Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó. Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu". Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành phố của các ông.
Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ. Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến. Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau: “Con thuyền đi qua để lại sóng. Đoàn tàu đi qua để lại tiếng. Đoàn người đi qua để lại bóng. Tôi không đi qua tôi để lại gì?” Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất. Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình. Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua. Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên mãn. Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết, muốn gửi gấm qua những vần thơ này? Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận. Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái. Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao. Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6). Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý. Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa, như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10). Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn. Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý. Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ. Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống, vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý. Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài. Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó. Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa. Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài. Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc. 37-38). Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo, người ấy mới xứng đáng với Thầy. Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy, người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39). Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy, nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa? Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước. Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô, tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác. Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy: “Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.” Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ. Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống. Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất. Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con. Xin làm cho con thật đầy ắp, để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn có chỗ trong con. Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi. Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống. -------------------------------
Chúa Giêsu đến khiến người ta phải dứt khoát chọn lựa. Hoặc Chúa hoặc ma quỉ. Hoặc trần gian hoặc Nước Trời. Chọn lựa đó dẫn đến hai con đường khác nhau.
Trần gian tìm thu tích vun quén cho mình. Vì thế nên áp bức bóc lột người khác. Mạnh được yếu thua. Trần gian được thể hiện rõ nét trong toan tính của Pha-ra-ô. Để bảo vệ quyền lực và để làm giầu cho mình, Pha-ra-ô ra lệnh giết con trai của người Do thái. Và bắt người Do thái làm nô lệ (năm lẻ).
Trần gian trở thành tinh vi hơn khi ngụy trang dưới lớp vỏ đạo đức. Người Do thái một mặt thờ kính Chúa rất sốt sắng. Dâng rất nhiều lễ vật. Nhưng mặt khác lại không ngừng phạm tội ác, áp bức bóc lột đồng loại. Chúa dùng I-sa-i-a cảnh báo họ đó là lối sống đạo không đẹp lòng Chúa (năm chẵn).
Trái lại người đi theo Chúa phải luôn từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Dù đó là cha mẹ, anh em, con cái. Thậm chí phải bỏ chính mình, bỏ cả mạng sống mình nữa.
Nhưng kết quả thật khác xa. Kết quả trước mắt là bình an. Người chỉ lo chiếm đoạt và ức hiếp bóc lột sẽ tạo ra chiến tranh, bất bình. Bản thân người chỉ lo tính toán để hại người cũng không được bình an. Những nhà độc tài luôn lo sợ và nghi ngờ. Dục vọng làm cho tâm hồn con người không bao giờ an nghỉ.
Trái lại những người theo Chúa, từ bỏ mình lại luôn được bình an. Một niềm bình an sâu thảm vì đã thoát được tất cả những dục vọng, thèm muốn, chiếm đoạt. Và nhất là vì đã được chính Chúa làm phần thưởng.
Trong tầm nhìn cánh chung, những người chỉ lo thu tích, chiếm đoạt bằng áp bức bóc lột người khác sẽ mất tất cả khi bước vào đời sau. Tệ hơn thế, họ còn bị xét xử, kết án và bị trừng phạt.
Trái lại những người đã biết cho đi, quên mình sẽ được phần thưởng trọng hậu. Ngay cả những cử chỉ bác ái quên mình bé nhỏ như cho một ly nước lã thôi, Chúa cũng ghi nhớ và thưởng công xứng đáng. Khi sống quên mình và biết nghĩ đến người khác, người môn đệ kiến tạo hòa bình trên thế giới. Đó là nền hòa bình chân thực phát xuất từ tâm hồn. Đó là bình an của Chúa.
Có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay cho hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Chắc chắn, khi chọn lựa như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không để họ phải thất vọng, Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của họ. "Ðón tiếp một tiên tri, sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên tri; đón tiếp người công chính, sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công chính; đón tiếp kẻ rao giảng, sẽ nhận được phần thưởng dành cho kẻ rao giảng". Người môn đệ của Chúa đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành trong bổn phận của mình mà thôi.
Với Thiên Chúa, dù công khai hay âm thầm, sứ mệnh kẻ rao giảng bao giờ cũng cần thiết. Thiên Chúa luôn cần đến những người ngày đêm nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài bằng đời sống hoạt động tông đồ, nhưng Ngài cũng cần đến những người hỗ trợ cho công việc tông đồ bằng đời sống âm thầm cầu nguyện và hy sinh. Lịch sử chỉ nhớ đến những vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại hết những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của các vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại ghi nhớ tất cả, Ngài không bỏ sót một khuôn mặt nào, và phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng những đóng góp nhỏ bé trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Dù chỉ là những việc nhỏ bé, âm thầm, không được ai biết đến, nhưng chúng ta hãy tin rằng chúng vẫn hiện diện và có giá trị trước mặt Chúa.
Với cái nhìn trần tục, chúng ta có thể cho rằng những lời dạy của Chúa Giêsu cho các đồ đệ xem ra thật chói tai: "Thầy đến để đem chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ. Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy. Ai không vác thập giá mình hàng ngày mà theo Thầy, thì cũng không xứng đáng làm môn đệ Thầy".
Thử hỏi, trên trần gian này có ai dám yêu cầu những điều như vậy nơi những kẻ theo họ không? Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại dùng ngôn ngữ như vậy, để khắc ghi mạnh mẽ vào tâm trí những người nghe điều Người muốn nói trong cách thức phù hợp với tâm thức của những người đương thời.
Thật vậy, để nhấn mạnh điều gì đó người ta thường dùng cách nói táo bạo, nghịch lý thường tình như những lời chúng ta vừa đọc lại trên: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không đáng làm môn đệ Thầy". Chúa muốn chỗ ưu tiên trên hết mọi người và mọi sự. Chính vì vậy mà sự hiện diện của Chúa là dấu gây nên mâu thuẫn, gây chia rẽ: "Thầy không đến mang sự bình an, nhưng chia rẽ. Thầy đến để chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ".
Sự trung thành với Chúa, việc sống thực hành những giới răn Chúa làm cho mỗi người Kitô trở thành như kẻ thù của chính người thân thuộc, vì nếp sống mới mẻ của người Kitô không phù hợp với nếp sống trần gian, tinh thần Phúc Âm không phù hợp với tinh thần phàm tục. Luật Chúa luôn luôn dạy điều nghịch lại những ước mơ ích kỷ của con người. Giáo huấn Phúc Âm không bao giờ là điều tiện lợi dễ dàng. Thánh giá hy sinh là chiều kích không thể nào tách rời ra khỏi cuộc đời của người theo Chúa. Thánh giá là dấu chỉ, là bằng chứng của tình yêu.
Nhìn vào Chúa Giêsu, Thầy chúng ta, bị treo trên thập giá, chúng ta hiểu được mức tận cùng của tình yêu đích thực. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi trao nộp Con Một của Ngài cho thế gian giết chết trên thập giá. Hy sinh mạng sống mình cho Chúa và anh chị em, đó là vận mệnh không thể tránh được của người Kitô. Ðể theo Ngài trọn vẹn, trung thành cho đến cùng, người đồ đệ cần nhiều can đảm, hy sinh và ơn soi sáng hướng dẫn Chúa.
Lạy Chúa, Xin đổ tràn tình yêu Chúa xuống trên chúng con, để chúng con sống trung kiên với Chúa và quảng đại với anh chị em chung quanh.
“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.”
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì sẽ không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt. 10, 34. 38-39)
Những lời gây kinh ngạc
Nếu có ai hỏi ta Chúa Giêsu đến mang lại và dạy dỗ cho con người cái gì, ta sẽ trả lời rằng Chúa đến dạy người ta biết sống yêu thương nhau; Người đem hòa bình, Người hiệp nhất những ai chia rẽ. Và chúng ta sẽ có thể trưng ta nhiều câu Phúc Âm minh chứng rằng vì những mục đích trên, mà Chúa Giêsu đã làm người ở giữa chúng ta, đã chết và sống ại vì hạnh phúc loài người.
Vậy thì những lời của Phúc Âm vừa nghe, quả làm ta ngạc nhiên Chúa Giêsu khẳng định rằng Người “Không đến đem bình an cho trái đất, nhưng để đem gươm giáo”. Người dám nói rằng Người đến: “Để gây chia rẽ giữa con trai với cha mình, giữa con gái với mẹ…” Chúa Giêsu Người gieo rắc chia rẽ! Chúa Giêsu gây chia rẽ hơn là tạo hiệp nhất! Có ai dám nghĩ như vậy không? Ai mà cho rằng những lời đó là từ môi miệng Chúa? Vậy mà đúng như thế đó.
Những sự kiện minh chứng.
Ta nên lưu ý rằng Chúa Giêsu không khẳng định là Người có chủ tâm gây chia rẽ người ta. Người chỉ nhìn nhận sự kiện xảy ra. Người ta sẽ bất đồng ý kiến với nhau về Người. Có những người sẽ ủng hộ Người, người khác lại chống đối Người. Sẽ có những hiểu lầm, những cắt đứt quan hệ, những xung đột ở khắp nơi trên thế giới và ngay cả trong các gia đình, là vì Người và vì giáo huấn của Người.
Đó chính là điều vẫn xảy ra, mãi mãi những kẻ tin và những kẻ không tin Chúa Kitô vẫn xung khắc với nhau. Mãi mãi chồng và vợ, cha và con chia rẽ nhau và gây khổ cho nhau vì đôi bên không cùng một lập trường khi phải đối mặt với giáo huấn của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu lúc nào cũng vẫn muốn gieo sự bình an, nhưng Người cũng là con người thực tế, vì biết rằng trên trần gian Người sẽ mãi mãi là chủ đề gây trang cãi, chống đối và chia rẽ vậy.
Sống trong bối cảnh xã hội hiện nay, chúng ta thấy tình hình căng thẳng trên Biển Đông ngày càng leo thang! Các nước có liên quan đã lên án sự ngang ngược, cách hành xử vô lý của Trung Quốc muốn bá chủ vùng Biển này. Đồng thời người ta lo ngại sẽ xảy ra chiến tranh!
Qua câu chuyện Biển Đông, người dân đều mong muốn có hòa bình, không chiến tranh. Tuy nhiên, ai cũng biết, muốn không xảy ra đụng độ, các bên phải ngồi lại để đàm phán, tôn trọng và chấp nhận sự thật. Có thế, chúng ta mới hy vọng hòa bình lặp lại trên Biển Đông.
Hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố một câu xem ra rất nghịch lý: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà" (Mt 10, 34-36). Thoạt nghe, chúng ta thấy xem ra có vẻ mâu thuẫn, bất thường và khó hiểu. Tuy nhiên, đi vào chiều sâu của vấn đề, chúng ta mới thấy sáng tỏ một chân lý, đó là: chỉ có bình an đích thực khi chấp nhận sự thật; chấp nhận loại trừ những sai quấy. Bao lâu ta còn để cho sự ác, bất công, gian dối lộng hành, thì bấy lâu chúng ta không có bình an, nếu có, cũng chỉ là thứ bình an giả tạo.
Như thế, chúng ta cũng đâu lạ gì khi trong gia đình có những thành phần chống đối nhau. Tại sao thế? Thưa, chỉ vì có những chuẩn mực trong cuộc sống, những lựa chọn khác nhau, dẫn đến hệ quả khác nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải đắn đo và cẩn trọng khi chọn lựa. Khi đã chọn điều tốt, phải kiên trì bảo vệ để đạt được sự bình an đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiến đấu trong sự thiện, để luôn đứng về phía sự thật, hầu đem lại sự bình an thực sự. Amen.
Sứ điệp: Người môn đệ của Chúa Giêsu phải dứt khoát chọn lựa Tin Mừng hơn mọi sự, phải đặt tình yêu đối với Chúa hơn mọi tình cảm gia đình, hơn cả bản thân mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã mời gọi con làm môn đệ của Chúa, và đã ban cho con biết bao hồng ân để con được theo Chúa cho đến hôm nay. Đứng trước tình yêu cao vời đó, con chưa biết đáp lại như ý Chúa muốn, con chưa đặt Chúa lên địa vị ưu tiên và chưa yêu mến Chúa trên hết mọi sự.
Lạy Chúa, nhiều khi với cái nhìn nông cạn, con đã sống cho tình người nhiều hơn là sống cho tình Chúa. Con để mặc cho tình cảm tự nhiên làm chủ cuộc sống. Con chỉ làm những điều mình ưa thích, hoặc chỉ làm để đẹp lòng người ta hơn là quan tâm đến việc làm đẹp lòng Chúa. Con vẫn ngại hy sinh, sợ thua thiệt. Con chỉ muốn yên thân. Chính vì sợ phiền toái hay chống đối, mà con đã không dám sống Tin Mừng. Rút cuộc, con đã gặt hái sự chán nản thất vọng, hơn là niềm vui và tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, chính Chúa quả quyết: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được”. Xin Chúa giúp con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên tình cảm gia đình, trên những người mà con hằng yêu mến, trên những vật mà con hằng gắn bó, trên cả bản thân con. Xin cho con biết nhìn lên Chúa trên thập giá ngõ hầu con cảm nhận được thế nào là tình yêu Chúa dành cho con, để con sống xứng đáng với tình yêu Chúa. Đòi hỏi của Chúa thật là quyết liệt và tuyệt đối. Các tông đồ đã nghe được lời mời gọi của tình yêu Chúa và đã sống trọn vẹn cho Chúa và cho Tin Mừng. Xin cho con bắt chước đời sống các ngài, để con dứt khoát đi theo Chúa, can đảm dâng cuộc sống cho Chúa và chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo”.
Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt vọng của các tù nhân khác. Bầu khí sầu thảm như đám tang. Một trong các tù nhân đã tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh. Sau cùng anh lắng nghe lời tôi. Cách đây hai năm trong một cuộc họp liên tôn tại California, tôi đã gặp lại anh. Mặt mừng rỡ, anh tiến tới gặp tôi và cám ơn tôi. Anh đã cho mọi người xem các vết sẹo còn hằn trên cổ.
Trong cuộc hành trình, khi các tù nhân biết có giám mục Nguyễn Văn Thuận, họ đến với tôi để kể lể các nỗi âu lo của họ. Tôi đã chia sẻ các khổ đau của họ và an ủi họ hàng giờ và suốt cả ngày. Trong ba ngày trên tàu, tôi an ủi các tù nhân khác và tôi Suy Niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đêm thứ hai, giữa cái lạnh của Thái Bình Dương trong tháng mười hai, tôi bắt đầu hiểu rằng ơn gọi của tôi bắt đầu một giai đoạn mới. Trong giáo phận, tôi đã đưa ra các sáng kiến khác nhau cho công tác rao truyền Tin Mừng cho người bên lương. Giờ đây, tôi phải cùng Chúa Giêsu đi về nguồn gốc của việc loan báo Tin Mừng, phải cùng Ngài ra đi chết “bên ngoài tường thành” bên ngoài tường thánh (ĐHY Phan xicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy Vọng).
Suy niệm
Trong ngữ cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay là tất cả những xung đột, chia rẽ mà Chúa Giêsu nói đến, đó là hình ảnh biểu tượng những sự việc xảy ra trong sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục sinh. Các ngôn sứ cũng nói tiên tri về hình ảnh biểu tượng chia rẽ của ngày sau hết, thời kỳ Mêssia: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà hóa ra thù địch” (Mk 7,6; x. Ml 3,24).
Chia rẽ xung đột còn xảy ra giữa Đức Kitô và những người liên hệ: Thầy trò chia ly, môn đệ phản Thầy, bán Thầy, chối Thầy... Giáo hội cũng đã trải qua những cuộc bách hại, xung đột và chia rẽ với những thế lực chống Tin Mừng trong suốt chiều dài lịch sử, từ những cuộc bách hại đầu tiên ở đế quốc Rôma vào thế kỷ I. Ngày hôm nay Giáo hội vẫn còn bị bách hại tại nhiều nơi trên thế giới đặc biệt nơi các nước Hồi giáo. Gần nhất, chúng ta thấy rõ trong lịch sử Giáo hội Việt Nam, những cuộc bắt hạch đạo đẫm máu giữa những người cùng một dân tộc. Sự chia rẽ nơi Giáo hội Chúa Kitô trong lịch sử: Chính Thống Giáo ở thế kỷ X, Tin Lành ở thế kỷ XVI...
Denys le Chartreux đã suy tư về sự chia rẽ, xung đột trong Giáo hội như sau:
“Những người tin, yêu mến Thiên Chúa tìm kiếm sự bình an tâm hồn, họ sẽ cảm nghiệm bổn phận bất tuân với những điều xấu. Họ sẽ chia rẽ với những gì làm cản trở đời sống thiêng liêng và sự trong sáng của tình yêu Thiên Chúa”....
Đứng trước xung đột nội tâm, chia rẽ, những cảnh tang thương mà ta phải đối diện. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự tranh đấu hiệp nhất trong thánh ý Cha của Đức Kitô nơi vườn Cây Dầu để tiếp tục chiến đấu, vượt qua xung đột để lửa tình yêu, bình an và hy vọng được đốt lên trong tâm hồn. Chúng ta ngắm nhìn khuôn mặt của Chúa Kitô vác thập giá, Ngài đang cùng ta tranh đấu, gánh trên vai xung đột chia rẽ, để chúng ta cùng với Ngài lãnh nhận chiến thắng Phục sinh.
Ý lực sống:
“Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn” (Dt 12,2).
Bài Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu đưa ra toàn là những điều nghịch lý. Tại sao Chúa Giêsu không đem đến hoà bình mà lại đem chiến tranh? Thực sự phải đi sâu vào vấn đề mới có thể hiểu được. Chúng ta đừng tưởng hòa bình là không có chiến tranh. Nhưng đúng hơn hoà bình đích thực chỉ có sau những trận chiến ác liệt. Trận chiến là cuộc phân chia phải-trái, thiện-ác, và quyết liệt là chọn lựa điều thiện. Vì thế, nếu chưa chiến đấu là còn lưỡng lự chưa dứt khoát. Thiên Chúa không chấp nhận tình trạng dở dở ương ương. Nóng thì nóng hẳn, nguội thì nguội hẳn, hâm hâm dở dở, Thiên Chúa sẽ loại trừ.
Sự chọn lựa của người môn đệ theo Chúa
“Anh em đừng tưởng Thầy đem đến bình an cho trái đất: Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).
Nghe có vẻ ngược đời, nhưng sự chia rẽ ở đây nói lên một sự lựa chọn cho người môn đệ. Những ai dám sống và hành động theo con đường Chúa Giêsu, thì thường bị người đời coi là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, thậm chí còn bị ghen ghét hoặc bị bách hại đủ điều. Vì thế, Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Chúa Giêsu phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong gia đình: trong cùng một nhà mà có những người tin Chúa và có kẻ lại không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được ơn cứu độ.
Có thể nói, bài Tin mừng hôm nay cho biết hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn
“Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).
Phải chăng Chúa Giêsu đặt ra một điều kiện của Chúa quá khó? Sở dĩ Ngài đưa ra điều kiện như vậy, để nói lên một sự dứt khoát chứ không phải nửa vời. Ngài không khuyến khích việc vô ơn bất hiếu với cha mẹ, hoặc phải sống vô tâm vô tình với người thân, nhưng là Ngài muốn nhấn mạnh đến sự ưu tiên chọn Chúa là trên hết và Ngài đòi hỏi sự so sánh hơn kém khi phải chọn lựa. Nếu phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu với cha mẹ và người thân, thì những người quyết tâm theo Chúa phải dám chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp.
Bỏ cha, bỏ mẹ, vợ con, anh em là bỏ những cái gì ngoài mình, nhưng Chúa còn đòi hỏi hơn nữa là dám bỏ cả mạng sống nếu phải làm chứng cho Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
Hoa quả của lòng bác ái
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy... Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10,40.42).
Chúa Giêsu khẳng định về chiều kích tương quan hàng dọc với Thiên Chúa dựa trên tương quan đức ái với đồng loại. Khi chúng ta làm điều gì cho anh em là chúng ta đang làm cho chính Chúa Giêsu và cũng đồng thời đang làm cho Chúa Cha.
Việc bác ái dù nhỏ nhất nhưng luôn có giá trị cứu độ. Thiên Chúa sẽ trả lẽ cho chúng ta trong nước của Ngài bằng với những gì chúng ta đã trao tặng cho tha nhân, dù chỉ là một bát nước lã thì Thiên Chúa cũng ghi nhận.
Vấn đề được Thiên Chúa ân thưởng không hệ tại ở giàu hay nghèo, cũng không hệ tại cho hàng tỷ đồng hay chỉ là một bát nước lã, nhưng là biết sống tương quan đức ái với tha nhân, giúp đỡ nhau vì lòng mến Chúa và yêu đồng loại. Người cho nhau một ly nước vì Chúa thì có giá trị hơn gấp bội so với người cho cả gia tài chỉ vì được ca tụng đời này (Hiền Lâm).
Truyện: Cách vác thập giá
Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ, Ngài đưa họ đến đầu con đường rồi trao cho mỗi người một cây thập giá và nói: “Các con hãy vác thập giá này và đi đến cuối con đường, Thầy sẽ đợi các con ở đó”. Nói xong, Chúa biến đi. Và hai môn đệ bắt đầu vác lấy thập giá của mình.
Người thứ nhất xem ra vác nhẹ nhàng, chân rảo bước mỗi lúc một nhanh. Nội trong ngày hôm đó, anh đã đến cuối đường và vui mừng gặp Chúa Giêsu đang đứng chờ sẵn ở đó.
Còn người thứ hai mãi đến chiều hôm sau mới đi hết con đường, xem ra anh ta mệt mỏi, không còn vác, nhưng kéo lê thập giá mỗi lúc một nặng thêm và làm anh ta gần kiệt sức. Vừa gặp Ngài, anh ta phàn nàn ngay: “Chúa đối xử bất công quá. Chúa cho con cây thập giá nặng, còn anh kia Chúa cho thập giá nhẹ, nên anh ấy đã đến trước con lâu như vậy”.
Gương mặt vui tươi của Chúa bỗng trở nên nghiêm nghị. Ngài nói: “Này con, Ta không đối xử bất công, hai cây thập giá giống và nặng như nhau. Con đừng trách thập giá nặng nhẹ, nó trở nên nặng là vì tâm hồn con ngay từ đầu và trong suốt quãng đường Ta đã chỉ, con luôn than phiền và càng than phiền thì nó càng trở nên nặng nề. Người bạn đồng hành của con đến trước, vì tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy yêu thương”.
Phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay nói về sứ mạng tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Phúc Âm:
- Vì Phúc Âm đòi hỏi người ta phải chọn lựa theo hay không theo, nên nó có thể gây nên chia rẽ ngay giữa những người thân, kẻ không theo chống lại những người theo.
- Vì Phúc Âm là giá trị cao quý nhất cho nên nếu cần thì người ta phải dám từ bỏ tất cả những thứ khác để đổi lấy nó.
Sau cùng Chúa Giêsu khuyến khích người ta quảng đại tiếp đón những sứ giả của Phúc Âm, vì tiếp đón họ là tiếp đón Chúa và sẽ được Chúa trọng thưởng.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Thú thật Lời Chúa mấy ngày nay khiến con rất sợ: để đón nhận Phúc Âm của Chúa, con phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều, khi làm tông đồ của Chúa, con cũng sẽ đương đầu với biết bao khó khăn và gian khổ. Con hiểu được tại sao nhiều người không kiên trì sống đức tin, và nhiều người ngại làm tông đồ cho Chúa. Con cũng sẽ đào ngũ chăng? Con cũng sẽ nản lòng chăng? Thật tình con không muốn thế bao giờ. Xin cho con được kiên trì và can đảm.
2. ”Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy”: Hiện giờ con đang yêu những gì hơn Chúa? Xin cho con sức mạnh dám từ bỏ những thứ đó để con xứng đáng với Chúa.
3. ”Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”: Xin cho con biết Thập giá của con hiện nay là gì và xin cho con thêm sức mạnh để vác nổi Thập giá ấy.
4. Một thiếu nữ đẹp, con nhà quyền quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn gọi của cô, Mẹ bề trên vẽ lên một bức tranh rất đáng sợ về những đòi hỏi khắc khe của tu viện. Nghe xong, cô bé có vẻ lung lay im lặng. Một lúc sau Mẹ bề trên hỏi:
- Con không nói gì ư?
- Thưa Mẹ, con chỉ có một câu hỏi: trong nhà Dòng này có nhiều Thánh Giá không?
- Ồ, khắp nơi trong nhà dòng, chỗ nào cung có Thánh Giá.
- Vậy thì thưa Mẹ, con hy vọng sẽ không gặp khó khăn gì cả, bởi vì mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có Thánh Giá bên cạnh con. Con có thể chịu đựng được tất cả. (Góp nhặt)
5. ”Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó”. (Mt 10,39)
Kìa một em bé! Đúng rồi một em bé! Làm thế nào để cứu được em bây giờ? Hàng chục cặp mắt đang dõi theo em với vẻ đầy lo lắng và thương xót. Bỗng từ trên thành cầu, một người vội lao xuống cố nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của em đang quờ quạng giữa khoảng không tưởng chừng vô vọng… Em bé đã được cứu sống! Khoảng khắc quá mỏng manh giữa cái chết và sự sống.
Câu chuyện đã xảy ra vào một buổi chiều tháng năm cách đây gần một năm… Như một luồng sáng chiếu vào cõi lòng vốn vị kỉ của tôi, và tôi đã hiểu một tình yêu cao cả đòi hỏi sự dấn thân quên đi chính mạng sống mình để cứu lấy mạng sống của người khác. Tình yêu đó chính là tình yêu mang tên Giêsu.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu thế nào là mầu nhiệm “tự hủy” của Ngài, để luôn biết quảng đại dấn thân cứu sống người anh em mà không sợ đau thương hay nguy hiểm. (Hosanna)
1. Thú thật, Lời Chúa mấy ngày nay khiến tôi rất sợ: Để đón nhận Tin Mừng của Chúa, phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều. Khi làm tông đồ của Chúa, phải đương đầu với biết bao khó khăn và gian khổ. Chính vì thế mà chúng ta thấy có rất nhiều người không đủ kiên trì và nhiều người ngại làm tông đồ cho Chúa.
Chúng ta có đào ngũ chăng? Chúng ta có nản lòng chăng? Thật tình thì chúng ta không muốn thế bao giờ. Cầu xin Chúa cho chúng ta được kiên trì và can đảm.
Một thiếu nữ đẹp, con nhà quyền quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn kêu gọi của cô, mẹ bề trên vẽ lên một bức tranh rất đáng sợ về những đòi hỏi khắt khe của tu viện. Nghe xong, cô bé có vẻ hơi lung lay trong im lặng. Một lúc sau mẹ bề trên hỏi:
- Con không nói gì ư?
- Thưa mẹ, con chỉ có một câu hỏi: trong nhà dòng này có nhiều Thánh Giá không?
- Ồ, khắp nơi trong nhà dòng, chỗ nào cũng có Thánh Giá.
- Vậy thì thưa mẹ, con hy vọng sẽ không gặp khó khăn gì cả, bởi vì mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có Thánh Giá bên cạnh con. Con có thể chịu đựng được tất cả. (Góp nhặt).
2. Chúa nói thêm: “Ai không vác Thập Giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,38).
Mẹ Têrêsa nói: “Tình yêu thương, để tồn tại được, phải được nuôi dưỡng bằng sự hy sinh, đặc biệt là hy sinh bản thân mình. Hy sinh có nghĩa là đem cho đi ước nguyện của chúng ta, lý trí của chúng ta, cuộc sống của chúng ta với lòng tin bất diệt. Hy sinh cũng có nghĩa là tình yêu. Càng hy sinh nhiều, chúng ta càng yêu thương Thiên Chúa và nhân loại nhiều.
Ông Ngô Phụng sống vào thời vua Khang Hy nhà Thanh, được dân Đài Loan tôn kính như một vị thánh. Ông được triều đình nhà Thanh bổ nhiệm làm thông sự kiêm chức hương trưởng và trấn trưởng cai trị một bộ lạc dân sơn cước. Bộ lạc này sống trong mê tín dị đoan, hàng năm đều giết một người để tế thần.
Một lần nọ, Ngô Phụng cỡi ngựa vừa đi dạo để xem xét sự tình, bỗng ông nghe thấy từ phía xa xa, bên sườn núi trước mặt, có tiếng ồn ào, huyên náo. Ông phi ngựa tới thì thấy một cảnh hãi hùng bày ra trước mắt. Nơi gốc cây cổ thụ, một thiếu nữ bị trói chặt, miệng kêu gào thảm thiết. Người nữ tên là Sơn Tuệ Lân bị bộ lạc bắt để giết tế thần. Ngô Phụng lặng lẽ tiến đến bên gốc cây và đứng trước mặt thiếu nữ như muốn chết thay cho nàng. Thấy viên quan cai đến, anh tù trưởng rất sợ hãi. Ngô Phụng khuyên họ đừng giết người như thế. Họ thả cô Sơn Tuệ Lân và hứa sẽ không tế thần bằng cách giết người như vậy nữa. Từ đó cô Sơn Tuệ Lân dầu có người yêu, nhưng nguyện không lấy chồng để trả ơn, hầu hạ người cứu mình.
Một ngày kia, viên tù trưởng đến gặp Ngô Phụng, kể lể các thiên tai đang gây thiệt hại cho dân sơn cước của mình và xin Ngô Phụng cho phép giết một người để tế thần, hầu tránh cho dân chúng khỏi phải chịu sự trừng phạt của thần thánh. Ngô Phụng chấp thuận và nói với viên tù trưởng:
- Lúc sắp rạng đông đêm 10 tháng 8, về phía Đông Nam xóm Xã Khẩu, anh em sẽ thấy một người cỡi ngựa trắng, mặc áo đỏ đi qua. Anh em có thể giết người ấy để tế thần.
Viên tù trưởng trở về và chuẩn bị kế hoạch. Khi người cỡi ngựa trắng, mặc áo đỏ phi tới, dân sơn cước núp chờ sẵn đã bắn chết ngay người đó. Thi hành xong nhiệm vụ, bọn tráng niên chạy ùa tới bên xác chết, họ đều trố mắt kinh ngạc, vì người bận áo đỏ không ai xa lạ. Đó chính là Ngô Phụng, vị quan ân nhân của họ. Ngay lúc ấy, người con trai họ Ngô và cô em gái nuôi Sơn Tuệ Lân phi ngựa tới. Họ khóc ngất bên xác người cha.
Trước mặt dân sơn cước, con trai Ngô Phụng đọc tờ di chúc cho họ nghe, trong đó cho biết, ông Ngô Phụng dâng sớ lên triều đình xin miễn tội cho bọn đã bắn chết ông, và xin cải thiện đời sống của dân thiểu số, đồng thời cũng khuyên dân sơn cước từ đây trở đi nên bỏ hẳn tục lệ tế thần bằng mạng người. Nghe xong tờ di chúc, tù trưởng trong 48 thôn xóm lập tức nhóm họp và quyết định từ đây bãi bỏ tục lệ tế thần bằng mạng người. Họ dựng bia ở các bộ lạc để ghi nhớ người đã vì nghĩa hy sinh mạng sống.
Ngô Phụng chết đi để cho bao người được sống.
Cách đây gần hơn ngàn năm, Đấng Cứu Thế Giêsu đã đến trần gian, chịu chết để cứu cả nhân loại.
Câu chuyện trên làm cho tôi nhớ lại Lời của Chúa Giêsu: “Ta đến để cứu chứ không để hủy diệt”.
Vâng, Chúa đến để tìm cách cứu con người chứ không bao giờ muốn hủy diệt con người. Hủy diệt thì rất dễ nhưng Chúa không làm thế. Cứu chuộc thì khó nhưng Chúa lại chọn con đường này.
Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Côrôzain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi. "Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17). Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự. Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương. nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài. Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến. Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối, dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20). “Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtxaiđa!” Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn, trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân. Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13). Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường. Bếtxaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên. Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa. Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn. Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu, hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21). Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ. Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24). Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ. Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban? “Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.” Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Xơđôm. Xơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25). Ngài cho rằng Xơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm, hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23). Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận. Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn. Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu. Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa. “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26). Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ. Điều quan trọng là sám hối. Những ơn lộc Chúa ban cho đời Kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn. Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được. Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người, từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo. Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày? Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra. Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ. Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương. Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn. Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên. Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng. Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn. Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. -------------------------------
Tấm lòng chai đá vô tâm trước tiếng gọi thiêng liêng. Nghe mà không thấy vì ham mê trần thế, chỉ nghe được tiếng gọi trần tục. Tấm lòng chai đá vô ơn trước những ân huệ thiêng liêng vì mải mê tìm lợi lộc vật chất. Tấm lòng chai đá vô cảm trước sứ điệp sám hối vì không bao giờ chìm vào đáy sâu tâm hồn để biết vũng lầy tội lỗi xấu xa của mình, nên không ghê tởm mà tìm đường ăn năn trở về.
Ca-phác-na-um và Cô-rô-za-in là những thị trấn lớn, trung tâm thương mại sầm uất. Những tàn tích của hội đường còn lại cho thấy hai thị trấn này thật giầu có, vào thế kỷ thứ 1 mà đã có những công trình kiến trúc sang trọng và tinh xảo. Có lẽ vì giầu có nên họ mải mê với tiền bạc. Tâm hồn họ không tìm thấy lối thoát trong vòng xoay vừa khắc nghiệt, vừa mê đắm của tiền bạc. Chúa Giê-su đã lấy đó làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa đã làm ở đó biết bao phép lạ. Nhưng cư dân ở đó vẫn dửng dưng. Nên Chúa đã phải lên tiếng cảnh báo họ sẽ phải chịu cuộc xét xử nghiêm khắc hơn những nơi khác.
Cuộc đời Mô-sê là dấu chỉ. Công chúa Pha-ra-ô có tấm lòng mở rộng, nhậy cảm và quảng đại, nên đã đón nhận Mô-sê dù ông chỉ là một đứa trẻ của dân tộc nô lệ. Không những đón nhận, công chúa còn đưa ông vào cung điện để nuôi nấng dậy dỗ như một hoàng tử. Trong khi đó hai người đồng hương chỉ vì tự ái cá nhân đã chối từ ông. Có lẽ câu chuyện lạ lùng của Mô-sê đã được dân Do thái truyền tụng. Thế mà họ chẳng quan tâm đến ông, không chấp nhận lời khuyên giải có tình có lý của ông. Mà lại còn sinh lòng thù hận muốn làm hại ông. Thói tự ái kiêu căng cũng khiến tâm hồn họ ra vô cảm trước các giá trị thiêng liêng và cả trước vận mệnh dân tộc đang bị nô lệ nữa. Họ xứng đáng bị xét xử nghiêm ngặt hơn công chúa Pha-ra-ô (năm lẻ).
A-khat nhờ biết lắng nghe tiếng Chúa, trông cậy vào Chúa nên dù yếu kém, chẳng sợ gì liên quân Ít-ra-en và A-ram. Hai vua cậy vào sức mình sẽ bị Chúa trừng phạt. A-khat biết cậy trông vào Chúa sẽ được Chúa cứu (năm chẵn).
Xin cất khỏi mình con quả tim chai đá, ban cho con quả tim bằng thịt để con nhậy cảm trước Lời Chúa, trước các giá trị Tin Mừng và để con quảng đại thực hành Lời Chúa.
Văn minh càng tiến bộ, càng lôi kéo con người đến sa đọa và hủy hoại nền tảng gia đình và xã hội. Ngay từ thời xa xưa, các Tiên Tri trong Cựu Ước đã thấy được hiểm họa ấy. Việc chúc dữ các đô thị là một trong những đề tài nổi bật trong lời rao giảng của các ngài. Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là đối tượng của những lời rủa xả nặng nề nhất của các tiên tri. Những đô thị này không những là nơi phát sinh những sa đọa luân lý, mà còn là biểu tượng của óc tự mãn, sự tôn thờ ngẫu tượng của con người.
Chúa Giêsu cũng tiếp tục truyền thống tiên tri ấy khi Ngài lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển toàn diện con người.
Làng mạc, thành phố, đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng các tương quan và nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người phát triển, các đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối tương quan với Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu chỉ sự vắng bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng chỉ trong Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa người với người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.
Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Nguyện cho Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống, để khi mưu sinh và xây dựng xã hội, chúng ta biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc sống, đeo đuổi những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người.
Bài Tin Mừng hôm nay là lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với cư dân thuộc các thành phố tại miền Galilêa, nằm gần bờ hồ Tibêria. Ba thành phố đó là Khôradin, Bétxaiđa và Caphácnaum. Thành phố Khôradin nằm cách ba cây số về hướng đông bắc của Caphácnaum. Thành Bétxaiđa là quê hương của tông đồ Philiphê, Phêrô, Andrê - em ông Phêrô. Thành Caphácnaum được đặc biệt gọi tên là thành của Chúa Giêsu, nơi Chúa thường hay lui tới, sau những lần rao giảng Tin Mừng qua vùng phụ cận. Tắt một lời, đây là những nơi mà dân chúng ít nhiều đã chứng kiến tận mắt, và được hưởng phúc lành những phép lạ của Chúa, đã được nghe những lời giảng dạy của Người. Thế nhưng, không phải tất cả đều tin nhận Chúa.
Chúa Giêsu đã dành cho dân chúng tại ba thành phố nhiều ơn lành. Thế nhưng, họ không ý thức, không biết quý trọng lắng nghe, không thay đổi đời sống, trở lại với Người. Mục tiêu Chúa nhắm đến là sự ăn năn thống hối của những ai nghe lời Chúa, để lãnh nhận ơn cứu rỗi. Hơn nữa, sự tự phụ, kiêu ngạo của dân thành Capharnaum càng cao, thì sự hủy diệt họ càng nặng nề. Ân huệ được trao ban cho ai nhiều, thì người đó sẽ phải trả lẽ, phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu có thể được xem như là những lời tổng kết về kết quả của các vụ rao giảng của Chúa tại miền Galilêa. Chúa Giêsu đã thu nhập những môn đệ tại vùng này, nhưng đây chỉ là sự đáp trả của một thiểu số, còn đa số thì vẫn lơ là, không màng chi, dù được chứng kiến những phép lạ Chúa đã thực hiện. Những phép lạ này là dấu chỉ trên Nước Chúa,là lời cảnh tỉnh và thôi thúc con người ăn năn trở lại cùng Thiên Chúa: "Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần bên". Chuyện xưa còn mang tính thời sự cho ngày hôm nay, Lời Chúa và những việc kỳ diệu Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người, cách riêng trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Lòng ăn năn thống hối phải là bước đầu tiên chuẩn bị chúng ta tin nhận Chúa. Xin hãy thương ban cho con một quả tim mới, một tinh thần mới, để con đừng hoang phí hồng ân Chúa ban cho con.
Bấy giờ Người bắt đầu quả trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:
“Khốn cho các ngươi, hỡi Khô-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bét-xai-đa! Vì nhiều phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon,thì họ đã mặc vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối.” (Mt. 11, 20-21)
Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho người ta cùng một cách. Người hiện diện với những người này hơn với những người kia. Người nói rất rõ ràng cho người này, tối tăm khó hiểu cho người khác. Người luôn sử sự như vậy đó.
Khi Chúa Giêsu chưa đến ở giữa chúng ta, Thiên Chúa duy trì mối liên hệ đặc biệt với dân Ít-ra-en. Chẳng một dân tộc nào mà được Chúa dùng các ngôn sứ mà nói với họ, như đã nói với dân tộc này. Chẳng một dân tộc nào đã được nhìn xem kỳ công của Chúa, như Chúa đã dùng mà tỏ mình ra cho dân tộc này vậy. Đường lối ấy, Chúa vẫn tiếp tục. Khi Đức Giêsu đã sinh ra-Xứ Pa-lét-tin lại được Chúa ưu đãi. Nhưng Chúa Giêsu cũng không tỏ mình đồng đều ở khắp nơi. Chúa đã làm nhiều phép lạ hơn, và giảng dạy rõ ràng hơn ở những miền này hơn là những miền kia.
Chúa làm như vậy để gây hiệu quả. Đến ngày phán xét, những ai đã lãnh nhiều, sẽ bị đối xử nghiêm nhặt hơn. Chỉ là công bình thôi. Cho ai nhiều hơn thì đòi người ấy nhiều hơn.
Chúng ta hãy coi chừng
“Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Chúa phán, khốn cho ngươi hỡi Bét-xai-đa! Khốn cho ngươi, hỡi Ca-phác-na-um!…vì đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” Lời đe dọa này thật dễ hiểu. Những thành phố này đã lãnh nhận nhiều hơn từ nơi Chúa Kitô. Nhưng chính họ lại tỏ ra lì lợm và cứng lòng tin hơn. Họ phải gánh lấy hậu quả vì không đón nhận Người và tin vào Người.
Chúng ta đang sống trong một đất nước mà đức tin Kitô giáo đã phát triển tứ lâu năm và sâu xa. Những cơ may cho ta gặp gỡ Đức Kitô và nhận biết Phúc âm đã và vẫn còn rất nhiều. Có thể là lời đe doạ của Đức Kitô cũng nói cho chúng ta hôm nay chăng?
Ckgđ 601 Sự cố ngày 11-09-2001 tại nước Mỹ khi tòa nhà tháp đôi sụp đổ và cướp đi sinh mạng của biết bao nhân tài đã làm cho cả thế giới phải sững sờ! Tại sao một đất nước nổi tiếng về an ninh, khoa học... lại để xảy ra biến cố đáng tiếc này? Sau hàng loạt những câu hỏi nhằm thỏa mãn sự thắc mắc tự nhiên của con người, thì câu hỏi quan trọng nhất và cũng là gốc rễ, căn nguyên của vấn đề được đưa ra, câu hỏi đó là: “Tại sao Thiên Chúa cho phép xảy ra một thảm họa kinh hoàng như vậy?” Và người ta nhận được câu trả lời của một người dân: “Tôi nghĩ Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, bởi vì từ nhiều năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học và đời sống của chúng ta. Như thế, chúng ta làm sao có thể mong Chúa can thiệp khi ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình!”.
Thật vậy, tội lớn nhất của con người ngày hôm nay chính là tội không tin có Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa có thật, thì người ta cũng muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Vì thế, đã có một thời người ta tuyên bố rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!”. Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là lời giải đáp cho mọi vấn đề, và lúc đó, khoa học sẽ trở thành nấm mồ chôn vùi Thiên Chúa!
Thật vậy, con người ngày nay ảo tưởng và ngây ngô khi nghĩ rằng: “Một tay che kín cả bầu trời” nên không cần có Thiên Chúa nữa. Họ muốn loại bỏ tôn giáo và tự tin trong thế giới thực nghiệm. Nền tảng của họ được xây dựng thuần túy trên những phát minh khoa học. Đây là những lựa chọn sai lầm.
Nên biết rằng: Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất của mọi vấn đề. Lời Chúa phải là nền tảng để khám phá, xây dựng và phát minh. Một nhà nghiên cứu khoa học chân chính sẽ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa ngay trong công trình khảo cứu của mình. Thật vậy, chính nhà bác học Newton đã nhìn nhận: “Tôi thấy Thiên Chúa đi qua ống kính viễn vọng của tôi!”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sám hối để được ơn tha thứ. Phải từ bỏ thái độ chai lỳ, vô ơn và bất kính trước những ơn lành mà Ngài đã ban xuống trên cuộc đời, trong gia đình, nơi Giáo xứ và ngoài xã hội. Đừng giả điếc làm ngơ; đừng kiêu ngạo, tự phụ và ích kỷ, khiến cho Lời Chúa bị bóp nghẹt và không trổ sinh hoa trái được.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho chúng con. Xin cho chúng con biết sám hối, nhạy bén để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành để khỏi bị khiển trách như dân thành Khoradin, Bethsaiđa và Capharnaum. Amen.
Sứ điệp: Chúa ban cho ta rất nhiều hồng ân mà những người khác không được. Phải biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa: hoán cải và sống theo Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa tưới gội cuộc đời con bằng muôn vàn hồng ân. Chúa cho con được sống, được sống mạnh khoẻ, an vui hạnh phúc. Và ngay cả bệnh tật khổ đau cũng chính là quà tặng của tình yêu Chúa dành cho con. Nhưng nhất là Chúa cho con được biết Chúa, được nghe lời Tin Mừng yêu thương, được gặp Chúa và lãnh nhận ơn thánh qua các bí tích, được sống trong Hội Thánh. Con không thể nào kể hết những hồng ân con đang lãnh nhận.
Nhưng lạy Chúa, cũng như những người Do Thái ngày xưa, con đã không nhận ra tình thương Chúa để sống cho xứng đáng. Rất nhiều lúc con đã thờ ơ coi thường Chúa, rất nhiều lúc con đã cứng lòng gạt Chúa ra khỏi cuộc đời con. Rất nhiều lúc con xem việc theo Chúa như là một gánh nặng.
Con thực sự cảm thấy xấu hổ khi nhìn thấy nhiều người lương dân sống tốt hơn con. Nếu họ được hồng ân biết Chúa như con, chắc chắn họ còn thánh thiện hơn con bội phần.
Lạy Chúa, xin Chúa tha thứ cho sự cứng lòng và vô tâm của con. Mỗi một hồng ân là một dấu hiệu của tình thương Chúa. Xin Chúa giúp con luôn nhận ra tiếng gọi của tình yêu Chúa để con ăn năn sám hối thay đổi đời sống. Xin giúp con biết tận dụng những ơn Chúa ban để ngày ngày con lớn lên trong đời sống đức tin và đức mến. Chúa đi qua đời con, giơ tay vẫy gọi dồn dập, con nguyện bước theo Chúa và sống xứng đáng với tình thương Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi”.
Một bé gái rất nghịch ngợm. Vì bé không chịu nói xin lỗi nên bà mẹ đã phạt bằng cách cất hết đồ chơi và bắt nằm trên giường.
Tan sở về, người cha lên lầu thăm bé và nói: “Chỉ cần con xin lỗi, mẹ sẽ cho ăn và trả lại đồ chơi”.
Cô bé ngước nhìn với vẻ cương quyết, không chút hối hận, và nói: “Ba ạ, họ lấy đồ chơi của con, không cho con ăn tối, nhưng họ không thể lấy đi những suy nghĩ của con!”. Dù thế nào đi nữa, bé vẫn khăng khăng giữ những ý nghĩ của mình.
Hối hận thật cần thiết!
Suy niệm
Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn là những đô thị sầm uất nhưng cũng là đối tượng của các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng, vật chất, hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang… Tiếp tục truyền thống ngôn sứ, Chúa Giêsu lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida và Capharnaum nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Cuộc sống vật chất sung túc nơi các thành phố sầm uất này, làm cho con người không chỉ sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ giảng dạy kèm theo các phép lạ phi thường như là dấu chỉ thời đại nước Thiên Chúa đang đến.
Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các thành phố Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn Tyrô và Siđon - những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4, 4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các thành phố Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum bị hình phạt nặng hơn Tyrô Siđon và Sôđôma vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.
Không tin, loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, làm lòng người trống rỗng vắng bóng Ngài như lòng các dân đô thị xa xưa cùng với các hậu quả…
Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở chúng ta biết rằng chỉ tin vào Thiên Chúa, con người mới biết đặt Thiên Chúa vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.
Ý lực sống:
Để tâm suy nghĩ: “Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi” (x. Mt 11,22).
Chúa Giêsu khiển trách các dân Khoradin, Bếtsaiđa và Capharnaum. Các thành này đã chứng kiến “phần lớn các phép lạ” Ngài đã làm. Thế nhưng họ không hối cải. Tại sao? Vì họ kiêu căng. Ta cũng nên biết rằng so với các thành khác, những thành này có trình độ kiến thức Thánh kinh cao hơn. Khi thấy sự kiêu căng đã khép kín lòng họ, Chúa Giêsu nghĩ tới những kẻ “bé mọn” nhờ khiêm tốn mà nhận được mạc khải của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu cho biết những người dân thành ấy sẽ chịu án phạt nặng nề hơn cả án phạt mà xưa Đức Chúa đã giáng xuống thành Sôđôma.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin!”
Khi lên án hai thành này, Chúa Giêsu kết án thái độ cứng lòng tin của họ trước Lời rao giảng và những phép lạ Ngài làm. Ngài cũng cảnh báo với họ là, đến ngày phán xét, họ sẽ không còn lý do gì để bào chữa nữa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một so sánh: ”Nếu dân Tia và Siđon xưa được chứng kiến phép lạ như họ thì những dân ấy đã ăn năn thống hối rồi”.
Đây cũng là một cảnh báo cho mọi người chúng ta, không ít trong chúng ta vẫn chai cứng trong tội lỗi, mặc dù mỗi ngày trong Thánh lễ và các cử hành phụng vụ, chúng ta được nghe rao giảng, được kêu gọi cải thiện đời sống, được chứng kiến bao nhiêu kỳ công của Chúa và những phương thế hữu ích nơi các bí tích và lề luật giúp ta sống đạo. Để rồi một ngày kia trước tòa phán xét, chúng ta không còn lý do gì để bào chữa; chúng ta còn đáng án phạt nặng hơn những người ngoại không được nghe biết Tin mừng.
“Nếu các phép lạ đã làm nơi người mà...”
Chúa Giêsu đã rảo qua các thành phố ở bờ hồ Giênêzaret, để rao giảng và làm nhiều phép lạ nhằm kêu gọi con người hối cải. Sự sai lầm có thể biện minh bằng việc không nghe không thấy. Nghe và nhìn là bằng cớ tố cáo lỗi lầm. Án phạt của các thành Khoradin, Bếtsaiđa, Capharnaum là ở đó. Đong đấu nào, sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Có trao ban là có quyền mong đợi đáp trả: đáp trả bằng tiếng không thì cũng chẳng mong gì được ở lòng thương xót. Nói một cách nào đó, tiếng không này có thể gọi là tội: có những tội tích cực biểu lộ qua hành động, qua việc sa lầy trong tội; có những tội tiêu cực biểu lộ qua thái độ dửng dưng, làm ngơ, một thái độ như thế cũng đủ bị kết án rồi (Mỗi ngày một tin vui).
“Sự cố ngày 11/09/2001 tại Mỹ”
Khi Toà nhà tháp đôi bị sụp đổ và cướp đi sinh mạng của biết bao nhân tài đã làm cho cả thế giới phải sững sờ! Tại sao một đất nước nổi tiếng về an ninh, khoa học... lại để xảy ra biến cố đáng tiếc này? Sau hàng loạt những câu hỏi nhằm thỏa mãn sự thắc mắc tự nhiên của con người, thì câu hỏi quan trọng nhất và cũng là gốc rễ, căn nguyên của vấn đề được đặt ra, câu hỏi đó là: “Tại sao Thiên Chúa cho phép xảy ra một thảm họa kinh hoàng như vậy?” Và người ta nhận được câu trả lời của một người dân: “Tôi nghĩ Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, bởi vì từ nhiều năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học và đời sống của chúng ta. Như thế, chúng ta làm sao có thể mong Chúa can thiệp khi ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình”.
Thật vậy, tội lớn nhất của con người ngày hôm nay chính là tội không tin có Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa có thật, thì người ta cũng muốn loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Vì thế, đã có một thời người ta tuyên bố rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!” Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là lời giải đáp cho mọi vấn đề, và lúc đó, khoa học sẽ trở thành nấm mồ chôn Thiên Chúa (Ngọc Biển).
Phải biết tận dụng cơ hội
Dù bạn không phải là “fan” bóng đá, hẳn bạn cũng xuýt xoa tiếc rẻ cho một đội bóng “toàn sao” sau 90 phút thi đấu với không biết bao nhiêu cơ hội ăn bàn mười mươi, nhưng lại để vuột trôi qua trước mũi giày mà không thể chuyển thành bàn thắng và rồi bị thủng lưới trong những phút đá bù giờ. Quy luật trong bóng đá là thế: đội bóng nào không biết tận dụng cơ hội, đội đó sẽ chuốc lấy thất bại.
Theo dòng thời sự để ví von, cũng có thể nói như thế. Các đội bóng Khoradin, Capharnaum, Betsaiđa, với biết bao cơ hội là những phép lạ thực hiện ở giữa họ mà họ không “ghi được bàn thắng” trước đối thủ là sự ác, ắt là họ sẽ không thoát khỏi thất bại ê chề: chính họ sẽ bị trầm luân. Chả bù với các “đội” Tia và Siđon, giá mà họ chỉ có được một nửa cơ hội như thế thôi, ắt họ đã ghi bàn quyết định là sám hối ăn năn và lãnh nhận được ơn cứu độ rồi (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Lời Chúa nhắc nhở
Trong cuốn nhật ký của một người thanh niên đạo đức, người ta tìm thấy những dòng tự thuật như thế này:
“Bước ra khỏi nhà sách một ít, tôi nhận ra số tiền dư mà chị bán hàng mới đưa lộn cho tôi. Lương tâm tôi nhắc phải sống công bằng. Nhưng tôi đã tự trấn an: “Nhằm nhò gì ba cái lẻ đó. Hơn nữa đó là lỗi của người khác chứ đâu có phải là lỗi của tôi”. Và tôi tiếp tục bước đi.
Tới nửa đoạn đường, chân tôi cứng lại như có một sức mạnh nào đó níu kéo lại, khi tự đáy lòng tôi Lời Chúa vang lên: “Khốn cho ngươi”. Tôi tự nghĩ: chắc hẳn Chúa đang buồn vì hành động của tôi, vì tôi đã biết Chúa nhiều. Sau giây phút ngập ngừng, tôi quyết định trở lại hiệu sách và hoàn lại số tiền cho chị. Chị nhìn tôi, cười thật tươi sau tiếng cám ơn. Chưa bao giờ tôi cảm thấy được nhẹ nhàng cả người như thế.
Chúa Giêsu khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Khônradin, Bétsaiđa và Cáphácnaum.
Các thành này đều chứng kiến ”phần lớn các phép lạ” Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng họ không hối cải. Tại sao? vì họ kiêu căng. Ta cũng nên biết rằng so với các thành khác, những thành này có trình độ kiến thức Thánh Kinh cao hơn (x. câu 23: “Ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư?”). Khi thấy sự kiêu căng đã khép lòng họ, Chúa Giêsu nghĩ tới kẻ “bé mọn” nhờ khiêm tốn mà nhận được mặc khải của Thiên Chúa. Bởi thế, trong đoạn tiếp liền sau, Chúa Giêsu sẽ cảm tạ Thiên Chúa “Vì đã dấu không cho những bậc thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn”. (Câu 25).
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. “Khi ấy Chúa Giêsu khiển trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm mà không chịu sám hối”: Phép lạ này là để khơi dậy lòng sám hối, vì phép lạ cho người ta thấy việc kì diệu của Chúa, rồi vì nhìn lại thấy mình bất xứng với Chúa nên phải sám hối để xứng đáng với Chúa hơn.
2. Thời vua Luis 13 đang trị vì nước Pháp, ngày kia hoàng hậu Anne d’Autriche mở tiệc đãi khách. Hôm đó bà đeo sợi dây chuyền bằng ngọc. Thánh Vincent de Paul có mặt trong bữa tiệc đó, đã nói với bà: “Thưa hoàng hậu, nếu bà muốn bà có thể làm một phép lạ”.
Hoàng hậu nhìn thánh nhân với vẻ đầy kinh ngạc. Thánh nhân nói tiếp: “Vâng, bà có thể đổi viên ngọc này thành bánh mì giúp những người nghèo đói”. Vài giờ sau, phép lạ đã xảy ra: Hoàng hậu trao cho thánh Vincent được Paul sợi dây chuyền ấy để bán lấy tiền mua bánh mì cho người nghèo.
Ngày nay vẫn xảy ra những phép lạ tương tự, hiểu theo nghĩa những việc kì diệu được thực hiện do ơn Chúa tác động. Khi thấy những “phép lạ” bác ái, hy sinh do người khác làm, tôi có sám hối về lòng ích kỷ của mình không?
3. Những thành ven biển hồ được nghe Lời Chúa và được chứng kiến các phép lạ của Ngài nhiều hơn những vùng khác. Lẽ ra họ phải tin Chúa hơn những nơi khác. Nhưng vì họ không tin nên hình phạt của họ nặng hơn những nơi khác. Ai nhận lãnh nhiều nén bạc hơn thì có trách nhiệm nhiều hơn.
Tôi cũng nhận lãnh nhiều nén bạc hơn nhiều người khác. Đó là đặc ân của tôi nhưng cũng là trách nhiệm của tôi.
4. Có nhiều kiến thức về Chúa chưa hẳn đã ích lợi hơn là không có kiến thức nhưng lại có tâm hồn biết ngưỡng mộ những kì công của Chúa.
5. Bước ra khỏi nhà sách một ít, tôi nhận ra số tiền dư mà chị bán hàng đưa lộn, lương tâm tôi nhắc tôi phải sống công bằng. Nhưng tôi đã tự trấn an “nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ. Hơn nữa đó là lỗi của người khác chứ đâu phải là lỗi của tôi”. Và tôi tiếp tục bước đi.
Tới nửa đoạn đường, chân tôi cứng lại như có một sức mạnh nào đó níu kéo, khi tự đáy lòng tôi Lời Chúa vang lên “Khốn cho ngươi”. Tôi tự nghĩ: chắc hẳn Chúa đang buồn vì hành động của tôi, vì tôi đã biết Chúa nhiều. Sau giây phút ngập ngừng, tôi quyết đinh trở lại hiệu sách và đưa số tiền cho chị. Nhìn chị cười tươi sau tiếng cám ơn tôi cảm thấy nhẹ cả người.
Lạy Chúa, đó không phải chỉ là niềm vui của Chúa mà còn là niềm hạnh phúc của con. Xin cho con luôn can đảm thực thi những Lời Chúa đòi hỏi, vì Chúa là Đấng công mình. (Hosanna)
1. Chúa Giêsu khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Corazin, Bethsaida và Capharnaum.
Các thành này là những thành đã chứng kiến “phần lớn các phép lạ” Chúa Giêsu làm. Thế nhưng, họ không hối cải. Tại sao? Vì họ kiêu căng nên lòng họ đã khép lại trước những việc Chúa làm nên Chúa đã bỏ họ mà nghĩ tới những kẻ “bé mọn”, nhờ khiêm tốn mà nhận được mặc khải của Thiên Chúa. Bởi thế, trong đoạn tiếp liền sau, Chúa Giêsu sẽ cảm tạ Thiên Chúa “Vì đã giấu không cho những bậc thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25).
Vâng, được nghe Lời Chúa và được chứng kiến các phép lạ Chúa làm nhiều hơn những vùng khác, lẽ ra họ phải tin Chúa nhiều hơn. Nhưng vì họ không tin nên hình phạt của họ sẽ nặng hơn. Ai nhận lãnh nhiều nén bạc hơn thì có trách nhiệm nhiều hơn.
Vâng, ai nhận lãnh nhiều nén bạc hơn thì có trách nhiệm nhiều hơn. Đó là luật công bằng. Có thì phải biết cho đi.
Thời vua Luis 13 đang trị vì nước Pháp, ngày kia hoàng hậu Anne d’Autriche mở tiệc đãi khách. Hôm đó bà đeo một sợi dây chuyền bằng ngọc. Thánh Vincent de Paul cũng có mặt trong bữa tiệc đó. Ngài đã nói với bà:
- Thưa hoàng hậu, nếu bà muốn bà có thể làm một phép lạ.
Hoàng hậu nhìn thánh nhân với vẻ đầy kinh ngạc. Thánh nhân nói tiếp:
- Vâng, bà có thể đổi viên ngọc này thành bánh mì giúp những người nghèo đói.
Vài giờ sau, phép lạ đã xảy ra: Hoàng hậu trao cho thánh Vincent de Paul sợi dây chuyền ấy để bán lấy tiền mua bánh mì cho người nghèo.
Ngày nay vẫn xảy ra những phép lạ tương tự, hiểu theo nghĩa những việc kì diệu được thực hiện do ơn Chúa tác động. Khi thấy những “phép lạ” bác ái, hy sinh do người khác làm, tôi có sám hối về lòng ích kỷ của mình không?
2. “Khốn cho ngươi hỡi Corazin! Khốn cho ngươi hỡi Bethsaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm ở Tyrô và Siđôn thì họ đã mặc vải thô, rắc tro lên đầu và tỏ lòng sám hối” (Mt 11,21). Lời quở trách quả có nặng nề nhưng nó nói lên tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Biết nhiều về Chúa mà không cố gắng trở nên giống Chúa, phải coi đó là một thiếu sót vô cùng lớn lao. Chúa chẳng mong chờ chúng ta cái gì lớn hơn là chính cuộc sống giống như Chúa của chúng ta.
Trong cuốn nhật ký của một người, người ta tìm thấy những dòng tự thuật như thế này: “Bước ra khỏi nhà sách một ít, tôi nhận ra số tiền dư mà chị bán hàng đưa lộn. Lương tâm tôi nhắc tôi phải sống công bằng. Nhưng tôi đã tự trấn an “nhằm nhò gì ba cái lẻ đó. Hơn nữa đó là lỗi của người khác chứ đâu phải là lỗi của tôi”. Và tôi tiếp tục bước đi.
Tới nửa đoạn đường, chân tôi cứng lại như có một sức mạnh nào đó níu kéo, khi tự đáy lòng tôi Lời Chúa vang lên “Khốn cho ngươi”. Tôi tự nghĩ: chắc hẳn Chúa đang buồn vì hành động của tôi, vì tôi đã biết Chúa nhiều. Sau giây phút ngập ngừng, tôi quyết định trở lại hiệu sách và hoàn lại số tiền cho chị. Nhìn chị cười tươi sau tiếng cám ơn tôi cảm thấy nhẹ cả người.
Cũng trong tập hồi ký của mình, thủ tướng của nước Anh thời đệ nhị thế chiến là ông Winston Churchill đã kể lại một câu chuyện như sau:
Cha mẹ ông đưa ông về Scotland nghỉ hè. Ngày nọ, cậu bé Winston đang tắm trong một dòng sông gần nhà, thì chân cậu bị vọp bẻ. Cậu kêu la thất thanh. Nghe tiếng kêu, một cậu bé trai từ nông trại gần bên đã vội chạy đến và nhảy ngay xuống sông cứu Winston.
Cảm động vì nghĩa tử của cậu bé, ngày hôm sau, cha mẹ của Winston đã tìm đến nông trại để cám ơn cậu bé. Ông hỏi cậu bé lớn lên sẽ làm gì, cậu bé đáp:
- Cháu nghĩ rằng, cháu sẽ tiếp tục nghề nông của ba cháu.
Cha của Winston gợi ý:
- Cháu không có hoài bão nào khác hơn ư?
Cậu bé đáp:
- Cháu luôn mơ ước được làm một bác sĩ, nhưng nhà cháu nghèo như thế này thì lấy tiền đâu cho cháu đi học.
Nghe thế, ông bố của Churchill liền hứa hẹn:
- Cháu đừng lo, hoài bão của cháu sẽ được thực hiện, bác sẽ giúp cháu.
Winston Churchill sau này trở thành thủ tướng nước Anh. Năm 1934, trong chuyến công tác tại Bắc Phi, ông bị sưng cuống phổi trầm trọng. Bác sĩ riêng của ông, người đã khám phá ra thuốc Peniciline đã chữa trị cho ông. Đây là lần thứ hai bác sĩ này đã cứu mạng cho Winston Churchill, bởi vì cậu bé đã từng cứu Winston khỏi chết đuối năm xưa không ai khác hơn là cậu bé nhà nghèo có tên Alexandre Flenmming, mà nay là bác sĩ riêng của thủ tướng.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng tâm hồn để đón lấy những hồng ân Chúa ban.
Đồng thời xin cho con biết luôn can đảm để thực thi điều Chúa đòi hỏi, để cuộc đời chúng con là lời ca tụng Chúa. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu. Đó là một lời tạ ơn, một lời ngợi khen của Con dâng lên Cha. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa bằng từ Abba thân thương gần gũi, nhưng Thiên Chúa ấy cũng là Đấng siêu việt ngàn trùng, Đấng quyền uy tối thượng, Chúa Tể cả trời đất (c. 25). Đức Giêsu ca ngợi Cha vì hành vi mặc khải của Cha cho con người. Cha có một kế hoạch cứu độ nhân loại qua Con của Cha là Đức Giêsu. Và Cha muốn vén mở kế hoạch đó cho con người biết. Có những người đã thành tâm đón nhận, và có những người cố ý từ chối. Nhưng tất cả đều không nằm ngoài chương trình của Cha (c. 26). Lối nói kiểu Do thái của Đức Giêsu có thể khó hiểu đối với ta ngày nay: “Cha đã giấu các điều này trước những người khôn ngoan thông thái.” Thật ra, chẳng phải Thiên Chúa ghét bỏ hay phân biệt đối xử, vì Ngài muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4). Chẳng phải Cha ghét bỏ các người khôn ngoan và cổ võ sự ngu dốt. Ngài cũng không che giấu mầu nhiệm Nước Trời trước một ai. Nhưng quả thật ai tự hào, tự mãn với hiểu biết khôn ngoan của mình, và khép lại trước những gì vượt quá trí hiểu nông cạn của họ, người ấy sẽ không có cơ may đón nhận được mặc khải của Thiên Chúa. Một số kinh sư và người Pharisêu giỏi giang về Sách Thánh và truyền thống, đã không thể đón nhận được cái hoàn toàn mới mẻ nơi giáo lý Đức Kitô, vì họ quá bám víu vào cái biết cũ mà họ coi là tuyệt đối. Nhưng các người bé mọn, ít tri thức và sách vở, lại dễ dàng đón nhận hơn. Họ hồn nhiên mở ra trước mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Chính vì thế họ biết được những điều sức người không thể nào đạt tới. Câu cuối (c. 27) là một mặc khải lớn của Đức Giêsu trong tư cách là Con. Ngài cho thấy giữa Cha và Con có sự hiểu biết nhau cách độc nhất vô nhị. “Không ai biết rõ Con trừ ra Cha và không ai biết rõ Cha trừ ra Con…” Sự hiểu biết nhau thân tình và sâu xa này như thể tạo ra một thế giới riêng giữa Cha và Con. Muốn biết Cha phải nhờ Con, Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền mặc khải. Hơn nữa, muốn biết Con cũng phải nhờ Cha mặc khải. Phêrô phải nhờ Cha mới biết được Đức Giêsu là ai (Mt 16, 17). Nói chung Cha và Con làm nên một thế giới riêng tư, nồng ấm. Nhưng thế giới ấy lại không khép kín, mà mở ra để mời con người vào. Cha và Con đều muốn mặc khải thế giới ấy cho con người. Cha đưa ta gặp Con, Con đưa ta gặp Cha. Chỉ cần gặp Con hay Cha là có thể bước vào thế giới đó, để gặp cả Cha và Con. Chị Edit Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ. Chị đậu tiến sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức. và là người cộng tác với ông tổ của Hiện tượng luận là triết gia Husserl. Việc tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo. Chị đã đi tu Dòng Kín Cát Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã. Chị Bênêđícta Thánh Giá được phong thánh năm 1998 bởi Đức Gioan Phaolô II. Sự thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen. ---------------------------------------
“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”. Chúa Giê-su dùng lời kinh long trọng này để cho ta hiểu biết một chân lý: Thiên Chúa là chủ tất cả. Mọi sự ta có đều là của Người ban cho. Chính vì thế tâm tình ta phải có là tâm tình khiêm nhường bé nhỏ. Đó chính là tâm tình của công dân Nước Trời. Những thái độ tự cao tự đại hoàn toàn trái ngược, không thích hợp, và sẽ không được đón nhận vào Nước Trời.
Những ai tự hào mình khôn ngoan thông thái hãy cẩn thận. Ngay trí khôn họ không thể tự mình có được. Trí khôn là do Thiên Chúa ban cho. Vì thế có gì mà đáng tự hào. Và nếu trí khôn không đưa đến Nước Trời thì cũng vô ích. Hiểu biết về Nước Trời là sự khôn ngoan vượt trên mọi sự khôn ngoan. Nhưng mầu nhiệm Nước Trời chỉ có Thiên Chúa nắm giữ. Và Người muốn mặc khải cho ai tùy ý. Và Người lại mặc khải cho những kẻ bé mọn. Vì thế bé mọn chính là thái độ khôn ngoan thông thái nhất.
Hai bài đọc Cựu Ước minh họa chân lý này. Át-sua hùng mạnh chính là do Thiên Chúa ban. Để làm cây roi của Chúa mà trừng phạt những sai lỗi của các nước nhỏ. Nhưng Át-sua không ý thức điều đó. Tưởng là cường thịnh do sức riêng. Nên Thiên Chúa sẽ hạ bệ nó xuống, tước bỏ hết sức mạnh mà nó tự hào. Chúa sẽ hạch tội nó: “Cái rìu lại tự cao với kẻ cầm rìu mà chặt hay cái cưa tự đại với người kéo cưa sao? Như thể ngọn roi kéo được kẻ giơ nó lên, cây gậy nhấc được kẻ không phải là gỗ vậy” (năm chẵn).
Mô-sê dù đã được học hết mọi sự khôn ngoan trong cung điện vua Ai cập. Dù đã kiên trì thanh luyện 40 năm trong sa mạc. Vẫn phải có thái độ khiêm nhường. Cởi bỏ dép. Khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa trong bụi gai cháy đỏ. Chính với thái độ khiêm nhường, dễ dậy đó nói lên tâm tình khiêm nhường của Mô-sê. Tâm tình khiêm nhường nói lên lòng khao khát đón nhận mầu nhiệm. Nhờ đó Mô-sê đã được Thiên Chúa bày tỏ mầu nhiệm. Cho ông biết tên Thiên Chúa. Cho ông biết chương trình của Người. Và cho ông được tham dự vào chương trình đó. Và vì ông khiêm nhường đón nhận, ông trở thành người lãnh đạo thiết lập Dân Thiên Chúa, ban lề luật cho Dân Thiên Chúa (năm lẻ).
Lạy Chúa con chỉ là hư vô. Mọi sự con có đều là của Chúa. Mọi sự con là cũng là bởi Chúa. Xin dạy con biết khiêm nhường để xứng đáng được Chúa dậy bảo.
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.
Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: "Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn".
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người.
Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm tốn, mến yêu. Xin cho chúng ta biết sống theo sự soi sáng của Thánh Thần để đến với Chúa và anh em.
Con người có thể khước từ Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người, không bao giờ ngưng mời gọi con người trở về lãnh nhận ân sủng và sự thật Người ban cho nhưng không: "Hết thảy những ai mệt mỏi và vất vả hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, ủi an". Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt một ai, nhưng từ phiá con người, khi đáp lại lời mời gọi của Chúa, mỗi người chúng ta có thể có một trong hai thái độ: thái độ đơn sơ, khiêm tốn đón nhận Chúa để cho Ngài hướng dẫn dạy dỗ; hoặc ngược lại, thái độ tự cao của kẻ cho mình là khôn ngoan, không cần đến Thiên Chúa.
Những kẻ khôn ngoan thông thái mà Chúa Giêsu nhắm đến trong đoạn Tin Mừng trên đây là những người biệt phái tinh thông Lề Luật và lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo của dân Israel. Có thể nói, những kẻ khôn ngoan thông thái này đến với Chúa bằng con đường hiểu biết, nhất là sự thông thái Lề Luật Môsê. Họ nghĩ rằng chỉ cần am tường những Lề Luật của Môsê là họ có thể đến với Thiên Chúa. Họ ỷ lại vào sự hiểu biết và sự tự phụ cho mình biết rõ Thiên Chúa, nhưng thật ra, họ đang xa lìa Ngài.
"Lạy Cha, con chúc tụng Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã giấu những điều đó ngoài những kẻ khôn ngoan thông thái, nhưng lại mạc khải cho chúng con, những kẻ bé mọn". Mỗi người chúng ta cần trở nên bé nhỏ đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm để cảm mến và sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðức tin Kitô hướng ta đến gặp một con người cụ thể, một vì Thiên Chúa chấp nhận đến với con người. Ðức tin Kitô không dựa trên những lý lẽ thần học cao siêu. Ðức tin là một hồng ân cần được khiêm tốn đón nhận hơn là kết quả của cuộc sống sưu tầm trí thức.
Thánh Têrêsa Avila tuy không được học hành nhiều nhưng có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa. Thánh nữ đã trình bày những kinh nghiệm thiêng liêng của mình cách tốt đẹp đến độ Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố thánh nữ là tiến sĩ của Giáo Hội, bởi vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quý báu giúp các thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, đoạn Tin Mừng hôm nay không có ý nói là Chúa Giêsu hoàn toàn loại bỏ những nhà thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh rằng những ai ỷ lại vào sự hiểu biết thông thái của mình, thì sẽ không đến được với Thiên Chúa. Không thiếu những trường hợp có sự hài hòa giữa sự thông thái và đức tin Kitô như thánh Thomaso thành Aquino. Trong mọi trường hợp, thái độ khiêm tốn chấp nhận để cho Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
Lạy Chúa,
Xin thương mở rộng tâm hồn cho con được lắng nghe Lời Chúa với hết lòng khiêm tốn và biết ơn. Xin thương giúp con sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để đến với Chúa và anh chị em một cách dễ dàng và sâu xa hơn.
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mắc khải cho những người bé mọn.” (Mt. 11, 25)
Không giống như mọi người
Thiên Chúa không hành động như phần đông người ta, không suy nghĩ như họ, không xét đoán theo cùng tiêu chuẩn như họ.
Đối với phần đông, quy luật chung vẫn là: “Mạnh được yếu thua.” Người giầu có nhiều cơ may thăng tiến, kẻ nghèo thì họa chăng mới được, người khôn ngoan thông thái được mọi người kính trọng, hạng thứ dân ít học vốn bị coi thường. Kẻ có tiền, có quyền giống như: “Miệng quan có gang có thép.” Kẻ trắng tay lý lẽ cũng không. Ai có địa vị, người ấy có quyền ăn quyền nói, kẻ thấp hèn lên tiếng chẳng ai nghe.
Nhưng đối với Chúa lại khác hẳn, kẻ làm đầu phải trở lên người rốt hết, người rốt hết sẽ lên kẻ đứng đầu. Người mạnh trở lên yếu, kẻ yếu được lên mạnh, những bậc khôn ngoan thông thái đã bị giấú không cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, trong khi những kẻ bé mọn lại được Chúa mặc khải cho những thực tại tuyệt vời ấy.
Lời tiên báo cho những kẻ bé mọn.
Khi thấy những người khôn ngoan thông thái bịt tai không nghe những lời giáo huấn của Chúa, còn những kẻ bé mọn lại dễ dàng tiếp nhận, Chúa Giêsu trong trạng thái hứng khởi, liền cất tiếng ngợi khen Cha.
Những kẻ bé mọn mà Phúc Âm nói đến ở đây, ta có thể gặp họ ở khắp nơi. Đó là những con người ít được học hành. Những người chẳng có địa vị cao trong xã hội, những người không thành đạt mấy trong cuộc đời, những người sống khiêm tốn. Họ có được sự nhạy bén để mở lòng ra đón nhận những sự thuộc về Chúa, một sự nhạy bén mà những người khác không có.
Nhưng những kẻ bé mọn của Phúc Âm cũng có thể là những người khôn ngoan và thông thái chân thật. Tuy nhiên không phải bất cứ người khôn ngoan thông thái nào cũng là chân thật cả. Mà chỉ có những ai không vênh vang kiêu hãnh về sự hiểu biết và khôn ngoan của mình mới là những người khôn ngoan thông thái chân thật. Chỉ có những người ấy mới có được tâm hồn của những kẻ bé mọn vậy.
Xem lại CN 24 TN A // lễ Thánh Tâm A //và lễ thánh Phan-xi-cô At-si-di ngày 4/10.
Để cảnh báo tác hại của rượu, một nhà khoa học đã làm một thí nghiệm trong một cuộc hội thảo. Ông bỏ mấy con sâu vào trong hai cái lọ: một lọ nước và một lọ rượu. Kết quả là sâu trong lọ rượu chết nhanh chóng, còn sâu trong lọ nước thì vẫn sống.
Tuy nhiên, trước kết quả đó, một thanh niên cuối phòng hội thảo giơ tay phát biểu: “Thưa mọi người, con sâu không sống được trong rượu, vì vậy, phải uống thật nhiều rượu để diệt trừ sâu trong người!”. Tuyên bố như thế là dại dột, thiếu hiểu biết. Nếu cứ uống rượu để diệt sâu thì có lẽ người chết trước khi sâu sinh thì!
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy: sự kiêu ngạo của con người khiến cho họ trở nên chai lỳ, cứng cỏi. Một khi họ đã đeo cặp kính râm, thì trước mắt họ mọi sự đều là màu đen hết!
Hôm nay, Đức Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha vì Người không cho những người thông thái và khôn ngoan biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn.
Trong thực tế chúng ta vẫn thấy có nhiều người rất bình dân, học hành chẳng tới đâu, họ là những người khiêm tốn, nên đời sống đức tin của họ sâu xa và sống động! Ngược lại, những người tài giỏi, uyên thâm thì đức tin lại leo lét. Tại sao vậy? Thưa vì đức tin là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho những ai biết khiêm tốn đón nhận chứ không phải là kết quả của cuộc sưu tầm trí thức nơi con người.
Ơn cứu độ sẽ được dành cho những ai khiêm tốn và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không đến được với những người kiêu căng, ngạo nghễ và cậy dựa thuần túy vào khoa học. Hạng người này, Thiên Chúa sẽ loại trừ, hay nói đúng hơn vì họ không chịu đón nhận tình thương và mạc khải của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con đức tin. Xin Chúa cho chúng con được trở nên đơn sơ để đức tin nơi chúng con ngày càng được lớn lên trong ân sủng của Chúa. Amen.
Sứ điệp: Mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa đã được tỏ bày cho những kẻ bé mọn, nhờ đó họ được ngụp lặn trong tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đường cứu chuộc của Chúa hoàn toàn đi ngược lại với khôn ngoan của người đời. Chúa đã xuống thế trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, một thiếu nữ tầm thường bình dị của làng quê Na-da-rét. Chúa đã để lại cho nhân loại một giáo huấn đi ngược lại với cách suy nghĩ của con người. Chúa đã đem lại sự sống đời đời khi đón nhận cái chết trên thập giá. Tất cả đã không thể nào làm cho các thầy thông luật và biệt phái hiểu được. Họ đã từ chối Chúa, bởi vì họ muốn dẫn Chúa đi theo con đường của họ, mà không muốn đưa tay mình để được bàn tay quảng đại của Chúa dẫn dắt.
Lạy Chúa, Chúa muốn dẫn con đến với Chúa Cha, muốn cho con được sự sống thân mật trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ có Chúa mới biết rõ Chúa Cha. Còn con chỉ biết bước theo Chúa, chỉ biết nghe theo lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp con trút bỏ đi những ý nghĩ riêng tư của mình để có thể lắng nghe lời Chúa dạy bảo. Chúa kêu mời con tìm về Lời Chúa trong thánh kinh, để nhờ Lời Chúa, con có thể đến với Chúa, nhờ Lời Chúa con hiểu biết Chúa ngày một hơn. Xin Chúa ban cho con một thái độ khiêm cung đích thực, một tâm hồn biết lắng nghe Lời Chúa và đón nhận chân lý của Chúa. Con cám ơn Chúa vì niềm hạnh phúc lớn lao Chúa ban cho con. Được biết Chúa và theo Chúa, được sống trong Chúa và sống với Chúa, đó là hồng ân cao cả nhất đời con. Xin Chúa giúp con cảm nhận được niềm vui ấy trong suốt cuộc đời. Amen.
Ghi nhớ: “Chúa đã giấu không cho những người khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn”.
Chị Têrêsa thành Lisieux sống và mang tinh thần bé nhỏ: Luôn làm những việc bé nhỏ, chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất bé mọn, chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa”.
Nhờ tinh thần phó thác vào Chúa, chị cảm nhận ra tình yêu Chúa ngay cả những đen tối nhất của tâm hồn đó là cảm nghiệm được nước Trời: “Ngay cả những khi gặp thử thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, nâng đỡ con, vì Ngài đã nâng đỡ con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối cùng”.
Chính tinh thần bé nhỏ đã khiến chị sờ tới nước Trời và trong Thiên Chúa chị được bình an tâm hồn khi đặt mỗi gánh nặng bệnh tật vào Chúa.
Suy niệm
Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha: “Con xưng tụng Cha vì Cha đã mạc khải nước Trời cho những người bé mọn”. Người mang tâm tình thơ ấu bé nhỏ, người anh em hay chị em, tín thác vào tình yêu của Chúa Cha và để cho Ngài làm việc.
Chúa Giêsu đã chọn lựa những con người bé nhỏ, tầm thường để mạc khải nước Chúa và những người mang Tin Mừng đó là những anh thuyền chài không được trọng dụng trong xã hội.
Còn những con người học thức tài ba như Phaolô như Matthêu lại tự chấp nhận bé nhỏ để nước Trời được tỏa hiện trong các ông và tự các ông đến với anh em mình. Người mang tinh thần bé nhỏ được nước Trời mạc khải, được phác họa với hình ảnh Kinh Thánh:
“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trong con hồn lặng lẽ an vui” (Tv130,2).
Nhỏ bé, nép mình vào lòng Chúa, phó thác tất cả để được Thiên Chúa đỡ nâng, vì thế Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với lòng Chúa để được nâng đỡ bồi dưỡng tâm hồn.
Cuộc sống hôm nay, con người luôn mong muốn được vĩ đại, sự mong muốn và phấn đấu vĩ đại của con người đã lấn át mạc khải nước Trời. Con người quên tinh thần bé nhỏ tín thác, sự vĩ đại mà họ muốn khẳng định và định đoạt tất cả, cái giá của sự vĩ đại mang danh “tự do” làm cho tôi và bạn quên Thiên Chúa gạt Ngài ra khỏi đời sống trong từng cách sống. Dù rằng, chúng ta vẫn luôn tuyên xưng mình là người có đạo, người tin Chúa. Đó chính là một thực tế của thế giới ngày hôm nay ở khắp mọi châu lục, đặc biệt là châu Âu, cái nôi của Kitô giáo. Nơi cuộc sống của chúng ta cũng thế.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, từ bản thân đến gia đình và xã hội. Với tinh thần bé nhỏ bên Chúa, con người hôm nay tìm thấy được một nơi yên nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Đây là kiểu nói bóng trong truyền thống Kinh Thánh nơi các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (x. Hc 51,26; Is 55,1). Chúng ta nhìn nhận và học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhu, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới như Thầy đã dạy.
Thật thế, con người sẽ tìm thấy bình an, khi nhìn nhận sự bé nhỏ của mình trước Đấng Tạo Hóa và phó thác vào Ngài, họ sẽ được chính nước Trời khi giữa phong ba, giữa những mỏi mệt của cuộc sống đó là mầu nhiệm nước Trời mà người không tin vào Chúa Giêsu không thể cảm nghiệm.
Ý lực sống:
“Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng vì nước Trời thuộc về chúng” (Mt 19,14).
Sau khi khiển trách những thành ven Biển hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình. Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha đã mạc khải Tin mừng cho những người bé mọn, tức là những người “nghèo trong tinh thần”, mà Ngài đã nói trong bài giảng về Bát phúc, những người tội lỗi, những kẻ ít học.
Người hèn mọn là đối tượng của lòng Chúa xót thương. Chúng ta tìm kiếm xem tại sao Thiên Chúa lại thiếu cảm tình với người khôn ngoan, thông thái? Phải chăng Thiên Chúa ganh tỵ với họ? Hay phải chăng Thiên Chúa chỉ muốn con người kém cỏi, hèn mọn?
Qua lời cầu nguyện cùng Cha, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Thiên Chúa là Cha, là chủ tể vũ trụ vạn vật, Ngài hoàn toàn tự do và đầy yêu thương, Ngài tỏ mình cho ai là sáng kiến của Ngài, Ngài muốn chỉ bảo ai điều gì, khi nào và thế nào là tuỳ ý Ngài. Nhưng chắc chắn Ngài không tỏ mầu nhiệm Nước trời cho những người tự phụ là khôn ngoan thông thái theo quan niệm của thế gian mà chỉ tỏ cho những người đơn sơ bé mọn.
Cụ thể những người biệt phái, những luật sĩ là hạng người được coi là trí thức thông thái, đã không tiếp nhận Tin mừng của Chúa và không nhận Ngài là Đấng đã được tiên báo trong Thánh kinh mà họ nghiên cứu tỉ mỉ. Trái lại, những kẻ đơn sơ bé mọn như các Tông đồ, là những người ít học mà các luật sĩ và biệt phái khinh thường, nhưng những kẻ bé mọn đó lại đón nhận Tin mừng, tin nhận Ngài là Cứu Chúa và làm theo lời Ngài chỉ dạy.
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25)
“Mặc khải” có nghĩa là làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra. Mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một ngươi hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ. Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan thông thái với kẻ bé mọn để dạy mọi người cần có thái độ của trẻ thơ: tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để người chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Bởi vì, thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ cản người ta nhận ra những gì Thiên Chúa muốn mạc khải cho.
Để hiểu mầu nhiệm Nước trời, con người cần có thái độ khiêm nhường: trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa chứ không phải ỷ vào sức mình.
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc âm, để cảm nếm và sống hoà hiệp với Thiên Chúa. Đức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Đức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người.
Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần Giáo hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
Hãy trở nên bé mọn trước Thiên Chúa
Người leo núi có những tâm trạng trái ngược nhau. Đứng ở dưới mặt đất bằng, tầm mắt người ta thật hạn hẹp; nhưng khi leo lên tới đỉnh núi thì ngay lập tức lại thấy mình thật bé nhỏ và bị nhấn chìm trước quang cảnh đang trải rộng dưới chân. Có thể mượn tâm trạng đó để cảm nghiệm sự sâu thẳm vô biên của Mầu nhiệm Thiên Chúa. Có dám bỏ vị trí lè tè chật chội của cái tôi ích kỷ và đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống thánh thiện, lúc đó người ta mới thấy được sự nhỏ bé của mình và đồng thời cảm nhận được sự cao cả thánh thiện của Thiên Chúa.
Bạn không nhất thiết phải là người mù chữ thất học mới có thể đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Trái lại, như người ta thường nói: “Càng học càng thấy mình dốt”, điều kiện ban đầu để đến với Thiên Chúa không phải là bằng cấp này, học vị kia mà là thái độ khiêm tốn. Chính nhờ nhận biết mình bé mọn bạn có thể sẵn sàng đón nhận mạc khải của Chúa. Và một khi đã bước vào thế giới của mầu nhiệm, bạn sẽ càng thấy mình bé mọn và càng khao khát Thiên Chúa nhiều hơn nữa (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Đám táng Thiên Chúa
“Thiên Chúa đã chết”, đó là câu nói của triết gia Nietzche mà sau này được nhiều người lặp lại. Ngày nọ, những người này muốn cử hành lễ nghi an táng, để từ biệt ý nghĩ Thiên Chúa hiện hữu. Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào sẵn cho một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, tất cả đều là bậc trí thức trong xã hội. Khi người chủ trì khai mạc buổi lễ thì bác phu già la lên:
- Không thể được, vì quan tài chưa đến.
Thiên Chúa vô hình, cần gì đến quan tài để tẩm liệm. Một vài người xúm lại kéo bác phu già ra xa, nhưng ông vùng vẫy và la lớn:
- Không. Thiên Chúa không chết. Thỉnh thoảng không ngủ được, ra đây ngồi, tôi vẫn nghe tiếng tim Ngài đập, nếu không tin, tối nay tụ họp lại đây quí vị sẽ thấy.
Động tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau tối sẽ trở lại. Tuy nhiên, tiếng động bên ngoài vọng lại khiến suốt đêm họ không thể nhận ra đâu là tiếng đập của quả tim Thiên Chúa. Họ dời tụ điểm đến một vùng quê, nhưng vắng tiếng động thành phố thì lại có tiếng côn trùng. Cuối cùng họ quyết định gặp nhau tại sa mạc. Bầu khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm làm họ cảm thấy được cất khỏi gánh nặng lo toan, trở về với cõi lòng và chăm chú lắng nghe. Bỗng một người la to: “Tôi đã nghe thấy”. Nhiều người khác phụ họa: “Chúng tôi cũng đã nghe thấy”. Có người phân tích âm thanh của nó giống như âm thanh của mỗi lần cố gắng sống hoàn thiện. Họ đã tin phục lời bác phu già và nhất là tìm lại được niềm tin.
Đoạn này tiếp liền sau đoạn hôm qua: sau khi khiển trách những thành ven bờ hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình, Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha đã mặc khải Tin Mừng cho những người bé mọn, tức là những người “Nghèo trong tinh thần” mà được Chúa nói lên trong Bát Phúc (Tv 19,8. 116,6), những người tội lỗi, những kẻ ít học.
Ngài còn nói “vì ý Cha đã muốn an bài như vậy”. Nghĩa là những thái độ hoặc tin hoặc cứng lòng tin mà Chúa Giêsu gặp chẳng phải là chuyện may rủi, cũng chẳng phải do tài năng hay bất tài của Ngài, mà là chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài luôn ưu ái những kẻ bé mọn và hạ bệ những bậc khôn ngoan.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu là một con người lạc quan, mặc dù vừa thất bại ở các thành ven biển hồ, Ngài vẫn lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha. Sở dĩ Ngài lạc quan vì Ngài thấy được kế hoạch của Chúa Cha.
Sau khi bị thất bại, tôi dễ chán nản muốn bỏ cuộc. Xin Chúa cho con lạc quan như Chúa, để luôn tin tưởng vào thành công cuối cùng của việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Xin cho con lạc quan đến nỗi vẫn ca tụng tạ ơn Chúa vì những thất bại của con.
2. Thiên Chúa giấu không cho những người khôn ngoan biết những mầu nhiệm của Ngài, mà lại mặc khải cho những người bé mọn biết những điều ấy. “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Ngài nâng cao những người phận nhỏ”.
Dù con biết được điều gì đi nữa, dù con có thành công bao nhiêu đi nữa, xin cho con luôn khiêm tốn, tự biết mình chỉ là kẻ bé mọn trước mặt Chúa.
3. Được Thiên Chúa mặc khải cho biết về Ngài, đó là một đặc ân cao quý. Biết bao người thông thái nhưng không có đức tin. Còn con, từ hồi nhỏ mới sinh ra đã được ơn đức tin. Con xin tạ ơn và chúc tụng Chúa.
4. Niềm vui và sự phấn khởi là sợi chỉ xuyên suốt của toàn bộ Thánh Kinh. Thánh Phalô đã nhắc nhở các tín hữu “Anh em hãy vui lên. Tôi nhắc lại anh em hãy vui luôn”. Cho dù cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có là trọng tâm của Kitô giáo, cho dù hy sinh có là con đường tu đức của Kitô hữu, thì Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô vẫn là tên gọi của đạo Chúa. Kitô giáo thiết yếu là một Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để đón nhận, để sống và để loan báo. Mà nói đến Tin Mừng là nói đến hân hoan. (Trích “Chờ đợi Chúa”)
5. Một hôm sói hỏi sóc:
- Vì đâu mà họ nhà sóc ngươi luôn vui vẻ nhảy nhót còn bọn sói chúng ta luôn buồn sầu?
- Ông buồn vì ông ác. Tính độc ác đã bóp nghẹt tim ông. Còn chúng tôi vui vẻ vì chúng tôi hiền lành và không làm điều ác cho ái. (Tolstoi kể)
6. “Vâng lạy Cha vì đó là điều làm đẹp ý Cha”. (Mt 11,26).
Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả: cặp mắt, đôi chân và đôi bàn tay. Vì con là phụ nữ, ưa ngắm nhìn mái tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột của con. Thế mà giờ đây đầu con hầu như không còn sợi tóc nào, cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng hồng xinh xắn, chỉ còn lại vài que củi khô nham nhúa… Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên cho Chúa lời tạ ơn,… Bởi vì, đời con đã được quá ư đầy tràn đến kì diệu. Sống trong tình yêu Chúa, cuộc đời con cũng lấp đầy chan chứa.
Lời nguyện cầu của chị Véroniquae đẹp quá. Cứ dạt dào, bay vút hoà quyện với lời tạ ơn của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khám phá nơi con những khả năng Chúa ban, biết trân trọng những tặng vật Chúa ký thác, và tận dụng những cơ hội Chúa gởi trao. (Hosanna)
1. Nếu đọc kỹ Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu là một con người lạc quan. Mặc dù vừa thất bại ở các thành ven Biển Hồ, Ngài vẫn lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha. Sở dĩ Ngài lạc quan vì Ngài thấy được kế hoạch của Chúa Cha.
Chúng ta hãy tập sống lạc quan như Chúa, bởi vì khi sống lạc quan chúng ta mới có nhiều niềm vui và niềm vui sẽ đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Xin được trích đọan một câu chuyện nhỏ từ trên mạng:
Hôm đó trời ảm đạm. Cô ngủ quên và trễ giờ làm việc. Rồi mọi việc trong văn phòng làm cô như muốn điên lên. Khó khăn lắm mới làm xong mọi việc. Rồi cô đón xé buýt về như mọi hôm. Chỉ có điều hôm nay cô rất bực mình. Một ngày thật “tồi tệ “, cô nghĩ thế.
Lần này cũng như mọi lần, chuyến xe buýt lại đến đón khách trễ, tệ hơn lại còn hết chỗ ngồi. Xui xẻo gì đâu! Cô đành phải đứng. Chiếc xe làm cô lắc lư tứ phía. Đã bực mình, cô càng cảm thấy buồn bực hơn!
Chợt cô nghe một giọng nói phía trước. Giọng nói của một người đàn ông cũng “bị” đứng như cô.
- Trời đẹp lắm phải không quí vị!
Vì đông quá, cô không nhìn rõ được mặt ông ta. Cô chỉ nghe được giọng ông đang giới thiệu huyên thuyên về cảnh mùa xuân, rồi cảnh vật những con đường xe buýt đi qua! Nào là nhà thờ, công viên, nghĩa địa, đội cứu hỏa. Và lạ thay, hầu như tất cả mọi hành khách trên xe đều nhìn ra ngoài cửa sổ để ngắm cảnh vật ông giới thiệu. Ông nói hăng say và nhiệt tình đến mức cô phải mỉm cười. Đây là nụ cười đầu tiên trong ngày.
Rồi cũng về đến nhà. Khi chen giữa đám đông để xuống xe, cô cố liếc nhìn người “hướng dẫn viên du lịch”. Ồ! Ông nào có trẻ trung gì. Ông đã đứng tuổi, trên mặt có hàm râu quai nón, đeo kính đen và cầm trên tay cây gậy nhỏ màu trắng.
- Ồ! Ông bị mù!
Xin Chúa cho chúng ta có được tinh thần lạc quan để luôn biết ca tụng Chúa kể cả những khi thất bại trong cuộc đời.
2. Thiên Chúa giấu không cho những người khôn ngoan biết những mầu nhiệm của Người, mà lại mặc khải cho những người bé mọn: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Ngài nâng cao những người phận nhỏ” (Lc 1,52). Những người phận nhỏ là những người đơn sơ ngay thẳng thật thà. Đó là những tâm hồn được Chúa yêu quí.
Một hôm sói hỏi sóc:
- Vì đâu mà họ nhà sóc các anh luôn vui vẻ nhảy nhót còn bọn sói chúng ta luôn buồn sầu?
- Ông buồn vì ông ác. Tính độc ác đã bóp nghẹt tim ông. Còn chúng tôi vui vẻ vì chúng tôi hiền lành và không làm điều ác cho ai. (Theo Tolstoi).
Vâng, Chúa luôn yêu quí những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ. Đã có lần Chúa nói: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,3).
Ông Babis sống tại bang Indiana bên Hoa Kỳ, kể lại một kinh nghiệm nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa trong và qua đứa cháu nội của ông như sau:
“Vì một trường hợp sinh nở khó khăn, nên một trong hai đứa cháu nội của tôi vừa được sinh ra đã chết. Đứa còn sống sót nhưng bị tàn tật nặng cả về thể xác lẫn tinh thần, vô phương chữa trị. Dĩ nhiên là cha mẹ của cháu buồn lắm. Là ông bà nội, chúng tôi cũng buồn không kém.
Thằng bé có khuôn mặt kháu khỉnh làm sao! Nhưng lại tàn tật trông thật đáng thương! Tuy nhiên, ai trong gia đình cũng đều yêu thương cháu cách đặc biệt, ai cũng muốn quấn quít với cháu.
Mỗi khi bế cháu vào lòng, tim tôi se lại và một nỗi buồn nào đó lại đè nặng tâm hồn tôi. Cho đến một ngày nọ, tôi còn nhớ rõ lắm, nhớ thật rõ. Lúc đó đứa cháu nội tôi đã được hơn hai tuổi. Chiều hôm đó, tôi trông cháu giúp con tôi để chúng đi dâng lễ. Tôi đặt thằng bé nằm trên giường và mở cho nó nghe một đĩa nhạc mang nội dung Thánh Kinh, hầu hết là những bài ca giáo lý do các trẻ em hát. Thằng bé vừa nghe, vừa mỉm cười, nó múa máy động chân động tay, còn miệng thì ầm ừ những gì mà tôi không hiểu.
Tôi nhìn cháu phản ứng, bỗng dưng nỗi buồn trong lòng tôi tan biến giữa những tiếng hát của đám trẻ vang lên trong đĩa hát.
Bất chợt tôi cảm nghiệm sâu xa rằng, Thiên Chúa hiểu những tiếng ầm ừ của thằng cháu tôi và Ngài lắng nghe nó với tất cả lòng yêu thương. Ngài nói chuyện với nó qua giọng kể và tiếng hát của những em nhỏ phát ra từ đĩa hát.
Xác tín ấy đã hàn gắn vết thương lòng tôi, đồng thời cũng củng cố lòng tin của tôi vào tình thương yêu nhân từ Chúa dành cho mỗi người. Cũng hôm ấy tôi hiểu Lời Chúa trong Tin Mừng. “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.” (Mt 19,14).
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.
Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Sống làm người ở đời ai tránh được gánh nặng. Chẳng phải chỉ những người bốc vác ở cảng mới mang gánh nặng. Gánh nặng gắn liền với phận người. Có gánh nặng gia đình, gánh nặng nghề nghiệp, gánh nặng tuổi tác. Có gánh nặng buồn đau của quá khứ, gánh nặng lo âu cho tương lai. Xem ra mỗi người không vác nổi gánh nặng của mình. Ai cũng thấy có lúc cần đến người khác. Đức Giêsu nhìn thấy những ai đang mang gánh nặng vào thời của Ngài. Đặc biệt những kẻ phải giữ chi li hơn 600 điều luật của phái Pharisêu. Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc, thì lại trở thành “những gánh nặng chất lên vai người ta” (Mt 23, 4). Đức Giêsu mời đến với Ngài tất cả những ai đang vất vả, tất cả những ai chưa là môn đệ của Ngài. Ngài hứa sẽ cho họ được nghỉ ngơi trong tâm hồn (cc. 28. 29). Sự nghỉ ngơi ở đây chính là sự bình an sâu xa của người được cứu độ, được hưởng các mối phúc ngay từ bây giờ, và bắt đầu được sống trong ngày Sabát vĩnh cửu với Thiên Chúa. “Hãy đến với tôi; hãy mang ách của tôi; hãy học với tôi.” Lời mời của Đức Giêsu lôi kéo những ai vất vả đến với Ngài. Ngài mời họ làm môn đệ và sống theo giáo huấn của Ngài. Trong Cựu Ước, ách tượng trưng cho Luật Thiên Chúa ban cho Môsê Đi theo làm học trò Đức Giêsu, không phải là không có ách. Ách của Đức Giêsu chính là lời giáo huấn của Ngài. Lời giáo huấn ấy chúng ta đã được nghe trong Bài Giảng trên núi. “Ách của tôi êm ái và gánh của tôi nhẹ nhàng” (c. 30). Nhiều người không hiểu tại sao Đức Giêsu lại bảo ách mình êm ái, khi mà Ngài đưa ra những đòi hỏi triệt để hơn, tận căn hơn những đòi hỏi của Luật được giải thích bởi Môsê. Thật ra sự êm ái nhẹ nhàng không bắt nguồn từ việc được đòi hỏi ít hơn, nhưng đến từ tình yêu của tôi đối với Đức Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay có 7 chữ tôi. Cái tôi hiền hậu và khiêm nhường của Đức Giêsu thu hút tôi mến Ngài Chính tình yêu làm cho ách và gánh của Ngài trở nên êm nhẹ. Người ta thấy nặng nề khi bị áp lực phải giữ các luật lệ bên ngoài, nhưng lại dễ làm theo sự thúc đẩy của một tình yêu bên trong. Tự do hơn và vui tươi hơn, đó là điều ta cảm thấy khi sống cho Giêsu. Làm sao để việc giữ đạo, theo đạo, sống đạo, không trở thành một gánh nặng đè trên người Kitô hữu? Làm sao để chúng ta tự do hơn và vui tươi hơn khi đến gặp Giêsu và tìm được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn mình? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người. Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại. Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. ---------------------------------------
Đời sống con người thật vất vả vì phải mang nhiều gánh nặng. Có thể là gánh nặng bản thân. Gánh nặng trách nhiệm. Và nhất là gánh nặng nô lệ.
Gánh thì nặng. Một cổ hai ba ách tròng vào. Người dân chỉ mong được hạnh phúc. Nhưng I-sa-i-a cho biết họ chỉ gặp đau khổ. Mà những đau khổ dường như vô nghĩa: “Như người đàn bà mang thai, lúc gần sinh nở, phải quằn quại, kêu la vì đau đớn, … Chúng con đã mang thai, đã quằn quại, nhưng chỉ sinh ra gió”. Thật là vô vọng (năm chẵn).
Gánh nặng trở nên tủi nhục đau thương khi phải sống dưới ách nô lệ. Như dân Do thái bên Ai cập. Tuy nhiên Thiên Chúa là tình yêu thương. Quan tâm đến thân phận con người. Hiểu thấu gánh nặng của con người. “Ta thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai cập”. Nên Chúa quyết định sai Mô-sê đến gặp Pha-ra-ô để giải phóng dân Chúa. Để đưa “lên miền đất tràn trề sữa và mật” (năm lẻ).
Miền đất chảy sữa và mật thực ra là chính Chúa. Vì chỉ nơi Chúa ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Bao lâu chưa đến với Chúa ta còn đuổi theo thế gian. Đuổi theo thế gian thì còn vất vả long đong. Ham mê quyến rũ. Nhưng tất cả chỉ là gánh nặng. Càng đuổi theo dục vọng càng thấy mệt mỏi chán chường. Như thánh Âu-tinh từng trải nghiệm. Chúa mời gọi mọi người đến với Chúa. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đến với Chúa ta được bình an, thư thái, hạnh phúc. “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Chỉ Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khao khát sâu xa của con người. Vì Chúa là nguồn sự sống. Nguồn hạnh phúc. Nguồn bình an. Nơi Người ta nếm cảm được hương vị dịu ngọt không bút nào tả xiết.
Hãy mau đến theo lời mời của Chúa. Chỉ nơi Chúa ta mới được giải thoát khỏi ách nô lệ. Chỉ nơi Chúa ta được gánh yêu thương nhẹ nhàng, êm ái và tràn đầy an ủi.
Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó. Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây, Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho; hay nói theo một bản dịch Kinh Thánh khác: để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng. Gánh nặng nào? Ðó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông thái chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng đặt lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người Biệt Phái. Tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn quả tim để thông cảm nữa.
Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người Biệt Phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Ðây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng đối với Chúa Giêsu, những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ ủi an, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người Kitô hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hằng ngày họ được Chúa nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó, sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm vui và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Xin cho chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để "ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng" cho chúng ta.
Theo các nhà chú giải thì những kẻ mệt mỏi và vất vả mà đoạn Phúc Âm nhắc đến là những kẻ đã được nói đến trước đó như là những con người đơn sơ, khiêm tốn, sẵn sàng để cho Chúa dạy bảo, hướng dẫn. Tâm hồn họ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Giờ đây, Chúa mời gọi họ một cách tha thiết hơn. Hãy đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ, an ủi. Nơi bản văn Kinh Thánh khác, câu quả quyết của Chúa Giêsu: "Ta sẽ nâng đỡ, an ủi" được chuyển dịch là: "Ta sẽ giải phóng họ khỏi gánh nặng". Và gánh nặng nào đây? Thưa, đó là gánh nặng phức tạp mà các nhà thông luật đặt ra đè năng trên vai những con người đơn sơ bé nhỏ, bắt buộc họ phải tuân giữ hết điều này tới điều khác.
Chúa Giêsu đã trách những người biệt phái, thông luật và giả hình như sau: "Họ bó những gánh nặng đặt trên vai dân chúng. Còn họ thì không muốn đụng ngón tay". Tinh thần vụ hình thức, vụ Lề Luật Môsê, đã làm cho những vị lãnh đạo dân Do Thái không còn có một quả tim để thông cảm nữa. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được giải thoát khỏi những gánh nặng của cuộc đời, khỏi những gánh nặng của luật lệ, vụ hình thức.
"Hãy mang lấy ách của Ta, ách êm ái, gánh nhẹ nhàng". Chống lại những người Pharisiêu, Chúa Giêsu đề ra cho những ai chấp nhận Ngài một ách mới, nhưng đây không có nghĩa là không còn luật lệ gì nữa cả. Không phải vậy, giáo huấn của Chúa Giêsu rất đòi hỏi không thua gì những đòi hỏi của luật Môsê. Nhưng kẻ tuân giữ Luật Chúa thì còn được sức mạnh Chúa nâng đỡ an ủi, đó là Thánh Thần sự thật mà Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các đồ đệ, để giúp các ngài tuân giữ Luật Chúa và như vậy khiến Luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người đồ đệ Chúa không lẻ loi, không tự sức mình mà tuân giữ các giới răn, có Chúa Thánh Thần ngự trong họ, giúp họ hướng về Thiên Chúa mà họ gọi là Cha "Abba". Sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, người đồ đệ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ luận của nó sẽ không còn là gánh nặng nữa, nhưng là niềm vui, sự ủi an và cả những thử thách.
Lạy Chúa,
Con hết lòng cảm tạ Chúa, vì tình thương bao la Chúa không ngừng nâng đỡ con. Con cảm tạ Chúa vì đã ban cho con hồng ân của Chúa Thánh Thần, để soi sáng, nâng đỡ con trong những lúc gian nan thử thách. Xin cho con được tin tưởng đến với Chúa, lấy tình yêu đáp lại tình yêu.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt. 11, 28-30)
Ách lề luật
Chúa Giêsu hay ngỏ lời với đám người bình dân, Người thường gặp trên các nẻo đường. Họ là những con người nghèo khổ, bé mọn mà Phúc Âm rất hay nói đến. Cuộc sống của đám người này chẳng có gì là sung sướng. Một trong những lý do thực tế là họ đã phải tuân thủ quá nhiều luật lệ mà giới chức sắc thời đó đã áp đặt lên họ. Và bởi không sao giữ nổi hết những luật lệ tỉ mỉ đó, lên lương tâm họ đâm ra bối rối. Họ đâu có biết rằng trong nhiều trường hợp người ta đã lợi dụng họ.
Thời ấy luật lệ thường quá tỉ mỉ và thường bất công. Những người thấp cổ bé họng cứ phải lầm lũi phục lụy. Còn kẻ có địa vị ăn trên ngồi trước lại khôn khéo tìm kẽ hở để được miễn trừ luật. Gánh nặng quả đã đè năng lên vai những người bé mọn ấy.
Ách tình yêu.
Chúa Giêsu muốn giải thoát họ, người mời gọi họ đổi cái ách ngăn cản họ sống lấy cái ách mới sẽ làm họ sống. Ách đó chỉ gồm có một luật mà thôi: Luật tình yêu.
Nếu Chúa Giêsu bảo người ta phải mang ách là vì điều Người kêu gọi là đòi hỏi cấp bách phải thi hành. Con đường Người đặt cho ta đi quả là gay go, cánh cửa Ngài mở ra cho ai sẽ đi theo Người là cánh cửa hẹp. Thế nhưng Chúa bảo đó là ách êm ái nhẹ nhàng. Tất nhiên là người ta mang ách đó bởi vì tình yêu.
Khi ta cảm thấy ngột ngạt vì phải chu toàn những bổn phận, phải giữ những điều trung tín, phải tôn trọng những lời nói, phải thực hành những điều Phúc Âm truyền buộc thì chỉ có một lý do: Là vì không có tình yêu ở đấy. Khi không có tình yêu, chẳng có gì ý nghĩa. Khi có tình yêu trong công việc, mọi việc đều mang ý nghĩa. Và điều gì có thể coi như nặng nề, bỗng nhiên hóa ra nhẹ nhàng hơn nhiều.
Xem lại CN 14 TN A // lễ Thánh Tâm A // lễ thánh Phan-xi-cô At-si-di ngày 4/10
và thứ Tư tuần 2 MV.
Trong xã hội ngày nay, số người tự tử khá cao. Điều đáng nói là những người tự tử ở độ tuổi thanh thiếu niên lại nhiều nhất. Tại Nhật Bản, người ta ước tính cứ 16 phút lại có một người tự tử. Tự tử chiếm tỉ lệ cao hơn cả tại nạn giao thông ở đất nước này.
Khi tìm hiểu nguyên nhân, người ta nhận thấy nhiều bạn trẻ bế tắc trong công việc, thất bại trong tình yêu, không tìm ra ý nghĩa, giá trị của cuộc sống, nên đã tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Nói chung, họ thấy gánh nặng cuộc đời quá lớn, khiến không thể mang vác nổi, vì thế đành “hạ gánh buông trôi” cho dòng đời đưa đẩy.
Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài để được bình an và hạnh phúc, vì “ách” của Ngài thì êm ái và “gánh” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy học với Ngài vì Ngài hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.
“Ách” của Đức Giêsu chính là sự “hiền hậu”, “khiêm nhường”. Khi mang lấy trong mình sự “hiền hậu”, “khiêm nhường”, chúng ta sẽ thấy mọi chuyện chở nên êm ái và nhẹ nhàng.
Còn “gánh” của Đức Giêsu chính là “luật yêu thương”.
Trong đời sống của người tín hữu, chúng ta sẽ gặp không ít những khó khăn bên trong và bên ngoài. Khó khăn về thể lý lẫn tinh thần. Khó khăn về những hiểu lầm, cố chấp, bất công. Khó khăn về sự chung thủy... Những cái đó chính là những “ách” và “gánh” của cuộc đời.
Khi mang “ách” và “gánh” cuộc đời như vậy, chúng ta cảm thấy nặng nề và muốn buông xuôi, bỏ cuộc, bởi vì chúng ta đối diện và phải mang cái “ách” đó bằng sự kiêu ngạo, tự phụ, ích kỷ chứ không phải là hiền hậu và khiêm nhường theo tinh thần của Chúa. Hơn nữa,“gánh” của cuộc đời mà chúng ta vẫn mang theo chính là sự bảo thủ, ghen ghét, không thông cảm và cố chấp chứ không phải là “luật yêu thương”!
Mong sao mỗi chúng ta hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu và hãy học cùng Ngài để được bình an.
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống, chúng con luôn phải đối diện với những lo toan như cơm, áo, gạo, tiền, khiến đôi khi chúng con cảm thấy nặng nề và thất vọng. Xin Chúa ban cho chúng con biết đến với Chúa để được Chúa cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy mang lấy ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Người giữa cuộc sống khổ ải trần gian.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, có những lúc con gặp sự chẳng lành, những lo lắng khổ đau. Có lúc người thân nhất cũng không hiểu và thông cảm với con, lòng con chán chường thất vọng. Lúc đó, Chúa nhìn thấy và mời gọi con đến nương tựa vào Chúa. Chúa đến chia sẻ cuộc sống với con, Chúa đem bình an và sự vững tin cho con giữa cảnh đời đen trắng, tối tăm. Con cảm nhận tình yêu thương Chúa muôn đời. Xin đừng để con bao giờ quên chạy đến cậy nhờ lòng yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, từ lúc mở mắt chào đời cho đến hơi thở cuối cùng, con được nhiều người nâng đỡ ủi an như cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn hữu… Nhưng sự nâng đỡ ấy còn nhiều giới hạn, và thường ngắn ngủi mau qua. Chỉ nơi Chúa con mới tìm được sức nâng đỡ lâu dài và niềm an ủi vô tận, vì tình thương Chúa vô bờ và tồn tại đến muôn đời.
Lạy Chúa, xin dạy con biết chạy đến với Chúa. Con sẽ tìm được bình an khi đến với Chúa nơi tòa Cáo giải. Con sẽ tìm thấy sức mạnh để chịu các thử thách hy sinh nhờ ơn bí tích, nhất là sức sống thần thiêng của Thánh Thể Chúa. Chúa hằng nuôi dưỡng và bổ sức con, nâng con dậy khi con xiêu té. Con nương tựa trọn vẹn vào Chúa.
Xin ban cho con hoa trái của tình yêu là sự dịu hiền, là lòng khiêm cung. Xin dạy con học nơi tình yêu Chúa lòng khiêm nhường và sự dịu ngọt; và xin Chúa giúp con hiến trọn đời mình để mang lấy ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.
Khi Đức Giám mục Watts còn nhỏ, ngày nọ chạy sang nhà một bà già hàng xóm. Bà nhờ ngài đọc cho bà nghe một đoạn Kinh Thánh rồi nói: “Khi con lớn chút nữa, người ta sẽ bảo con rằng Thiên Chúa luôn rình xem khi nào con phạm lỗi để trừng phạt. Nhưng ta không muốn con nghĩ như thế, mà ta muốn con chăm đọc Kinh Thánh để luôn nhớ rằng Thiên Chúa luôn thương yêu con, Ngài luôn để mắt nhìn đến con”.
Suy niệm
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, từ bản thân đến gia đình và xã hội.
Bên Chúa, con người hôm nay tìm được thấy một nơi ngơi nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). “Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Đây là kiểu nói bóng trong truyền thống Kinh Thánh nơi các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (Hc 51,31; Is 55,1). Chúng ta nhìn nhận và học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhu, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới như Thầy đã dạy.
Con người sẽ tìm thấy bình an, khi nhìn nhận sự bé nhỏ của mình trước Đấng Tạo Hóa và phó thác vào Ngài, họ được chính nước Trời khi giữa phong ba cuộc đời giữa những mỏi mệt của cuộc sống đó là mầu nhiệm nước Trời mà người không tin vào Chúa Giêsu không thể cảm nghiệm.
Chúng ta mang tâm tình tín thác trong cuộc sống: “Hãy trao phó mọi việc trong tay Chúa, thì bạn sẽ thành công, Ngài sắp xếp mọi sự để thực hiện ý Người (Cn 34,4).
Ý lực sống:
“Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28).
Chúa Giêsu kêu gọi những kẻ khổ cực lầm than đến với Ngài để được nâng đỡ giúp sức. Chúa Giêsu ở giữa con người, sống kiếp con người. Ngài cảm thông với tất cả những lao đao, khốn cùng của con người. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài để được an ủi, đỡ nâng. Hãy đến với Chúa là mạch tình yêu. Tình yêu ban sức mạnh để ách trở nên êm ái và gánh được nhẹ nhàng.
“Đang vất vả mang gánh nặng nề (Mt 11,28)
Gánh nặng nào đây? Đó là lề luật thời Chúa Giêsu. Do thái giáo có lề luật phải giữ chi li hơn 600 điều, mà Biệt phái đè nặng trên vai những con người đơn sơ bé nhỏ, bắt buộc họ phải tuân giữ hết điều này tới điều khác. Luật Chúa lẽ ra phải đem đến niềm vui hạnh phúc, thì lại trở thành “những gánh nặng”chất lên vai. Chính vì thế, mà Chúa Giêsu kêu gọi dân theo Ngài vượt qua tinh thần câu nệ lề luật, đặt niềm tin vào luật mới yêu thương, để tìm được “sabat” đích thực là được nghỉ ngơi trong tâm hồn, được hưởng sự bình an sâu xa của người được cứu độ, để bắt đầu cuộc sống mới trong Thần khí.
“Tất cả những ai đang vất vả... hãy đến” (Mt 11,28)
Thường tình khi gặp gian nan thử thách buồn phiền, con người hay tìm giải sầu cách tự nhiên trong men rượu, cà phê, thuốc lá, hay tệ hơn nữa trong xì ke ma tuý. Có một cách thanh tao hơn để con người giải sầu là tìm đến bạn hữu chân tình để tâm sự cho vơi đi những nỗi buồn phiền.
Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu cho mọi người Kitô hữu chúng ta một phương thế siêu nhiên, để vượt qua những thử thách, buồn phiền để được an bình tươi vui trong tâm hồn, đó là đến với Chúa: “Hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
- Đến với Chúa để học cách sống của Ngài. - Đến với Chúa để sống như Ngài giảng dạy. - Đến với Chúa để đón nhận tình thương của Chúa: vì Chúa là nguồn an ủi. “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi” (Mt 11,29)
Mang lấy ách của tôi là một kiểu nói bóng các thầy Ráp-bi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy.
Trường học của Chúa Giêsu, người theo học được mời gọi sống theo gương mẫu của Ngài: hiền lành và khiêm nhường, nghĩa là bất bạo động, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới giữa mọi người, đặc biệt là những người bé mọn, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, kỳ thị và đàn áp.
Khi biết cách sống tình yêu thương đại đồng và phát huy tình yêu thương không biên giới đó, nghĩa là không hận thù, không bạo động, con người sẽ đạt được bình an nội tâm và thể hiện nó ra trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội (Trần Hữu Thành).
“Vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29)
Thực ra, trước Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương: “Nhu nhược thắng cương cường”: lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mới hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong Tám mối phúc thật: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Truyện: Lạn Tương Như và Liêm Pha
Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi... Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:
- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá như vậy? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không ở nữa.
Tương Như nói: - Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không?
Bọn xá nhân đáp: - Không.
Tương Như nói:
- Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư? Nhưng ta nghĩ, Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn xá nhân mọp lạy mà rằng:
- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, quì mọp mà rằng: “Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau (Nguyễn Duy Cần, Cái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163).
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, ”gánh” chỉ luật lệ, và ”mang lấy ách” là chỉ học với. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta học với Ngài và đón nhận luật của Ngài.
Học với Chúa Giêsu là học được tính hiền lành khiêm tốn.
Luật của Ngài là luật yêu thương.
Bởi thế ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ được bình an.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. “Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng”: Ôi một lời kêu gọi xuất phát từ một tấm lòng yêu thương bao la! Chúa rất quan tâm lo lắng khi thấy tôi đau khổ và mệt mỏi. Ngài rất muốn nâng đỡ và xoa dịu tôi nên mới lên tiếng kêu mời tôi. Lẽ ra tôi phải tìm đến Ngài trước, thế mà Ngài lại kêu mời tôi trước.
Mà sở dĩ Ngài kêu mời tôi là vì rất nhiều lần khi tôi gặp khốn khổ tôi đã không chạy đến Ngài, tôi đã chạy đến với ai khác, tôi ngã lòng không muốn cầu nguyện nữa.
2. “Ta hiền lành và khiêm tốn”: Hẳn là 2 đức tính này quý giá đặc biệt lắm nên Chúa mới mô tả mình như thế.
Tôi có hiền lành không? Tôi còn phải học gì thêm ở tính hiền lành của Chúa?
Tôi có khiêm tốn không? Tôi còn phải học gì thêm ở tính khiêm tốn của Chúa?
3. “Ách của Ta êm ái”: Điều làm cho Luật của Chúa trở nên êm ái là tình yêu. Nếu tôi không yêu Chúa thì việc tôi giữ luật sẽ trở thành nặng nề. Nếu tôi không yêu thương anh chị em thì việc tôi sống chung với họ sẽ làm cho cả tôi và họ khổ sở. Xin giúp con ngày càng yêu thương nhiều hơn.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm được: chỉ nơi Ngài con mới kín múc được niềm vui và sự an bình đích thực. (Hosanna)
1. “Hãy đến với Tôi hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” (Mt 11,28).
Chúa kêu gọi những ai khó nhọc và gánh nặng đến với Chúa.
Thường tình thì chẳng có ai mà lại kêu gọi những người vất vả khó nhọc và đầy những gánh nặng đến với mình. Những loại người này đến chẳng những không có lợi gì, mà còn có thể gây ra những phiền hà rắc rối cho mình là đàng khác.
Chỉ có Chúa mới kêu gọi như thế, bởi vì Ngài không đến để được phục vụ mà là để phục vụ và đã gọi là phục vụ, thì bao giờ cũng có yếu tố thua lỗ ở trong đó. Chúa Giêsu phục vụ không công. Ngài ban phát thật nhiều mà nhận lại chẳng có gì. Chính vì thế mà Ngài mới kêu gọi những đối tượng chẳng được mấy ai lưu tâm đến với Ngài. Tất cả chỉ vì tình thương mà thôi.
Mỗi khi chúng ta gặp khốn khổ chúng ta hãy chạy đến với Chúa. Chắc chúng ta sẽ không phải thất vọng.
2. “Hãy học với Tôi” (Mt 11,29).
Học ở đây không giống như học chữ mà là học làm người.
Công Minh Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đã ba năm mà không mấy khi đọc sách.
Thầy Tăng Tử hỏi: “Ngươi đến đây học đã ba năm nay, ta xem ý ngươi không mấy khi học tập sách vở như các anh em khác, là tại làm sao?
- Công Minh Tuyên nói: Thưa thầy, con vẫn học. Con thấy: thầy ở trong nhà, trước mặt song thân, lúc nào cũng hiếu thuận, hoà nhã, cho đến giống vật như chó, mèo, thầy cũng không quở mắng bao giờ; - thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung dung, rất có lễ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đều nể phục; - Thầy ở triều đình, đối với kẻ dưới, bề ngoài rất là nghiêm trang, mà trong bụng rất là nhân từ, không có ý hại ai bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui lòng học mãi mà chưa được. Con đâu dám không học mà cứ ở cửa nhà thầy”.
Thầy Tăng Tử nghe đoạn, tạ lại Công Minh Tuyên và nói rằng: “Ta nay thật không bằng con”.
Đó là học làm người. Học làm người thì phải học suốt đời. Có lẽ suốt cuộc đời cũng chưa xong. Phải học hoài học mãi.
3. “Tôi hiền lành và khiêm tốn” (Mt 11,29).
Hẳn là 2 đức tính này quý giá một cách đặc biệt lắm cho nên Chúa mới bảo với các môn đệ như thế.
Lịch sử cho chúng ta thấy: sự kiêu ngạo đã gây nên bao thảm họa:
- Satan nguyên là một thiên thần nhưng vì kiêu ngạo mà đã thành quỉ sứ. - Tổ tông loài người chúng ta cũng chỉ vì kiêu ngạo mà gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho cả loài người. - Ngược lại, những người biết sống hiền lành và khiêm nhường sẽ là những người đẹp lòng Chúa. “Chúa hạ kẻ quyền thế xuống và nâng người hèn mọn lên.” (Lc 1,52).
Bởi vậy chúng ta hãy cố học cho bằng được hai đức tính này.
Vua Philipphê nước Macedonia là cha sinh ra vua Alexandre le Grand, hằng ngày có các thiếu niên quí phái hầu cận. Sáng sáng, họ có bổn phận phải vào tận long sàng đánh thức nhà vua mà tâu:
- Xin bệ hạ nhớ cho: “Vua cũng là người”.
Vua sai người nhắc mình mỗi ngày như thế là để chế ngự tính khí kiêu ngạo, là thói thường làm hư hoại cuộc sống con người.
Vua chẳng qua cũng chỉ là một người. Chúng ta cũng hãy nên tự nhắc cho mình hoặc viết chữ lớn dán ở phòng ngủ: Ta nên nhớ ta là một người, phận sự ta phải ăn ở cho xứng đáng.
Đối với bản thân hay tha nhân, ta phải luôn sống cho xứng nhân vị là bậc làm người.
Thánh Philipphê Nêri biết tính mình rất nóng và trước Mình Thánh Chúa, ngài xin Chúa giúp ngài chữa lành tính nóng nảy này. Chúa hứa giúp ngài.
Sau đó Nêri bước ra khỏi nhà thờ và chỉ công việc cho giáo dân. Hôm đó một anh thanh niên xưa nay rất thân với ngài bỗng dưng không chịu nghe lời lại còn dám cãi to tiếng với ngài nữa. Nêri nổi giận “sạt” anh ta một trận. Nhưng sau đó, ngài nghĩ lại, hối hận vì sự nóng nảy của mình, và xin Chúa tha. Cuối ngày hôm đó, lại có một giáo dân bình thường, rất hiền lành, dễ bảo, nay bỗng trở chứng, làm Nêri nổi cơn thịnh nộ một lần nữa.
Tối đó, trước Mình Thánh Chúa, Nêri cúi đầu thưa Chúa:
- Con xin lỗi Chúa vì con đã nóng nảy. Mà tại sao Chúa lại không giúp con sửa tính xấu này?
Chúa trả lời thánh nhân rằng:
- Con ạ, con xin Ta giúp sửa đổi tính nết và Ta đã giúp con bằng cách cho hai người bạn thân tốt của con tạo dịp cho con sửa mình, thế mà con đâu nhận ra đó là ơn của Ta!
Vâng, đừng quá quan trọng chính mình. Hãy coi mình chỉ là một con người...
Lạy Chúa, Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. Amen.
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng: "Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat".
Đức Khổng Tử đòi người quân tử phải có năm đức tính gọi là ngũ thường. Đứng đầu của ngũ thường là lòng nhân. Ngài viết: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử? Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân, dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân (Luận Ngữ, IV, 5). Trong giáo huấn của Đức Giêsu, lòng nhân có một chỗ đứng đặc biệt. Hai lần câu này của ngôn sứ Hôsê được trích dẫn trong Mátthêu: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (9, 13; 12, 7). Xem ra câu này không dễ hiểu, nên Ngài khuyên ta học cho biết ý nghĩa. Giữ ngày sabát là điều rất quan trọng trong Do thái giáo. Theo Luật Chúa, đó là ngày nghỉ ngơi, ngừng mọi công việc. Đối với người Pharisêu, bứt lúa được xem như gặt lúa, nên là việc bị cấm làm. Hành vi bứt lúa của các môn đệ bị coi là vi phạm ngày sabát. Thay vì trách họ theo lời người Pharisêu, Thầy Giêsu lại bênh vực họ. Ngài trưng dẫn trường hợp Đavít và các thuộc hạ khi đói bụng đã ăn bánh thánh hiến vốn dành riêng cho các tư tế (Lv 24,5-9; 1 Sm 21,1-6). Hiển nhiên đây là chuyện vi phạm Lề Luật vì có nhu cầu chính đáng. Nếu chấp nhận chuyện Đavít thì càng phải chấp nhận chuyện của các môn đệ, vì họ đi theo một Đấng mà Đavít phải gọi là Chúa (Mt 22, 43). Luật giữ ngày sabát thật ra không phải là một đòi buộc luân lý tuyệt đối. Các tư tế phải làm việc phụng sự Chúa, chuẩn bị các lễ vật vào ngày sabát. Nếu họ được phép vi phạm ngày sabát mà không mắc tội (c. 5), thì huống hồ là Thầy Giêsu và các môn đệ của Ngài, những người làm việc cho Nước Trời, nhưng lại phải chịu đói nên mới bứt lúa. Đức Giêsu không có thái độ bất kính với ngày sabát. Nhưng Ngài là chủ ngày sabát, Ngài có quyền xác định điều gì được phép làm. Ngài thấy gánh nặng đè lên con người bởi những cấm đoán chi li, khiến con người ngột ngạt, mệt mỏi. Giữ Luật phải đem lại cho con người hạnh phúc, phải đi với lòng nhân. Giữ Luật mà cứng nhắc, thiếu lòng nhân, lòng bao dung, thì đó là thứ hy lễ Chúa không cần (Hs 6, 6). Thật ra không có sự đối nghịch giữa luật lệ với lòng nhân. Giữ luật là cách biểu lộ lòng nhân, vì luật trên hết là luật yêu thương. Người giữ luật thực sự là người có khuôn mặt vui tươi và trái tim rộng mở. Khi yêu thì người ta trở nên chi li. Không phải chi li để xét đoán người khác. Nhưng chi li vì thấy những nhu cầu nhỏ bé của tha nhân. Chỉ xin giữ mọi luật lệ nhỏ bé thật chi li, chỉ vì yêu bằng tình yêu quá lớn. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ, nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con. Cho con biết yêu những công việc bé nhỏ mỗi ngày, những công việc âm thầm, những bổn phận mà con làm vì yêu mến. Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày, vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ, nhưng làm tim con đau đớn. Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ, đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực, sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa. Hơn nữa, xin cho con can đảm, dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn, nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con. Mỗi lần bị cám dỗ tự cao, xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi, con đường bé nhỏ và khiêm hạ. Ước gì con được làm bạn của Chúa trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ, và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen. -------------------------------
Cuộc sống thế giới hôm nay đảo điên. Bậc thang giá trị đảo lộn. Con người u u mê mê chẳng còn phân biệt được thật giả, đúng sai, ác thiện. Người ta không còn phân định được đâu là giá trị tối thượng. Chúa Giê-su phân định rạch ròi.. Theo Chúa Giê-su Thiên Chúa yêu thương con người. Và vì thế con người cần phải xác đinh 3 chân lý.
Giá trị tối thượng là sự sống. Sự sống là món quà quí giá nhất Chúa ban cho con người. Có sự sống là có tất cả. Mất sự sống là mất tất cả. Vì thế những gì vi phạm sự sống cần được tháo bỏ. Những người hủy diệt sự sống phải bị trừng phạt. Vì thế Chúa đề cao việc cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Vì thế Chúa trừng phạt người Ai cập vì hủy hoại sự sống của người Ít-ra-en (năm lẻ). Vì thế Chúa bênh vực các tông đồ tuốt lúa ngày sa-bát. Sự sống là giá trị tối thượng.
Lề luật tối thượng là lòng nhân hậu. Để bảo vệ con người cần phải có luật lệ. Để xã hội tiến triển trật tự cần phải có luật lệ. Nhưng nếu những luật lệ đó trở thành bất nhân, không bảo vệ con người, không đem lại hạnh phúc cho con người, cần phải phá bỏ. Thờ phượng Chúa là điều phải làm. Nhưng nếu vì lề luật mà bất nhân thì Chúa không ưng nhận. Chúa khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hi lễ”. Lòng nhân hậu là lề luật tối thượng.
Quyền tối thượng là ở nơi Thiên Chúa. Có sự sống. Có luật lệ để bảo vệ sự sống. Nhưng Thiên Chúa mới là chủ của cả sự sống lẫn luật lệ. Vì thế Thiên Chúa có quyền trên sự sống và luật lệ. Mà Thiên Chúa lại là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Vì lòng nhân hậu Người sẵn sàng phá vỡ luật lệ cho vua Khít-ki-gia được sống thêm 15 năm khi thấy những giọt nước mắt và nghe tiếng khóc của vua (năm chẵn). Người ra tay trừng phạt Pha-ra-ô và người Ai cập vì đã thấy Ít-ra-en bị bóc lột và nghe thấy tiếng họ rên siết than van. Người bênh vực các tông đồ tuốt lúa ăn vì Người thương các ông đói bụng. Và Người làm chủ ngày sa-bát.
Xin cho con nhận biết quyền tối thượng của Thiên Chúa trong lịch sử, trong thế giới và trong đời con. Để con giữ luật tối thượng theo lòng nhân hậu của Người. Biết kính trọng giá trị tối thượng là sự sống Chúa ban tặng.
Chương 12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải là Ðấng Mêsia.
Việc dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế nào?
Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: "Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.
Vả lại, những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận điều này.
Xin Chúa giúp chúng ta vượt qua tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin cho chúng ta tâm hồn nhân từ như Chúa để biết đối xử với người khác mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Cuộc tranh luận trên của Chúa Giêsu với những người biệt phái được tường thuật cách đầy đủ trong cả bốn Phúc Âm, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu này thì tác giả xem ra muốn lưu ý độc giả hai điểm: thứ nhất là lòng nhân từ ưu tiên trên việc thực hành những việc đạo đức và thứ hai là quyền hành của Chúa Giêsu vượt lên trên những việc đạo đức.
"Ta ưa thích lòng nhân từ chứ không ưa thích của lễ". Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của ta đối với anh chị em. Cần hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ lo xét đoán anh chị em theo những việc bề ngoài. Hơn nữa, những việc đạo đức trong đó có việc nghỉ ngày sabát là để con người đến gần Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đang hiện diện giữa các tông đồ, Người làm cho những việc đạo đức khác trở thành thứ yếu, bởi vì một khi đã đạt đến mục tiêu là sống hiện diện với Chúa rồi, thì những phương tiện, những việc đạo đức phải nhường chỗ. Nếu các biệt phái chấp nhận rằng các thầy tư tế làm việc trong đền thờ vào ngày nghỉ sabát sẽ không lỗi luật nghỉ sabát, thì những đồ đệ của Chúa Giêsu lỗi luật ngày sabát sao được vì đã có Chúa bên cạnh họ rồi.
"Ðây có Ðấng cao trọng hơn đền thờ". Chúa Giêsu dùng việc tranh luận để mạc khải về chính mình là Ðấng cao trọng hơn đền thờ, là Ðấng Thiên Sai, Ðấng dĩ nhiên có quyền trên ngày sabát. Ước chi chúng ta đừng xét xử anh chị em qua những việc đạo đức bên ngoài. Những việc làm này là điều tốt, đáng làm, nhưng không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối để ta dựa vào mà xét xử anh chị em. Lòng nhân từ thì quan trọng hơn.
Lạy Chúa, Xin giúp con vượt qua được tinh thần vụ hình thức trong đời sống đức tin. Xin thương ban cho con tâm hồn nhân từ yêu thương như Chúa, để biết cảm thông và đối xử với anh chị em chung quanh mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Khi ấy vào ngày sa bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Những người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sa bát!” (Mt. 12, 1-2)
Các môn đệ đói.
Các môn đệ Chúa bị cơn đói dày vò. Luật ngày sa bát không cho phép các ông bứt lúa mà ăn trong ngày ấy. Các môn đệ vẫn cứ bứt lúa ăn. Các người Pha-ri-sêu cho đó là xì-căng-đan. Đức Giêsu dùng sự cố này để bày tỏ quan điểm của Người về ngày sa bát.
Quan điểm đó của Chúa, chúng ta biết rõ rồi. Ngày sa bát phải phục vụ con người… ngày sa bát được phép làm điều lành. Nếu những luật chi phối ngày sa bát đã nén cản trở yêu thương, ta không được làm nô lệ cho những luật ấy và ngần ngại vi phạm. Nhưng thực tế không phải là phạm luật, bởi lẽ có môt luật được đặt lên hàng ưu tiên và làm lu mờ mọi luật khác: Luật tình yêu. Để yêu thương để giúp người đang túng đói, ta đừng phải sợ thay đổi nội quy, tập tục và luật lệ.
Có những người đang đói.
Theo thói quen ta vốn nghĩ là mình không còn nô lệ cho những luật lệ bất công vốn ngăn trở ta phục vụ tha nhân. Ta lầm rồi đấy. Những luật ấy tuy không áp dụng cho việc tuân giữa này sa bát hoặc ngày chúa nhật, nhưhg nó vẫn tồn tại.
Trên thế giới có những người đang đói ăn. Có nhiều người đang đói ăn. Cónhững người đang chết đói. Cần phải cho họ ăn. Cần phải có đủ trí tưởng tượng và con tim mới giúp họ sống được. Những điều gì đang xảy ra. Có những luật ngăn cản người ta chừng nào hay chừng ấy trong công việc cứu giúp những con người đói khổ kia.
Những luật này, chính các nước giầu tự ấn định cho mình, không những để cho mình vẫn là những nước giầu có mà muốn khuếch trương thêm sự giầu có của họ. Những luật ấy chính chúng ta tự đặt ra cho mình để tiếp tục sống trong tiện nhgi xa hoa.
Ngày nào chúng ta mới dám vi phạm tất cả những luật lệ này để có được một con tim rộng mở biết yêu thương hơn nữa.
Chúng ta vẫn thường nghe những người khác tôn giáo nhận định về người Công Giáo như sau: “Những người theo đạo Công Giáo sướng thật! Ngày Chủ nhật họ ăn mặc đẹp, nghỉ ngơi để đi lễ nhà thờ”.
Lời nhận định tuy thật đơn sơ nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy rằng: Ngày Chúa Nhật là ngày của Chúa. Ngày tưởng niệm và tạ ơn Chúa vì Ngài đã tạo dựng nên tất cả cho con người hưởng dùng. Đồng thời cũng là ngày tưởng niệm hồng ân cứu chuộc của Đức Giêsu nơi lịch sử nhân loại. Trong ngày này, chúng ta thi hành việc bác ái, nâng đỡ những người túng thiếu, bần cùng. Đồng thời, chúng ta cũng dùng ngày này để làm mới lại tình yêu của mọi thành viên trong gia đình.
Như vậy, vì tình yêu, Thiên Chúa dựng nên tất cả. Cũng vì tình yêu, con người được đón nhận tất cả. Nên cũng chỉ có con đường duy nhất chính là tình yêu để dẫn đưa con người đến gặp Thiên Chúa và đến được với nhau.
Nếu làm mọi chuyện chỉ vì sợ tội, sợ mất chức, sợ tiếng chê, rồi sinh ra nhu nhược hay tàn ác trong khi thi hành bổn phận thì thật là tắc trách. Tự bản chất, con đường này không thể gặp được Thiên Chúa và không thể có mối tương quan thân tình với nhau, bởi vì nó được thi hành bằng mệnh lệnh của cái đầu mà không phải bằng tình thương của trái tim.
Hôm nay, Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu về thái độ nệ luật của họ, nên đã đánh mất đi tương quan với Thiên Chúa và với nhau trong tình yêu. Họ đã thể hiện và củng cố uy quyền của mình bằng sự tàn ác, vô nhân đạo và mất đi tính người. Vì thế, Đức Giêsu cho họ biết là lòng nhân hậu thì quý hơn của lễ được làm nên bởi sự ích kỷ, bất nhân, tàn ác. Thiên Chúa cần sự bao dung, tha thứ và nhân hậu trong của lễ. Vì thế, Đức Giêsu đã nói: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế” (Mt 12, 7).
Như vậy, Đức Giêsu nhấn mạnh đến ý nghĩa cốt lõi của ngày Sabát và đưa con người đến chỗ nhận ra ý định yêu thương của Chúa, đồng thời mời gọi con người biết cộng tác vào việc thánh hóa ngày ấy theo như ý Thiên Chúa muốn.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì nhờ lề luật của Chúa mà chúng con được tự do, hạnh phúc. Xin cho chúng con biết tuân giữ luật vì lòng yêu mến. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta biết ý nghĩa của lề luật: lề luật là để phục vụ con người, giúp con người thực thi ý muốn của Thiên Chúa là sống nhân nghĩa với tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhóm biệt phái thường bất bình tranh luận với Chúa về những điều được phép hay không được phép làm trong ngày lễ nghỉ. Nhân những cuộc tranh luận ấy, Chúa cho chúng con hiểu rằng tôn giáo không phải là một quyền lực áp đặt, để biến con người thành một thứ máy móc, hay những kẻ nô lệ. Trái lại, sống trong đạo là một hành động của tình yêu mến. Chúa đã khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không muốn lễ tế”.
Lạy Chúa, Chúa đến không phải để đánh đổ mọi tập tục và lề luật, nhưng là để kiện toàn chúng bằng cách mặc cho chúng tinh thần bác ái yêu thương. Vì thế, mọi lề luật đều trở nên trống rỗng và vô nghĩa nếu không được tuân giữ vì tình yêu.
Lạy Chúa, con chợt giật mình khi nhiều năm tháng qua con sống một cách máy móc, giữ giới răn Chúa là vì sợ chứ không phải vì yêu mến Chúa và yêu mến anh chị em. Vì vậy, đời sống đức tin đối với con là một gánh nặng, các thứ lề luật đè nặng trên vai đôi lúc tưởng chừng như không kham nổi. Con cũng chẳng khác gì người biệt phái, sống giả dối, hình thức bề ngoài, còn nội tâm thì trống rỗng khô khan.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho đời sống bất xứng của con. Xin ban cho con Thần Khí Tình Yêu của Chúa, để từ nay con sẽ sống cho Chúa và tha nhân với tất cả tình yêu, hầu đáp lại tình thương mà Chúa đã dành cho con. Amen.
Nhà giảng thuyết Alexander Smellie có lần viết: Cụm từ “tôi phải” là một quy luật đạo đức khi lương tâm được ơn trên soi sáng hướng dẫn, nhưng khi lương tâm lệch lạc vì tội lỗi, hẹp hòi và quá khích, câu đó có thể đẩy ta vào chỗ đi ngược lại Đức Kitô.
Một người Ấn Độ nói với một quan chức Anh: “Khi người chồng chết, thì lương tâm bảo chúng tôi là phải hoả thiêu người vợ góa trong tang lễ của chồng”.
Quan chức Anh đáp: “Nếu anh làm thế, thì lương tâm bảo tôi là phải treo cổ anh !”.
Suy niệm
Ngày Sabát là ngày thánh thiêng vì là ngày của Chúa, ngày nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng dân của Ngài. Từ “Sabát” theo tiếng Hipri có nghĩa là “nghỉ ngơi”, tức là ngừng hoạt động. Muốn ám chỉ ngày thứ Bảy, sau sáu ngày sáng tạo, ngày thứ Bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi (x. St 2,1-2) cho con người cũng được nghỉ ngơi trong Chúa. Việc giữ ngày Sabát trở thành luật lệ Cựu ước vào thời Môisê. Ngày Sabát được quy định để dân Chúa tuyển chọn - dân Israel:
Nhớ sự hoàn tất cuộc sáng tạo của Thiên Chúa (x. Xh 20,8-11).
Giữ dấu hiệu Giao ước Đức Chúa với dân Israel - dân được tuyển chọn (x. Ed 20,12).
Nhớ sự cứu chuộc Đức Chúa giải phóng ách nô lệ Ai Cập cho dân Ngài (x. Đnl 5,12-15).
Cho nên với người Do Thái, việc giữ ngày Sabát một cách tỉ mỉ chu đáo nói lên tầm quan trọng của đời sống trong tôn giáo… Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (x. Xh 31,14), bị ném đá (x. Ds 15,32-36).
Câu chuyện xảy ra vào một ngày Sabát: Thầy trò Giêsu đang mệt vì đói, băng qua đồng lúa và các môn đệ đã bứt các bông lúa để ăn. Theo sách Đệ Nhị Luật thì hành động này được phép làm: “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa” (x. Đnl 23, 26). Nhưng theo các người biệt phái, điều này bị cấm làm trong ngày Sabát, vì các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa và vò trong tay (trước khi ăn như người ta thường làm) giống với việc gặt và xay lúa, mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm trong ngày Sabát. Cho nên, người biệt phái kết luận việc các môn đệ bứt lúa tức là làm việc là phạm đến Luật Môisê.
Đức Giêsu đã trưng dẫn chuyện vua Đavít để trả lời cho sự buộc tội của người pharisiêu với môn đệ Ngài: Đavít là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21,1-6). Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24,5-9). Vào ngày Sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế dùng, cho nên vua đã làm điều không được phép làm. Trong truyền thống Do Thái, vua Đavít là thánh vương nên được coi là đạo đức mẫu mực. Nếu Đavít và các thân cận khi đói lấy bánh tiến dành riêng cho tư tế, có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó cũng có thể được miễn giữ ngày Sabát thánh như sách Macabê cũng đã nhắc đến (x. 1Mcb 2,34-38).
Hơn thế nữa, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là “Chúa” của ngày Sabát. Ngài mạc khải chính mình như là sự sống viên mãn và là cùng đích của giới luật ngày Sabát. Ngài đưa ngày Sabát đến viên mãn. Ngài mặc cho ngày đó một ý nghĩa tương quan với con người do ân sủng và tình thương của Thiên Chúa: “Ngày Sabát được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabát”.
Ðể chứng minh điều đó, Chúa đã chữa người bại tay trong ngày Sabát. Qua đó, Chúa Giêsu dạy chúng ta dùng ngày Chúa Nhật - Sabát mới trong mầu nhiệm Phục sinh, để thờ phượng Chúa và phục vụ anh chị em, làm cho anh em sống triển nở trong ơn thánh. Chúng ta quyết tâm vâng lời Chúa và tha thiết cầu nguyện cho mọi Kitô hữu hiểu ý nghĩa của ngày Chúa nhật - Sabát của Kitô giáo.
Ý lực sống:
“Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Người biệt phái trách môn đệ Chúa Giêsu không giữ ngày hưu lễ, vì bứt gié lúa để ăn lúc đói. Người biệt phải chỉ xét trên mặt chữ của bản luật, mà không nhìn thấy nhu cầu của anh em mình. Luật được Thiên Chúa ban hành không phải để gò ép, nhưng là để thăng tiến con người, giúp con người đi trên con đường ngay thẳng. Vì thế, phục vụ con người đúng lý, đúng cách là thi hành luật trọn hảo nhất. Do đó, Chúa Giêsu đã nói với người biệt phái: “Ta chuộng nhân nghĩa chứ không phải lễ tế”.
Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ nhị luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ Sabat, thuộc giới răn thứ 3 trong Thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố Lề Luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần già, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ – luật sĩ – biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ; còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ (Hiền Lâm).
“Paparazzi” theo tiếng Ý là tên gọi những tay chuyên rình chụp hình lén những nhân vật nổi tiếng để gây xì-căng-đan. Nhưng người Biệt phái này hẳn cũng đóng vai paparazzi đeo bám theo Chúa Giêsu và các môn đệ bén gót mới có thể bắt gặp các ông này bứt lúa ăn trong ngày sabat, một việc họ bảo là không được phép làm trong ngày hưu lễ. Thế là có cớ để “kiếm chuyện” với Chúa Giêsu. Mang sẵn một định kiến đầy ác ý tìm cách bắt lỗi người khác như thế là tự bít kín mọi ngõ ngách để cảm thông, và đồng thời biến lề luật trở thành công cụ săn lùng và kết án người khác (5 phút Lời Chúa).
Hôm nay, trước cảnh các môn đệ Chúa Giêsu đói bụng, bứt mấy bông lúa vò nát để ăn, nhân cơ hội này người biệt phái bắt bẻ Chúa Giêsu về luật sabát, bởi vì:
- Người Biệt phái chú tâm đến hình thức của luật đến nỗi quên đi bản chất của luật là bác ái yêu thương, họ sẵn sàng để người khác đói khát chứ không thà lỗi luật. Luật là cứu sống chứ không phải giết chết.- Họ vốn chủ trương là hassidim, nghĩa là giữ luật cách khắt khe, nên khi bắt bẻ Chúa Giêsu là ngầm ý đề cao mình và che giấu sự giả hình của mình.
- Họ xem luật như cứu cánh và bắt buộc Thiên Chúa phải theo ý họ mà thưởng công cho họ. Trong khi luật chỉ là dẫn đường, còn cùng đích phải là Thiên Chúa.
Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin mừng Nhất lãm, nhưng nơi Tin mừng Matthêu, tác giả lưu ý hai điểm:
- Thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức.
- Thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức.
Trả lời cho thắc mắc của những người biệt phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xảy ra trong Cựu ước liên quan đến Đavít và những người tuỳ tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm; hoặc việc các tư tế trong Đền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: ”Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: ‘Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội”. Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em những việc bên ngoài (Mỗi ngày một tin vui).
Lề luật tối thượng là lòng “nhân hậu”. Để bảo vệ con người cần phải có luật lệ. Để xã hội tiến triển trật tự cần phải có luật lệ. Nhưng nếu những luật lệ đó trở thành bất nhân, không bảo vệ con người, không đem lại hạnh phúc cho con người, cần phải phá bỏ. Thờ phượng Chúa là điều phải làm. Nhưng nếu vì lề luật mà bất nhân thì Chúa không ưng nhận. Chúa khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ”. Lòng nhân hậu là lề luật tối thượng.
Truyện: Tấu khúc nhạc yêu thương
Thi sĩ George Herbert, người Anh, ngoài tài làm thơ, ông còn có năng khiếu về hoà nhạc.
Một buổi tối nọ, lúc đang trên đường đi dự buổi hoà nhạc, thi sĩ gặp một chiếc xe ngựa bị sa lầy. Trên xe hàng hóa chất rất nặng. Bác đánh xe ngựa thì già yếu và con ngựa thì quá đỗi gầy còm.
Không chút ngần ngại, thi sĩ đã bỏ cây đàn bên vệ đường rồi giúp bác đánh xe ngựa bốc dỡ hàng hoá và đẩy chiếc xe ra khỏi vũng lầy. Sau đó, ông lại tiếp tục giúp xếp hàng lên xe. Rồi nhìn con ngựa gầy còm mà ái ngại cho nó, ông tặng bác đánh xe ngựa một số tiền để mua cỏ cho nó ăn.
Công việc xong xuôi thì trời đã về khuya. Bộ đồ dạ hội của thi sĩ cũng đã lem luốc những bùn. Tuy thế, ông vẫn đến nơi đã hẹn. Tới nơi thì buổi dạ hội đã xong rồi.
Một người bạn nói với ông: “Nhà thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hoà nhạc tuyệt vời”.
Thi sĩ George Herbert mỉm cười đáp lại: “Phải, đúng thế. Nhưng để đền bù lại, tôi đã tấu được một khúc nhạc tuyệt vời hơn rất nhiều. Đó chính là tấu khúc nhạc yêu thương”.
Chúa Giêsu bị các người biệt phái kết án vì chuyện các môn đệ Ngài bứt lúa trong ngày Sabbat.
Thực ra điều mà các người biệt phái trách không phải vì họ đói mà bứt lúa để ăn (x. Đnl 23,26; cho phép ăn lúa nơi đồng của người khác), nhưng vì họ đã làm việc trong ngày hưu lễ (x. Xh 34, 21; cấm gặt lúa trong ngày Sabbat: người biệt phái quá vụ luật đã coi việc bứt vài bông lúa có nghĩa là gặt lúa!). Trong câu chuyện này cũng nên lưu ý câu trả lời của Chúa Giêsu trích Hôsê 6,6: “Ta muốn tình thương chứ không màng hy lễ”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Vụ việc này là một mình họa cho thấy Luật (“ách”) của người biệt phái do không có tình thương trong đó nên đã trở thành nặng nề như thế nào. Họ không hề quan tâm đến cơn đói của các môn đệ, mà chỉ rình mò xem các ông có làm gì phạm đến luật không để mà kết án.
Khi không có tình thương, mọi sở hữu nhỏ nhoi của anh chị em tôi đều có thể bị tôi kết án. Ngược lại, khi đã thương thì tôi có thể thông cảm cho những sai lầm đó cách đễ dàng.
2. “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”: Chúa Giêsu muốn tôi lấy lòng nhân từ mà đối xử với anh chị em. Đó chính là của lễ quý hơn mọi của lễ khác mà tôi có thể dâng lên cho Chúa.
3. “Con người cũng là chủ của ngày Sabbat”: tôi phải giữ luật vì Chúa chứ không phải vì luật.
4. Qua vụ việc này, Chúa cũng dạy ta đừng xét đoán người khác một cách ”lý thuyết”, mà phải để ý đến hoàn cảnh nữa.
5. Ngày nọ Khổng Tử dẫn đệ tử từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám đệ tử có Nhan Hồi và Lộ Tử là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất.
Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi. Ngày đầu tiên đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người nhà giàu biếu một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Lộ Tử và các môn sinh khác vào rừng kiếm củi, còn Nhan Hồi dảm nhận việc nấu cơm.
Đang đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe thấy tiếng động ở nhà bếp. Nhìn xuống, Ngài bắt gặp Nha hồi đang mở vung xới cơm cho tay vào nắm từng nắm nhỏ rồi bỏ vào miệng. Khổng Tử than thở: ”Người học trò tín cẩn nhất của Ta lại là kẻ ăn vụng”.
Khi Lộ Tử và các môn sinh khác trở về, Khổng Tử cho tập họp các môn sinh lại và nói: ”Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm cho Thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương, Thầy muốn xới một bát cơm để cúng Cha mẹ. Nhưng liệu nồi cơm này có sạch không?”
Nhạn Hồi chắp tay thưa: ”Dạ nồi cơm này không sạch. Khi cơm vừa chín con mở vung ra xem thử. Chẳng may một cơn gió tràn vào. Bồ hóng và bụi rơi xuống làm bẩn nồi cơm. Sau đó con xới cơm bẩn ra định vất đi. Nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em thì đông. Cho nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi”.
Nghe Nhạn Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng: ”Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ”.
6. “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”. (Mt 12,7)
Tôi đứng đó dưới ánh mặt trời. Trước mặt tôi bóng đen đổ dài phía sau trên nền đất. Tôi chợt nghĩ: Mặt trời sao đen thế!
Xoay người 180 độ, cái bóng vẫn đổ dài phía sau trên nền đất. Nhưng truớc mặt tôi Mặt trời bừng sáng rược rỡ.
Lời Chúa hôm nay hé mở cho tôi lối sống mới, lối sống tự do của lòng nhân từ, không sợ hãi, không hình thức nệ luật.
Lạy Chúa, bước vào đời con phải chấp nhận luật chơi của cuộc sống. Xin cho con luôn ý thức luật lệ chỉ là phương thức để con sống hoàn thiện và là cầu nối để con đến với Thiên Chúa và tha nhân. (Hosanna)
1. Luật pháp đã định rằng, những người đi đường nếu đói thì được bứt vài bông lúa hay bẻ vài cái bắp bên đường để ăn. Các môn đệ của Chúa đã dùng tay bứt vài bông lúa chứ không dùng liềm để cắt. “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh có thể lấy tay bứt những bông lúa, nhưng không được tra liềm cắt lúa của người đồng loại” (Đnl 23,26). Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh Thánh” kể rằng, khi ông du hành qua xứ Palestine thì thấy phong tục này vẫn còn.
Thế nhưng, dưới mắt những đạo sĩ và các luật sĩ Do Thái thì sự việc không đơn giản như thế. Lỗi của các tông đồ không phải là bứt và ăn bông lúa mì nhưng vì họ đã làm việc ấy trong ngày Sabat. Luật ngày hưu lễ rất phức tạp và rườm rà. Luật pháp cấm làm việc trong ngày Sabat nhưng những nhà dạy luật không hài lòng với sự cấm đoán đơn thuần đó, phải định rõ là việc làm gì. Vì thế, họ nêu ra 39 việc bị cấm làm trong ngày Sabat. Trong số những việc bị cấm đó có việc gặt hái, đập lúa và nấu nướng. Tuy nhiên, những nhà giải thích luật không chỉ đưa ra rồi để vấn đề ở đó. Mỗi mục trong danh sách ghi những việc làm bị cấm phải được định nghĩa rõ ràng. Ví dụ: cấm mang gánh nặng. Nhưng gánh nặng là gì? Một gánh nặng là bất cứ vật gì cân nặng bằng hai trái vải khô. Trong ngày Sabat, tất cả những gì có thể tượng trưng cho việc làm đều bị cấm. Sau này, một giáo sư nổi tiếng người Do Thái là ông Maimonides nói: “bứt bông lúa mì cũng là một cách gặt”.
Đáp lại sự chỉ trích của các luật sĩ và đạo sĩ Do Thái, Chúa Giêsu đưa ra ba luận điểm:
a. Ngài trích dẫn “hành động của Đavid” (1Sm 21,1-6)
Khi Đavid và những người tùy tùng của ông bị đói chạy vào đền Tạm - đền Tạm hay lều Tạm không phải Đền thờ vì việc này xảy ra trước khi Đền thờ được xây dựng và ăn bánh tiến là bánh chỉ thầy tư tế mới được phép ăn. Đavid và đám tùy tùng của ông bị đói nên đã lấy bánh thánh này ăn và họ không bị bắt lỗi gì. Như vậy sự đòi hỏi của nhu cầu con người, sự đói khát của con người là khẩn thiết hơn bất kỳ tập quán và nghi lễ nào.
b. Ngài trích dẫn việc làm ở Đền thờ trong ngày Sabat.
Nghi lễ trong đền thờ cũng luôn luôn liên hệ đến việc làm: nào nổi lửa, giết và chuẩn bị con vật tế lễ, nào mang chúng lên bàn thờ và nhiều việc khác nữa. Thế nhưng, đối với thầy tư tế thì những việc làm này hoàn toàn đúng, vì những việc này được coi là việc phụng vụ trong đền thờ cần phải được tiếp tục.
Nhưng cũng những công việc này mà được người khác làm thì lại vi phạm luật.
c. Ngài trích dẫn lời Thiên Chúa nói với tiên tri Hôsê: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ” (Hs 6,6).
Điều Thiên Chúa muốn hơn của lễ là tình yêu thương. Trong câu chuyện này, Chúa Giêsu đã đưa ra nguyên tắc là sự đòi hỏi của nhu cầu con người phải được đặt trước mọi đòi hỏi khác. Sự đòi hỏi của việc thờ phượng, của nghi lễ, của phụng vụ rất là quan trọng và có chỗ đứng của nó, nhưng ưu tiên trên mọi đòi hỏi vẫn là những đòi hỏi của nhu cầu con người.
2. Khi vì nhu cầu chính đáng của con người, thì những giá trị khác do con người đặt ra phải lui lại đàng sau.
Thi sĩ George Herbert, người Anh, ngoài tài làm thơ còn có năng khiếu về âm nhạc. Thi sĩ thường cùng với bạn bè ngồi ngâm thơ và hòa nhạc.
Một buổi tối, lúc đang trên đường đi dự buổi hòa nhạc, thi sĩ gặp một chiếc xe ngựa bị sa lầy. Trên xe hàng hóa chất nặng. Bác xà ích thì già yếu và con ngựa thì quá đỗi gầy còm.
Không chút ngần ngại, thi sĩ đã bỏ cây đàn bên vệ đường rồi giúp người xà ích bốc rỡ hàng hóa và đẩy chiếc xe khỏi vũng lầy. Sau đó, ông lại tiếp tục xếp hàng lên xe. Rồi ái ngại cho con ngựa còm, ông tặng bác xà ích một số tiền để mua cỏ cho nó.
Công việc xong xuôi thì trời đã về khuya. Và bộ đồ dạ hội của ông cũng đã lem luốc những bùn. Tuy thế, ông vẫn đến nơi đã hẹn. Tới nơi thì buổi dạ hội đã xong rồi.
Một người bạn nói với ông:
- Nhà thơ của chúng tôi đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời.
Thi sĩ George Herbert mỉm cười đáp:
- Phải, đúng thế. Nhưng để bù lại, tôi đã tấu được một khúc nhạc tuyệt hơn nhiều.
Đời người ví như một khúc nhạc. Nhưng có khúc nhạc nào đẹp cho bằng những khúc nhạc tình thương được vang lên tự cõi lòng con người.
Một cử chỉ đẹp, một hành vi quảng đại, một hy sinh quên mình vì tha nhân đều là nốt nhạc của tình thương yêu chân thành. Chúng vang lên để khích lệ, để phấn khởi lòng người, để làm cho cuộc đời thêm tươi sáng và an vui.
* Vốn là người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa Giêsu ban ơn tha thứ, Maria Mađalêna đã hết tình phục vụ Người. Trong cuộc thương khó, khi các Tông Đồ mạnh ai nấy chạy thì thánh nữ đã can đảm đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, cùng với Đức Maria, tông đồ Gioan và một số phụ nữ khác. Đức Giêsu đã tưởng thưởng lòng trung thành đơn sơ của thánh nữ khi hiện ra với thánh nữ sáng ngày phục sinh và trao cho thánh nữ trách nhiệm loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ của Người. Chẳng phải vô cớ mà phụng vụ Đông phương đã gọi thánh nữ là”tông đồ của các tông đồ”.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy ở đâu".) Bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni", nghĩa là "Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con". Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
Mối tương quan thân thiết giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna đã được một vài tác giả khai thác và dựng thành truyện. Từ tiếng nức nở của Maria Mađalêna bày tỏ tình yêu với Thầy Giêsu trong vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar của thập niên 70, đến chuyện Đức Giêsu bị đóng đinh mà còn mơ lấy Maria làm vợ, đẻ con, trong truyện Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Nikos Kazantzakis. Gần đây nhất là cuốn Mật mã Da Vinci đã hấp dẫn cả triệu người, dù câu chuyện giữa CGS và Maria Mađalêna hoàn toàn hư cấu. Theo các sách Tin Mừng, Maria Mađalêna không hề là gái gọi. Chị không phải là cô Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe (Lc 10, 39), hay cô Maria xức chân Chúa ở Bêtania bằng dầu thơm hảo hạng (Ga 12, 3). Chị cũng không phải là người phụ nữ tội lỗi ở nhà ông Pharisêu (Lc 7, 36). Maria Mađalêna là người quê ở vùng Mácđala, gần bên hồ Galilê. Chị đã được Đức Giêsu trừ bảy quỷ, và đã đi theo Thầy từ Galilê cùng các bà khác (Lc 8, 1-3; 23, 49. 55). Chị đã theo Thầy đến tận Núi Sọ và đứng bên Thầy bị đóng đinh (Ga 19, 25). Chị là người đầu tiên ra viếng mộ buổi sáng ngày thứ nhất (c. 1). Không thấy xác Thầy, chị hốt hoảng chạy về báo cho 2 môn đệ khác (c. 2). Sau đó chị lại đến mộ lần nữa để tìm xác Thầy (c. 11). Nếu không mến Thầy, chị chẳng thể can đảm theo đến cùng như vậy. Ngôi mộ tự nó là nơi buồn, buồn hơn vì xác Thầy cũng không còn đó. Những giọt nước mắt của chị làm ai cũng phải mủi lòng. Thiên thần và Đấng phục sinh đều hỏi một câu giống nhau: Sao chị khóc? Maria khóc vì thấy mình mất đi một điều quý báu. Bận tâm duy nhất ám ảnh chị là tìm lại được xác Thầy. “Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” Ba lần chị đã nói lời tương tự như thế (cc. 2.13.15). Đấng Phục sinh đến với chị với dáng dấp của một ông làm vườn. Ngài chạm đến nỗi đau của chị: Sao chị khóc? Ngài chạm đến khát vọng của chị: Chị tìm ai? Ngài gọi tên của chị bằng tiếng gọi quen thuộc: Maria. Với giọng nói ấy, chị nhận ngay ra Thầy và reo lên: Rabbouni. Đức Giêsu đã lau khô những giọt lệ của chị và cho tim chị vui trở lại. Chị chỉ mong tìm được xác Thầy, thì lại gặp được chính Thầy đang sống. Maria Mađalêna là người phụ nữ được thấy Chúa đầu tiên (c. 18), và được Chúa sai đi loan Tin Mừng phục sinh cho chính các tông đồ (c. 17). Đời chúng ta nhiều khi như ngôi mộ, mất mát và trống vắng. Chúng ta đau đớn vì mất Chúa, mất những gì mình yêu quý xưa nay. Nhưng nếu ngôi mộ không trống thì làm sao có Tin Mừng phục sinh? Chỉ mong chúng ta tìm kiếm Chúa với rất nhiều tình yêu như chị Maria, vì biết mình sẽ gặp được điều quý hơn cái mình đã mất. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn. Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ. Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh. Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, *** là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.(Chân phước Têrêxa Calcutta) --------------------------------
Sứ điệp: Yêu mến Chúa là sức mạnh, là động lực, là lẽ sống và là niềm hy vọng của cuộc sống người Kitô hữu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu mến Chúa mà bà Maria Ma-đa-lê-na đã can đảm có mặt dưới chân thập giá khi Chúa chịu chết. Vì yêu mến Chúa mà bà đã vội vã viếng thăm mộ Chúa, để rồi được diễm phúc gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Cũng vì yêu mến Chúa, mà bà đã sốt sắng, mau mắn loan báo cho các môn đệ về Tin Mừng Chúa đã sống lại.
Lạy Chúa, vì con chưa yêu mến Chúa nồng nàn, nên con còn cảm thấy đời sống đạo là một gánh nặng chồng chất của lề luật. Vì con chưa yêu mến Chúa thật tình, nên con chưa thể quên mình để sống bác ái với mọi người. Vì chưa yêu mến Chúa hết lòng, nên con vẫn sống hời hợt, không lý tưởng, con vẫn chưa thay đổi cuộc sống. Con vẫn bước đi trên lối mòn của con đường cũ, con đường lấy của cải vật chất làm mục đích, lấy hưởng thụ làm hạnh phúc, lấy ích kỷ làm niềm vui.
Lạy Chúa, vì yêu mến Chúa mà bà Maria Ma-đa-lê-na làm được tất cả. Xin cho con có được một lòng mến Chúa thiết tha như thế, để con là nhân chứng cho tình yêu Chúa trong xã hội nhân loại hôm nay, để con can đảm và say mê loan báo Tin Mừng của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, và để con đem Chúa đến cho những ai đang cần sự hiện diện của Chúa, bằng chính cuộc sống của con khi biết hy sinh, quảng đại, chia sẻ và phục vụ họ. Amen.
Thánh nữ Maria thành Magđala (Mácđala hay Mađalêna) là người được gọi đầu tiên trong số các phụ nữ được Chúa Giêsu chữa bệnh, nay theo và phục vụ Người (x. Lc 8,2).
Trong Phúc Âm có nói nhiều về những người mang tên Maria, cũng được Chúa chú tâm đặc biệt, ít nhất là có ba người, đó là các bà Maria thành Béthania (miền Giuđê), bà Maria thành Magđala (miền Galilê) và người đàn bà tội lỗi vô danh trong Phúc Am Thánh Luca (x. Lc 7).
Phụng vụ Giáo Hội La Mã, kể từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, đều coi Maria này là người đàn bà tội lỗi, rửa chân cho Chúa Giêsu (x. Lc 7,36-50) và là chị của Mátta và Lagiarô (x. Lc 10,38,50; Ga 12,1-8). Thế nhưng khoa Thánh Kinh ngày nay không xác tín điểm này.
Điểm chắc chắn không ai tranh cãi là Maria Magđala đã đứng dưới chân Thánh Giá của Chúa Giêsu (x. Mc 15,40-41). Bà hiện diện nơi cuộc táng xác Chúa (x. Mc 15,47) và vào buổi sáng phục Sinh, bà cùng mấy phụ nữ đã đi ra mồ Chúa (x. Mc 16,1-8). Chính bà là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra và sai đi báo cho các Tông Đồ tin mừng Phục Sinh (x. Mc 16,9; Ga 14-18).
A- Phân tích (Hạt giống...)
Bài tường thuật của Gioan, cũng về những chuyện sáng ngày Phục sinh, đặc biệt về Maria Mađêlêna:
1. Khi thấy ngôi mộ trống, Maria Mađêlêna”khóc” và”tìm” xác Chúa Giêsu. 2. Hai thiên thần hỏi lý do bà khóc. Hai vị chỉ hỏi chứ chưa nói Chúa Giêsu sống lại. 3. Chính Chúa Giêsu hiện ra với bà: ban đầu bà không nhận ra Ngài, khi Ngài gọi tên bà thì bà liền nhận ra. Ngài giải thích ý nghĩa việc sống lại:”Ta về cùng Cha Ta cũng là Cha của các con, về cùng Thiên Chúa cũng là Thiên Chúa của các con.” 4. Maria Mađêlêna báo tin Phục sinh cho các môn đệ.
B. Suy gẫm (... nảy mầm)
1. Việc Chúa Giêsu Phục sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩa và tình cảm của con người; bà Maria Mađalêna chính là đại diện; trước cái chết: nếu không tin việc Phục sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.
Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng đã quá cố. Người này thân hành trở bà đến sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói:”Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs.” Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp:”Ông nhà thật xứng đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp:”Nhưng ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà!”
2. Tình cảm của bà đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa, sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
3. Dù Maria không còn thấy gì và không còn nhận ra ai nữa cả, nhưng Chúa Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại.”Ta biết các chiên Ta… các chiên Ta biết Ta …” Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận biết Ngài không?
Một sinh viên cao đẳng đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh ta nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả các học sinh thân yêu tụ tập xung quanh anh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tôi cả các em đều được gọi nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng. Tên người thân thật quan trọng.
4. Chúa Giêsu đã hỏi Maria:”Tại sao con khóc?” và từ đó bà đã biến nỗi buồn của bà thành niềm vui. Nỗi buồn nào đang khiến tôi phải khóc thầm? Hãy dâng cho Chúa và xin Ngài hãy biến nó thành niềm vui.
5. Vì yêu mến Chúa, đôi khi tôi cũng thấy buồn vì không thấy Chúa: chung quanh tôi hình như không có chỗ cho Chúa ở, trong xã hội, trong những công việc và những con người. Xin cho thêm nhiều người biết Chúa, xin cho người ta biết dành chỗ cho Chúa trong việc làm và trong cuộc sống.
6.”Đức Giêsu gọi bà:”Maria” bà quay lại và nói:”Rapbuni” nghĩa là lạy Thầy.” Đức Giêsu bảo:”Thôi đừng giữ Thầy lại… nhưnhg hãy đi gặp anh em Thầy.”
“Này các chị có nghe điện thoại reo không? Sao tôi gọi mãi mà không có ai nhấc máy lên nghe vậy?” Từ dưới sân lầu, giữa trời nắng gắt, tiếng chị H, trực phòng khách lanh lảnh vang lên. Thật ra không phải chúng ta không nghe, nhưng ai cũng ngại nhấc máy. Vì đã nghe rồi thì sau đó phải”thông tin” lại cho người có liên quan hay phải đi gọi người dùm cho chị H.
Nhưng hôm nay, lời chị đánh động tôi rất nhiều. Vì đối với Chúa tôi cũng có thái độ như thế. Biết bao lần tôi đã dửng dưng trước những”cú phone” Chúa gọi cho tôi. Tôi không muốn nghe vì ngại phải thi hành những”Sứ điệp” của Chúa sẽ truyền dạy tôi. Cũng có thể nhiều lần Chúa gọi tôi ở đầu dây bên kia, nhưng tôi bận nghe hay nói với người khác ở đầu dây bên này. Như thế làm sao tôi có thể nghe được”điện” của Chúa?
Hôm mai táng Đức Giêsu, vì ít thời gian, người ta đã xức thuốc thơm cách hối hả. Sáng ngày sau, mấy bà đã đưa thuốc thơm đến mồ để làm lại cách chu đáo hơn. Khi đến nơi, các bà thấy ngôi mộ trống vì xác Ngài không còn nữa. Và Chúa hiện ra để củng cố đức tin cho các bà và sai họ đi báo tin cho các Tông đồ. Bài tường thuật của thánh Gioan hôm nay, ghi lại việc Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với bà Maria Madalena.
Khi thấy mồ Chúa mở toang, xác Chúa không còn trong mồ, bà Maria Madalena chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Mặc dầu bán tín bán nghi, hai ông Phêrô và Gioan cũng chạy ra mộ xem thực hư thế nào. Maria Mađalêna cũng chạy ra theo, ông Phêrô và Gioan, sau khi quan sát kỹ và thấy rõ xác Chúa không còn, hai ông ra về, một mình bà Maria Mađalêna ở lại mộ, ngậm ngùi, khóc lóc, thương nhớ Chúa, và Chúa đã hiện ra với bà, lúc đầu bà không nhận ra, nhưng sau một vài câu trao đổi, bà nhận ra Chúa và Chúa bảo bà hãy mau về kể lại cho các môn đệ hiện đang ở trong nhà Tiệc ly.
Bà Maria tức tốc chạy về nhà gặp các môn đệ đang nóng lòng chờ đợi. Họ vây quanh bà và hỏi:”Maria, chị hãy nói đi, chị đã thấy gì?” Bà Maria đáp:”Tôi đã thấy Chúa, Chúa đã hiện ra với tôi, Chúa gọi tên tôi và Chúa phán: ‘Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con, về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con’”. Những lời bà Maria nói đã phá tan mọi lo lắng, nghi ngờ nơi các Tông đồ, và lòng các ông tràn ngập vui mừng.
Niềm tin và sự gặp gỡ của con người với Đấng Phục sinh thường đến sau những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau. Điều này đã diễn ra với hầu hết các môn đệ của Đức Giêsu. Vào giữa lúc họ buồn bã quay về làng cũ, họ gặp Ngài. Vào giữa lúc họ từ bỏ con đường đi theo Ngài để trở về sau chuyến bôn ba của cuộc sống, Ngài đến với họ. Ngài cũng đến với họ khi họ giam mình trong sợ hãi, buồn phiền. Maria Mađalêna cũng được gặp Ngài giữa tiếng khóc than. Chính lúc bà tưởng mình đã mất tất cả, Ngài đã đến với bà.
Quả thật, Đấng Phục sinh thường đến với con người vào những lúc bất ngờ nhất và dưới những hình dạng con người không hề chờ đón. Hầu hết trong mọi trường hợp, Ngài đến với họ như người vô danh, một người mà họ không thể nhận ra tức khắc. Phục sinh là một biến cố lịch sử, nhưng không có bất cứ một người nào đã chứng kiến giây phút lịch sử ấy, từ các môn đệ cho đến chúng ta ngày nay.
Để tin nhận Ngài, con người luôn làm bước nhảy vọt trong các biến cố của cuộc sống, những biến cố ấy thường là những mất mát, thất bại và khổ đau. Cần phải trải qua đau khổ để đến vinh quang, đó là định luật của niềm tin, phép rửa nhờ đó chúng ta trở thành tín hữu Kitô, không đương nhiên biến chúng ta thành những người thông minh đĩnh đạc hay may mắn thịnh vượng hơn người. Nhưng chúng ta phải xem mình là những người may mắn nhất, bởi vì giữa tăm tối của cuộc sống, chúng ta vẫn còn nhận ra được ánh sáng; giữa những đổ vỡ, mất mát, thất bại và khổ đau, chúng ta vẫn tiếp tục tin tưởng (Mỗi ngày một tin vui).
Lúc này lúc khác – qua những biến cố, những dữ kiện – Chúa vẫn lên tiếng gọi thẳng tên chúng ta nhằm để chúng ta biết Người sống lại và hằng sống... Những lần gọi thẳng tên như thế sẽ giúp chúng ta bình an và đi tới để nói cho mọi người rằng: chúng ta có Chúa sống lại cùng đi…
Cô bé đi học về muộn... Ở nhà bố mẹ rất lo... Thấy cô về, bố mẹ hỏi xem cô đã đi đâu và làm gì?
- Con dừng lại giúp bạn con... Xe đạp của bạn con bị hỏng. - Nhưng con đâu có biết sửa xe? - Đúng ạ! Nhưng con dừng lại để cùng khóc với bạn ấy.
Truyện: Cần biết tên từng người
Dù bà Maria không còn thấy gì và không nhận ra ai nữa cả, nhưng khi Đức Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại,”Ta biết các chiên Ta... Chiên Ta biết tiếng Ta...”. Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận ra tiếng Ngài không?
Một sinh viên Cao đẳng sư phạm đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả những học sinh thân yêu của anh tụ tập xung quanh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tất cả các em đều được gọi, nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng.
Maria Mađalêna, là con một gia đình phú quý sang trọng.
Sau khi cha mẹ mãn phần, Ngài được hưởng một lâu đài kếch sù ở Magdala, miền Galilê, do đó người ta gọi Ngài là Maria Mađalêna. Với cái gia tài to tát nầy, Maria sống xa hoa, đài các, sa đọa, làm cớ cho cả vùng Galilê gièm pha khinh dể. Nàng sa đọa, trụy lạc đến nỗi trở nên nô lệ ma quỷ, bị ma quỷ ám hại?
2. Sau khi theo Chúa: Can đảm điều chỉnh lại cuộc đời
Nhưng Chúa Giêsu thương Maria, khiến cho nàng ước muốn gặp Người. Và đây cơ hội thuận tiện đã đến. Nàng nghe tin Chúa dự tiệc tại nhà ông Simon biệt phái, nàng chạy đến để gặp Người:
Và kìa một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Thấy vậy, ông Pharisiêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng:”Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: này ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông! Ông ấy thưa:”Dạ, xin Thầy cứ nói”. Đức Giêsu nói:”Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người nợ năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?. Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo:”Ông xét đúng lắm.”
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm. mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít. Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ:”Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7,3 7-48)
Từ đó, Maria Mađalêna nhiệt thành đi theo giúp việc Chúa, sống đời đạo đức thánh thiện. Khi Chúa chết, Ngài đứng dưới chân thập giá. Trong lúc mai táng Chúa, Thánh nữ cũng có mặt với các môn đệ, chính Ngài đã chứng kiến ngôi mộ trống và là người đầu tiên nhận ra Chúa phục sinh và loan báo Tin mừng phục sinh cho các môn đệ.
3. Sau khi Chúa về Trời: Hết lòng loan báo Tin Mừng Phục Sinh
Thánh Giáo Hoàng Ghêgôriô Cả đã khen ngợi lòng yêu mến thiết tha của thánh nữ như thế này:
“Maria Mađalêna, sau khi ra mồ và không thấy xác Thầy mình ở đây nữa, liền tưởng là người ta đã mang Thầy mình đi rồi và chạy đi đưa tin cho các môn đệ. Các môn đệ tới, thấy như vậy và tin lời người phụ nữ đã nói. Sách Thánh đã viết về họ rằng: Vậy các môn đệ trở về nhà. Nhưng tiếp theo: Còn Maria thì đứng lại ở ngoài cứa mồ mà khóc lóc.,,
Trong câu chuyện này, ta phải thấy tình yêu đã làm cháy lòng người phụ nữ kia đến thế nào. Chúng ta thấy dù các môn đệ đã ra về, nhưng chị vẫn không rời bỏ mồ Chúa. Chị còn muốn tìm Đấng mà người ta không thấy. Chị khóc lóc mà tìm. Và bởi cháy lửa tình yêu mến đối với Chúa, chị càng nồng nàn ao ước tìm được Đấng mà chị tưởng là người ta đã mang đi: chính vì vậy mà chỉ có một mình chị đã thấy Người vì chị đã ở lại mà tìm. Ở đây chúng ta nhớ lời của Chúa đã nói xưa được ứng: Ai kiên trung đến cùng sẽ được cứu rỗi”.
B. Bài học
1. Yêu mến và tha thứ luôn có họ hàng với nhau
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là”ảo ảnh cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến có thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình bàn tán về ý nghĩa của câu chuyện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng:
- Bấy giờ trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói:
- Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ.
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn sẵn sàng yêu thương tha thứ cho con cái tôi.
2. Sự trung kiên đến cùng bao giờ cũng mang lại những kết quả tốt đẹp
Một tu sĩ trẻ nọ được gởi đến làm việc với một số anh em khác, công việc của họ là dệt một khung vải rộng lớn, trên đó mỗi người ngày ngày dệt phần được trao phó, việc làm xem ra độc điệu và vô nghĩa. Ngày nọ, không còn chịu đựng nổi một công việc nhàm chán như thế. Người tu sĩ trẻ thốt lên với tất cả sự giận dữ của mình:
Trước khi tôi được sai đến đây, người ta nói với tôi về một công trình nghệ thuật cao cả mà tôi sẽ góp phần vào. Bây giờ tôi chỉ thấy rằng, tôi phải dùng kim đâm qua xỏ lại như một cái máy, tôi không thấy đâu là nghệ thuật cả.
Nghe thế, vị tu sĩ già mới nói với thầy như sau:
Con ơi làm sao con thấy được công trình nghệ thuật mà chúng ta đang cộng tác để thực hiện bởi những gì con đang thấy là mặt trái của tấm thảm. Hơn nữa, việc con đang làm là một điểm nhỏ trong công trình mà thôi.
Khi tấm thảm đã hoàn thành, người ta lật tấm thảm lại. Lúc bấy giờ, vị tu sĩ trẻ mới thấy rằng mình góp phần vào một tuyệt tác. Đó là bức tranh của Ba Vua triều bái hài nhi Giêsu, những đường kim mà người tu sĩ trẻ ngày ngày đút qua xỏ lại, chính là hào quang sáng chói trên đầu Chúa Hài Nhi. Điều mà thầy cho là vô nghĩa nhất giờ đây hiện lên như một kỳ công.
Maria Mađalêna hay còn gọi là Maria. Sau khi được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ, ngài đã theo Chúa trên hành trình đi rao giảng (x. Mc 16,9; Lc 8,1-3) Thánh nhân là nhân chứng đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (x. Ga 20,1-18) kể lại những gì Chúa nói với ngài (x. Ga 20,18). Ngài đặt cho tước hiệu Apostolorum Apostola - Tông đồ của các Tông đồ. Vì ngài đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
Câu chuyện
Maria Mađalêna, hay”Maria Mácđala”, người được Ðức Kitô chữa khỏi bảy quỷ (x. Lc 8,1-3). Maria Mađalêna bị”nhận diện sai lầm” trong 20 thế kỷ vì người ta cho rằng cô là người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt rửa chân Ðức Giêsu (x. Lc 7,36-50). Và người ta cũng lầm lẫn Maria Mađalêna với Maria thành Bêtania, em của Martha. Ba người tên Maria (Ngoài Đức Maria - Mẹ của Chúa Giêsu) mà Tân ước đề cập là ba nhân vật khác nhau.
Maria Mađalêna là một trong những người đã giúp đỡ Ðức Giêsu và nhóm Mười hai bằng các phương tiện của họ (x. Lc 8,2-3). Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Ðức Giêsu với Ðức Mẹ và Gioan tông đồ. Khi táng xác Chúa, Maria Mađalêna và Maria vợ ông Clêôphas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa Giêsu. Maria là một trong những nhân chứng”chính thức” đã được chọn để chứng kiến sự Phục sinh và loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh.
Suy niệm
Maria Mađalêna và các chị em lúc ban đầu đi ra thăm mộ với những bước đi nặng nề, sợ hãi tâm hồn lạnh lẽo đang than thở khóc lóc… bỗng trở nên vui tươi, rạng rỡ vì gặp Ðấng Phục Sinh…
Bà quá vui mừng và muốn giữ Ngài lại cho riêng mình. Nhưng Ðức Giêsu thúc giục bà hãy loan tin Ngài đã phục sinh:”Ðừng giữ Ta lại... hãy đi gặp anh em Ta và hãy báo tin.”...
Theo mệnh lệnh của Đấng Phục sinh, Mađalêna hoan ca reo vui ra đi loan báo cho các môn đệ: Thầy đã sống lại và”Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18).
Sứ điệp tin mừng Phục sinh là niềm vui khôn tả nhưng luôn khẩn cấp không thể chần chừ trì hoãn vì Ðức Giêsu đã chết, sự chết làm tiêu tan tất cả và Ngài đã Phục sinh thông ban cuộc sống mới cho chúng ta: Cuộc sống được ra khỏi bóng tối của thế gian và những sự ràng buộc của nó, ra khỏi mùa đông lạnh lẽo đầy sự chết của ngôi mồ biểu tượng quyền bính của thần chết và bước vào ánh sáng của mặt trời công chính vừa bừng dậy sau giấc ngủ của đêm dài, bước trong sự ấm áp của nắng xuân Phục sinh.
Chúa Kitô Phục sinh về cùng Cha. Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta. Ngài về để mở đường đón chúng ta cùng về bên Cha.
Maria Mađalêna hoan ca loan báo tin mừng Chúa sống lại tựa những bông hoa tươi nở của mùa xuân Phục sinh, tâm hồn của chúng ta cũng bừng tỉnh đâm chồi, nảy lộc, kết những bông hoa của niềm tin vào Đấng Phục sinh:
Con muốn sống mùa xuân tươi trong Chúa Để tình con với Thầy chẳng hề phai Như hoa tươi tô đậm mãi Thiên ngai Xuân phục sinh, Nguồn sống mãi bất tận. (Cao Trí Dũng, Mùa xuân phục sinh).
Ý lực sống:
‘‘Nếu miệng bạn tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Chúa và con tim bạn tin rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết thì bạn sẽ được cứu rỗi” (Rm 10,9).
Ngoại trừ Mẹ Của Chúa Giêsu, trong các Phúc Âm ít có phụ nữ nào được viét đến nhiều và với đầy sự tôn kính bằng thánh nữ Maria Madalena mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay.
Tuy nhiên, người ta có thể gọi Maria Madalena là thánh nữ của sự vu oan vì tuy các Phúc Âm nói đến ba phụ nữ cùng mang tên Maria, nhưng truyền thống trong Giáo hội Tây phương đồng hóa cả ba thành một người phụ nữ duy nhất. Bởi lẽ đó, Maria Madalena cũng được cho là người phụ nữ tội lỗi không được nêu tên trong đoạn 7 của Phúc Âm thánh Luca, người đã bất chợt đem bình dầu thơm xức chân Chúa Giêsu rồi lấy tóc lau và sau đó được Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi, vì bà đã yêu mến nhiều.
Ngày nay, người ta phân biệt ba thánh nữ mang cùng một tên Maria, mà từ lâu lịch phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp đã kính riêng rẽ. Ðó là Maria làng Bêtania, chị bà Martha và ông Lazarô. Rồi người phụ nữ đã được tha nhiều vì yêu mến nhiều và sau cùng là bà Maria Madalena, hoặc Maria làng Madala, người được Chúa chữa khỏi "7 quỷ dữ". Cách nói "7 quỷ dữ" này không thể hiểu là Maria Madalena đã sống một cuộc đời vô luân, nhưng chỉ có nghĩa là bà bị quỷ ám nặng nề.
Ðoạn 8 của Phúc Âm thánh Luca thuật lại hoạt động của thánh nữ Maria Madalena và một ít phụ nữ khác như sau: "Sau đó, Chúa rảo qua các thành, các làng mà rao giảng... Có nhóm Mười Hai đi với Ngài và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỷ dữ cùng bệnh hoạn: Maria gọi là người Madala, đã được đuổi khỏi 7 quỷ dữ và Gioanna... cùng nhiều bà khác: Họ đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài".
Và con đường nối gót theo thầy Giêsu đã dẫn Maria Madalena từ Galilêa đến Giuđêa, cho tới chân thập giá và chính Marian Madalena cũng là người trước tiên tìm đến mộ Thầy, vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, để được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi báo cho các tông đồ: "Hãy đi gặp anh em Ta và nói với họ: Ta lên cùng Cha ta và cũng là Cha anh em, Thiên Chúa của ta và Thiên Chúa của anh em".
Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời.
Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị mạo nhận là người đàn bà tội lỗi. Nhưng thiết nghĩ: Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng: "Sự mạo nhận này cũng không có gì là quá đáng, vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy chấp nhận sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta".
Maria Mađalêna là mẫu gương cho chúng ta, mẫu gương với tình yêu nồng nhiệt đi tìm Chúa, một tình yêu luôn thao thức muốn được sống gần bên Chúa. Và vì thế mà sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Maria vội vàng lên đường đi tìm Chúa. Ðây là quan tâm đầu tiên, quan tâm có ưu tiên trong cuộc sống của Maria, và khi chưa tìm được đối tượng là Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã an táng Chúa, Maria đứng ngoài và khóc.
Chúa Giêsu phục sinh đã không để cho Maria gặp thử thách lâu. Chúa đến với Maria và gọi đích danh bà, rồi biến đổi cuộc đời từ bên trong để sai bà đi làm người chứng đầu tiên cho Ðấng phục sinh nơi các môn đệ Chúa. Trong biến cố được ghi lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây, chúng ta thấy rằng để gặp được Chúa Giêsu, những cố gắng riêng của con người không mà thôi thì chưa đủ. Chính Chúa Giêsu phục sinh là người đi bước đầu, Chúa hiện ra và gọi: Maria. Chúa đáp lại thiện ý và cố gắng của Maria. Chúa luôn làm như vậy với tất cả những ai thành tâm tìm Chúa.
Chúng ta hãy noi gương Maria luôn đi tìm Chúa. Tìm Chúa trong lời cầu nguyện ngõ hầu cuối cùng chính Chúa mạc khải chính mình ra cho kẻ tìm Ngài, ngõ hầu chúng ta có thể nhận ra Ngài và loan báo cho anh chị em chung quanh: tôi đã gặp Chúa, tôi đã nhìn thấy Chúa.
Lạy Chúa,
Xin cho con được gặp Chúa. Xin đừng để con phải rời xa Chúa là Thiên Chúa mãi mãi.
Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la mà chúng ta mừng kính hôm nay, sinh ra tại Mác-đa-la, gần biển hồ Ga-li-lê. Mặc dầu từ thế kỷ thứ VI, Giáo hội Tây Phương thường đồng hóa tên của Ngài với một số phụ nữ có tên Ma-ri-a trong Kinh Thánh. Nhưng thực sự Ngài không phải là Ma-ri-a người chị em với Mát-ta và La-za-rô (x. Lc 10,39.42), cũng không phải là người phụ nữ vô danh xức dầu cho Đức Giêsu tại Bê-ta-ni-a mà các sách Tin mừng kể lại (x. Mc 14,3-9; Mt 26, 6-13; Ga 12, 1-8). Ngài không phải là người phụ nữ tội lỗi”đã được tha thứ nhiều nên yêu mến nhiều” trong Tin mừng theo Thánh Luca (x.7,36-50), và càng không phải là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,2-11).
Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la đã được Đức Giêsu trừ cho khỏi 7 qủy (Lc 8,2). Sự việc này không có nghĩa Ngài là người phụ nữ có quá khứ tội lỗi, nhưng chúng ta chỉ có quyền hiểu vì Ngài bị qủy ám. Đây là biến cố hết sức quan trọng trong cuộc đời của Ngài. Vì sau khi được Đức Giêsu chữa lành, Thánh Nhân đã đi theo làm môn đệ của Đức Giêsu. Ngài có mặt trong những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Ngài đã lấy của cải mình có để giúp Chúa và các môn đệ trong công việc loan báo Tin mừng. Thánh Luca kể lại:”Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ” (Lc 8,1-3).
Trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, hầu hết các Tông đồ bỏ trốn thì chính Ngài đã trung thành theo Đức Giêsu mãi tới đồi Can-vê, cùng với Đức Maria và Thánh Gioan đứng gần bên Thập Giá Đức Giêsu (x. Mc 15, 40-41). Không những thế, Ngài còn có mặt khi Đức Giêsu được người ta an táng trong hang đá.
Đặc biệt, theo Tin mừng thì Ngài là người đầu tiên gặp được Đức Giêsu phục sinh (x. Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1.9; Lc 8,2; 24,10; Ga 19,25; 20,1.11.16.18). Vì sao Ngài lại được vinh dự đó? Có lẽ nhờ lòng yêu mến và nhiệt thành của Ngài đối với Đức Giêsu.
Tin mừng hôm nay kể lại rằng:”Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ”(Ga 20,1). Ngài nhìn vào trong mộ không thấy xác Đức Giêsu đâu, nên Ngài khóc (x. Ga 20,11). Lúc đó, Đức Giêsu hiện ra với Ngài và gọi chính tên Ngài. Rồi, Đức Giêsu nhắn nhủ Ngài đi báo cho các Tông đồ biết là Người đã sống lại. Ngài đã đi và báo với các môn đệ rằng: Tôi đã thấy Chúa, và bà kể lại những điều Người đã nói với Ngài (x. Ga 20,15-18).
Theo truyền thống Hy Lạp, Thánh Nữ Ma-ri-a Mác-đa-la sống quảng đời cuối cùng ở Êphêsô và qua đời tại đó.
Qua một số chi tiết liên quan đến cuộc đời của thánh Ma-ri-a Mác-đa-la chúng ta có thể rút là những bài học sau đây:
Thứ nhất, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la là một người phụ nữ quảng đại, đã góp công, góp của để giúp Đức Giêsu và các môn đệ trên con đường truyền giáo. Mỗi người chúng ta cần phải có lòng quảng đại giúp đỡ không chỉ trong công việc xây dựng các công trình vật chất của giáo xứ, giáo phận, mà còn đóng góp công của để giúp đỡ các hoạt động truyền giáo của Giáo hội tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Thứ hai, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la là người phụ nữ can đảm và trung thành. Ngài không chỉ theo Chúa khi Người rao giảng, làm phép lạ, được dân chúng tung hô mà Ngài còn trung thành ở bên cạnh Chúa trên con đường khổ giá. Cụ thể khi Ngài đứng bên Thập giá lúc Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng. Khi mọi người đang an giấc thì chính Ngài đã chạy ra mộ để xức thêm dầu thơm cho Thầy mình. Mỗi người chúng ta cũng hãy noi gương Thánh Nhân biết can đảm theo Chúa nhất là những lúc gặp gian nan, đau khổ và gánh nặng cuộc đời, vì”Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” (Mt 16,24).
Thứ ba, Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la đã trở thành người đầu tiên loan báo Tin mừng phục sinh. Thần học gia Augustine, Chính thống giáo, thế kỷ IV đã gọi Ngài là:”Tông đồ đối với các Tông đồ”. Tiếp tục sứ mạng của Thánh nhân và các Tông đồ, mỗi người chúng ta cũng hãy cố gắng loan báo Tin mừng phục sinh bằng lời nói, qua các phương tiện truyền thông, qua đời sống cầu nguyện và đặc biệt là bằng đời sống chứng nhân…
Lạy Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Ma-ri-a Mác-đa-la, xin cho mỗi người chúng con biết luôn trung thành với Chúa, can đảm trước những thử thách gian nan, nhất là nhiệt tâm trong việc loan báo Tin mừng Phục Sinh. Amen.
Thánh Maria Mađalêna (hoặc Maria Mácđala, Mai Đệ Liên) được cả Công giáo, Chính thống giáo, Anh giáo, và Tin lành Luther tôn kính là một vị thánh, lễ nhớ ngày 22-7 hằng năm. Các Giáo hội Tin lành khác tôn kính bà là nữ anh hùng đức tin. Chính thống giáo Đông phương cũng kính nhớ bà vào Chúa nhật Myrrh-bearers (người mang dầu thơm).
Tên”cúng cơm” của Thánh Maria Mađalêna là Μαρία (Maria), và người ta thường chấp nhận ở dạng Latin được viết là Μαριὰμ (Mariam). Tên Maria rất phổ biến trong thời Chúa Giêsu vì liên quan việc cai trị thời Hasmonea và các triều đại Hêrôđê.
Tuy nhiên, bà bị tai tiếng vì bà bị hiểu lầm là”người phụ nữ tội lỗi” đã khóc và xức dầu thơm chân Chúa Giêsu.
Thực ra Maria Mađalêna (Hy ngữ: Μαρία ἡ Μαγδαληνή) là một phụ nữ đạo đức và can đảm. Trong Tân ước, Thánh Maria Mađalêna được coi là người phụ nữ quan trọng thứ nhì sau Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Bà đồng hành với Chúa Giêsu cùng với các Tông đồ. Bà hiện diện trong hai thời điểm quan trọng nhất của Chúa Giêsu: Chịu đóng đinh và phục sinh. Trong 4 Phúc Âm, tài liệu lịch sử cổ xưa nhất nhắc đến tên bà, ít nhất 12 lần, hơn cả các Tông đồ khác. Phúc Âm diễn tả bà là người đủ can đảm nên mới có thể đứng bên Chúa Giêsu trong thời gian Ngài chịu khổ nạn, chịu chết và sau đó.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã trừ bảy quỷ và chữa bệnh cho bà (x. Lc 8:2; Mc 16:9), đôi khi được hiểu là các chứng bệnh phức tạp. Bà nổi bật nhất trong những ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên thế gian. Khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, bà có mặt ở đó với Ngài, trong giây phút khủng khiếp nhất, và bà đã than khóc Ngài. Sau khi các Tông đồ”bỏ của chạy lấy người”, trừ Thánh Gioan Tông đồ, bà vẫn ở bên Chúa Giêsu. Khi an táng Chúa Giêsu, bà là người duy nhất được kể tên trong cả 4 Phúc Âm khi biết Chúa Giêsu phục sinh và chính bà là nhân chứng đức tin. Ga 20:11-18 và Mc 16:9 xác nhận bà là người đầu tiên gặp Chúa Giêsu phục sinh. Bà có mặt vào ngay giây phút đầu tiên mà sau đó biến đổi Tây phương. Bà là”Tông đồ đối với các Tông đồ”, một cách nói kính cẩn mà thần học gia Augustine (Chính thống giáo, thế kỷ IV) đã dành cho bà, và những người thời Giáo hội sơ khai cũng nói về bà như vậy.
Mặc dù ngày xưa bà bị mang tai tiếng khi người ta mô tả trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, và cả những cuốn sách và các bộ phim mới đây, như The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci), ngày nay người ta cũng đồng ý điều này:”Không có chứng cớ Kinh Thánh nào chứng tỏ bà là gái điếm, người vợ, người mẹ, hoặc người yêu bí mật”.
Trong cả 4 Phúc Âm, Thánh Maria Mađalêna hầu như luôn được phân biệt với các phụ nữ khác tên là Maria bằng cách thêm chữ Mađalêna vào tên bà. Theo truyền thống, điều này có nghĩa bà là người vùng Mađalêna, một thành phố thuộc Tây duyên hải Galilê. Lc 8:2 nói rằng bà thực sự được gọi là Mađalêna. Theo tiếng Do thái, Mađalêna (Migdal, מגדל) nghĩa là”tháp”,”thành lũy”; theo tiếng Aram, Mađalêna nghĩa là”tháp” hoặc”được nâng lên, cao cả, nguy nga”. Các bản văn truyền thống Do Thái nói:”Miriam, hamegadela se’ar nasha” – Maria, người bện tóc phụ nữ (Hagigah 4b; x. Shabbat 104b), có thể nói Maria Mađalêna phục vụ như một người thợ làm tóc (kiểu làm đầu, uốn tóc ngày nay).
Trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, Thánh Maria Mađalêna cũng được nhắc tới bằng tên Maria ít nhất là 2 lần. Các văn bản không chính thức khác thì dùng tên Maria, Maria Mađalêna, hoặc Mađalêna.
Ngày nay, hầu như người ta đồng ý điểm quan trọng: Người ta cho rằng Thánh Maria Mađalêna là”gái điếm sám hối”, đó là vô căn cứ. Tuy nhiên, Thánh Maria Mađalêna vẫn bị lầm lẫn với các phụ nữ khác cũng tên Maria và vài phụ nữ nặc danh vẫn bị coi là phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người ta đồng hóa Maria Mađalêna với nữ tội nhân vô danh nào đó (thường biết đến là phụ nữ ngoại tình) trong trình thuật Lc 7:36-50. Mặc dù Thánh Maria Mađalêna được nhắc tên trong cả 4 Phúc Âm, nhưng không lần nào nói bà là gái điếm hoặc tội nhân. Tân ước không hề có”gợi ý” nào nói bà là một cô gái làng chơi hoặc một phụ nữ trắc nết. Các học giả đương đại đã phục hồi”danh tiếng” cho Thánh Maria Mađalêna là người dẫn dắt quan trọng của Kitô giáo thời sơ khai.
Nhiều thế kỷ qua, Công giáo Tây phương dạy rằng Thánh Maria Mađalêna là người được nói tới trong các Phúc Âm vừa là Maria ở Bêthania vừa là”người đàn bà tội lỗi” xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Lc 7:36-50). Khái niệm về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm sám hối đã phổ biến qua nhiều thế kỷ, ít là từ Ephraim người Syria (thế kỷ IV), Thánh GH Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), nhiều họa sĩ, văn sĩ và các nhà chú giải Kinh Thánh cũng theo xu hướng đó. Từ thế kỷ XII, Abbot Hugh ở Semur (qua đời năm 1109), Peter Abelard (qua đời năm 1142), và Geoffrey ở Vendome (qua đời năm 1132) đều nhắc tới Thánh Maria Mađalêna là người tội lỗi và được tặng danh hiệu”apostolarum apostola” (Tông đồ đối với các Tông đồ), danh hiệu này trở thành phổ biến trong các thế kỷ XII và XIII.
Do đó, hình ảnh cô-gái-điếm-sám-hối trở thành”đặc điểm” bị gán cho Thánh Maria Mađalêna trong nghệ thuật và văn chương tôn giáo ở Tây phương. Vì hiểu sai về bà nên trong nghệ thuật, người ta thường vẽ bà mặc áo hở cổ, lả lơi, thậm chí có họa sĩ còn vẽ bà khỏa thân bên chiếc sọ đầu lâu với bình dầu thơm, và một tay cầm Thánh Giá, hoặc là một phụ nữ xa lánh mọi người để sám hối nơi hoang địa.
Sự đồng hóa đó là do Công giáo Tây phương, có trong bài giảng của Thánh GH Grêgôriô Cả vào khoảng năm 591. Thánh GH Grêgôriô Cả được coi là một trong những người ảnh hưởng nhất và trở thành giáo hoàng. Trong các bài giảng nổi tiếng của ngài về Thánh Maria Mađalêna, giảng tại Rôma, ngài đã xác định Mađalêna không chỉ là phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca, mà còn là Maria ở Bêthania, chị của Matta và Ladarô; chính bảy quỷ được Chúa Giêsu trục xuất”đã tạo thành 7 tội trọng, và Maria Mađalêna bắt đầu bị kết án không chỉ vì tội dâm dục mà còn vì tội kiêu ngạo và tham lam”. Bài giảng của Thánh GH Grêgôriô Cả về Phúc Âm theo Thánh Luca đã tạo thành cách hiểu chính thức của Giáo hội về Thánh Maria Mađalêna, cho rằng bà là phụ nữ”alabaster jar” (gái điếm).
Trong bài giảng XXXIII, Thánh GH Grêgôriô Cả nói:”Bà [Maria Mađalêna] là người mà Thánh Luca gọi là phụ nữ tội lỗi, Thánh Gioan gọi là Maria, chúng ta tin là Maria được trừ bảy quỷ trong Phúc Âm theo Thánh Máccô. Bảy quỷ này biểu hiện điều gì, nếu không phải là các thói hư? Anh chị em thân mến, rõ ràng là phụ nữ này trước đó đã xức thơm thân xác cô bằng những hành động bị cấm. Do đó điều cô biểu hiện càng khiếm nhã hơn, nhưng nay cô dâng cho Chúa bằng động thái đáng khen. Cô đã ham muốn bằng con mắt trần tục, nhưng nay cô ăn năn bằng nước mắt. Cô đã xõa tóc che mặt, nhưng nay cô dùng tóc lau khô nước mắt. Miệng cô đã nói những điều kiêu ngạo, nhưng nay cô dùng miệng hôn chân Chúa, cô đặt miệng mình lên chân Đấng Cứu Thế. Do đó, đối với mỗi niềm vui, cô đã có trong lòng, nay cô hy sinh chính mình. Cô biến tội lỗi thành nhân đức để phục vụ Thiên Chúa hoàn toàn trong sự ăn năn”.
Với điều này, tác giả Susan Haskins viết trong cuốn”Mary Magdalene: Myth and Metaphor” (Maria Mađalêna: Huyền thoại và Ẩn dụ):”Cuối cùng, hình ảnh xung đột của Thánh Maria Mađalêna cũng được sáng tỏ… sau gần 140 năm”.
Năm 1969, trong triều đại giáo hoàng của Chân phước Phaolô VI, Tòa Thánh không phê bình về nhận xét của Thánh GH Grêgôriô Cả, mà chỉ bỏ điều đó bằng cách tách biệt người phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca với bà Maria ở Bêthania và Maria Mađalêna qua Sách lễ Rôma.
Do đó, tai tiếng vẫn cứ”lờn vờn” bị gán cho Thánh Maria Mađalêna. Sau thời gian quá lâu, cách tin này trở thành”thâm căn cố đế” không chỉ trong Giáo hội Tây phương mà còn trong một số Giáo hội Tin lành đã từng theo truyền thống Công giáo Rôma.
Cách hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là cô-gái-điếm-sám-hối vẫn được nhiều văn sĩ và họa sĩ hồi thập niên 1990. Thậm chí ngay cả ngày nay, cách hiểu sai đó vẫn được truyền bá. Điều đó được phản ánh trong bộ phim của Martin Scorsese – phỏng theo tiểu thuyết”Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Đức Kitô” (The Last Temptation of Christ) của Nikos Kazantzakis, trong phim”Phúc Âm theo Chúa Giêsu Kitô” (The Gospel According to Jesus Christ) của José Saramago, trong”Siêu Sao Giêsu Kitô” của Andrew Lloyd Webber, trong”Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô” của Mel Gibson, trong”Màu Thập Giá” (Color of the Cross) của Jean-Claude La Marre và trong”Sách Sự Sống” (The Book of Life) của Hal Hartley.
Vì hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm nên người ta mới chọn bà làm bổn mạng của”các phụ nữ hư hỏng”, vì có một truyền thuyết lâu đời trong Giáo hội nói rằng bà là người phụ nữ tội lỗi vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu được thuật lại trong Lc 7:36-50, và Viện tế bần Mađalêna đã được thành lập để”cứu vớt” các chị em từ nhà thổ. Bà còn được coi là bổn mạng của những người bị vu khống.
Thánh sử Luca cho biết:”Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8:1-3).
Lúc Chúa Giêsu chịu khổ hình và phục sinh, Thánh Maria Mađalêna đã có mặt bên Chúa Giêsu. Trong số những người theo Chúa Giêsu chỉ có bà được nói rõ tên là nhân chứng 3 sự kiện quan trọng: Chúa Giêsu chịu khổ nạn, Chúa Giêsu chịu mai táng, và ngôi mộ trống. Mc 15:40, Mt 27:56 và Ga 19:25 nói đến Thánh Maria Mađalêna là nhân chứng khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, cùng với các phụ nữ khác. Thánh Luca không nêu tên nhân chứng, nhưng nói:”Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giêsu cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Galilê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23:49). Thánh Máccô nói:”Còn bà Maria Mađalêna và bà Maria mẹ ông Giôxết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người” (Mc 15:47), và Thánh Matthêu nói:”Còn bà Maria Mađalêna và một bà khác cũng tên là Maria ở lại đó, quay mặt vào mồ” (Mt 27:61). Lc 23:55 cho biết:”Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào”. Ga 19:39-42 mô tả:”Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó”.
Thánh Máccô, Matthêu và Gioan đều nói Thánh Maria Mađalêna là nhân chứng đầu tiên đối với việc Chúa phục sinh. Ga 20:1 cho biết Thánh Maria Mađalêna mô tả việc thấy ngôi một trống. Mc 16:9 nói:”Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ”. Thánh sử Mátthêu cho biết:”Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ” (Mt 28:1).
Sau khi thuật lại cho các Tông đồ biết Chúa Giêsu đã phục sinh, Thánh Maria Mađalêna không được nhắc đến trong Tân ước nữa. Bà cũng không được nhắc tên trong sách Công vụ, và”số phận” bà vẫn không được tài liệu ghi lại và không được”minh oan”. Có phải vì vậy mà bà cứ bị hiểu lầm là”người phụ nữ tội lỗi” chăng?
Đa số các học giả Kinh thánh ngày nay đều chứng tỏ rằng không có nền tảng Kinh thánh nào để lẫn lộn hai phụ nữ này. Maria Magđalêna, nghĩa là Maria ở Magđalêna, là người mà Chúa Giêsu đã đuổi”bảy quỷ” (Lc 8:2). Maria Mađalêna là một trong những người”giúp Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai”. Bà là một trong những người đứng bên Thánh giá với Đức Mẹ.
LM W.J. Harrington, Dòng Đa Minh, viết trong cuốn”Chú giải Công giáo mới” (New Catholic Commentary):”Bị bảy quỷ ám không có nghĩa là Thánh Maria Mađalêna đã sống cuộc đời vô luân, một kết luận chỉ đạt được bằng cách lầm lẫn với phụ nữ vô danh trong Lc 7:36”. LM Edward Mally, Dòng Tên, viết trong cuốn”Chú giải Kinh thánh của Thánh Giêrônimô” (Jerome Biblical Commentary):”Bà (Maria Mađalêna) KHÔNG là phụ nữ tội lỗi trong Lc 7:37, mặc dù có truyền thống lãng mạn Tây phương đã nói về bà”.
Hy vọng Thánh Maria Mađalêna sẽ không còn bị”mang tiếng” và không còn bị chúng ta hiểu lầm như xưa nay nữa!
Lạy Thánh nữ Maria Mađalêna, xin thương nguyện giúp cầu thay. Amen.
Trong chiều hướng duy trí (intellectualism) và duy ngã (egoism) của thời hiện đại, ồn ào nhất là nhóm muốn phục hồi tín lý của Ngộ Giáo (Gnosticsm); tín lý này cho rằng khi trí huệ của một người nào đó đạt tới mức thượng trí, người ấy có thể tự cứu độ cho mình. Định hướng đề cao trí thức và năng lực cá nhân của mô thức sống đạo này có sức hút rất mạnh nơi giới thanh niên. Một phần nó phù hợp với nếp sống phóng túng của người đương thời, phần khác nó rất gần với những niềm tin dễ dãi vào cõi huyền bí. Những vị sư phụ”đắc đạo” thần thông gặp thời xuất hiện khắp nơi. Đã có nhiều bạn Việt gọi sư phụ của mình là Thượng Đế, mặc dù họ thuộc những nhóm tu khác nhau. Trong giới lãnh tụ Tây Phương, hai nhà khoa bảng Robert Langdon và Leigh Teabing (1) là hai tay nổi bật nhất. Việc làm của hai vị này có chủ trương và hệ thống chặt chẽ. Trước hết hai ông phủ nhận vị thế Đấng Cứu Độ của Đức Giêsu. Nếu con người có thể tiếp xúc thẳng với Thương Đế thì đâu cần Đấng trung gian là Đức Giêsu. Sau đó họ phủ nhận Giáo Hội Công Giáo vì hệ thống này không còn giá trị và không cần thiết. Để hạ uy tín Đức Giêsu, hai ông vin vào kinh điển Ngộ Giáo và 2 sách Phúc Âm theo Philíp và Maria [Mađalêna] của ngụy kinh, để đưa ra luận chứng rằng Đức Giêsu đã có mối tình trần thế với bà Maria Mađalêna. Nhà văn Dan Brown phụ họa theo sáng tác ra truyện Da Vinci Code. Brown viết rằng bà Mađalêna đã có con với Đức Giêsu. Brown khéo léo viết truyện theo dạng tài liệu nghiên cứu nên cũng đã nổi danh khắp thế giới một thời. Điện ảnh Hollywood chộp cơ hội làm thương mại, họ tung ra phim cùng tên Da Vinci Code để ăn có, nhưng không tạo ra thêm một tiếng vang nào.
Sách và phim Da Vinci Code đã bị rất nhiều người lột trần sự sai lầm của chúng nên xin miễn nhắc lại. Vấn đề muốn nêu ra ở đây là ý đồ họ muốn dùng bà Maria Mađalêna làm đòn bẩy để hủy bỏ vị thế”Đấng Cứu Thế Giêsu”. Thánh Maria Mađalêna trở thành vấn nạn cho”đức tin tôn giáo” khi càng ngày càng có nhiều người lợi dụng sự mờ nhạt lịch sử, cố ý đưa ra những nhận định hàm hồ (2). Vô tình, bà là vị tông đồ duy nhất chịu rất nhiều ngộ nhận từ phía thế tục và, đáng tiếc, cả từ Giáo Hội.
Bà Maria Mađalêna Trong Ngụy Thư
Các học giả công giáo cho rằng hai sách phúc âm của Philíp và Maria [Mađalêna] được viết vào khoảng cuối thế kỷ II hay đầu thế kỷ III. Điều đáng nói là sách không do Philíp và Maria viết, vì lúc đó họ đã qua đời. Susan A. Calef (3) có công khảo sát hai quyển sách trên để tìm hiểu về mối tình giữa Đức Giêsu và bà Maria Mađalêna. Trong sách của Philíp, bà chỉ thấy có chữ”cảm thương” khi diễn tả lòng nhân từ của Đức Giêsu dành cho bà Maria Mađalêna. Một lối bộc lộ tình cảm rất bình thường. Trong sách của Maria có một đoạn nói rõ hơn. Đó là lần các tông đồ khiếu nại với Đức Giêsu rằng,”Tại sao Thầy lại yêu bà ấy hơn chúng tôi?” Câu nói này không đủ chứng cớ để đưa ra những nhận xét ác ý. Ngoài ra nếu phân tích kỹ câu nói, người ta sẽ thầy nhiều điểm vô lý của nó. Nếu thật sự Đức Giêsu và bà Maria có tình nghĩa vợ chồng, không lẽ các Tông Đồ lại ganh tị với bà.
Bà Maria Mađalêna Trong Chính Kinh
Cả bốn sách Phúc Âm chính kinh đều viết về bà Maria Mađalêna, nhưng lại không làm sáng tỏ vị thế đặc biệt của bà. Maria Mađalêna là ai? Tên thật của bà là Maria, bởi sinh trưởng ở xứ Mađala nên được gọi là Maria Mađalêna. Maria là một tên nữ rất thông dụng của dân Do Thái. Ngay mẹ của Đức Giêsu cũng có tên là Maria. Đa số các bà theo Đức Giêsu đều có tên là Maria. Thánh Kinh khi nhắc đến họ thường chỉ nói là”bà Maria.” Vì vậy người đọc hầu như không thể xác định được người được nhắc đến là bà Maria nào.
Theo các giáo phụ Hy Lạp, trong số những môn đồ nữ của Đức Giêsu, có ba vị trùng tên là Maria:
Bà Maria tội lỗi, người lấy nước mắt rửa chân cho Đức Giêsu (Luca 7:36-50). Bà Maria chị của Martha và Lazaru (Gioan 11:1-3 và Luca 10:38-42). Bà Maria xứ Mađala, tức Maria Mađalêna, người bị 7 quỉ ám (Luc 8:2).
Theo truyền thống Protestant chỉ có hai bà Maria.
Bà Maria xứ Bêthani, tức người đàn bà tội lỗi, cũng là chị em của Martha và Lazaru. Bà Maria xứ Mađala, tức người bị 7 quỉ ám.
Theo truyền thống Latin ba nhân vật nói trên chỉ là một người, đó là bà Maria Mađalêna. Ngoài ra Thánh Kinh còn nói tới một cô gái giang hồ, tức người đàn bà phạm tội ngoại tình (Gio 8:1-11). Cũng theo truyền thống Latin, Maria Mađalêna bị đồng hóa với cô gái này.
Chúng ta hãy lần theo sử liệu để thấy rõ tại sao lại có vấn đề bất nhất về sự nhận diện về bà. Trước hết theo thánh sử Luca, Đức Giêsu gặp bà Maria lần đầu tiên tại miền Galilê. Bà Maria này được nhận diện là người đàn bà tội lỗi, người rửa chân cho Đức Giêsu (Luc 7:36-50). Kế đó Đức Giêsu rời Galilê đến một tỉnh nào đó và Ngài đã làm phép đuổi 7 quỉ ám ra khỏi bà Maria Mađalêna (Luc 8:1-3). Tuy Thánh Kinh không nêu địa danh nơi Đức Giêsu làm phép đuổi quỉ, nhưng căn cứ vào địa danh Mađala, người ta có thể biết Đức Giêsu đã đi về hướng Bắc của xứ Galilê. Thánh Luca không nói gì đến sự đồng nhất giữa bà Maria bị quỉ ám và bà Maria”tội lỗi” ở Galilê. Sau đó Đức Giêsu đến một tỉnh khác, ta có thể phỏng đoán là tỉnh Bêthani. Tại đây Ngài gặp bà Maria chị em của Martha và Lazaru (Luc 10:38-42). Căn cứ vào 3 địa điểm khác biệt và cách quãng, nên đã có khuynh hướng tin rằng có 3 nhân vật Maria khác nhau. Tuy nhiên thánh sử Gioan lại khảng định 3 nhân vật trên chỉ là một người, đó chính là bà Maria Mađalêna (Gio 11:1-3; 12:1-3). Vì vậy sự lẫn lộn hàm hồ bắt đầu từ đấy.
Đã có nhiều giả thuyết giải thích về sự khác biệt của sử liệu, nhằm mục đích thống nhất những cá biệt về một mối. Chẳng hạn có thuyết cho rằng Bà Maria Mađalêna vốn là người xứ Mađala nhưng sinh sống ở Bêthani và có một thời cư ngụ ở Galilê. Thần học gia Elizabeth A. Johnson phủ nhận ý này vì nó đầy vẻ gượng ép. Elizabeth nhận xét rằng vì thánh Gioan khẳng định 3 nhân vật nói trên là một người, nên tín hữu đã có khuynh hướng uốn nắn lối nhìn theo chiều hướng ấy.
Theo Elizabeth, thánh Gioan viết Phúc Âm khoảng 50-80 năm sau khi Đức Giêsu chịu nạn. Thời gian 50-80 năm đủ để làm phai nhạt trí nhớ về độ chính xác của sự kiện. Hơn nữa thánh sử đặt trọng tâm vào sứ mạng truyền bá đạo lý hơn là việc ghi chép sử liệu. Do đó mọi tình tiết phụ thường chỉ dựa vào truyền thuyết mà viết lại chỉ cốt cho câu truyện được đầy đủ mà thôi. Vào lúc ấy bà Maria Mađalêna đã qua đời. Những gì viết về bà dù không được chính xác cũng không còn ai đính chính nữa. Một dẫn chứng về độ chính xác của thánh sử Gioan là biến cố bà Maria Mađalêna rửa chân cho Đức Giêsu. Cả hai thánh Máccô và Mátthêu đều nhất trí cho biết trước ngày lễ Vượt Qua 2 ngày, Đức Giêsu ở trong nhà ông Simon thuộc tỉnh Bêthani. Tại đây bà Maria Mađalêna đã rửa chân cho Đức Giêsu (Mac 14: 1-3; Mat 26: 1-8). Tuy nhiên thánh Gioan lại kể rằng sự kiện rửa chân xảy ra tại nhà bà Martha trước lễ Vượt Qua 6 ngày (Gio 12: 1-3). Nếu không muốn chấp nhận có hai lần rửa chân, chúng ta đành phải lựa một bỏ một. Trong trường hợp này sử liệu của hai thánh Máccô và Mátthêu chính xác hơn của thánh Gioan. Bởi vì hai vị đều tường thuật như nhau. Hơn nữa sách của họ được viết sau biến cố phục sinh khoảng 10 – 20 năm, thời gian rất gần với biến cố nêu ra và còn được hỗ trợ bởi nhiều nhân chứng còn sống.
Đi tìm Chân Dung Thánh Maria Mađalêna
Như vậy những gì chúng ta có thể biết chính xác về bà Maria Mađalêna là: bà là người xứ Mađala và là người bị 7 quỉ ám (Mac 16:9). Bà phụ giúp Đức Giêsu trong mọi hành trình rao giảng tin mừng (Luc 8:2-3). Bà là người đứng dưới chân Thập Tự giá lúc Đức Giêsu từ trần (Mac 15:40; Mat 27:56; Luc 23:49; Gio 19:25). Bà chứng kiến cảnh táng xác Đức Giêsu (Mac 15:47). Bà là nhân chứng đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (Gio 20:1-18). Với những sự kiện này, xét theo cương vị môn đồ, bà phải là một vị Tông Đồ có một vị thế rất cao trọng.
Sáu trăm năm sau, đại chúng dựa vào truyền thuyết cho rằng bà Maria Mađalêna là”người đàn bà tội lỗi” và là”người đàn bà ngoại tình.” Sự kiện này được hợp thức hóa bởi Giáo Hoàng Gregory Cả (590-604). Lỗi lầm về sự ngộ nhận này có thể hiểu là do sự vô ý hơn là chủ ý. Vào thời đó giáo hội không có lợi điểm lãnh hội sự đa dạng thâm sâu của thần học như ngày nay. Nhận định của Giáo Hoàng Gregory Cả chỉ là phản ảnh niềm tin của đại chúng. Theo truyền thống, tín hữu công giáo tin rằng người bị 7 quỉ ám phải là người tội lỗi nặng nề. Giáo hoàng Gregory Cả nhận định 7 quỉ tượng trưng cho 7 tội, trong đó nặng nhất là tội dâm ô. Trong chiều hướng ấy giáo lý về 7 mối tội đã được giáo hội khai triển ra. Nghiên cứu về lịch sử, các học giả thấy rằng vào thời đó giáo hoàng Gregory Cả khởi xướng chương trình cải tổ nền luân lý Kitô giáo. Vì nhu cầu lợi ích cho giáo dân, giáo hoàng đặt bà Maria Mađalêna vào địa vị gương mẫu cho chủ thuyết của ngài. Ngài muốn đại chúng thấy một bằng chứng điển hình để chứng minh kẻ tội lỗi nhất cũng có thể cải hóa.
Trên thực tế Thánh Kinh nói rất nhiều về trường hợp đàn ông bị quỉ ám, nhưng không có trường hợp nào nam nạn nhân bị gán là kẻ tội lỗi. Các thánh sử không hề đồng hóa sự việc bị quỉ ám với tội lỗi. Thần học cũng không thấy có sự liên hệ giữa hiện tượng quỉ ám và tội lỗi. Tại sao lại có thành kiến xấu về phía nữ nạn nhân bị quỉ ám. Thánh Kinh ghi rằng Đức Giêsu chữa lành bệnh quỉ ám cho bà Maria Mađalêna chứ không nói tha tội cho bà. Về vấn đề cô gái giang hồ, không hề có phúc âm nào, kể cả Phúc Âm theo thánh Gioan, cho biết người đàn bà ngoại tình là bà Maria Mađalêna (Gio 8:1-11). Tại sao chúng ta phải gán cho bà những tội mà chứng cớ sử liệu không có. Các giáo phụ thời giáo hội sơ khai không hề nói bà Maria Mađalêna là người tội lỗi, trái lại các ngài rất tôn trọng bà. Câu tuyên bố nổi tiếng của bà với các Tông Đồ:”Tôi đã thấy Chúa” (Gio 20:18) khiến các Tông Đồ cho bà là kẻ nói sảng (Luc 24:11). Nhưng chính câu tuyên bố ấy là nền móng xây dựng giáo hội Kitô và là bản tuyên xưng khải hoàn của giáo hội phục sinh. Cảm phục thành tích của bà, thánh Hippolytus Thành Lamã (khoảng năm 200) đã đặt cho bà tước hiệu”Apostolorum Apostola” (Tông Đồ của các Tông Đồ). Hợp lòng với thánh Hippolytus, thánh Augustine (354-430) nói,”Chính Chúa Thánh Thần đã khiến bà Maria Mađalêna trở nên Tông Đồ của các Tông Đồ.”
Với một vị thế như vậy, tại sao Maria Mađalêna không được Kinh Thánh lưu ý một cách đúng mức? Thực ra Thánh Kinh đã có nêu tên bà một cách đặc biệt, nhưng vẫn còn vướng mắc trong vấn đề văn hóa trọng nam khinh nữ. Vào thời đó người phụ nữ không có chỗ đứng trong xã hội. Ngay cả mẹ Đức Giêsu cũng ít được nhắc đến. Họ không được nêu tên ra trước công chúng. Các thánh sử thường dùng cách nói trống như”có mấy người phụ nữ” để gọi họ (Luc 23:55). Nếu có nhắc đến một cá nhân đặc biệt nào, người ấy thường được xác nhận nương vào tên của người đàn ông. Chẳng hạn”bà Maria vợ của Clôbát”,”bà Maria mẹ của Giacôbê” (Gio 19:25; Mac 15:40; Luc 24:10). Tuy thế tên của bà Maria Mađalêna đã được các thánh sử nhắc đến nhiều lần. Điều đó chứng tỏ bà là người nổi bật không thể bỏ qua. Nhiều khi có nhiều bà hiện diện, nhưng thánh sử vẫn chỉ nêu danh của riêng bà:”có bà Maria Mađalêna và những bà Maria khác” (Mat 28:1).
Các học giả và thần học gia Công Giáo kêu gọi tín hữu hãy có một nhận định mới về thánh Maria Mađalêna (4). Xưa kia bà đã là nạn nhân của sự ngộ nhận gán cho bà là kẻ đầy tội lỗi. Ngày nay bà lại là nạn nhân trong sự lợi dụng của phong trào đề cao cá nhân và giải phóng phụ nữ. Chủ thuyết Ngộ Giáo đề cao năng lực cá nhân, nhưng con người không thể nào là chính mình. Ta là một cá nhân bất toàn, tội lỗi, một con người chưa trọn vẹn. Muốn vươn lên để hòa nhập với Thiên Chúa, con người cần sự cứu chuộc của Đức Giêsu để trở nên hoàn hảo. Về vấn đề nữ quyền, gần đây đã có phòng trào yêu cầu giáo hội Công Giáo phong chức linh mục cho nữ giới. Sự yêu cầu, phần nào liên hệ đến chủ đề bình quyền giới tính, nhưng phần lớn đặt căn bản trên nhu cầu thiếu hụt nhân số trong giới chức phụng vụ. Giáo hoàng Gioan Phaolô II và tiếp nối là Giáo Hoàng Bênêđic XVI cho rằng việc truyền chức linh mục cho nam giới là một cổ tục thuộc lãnh vực truyền thống, vốn do Đức Giêsu lập ra. Nghi thức này không đặt trên sự kỳ thị giới tính, nhưng vì Giáo Hội không đủ tư cách để thay đổi thể thức của Đức Giêsu.
Bà Maria Mađalêna đã được các học giả và thần học gia Công Giáo nhận diện là một trong những vị sáng lập ra giáo hội sơ khai. Bà là người duy nhất chia sẻ với Đức Giêsu trong hành trình giảng đạo từ Galilê, trung thành với Ngài cho đến phút cuối cùng của cuộc khổ nạn, và đón chào Ngài lúc phục sinh. Đó là những kho tàng ẩn dấu cần khai quật hơn là trưng bày những gán ghép lấy từ dã sử và truyền thuyết.
Theo truyền thống Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, thánh Maria Mađalêna cùng thánh Gioan và Đức Mẹ Maria di chuyển về miền Êphêsô, Tiểu Á. Thánh Maria Mađalêna sống một cuộc đời sám hối đúng với chân lý Phúc Âm rồi qua đời ở đó. Lễ kính thánh nhằm ngày 22 tháng Bảy. Từ năm 1970, Giáo hội Công Giáo đã điều chỉnh bài phúc âm trong thánh lễ kính thánh Maria Mađalêna. Bài đọc về câu truyện”người đàn bà ngoại tình” được thay thế bằng câu truyện bà gặp Đức Giêsu phục sinh (Gio 20:11-20). Đáng tiếc sự sửa sai này đã không được đại chúng chú ý đúng mức. Đại chúng vẫn thấy bà vốn là một cô gái giang hồ, người bị 7 quỉ ám, hơn là một vị Tông Đồ, người đần tiên gặp Đức Giêsu phục sinh. Kitô hữu chúng ta hãy rửa chân cho sạch bụi bặm của những bước đi lạc đường, để đứng cúi đầu tôn kính một vị thánh cao cả.
____________________________________
(1) Robert Langdon là gíáo sư môn Ký Hiệu Tôn giáo (Religious Symbology) tại Harvard University. Leigh Teabing là nhà sử học của hoàng gia Anh (2) Phim”the Last Temptation of Christ” của Hollywood và sách”The Da Vinci Code” của Dan Brown có thể coi là tiêu biểu cho khuynh hướng sai lạc hiện nay. (3) Susan A. Calef, Ph.D. thành viên trong ban giám đốc khoa thần học tại Creighton University, Omaha, bang Nebraska. (4) Xin coi sách”Cracking The Da Vinci Code: Theologian Elizabeth Johnson on Mari Magdalene”
"Vì bà đã yêu mến nhiều nên bao nhiêu tội của bà được tha hết" (Lc 7,47). Phải, chúng ta không còn hồ nghi gì về lòng mến Chúa của bà Mađalêna. Chính lòng mến yêu nồng nhiệt ấy đã lôi kéo Bà từ tình trạng tội lỗi của một phụ nữ giang hồ về một đời sống thánh thiện gương mẫu.
Mađalêna sinh trưởng trong một gia đình đạo đức. Không ai biết rõ bà chào đời vào năm nào, nhưng Phúc âm đã nói nhiều tới bà, vậy bà đã sống đồng thời với Chúa Cứu Thế. Tuy thuộc về một gia đình đạo đức, nhưng chẳng may tính đa sầu đa cảm của bà đã khiến bà dấn thân vào con đường nhơ nhớp.
Trong lúc vùi mình trong con đường lạc lõng ấy thì một ánh hào quang xuất hiện. Ánh hào quang ấy soi thấu tận đáy lòng bà khiến bà tỉnh ngộ và quyết tâm quay về đường ngay nẻo chính, trở thành một chiến sĩ hảo hạng của Phúc âm. Ánh hào quang đó chính là Chúa Cứu Thế vậy. Như một chiên non lạc đàn khi nghe tiếng chủ chăn thì vội vã về đàn, Mađalêna cũng vậy, vừa nghe lời kêu gọi tha thiết của Chúa chiên lành, bà liền mau mắn trở về không chút luyến tiếc cuộc đời phóng túng xưa.
Nhưng, bao ngày tháng qua, những vết nhơ tội lỗi còn đó, biết lấy chi gột rửa cho sạch! Mađalêna quyết một lòng thống hối lấy nước mắt để lau sạch tội xưa. Thánh Luca đã kể lại cho ta cái quang cảnh vô cùng cảm động ấy: "Một người biệt phái mời Chúa đến dự tiệc. Chúa đến và ngồi vào chỗ đã dọn, chợt bước vào một phụ nữ là người tội lỗi trong thành ai cũng biết. Nghe nói Chúa dùng bữa tại nhà ông biệt phái, bà liền mang đến một bình thuốc thơm. Ngồi dưới đất đàng sau Chúa, bà khóc lóc, tưới nước mắt lên chân Ngài rồi lấy tóc mình mà lau, hôn chân Ngài và xức thuốc thơm. Thấy thế, ông biệt phái đã mời Chúa nghĩ bụng rằng: "Nếu ông này là tiên tri chắc biết người đàn bà đang chạm tới mình là ai, là hạng người nào, là một đứa tội lỗi mà". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này, ông Simon, tôi có điều muốn nói với ông". Ông trả lời: "Dạ, xin Thầy cứ hỏi". "Một chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm, một người nợ năm mươi đồng. Vì họ không có gì để trả, nên chủ tha nợ cho cả hai. Ai trong hai người ấy đã yêu mến ông chủ hơn?". Simon trả lời: "Theo thiển ý tôi, người đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu đáp: "Ông luận đúng lắm". Rồi quay lại phía người đàn bà, Ngài bảo Simon:
"Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi vào nhà ông, ông đã chẳng cho tôi nước rửa chân, bà ta, trái lại, đã lấy nước mắt mình mà rửa chân tôi và lấy tóc mình mà lau. Ông không hôn tôi, còn bà, từ lúc tôi vào đã hôn chân tôi không ngừng. Ông không đổ dầu thơm trên đầu tôi, nhưng bà ta, đã đổ thuốc thơm trên chân tôi. Vì thế tôi bảo ông, tội lỗi bà ta, dù hằng hà sa số, đã được tha cả vì bà ta đã tỏ ra yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu ít". Rồi Chúa bảo người phụ nữ đó: "Tha các tội cho bà". Những khác đồng bàn nghĩ bụng: Ông này là ai mà lại tha được tội. Nhưng Ngài bảo người đàn bà: "Lòng tin của bà đã cứu bà, hãy đi bằng an" (Lc 7,36-50).
Phải, đức tin đã cứu Mađalêna. Ngay từ giây phút đầu tiên bà đã cảm mến Chúa và, một cách mặc nhiên, bà tin rằng: Đấng mà bà cảm mến là vị Cứu tinh. Nay sự tin tưởng đó lại được củng cố thêm và đã trở thành toàn vẹn vì Đấng đó đã trực tiếp tha tội cho bà. Trước kia tội lỗi làm bà đỏ như son thì nay bà được gội sạch và nên trắng như tuyết.
Cuộc đời của bà từ nay đã định hướng, bà quyết tâm tự hiến để giúp việc truyền bá tin Hạnh phúc. Lòng nhiệt thành của bà đã được các Phúc âm gia ghi lại nhiều lần. Gia đình của bà chỉ còn có một chị một anh là Matta và Lagiarô đã trở nên như trụ sở của Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Bêtania, cái tên êm ái, nơi bà sinh trưởng, đã được Phúc âm nhắc đi nhắc lại một cách rất đáng yêu. Chính tại đây, vì tình thương nên gia đình Mađalêna mà Chúa đã thổn thức rơi lệ trước khi cho Lagiarô sống lại. Chính tại đây, một lần nữa, Mađalêna đã tỏ ra hâm mộ lời Chúa. Phúc âm thuật lại rằng: "Khi đi đường, Chúa Giêsu vào một làng kia (Bêtania) và có một bà tên là Matta đón Ngài vào nhà mình. Bà này có người em gái tên là Maria, cô này ngôi dưới chân Chúa, lắng nghe Ngài nói. Còn Matta thì bận rộn với bao công việc săn sóc, hầu hạ. Bà đến thưa Chúa: "Thưa Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy cũng không coi sao ư? Xin Thầy bảo nó giúp tôi một chút". Nhưng Chúa đáp: "Matta, Matta, con lo lắng bận rộn nhiều quá. Thật ra chỉ cần ít thôi, chỉ một việc thôi. Chính Maria đã chọn phần tốt hơn cả, phần ấy không ai cất lấy được" (Lc 10,38-42). Thái độ của Mađalêna đã được Chúa công khai khen ngợi, mặc dầu bà đã không giúp đỡ chị trong việc hầu hạ Chúa. Chúa khen bà vì bà đã biết nghe lời Chúa nói. Lời Chúa là chân lý đưa tới sự cứu rỗi mà Mađalêna đã chăm chú nghe lời đó, bà quả đã chọn lấy phần tốt nhất thật. Và cũng chính tại Bêtania thân yêu này, Mađalêna một lần nữa, lấy một cân cam tùng hương nguyên chất rất đắt xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau (Ga 12,3). Với lòng mến Chúa tận tình, Mađalêna đã dùng tất cả những gì có thể biểu lộ tấm lòng yêu mến ấy.
Trên bước đường truyền giáo của Chúa Giêsu, Mađalêna cùng với một số bà đạo đức khác hầu như lúc nào cũng đi tới Chúa để giúp đỡ Ngài. Đặc biệt là những ngày cuối đời Chúa, nhất là trong giây phút thương đau nhất trên Núi Sọ, Mađalêna lúc nào cũng có mặt, trong khi các môn đệ Chúa quá sợ hãi đã bỏ Thầy chạy trốn cả. "Đứng gần khổ giá Chúa Giêsu, có Mẹ Người, chị Mẹ Người, là Maria vợ ông Clêopha và có Maria Mađalêna" (Ga 19, 25). Rồi, "sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần (Chúa nhật) Maria Mađalêna đến mồ khi trời còn tối và bà thấy tấm đá đã cất khỏi mồ. Bà bèn chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu yêu dấu, và nói với họ rằng người ta đã lấy mất xác Chúa khỏi mồ rồi và chúng tôi không biết họ để đâu" (Ga 21,1-2). Thật không còn lời nào hùng hồn hơn nói lên lòng trung thành yêu mến của Mađalêna đối với Chúa Giêsu. Bà hăng hái nhiệt thành, can đảm và trung thành hơn cả các Tông đồ. Chính vì thế mà bà đã được Chúa ân thưởng bội hậu. Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra với bà trước khi tỏ mình cho các Tông đồ. Quang cảnh cảm động ấy đã được sử gia Gioan mô tả khéo léo như sau: "Còn Maria đứng gần mộ ở ngoài mà than khóc, vừa khóc bà vừa cúi đầu nhìn vào một. Bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng, ngồi một vị ở đàng đầu, một vị ở đàng chân, tại chỗ đã đặt xác Chúa Giêsu.
Các đấng ấy nói cùng bà rằng: "Bà kia, sao mà khóc?" Bà đáp: "Vì người ta đã lấy xác Chúa tôi đi mà tôi không biết họ để ở chỗ nào". Nói đoạn bà quay lại, thấy Chúa Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Chúa, Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia sao mà khóc? Bà tìm aỉ". Bà tưởng đó là người coi vườn nên nói rằng: "Thưa ông, nếu ông có lấy xác Người đi, thì xin ông cho tôi biết ông để ở chỗ nào để tôi đến lấy". Chúa Giêsu gọi tên bà Maria. Bà nhận ra Người nên vội nói bằng tiếng Hi bá rằng: "Rabboni nghĩa là: Lạy Thầy". Chúa Giêsu nói: "Đừng giữ Thầy lại như thế vì thầy chưa về cùng Cha Thầy và cũng là Cha các con". Maria Mađalêna đi loan báo cho các môn đệ biết bà đã thấy Chúa và Ngài đã nói với bà như thế" (Ga 20,11-18). Bà đã làm tròn sứ mệnh Chúa trao là đi báo ngay cho các tông đồ tin Chúa đã sống lại và đã hiện ra với bà. Chính vì thế mà bà đã được tặng danh hiệu cao quý: "Apostola Apostolorum" (Tông đồ của các tông đồ).
Sau khi Chúa về Trời, Mađalêna vốn tiếp tục sống cuộc đời thánh thiện. Cùng với các tông đồ, và cùng với hai anh chị em là Lagiarô và Matta, bà tích cực tham gia mở mang nước Chúa. Không ai được biết bà tạ thế ngày nào, nhưng theo một truyền thuyết đông phương đáng tin cậy thì ông Lagiarô đã tạ thế tại đảo Chyprô vào năm 899, di hài ngài được cải táng về Constantinôpôli. Còn xác thánh Mađalêna khi tạ thế đã được mai táng tại Êphêsô, đến thế kỷ thứ VI cũng được di chuyển về Contantinôpôlị
Để kính nhớ công đức của bà, ngay từ đầu Giáo hội đã tôn kính bà như một vị đại thánh, đồng thời lấy đời sống của bà như một tấm gương trong sáng cho mọi người soi chung.
Kính xin thánh nữ Maria Mađalêna cầu cho chúng con nhất là những ai đã chọn ngài làm thánh bổn mạng, được theo gương ngài mà ăn năn thống hối tội xưa, đồng thời quyết một lòng sắt đá bước theo Chúa Giêsu vì Ngài là chân lý, sự sống, và là đường dẫn nhân loại tới hạnh phúc vô biên.
Vào thế kỷ thứ X, ở Constantinople, tại tu viện Thánh Ladarô, người ta đã cử hành lễ này, vì người ta tin rằng hài cốt của bà đưa từ Ephèse về chôn cất tại đây vào năm 899, sau khi bà theo Thánh Tông Đồ Gioan đến đó (Mađalêna có nghĩa là người thị trấn Magdala ND). Magdala là tên một thành phố nằm trên bờ hồ Galilée về phía Tây Bắc, giữa đường từ Tibériade đến Capharnaum. Từ thế kỷ XI, lễ Thánh Nữ Maria Mađalêna được cử hành ở Roma và ở phương Tây; đến thế kỷ XII, sách lễ Latran vẫn lẫn lộn xem Maria thành Magdala và Maria làng Bêtania (mà phụng vụ Hy Lạp mừng lễ ngày 18 tháng Ba), và cả nữ tội nhân vô danh (phụng vụ Byzantin mừng lễ ngày 31 tháng Ba), người mà theo Luca 8, 2, được giải thoát khỏi bẫy quỉ trước khi theo phục vụ Đức Giêsu: cả ba phụ nữ được nêu danh trong Thánh Kinh được xem như một người. Thời Trung Cổ, việc tôn kính Thánh Nữ Maria Madalenna cũng phát triển ở Vézelay và Sainte Baume gần Marseille, vì tại đây có truyền thuyết rằng bà đã lui ẩn trong một hang núi sau khi lên bờ ở miền Provence.
2. Thông điệp và tính thời sự
Tất cả các bản văn trong Thánh Lễ và Phụng vụ giờ kinh (gồm 8 điệp ca, một số đáp ca và hai ca vãn riêng) đều nhắc đến Maria thành Magdala, người đầu tiên được Thầy”giao việc loan báo tin sống lại” (lời nguyện của ngày). Maria đã thấy Chúa phục sinh (Ga 20, 18), nhận sứ mệnh báo tin đó. Chúa bảo bà:”Hãy đi tìm các anh em của Thầy...” (cách Đấng Phục Sinh gọi môn đệ là anh em chỉ thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan [20, 17]). Đức Giêsu hiện ra trước tiên với Maria thành Magdala (Mc 16, 9), đã giao cho bà sứ mệnh làm chứng nhân và là tông đồ của sự phục sinh. Nên bà trở thành mẫu gương cho chúng ta, vì chúng ta cũng được kêu gọi để”loan báo Đức Kitô Phục Sinh” (lời nguyện của ngày).
Bài Phúc Âm Gioan đọc trong Thánh Lễ (20, 1-18) nhấn mạnh một khía cạnh khác trong nhân cách của Maria Madalenna: bà là một tâm hồn đi tìm Chúa giữa đêm tối đức tin. Trời còn tối khi bà tới mộ. Bà khóc vì thấy mộ trống. Buồn bã, bà hỏi kẻ mà bà tưởng là người giữ mồ...Bấy giờ, Đức Giêsu mới tự tỏ lộ khi gọi tên bà: Maria!”Bà liền thưa với Người: Rabbouni, nghĩa là Thầy ơi, bởi vì Đấng bà tìm bên ngoài là chính Đấng từ bên trong dạy bà đi tìm kiếm” (Bài giảng Thánh Grêgoriô Cả, Phụng vụ Bài đọc).
Maria thành Magdala, người được giải thoát khỏi bẫy quỉ (Mc 16, 9; Lc 8, 2) đã dâng mình phục vụ Đức Kitô. Bà đứng đầu trong danh sách các phụ nữ theo Chúa Giêsu (Lc 8, 2; Mc 15, 47; Mt 27, 56) và đứng gần Thập Giá (Mc 15, 40). Bà là biểu tượng của các dân trong giao ước mới.
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ thánh Maria Mađalêna, một Vị Thánh vừa được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nâng lễ nhớ Thánh nữ thành lễ kính. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh nữ như là”Tông đồ của các Tông đồ”.
Thông báo viết: ”Qua một bức thư thông báo việc thay đổi này – quy định trong Sắc lệnh ký ngày 03 tháng Sáu năm 2016, nhằm ngày lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu -, Đức Tổng giám mục Arthur Roche, Thư ký Bộ Phụng tự thánh và Kỷ luật các Bí tích, viết: quyết định trên đây muốn nói rằng chúng ta”phải suy tư sâu xa hơn về phẩm giá của phụ nữ, về Tân Phúc âm hóa, và về sự cao cả của mầu nhiệm Lòng Chúa thương xót”.
Thánh Maria Mađalêna là chứng nhân đầu tiên của việc Chúa sống lại, và là người loan báo Tin mừng ấy cho các Tông đồ.
Thánh nữ Maria Mađalêna là một người phụ nữ rất đặc biệt, bởi vì theo Tin Mừng thánh Máccô thuật lại”Khi Chúa Giêsu bị kết án tử hình trong một phiên tòa hết sứ bất công, người ta bắt Chúa vác thập giá lên đồi Gongôtha, lúc đó các môn đệ như rắn mất đầu, các ông sợ sệt, nhát đảm, lẩn trốn, họ chỉ đứng xa xa để không ai có thể nhận ra họ. Trên núi Sọ, trên đồi Gongôtha, thánh Máccô viết: ”Nhưng cũng có mấy người phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mađalêna, bà Maria Mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilêa. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem,cũng có mặt tại đó” (Mc 15, 40-41). Việc các người phụ nữ có mặt trên cuộc hành trình đi lên núi Sọ của Chúa Giêsu, nói lên lòng đạo đức, thánh thiện, nhiệt thành và đồng thời biểu lộ sự can đảm, anh hùng của giới phụ nữ. Các bà không sợ nguy hiểm, không nhát đảm, không thối lui dù rằng các bà biết Thầy mình sẽ phải chết…Tính anh hùng của các người phụ nữ, đặc biệt của Thánh nữ Maria Mađalêna cho chúng ta hay Mađalêna đã được Chúa yêu nhiều, bà hết lòng đáp lại tình yêu vô biên của Chúa. Tội của Thánh nữ lớn lao thật nhưng Tình Thương của Chúa còn to lớn hơn gấp bội, khiến Thánh nữ hết lòng vì Chúa. Ngài không sợ bị bắt bớ, bỏ tù, giết chết nhưng như lời Thánh Phaolô nói:”Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” (2 Co 5, 14), Thánh nữ đã có mặt trên mọi nẻo đường Chúa đi. Thánh nữ Maria Mađalêna là người phụ nữ đầu tiên được Chúa Giêsu phục sinh cho biết Ngài đã sống lại (Mc 16, 9). Thánh nữ theo như Thánh Mác cô nói”đã được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ”. Cụm từ được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ diễn tả bà mắc phải nhiều tội tầy trời, nhiều tội to lớn. Được yêu nhiều, bà phải đáp trả nhiều. Do đó, bà có mặt dưới chân thập giá cùng với Mẹ Maria và Thánh Gioan. Bà đã ngồi trước mộ Chúa Giêsu cùng với bà Maria vợ ông Clêophas. Chính vì yêu nhiều, đáp trả tình thương vô biên của Chúa, Thánh nữ Maria Mađalêna đã được Chúa hiện ra đầu tiên khi Ngài từ cõi chết sống lại và chính Chúa phục sinh trao cho Thánh nữ sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ và nhiều người (Mc 16, 10; Ga 20, 17).
Đức Tổng giám mục Arthur Roche viết:”Thánh Maria Mađalêna là một gương mẫu của việc Phúc âm hóa đích thực. Thánh nữ là một nhà rao giảng đã loan báo tin vui Phục sinh”.
“Quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô được đưa ra ngay trong bối cảnh của Lòng Thương Xót để nói lên tầm quan trọng của Thánh nữ - là người đã bày tỏ tình yêu lớn lao đối với Chúa Kitô và được Chúa Kitô yêu mến nhiều”.
Ngài cũng nhắc lại rằng Thánh Mađalêna đã được Thánh Tôma Aquinô gọi là”Tông đồ của các Tông đồ” (Apostolorum Apostola), vì Thánh nữ đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
“Vì thế, ngày lễ Thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các Thánh Tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Roma, để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của Thánh nữ - một tấm gương và hình mẫu cho mỗi người phụ nữ trong Giáo hội”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương, tha thứ cho Thánh nữ Maria Mađalêna vì bà yêu mến nhiều, xin cho chúng con khi mừng lễ Thánh nữ trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng con càng ngày càng yêu mến Chúa như Thánh nữ Mađalêna đã yêu mến Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Tình yêu bền vững, tình yêu vĩnh cửu đã nối kết Chúa Giêsu và thánh nữ Maria Mađalêna. Thánh nữ Maria Mađalêna được Chúa yêu nhiều, Ngài đã đáp trả tình yêu của Chúa với tất cả con tim, với tất cả tâm hồn.
THÁNH NỮ MARIA MAĐALÊNA, NGƯỜI ĐƯỢC YÊU NHIỀU:
Thánh Maria Mađalêna, người phụ nữ được xem là tội lỗi, đã được Chúa yêu nhiều, Ngài đã sống hết mình cho tình yêu. Tin Mừng thánh Marcô thuật lại rằng: ”Khi Chúa Giêsu bị kết án tử hình, Ngài đã phải vác thập giá tiến lên đồi Gôngatha, các môn đệ tản mác như rắn bị mất đầu, họ không dám tới gần Chúa Giêsu mà chỉ ở đâu xa khuất bóng. Tại Gongôttha thánh Marcô viết: ”Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Gio-xết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilêa. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó” (Mc 15, 40-41). Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, thánh Marcô cũng thuật lại rằng: ”… vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16, 9). Thánh nữ Maria Mácđala vì được Chúa yêu thương nhiều, được Chúa ban ơn tha thứ, Người đã theo Chúa trên khắp các nẻo đường loan báo Tin Mừng.
Vì yêu nhiều, vì cảm nghiệm lòng Chúa xót thương, thánh nữ đã có mặt trong nhiều biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu: ”Người đã có mặt dưới chân thập giá cùng với Mẹ Maria và thánh Gioan khi các môn đệ đều sợ sệt chạy trốn. Khi mai táng Chúa Giêsu, thánh nữ và bà Maria vợ ông Cléophas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa. Chính vì thế, thánh nữ đã được diễm phúc là người đầu tiên được Chúa phục sinh hiện ra và trao sứ mạng loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ (Mc 16,10, Ga 20,17). Thánh nữ Maria Mađalêna quả có phúc vì được Chúa thương tha thứ và ban cho bà ơn huệ đặc biệt quay về với Thiên Chúa.
LỜI CẦU NGUYỆN: Đúng như lời thánh Phaolô trong 2Co 5, 14-15: ”Tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, nhưng sống cho Đấng đã chết và sống lại vì họ”. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhờ lời nguyện cầu và gương sáng của thánh nữ Maria Mađalêna, ban cho chúng con lòng nhiệt thành và chóng vánh đi rao giảng Tin Mừng cho Chúa sống lại, để sẽ được chiêm ngắm sự vinh quang của Chúa vĩnh cửu.
Các Giáo phụ đã tranh luận và các nhà chú giải vẫn còn tìm hiểu xem Giáo hội có kính nhớ ba thánh nữ dưới cùng một danh xưng Maria Madalena hay không.
Người thứ nhất là một người nữ tội lỗi. Khi Chúa Giêsu vào nhà ông biệt phái Simon, một tội nhân vô danh đã được ơn tha tội, nhờ tình yêu bà bày tỏ trong việc xức dầu thơm vào chân Chúa rồi lấy tóc mà lau (Lc VII, 36-39).
Đàng khác, cũng chính việc thánh sử Luca (Lc VIII, 43-48) đã nói đến Maria Madalêna được Chúa Giêsu trừ quỉ cho. Thánh nữ là một trong số phụ nữ đã theo Chúa trong các cuộc hành trình của Người. Hiện diện trên đồi Calvê, Ngài cũng thuộc vào số các bà đem dầu thơm đến mồ xức xác Chúa. Ngài là người đầu tiên báo tin cho các môn đệ biết ngôi mộ trống. Trở lại mộ ngay sau đó, Ngài đã thấy và nói truyện với các thiên thần. Sau cùng, Ngài đã nhận ra Đấng Phục sinh mà thoạt đầu Ngài tưởng là một bác làm vườn (Ga 20, 1-18).
Maria Bêtania, là chị em của Matta và Lazarô đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người, trong khi Matta bận rộn chuẩn bị bữa ăn. Thế mà Ngài là người đã chọn phần tốt nhất, phần chiêm niệm (Lc 10,38-42). Khi Chúa Giêsu đến cứu sống Lazarô, thánh nữ vẫn giữ một phần tương tự. Ngài ngồi tại nhà cho tới khi Matta kêu Ngài tới gặp”thầy”. Ít ngày sau, Ngài đã xức dầu Chúa Giêsu (Mt 26,6-13).
Mặc dầu các sách Tin Mừng không bảo đảm đồng nhất ba khuôn mặt này thành một người và ý kiến các giáo phụ còn trái nghịch, nhưng Giáo hội Tây phương từ thế kỷ thứ VI đã đồng hóa thành một người. Sự đồng hóa này được diễn tả trong phụng vụ.
Với sự đồng hóa ấy, lòng đạo đức thường diễn tả thánh Maria Madalena như một phụ nữ có mái tóc dài, được Chúa Giêsu tha thứ, là người nao nức đón nghe Lời Người. Bà đã được chứng kiến Laxarô sống lại. Tiên cảm được về thảm kịch khổ nạn, bà đã đổ dầu thơm quí giá lên chân Chúa Giêsu như một cuộc xức dầu cao cả. Hiện diện dưới chân thánh giá, bà sẽ được Chúa Giêsu thân ái gọi tên”Maria” buổi sáng phục sinh.
Sau đó, người ta không nghe nói gì về Maria Madalena nữa. Theo truyền thuyết, Ngài đã từ trần và được mai táng ở Ephêsô. Năm 889, hoàng đế Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople.
Ngang qua kinh nghiệm của thánh Maria Madalena, xin Chúa ban cho mỗi chúng ta biết cảm nhận được mình tội lỗi để thật lòng sám hối. Đồng thời cũng biết cảm nghiệm sâu xa tình Chúa thương ta vô bờ để chúng ta biết tin tưởng cậy trông vào ơn tha thứ đến từ Thiên Chúa.
“Chúa ở cạnh tôi, nhưng nhiều khi tôi lãng quên người. Chúa ở cạnh tôi, nhưng mà sao nghe quá xa xôi. Chúa ở cạnh tôi, nhưng rồi tôi bưng mắt làm ngơ. Nhưng rồi tôi quay gót thờ ơ.” (Chúa ở cạnh tôi – Hoài Công)
hững lời hát trên như đang đánh động lòng ta rằng đã bao lần ta làm ngơ trước mặt Chúa, Chúa chờ ta nhưng ta lại bận rộn với những nhu cầu của bản thân, dẫu trên môi miệng đều có thể nói: “Chúa ở cùng ta mọi phút giây trong đời.”
Trở lại với bài đọc trên, ta thấy bà Thánh Maria Madalena trong nỗi đau sau khi chứng kiến Chúa chịu đóng đinh và thấy ngôi mộ của Thầy bỏ trống, bà đã không thấy được Chúa sống lại và đang đứng trước mặt mình. Nhưng lời gọi thân thương của Chúa như để phá tan nỗi sầu của bà”Maria”. Bạn ơi, có bao giờ bạn nghĩ rằng Chúa yêu ta bằng cách gọi tên ta trìu mến không?
“Này ông Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,1-19) “Sa-un, Sa-un, sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv9, 4) “Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước ‘Samuel! Samuel’ (1Sm 3,10)
Và bằng cách ấy ta nhận ra Ngài, ta được trở về với Ngài và trở nên khí cụ của Ngài.
‘‘Tôi đã thấy Chúa”, lời của thánh nữ với các tông đồ cũng là thông điệp cần thiết cho mọi Kitô hữu. Song, thông điệp sẽ chẳng nên toàn vẹn nếu ta không nhận biết Ngài hiện diện trong cuộc đời. Ta chỉ biết nói về Ngài nhưng sao lại không muốn gặp Ngài?
Trong xác tín rằng Thiên Chúa đã chết, chiến thắng tử thần, và sống lại (Ep 1,18), ta thấy được tình yêu của Ngài và vinh quang muôn đời Ngài muốn chia sẻ với ta; cách riêng là qua bài đọc hôm nay, cũng như qua lời khẳng định của thánh Phêrô: ”Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1Pr 1,8-9)
Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho con vì con đã nhiều lần hờ hững với Ngài và lãng quên lời Ngài dạy trong Tin Mừng. Xin giúp con nhận biết Ngài qua Tin Mừng, qua mọi thụ tạo chung quanh, và qua cách Ngài gọi tên con. Amen!
Maria Mađalêna là người bị chiếm hữu và thao túng bởi quyền lực cực độ của thần dữ - bẩy thứ quỷ.
Maria Mađalêna là người bị chiếm hữu và thao túng bởi quyền lực cực độ của thần dữ - bẩy thứ quỷ. Con số bẩy là con số chỉ sự tối đa, hoàn toàn, trọn vẹn, không còn thiếu sự gì khác, nó được coi là con số hoàn mỹ về cả số lượng lẫn tâm linh; ví dụ bẩy ngày tạo dựng của Thiên Chúa; tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy máu đó bảy lần trước nhan Thiên Chúa, để đền bù tội lỗi (Lêvi 04: 6); bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, họ phải đi vòng quanh thành bảy lần (Giôsuê 6:8); cụ thể một giá đèn đúng kiểu Do Thái giáo gồm bảy cây đèn, gọi là Menorah; Phêrô đến gần Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." (Mt 18,21-22). Người bị nhập bởi bẩy thứ quỷ là người hoàn toàn nằm dưới quyền thống trị của Satan, của tội lỗi, không còn làm chủ được ngay cả tự do và khát khao vươn lên của mình nữa. Họ cần đến một quyền năng, không phải từ bất cứ phàm nhân nào, mà là từ trời cao để thoát ra khỏi tình cảnh bi đát đó, cả thể xác và tâm linh.
Có lẽ vì thế các vị lãnh đạo Giáo hội sơ khai thường hạ thấp ảnh hưởng của Maria Madalêna bằng cách gọi bà là một người tội lỗi công khai (một cách gọi nhẹ nhàng dành cho cái nghề buôn hương bán phấn) dù các tài liệu ban đầu khác mô tả bà là bạn đồng hành của Chúa Giêsu. Bà là một trong những người theo Chúa Giêsu sớm nhất. Theo Kinh thánh, bà đã đi theo Chúa Giêsu, chứng kiến việc Chúa Giêsu bị đóng đinh và là một trong những người đầu tiên biết về sự Phục sinh của Chúa Giêsu.
Qua nhiều thế kỷ, không kể đến các nhà lãnh đạo giáo hội ban đầu, từ các học giả đến các tiểu thuyết gia và nhà làm phim đã sửa đổi và xây dựng nhiều câu chuyện về Maria Mađalêna. Một mặt, họ hạ thấp tầm quan trọng của bà bằng cách cho rằng bà là một người phụ nữ hư hỏng đã ăn năn và được cứu độ bởi những lời dạy của Chúa Kitô. Mặt khác, một số bản văn Kitô giáo ban đầu mô tả Maria Mađalêna không chỉ là một tín đồ đơn thuần, mà còn là người bạn đồng hành đáng tin cậy của Chúa Giêsu - một số người còn giải thích bà là vợ của Ngài. Tuy nhiên, mô tả này là không bình thường vì bà không được mô tả liên quan đến một nhân vật nam giới, vì những người phụ nữ vào thời đó được nêu tên kèm theo tên một người đàn ông, thường là: cha, chồng, anh trai. Riêng bà được gọi đơn giản là Maria Mađalêna, nghĩa là người phụ nữ đến từ Magdala, một địa danh ở miền Galilê. Từ mô tả của Luca, chúng ta có thể giả định rằng bà là một phụ nữ tự lập về một số phương diện, là người có khả năng tài chánh để tài trợ, cũng như tham gia vào các biến chuyển chung quanh Chúa Giêsu.
Nhưng có sự thật nào trong hai câu chuyện này không? Chúng ta thực sự biết gì về người phụ nữ bí ẩn nhất trong Kinh thánh, có tên gọi Maria Mađalêna này không?
Kinh thánh nói gì về Maria Mađalêna?
Tất cả bốn sách Tin Mừng Quy điển của Tân Ước (Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan) đều ghi nhận sự hiện diện của Maria Mađalêna khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, nhưng chỉ có Phúc âm Luca nói về vai trò của bà trong cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giêsu, liệt kê bà là một trong”mấy người phụ nữ đã được Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa Giêsu và các môn đệ.”(Luca 8: 1-3).
Theo Luca, sau khi Chúa Giêsu đuổi bảy con quỷ ra khỏi bà, Maria trở thành một phần của nhóm phụ nữ đi cùng Ngài và 12 môn đệ của Ngài,”rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Luca 8: 1). Mađalêna không phải là một cái tên chỉ họ, nhưng là để xác định quê hương cùa Maria: Magdala, một thành phố ở Galilê, nằm ở vùng cực bắc của Palestine cổ đại (nay là miền bắc Israel) [1]
Chúa Giêsu bị đóng đinh, Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Gioan và Maria Mađalêna.
Robert Cargill, giáo sư trợ lý nghiên cứu tôn giáo và kinh điển tại Đại học Iowa, đồng thời là biên tập viên của Tạp chí Khảo cổ học Kinh thánh cho biết:”Maria Mađalêna là một trong số những người theo Chúa Giêsu ban đầu. Bà đã được nêu tên trong các sách Phúc âm, vì vậy bà rõ ràng là quan trọng. Rõ ràng có hàng trăm người, nếu không phải hàng ngàn người, theo Chúa Giêsu, nhưng chúng ta hầu như không biết tên của họ. Vì vậy, việc bà ấy được nêu tên là một vấn đề lớn”.
Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh - bà cùng với một số phụ nữ khác đã chứng kiến mọi sự dưới chân thập giá và sau khi tất cả các môn đệ nam giới của Ngài bỏ trốn, trừ Gioan Tông Đồ, môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu, Maria Mađalêna cũng đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện về sự Phục sinh. Theo các sách Tin Mừng, bà đã đến thăm ngôi mộ của Chúa Giêsu vào Chủ nhật Phục sinh, hoặc một mình (theo Phúc âm của Gioan) hoặc với những người phụ nữ khác, và thấy ngôi mộ trống rỗng.
Cargill chỉ ra:”Những người phụ nữ là những người chạy đi và nói với các môn đồ.”Họ là những người phát hiện ra rằng Chúa Giêsu đã sống lại, và điều đó rất quan trọng.”
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu thực sự hiện ra với Maria Mađalêna một mình sau khi Ngài Phục sinh, và yêu cầu bà nói với các môn đệ của Ngài về sự sống lại của Ngài:”Bà Maria Mađalêna đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc? " Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Ngài ở đâu! " Nói xong, bà quay lại và thấy Chúa Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai? " Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, tôi sẽ đem Ngài về." Chúa Giêsu gọi bà: "Maria! " Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni! " (nghĩa là "Lạy Thầy"). Chúa Giêsu bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" Bà Maria Mađalêna đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Ngài đã nói với bà.” (Gioan 20: 11-18).
Maria Mađalêna - tội nhân
Mặc dù - hoặc có lẽ vì - tầm quan trọng rõ ràng của Maria Mađalêna trong Kinh thánh, ảnh hưởng của bà đã bị hạ thấp bằng cách bị mô tả như một người tội lỗi; vì vào thời đó, phụ nữ và trẻ em không thể là nhân tố quan trọng, nhất là trong những vụ việc có tầm ảnh hưởng lớn lao đến cộng đồng xã hội.
Cargill giải thích:”Có nhiều học giả lập luận rằng vì Chúa Giêsu đã trao quyền cho phụ nữ ở một thời điểm sớm như vậy trong sứ vụ của Ngài, nên điều đó khiến một số người lãnh đạo nam giới sau này của Hội thánh sơ khai cảm thấy khó chịu,” Cargill giải thích.”Và do đó, có hai cách diễn giải cho điều này. Một trong hai cách đó là biến bà thành tội nhân công khai”.
Thuở ban đầu người ta coi Maria là kẻ tội lỗi sám hối, họ đã gán ghép bà với những phụ nữ khác được đề cập trong Kinh thánh, bao gồm một phụ nữ giấu tên, được Tin Mừng Luca xác định là tội nhân, là người đã rửa chân cho Chúa Giêsu bằng nước mắt, lau khô và xức dầu thơm trên chân Chúa (Luca 7: 37-38), cũng như một Maria khác, là Maria Bêtania, cũng xuất hiện trong Luca. Vào năm 591 sau Công nguyên, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đã củng cố sự hiểu lầm này trong một bài giảng:”Người mà Luca gọi là người phụ nữ tội lỗi, người mà Gioan gọi là Maria [của Bêtania], chúng tôi tin rằng đó là Maria mà Chúa Giêsu đã đuổi bảy quỷ, theo Tin Mừng Máccô”. Trong bài giảng tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô đã xác định Mađalêna được Chúa Giêsu trục xuất khỏi bảy quỷ, đó là 7 tội trọng, và Maria Mađalêna bị kết án không chỉ vì tội dâm ô mà còn vì tội kiêu ngạo và tham lam. Bài giảng này từ đó đã làm nên cách hiểu chính thức của Giáo hội về Maria Mađalêna. (Bài giảng XXXIII, Thánh GH Grêgôriô Cả).
“Bằng cách biến bà thành kẻ tội lỗi, bà không còn quan trọng nữa. Tầm quan trọng của bà giảm thiểu một phần nào đó. Bà không thể là một người đứng đầu, bởi vì cứ nhìn vào cách bà đã làm để kiếm sống là rõ” Cargill nói.”Tất nhiên, có cách diễn giải khác thực sự đề cao Maria. Một số người cho rằng bà thực sự là bạn đồng hành, thậm chí là vợ của Chúa Giêsu. Bà có một thân phận đặc biệt.”
Maria Mađalêna có phải là vợ của Chúa Giêsu không?
Trong khi một số Kitô hữu ban đầu tìm cách hạ thấp ảnh hưởng của Maria, những người khác lại tìm cách làm nổi bật điều đó. Tin Mừng về Maria, một văn bản có niên đại từ thế kỷ thứ hai sau Công nguyên và xuất hiện ở Ai Cập mãi năm 1896, đã đặt Maria Mađalêna lên trên các môn đệ phái nam của Chúa Giêsu về kiến thức và ảnh hưởng. Bà cũng xuất hiện rất nổi bật trong cái gọi là Tin Mừng Ngộ Đạo, một số văn bản được cho là do những người theo đạo Thiên Chúa ban đầu viết từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, nhưng mãi đến năm 1945 mới được phát hiện, gần thị trấn Nag Hammadi của Ai Cập.
Một trong những văn bản này, được gọi là Phúc âm Philípphê, gọi Maria Mađalêna là bạn đồng hành của Chúa Giêsu và tuyên bố rằng Chúa Giêsu yêu thương bà hơn các môn đồ khác. Kể từ năm 2003, hàng chục triệu độc giả đã ngấu nghiến bộ phim kinh dị bán chạy nhất của Dan Brown”Mật mã Da Vinci”, cốt truyện xoay quanh giả thuyết lâu đời rằng Chúa Giêsu và Maria Mađalêna đã có con với nhau. Ý tưởng này cũng là trọng tâm của cuốn sách The Last Temptation of Christ - Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô - cuốn tiểu thuyết năm 1955 của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis, và phiên bản điện ảnh sau này của cuốn sách đó, do Martin Scorsese đạo diễn.
Sau đó vào năm 2012, giáo sư Karen King của trường Harvard Divinity đã tiết lộ một mảnh giấy cói chưa từng được biết đến trước đây mà bà tin là bản sao của sách Tin Mừng thế kỷ thứ hai, trong đó Chúa Giêsu gọi Maria Mađalêna là”vợ tôi”. Sau khi bảo vệ tính xác thực của tài liệu trước hàng loạt chỉ trích, Karen King cuối cùng đã thay đổi lập trường của mình, kết luận rằng cái gọi là "Tin Mừng về người vợ của Chúa Giêsu" có lẽ là giả mạo .
Maria Mađalêna là môn đồ đáng tin cậy
Về phần mình, cả bốn sách Kinh thánh không cho biết Maria Mađalêna là vợ của Chúa Giêsu. Không có sách nào trong số bốn sách Tin Mừng quy điển ám chỉ mối liên hệ đó, mặc dù bốn sách đó liệt kê những người phụ nữ đi theo Chúa Giêsu và ngay cả một trong số các phụ nữ đó được nêu tên kèm theo tên của chồng mình, đó là bà Maria Clêôpha.
Việc mô tả Maria Mađalêna làm nghề tội lỗi công khai được lưu truyền trong nhiều thế kỷ mặc dù cả Chính thống giáo và Tin lành đều không chấp nhận điều đó khi tách ra khỏi Giáo hội Công giáo. Cuối cùng, vào năm 1969, Giáo hội thừa nhận rằng bản văn Kinh Thánh không ủng hộ cách giải thích đó. Ngày nay, Maria Mađalêna được các Giáo Hội Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương, Anh giáo và Luther coi là một vị thánh, với ngày lễ được tổ chức vào ngày 22 tháng Bẩy.
Cargill kết luận:”Maria Mađalêna có thể là một môn đệ của Chúa Giêsu. Điều quan trọng là Chúa Giêsu có các môn đệ cả nam và nữ trong sứ vụ thánh thiêng của Ngài, điều này không hẳn là điều phổ biến vào thời đó”. Cargill nhấn mạnh:”Giả thuyết coi Maria Mađalêna làm nghề tội lỗi công khai và vợ có thể đã có từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chúng chỉ là những truyền thuyết được truyền miệng và chỉ lưu truyền rất lâu sau khi các sự kiện xầy ra. Cả hai đều không bắt nguồn từ chính Kinh thánh”. [2]
Câu chuyện vể lai lịch của Maria Mađalêna.
Ngày xửa ngày xưa, có một người phụ nữ có một quá khứ tồi tệ. Một quá khứ mà cô không thể tự hào. Và vì vậy, khi Chúa Kitô bước vào đời cô, rực rỡ hơn ngàn kỵ sĩ trong bộ áo giáp sáng chói, cô biết rằng tất cả những gì cô muốn làm là theo Ngài và yêu Ngài. Cô có thể cảm thấy tình yêu của Ngài dành cho cô cháy sáng đến nỗi, nó thiêu rụi tất cả tội lỗi trong quá khứ của cô, và cô đã lấy lại được cuộc đời mình.
Rồi thì, người phụ nữ đó cần chọn một trong những người bạn của Chúa Kitô làm người bảo trợ cho cô, trông chừng cô và cầu nguyện cho cô, và làm bạn của cô, vì vậy cô đã chọn một người phụ nữ mà cô nghĩ có những trải nghiệm tương tự với quá khứ đen tối của cô, là người đã vượt qua bóng tối đó nhờ Tình yêu của Chúa, đó là Thánh nữ Maria Mađalêna.
Nhưng điều buồn cười là, nhiều năm sau, khi người phụ nữ ngồi viết một đoạn về vị thánh bảo trợ yêu quý của mình, người chị tâm linh của cô, cô phát hiện ra rằng rất nhiều điều cô nghĩ rằng cô biết về Mađalêna là… sai, rõ ràng là sai. Và không có gì rõ ràng, điều đó thật khó hiểu.
Trước hết, Dan Brown sai lầm ở một mức độ nào đó khi nói rằng Maria Mađalêna là vợ bí mật của Chúa Giêsu, bị một Giáo hội Công giáo đầy ganh ghét, kỳ thị phụ nữ, che giấu khỏi lịch sử chung. Bác bỏ cái bà Maria đó là chuyện dễ dàng, nhưng bác bỏ doanh số bán sách của Dan Brown thì ngược lại. Doanh thu nhiều khi quyết định sai sự thật lịch sử. Thế thì, có một mức độ sai lầm nào đó từ thời trung cổ: rằng bà là một người tội lỗi ăn năn hối cải, một loại phụ nữ cực kỳ ngỗ ngược. Bà Maria kiểu này thường đi kèm với một thứ ngộ nhận mang giọng điệu rõ ràng là để chống lại Kitô giáo.
Cuối cùng, có một bà Maria Mađalêna khác được thế vào, nghĩa là đem người phụ nữ đã xức dầu thơm lên chân Chúa Kitô, rửa chân bằng nước mắt và mái tóc của mình, cộng với Maria Bêtania, là em Mátta và Ladarô nổi tiếng, rồi thêm vào Maria Mađalêna, là người đã đứng dưới chân thập giá, kết hợp tất cả các Maria đó lại, thế là có một”Maria tổng hợp”.
Dĩ nhiên, độ chính xác của chuyện đó là không rõ ràng. Đây là điều đã bị tranh cãi và nhiều nhà văn trào lưu Thời Đại Mới, cố kiếm lợi từ chuyện này bằng cách tuyên bố rằng cuối cùng họ đã đưa ra được sự thật gây sốc về người phụ nữ bí ẩn này. Những nhà thần học vĩ đại như Thánh Giêrônimô, Augustinô và Tôma Aquinô đều không đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề này.
Tuy nhiên, điều không thể phủ nhận là bà đã được Chúa Giêsu Kitô trừ khỏi bảy quỷ:”Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là kẻ đã được Ngài trừ cho khỏi bảy quỷ” (Máccô 16: 9), và là một trong số ít những người đã đứng bên cạnh Ngài khi Ngài bị đóng đinh (Máccô 15:40; Mátthêu 27:56; Gioan 19:25; Luca 23:49), Bà là nhân chứng đầu tiên được ghi lại về sự Phục sinh, và chính bà là người đã mang tin tức gây xáo trộn và tuyệt vời này cho các Tông đồ, do đó bà được đặt tên là”Tông đồ của các Tông đồ - Apostolarum Apostola”.
Ở một khía cạnh nào đó, bà ấy giống như nước. Chúng ta nghĩ rằng mình nhìn thấy nước rõ ràng, và đi đến nắm lấy nó, nhưng nó vỡ ra thành trăm mảnh không thể nắm được. Ngay cả cái tên”Mađalêna”, có vẻ là một địa danh hoặc một vị trí đẹp đẽ, cũng trở nên rối mù khi người biết rằng không chỉ Magdala, thị trấn đang được đề cập, đã bị người La Mã phá hủy vì những cư dân ở đó "suy đồi đạo đức" (một lời buộc tội đáng kinh ngạc đến từ người La Mã), nhưng chính trong sách Talmud, từ "Mađalêna" có nghĩa là "người đàn bà ngoại tình". Những manh mối, khi tổng hợp lại, có thể chỉ ra một người phụ nữ có một quá khứ không mấy tốt lành mà vì nó mà bà có lẽ phải gánh chịu đau khổ. Tuy nhiên, cũng có thể không phải như vậy. Có thể Maria Mađalêna là một người phụ nữ tốt lành, chỉ có điều quê quán lại ở một thành phố có lối sống hư hỏng, có nhiều phụ nữ ngoại tình theo thói xấu xa của dân thành thị thời đó, và vì thế bà mắc phải một vụ cám dỗ và bị quỷ ám nặng nề, bị hành hạ day dứt khôn nguôi bởi một sức nặng tối đa của sự dữ - bẩy quỷ, mà ngày nay các nhà y học có thể cho đó là những căn bệnh hiểm nghèo, thực thể hoặc rối loạn thần kinh, gây ra những hậu quả nặng nề cả thể lý lẫn tâm thần.
Nhưng sự thật được các sách Tin Mừng nói đến là có một Vị Thầy quyền năng và nhân lành - chưa từng xuất hiện trong lịch sử dân Israel - đã trừ khử bè lũ bẩy quỷ đó. Thật là một sự giải thoát đẹp đẽ và cảm động khỏi ách của lũ quỷ - một sự chữa lành khỏi mọi bệnh tật, vốn là hậu quả của tội lỗi, bệnh càng trầm trọng thì hậu quả của tội lỗi càng nặng nề, theo quan niệm của Do Thái giáo bấy giờ! Chúa Giêsu đã cứu chữa Maria Mađalêna, đem lại cho bà một cuộc đời tươi mới, an lành mà bà chưa từng vui hưởng. Làm sao mà không thán phục và ngưỡng mộ một Vị Thầy quyền năng và tràn đầy lòng thương xót như thế! Tình yêu của Mađalêna dành cho Chúa Giêsu đã thay đổi cuộc đời của bà, một sự đổi đời tuyệt vời! Thế rồi, Mađalêna lặng lẽ âm thầm theo Chúa sau khi nhận phép rửa vì tình yêu này. Nhờ sự khiêm hạ của mình, bà đã dần trở nên tốt lành, gần gũi Chúa Giêsu hơn các Tông đồ.
Ai còn dám khinh khi tội nhân! Chỉ một khoảnh khắc đủ để biến họ thành những vị thánh vĩ đại. Bao nhiêu người trong số những người vĩ đại nhất đã được Chúa Giêsu Kitô dẫn đưa thoát khỏi vũng lầy tội lỗi: Thánh Phaolô, Thánh Augustinô, và nhiều người khác! Mađalêna mở đường cho họ; bà đã lên đến tận Trái Tim của Chúa Kitô vì bà khởi đi từ rất thấp và biết cách hạ mình xuống. Vậy thì ai có quyền tuyệt vọng? Khi đi xưng tội, chúng ta có nên xem mình là Mađalêna và để cho cuộc sống trong sợ hãi của chúng ta, giống như của Mađalêna, được Chúa Kitô biến đổi vì tình yêu hơn là cứ sống trong sợ hãi?
Tình yêu của Mađalêna trở nên tích cực sau khi bà được chữa lành. Đó là một bài học quan trọng. Nhiều tội nhân hoán cải lại không làm gì khác sau khi được biến đổi. Họ chỉ muốn ở lại trong sự bình an của một lương tâm tốt lành bằng việc trung thành giữ các Giới Răn. Nhưng họ không dám bước theo Chúa Giêsu, và họ kết thúc bằng việc tái phạm tội lỗi. Con người không thể sống chỉ bằng nước mắt và hối tiếc. Một khi người ta đã phá hủy những đồ vật mà cõi lòng người ta đã gắn bó và đã sống cùng thì người ta cũng cần thay thế những thứ đó bằng một điều gì khác và sống cuộc sống của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn ở dưới chân Chúa Giêsu? Vậy nếu Ngài đứng dậy bước đi; chúng ta hãy theo Ngài và bước đi với Ngài. Mađalêna bắt đầu đi theo Chúa Giêsu như vậy; bà sẽ không bao giờ rời bỏ Ngài. Người ta thấy bà đứng dưới chân Thập giá, chứng kiến, lắng nghe những lời trăn trối của Ngài và suy ngẫm chúng trong lòng mình. Đó là cơ duyên của cuộc đời bà. Bà không nói lời nào, chỉ chiêm ngắm, cầu nguyện và mến yêu theo gương mẫu Mẹ Maria mà bà đang quỳ sát bên. Bà đã theo Chúa Giêsu và thực hành các nhân đức của Ngài trong những hoàn cảnh sống khác nhau. Một sự biến đổi không vượt ra ngoài cảm tính thì không lâu bền.
Maria chia sẻ những hoàn cảnh khác nhau của Chúa Giêsu. Trong suốt cuộc hành trình của Ngài, bà đã mua sắm cho Ngài những gì Ngài cần cho sự sống của chính Ngài và của các Tông đồ của Ngài. Mọi hoàn cảnh của cuộc sống đều tốt lành. Chúng ta hãy nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh, và đừng coi thường những người có hoàn cảnh khác.
Một đặc điểm đặc trưng khác của tình yêu chủ động của Mađalêna là sự đau khổ; bà đã đau khổ với Chúa Giêsu Kitô. Không nghi ngờ gì nữa, bà đã biết trước về cái chết của Thầy mình; bạn bè không giấu nhau bí mật. Và nếu Chúa Giêsu tiết lộ Cuộc Khổ Nạn của Ngài cho các Tông Đồ của Ngài là những người mộc mạc như vậy, thì tại sao Ngài lại giấu điều đó với một phụ nữ tinh tế như Mađalêna?
Mađalêna trung tín và kiên trì trong tình yêu mến bà dành cho Chúa Kitô. Bà từ bỏ gia đình thân yêu của mình, bà đi đến nơi mà các môn đệ nam giới sợ đi; bà đi theo Chúa Kitô khổ nạn đến cùng, bà dũng cảm lên đồi Canvê, chung quanh là quân lính Rôma tàn bạo, nhất là những người Do Thái đồng hương của bà đang căm phẫn Vị Thầy của bà, theo sự kích động của các lãnh đạo tôn giáo; bà có thể bị liên lụy, bị quy kết là đồng lõa với tên chống đời phá đạo…Nhưng bà không sợ! Và người ta thấy bà dưới chân Thánh giá, bên cạnh Mẹ Maria. Tin Mừng đề cập đến tên của bà, và chắc chắn bà xứng đáng với điều đó. Bà đã làm gì ở đó? Bà yêu thương và cảm thông. Một người bạn muốn chia sẻ hoàn cảnh của bạn mình. Tình yêu gắn kết hai cuộc sống, hai hiện hữu thành một. Mađalêna không dám đứng; bà luôn nhớ mình đã từng sống dưới ách tội lỗi, đầy bệnh hoạn tật nguyền nhưng đã được Thầy Giêsu cứu chữa, Vị Thầy bây giờ đang bị treo trên thập giá; bà cần phải quỳ xuống, cung kính ôm đôi bàn chân vẫn còn chẩy Máu quý giá của Thầy mình, bên cạnh Mẹ Maria đứng yên, hiến tế Người Con yêu dấu của mình, như Abraham sát tế Isaác, người con duy nhất mà ông yêu thương.
Mađalêna ở đó cho đến sau cái chết của Chúa Giêsu. Bà trở lại vào sáng ngày đầu tuần. Bà đã chứng kiến và biết rất rõ rằng Chúa Giêsu đã được mai táng; nhưng bà vẫn muốn gánh chịu đau khổ và khóc thương để tang cho Thầy của mình. Tin Mừng ca ngợi lòng nhiệt thành của những người phụ nữ khác và sự cao sang của những món quà của họ; nhưng Tin Mừng lại chỉ nói về những giọt nước mắt của Mađalêna. Mađalêna cho chúng ta thấy bà hết lòng tìm kiếm và mong mỏi đáp lại lòng thương xót bao la của Chúa Kitô.
Có lẽ đó là điểm chính. Có thể do một cố ý nào đó mà quá khứ của Maria Mađalêna vẫn còn mù mờ và không ai biết đến, nhưng tình yêu và lòng sùng kính của bà đối với Chúa Kitô thì trong sáng như pha lê. Rốt cuộc, đây chẳng phải là điều mà Chúa Kitô hứa với tất cả chúng ta khi Ngài nói,”Cho nên, phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” ? (2 Côrintô 5: 17).
Chúng ta là ai, chúng ta đã làm gì, những sai lầm và thất bại đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu đều được rửa sạch, và những gì còn lại là cơ hội để chúng ta bước theo Ngài, là con người sáng chói hơn một ngàn kỵ sĩ mặc áo giáp sáng chói, đến bất cứ nơi nào Ngài đi đến. Đi đến ngay cả chân thập giá đau thương. Đi đến ngay cả phần mộ chết chóc. Chúng ta, giống như Maria Mađalêna, đi đến ngay cả trước Đấng Phục sinh vinh quang choáng ngợp, là Đấng chúng ta khao khát tìm kiếm và yêu mến. [3]
Thánh Nữ Maria Mađalêna cho chúng ta thấy niềm vui của sự phục sinh.
Các tác giả Tin Mừng cho thấy một sự thật đồng nhất rằng Maria Mađalêna là người đầu tiên trong số các môn đồ nhìn thấy Chúa Giêsu sống lại và loan tin rằng Ngài đã từ cõi chết trỗi dậy. Cả bốn tác giả Tin Mừng đều đề cập rằng vào ngày đầu tuần, ngay sáng sớm, bà đi đến ngôi mộ, nơi có Đấng thương xót chữa lành đời bà.
Theo Tin Mừng Gioan, bà là người đầu tiên loan tin rằng ngôi mộ trống rỗng. Điều này khiến Phêrô và môn đệ yêu dấu phải đi đến ngôi mộ. Maria cũng đi đến đó. Phêrô và môn đệ yêu dấu nhìn vào bên trong ngôi mộ và chỉ thấy trang phục mai táng. Cả hai đều kinh ngạc về những gì đã xảy ra, bước ra khỏi ngôi mộ nhưng vẫn không dám chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại. Cuối cùng Maria ở lại ngôi mộ một mình. Tin Mừng nói rằng”Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân” (Gioan 20: 11).
Có lẽ, bà không trở về cùng với Phêrô và môn đệ yêu dấu kia vì đơn giản là bà quá rối trí không thể đi đâu được nữa. Không rối trí sao được khi người mà mình yêu thương bị hành hạ, giết chết, chôn cất, mình thấy tận mắt tất cả những chuyện đó, thế mà giờ đây thi thể đã biến mất, ngôi mộ bị bỏ trống, chỉ còn những khăn liệm, lại còn được sắp xếp gọn gàng…! Cảm xúc phụ nữ của bà bị chấn động; bà không thể thực hiện chuyến trở về. Vị Thầy của bà đã bị giết chết. Thôi thì chuyện đã rồi! Nhưng sao giờ này lại bị mất cả xác? Ngài là người đã phục hồi bà khỏi bảy quỷ, là người mà bà đã cùng đồng hành trong vài năm qua. Bây giờ tất cả những gì bà muốn làm là xức dầu thơm lên cơ thể Ngài cho đúng phép tắc, như thể nói lời từ biệt sau cùng. Ngay cả điều đó bà cũng không thể làm được, bởi vì dường như ai đó đã mang thi thể của Chúa Giêsu ra khỏi nơi an nghỉ của Ngài.
Trong tiếng khóc không thể kìm nén, bà thấy một người đàn ông xuất hiện, dường như là một trong những người làm vườn. Bà yêu cầu ông cho bà biết nơi ông đã đặt thi thể để bà đến và sửa soạn cho Chúa Giêsu những việc thích hợp mà người Do Thái vẫn thường làm sau việc an táng. Đây là bằng chứng cho thấy bà không hề nghĩ rằng Chúa Kitô sẽ sống lại, bà tin chắc rằng Ngài đã ra đi mãi mãi. Trong tâm trí của Maria, tất cả đã mất, thế là hết! Chính lúc như tuyệt vọng đó, Chúa Giêsu mới lên tiếng kêu tên bà,”Maria!” (Gioan 20:16). Một khi mối tương quan cá nhân được thiết lập giữa bà và Chúa Giêsu, một khi bà nghe thấy giọng nói của Ngài, bà sẽ biết chính xác đó là ai trước mặt mình. Đó không phải là người làm vườn. Đây là Vị Thầy của bà, là Chúa của bà.
Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn có cung cách tỏ mình ra như thế cho các môn đệ của Ngài, khi họ dường như chạm đến mức tuyệt vọng, khi họ cảm nhận và hiểu ra rằng mọi thứ trên trần đời nảy đều chấm dứt trong”hữu hạn, vô thường, vô nghĩa”, và Ngài đem lại cho họ, và tất cả những ai tin theo Ngài, một niềm vui òa vỡ, chan chứa, tinh khôi; người đầu tiên là Maria Mađalêna trước ngôi mộ trống, kế đến là các tông đồ trong căn phòng đóng kín, rồi tới hai môn đệ trên đường lui về Emmau, rồi Tôma vốn chủ trương thực chứng, rốt cuộc cũng phải thốt lên trong kinh ngạc và mừng vui vô bờ, đến độ bất giác quỳ xuống sụp lạy một Thầy Giêsu thân quen vô vàn yêu quý, nay tỏ mình ra vô cùng cao cả thần thiêng:”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Gioan 20: 28).
Maria Mađalêna là người chứng đầu tiên về Chúa Kitô Phục sinh, trong đoàn lũ con cái phàm nhân của Adam-Evà, vốn phải chết như một số phận tất yếu, nay được hưởng nếm trước niềm hạnh phúc chứa chan của những ai sống trong”cảnh vực thần linh” (Teilhard de Chardin) vì đã hết lòng tìm kiếm, bất kể những gian nan khổ sầu, kiên trì bước theo và yêu mến Vị Thầy Người-Chúa đã tự hiến tế trên Thánh Giá,và vẫn đang thực hiện Lời Ngài phán hứa:”Đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Maria đi tìm Chúa Giêsu, nhưng cuối cùng chính Chúa Giêsu lại là người tìm đến bà. Nhiều người đã hỏi, tại sao không phải là Đức Mẹ, tại sao Mẹ không phải là người đầu tiên gặp Chúa Kitô Phục Sinh, tại sao không phải là Phêrô hay Gioan? Có rất nhiều câu trả lời hợp lý, nhưng có một câu trả lời bắt nguồn từ cách chúng ta nhận ra Maria Mađalêna là ai. Nếu chúng ta biết rõ hơn bà là ai thì chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt hơn về lý do tại sao bà là người được chọn ban cho đặc ân này.
Bất chấp những gì mà hầu hết các kênh truyền hình Lịch Sử trình chiếu và các phim tài liệu khác đã nêu ra, Maria Mađalêna chưa bao giờ được nhắc đến trong các sách Tin Mừng như là một cô gái làm nghề bán thân. Tham chiếu duy nhất mà chúng ta có về danh tính của bà là Chúa Giêsu đã trừ bảy quỷ khỏi bà (Luca 8: 2; Máccô 16: 9). Trong niềm tin của người Do Thái giáo, số bảy là số tượng trưng cho sự hoàn hảo. Vì vậy, khi Chúa Giêsu gặp Maria Mađalêna, bà đã bị quỷ nhập, chứ không chỉ là các vụ quỷ ám thông thường mà Chúa Giêsu đã chinh phục trong cuộc hành trình rao giảng của mình. Maria đã bị héo hon bởi bảy con quỷ, một sự dữ hoàn toàn. Chúa Giêsu phải đối mặt với sự dữ mãnh liệt tối đa trong bà… và Ngài đã chiến thắng nó, nơi một cá nhân.
Cùng với sự đóng đinh và Phục sinh của Chúa Kitô, kế hoạch của Thiên Chúa đánh bại tội lỗi và sự chết, là sự dữ mãnh liệt tối đa, được hoàn thành, nơi toàn thể nhân loại, và nơi toàn thể công trình tạo dựng. Trên đồi Canvê, toàn bộ thực tại của tội lỗi gắn chặt vào Chúa Kitô và với cái chết của Ngài, Ngài đã hủy diệt quyền thống trị của sự dữ trên nhân loại như lời thánh Phêrô:”Tội lỗi của chúng ta, Ngài mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2, 21-24). Sự chết vào thế gian chỉ vì tội lỗi của Ađam và Evà. Thoạt tiên, chúng ta được tạo dựng là để sống và ở với Thiên Chúa mãi mãi trong sự hiệp thông hoàn hảo. Tuy nhiên, với quyết định tự do tự ý, Ađam và Evà đã chọn theo ý riêng phàm nhân hữu hạn của chính mình thay vì chọn tuân theo Thánh Ý thiện hảo của Thiên Chúa, do vậy cái chết từ đây sẽ là một phần của cuộc sống. Nhưng sự dữ tột đỉnh, tức là cái chết, không phải là phán quyết chung cuộc, như lời thánh Phaolô dạy:”Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài.” (II Côrintô 5, 21) và”để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống.” (II Côrintô 5, 4)
Nói một cách thực tế, cái chết là cực điểm của sự ác và tội lỗi. Tuy nhiên, với cuộc khổ nạn, đóng đinh, chịu chết và Phục sinh của Chúa Giêsu, cái chết, như hậu quả cuối cùng của sự dữ và tội lỗi, không còn thống trị nữa; Chúa Giêsu chiến thắng sự dữ một cách trọn vẹn. Có thể đây là lý do tại sao Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra trước hết với Maria Mađalêna sau khi Ngài sống lại, bởi vì qua kinh nghiệm cá nhân, bà đã hiểu và cảm thấu được thế nào là bị sự dữ độc chiếm hoàn toàn, và bà biết niềm vui sẽ lớn lao như thế nào khi sự dữ đó bị phá hủy. Bà đã trải qua điều đó trong chính cuộc sống riêng tư khi bị ma quỷ thống trị và khi được giải thoát khỏi chúng. Do đó bà có đủ tâm thế để hiểu rõ nhất sự Phục sinh của Chúa Kitô có ý nghĩa như thế nào đối với bà và tất cả nhân loại. Bà có đủ lòng biết ơn chân thành và sự can đảm thực sự để chạy đi loan báo với mọi người về sự Phục sinh của Chúa Kitô, cũng là khởi đầu sự Phục sinh của toàn nhân loại, mà bà là người cảm nhận rõ ràng nhất và trước nhất.
Chúa Kitô đã sống lại cách vinh quang, Ngài đã tìm đến với Maria Mađalêna, tìm đến các Tông Đồ, và tìm đến cá nhân mỗi người chúng ta, nhiều lần nữa, trong nhiều hoàn cảnh cuộc đời, và Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta một mình. Đó là thông điệp của Lòng Chúa Thương Xót. [4]
Tài liệu tham khảo:
[1] Những nghiên cứu khảo cổ đầu tiên tại Magdala được thực hiện vào những năm 1970 dưới sự điều phối của hai nhà khảo cổ dòng Phanxicô, cha Virgilio Corbo và cha Stanislao Loffreda. Năm 2006, dòng Phanxicô tại Thánh Địa, chủ sở hữu của khu đất nơi một phần còn sót lại của thành phố Magdala được tìm thấy, đã tiếp tục lại công việc khai quật. Magdala là một thị trấn nhỏ ở Galilea nằm bên bờ tây của hồ Tiberia. Một phần lớn của thành phố với các dinh thự, đường phố sỏi đá, các vật dụng, đồ gốm, đồ trang sức, tiền xu và các vật dụng khác được tìm thấy, phác họa bức tranh về đời sống hàng ngày của thành phố Magdala vào thời của Chúa Giêsu. Một phần khác của trung tâm thành phố cổ được tìm thấy ở khu vực liền kề, thuộc sở hữu của dòng Đạo binh Chúa Kitô. Một nhà thờ và một trung tâm đón tiếp khách hành hương đã được xây dựng tại đây. Cùng điều phối chương trình này có hai linh mục của giáo phận Vicenza, đó là cha Raimondo Sinibaldi, giám đốc Văn phòng truyền giáo, và cha Gianantonio Urbani, nhà khảo cổ của Học viện Kinh thánh dòng Phanxicô ở Giêrusalem (REI 12/02/2020).
Cuộc đời của bà Maria Mađalêna vẫn còn là đề tài gây tranh luận. Ý nghĩa chủ yếu của cuộc đời Maria Mađalêna là bà đã nhận biết được những gì Chúa Giêsu muốn nói, hiểu được tâm tình và suy tưởng của Chúa Giêsu và bước theo Ngài. Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời. Năm 889, Đức Giáo Hoàng Lêô VI đã chuyển thi hài thánh nữ về một tu viện ở Constantinople. Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị ngộ nhận là người đàn bà tội lỗi. Có lẽ Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng:”Sự hiểu lầm này cũng không có gì là quá đáng, vì tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy đón nhận sứ mạng rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta”.
[2] [3] [4] catholicexchange.com/ st mary magdalene.
1/ Thánh Nữ Maria Madalena quê tại Macdala, gần biển hồ Galile-a. Thánh nữ bị quỷ ám cho tới khi được Đức Yesus trừ quỷ cho/ sau đó bà đi theo Đức Yesus, làm Môn Đệ và là một trong những phụ nữ thánh thiện/ đã đi theo giúp đỡ Chúa Yesus và các Tông Đồ.
2/ Thánh Nữ thuộc nhóm phụ nữ đi theo Chúa Yesus/ và lấy tài sản của mình mà giúp đỡ Ngài. Thánh nữ Maria Madalena có mặt trên đồi Canve khi Chúa Yesus chịu tử nạn, và là người thứ hai sau Đức Mẹ, bà được phúc gặp Đấng Cứu Thế vào sáng ngày Phục Sinh. Thánh Nữ đã gặp được Chúa sau khi Chúa gọi đích danh bà.
3/ Lòng sùng kính của Giáo hội đối với người nữ Môn Đệ hết mực trung thành của Chúa Kito đã được phổ biến khắp thế giới Phương Tây trong thời trung cổ. Thánh Nữ Maria Madalena, không phải là những người phụ nữ trùng tên Maria, hoặc là người đã vì lòng sám hối mà đổ dầu thơm quý giá xức chân Chúa Yesus tại nhà ông Simon tật phong.
4/ Maria Madalena có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài/ là đề tài gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các Thánh nhân và các Môn Đệ của Chúa Kito qua mọi thời đại. Tiếng tăm bà không dễ dàng gì giải thích, mà chỉ dựa vào các thông tin của bà trong Kinh Thánh. Điều mà sách Tân Ước nói về bà thật ít ỏi, dễ gây thất vọng, các tác giả Tin Mừng chỉ đơn giản gọi bà là Maria thành Magdala, nhưng có một chi tiết nhỏ có ý nghĩa , có thể gây kinh ngạc/ vì cả 4 Tin Mừng đều khẳng định bà là người Môn Đệ gương mẫu cho mọi thời đại.
5/ Có điều gì đó mang chút hấp dẫn về tên người phụ nữ này trong các bài Tin Mừng: Một người phụ nữ mà tên riêng lại không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác/ chính vì có nhiều óc tưởng tượng bình dân đã gán ghép bà với người phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một chút rối mù.
6/ Thỉnh thoảng Maria Macdala bị đồng hóa hay nhầm lẫn cách sai lầm với một người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Yesus. Sự đồng hóa này càng thêm phức tạp vì người ta nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô gái điếm. Điều này càng góp phần khiến cho vấn đề càng trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Madalena bị nhầm lẫn với một phụ nữ bị cáo buộc tội phạm ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Yoan, lại nhập nhằng với nhau.
7/ Thánh Marco và Mattheu đưa ra trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Yesus/ Có ý nói về cuộc mai táng sau này của Ngài/ Lúc ấy Chúa Yesus đang ở nhà của ông Simon tật phong, ở Betania, gần Yerusalem. Thánh Yoan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Yesus không lâu trước cái chết của Chúa/ xác định là phụ nữ thành Betania, bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa đã cứu sống Lazaro em bà// Bởi vì Maria là cái tên rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà có tên là Maria đã lẫn lộn vào nhau trong truyền thống Kito giáo sau đó.
8/ Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Yesus khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong lúc thực hiện sứ vụ (Lc 7, 26-50)/ chứ không phải ở lúc cuối đời. Lúc ấy, Chúa Yesus đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Phariseu. Có lẽ Maria Madalena đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này, bởi vì bà Maria Madalena lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8,2), góp phần tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội lỗi công khai (một cái tên nhẹ nhàng để gọi cho cái nghề làm gái điếm). Người đã đổ nước mắt thống hối và hành động như thế vì lòng hối hận/ thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Yesus là một phụ nữ vô danh trong tin mừng Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì tội lỗi của mình hơn là tình yêu dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa dụ ngôn mà Chúa Yesus vừa mới nói đến trong dịp này, lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể câu chuyện.
9/ Vấn đề càng thêm phức tạp hơn khi có vài đoạn tin mừng của Thánh Yoan (Yn 7,53/ Yn 8,11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình/ và gán ghép chị này với Maria Madalena. Một truyền thống lâu đời trong văn chương, và nghệ thuật Kito giáo đã vẽ nên một Maria Madalena là người tội lỗi ăn năn sau khi gặp được Chúa Yesus/ thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình hoặc tệ hại hơn nữa lại là một cô gái điếm.
10/ Tóm lại, Thánh Nữ Maria Madalena mà Giáo hội kính nhớ ngày 22/07: Bà là một phụ nữ Thánh thiện, bà đi theo Chúa suốt cuộc đời, bà đứng dưới chân Thánh giá/ bà được Chúa Yesus phục sinh hiện ra đầu tiên/ bà không phải là phụ nữ ngoại tình cũng không phải là người đàn bà tội lỗi/ cũng không phải là Maria chị của Lazaro. Bà là gương mẫu cho các Môn Đệ, bà là người duy nhất được Giáo hội công giáo Roma kính nhớ, bà là người được Chúa trừ bảy quỷ. Chúng ta không bao giờ được nhầm lẫn với những bà Maria khác, mà các họa sĩ công giáo đã vẽ lên những hình ảnh, những tác phẩm khiêu gợi, không đúng với nhân phẩm của một vị thánh nữ gương mẫu như bà /
11/ Hôm nay chúng ta suy về tình yêu bùng cháy trong trái tim người phụ nữ đã không hề rời mộ Chúa/ mặc dù các Tông Đồ khác đã bỏ trốn tất cả. Thánh nữ vẫn liên lỉ tìm kiếm đấng mà trước kia bà không tìm được, thánh nữ đã tìm kiếm trong nước mắt và bừng cháy ngọn lửa tình yêu. Bà khao khát tìm thấy đấng mà bà đang tưởng nhớ/ và với hy vọng gặp được Chúa/ và bà là người duy nhất đã gặp được Ngài. Đúng như lời Chúa đã cho chúng ta biết: Ai trung thành đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.
12/ Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Chúa đang ở rất gần bên chúng ta trong những biến cố của cuộc sống/ mặc dù chúng ta không nhận ra Người, nhưng Người vẫn luôn ở bên chúng ta.
13/ Hôm nay chúng ta hãy xin Thánh nữ ban cho chúng ta lòng trung kiên/ và chia sẻ lòng trung kiên của Bà trong việc đi tìm Chúa/ xin Thánh nữ giúp chúng ta vững bước theo Chúa cho đến cùng như Ngài đã từng đứng dưới chân Thánh Giá và theo Chúa trên mọi bước đường của sứ vụ, Bà đưa Chúa đến nơi huyệt đá, đợi chờ để được ướp xác Chúa kỹ hơn. Nhờ thế Thánh nữ đã gặp được Chúa, đã có được niềm vui trọn vẹn cho cuộc đời mình. Xin Chúa Kito phục sinh cũng cho con được gặp Chúa như vậy. Amen.****///
14/ Các bà Maria trong Tân Ước:
Trong Tân Ước, có một số phụ nữ mang tên Maria (Hípri: Miryâm). Có 6 người mang tên Maria:
1. Maria, mẹ Đức Giêsu.
2. Maria, mẹ các ông Giacôbê (Thứ) và Giôxếp. Đôi khi bà này được đồng hóa với bà Maria vợ ông Clôpát, chị thân mẫu Đức Giêsu. Bà này thường được nêu tên cùng với bà Maria Mácđala (Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1; Lc 24,10; Ga 19,25).
3. Maria, ở Bêtania, em của cô Mátta và chị ông Ladarô (Lc 10,39.42). Bà này được tác già Tin Mừng IV đồng hóa với người phụ nữ xức dầu lên chân Đức Giêsu (Ga 11,1; 12,3). Một số người đồng hóa sai lầm bà này với người phụ nữ tội lỗi trong Lc 7,37-50.
4. Maria, Mácđala (mừng lễ ngày 22/7). Bà là người trước đây bị bảy quỷ ám, đã được Đức Giêsu chữa lành. Bà có mặt khi Đức Giêsu tắt thở và đi theo mai táng xác Chúa trong mồ, và là người đầu tiên được gặp mặt Đấng Phục Sinh (Mt 27,56.61; 28,1; Mc 15,40.47; 16,1.9; Lc 8,2; 24,10; Ga 19,25; 20,1.11.16.18). Bà không phải là Maria Bêtania hay người phụ nữ tội lỗi trong Lc 7,37-50.
5. Maria, mẹ của Máccô: Cv 12,12.
6. Maria, Một Kitô hữu ở Rôma: Rm 16,6. //// Lm FX VŨ PHAN LONG
Ghi chú thêm: Giáo hội Chính thống kính cả 3 bà, nhưng giáo hội Roma chỉ kính có một bà, đó là Thánh nữ Maria Madala, kính ngày 22/7. Bà thánh này không phải là người đàn bà tội lỗi như nhiều người vẫn lầm tưởng. Chúng ta hãy xác định lại cách hiểu và cách kính nhớ, kẻo vô tình chúng ta lại hiểu sai và cứ tiếp tục xúc phạm đến thanh danh và sự thanh sạch của bà.