tại Pescara, trung Italia năm 1977, về đề tài “Chúa nhật ngày của Chúa và Chúa của các ngày”. Kết qủa nó là một đề tài tu đức cũng như đề tài mục vụ, bởi vì nó gắn liền mật thiết với đề tài phục sinh. Hoc giả J. A. Jungmann so sánh cuộc sống của Kitô hữu, coi phục sinh như biến cố của qúa khứ, với một loại hiện hữu khó hiểu, trong đó các thực tại Kitô như bị che kín bởi một làn sương dầy đặc. Trái lại, cuộc sống của Kitô hữu đặt để mầu nhiệm phục sinh vào trung tâm sự hiện hữu của mình, học giả Jungmann so sánh nó với “một cuộc tạo dựng mới, bị xâm chiếm bởi ánh sáng rạng ngời của buổi sáng ngày phục sinh.
Trong phụng vụ lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ liên tục được đặt để trong tương quan với ánh sáng: nếu Chúa Kitô là “mặt trời công chính”, thì Mẹ Maria là bình minh, là ngôi sao báo trước mặt trời, là điểm khởi hành, là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể.
Lịch sử cứu độ có một “dẫn nhập” và đẫn nhập đó có tên là Maria: lời nguyện thánh lễ Sinh Nhật Đức Mẹ nói rõ điều đó: “Chức làm mẹ của Đức Trinh Nữ ghi dấu khởi đầu ơn cửu rỗi của chúng con”.
Chính ý niệm này về Đức Maria như là khởi đầu ơn cứu độ của chúng ta đã khiến cho dân chúng đốt các đống lửa lớn trong đêm ngày mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 9, chẳng hạn như tại đền thánh Đức Mẹ Loreto ở miền trung Italia, để soi sáng các đường phố và quảng trưởng, hầu diễn tả niềm tin yêu của tín hữu đối với Mẹ Maria Ngôi Sao báo trước Mặt Trời, như ở Mitello Val di Catania, nơi có đền thánh kính Đức Bà Ngôi Sao.
Thế chúng ta có các dữ kiện lịch sử và thần học nào chứng minh cho ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ không? Cần phải nói ngay rằng khác với trường hợp của ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử Luca kể lại trong Phúc Âm chương 1,57-66, sách Phúc âm không cho chúng ta biết gì về ngày sinh của Đức Mẹ.
Tài liệu đầu tiên kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria là mạo thư “Phúc Âm của thánh Giacôbê”, cho biết Đức Maria sinh ra tại Giêrusalem, tại nơi, trên đó trong các năm 400 tới 600 người ta nói tới một vương cung thánh đường dâng kính Đức Mẹ gần hồ tắm Bếdatha có năm hành lang trong thành cổ, ở mạn bắc Đền Thờ Giêrusalem. Sau năm 603 Đức Thượng Phụ Sofronio khẳng định rằng đây là nơi Đức Mẹ đã sinh ra. Sau đó ngành khảo cổ đã xác nhận truyền thống này. Vương cung thanh đường được xây trên ngôi nhà của hai ông bà Gioakim và Anna, thân phụ và thân mẫu của Đức Mẹ, và là nơi Đức Trinh Nữ đã chào đời.
Lễ sinh Nhật Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria đã bắt đầu bên Đông Phương, và chắc hẳn là tại Giêrusalem vào thế kỷ thứ V, nơi lưu giữ truyền thống sống động tin rằng có căn nhà nơi Đức Maria đã chào đời. Ngày lễ hẳn đã nảy sinh từ việc thánh hiến một nhà thờ cho Đức Maria gần hồ Bếdatha có năm hành lang, để kỷ niệm biến cố này. Và các truyền thống này gắn liền với đền thánh hiện nay kính thánh Anna, thân mẫu Đức Maria.
Tại sao lại mừng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ vào ngày mùng 8 tháng 9? Lễ này được cử hành vào ngày mùng 8 tháng 9 chắc hẳn bởi vì Mẹ Maria giữ nhiệm vụ là khởi đầu công trình cửu độ, vì thế thật là thích hợp cử hành sinh nhật của Mẹ vào đầu năm của Giáo Hội theo tác phẩm Monologium Basilianum. Có một chuyện mạo thư tựa đề “De ortu Virginis” Về ngôi vườn của Đức Trinh Nữ, cho rằng thánh Anna thân mẫu Đức Maria thụ thai vào đầu tháng 5 và chỉ sau bốn tháng mang thai đã cho con chào đời.
Tài liệu đầu tiên về lễ sinh nhật Đức Mẹ xem ra là một bài thánh thi của Romano il Melode, là người chuyên chép thánh thi giữa các năm 536-566. Thánh thi kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ theo Phúc Âm thánh Giacôbê, và đề cập đến sự kiện ngày lễ được cử hành long trọng. Bên Đông phương lễ này mau chóng có tầm quan trọng lớn. Năm 701 Đức Giám Mục đảo Creta đã viết bốn bài giảng về lễ này (PG 97, 1046-1110).
Bên Tây phương lễ sinh nhật Đức Mẹ được du nhập vào hồi thế kỷ thứ VII. Bên Pháp chúng ta thấy lễ được nói đến trong lịch của Sonnatius là Giám Mục thành Reims giữa các năm 614-631. Tại Roma tác phẩm Sacramentario gelasiano (II, 54; ed. Mohlberg, nn. 1016-1019), ghi lại ba lời nguyện của thánh lễ. Tác phẩm Liber pontificalis (ed. Duchesne, I,376), thuộc hậu bán thế kỷ thứ VII, coi nó như đã có, và kể lại rằng Đức Giáo Hoàng Sergio I người Siro-siciliano, cai trị Giáo Hội giữa các năm 687-70i, muốn rằng lễ được cử hành với một cuộc rước kiệu đi từ nhà thờ thánh Adriano cho tới đền thờ Đức Bà Cả, y như cho các lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, lễ Truyền Tin và lễ Đức Mẹ ngủ.
Từ thế kỷ thứ XI lễ sinh nhật Đức Mẹ ngày càng có tầm quan trọng hơn nữa, đến độ có tuần bát nhật đi trước. Đây là điều đã được Đức Giáo Hoàng Innnocenzo IV thiết định năm 1243 theo sau một lời khấn hứa do các Hồng Y đưa ra trong Mật nghị Hồng Y đoàn năm 1241, khi các Hồng Y bị hoàng đế Federico II giam giữ trong vòng ba tháng trời. Năm 1378 Đức Giáo Hoàng Gregorio XI thiết định buổi canh thức vào hôm trước, sau này chính Đức Giáo Hoàng cử hành lễ trọng thể.
Song song trong lãnh vực nghệ thuật người ta cũng thường thấy có hàng loạt các bức khảm đá mầu diễn tả sinh nhật Đức Mẹ. Điển hình như loạt bức khảm đá mầu rất đẹp do ông Pietro Cavallini vẽ mẫu cho vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere ở Roma trong hai thế kỷ XIII-XIV, rồi bức tranh nổi tiếng “sinh nhật Đức Maria”, của vị thầy chuyên thực hiện các bức tranh về cuộc đời Đức Mẹ khoảng năm 1460, được giữ trong viện bảo tàng tranh ảnh ở Monaco.
Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đã được thiết định vào ngày mùng 8 tháng 9 trước thời Đức Giáo Hoàng Sergio I đã không bị điều kiện hóa bởi lễ trọng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12. Vì ý niệm về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội đã chỉ có mãi sau này. Nhưng chính lễ sinh nhật Đức Mẹ lại điều kiện hóa lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12.
Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ là lễ của sư tràn đầy và vơi nhẹ, vì nó được mừng bắt đầu vào mùa thu, nghĩa là sau cái nóng bức của mùa hè, khi khí hậu mát mẻ và dễ chịu hơn, và khi nho và nhiều thứ trái cây khác bắt đầu chín mọng. Do đó lễ Sinh Nhật Đức Mẹ diễn tả hai ý niệm rất đẹp: thứ nhất là ý niệm về sự “tràn đầy viên mãn của thời gian” và ý niệm sự vơi nhẹ mà Mẹ Maria đếm đến cho loài người. Là thụ tạo tuyệt vời được Thiên Chúa tuyển chọn từ đời đời để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế biến cố Đức Maria chào đời mở màn cho việc thực hiện công trình cứu cuộc của Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolo diễn tả thời điểm quan trọng biến cố Chúa Giêsu Kitô nhập thể như sau: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4). Nhưng trước khi Chúa Cứu Thế có thể sinh ra, đã phải có ngày Mẹ của Người là Đức Trinh Nữ Maria chào đời, đã phải có ngày Sinh Nhật của Mẹ. Vì vậy có thể nói thời gian viên mãn ấy đã bắt đầu với biến cố Đức Maria chào đời. Mẹ vào đời để bắt đầu hiện thực chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Mẹ là nước mát từ Trời đổ xuống trên trái đất khô cằn nứt nẻ vì tội lỗi của loài người, để cùng Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ lại biến nó trở thành vườn địa đàng, nơi ngày ngày Thiên Chúa gặp gỡ và chuyện vãn thân tình với con người.
Giáo Hội mừng kính ngày sinh nhật Ðức Maria từ thế kỷ thứ sáu. Ngày sinh nhật được chọn trong tháng Chín vì Giáo Hội Ðông Phương bắt đầu niên lịch phụng vụ từ tháng Chín. Ngày mùng tám là vì lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội là ngày 8 tháng Mười Hai (chín tháng trước).
Kinh Thánh không đề cập gì đến việc sinh hạ Ðức Maria. Tuy nhiên, bản văn mà người ta cho là phúc âm nguyên thủy của Thánh Giacôbê có đề cập đến sự kiện này. Bản văn này không có giá trị lịch sử, nhưng nó cho thấy quá trình sùng đạo của Kitô Hữu. Theo bản văn, bà Anna và ông Gioankim vì hiếm muộn nên cầu xin cho được một đứa con. Họ được hứa cho một người con mà trẻ này sẽ giúp hình thành kế hoạch cứu chuộc trần gian của Thiên Chúa. Câu truyện trên (cũng như nhiều câu truyện khác trong phúc âm) cho thấy sự hiện diện quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời Ðức Maria ngay từ đầu.
Thánh Augustine nối kết việc sinh hạ của Ðức Maria với công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thánh nhân nói trái đất hãy vui mừng và bừng sáng vì việc sinh hạ Ðức Maria. "Ngài là bông hoa trong cánh đồng mà từ đó đã nẩy sinh hoa huệ quý nhất vùng châu thổ. Qua sự sinh hạ của ngài, bản chất mà chúng ta thừa hưởng từ cha mẹ đã thay đổi."
Lời Bàn
Chúng ta có thể xem việc sinh hạ của mỗi một người là lời mời gọi đem hy vọng đến cho thế gian. Qua tình yêu, hai cha mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo. Họ có thể đem lại hy vọng cho một thế giới lao nhọc. Vì mỗi một đứa con đều có thể trở nên máng chuyển tình yêu và bình an của Thiên Chúa đến cho thế giới.
Ðiều này thật đúng với Ðức Maria. Nếu Ðức Giêsu là sự biểu lộ tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa thì Ðức Maria là điềm báo của tình yêu ấy. Nếu Ðức Giêsu đã hoàn tất công trình cứu chuộc thì Ðức Maria là bình minh hé mở của công trình ấy.
Việc mừng sinh nhật đem lại niềm vui cho chính cá nhân cũng như gia đình, bạn hữu. Ngoài việc giáng trần của Ðức Giêsu, việc sinh hạ Ðức Maria đã đem lại niềm vui lớn lao nhất cho nhân trần. Mỗi khi chúng ta cử mừng sinh nhật của ngài, chúng ta có thể hy vọng chắc chắn là sự bình an trong tâm hồn chúng ta và trong thế giới sẽ gia tăng.
Lời Trích
"Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse" (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).
Phụng Vụ trong Hội Thánh chỉ có hai lễ Sinh Nhật của người được Chúa cứu độ: thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Ma-ri-a, còn các thánh khác, ngày Sinh Nhật được mừng khi các ngài mãn cuộc đời về với Chúa (xem Lời Nguyện Đầu Lễ của Các Thánh).
Lý do có lễ Sinh Nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vì trong loài người, chỉ có ông Gioan lúc tượng thai cho đến chết có những điểm song đối với Đức Giê-su nhằm dọn đường cho người ta đón nhận Đấng Cứu Thế; còn lễ Sinh Nhật của Đức Ma-ri-a chỉ vì Mẹ đã sinh Chúa Giê-su. Từ thuở đời đời Chúa đã nhắm mời Đức Ma-ri-a cộng tác với Ngài thực hiện chương trình cứu độ loài người, bởi đó, sứ mệnh của Đức Ma-ri-a là :
- Mẹ thực hiện lời tiên báo Đấng Cứu Thế sinh tại Bê-lem. - Con Mẹ thuộc dòng dõi vua Đavid. - Con Mẹ đến xóa bỏ giai cấp. - Mẹ là Trinh Nữ báo trước Hội Thánh là Hiền Thê Chúa Ki-tô. - Mẹ là mẫu gương cho loài người biết nghe Lời Chúa.
1/ MẸ THỰC HIỆN LỜI TIÊN BÁO ĐẤNG CỨU THẾ SINH TẠI BÊ-LEM.
Qua lời ngôn sứ Mikha: “Phần ngươi hỡi Bê-lêm Ep-ra-tha, ngươi nhỏ nhất trong các chi tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mệnh thống lãnh Israel, nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa, vì thế Đức Chúa sẽ không bỏ mặc Israel cho đến thời Đẻ sinh con (bản dịch NTT: là Đức Ma-ri-a, là Hội Thánh)…Người sẽ đưa vào quyền lực Đức Chúa mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng đến toàn cõi đất. Chính Người sẽ đem lại hòa bình” (Mk 5,1-4a: Bài đọc).
Vậy nhờ Chúa Giê-su, Con Đức Ma-ri-a nâng kẻ bé nhỏ lên hàng khanh tướng.
2/ CON MẸ THUỘC DÒNG DÕI VUA ĐAVID.
Đavid thuộc gốc tổ Giacop, chi họ Giuđa, là người đã được Giacop chúc phúc vì ông Giu-đa có công ngăn cản anh em không được giết Giuse, ông bày mưu để anh em bán Giuse cho người Ai-Cập với hy vọng Giuse thoát chết, bời vì các anh em ông đã quyết định giết em Giuse (x St 37,26-27). Chúa đã dùng miệng các ngôn sứ hứa cho nhà Israel một vị vua – Đấng Mêsia – là hiện thân vua Đavid. Đó là vị vua tài đức nhất trong các vua của Israel (x 2Sm 7,12; Ed 37,24-35; Is 44,28).
Để minh chứng Đức Giê-su thuộc dòng vua Đavid đến thực hiện lời hứa cứu độ, ông Mat-thêu mở đầu Tin Mừng giới thiệu Đức Giê-su là Con vua Đavid (x Mt 1,1: Tin Mừng), và kết thúc Tin Mừng, ông khéo léo nhấn mạnh vai trò quan trọng của vua Đavid mới là Đức Giê-su: Đó là lý do ba lần ông Mattheu nhắc đến tên Đavid bằng cách chơi chữ: 14 đời. 14 đời là tổng số 3 phụ âm của tên Đavid: DaWiD (D = 4; W = 6), như thế tên của Đavid viết bằng số là: 4a6i4 = 14 (x Mt 1,17: Tin Mừng).
Vậy những gì Chúa đã hứa cho chúng ta, không bao giờ Ngài quên thực hiện, như Lời Ngài đã nói: “Trời đất qua đi, nhưng Lời tôi nói không bao giờ qua” (Mt 24,35).
3/ CON ĐỨC MARIA ĐẾN XÓA BỎ GIAI CẤP.
Người Do-thái khinh dể phụ nữ, đến nỗi họ tưởng nghĩ phụ nữ là loài không có linh hồn, cho nên truyền thống của Do-thái khi viết gia phả của ai, không bao giờ người ta đưa tên phụ nữ vào danh sách đó. Thế mà ông Mat-thêu một người Do-thái, viết Tin Mừng cho người Do-thái, khi ông đề cập đến gia phả của Đức Giê-su, thì ông đã xé truyền thống Do-thái: tự đưa vào gia phả Đức Giê-su năm tên người phụ nữ: Bà Thamar, bà Rahab, bà Rut, bà Bat Shêba là vợ tướng Uria, và bà Maria là Mẹ Đức Giê-su (x Mt 1,3.5.6.16). Vậy sống tâm tình con cái Thiên Chúa, không ai được khinh dể người khác. Thánh Phao-lô nói: “Trong Chúa không nam thì cũng chẳng có nữ, không nữ thì cũng chẳng có nam” (1Cr 11,11).
4/ MẸ LÀ TRINH NỮ BÁO TRƯỚC HỘI THÁNH LÀ HIỀN THÊ CHÚA KI-TÔ.
Ta biết truyền thống Do-thái thời Cựu Ước không mong Đấng Cứu Thế sinh ra bởi một trinh nữ. Đối với họ, “trinh” là một sự tủi nhục, như con gái ông Giép-tê than khóc suốt hai tháng vì cô còn trinh, không xứng đáng để cha sát tế làm hiến vật tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cha cô thắng quân thù! (x Tp 11, 29-40).
Thực ra, lời ngôn sứ I-sai-a (7,14) theo nguyên bản bằng tiếng Hipri chỉ nói người nữ ấy là “Almah” có nghĩa là cô vợ trẻ hay một thiếu nữ (không xác định là còn hay mất trinh); nhưng Bản 70, viết bằng tiếng Hy-lạp lại xác định người nữ ấy là “Parthenos” (trinh nữ). Đức Giê-su và các Tông Đồ dùng bản văn này để giảng dạy, và sau này thánh Giê-rô-ni-mô dịch bản văn này sang tiếng Latinh, ông cũng xác định là Trinh Nữ như bản 70, bản này được Hội Thánh dùng trong Phụng Vụ.
Vậy đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a báo trước Hội Thánh là một Trinh Nữ, Hiền Thê của Chúa Ki-tô (x Mt 25,1t; Ga 3,29; 2 Cr 11,2).
5/ MẸ LÀ MẪU CHO LOÀI NGƯỜI BIẾT NGHE LỜI CHÚA.
Ta biết, Đức Mẹ được truyền tin sinh Con Thiên Chúa trong một hoàn cảnh éo le, vì lúc ấy Mẹ đã đính hôn với ông Giuse, tuy chưa về chung sống một nhà, nhưng đã là vợ chồng chính thức trước pháp luật. Theo sách Ngụy kinh kể lại cho chúng ta: Cô Maria rất xinh đẹp và đầy nhân đức, cho nên chàng trai nào cũng muốn lấy làm vợ, vì quá đông các chàng theo đuổi, nên họ xin với vị thượng tế cầu nguyện, và chàng nào cũng mong mình trúng số lấy được cô Maria. Vị thượng tế có sáng kiến, bảo các chàng trai mỗi người cầm cây gậy và cùng đến cầu nguyện, gậy cậu nào nở bông là ý Trời muốn cậu đó se duyên với cô Maria. Thật là may mắn cho Giuse, gậy của ông đã nở hoa huệ. Cũng vì lý do đó mà hôm nay các tượng thánh Giuse, người ta thấy ngài cầm bông huệ. Thế mà khi Thiên thần báo tin cho Đức Ma-ri-a thụ thai, thì Thiên thần lại nói Mẹ Maria là một trinh nữ, có nghĩa là Maria không trở thành vợ của ông Giuse như những người phụ nữ khác có đời sống lứa đôi! Điều ấy có trái với định mệnh cho ông Giuse và Maria lấy nhau hay không? Vì gậy của ông đã được Chúa cho nở bông? Và như vậy Đức Ma-ri-a cũng đã xác định rằng: mình là vợ chính thức của Giuse, vì đã được tiền định, bây giờ không ăn ở với ông Giuse mà lại mang bầu, thì biết ăn nói thế nào với xã hội, và dù có tâm sự với Giuse, thì liệu ông có tin hay không? Chính ông Giuse khi biết Maria có thai, ông “đã định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (x Mt 1,18t: Tin Mừng).
Vậy Mẹ Maria vâng nghe Lời Chúa để sinh Con Đấng Tối Cao vào đời, đối với Mẹ là một đau khổ hơn là vinh dự, bởi vì Mẹ phải đối phó với bao nghịch cảnh luật Do Thái thời bấy giờ.
Đặc biệt hơn nữa là khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su, tất cả lời Thiên Chúa hứa trong ngày Truyền Tin: “Con Bà là Con Đấng Tối Cao, Ngài sẽ làm Vua, triều đại của Ngài vô cùng tận” (Lc 1,32-33), và “Bà là người có phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42). Chắc chắn những lời ấy đâm tim Mẹ Maria khi Mẹ đứng nhìn Con bị treo trên thập giá (x Ga 19,25). Cứ như suy nghĩ của người đời thì Thiên Chúa đã dối gạt Mẹ Maria, thế mà Mẹ vẫn vững tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, Mẹ đứng nhìn Con như một dũng tướng giữa chiến trường, Mẹ đứng lèo lái con thuyền Hội Thánh đang gặp sóng gió của niềm tin kinh hoàng nhất!
Bởi vậy Mẹ Maria là mẫu cho những người biết nghe Lời Chúa hầu được cứu độ, Mẹ là hình ảnh Hội Thánh viên mãn trong ngày cánh chung. Nhờ Con Thiên Chúa làm người, Ngài đến thực hiện những lời chúc phúc cho dòng giống của ông Abraham, mà trong gia phả Đức Giê-su, tác giả Mat-thêu đã ghi nhận, để Ngài làm cho chúng ta trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, cùng một xương thịt, cùng một sự sống, cùng vinh hiển trong Chúa Giê-su, Con Đức Ma-ri-a (x Dt 2,11; Ga 6,57; Gl 2,20; 2Tm 2,10).
Thánh An-rê, Giám mục Cơ-rê-ta nói: “Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đem lại cho chúng ta hai mối lợi: Một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta khỏi làm tôi và sống theo nghĩa đen của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và lý do gì? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ. Lễ hôm nay là mốc phân ranh giới giữa hai điều đó, vì lễ này nối kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ”
Vì vậy, những người được Chúa cứu độ trong niềm hân hoan tạ ơn nói: “Tôi mừng rỡ muôn phần vì Đức Chúa” (Is 61,10: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Đức Ma-ri-a nói với loài người một lời duy nhất: “Giê-su bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5)
Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các ông chưa đọc điều Đavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi”. Và Người bảo họ rằng: “Con Người làm chủ cả ngày Sabbat”.
“Tại sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” “Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay?” “Tại sao môn đệ ông không chịu rửa tay khi dùng bữa?” Mấy người Pharisêu có vẻ thích đặt những câu hỏi tại sao. Và trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại đặt một câu hỏi nữa: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát?” Câu chuyện đơn giản như sau. Thầy Giêsu và các trò đi ngang qua một cánh đồng lúa chín. Các môn đệ đói nên bứt những bông lúa, vò trong tay cho vỏ tróc ra mà ăn. Hành vi này được phép làm, dựa theo sách Đệ nhị luật (23, 26). Nhưng vì đó là ngày sa-bát, nên lại không được phép làm. Thật ra sách Xuất hành chỉ cấm gặt lúa vào ngày sa-bát thôi (34, 21). Nhưng truyền thống đã dựng thêm một hàng rào bảo vệ, bằng cách coi bứt lúa cũng là một hình thức gặt lúa. Bởi thế các môn đệ bị coi là đã vi phạm luật giữ ngày sa-bát. Thầy Giêsu lại một lần nữa bênh vực học trò của mình. Ngài bắt đầu câu trả lời bằng việc đưa các ông Pharisêu về với Kinh Thánh. Chẳng lẽ những người trí thức như họ mà đã không đọc chuyện này rồi sao. Đó là chuyện vua Đa-vít và thuộc hạ đói bụng, đã được ăn “bánh thánh”, khi họ đến đền thờ Nốp, gặp tư tế Akhimêléc (1 Sm 21, 2-7). Vị tư tế này đã cho họ ăn thứ bánh đặt trước nhan Đức Chúa (Xh 25, 30) mà chỉ tư tế mới được phép ăn (c. 4; Lv 24, 9), khi 12 bánh cũ của tuần trước được thay bằng bánh mới vào ngày sa-bát. Akhimêléc đã làm điều không được phép, vì bánh thường không còn. Đứng trước cơn đói của Đavít, ông đã không quay đi vì nệ luật. Đức Giêsu dùng câu chuyện này để bênh các môn đệ đang đói của Ngài, dù nó không liên quan gì đến chuyện giữ ngày sabát. Như tư tế Akhimêléc, Ngài cũng không quay đi vì nệ luật. Hơn nữa, Ngài khẳng định mình là chủ ngày sa-bát (c. 5). Đức Giêsu không dẹp bỏ ngày sa-bát, nhưng đặt nó ở dưới quyền của Ngài. Chính Ngài cho ta biết cách giữ ngày sa-bát theo đúng ý Thiên Chúa. Tội nghiệp các môn đệ bị đói, vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Thầy Giêsu. Họ chấp nhận bữa đói bữa no với một vị Thầy lang thang đây đó, sống hoàn toàn nhờ lòng tốt của người nghe. Mấy bông lúa có là gì để tránh cái cồn cào trong ruột. Thầy Giêsu đã từng nếm cái đói, và thèm một trái vả (Mc 11, 13). Thầy đã từng khát và xin nước của người phụ nữ (Ga 4, 7). Bởi đó Thầy hiểu được cái đói khát hành hạ con người mọi thời. Mọi luật lệ được đặt ra để phục vụ con người và thăng tiến nó. Đôi khi chúng ta phải nhìn lại những luật đã quen giữ từ lâu để điều chỉnh lại cho phù hợp với những nhu cầu mới của con người. Làm sao để luật không đè bẹp, nhưng nâng đỡ con người sống tốt hơn? Làm sao để khi áp dụng luật, tôi vẫn giữ được sự mềm mại của tình yêu? Cầu nguyện
Lạy Chúa, con được no nê mà vẫn thiếu ăn, vì bên con còn có người đói lã Con uống nước mát mà lòng vẫn khô ran vì bên con còn có người đang khát Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi vì bên con còn có người phiền muộn. Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm vì bên con còn có người mù tối Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi. vì bên con còn có người trần trụi Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức, vì bên con còn có bao nhiêu người thiếu thốn. (Myrtle Householder) Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J. ----------------------------------
Phục vụ Tin Mừng là nhiệm vụ cao quí. Tin Mừng giúp phát triển bản thân và thế giới. Nhưng việc phục vụ Tin Mừng không phải dễ dàng. Người phục vụ Tin Mừng phải vất vả gieo trồng để có được mùa gặt phong phú.
Thánh Phao-lô cho tín hữu Cô-rin-tô biết những vất vả mà ngài phải chịu vì phục vụ Tin Mừng: “Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng”. Ngoài vất vả về thể xác, còn có những đau đớn trong tâm hồn: bị nguyền rủa, bị bắt bớ, bị vu khống, bị loại trừ: “Cho đến giờ này, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người” (năm chẵn).
Các tông đồ đói đến nỗi phải tuốt lúa xanh ngoài ruộng mà ăn. Thế mà không yên thân. Vẫn còn bị người Pha-ri-sêu hoạnh hoẹ vì lỗi luật ngày sa-bát. Nhưng Chúa đã lên tiếng bênh vực các ngài bằng trích dẫn trường hợp Đa-vít. Đa-vít cho thuộc hạ ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng đây còn hơn Đa-vít. Là Chúa Thượng của Đa-vít. Vì thế có thể cho các môn đệ tuốt lúa ăn trong ngày sa-bát. Tư tế được ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su mới là Thầy Cả Thượng Phẩm. Người cũng là đền thờ mới. Vì thế có thể cho các môn đệ được tuốt lúa ăn trong ngày lễ nghỉ.
Khi trưng dẫn Đa-vít, Chúa có ý cho biết Người chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Từ xưa dân Ít-ra-en luôn mong chờ Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đa-vít ra đời. Giải phóng dân khỏi nô lệ. Đưa đất nước đến phồn thịnh, vinh quang. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng lại là Chúa của Đa-vít. Là niềm hi vọng của Dân Chúa. Các môn đệ đã gặp được niềm hi vọng ngàn đời. Đã được thấy ơn cứu độ. Nên các ngài theo Chúa, phục vụ Chúa, dù gian nan vất vả.
Chính vì thế, thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-lô-xê phải kiên trì giữ vững đức tin: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hi vọng anh em đã nhận được”. Chúa là Tin Mừng. Là niềm hi vọng. Chính vì thế Phao-lô sẵn sàng chịu đau khổ. Hãnh diện vì được phục vụ Tin Mừng (năm lẻ).
Một trong những sợi chỉ chạy xuyên suốt các sách Tin Mừng là cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tức là những người đứng ra bảo đảm cho việc thi hành Lề Luật. Thật ra, như Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài đến không phải để hủy bỏ Lề Luật mà để hoàn thành nó.
Với Chúa Giêsu, sống tốt lành, thánh thiện không hệ tại ở chỗ thi hành Lề Luật mà chính là sống theo tinh thần Lề Luật. Một người có thể giữ hết mọi Lề Luật nhưng có thể chưa phải là một người thánh thiện. Lề Luật tự nó là tiêu cực, Lề Luật thường đưa ra những điều cấm đoán. Chúa Giêsu thì trái lại, luôn tích cực. Ngài công bố Lề Luật mới xây dựng trên tình yêu. Con người phải nên thánh thiện như Cha trên trời. Thiên Chúa thánh thiện không phải do tuân giữ Lề Luật. Thiên Chúa thánh thiện bởi vì Ngài là tình yêu và vì Thiên Chúa là tình yêu cho nên ai sống trong tình yêu thì thuộc về Thiên Chúa và nên thánh thiện. Trong bài diễn văn chung luận về ngày sau hết, Chúa Giêsu sẽ không dùng Lề Luật để phán xét con người mà chỉ hỏi con người có yêu thương tha nhân không mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay sự kiện các môn đệ đi qua cánh đồng lúa và bứt lúa ăn trong ngày sabát làm nổi bật sứ điệp của Chúa Giêsu. Cuộc chạm trán ngắn ngủi giữa Chúa Giêsu và các biệt phái cho thấy ý nghĩa đích thực của Lề Luật. Bánh thánh là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đồng. Bánh Thánh của người Do Thái cũng mầu nhiệm như bánh thánh của Chúa Kitô, nó biểu hiện phép Thánh Thể. Không người Do Thái nào dám sờ đến bánh thánh cũng như không một người công giáo nào dám mở nhà chầu lấy bánh thánh để ăn trưa. Thật là trái tai khi nghe Chúa Giêsu biện hộ cho hành vi của vua Ðavít. Tuy nhiên, qua lời biện hộ này chúng ta hiểu được quan niệm của Chúa Giêsu về Lề Luật. Lề Luật là chỉ để hướng dẫn và hỗ trợ cho con cái của Thiên Chúa, không nên biến nó thành một gánh nặng, nó phải đáp lại nhu cầu của con người. Chính vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố: "Lề Luật được lập ra cho con người chứ không phải con người cho Lề Luật, ngày sabát được lập ra cho con người chứ không phải con người cho ngày sabát". Con cái của Thiên Chúa là thánh thiện chứ không phải Lề Luật.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta, có khi chúng ta giữ đạo một cách chi ly nhưng chưa thực sự sống đạo, chúng ta tuân giữ mọi Lề Luật nhưng chưa sống tinh thần của Lề Luật. Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu. Tất cả mọi Lề Luật đều thu tóm về giới răn yêu thương, sống yêu thương là chu toàn Lề Luật. Lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô đoạn 13 cần được chúng ta đem ra Suy niệm và thực hành:
"Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác nào thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi chuyện bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả những đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".
Về triết gia Ðavít Hume của Anh vào thế kỷ 18, người ta kể một giai thoại như sau:
Một hôm, có một quận công hỏi ông: - Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Ðavít Hume trả lời: - Ðó là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công hỏi lại: - Thế thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia đáp: - Số lớn nhất là số một.
Ðây là thực tế thường xảy ra trong luật pháp của nhiều quốc gia: số lớn nhất thường chỉ là một thiểu số. Luật pháp được làm ra không phải là để phục vụ mọi người, mà chỉ nhắm đến quyền lợi của thiểu số mà thôi.
Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người. Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.
Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. "Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người". đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta ơn can đảm để luôn biết nói không với những gì loại trừ con người và xúc phạm đến Thiên Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm xác tín và vâng phục cho đến cùng, để trong mọi sự, chúng ta chỉ tìm thánh ý Chúa và xây dựng những giá trị Nước Trời.
Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: “Tại sao các ông lại làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát?” (Lc. 6, 1-2)
Không quá đáng khi nói trên trái đất này luôn luôn xảy ra cuộc tranh đấu quyết liệt giữa con người và luật lệ. Có thể nói: rút cuộc con người hình như bị bại trận.
Suốt thời gian thi hành chức vụ công khai, Đức Kitô chống lại óc pháp trị không ngừng áp đặt luật sa-bát trên con người. Thà phải chịu chết đói hơn là phạm tới luật thánh để tôn trọng ngày của Chúa. Đức Giêsu muốn cho biệt phái hiểu rằng họ đã khắt khe vô lý đến tột độ. Người kể trường hợp của vua Đa-vít đã cứu đoàn tùy của mình, ông không ngần ngại vào đền thờ lấy bánh hiến tế dành riêng cho tư tế đưa cho họ ăn. Sự bó buộc của biệt phái thật vô nhân đạo, và Người kết luận: luật lệ vì con người chứ không phải con người nô lệ luật pháp.
Người không thành công cũng như bao nhiêu người khác trước và sau Người, họ đã thử bảo vệ sứ điệp này. Kẻ thù không tha cho ai muốn lãnh đạo hay phục vụ như Người. Một ngày nào đó, họ sẽ lên án Người. Kể từ lúc đó, trong thế giới lương cũng như giáo, xuyên suốt dòng lịch sử, có hàng ngàn đàn ông, đàn bà bị loại trừ và thanh lọc vì đòi quyền ưu tiên cho người trên pháp luật bất chính.
Đức Kitô không phải là con Người ngây ngô. Người biết rất rõ cần thiết phải có luật pháp. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại: Người đến không phải để phá hủy luật lệ, nhưng để kiện toàn. Tuy nhiên, Người không chấp nhận luật đặt ra để đè bẹp con người, nhưng luật là để giúp con người thăng tiến. Luật không để giết hại mà để phục vụ. Nhiều người công giáo ngày nay chưa ý thức được bài học này. Họ sẵn sàng chia rẽ, xé lẻ để bảo vệ hình thức luật lệ. Có những luật tốt cho xưa kia, nhưng không còn thích hợp với những yêu cầu nhân loại ngày nay. Thế giới đã có những cuộc cách mạng tiến bộ rõ rệt, không còn nữa những hạng quá bảo thủ và quá cấp tiến nếu bài học của Chúa được đón nhận.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc môn đệ Đức Giêsu bứt lúa và ăn trong ngày Sabát. Thời điểm này vào khoảng tháng tư trong năm và rơi vào cuối mùa hạ.
Câu chuyện những người Pharisêu hôm nay lên tiếng khiển trách thầy trò đã đến mức căng thẳng. Họ cảnh cáo Đức Giêsu và các môn đệ không giữ Luật. Lý do:
1) Một là đi qua đồng lúa, tức vi phạm luật chỉ được đi 100 mét ngoài thành vào ngày hưu lễ;
2) Hai là bứt lúa rồi chà trấu trong tay để ăn, một hành vi tương đương với viêc gặt lúa, vậy là vi phạm luật cấm việc xác.
Khi cảnh cáo như thế, ngầm hiểu rằng họ đã ra “tối hậu thư” cho thầy trò Đức Giêsu, nếu còn vi phạm thì sự việc sẽ bị coi là cố tình trước mặt các nhân chứng và đáng chịu tử hình, vì coi thường ngày hưu lễ.
Đáp lại, Đức Giêsu đã lật ngược vấn đề và đặt ra cho họ câu hỏi: "Các ông chưa đọc điều Ðavít đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi". Hay như các tư tế trong đền thờ. Khi hưu lễ trùng với một đại lễ, các tư tế và các phụ tá phục dịch phải giết chiên nhiều hơn, thế mà vẫn không bị buộc tội vi phạm hưu lễ!
Khi nói như thế, Đức Giêsu mặc khải cho họ rằng: Ngài chính là đền thờ mới, là Con Thiên Chúa, có một quyền bính tự Trời ban cho. Vì thế, Ngài đến để lập lại trật tự nguyên thủy của Lề luật. Lề luật không thể có vai trò tuyệt đối. Nó chỉ được lập ra vì con người, chứ không được trở thành gánh nặng áp bức con người. Ngài đến với tư cách là Chủ của Lề Luật, có quyền ngang với Thiên Chúa, để hoàn chỉnh Lề Luật hoặc sửa đổi nó, một khi không còn thích hợp với ý định của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy giải thoát khỏi tâm trí chúng ta một thứ ý thức hệ vụ hình thức, chuộng cơ cấu, cứng nhắc làm tê liệt tình yêu đối với Chúa và lòng nhân ái đối với tha nhân. Nếu cứ bán vào Luật thuần túy, hẳn không thể có một trái tim biết yêu thương nhạy bén với ơn Chúa và sứ vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống cốt lõi của Luật. Biết dùng Luật như là phương tiện để giúp nhau sống tốt hơn chứ không phải dùng Luật để cưỡng ép nhau. Amen.
Sứ điệp: Theo gương Chúa Giêsu, hãy có lòng thương xót và biết nhìn bằng tinh thần cảm thông, tha thứ. Đừng nhìn nhau kiểu “bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì tội nguyên tổ mà tội lỗi đã tràn vào thế gian. Từ đó, lòng người trở nên nhỏ mọn, hay ghen tị và thích đè bẹp kẻ khác. Ca-in vì ghen tị mà nhẫn tâm giết em là A-ben. Con cái của Gia-cóp cũng vì ghen ghét mà bán em là Giu-se sang Ai-cập. Vua Sau-lê rắp tâm hãm hại Đa-vít cũng vì ghen tức. Các biệt phái theo Chúa và các môn đệ như một cái bóng để tìm cách bắt lỗi cũng vì ghen ghét Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã đến khai mở con đường yêu thương. Chúa đi tiên phong trên con đường đó và dạy con bước theo. Ai cũng có ưu điểm và có cả khuyết điểm. Chúa đã nhìn vào ưu điểm của mỗi người mà cứu vớt họ. Chúa đã gọi một Phê-rô chân thành, Chúa đã chọn một Mát-thêu dứt khoát. Chúa không ngần ngại đến nghỉ tại nhà ông Gia-kêu, Chúa không lầm khi tha tội cho người phụ nữ ngoại tình… Xin cho con có cái nhìn như Chúa. Xin cho con mạnh dạn bước theo Chúa trên con đường yêu thương.
Xin Chúa thanh luyện đôi mắt con để con nhìn thấy những ưu điểm của anh chị em con. Xin Chúa hướng dẫn đôi tay con để con đối xử tử tế với mọi người. Xin uốn nắn miệng lưỡi con, cho môi miệng con bớt chua ngoa, chì chiết người khác, và thay vào đó bằng lời khích lệ nâng đỡ tha nhân.
Xin Chúa dìu con đi bằng ơn thánh của Chúa, để con đủ sức đi trọn con đường yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”
Trên đường trốn sự truy bức của vua Saulê, Đavít và các thuộc hạ đói không có gì ăn đã ăn bánh tiến (x. 1Sm 21,1-6), điều không được phép làm…, bánh tiến gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24,5-9). Vào ngày Sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày Sabát thánh (x. 1Mcb 2,34-38).
Suy niệm
Người biệt phái bắt bẻ Chúa Giêsu và môn đệ Ngài, khi các môn đệ vì đói mà bứt bông lúa ăn trong ngày Sabát. Chúa Giêsu trả lời buộc tội của họ khi dẫn chứng vua Đavít đã vào đền thờ lấy bánh dành cho thượng tế để ăn cho đỡ đói. Qua đó, Chúa Giêsu nhấn mạnh giá trị cao cả nhất là hướng dẫn hành vi của con người vì con người chứ không cứng nhắc luật vì luật.
Như thế, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật như người biệt phái thường kết án Ngài, nhất là vi phạm ngày Sabát. Vào mỗi ngày Sabát, Ngài vẫn đến hội đường Do Thái đọc Kinh Thánh, như thế Ngài vẫn tuân giữ ngày Sabát, nhưng Ngài mặc cho ngày đó một ý nghĩa cao cả. Vì thế với ngày Sabát, Chúa Giêsu đưa ra ba viễn tượng sâu sắc hơn luật về ngày Sabát của người Do Thái:
Chúa Giêsu xác nhận sự tôn trọng luật ngày Sabát. Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh: Phải vượt trên cách thực thi luật pháp cứng nhắc của người Pharisiêu, khi chú ý đến ý nghĩa nhân văn của ngày Sabát. Trình thuật các môn đệ bứt bông lúa trong ngày Sabát mà Chúa Giêsu bảo vệ, giải thích Lề Luật dưới ánh sáng của thánh ý Thiên Chúa: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát”. Ngày Sabát nhắm đến sự sống viên mãn của con người (Mc 3,4; Mt 12,11-12).
Chúa Giêsu hoàn thành ý nghĩa ngày Sabát như Ngài đến để kiện toàn Lề Luật (x. Mt 5,17): Đó là ngày của tình thương và giải thoát con người khỏi sự dữ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Sứ mạng của Chúa Giêsu được hoàn tất trong việc trao ban cho nhân loại ân sủng để thực hiện ơn gọi của mình, bởi ơn gọi đó mà Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy đã tạo dựng con người. Ân sủng được ban trước hết cho những người bị tổn thương nơi thân xác và linh hồn, đó là: Những người đau yếu bệnh hoạn, những người tàn tật, những người đui mù, những người tội lỗi. Đối với Chúa Giêsu, ngày Sabát là ngày của hành động giải thoát.
Chúa Giêsu là “Chúa” của ngày Sabát vì Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đưa ngày Sabát đến viên mãn, qua đó Ngài mạc khải chính mình như là sự sống viên mãn, là cùng đích của giới luật ngày Sabát.
Trong ý nghĩa đó của ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bộc lộ sự tự do và cứu chữa trong ngày Sabát đến mức dường như các phép lạ thường tập trung vào ngày này: Sau việc bứt bông lúa trong ngày Sabát (x. Mc 2,23-28; Mt 12,1-8; Lc 6:1-5); Chúa chữa lành người bị bại tay (x. Mc 3,1-6; Mt 12,9-14; Lc 6:6-11), Chúa chữa lành người phụ nữ còng lưng (x. Lc 13,10-17) và người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6). Chúa chữa người bị bại liệt ở hồ nước tại Bếtdatha (x. Ga 5,1-18) Chúa cho sáng mắt người mù từ khi mới sinh cũng trong ngày Sabát (x. Ga 9,1-41).
Xin Chúa dạy cho chúng ta hiểu biết tính tích cực của Lề Luật. Thực thi luật Chúa không phải là gánh nặng, nhưng với tất cả tình yêu thương như thánh Phaolô dạy: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10)
Ý lực sống
“Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Ngày sabát nghỉ việc là để ghi nhớ việc Thiên Chúa nghỉ ngơi sau khi tạo dựng nên thế giới (Xh 20,8-11). Đồng thời nó cũng loan báo việc dân Thiên Chúa khi kết thúc thời gian, đi vào nơi yên nghỉ và bình an của Chúa.
Hôm nay Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát. Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án. Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị Luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ sabát, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ, luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay nói lên sự dị biệt của Chúa Giêsu và người biệt phái về ngày sabát, ví dụ như việc các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa ăn khi đi qua cánh đồng. Mọi sự việc tầm thường không đáng kể, nhưng cái tính hay ghen tương nghi ngờ, cái tính hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của những người biệt phái đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabát. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xảy ra những xung đột và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.
Ngày sabát, bứt mấy bông lúa như thế chẳng có lỗi gì, luật chỉ cấm cày cấy hay gặt hái, nhưng những người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm làm trong ngày sabát. Đây là tính hay xét nét, khắt khe, quét nhà ra rác... để sinh ra mất lòng nhau.
“Đức Giêsu trả lời: Các ông chưa đọc...”
Đức Giêsu bênh vực các môn đệ bằng cách giải thích cho họ nhớ lại những trường hợp được miễn giữ luật. Và Đức Giêsu đã rút ra từ Thánh kinh hai trường hợp được miễn giữ luật để minh chứng: 1Sm 21,1-6 và Ml 12,5-6. Ở đây Luca chỉ ghi lại trường hợp thứ nhất về câu chuyện vua Đavít cùng với thuộc hạ vì đói quá, nên đã ăn bánh trưng hiến trong đền thờ, thứ bánh mà chỉ dành riêng cho tư tế mới được ăn.
Nại đến bằng chứng này, Đức Giêsu muốn nêu lên rằng: được miễn giữ luật khi có việc tối cần, mà ở đây là trong lúc quẫn bách không có gì ăn cho đỡ đói ngoài thứ bánh trưng hiến (Lm. Trần Hữu Thành).
Đức Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5).
Trả lời phỏng vấn trước ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2005 tại Kohn, nước Đức, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 cho biết Ngài sẽ nói với các bạn trẻ khắp thế giới rằng: được làm người Kitô hữu thật tốt đẹp biết bao, bởi vì đây đó vẫn phổ biến một quan niệm rằng Kitô giáo chỉ gồm những luật lệ cấm đoán mà ta phải tuân giữ. Vị Đại Diện Đức Kitô cho thấy đời sống Kitô hữu có những luật lệ, nhưng đó là đôi cánh để đưa ta lên cao.
Hôm nay lời Chúa nói với chúng ta rằng Ngài là chủ của ngày sabát, nghĩa là Ngài có quyền qui định luật lệ cho ngày lễ nghỉ nói riêng và mọi luật lệ tôn giáo. Chính những luật lệ ấy nâng chúng ta lên cao khỏi những khuynh hướng thấp lè tè của bản năng, để đến gần và nên giống Đức Kitô hơn.
Đức Giêsu vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, là việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương; nếu không, việc giữ luật chỉ là việc đạo đức ở bên ngoài, mà bên trong không có thực chất. Giữ luật là thể hiện tình thương, không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Truyện: Giữ luật một cách máy móc
Một người Do thái nọ qua đời. Sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.
Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết đã sống lại.
Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:
- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.
Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
1. Những người luật sĩ và Pharisêu bề ngoài xem ra có vẻ rất tôn trọng luật pháp nhưng bên cạnh việc giữ luật như thế hỏi còn có một hậu ý gì khác nữa không? Chắc là phải có một cái gì đó, cho nên chúng ta mới thấy Chúa không ca tụng họ.
Một hôm, quận công Ressen hỏi triết gia David Hume:
- Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?
Triết gia David Hume trả lời:
- Là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.
Quận công Ganh Ressen hỏi lại:
- Vậy thì theo ông số lớn nhất là gì?
Triết gia liền trả lời:
- Số lớn nhất là số một.
Thực tế trong rất nhiều quốc gia, chúng ta thấy luật pháp được làm ra là chỉ để phục vụ cho một thiểu số. Số lớn nhất thường là số một, chỉ là một thiểu số. Một thiểu số thủ lợi còn những người khác thì phải è cổ ra mà chịu. Luật pháp là của Chúa nhưng nhiều khi họ giải thích rồi thêm vào những qui định quá đáng để phục vụ quyền lợi cho phe nhóm, cho một thiểu số của họ.
Như vậy thì muốn việc giữ luật cho đúng thì phải giữ theo tinh thần của luật.
2. “Con người là chủ của ngày hưu lễ” (Lc 6,5)
Chúa vẫn là chủ của luật pháp. Vậy phải giữ ngày Sabat hay hưu lễ thế nào?
Có người kia lúc sinh thời rất tự hào về đời sống luân lý, liêm sỉ, chính trực của mình. Rồi một hôm ông bị bệnh nặng và qua đời, linh hồn ông bay thẳng đến trước cửa Thiên Đàng và xin được trình diện trước tòa Chúa.
Tới nơi, ông phủ phục thưa:
- Lạy Chúa, Chúa quá biết rõ đời con, suốt đời con luôn trung thành tuân giữ luật Chúa, không hề bỏ sót hoặc lỗi phạm điều gì bất lương bất chính cả. Này đây con xin Chúa thương nhìn xem bàn tay trong trắng của con.
Thiên Chúa nhân từ nhìn ông và nói:
- Con ơi, con nói đúng, hai bàn tay con trong sạch, không vướng mắc tội gì cả. Nhưng đáng tiếc con chỉ có hai bàn tay trắng, còn ngoài ra thì không có một việc lành phúc đức nào cả.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trong mỗi cộng đồng tôn giáo, bao giờ cũng có những người đạo đức rất khắt khe trong vấn đề giữ luật đạo. Họ lo giữ luật đạo một cách chặt chẽ chi li sao cho đúng việc, đúng thời gian, đúng truyền thống. Đối với họ giữ đạo là giữ lề luật.
Chính vì thế nên khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu không giữ luật như họ, thì coi đó là một điều thiếu sót đáng trách.
3. Chúng ta thấy, Đức Kitô không bao giờ chủ trương phá hủy lề luật: “Ta đến không phải để phá hủy luật pháp” – “Ta bảo thật các ngươi cho dù trời đất có qua đi nhưng một chấm một phết trong luật cũng không được bỏ qua”(Mt 5,18). Ngài vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương nếu không, việc giữ luật sẽ chỉ là việc đạo đức ở bề ngoài, mà bên trong không có thực chất.
Giữ luật là thể hiện tình yêu thương. Không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Một người thợ xây đang ở trên giàn giáo cao bị xảy chân rơi xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.
Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng”(Mt 5,38) của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa vốn từ lâu đã thấy những cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:
- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ rằng: Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải giết anh ta đúng bằng cách ấy, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn giáo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.
Nghe tòa phán xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.
Mẹ Têrêsa nói: “Đừng sợ yêu thương đến độ phải hy sinh, tới mức phải nhức nhối. Tình yêu Chúa Giêsu yêu chúng ta đã đưa Ngài đến chỗ chết.
Thiên Chúa quan tâm đến tình yêu của chúng ta.
Chúa chẳng cần ai, Ngài có cách làm được tất cả, Ngài có thể làm luôn cả công trình của những người tài năng nhất.
Chúng ta có thể làm việc đến cùng kiệt, có thể làm việc tới tuyệt mức. Nhưng nếu công việc chúng ta không gắn kết với tình yêu, sẽ là vô ích dưới mắt Chúa”.
Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát:
- Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án.
- Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái đã quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
B.... nẩy mầm.
1. Ngày Chúa nhựt, nếu tôi chỉ biết nghỉ làm việc và đi dự lễ thì chưa chắc là tôi đã “thánh hóa” ngày đó theo đúng ý muốn của luật Giáo Hội. Tôi còn phải yêu mến Chúa nhiều hơn và quan tâm đến anh em tôi hơn.
2. Nếu tôi giữ luật chỉ vì đó là luật thì việc giữ luật của tôi không đem lại lợi ích thực nào cho tôi mà lại thêm nặng nề khó chịu. Nếu tôi buộc người khác giữ luật chỉ vì đó là luật thì cũng chẳng ích lợi gì cho người khác, trái lại càng làm cho người khác khổ sở thêm.
3. “Con Người là chủ của ngày hưu lễ”: Chúa Giêsu là chủ của ngày Chúa nhựt. Ngày Chúa nhựt tôi có quy hướng mọi sự về Chúa Giêsu không?
4. “Con Người làm chủ ngày sabát” (Lc 6,5)
Hồi bé, tôi luôn phải nghe đi nghe lại điệp khúc: “nghỉ chơi đi lễ, lễ xong về chơi chẳng muộn”. Vâng, tôi đã đi lễ, nhưng đi một cách miễn cưỡng. Giáo Hội thật “ác”, đặt ra bao điều phải theo.
Bây giờ tôi đến với thánh lễ không phải vì những luật lệ, những “điệp khúc” hồi bé, nhưng bằng chính tấm lòng, bằng sự khao khát của con tim, của tâm hồn muốn có được sự bình an vĩnh cửu. Nghĩ lại, tôi thầm cám ơn Chúa vì những luật lệ trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, xin cho con đến với Chúa không phải vì lề luật đòi buộc, nhưng với cả tấm lòng của một người con. (Hosanna).