Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày xếp gọn trong Tuần 16-2023 Thường Niên

Thứ sáu - 29/09/2023 11:06
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày xếp gọn trong Tuần 16-2023 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày xếp gọn trong Tuần 16-2023 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
xếp gọn trong Tuần 16-2023 Thường Niên
----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
Lời Chúa: Mt 12, 38-42. 3
Suy Niệm 1: Đòi dấu lạ. 4
Suy Niệm 2: Dấu lạ đức tin. 5
Suy Niệm 3: Dấu Chỉ Yêu Thương. 6
Suy Niệm 4: Phép Lạ Trong Cuộc Ðời 8
Suy Niệm 5: Ngài là ai?. 9
Suy Niệm 6: Phúc cho ai không thấy mà tin. 10
Suy Niệm 7: Tín nhiệm nơi Chúa. 11
Suy Niệm 8: Muốn được cứu độ cần tin Chúa. 12
Suy Niệm 9: Về dấu lạ Giôna. 13
Suy Niệm 10: Chỉ có dấu lạ Giôna. 16
Suy Niệm 11: Nhận ra ý nghĩa dấu chỉ của Chúa. 17

Thứ 3: 25.7.2023 Th. Giacôbê. 19
Lời Chúa: Mt 20, 20-28. 20
Suy Niệm 1. Không được như vậy. 20
Suy Niệm 2. Theo Chúa với chén đắng. 22
Suy Niệm 3. Thánh Giacôbê Tông đồ. 23
Suy Niệm 4. Tông đồ đầu tiên chết để làm chứng cho Tin Mừng. 24
Suy Niệm 5. Thánh Giacôbê tông đồ. 26
Suy Niệm 6. Hạt giống rơi xuống đất có thối đi... 29
Suy Niệm 7. Thánh Giacôbê Tông Đồ. 30
Suy Niệm 8. Thánh Giacôbê Tông Đồ. 31
Suy Niệm 9. Thánh Giacôbê Tông Đồ. 33
Suy Niệm 10. Thánh Giacôbê Tông Đồ. 35
Suy Niệm 11. Sức mạnh Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối của con người 36
Suy Niệm 12. Thánh Giacôbê Giêbêđê, Vị Tông Đồ Cao Vọng. 39
Suy Niệm 13. Thánh Giacôbê nhiệt thành. 44
Suy Niệm 14. Thánh Giacôbê Tông Đồ. 45
Suy Niệm 15. Hãy theo Thầy. 46
Suy Niệm 16. Thánh Giacôbê Tông Đồ. 48
Suy Niệm 17. Bài chia sẻ của Yuse Luca. 50

Thứ 4: 26.7.2023 Th. Gioakim và thánh Anna. 52
Lời Chúa: Mt 13, 16-17. 52
Suy Niệm 1. Cha Mẹ Đức Maria: Thánh Gioakim Và Anna. 52
Suy Niệm 2. Thánh Gioakim và Anna. 53
Suy Niệm 3. Thánh Gioakim và Anna. 54
Suy Niệm 4. Thánh Gioakim và thánh Anna, song thân Đức Maria. 55
Suy Niệm 5. Thánh GIOAKIM và Thánh ANNA song thân Đức Trinh nữ Maria. 58
Suy Niệm 6. Phúc vì được thấy, phúc vì được nghe. 60
Suy Niệm 7. Cha mẹ tuyệt vời 63
Suy Niệm 8. Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria. 64
Suy Niệm 9. Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria. 66
Suy Niệm 10. Thánh Gioakim và Anna. 69
Suy Niệm 11. Thánh Gioakim và Anna. 71
Suy Niệm 12. Thánh Gioakim và Anna, mẫu gương của các gia đình. 74
Suy Niệm 13. Thánh Gioakim và Anna Phụ Mẫu Ðức Trinh Nữ Maria. 82
Suy Niệm 14. Thánh Gioakim và Anna. 83
Suy Niệm 15. Thánh Gioakim và Anna. 84
Suy Niệm 16. Thánh Gioakim và Anna Giáo dục bằng gương sáng. 85
Suy Niệm 17. Thánh Gioakim và Anna. 86
Suy Niệm 18. Thánh Gioakim và Anna: Hạnh phúc thật là được thấy Chúa. 89
Suy Niệm 19. Thánh Gioakim và Anna. 90

Thứ 5: 91
Lời Chúa: Mt 13, 10-17. 91
Suy Niệm 1: Anh em thật có phúc. 91
Suy Niệm 2: Rất gần và rất xa. 93
Suy Niệm 3: Tại Sao Dùng Dụ Ngôn. 94
Suy Niệm 4: Cứng Đầu. 95
Suy Niệm 5: Xin được biến đổi 96
Suy Niệm 6: Đón nhận Chúa, Chúa ban ơn thêm.. 97
Suy Niệm 7: Sẵn sàng đón nhận giáo huấn Chúa dạy. 98
Suy Niệm 8: Lý do giảng bằng dụ ngôn. 99
Suy Niệm 9: Có tai thì nghe. 102
Suy Niệm 10: Tâm hồn rộng mở và Ước muốn tìm hiểu. 103

Thứ 6: 105
Lời Chúa: Mt 13, 18-23. 105
Suy Niệm 1: Sinh hoa kết quả. 105
Suy Niệm 2: Lời ban sự sống. 107
Suy Niệm 3: Tinh thần lạc quan. 108
Suy Niệm 4: Biến đổi tâm hồn. 109
Suy Niệm 5: Người gieo và hạt giống. 110
Suy Niệm 6: Trở nên thửa đất nào cho hạt giống?. 111
Suy Niệm 7: Cộng tác để hạt giống Lời chúa phát triển. 112
Suy Niệm 8: Dụ ngôn người gieo giống. 113
Suy Niệm 9: Ý nghĩa dụ ngôn người gieo giống. 115
Suy Niệm 10: Chính Đức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất 117
Suy Niệm 11: Ý nghĩa của những loại đất 119

Thứ 7: 29.7.2023 Th. Mát-ta, Maria và Ladarô. 120
Lời Chúa: Lc 10, 38-42. 121
Suy Niệm 1. Đón Người vào nhà. 122
Suy Niệm 2. Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng. 123
Suy Niệm 3. Thánh Mát-ta. 125
Suy Niệm 4. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi 126
Suy Niệm 5. Thánh Mát-ta. 128
Suy Niệm 6. Thánh Mát-ta. 129
Suy Niệm 7. Thánh Mát-ta, con người của phục vụ. 131
Suy Niệm 8. Thánh Mát-ta. 133
Suy Niệm 9. Thánh nữ Mát-ta. 134
Suy Niệm 10. Thánh nữ Mát-ta ở Bêtania. 135
Suy Niệm 11. Thánh Mát-ta. 138
Suy Niệm 12. Thánh Mát-ta. 140
Suy Niệm 13. Thánh nữ Mát-ta. 141
Suy Niệm 14. Thánh Mát-ta, một con người phục vụ. 145
Suy Niệm 15. Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô. 146
Suy Niệm 16. Thánh nữ Matta. 148
Suy Niệm 17. Ba chị em Mát-ta, Maria và Ladarô. 149
Suy Niệm 18. Gia Đình Chị Em Maria. 150
Suy Niệm 19 Thầy là Đấng Kitô. 151

------------------------------------------
 

Thứ 2:

TinMừng – TN 16 – Thứ 2: Dấu lạ Giô-na.

"Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".

 

Lời Chúa: Mt 12, 38-42


Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ".
Người trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy.
Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona.
Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 1: Đòi dấu lạ


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Ma rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này:
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.
Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Đức Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người đương thời
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.
Đức Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt 11,20).
Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,
để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
 
Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
 
-------------------------------

 
 

Suy Niệm 2: Dấu lạ đức tin


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người Do thái đòi xem dấu lạ. Óc hiếu kỳ thích những điều mới lạ thì ai cũng có. Nhưng trong vận mệnh thiêng liêng những dấu lạ có ích gì nếu chỉ để xem cho vui. Thiên Chúa đã làm biết bao kỳ công. Nhưng không phải để biểu diễn cho người ta vui mắt. Những điềm kỳ dấu lạ Chúa thực hiện chỉ vì đời sống, đặc biệt đời sống thiêng liêng của con người mà thôi. Vì thế dấu lạ lớn lao quan trọng nhất phải là dấu lạ đức tin.

Chúa chỉ làm dấu lạ khi ta có đức tin. Dân Do thái ở trong một hoàn cảnh nguy nan như mành chỉ treo chuông. Họ lấy gì đối địch với quân binh Ai cập hùng mạnh. Nhưng vì tin vào Chúa họ chỉ ngồi im. Và Chúa đã làm điều kỳ diệu nhất. Cho người Do thái vượt qua Biển đỏ khô chân (năm lẻ).

Gio-na trở thành dấu lạ vì dân Ni-ni-vê có đức tin. Nếu Ni-ni-vê không có đức tin, Gio-na không thể trở thành dấu lạ. Nói cách khác việc Gio-na nằm trong bụng cá cũng trở thành vô ích vì chẳng đem đến ơn cứu độ.

Đức tin phải dẫn đến việc làm. Tin không phải ngồi chờ sung rụng. Nhưng dấn thân vào việc làm. Mô-sê phải giơ gậy trên biển. Con cái Ít-ra-en phải bước xuống lòng biển. Ni-ni-vê phải từ bỏ nếp sống tội lỗi. Ăn chay đền tội. Nữ hoàng Se-ba phải từ bỏ quê hương. Giong buồm vượt biển xa xôi. Chấp nhận sóng gió.

Và sau cùng đức tin phải dẫn đến thay đổi đời sống. Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ rồi ký kết giao ước tuân giữ Lời Chúa. Mi-kha nói với dân nếu tin Chúa phải thay đổi đời sống. Dâng tiến bò bê không đủ nữa. Phải thực thi công bằng. Quý yêu nhân nghĩa. Và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa (năm chẵn). Ni-ni-vê thay đổi nếp sống. Tiết độ đức hạnh. Công bình bác ái. Nữ hoàng Sê-ba thay đổi nếp sống. Áp dụng những gì mắt thấy tai nghe tại Giu-đa trong xứ sở mình.

Chúa Giêsu là dấu lạ lớn lao nhất khi nằm trong mồ ba ngày. Dấu lạ đó thay đổi vận mệnh đời tôi. Đem ơn cứu độ cho tôi. Đem đến cho tôi tình yêu và hi vọng. Nhưng Chúa tử nạn và phục sinh chỉ thực sự trở thành dấu lạ khi tôi tin tưởng. Niềm tin phải có hành động. Hành động đầu tiên là hoán cải. Chừa bỏ tội lỗi xưa cũ. Và hành động phải dẫn đến việc cùng chết với Chúa để được cùng sống với Chúa. Chết cho tội lỗi. Sống cho Thiên Chúa. Chết cho xác thịt. Sống theo Thân Khí.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 3: Dấu Chỉ Yêu Thương


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của ông như sau:

"Trong suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá".

Những dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con người.

Chúa Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.

Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.

Xin cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ, thử thách, chúng ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 4: Phép Lạ Trong Cuộc Ðời


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tại sao những người kinh sư và pharisiêu cứ một mực đòi Chúa làm một dấu lạ đặc biệt, cho dẫu những phép lạ Ngài đã thực hiện trong thời đó không phải là hiếm có? Chính vì họ không có tâm hồn trong sạch và ngay thẳng. Họ đến với Chúa với thái độ ganh tỵ, quá khích, tranh giành ảnh hưởng. Vì thế, họ đã không nhận ra những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cũng như không hiểu được ý nghĩa và giá trị của phép lạ. Những phép lạ Ngài làm chỉ nhằm ích lợi cho và vì con người, để con người nhận ra tình thương cứu độ Thiên Chúa đã và đang hoạt động, đang hiện hữu nơi một con người cụ thể với tên là Giêsu. Chính Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, làm cho con người được cùng nhau sống hạnh phúc và sung mãn trong Nước của Ngài.

Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề Phép Lạ Trong Những Cái Thường Ngày, tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ trong chúng ta ai cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả. Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa. Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thụ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất cho đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư, tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời ta.

Cảm tạ Chúa đã cho chúng con có phước được biết Chúa và được làm con Chúa. Chúng con biết rằng đức tin sẽ trở nên án phạt cho con nếu con để sự kiêu ngạo, tính ích kỷ thống trị con. Xin củng cố đức tin và xin ban sức mạnh của tình yêu Chúa cho chúng con, nhờ đó đức tin mà chúng con đã lãnh nhận được trổ sinh nhiều hoa trái, đem lại ơn cứu độ cho chúng con và cho tất cả mọi người, đó là phép lạ lớn nhất của cuộc đời con.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 5: Ngài là ai?


Người đáp: “Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Gio-na. Quả vậy, ông Gio-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy.” (Mt. 12, 39-40)

Những kẻ thù của Chúa Giêsu giả bộ muốn biết rõ về những bằng chứng Người có thể đưa ra để mình chứng cho sứ mạng của mình: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ nhãn tiền trên trời.” Vẻ lịch sự của họ là hoàn toàn giả dối. Họ không đòi bằng chứng để được thuyết phục, bởi họ đã nghĩ bụng rằng Chúa Giêsu sẽ không thể làm dấu lạ ấy.

“Dấu lạ … trên trời!”

Nhóm Pha-ri-sêu hiểu “Dấu lạ” là một sự lạ lùng nhãn tiền khẳng định rõ ràng Chúa Giêsu có quyền nằng siêu việt; họ đòi phải xảy ra ở “trên trời” nơi mà mọi người ở trần gian này không thể nhìn xem mà bắt chước được. Làm như vậy họ có ý nói xa nói gần rằng những phép lạ thực hiện ở Nagiarét trước đây như cho khỏi bệnh tật, làm sống lại v.v… Vì xảy ra ở trên mặt đất nên đã có thể là do những phù phép mà có. Khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, họ cũng có mặt để nêu lên sự khác biệt giữa ân huệ do Chúa Giêsu ban tặng và man na của Mô-sê “Từ trời ban xuống”

Khoa học có thể giải thích hết.

Nhóm Pha-ri-sêu lầm lạc ở chỗ là dù Chúa Giêsu có đưa ra bằng chứng về sứ mệnh của mình, thì họ vẫn có lý do trước để chống đối Người: Họ không muốn nhìn nhận Người là Đấng Mê-si-a (Thiên sai): Chẳng đời nào họ sẽ chấp nhận gia nhập “Nước Thiên Chúa” mà Người rao giảng. Họ có một quan niệm về đạo giáo hoàn toàn khác biệt: Phụng thờ Thiên Chúa Ít-ra-en là công việc của họ, nên Chúa Giêsu phải xoay quanh lợi ích tức thời của họ. Chẳng ai sẽ được là ngôn sứ nếu họ không ưng thuận. Thần trí cứng lòng tin đã không thay đổi. Thời đại chúng ta hôm nay là hôm nay cũng vậy, khoa hoc mệnh danh là độc lập thì tống trát đòi Thiên Chúa ra trước phiên họp khoáng đại của các thành viên; tại đây và chỉ ở đây, người ta mới công nhận cho Chúa được làm phép lạ mà thôi. Người ta không tìm kiếm những lý do đủ dễ tin, nghĩa là “chịu nhận đó là dấu lạ của Chúa.” Người ta thích lên án Chúa để bắt Người phải chịu nhận là bất lực bất toàn, hoặc (và đây là phán quyết biệt đãi nhất mà người ta có thể trông chờ ở những vị thẩm phán tốt) tuyên bố rằng chúng tôi còn chưa biết thiên nhiên có sức mạnh tới đâu nữa.

Chúa Giêsu không muốn cho người ta nhìn nhận Người qua những dấu lạ không phải là dấu lạ mà thường ngày Người ban cho ta trong Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người.

Ta đón nhận Đức Giêsu là bởi chính con người của Người vậy!

J.M

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 6: Phúc cho ai không thấy mà tin


Người Việt Nam chúng ta thường có câu: “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu nói đó hàm ý rằng: những người ở gần và sống bên cạnh chúng ta, dù họ có tốt và làm được nhiều chuyện lành thánh thế nào thì cũng chẳng có gì phải quan tâm và những lời họ nói cũng chẳng cần phải tin. Một lý do đơn giản là: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”.

Hôm nay, thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu khiển trách những Kinh sư và Pharisêu cứng lòng không chịu tin vào những lời giảng và những việc Ngài làm. Lòng họ đã trở nên trai cứng. Trái tim họ đã hóa đá. Trước mắt họ, Đức Giêsu cũng chỉ là con Bác Thợ Mộc. Vì thế, họ thách thức Đức Giêsu phải làm một dấu lạ để họ trông thấy thì họ mới tin.

Tại sao vậy? Thưa! Đòi hỏi dấu lạ là đặc trưng của người Dothái, nhất là giới lãnh đạo. Trước mắt và tâm thức của những người này khi nhìn về Đấng Cứu Thế  phải là một con người oai hùng lẫm liệt. Đấng ấy phải là người đánh đông dẹp bắc. Phải là người đưa dân Dothái đến bến bờ tự do và bá chủ mọi quốc gia. Và, như một sự tất yếu, Đấng ấy phải làm được dấu lạ. Nếu không đáp ứng sự hiếu tri của họ thì họ không tin.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không đi theo con đường mà họ thách đố. Con đường cứu thế của Ngài là khiêm tốn và tự hạ, con đường của hiền lành và nhân hậu, chứ không phải con đường của thách thức, kiêu ngạo, khoe khoang... Vì thế, Ngài sẵn sàng làm những dấu lạ để cứu giúp và củng cố niềm tin của người đương thời, nhưng nếu vì thách thức, đi ngược lại với sứ mạng và ích lợi cho phần rỗi của con người thì không bao giờ Đức Giêsu làm.

Lời Chúa hôm nay muốn dạy cho chúng ta rằng:

Thứ nhất, tìm những dấu lạ để tin cũng được, nhưng đây không phải là đức tin trưởng thành. Đức tin trưởng thành là đức tin của những người không thấy mà vẫn tin. Bởi vì Đức Giêsu đã nói với Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Thứ hai, không nên thuần lý để thách thức Thiên Chúa như những người Dothái. Cần tránh cho xa ý tưởng bắt Thiên Chúa phải làm theo ý của mình.

Cuối cùng, tin Chúa thì phải hành động. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Thật vậy, Ma Quỷ nó cũng tin có Thiên Chúa, nhưng nó không hề hành động theo điều nó đã tin, tức là tôn thờ Người.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin trưởng thành. Xin cũng ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa tha thiết. Biết khiêm tốn để nhận ra thánh ý Chúa và thi hành. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 7: Tín nhiệm nơi Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đến không phải để làm những dấu lạ nhãn tiền chiều theo tính hiếu kỳ và sự cứng lòng của con người. Chúng ta hãy hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thấy điều làm cho Chúa đau khổ nhất đó chính là sự cứng lòng tin. Chúa đã cảnh cáo, trách mắng người Do Thái không chịu tin vào Chúa. Họ đã hững hờ, coi thường những dấu lạ mà Chúa đã thực hiện. Vì đối với họ, những dấu lạ đó chưa đủ sức thuyết phục.

Lạy Chúa Giêsu, niềm tin của con ngày hôm nay nhiều lúc cũng như thế, nhiều lần, con cũng đã đòi Chúa ban cho phép lạ nào đó, nhiều lúc con đã mặc cả với Chúa trong lúc cầu nguyện. Con muốn tin vào Chúa và theo Chúa, nhưng lại với điều kiện Chúa ban ơn cho con trước, mà những ơn đó nhiều lúc lại chẳng cần thiết cho sự sống linh hồn con. Con muốn Chúa thực hiện theo ý con, trước khi con vâng theo Ý Chúa.

Lạy Chúa, ngay cả thời đại hôm nay, Chúa vẫn đang âm thầm hoạt động. Xin mở con mắt đức tin của con, để con thấy được nhiều dấu lạ trong thế giới hôm nay: Một Giáo Hội mỗi ngày một tăng trưởng, một tình thương ngày càng lan rộng, và chung quanh con, biết bao người đang sống gắn bó mật thiết với niềm tin vào Chúa là Đấng Tử Nạn và Phục Sinh.

Trước những dấu lạ đó, xin cho con được noi gương dân thành Ni-ni-vê, biết thống hối ăn năn. Và xin cho con biết đón nhận lời khôn ngoan của Chúa. Con hết lòng tín nhiệm nơi Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này”.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 8: Muốn được cứu độ cần tin Chúa


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Giôna được lệnh của Thiên Chúa phải đi rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê đầy tội lỗi. Nhưng ông sợ và trốn sứ mạng khi ông lấy tàu đi Tácsít. Chúa cho một trận cuồng phong nổi lên khiến thuỷ thủ vô cùng sợ hãi; họ nghi ngờ trên tàu có người nào đó là kẻ có tội khiến thần thánh nổi giận trừng phạt.

Họ gieo quẻ để tìm người đó, thì quẻ rơi trúng ông Giôna. Ông biết tội mình và tự đề nghị người ta ném mình xuống biển. Thế là sóng yên bể lặng (x. Gn 1,1-16). Một con cá lớn nuốt ông vào bụng. Nằm trong bụng cá, ông đọc một thánh vịnh cầu xin Chúa cứu giúp trong cơn ngặt nghèo. Sau ba ngày, con cá nôn ông ra trên đất liền (x. Gn 2,1-11).

Thiên Chúa lại gọi ông một lần nữa, và lần này ông vâng lời đi rao giảng cho dân thành Ninivê, với một cách miễn cưỡng. Nhà vua và dân chúng nghe lời rao giảng của ông thì mau mắn làm việc đền tội...

Suy niệm

Hình ảnh Giôna ở trong bụng cá ba ngày, báo trước về Ðức Giêsu cũng sẽ đi vào lòng đất ba ngày qua cái chết và Phục sinh vinh quang để đem lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài. Cho nên dấu lạ Chúa Kitô trong lòng đất là dấu lạ vĩ đại nhất mà ai muốn được cứu độ chỉ cần tin Ngài.

Khi nói về dấu lạ Giôna và so sánh với dấu lạ Chúa bị chôn trong lòng đất, Chúa Kitô cảnh tỉnh về sự cố chấp không tin của người Do Thái. Xưa kia, dân thành Ninivê đã hối cải khi nghe lời giảng dạy của Giôna. Nữ hoàng Saba từ phương Nam xa xăm nghe biết Salômôn nổi tiếng khôn ngoan vì danh Chúa, nên cất bước đến Giêrusalem lãnh hội. Nay dân Do Thái, đặc biệt là biệt phái và tiến sĩ luật, kiêu căng tự phụ vào sự hiểu biết và đạo đức không chịu lãnh nhận và tin theo giáo huấn của Đấng Cứu Thế - Đấng hơn cả ngôn sứ Giôna, có lời khôn ngoan hơn vua Salômôn đang hiện diện và giảng dạy giữa họ, nên họ chết trong sự cố chấp, cứng tin… vì thế trong ngày phán xét dân thành Ninivê và nữ hoàng Saba sẽ trỗi dậy tố cáo sự cố chấp cứng tin của họ.

Ðể được ơn cứu độ, chúng ta phải tin vào Ðức Giêsu, nghe giáo huấn và sám hối như lời dạy: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15), sống theo Tin Mừng trong từng giây phút của cuộc sống…

Ý lực sống:

“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,

là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).

 -------------------------------

 
 

Suy Niệm 9: Về dấu lạ Giôna


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Những người biệt phái không nhận Chúa Giêsu là Messia vì họ cố chấp, nhưng họ viện cớ là vì họ không thấy dấu lạ. Chúa Giêsu kể lại cho họ dấu lạ tiên tri Giona ở trong bụng cá ba ngày. Qua lời giảng của tiên tri Giona, dân thành Ninivê đã hối cải. Cũng vậy, Chúa Giêsu sẽ đi vào lòng đất, vào cái chết và Phục sinh vinh quang, để đem lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Người, cụ thể là cho những người biết ăn năn thống hối và sống theo Lời Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Còn họ thì Chúa cho biết đến ngày phán xét họ sẽ bị xét xử rất nặng.

Người Việt Nam chúng ta có câu: “Bụt nhà không thiêng”. Câu nói ấy hàm ý rằng: những người ở gần và sống bên cạnh chúng ta, dù họ có tốt và làm được nhiều chuyện lành thánh thì cũng chẳng có gì phải quan tâm, và những lời họ nói cũng chẳng cần phải tin. Một lý do đơn giản là: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”.

Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, và dân Do thái đã được thấy những phép lạ ấy. Những người biệt phái và luật sĩ cũng đã được chứng kiến những phép lạ ấy, nhưng họ vẫn không tin Ngài là Đấng Messia Thiên Sai. Hôm nay họ còn muốn thách thức Chúa đòi Chúa làm một dấu lạ để chứng tỏ Ngài là Đấng Messia. Chúa không chấp thuận yêu cầu của họ, trái lại, Ngài phàn nàn về thái độ cố chấp của họ bằng hai câu chuyện: tiên tri Giona và nữ hoàng Saba.

Nhắc lại chuyện Giona ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa dân thành Ninivê chỉ nghe lời rao giảng miễn cưỡng của tiên tri Giona. Vậy mà cả thành từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến súc vật đều ăn chay sám hối và khấn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người còn hơn Giona, Đấng mà thánh Gioan Tẩy giả loan báo đã đến và rao giảng, vậy mà họ không để tâm ăn năn hối cải. Thật đáng buồn.

Chúng tôi muốn Thầy làm một dấu lạ”(Mt 12,38)

Nhiều lần chúng ta cũng mong Chúa làm một phép lạ vĩ đại và tỏ tường. Chẳng hạn hiện ra trước mắt nhiều người, và nếu thấy những dấu lạ vĩ đại ấy thì mọi người sẽ tin thờ Chúa.

Thực ra, Chúa thừa sức làm những dấu lạ như thế. Nhưng nếu làm thế sẽ là một áp lực, một bó buộc, khiến người ta phải tin thờ Ngài. Và con người sẽ không còn tự do, Chúa không còn là một Thiên Chúa yêu thương mời gọi nữa.

Quả thật, ngay trong cuộc sống đã có rất nhiều dấu chỉ, nhưng vấn đề là chúng ta có thể đọc ra ý nghĩa của những dấu chỉ xảy ra hằng ngày trong cuộc sống của mỗi người chúng ta hay không. Rất nhiều lần chúng ta sống chẳng khác gì những người mà Kinh thánh nói: “Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu”.

Trong cuốn sách nổi tiếng rất quen thuộc với chúng ta có tựa đề “Phép lạ trong những cái thường ngày” tác giả đã đưa ra những tư tưởng, những lời khuyên rất sâu sắc và thiết thực, làm mẫu mực cho những suy tư và tâm tình sống của chúng ta. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đồng ý với ý tưởng của tác giả.

Một khi chúng ta nhìn tha nhân và thế giới quanh ta với cái nhìn trong sạch, một khi đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của ta, thì không có gì là không giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng của Chúa... Chúa luôn can thiệp trong mọi giây phút của cuộc đời chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta có sẵn sàng hay có đủ kiên nhẫn và khiêm nhường để nhận ra sự can thiệp của Ngài không. Hãy nhắm mắt lại và để tâm quan sát mọi cơ phận của ta cũng như mọi hoạt động, những chuyển động đang diễn ra trong ta và trong thế giới chúng ta đang sống, với sức sống của muôn loài thọ tạo. Từ cái to lớn vĩ đại nhất đến cái vi phân tử, rồi niềm tin, tư tưởng, ý nghĩ, tâm tư tình cảm của con người, đâu đâu chúng ta cũng gặp thấy quyền năng và sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những điều kỳ diệu đó là gì nếu không phải là những phép lạ trong cuộc đời của chúng ta (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả

Một cụ già suốt ngày ngồi trên ghế xích đu và thề sẽ không bao giờ đứng dậy cho đến khi nào gặp được Chúa. Một cô bé đang chơi với một quả bóng thấy thế hỏi:

-Suốt ngày cụ ngồi đong đưa trên chiếc ghế này để chờ đợi Chúa sao?

-Đúng thế, trước lúc nhắm mắt lìa đời, ta muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa. Ta cần một dấu chỉ.

-Nhưng tới nay ta chưa nhận được dấu chỉ nào.

-Thưa cụ, Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ hít thở, mỗi khi cụ ngửi một cánh hoa thơm, mỗi khi cụ nghe tiếng chim hót, mỗi khi có một đứa bé chào đời. Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ cười hay mỗi khi cụ khóc, mỗi khi cụ cảm thấy nước mắt lăn trên gò má cụ. Chúa ban cho cụ một dấu chỉ trong mưa gió và khi thời tiết thay đổi. Có biết bao nhiêu dấu chỉ, nhưng tại sao cụ chưa tin? Cụ ơi, Chúa ở trong cụ. Chúa ở trong cháu. Không cần phải tìm kiếm, vì Ngài luôn có đó. Má cháu luôn căn dặn cháu: ”Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả”.

Cụ già ngạc nhiên trước những lời như thế từ miệng một cô bé nhỏ xíu.

Phần cô bé, cô vừa chạy vừa nói lớn: Má cháu căn dặn: “Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả” (Chờ đợi Chúa).

 -------------------------------

 
 

Suy Niệm 10: Chỉ có dấu lạ Giôna


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Những người biệt phái không nhận Chúa Giêsu là Đấng Messia vì họ cố chấp, nhưng họ viện cớ là vì họ không thấy dấu lạ. Thực ra Chúa Giêsu đã cho họ biết bao nhiêu dấu lạ mà họ có chịu thấy đâu. Vì thế Ngài nói chẳng cần cho họ dấu lạ nào khác ngoài dấu lạ Giôna, tức là ám chỉ Ngài sẽ chết và sống lại. Nhưng Ngài cũng biết là dấu lạ đó cũng chẳng thể mở mắt họ nổi, cho nên Chúa Giêsu bảo đến ngày phán xét tội của họ sẽ rất nặng.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. ”Chúng tôi muồn thấy Thầy làm một dấu lạ”. Nhiều lần chúng ta cũng mong Chúa làm phép lạ tỏ tường. Chẳng hạn hiện ra trước mặt nhiều người. Chúng ta nghĩ nếu có những dấu lạ ấy thì mọi người đều tin thờ Chúa.

Thực ra Chúa thừa sức làm những phép lạ như thế. Nhưng những dấu lạ như thế sẽ là một áp lực, một bó buộc khiến người ta phải tin thờ Ngài, không cách nào khác được. Và như thế con người không còn được tự do, Chúa không phải là một Thiên Chúa yêu thương mời gọi nữa.

Chúa ít khi làm dấu lạ, nhưng thích ban dấu chỉ. Những dấu chỉ kín đáo, đơn sơ là những tiếng mời gọi nhẹ nhàng và yêu thương. Và những dấu chỉ như thế có rất nhiều. Chỉ cần ta biết mở mắt mở lòng ra là có thể thấy ngay.

2. Một cụ già suốt ngày ngồi trên ghế xích đu và thề sẽ không bao giờ đứng dậy cho đến khi gặp được Chúa. Một cô bé đang chơi với một quả bóng thấy thế liền hỏi:

- Suốt ngày cụ ngồi đong đưa trên chiếc ghế này để chờ đợi Chúa sao?

- Đúng thế, trước lúc nhắm mắt lìa đời ta muốn tin chắc rắng có một Thiên Chúa. Ta chỉ cần một dấu chỉ. Nhưng tới nay ta chưa nhận được dấu chỉ nào.

- Thưa cụ, Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ hít thở, mỗi khi cụ ngửi một cách hoa thơm, mỗi khi cụ nghe tiếng chim hót, mỗi khi có một đứa trẻ chào đời. Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ cười hay mỗi khi cụ khóc, mỗi khi cụ cảm thấy nước mắt lăn trên gò má cụ. Chúa ban cho cụ một dấu chỉ trong mưa gió và khi thời tiết thay đổi. Có biết bao nhiêu dấu chỉ nhưng tại sao cụ chưa tin? Cụ ơi, Chúa ở trong cụ, Chúa ở trong cháu. Không phải cần tìm kiếm vì Ngài luôn có đó. Má cháu luôn căn dặn cháu: “Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả”.

Cụ già ngạc nhiên khi thấy những lời như thế thốt ra từ môi miệng một cô bé nhỏ xíu. Phần cô bé, cô vừa chạy vừa nói lớn: “Má cháu luôn căn dặn: này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả”. (Trích: “Chờ đợi Chúa”)

3. Vấn đề của chúng ta ngày nay không phải là không có dấu chỉ mà là không biết đọc ý nghĩa của những dấu chỉ đó. Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu. Chẳng hạn, tôi có hiểu ý nghĩa những dấu chỉ mà Chúa cho xảy ra nơi chính bản thân mình không: tôi bị bệnh… tôi bị người ta phê phán… tôi vừa gặp thất bại… Tại sao? Qua những điều ấy, Chúa muốn nói gì với tôi?

 ---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 11: Nhận ra ý nghĩa dấu chỉ của Chúa


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Những người Pharisêu và luật sĩ thách thức Chúa làm một phép lạ. Chúa thừa sức làm những phép lạ như họ yêu cầu. Nhưng như chúng ta thấy trong Tin Mừng, xem ra như Chúa muốn người ta nhận ra tình thương của Chúa qua những dấu chỉ nhiều hơn. Dấu chỉ thì kín đáo, đơn sơ, là những tiếng mời gọi nhẹ nhàng và yêu thương. Những dấu chỉ như thế có rất nhiều. Chỉ cần ta biết mở mắt, mở lòng ra là có thể thấy ngay.

Đây là một thí dụ: Cuộc cách mạng 1789 bùng nổ khiến thầy Gioan Maria Vianney phải bỏ dở việc học. Nhưng sau đó thầy tìm hết cách để tự học dưới sự dìu dắt của cha xứ. Nhưng khổ thay, học mấy cũng chẳng nhớ. Rất may lúc ấy địa phận đang trải qua một thời gian thiếu linh mục nên thầy Vianney được bề trên gọi về để khảo hạch. Và lẽ dĩ nhiên là lần nào cũng... trượt.

Vianney không nản lòng, cứ tiếp tục học. Cuối cùng, bề trên thấy thầy bền chí… nên gọi cha xứ đến để hỏi về thầy:

- Thầy có lòng đạo đức không?

- Thưa có.

- Thầy có kính mến phép Thánh Thể?

- Thưa có.

- Thầy có siêng năng lần hạt không?

- Thưa có.

Cha chính địa phận quyết định: “Thôi, cho thầy chịu chức vì thầy bền chí, chứ nếu khảo hạch mãi thì cũng chẳng đi đến đâu, không bao giờ đỗ được”.

Về sau, Vianney đã trở thành một vị thánh thời danh, thu hút nhiều tâm hồn trở về với Chúa. Năm 1925, Đức Piô XII đã đặt Ngài làm bổn mạng các cha xứ.

Vâng, chẳng ai thấy được sự thánh thiện đạo đức như thế nào. Ta không cân-đo-đong-đếm được sự thánh thiện đạo đức nhưng ta có thể nhận ra được sự thánh thiện đạo đức qua các dấu chỉ bên ngoài. Thầy Vianney dốt nát, nghèo khổ nhưng thầy không bao giờ bỏ lần chuỗi, không bao giờ quên viếng Thánh Thể mỗi ngày. Những việc làm như thế là những dấu chỉ để bề trên nhận ra thầy có ơn gọi và quả thực bề trên đã không sai lầm.

2. Dấu chỉ không thiếu nhưng vấn đề là chúng ta có đọc ra được ý nghĩa của những dấu chỉ xảy ra hằng ngày ngay trong cuộc sống của mỗi người chúng ta hay không. Rất nhiều khi chúng ta sống chẳng khác gì những người mà Kinh Thánh nói: “Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu” (Mt 13,13-14).

Thí dụ như khi gặp một tai nạn, khi có được một tin vui, khi được chứng kiến cảnh một người mù mới được phục hồi thị giác, khi một người mẹ mới sinh được một người con vv.. Ta có hiểu được ý nghĩa qua những dấu chỉ mà Chúa cho xảy ra như thế hay không? Tại sao? Và qua những điều ấy, Chúa muốn nói với ta điều gì?

Một vị Giám Mục trong một chuyến đi công tác, phải đi ngang qua một giáo xứ nhỏ ở ngoại thành. Ngài tạt xe vào thăm. Khi vừa tới nơi thì ngài thấy có một lớp Giáo lý dành cho người dự tòng đang học. Hỏi cha xứ, ngài mới biết lớp này sắp mãn khóa và các học viên lớn tuổi này sẽ được chịu Bí Tích Thánh Tẩy.

Vị Giám Mục chợt nảy ra ý muốn, muốn kiểm tra trình độ Giáo Lý của họ nên hỏi: “Theo các anh chị, dựa vào đâu mà người khác có thể nhận ra các anh chị là người Công giáo?”

Mọi người nhìn nhau, không thấy ai lên tiếng trả lời. Rõ ràng đây là một câu hỏi quá bất ngờ. Vị Giám Mục lập lại câu hỏi thêm nhiều lần nữa, và ngài đã kín đáo làm một dấu Thánh Giá nhỏ trên ngực như để muốn nhắc khéo một câu trả lời đúng đắn cho cả lớp học và cũng là để gỡ thể diện cho cha xứ...

Bất ngờ, một người dự tòng đứng dậy và mạnh dạn trả lời: “Thưa Đức Cha, theo con nghĩ, dấu chỉ để mọi người biết chúng con là người Công giáo, chính là... Tình Yêu ạ!”

Vị Giám Mục, và cả cha xứ lúc ấy đều suýt buột miệng bảo: “Sai” nhưng cả hai đều kịp dừng lại, các ngài thấm thía hơn ai hết câu trả lời của người dự tòng trẻ tuổi kia.

Vâng, người đó đã trả lời rất đúng, không những đúng bài bản mà còn đúng ý Chúa nữa.

Chắc không ai trong chúng ta quên lời của chính Chúa Giêsu: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương nhau” (Ga 15,35).

Khi người ta hỏi về nạn phá thai thì mẹ Têrêsa trả lời: “Đối với tôi, đây là dấu chỉ cho thấy hoặc là xứ sở này quá nghèo đói đến nỗi không thể chăm sóc cho những cuộc sống Chúa dựng nên, hoặc dân chúng nước này đang chạm phải một sai lầm to lớn”.

Lạy Chúa!
Tình thương không bao giờ miễn cưỡng.
Nhưng là niềm vui, tự do, sức mạnh.
Tình thương diệt sự bối rối.
Ở đâu thiếu tình thương,
ở đó sợ hãi và buồn chán xuất hiện.
Tình thương là hân hoan.
Tình thương là nhiệt hứng.
Tình thương là mạo hiểm.
Tình thương là quảng đại,
Tình thương là trao đổi.
Ai cho nhiều, thì được nhiều.
Vì chúng ta có những gì chúng ta cho. Amen.

-----------------------------------
 

Thứ 3: 25.7.2023 Th. Giacôbê

TinMừng – TN 16 – Thứ 3 25.7.2023 Th. Giacôbê, kính: Chén đắng theo Chúa.

"Các con sẽ uống chén của Ta".

* Giacôbê là con ông Dêbêđê, là anh của thánh Gioan và là bạn của thánh Phêrô. Đây là những người dân chài ở hồ Ghen-nê-xa-rét đã đi theo tiếng gọi của ông Gioan Tẩy Giả trước khi theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Người. Thánh Giacôbê đã có mặt trong hầu hết các phép lạ Chúa Giêsu làm, nhất là khi Chúa hiển dung trên núi và khi Người hấp hối ở vườn Cây Dầu. Vua Hêrôđê Ácríppa I cho chém đầu thánh nhân khoảng năm 43 hoặc 44. Thánh nhân được đặc biệt tôn kính ở Compốttela (Tây Ban Nha), nơi có một thánh đường danh tiếng kính người.

---------------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 20, 20-28


Khi ấy, bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: "Bà muốn gì?" Bà ta thưa lại: "Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài".
Chúa Giêsu đáp lại: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây ta sắp uống chăng?" Họ nói với Người: "Thưa được". Người bảo họ: "Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được". Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em.
Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: "Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người".

 ---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 1. Không được như vậy


--Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Xem ra chức quyền vẫn là nỗi thèm thuồng của con người.
Từ những cuộc xung đột giữa con người sống bầy đàn thời nguyên thủy,
đến cảnh chiếu trên, chiếu dưới ở làng xã
và cảnh chạy chức chạy quyền thời bây giờ.
Ngay các môn đệ thân cận của Thầy Giêsu là Nhóm Mười Hai
cũng không thoát khỏi sức hút của quyền lực.
Họ đã từng cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời (Mt 18, 1).
Bây giờ, ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ ba về cuộc Khổ Nạn,
họ lại có chuyện xích mích với nhau cũng về chuyện chức quyền.
Hai con ông Dêbêđê là hai môn đệ được Đức Giêsu yêu quý hơn.
Chẳng rõ có phải vì thế mà họ nuôi tham vọng
chiếm được chỗ hai bên tả hữu của Thầy trong Nước Thầy (x. Mt 19, 28).
Họ khéo léo nhờ mẹ của mình xin Thầy Giêsu ban cho ơn lớn đó (cc. 20-21).
Đức Giêsu chắc không vui vì môn đệ vẫn chưa được giải thoát khỏi cái trần tục,
“Các người không biết các người xin gì!” (c. 22).
Các môn đệ quá xa lạ với nẻo đường Thầy sắp đi,
dù Thầy vừa mới cho họ biết con đường ấy,
con đường bị chế diễu, bị đánh đòn và bị đóng đinh cho đến chết (Mt 20, 18-19).
Trong khi hai môn đệ thân tín còn loay hoay với những tham vọng thế gian
thì Ngài kéo họ vào hiệp thông với cuộc Khổ nạn gần đến của mình.
Thầy Giêsu mời họ chia sẻ với Thầy cùng một chén đắng:
“Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (c. 22).
“Thưa uống nổi”, đó là câu trả lời đầy tự tin và mạnh dạn của Giacôbê,
Và ông đã thực hiện lời hứa này bằng cái chết (x. Cv 12, 2).
Nhưng Thầy cũng khiêm tốn cho biết Cha mới có quyền sắp chỗ ngồi (c. 23).
Sự bực tức của mười môn đệ kia khi câu chuyện vỡ lở
cho thấy họ cũng thích được ngồi hai bên tả hữu, tuy không tiện nói ra (c. 24).
Thầy Giêsu cho thấy cách sử dụng quyền lực của các nhà lãnh đạo ngoài đời.
Quyền lực là để thống trị người dân, tìm cách bành trướng cái tôi của mình.
Thầy Giêsu khẳng định dứt khoát không có chuyện đó trong Giáo hội của Thầy.
“Giữa anh em thì không được làm như vậy” (c. 26).
Quyền lực và phẩm trật trong Giáo hội là để phục vụ dân Thiên Chúa.
Những người làm lớn, làm đầu trong Giáo hội
lại là người hầu bàn, người tôi tớ, noi gương Đức Giêsu, Người Tôi Trung.
Chính Ngài đã đưa việc phục vụ đến mức cao nhất là hy sinh tính mạng (c. 28).
Cơn cám dỗ về quyền uy, chức tước là cám dỗ muôn thuở cho mọi người.
Các cộng đoàn Kitô hữu cứ phải xét mình mãi
để khỏi rơi vào thói đời mà Đức Giêsu đã long trọng cảnh báo.
 
Cầu nguyện:

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
 
---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 2. Theo Chúa với chén đắng


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Theo Chúa Giêsu không phải để được địa vị, giàu sang, an nhàn, nhưng là để bước theo Chúa trên con đường hy sinh, phục vụ trong khiêm tốn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không phải chỉ có thánh Gia-cô-bê và thánh Gio-an, mà tất cả chúng con đều mơ ước được địa vị, thống trị người khác, được giàu sang, an nhàn. Có lúc con đã tự hỏi: con theo Chúa và hy sinh cho Chúa, nhưng tại sao đời con vẫn nghèo đói, vất vả, bị chèn ép.

Lạy Chúa, Chúa cho con hiểu rằng theo Chúa là phải chấp nhận uống chén đắng khổ nạn của Chúa, chấp nhận từ bỏ mình chứ không phải để được hưởng thụ hoặc được đặc quyền đặc lợi. Chính Chúa đã đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc loài người. Là môn đệ của Chúa, con không thể sống khác Chúa được. Con không thể có con đường nào khác ngoài con đường phục vụ dâng hiến một cách vô vị lợi cho tha nhân.

Càng tiến sâu vào con đường thập giá, con càng được sàng lọc để nên giống Chúa hơn. Nhưng để được điều đó, con phải vật lộn với chính mình, vật lộn với những cám dỗ của thế gian và nhất là phải chấp nhận thiệt thòi.

Lạy Chúa, dù phải trả giá, dù phải hy sinh, con xin sẵn sàng chấp nhận tất cả. Đường thánh giá này con đã chọn, xin tình yêu Chúa trở nên sức mạnh nâng đỡ con. Và con tin rằng chính Chúa sẽ làm cho những bước chân con trên đường hy sinh và phục vụ, nở thật nhiều hoa yêu thương, để từ đó nhiều người nhận biết Chúa và sẵn lòng bước theo Chúa cách vô điều kiện. Amen.

Ghi nhớ: “Các con sẽ uống chén của Ta”.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 3. Thánh Giacôbê Tông đồ


--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó sắp tới của Ngài cho các môn đệ, nhưng xem ra các ông chẳng hiểu gì. Họ vẫn còn giữ nguyên quan niệm của người Do thái là chờ đợi một nước vinh quang trần thế theo nghĩa chính trị.

Họ chỉ nghĩ đến địa vị trong nước mà Đức Giêsu sắp lập. Họ lo bàn cãi và tranh luận với nhau, lo chiếm cho mình một chỗ cao hơn trong vương quốc tương lai. Nhưng Đức Giêsu đã dạy cho các ông một bài học: ở trong vương quốc của Ngài sự cao trọng thực sự không cốt ở trong uy thế và danh dự, nhưng ở trong sự phục vụ tha nhân đến tột cùng, nếu cần: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.

Theo tâm lý chung của loài người, ai cũng muốn được giàu sang phú quí, muốn có địa vị cao, thích ăn trên ngồi trước, muốn được người ta hầu hạ… Nhưng những tiêu chuẩn đó không nhất thiết là của Chúa. Tham vọng lo liệu của những con trai ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã là dịp để Đức Giêsu nói rõ: sự cao trong đích thực ở tại cái gì?

Đức Giêsu không đáp ứng lời cầu xin của hai anh em Giacôbê và Gioan vì nó không thích hợp với đường lối của Ngài. Nhân dịp này Ngài dạy cho các ông là môn đệ đặc biệt của Ngài, và cũng là cho chúng ta một bài học: sự cao trọng không cốt ở danh dự, giàu có, chức quyền danh vọng hay sức mạnh… nhưng ở tại sự phục vụ tha nhân. Chính vì vậy, Ngài mới nói: “Ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ mọi người”. Lời giáo huấn này đi ngược lại với lối hành xử của người đời, buộc chúng ta phải động não!

Đức Giêsu là vị thượng tế có thế giá, luôn chuyển cầu cho chúng ta trước toà Thiên Chúa. Ngài cũng đã trải qua những đau khổ trong đời sống trần thế, đồng thời cũng hé mở cho chúng ta thấy được vinh quang của Ngài sau này khi đã sống lại. Mọi Kitô hữu đều có chức năng tư tế phổ quát, nên cũng phải sống và làm chứng bằng đời sống phục vụ. Và nếu cần, họ cũng phải sẵn sàng hiến mạng sống để chứng tỏ sự trung thực của đời sống phục vụ của mình. Yêu thương là phục vụ, càng phục vụ, tình yêu càng dồi dào thắm thiết.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 4. Tông đồ đầu tiên chết để làm chứng cho Tin Mừng


 --Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan, con của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới. Ngài là một trong bốn môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi đi theo Người (x. Mt 4,18-22 ).

Ngài là một trong những môn đệ thân tín của Chúa, được chứng kiến những biến cố quan trọng trong đời của Chúa Giêsu. Ngài chứng kiến cảnh con ông Zairô được Chúa cho sống lại, việc Chúa biến hình trên núi Taborê, và cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài là người tử đạo đầu tiên trong số các tông đồ đã đổ máu ra để minh chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I vào khoảng năm 43 - 44.

Thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho chúng ta tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của ngài.

Câu chuyện

Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn Tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.

Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta thấy một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.

Sau này khi lên ngôi Giáo hoàng - Đức Gioan XXIII vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.

Suy niệm

Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó của Ngài lần thứ ba, các môn đệ vẫn chưa hiểu hết được mầu nhiệm thập giá, các ông vẫn hy vọng một triều đại Mêssia mà Thầy sắp sửa khai mạc với sự vinh quang của Thầy - Đấng Mêssia - Đấng Cứu Thế. Mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan nhanh chân xin trước hai chỗ danh dự trong nước Ngài: Cho ngồi bên tả và bên hữu Thầy khi vương quốc Mêssia khai mạc. Rõ ràng lời thỉnh cầu này bỏ qua mạc khải hành trình Giêrusalem, bỏ qua thập giá mà Thầy đang mạc khải.

Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây Ta sắp uống chăng?”. Đức Giêsu cố gắng chuyển biến tư tưởng của họ từ “vinh quang của Đấng Mêssia” theo quan niệm con người sang “con đường dẫn đến vinh quang” là xuyên qua khổ giá qua hình ảnh chén đắng. Giacôbê và Gioan dù không hiểu điều các ông xin, nhưng vẫn thưa được. Giacôbê và Gioan đã được Chúa cải hóa tham dự vào chén đắng của Thầy khiến các ông như Thầy sau này đối diện tử nạn: Giacôbê bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44 và là vị tông đồ tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (x. Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrôn, đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết bị khổ sai tại đảo Patmos (x. Kh 1,9).

Trong ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá qua hình ảnh chén đắng và phép rửa, Chúa Giêsu dẫn từ sự mộng mơ về quyền bính vinh quang mà các ông mong muốn đến sự hiệp thông đời sống với Ngài: “Ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con…” (Mt 20,26-27). Chúa Giêsu có quyền hạn đầy đủ của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không hành xử như một vị thống trị, mà trở nên như “một người đầy tớ”. Ngài đã không như “lãnh chúa” mà là “gia nhân” (x. Ga 13,13) bằng cách rửa chân cho các môn đệ vào chiều thứ Năm tuần thánh và dạy bài học phục vụ cho các môn đệ. Cho nên, người môn đệ Đức Giêsu được chọn để phục vụ anh em theo lời giảng dạy và mẫu gương của chính Thầy - Đức Giêsu. Ngài đã khẳng định bổn phận phục vụ dựa trên nền tảng là lối cư xử của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Cuộc sống là hành trình thập giá, như hai môn đệ Gioan và Giacôbê, chúng ta được mời gọi uống chén đắng xuyên qua những đối diện mọi gian nan khốn khó của cuộc đời… Là gánh vác cuộc đời như Chúa Giêsu vác thập giá là chén đắng mà Chúa Cha trao, xuyên qua và trỗi dậy.

Ý lực sống:

“Lạy Cha, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 5. Thánh Giacôbê tông đồ


--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

* Lịch Sử

Thánh Giacôbê (Tiền), con của ngư phủ Dêbêđê và bà Salômê, anh của Tông đồ Gioan. Phúc âm thường nhắc đến hai anh em này. Vì thấy hai anh em có tính nóng nảy, Đức Giêsu đã gọi họ la “Con của thiên lôi” (Mc 3,17).

Giacôbê là nhân chứng cuộc biến hình và những giây phút cầu nguyện của Chúa trong Vườn Cây Dầu. Ngài là người đầu tiên trong Nhóm 12 đã lấy máu đào làm chứng cho Chúa Giêsu: Vua Hêrôđê Antipas đã ra lệnh chặt đầu Ngài vào năm 44 (Cv 12,2 so Mt 20,22-23).

Theo truyền thuyết của Tây ban Nha, xác Ngài được chôn cất tại Santiago de Compostela. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

A. Hạt giống...

Bài Tin Mừng hôm nay thuật một chuyện không hay lắm về Thánh Giacôbê:

- Ngay sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ ba về cuộc chịu nạn sắp tới của Ngài thì hai anh em Giacôbê nhờ mẹ đến xin cho mình hai địa vị ưu tiên trong Nước mà họ tưởng Ngài sắp thành lập: “ngồi bên hữu, ngồi bên tả” không phải chỉ là những chỗ danh dự mà là thực sự thông chia quyền cai trị.

- Trước khi trả lời, Đức Giêsu nhận xét: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì”. Đúng vậy, 3 mẹ con này tưởng “Nước” của Đức Giêsu cũng giống như mọi thứ nước trần gian, trong đó có địa vị và quyền lợi. Họ muốn những chỗ ngồi hai bên tả và hữu của Đức Giêsu nghĩa là muốn hai địa vị ưu tiên trong nước đó.

- Rồi Đức Giêsu hỏi lại: “Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp ống không?” “Chén”: biểu tượng của đau khổ (x. Tv 75,9 Is 51,17-22). Chính Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu đã thốt lên “Xin cho con khỏi chén này” (14,36). Đức Giêsu hỏi 2 ông có thể chịu những đau khổ và sự chết của Ngài không. Hai ông đáp bừa là có thể. Ngài hứa sẽ cho 2 ông thông chia những điều đó. Thực tế sau này Giacôbê đã chịu tử đạo vào khoảng năm 44 (Cv 12,1-2); còn Gioan theo thánh truyền, thì chịu bắt bớ rất đau khổ.

- Khi ấy Đức Giêsu gọi tất cả lại để giáo dục. Trong phần giáo dục, trước tiên Ngài nói tới cách cư xử của các thủ lãnh thế gian (cụ thể là các quan chức của đế quốc Rôma). Họ hay lộng quyền và độc tài. Phần các môn đệ Đức Giêsu, những lãnh tụ tương lai của Giáo hội, thì phải cư xử khác hẳn. Ngài dùng một từ rất đặc biệt là “đầy tớ”: đây là hạng người thấp hèn nhất trong xã hội. Những lãnh tụ Giáo hội phải sẵn sàng phục vụ người ta trong tư thế hèn hạ nhất.

B.... nẩy mầm.

1. Người ta thường nghĩ đến “được” hơn là “mất”. Khi làm một việc gì, người ta tính trước xem việc làm này sẽ cho họ “được” gì; hễ thấy việc gì có thể khiến họ “mất” thì lập tức họ từ chối hoặc tránh né. Lối suy nghĩ đầy tính toán đó cũng ảnh hưởng đến việc người ta đi theo Chúa: theo đạo để “được” sống bình an, sung túc; đi tu để “được” thảnh thơi và người đời coi trọng. Giacôbê và Gioan cũng nằm trong lối suy nghĩ đầy tính toàn đó.

Nhưng Chúa Giêsu dạy một lối sống ngược hẳn: ai muốn theo Ngài thì phải dám mất rồi mới có thể “được” lại sau.

2. “Chúng con không biết chúng con xin gì!”: rất nhiều khi tôi cũng không biết tôi xin Chúa điều gì. Tôi chỉ xin những điều rất phụ tuỳ và là những điều chẳng những không có lợi mà còn có hại cho sự sống đích thực của tôi. Còn những điều quan trọng hơn nhiều và rất cần thiết cho cuộc hành trình đi theo Chúa thì tôi không hề xin.

3. “Chén của Thầy, các con sẽ uống”: lời này Chúa Giêsu không chỉ nói với 2 anh em Giacôbê và Gioan mà nói chung cho 12 môn đệ, và còn nói với tôi nữa. Thế nào chẳng sớm thì muộn tôi cũng sẽ “được” uống “chén” của Chúa. Tôi có chuẩn bị mình sẵn cho lúc đó chưa?

4. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28)

Ngay trong ngày lễ kính thánh Giacôbê tông đồ mà Hội Thánh lại chọn đoạn Tin Mừng thuật lại chuyện ba mẹ con ông Dêbêđê đến gặp và xin Chúa cho được ngồi bên hữu và bên tả Ngài trong Nước Trời thì quả là tội nghiệp cho ông Giacôbê. Nhưng thiết tưởng không chỉ cho Giacôbê mà còn cho 10 môn đệ kia đang tức tối với hai anh em Giacôbê, và cho cả tôi lẫn bạn, những kẻ thích ăn trên ngồi trước, thích chỉ tay năm ngón, thích quyền cao chức trọng, để dùng uy quyền mà sai khiến, để lấy quyền mà thống trị, nói tắt, thích được phục vụ hơn phục vụ.

Lạy Chúa, xin hãy dạy cho con biết chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân (Hosanna)

5. Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi ”sụ” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 6. Hạt giống rơi xuống đất có thối đi...


--Lẽ Sống

Giacôbê, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh của thánh Gioan tông đồ. Người ta quen gọi thánh Giacôbê Tiền để phân biệt với thánh Giacôbê, giám mục đầu tiên của Giêrusalem, được gọi là Giacôbê Hậu, kính ngày 03/5 cùng với thánh Philipphê.

Giacôbê và Gioan là hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi sau khi Ngài đã chiêu mộ hai anh em Phêrô và Anrê. Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại: Hai anh em ông được Chúa gọi ở bờ hồ Genezareth, trong lúc đang ở trong thuyền vá lưới với cha. Ðược Chúa gọi, hai ông bỏ thuyền và người cha để theo Chúa ngay lập tức. Ðiều này chứng tỏ lòng hăng hái nhiệt thành của hai anh em, nên hai người được Ngài cho biệt hiệu là "con cái của sấm chớp" như chúng ta thấy xảy ra ít là trong hai trường hợp sau đây:

Trường hợp thứ nhất khi người xứ Samaria ngăn cản không cho Chúa Giêsu và đoàn môn đệ đi qua lãnh thổ của họ để tiến về Giêrusalem, hai anh em Giacôbê đã hỏi Thầy: "Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?".

Sau đó, trong chuyến đi Giêrusalem lần cuối cùng, cả hai đã đến xin ngồi bên phải và bên trái Thầy, khi Chúa Giêsu sẽ thống trị trong vinh quang. Và khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa câu hỏi của Chúa: "Anh em có uống được chén Ta sẽ uống không?", hai ông đã nhất quyết thưa: "Chúng tôi uống được". Vì thế, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, như các môn đệ khác, Giacôbê cũng can đảm làm chứng những điều mắt thấy tai nghe về Thầy Giêsu, dầu bị cầm tù, đòn vọt, nhưng đã vui mừng vì được đau khổ vì Chúa Giêsu.

Năm 42, vua Hêrôđê, cháu của Hêrôđê cả, người đã âm mưu giết con trẻ Giêsu, đã bách hại một số thủ lĩnh của các tín hữu Kitô, trong số đó có cả thánh Giacôbê, như sách Tông Ðồ Công Vụ ghi: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Giacôbê, anh của ông Gioan. Thấy điều này làm vừa lòng người Do Thái, ông lại bắt cả ông Phêrô nữa".

Với nguồn tin này, chúng ta biết thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin của mình.

Trong thời nội chiến 1936-1939 tại Tây Ban Nha, các quân phiến loạn đốt nhà thờ, nhà thương, tu viện và giết hại nhiều linh mục cũng như nữ tu. Ngày nọ, một vị linh mục già nua bị phiến quân bắt và bị kết án tử hình. Khi bị trói và dẫn đến trước mặt đội lính hành quyết, cha nói với tên trưởng toán: "Xin anh làm ơn cắt dây trói này, để tôi có thể giơ tay chúc lành cho anh và xin Thiên Chúa cũng tha thứ và chúc lành cho các anh".

Lịch sử ghi nhận đa số các tông đồ đã kết thúc cuộc đời chứng tá cho niềm tn bằng những cái chết đau thương, khởi đầu cho những lớp người chứng tá khác trải qua bao thế hệ. Và cũng như vị linh mục trong câu chuyện trên, hàng trăm, hàng ngàn chứng nhân của niềm tin vẫn còn đang bị giam cầm, tra vấn, đày đọa vì niềm tin. Họ chấp nhận những khổ hình một cách bình thản, không oán hận, trái lại, noi gương Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tha thứ cho những ngươi làm khổ họ.

"Hạt giống rơi xuống đất có mục nát và chết đi, mới nảy mầm và phát sinh hoa trái". Không gì minh chứng hùng hồn cho lời tuyên bố này của Chúa Giêsu bằng những cuộc sống chứng tá của các tín hữu Kitô đang chịu đau khổ, giam cầm và tử hình vì niềm tin.

Tử đạo là một ơn gọi đặc biệt, nhưng mọi tín hữu Kitô đều được kêu gọi dâng những ốm đau, bệnh tật, những hy sinh nho nhỏ hằng ngày để cầu cho Nước Cha được trị đến.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 7. Thánh Giacôbê Tông Đồ


--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Đọc lại ơn gọi của các thánh tông đồ, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì tính cách huyền nhiệm và diệu kỳ của Thiên Chúa trên từng con người, trên từng cá nhân. Tin Mừng của thánh Matthêu viết: ”Đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy ông Giacôbê, con ông Dê-bê-đê, và ngươi em là ông Gio-an, cả hai đang vá lưới” (Mt 4,18.21).

ƠN GỌI CỦA THÁNH GIACÔBÊ:

Chúa muốn gọi ai là tùy ý Chúa, không ai có quyền buộc Chúa phải làm thế này, phải làm thế khác. Ơn gọi là một ơn huệ nhưng không của Chúa. Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan, con của ông Dêbêđê. Thánh nhân là bạn đồng nghiệp với thánh Phêrô và thánh Anrê, tất cả đều làm nghề chài lưới và là những tay chài thiện nghệ. Các Ngài đã làm nghề cổ truyền này từ đời cha ông và nay họ vẫn tiếp tục sống bằng nghề đánh cá ở biển hồ Giênêsarét. Thánh Matthêu đã tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên như sau: “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo người. Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,18-22). Tin Mừng nói: Chúa gọi và lập tức họ bỏ tất cả mà theo Chúa Giêsu. Đó là một sự lạ lùng vì chỉ một tiếng gọi, các môn đệ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Giacôbê dù rằng có bị mang tiếng vì bà mẹ của hai người con ông Dêbêđê đã suy nghĩ theo ý trần gian xin cho một ông ngồi bên tả, một ông ngồi bên hữu Chúa trong vương quốc của Ngài, nhưng với sự tác động của Chúa Thánh Thần và với sự thay đổi của ơn Chúa, thánh Giacôbê và thánh Gioan đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Chúa.

THÁNH GIACÔBÊ TRỞ THÀNH NGƯỜI THÂN THIẾT CỦA CHÚA:

Được Chúa yêu thương, cải hóa, biến đổi, thánh Giacôbê đã trở nên người thân cận của Chúa, cùng với thánh Phêrô và thánh Gioan. Thánh nhân đã được chứng kiến con ông Zairô Chúa làm cho sống lại, việc chúa biến hình trên núi Tabôrê, và cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu. Tất cả những điều đó nói lên con người đặc biệt và vô cùng thân tín của Ngài đối với Chúa Giêsu. Chính vì được yêu mến tin tưởng, thánh Giacôbê đã được phước trở thành người tử đạo tông đồ đầu tiên đã đổ máu ra để minh chứng cho Chúa Giêsu phục sinh dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I năm 43 hoặc 44 trước lễ phục sinh. Chúa đã trao chén đắng cho Ngài và Ngài đã chấp nhận uống chén đắng Thầy trao. Chúa đã thưởng công và trao mũ triều thiên cho Ngài. Thánh nhân đã được tôn kính đặc biệt trên thế giới từ thế kỷ IX và lòng tôn kính thánh nhân toả lan khắp thế giới.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 8. Thánh Giacôbê Tông Đồ


--Phụng vụ chư Thánh

1. Thân thế của Giacôbê:

Giacôbê là con của ông Dêbêđê và bà Salômê, anh của thánh Gioan Tông Đồ; sống nghề chài lưới ở biển Giênêgiaréth, bạn chài với Phêrô và Andrê. Tin Mừng thường nhắc đến hai anh em Giacôbê và Gioan Tông Đồ nhiều lần.

 Họ thuộc nhóm những môn đệ tâm giao của Chúa Giêsu (cùng với Phêrô và Gioan). Các ngài được chứng kiến: Việc Chúa cho con gái ông Giairô sống lại // Sự hiển dung của Chúa ở đồi Thabor // Lúc Chúa cầu nguyện ở vườn Cây Dầu.

Giacôbê là người đầu tiên trong Nhóm Mười Hai đã lấy máu đào của mình làm chứng cho Chúa Giêsu: vua Hêrôđê Antipa đã ra lệnh chặt đầu ngài vào năm 44 (Cv 12,2; Mt 20,22-23). Như thế ứng nghiệm lời Chúa tiên báo cho ông: “ông đã thông chia chén của Chúa”.

2. Tính tình của Giacôbê: Giacôbê được gọi là vị Tông Đồ cao vọng (Mt 20,20).

Giacôbê được Chúa gọi là “con của thiên lôi”, điều này cho thấy rằng ông là con người nóng nảy và cuồng nhiệt đến thế nào. Quả vậy, phản ứng của ông đối với các dân thành Samaria đã giải thích điều đó. Khi Chúa qua con đường Samaria để về Giêrusalem, dọc đường những người Samaria đã từ chối không đón tiếp Chúa, Giacôbê đã đế nghị với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt chúng không?” (Lc 9,54).

Cao vọng của Giacôbê còn được thể hiện qua sự việc bà Salômê, là mẹ của ông, đã thỉnh cầu Chúa Giêsu cho Giacôbê và Gioan rằng: “Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây được ngồi một đứa bên tả, một đứa bên hữu Ngài trong Nước của Ngài” (Mt 20,21).

Cao vọng của người mẹ truyền sang cho người con đến độ người mẹ không xin thì con cũng tự xin. Bằng chứng là Márcô kể lại câu chuyện thỉnh nguyện này mà không nhắc đến người mẹ, nhưng chỉ kể Giacôbê và Gioan tự miệng nói ra câu ấy (Mc 10,37).

Tuy Giacôbê có cao vọng như vậy, nhưng Chúa vẫn chọn ông và tín nhiệm ông, và Người đã hoán cải ông. Chúa hoán cải các môn đệ:

Bằng đời sống gương mẫu của ngài: Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông Đồ và Người bảo các Tông Đồ hãy rửa chân cho nhau, vì “Ai muốn làm lớn trong anh em, thì hãy hầu hạ anh em” (Mt 20,27).

Bằng cái chết của Người: con Người đến để thí mạng sống mình hầu làm giá chuộc thay cho nhiều người (Mt 20,28). Các Tông Đồ đã lần lượt chịu tử đạo để theo gương Chúa.

3. Nhận thức và áp dụng:

Thánh Giacôbê thuộc giới thợ thuyền làm nghề chài lưới vất vả; đàng khác lại có tham vọng đi ngược với vai trò và tinh thần của người tông đồ, nhưng Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn ông đi theo Chúa và làm Tông Đồ cho Chúa. Điều này chứng tỏ ơn thánh của Chúa Kitô quả có sức làm biến đổi tâm hồn và cuộc sống của Giacôbê đến độ ông đã hiến mình trọn vẹn cho Chúa.

Noi gương thánh Giacôbê: người tông đồ không nên tự ty mặc cảm về những hèn kém của mình, nhưng tin tưởng vào tình thương và sức mạnh của ơn Chúa để hiến thân trọn vẹn cho Chúa.

Đi theo Chúa, Giacôbê vẫn còn có những tham vọng phàm trần, song nhờ sự giáo huấn của Chúa và nhất là gương sống của Chúa đã khiến ông từ bỏ mọi sự và từ bỏ chính bản thân mình để hiến mình cho Chúa cách trọn vẹn.

Người tông đồ cần lắng nghe lời Chúa để đón nhận những giáo huấn của Chúa; đồng thời phải biết chiêm ngắm gương sống của Chúa để noi gương bắt chước sống trọn vẹn cho Chúa.

Giacôbê được Chúa dành riêng trong nhóm những người thận cận của Chúa để được chứng kiến những sự việc cần thiết cho sứ mạng làm chứng nhân trong vai trò người Tông Đồ.

Những ai được mời gọi sống đời thánh hiến, cũng được tuyển chọn riêng trong thời gian tu luyện để tìm gặp Chúa, đến với Chúa, ở lại với Chúa và để được biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa, hầu có thể chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 9. Thánh Giacôbê Tông Đồ


--Giuse Đinh Thành Đạt SDB

Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu. Người ta gọi Ngài là thánh Giacôbê Tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm giám mục Giêrusalem.

Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20). Cũng theo Tin Mừng của Marcô thì Giacôbê là một trong bốn môn đệ được Chúa gọi đầu tiên tại biển hồ Galilêa (Mc 1, 16-20). Trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu, vị Tông đồ này luôn có mặt, ông đã chứng kiến phép lạ Chúa chữa nhạc mẫu Phêrô khỏi bệnh (Mt 1, 29-31), con gái ông Giairô sống lại (Mc 5, 37-43), Chúa biến hình trên núi (Mc 9,2-8), và lúc chúa Giêsu hấp hối ở vười Gietsimani (Mt 26,37). Hai anh em Giacôbê và Gioan được Chúa đặt cho một biệt hiệu khá "kêu" là: "Boanergès" có nghĩa là con sấm sét (Mc 3,17). Chắc cũng vì cá tính của Giacôbê hơi nóng nảy khi cùng với Chúa Giêsu đi vào làng Samari và dân làng không đón tiếp. Thấy vậy, Giacôbê và Gioan cùng đề nghị với Chúa rằng: "Thưa thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?" (Lc 9, 54)."

 Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng phục sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của Ngài, trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tình mến của mình vào thế kỷ II. Theo sách Công vụ kể lại thì có thể Thánh Giacôbê chịu tử đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I, vào cuối thế kỷ thứ II, khoảng năm 44: "Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan" (Cv 12,1-2). Đây là thời kỳ bách hại các Kitô hữu rất dữ dội, trong suốt ba thế kỷ đầu và chỉ tạm lắng xuống sau sắc chỉ Milan của hòang đế Constantianop vào năm 313.

Quả thực, khi xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên hữu và bên tả của Ngài, Giacôbê đã được Chúa báo trước cuộc tử đạo mà những ai muốn theo Chúa phải đón nhận. Chén đắng cùng với mũ triều thiên vinh quang trong nước trời. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu đã làm sáng tỏ chén đắng mà Chúa Giêsu uống, khi Người trao lại cho thánh nhân, và Giacôbê sẵng sàng đón nhận: "Ngay từ phút đầu tiên, Người đã cháy lửa nhiệt tình, và trong sự khinh chê lạ thường các lợi lộc trần gian, Người đã tiến tới đỉnh cao đến độ tức thời bị đem đi giết” (trích bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu trong bài đọc giờ Kinh sách). Giáo hội phương tây mừng kính Ngài từ thế kỷ thứ VIII. Các Giáo hội theo nghi lễ Copte và Byzantin thì mừng lễ Ngài sớm hơn vào một ngày gần lễ Phục sinh.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 10. Thánh Giacôbê Tông Đồ


--Lm Phaolô Phạm Quốc Tuý

Thánh Giacôbê, con ông Giêbêdê và bà Salomê, là anh của thánh Gioan và bà con với Chúa Giêsu. Người ta gọi ngài là thánh Giacôbê tiền, để phân biệt với thánh Giacôbê hậu, cũng là một tông đồ và làm Giám mục Giêrusalem. Gọi là "tiền" vì ngài được gọi trước hay vì ngài cao lớn hơn, nhất là vì ngài lớn tuổi hơn.

Thánh nhân cùng với em là Gioan được kêu gọi làm tông đồ trong khi họ đang chài lưới bên bờ biển Galilê (Mc 1,19-20). Trong tường thuật này, chúng ta thấy gia đình ông Giêbêđê xem như cũng khá giả và có thuê những người làm công.

Kể từ khi bỏ cha mẹ, chài lưới và những người làm công, anh em Giacôbê và Gioan luôn sát cánh bên Chúa. Họ chia sẻ với Người nếp sống "con cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ dựa đầu" và trong những buổi tiệc vui như ở Cana (Ga 2,1). Trong cộng đoàn tông đồ, Giacôbê luôn giữ một chỗ đứng quan trọng sau Phêrô. Bởi vậy ngài được vào số ba môn đệ trong các biến cố phục sinh cho con gái Giarô (Mc 5,37) biến hình (Mc 9,2) và hấp hối ở Gethsemani (Mc 14,33).

Giacôbê hẳn phải hiểu rõ đặc ân của mình và ông đã đáp trả bằng một nhiệt tình cũng đặc biệt. Một lần qua Samaria, ông đã bất mãn vì dân làng không tiếp đón Chúa Giêsu một cách nồng hậu. Ông phát biểu: -Thưa Ngài, Ngài có muốn chúng tôi khiến lửa từ trời giáng xuống mà tiêu diệt chúng không?

 Nhiệt tình của ông giống như Êlia. Nhưng Chúa Giêsu lại sửa sai tính nóng nảy ấy của ông: -Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào (Lc 9,52-56). Và người đặt cho Giacôbê và Gioan biệt danh là Boanerghê, nghĩa là con cái của sấm sét (Mc 3,17).

Dĩ nhiên là con người, khi theo Chúa Giêsu, các ông vẫn còn những yếu đuối, khi nghe loan báo về cuộc hoàn thành sứ mạng sắp tới, Giacôbê và em ông không ngần ngại thưa: - Xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả, trong vinh quang của thầy.

Không hứa sẽ thỏa mãn ước vọng của họ, Chúa Giêsu đã chỉ hỏi: -Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?

Một lần nữa, các ông bày tỏ nhiệt tình của mình: - Thưa được (Mt 20,20-23; Mc 10,35-40).

Đã có những phút giây Giacôbê vì yếu đuối như các tông đồ khác, như khi ngủ vùi khi Chúa Giêsu trải qua cơn hấp hối hay như việc ông trốn chạy trước cuộc khổ nạn của Thầy. Tuy nhiên, sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh, nhất là sau ngày lễ Hiện Xuống, Giacôbê đã thực hiện lời hứa của ngài. Ngài sẵn sàng chịu chết dưới lưỡi gươm theo lệnh truyền của Hêrôđê Agrippa (Cv 12,2), có lẽ vào năm 42. Thế là Giacôbê đã trở thành vị tông đồ đầu tiên lấy máu đào làm chứng đức tin và tình mến của mình vào thế kỷ II, Clêmentê thành Alexandria đã làm chứng rằng, chính kẻ tố cáo thánh nhân lại được ngài cải hóa và lãnh phúc tử đạo cùng lúc với ngài.

Truyền thống cho rằng Giacôbê đã mang Tin Mừng đến Tây Ban Nha. Tuy nhiên điều này không được chứng thực rõ ràng. Lần đầu tiên truyền thống này được viết ra vào thế kỷ VII, dựa vào nguồn Hy lạp không đáng tin. Một thế kỷ sau, khi một ngôi sao chỉ cho thấy ngôi mộ của thánh Giacôbê, niềm tin của quần chúng bắt đầu lan rộng.

Nơi hành hương ở Compostella (có lẽ bởi chữ Campustella: cánh đồng sao) là trung tâm rất nổi tiếng dầu chúng ta tin rằng thánh Giacôbê có đi Tây Ban Nha đi nữa thì cũng không thể nói được rằng nơi đây có di tích của thánh nhân.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 11. Sức mạnh Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối của con người


--Lm Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Con người bị bao vây bởi những yếu đuối về thể xác cũng như tinh thần: về thể xác: nghèo đói, bệnh tật, nguy hiểm, chết chóc; về tinh thần: ghen ghét, hận thù, tội lỗi. Tuy thế, lịch sử Giáo Hội không ngừng chứng minh: sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động nơi những con người yếu đuối. Ví dụ: Phêrô chối Chúa 3 lần thành người điều khiển Giáo Hội, Phaolô nhiệt thành bắt bớ Đạo thành người nhiệt thành rao truyền Đạo, Augustino một thanh niên chơi bời hư hỏng thành thánh Giám-mục loan truyền tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa...

Các Bài Đọc hôm nay muốn làm sáng tỏ tư tưởng Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô so sánh sức mạnh của Thiên Chúa như kho tàng chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm, vì ham muốn quyền bính và địa vị, người mẹ của Giacôbê và Gioan xin với Chúa Giêsu cho hai con mình được một đứa ngồi bên phải và một đứa ngồi bên trái trong vương quốc của Ngài. Điều này gây sự ghen tị và chia rẽ trong hàng ngũ các môn đệ. Chúa Giêsu gọi các ông lại và chỉ dạy các ông con đường lãnh đạo: hy sinh chịu gian khổ và phục vụ mọi người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.

1.1/ Kho tàng chứa đựng trong bình sành: Kho tàng là các hồng ân của Thiên Chúa và sức mạnh của Đức Kitô. Một sự phân tích những tư tưởng sau cho chúng ta thấy kho tàng của Thiên Chúa chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối của con người:

+ Bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp: Phaolô phải chịu bao áp lực nhưng ông vẫn có thể tìm cách thoát ra. Ví dụ: khi bị giam hãm trong lao tù, ông vẫn có thể cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa muốn, Ngài vẫn có cách để giải thoát ông nhiều lần.

+ Bị hoang mang, nhưng không tuyệt vọng: Nhiều lần trong đời, Phaolô cũng như chúng ta hoang mang không biết đâu là thánh ý Chúa để theo. Thánh Gioan Thánh Giá gọi đây là "những đêm tăm tối," khi chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa; nhưng chúng ta vẫn dùng đức tin để vượt qua và tiến tới. Khi đã trải qua rồi, chúng ta nhìn lại và nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa.

+ Bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi: Người môn đệ của Đức Kitô sẽ bị người đời ngược đãi: nói hành, bôi nhọ, bắt bớ, tù đày... vì họ không sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Ngài hứa sẽ ở cùng các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế, và Thánh Thần sẽ giúp họ biết phải nói gì và làm gì khi bị thế gian ngược đãi.

+ Bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt: Phaolô cũng như các tín hữu đã nhiều lần bị quật ngã: hoặc cách thể lý như bị ngược đãi bởi người đời, hoặc cách tâm linh như những lúc sa ngã phạm tội. Nhưng với sức mạnh và ơn thánh của Chúa, họ lại trỗi dậy, giao hòa với Chúa, và tiếp tục phấn đấu cho đến hơi thở cuối cùng.

Hiểu như thế, cuộc đời mỗi tín hữu là cuộc đời luôn vác thánh giá theo chân Đức Kitô, như Phaolô diễn tả: "Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi."

1.2/ Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Đức Kitô là người đi tiên phong mở đường cứu độ bằng cách mặc lấy thân xác yếu đuối của con người để rao truyền Tin Mừng, để huấn luyện các môn đệ trước khi sai đi, và hy sinh chịu gian khổ để chuộc tội cho con người.

Noi gương Đức Kitô, Phaolô và các môn đệ cũng đi theo con đường đó: Các ông được sai đi rao giảng Tin Mừng, thu thập và huấn luyện các môn đệ để tiếp tục sai đi, và cũng phải hy sinh chịu gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô và cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi. Các môn đệ dám hy sinh tất cả cho dẫu phải đổ máu vì các ông biết rằng: "Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho các ông được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt các ông bên hữu Người."

Các tín hữu sau khi đã nhận được đức tin từ Phaolô và các môn đệ lại tiếp tục tiến trình đó, và cứ như vậy cho đến ngày Đức Kitô trở lại. Nếu tất cả đều trung thành với sứ vụ của mình và làm chứng cho Đức Kitô, toàn thế giới sẽ được nghe Tin Mừng và trở thành những môn đệ của Ngài. Lúc đó Nước Chúa sẽ trị đến, như Phaolô hy vọng: "Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người."

2/ Phúc Âm: Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.

2.1/ Tính mỏng giòn yếu đuối của con người:

(1) Lòng ham muốn địa vị: "Bấy giờ bà mẹ của các con ông Zebedee đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà: "Bà muốn gì?" Bà thưa: "Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy."

Có sự khác biệt giữa hai trình thuật giữa Marcô và Matthew về biến cố này: Theo trình thuật của Marcô, chính hai anh em yêu cầu điều này với Chúa Giêsu. Theo trình thuật của Matthew, lời yêu cầu được làm qua người mẹ. Dù sao chăng nữa, đây cũng là điều yếu đuối rất thường xảy ra nơi con người: ai cũng mong được hơn người, có quyền hành và địa vị, và được người khác kính nể, phục vụ. Hai anh em không ngại đi theo Chúa, nhưng đi theo để đạt mục đích trần thế của mình.

(2) Lòng ghen tị khi thấy người khác hơn mình: "Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó." Điều này cũng là yếu đuối con người nữa: Dưới mắt các ông, chỉ có hai chỗ cao trọng nhất mà hai anh em nhà Zebedee đã giành, còn mình ngồi đâu? Hơn nữa, hai anh em cùng với Phêrô, thường được coi là những người "thân tín" của Chúa!

2.2/ Sự khôn ngoan của Thiên Chúa:

(1) Lãnh đạo bằng hy sinh chịu đựng gian khổ: Đức Giêsu bảo họ: "Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?" Họ đáp: "Thưa uống nổi."

Đức Giêsu bảo: "Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được." Lịch sử chứng minh Giacôbê cũng uống chén đắng của Chúa bằng việc tử đạo tại Jerusalem (Acts 12:1-2), và Gioan uống chén đắng bằng cách sống trung thành với Đức Kitô cho đến tuổi già.

(2) Lãnh đạo bằng khiêm nhường phục vụ tha nhân: Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta đừng bao giờ nản chí khi phải đương đầu với yếu đuối của thân xác và sa ngã của linh hồn, vì sức mạnh của Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong chúng ta.

- Chúng ta phải sống theo chỉ đạo và đường lối của Thiên Chúa: lãnh đạo bằng hy sinh và phục vụ. Đừng sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian để đòi danh vọng và chức quyền.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 12. Thánh Giacôbê Giêbêđê, Vị Tông Đồ Cao Vọng


--‘13 Người Đã Thay Đổi Thế Giới’

Ông tên là Gia-cô-bê, em ông cũng là Tông Đồ tên là Gio-an. Cha ông tên là Dê-bê-đê, một người ngư phủ. Mẹ ông tên là Sa-lô-mê, chị họ của bà Ma-ri-a (có thể là mẹ Đức Giê-su Na-da-rét).

Bà Sa-lô-mê là một con người độc đáo. Có một lần bà đến gặp Đức Giê-su và thỉnh cầu cho con bà. Bà nói: "Xin Ngài truyền lệnh cho các con tôi đây, được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài trong nước của Ngài..." (Mt 20, 21). Đấy, bà xin xỏ cho hai con trai được hai chỗ danh dự, thành hai quan cận thần, chức tước cỡ lớn, áo mão xênh xang.

Có những bà mẹ thúc giục con mình thực hiện điều mình mơ ước nhưng không thực hiện được. Họ xô đẩy, níu kéo con mình, họ làm áp lực. Họ muốn con mình được giàu sang vinh dự. Họ không chỉ mưu ích cho con mà còn cho cả chính mình. Thử nghĩ, khi hai con ông Dê-bê-đê làm quan to trong triều thì mọi người sẽ nhìn bà bằng cặp mắt nể phục biết bao...

Phía sau Gia-cô-bê là một bà mẹ đầy cao vọng.

Nhưng ta chớ quên đi điều này: Bà đã theo Chúa Ki-tô, Bà tin vào Chúa và bà đã được hoán cải. Bà đứng dưới chân thập giá khi Chúa chết. Chúa đã không lên ngai vàng mà Người chỉ lên thập giá. Và dưới chân Người, bà Sa-lô-mê đứng đó.

Cao vọng của người mẹ được chuyển qua người con, qua Gia-cô-bê hơn là Gio-an.

Nhưng, dù cho Gio-an mang giòng máu của bà nhưng Gio-an có một tâm hồn đầy tế nhị, yêu thương nên cao vọng xâm chiếm lòng ông ít hơn là đối với Gia-cô-bê.

Gia-cô-bê là anh, làm nghề ngư phủ với cha mình. Con người của Gia-cô-bê sôi sục, nóng bỏng, vì thế, Gia-cô-bê dễ dàng làm mồi cho cao vọng. Ông được Chúa gọi là "Con-Của-Sấm-Sét" để thấy rằng ông là người nóng nảy, cuồng nhiệt đến thế nào. Điều này cũng giải thích được phản ứng của ông đối với dân Sa-ma-ri-a.

Đức Giê-su về Giê-ru-sa-lem và phải đi qua miền Sa-ma-ri-a. Giữa người Sa-ma-ri-a và người Do-thái vốn có sự xung khắc. Đức Giê-su sai người đến một làng gần đó để chuẩn bị chỗ cho Người và các Tông Đồ nhưng dân Sa-ma-ri-a từ chối. Thế là Gia-cô-bê và Gio-an nổi giận. Họ nhớ lại có lần Ngôn Sứ Ê-li-a gọi lửa từ trời xuống, họ cũng đề nghị với Chúa tương tự: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng ta khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt bọn chúng không?" (Lc 9, 54)

Chúng ta chứng tỏ cho bọn họ thấy quyền năng, cho mọi người biết rằng chúng ta có quyền sai lửa xuống cho họ khiếp.

Nhưng Đức Giê-su quở trách họ: "Anh em không biết anh em ứng theo Thần Khí nào. Vì Con Loài Người đến không phải để hủy diệt mạng sống người ta mà là để cứu họ..." (Lc 9, 55 – 56).

Cao vọng của người mẹ đã truyền sang người con đến độ nếu người mẹ không xin thì con cũng tự ý xin.

Bằng cớ là Thánh Mác-cô đã kể lại câu chuyện tương tự nhưng lại không nhắc đến người mẹ mà chỉ để cho chính Gia-cô-bê và Gio-an tự miệng nói ra: "Xin Thầy cho chúng con được ngồi một người bên tả, một người bên hữu trong vinh quang của Thầy" (Mc 10, 37).

Và Chúa đã dạy họ một bài học. Chúa cho họ biết rằng những chỗ danh dự trên trời không dành cho những kẻ bè phái, nịnh hót, xin xỏ, nhưng dành cho những người xứng đáng: "Anh em không biết anh em xin gì? Anh em có thể uống chén Thầy uống và chịu thanh tẩy cùng một thứ thanh tẩy mà Thầy chịu không?" (Mc 10, 38).

Muốn là phải được.

Người có nhiều cao vọng thì hứa thi hành tất cả.

Gia-cô-bê không hiểu mình đã hứa một điều hệ trọng như thế nào khi ông vội vàng đáp lời Chúa là: "Thưa Thầy được ạ!"

Và câu trả lời của Chúa tiếp đó quả thật là khó hiểu đối với ông:

"Chén của Thầy, anh em sẽ uống,
Thanh tẩy Thầy chịu, anh em sẽ chịu,
Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả của Thầy,
Thầy không có quyền ban,
Nhưng là dành cho ai đã tiền định." (Mc 10, 39 – 40)

Mãi sau này, Gia-cô-bê mới hiểu ra.
Và lúc ấy, có thể ông nhớ lại lời thỉnh cầu lúc trước và cảm tạ Chúa vì Người đã không nhận lời...
Bên hữu và bên tả ư?
Chắc không phải trong đêm Thầy bị phản bội,
vì ông đã bỏ rơi Người mất.
Chắc không phải khi Người bị đưa ra công nghị để bị la ó chế diễu,
Chắc không phải khi Người bị đánh tả tơi trong sân Phi-la-tô,
Chắc không phải khi Người bị bắt phải vác khổ giá,
Chắc không phải khi Người bị đóng đinh mà treo lên giữa trời.
Không,
Gia-cô-bê không muốn ở bên hữu bên tả Người những khi ấy.
Gia-cô-bê mừng thầm
vì lời thỉnh cầu đã không được Chúa chấp thuận.
Gia-cô-bê cũng không đứng gần thánh giá Chúa,
Gia-cô-bê không dám: ông quá hèn nhát...
Thế nhưng,
Đức Giê-su đã nói với ông rằng ông sẽ uống chén với Người.
Thử hỏi trong số chúng ta
có được mấy người mong muốn uống chén Chúa uống?
chén của đau khổ, của hấp hối,
chén của khó khăn, của thử thách...
Chén ở đây là con đường thực hiện Ý Chúa.
"Thưa được", chúng con uống được...
Chúng ta có ý thức đưọc chúng ta nói gì đó chăng?
Chúng ta có hiểu được giá phải trả
khi trở nên môn đệ Chúa chăng?
Chúng ta có biết được tương lai ra sao khi theo Chúa chăng?
Ai chấp nhận Chúa là chấp nhận vác thập giá theo Chúa.
Người theo Chúa đầu tiên là Áp-ra-ham. Áp-ra-ham là người đầu tiên trung thành bước theo tiếng nói "bóc lột" của Thiên Chúa: "Hãy ra đi, bỏ tất cả của cải ngươi, xứ sở mgươi, di sản của cha ông ngươi, tập quán, quá khứ của ngươi..." Và Áp-ra-ham đã ra đi mà không biết mình đi về đâu! (Dt 11, 8)

Và sau này, Gia-cô-bê cũng đã uống chén đó: ông chịu tử đạo,

Ông là Tông Đồ đầu tiên đổ máu dưới thời Hê-rô-đê,

Ông đã uống cạn chén Chúa đã uống...

Trong câu chuyện này, ta thấy một sự kiện khiến ta suy tư về chữ "Thánh" nằm trước tên các Tông Đồ như Thánh Phê-rô, Thánh An-rê, Thánh Mát-thêu...

"Khi 10 người kia nghe được nhũng lời thỉnh cầu của Gia-cô-bê và Gio-an, họ phẫn uất với hai anh em..." (Mt 20, 24).

Vâng, họ ganh tỵ, xét cho cùng, họ cũng đầy cao vọng. Họ cũng cao vọng bằng hai anh em nhưng họ không đủ can đảm để xin như những "Đứa-Con-Của-Sấm-Sét".

Phân tích ra như vậy thật là nản lòng. Hào quang các vị cũng bị vẩn đục ít nhiều chăng? Ta cứ nghĩ rằng mười ba người này thánh thiện, ta gán cho họ những nhân đức cao siêu.

Họ thay đổi cả thế giới,
họ di chuyển được cả núi non.
Và, ta đã tạc tượng cho họ.
Giờ đây, xem ra họ cũng như ta vậy thôi:
họ bất toàn, họ ích kỷ, họ đầy ắp cao vọng, và thêm vào đó,
họ còn giả hình nữa!
Nhưng, đây mới là điều đáng nói:

Đức Giê-su đã chọn những người ấy.
Và, quả thật họ đã thay đổi cả bộ mặt thế giới,
họ đã di chuyển cả núi non.
Đức Giê-su đã không chọn những con người hoàn hảo.
Người đã không chọn những kẻ thánh thiện ngay từ trong lòng mẹ.
Nhưng Chúa đã chọn những người có máu ganh tỵ, ích kỷ, tham lam,
cao vọng nhất, như Gia-cô-bê.
Người chọn họ vì Người muốn hoán cải họ.
Hoán cải thế nào?
Thưa, bằng chính đời sống của Người.
Họ noi gương Người,
gương của Đấng quỳ xuống mà rửa chân cho họ:

"Ai muốn làm lớn trong anh em thì hãy hầu hạ anh em" (Mt 20, 27).

Chúa còn hoán cải họ bằng cái chết của Người.
Họ biết vì sao Người sống, họ nghe Lời Người dạy.
Giờ đây, Người thi hành điều đã loan báo.
Người vâng phục Thánh Ý Cha cho đến chết,
dù là cái chết nhục nhã trên thập giá:

"Con Người đến để thí mạng sống mình
hầu làm giá cứu chuộc thay cho nhiều người..." (Mt 20, 28)

Chúa còn hoán cải họ bằng chính Thánh Thần của Người.
Một Thần Khí mới,
không phải tinh thần ích kỷ, tham lam, ganh tỵ và giận dữ,
nhưng là Thần Khí của Thiên Chúa.
Thánh Thần ở bên trong họ và thay đổi họ tự thâm sâu...
Hình ảnh thành công của chúng ta thường là hình tháp.
Ta càng lên cao thì càng ít người bằng ta,
và ta càng có nhiều người ở dưới.
Mục đích của chúng ta là đỉnh kim tự tháp.
Không ai bằng ta, ta hơn hết mọi người...
Gia-cô-bê cũng từng mong muốn như thế.
Ông mong được ngồi bên hữu hay bên tả Chúa.
Chỉ có Chúa là hơn ông, còn mọi người thì đều ở dưới chân.
Chúa đã đến, Chúa đã lật ngược hình tháp.
Càng tiến lên, ta càng có nhiều người ở bên trên,
ta càng có nhiều người để phục vụ.
Và Đức Giê-su, đỉnh của kim tự tháp lật ngược đó,
Mang lấy tội lỗi thay cho cả nhân loại:

"Con Người đến để hầu hạ,
và thí mạng sống mình làm giá chuộc..." (Mt 20, 28)

Vấn đề của chúng ta là ở đó:

Chúng ta muốn thực hiện cao vọng của ta
Hay chúng ta chấp nhận để khát vọng Chúa thể hiện trong ta?
Chúng ta muốn uống ly rượu ngọt của mình
Hay là uống chén mật đắng của Chúa?
Và, tự muôn thuở cho đến mãi mãi,
Con người chúng ta cứ bị đong đưa
giữa ý mình và Ý Chúa, giữa cửa hỏa ngục và Cửa Thiên Đàng...

------------------------------

 
 

Suy Niệm 13. Thánh Giacôbê nhiệt thành


(Sưu tầm)

Đức Giêsu là một nhà giáo dục đại tài, không chọn những nhà thông thái tài giỏi làm tông đồ, nhưng người chỉ chọn những tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn và nhiệt thành. Lòng nhiệt thành của Thánh Giacôbê và thánh Gioan đã khiến Chúa đặt cho cái tên là con của Thiên Lôi.

Thật đẹp thay, xinh thay những bước chân người tông đồ công bố tin vui. Vượt đèo cao, sông sâu, qua núi, qua rừng đem nguồn sống cho mọi nơi. Thánh Giacôbê đã bước theo Chúa suốt ba năm Người công khai rao giảng Tin Mừng, Thánh nhân đã cùng với Đức Giêsu trải qua biết bao gian khó từ khi được gọi làm Tông đồ. Ông là một trong bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu mời gọi.

Với lòng nhiệt thành sẵn có, ông cùng với em mình lập tức bỏ mọi sự mà theo Người. Rồi cùng với Thánh Phêrô và Thánh Gioan, được chứng kiến biến cố Hiển Dung của Chúa trên núiTabor, được cùng đi với Chúa vào vườn Giệtsimani lúc khởi đầu cuộc thương khó.

Phúc âm kể lại một biến cố lạ lùng trong đời sống của Thánh Giacôbê là: khi ấy, bà mẹ của các con ông Dêbêđê đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo, bà bái lạy và kêu xin Người một điều: “Xin Thầy truyền cho hai con tôi, một người ngồi bên hữu một người ngồi bên tả Thầy trong nước của Thầy”. Đức Giêsu bảo: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì ư, các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “ Thưa uống nổi”. Chúa Giêsu đã chấp nhận lời đáp trả ấy vì lòng quảng đại và nhiệt thành của những người trẻ sẵn sàng làm Tông đồ loan báo Tin Mừng nhưng Chúa phán tiếp: “Chén của Thầy, các ngươi sẽ uống”. Từ lúc này, trong con người của Thánh Giacôbê đã có một cuộc biến chuyển nội tâm lâu dài. Sự nhiệt thành trước kia chống lại những người Samari không muốn đón tiếp Chúa Giêsu, đã biến nên lòng nhiệt thành vì các linh hồn. Tuy không làm mất đi cá tính hăng hái của mình, nhưng thánh Giacôbê biết rằng nhiệt tâm vì quyền lợi Thiên Chúa không thể dính dáng đến bạo lực. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa là khát vọng duy nhất xứng đáng mà thôi. Theo trình thuật Phúc âm, cũng như các tông đồ, thánh nhân cũng có những khuyết  điểm. Tuy nhiên, bên cạnh những khuyết điểm ấy Ngài có một tâm hồn và một con tim vĩ đại. Và vì lòng nhiệt thành cho các linh hồn nên Thánh nhân đã là vị Tông đồ đầu tiên được phúc tử đạo.

Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con nguồn sức mạnh từ nơi Chúa để chúng con luôn mang trong mình một trái tim quảng đại, sẵn sàng dấn thân hy sinh nhiệt thành phụng sự Chúa, mưu ích cho các linh hồn. Noi gương Thánh Giacôbê, Chúng con sẽ trở thành những tông đồ hăng say rao giảng Tin Mừng, để nước Chúa ngày càng lan rộng khắp nơi.

------------------------------

 
 

Suy Niệm 14. Thánh Giacôbê Tông Đồ


--Lm Giacôbê Tạ Chúc

Trong danh sách mười hai Tông đồ mà Chúa chọn, có hai người cùng mang tên là Giacôbê, một người là anh của Thánh Gioan viết Phúc âm, con ông Giêbêđê  và một người là con của ông Alphê. Để phân biệt hai Tông đồ này, người ta gọi Thánh Giacôbê Tông đồ hậu và Giacôbê Tông đồ tiền. Phụng vụ vào ngày 25 tháng 7 hằng năm cử hành lễ kính Thánh Giacôbê Tông đồ Tiền.

Thân thế của Thánh Giacôbê

Ông xuất thân trong một gia đình ngư phủ tương đối khá giả tại Betsaiđa, thân sinh là ông Giêbêđê có người làm thuê (Mc 1, 19-20). Cũng theo Tin mừng của Marcô thì Giacôbê là một trong bốn môn đệ được Chúa gọi đầu tiên tại biển hồ Galilêa (Mc 1, 16-20). Trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu, vị Tông đồ này luôn có mặt, ông đã chứng kiến phép lạ Chúa chữa nhạc mẫu Phêrô khỏi bệnh (Mt 1, 29-31), con gái ông Giairô sống lại (Mc 5, 37-43), Chúa biến hình trên núi (Mc 9,2-8), và lúc Chúa Giêsu hấp hối ở vười Gietsimani (Mt 26,37). Hai anh em Giacôbê và Gioan được Chúa đặt cho một biệt hiệu khá “kêu” là: ”Boanergès” có nghĩa là con sấm sét (Mc 3,17). Chắc cũng vì cá tính của Giacôbê hơi nóng nảy khi cùng với Chúa Giêsu đi vào làng Samari và dân làng không đón tiếp. Thấy vậy, Giacôbê và Gioan cùng đề nghị với Chúa rằng: ”Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?” (Lc 9, 54).

Cuộc Tử đạo của Ngài

Theo sách Công vụ kể lại thì có thể Thánh Giacôbê chịu tử đạo dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I, vào cuối thế kỷ thứ II, khỏang năm 44: ”Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra  tay ngược đãi một số người trong Hội thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan” (Cv 12,1-2). Đây là thời kỳ bách hại các Kitô hữu rất dữ dội, trong suốt ba thế kỷ đầu và chỉ tạm lắng xuống sau sắc chỉ Milan của hòang đế Constantianop vào năm 313. Giáo hội phương tây mừng kính Ngài từ thế kỷ thứ VIII. Các Giáo hội theo nghi lễ Copte và Byzantin thì mừng lễ Ngài sớm hơn vào một ngày gần lễ Phục sinh.

Thông điệp của Thánh nhân

Khi xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên hữu và bên tả của Ngài, Giacôbê đã được Chúa báo trước cuộc tử đạo mà những ai muốn theo Chúa phải đón nhận. Chén đắng cùng với mũ triều thiên vinh quang trong nước trời. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu đã làm sáng tỏ chén đắng mà Chúa Giêsu uống, khi Người trao lại cho Thánh nhân, và Giacôbê sẵng sàng đón nhận: ”ngay từ phút đầu tiên, Người đã cháy lửa nhiệt tình, và trong sự khinh chê lạ thường các lợi lộc trần gian, Người đã tiến tới đỉnh cao đến độ tức thời bị đem đi giết” (trích bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu trong bài đọc giờ kinh sách).

 ------------------------------

 
 

Suy Niệm 15. Hãy theo Thầy


--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

(2 Cr 4, 7-15; Mt 20, 20-28)

Ơn gọi làm môn đệ là một huyền nhiệm, bởi vì chẳng ai được gọi lại cho mình là xứng đáng với sứ vụ. Mặt khác, không ai có quyền buộc Thiên Chúa phải chọn mình vào trong chức này, việc nọ theo ý riêng. Vì thế, Thiên Chúa chọn và gọi ai tùy ý Ngài, miễn sao người được chọn cảm nghiệm và sẵn sàng đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Ngài.

Cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương mình quá đỗi, thánh Giacôbê đã rắp tâm đáp lại lời mời gọi làm môn đệ của Đức Giêsu ngay lập tức. Dẫu biết rằng bản thân mình chỉ là một con người tài thô ý thiển. Thật vậy, thánh nhân làm nghề chài lưới, được truyền từ đời này sang đời khác. Một nghề bình thường trong các nghề của người sinh thời với thánh nhân.

Tuy nhiên, khi được Đức Giêsu yêu thương, gọi và chọn, thánh nhân cũng được Ngài biến đổi, cải hóa để trở thành những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu trong hành trình loan báo Tin Mừng. Từ một môn đệ “tham, sân, si” khi nhờ mẹ đến xin cho mình một địa vị ưu tiên trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập, trở thành một con người say mê Đức Giêsu thực sự, nên được chính Đức Giêsu cho chứng kiến các thời điểm quan trọng trong cuộc đời Ngài.

Thánh Giacôbê đã là nhân chứng cuộc biến hình trên núi Tabor; chứng kiến con ông Zairô được Đức Giêsu làm cho sống lại; chứng nhân trong vườn Cây Dầu lúc Đức Giêsu hấp hối, và là người đầu tiên trong Nhóm 12 đã lấy máu đào làm chứng cho Thầy Chí Thánh của mình.

Vì yêu mến Đức Giêsu hết lòng, ngài hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đấng Cứu Thế, Đấng ấy: “… đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), nên ngài đã từ bỏ hết tất cả những địa vị mà trong tâm tưởng vẫn hy vọng theo kiểu thế gian, chấp nhận mất tất cả để chỉ còn một mối lợi duy nhất là được biết Đức Kitô, và sẵn sàng làm chứng cho Ngài.

Hôm nay, phụng vụ mừng kính lễ thánh Giacôbê Tông đồ. Giáo Hội muốn nêu bật gương sáng về lòng yêu mến Chúa và trung thành với sứ vụ nơi thánh nhân.

Nhân ngày lễ thánh Giacôbê, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được trở nên giống ngài. Biết nhìn nhận những sự bất toàn của mình để cho Lời Chúa uốn nắn ta theo ý Chúa. Luôn yêu mến và biết tạ ơn Chúa vì những hồng ân đặc biệt Chúa ban cho chúng ta. Đặc biệt, khi đã hiểu được con đường cứu độ của Thiên Chúa và thái độ cần có để được vào số những người Chúa chọn, người môn đệ cần phải khước từ những thứ không phù hợp với Đức Giêsu và sứ vụ của mình như: loại bỏ thái độ ăn trên ngồi trước, chỉ tay năm ngón. Khước từ chức quyền, nếu điều đó không có lợi cho ơn gọi và sứ vụ. Tránh cách làm việc theo kiểu sai khiến mà không cần dùng đến trái tim và tình thương. Từ bỏ thái độ thích được phục vụ hơn là phục vụ.

Lạy Chúa, đã biết bao lần con cũng giống như thánh Giacôbê là tìm mọi cách để đạt được quyền cao chức trọng mà quên đi bản chất của người tôi tớ nơi người môn đệ. Xin Chúa tha thứ cho chúng con, và xin biến đổi chúng con thành môn đệ đích thực như lòng Chúa ước mong. Amen.

 ------------------------------

 
 

Suy Niệm 16. Thánh Giacôbê Tông Đồ


--giaophanvinhlong.net

Thánh Giacôbê là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Đức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê. Trước đó, Đức Giêsu đã gọi một đôi anh em khác cũng từ một hoàn cảnh tương tự, đó là Phêrô và Anrệ "Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người" (Máccô 1:19-20).

Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung, được thấy con gái ông Giairút sống lại và có mặt trong giờ thống khổ của Đức Giêsu trong vườn Giệtsimani.

Có hai biến cố trong Phúc Âm diễn tả tính khí của thánh nhân và người em. Thánh Mátthêu kể rằng mẹ của hai ông đến với Đức Giêsu để xin cho hai ôngï được chỗ ngồi vinh dự trong vương quốc (một bên phải, một bên trái Đức Giêsu). "Đức Giê-su bảo: 'Các người không biết các người xin gì. Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?' Họ đáp: 'Thưa được'" (Mt 20:22). Sau đó Đức Giêsu bảo, quả thật họ sẽ uống chén và chia sẻ sự thanh tẩy của Người trong sự đau khổ và cái chết, nhưng việc ngồi bên phải hay bên trái thì không phải là quyền của Đức Giêsu -- chỗ đó "được dành cho những người đã được Cha Thầy chuẩn bị" (Mt 20:23b).

Các tông đồ khác phẫn nộ khi thấy tham vọng của Giacôbê và Gioan. Sau đó Đức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ: Mục đích của quyền bính là để phục vụ. Họ không được áp đặt ý muốn của mình trên người khác, hay sai bảo người khác. Đây là vị thế của chính Đức Giêsu. Ngài là tôi tớ của tất cả; sự phục vụ được giao phó cho Ngài là tuyệt đối hy sinh tính mạng mình.

Trong một trường hợp khác, Giacôbê và Gioan chứng minh rằng biệt hiệu mà Đức Giêsu đặt cho họ -- "con của sấm sét"- thì rất thích hợp với họ. Người Samaritanô không đón tiếp Đức Giêsu vì Người đang trên đường đến Giêrusalem. "Thấy thế, hai môn đệ là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: 'Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?' Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông..." (Luca 9:54-55).

Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo. "Vào thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Vua cho chém đầu ông Giacôbê, anh ông Gioan, và khi thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa" (CVTĐ 12:1-3a).

Chúng ta đừng nhầm lẫn Thánh Giacôbê với tác giả của Thư Thánh Giacôbê, hoặc vị lãnh đạo của cộng đồng Giêrusalem.

Lời Bàn

Phương cách mà Phúc Âm đề cập đến các tông đồ là một nhắc nhở tốt đẹp về ý nghĩa của sự thánh thiện. Trong Phúc Âm, chúng ta không thấy đề cập nhiều đến các đức tính của các ngài như những sở hữu cố định mà nhờ đó họ được phần thưởng thiên đàng. Thay vào đó, Phúc Âm nhấn mạnh đến Nước Trời, đến quyền năng rao giảng Tin Mừng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Còn về phần đời sống cá nhân của các ngài, chúng ta thấy Đức Giêsu đã thanh luyện họ khỏi những hẹp hòi, nhỏ nhen, bất nhất.

Lời Trích

"... Chúa Kitô, trong Người mà sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa tối cao được hoàn tất (x. 2 Cor. 1:20; 2:16; 4:6), truyền dạy các tông đồ rao giảng Phúc Âm cho muôn dân, đó là nguồn mạch của mọi chân lý cứu độ và lời luân lý, và vì thế thông ban cho họ ơn sủng của Thiên Chúa... Mệnh lệnh này được trung tín thực hiện bởi các tông đồ, là những người, qua lời giảng, qua gương mẫu, và qua các quy định, đã truyền lại những gì họ nhận được từ miệng Đức Kitô, bởi sống với Người, và bởi những gì Người làm hoặc những gì các tông đồ học hỏi được qua sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần" (Hiến Chế về Mặc Khải của Thiên Chúa, 7).

 ------------------------------

 
 

Suy Niệm 17. Bài chia sẻ của Yuse Luca


--ditimchanly.org

1/ Trong danh sách 12 Tông Đồ Chúa chọn, có 2 người cùng mang tên Giacôbê: Một người là anh của Thánh Yoan Tông Đồ, cả hai cùng là con ông Giêbêđê, ngài có tên là Giacôbê Tiền, còn một người là Giacôbê nữa là con ông Alphê, mang tên là Giacôbê Hậu. Giacôbê Tiền được kính vào ngày 25/07 hàng năm.

2/ Giacôbê Tiền xuất thân trong một gia đình ngư phủ tương đối khá giả ở Betsaida. Thân sinh là ông Giêbêđê (Mc 1,19-20). Giacôbê là một trong 4 Môn Đệ được kêu gọi đầu tiên tại biển hồ Galile (Mc 1, 16-20).

3/ Trong các biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu thì vị Tông Đồ này luôn có mặt. Ông đã chứng kiến Chúa chữa cho bà nhạc mẫu Thánh Phê-rô khỏi bệnh (Mt 1,29-31), con gái ông Giairô sống lại (Mc 5, 37-43), Chúa biến hình trên núi (Mc 9,2-8), và lúc Chúa Giêsu hấp hối ở vườn cây dầu (Mt 26,37).

4/ Hai anh em Giacôbê và Gioan được Chúa đặt cho một biệt hiệu khá nổi là: "Bo-anergès": Có nghĩa là con thần sấm sét (Mc 3,17). Chắc cũng vì cá tính của Giacôbê nóng nảy khi Chúa Giêsu và các Môn Đệ đi vào một làng Samari và dân làng này không đón tiếp. Thấy vậy, Giacôbê và Gioan cùng đề nghị xin Chúa thiêu đốt thành này (Lc 9, 54).

5/ Theo sách Công vụ kể lại thì Thánh Giacôbê chịu tử đạo đầu tiên dưới thời vua Hêrôđê Agrippas I, vào khoảng năm 44 (SC): Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê (Cv 12,1-2). Đây là thời kỳ bách hại dữ dội nhất trong suốt ba thế kỷ đầu và chỉ tạm lắng sau sắc chỉ Milan của hòang đế Constantinople vào năm 313.

6/ Thi hài của Thánh nhân được cải táng về Santiago De Compostela bên Tây Ban Nha, và nơi đây trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng thời trung cổ, và là đền thánh đức tin cho toàn thể Châu Âu.

7/ Giacôbê được Chúa yêu thương cách riêng: Ngài là một trong ba vị được chứng kiến biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, Ngài là một trong ba Tông Đồ cùng đi với Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu lúc khởi đầu cuộc Thương Khó.

8/ Bà mẹ của các con ông Giêbêđê cùng đến gặp Chúa Giêsu. Bà xin Chúa dành cho các con của bà hai chỗ ưu tiên trong nước vinh quang mà Ngài sắp đến. Chúa Giêsu quay sang hai anh em và hỏi họ có thể chia sẻ số phận với Người không? Và Chúa đề nghị họ uống chung chén với Người. Đây là một dấu chỉ của tình thân hữu. Cả hai người cùng đáp: “Thưa được”.

9/ Thánh Clementê thành Alexandria kể lại: Khi vị tông đồ nước Tây Ban Nha được điệu ra trước tòa xử, thần thái của Ngài liêm chính đến độ kẻ tố cáo Ngài sau đó đã đến xin Ngài tha lỗi. Thánh Giacôbê đã ôm hôn kẻ tố cáo mình, và nói: “Anh hãy bình an”. Hai người sau đó cùng được hưởng triều thiên tử đạo.

10/ Khi suy về cuộc đời thánh Giacôbê: Chúng ta được lợi khi nhìn thấy những khuyết điểm của thánh nhân, cũng như của các Tông Đồ khác. Các ngài thiếu can trường, thiếu khôn ngoan, cũng chẳng đơn sơ. Các ngài cũng ham hố, hiếu thắng, thích tranh cãi và thiếu đức tin. Tuy nhiên, thánh Giacôbê là vị Tông Đồ được tử đạo. Như thế, thì Thiên Chúa cũng có thể ban ơn phù trợ, cũng có thể thực hiện phép lạ nơi chúng ta như vậy .

11/ Ngày nay trên Thiên quốc, thánh Giacôbê ắt phải tri ân Thiên Chúa rất nhiều vì đã hướng dẫn thánh nhân đi con đường khác với con đường mà ngài đã mơ tưởng trước đó.

12/ Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vô cùng khôn ngoan, và tràn  đầy yêu thương vượt quá trí hiểu của chúng ta. Trong nhiều trường hợp, Chúa không ban cho chúng ta những điều chúng ta xin (như thánh Giacôbê xin), nhưng lại ban những điều thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta.

13/ Thánh Gioan Kim Khẩu viết: Chúng ta hãy xem xét cách  Chúa Giêsu đặt câu hỏi với Thánh Giacôbê như một lời vừa mời gọi, vừa nói khích. Chúa không nói: “Ngươi có dám chịu đổ máu không?” Nhưng Chúa lại hỏi: ‘Ngươi có thể uống chén Ta sẽ uống hay không?”

14/ Chúa Giêsu gọi cuộc Khổ Nạn của chúa là phép rửa, để nhấn mạnh đến những đau khổ của Người, sẽ là nguyên nhân, là khởi đầu cho cuộc thanh tẩy toàn thể nhân loại. Chúa cũng đang mời gọi chúng ta. Chúa cũng khuyến khích chúng ta đừng đầu hàng, đừng chán nản khi những khuyết điểm, yếu đuối của mình quá lớn, quá rõ rệt. Nếu chúng ta đến với Chúa Giêsu để xin ơn trợ giúp, Chúa sẽ ban cho chúng ta ơn can đảm để tiếp tục trung thành với sứ mạng, vì Chúa luôn nhẫn nại và cho chúng ta có đủ thời gian cần thiết để cải thiện tính nết xấu và luyện tập nhân đức.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giacôbê vinh dự là Tông Đồ đầu tiên chịu tử đạo, để làm chứng cho Tin Mừng. Xin Chúa ban cho con được ơn sức mạnh nhờ vào lời chuyển cầu của Thánh nhân, con sẽ luôn được ơn nâng đỡ, phù trì. Amen.

-----------------------------------
 

Thứ 4: 26.7.2023 Th. Gioakim và thánh Anna

TinMừng – TN 16 – Thứ 4 26.7.2023 Th. Gioakim và thánh Anna, nhớ: Ðền thờ tâm hồn.

"Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy".

* Theo một truyền thống cổ xưa, có thể vào thế kỷ 2. Thánh Gioakim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria. Lòng sùng kính thánh Anna được phổ biến ở phương Đông vào thế kỷ 6, và ở phương Tây vào thế kỷ 10.
Còn thánh Gioakim cũng được tôn kính như thế, nhưng muộn hơn, lối thế kỷ 17.

---------------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 13, 16-17


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".

 ---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 1. Cha Mẹ Đức Maria: Thánh Gioakim Và Anna


Trong Tin Mừng không thấy tên các Ngài. Truyền thống cho chúng ta biết cha mẹ Đức Ma-ri-a gọi tên là Gioakim và Anna.

Thánh Gioakim không được sùng kính, nhưng thánh Anna thì khác.
Sùng kính quảng đại quần chúng.

Lòng sùng kính thánh Anna rất phổ thông trên đất Mỹ Châu ngay thời kỳ di dân. Lòng sùng kính Thánh Anna có từ lâu đời ở Bretagne. Với số nhà thờ kể không xiết.

Với niềm tin mạnh mẽ, đơn sơ, đẹp đẽ của chúng ta. Chúng ta tin rằng Thánh Anna là mẹ Đức Ma-ri-a. Niềm tin đó càng dễ dàng, mạnh mẽ đón nhận vì Đức Ma-ri-a được sinh ra bởi một người cha và một bà mẹ như bao nhiêu xác phàm khác.

Đôi cha mẹ.

Dù cha mẹ Ngài có tên này hay tên khác, không cần bàn đến. Chúng ta tôn kính các Ngài chỉ vì các Ngài đã ban cho chúng ta Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đó là lần độc nhất trong lịch sử các thánh mà chúng ta tôn kính các Ngài. Dù các Ngài không có tên trong danh sách chính thức các thánh. Công phúc độc nhất của các Ngài mà không thánh nào có được là các Ngài làm cha làm mẹ Đức Ma-ri-a.

Thật là mầu nhiệm đức tin! Thánh Anna và Gioakim không hồ nghi gì về con các Ngài lớn lên là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, Mẹ Thiên Chúa! các Ngài không thể đoán biết danh tiếng các Ngài sẽ vượt mọi biên giới thời gian, nhưng danh đó như hoa nở, vì các Ngài đã gieo hạt hoa hồng mầu nhiệm, gieo hạt hoa huệ tinh tuyền.

“Lạy Chúa, chúc tụng Ngài đã vinh thăng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a”.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 2. Thánh Gioakim và Anna


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho chúng ta. Ngài khai mở và đổ tràn sự sống của Người cho tâm hồn khiêm cung và biết lắng nghe. Ai khát khao chân thành, người ấy sẽ nhận được mầu nhiệm Nước Trời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bao nhiêu vị tiên tri và người công chính trong Cựu ước khao khát được thấy Chúa và nghe Lời Chúa mà không được. Phần con, con được diễm phúc nghe Lời Chúa và đón nhận mầu nhiệm Nước Trời là chính Chúa. Con cảm tạ Chúa.

Nhưng lạy Chúa, Chúa cho con thấy rằng chỉ những tâm hồn khiêm cung, ngay chính và khao khát Chúa, mới thực sự có những điều thiện hảo đó. Vâng, con chỉ có thể được đón nhận Nước Trời nếu lòng con luôn chân thành và thiết tha quy hướng về Chúa. Và nếu con như người lính canh chờ mong bình minh đến từng giờ, từng giây phút trong đời, thì sự sống và tình yêu Chúa chắc chắn sẽ tràn ngập cuộc đời con. Ôi lạy Chúa, con thầm nhủ và mong ước được như thế.

Lạy Chúa, con càng xác tín hơn nữa khi nghe Chúa nói: “Ai đã có, thì sẽ cho họ được dư dật, còn kẻ không có thì cái họ có cũng bị lấy đi”. Khi con loại trừ ra khỏi lòng mình những trăn trở, các thói hư tật xấu và tội lỗi, khi con có thiện chí sẵn sàng đón nhận Chúa, thì ơn Chúa càng dồi dào, dư tràn bao phủ đời con. Ngược lại, con sẽ tự đánh mất tất cả nếu lời mạc khải của Chúa chỉ là tiếng vang động bên ngoài. Đó là khi con cứng lòng khép kín nội tâm, tách rời với anh em, với cộng đoàn và với Giáo Hội. Đó cũng là khi con từ chối của ăn linh hồn là nguồn sống Thánh Thể, các bí tích và chính Lời Hằng Sống. Xin đừng để con sa lầy vào tình cảnh đó.

Xin cho con sống khiêm nhường, bác ái và hiệp nhất với Chúa luôn luôn như lối mở cho con vào Nước Trời. Amen.

Ghi nhớ: “Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy”.

 ---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 3. Thánh Gioakim và Anna


--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.

Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và là ai người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được nghe.”

 ---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 4. Thánh Gioakim và thánh Anna, song thân Đức Maria


-Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Sấm ngôn của tiên tri Isaia làm chúng ta khó hiểu. Tại sao lắng nghe mà không hiểu? Trố mắt nhìn mà chẳng thấy? Phải chăng Thiên Chúa không muốn cho chúng ta hiểu? Nếu tách lời sấm riêng ra thì chúng ta có thể đặt vấn đề như vậy. Nhưng lời sấm này đặt trong mạch văn và trong toàn bộ Thánh kinh thì không thể cắt nghĩa như vậy.

Thiên Chúa luôn yêu thương và muốn cứu thoát con người. Chúa Giêsu được sai xuống trần gian chỉ vì mục đích đó. Thế nên, nếu con người không được ơn cứu độ, không phải vì tại Thiên Chúa, nhưng vì tại con người bưng tai chẳng thèm nghe, bịt mắt không thèm nhìn mà thôi.

Lưu ý quan trọng:

Đoạn Tin mừng gây không ít thắc mắc cho người đọc, vì nó khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu cố ý dùng dụ ngôn khó hiểu để người ta không hiểu được và không được cứu rỗi.

Thực ra, ở đây Chúa Giêsu trích một câu của tiên tri Isaia. Mà Isaia nói đến một thực tế (chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa) là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù, cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích. Một số người thời Chúa Giêsu cũng thế.

Bởi vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: “Ai có tai thì nghe”, nghĩa là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai), nhưng điều quan trọng là dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Càng thực hiện thì càng hiểu Nước trời hơn, càng sống Lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn (Giải thích của Carôlô).

Hôm nay Chúa Giêsu giải thích cho các Tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy về mầu nhiệm Nước trời. Lý do rất dễ hiểu vì đạo của Chúa là đạo từ trời. Bởi vậy trong lời giảng, Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giúp cho dân chúng dễ hiểu hơn. Thực ra khi nói về Nước trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác. Hoặc như thánh Phaolô nói: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm”. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Câu trả lời của Chúa Giêsu, mới nghe thì hình như có vẻ mâu thuẫn. Chúa giảng dạy dân chúng hẳn là có mục đích để cho họ hiểu, và việc Chúa thay đổi cách giảng, dùng hình thức dụ ngôn, cũng không ngoài mục đích đó, vì dụ ngôn là sự so sánh cụ thể làm cho dễ hiểu một giáo huấn trừu tượng, nghĩa là dùng hình ảnh cụ thể trong đời sống để so sánh làm cho người ta dễ hiểu một giáo thuyết trừu tượng. Thế mà Chúa lại nói: Chúa giảng dạy dụ ngôn để cho dân chúng không hiểu được mầu nhiệm Nước trời, mà chỉ dành riêng cho các môn đệ được hiểu thôi. Như thế là tại sao? Sau khi giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, Chúa đã tuyên bố: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chúa đã dùng dụ ngôn mà nói, có ý gợi lên nơi thính giả sự tò mò tìm hiểu, và nếu ai không hiểu mà hỏi Chúa sẽ được Chúa giải thích cho.

Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu.

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ các mầu nhiệm. Còn những kẻ ở ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe” (Mt 13, 16) (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Lời tỏ tình của Thiên Chúa

Một nhà bác học nọ muốn làm một cuộc nghiên cứu tại một vùng sa mạc. Ông nhờ một người Ả rập làm hướng đạo. Lên đường từ rạng đông, người bác học thấy người Ả rập làm một cử chỉ khó hiểu là trải tấm thảm lên cát và hướng về mặt trời phủ phục cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:

- Ông bạn làm gì vậy?

Người Ả rập trả lời:

- Tôi cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học lại hỏi:

- Nhưng ông bạn có thấy, có nghe, có sờ được Chúa không?

Thấy người Ả rập thinh lặng vì bị tấn công quá bất ngờ, nhà bác học nói thêm:

- Ông bạn quả là một tên khùng, ông bạn tin ở một người mà ông bạn không bao giờ thấy được, sờ được.

Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, nhà bác học bước ra khỏi lều nhìn chung quanh và đưa ra nhận xét:

- Hẳn tối qua phải có một con lạc đà đi ngang qua đây.

Một chút ánh sáng lóe lên trong ánh mắt người Ả rập, anh hỏi nhà bác học:

- Ông có thấy tận mắt con lạc đà không?

Dĩ nhiên nhà bác học chỉ có thể trả lời là không. Sau câu trả lời không ấy, người Ả rập kết luận:

- Ông quả là một người ngu: ông không thấy, không nghe, không sờ được con lạc đà mà lại bảo rằng đêm qua nó đi qua đây.

Nhà bác học liền lý luận như một nhà khoa học chân chính:

- Tôi không thấy, không nghe, không sờ được nó, nhưng tôi thấy dấu chân nó trên cát, đó là dấu chỉ biểu hiện con lạc đà.

Người Ả rập đưa tay về hướng mặt trời và nói:

- Ông hãy nhìn những dấu vết của Đấng Tạo Hoá. Hãy biết rằng Ngài hiện hữu và yêu thương chúng ta.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 5. Thánh GIOAKIM và Thánh ANNA song thân Đức Trinh nữ Maria


--Lm Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Mẹ Maria.... nói rõ và xa hơn một chút là ông ngoại bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.

Về phương diện Lịch sử, chúng ta không có một chỉ dẫn nào cụ thể, chính xác về đời sống của các Ngài. Tuy nhiên theo một ít tài liệu cổ thì chúng ta cũng thấy có một vài thông tin, tuy rất vắn nhưng cũng đủ để cho chúng ta có được những suy nghĩ liên quan đến cuộc đời của các ngài.

Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây tôi đọc được những thông tin:

Trong cuốn Ngụy kinh của thánh Giacôbê người ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: "Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".

Những chỉ dẫn này đã nói với chúng ta điều gì?

Đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ điều này: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.

Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, tổ phụ Isaac, tổ phụ Giacob và nhất là của Giob.....rồi sau này đến bà Anna mẹ của ngôn sứ Samuen, bà Elizabeth mẹ của Gioan Baotixita vv.. tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế. Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quí của Người thời xa xưa?

Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người.

Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Giaokim và bà Anna chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. "Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".

Vâng, Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa.

Để kết thúc một vài suy tư hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện. Câu chuyện này do Văn sĩ Marie Noel viết:

Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài "Kinh Tạ Ơn". Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.

Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.

Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.

Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:

"Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh".

Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen"

Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: "Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi".

Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.

Lạy Chúa, xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ. Và giữa những vất vả lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn. Lạy Thánh Gioakim và thánh Anna xin phù trợ chúng con. Amen.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 6. Phúc vì được thấy, phúc vì được nghe


--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” Trong bối cảnh phụng vụ, lời này của Đức Giê-su được ứng nghiệm cho đôi mắt và đôi tai của “ông bà ngoại” của Người, nghĩa là của hai thánh Gioakim và Anna.

Tuy nhiên, lời này của Đức Giê-su cũng liên quan đến đôi mắt và đôi tai của chúng ta.

Thực vậy, qua kinh nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật, những người mù, những người câm điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng ta thấy được và nghe được, là một ơn huệ; và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của chúng ta là một ơn huệ, chúng ta được mời gọi nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà chúng ta có cho người khác, nhất là cho những người tàn tật, không có cùng một ơn huệ như chúng ta.

Tuy nhiên, ngay trước đó, Đức Giê-su còn nói tới một bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (c. 13). Như thế, mối phúc mà Đức Giê-su nói tới, không chỉ là khả năng thể lý nhìn thấy sự vật và nghe được âm thanh.

1. Phúc vì được thấy

Thật vậy, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có “ơn gọi” không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng qua những điều hữu hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhìn thấy sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là những quà tặng, những ơn huệ, những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó, của tình thương, nói lên Đấng ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.

Và nhất là khi nhìn thấy một người, đôi mắt của chúng ta không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại hình, ở trang phục, không được coi người người này là đối tượng để mình thỏa mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn; nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là người đó là một ngôi vị tự do và có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng; nếu sự thật là người ấy có những hành vi phạm lỗi đáng lên án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự thật khác lớn hơn: người ấy còn là một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi người này ở trong bất hạnh mà không biết. Đó cái nhìn của Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng, đó là cái nhìn của Đức Giê-su về người phụ nữ ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, với từng người chúng ta.

Đôi mắt của thánh Gioakim và thánh Anna, đôi mắt của các môn đệ và đôi mắt của chúng ta thật là có phúc, như Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy”, bởi vì chúng ta được ơn nhận biết Đức Giê-su Nazareth là Đức Ki-tô, Con Thiên Hằng Sống và Ngôi Lời nhập thể. Đôi mắt có phúc là đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô; và đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô là đôi mắt sống đúng với ơn gọi của mình.

2. Phúc vì được nghe

Cũng vậy đối với đôi tai của chúng ta: đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe tiếng động hay âm thanh, nhưng là nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe được giai điệu, kết cấu của âm thanh, truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi Lời, bởi vì ‘‘Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành’’ (Ga 1, 3 và St 1):

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,

không trung loan báo việc tay Người làm. (Tv 19, 2).

Thế mà ý nghĩa và sứ điệp, được tạo ra bởi sự liên kết hài hòa theo qui luật giữa các âm thanh, thì hoàn toàn thinh lặng, không có tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất nhiều lời nói: lời trong Kinh Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng chính Đức Giêsu Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời nói cụ thể này. Như thế, Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên, Ngôi Lời chỉ được thốt lên và chỉ được nghe trong thinh lặng. Thiên Chúa ngỏ sự thinh lặng của Ngôi Lời cho người biết lắng nghe:

Không trung loan báo việc tay Người làm.

Ngày qua mách bảo cho ngày tới,

đêm này kể lại với đêm kia.

Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,

mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu

và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. (Tv 19, 4-5)

3. Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa

Thánh Phao-lô trong thư gởi Tín Hữu Roma đã trích Tv 19, nhưng một cách rất lạ lùng. Bởi vì, đối với thánh nhân “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.” (Tv 19, 5) không là gì khác hơn là việc rao giảng Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô! Thật vậy, ngài đã viết trong thư gởi các tín hữu Roma:

Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng? Có chứ!

“Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu,

và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Rm 10, 17-18)

Theo thánh Phao-lô, sứ điệp của công trình tạo dựng và sứ điệp của các tác viên Tin Mừng là cùng một sứ điệp, đó là sứ điệp “Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa”. Như thế, điều mà thánh Phaolô cảm nhận thì thật là lạ lùng! Trình thuật, lời công bố và sứ điệp, vốn là lời sáng tạo như là chúng ta nghe được trong sự thinh lặng của Ngôi Lời, nay bỗng dưng vang vọng trong miệng của thánh nhân, cũng như trong miệng của mọi tác viên loan báo Tin Mừng, trong đó có chúng ta hôm nay.

* * *

Như thế, nếu chúng ta nghe ra sứ điệp được truyền đạt “ngày này cho ngày kia” và “đêm này cho đêm kia” kể từ khởi nguyên của thế giới sáng tạo, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Và ngược lại, nếu chúng ta đón nhận sứ điệp Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp của ngày và đêm. Bởi lẽ, cả hai, công trình sáng tạo và Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô,có cùng một nội dung, đó là Ngôi Lời Thiên Chúa; và

Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. (Ga 1, 3)

 ---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 7. Cha mẹ tuyệt vời


--Lm Nguyễn Hưng Lợi

Cây thấy xanh tươi chưa chắc là đã tốt, nhưng phải là cây cho sinh nhiều hoa trái xinh tươi. Mẹ Maria là hoa trái quí hóa, tuyệt vời của ông bà thánh Gio-a-kim và Anna…

Dù rằng Tin Mừng không ghi lại điều gì về cha mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng thánh truyền đã đề cập đến vai trò của hai ông bà Gio-a-kim và Anna. Ta đi ngược dòng lịch sử cứu độ để hiểu hơn vai trò của thánh Gio-a-kim và thánh Anna. Thánh Gio-a-kim và thánh Anna có thể là cầu nối giữa Cựu Ước và Tân ước, giữa Israen cũ và Israen mới. Hai vị thánh này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, chúc phúc và ban nhiều ân huệ quí giá, qua đó, các Ngài sinh ra Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Đức Giêsu…

Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay đề cập đến người gieo giống. Gieo giống là dấu hiệu của hy vọng. Nước Trời như mầm non đang chồi lên từ mặt đất khắp đó đây mà hạt giống ở dưới đất ta đâu có thấy được chúng, ta đâu có nghe được tiếng khi chúng đang tí tách vươn mình lên khỏi đất. Đức Hồng y Etchaygaray đã nói một câu rất chí lý: “Người ta dễ nghe tiếng cây đổ, nhưng có hàng triệu triệu hạt mầm đang tí tách vươn mình khỏi đất, nào ta có nghe được tiếng kêu. Thánh Gio-akim và thánh Anna là những cây tươi tốt, đã từng là những hạt giống tốt xinh, đã hiện diện ở cuộc đời này và sinh ra hoa trái rất tốt tươi là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Con Thiên Chúa. Quả thực, chính hạt giống là hai thánh Gio-a-kim và Anna đã chịu thối đi trong lòng đất, nên đã sinh ra hoa trái xinh tươi là Đức Giêsu Kitô.

Thánh Gio-a-kim tượng trưng cho người gia trưởng mẫu mực đạo đức, thánh thiện và luôn sẵn sàng bảo vệ, nâng đỡ bà thánh Anna, còn bà thánh Anna được tôn sùng như mẫu gương của các bà mẹ, đồng thời Hội Thánh tặng cho bà danh hiệu Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Sách ngụy thư của thánh Giacôbê có ghi: “Hai ông bà đã già mà không có con, đây là một thử thách lớn lao của hai ông bà, nhưng cuối cùng thiên thần Chúa đã hiện ra loan báo cho hai ông bà một tin vui mừng: bà sẽ thụ thai và sinh ra Đức Trinh Nữ Maria và hai ông bà đã dâng Đức Mẹ trong đền thờ cho Thiên Chúa’’.

Hội Thánh đã chọn ngày 26/7 hằng năm kính nhớ hai thánh Gio-a-kim và Anna. Lòng sùng hai vị thánh này đã có từ cổ xưa và ngày nay đã lan tràn khắp thế giới.

“Lạy thánh Gioakim và thánh Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các Ngài, vì nhờ các Ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Đấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa’’ (lời cầu của thánh Đamascênô).

Xin cho mỗi người chúng con luôn noi gương bắt chứoc hai thánh Gioakim và thánh Anna luôn hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa. Amen.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 8. Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria


--Lm Nguyễn Hưng Lợi

Gia đình là nền tảng của xã hội, là Hội Thánh thu hẹp trong đó đức tin được toả sáng khắp nơi. Chính vì hiểu rõ vai trò của đời sống gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian theo ý Đức Chúa Cha, Ngài cũng chọn một gia đình để sinh ra. Khi có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa Giêsu muốn nâng cao phẩm giá của gia đình... Ngài chỉ ra rằng gia đình luôn có vai trò đặc biệt trong lịch sử cứu rỗi. Mẹ của Chúa Giêsu là Maria và Cha của Ngài là thánh Giuse. Maria cũng đã xuất thân trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Cha của Người là thánh Gio-a-kim và Mẹ của Người là bà thánh An-na. Hai ông bà Gioakim và Anna đã một mực tuân theo ý Chúa, một mực làm mọi sự theo khuôn mẫu của Chúa.

THÁNH GIO-A-KIM VÀ THÁNH AN-NA LUÔN TRUNG TÍN VỚI CHÚA:

Đức Maria là hoa quả của hai thánh Gioakim và thánh Anna. Cây tốt sinh trái tốt. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Xem quả biết cây. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng Chúa luôn yêu thương những người biết tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Ngài. Đọc lại Kinh Thánh, ta không thấy Thánh Kinh thuật lại lai lịch, và cuộc sống của hai thánh Gioakim va Anna là song thân của Mẹ Maria. Nhưng các Thánh Truyền cho ta hiểu rõ rằng hai ông bà Gioakim và Anna luôn phó thác, cậy trông và tin tưởng vào Chúa. Hai ông bà đã già nua tuổi tác mà vẫn không có con, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương, chấp nhận lời khẩn nguyện, cầu xin của hai ông bà và cho hai ông bà cưu mang, hạ sinh người con yêu quý là Maria. Đây là hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho ông bà Gioakim và Anna. Cái phúc mà song thân của mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa biến đổi cả cuộc đời của hai ông bà như lời Tv 23, 5 đã viết: “ Các Ngài được Chúa ban phúc lành, và được Thiên Chúa cứu độ hằng xót thương”. Thiên Chúa đã chúc phúc cho hai ông bà bằng tình yêu vĩnh cửu, tình yêu không bao giờ tàn lụi, phai mờ, tình yêu hiến trọn cho người khác. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa, hai ông bà được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt và Maria là con hai ông bà đã được Thiên Chúa cất nhắc, để ý và tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Chính nhờ phúc lành Hai ông bà lãnh nhận nơi Thiên Chúa, qua các Ngài, phúc lành ấy cũng được đổ xuống cho muôn dân, muôn nước và từng người.

NHÂN LOẠI ĐƯỢC HẠNH PHÚC:

Ngay trong ca nhập lễ, lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, Hội Thánh đã ca rằng: ”Chúng ta hãy ngợi khen thánh Gioakim và thánh Anna nơi con cháu các Ngài, vì qua các Ngài, Chúa đã ban phúc lành cho muôn dân”. Hai thánh Gioakim và Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa: “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe (Mt 13, 16-17). Thánh Gioakim và thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài và qua các Ngài trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quí trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người nữ tử Sion: Maria.

Mừng lễ hai thánh Gioakim và thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi.

Lạy Thiên Chúa là Đấng tổ phụ chúng con tôn thờ, Chúa đã ban cho thánh Gioakim và thánh Anna được diễm phúc sinh hạ Đức Maria là Thánh mẫu của Đức Kitô, Con Chúa nhập thể. Xin nhận lời hai thánh chuyển cầu cho chúng con được hưởng ơn cứu độ, Chúa đã hứa ban cho dân riêng của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioakim và Anna song thân Đức Maria).

---------------------------------------


 

Suy Niệm 9. Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song Thân Đức Maria


Truyền thống cổ xưa từ thế kỷ II kể rằng song thân của Đức Trinh Nữ Maria là thánh Gioakim và thánh nữ Anna. Lòng sùng kính hai vị là hiệu quả tất yếu của lòng đạo đức các tín hữu vẫn dành cho ái nữ của các vị là Đức Maria. Đức Lêô XIII đã thiết lập một lễ kính chung thánh Gioakim và thánh nữ Anna, vì trước kia hai ngài được kính riêng, cho đến khi có cuộc canh tân phụng vụ mới đây.

Mái nhà song thân Đức Trinh Nữ.

Phúc thay thánh Gioakim và thánh nữ Anna vì người con các ngài đã sinh ra. Chúa đã ban cho các ngài phúc lành của mọi quốc gia.

Truyền thống rất cổ xưa đã lưu truyền cho chúng ta quí danh của song thân Đức Maria. Trong thời đại và những hoàn cảnh lịch sử, các ngài đã là tảng đá nền quí báu trong việc hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Qua hai ngài, phúc lành Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi đã truyền đến chúng ta, và chúng ta được tiếp nhận Đấng Cứu Thế nhờ sự cộng tác của các ngài.

Thánh Gioan Damascene đã khẳng định chúng ta nhận biết hai đấng thánh diễm phúc này qua hoa quả của các ngài: Đức Trinh Nữ Maria là hoa quả tuyệt vời các ngài đã trao cho nhân loại. Thánh Anna cưu mang Đức Maria rất tinh tuyền vô nhiễm trong cung lòng. Ôi hài nhi rất xinh đẹp, rất khả ái! – Thánh Tiến Sĩ đã reo lên – Ôi, nữ tử của Ađam và Mẹ Thiên Chúa, phúc thay lòng đã cưu mang Mẹ! Và phúc thay cánh tay đã bồng ẵm Mẹ, đôi môi đã được đặc ân hôn yêu Mẹ… Thánh Gioakim và thánh nữ Anna đã được đặc ân chăm sóc Mẹ Thiên Chúa trong mái nhà của các ngài. Thiên Chúa chắc chắn đã trào đổ nhiều ân sủng xuống cho các ngài trong suốt thời kỳ ấy.

Thánh nữ Têrêxa Avila thường đặt các đan viện ngài thành lập dưới sự bảo trợ của thánh Giuse và thánh Anna, vì lý luận rằng: Lòng nhân lành Thiên Chúa rất lớn lao đến độ Người nhất định sẽ ưu đãi những ngôi nhà của bà ngoại tôn quí của Người. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã xuống thế trực tiếp từ họ ngoại.

Chúng ta có thể giao phó cho song thân Mẹ Maria tất cả những nhu cầu, nhất là những nhu cầu liên quan đến đời sống thánh trong gia đình chúng ta. Chúng ta cầu nguyện trong phụng vụ thánh lễ hôm nay, Lạy Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ của chúng con, Chúa đã ban cho hai thánh Gioakim và Anna đặc ân làm song thân của Đức Maria, Thánh Mẫu Con Nhập Thể của Chúa. Ước chi những lời cầu xin của các ngài giúp chúng con đạt được phần rỗi mà Chúa đã hứa ban cho dân Chúa. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức vì lợi ích của những người Chúa đã ủy thác cho chúng con chăm sóc. Xin dạy chúng con biết tạo lập một sắc thái nhân đạo và siêu nhiên trong những môi trường của chúng con, những nơi chúng con dễ dàng tìm thấy Chúa, vì Chúa là mục tiêu tối hậu, là kho tàng của chúng con.

Đời sống Kitô hữu.

Theo Đức Gioan Phaolô II, thánh Gioakim và thánh nữ Anna là một cảm hứng bất tận cho cuộc sống gia đình và xã hội thường nhật. Đức Thánh Cha kêu gọi: Hãy loan truyền cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, toàn bộ gia sản tinh thần của đời sống Kitô Giáo, gồm cả việc cầu nguyện. Đức Maria tiếp nhận từ song thân của Mẹ những gia sản truyền thống của nhà Đavít, một di sản đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Ở đó, Mẹ học biết thân thưa cùng Thiên Chúa Cha bằng thái độ cung kính sâu xa. Cũng tại mái nhà ấy, Mẹ đã học biết những lời tiên tri nói về ngày đến của Đức Messiah – về nơi sinh của Con Mẹ…

Khi đến giờ phải tạo lập một mái nhà riêng cho Chúa Giêsu sinh ra đời, Đức Maria chắc chắn đã nhớ lại mái nhà của song thân. Và rồi Chúa Giêsu cũng học biết từ nơi Mẹ những cách thế để thân thưa và những lời đầy khôn ngoan mà sau đó Người đã sử dụng trong thời kỳ rao giảng. Hài nhi Giêsu đã thảo hiếu lắng nghe từ môi miệng Đức Maria những lời cầu nguyện đầu tiên, giống như những con trẻ Do Thái ngay khi vừa bập bẹ biết nói đã được nghe cha mẹ dạy cho. Đức Maria chắc hẳn là một người thầy rất mực tốt lành! Mẹ đã phản chiếu sự phong phú nơi linh hồn đầy ân sủng của Mẹ một cách dịu hiền. Chúng ta được tiếp nhận tặng ân đức tin vô giá và vô số tập tục tốt lành từ tổ tiên, những người đã giữ gìn và truyền lại cho chúng ta kho tàng quí giá ấy. Đồng thời, chúng ta cũng có bổn phận phải bảo tồn gia sản sinh động này để truyền lại cho người khác.

Hiện nay có những cuộc tấn công mãnh liệt đang chống lại các gia đình, chúng ta phải can đảm để bảo tồn di sản chúng ta đã được lãnh nhận. Chúng ta được mời gọi để làm giàu thêm những di sản ấy bằng đức tin và sự chiến đấu để sống các nhân đức nhân bản. Bổn phận chúng ta là phải làm cho Thiên Chúa hiện diện trong mái nhà của chúng ta bằng những phương thế truyền thống Kitô Giáo, chẳng hạn đọc kinh trước và sau khi dùng bữa, đọc kinh tối trong gia đình…, đọc Lời Chúa với người cao niên, đọc một lời kinh ngắn cho những người qua đời, nhắc nhớ những ý nguyện của gia đình và của Đức Thánh Cha, cùng tham dự thánh lễ Chúa Nhật, cùng lần chuỗi Mân Côi, kinh nguyện được các Đức Thánh Cha thường xuyên cổ võ cho các gia đình. Kinh Mân Côi rất phù hợp với thời biểu gia đình, kể cả những chuyến du lịch… Không cần dồn nén quá nhiều việc đạo đức trong các gia đình, tuy nhiên, phải có một số nào đó. Các bậc cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái sẽ dễ dàng tìm thấy con đường để hiểu biết tâm hồn chúng. Hơn nữa, những người trẻ sẽ không bao giờ quên được gương sáng của cha mẹ vì đã giúp họ cầu nguyện và đến với Đức Mẹ trong những nhu cầu cần thiết. Chúng ta mang ơn cha mẹ vì các ngài đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể… Chắc chắn, những bài học này là di sản lớn lao mà chúng ta được thừa hưởng.

Những hoàn cảnh xã hội hiện nay đòi các gia đình phải gắn bó với những niềm tin và quảng đại trong cách sống. Việc chúng ta khẳng định quyết tâm của mình sẽ rất đẹp lòng Đức Mẹ. Chúng ta quyết tâm trở nên những khí cụ liên kết các thành phần trong gia đình, nhất là qua các hành động phục vụ vui tươi và những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày để giúp đỡ người khác. Một quyết tâm như thế sẽ đưa chúng ta đến việc cầu nguyện cho thành phần nào cần được cầu nguyện nhiều nhất trong gia đình, giúp đỡ thành viên nào yếu đuối hoặc thành viên nào đang sa sút, và đặc biệt là sống yêu thương đối với thành viên nào đang yếu bệnh hoặc gặp gian truân.

Giáo dục con cái. Việc cầu nguyện trong gia đình.

Chắc chắn hai thánh Gioakim và Anna luôn ý thức Thiên Chúa đang yêu sách ái nữ của các ngài một điều gì đó thật vĩ đại, bởi vì trẻ Maria đã biểu lộ những đặc ân tuyệt vời trên phương diện nhân bản cũng như siêu nhiên. Các ngài đã dâng ái nữ cho Thiên Chúa, như những bậc cha mẹ Do Thái thường làm. Các bậc cha mẹ củng cố tình yêu cho nhau bằng việc cầu nguyện sẽ biết tôn trọng thánh ý Thiên Chúa đối với con cái của họ. Tình yêu giữa cha mẹ càng được củng cố hơn nữa nếu như con cái họ được ơn tận hiến cho Thiên Chúa. Các bậc cha mẹ thường ước ao và kêu xin Thiên Chúa ơn này, bởi vì như thánh Josemaría Escrivá nói: Dâng con cái để phụng sự Chúa không phải là một hy sinh: đó là một vinh dự và một niềm vui, một vinh dự cao cả và một niềm vui lớn lao. Con cái sẽ nghiệm thấy vẻ đẹp của hành vi hiến dâng những năng lực của chúng cho Nước Chúa, bởi vì bằng nhiều cách, chúng đã học biết thực hiện điều ấy ngay trong nếp sống ở gia đình.

Tình yêu dẫn đến hôn nhân cũng là một con đường thánh thiện, một ơn gọi, một con đường để hiến dâng toàn diện cho Thiên Chúa. Tình yêu này phải hiệu quả và hoạt động nơi hoa trái, tức là con cái. Tình yêu chân thực sẽ biểu hiện trong việc nỗ lực dạy dỗ con cái biết sống chuyên cần, tiết độ, và có giáo dục, theo đúng ý nghĩa của từ ngữ… và trở nên những tín hữu tốt lành. Ước chi các nhân đức nhân bản được phát triển nơi gia đình: nhân cách mạnh mẽ, điều độ trong việc sử dụng vật chất, có tinh thần trách nhiệm, quảng đại, siêng năng… và ước chi mọi người đều biết tiêu dùng một cách kiệm ước, luôn nhớ đến nhiều người trên thế giới vẫn còn đang túng thiếu.

Tình yêu thương con cái đích thực sẽ đưa cha mẹ đến chỗ quan tâm chọn trường học cho con cái, bởi vì điều này ảnh hưởng đến phần rỗi của chúng. Cũng tình yêu ấy sẽ thúc đẩy cha mẹ lo tìm nơi nghỉ ngơi và giải trí lành mạnh cho con cái – thường họ phải hy sinh sở thích và quyền lợi khi tránh những môi trường có thể làm cho việc sống đạo trở nên khó khăn. Cha mẹ đừng bao giờ quên rằng mình là người quản lý một kho tàng quí báu của Thiên Chúa. Là những tín hữu, họ phải tạo lập một gia đình, nơi có Chúa Kitô hiện diện.

Hôm nay, chúng ta nài xin hai thánh Gioakim và Anna giúp chúng ta làm cho mái nhà của chúng ta trở thành một nơi dễ dàng gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cậy nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đức Gioan Phaolô II đã khuyến khích: Hợp nhất cùng nhau, chúng ta hãy hướng tâm hồn về Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy tỏ ra là Từ Mẫu của chúng ta hết thảy. Xin Mẹ hãy dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên Chúa Kitô, Đấng đã trở nên Con của Mẹ, để Người thương tình chấp nhận.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 10. Thánh Gioakim và Anna


--tgpsaigon.net

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Mẹ Maria.... nói rõ và xa hơn một chút là ông ngoại bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.

Về phương diện Lịch sử, chúng ta không có một chỉ dẫn nào cụ thể, chính xác về đời sống của các Ngài. Tuy nhiên theo một ít tài liệu cổ thì chúng ta cũng thấy có một vài thông tin, tuy rất vắn nhưng cũng đủ để cho chúng ta có được những suy nghĩ liên quan đến cuộc đời của các ngài. Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây tôi đọc được những thông tin:

Trong cuốn Ngụy kinh của thánh Giacôbê người ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: "Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".

Những chỉ dẫn này đã nói với chúng ta điều gì?

Đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ điều này: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề, nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách, và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó, để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.

Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, tổ phụ Isaac, tổ phụ Giacob và nhất là của Giob.....rồi sau này đến bà Anna mẹ của ngôn sứ Samuen, bà Elizabeth mẹ của Gioan Baotixita vv.. tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế. Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quí của Người thời xa xưa?

Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người.

Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Giaokim và bà Anna chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. “Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con” Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa".

Vâng Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa.

Để kết thúc một vài suy tư hôm nay tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện. Câu này do Văn sĩ Marie Noel viết:

Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài "Kinh Tạ Ơn". Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.

Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.

Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.

Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:

"Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh".

Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen"

Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: “Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi”.

Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.

Lạy Chúa, xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ. Và giữa những vất vả lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn. Lạy Thánh Gioakim và thánh Anna xin phù trợ chúng con. Amen.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 11. Thánh Gioakim và Anna


--ditimchanly.org

Thánh Gioakim  và Thánh Anna  là song thân của Đức Mẹ, tức là Ông Bà Ngoại của Chúa Cứu Thế Giêsu. (Xin được mở ngoặc: Thấy có một số người thường viết lộn hoặc đọc sai là Gioan-kim).

Tên Gioakim được tạo bởi chữ YHWH (tiếng Do thái: יְהוֹיָקִים Yəhôyāqîm, tiếng Hy Lạp: Ἰωακείμ Iōākeím), nghĩa là “sự chuẩn bị của Gia-vê”.

Thánh Gioakim là Phu quân của Thánh Anna và là Thân phụ của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ của Chúa Giêsu, theo truyền thống Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, và Anh giáo. Câu chuyện về Thánh Gioakim and Anne first appears in the apocryphal Phúc Âm theo Thánh Giacôbê. Thánh Gioakim và Thánh Anna không được nhắc tới trong Kinh Thánh.

Hai Ông Bà được Giáo hội kính nhớ vào ngày 26 tháng Bảy hằng năm. Đây là ngày lễ của những người đã làm ông bà (nội hay ngoại). Lễ này nhắc nhớ quý ông bà nội ngoại về trách nhiệm xây dựng các thế hệ tương lai, phải tạo truyền thống gia phong lễ giáo như phần di sản đạo đức làm của hồi môn cho cháu chắt. Tuy nhiên, lễ này cũng là lời nhắn nhủ dành cho thế hệ trẻ: Phải tôn kính người lớn hơn mình, nhất là những người già, phải biết trải nghiệm, đánh giá cao cuộc sống chứ không được coi nhẹ hoặc làm ngơ.

Gia phả của Chúa Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Matthêu và Luca không nói rõ tên cha mẹ của Đức Maria, nhưng có liệt kê tên các người cha của Đức Thánh Giuse, nhiều học giả trong nhóm của John ở Damascus (thế kỷ 8), và đặc biệt là các học giả Tin lành, tranh luận rằng gia phả trong Phúc Âm theo Thánh Luca mới đúng là phả hệ của Đức Mẹ, và Heli là cha. Để giải quyết vấn đề Đức Thánh Giuse có hai người cha – một thuộc dòng dõi Vua Salomom, hậu duệ của Nathan, con Vua Đa-vít, truyền thống từ thế kỷ 7 xác định rằng Heli là anh em họ đầu tiên của Thánh Gioakim.

Theo truyền thống, Bà Anna sinh tại Belem, kết hôn với Ông Gioakim người Nadaret, cả hai đều là dòng dõi Thánh vương Đa-vít. Trong Protoevanggelium of James, Thánh Gioakim được mô tả là người giàu có và đạo đức, thường giúp đỡ người nghèo và tới Đền thờ tại Sepporis. Truyền thống nói rằng cha mẹ của Đức Maria mới đầu sống ở Galilê, sau đó định cư ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Bà Anna là phụ nữ son sẻ, Ông Gioakim bị các thầy thượng tế sa thải và từ chối lễ vật hy sinh của ông, vì việc Bà Anna không có con được hiểu là việc không đẹp lòng Chúa. Ông Gioakim rút vào hoang địa để ăn chay và đền tội 40 ngày. Lúc đó các thiên thần hiện ra hứa với Ông Bà Gioakim và Anna là sẽ có con nối dõi. Sau đó, Ông Gioakim trở lại Giêrusalem và đón Bà Anna tại cổng thành. Có niềm tin cổ cho rằng đứa con sinh bởi người mẹ già là đã được tiền định về điều gì đó kỳ lạ. Trong Cựu ước có trường hợp của Bà Hannah, Thân mẫu của Ngôn sứ Samuel.

Truyền thuyết liên quan Ông Bà Gioakim và Anna có trong “Cổ Tích Vàng” (Golden Legend) và vẫn phổ biến trong nghệ thuật Kitô giáo cho tới khi Công đồng Trentô xác nhận đó là các sự kiện ngụy tạo.

Phụng vụ theo lịch Tridentine không có lễ Thánh Gioakim. Lễ này được thêm vào Công Lịch Rôma từ năm 1584, mừng vào ngày 20-3, ngay sau lễ Đức Thánh Giuse Phu quân Đức Mẹ. Năm 1738, lễ này được chuyển sang Chúa nhật sau tuần bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Với nỗ lực để Phụng vụ các Chúa nhật được ử hành, ĐGH Piô X đã chuyển lễ này sang ngày 16 tháng Tám, sau lễ Đức Mẹ Mông Triệu, để Thánh Gioakim được kính nhớ trong khi cử hành cuộc khải hoàn của Đức Mẹ. Trong lịch các thánh của Giáo hội Công giáo Rôma (năm 1969), lễ Thánh Gioakim được mừng chung với Thánh Anna vào ngày 26 tháng Bảy.

Giáo hội Chính thống Đông phương và Công giáo Hy Lạp kính nhớ Thánh Gioakim và Thánh Anna vào ngày 9 tháng Chín. Thánh Gioakim và Thánh Anna là thánh bổn mạng của các cha mẹ, các ông bà nội ngoại, những người kết hôn, những người đóng tủ và những người buôn vải. Có một số biểu tượng gắn liền với Thánh Gioakim: Cuốn sách hoặc cuộn giấy tượng trưng người dệt vải, chiếc gậy chăn chiên tượng trưng chữ nghĩa của Kitô giáo, và cái rổ đựng đôi chim bồ câu tượng trưng sự hòa bình. Thánh Gioakim thường có trang phục màu xanh lá cây, màu của niềm hy vọng.

Trong Kinh thánh, hai Thánh sử Matthêu và Luca cung cấp gia phả của Chúa Giêsu, cho thấy rằng Chúa Giêsu là đỉnh cao của Giao ước (những lời hứa). Chúng ta không biết gì nhiều, ngay cả Ông Bà Ngoại Gioakim và Anna cũng chỉ được nhắc tới sau khi Chúa Giêsu chịu chết được hơn 100 năm.

Đức tính anh hùng và sự thánh thiện của các ngài được suy ra từ bầu khí gia đình liên quan Đức Maria trong Kinh thánh. Dựa vào truyền thuyết thời thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ thông tin trong Kinh thánh, chúng ta thấy sự viên mãn của nhiều thế hệ của những con người cầu nguyện, chính Đức Mẹ đã say đắm cầu nguyện theo truyền thống tôn giáo.

Tính cách mạnh mẽ của Đức Maria thể hiện khi quyết định “xin vâng” (Lc 1:38), liên lỉ cầu nguyện, tuân thủ luật đức tin, sự vững vàng khi gặp khủng hoảng, và tận tụy với những người thân (Lc 1:39-45) – cho thấy gia đình gắn bó yêu thương, trông mong thế hệ kế tiếp duy trì những điều tốt đẹp nhất của quá khứ.

Ông Bà Gioakim và Anna biểu hiện các thế hệ khá lặng lẽ khi trung thành thực hiện trách nhiệm, sống đức tin và thiết lập môi trường tốt lành cho Đấng Thiên Sai tới.

Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con. Amen.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 12. Thánh Gioakim và Anna, mẫu gương của các gia đình


--Lm Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Thánh Ðamascênô ca tụng thánh GioaKim và thánh Anna như sau: "Lạy thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài, vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa”.

A. CÁC THÁNH CA NGỢI

Trong tâm tình ngày lễ của thánh Gioakim và thánh Anna, Bác Tài xin mượn mấy lời ca tụng của thánh Đamascênô để chia sẻ với các chị về thánh Gioakim và thánh Anna.

1. Thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc...

Dù là Thiên Chúa thì Ngài cũng vẫn phải có kế hoạch lâu dài để cứu nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi mà tên đầu sỏ là satan, kế hoạch của Thiên Chúa chỉ được rõ ràng nơi hai con người trổi vượt trên tất cả con cái Adong và Eva, đó là Đức Trinh Nữ Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Trong ý định của Thiên Chúa, thánh Gioakim và thánh Anna là hai con người được chọn cách đặc biết để từ nơi các ngài mà chương trình của Thiên Chúa từ từ ló dạng như ánh mặt trời ló dạng ở phương đông. Là con người của Cựu Ước được gọi là người công chính, thánh Gioakim và thánh Anna đã trở nên đôi bạn đời gương mẫu thánh thiện, là nơi ươm mầm sự hoàn thiện của con gái các ngài: Đức Trinh Nữ Maria.

Sự thánh thiện này được gói trọn trong hai chữ hạnh phúc mà các thánh trong Giáo Hội đã ca tụng các ngài, hạnh phúc vì các ngài đã trở nên mẫu gương cho những bậc làm cha mẹ, hạnh phúc vì các ngài đã sống và dạy con cái sống theo ý của Thiên Chúa trở nên những con người biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Sống đôi bạn, cái mà những người vợ người chồng tìm kiếm là sự hạnh phúc thật, hạnh phúc này không xây dựng trên tiền tài danh vọng, không đặt trên nền tảng học thức hay bất cứ công cụ nào của loài người, nhưng được đặt trên nền tảng tình yêu của Thiên Chúa. Chính tình yêu này đã làm cho gia đình trở thành vườn ươm mầm hạnh phúc nơi con cái, và từ nơi hạnh phúc này mà xã hội được bình an vì có những con người thánh thiện phục vụ.

Thánh Gioakim là người cha gương mẫu biết dạy dỗ con cái, là người chồng biết kính sợ Thiên Chúa; thánh Anna là người mẹ hiền lành đầy lòng nhân ái, là người vợ biết phục tùng chồng và cùng với chồng xây dựng hạnh phúc.

Nhờ những đức tình này của cha mẹ mà Đức Trinh Nữ Maria đã trở thành một thiếu nữ đoan trang thánh thiện, và nhờ sự giáo dục theo tinh thần kính mến Thiên Chúa và yêu thương này, mà Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài.

Hạnh phúc thay cho đôi bạn Gioakim và Anna, bởi vì Thiên Chúa đã chọn các ngài để thực hiện mầu nhiệm yêu thương của Ngài là cứu chuộc nhân loại.

2. Tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài...

Giáo Hội thay mặt cho toàn thể nhân loại từ nguyên tổ Adong Eva cho đến hết mọi thời đại tri ân thánh Gioakim và Anna, bởi vì chính nơi gia đình bé nhỏ nhưng rất hạnh phúc vì ngập tràn ân sủng của Thiên Chúa này, đã trổ một cành hoa đẹp tuyệt vời để trở thành Mẹ của Giáo Hội là Đức Trinh Nữ Maria, bởi vì Giáo Hội là gia sản quý báu của Chúa Giêsu tại trần gian, bởi vì Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Giêsu, và hơn tất cả mọi loài thụ tạo, Giáo Hội dâng niềm tri ân kính mến lên Thiên Chúa vì tình thương của Ngài đã ban cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể loài người.

Tất cả mọi tạo vật đều phải cám ơn các ngài, bởi vì tổ ấm gia đình của ngày hôm nay có nguy cơ tan vỡ, có nguy cơ biến thành hỏa ngục khi cha mẹ và con cái “mạnh ai nấy sống”, thì tấm gương sáng cho bậc làm cha mẹ đã có chính là thánh Gioakim và thánh Anna.

Thánh Anna, một bà mẹ “tiền Công Giáo” đã sống đúng với những gì mà Chúa Giêsu đã dạy, bởi vì chính thánh nữ đã sinh đã dưỡng dục Đức Trinh Nữ Maria trở thành một mẫu gương cho mọi người nữ trong nhân loại, ảnh hưởng của người mẹ trên con cái như thế nào, thì hôm nay các nhà khoa học và các nhà đạo đức học cũng như các nhà giáo dục đã chứng minh cho nhân loại thấy rất rõ ràng rằng: người mẹ là thầy dạy và có ảnh hưởng rất lớn trên con cái, từ nhân cách cho đến đời sống nội tâm của đứa trẻ, đa phần là chịu ảnh hưởng của người mẹ...

Nhưng cái quan trọng hơn để cám ơn thánh Gioakim và thánh Anna chính là đã cống hiến cho nhân loại một con người tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria, và nơi cung lòng của người trinh nữ này mà Con Thiên Chúa đã giáng trần cứu chuộc nhân loại. Thật hạnh phúc và cũng thật vinh quang cho toàn thể nhân loại khi được Thiên Chúa đoái mắt nhìn đến mà chọn Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1, 46-56) làm mẹ Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu.

Thánh Anna là một người phụ nữ như tất cả những người phụ nữ Do Thái khác thời ấy, ngài cũng lao động, cũng chân chất trong lời nói và việc làm, cũng lo săn sóc chồng con, cũng vui vẻ giao tiếp với mọi người, cũng tuân giữ lể luật cha ông và cũng trông đợi Đấng cứu thế đến như bao người Do Thái khác, nhưng lòng kính mến Thiên Chúa và yêu thương người của bà chắc chắn là trổi vượt trên tất cả những người phụ nữ khác, và chỉ nhờ có thế mà Thiên Chúa đã chọn gia đình của ngài để thực hiện chương trình cứu chuộc nhân loại của Ngài.

Mọi tạo vật đều cám ơn các ngài vì thánh Gioakim và thánh Anna không làm những gì vĩ đại để Thiên Chúa chọn, các ngài chỉ lo chu toàn bổn phận hàng ngày của mình -một linh đạo đơn sơ mà hiệu quả- cách can đảm và là một mẫu gương cho loài người noi theo. Cám ơn vì những việc làm nhỏ mà con người phải làm đã đánh động đến tình yêu Thiên Chúa, cám ơn là vì Thiên Chúa cũng không “kén chọn” cái vĩ đại của con người để thực hiện ý định của mình, nhưng đã chọn cái thấp hèn để làm nên việc vĩ đại của mình như lời Đức Trinh Nữ Maria đã tán dương qua bài Magnificat (Lc 1, 46-49).

3. Vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất không phải là vàng, nhủ hương, mộc dược, nhưng chính là tâm hồn thành tâm thiện chí của chúng ta.

Thánh Gioakim và thánh Anna là những con người bình dân giản dị, thế nhưng đã dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, cao trọng vì trước hết các ngài không đòi hỏi cô con gái cưng của mình phải lập gia đình để sinh con cái và để được Thiên Chúa chúc phúc, cao trọng là vì các ngài đã biết nhìn ra ý Thiên Chúa trong đời sống của cô con gái nhỏ của mình: cuộc sống thánh hiến cách đặc biệt giữa một dân tộc mà truyền thống “ở một mình” thì coi như bị Thiên Chúa chúc dữ bỏ rơi, các ngài đã can đảm và (có lẽ) cũng đã nghe những tiếng bàn tán xì xào về cách sống đồng trinh thánh thiện của con gái mình nơi người hàng xóm, những lời bàn tán ấy sẽ là những lời ca ngợi trước mặt Thiên Chúa của các tổ tông và các thánh tiên tri.

Cao trọng là vì các ngài đã đem “con gái ruột” cục cưng của mình dâng hiến cho Thiên Chúa mà không đòi một điều kiện nào, con gái cưng là núm ruột của hai ông bà, là niểm vui và an ủi của tuổi già cô đơn, chính cái dâng hiến này đã trở thành lễ vật cao trọng làm cho Thiên Chúa không những thưởng công cho hai ngài mà thôi, mà còn thưởng công cho cả vũ trụ được tham dự vào phần phúc vĩnh cữu trên trời với Ngài, đó chính là Thiên Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Đấng Đồng Công cứu chuộc nhân loại với Chúa Giêsu: chịu đau khổ trong tâm hồn khi con mình bị đóng đinh và chết trên thập giá.

Thánh Gioakim và thánh Anna là loại thụ tạo, cho nên có thể nói, các ngài thay mặt cho loài thụ tạo dâng lên Thiên Chúa một lễ vật cao trọng -như lời thánh Đamascenô đã ca ngợi- là Đức Trinh Nữ Maria, và chính nhờ lễ vật nầy mà nhân loại được cừu rỗi, được tham dự vào sự sống đời đời với Thiên Chúa trong Đức Kitô, con của Đức Trinh Nữ Maria.

Tình yêu được đáp trả bằng tình yêu, lễ vật được đáp trả bằng lễ vật, bởi loài thụ tạo -thánh Gioakim và thánh Anna- đã không ngần ngại dâng lên Đấng tạo dựng món quà quý nhất của mình là cô con gái nhỏ bé Maria, đáp lại Thiên Chúa -Đấng tạo dựng- cũng đã không ngần ngại trao ban Con Một của mình là Đức Giêsu cho nhân loại để trở nên của lễ cứu chuộc đẹp lòng Cha mọi đàng. Đây là tinh thần “tiền tu đức” phó thác vào Thiên Chúa mà chính thánh Gioakim và thánh Anna đã sống và thực hiện trong cuộc sống của các ngài, và chắc chắn rằng, sau này sự khiêm tốn và phó thác vào Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria cũng được phát xuất từ nơi song thân của mình...

Đức Trinh Nữ Mẹ Maria là hoa quả tình yêu của thánh Gioakim và thánh Anna, là đóa hoa tuyệt mỹ của trời cao được Thiên Chúa tuyển chọn

B. GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO

Thánh Gioakim và thánh Anna đã trở thành mẫu gương thánh thiện cho các gia đình công giáo, mà cụ thể là đời sống tốt lành của các ngài.

Gia đình hôm nay chịu nhiều ảnh hưởng của trào lưu văn minh và hưởng thụ, nền tảng gia đình có nguy cơ sup đổ vì trong gia đình vắng bóng tình yêu của Thiên Chúa, mặc dù cha mẹ có những lúc biết điều ấy mà không thể nào làm cho hoàn cảnh tốt hơn, vì chính bản thân của họ cũng không thể tốt hơn khi vì công việc làm ăn hoặc vì thích sống cho mình hơn là quan tâm đến con cái và những người trong gia đình, đó chính là nguyên nhân đưa đến sự thờ ơ với đời sống tín ngưỡng cũng nhứ với đức tin mà mình đã lãnh nhận trong Chúa Kitô nơi Hội Thánh của Ngài.

Thánh Gioakim và thánh Anna là người cha và người mẹ của con cái, là người chồng người vợ trong gia đình như tất cả những đôi vợ chồng khác trên thế gian, nhưng các ngài đã trở nên những người có phúc, có phúc vì đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, có phúc vì các ngài đã nuôi nấng và dạy dỗ con cái theo như ý muốn của Thiên Chúa, hạnh phúc vì các ngài đã không tiếc công lao nuôi dưỡng để rồi đem con yêu quý của mình dâng cho Thiên Chúa để Ngài làm theo như thánh ý của Ngài.

Với ba cái hạnh phúc trên, các gia đình Công Giáo có thể noi gương sáng của các ngài để trở nên người hạnh phúc:

1. Sống đẹp lòng Thiên Chúa.

Sống đẹp lòng Thiên Chúa, ngoài việc tuân giữ lề luật của Ngài, thì thánh Gioakim và thánh Anna còn sống đẹp lòng mọi người bên cạnh. Trong gia đình cha mẹ là người thay mặt Thiên Chúa để dạy dỗ con cái, thay mặt Thiên Chúa tức là người của Thiên Chúa và làm theo lời dạy của Thiên Chú, do đó mà cha mẹ có trách nhiệm lớn lao trước mặt Thiên Chúa trong việc quản lý gia đình.

Trong gia đình cha mẹ sống đẹp lòng Thiên Chúa như hai thánh Gioakim và Anna đã sống, tức là tự bản thân mình phải chu toàn lề luật Thiên Chúa cách trọn hảo như là một mẫu mực cho con cái noi theo. Cha mẹ biết yêu mến lời Thiên Chúa thì chắc chắn con cái sẽ yêu mến nghe lời cha mẹ dạy; cha mẹ sống yêu thương và biết giúp đỡ mọi người thì con cái chắc chắn sẽ biết thương yêu nhau và biết phục vụ người khác; cha mẹ biết răn dạy con cái theo tinh thần Phúc Âm thì con cái sẽ trở nên người có ích cho Giáo Hội cũng như cho xã hội...

Sống đẹp lòng Thiên Chúa như hai thánh Gioakim và Anna không phải là cái gì quá cao vời không thể bắt chước, nhưng với ơn Thiên Chúa giúp, với việc năng đón nhận các ơn lành của Thiên Chúa qua việc tham dự các bí tích thì sẽ làm được, và xét cho cùng, chúng ta hơn hẳn hai thánh Gioakim và Anna về mọi phương diện để được sống đẹp lòng Thiên Chúa, đó là các bí tích, nhất là bí tích Giải Tội và bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta là để chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa vậy.

Phải chăng thánh Gioakim và thánh Anna đã thấm nhuần giáo huấn của Sách Huấn ca, nên các ngài đã sống cuộc đời rất đẹp lòng Thiên Chúa:

“Kính sợ Thiên Chúa đem lại vinh quang và tự hào

hân hoan và phấn khởi.

Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng,

cho con người được hoan hỷ mừng vui

Và an khang trường thọ.

Ai kính sợ Thiên Chúa sẽ thấy uộc đời kết thúc tốt đẹp,

ngày lâm chung họ sẽ được hưởng phúc lành" (Hc 1, 1-13).

Và chỉ những người có lòng kính sợ Thiên Chúa mới biết sống đẹp lòng Ngài, đó chính là gốc rễ của sự ngôn ngoan vậy (Hc 1, 20).

2. Nuôi và dạy dỗ con cái.

Theo truyền thống kể lại thì thánh Gioakim và thánh Anna chỉ có một người con gái, đó là cô Maria, sau này đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu.

Dạy dỗ con cái theo tinh thần của lề luật như hai thánh Gioakim và Anna là điều rất dễ hiểu, bởi vì chính bản thân của hai ngài cũng đã làm gương tuân giữ lề luật của Thiên Chúa cách trọn vẹn nên cô bé Maria đã trở thành một thiếu nữ phẩm hạnh vượt trên tất cả người phụ nữ (Lc 1, 42) của mọi thời đại, đó là một hạnh phúc lớn cho cha mẹ và cho gia đình.

Thời nay, có nhiều bậc làm cha mẹ không mấy chú trọng vào việc dạy dỗ con cái theo tinh thần Phúc Âm nên gia đình thường có nhiều phiền não, cuộc sống xô bồ đã làm cho cha mẹ chỉ chú trọng đến việc ăn mặc của các con mà không chú trọng đến việc con cái mình sống ra sao, cho nên con cái thường đi ra ngoài tầm kiểm soát của cha mẹ mà -đôi lúc- cha mẹ biết con cái đã đi vào con đường xấu mà không dạy dỗ, hoặc có chăng thì cũng chỉ là hỏi qua loa vài chuyện, cùng lắm thì nạt nộ to tiếng rồi thôi, đó chính là bảo ban không đúng lúc như sách Huấn Ca đã nói:

“Bảo ban không đúng lúc tựa như hòa nhạc giữa đám tang,

nhưng roi vọt và lời răn đe là khôn ngoan mọi lúc.

Thánh Gioakim và thánh Anna đã làm tròn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con cái mình, hai ngài đã giáo dục Đức Maria trở nên một thiếu nữ đạo hạnh và biết kính sợ Thiên Chúa.

Hạnh phúc nhất của cha mẹ là khi con cái trưởng thành nên người có ích cho mọi người, hạnh phúc này là một bảo đảm cho tuổi già an vui khi các ngài nhìn thấy con cái cháu chắt sống đùm bọc yêu thương nhau trước ngày mình nhắm mắt về với Thiên Chúa. Đây là một phần thưởng “nhãn tiền” mà Thiên Chúa dành cho những người biết kính sợ Ngài, biết tuân giữ giới răn của Ngài trong cuộc sống của họ.

3. Dâng con cho Thiên Chúa.

Như Abel dâng lên Giavê Đức Chúa những hoa quả đầu mùa tốt tươi với tấm lòng chúc tụng và biết ơn, thánh Gioakim và thánh Anna đã dâng con gái yêu quý của mình cho Thiên Chúa trong niềm tin yêu và phó thác.

Thói quen tốt lành của những cha mẹ Công Giáo là sau khi con mình được lãnh bí tích Rửa Tội thì ẳm con đi thẳng qua bàn thờ Đức Mẹ mà dâng con cho Mẹ, nếu thói quen tốt lành này cha mẹ mỗi ngày đều lập lại dâng con mình cho Thiên Chúa và cho Mẹ Maria thì con cái sẽ không lệ thuộc về thế gian, nghĩa là không trở thành những đứa con hư hỏng nguy hiểm cho xã hội.

Không phải dâng con một lần trong ngày Rửa Tội, nhưng phải dâng con liên lĩ trong suốt cuộc đời của chúng nó. Thánh Gioakim và thánh Anna chắc chắn là đã làm điều này, khi mà đứa con gái mình mới tám tuổi đầu đã quyết tâm hiến dâng cuộc đời phục vụ Thiên Chúa nơi đền thánh, cô Maria sẽ không làm được như thế nếu cha mẹ của cô không có đời sống đạo đức, không có sự thành tâm dâng hiến con mình cho Thiên Chúa...

Dâng con thì cũng giống như dâng cả cuộc đời của mình cho con, có nhiều cha mẹ thời nay đã than thở rằng: “Chúng tôi đã dâng nó cho Thiên Chúa và Mẹ Maria, nhưng sao nó vẫn khong nghe lời chúng tôi nói, cứ theo bạn bè xấu...”- Vẫn có những người con không biết nghe lời cha mẹ, vẫn có những người con thờ ơ dửng dưng với tín ngưỡng mà mình đã đón nhận, thậm chí còn có những người con chối bỏ đức tin của mình, tất cả những điều tệ hại đang xảy ra ấy không phải hoàn toàn vì lỗi chúng nó, nhưng trước hết cha mẹ phải kiểm thảo lại mình đã làm tròn bổn phận của cha mẹ chưa, bổn phận của cha mẹ không phải chỉ nuôi nấng cho con cái ăn học rồi thôi, nhưng còn là phải làm cho chúng nó biết ngoài cái ăn cái mặc cái học còn có một cái cao quý hơn nhiều, đó chính là linh hồn vô cùng cao quý của chúng nó, phải nói cho con cái biết rằng linh hồn chúng nó đã được chuộc lại từ trong tay của ma quỷ bằng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá...

C. DÂNG HIẾN CỦA ĐỜI TU

Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi nên thánh, nghĩa là được mời gọi tham dự vào đời sống của Thiên Chúa ngay tại trần gian này trong bổn phận của mình như hai thánh Gioakim và thánh Anna đã sống.

Mỗi người trong chúng ta, dù ở trong cương vị nào cũng nên học gương lành của các ngài.

Chúng ta cũng đem tinh thần dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna vào trong đời sống tu trì của mình: dâng hiến “đứa con” duy nhất của mình là “”cái tôi” cho Thiên Chúa: “đứa con” này chúng ta yêu quý hơn tất cả mọi thứ trên trần gian, và vì nó mà con người phải bất chấp tất cả, kể cả phạm pháp, để làm thỏa mãn nó, do vậy, khi chúng ta chọn đời sống tu trì là chúng ta đem “cái tôi’ yêu dấu của mình dâng cho Thiên Chúa mà không một chút buồn phiền. “Cái tôi” này chính Thiên Chúa đã để sẵn trong mỗi một con người từ khi tạo dựng để con người được luôn hướng thiện về Thiên Chúa, nhưng sau khi nguyên tổ phạm tội thì “cái tôi” này đã trở thành kẻ phản kháng Thiên Chúa và tất cả những gì tốt đẹp của Ngài đã làm cho loài người.

Đi tu là dâng hiến “cái tôi” đứa con ruột của mình: đứa con này cũng đã nhiều lần nổi loạn trong mỗi người tu sĩ khi mà họ không nhìn thấy lý tưởng trong đời sống tu trì. Đem “cái tôi” dâng cho Thiên Chúa để tùy ý Ngài hoàn thành cho nó theo thánh ý vô biên của Ngài là một hy sinh vô cùng lớn lao, mà hai thánh Gioakim và Anna đã làm khi dâng đứa con ruột của mình là Maria cho Thiên Chúa.

Người đời nhìn vào các tu sĩ nam nữ (nhất là các nữ tu) thì họ nhận ra ngay cái “không” lớn nhất của họ, đó là không gia tài sự nghiệp, nhưng họ thấy ngay cái phong phú trong cái không ấy của các tu sĩ đó là sự dâng hiến toàn vẹn cho Thiên Chúa, người ta bội phục và yêu mến các tu sĩ nam nữ vì họ đã anh dũng can đảm dâng “cái tôi” của mình cho Thiên Chúa (cái tôi mà chính họ cũng có nhưng họ không bao giờ dám dâng hiến) để sống như ý muốn của Ngài tại trần gian này.

Tinh thần dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna đã ảnh hưởng trên Mẹ Maria như thế nào, thì hôm nay cũng ảnh hưởng trên các nữ tu -con cái của Mẹ- như vậy. Bởi vì khi chọn Mẹ Maria là Mẹ của mình và là Bà Hoàng của mình thì các nữ tu cũng sẽ học đòi các nhân đức như Mẹ vậy, bởi vì khi muốn mình trở nên nữ tỳ của Mẹ thì các nữ tu cũng sẽ sống đời tận hiến trong tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria vậy.

Của lễ dâng hiến của thánh Gioakim và thánh Anna là Đức Maria con gái độc nhất của mình.

Của lễ dâng hiến của Mẹ Maria là Đức Giêsu con trai độc nhất của mình.

Của lễ dâng hiến của các tu sĩ nam nữ là “đứa con” của mình: cái tôi.

Tuy nhiên tất cả các của lễ dâng hiến trên đây sẽ không được toàn vẹn nếu không có “sự hiến dâng trọn vẹn” của Chúa Giêsu lên Chúa Cha để cứu chuộc toàn thể nhân loại qua mọi thời đại...

D. KẾT

Mỗi năm một lần, cứ đến ngày 26.7 là Giáo Hội mừng lễ kính hai thánh Gioakim và thánh Anna, để ca ngợi tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và quyền năng, đã chọn hai ngài làm nơi âm thầm ươm mầm sự cứu độ cho nhân loại là Đức Trinh Nữ Maria, để qua Mẹ mà nhân loại được đón nhận Ánh Sáng Tin Mừng và ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu.

Mừng lễ kính thánh Gioakim và thánh Anna chúng ta cần phải học hỏi gương lành của các ngài:

- Các bậc cha mẹ học gương các ngài để chăm sóc và dạy dỗ con cái theo ý của Thiên Chúa.

- Sống bậc vợ chồng noi gương các ngài sống tôn trọng và yêu thương nhau.

- Các tu sĩ nam nữ học nơi các ngài sự dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa, để trở nên của lễ đẹp lòng Ngài.

“Kính lạy hai thánh Gioakim và Anna, xin cầu bàu cho chúng con là những người làm cha làm mẹ trong gia đình, biết nuôi nấng dạy dỗ con cái sống làm người Kitô hữu tốt lành; xin dạy chúng con là những người dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa để phục phục Ngài trong tha nhân, biết quãng đại hy sinh tất cả để trở thành công cụ loan truyền tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người...Amen.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 13. Thánh Gioakim và Anna Phụ Mẫu Ðức Trinh Nữ Maria


--Nhóm Châu Kiên Long

Mặc dầu Phúc Âm không nói gì đến đời sống của hai đấng, nhưng căn cứ vào thánh truyền, chúng ta có thể đi ngược dòng thời gian để tìm hiểu những dấu tích.

Các ngài đã tạo thành một móc xích, nối kết Israel cũ và Israel mới, nối kết Cựu Ước và Tân Ước. "Các ngài đã nhận lãnh phúc lành của Thiên Chúa" và "nhờ các ngài, phúc lành được hứa cho mọi dân tộc đã đến với chúng ta".

Các ngài đã sinh ra Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Con Thiên Chúa. Vì thế, thánh Ðamascênô ca tụng hai đấng như sau: "Lạy thánh Gioakim và Anna, đôi bạn hạnh phúc, tất cả mọi tạo vật đều mang ơn các ngài, vì nhờ các ngài mà tạo vật đã dâng lên cho Ðấng Hóa Công một lễ vật cao trọng, đó chính là Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 14. Thánh Gioakim và Anna


--Lm Augustinô Nguyễn Văn Trinh

Cha mẹ của Đức Trinh nữ Maria, tức ông bà ngoại của Chúa Giêsu, đã không được nêu lên trong Tân Ước, cũng không có trong bản gia phả của Phúc Âm thánh Mátthêu, cũng như của Thánh Luca.

Danh tánh Gioakim và Anna được gặp thấy lần đầu tiên trong một tác phẩm ngụy thư được viết để tôn kính Đức Trinh nữ Maria vào khoảng năm 200. Danh tánh bà Anna (Hanna) gợi cho chúng ta nhớ đến người mẹ của tiên tri Samuen (x. 1Sm 1); bà được chồng yêu mến và được Thiên Chúa chúc phúc.

Thánh Anna được Giáo Hội Đông Phương tôn kính từ thế kỷ thứ V; và hiện tại, người Hy Lạp hằng năm vẫn kính nhớ trong 3 ngày lễ. Lễ kính thánh Anna được phổ biến ở Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ X. Thánh Gioakim thì mãi đến thế kỷ XVI mới thấy xuất hiện.

Dù vậy, có một sự lên xuống trong thánh lễ mừng kính hai vị thánh này:

- Đức Thánh Cha Piô V (+ 1572) loại bỏ thánh lễ kính thánh Anna;
- Đức Thánh Cha Giêgôriô XIII (+1585) cho tái lập lại;
- Đức Thánh Cha Giêgôriô XV (+ 1623) lại loại bỏ;
- Đức Thánh Cha Lêô XIII (+ 1903) cho tái lập và nâng lên bậc II;

Từ đó phụng vụ có:

- Ngày 26 tháng 7 mừng lễ thánh Anna.
- Ngày 16 tháng 8 mừng lễ thánh Gioakim.

Đức Thánh Cha Phaolô VI (+ 1978) canh tân phụng vụ, từ đó hai vị thánh được mừng chung vào ngày hôm nay: Ngày 26/07 hàng năm.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 15. Thánh Gioakim và Anna


--Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ

Ngày lễ song thân Đức Trinh Nữ Maria trùng với ngày cung hiến Đại Thánh Đường Thánh Anna ở Constantinople vào khoảng năm 550. Từ thế kỷ XIII, lễ này đã phổ biến sang phương Tây qua các đoàn thập tự chinh, nhưng mãi đến 1584 mới thấy xuất hiện trong sách lễ Roma. Còn lễ Thánh Gioakim thì mãi 1522 mới thấy nhập vào phương Tây. Việc kết hợp hai lễ riêng lẻ này thành một lễ kính “ông bà” của Đức Giêsu, tức là hai vị “công chính” Gioakim và Anna, đã thấy xuất hiện trong phụng vụ dòng Phan Sinh vào ngày 20 tháng Ba, rồi vào nhiều ngày khác. Tại phương Đông, lịch Byzance mừng kính các Thánh Gioakim và Anna vào ngày 9 tháng Chín, ngày tiếp sau lễ sinh nhật Đức Maria, theo tập quán muốn mừng cha mẹ vì đã sinh con. Từ năm 1968, song thân của Đức Maria được mừng chung. Tất cả những gì chúng ta biết về các ngài là nhờ cuốn Ngụy Phúc Âm của Giacôbê, một bản ngụy kinh thuộc thế kỷ II, trong đó kể rằng, Đức Maria đã được sinh ra cách kỳ diệu do hai cha mẹ son sẻ: sứ thần báo tin cho ông Gioakim sau khi ăn chay bốn mươi ngày, rằng lời nguyện của ông được chấp nhận, trong khi Bà Anna đứng đợi ông nơi Cửa Vàng ở Jérusalem.

Thánh Anna được đặc biệt tôn kính ở làng Sainte Anne d’Auray (Bretagne) và làng Sainte Anne de Beaupré (Canada).

2. Thông điệp và tính thời sự

Cac lời nguyện trong Thánh Lễ lấy từ sách lễ Paris 1738, nhấn mạnh hai điểm cùng có trong những bản văn phụng vụ khác.

Lời nguyện trong ngày và lời nguyện trên lễ vật mừng song thân Đức Maria, Đấng mang ơn cứu rỗi đến cho chúng ta cũng như mang “lời chúc phúc đã hứa cho Abraham và miêu duệ Người”. Đây chính là sự tiếp nối nhiệm cục cứu rỗi của Thiên Chúa, ý định này đã được thực hiện từ Abraham, qua các tổ phụ trong niềm tin, đến với hai thánh Gioakim và Anna, đến Đức Maria con của các ngài và Đức Giêsu Con Mẹ. Thiên Chúa vẫn trung thành suốt chuỗi dài các thế hệ đó, nhờ thế chúng ta cũng được hưởng những ân huệ trong sự cứu rỗi muôn đời và trong lời chúc phúc đã hứa với Abraham và miêu duệ Ông.

Lời nguyện hiệp lễ nhấn mạnh mầu nhiệm này: Thiên Chúa đã muốn Con Một mình “sinh bởi một gia đình nhân loại”. Quả thế, qua việc chọn dân riêng, Chúa đã tặng cho toàn nhân loại ơn cứu rỗi, nhân loại mà Người là thành viên không thể chia lìa. Vì thế đích thân Thiên Chúa trở thành liên đới với loài người.

Trong Phụng vụ Bài đọc, bài giảng của Thánh Gioan Đamascênô lấy lại tư tưởng đó: “Thánh Gioakim và Thánh Anna là cặp vợ chồng thanh khiết! Khi các ngài tuân giữ sự khiết tịnh trong luật lệ tự nhiên, các ngài đã được thưởng điều vượt quá những gì thiên nhiên ban tặng, đó là đã sinh ra cho thế gian Đấng không ăn ở với chồng nhưng sẽ là Mẹ Thiên Chúa”.

------------------------------

 
 

Suy Niệm 16. Thánh Gioakim và Anna Giáo dục bằng gương sáng


--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

Hôm nay phụng vụ mừng kính song thân Đức Mẹ là thánh Gioakim và Anna. Các ngài là ông bà ngoại của Đức Giêsu. Cuộc đời của các ngài rất âm thầm đến nỗi không có một trang Tin Mừng nào nhắc đến.

Trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, thánh Anna cũng có những lúc thăng trầm trong phụng vụ, tức là ngài được Giáo Hội thiết lập ngày lễ mừng nhưng rồi lại bỏ và cuối cùng, Đức Lêo XIII (+ 1903) cho tái lập lại. Đến thời Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI (+ 1978), khi canh tân phụng vụ, ngài mới cho phép mừng chung với thánh Gioakim vào ngày 26-7 như hiện nay.

Mỗi lần nhắc đến song thân Đức Maria, chúng ta có quyền hiểu rằng: các ngài là người công chính, được Thiên Chúa yêu thương, bởi lẽ các ngài là người sinh hạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế là Mặt Trời Công Chính.

Các ngài còn là người cha, người mẹ mẫu mực về đời sống đạo đức và trung thành với Thiên Chúa. Tại sao lại nói được như vậy? Thưa, bởi vì chúng ta cứ xem quả thì biết cây. Cây nào sinh trái đó. Cây xấu không sinh được trái tốt và cây tốt không thể sinh ra trái xấu. Quả thật, Đức Maria là người đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương và tiền định cho làm mẹ Đấng Cứu Thế, vì vậy, Đức Giêsu không thể sinh ra bởi một người mẹ bất toàn được.

Mừng lễ Gioakim và Anna hôm nay, Giáo Hội mời gọi con cái của mình hãy tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi hai đấng trong mầu nhiệm cứu chuộc, đồng thời cũng biết noi gương các ngài để lại, nhất là gương sáng về đời sống đạo đức và gương mẫu trong đời sống gia đình.

Mong sao, các bậc làm cha mẹ hôm nay, biết giáo dục con cái bằng chính đời sống đạo đức và gương sáng của mình. Luôn biết chọn lọc những điều hay, điều tốt để đưa vào truyền thống gia đình, nhằm giúp cho gia đình được thăng tiến và quân bình trong một xã hội luôn có chiều hướng suy thoái đạo đức.

Tuy nhiên, chúng ta phải cậy dựa đến ơn Chúa rất nhiều, xin Ngài giúp cho chúng ta sáng suốt và khôn ngoan để chọn sao cho trọn, nếu không, chúng ta sẽ bị rơi vào tình trạng nhập nhằng giữa đạo đức thật và đạo đức giả trong một xã hội đang mê mẩn chạy theo và thích thú những "viên thuốc đắng bọc đường". Thật vậy, trong cuộc sống của chúng ta hôm nay luôn phải đối diện với những thứ được coi là đạo đức nhưng thực chất không hề đạo đức chút nào.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con Chúa và luôn trung thành với bổn phận của mình. Amen.

 ------------------------------

 
 

Suy Niệm 17. Thánh Gioakim và Anna


—Lm Anthony Trung Thành

Thánh Gioakim và Thánh Anna là song thân của Đức Maria và là ông bà ngoại của Chúa Giêsu. Đây là một cặp vợ chồng hoàn hảo. Bởi vì, cả hai đã nên thánh. Đây cũng là một gia đình hoàn hảo. Bởi vì, không chỉ cha mẹ nên thánh mà người con các ngài sinh ra cũng nên thánh và được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, đó là Đức Maria.

Sách vở không nói nhiều về Thánh Gioakim và Thánh Anna, nhưng chúng ta có thể dựa vào nguyên tắc sau đây để suy đoán về đời sống và nhân đức của các Ngài. Thánh Tôma nói: “Một vật càng tiến gần gốc của nó, thì càng tham gia và chịu ảnh hưởng bởi gốc đó.” Vậy mà ai được gần Chúa bằng Đức Maria là Mẹ Chúa, và ai được gần Mẹ Chúa bằng Thánh Gioakim và Thánh Anna?

Người Việt Nam chúng ta cũng có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Cũng dựa vào nguyện tắc trên, Thánh Gioan Đamát đã ca ngợi hai Đấng bằng những lời vô cùng đẹp đẽ như sau: “Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna là đôi bạn diễm phúc và rất trong sạch, thiên hạ hiểu biết các Ngài nhờ chính hoa quả của lòng các Ngài, như có nơi Chúa nói: cứ xem quả thì biết cây. Các Ngài đã có nếp sống đẹp lòng Thiên Chúa và xứng đáng với Đấng sẽ sinh ra bởi lòng các Ngài. Nhờ cách ăn ở thánh thiện trong sạch, các Ngài đã sinh ra được hạt ngọc quý về đức trinh khiết; Ngài là Đấng đồng trinh trước khi sinh và sau khi sinh con, là Đấng duy nhất luôn luôn trinh khiết trong tâm hồn, trong tâm trí và ngay cả trong thân thể.”

Ở đời, có được cha mẹ mẫu mực là niềm vinh dự và tự hào cho con cái. Chắc chắn, Đức Maria rất tự hào vì có một người cha người mẹ như thế. Có thể nói, nhờ hai Đấng, mà Đức Maria mới được diễm phúc làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Cha ông ta thường nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Bài đọc thứ nhất cũng nói lên điều đó rằng: “Những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44, 10-15).

Có lẽ con cái của chúng ta cũng đang trông mong có được những người cha người mẹ mẫu mực như Thánh Gioakim và bà Thánh Anna. Vậy, để trở thành một người cha người mẹ Công Giáo mẫu mực cần phải làm gì?

Trước hết, cần phải chu toàn bổn phận vợ chồng: đó là yêu thương chung thuỷ với nhau, sẵn sàng đón nhận con cái mà Chúa ban và cùng giúp nhau nên thánh. Bổn phận này đã được hai người thề hứa trước mặt linh mục và cộng đoàn trong ngày lãnh nhận bí tích hôn phối: “Anh (em) là...nhận em (anh) làm vợ (chồng) của anh (em) và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).”

Thứ đến, cần phải chu toàn bổn phận làm cha làm mẹ, đặc biệt là bổn phận giáo dục con cái. Cha mẹ có trách nhiệm giáo dục con cái nên người và nên thánh. Công đồng Vatican II mời gọi: “Cùng với lúc lãnh nhận sứ mệnh cộng tác tạo dựng với Thiên Chúa, cha mẹ đương nhiên lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái, nhất là về phương diện tôn giáo” (x. GS 48). Vì vậy, cha mẹ phải giáo dục con cái theo từng giai đoạn và về mọi phương diện: đức dục, trí dục và thể dục. Nhờ đó, khi lớn lên, con cái mới có thể trở thành những con người hoàn thiện, có ích cho Giáo Hội và xã hội. Nhưng để việc giáo dục con cái có hiệu quả, cha mẹ luôn phải làm gương sáng cho con cái: để dạy con cái sống đức tin, cha mẹ phải siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích; để dạy con cái sống yêu thương, cha mẹ không được ghen ghét ai; để dạy con cái sống hiếu thảo, cha mẹ không được đối xử tệ với ông bà; để dạy con cái sống thật thà, cha mẹ không được lừa dối ai; để dạy con cái làm việc bác ái, cha mẹ phải biết chia sẻ giúp đỡ những nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật...Nghĩa là, cha mẹ luôn phải làm gương trước khi nói.

Nhìn vào Đức Maria chúng ta đoán được rằng, Thánh Gioakim và Thánh Anna không chỉ dạy bảo Mẹ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Vì nhờ gương sáng của các Ngài nên nơi Đức Maria mới có được các nhân đức và một đời sống đức tin mạnh mẽ như vậy. Mẹ đã gắn bó với Chúa một cách mật thiết qua đời sống cầu nguyện: Ba tuổi Mẹ đã dâng mình cho Chúa trong đền thờ; khi sứ thần Truyền tin, chính là lúc Mẹ đang quỳ cầu nguyện; khi bà Êlizabet cất lời ca tụng Mẹ, Mẹ đã hát bài Magnificat. Tất cả những điều đó chứng minh cho chúng ta biết, tâm hồn Mẹ luôn gắn bó với Lời Chúa và với Chúa qua đời sống cầu nguyện.

Nhìn vào các gia đình hôm nay, chúng ta thấy có nhiều gia đình biết chu toàn bổn phận vợ chồng, bổn phận cha mẹ, nhất là bổn phận giáo dục con cái. Nhờ vậy, không những họ nên thánh mà con cái của họ cũng nên người và nên thánh. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2015, Đức Thánh Cha đã phong thánh cho ông Louis và bà Zélie, là song thân của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chắc chắn sẽ còn nhiều gia đình giống như thế, ước mong mỗi gia đình chúng ta cũng được như vậy.

Nhưng vẫn không thiếu những người chồng người vợ sống vô trách nhiệm, không quan tâm đến nhau, không quan tâm đến bổn phận giáo dục con cái, không làm gương sáng cho con cái. Thậm chí, lời nói và hành động của họ lại làm cớ cho con cái vấp phạm. Vì thế, một số giới trẻ vẫn sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, xì ke, ma tuý, và các trào lưu xấu lùng bắt và giết chết. Đó cũng là hậu quả của một thói quen xấu, một nền giáo dục căn bản thiếu định hướng.

Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhìn lên mẫu gương của Thánh Gioakim và Thánh Anna để biết sửa đổi những sai sót của mình. Đồng thời, xin các Ngài bầu cử để các bậc làm cha mẹ luôn biết chu toàn bổn phận làm cha làm chồng, làm vợ làm mẹ. Nhờ đó, mọi thành viên trong các gia đình chúng ta đều nên người và nên thánh. Amen.

------------------------------

 
 

Suy Niệm 18. Thánh Gioakim và Anna: Hạnh phúc thật là được thấy Chúa


--Nhóm Bùi Chu

Trong cuộc đời của người trưởng thành, hầu như ai cũng đã yêu thương một người nào đấy. Khi đã có tình cảm với nhau, họ luôn mong muốn được nhìn thấy và nói chuyện với nhau. Điều ấy mang đến cho họ niềm vui, hạnh phúc và có thêm động lực để sống tốt hơn.

Hôm nay, Giáo hội mừng kính thánh Gioakim và thánh Anna, song thân của Đức Maria. Các ngài có một đời sống đạo đức thánh thiện, hết lòng yêu mến Thiên Chúa và thực thi theo ý Ngài. Các ngài luôn mong ước được gặp Chúa và được nghe tiếng Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều ấy. Người nói với các Tông đồ: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”.

Các Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến và tuyển chọn để trở thành những người tiếp nối sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Các ông được gặp Chúa, được nghe tiếng kêu gọi của Người nên các ông đã yêu mến và đáp lại tiếng gọi của Người. Hàng ngày, nhóm Mười Hai được đi theo Chúa Giêsu, nghe những lời giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Người làm. Nhờ đó, họ càng yêu mến, tin tưởng, phó thác nơi Thầy của mình và dấn thân phục vụ Chúa và Hội Thánh.

Năm xưa, các Tông đồ được trực tiếp nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe tiếng nói của Người. Ngày nay, Kitô hữu gián tiếp thấy Chúa và nghe tiếng Người qua các bí tích và Lời Chúa. Họ không nhìn thấy Chúa theo thể lý nhưng thấy Chúa bằng đức tin. Chính qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện trong tâm hồn các tín hữu. Họ được củng cố đức tin nhờ biết chuyên cần đọc và lắng nghe Lời Chúa. Có được những điều ấy, Kitô hữu đón nhận được hạnh phúc thực sự mà họ không ngừng tìm kiếm. Từ đó, họ ngày càng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người và trở nên tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.

Mặc dù không nhìn thấy và không được gặp Chúa, nhưng thánh Gioakim và thánh Anna luôn tin tưởng, yêu mến và sống theo lề luật cùa Ngài. Vì thế, Chúa đã ban cho các ngài hạnh phúc lớn lao là được làm song thân của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho mỗi Kitô hữu biết noi gương thánh Gioakim và thánh Anna hết lòng tôn vinh tình yêu tuyệt vời của Chúa. Nhờ đó, họ có thể sớm đạt được hạnh phúc thật sự trong Nước Trời. Amen!

 ------------------------------

 
 

Suy Niệm 19. Thánh Gioakim và Anna


--Lm Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

Trong Kinh Thánh, các thánh sử Matthêu và Luca cung cấp cho chúng ta phả hệ của Ðức Giêsu. Các ngài đi ngược trở về tổ tiên dòng họ của Người chỉ để chứng minh rằng Ðức Giêsu là cực điểm của các lời hứa trọng đại. Nhưng bên ngoại của Ðức Giêsu thì bị lang qun, chúng ta không có một dữ kiện gì về các đấng sinh thành ra Ðức Maria. Ngay cả thánh Gioankim và Anna cũng xuất phát từ một truyền thuyết được viết lại sau khi Ðức Gisu về trời khoảng hơn một thế kỷ.

Tuy nhiên, đức tính anh hùng và thánh thiện của các ngài được suy đoán từ bầu khí của toàn thể gia tộc Ðức Maria. Chúng ta dựa trên truyền thuyết về thời kỳ thơ ấu của Ðức Maria hoặc suy đoán từ các dữ kiện trong Phúc Âm, Ðức Maria là một thể hiện của biết bao thế hệ những người siêng năng cầu nguyện mà chính ngài là một người đắm chìm trong cc truyền thống đạo đức của người Do Thái.

Các đức tính nổi bật của Ðức Maria khi ngài thi hành các quyết định, khi liên lỉ cầu nguyện, khi trung thành với quy luật tôn giáo, khi bình tĩnh trước những khủng hoảng và khi tận tâm với người bà con - tất cả những điều này cho thấy một gia tộc khắng khít, yêu thương nhau biết nhìn đến các thệ hệ tương lai trong khi vẫn duy trì truyền thống tốt đẹp của quá khứ.

Thánh Gioankim vá Thánh Anna, dù những tên tuổi này có thật hay không; đã đại diện cho một chuỗi thế hệ của những người trung tín thi hành bổn phận, kiên trì sống đức tin để tạo nên một bầu khí thuận tiện cho sự giáng trần của Ðấng Thin Sai, nhưng họ vẫn âm thầm không ai biết đến.

Lời Bàn

Ðây là "ngày lễ của các ông bà". Nó nhắc nhở cho các ông bà về trách nhiệm của họ là phải thiết lập gia phong cho các thế hệ tương lai: Họ phải làm sống lại các truyền thống và trao truyền cho con cháu. Nhưng ngày lễ này cũng có ý nghĩa cho cc thế hệ trẻ. Nó nhắc nhở người trẻ rằng cái nhìn chín chắn, giàu kinh nghiệm của người già là sự khôn ngoan không nên coi thường hoặc bỏ qua.

 Lời Trích: "...Gia đình là nền tảng của x hội. Trong đó, nhiều thế hệ đến với nhau để giúp đỡ nhau lớn lên trong sự khôn ngoan và để hịa hợp quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của đời sống xã hội." (Giáo Hội Trong Thế Giới ngày nay, 52).

-----------------------------------
 

Thứ 5:

TinMừng – TN 16 – Thứ 5: Lý do dùng Dụ Ngôn.

"Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết".

 

Lời Chúa: Mt 13, 10-17


Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi.
Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành".
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 1: Anh em thật có phúc


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Tiền định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.
Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không” (c. 11).
Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một câu khác cũng cần được hiểu đúng: “Người đã có lại được cho thêm,
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
Vào buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.
Còn một đám đông lớn người Do thái không tin nhận Ngài.
Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Như các môn đệ xưa, các Kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.
Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
 
---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 2: Rất gần và rất xa


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Nước Trời thật lạ lùng. Rất gần mà cũng rất xa. Cũng như dụ ngôn. Rất dễ hiểu và cũng rất khó hiểu. Đó không phải là vấn đề của trí khôn nhưng là vấn đề của trái tim. Trái tim nhậy bén sẽ có ánh mắt nhậy bén và đôi tai nhậy bén để nhìn và thấy, nghe và hiểu. Nhìn bên ngoài thấy cả bên trong. Nghe âm thanh hiểu cả ý nghĩa. Trái tim chai đá không có mắt và không có tai. Nên không thấy và không nghe. Có thấy có nghe cũng không hiểu.

Ai được thấy và được nghe nhiều như dân Do Thái. Khi đoàn dân đến núi Si-nai, Chúa đã ban phép cho họ được thấy Chúa hiển hiện trong khung cảnh linh thiêng và uy nghiêm: “Cả núi Si-nai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống” (năm lẻ). Thế nhưng lòng họ chai đá nên đã mau chóng phản bội, và Chúa đã phải lên án họ: “Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi... Nhưng khi vào rồi, các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta”. Họ đã nhậy bén với của cải dục vọng, nên đã chai đá với Lời Chúa và đời sống tâm linh. Họ đã “bỏ Chúa là mạch nước trường sinh để làm những hồ nứt rạn, không giữ được nước”. Đuổi hình bắt bóng nên họ mất tất cả (năm chẵn).

Đúng như lời Chúa dạy: “Ai có sẽ cho thêm. Ai không có ngay cái họ có cũng sẽ bị lấy đi”. Những ai có trái tim nhậy bén càng nghe càng hiểu, càng thấy càng tin. Và càng say mê đi tìm Chúa. Lại càng được Chúa cho thấy nhiều hơn, phán dậy nhiều hơn. Vì thế họ càng thêm phong phú. Những ai chạy theo của cải danh vọng chức quyền thế gian sẽ có trái tim chai đá. Uể oải với đời sống tâm linh. Ngại ngùng đối diện với Chúa. Càng lười càng chán. Càng ngại càng xa. Và ma quỉ không dại gì mà không lấy hết những gì họ đang có. Như chim chóc tha hạt giống rơi bên vệ đường.

Lời Chúa là vô cùng quí giá. Từ ngàn xưa biết bao tổ phụ và tiên tri đã ao ước mà không được nghe. Giờ đây ta thật hạnh phúc vì được tiếp xúc với Lời Chúa. Tuy nhiên rất gần mà cũng rất xa. Rất dễ mà cũng rất khó. Đó là tùy trái tim ta hướng về đâu. Nếu ta hướng về thế gian trái tim sẽ chai đá. Ta sẽ chẳng thể nghe và hiểu Lời Chúa. Xin cho con một trái tim nhậy bén luôn khao khát Lời Chúa. Để Lời Chúa ở trong lòng, trong tim, trong cuộc đời con. Để con càng nghe càng hiểu. Càng nhìn càng thấy. Và càng tha thiết khao khát Chúa.

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 3: Tại Sao Dùng Dụ Ngôn


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.

Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không". Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: "Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe".

Ước gì chúng ta được vào số những người mà Chúa Giêsu cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống.

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 4: Cứng Đầu


Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìm mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.” (Mt. 13, 11-13)

Nếu những người Pha-ri-sêu không hiểu biết gì (về mầu nhiệm Nước Trời) thì không phải lỗi tại Thiên Chúa, hay tại Đức Kitô. Chính họ không muốn hiểu, không muốn thấy. Chính họ không không ưa Đức Kitô, cũng chẳng thích giáo huấn của Người. Sự “họ không muốn” ấy là điều rất quan trọng, bởi đó là vấn đề con người hoàn toàn tự do đối với Thiên Chúa, vấn đề mà chúng ta đều có kinh nghiệm.

Luôn luôn vịn cớ.

Đây là một sự kiện: Khi ta nhất định có thái độ cố chấp người khác có thể nói hoài, cũng chẳng làm thay đổi được quyết định của ta. Dù trong trường hợp bình thường hoặc trong những lúc quan trọng của đời sống, ta cởi mở khá được bao lâu để thực sự lắng nghe người khác. Nhất là khi người khác ấy là người yêu thương ta. Nhưng ta sẽ chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe được gì, bởi lẽ ta dã để cho dục vọng làm mù quáng, tiếng mời gọi xôn xao của cám dỗ lấn át, bất kể cám dỗ nào, vì cám dỗ thì vô vàn vô số…

Ta hãy thành thực với chính mình! Biết bao lần ta đã có thể trở thành kẻ mù lòa, điếc lác, bởi vì dục vọng và cám dỗ đã điều đình với ta, đã thỏa mãn cái tôi của ta. Sau đó, ta sẽ chẳng bao giờ tố cáo mình, vì đã không cố gắng lắng nghe (người ta). Ta đổ cho người khác đã gây lên thất bại cho ta. Hoặc giả nếu ai ngăn cản ta làm những chuyện điên rồ, thì ta nổi khùng la ó là bất công.

Còn Chúa thì …

Vì những người Pha-ri-sêu không khá hơn ta, họ đã làm y hệt như ta, họ đã không muốn nghe lời Đức Kitô, vì lời Người không làm cho hứng thú. Không phải Thiên Chúa không chịu cho họ yêu mến, hiểu biết Lời Người, mà chính họ từ chối đó thôi.

Phần chúng ta cũng vậy. Kìa Chúa đã dùng miệng ngôn sứ I-sai-a mà phán:

“Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu,

Trố mắt nhìn cũng chẳng thấy.

Vì lòng dân này đã ra đần độn…”

Thiên Chúa không có dính líu gì trong chuyện này, mà bởi chúng ta không muốn mà thôi.

Chúng ta đã tố cáo Chúa đã ban bố mười điều răn để đè nén tự do của ta. Nhưng vì lạm dụng tự do mà ta phải chuốc lấy tai họa, thì ta cũng lại tố cáo Người đã đổ những tai họa lên đầu ta, mà không nghĩ rằng chính ta đã tự gây nên cho mình, chứ đâu phải Chúa.

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 5: Xin được biến đổi


Xem lại CN 15 TN B

Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe xem ra có vẻ khó hiểu. Vì khó hiểu,  nên các môn đệ đã hỏi Đức Giêsu: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?". Sự khó chịu và thắc mắc này đã được chính Đức Giêsu trả lời cho các ông biết nguyên do:

Nghe mà không chú ý, suy gẫm; nghe mà không cảm thấy Chúa nói với mình để mà sám hối, sửa sai, thì cũng như người có tai mà không nghe.

Thật vậy, có nhiều người miệng thì đọc “lỗi tại tôi mọi đàng”, nhưng tay thì lại “đấm ngực người khác”. Những người như thế thì chẳng khác gì: “Vịt nghe sấm”; hay “nước đổ lá khoai”, nên có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Họ là những người không hề có thiện chí để cho Lời Chúa soi chiếu và hướng dẫn mình. Lời Chúa đến rồi lại đi như “khách bộ qua đường”,  không để lại nơi tâm hồn họ điều gì cả, nên họ đâu có thấy điều gì sai lỗi mà phải sửa! Vì thế, chúng ta không lạ gì vẫn còn đó những người: “Bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Thái độ đón nhận Lời Chúa như thế, hẳn không bao giờ và không thể nhận ra Lời Chúa như là vị mật ngọt ngào hay như dòng suối mát cho tâm hồn. Ngược lại, họ coi Lời Chúa như một cái gì đó khó ưa, khó dùng, khiến tâm hồn không thể đón nhận, chỉ “vì lòng dân này đã ra chai đá”, nên không còn có chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.

Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc khải rằng: Nước Trời chỉ dành cho những người đơn sơ, chân thành và yêu mến. Vì họ là những người bé mọn, đơn thành nên đã có thì lại được đầy dư. Còn kẻ không có nghĩa là không tin như Kinh sư và Pharisêu, thì những cái đang có tức lòng tin truyền thống của họ cũng sẽ bị lấy đi, và mọi việc họ làm đều trở nên vô ích.

Với nhiều người ngày nay, có lẽ đức tin không đến nỗi quá cứng lòng như những Kinh sư và Pharisêu! Nhưng con người đang rơi vào tình trạng thờ ơ, dửng dưng, vô cảm với chính Lời Chúa và những nghĩa vụ liên quan đến đức ái qua anh chị em đồng loại. Đây có lẽ là điều nguy hiểm không nhỏ đến ơn cứu độ, bởi vì có thể nói: đây là căn bệnh “ung thư” thời đại mới nơi tâm hồn rất nhiều người.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con được trở nên đơn sơ, bé nhỏ để đáng được hiểu Lời Chúa mặc khải cho chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và mau mắn thi hành để đáng được hưởng ơn cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 6: Đón nhận Chúa, Chúa ban ơn thêm


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Nếu ta có thiện chí đón nhận Chúa, Chúa sẽ ban ơn thêm. Nếu ta không muốn đón nhận, ta sẽ ngày càng cứng lòng tối dạ hơn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, các tông đồ và dân chúng thật có phúc vì được nghe chính Chúa giảng dạy. Và ai đã đón nhận thi hành giáo huấn của Chúa lại là người có phúc hơn. Hằng ngày con được nghe Lời Chúa qua Phúc Âm, thật sự đây cũng là ơn phúc lớn lao cho con. Nhưng nhiều khi con chỉ nghe cho qua, không một mảy may suy nghĩ, không muốn tìm hiểu thêm, không muốn tin Lời Chúa dạy. Hơn nữa, con chưa nhận ra được bổn phận phải thực hành điều Chúa dạy. Ơn Chúa luôn gần kề mà con không biết đón nhận. Xin Chúa thứ tha và giúp con biết chuyên chăm lắng nghe, học hiểu và sống Lời Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa, đã nhiều lần con tự hào là người công giáo, có đức tin, biết giáo lý Chúa dạy. Thực ra con đã hiểu Chúa được rất ít, đức tin và lòng yêu mến của con có là gì! Rất nhiều lúc con đã khép lòng lại không để Chúa đi vào đời con, con đã bịt tai nhắm mắt không muốn nhìn nhận Chúa và anh chị em. Bởi vậy con lắng tai nghe mà không hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy. Thật vậy, đã bao lần con đã nhắm mắt làm ngơ trước những đòi hỏi của Tin Mừng. Đã bao lần con bịt tai giả điếc khi phải nghe những điều luật của Chúa. Đã bao lần con khép chặt lòng mình lại để khỏi thực hiện những việc làm yêu thương.

Lạy Chúa, xin đừng để con vì cứng lòng mà càng ngày càng lìa xa Chúa. Xin giúp con biết dùng ơn Chúa cách hữu hiệu để ngày càng tiến xa hơn trong đời sống Kitô hữu. Amen.

Ghi nhớ: “Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết”.

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 7: Sẵn sàng đón nhận giáo huấn Chúa dạy


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trong dân gian (folklore) của mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn. Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất. Ngụ ngôn nêu thẳng ra một kết luận đạo lý, kết luận này khiến cho câu chuyện có ý nghĩa giáo huấn và phúng dụ. Phần kể truyện của những câu chuyện khá giống truyện cổ tích (nhất là những truyện cổ tích về các loài vật), với giai thoại; phần đạo lý của nó gần với tục ngữ, cách ngôn.

Một loạt tác phẩm ngụ ngôn khác, gọi là parabole (Pháp) hay pricha (Nga) mà ta gọi là dụ ngôn, các dụ ngôn chỉ nảy sinh ở một số văn cảnh, có thể không có những vận động cốt truyện, có thể rút thành một so sánh đơn giản và về nội dung nó hướng tới chất “hiền minh” sâu sắc của trật tự tôn giáo hoặc đạo đức.

Suy niệm

Chúa Giêsu thường lấy dụ ngôn mà giảng dạy về đạo lý nước Trời, Tin Mừng Matthêu nhấn mạnh: “Người lấy dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều” (Mt 13,3), Matthêu thường dùng động từ nói (lalein) khi Chúa Giêsu thốt ra các dụ ngôn, vì đây không còn là rao giảng (kêrussein) loan báo công bố nước Trời, nhưng là giáo huấn về nước Trời.

Thông thường sau mỗi dụ ngôn, Đức Giêsu nói lớn tiếng: “Nếu ai có tai để nghe, thì hãy nghe” (Mt 11,15; 13,9; 13,43), nghĩa là ai hiểu được thì hiểu, hiểu tùy tình trạng hay trình độ tâm linh mỗi người; hoặc ai biết cách nghe thì sẽ hiểu, ai thật lòng tìm hiểu thì sẽ hiểu (x. Mt 7,7-8). Cho nên, điều tối cần là nội tâm: Có sẵn lòng tiếp nhận, lắng nghe thông điệp ẩn giấu trong dụ ngôn. Ai không có sự sẵn sàng, thì chỉ nghe được câu chuyện thôi. Trong số dân chúng nghe giáo huấn của Chúa Kitô, có kẻ không sẵn sàng đón nhận, nên Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaia khẳng định: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành”...

Riêng các môn đệ bên cạnh Đấng Cứu Thế: “Bởi vì anh em được ơn hiểu biết các mầu nhiệm nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa”... (Mt 13,11-12), nhờ gắn bó và biết Ngài cùng với lòng khiêm tốn, đơn sơ và chân thành nên được Thiên Chúa chúc phúc mạc khải nước Trời như lời cầu nguyện: “... con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10,21). Chính vì thế, Chúa Giêsu khẳng định các môn đệ có phúc hơn các ngôn sứ (x. Mt 13,17).

Xin ban cho con quả tim đơn sẵn sàng đón nhận những giáo huấn Cha dạy và những gì ban tặng cho con...

Ý lực sống:

“Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga 15,15b).

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 8: Lý do giảng bằng dụ ngôn


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sấm ngôn của tiên tri Isaia làm chúng ta khó hiểu. Tại sao lắng nghe mà không hiểu? Trố mắt nhìn mà chẳng thấy? Phải chăng Thiên Chúa không muốn cho chúng ta hiểu? Nếu tách lời sấm riêng ra thì chúng ta có thể đặt vấn đề như vậy. Nhưng lời sấm này đặt trong mạch văn và trong toàn bộ Thánh kinh thì không thể cắt nghĩa như vậy.

Thiên Chúa luôn yêu thương và muốn cứu thoát con người. Chúa Giêsu được sai xuống trần gian chỉ vì mục đích đó. Thế nên, nếu con người không được ơn cứu độ, không phải vì tại Thiên Chúa, nhưng vì tại con người bưng tai chẳng thèm nghe, bịt mắt không thèm nhìn mà thôi.

Lưu ý quan trọng:

Đoạn Tin mừng gây không ít thắc mắc cho người đọc, vì nó khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu cố ý dùng dụ ngôn khó hiểu để người ta không hiểu được và không được cứu rỗi.

Thực ra, ở đây Chúa Giêsu trích một câu của tiên tri Isaia. Mà Isaia nói đến một thực tế (chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa) là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù, cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích. Một số người thời Chúa Giêsu cũng thế.

Bởi vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: “Ai có tai thì nghe”, nghĩa là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai) nhưng điều quan trọng là dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Càng thực hiện thì càng hiểu Nước trời hơn, càng sống Lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn (Giải thích của Carôlô).

Hôm nay Chúa Giêsu giải thích cho các Tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy về mầu nhiệm Nước trời. Lý do rất dễ hiểu vì đạo của Chúa là đạo từ trời. Bởi vậy trong lời giảng, Chúa Giêsu hay  dùng dụ ngôn để giúp cho dân chúng dễ hiểu hơn. Thực ra khi nói về Nước trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác. Hoặc như thánh Phaolô nói: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm”. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Câu trả lời của Chúa Giêsu, mới nghe thì hình như có vẻ mâu thuẫn. Chúa giảng dạy dân chúng hẳn là có mục đích để cho họ hiểu, và việc Chúa thay đổi cách giảng, dùng hình thức dụ ngôn, cũng không ngoài mục đích đó, vì dụ ngôn là sự so sánh cụ thể làm cho dễ hiểu một giáo huấn trừu tượng, nghĩa là dùng hình ảnh cụ thể trong đời sống để so sánh làm cho người ta dễ hiểu một giáo thuyết trừu tượng. Thế mà Chúa lại nói: Chúa giảng dạy dụ ngôn để cho dân chúng không hiểu được mầu nhiệm Nước trời, mà chỉ dành riêng cho các môn đệ được hiểu thôi. Như thế là tại sao? Sau khi giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, Chúa đã tuyên bố: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chúa đã dùng dụ ngôn mà nói, có ý gợi lên nơi thính giả sự tò mò tìm hiểu, và nếu ai không hiểu mà hỏi Chúa sẽ được Chúa giải thích cho.

Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu.

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ các mầu nhiệm. Còn những kẻ ở ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe” (Mt 13, 16) (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Lời tỏ tình của Thiên Chúa

Một nhà bác học nọ muốn làm một cuộc nghiên cứu tại một vùng sa mạc. Ông nhờ một người Ả rập làm hướng đạo. Lên đường từ rạng đông, người bác học thấy người Ả rập làm một cử chỉ khó hiểu là trải tấm thảm lên cát và hướng về mặt trời phủ phục cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:

- Ông bạn làm gì vậy?

Người Ả rập trả lời: - Tôi cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học lại hỏi: - Nhưng ông bạn có thấy, có nghe, có sờ được Chúa không?

Thấy người Ả rập thinh lặng vì bị tấn công quá bất ngờ, nhà bác học nói thêm: -Ông bạn quả là một tên khùng, ông bạn tin ở một người mà ông bạn không bao giờ thấy được, sờ được.

Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, nhà bác học bước ra khỏi lều nhìn chung quanh và đưa ra nhận xét: - Hẳn tối qua phải có một con lạc đà đi ngang qua đây.

Một chút ánh sáng lóe lên trong ánh mắt người Ả rập, anh hỏi nhà bác học:

- Ông có thấy tận mắt con lạc đà không?

Dĩ nhiên nhà bác học chỉ có thể trả lời là không. Sau câu trả lời không ấy, người Ả rập kết luận:

- Ông quả là một người ngu: ông không thấy, không nghe, không sờ được con lạc đà mà lại bảo rằng đêm qua nó đi qua đây.

Nhà bác học liền lý luận như một nhà khoa học chân chính: - Tôi không thấy, không nghe, không sờ được nó, nhưng tôi thấy dấu chân nó trên cát, đó là dấu chỉ biểu hiện con lạc đà.

Người Ả rập đưa tay về hướng mặt trời và nói: - Ông hãy nhìn những dấu vết của Đấng Tạo Hoá. Hãy biết rằng Ngài hiện hữu và yêu thương chúng ta.

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 9: Có tai thì nghe


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Đoạn Tin Mừng gây không ít thắc mắc cho người đọc vì nó khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu cố ý dùng dụ ngôn khó hiểu để người ta không hiểu được và không được cứu rỗi.

Thực ra ở đây Chúa Giêsu trích một câu của ngôn sứ Isaia. Mà Isaia nói đến một thực tế (chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa) là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù, cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích. Một số người thời Chúa Giêsu cũng thế.

Bởi vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: “Ai có tai thì nghe”, nghĩa là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai), nhưng điều quan trọng là dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Càng thực hiện thì càng hiểu Nước Trời hơn, càng sống lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn.

B.... nẩy mầm.

1. “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì”: rất nhiều lần tôi nghe Lời Chúa nhưng cũng như vịt nghe sấm. Lời Chúa được ban dư tràn cho tôi nhưng chẳng khác gì nước đổ lá môn. Tại vì tôi nghe mà không chú ý, không suy gẫm, không có thiện chí tìm lương thực thiêng liêng cho mình.

2. “Vì lòng dân này đã ra chai đá”: muốn nghe Lời Chúa cho có hiệu quả thì phải nghe bằng tấm lòng, như đứa con nghe tiếng của cha mẹ, như những người yêu nhau lắng nghe tiếng của nhau.

3. Có 3 cách đọc Lời Chúa:

- Coi Lời Chúa như dầu gió: Khi bạn nhức đầu nóng lạnh, bạn xức dầu vì biết nó tốt cho sức khoẻ của bạn.

- Coi Lời Chúa như chiếc bánh bông lan: tuy khô khan khó nuốt nhưng cũng ngon và bổ.

- Coi Lời Chúa như quả đào, vừa mát vừa ngọt vừa bổ dưỡng. (Góp nhặt)

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 10: Tâm hồn rộng mở và Ước muốn tìm hiểu


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúa Giêsu giải thích cho các tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy cho người ta. Lý do rất dễ hiểu là vì đạo của Chúa là đạo từ trời.

Bởi vậy trong lời rao giảng, Chúa Giêsu hay sử dụng dụ ngôn để giúp cho dân chúng hiểu những mầu nhiệm cao siêu dễ dàng hơn. Thực ra khi nói về Nước Trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng diễn tả, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hoặc nói như lời thánh Phaolô: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm” (1Cr 2,9). Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không” (Mt 10,11). Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm Chúa mạc khải. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và Pharisêu, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được nghe” (Mt 13,13.16).

2. Vấn đề còn lại của chúng ta hôm nay là làm sao chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa những dụ ngôn của Chúa?

Như trên tôi vừa nói: Muốn hiểu được Lời Chúa, nhất là những lời được diễn tả bằng dụ ngôn thì cần phải có hai đức tính quan trọng này: Đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Không có hai đức tính đó thì có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc. Đúng như Lời Chúa quả quyết: “Họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe” (Mt 13,14).

Đây là câu chuyện tôi lấy xuống từ Internet. Câu chuyện có tựa đề là: “Những Bài Học Từ Trẻ Thơ”.

Khi đứng trên cánh đồng sau mùa thu hoạch, tôi chỉ nhìn thấy mảnh đất nứt nẻ với những gốc rạ khô cằn. Còn các con của tôi, chúng nhìn thấy những bông hoa dại rực rỡ có cánh trắng muốt, mịn màng mà chúng có thể hái tặng mẹ.

Khi có một người say rượu cười với tôi trên đường, tôi thấy đó là một gã đàn ông bẩn thỉu, hôi hám, khiến tôi có cảm giác ghê sợ nên vội nhìn đi chỗ khác. Các con tôi lại thấy nụ cười thân thiện trên môi ông và chúng cũng đáp lại bằng những nụ cười.

Khi nghe bản nhạc mình yêu thích, tôi ngồi một mình, lặng lẽ thưởng thức những giai điệu ngọt ngào của nó. Trong khi đó, các con tôi lại rủ nhau nhảy theo điệu nhạc, hát to thành tiếng và đôi khi còn tự đặt lời hát mới cho riêng mình.

Khi đang trên đường mà bị một cơn gió thốc vào mặt, tôi cảm thấy bực bội vì mái tóc rối tung, thậm chí còn phải giảm tốc độ lại. Các con tôi thì nhắm mắt, dang rộng hai tay, mơ bay theo gió, thậm chí còn ngã lăn ra đất và cười vang.

Khi cầu nguyện, tôi thường khấn xin những điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình mình, còn các con tôi lại thì thầm: “Cám ơn Ngài đã ban cho chúng con những người bạn tốt. Xin giúp chúng con không gặp ác mộng trong giấc ngủ đêm nay. Cảm ơn vì Ngài đã thương yêu và luôn phù hộ chúng con”.

Khi bước qua vũng sình, tôi thấy đôi giày bê bết bùn và nghĩ đến tấm thảm sẽ bị bôi bẩn. Các con tôi lại thấy một trò vui mới với những cây cầu mà chúng sẽ xây bằng bùn bắc qua dòng sông nhỏ. Mùa mưa là một mùa tuyệt vời để chúng say mê chơi đùa với những con giun dễ thương đang sống trong vũng sình bùn ấy.

Tôi thường dạy các con những điều lớn lao trong cuộc sống, mong rằng chúng sẽ có thể thích ứng được với cuộc đời đầy rẫy những hiểm nguy và cạm bẫy này. Nhưng các con tôi lại dạy tôi những bài học bổ ích hơn thế. Chúng chỉ cho tôi cách hòa nhịp với cuộc sống, cách thưởng thức từng ngày bằng tâm hồn rộng mở để nhận thấy cuộc đời đáng sống hơn nhiều.

Quả thật tâm hồn rộng mở là chìa khoá giúp ta hiểu được những điều lạ lùng ngay trong cuộc sống này.

Có lần Chúa đã cầu nguyện: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con đội ơn Cha vì đã không mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25).

Những kẻ bé mọn ở đây chính là các môn đệ và những người bình dân nghèo khó.

-----------------------------------
 

Thứ 6:

TinMừng – TN 16 – Thứ 6: Hạt được một trăm, hạt được ba mươi...

"Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả".

 

 Lời Chúa: Mt 13, 18-23


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Vậy các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo dọc đường.
Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó: đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã.
Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết ngạt mà không sinh hoa kết quả được.
Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả, đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 1: Sinh hoa kết quả


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Dụ ngôn người gieo giống của Đức Giêsu là một dụ ngôn đầy nét hy vọng.
Nếu có một lúc nào đó người môn đệ chán nản
vì thấy có bao hạt giống được gieo vãi mà chẳng thu lại được gì,
bao điều cản trở sự lớn lên của Nước Thiên Chúa,
thì dụ ngôn này nhắc cho họ thấy rằng có những hạt lúa được bội thu.
Kết quả của những hạt lúa bội thu thì gấp nhiều hơn số lúa đã gieo vãi.
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời giải thích dụ ngôn trên của Đức Giêsu.
“Anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống” (c. 18).
Đức Giêsu mời gọi như thế với các môn đệ của thời Ngài và của mọi thời đại.
Cả bốn hạng môn đệ sắp được Ngài kể ra đều là những người đã nghe Lời.
Lời đây là lời Tin Mừng, lời giảng dạy của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
Lời này được ví như hạt giống mà Đức Giêsu gieo vãi trong tim môn đệ (c. 19).
Trái tim người môn đệ là một thửa đất nhận hạt giống ấy.
Chỉ có một loại hạt giống như nhau, cũng như chỉ có một người gieo.
Kết quả khác nhau là tùy vào chất lượng của đất, chất lượng của trái tim.
Có bốn loại đất, bốn loại môn đệ với tâm hồn khác nhau.
Loại đất vệ đường, đất cứng, khiến hạt giống chỉ nằm ở bên trên.
Lời Chúa chỉ được nghe suông ngoài tai, nhưng không được đón nhận vào tim.
Chính vì thế loại môn đệ này được coi là không hiểu (c. 19).
Không hiểu không phải vì trí khôn kém cỏi hay vì người truyền đạt yếu.
Không hiểu chỉ vì không muốn hiểu, lòng không muốn đón nhận.
Khi lòng không ưng thì quỷ đến và cướp mất hạt giống đã gieo.
Loại đất sỏi đá là loại đất chỉ có một lớp đất mỏng thôi.
Hạt giống được gieo thì mọc lên ngay,
nhưng vì không có rễ sâu nên chỉ sống được một thời gian ngắn (c. 21).
Loại môn đệ thứ hai này chẳng những nghe mà còn vui vẻ đón nhận ngay (c. 20).
Nhưng sự đón nhận vội vã này rất hời hợt, và niềm vui cũng không sâu.
Họ tưởng làm môn đệ chỉ gặp toàn niềm vui và an bình.
Chính vì thế khi phải trả giá để sống Lời Chúa, thì họ vấp ngã ngay và bỏ cuộc.
Loại đất có bụi gai là đất có thể làm hạt giống lớn lên thành cây,
nhưng cây lại bị gai lấn át làm chết ngạt (c. 22).
Bụi gai của loại môn đệ này là nỗi lo lắng chuyện đời và lòng ham mê giàu có.
Bụi gai nằm ngay giữa thửa đất trái tim, lớn mạnh đến nỗi làm cây lúa úa vàng.
Cuối cùng là đất tốt, đất chẳng như vệ đường, chẳng có sỏi đá hay bụi gai.
Hạt giống gặp đất tốt này thì sinh hạt, hạt được một trăm, sáu chục hay ba chục.
Loại môn đệ cuối này khác hẳn với loại thứ nhất vì nghe và hiểu Lời Chúa (c. 23).
Tuy nhiên, kết quả đem lại nhiều hay ít còn tùy mức độ mở ra của từng người.
Lời Chúa hôm nay mời ta nhìn lại thửa đất của trái tim mình.
Những cứng cỏi, những hời hợt thiếu rễ sâu, những chi phối của đam mê vật chất.
Bao hạt giống được gieo mà chưa sinh hoa trái.
Xin Chúa giúp ta dọn dẹp, cải tạo lại thửa đất của tâm hồn
để tim ta có ít chỗ cho thế gian và nhiều chỗ hơn cho Thiên Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
Chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
Đã âm thầm chịu nát tan
Để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
Chúng con được hưởng hôm nay
Là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
Của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
Của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
Của những người đã nằm xuống
Cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
Để từ cái chết của họ
Vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
Chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
Đừng tự khép mình trong lớp vỏ
Để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
Nhưng dám đi ra
Để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
Chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
Đi từ cõi chết đến nguồn sống,
Đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
Trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen
 
---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 2: Lời ban sự sống


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Thiên Chúa là lời quyền năng. Nhưng là lời yêu thương. Yêu thương nên Lời Thiên Chúa luôn ban sự sống cho nhân loại. Từ tạo thiên lập địa, Lời Thiên Chúa sáng tạo nên muôn loài. Cho muôn loài từ hư vô sang hiện hữu. Đặc biệt là sự sống. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6). Thời Mô-sê vì sự sống của dân Chúa bị đe doạ, bị áp bức, bị tổn thương. Nên Chúa dùng lời Chúa mà giải phóng dân Người. Và trong sa mạc, tại núi Xi-nai Chúa ban Mười Lời, cũng gọi là Mười Điều Răn, để dân Chúa thực hành. Bao lâu dân Chúa thực hành lời Chúa dạy, họ được sống và bình an: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời”. (năm lẻ).

Suốt dọc dài lịch sử, Chúa luôn gửi đến các tiên tri, để thúc giục dân tuân giữ Lời Chúa. Thoạt tiên Lời Chúa được ghi khắc trên hai bia đá, chứa đựng trong Hòm Bia. Nhưng điều Chúa mong muốn là Lời Chúa không chỉ được khắc trên bia đá, nhưng được ghi khắc trong thâm tâm mỗi người. “Người ta sẽ không còn nói đến Hòm Bia của Đức Chúa nữa, không còn lưu tâm, không nhớ tới, chẳng nuối tiếc, cũng chẳng làm lại nữa”. Bấy giờ Lề Luật được ghi khắc trong lòng. “Mọi dân tộc sẽ nhân danh Đức Chúa quy tụ tại Giê-ru-sa-lem; chúng sẽ không còn sống buông thả theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình nữa”. Khi họ nhập tâm Lời Chúa và hết lòng tuân giữ thì đất nước sẽ phát triển: “Khi các ngươi tăng số và phát triển trong xứ” (năm chẵn).

Chúa liên tục gieo vãi Lời Chúa. Thời cuối cùng Chúa gieo chính Lời Chúa bằng xương bằng thịt. Là Ngôi Lời Thiên Chúa. Là Chúa Giê-su Ki-tô. Người là hạt giống gieo vào lòng đất. Chịu mục nát đi để sinh hoa quả dồi dào. Nhưng loài người thờ ơ với Lời Chúa. Nên Lời Chúa gặp phải đường đi, không bén rễm mọc lên được. Lời Chúa gặp phải đá sỏi cứng lòng cũng không phát triển được. Lời Chúa gặp phải bụi gai dục vọng ham mê đời này nên bị bóp nghẹt. Chỉ một số ít tâm hồn mở lòng đón nhận, lập tức Lời Chúa sinh hoa kết quả. Kết quả lớn nhất là đem lại cho ta sự sống đời đời.

Lời Chúa là yêu thương. Yêu thương nên ban cả Con Một. Để ta được sống. Nhưng ta phải thiết tha sống. Phải mở lòng đón nhận. Phải cày xới tâm hồn. Phải có trái tim mềm mại ngoan ngoãn. Phải diệt trừ ham hố dục vọng trần gian. Lời Chúa mới phát triển. Đem lại cho ta sự sống đời đời.

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 3: Tinh thần lạc quan


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Sự gieo trồng nào cũng mang niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã đọc được tinh thần lạc quan ấy của nhà nông, cho nên Ngài đã mượn hình ảnh gieo trồng để nói lên mầu nhiệm Nước Trời. Nhưng xem chừng những hình ảnh gieo trồng mà Chúa Giêsu dùng trong Tin Mừng hôm nay không giống với kỹ thuật canh tác hiện nay. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, đất Palestin vốn khô cằn, người nông dân thời Chúa Giêsu không cày bừa dọn đất trước khi gieo trồng, nhưng gieo vãi trước, rồi sau đó mới cày đất xới bón. Thành ra, có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi trên vệ đường, có hạt rơi vào bụi gai. Dù kỹ thuật có khác, dù tiến trình canh tác có khác, người nông dân ở bất cứ thời đại nào cũng giống nhau ở chỗ họ có tinh thần lạc quan. Ðất đai có tươi tốt hay khô cằn, thiên nhiên có ngược đãi hay thuận lợi, mùa gặt tươi tốt vẫn luôn là niềm hy vọng của kẻ gieo trồng.

Chúa Giêsu dường như muốn gieo chính niềm lạc quan ấy vào tâm hồn các môn đệ khi đưa ra dụ ngôn người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá sỏi, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng kết quả của mùa gặt vẫn gấp trăm, gấp ngàn. Qua muôn thế hệ, hạt giống Nước Trời vẫn được gieo vãi: có hạt rơi vào vệ đường, sỏi đá, bụi gai của những chống đối và bách hại, hạt giống ấy vẫn nẩy mầm tươi tốt sinh nhiều bông hạt. Người môn đệ Chúa Giêsu luôn tiếp tục gieo vãi hạt giống Lời Chúa, họ luôn được mời gọi đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và kiên trì, dù thành công hay thất bại. Trong thư 1Cor. thánh Phaolô đã diễn tả đúng tinh thần lạc quan và kiên trì của người gieo giống: "Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên".

Vệ đường, sỏi đá, bụi gai vẫn tiếp tục cản trở công việc gieo trồng, nhưng người nông dân của Nước Trời không vì thế mà bỏ cuộc. Có những gieo vãi qui mô ồ ạt, nhưng cũng có những gieo vãi âm thầm: âm thầm trong thinh lặng hằng ngày, âm thầm trong những khước từ, âm thầm trong những bách hại dưới mọi hình thức, nhưng đó vẫn là sự âm thầm cơ bản nhất trong bất cứ sự gieo vãi nào, hay nói theo Ðức Phaolô VI trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng: đó là một sự công bố thinh lặng Tin Mừng, nhưng rất hiệu nghiệm.

Ước gì Lời Chúa hôm nay đem lại niềm tin và lạc quan hy vọng cho chúng ta. Xin cho Lời Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín rằng những gì chúng ta gieo trong đau thương và nước mắt sẽ được trổ bông chín vàng trong mùa gặt của Ngài.

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 4: Biến đổi tâm hồn


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Những lời giải thích của Chúa Giêsu thức tỉnh những đồ đệ của Chúa mọi thời đại. Có bốn thái độ đối với Lời Chúa: thái độ của mảnh đất bên vệ đường, thái độ của mảnh đất sỏi đá, thái độ của mảnh đất có bụi gai, thái độ của mảnh đất tốt đón nhận hạt giống để cho hại giống sinh hoa kết quả gấp trăm, gấp sáu mươi, gấp ba mươi.

Hôm nay Thiên Chúa vẫn còn gieo vãi hạt giống Ngài xuống trần gian trong nhiều cảnh huống khác nhau. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đến với mỗi người chúng ta trong nhiều hoàn cảnh và Chúa gặp phải nhiều phản ứng khác nhau, Giáo Hội không ngừng mang Lời Chúa đến với con người mọi thời đại, nhưng con người đáp lại như thế nào và chính mỗi người chúng ta đây đáp lại như thế nào?

Thần dữ có thể cám dỗ làm ta lạc hướng; những thử thách, những khó khăn có thể làm ta thối chí ngã lòng; những bận tâm lo lắng chuyện trần tục, những ham muốn hưởng thụ làm cho ta quên mất Chúa và Lời Ngài. Mỗi người chúng ta cần xin Chúa biến đổi tâm hồn trở thành như đất tốt, một tâm hồn khiêm tốn quảng đại sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và yêu mến Lời Chúa. Càng được yêu mến thì Lời Chúa mới trở nên tác động và trở nên hữu hiệu làm cho cuộc sống trở nên những hoa trái tốt.

Lạy Chúa, Ngày hôm nay Chúa vẫn còn nói với mỗi người chúng con, ngày hôm nay Chúa đến với chúng con qua chính Lời Chúa, qua lời rao giảng của Giáo Hội và qua những tiếng kêu cầu trợ giúp của anh chị em. Xin cho chúng con đừng nhắm mắt làm ngơ, đừng bịt tai giả điếc, đừng đóng kín con tim, nhưng khiêm tốn lắng nghe và quảng đại đáp trả.

Lạy Chúa, Này con đây xin hãy phán và con xin lắng nghe.

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 5: Người gieo và hạt giống


Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường.

Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục.” (Mt. 13, 19-23)

Chúa giảng về dụ ngôn người gieo giống, nhưng hầu như chỉ chú ý đến hạt giống, dẫu rằng người gieo giống ở đây đúng là “Con Người”. Chúa đã giải thích cho biết hạt giống là Lời Chúa; Lời mặc khải những mầu nhiệm “Nước Trời”, khi con người đón nhận và gắn bó với Lời Người, thì lời thiết lập Nước Trời giữa mọi người.

Ta không áp dụng trực tiếp cho chính lời Chúa, nhưng áp dụng cho những người nghe qua hình ảnh những mảnh đất khác nhau mà hạt giống được vãi xuống. Điểm nổi cộm của dụ ngôn là những mảnh đất khác nhau: Người gieo và hạt giống không thay đổi, nhưng đất gieo không cống hiến những thành công như nhau. Tóm lại lời Chúa phải chịu số phận rủi ro, đó mới là đối tượng thực sự của dụ ngôn. Chúa đã chỉ có thể nói giản dị rằng: Hạt giống tốt và người gieo hào phóng; còn anh em, hãy làm phần còn lại là mảnh đất gieo để có chắc được mùa lúa tốt.

Nước Trời.

Vì hay nói và nói quá nhiều về Nước Trời, nên người ta không còn thấy bận tâm về chuyện này nữa. Nước Trời trở thành một sáo ngữ đạo đức, trống rỗng. Thế nhưng, chúng ta hiện là những người có trách nhiệm đối với Nước Trời. một Nước Trời không thuộc thế gian này, điều mà ta hằng nhắc nhở mình, để không làm việc luống công, hoặc không thoái thác công việc, vì Giáo Hội chúng ta là của những người nghèo.

Đúng là khi ta nói về Nước Trời, lời ấy dù vẫn là một mà đã được hiểu một cách rất khác nhau tùy như ta quan niệm này hay ta quan niệm kia, bênh vực cho nhóm này hay nhóm kia mà ta hiểu lời Chúa (Nói) về Nước Trời một cách khác nhau. Điều quan trọng ta cần biết không phải là xem chúng ta hoặc người khác thuộc về nhóm nào, mà là cách ta đón nhận Lời Chúa trong đời sống của ta ra sao.

Lời Chúa cho tất cả mọi người, và mọi người phải sống Lời Chúa.

Cùng một Lời Chúa ấy được nói cho hết thảy mọi người. Lời ấy là sức sống, là tình yêu phải được mọi người đón nhận để mà sống. Khi ta có những thái độ kỳ thị loại trừ, hoặc từ chối gieo lời Chúa trong mảnh đất này hay mảnh đất kia, chúng ta không làm giống như Đức Giêsu là người gieo yêu thương chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng trên cả những mảnh đất sỏi đá gai góc. Làm như vậy là chúng ta không muốn, không để cho Lời Chúa được nảy nở và triển vậy.

J.M

---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 6: Trở nên thửa đất nào cho hạt giống?


Xem lại CN 15 TN A

Đức Giêsu thường dùng dụ ngôn để giảng dạy một chân lý nào đó. Tuy nhiên, dụ ngôn người gieo giống hôm nay không những được Đức Giêsu kể, mà chính Ngài còn đích thân giải thích ý nghĩa của nó. Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu nhắm vào trọng tâm các đối tượng trong việc lắng nghe Lời Chúa.

Đức Giêsu đã dùng hình ảnh các thứ đất và số phận của những hạt giống, để nói lên sứ điệp cho các môn đệ và những người nghe giảng cũng như cho mỗi chúng ta hôm nay.

Hạt giống rơi bên vệ đường, chính là ám chỉ đến những người nghe mà chẳng hiểu, hay dửng dưng với Lời Chúa, hoặc tách biệt Lời Chúa ra khỏi cuộc sống.

Hạt giống rơi vào sỏi đá là dấu hiệu của một tâm hồn nông nổi, rất vui vẻ, sẵn sàng đón nhận Lời. Nhưng không có chiều sâu nội tâm, nên khi ra khỏi nơi chốn, vị trí hay với thời gian là quên hết, họ không quan tâm lưu giữ và thực hành Lời Chúa.

Hạt rơi vào bụi gai chính là những người có quan tâm đến Lời Chúa. Nhưng họ đã để cho sự đời chèn ép, chiếm thế. Nền kinh tế thị trường đã làm cho họ không còn chú trọng đến Lời Chúa, vì Lời Chúa làm cho họ phải đi ngược dòng với con người và xã hội.

Cuối cùng là hạt rơi vào đất tốt. Ấy là những người có lựa chọn ưu tiên cho Lời Chúa chiếm vị trí quan trọng trong mọi chiều kích của cuộc đời họ. Họ để cho Lời Chúa trở thành kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành vi, vì thế, hệ quả chính là được một vụ mùa bội thu...

Mong sao, Lời Chúa hôm nay là dịp để chúng ta xác định lại chiều kích sống đạo của mình, nhằm hiệu chỉnh trong cuộc sống. Đừng vì hình thức, vụ luật như hạt rơi bên vệ đường. Hay hời hợt, giỗng tuếch như hạt rơi vào sỏi đá. Hoặc đừng để những lợi lộc trần gian, ăn chơi trác táng mà quên phần thưởng Nước Trời như hạt rơi vào bụi gai. Nhưng hãy như thửa đất tốt để Lời Chúa trở nên phong phú và đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 7: Cộng tác để hạt giống Lời chúa phát triển


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng mỗi người. Hạt giống ấy đạt kết quả ra sao là tùy thuộc vào thái độ đón nhận của chúng ta. Để sinh hoa trái dồi dào, chúng ta hãy cộng tác tích cực làm cho hạt giống nảy mầm và phát triển phong phú.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nhọc công vỡ đất và gieo hạt vào hồn con. Hạt giống là Lời Chúa và chính Chúa. Chúa giao cho con quyền coi sóc thửa ruộng hồn mình. Ngày qua ngày, con ao ước trở thành thửa ruộng tốt, một thửa ruộng không có gai góc sỏi đá và những con đường mòn dọc ngang chai cứng. Nhưng thực tế thì khác. Đã có lúc con phí phạm đánh mất ơn Chúa, đã có lần con làm ngơ, bịt tai trước lời mời gọi yêu thương. Lần này qua lần khác, tâm hồn con dần dần trở nên chai cứng, khiến hạt giống Nước Trời èo uột, khô héo.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ điều đó. Nhưng lòng quảng đại của Chúa vẫn ban phát cách rộng rãi và lòng nhân từ Chúa vẫn kiên tâm chờ đợi con đáp lời. Con xin dâng lời cảm tạ vì Chúa vẫn một lòng thương con. Tâm hồn con càng tội lỗi, thửa ruộng con càng chai lỳ, Chúa càng ban ơn dồi dào phong phú, con tin chắc rằng không bao giờ Chúa rút lại tình yêu thương ấy.

Xin Chúa giúp con biết săn sóc tâm hồn đã được Chúa cứu chuộc và thánh hóa. Xin đừng để con bóp nghẹt ơn Chúa, bóp nghẹt tình yêu Chúa đang triển nở trong con. Xin Chúa giúp con biết chăm sóc thửa ruộng hồn mình bằng cách nhổ đi những cỏ dại tội lỗi, đốt cháy đi những rơm rác của thói hư tật xấu, để có thể sinh nhiều hoa trái như lòng Chúa ước mong. Amen.

Ghi nhớ: “Kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả”.

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 8: Dụ ngôn người gieo giống


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái.

Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi: “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời: “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”...

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua: “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”.

Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý.

Suy niệm

Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn gieo giống. Mảnh đất được gieo trồng là hình ảnh tâm hồn chúng ta. Để cho mảnh đất trở nên tốt hầu hạt giống của Thiên Chúa gieo vào sinh hoa, chúng ta cần phải chuẩn bị, như người nông dân lượm những hạt đá để trên bờ rào. Hình ảnh đó gợi nên cho chúng ta tâm tình biết sửa chữa mình không ngừng để cuộc sống chúng ta luôn tràn ngập bình an, ân sủng, đó là giống đã được nảy mầm, kết hoa và đơm hạt.

Nếu cứ để tâm hồn chúng ta hoang sơ như những mảnh đất chưa được nhặt lượm những sỏi đá, cỏ lùng không bị tàn diệt, chắc chắn dù hạt giống ân sủng được nảy mầm, đời sống chúng ta như Chúa ví trong dụ ngôn: Rễ không đủ sâu gặp nắng gắt chết khô, hay chết nghẹt vì bụi gai…

Thiên Chúa gieo giống, Ngài luôn mong đến việc sinh hoa kết quả nơi các tâm hồn được tượng trưng bằng hình ảnh nhiều loại đất gieo trồng tiếp nhận hạt giống. Ngài luôn tưới gội, mưa nắng để cho đất vốn được nhặt sỏi kỹ lưỡng nảy thêm trù phú tạo điều kiện cho hạt giống nảy mầm như Thánh Vịnh có nói: “Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần” (Tv 64).

Ngài - người gieo hạt giống đã làm tất cả để hạt, Lời Ngài giảng dạy nảy sinh mầm. Hạt giống Lời Chúa sinh được hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt hay không. Giống không sinh được hạt nếu không có sự cộng tác của mảnh đất con người. Mảnh đất phải được dọn cỏ lùng, mảnh đất phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.

Hãy nhặt đi những sỏi đá trong mảnh đất hồn tôi, hãy nhổ đi những cụm cỏ lùng luôn đe dọa đến hạt giống như Đức Giêsu đã cảnh báo trong khi giải thích dụ ngôn và thường xuyên cảnh báo các môn đệ qua mệnh lệnh chống lại ảnh hưởng của thế gian (x. Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).

Mong rằng khi mùa gặt tới, mảnh đất đời tôi, đời bạn nuôi dưỡng giống, ít nhất cho những hạt sinh được ba mươi…

Ý lực sống:

“… Những lo lắng thế gian và sự giàu có của vật chất làm cho giống chết nghẹt” (Thánh Têrêsa Avila).

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 9: Ý nghĩa dụ ngôn người gieo giống


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Bài Tin mừng là ý nghĩa dụ ngôn người gieo hạt giống, chính Chúa Giêsu đã giải thích cho các môn đệ. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu đưa ra bốn mẫu người khi đón nhận Lời Chúa:

Đón nhận một cách ơ hờ, lãnh đạm, không tha thiết với Lời Chúa.

Đón nhận, nhưng nhất thời và hay thay đổi.

Có lòng tha thiết nghe Lời Chúa nhưng tâm hồn lo toan trăm mối nên cuối cùng cũng không sinh hoa kết quả

Còn người chăm chú lắng nghe, tìm hiểu, và ra sức đem ra thực hành thì sinh hoa kết quả gấp trăm, sáu mươi hay ba mươi.

Vậy mỗi người chúng ta hãy tự xét xem mình thuộc loại người nào khi đón nhận Lời Chúa.

Nhận xét của chúng ta qua bài Tin mừng này là dụ ngôn này trực tiếp dạy chúng ta: số phận khác nhau hay kết quả khác nhau của Lời Chúa là tuỳ thuộc vào tâm hồn hay thái độ của thính giả. Bởi vì hạt giống là Lời Chúa thì bao giờ cũng tốt, không bao giờ có hạt giống xấu, cũng như hạt giống, dù được gieo vào chỗ đất nào thì cũng mọc lên, nhưng kết quả khác nhau. Vì thế, đồng ruộng hay đất đai có một vai trò quan trọng không kém cho kết quả thu hoạch, nghĩa là kết quả của Lời Chúa hoàn toàn tuỳ thuộc vào ruộng đất là tâm hồn hay thái độ của người nghe.

Nên lưu ý, những hình ảnh gieo giống mà Chúa Giêsu dùng trong Tin mừng hôm nay không giống với kỹ thuật canh tác hiện nay. Thật thế, vào thời Chúa Giêsu, đất Palestine vốn khô cằn, người nông dân thời Chúa Giêsu không cầy bừa dọn đất trước khi gieo trồng, nhưng gieo vãi trước, rồi sau đó mới cầy đất xới bón. Thành ra, có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi trên về đường, có hạt rơi vào bụi gai. Dù kỹ thuật có khác, dù tiến trình canh tác có khác, người nông dân ở bất cứ thời đại nào cũng giống nhau ở chỗ họ có tinh thần lạc quan. Đất đai có tươi tốt hay khô cằn, thiên nhiên có ngược đãi hay thuận lợi, mùa gặt tươi tốt vẫn luôn là lòng hy vọng của kẻ gieo trồng (Mỗi ngày một tin vui).

Chúa Giêsu xếp thính giả vào bốn hạng người theo những tâm trạng khác nhau. Bốn hạng người này thì có ba hạng người làm cho Lời Chúa thất bại, và chỉ có một hạng người để Lời Chúa được thành công.

Ba hạng làm cho Lời Chúa thất bại vì những lý do khác nhau:

+ Hạng đường đi: lý do khách quan, vì do ma quỉ đến cướp đi bằng cách quyến rũ người ta chạy theo thú vui xác thịt, những vẻ đẹp của văn minh hưởng thụ, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho người ta trở nên chai đá đối với những thực tại siêu nhiên.

+ Hạng đá sỏi: lý do chủ quan, đó là những người nông nổi, bồng bột, nhất thời, cho nên thiếu kiên nhẫn. Khi nghe lời giảng thì thích thú (bén rễ) và có khi đưa ra những quyết định canh tân rất là vĩ đại. Nhưng họ chỉ sốt sắng theo tình cảm nhất thời, nên khi gặp khó khăn là bỏ cuộc, chán nản; lòng mến Chúa của họ dễ tan biến như sương buổi sáng, như nắng về chiều.

+ Hạng bụi gai: lý do chủ quan, vì khi nghe Lời Chúa, người ta lại lo lắng việc đời: như lo ăn, lo làm, lo giải trí, xã giao.., và những ham mê sự đời như vật chất, danh vọng, địa vị và thú vui xác thịt... khiến cho Lời Chúa bị chết nghẹt.

+ Hạng đất tốt: thành công vì hạt được một trăm, hạt sáu mươi và hạt ba mươi. Đây là những người nhiệt thành chăm chỉ nghe Lời Chúa và nỗ lực cách kiên trì trong việc tìm hiểu và đem ra thực hành để thánh hóa bản thân.

Lời Chúa được gieo vào lòng tín hữu tốt sẽ tuỳ ơn kêu gọi và thiện chí của từng người mà đem lại những kết quả khác nhau: một trăm, sáu mươi ba mươi (Giải thích của Trần Hữu Thành).

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa. Nếu mảnh đất tâm hồn chúng ta luôn mở ra, Lời Chúa sẽ thấm nhập chúng ta và cuộc sống chúng ta sẽ trở nên tươi tốt. Qua miệng tiên tri Isaia Chúa đã đảm bảo với chúng ta: “Như mưa tuyết rơi từ trên trời không trở về trời, nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nảy lộc”. Cũng thế: “Lời Ta một khi xuất phát từ miệng Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mệnh Ta giao phó”.

Truyện: Nước làm sạch rổ rau

Bà vợ đi lễ về làm cơm sáng hơi muộn làm cho người chồng khó chịu. Người chồng thì khô khan, thỉnh thoảng mới đến nhà thờ. Vợ thì siêng năng đi lễ để nghe Lời Chúa.

Bụng đang đói, chồng tức bực hỏi vợ: - Em đi lễ hằng ngày như vậy để được cái gì?

Bà vợ trả lời: - Được nhiều lắm, anh ạ.

Chồng hỏi tiếp: - Được cái gì?

Vợ thản nhiên đáp: - Được nghe Lời Chúa. Được Lời Chúa soi dẫn và rửa sạch tâm hồn em!

Chồng trợn mắt: - Rửa sạch?

Vợ chỉ vào rổ rau mới rửa, trả lời: - Vâng, nước đã làm cho bụi bặm rổ rau này sạch trơn!

Người chồng hiểu, lặng thinh và suy nghĩ!

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 10: Chính Đức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Chúng ta hãy nghe chính Đức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa:

- Đất vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.

- Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.

- Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải… Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngạt.

- Đất tốt: những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.

B. Suy gẫm (... nảy mầm)

Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta dự Thánh Lễ, Lời Chúa đều được gieo vào lòng chúng ta.

- Có khi nghe xong chúng ta quên liền. Sau Lễ, nếu có ai hỏi ta bài Tin Mừng hôm nay nói gì, chắc ta không trả lời được. Chúng ta là vệ đường.

- Có khi chúng ta cảm thấy Lời Chúa rất hay và có ý muốn làm theo. Nhưng trở về với cuộc sống nhộn nhịp, vài ngày sau ý muốn ấy đã tắt ngúm. Chúng ta là đất lẫn sỏi đá.

- Có khi chúng ta thực tâm thi hành lời Chúa. Thế rồi chuyện này chuyện nọ trong cuộc sống xảy đến. Chúng ta quan tâm giải quyết những chuyện ấy hơn. Lời Chúa bị bóp chết. Chúng ta là đất có nhiều gai góc.

- Chỉ cần một câu Tin Mừng thôi nhưng được suy gẫm kỹ và được kiên trì thực hiện thì sẽ sinh kết quả gấp trăm.

Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?” Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”...

Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất. Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được: Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”.

 ---------------------------------------
 
 

Suy Niệm 11: Ý nghĩa của những loại đất


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúa Giêsu giải thích về ý nghĩa của những loại đất. Các loại đất Chúa nói ở đây chính là hình ảnh của những người nghe Lời Chúa.

Có người chỉ nghe một cách hời hợt. Họ được ví như những mảnh đất ở vệ đường. Lời Chúa như hạt giống rơi vào chỗ đất khô, khó mà có thể bén rễ và nảy mầm.

Có những người nghe một cách thành tâm nhưng không kiên vững. Họ được ví như những mảnh đất pha lẫn đầy đá sỏi. Lời Chúa có thể nảy mầm nhưng khó mà phát triển.

Có người cũng thành tâm nghe nhưng đồng thời lại lo lắng về nhiều việc khác. Họ được ví như những mảnh đất bị gai che phủ chèn ép, nên không thể sinh hoa kết trái được.

Và cuối cùng, có những người nghe và cố gắng thi hành. Họ được ví như những mảnh đất tốt. Hạt giống Lời Chúa có đủ điều kiện để nảy mầm, phát triển và sinh nhiều hoa trái.

2. Đây là dụ ngôn được chính Chúa Giêsu giải thích. Dụ ngôn này nhắm vào hai hạng người: hạng người thứ nhất là những người nghe Lời, nhưng đồng thời dụ ngôn cũng đề cập đến những người giảng Lời. Dụ ngôn không chỉ có ý nói với đám đông đang lắng nghe, nhưng còn muốn nói cho nội bộ các môn đệ nữa.

Chúng ta tự hỏi, Chúa muốn điều gì khi kể dụ ngôn này?

* Trước hết Chúa muốn cho họ hiểu rằng, trong khi đi gieo Lời Chúa hay truyền đạo, người môn đệ của Chúa không được nản lòng. Bởi thế, chúng ta không nên ngạc nhiên nếu đôi khi có sự nản lòng và thất vọng trong lòng các môn đệ. Vậy thì dụ ngôn này phải là bài học đem lại sự khích lệ cho các ngài.

* Thứ đến, họ phải luôn xác tín rằng, dù khi gieo vãi có khó khăn đến đâu đi nữa thì mùa gặt chắc chắn cũng phải đến. Không có nông gia nào lại nghĩ rằng, tất cả các hạt giống mình gieo xuống đều đơm bông kết hạt. Sẽ có một số bị gió cuốn đi. Một số rơi nhằm những chỗ không thể mọc được, nhưng điều đó không thể trở thành cớ để bỏ việc gieo hạt, cũng như không vì thế mà làm cho niềm hy vọng về mùa gặt không còn. Khi gieo hạt người nông dân phải luôn tin tưởng rằng, dầu có phải mất đi một số hạt nhưng nhất định cuối cùng, mùa gặt cũng phải đến. Những người đi gieo Lời Chúa, đi giảng đạo cũng phải có niềm tin như thế.

* Cuối cùng, dụ ngôn cũng còn ngầm dạy rằng, trong khi chờ đợi hạt giống nảy mầm và sinh hoa kết quả thì người gieo giống phải biết kiên trì:

- Khi một người ra đi gieo giống, anh không thể và không được trông đợi có kết quả tức khắc.  Trong thiên nhiên, sự tăng trưởng không bao giờ vội vã, phải mất một thời gian dài để hạt giống đơm bông kết trái. Và để hạt giống được nảy mầm đem lại hoa trái trong lòng người ta thì có thể còn phải mất một thời gian dài hơn nữa. Lời Chúa có thể rơi vào lòng người ta trong thời niên thiếu và cứ nằm yên đó cho đến một ngày nó sẽ thức tỉnh và cứu vớt họ khỏi những sự cám dỗ lớn, giải thoát linh hồn họ khỏi sự hư mất đời đời.

Ông H.L.Gee có thuật lại câu chuyện sau đây. Tại nhà thờ nơi ông thường lui tới để tham dự các giờ thờ phượng, có một cụ già cô độc tên Tôma. Cụ sống rất thọ, thọ hơn bạn bè cụ, nên hầu như không còn ai biết cụ nữa. Lúc cụ Tôma qua đời, ông Gee nghĩ rằng, sẽ chẳng có ai thân thiết tiễn đưa cụ. Nghĩ thế nên ông quyết định phải đi với cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Đúng là không có ai đi tiễn đưa cụ cả. Hôm đó trời lại mưa tầm tã. Người nào người nấy ướt như chuột. Khi quan tài gần đến nghĩa trang, thì ông thấy có một quân nhân đang đứng ở cổng chờ. Đó là một sĩ quan…. nhưng trên áo mưa không thấy quân hàm. Người đó đến bên huyệt dự lễ an táng. Lễ xong, ông ta tiến đến trước huyệt đưa tay lên chào theo nghi thức dành cho một vị vua. Rồi… ông Gee và quân nhân đó cùng đi về. Khi họ đang đi, gió thổi bật cái áo mưa của vị sĩ quan và ông Gee chợt nhìn thấy quân hàm của ông ta: quân hàm thiếu tướng. Vị sĩ quan nói với ông Gee: “Có lẽ ông ngạc nhiên không hiểu tôi đến đây làm gì. Nhiều năm trước đây, cụ Tôma là giáo viên dạy giáo lý ở nhà thờ tôi. Tôi là một thằng bé ngỗ nghịch và là một thứ gai nhức nhối cho cụ. Cụ không hề biết cụ đã làm gì cho tôi, nhưng cả đời tôi mang ơn cụ và hôm nay tôi phải đến để nghiêng mình chào tiễn biệt cụ lần cuối cùng”.

Đúng là cụ Tôma không biết được việc mình đã làm, không một giáo sư hay một nhà truyền đạo nào biết được những việc làm của mình sẽ ra sao. Công tác của chúng ta là gieo ra không chút nản lòng và phần còn lại hãy để cho Chúa.

-----------------------------------
 

Thứ 7: 29.7.2023 Th. Mát-ta, Maria và Ladarô

TinMừng – TN 16 – Thứ 7 29.7.2023 Th. Mát-ta, Maria và Ladarô, nhớ: Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng.

“Mát-ta đã đón Chúa vào nhà mình, Maria đã chọn phần tốt nhất”.

* Mát-ta là chị của cô Maria và ông Lagiarô ở Bêtania. Trong sách Tin Mừng, thánh nữ xuất hiện ba lần: lần thứ nhất trong bữa ăn ở Bêtania, khi cùng với cô em là Maria tiếp đãi Đức Giêsu; lần thứ hai khi ông Lagiarô được Chúa cho phục sinh, lúc đó thánh nữ đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu; và lần cuối trong bữa tiệc đãi Chúa Giêsu sáu ngày trước lễ Vượt Qua.
Trong cả ba câu chuyện, ta luôn thấy thánh nữ đóng vai trò chủ nhà.

---------------------------------------

 

Lời Chúa: Lc 10, 38-42

Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Mát-ta rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.
Mát-ta bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”. Nhưng Chúa đáp: “Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất”.

---------------------------------------

Hoặc:

Lời Chúa: Ga 11, 19-27
“Con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, nhiều người Do-thái đến nhà Mát-ta và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Mát-ta đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà.
Mát-ta thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Mát-ta thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”.
Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 1. Đón Người vào nhà


--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy niệm:

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khuôn mặt Maria khá nổi bật.
Chúng ta dễ thấy là Thầy Giêsu nghiêng về cô em hơn.
Mát-ta đón Thầy vào nhà trong tư cách là chị.
Còn Maria sau đó là người tiếp Đức Giêsu.
Maria thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.
Còn chị Mát-ta thì ngược lại.
Hẳn là chị phải xuống bếp ngay để lo bữa ăn.
Cuộc viếng thăm của Thầy Giêsu và các môn đệ là khá bất ngờ.
Làm sao để đãi một số vị khách như thế?
Đó là mối lo chính đáng của chị Mát-ta.
Mát-ta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn.
Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em.
Rõ ràng là Mát-ta bị cuống lên vì thấy mình có nhiều việc phải làm gấp.
Chị không muốn khách phải chờ đợi lâu,
và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn.
“Xin Thầy bảo em giúp con một tay!”
Đó là ước mơ của Mát-ta, rất đỗi bình thường.
Tiếc thay, Thầy Giêsu lại đang kể chuyện cho Maria,
và cô này đang lắng nghe một cách thích thú (c. 39).
Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy.
Mát-ta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có.
Chị quên rằng Thầy Giêsu không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn.
Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.
Thầy Giêsu nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mát-ta.
và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng.
Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mát-ta, Mát-ta.
Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá.
“Chỉ cần một chuyện thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn” (c. 42).
Thầy Giêsu không bảo rằng điều Mát-ta làm là điều không tốt.
Chắc chắn Thầy và trò đều cần bữa ăn ngon sau những ngày rong ruổi.
Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn.
Vì thế Thầy sẽ không kêu cô em xuống bếp để phụ giúp cô chị.
Điều mà Maria đã chọn, chẳng ai có thể lấy đi.
Chị Mát-ta là thánh nữ được tôn kính trong Giáo Hội.
Chúng ta phải bắt chước chị qua công việc tận tụy và đầy trách nhiệm.
Nhưng chúng ta phải làm một cách an bình, khiêm tốn, vui tươi,
không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác.
Cuộc sống hôm nay dễ làm ta trở nên Mát-ta, bị đè nặng bởi công việc.
Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.
Phải thu xếp để khỏi phải ở dưới bếp quá lâu, để có người thay mình.
Đời sống của người Kitô hữu là kết hợp của Mát-ta và Maria.
Vừa đón, vừa tiếp; vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa;
nhưng dù hoạt động hay cầu nguyện, lúc nào cũng hướng về Chúa.
 
Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
 
------------------------------

 
 

Suy Niệm 2. Chiêm Niệm Và Hoạt Ðộng


--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

“Mát-ta, con lo lắng chi nhiều việc chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất rồi”. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Mát-ta đáng cho chúng ta suy nghĩ thêm. Các nhà chú giải đề ra hai điểm:

Trước hết Chúa Giêsu không có ý định giảm giá trị của việc đón rước Chúa mà Mát-ta đang làm, nhưng Ngài trực tỉnh Mát-ta về nguy hiểm mà chị đang lao vào đó là thái độ ganh tị. Kế đến Chúa Giêsu làm nổi bật một điểm tốt mà Maria đã rút ra từ hoàn cảnh, đó là đến ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Người nói.

Việc lắng nghe có ưu tiên hơn “vì con người không chỉ sống nguyên bởi bánh mà thôi nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Vì thế hãy tìm Nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho dư đầy” (Mt 4,4). Tuy nhiên, Chúa Giêsu không đề ra một sự chọn lựa giữa một trong hai điều hoặc thái độ làm việc của Mát-ta hoặc thái độ chiêm niệm của Maria để rồi chỉ chấp nhận có một thái độ duy nhất của Maria thôi.

Không có sự đối nghịch giữa hoạt động và chiêm niệm trong đời sống của người Kitô, bởi vì cả hai đều phát xuất từ một nguồn mạch là Lời Chúa và cùng hướng đến một việc, một mục tiêu là phục vụ Nước Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa được hướng đến hành động và hành động cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa. Ðây là hai khía cạnh của mối phúc thật “lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa”. Ðó là khi trả lời cho người phụ nữ trong dân chúng cất tiếng chúc tụng Mẹ Chúa cũng như khi trả lời cho những kẻ báo tin cho Chúa biết là có Mẹ và anh em Chúa đang chờ, nhưng Chúa trả lời “những kẻ nghe Lời Chúa mà đem ra thực hành, kẻ đó mới là Mẹ Ta và anh em Ta” (Mt 12, 50).

Hai chị em Mát-ta và Maria nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô cũng như cho mọi người Kitô qua mọi thời đại về hai thái độ luôn bổ túc cho nhau. Ðể tiếp nhận Lời Chúa hiện diện nơi chính Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ cầu nguyện chiêm niệm mà thôi, cũng không phải chỉ có hoạt động vì hoạt động. Nhưng chiêm niệm và hoạt động phải là hai chiều kích luôn được kết hợp với nhau của cùng một chức vụ, đây là hai yếu tố không thể nào thiếu vắng đi được trong việc theo Chúa.

Trong những hoàn cảnh cụ thể và tùy theo hoàn cảnh ấy, người đồ đệ Chúa có thể hòa hợp việc làm một cách cụ thể giữa cầu nguyện và hoạt động theo một chương trình riêng. Nhưng thật là sai lầm nếu chúng ta muốn canh tân Giáo Hội mà không cầu nguyện, nghĩa là không lắng nghe Lời Chúa, không đối thoại với Ngài, ngõ hầu để hoạt động của chúng ta có thể trổ sinh kết quả. Người đồ đệ của Chúa cần dành thời giờ im lặng để lắng nghe Lời Chúa và đối thoại với Ngài. Trong ý nghĩa này chiêm niệm là phần tốt nhất mà Maria đã chọn, nhưng không phải tách rời ra khỏi việc làm. Ðức tin phải có sức tác động qua đức bái ái. Ðàng khác, cầu nguyện không làm cho người đồ đệ xa lạ với cuộc sống và những vấn đề của con người, nhưng ngược lại cầu nguyện làm cho người đồ đệ có thêm sức mạnh hoạt động biến đổi xã hội, ngõ hầu Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc.

Lạy Chúa,

Xin giúp chúng con hiểu và thành công hòa hợp được hai yếu tố không thể tách rời của đời sống Kitô đích thực là làm việc và cầu nguyện. Ước chi việc chúng con làm đều phát xuất từ lời cầu nguyện là việc lắng nghe Lời Chúa và được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa, sức mạnh trao ban trong những giây phúc chúng con trở về lắng nghe Chúa nói.

 ------------------------------

 
 

Suy Niệm 3. Thánh Mát-ta


--nguoitinhuu.com

“Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô”. Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mát-ta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ.

Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mát-ta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.

Nhiều người dễ nhận ra Mát-ta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mát-ta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mát-ta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mát-ta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mát-ta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mát-ta. Ðức Giêsu thấy Mát-ta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mát-ta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mát-ta, chúng ta nhận ra chính chúng ta -- thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mát-ta như Maria.

Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mát-ta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.

Cuộc đối thoại của ngài với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mát-ta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.

Hình ảnh sau cùng của Mát-ta trong Phúc Âm đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mát-ta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mát-ta lo hầu hạ.” Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.

Thánh Mát-ta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

Lời Bàn

Các nhà chú giải Kinh Thánh nói rằng trong đoạn văn diễn tả việc Lagiarô sống lại, Thánh Gioan có ý nhắn nhủ chúng ta phải coi lời của Mát-ta nói với Maria (trước khi Lagiarô sống lại) như tóm lược những gì một Kitô Hữu phải vâng theo. “Thầy có mặt ở đây và đang hỏi đến em.” Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta đến sự phục sinh -- mà sự phục sinh ấy hiện có trong đức tin khi rửa tội, được chia sẻ vĩnh viễn sự chiến thắng của Người đối với sự chết. Và tất cả chúng ta, cũng như ba người bạn của Chúa Giêsu, được mời gọi kết tình bằng hữu với Chúa trong một phương cách độc đáo.

 ------------------------------

 
 

Suy Niệm 4. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi


--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên OP

2.1/ Em Maria chọn ngồi bên chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy: Nhiều người chắc cũng nghĩ như chị Mát-ta: con bé này lười quá hay “mồm miệng đỡ tay chân!” Nhưng đây là một lựa chọn rất tính toán và khôn ngoan, như Chúa Giêsu đã phải khen Maria bên dưới. Một số lý do có thể Maria đã dựa vào để làm sự lựa chọn này:

+ Cô biết rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: phải chọn Thiên Chúa trước hết. Maria biết chẳng có ai có những lời khôn ngoan và mang lại sự sống như Chúa Giêsu; vì thế, cô phải hoãn tất cả các việc khác để lắng nghe những gì Ngài muốn truyền đạt.

+ Cô biết nắm lấy cơ hội khi nó xảy đến: Một người bận rộn rao giảng như Chúa không dễ gặp. Cô biết cơ hội để đàm đạo với Chúa không thường xảy ra: nếu không biết nắm lấy ngay, cô không biết có còn cơ hội nào khác không! Chúng ta phải học nơi Maria điều này, để khi Chúa gởi những nhà rao giảng đến, chúng ta biết sắp xếp công việc hàng ngày để nghe những gì họ rao giảng. Đừng giả sử cơ hội sẽ có mãi, kẻo phải tiếc nuối sau này!

+ Khách đến nhà không chỉ để ăn, nhưng còn để chuyện vãn, tâm sự. Maria thấy chị bận rộn nấu nướng; cô chọn để trò chuyện với Chúa. Nhiều người chúng ta không chịu để ý đến khía cạnh tế nhị này; nên đã để cho khách ngồi một mình trong phòng khách chờ đợi trong khi chúng ta chuẩn bị thức ăn dưới bếp. Hiểu như thế, quyết định của Maria thật sáng suốt: chị lo nấu ăn, em lo tiếp khách.

2.2/ Chị Mát-ta chọn để vất vả lo việc phục vụ Chúa Giêsu: Khi một thượng khách như Chúa Giêsu đến nhà, đó là lúc để chủ nhà biểu tỏ tài nội trợ, nấu nướng, và tính hiếu khách. Chúng ta không lạ gì khi Mát-ta quá vất vả lo lắng tới độ cô tiến lại Chúa Giêsu và than phiền với Ngài: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Ngược lại với những gì Mát-ta mong đợi, Chúa Giêsu đáp: “Mát-ta! Mát-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Có nhiều điều chúng ta có thể học hỏi từ câu trả lời của Chúa Giêsu:

+ Mát-ta không hiểu rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: Chúa Giêsu sữa chữa lỗi lầm cho cô khi Ngài nói: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Thức ăn có ngon mấy chăng nữa rồi cũng qua đi; nhưng Lời Chúa sẽ ở lại trong tâm hồn và soi sáng cho con người biết cách sống thế nào để có hạnh phúc trong cuộc đời.

+ Mát-ta không quan tâm đến người khác: Cô có thể nghĩ chỉ có việc của cô mới đáng làm, việc của Maria không quan trọng! Đây là một lỗi lầm mà nhiều người chúng ta mắc phải. Chúng ta đừng bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như mình, vì mỗi người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Chúng ta cũng không hiểu đủ để xác quyết việc nào là việc tốt nhất, cho đến khi được tuyên bố rõ ràng bởi Thiên Chúa.

+ Mát-ta không biết sắp xếp thời giờ: Có thể Mát-ta không biết khi nào Chúa đến, vì ngày xưa không có thói quen có giờ hẹn như thời nay. Dù sao chăng nữa, Mát-ta không nên lo lắng quá nhiều đến chuyện ăn uống, vì khách tới nhà để thăm viếng chứ không chỉ để ăn! Các gia đình Việt-nam chúng ta cần chú trọng điều này, để đừng làm quá nhiều thức ăn mỗi khi tiếp khách. Hầu hết trong các bữa tiệc, khách không dùng hết một nửa các thức ăn của chủ nhà bày ra. Hậu quả là gia chủ phải ăn đồ thừa hay phải lãng phí thức ăn cách không cần thiết.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải dành ưu tiên hàng đầu cho mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa bằng cách dành thời giờ để cầu nguyện, lắng nghe, học hỏi, và thực hành những gì Chúa dạy.

- Lời Chúa soi sáng cho chúng ta biết cách lựa chọn những điều xảy ra cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa; đồng thời cũng cung cấp cho chúng ta sức mạnh để làm theo.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 5. Thánh Mát-ta


Chúng ta biết chắc về thánh Mát-ta qua 2 giai thoại trong Tin Mừng. Khi bà nhiệt thành đón rước Chúa Giêsu (Lc 10, 38-42) hay khi bà tín thác vô giới hạn vào Chúa Giêsu trước cái chết của Laxarô (Ga 11,1-44). Mát-ta, theo tiếng tramêô, có nghĩa là bà chủ. Bà hai anh em Maria và Lazarô ở làng Bêtania, là những người bạn thân tình của Chúa Giêsu. Người hay đến trú ngụ ở nhà họ để nghỉ ngơi sau những chuyến hành trình mệt nhọc.

Mát-ta đóng vai gia chủ, đã tỏ ra rất hiếu khách và tận tụy. Ngày kia, trong lúc bận rộn với việc phục dịch, bà nói: - Thưa Thày, Thày không màng nghĩ tới sao, em tôi để cho tôi một mình phục dịch? Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần tôi.

Chúa Giêsu đáp lại: - Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai giựt mất.

Như thế Chúa Giêsu đã cho Mát-ta biết rằng đối với Người không có gì quý hơn một tâm hồn biết suy tư cầu nguyện, Mát-ta đã hiểu, bà sẽ để lộ đức tin ấy ra dịp Lazarô từ trần. Bà nhắc tin cho Chúa Giêsu: - Thưa thầy, kẻ Thầy thương đang ốm liệt.

Vượt đường xa, Chúa Giêsu đã đến. Nhưng Người cố ý đến chậm, khi Lazarô đã chết. Đức tin của Mát-ta vẫn không thay đổi.

- Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết.

Và bà thêm: - Nhưng ngay lúc này, con biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho thầy.

Khi Chúa Giêsu cho biết Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù chết cũng sẽ sống, rồi Người hỏi: - Con có tin thế không?

Mát-ta đã mau mắn tuyên xưng: - Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa, đấng phải đến trong thế gian.

Và bà đã không lầm. Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô.

Tin Mừng không nói rõ các bạn hữu của Thiên Chúa sẽ ra sao. Chắc chắn Mát-ta có mặt trong số phụ nữ theo Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và xức xác Người trước khi mai táng.

Có truyền thuyết nói rằng ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền không buồm không chèo không lái. Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước Pháp. Lazarô đã trở thành Giám mục tiên khởi Chúa thành này. Riêng Mát-ta Ngài đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon. Một huyền thoại còn kể thêm việc thánh nữ tiêu diệt quái vật Tarasque. Dân chúng khổ cực vì con vật dữ tợn, mồm phun lửa, đuôi cắn xé. Thánh nữ đã dùng cây thánh giá áp đảo con vật, rồi trói chặt nó lại. Quái vật bị hạ sát và nó bị tiêu diệt, người ta gọi là Tarascon.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 6. Thánh Mát-ta


(http://giaoxutanviet.com)//GPVL)

Gương Thánh nhân: Thánh Mát-ta là chị của Ma-ri-a và La-da-rô ở Bê-ta-ni-a. Ngài là chị cả trong gia đình, nên điều khiển quán xuyến mọi việc: Ngài đối xử dịu dàng thân ái đối với hai em, nhân lành bác ái đối với người nghèo khổ, bệnh tật, và ân cần tiếp đón Chúa Giê-su với các môn đệ Người, vì đây là nơi Chúa thường trú ngụ sau những ngày truyền giáo mệt nhọc:

“Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mát-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô nầy cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy. Còn cô Mát-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: – Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao! Xin Thầy bảo nó giúp con một tay.

Chúa đáp: – Mát-ta, Mát-ta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. (Lc. 10, 38-42)

Mát-ta tận tụy phục vụ Chúa. Nhưng Chúa muốn dạy cho Mát-ta biết: việc sống gần gũi thân mật và cầu nguyện với Chúa cao quý hơn. Tốt nhất phối hợp cả hai, vừa phục vụ vừa cầu nguyện.

Thánh Giám mục Au-tinh đã diễn giảng việc nầy như sau:

“Lời Đức Giê-su Kitô Chúa chúng ta khuyên chúng ta, đang khi lo lắng nhiều công việc ở trần gian nầy, phải vươn tới một đích điểm. Chúng ta đang vươn tới đó bao lâu chúng ta còn là lữ khách chứ chưa phải là cư dân; còn đang trên đường đi chứ chưa ở quê thật; còn đang khát vọng, chứ chưa được an hưởng. Tuy nhiên chúng ta phải vươn tới không ngừng, không biếng nhác để có ngày có thể đạt tới…

“Hỡi bà Mát-ta, xin bà để yên cho tôi nói, bà có phúc trong công việc phục vụ tốt, nhưng phần thưởng mà bà tìm được cho công việc lo lắng nầy là sự nghỉ ngơi. Bây giờ bà đang lo trăm công nghìn việc; bà muốn nuôi nấng thân thể con người cho dù là của bậc thánh nhân; nhưng khi đã tới quê thật, hỏi bà có còn gặp lữ khách để tiếp rước nữa không? Có còn gặp người đói để chia sẻ cơm bánh nữa không?…

“Nơi quê thật không còn những sự đó nữa. Vậy sẽ có gì? Có điều mà Ma-ri-a đã chọn: nơi đó ta sẽ được nuôi nấng chứ không phải nuôi nấng ai nữa. Thế nên điều mà Ma-ri-a chọn bây giờ, sau nầy ở nơi quê thật sẽ được đầy đủ và hoàn toàn…”

Khi La-da-rô bệnh nặng, thánh nữ đã báo tin cho Chúa Giê-su. Nhưng Người bảo: “Bệnh nầy không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh nầy, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (Ga. 11,4).

Và La-da-rô đã chết. Cái chết của La-da-rô là dịp để Chúa khơi dậy niềm tin cho các môn đệ và dân chúng, vì khi được tin La-da-rô chết, Chúa và các môn đệ đến với anh.

‘‘Vừa được tin Đức Giê-su đến, Mát-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. Cô Mát-ta nói với Đức Giê-su: – Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.

Đức Giê-su nói: – Em chị sẽ sống lại… Chị có tin thế không?

Cô Mát-ta thưa: – Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.

Và Chúa đã làm phép lạ cho La-da-rô chết chôn 4 ngày được sống lại trước sự kinh ngạc của mọi người, nhờ lòng tin và nhiệt tâm của Thánh nữ.

Quyết tâm: Noi gương Thánh Mát-ta, tôi hết lòng tin tưởng Chúa, và tận tâm phục vụ Người hằng ngày, qua các anh chị em nghèo khó bệnh tật xung quanh tôi.

Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xưa Con Một Chúa đã nhận lời mời và đến trú ngụ tại nhà Thánh nữ Mát-ta. Nhờ lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con hết tình phục vụ Đức Ki-tô hiện diện trong mọi người để mai sau được Chúa đón nhận vào nhà Chúa.

------------------------------

 
 

Suy Niệm 7. Thánh Mát-ta, con người của phục vụ


--Maria Nguyễn Thái

Thế giới ngày nay đang rất cần những con người biết quên mình phục vụ tha nhân. Trước nhu cầu đó, có biết bao vị thánh đã hy sinh phục vụ vì lợi ích của người khác; cũng như xã hội ngày nay, có nhiều tấm gương quảng đại dấn thân trong hoạt động tông đồ. Trong Kinh Thánh, khi nhắc đến hai từ “phục vụ”, chúng ta liên tưởng ngay đến thánh nữ Mát-ta, một con người phục vụ. Thánh nữ Mát-ta là người phục vụ như thế nào? Chúng ta cùng nhìn trong hai giai thoại trong Tin Mừng Luca (Lc 10, 38 – 42).

Khi đọc đoạn Tin Mừng trong trình thuật thánh Luca, chúng ta nhận ra, Mát-ta là một người rất hiếu khách. Ngài đã đón tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ rất nhiệt tình.

Tin Mừng Luca (Lc 10, 38) kể lại rằng: “Khi Đức Giêsu vào làng kia, có một người phụ nữ tên là Mát-ta đón người vào nhà”, và ngay sau đó, Mát-ta tất bật chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách nơi Mát-ta, có thế nói là rất quan trọng trong vùng Trung Đông, tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, Mát-ta rất bất bình với em cô là Maria, khi cô em không chịu giúp chị mình trong việc bếp núc. Thay vì giúp chị, Maria cứ ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe Người giảng. Đáng lẽ ra, lúc đó, Mát-ta có thế đến nói với em mình một cách tế nhị (nói nhỏ, nói khéo) để Maria giúp mình một tay, thế nhưng, Mát-ta lại xin Đức Giêsu can thiệp: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao?”  Phải chăng Mát-ta đang tìm sự cảm thông nơi Thầy mình? Muốn Thầy bênh vực cho mình? Nhân cơ hội này Chúa Giêsu dạy bài học, Ngài muốn mời gọi Mát-ta hướng một mối tương giao sau xa hơn nên đã trả lời rằng: “Mát-ta Mát-ta! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất mà không bị lấy đi” (Lc 10, 38 - 42). Quả thật, lo lắng của Mát-ta là làm sao chuẩn bị cho Thầy và các môn đệ một bữa ăn ngon. Điều đó đã khiến cho Mát-ta không còn thực sự biết đến Thầy đang hiện diện ở đây nữa. Sự nhiệt tình phục vụ của Mát-ta đã làm cho cô không còn thực sự thấy được điều gì là quan trọng nhất, mà cô chỉ vì nghĩ đến phục vụ. Thật vậy, Chúa Giêsu không chối từ sự phục vụ của Mát-ta, Ngài đề cao tinh thần đó, nhưng điều đó chỉ là phần thứ yếu cho cuộc sống vật chất mà thôi. Ngài muốn Mát-ta chọn cho mình một bữa ăn tinh thần, đó là việc lắng nghe Lời Chúa dạy với tâm hồn khiêm hạ.

Đến giai thoại thứ hai trong trình thuật Gioan (Ga 11, 1-53), chúng ta sẽ nhận ra một nét rất riêng, một hình ảnh đặc biệt nơi thánh nữ Mát-ta. Tin Mừng Gioan kể lại mà ta có thể tóm tắt như sau: Đức Giêsu rất quý mến cô Mát-ta, cùng hai người em là cô Maria và anh Lazarô. Và vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mát-ta liền ra đón Người. Một sự đón tiếp mau mắn, Mát-ta muốn Chúa Giêsu vào nhà mình mà đã quên đi mất người em yêu quý, đã bỏ lại những người bà con lối xóm đến chia buồn với gia đình cô, trong khi đó cô là chủ nhà. Thêm nữa, Mát-ta gạt đi mọi thương tiếc, đau buồn, lưu luyến... để chạy đến với Đức Giêsu. Cuộc đối thoại giữa Mát-ta với Chúa Giêsu cho ta thấy: Mát-ta có một niềm tin rất vững mạnh vào quyền năng của Chúa về sự phục sinh và nhất là về niềm tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Hình ảnh sau cùng của thánh nữ Mát-ta theo Tin Mừng Gioan (Ga 12, 1-9) đã toát lên căn tính phục vụ nơi con người của Thánh nữ. Tin Mừng kể lại: ít lâu sau, Đức Giêsu trở lại Bêtania để thăm ba chi em cô Mát-ta, trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt đó là: Em trai cô Mát-ta là Lazaro người đã được Chúa làm cho sống lại từ cõi chết, tạo nên cả một sự chấn động lớn trong làng cũng như những vùng lân cận. Người thứ hai là cô Maria, Tin Mừng Gioan kể: cô đã dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Đức Giêsu, đã gây lên một cuộc tranh luận trong bữa tiệc. Nhưng về phần Mát-ta, ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản và ngắn gọn: “Cô Mát-ta lo hầu bàn”. Cô không làm gì nổi bật, cô chỉ làm một việc đơn thuần là phục vụ Đức Giêsu. Một việc tuy rất tầm thường, nhưng với Mát-ta cô đã làm vì tình yêu mến của mình dành cho Đức Giêsu và các môn đệ. Mát-ta không đòi hỏi Đức Giêsu làm cho mình nhưng cô chỉ làm một cách phục vụ âm thầm với tình yêu.

Nơi Thánh nữ Mát-ta, chúng ta thấy ngài là một người phục vụ Chúa hết tình, hết mình. Mát-ta vừa là một người có niềm tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, vừa có tình yêu mến Đức Giêsu cách đặc biệt. Quả thật, gương sáng của ngài làm cho chúng ta rất cảm phục bởi tình yêu âm thầm phục vụ.

Trong sinh hoạt đời thường của chúng ta, có nhiều điều xem ra rất cần thiết, từ chuyện mục vụ, giáo dục, huấn luyện phục vụ. Vậy, đã có bao lần chúng ta tự hỏi mình rằng: chúng ta đã làm điều đó vì lòng yêu mến Chúa hay chưa, hay chỉ làm tròn bổn phận được giao mà thôi? Chúng ta cần xem lại thái độ của mình. Với công việc phục vụ hằng ngày, tôi và bạn đã bao lần hỏi ý kiến của Chúa hay chưa? Hay chúng ta có nhờ Chúa can thiệp vào trong việc phục vụ của đời sống thường ngày chúng ta? Trong những mối tương quan với Chúa và tha nhân, hay trong những quyết định...chúng ta có tìm ý Chúa không hay vẫn muốn làm theo ý mình? Chúng ta đã tế nhị thành thật khi được người khác sửa lỗi hay khi sửa lỗi cho người khác hay chưa?

Mời bạn cùng tôi, chúng ta vào nơi thinh lặng của tâm hồn, để tìm ra ý Chúa muốn chúng ta phục vụ Chúa và tha nhân bằng cách nào; với thái độ nào; theo tinh thần của ai. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa và hỏi lòng mình rằng: tôi có cảm nhận được niềm vui, bình an và hạnh phúc khi phục vụ Chúa và tha nhân không?

Ước mong rằng tôi và bạn, chúng ta mang tâm tình phục vụ như thánh nữ Mát-ta, phục vụ Chúa cách âm thầm với lòng yêu mến bởi: “Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ là không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không màng”.

------------------------------

 
 

Suy Niệm 8. Thánh Mát-ta


—Susan Helen Wallace FSP

Thánh nữ Mát-ta là chị ruột của Maria và Lazarô. Các ngài sống tại một ngôi làng nhỏ bé tên Bêtania gần thành phố Giêrusalem. Các ngài là những người bạn rất thân của Đức Chúa Giêsu, và Đức Chúa Giêsu cũng thường hay đến thăm các ngài. Thật vậy, sách Tin mừng nói cho chúng ta biết: “Chúa Giêsu yêu Mát-ta, Maria và Lazarô.” Chính thánh nữ Mát-ta đã phục vụ Chúa Giêsu cách rất âu yếm khi Người đến thăm gia đình Mát-ta.

Một ngày kia, thánh nữ Mát-ta đang bận sửa soạn bữa ăn cho Chúa Giêsu và các tông đồ của Người. Thánh nữ nhận thấy rằng công việc sẽ dễ dàng hơn nếu cô Maria em ngài phụ giúp ngài một tay. Mát-ta thấy Maria đang ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người. Mát-ta liền đề nghị: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con với!” Chúa Giêsu rất hài lòng với công việc phục vụ dễ thương của Mát-ta. Tuy vậy, Người muốn cho Mát-ta hiểu rằng việc nghe lời Chúa và cầu nguyện thì có tầm quan trọng hơn. Vì thế, Chúa Giêsu đã dịu dàng nói: “Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện! Chỉ có một chuyện cần mà thôi! Maria em con đã chọn phần tốt nhất!”

Lòng tin tưởng mãnh liệt vào Chúa Giêsu của thánh nữ Mát-ta còn được biểu lộ khi em trai Lazarô qua đời. Ngay lúc nghe tin Đức Chúa Giêsu đang đến Bêtania, Mát-ta đã đi ra tiếp đón Người. Mát-ta tin tưởng vào Chúa Giêsu và thốt lên cách rất tự nhiên: “Lạy Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết!” Sau đó, Chúa Giêsu nói với Mát-ta rằng em Lazarô sẽ sống lại. Người nói: “Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống. Con có tin điều đó không?” Và Mát-ta thưa: “Lạy Thầy, vâng con tin rằng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian.” Hôm ấy, Chúa Giêsu đã làm một phép lạ vĩ đại cho Lazarô sống lại từ cõi chết!

Sau đó, Chúa Giêsu lại đến dùng bữa với Lazarô, Mát-ta và Maria. Thánh nữ Mát-ta phục vụ bàn ăn như thường lệ. Tuy nhiên, lần này với thái độ đáng yêu hơn: Mát-ta đã phục vụ với một trái tim thật vui tươi!

Thánh nữ Mát-ta đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về lòng hiếu khách. Khi chúng ta chào đón hay phục vụ ai, Đức Chúa Giêsu coi đó như là chúng ta làm cho chính bản thân Người. Thánh nữ Mát-ta cũng nêu gương sáng về lòng tin tưởng và niềm trông cậy. Ngài là bạn thân của Đức Chúa Giêsu và ngài biết có thể tin tưởng vào lời Đức Chúa Giêsu đã nói. Xin thánh nữ Mát-ta cũng giúp chúng ta biết tạo mối tương quan thân thiện với Đức Chúa Giêsu như ngài.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 9. Thánh nữ Mát-ta


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Với tư cách là con người, Chúa Giêsu đến viếng thăm để an ủi. Với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài còn đến để phục sinh: phục sinh tâm hồn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã dựng nên con người có trái tim biết yêu thương. Nhờ đó, chúng con biết chung chia vui buồn với nhau. Khi chung vui, niềm vui như được nhân tăng và khi chia buồn, nỗi buồn như vơi nhẹ. Tuy thế, đôi lúc sự chia buồn của chúng con gần như vô nghĩa khi đứng trước nỗi đau quá lớn lao. Chúng con bó tay, chúng con ngọng miệng trước những đau khổ vượt sức chịu đựng của con người.

Loài người bó tay, loài người ngọng miệng nhưng Chúa thì không. Hoàn cảnh của chị Mác-ta hôm nay thật đáng thương: Gia đình có 3 chị em mà em trai duy nhất lại qua đời. Chúa đến không phải chỉ an ủi mà còn khơi lại niềm tin, niềm hy vọng cho chị em Mác-ta. ”Em chị sẽ sống lại” là lời phục sinh niềm tin cho chị Mác-ta. Lời quyền năng của Chúa đã dẫn chị ra khỏi nỗi buồn thất vọng để tới niềm vui tin tưởng. Chị đã thưa với Chúa: ”Con biết em con sẽ sống lại”.

Lạy Chúa, vì chúng con đến với nhau mà không mời Chúa đi theo, nên chúng con chưa giúp nhau được nhiều. Giúp nhau bằng sức người, có những lúc chúng con bó tay. Cần phải giúp nhau bằng sức Chúa, bằng cầu nguyện, bằng hy sinh. Động viên, hướng dẫn nhau bằng Lời Chúa mới không làm chúng con bí lối. Cần phải có Chúa Phục sinh đến thăm, chúng con mới sống lại thật về phần linh hồn.

Và lạy Chúa, mỗi khi chúng con gặp gian nan, xin cho chúng con biết khôn ngoan tìm đến Chúa. Rồi khi thấy anh em khốn khó, xin cho chúng con biết dẫn anh em đến với Chúa. Đến được với Chúa là chúng con đã tìm được địa chỉ tốt nhất để được bình an. Amen.

Ghi nhớ: ”Con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

 ---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 10. Thánh nữ Mát-ta ở Bêtania


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Hai chị em Mát-ta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu tại làng Bêtania, nơi mà Chúa Giêsu đã quen biết hai chị em. Lúc Chúa tới nhà, Mát-ta lo lắng chuẩn bị bữa ăn trong lúc Maria ngồi yên bên Chúa để nghe lời Ngài. Câu trả lời của Đức Giêsu trước đề nghị của Mát-ta không có nghĩa là Ngài phủ nhận tất cả sự quan tâm lo lắng của Mát-ta. Nhưng Đức Giêsu muốn cho thấy một điều cao quý hơn là: lắng nghe Lời Chúa. Lo lắng cho Chúa là điều đáng quý, nhưng để hết tâm trí lắng nghe và thi hành Lời Chúa lại càng quý giá gấp bội.

Theo truyền thống của các giáo phụ, Mát-ta và Maria trong Tin mừng hôm nay là đại biểu của hai lối sống về người môn đệ Chúa Kitô. Mát-ta đại diện cho những người thích lối sống hoạt động. Còn Maria đại diện cho lối sống chiêm niệm và cầu nguyện. Lời trách móc của Mát-ta như gián tiếp cho rằng việc của mình làm là đúng, là tốt hơn người khác. Nhân cơ hội này Chúa Giêsu chỉ cho Mát-ta và chúng ta một bài học về sự lượng giá một công việc. Chúa bảo: “Chỉ có một chuyện cần mà thôi”, đó chính là ngồi nghe Lời Chúa dạy. Chúa không phủ nhận những việc bác ái, phục vụ cộng đoàn. Nhưng tất cả những hoạt động phục vụ sẽ trở thành vô ích, nếu không khởi đi từ tinh thần Tin mừng. Việc bác ái, tông đồ chỉ thực sự mang lại ơn ích cho người khác khi nó xuất phát từ một tâm hồn cầu nguyện, thích nghe Lời Chúa (5 phút Lời Chúa).

Hoạt động và cầu nguyện là hai trạng thái luôn đi đôi với nhau trong đời sống của người Kitô hữu. Đôi khi chúng ta cảm thấy thành công vì những hoạt động bên ngoài, nhưng chúng ta quên đi điều vô cùng quan trọng là đời sống cầu nguyện. Chính những lúc đó chúng ta đang tìm chính mình. Để hoạt động có hiệu quả, chúng ta cần lắng nghe tiếng Chúa trong cầu nguyện. Chính những giây phút ấy, chúng ta được tiếp thêm sức mạnh để dấn thân và hoạt động hăng say hơn. Chúa không chê trách Mát-ta nhưng Chúa mời gọi bà  hãy biết nghỉ ngơi bên Chúa, Người sẽ bổ sức cho.

Trong Tông huấn Lời Chúa (Verbum Domini) số 3, Đức Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhấn mạnh vai trò của Lời Chúa: “Xuyên suốt dòng lịch sử, Dân Chúa gặp thấy sức mạnh nơi Lời Chúa và ngày nay cũng vậy, Giáo hội tăng cường nhờ nghe, cử hành và học hỏi Lời Chúa”.


Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng khẳng định vai trò quan trọng bậc nhất của Lời Người. Mát-ta tất bật công việc phục vụ là tốt, nhưng Maria đã chọn phần tốt nhất, là ngồi dưới chân và lắng nghe Lời Chúa. Ngày nay, nhiều người chẳng đoái hoài, thậm chí còn thấy chán ngán với việc lắng nghe Lời Chúa, bởi vì Lời Chúa luôn thách thức và đòi hỏi con người thay đổi não trạng, hành vi của mình để sống đúng phẩm giá hơn. Ước gì chúng ta luôn có được niềm vui khi lắng nghe Lời Chúa, và có động lực để thực thi Lời ấy trong cuộc sống hằng ngày (Học viện Đa Minh).

Chắc hẳn Chúa Giêsu đã đánh giá cao sự hy sinh bận rộn của Mát-ta. Đó là biểu hiện lòng mến cao độ. Tuy nhiên, qua cử chỉ của cô Maria, Chúa Giêsu đã nhận được một tâm tình cao đẹp hơn. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đặt Ngài vào chỗ nhất trong cuộc sống, chọn Ngài làm tất cả. Chúa Giêsu muốn lấy cử chỉ đó làm biểu tượng nói lên sự chọn lựa đúng đắn của con người. Đó là chọn Ngài làm cơ nghiệp, là đặt Ngài vào trọng tâm của cuộc sống.

Lời Chúa hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta thống nhất đời sống. Có những giây phút ưu việt dành cho cầu nguyện, thờ phượng, còn phần lớn thời giờ được dành cho những sinh hoạt khác. Đối với người Kitô hữu phải biến mọi sinh hoạt thành lời cầu nguyện kéo dài, thành những hy tế trên bàn thờ. Chính qua những sinh hoạt ấy, chúng ta gặp gỡ, lắng nghe, thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Truyện: Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Frederic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viện đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và vừa khi đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

- Thưa thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.

Chàng sinh viên liền hỏi:

- Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 11. Thánh Mát-ta


--Lm Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Mát-ta. Tôi xin nói về tình thương của Chúa đối với gia đình này.

A. Sự kiện:

Chúa thương gia đình này cách đặc biệt. Tình thương của Chúa được biểu lộ ra trong những việc rất cụ thể này:

1. Đây là một gia đình mà mỗi khi Chúa có dịp lên Giêrusalem Chúa hay lui tới.

Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy Chúa đã tuyên bố rất rõ: “Con chim có tổ, con cáo có hang. Con người không có nơi gối đầu” (Mt 8,20). Cả cuộc đời công khai của Chúa, dường như Chúa sống ở ngoài đường hơn ở trong nhà. Việc Chúa ghé nhà nọ nhà kia quả là một việc rất họa hiếm: Thí dụ ghé nhà bà nhạc mẹ vợ ông Phêrô, ghé nhà Giakêu lùn, ghé nhà để chữa con gái ông Giairô. Khi lập Bí tích Thánh Thể Chúa ghé một nhà sang trọng.

Vậy mà chúng ta thấy địa chỉ của Mát-ta - Lazarô - Maria đã trở thành địa chỉ quen thuộc với Chúa và các Tông Đồ. Đó là một ưu ái Chúa dành cho gia đình này.

2. Chúa thương gia đình đình này cách đặc biệt bằng cách Chúa dành cho mấy chị em những tình cảm nhiều khi được bộc lộ ra cả bên ngoài... đến mức dân chúng cũng ngạc nhiên về điều đó. Thí dụ như khi nghe tin Lazarô chết, Chúa đã xúc động... Rồi khi đứng trước mộ Lazarô Chúa đã bật khóc.

3. Đặc biệt nhất là Chúa đã làm cho Lazarô sống lại từ cõi chết. Đọc lại câu truyện này chúng ta thấy thật lạ lùng. Chính Mát-ta và cả gia đình cũng không bao giờ dám tin vào điều đó. Vậy mà nó đã xẩy ra.

B. Lý giải: Tại sao thế?

1. Phải chăng vì gia đình này đã có đóng góp vào việc truyền giáo của Chúa?

Cắt nghĩa như thế tôi tưởng không ổn bởi vì trên con đường truyền giáo của Chúa, còn có những người đóng góp nhiều hơn. Thí dụ như trường hợp bà Chusa vợ của ông quản lý của Vua Hêrôđê. Không những Bà dâng cúng mà bà con đi theo để phục vụ Chúa nữa. Vậy mà không có chỗ nào trong Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa ghé thăm gia đình bà.

Hơn nữa lấy lý do tiền bạc ra mà đánh giá một hành động của Chúa thì quả là không đẹp tí nào. Chúa đâu cần đến mức độ như thế.

2. Hay vì Mát-ta khéo xử. Bài Tin Mừng hôm nay là một thí dụ?

 Tôi cho là cũng không phải. Tầm cỡ như Chúa thì có thiếu gì người mời. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của ông Giakêu... Chúa vừa mới ngỏ ý thôi là ông ấy đã cảm thấy hạnh phúc như chưa bao giờ mơ thấy. Trong bữa tiệc ông đã biểu lộ niềm vui ấy ra bên ngoài như thế nào thì mọi người chúng ta đều biết.

3. Tôi cho là hoàn toàn do lòng Chúa yêu thương. Vâng! Tất cả là vì lòng Chúa yêu thương. Bởi vì Ngài là tình yêu. Chúa yêu thương và Chúa cứu gia đình này. Tại sao tôi dám nói như thế? Có nhiều giả thuyết cho rằng: Maria em của Mát-ta chính là Maria Madalena, người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Đàng khác chúng ta thấy cả ba chị em đều không có gia đình. Đây là một sự kiện bất thường trong xã hội Do thái lúc đó. Lý do là vì lúc đó người ta có một quan niệm rất khắt khe về vấn đề gia đình. Người con trai lớn lên thì phải lấy vợ. Người con gái lớn lên thì lấy chồng. Trai lớn, gái đến tuổi mà không có gia đình thì người coi đó như là bị Thiên Chúa phạt.

Chính vì những lý do đó mà chúng ta có thể coi đây là một gia đình có vấn đề. Đối với xã hội con người thì không thể chấp nhận được nhưng với Chúa thì sự thể lại khác.

Chúa làm thế vì Người có lý do của Người.

Một em bé gái mồ côi sống với bà ngoại trên một căn gác nghèo nàn. Một đêm nọ, căn gác bị hỏa hoạn, bà ngoại đã thiệt mạng khi cố gắng cứu đứa cháu. Chẳng mấy chốc, lửa lan xuống tầng dưới của căn nhà những người láng giềng. Em bé gái xuất hiện trên cửa sổ của căn gác và kêu cứu, nhưng đội cứu hỏa vẫn chưa tới. Đột nhiên có một người đàn ông xuất hiện với một chiếc thang, ông leo vào căn gác và một lúc sau ông trở ra với em bé gái trên cánh tay, ông trao đứa bé cho đám đông rồi biến mất.

Qua một cuộc điều tra, người ta biết rằng đứa bé không biết có bất cứ một thân nhân nào. Một tuần lễ sau đó, ông trưởng khu phố cho tổ chức một cuộc họp để xem có ai nhận em bé về nuôi nấng dưỡng dục không? Một cô giáo đã giơ tay xin nhận em bé về nhà và hứa sẽ dạy dỗ em nên người. Một người chủ nông trại giàu có cũng ngỏ ý nhận em làm con nuôi. Nhiều người khác cũng giơ tay biểu lộ cùng một ý tưởng. Cuối cùng, người giàu có nhất của khu phố phát biểu: “Tôi có thể mang lại cho em bé này tất cả những tiện nghi mà quí vị vừa nêu lên, cộng với tiền bạc và tất cả những gì tiền bạc có thể mua được”.

Em bé gái lắng nghe tất cả những lời hứa hẹn trên đây, nhưng không để lộ một phản ứng nào, mắt em chỉ muốn cúi nhìn xuống đất. Cuối cùng, người chủ trì lên tiếng hỏi:

- Còn có ai muốn nói điều gì nữa không?

Lúc bấy giờ, từ cuối hội trường có một ông từ từ tiến lên, đến gần em bé, ông giang cánh tay ra, mọi người đều thấy những vết cháy xám trên hai cánh tay của ông. Em bé gái bỗng thét lên:

 - Đây là người đã cứu tôi.

Và em nhảy lên bá lấy cổ người đàn ông, áp mặt vào vai ông và thổn thức, rồi ngước mắt nhìn lên mỉm cười với ông. Chứng kiến cảnh tượng đó người chủ trì phiên họp tuyên bố giải tán.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 12. Thánh Mát-ta


--5phutloichua.net

Suy niệm: Qua việc cho La-da-rô sống lại, Chúa Giê-su dẫn đưa Mác-ta tiến sâu vào con đường đức tin, giúp cho cô vững tin Ngài chính “là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (c.27). Đối với Mác-ta, niềm vui này còn lớn hơn niềm vui tìm lại được người em đã chết, bởi vì niềm tin ấy đưa cô đến sự sống đời đời: “Ai tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (c.26). Tin vào con người Đức Ki-tô thì cũng đồng thời là tin vào Lời của Ngài, bởi vì Ngài chính là Ngôi Lời (Ga 1,1), và Lời Ngài là Lời hằng sống, Lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6,68).

Mời Bạn: Giữa cơn thử thách lớn lao, Mác-ta đã gặp Đức Ki-tô, và lời Ngài đã vực chị dậy để chị đứng vững trong niềm tin. Bạn đã làm gì khi gặp thử thách trong đời sống, trong đức tin? Trong năm Sống Lời Chúa, bạn được mời gọi năng đọc, và sống Lời Chúa. Việc này phải dẫn bạn đến chỗ tin tưởng vào Ngài mỗi ngày một hơn.

Chia sẻ: Khi gặp thử thách mới thấy niềm tin của mình như thế nào! Bạn hãy cùng bạn bè, người thân chia sẻ kinh nghiệm cá nhân khi đối diện thử thách, dựa vào  gương của Mác-ta trong câu truyện Tin Mừng hôm nay, và hãy khích lệ nhau vững tin vào Chúa hơn.

Sống Lời Chúa: Bạn hãy tập thói quen khi gặp thử thách lớn nhỏ, nhớ đến một câu Lời Chúa, để tâm niệm, và xin ơn kiên vững trong niềm tin.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con bài học về đức tin của Mác-ta. Ước gì những thử thách con gặp phải, không đẩy con xa Chúa, nhưng giúp con thêm vững tin vào Chúa, và dẫn con đến sự sống đời đời.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 13. Thánh nữ Mát-ta


Thánh nữ Mát-ta cùng sống với em gái là Maria và em trai là Ladarô tại làng Bêtania, gần Jerusalem. Vào cuối quãng đời công khai, Chúa Giêsu thường ghé thăm nhà của ba người bạn thân thiết này. Những mối cảm tình thắm thiết đã liên kết ba vị với Chúa Giêsu.

1. Tình yêu Thầy Chí Thánh và niềm tin vào sự giúp đỡ của Người.

Ngày lễ kính thánh nữ Mát-ta là dịp để chúng ta đi vào ngôi nhà thường được diễm phúc đón tiếp sự hiện diện của Chúa Giêsu tại Bêtania. Tại đây, gia đình của Mát-ta, Maria, và Ladarô, Chúa tìm được sự nghỉ ngơi sau những chuyến rao giảng mệt nhoài qua những thị thành. Chúa Giêsu đã tìm đến nương ẩn nơi những bạn bè của Người, nhất là trong những ngày sau cùng khi Người thường xuyên gặp hiểu lầm và khinh bỉ, đặc biệt là từ những người Biệt Phái. Những tình cảm Thầy Chí Thánh dành cho những người bạn của Người tại Bêtania đã được thánh Gioan ghi lại trong Phúc Âm: Chúa Giêsu yêu thương Mát-ta, hai người em của bà là Maria và Ladarô. Quả thật, họ là những người bạn thiết của Chúa!

Phúc Âm thánh lễ hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình này vào bốn ngày sau khi Ladarô qua đời. Trước đó, khi Ladarô đang bệnh nặng, hai người chị, đầy lòng tin tưởng, đã gửi tin báo cho Thầy Chí Thánh: Lạy Thầy, người Thầy yêu đang ốm nặng. Khi ấy, Chúa Giêsu còn ở tại Galilê, cách Bêtania một vài ngày đàng. Khi nghe tin Ladarô lâm bệnh, Chúa vẫn lưu lại nơi ấy thêm hai ngày nữa. Sau đó, Người nói với các môn đệ: ‘Nào chúng ta cùng trở lại Judaea.’ Nhưng khi Chúa đến nơi, Ladarô đã chết và chôn trong mồ được bốn ngày.

Lúc nào cũng lưu tâm sốt sắng, nên Mát-ta đã nhận ra Chúa Giêsu khi Người còn ở đàng xa, và đã kịp ra chào đón. Mặc dù phản ứng của Chúa xem ra không chiều theo ước nguyện của Mát-ta, nhưng tình yêu và niềm tin của thánh nữ vẫn không suy giảm. Mát-ta thưa với Chúa – Nếu Thầy có mặt ở đây, thì em con không chết. Bà đã tế nhị trách Chúa vì đã không đến sớm hơn. Mát-ta hy vọng Chúa chữa lành cho em bà khi còn đang bệnh. Nhưng Chúa Giêsu, với một cử chỉ thân thiện, có lẽ mỉm cười, đã làm bà phải ngạc nhiên: Em con sẽ sống lại. Mát-ta đón nhận những lời an ủi ấy, nhưng hiểu về ý nghĩa của ngày phục sinh, nên đã đáp lại: Con biết em con sẽ sống lại trong ngày sau hết. Câu đáp của thánh nữ đã mở đường cho lời tuyên bố của Chúa Giêsu về thần tính của Người: Ta là sự Sống Lại và là Sự Sống; ai tin nơi Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và bất cứ ai sống mà tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ. Rồi Chúa hỏi thẳng Mát-ta: Con có tin không? Ai có thể phản kháng uy quyền tối thượng của lời tuyên bố: Ta là sự Sống Lại và là Sự Sống…  Ta là nguyên nhân hiện hữu của mọi vật hiện hữu. Chúa Giêsu là Sự Sống, không chỉ là Sự Sống đời sau, mà còn là Sự Sống hiện tại, trong đó, ơn thánh hoạt động trong linh hồn chúng ta đang khi chúng ta đang chiến đấu. Những lời ngoại thường này trấn an và lôi kéo chúng ta đến gần Chúa Kitô hơn nữa. Những lời ấy cũng đưa chúng ta đến chỗ nhận những lời đáp của thánh nữ Mát-ta như của chính chúng ta: Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống thế gian. Sau đó một lúc, Chúa Giêsu đã làm phép lạ, cho Ladarô sống lại từ cõi chết.

Chúng ta thán phục đức tin và muốn noi gương thánh Mát-ta trong mối tương quan tín thác của thánh nữ vào Thầy Chí Thánh: Bạn đã nhìn thấy tình cảm và niềm tin mà những người bạn thân của Chúa Kitô đã xử đối với Người hay chưa?  Một cách hết sức tự nhiên, hai người chị của Ladarô đã ‘trách’ Chúa Kitô vì đã đi vắng: ‘Nếu như Thầy có mặt ở đây!’

Bạn hãy thưa với Chúa trong niềm tin tưởng an bình: “Xin dạy chúng con biết đối xử với Chúa bằng tình thân thắm thiết như Mát-ta, Maria, và Ladarô, như mười hai Tông Đồ đầu tiên đã đối xử với Chúa, ngay cả như thời gian ban đầu, khi các ngài theo Chúa có lẽ không vì những lý do siêu nhiên nào cả.”

2. Nhân tính rất thánh của Chúa Giêsu.

Một thời gian sau, gần đến lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lại ghé thăm các người bạn: Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến Bêtania, nơi Ladarô đã chết, người đã được Chúa Giêsu cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, họ dọn bữa tối thết đãi Chúa Giêsu; Mát-ta lo hầu bàn, còn Ladarô là một trong những người cùng dự tiệc với Người.

Mát-ta lo hầu bàn… Chắc hẳn thánh nữ đã thực hiện điều này với một lòng tri ân. Đấng Cứu Thế đang có mặt tại nhà; Thiên Chúa cần được thánh nữ phụng sự. Thánh nữ được phụng sự Thiên Chúa. Thiên Chúa làm người để đồng hóa với những nhu cầu nhân loại, thành ra chúng ta có thể học biết yêu mến Người qua Nhân Tính Rất Thánh của Người và có thể trở nên những bạn thân của Người. Chúng ta thỉnh thoảng hãy nhớ lại chính Chúa Giêsu đã từng ở Nazareth, ở Capharnaum, từng ở Bêtania xưa, cũng đang nóng lòng đợi chờ chúng ta tại nhà tạm gần nhất. Người đang cần sự quan tâm và phục vụ của chúng ta. Quả thật, tôi luôn luôn gọi nhà tạm của chúng ta là nhà Bêtania. Bạn hãy trở nên một bạn thân của Thầy Chí Thánh – như Ladarô, Mát-ta, và Maria – và rồi bạn đừng hỏi tôi tại sao tôi lại gọi các nhà tạm là nhà Bêtania nữa. Chúa Kitô đang hiện diện một cách bí tích tại đó. Chúng ta đừng hờ hững với Người. Hằng ngày, chúng ta hãy đến kính viếng và bầu bạn với Người, không hấp tấp, không lo ra, nhất là trong những giờ phút quí báu sau khi được lãnh nhận Thánh Thể. Thời gian ấy lợi ích biết bao cho chúng ta!

Theo thánh Thomas, đối với Thiên Chúa, nhập thể là phương thức hữu hiệu và lợi ích nhất trong việc cứu độ nhân loại. Thánh nhân nêu ra các lý do sau: đối với đức tin – điều ấy dễ tin hơn, bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng phán dạy; đối với đức cậy – ý chí cứu độ của Thiên Chúa được biểu trưng qua bằng chứng lớn lao này; đối với đức ái – bởi vì không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu; và đối với chính các hành vi của tình yêu – bởi vì Thiên Chúa trở nên gương mẫu cho chúng ta. Qua việc nhập thể, Thiên Chúa đã tỏ ra giá trị lớn lao của từng con người.. Qua sự khiêm nhượng, Thiên Chúa đã chà đạp tính kiêu ngạo của chúng ta…

Qua Nhân Tính thánh thiện Chúa Giêsu, tình yêu Thiên Chúa đã mặc lấy hình hài nhân loại vì chúng ta. Hành vi này mở ra cho chúng ta một cánh cửa dẫn đến chỗ kết hợp với Thiên Chúa, Cha của chúng ta. Do đó, cuộc sống Kitô hữu hệ tại ở việc yêu mến, noi gương, và theo bước Chúa Kitô. Chúng ta được phấn khích nhờ tấm gương đời sống Chúa Kitô và nhờ tình thân ái giữa chúng ta với Người.

Mục tiêu chính của việc nên thánh không phải là cuộc chiến chống lại tội lỗi, không phải là vấn đề tránh lánh điều xấu, nhưng là việc yêu mến, noi gương Thầy Chí Thánh, Đấng đi khắp nơi thi ân giáng phúc… Cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống đầy nhân tính. Trái tim chúng ta có một vai trò quan trọng trong việc nên thánh bởi vì Thiên Chúa đã đoái thương trở nên con người. Nếu chúng ta không quan tâm đến phương diện tình cảm trong đời sống đạo đức, và dễ dãi trao gửi con tim chúng ta cho các thụ tạo, tình thân giữa chúng ta với Thầy Chí Thánh sẽ gặp nguy hại, và sức mạnh ý chí của chúng ta không đủ sức giúp chúng ta vươn lên trên con đường hẹp của sự thánh thiện. Vì vậy, chúng ta luôn luôn phải nỗ lực ý thức rằng Chúa đang gần bên chúng ta. Chúng ta có thể dùng trí tưởng tượng để hình dung Chúa Kitô, Đấng đã giáng sinh tại Bêlem, đã lao động nhọc nhằn tại Nazareth, đã có những người bạn thân thiện, và đã quí trọng cuộc sống trần gian của Người.

Ước chi chúng ta biết học từ nơi những người bạn của Chúa Kitô để đối xử với Người trong niềm tôn kính sâu xa, bởi vì Chúa chúng ta là Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng hãy tìm đến nương tựa nơi Chúa với một niềm tin tưởng vô bờ, bởi vì Chúa là Người Bạn của chúng ta, mỗi ngày Người hằng tìm kiếm và ước ao sống gần gũi với chúng ta.

3. Tình thân với Chúa làm cho cuộc sống trở nên dễ dàng.

Một lần kia, Chúa Giêsu và các môn đệ ghé lại nhà các bạn của Người tại Bêtania trên đường lên Jerusalem. Mát-ta và Maria đã thết đãi và chuẩn bị những thức cần thiết để chứng tỏ lòng hiếu khách với Thầy Chí Thánh và những môn đệ của Người. Nhưng Maria - có lẽ khi ấy Chúa Giêsu vừa đến chưa bao lâu - đã ngồi lại dưới chân Chúa và lắng nghe Người, trong khi Mát-ta bận bịu một mình. Maria quên tất cả để chỉ lắng nghe lời Thầy Chí Thánh. Tình yêu đã lôi cuốn Maria ở lại dưới chân Chúa. Tập quán lắng nghe Chúa và sự đói khát lời Người minh chứng rằng đây không phải là cuộc gặp gỡ lần đầu, nhưng là một sự đồng cảm hiếm thấy.

Mát-ta chắc chắn không hững hờ với lời Chúa. Thánh nữ nóng lòng muốn nghe, nhưng vì phải bận bịu công việc. Không có Mát-ta, Chúa Giêsu vẫn hướng câu chuyện của Người về bình diện trên cao. Điều ấy, đối với Mát-ta, càng làm Chúa trở nên lôi cuốn hơn nữa. Vì thế, Mát-ta cảm thấy khó chịu và bực bội vì gánh nặng công việc. Trong lúc đó, thánh nữ lại thấy em mình dưới chân Chúa. Theo trình thuật Phúc Âm thánh Luca: Hơi khó chịu, nhưng đầy tin tưởng, thánh nữ đến và thưa Chúa: Lạy Thầy, Thầy không thấy em con để con phục vụ một mình sao?  Xin Thầy bảo em con giúp con với. Mát-ta đã đến với Chúa trong niềm tin tưởng!

Chúa Giêsu đã đáp lại một cách nói thân mật bằng cách lặp đi lặp lại tên thánh nữ: Mát-ta, Mát-ta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện quá; chỉ có một điều cần mà thôi. Maria có lẽ cũng sẵn lòng giúp đỡ chị, nhưng đã không quên điều thiết yếu: đó là chọn Chúa Giêsu làm tâm điểm chú ý và trung tâm cuộc sống của mình. Chúa Giêsu đã đề cao điều ấy – tức là tình yêu của Maria.

Ngay cả những công việc của Chúa cũng đừng làm chúng ta quên mất Chúa. Mát-ta sẽ không bao giờ quên được lời nhắc nhở thân thiết ấy của Chúa. Công việc là điều không thể lơ là, nhưng đừng vì công việc mà hạ Chúa Kitô xuống hàng thứ yếu.

Những hoạt động và lo toan của chúng ta mặc dù trực tiếp qui hướng về Chúa, nhưng chúng ta cũng đừng bao giờ vì chúng mà quên lãng điều duy nhất cần thiết: đó là chính Chúa Kitô. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cần nhớ: đừng bao giờ để những điều xem ra hết sức quan trọng, chẳng hạn như công việc, thu nhập tài chánh, những tương giao xã hội, vượt quá địa vị của cuộc sống gia đình. Những điều ấy không đáng buộc cuộc sống gia đình phải chịu tổn thiệt. Chỉ trong những hoàn cảnh ngoại thường, người gia trưởng mới phải làm việc xa nhà, chẳng hạn như những người di cư hoặc thủy thủ. Nếu người cha hoặc người mẹ trong gia đình kiếm được nhiều tiền mà thiếu sót bổn phận đối với con cái, thử hỏi kết quả sẽ như thế nào?

Đức Thánh Trinh Nữ, Đấng muôn đời được hưởng sự hiện diện hồng phúc của Chúa Kitô trên thiên quốc, sẽ nài xin cho chúng ta ơn biết trân trọng hơn nữa mối thân tình thắm thiết với Thầy Chí Thánh. Mẹ sẽ dạy chúng ta biết chuyên cần những công việc của Chúa mà không quên mất Chúa. Trước mặt Chúa Giêsu, Mẹ sẽ cầu bầu cho chúng ta biết coi trọng giá trị gia đình hơn những mối lợi khác.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 14. Thánh Mát-ta, một con người phục vụ


--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng: “Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một phụ nữ tên là Mát-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria, cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mát-ta thì tất bật lo việc phục vụ” (Lc 10, 38-40 ). Tin Mừng cũng cho thấy, Mát-ta cũng đón Chúa dùng bữa với gia đình sáu ngày trước lễ phục sinh. Trong hai bữa ăn đó, Mát-ta tỏ ra tất bật, lo lắng cho Chúa Giêsu và các môn đệ. Cô Mát-ta có lòng hiếu khách một cách triệt để: thánh nữ bận rộn với việc bếp núc, cố gắng làm những món ăn ngon, hợp khẩu vị để thết đãi Chúa Giêsu và các môn đệ. Lần khác, Chúa Giêsu tới Bêtania và làm cho Lazarô chết bốn ngày, đã nặng mùi, được sống lại. Trước khi làm phép lạ, Mát-ta đã tuyên xưng lòng tin của mình: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” ( Ga 11,27) Lòng tin của Mát-ta đưa nhân loại liên tưởng tới lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Chính lời tuyên xưng đức tin của vị tông đồ trưởng làm cho Ngài trở nên tảng đá vững chắc, Chúa xây dựng Giáo Hội của Người trên ấy. Mát-ta tuyên xưng Chúa là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Điều này nói lên, chính Thiên Chúa đã mạc khải cho thánh nữ và Thánh Thần đã tác động trong thánh nữ để Mát-ta nhận ra Chúa là Đấng thiên sai phải đến trong thế gian. Mát-ta bận rộn, lo lắng và trong sự mệt mỏi, thánh nữ đã than phiền về việc Maria không chịu giúp cô làm bếp để hầu hạ và phục vụ Chúa Giêsu cùng các môn đệ: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay” (Lc 10, 40 ). Sự thực Chúa Giêsu rất trân trọng thái độ hiếu khách của Mát-ta, tuy nhiên, Ngài cũng trách Mát-ta quá lo âu, lo lắng mà quên đi việc chính yếu là lắng nghe lời Chúa: “Mác ta! Mát-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”( Lc 10, 41-42 ).

Thái độ nào cần phải có?

Maria em cô Mát-ta đã lấy thuốc thơm xức cho Chúa, đã ngồi bên chân Chúa mà nghe Chúa giảng dạy (Lc 10,39). Cả hai thái độ của Mát-ta và Maria đều đáng trân trọng, nhưng phải làm sao để đời sống hoạt động và đời sống chiêm niệm, cầu nguyện trở nên hài hòa. Lo lắng, băn khoăn, náo động mà quên đi phải có những lúc tĩnh, những lúc yên nghỉ để lắng đọng tâm hồn, kết hợp với Chúa, là điều thiếu xót, chưa hoàn hảo. Chúa Giêsu muốn con người vừa phục vụ nhưng phải biết hồi tỉnh để cầu nguyện. Maria và Mát-ta sẽ bổ túc cho nhau để đời sống trở nên hoàn hảo.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xưa Con Một Chúa đã nhận lời mời và đến trú ngụ tại nhà thánh nữ Mát-ta. Nhờ lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin Chúa cho chúng con hết tình phục vụ Đức Kitô hiện diện trong mọi người để mai sau được Chúa đón nhận vào nhà Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh nữ Mát-ta).

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 15. Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô


(http://giaoxutanviet.com)

“Đức Giêsu yêu quý Mát-ta, Maria và Lagiarô”. Câu nói độc đáo này trong Phúc Âm của Thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Ðức Giêsu và Mát-ta, người em Maria, và người anh Lagiarô của thánh nữ.

Hiển nhiên, Ðức Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mát-ta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.

Nhiều người dễ nhận ra Mát-ta qua câu chuyện của Thánh Luca. Khi ấy, Mát-ta chào đón Ðức Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mát-ta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông, và Mát-ta là điển hình. Thử tưởng tượng xem ngài bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Ðức Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mát-ta xin Ðức Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Ðức Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mát-ta. Ðức Giêsu thấy Mát-ta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Ðức Giêsu nhắc cho Mát-ta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mát-ta, chúng ta nhận ra chính chúng ta – thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Ðức Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Ðức Giêsu cũng yêu quý Mát-ta như Maria.

Lần thăm viếng thứ hai cho thấy, Mát-ta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở trong vùng. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.

Cuộc đối thoại của ngài với Ðức Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mát-ta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Ðức Giêsu, tin vào sự phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Và sau đó Ðức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại từ cõi chết.

Hình ảnh sau cùng của Mát-ta trong Phúc Âm, đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Ðức Giêsu trở lại Bêtania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Lagiarô là người mà ai cũng biết khi được sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Ðức Giêsu. Về phần Mát-ta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mát-ta lo hầu hạ.” Ngài không nổi bật, ngài không thi hành những việc có tính cách phô trương, ngài không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Ngài chỉ hầu hạ Ðức Giêsu.

Thánh Mát-ta được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

Lời Bàn

Các nhà chú giải Kinh Thánh nói rằng trong đoạn văn diễn tả việc Lagiarô sống lại, Thánh Gioan có ý nhắn nhủ chúng ta phải coi lời của Mát-ta nói với Maria (trước khi Lagiarô sống lại) như tóm lược những gì một Kitô hữu phải vâng theo. “Thầy có mặt ở đây và đang hỏi đến em”. Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta đến sự phục sinh – mà sự phục sinh ấy hiện có trong đức tin khi rửa tội, được chia sẻ vĩnh viễn sự chiến thắng của Người đối với sự chết. Và tất cả chúng ta, cũng như ba người bạn của Chúa Giêsu, được mời gọi kết tình bằng hữu với Chúa trong một phương cách độc đáo.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 16. Thánh nữ Matta


-- Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Lễ Thánh Nữ Matta, chị của Maria và Ladarô, được cử hành tám ngày sau lễ kính Thánh Nữ Maria Mađalêna và đã phổ biến dưới thời Trung Cổ do ảnh hưởng cuốn Các truyền thuyết ở Pronvence. Tuy nhiên thật đáng tiếc vì không có một lễ chung kính ba vị thánh của Bêtania như trong phụng vụ dòng Phan Sinh ở thế kỷ XVIII và trong niên lịch dòng Biển Đức vốn vẫn thường mừng vào ngày 2 tháng Chín.

Quyển Cuộc đời Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) có kể lại một truyền thuyết rằng ba chị em Matta, Maria, Ladarô đã bị người Do Thái tống xuống một chiếc thuyền nhỏ không buồm, nhưng đã lên bờ được ở Marseille và tại đây bà Matta được đặc biệt kính trọng. Còn theo những truyền thuyết khác thì Thánh Nữ Matta đã truyền giáo ở miền Provence và đã giải thoát miền này khỏi một con quái vật tên là Tarasque. Người ta thấy sự tích đó được khắc trong Nhà thờ Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) ở Tarascon.

2. Thông điệp và tính thời sự

Các lời nguyện trong Thánh Lễ cũng như các điệp ca nhập lễ (nhắc tới bữa ăn ở Bêtania) và hiệp lễ (nhắc tới việc Ladarô sống lại) đưa ra ba giai đoạn nổi bật của Thánh Nữ Matta, được chọn làm bổn mạng các bà nội trợ và các dưỡng đường.

Lời nguyện trong ngày ca tụng tính hiếu khách của thánh nữ, và dạy chúng ta biết “phụng sự Đức Kitô trong mỗi người anh em chúng ta”. Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh “sự vội vã tận tụy” của thánh nữ trong việc đón tiếp Đức Giêsu vào nhà (Lc 10, 38).

Bài Phúc Âm Luca đọc trong Thánh Lễ (Lc 10, 38-42) nhắc lại lời Đức Kitô: ”Matta, Matta ơi, chị lo lắng, sắp xếp nhiều chuyện. Nhưng duy nhất chỉ có một điều là cần thiết… ” Bởi thế, trong lời nguyện tạ lễ, chúng ta xin Chúa ”đừng để chúng ta hướng về những gì hay hư nát”. Cũng vậy, bài giảng của Thánh Augustinô và Phụng vụ Bài đọc trích dẫn nhắc nhở chúng ta rằng “lời của Đức Giêsu Kitô mời gọi chúng ta chỉ nhắm một mục đích duy nhất khi chúng ta ngụp lặn giữa bao công việc của trần gian này”.

Điệp ca bài Benedictus: Lạy Chúa, Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã đến trong thế giới này, được trích dẫn từ Phúc Âm Thánh Gioan (11, 27) mà ta có thể đọc trong Thánh Lễ. Những lời này của Thánh Nữ Matta là một lời tuyên xưng đức tin rất vững chắc, đã được Giáo Hội giữ lại trong nghi thức khai tâm kitô giáo cho người trưởng thành và trong phụng vụ lễ tang.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 17. Ba chị em Mát-ta, Maria và Ladarô


Tý Linh (theo ZENIT)

Đức Phanxicô đã quyết định từ nay trong lịch phụng vụ của Giáo hội Công giáo Rôma, toàn thể Giáo hội sẽ mừng lễ thánh nữ Mátta, thánh nữ Maria và thánh Ladarô vào ngày 29/7 hằng năm. Qua đó, Đức Thánh Cha muốn nhấn mạnh ”chứng tá Tin Mừng quan trọng mà các ngài đã mang lại khi tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình, lắng nghe Ngài cách chăm chú và tin rằng Ngài là sự sống lại và là sự sống”.

Cho đến nay, chỉ thánh nữ Mátta được mừng vào ngày này trong lịch phụng vụ của Giáo hội, do thiếu sự chắc chắn về căn tính của thánh nữ Maria (đôi khi được đồng hoá với thánh nữ Maria Mađalêna, được mừng vào ngày 22/7). Nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy đây là hai người khác nhau, và sách các thánh tử vì đạo của Rôma hiện nay cũng như một số lịch riêng đều kính nhớ ba chị em cùng ngày với nhau.

Trong sắc lệnh được công bố hôm 2/2/2021, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích đã giải thích rằng : ”trong ngôi nhà ở Bêtania, Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được tinh thần gia đình và tình bạn”, ”Mátta đã quảng đại bày tỏ lòng hiếu khách đối với Ngài, Maria đã chăm chú lắng nghe lời Ngài và Ladarô đã nhanh chóng ra khỏi mồ theo lệnh của Đấng đã chiến thắng sự chết”.

Lễ nhớ các ngài giờ đây sẽ nằm trong tất cả các lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ các Giờ Kinh.

-------------------------------

 
 

Suy Niệm 18. Gia Đình Chị Em Maria


—Lm Giacôbê Tạ Chúc 2010

Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người thương mến và giúp đỡ. Trong số đó không thiếu những người phụ nữ đi theo Chúa, cách đặc biệt một gia đình mà Chúa thường đến thăm và quan tâm tận tình: gia đình của chị em bà Matta và Maria. Các Tin mừng ghi nhận ít là ba lần Chúa đến nhà chị em này (Ga 11, 1-45; 12, 1-11; Lc 10, 38-42).

Làng Bêtania

Nói đến gia đình Matta và Maria chúng ta không thể nào không nhắc đến một địa danh lịch sử, gắn liền với tên tuổi của hai Thánh nữ. Bêtania một làng nằm ở phía đông nam núi Cây dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem, trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria(Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là El-Azariyeh, “nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn náu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khỏang 5000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khỏang một giờ đồng hồ”.

Mátta và Maria

Câu chuyện Chúa Giêsu vào nhà Mátta và Maria nghỉ ngơi, khi cùng với các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng, cho chúng ta một nét đẹp trong chân dung của người Tông đồ phục vụ anh chị em mình. Trong khi cô em là Maria đang ngồi lắng nghe lời chúa, thì Mátta tất bật với công việc một người nội trợ thật tuyệt vời. Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ, thái độ đón tiếp của bà. Bởi Chúa cũng cần lắm những cộng sự viên năng nổ, năng động như Mátta. Nếu làm một cuộc so sánh hai chị em thì chúng ta phải khẳng định rằng: Maria là người thiên về đời sống nội tâm, còn Mátta thì hướng đến sự chia sẻ và trao ban. Cả hai đều là những cách thế thể hiện một tình yêu đón nhận từ Thiên Chúa và tặng ban cho con người. Vả lại, Maria là người em nên có khi hơi ỷ lại một chút, công việc bếp núc cũng có phần nặng nhọc và cần đến sự khéo léo và tài tình, nên dành cho người chị thì có lẻ tốt hơn.

Một lần khác, khi ra chào đón Chúa Giêsu vào thăm trong hòan cảnh người em mới qua đời, Mátta bộc bạch cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11, 21). Lazarô đã chết, thế nhưng Mátta vẫn tin rằng Chúa Giêsu là sự sống vĩnh cửu của con người. Nói cách khác Mátta tin nhận Thầy Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Messia mà thiên Chúa tặng ban cho nhân lọai.

Lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy

Tin mừng dù ghi nhận sự khác biệt của hai chị em Maria và Mát-ta trong việc đón nhận lời Chúa, một bên là tĩnh lặng của tâm hồn, một bên là xao động của từng đường gân thớ thịt. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận con tim của cả hai đang dạt dào tình yêu mến Thiên Chúa một cách vô bờ bến, trong con người của Mát-ta và Maria.

Kết hợp những nét đẹp rạng ngời của cả hai chị em, mỗi người sẽ thấy được việc lắng nghe và thực thi lời Chúa, chỉ là hai cách thế diễn tả của một tình yêu Giê-su.

---------------------------------------

 
 

Suy Niệm 19 Thầy là Đấng Kitô


Lời Chúa: Ga 11, 19-27

------- tgpsaigon.net 2021.07.29.

tn17 t5

“Con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, nhiều người Do-thái đến nhà Mát-ta và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Mát-ta đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà.

Mát-ta thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Mát-ta thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”.

Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.

-----------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây