Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất nó; còn ai mất mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian mà phải thua thiệt và mất mạng sống mình, thì được ích gì? Bởi lẽ kẻ nào hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn khi họ đến trước tôn nhan Ngài, tôn nhan Chúa Cha và các Thiên Thần".
---------------------------------------
* Thánh Phêrô Đoàn Công Quí
Ngài là con của ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị Trường, sinh năm 1826, tại họ đạo Búng, Thủ Dầu Một ( Bình Dương). Ngay từ nhỏ, cậu Phêrô đã có lòng ước ao dâng mình cho Chúa. Sau khi đã nhập vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Thị Nghè), Thầy Phêrô được gởi đi tu học tại đại chủng viện Thừa Sai Paris ở Pénang (Malaysia), năm 1848; hoàn tất chương trình đào tạo, trở về quê hương vào ngày 11/04/1855. Lúc bấy giờ các vua triều Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, đang cấm đạo rất gắt gao. Vào tháng 9 năm 1858, Thầy được chịu chức một cách âm thầm tại Thủ Dầu Một; sau đó, được cử đi phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, làm Cha Phó họ đạo Cái Mơn (Vĩnh Long), và là Cha Sở họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng, An Giang), từ ngày 27/12/1858, trú ngụ tại nhà ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng. Cùng với lòng nhiệt thành tông đồ, hăng hái phục vụ bổn đạo, Cha còn có lòng yêu mến Đức Mẹ một cách đặc biệt. Nhờ có tài hát xướng, Cha đã sáng tác những bài thánh ca để phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ. Ngoài ra, Cha luôn khao khát tử đạo để làm chứng cho Chúa. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, khi có dịp là cha sẵn sàng dâng hiến mạng sống, để làm chứng cho Chúa. Và Cha đã thực hiện được ý nguyện khi được Bề Trên cử về Cù Lao Giêng làm Cha Sở. Về nhiệm sở mới được 10 ngày, Cha bị bắt cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 32 giáo dân khác, vào ngày 07/01/1859 và bị giam giữ tại nhà tù Châu Đốc cho đến ngày 31/07/1859.
---------------------------------------
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng
Ngài sinh năm 1796, tại họ đạo Đầu Nước (Cù Lao Giêng), làng Tấn Đức, tổng An Bình, tỉnh An Giang, thuộc Trấn Châu Đốc. Là một gia đình gương mẫu, cùng với vợ là bà Anna Của, ông đã nuôi dạy 9 người con và 2 người con nuôi nên những người đạo đức, tốt lành. Với lòng bác ái cao quý, ông thường chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, túng thiếu,… nhất là trong thời dịch bệnh và ngay cả khi bị giam tù ở Châu Đốc. Với tinh thần tông đồ cao, ông hăng say hy sinh, phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Trong thời gian cấm đạo rất gắt gao, ông vẫn âm thầm dâng đất cất nhà thờ, chủng viện và nhà các dì phước. Trong nhà ông, thường xuyên có các linh mục trú ngụ. Có thời gian, có 5 linh mục cùng một lúc; trong đó có các vị thừa sai nước ngoài (Tây dương đạo trưởng). Ngoài ra, ông còn có tài ngoại giao rất đặc biệt. Ông có mối quan hệ rất tốt với chính quyền địa phương, cụ thể là Quan Huyện. Nhờ đó, mà giáo dân Cù Lao Giêng vẫn được an bình trong thời điểm cấm đạo rất khó khăn. Vì có người tố cáo, ngày 07 tháng 01 năm 1859, Ông bị bắt cùng với cha Phêrô Đoàn Công Quí và 32 giáo dân khác. Các ngài bị điệu về Châu Đốc giam giữ.
Gương sáng tử đạo
Trong suốt 7 tháng trời, Tổng trấn và quan quân Triều đình ra sức dụ dỗ Cha Phêrô và ông Emmanuel bỏ đạo, để được thăng quan, tiến chức và tưởng thưởng. Nhưng các ngài vẫn một mực yêu mến Đức Kitô, nhiệt tình với Tin Mừng Phúc âm và trung thành với Giáo Hội. Không thuyết phục được, Tổng Trấn gởi sớ về triều đình xin án lệnh. Vua Tự Đức châu phê và gởi về Châu Đốc ngày 30/07/1859. Ngày hôm sau, 31/07/1859, tại Bến Chà Và (Bến Cây Mét), các ngài đã hiến dâng mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng Phúc âm. Để tuyên dương công trạng, nhân đức và tinh thần tông đồ đầy nhiệt huyết, vào ngày 02/05/1909, Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong các ngài lên bậc Chân phước (Á thánh). Sau đó, vào ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với 115 vị tử đạo khác tại Việt Nam. Các ngài đã nêu gương sáng về Đức Tin kiên vững, Đức Mến nồng nàn, Đức Cậy vững vàng, nhất là lòng nhiệt thành loan báo cho mọi người Tin Mừng tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đây còn là mẫu gương sống động về tinh thần đồng trách nhiệm giữa linh mục và giáo dân, giữa Cha sở và Hội Đồng mục vụ giáo xứ mọi thời và mọi nơi. Cũng còn đúng với đường hướng xây dựng giáo phận theo mô hình của một Hội Thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Lúc sinh thời, thánh Emmanuel Lê Văn Phụng giữ chức Lý trưởng, là chức thứ nhì trong làng. Vì thế, ngài được gọi là ông Lý Phụng. Đồng thời, ngài coi sóc việc đạo cho cả phủ nội tỉnh An Giang (Châu Đốc), gọi là Câu Phủ; cho nên, người đương thời cũng quen gọi ngài là Ông Câu Phụng. Với những chức vụ đạo, đời khá quan trọng như thế, ngài đã làm việc hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Cuộc đời của thánh nhân có những nét đặc biệt sau đây.
Trước hết, là một tín hữu ngoan đạo, ngài luôn luôn tỏ ra là một gia trưởng gương mẫu. Dù rất bận chuyện làng-xã và họ đạo, thế nhưng, cùng với người vợ rất đảm đang là bà Anna Của, ngài đã nỗ lực sinh dưỡng, dạy dỗ một cách tốt đẹp tất cả 9 người con, năm trai, bốn gái, ngoài ra còn có hai người con nuôi cũng được ngài đùm bọc, cưu mang, giáo dục đầy đủ. Ngài quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo lý, đạo đức, học hành của con cái. Ngài lưu ý chỉ dạy cách ăn nết ở theo luân thường, đạo lý từ ngàn xưa. Thật là gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Điều đó đã được các linh mục lưu trú trong nhà khẳng định và ca ngợi.
Thứ đến, ngài có một tinh thần tông đồ rất nhiệt thành, hăng hái. Với tư cách là người đứng đầu trong họ đạo, ngài luôn luôn sống hết mình với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với bà con bổn đạo, ngài rất hăng say trong việc mở mang Nước Chúa, cho dù phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách.
Trong thời gian cấm đạo gắt gao nhất, ngài vẫn âm thầm dâng hiến đất đai, xây dựng nhà thờ, nhà xứ và nhà các nữ tu. Mái ấm của ngài là nơi lưu trú thường xuyên của các linh mục, kể cả các vị thừa sai nước ngoài.. sinh hoạt đạo đức của họ đạo, với các lễ nghi phụng vụ, với các bí tích được trao ban đều đặn, hầu như luôn luôn được diễn biến bình thường, là nhờ ở sự khôn khéo và tài đức của ngài.
Đồng thời, nhờ lòng đạo đức sâu sắc và sự am hiểu giáo lý một cách vững vàng, ngài đã được Bề trên chọn làm giảng viên giáo lý của họ đạo Cù Lao Giêng, và sau đó, của cả tỉnh An Giang. Với vai trò đặc biệt này, ngài ra sức dạy giáo lý cho các thiếu nhi, thanh niên và cả những người lớn tuổi. Ngài thường xuyên thăm hỏi, khuyên nhủ, giải thích và giúp đỡ những người khô khan, nguội lạnh trở về với Chúa. Ngài nhiệt tình lo lắng cho những người hấp hối, nguy tử được lãnh nhận các bí tích sau cùng, chuẩn bị chu đáo trước khi ra trình diện với Chúa.
Ngoài ra, lòng bác ái của ngài cũng là một nhân đức nổi trội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngài vẫn tỏ ra tâm hồn nhân ái đặc biệt. Gặp thời dịch bệnh hoành hành, ngài đã sắm ghe, mua thuốc, phân phát, cứu giúp những người bệnh, cách riêng là những người nghèo khổ… trong thời gian tù đày, ngài cũng sẵn lòng chia sẻ những gì mình có cho các bạn tù, cho lính canh và cai tù… Ngay cả với kẻ thù, ngài cũng tỏ ra tấm lòng quảng đại, bao dung. Sở dĩ ngài bị bắt và bị giam giữ, cùng với cha sở Phêrô Quí là do hai tên bất lương tố cáo, hãm hại. thế nhưng, khi hai tên này đến xin bà vợ của ngài giúp đỡ tiền bạc, từ trong tù, ngài đã khuyến khích và yêu cầu bà thực hiện… Nhìn vào cung cách sống đó, tất cả mọi người đều thán phục người tông đồ của Chúa.
Sau cùng, với sự khôn khéo, tế nhị đặc biệt, với tinh thần trách nhiệm cao độ của người đứng đầu với những phương tiện vật chất mà Chúa trao ban, ngài đã xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp với tất cả những người chung quanh, kể cả quan quyền lúc bấy giờ. Ngài sẵn sàng hy sinh, dâng hiến những gì mình có để làm sáng danh Chúa, để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Nhờ đó, mà ngài đã giúp cho họ đạo được bình yên, ngay cả trong thời buổi khó khăn nhất.
Và như thế, với tình yêu son sắt với Chúa và anh em, với sự trung tín kiên vững của người môn đệ, với niềm xác tín vào ơn cứu độ của thiên chúa, ngài đã hiến dâng mạng sống, để xứng đáng là sứ giả của Chúa Kitô tại quê hương thân yêu của ngài. Ngài đã trở nên một mẫu gương chứng nhân tiêu biểu của Đấng Cứu Thế cho đồng bào của ngài.
Noi gương của Thánh nhân, chúng ta hãy nỗ lực sống tin Mừng mỗi ngày trong cuộc sống đời thường, một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Hãy sống trọn vẹn ơn gọi mà Chúa trao ban trong gia đình. Hãy là những người cha có trách nhiệm, người mẹ đảm đang, người con hiếu thảo để tạo bầu khí yêu thương, hạnh phúc trong mái ấm. những lời nói, cử chỉ, việc làm thắm đượm tình bác ái sẽ giúp đem lại bình an, niềm vui và hy vọng. Sự quan tâm, chăm sóc cho nhau sẽ đan dệt nên những tâm tình yêu thương, liên đới, chia sẻ, hy sinh và phục vụ…
Nên nhớ rằng, qua bí tích rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Ki-tô cho những anh em chung quanh. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng đó bằng đời sống gương mẫu của chúng ta qua nhữn việc làm cụ thể. Chính nhờ đời sống đầy tình yêu thương bác ái của chúng ta mà người ta có thể nhận ra Chúa, yêu mến Chúa, tin Chúa và đến với Chúa.
Ngoài ra, tinh thần tông đồ cũng mời gọi chúng ta nhiệt tình cộng tác với Đức Giám Mục giáo phận, với các linh mục phụ trách giáo xứ, với các thành phần dân Chúa, để giúp mọi người thăng tiến về mọi mặt, nhất là trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến. Hãy dùng tất cả những phương tiện mà Chúa trao ban, hãy biết chia sẻ những gì mình có, như: tài năng, thời giờ, sức khỏe, công ăn việc làm, tiền của vật chất… để làm vơi nhẹ những khổ đau, đem lại niềm an ủi, nâng đỡ tinh thần, tạo nên sự phấn khởi, lạc quan… cho những người đang gặp khó khăn, thử thách. Không ai nghèo túng đến nỗi không có gì để chia sẻ cho người khác. Một nụ cười tươi tắn, một sự đón tiếp niềm nở, một lời nói động viên hay một lời khen ngợi chân thành, một cái bắt tay thân tình, một sự giúp đỡ nho nhỏ… tất cả đều có một giá trị vô cùng lớn lao và cao quí. Tất cả đều là dấu chỉ chắc chắn loan báo hạnh phúc đích thực, sung mãn và vĩnh viễn của Nước trời. Sống được như thế, chúng ta sẽ là những chứng nhân đời thường của Đức Kitô, theo gương của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với ngài, trong vinh quang Thiên Chúa.
Tinh thần đồng trách nhiệm trong sứ mạng của Hội Thánh
(Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu 31-07-2010)
Thật tự hào cho giáo phận Long Xuyên, khi mô hình Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm đã được thực hiện trước công đồng Vaticanô II cả trên 100 năm tại họ Đầu Nước, nay là Cù Lao Giêng, một trong những họ đạo cổ kính và điển hình của giáo phận, do cha sở họ đạo là linh mục Phêrô Đoàn Công Quí, và đại diện giáo dân là ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Thật vậy, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm trong sự cộng tác với nhau để điều hành sinh họat của họ Đầu Nước - Cù Lao Giêng. Đặc biệt là ông câu Phụng đã dâng hiến tài sản của gia đình mình cho Giáo Hội, để xây cất cơ sở vật chất như chủng viện, nhà dòng. Hơn nữa, cha sở Phêrô và ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự đoàn kết với nhau trong chức linh mục của Chúa Kitô, để mỗi người theo sứ mạng của mình, phục vụ nhiệm thể Chúa Kitô. Riêng ông câu Phụng đã biến gia đình mình trở thành một Hội thánh tại gia, nơi mà trong thời bách hại, hàng giáo sĩ thường lui tới để trú ngụ, để ẩn náu và thi hành tác vụ linh mục, cụ thể là cử hành các bí tích cho giáo dân trong vùng. Nhất là cha sở Phêrô cùng với ông câu Phụng đã thể hiện tinh thần đồng trách nhiệm bằng sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trong cuộc tử đạo của mình. Máu của hai thánh đã hòa trộn với Máu Thánh của Chúa Kitô, cùng thấm đẫm tại phần đất của vùng Châu Đốc, An Giang. Như vậy, sự cộng tác, sự đoàn kết và hiệp thông là những bài học cho giáo phận Long Xuyên, cho hàng giáo sĩ cũng như giáo dân, về tinh thần đồng trách nhiệm được biểu hiện từ cuộc đời và cuộc khổ nạn của hai thánh Quí - Phụng.
Thực ra, không phải là do hai thánh Quí - Phụng, cũng không phải là do công đồng Vaticanô II đưa ra những bài học về tinh thần đồng trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu. Chính Chúa Kitô đã sống và đã dạy bài học này cho những người theo Chúa trong bầu khí của cộng đoàn các Tông đồ. Chúa đã muốn các ông cộng tác với nhau và với mọi người nên sai các ông đi từng hai người một. Chúa muốn các ông đoàn kết với nhau và với mọi người nên đề ra chương trình hành động chung là làm chứng và loan báo Tin mừng bình an. Và Chúa muốn các ông hiệp thông với nhau và với mọi người trong lý tưởng của Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã dạy bài học tinh thần đồng trách nhiệm. Công đồng Vaticanô II và Liên Hội đồng Giám mục Á Châu trở về nguồn với tinh thần tham gia và hiệp thông. Như vậy, giáo phận Long Xuyên không có con đường nào khác ngoài con đường trở về xây dựng giáo phận thành một Hội thánh tham gia và hiệp thông trong tinh thần đồng trách nhiệm.
Sẽ rất hài lòng cho hai thánh tử đạo nếu giữa anh chị em và cha sở đã có những hợp tác chặt chẽ trong mục vụ, và đã có những nỗ lực giải quyết những chia rẽ, những bất hòa, để tránh tình trạng kình chống nhau trong họ đạo. Và ước mơ rằng họ đạo Cù Lao Giêng sẽ là nơi hành hương cấp giáo phận để tinh thần đồng trách nhiệm của hai đấng Thánh được suy tư, chiêm ngưỡng và được tiếp tục học hỏi như bài học cho các cộng đoàn Kitô hữu trong và ngoài giáo phận.
Xin hai thánh tử đạo là cha sở Phêrô và ông câu Phụng chúc lành cho chúng con, và tiếp tục giúp chúng con biết học bài học xây dựng Nước Thiên Chúa bằng tinh thần đồng trách nhiệm. Amen.
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796 tại họ Đầu Nước (Cù Lao Giêng), tỉnh An Giang, thị xã Châu Đốc. Vì tính tình cương trực, nhiệt thành chăm lo cho việc chung nên ông Phụng được giáo hữu tín nhiệm bầu làm ông câu họ Đầu Nước.
Nhờ có nhiều tài đức, ông câu Phụng vận động giáo dân toàn họ đạo góp công góp của, tái thiết nhà thờ họ khang trang, thoáng mát và xây dựng nhà các dì dòng Chúa Quan Phòng. Ông đã biến họ Đầu Nước thành nơi dung thân an toàn cho các thừa sai và hàng giáo sĩ bản quốc.
Ông câu Phụng ước ao có linh mục ở lại họ đạo Đầu Nước để dâng Thánh lễ cho giáo dân. Trong những dịp lễ lớn, bằng mọi cách, ông tìm rước cho bằng được một linh mục về dâng Thánh lễ hay cho các bệnh nhân hấp hối được xức dầu. Trong thời gian có bệnh dịch, ông câu mua chiếc thuyền con và chính tay ông cầm lái, rước cha đi khắp mọi nơi ban bí tích cho con chiên trong giờ phút cận tử.
Quan huyện địa phương xét thấy sinh hoạt đạo Chúa không gây mất trật tự hay nguy hiểm cho làng nước. Hơn nữa, nhà quan vẫn thường nhận tài trợ của ông câu Phụng. Vì thế, khi nào có lệnh khám xét hay truy lùng linh mục, quan huyện âm thầm cho người báo tin trước để ông câu Phụng có đủ thời gian thông tin cho giáo hữu cất giấu ảnh tượng và đồ thờ phượng.
Chẳng may, trong vùng có hai tên chuyên cờ bạc là Nên và Miêu. Hai tên này muốn lợi dụng cơ hội làm tiền nên chia phiên nhau trèo lên cây xoài gần vườn nhà ông câu Phụng để theo dõi, quan sát diễn biến trong nhà. Mùa Đông năm 1858, hai tên này phát hiện bóng dáng linh mục thừa sai Pernot - Định tạm trú trong nhà ông câu Phụng.
Đêm đó, khi mọi người đã an giấc, thừa sai Jean Pernot - Định mở cửa đi dạo trong sân sau, hít thở không khí trong lành và lần chuỗi Mân Côi. Hai tên do thám nhìn thấy, vội vã chạy đi báo tin cho quan trấn thủ Châu Đốc. Chúng tố cáo gia đình ông câu Phụng chứa chấp linh mục Tây dương và xin phái ngay quan lãnh binh điều động bính lính đi bắt chứ đừng dùng quân lính của quan huyện vì theo họ, quan huyện đã ăn tiền, thông đồng với người Công giáo và giúp họ che đậy.
Sáng ngày 07/01/1859, ông câu Phụng vẫn chưa hay biết có quan quân đến nhà. Khi cha Pernot - Định và cha Đoàn Công Quý, cha sở mới họ Đầu Nước, vừa dâng lễ xong thì có người chạy đến đưa tin quan trấn thủ Châu Đốc đi thuyền và theo đường bộ đang tiến đến bao vây nhà ông câu Phụng. Ông điềm tĩnh nhờ ông biện Vi đưa hai cha đi trốn, nhưng cha Quý quyết định ở lại vì nghĩ rằng cha có thể hoà mình vào đám đông mà trốn thoát.
Quan quân tràn vào nhà bắt trói và hăm dọa đánh ông câu Phụng. Thấy thế, cha Quý động lòng thương nên tự nhận mình là linh mục. Quan lãnh binh hạ lệnh bắt trói cha Quý, ông câu Phụng và 32 giáo hữu giải về Châu Đốc. Tại công đường, ông câu hiên ngang xác nhận gia đình ông đã đón tiếp, làm nơi ẩn náu cho các linh mục Tây dương.
Sáu tháng trong cảnh tù tội, dù bị tra tấn, khuyên nhủ, dụ dỗ, ông câu vẫn cương quyết im lặng, không khai báo về các thừa sai và không bỏ đạo. Chẳng hy vọng các tù nhân đức tin đổi ý, quan trấn Châu Đốc gửi án về kinh xin vua Tự Đức xử giảo ông câu vì tội chứa chấp linh mục.
Ngày 31/07/1859, hai vị được dẫn ra khỏi thành bằng cửa tả đến Cây Mẹt, xóm Chà Và. Ông câu Phụng trăng trối với các con hãy tha thứ cho những người đã tố cáo và xin chôn ông bên cạnh cha sở. Hai vị thầm lặng quỳ xuống và cha Quý ban Bí tích Giải tội cho ông câu Phụng. Sau ba tiếng chiêng lệnh, cha Quý bị chém đầu; ông câu Phụng bị xiết cổ bằng dây thừng. Ban chiều, quan trấn cho phép gia đình thân nhân rước thi hài ông câu Phụng về an táng trong nền nhà thờ họ Đầu Nước.
Ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng được nâng lên hàng chân phước ngày 02/05/1909 và được tôn phong hiển thánh ngày 19/06/1988.
Dầu trăng trói gông cùm tù rạc Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề Miễn vui lòng cam chịu một bề Cho trọn đạo trung thần hiếu tử.
Thánh Phêrô Đoàn Công Quý chào đời năm 1826 tại họ Búng, tổng Bình Thạnh, Thủ Dầu Một, nay là Bình Dương. Ngài là con út của ông Antôn Miêng và bà Anê Thường. Năm 21 tuổi, cậu được cha Tám giới thiệu với thừa sai Gioan Mịch để học Latinh rồi vào chủng viện thánh Giuse Sài Gòn trước khi học thần học tại Penang.
Năm 1855, thầy Quý hồi hương. Tháng 09/1858, sau ba năm chăm sóc tín hữu tại các họ đạo, cha Quý được lãnh chức linh mục tại Thủ Dầu Một. Cha được bổ nhiệm phục vụ tại các xứ Lái Thiêu, Gia Định và Kiến Hòa, rồi phó xứ Cái Mơn, Vĩnh Long. Với nhiệt tình tuổi trẻ, cha Quý vượt qua mọi gian khổ, đe dọa, hiểm nguy. Nếu bề trên không cản, cha đã nộp mạng để cứu các dì Mến Thánh Giá.
Sau cùng cha Quý được cử về giáo họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, An Giang. Khi quân tổng đốc An Giang bao vây nhà ông Lê Văn Phụng, cha Quý đã ẩn náu an toàn nhưng ra trình diện để cứu gia chủ. Cha nói “Tôi là đạo trưởng. Ai muốn theo đạo, tôi sẵn sàng chỉ dạy”.
Thế là cha Quý, ông Phụng và 32 tín hữu bị xiềng xích giải về Châu Đốc. Quan tổng đốc khuyên cha bỏ đạo: “Thầy là người thanh liêm, nhân từ, đức hạnh, tại sao lại mê theo tà đạo”. Cha Quý trả lời: “Dạ, thưa quan tôi là người giảng dạy đạo này, sao lại có thể bỏ đạo cho được? Vả nữa, đây là chính đạo, vì chỉ dạy điều tốt lành, chứ không phải là tà đạo như quan hiểu lầm đâu”.
Bảy tháng trong ngục, cha Quý an ủi các bạn tù, cử hành bí tích, và cùng họ đọc kinh Mân Côi. Tại đây, cha viết một bài thơ dài gửi mẫu thân, trong đó có những câu:
“... Dầu trăng trói gông cùm tù rạc Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề Miễn vui lòng cam chịu một bề Cho trọn đạo trung thần hiếu tử”.
Ngày 30/07/1859, bản án trảm quyết từ kinh đô về đến Châu Đốc. Hôm sau cha Đoàn Công Quý và ông Phụng hớn hở đi ra pháp trường ở xóm Chà Và. Sau ba tiếng trống vang, quân lính thi hành lệnh xử tử và cha Quý đi về quê hương vĩnh cửu ở tuổi 33.
Thi hài vị tử đạo được an táng tại nhà thờ Năng Gù, năm 1959 được cải táng về Cù Lao Giêng.
Linh mục Phêrô Đoàn Công Quý được suy tôn chân phước ngày 02/05/1909 và được tôn phong hiển thánh ngày 19/06/1988.
TinMừng – TN 17 – Thứ 2 31.7.2023 Th. Inhaxio Loyola, nhớ: Hạt cải và nắm men.
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình”
* Sinh năm 1491 tại Lôiôla miền Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên, Inhaxiô theo binh nghiệp, phục vụ trong triều đình. Khi đã trở lại, người học thần học ở Pari. Tại đây, cùng với mấy người bạn, người đã sáng lập dòng Chúa Giêsu, thường gọi tắt là Dòng Tên (1534). Nhưng chính tại Rôma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng khắp châu Âu và hăng hái truyền giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh, hết lòng tuân phục Đức Giáo Hoàng. Phương pháp linh thao của người vạch ra một con đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang Thiên Chúa ngày một sáng ngời hơn. Người qua đời ở Rôma năm 1556.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó". Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men". Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian".
Hội nhập văn hóa là việc mà nhà truyền giáo thời nay quan tâm. Làm sao đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của người bản xứ? Làm sao đưa những nét đẹp của nền văn hóa bản xứ vào việc sống Tin Mừng? Làm sao để Kitô giáo vừa mang nét mới mẻ của ơn cứu độ có tính phổ quát, vừa mang tinh túy của từng vùng, từng nền văn hóa, tôn giáo, xã hội? Đó là một nỗ lực đòi hỏi nhiều thời gian, trí tuệ và tình yêu. Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của cha Matteo Ricci (1552-1610), Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đề cao gương của vị tu sĩ Dòng Tên này. Với thiện cảm sâu xa đối với văn hóa và tôn giáo của người Trung Hoa, cha Matteo đã đem Tin Mừng đến để bổ sung những truyền thống tốt đẹp. Cha hiểu biết về Khổng giáo như một nho gia uyên thâm, và chấp nhận việc cúi mình để tôn kính Khổng Tử và các bậc tổ tiên. Dùng kiến thức về khoa học của mình để phục vụ, Cha là người vẽ bản đồ thế giới đầu tiên với nước Trung Hoa nằm ở giữa. Mười năm cuối đời sống ở Bắc Kinh, cha viết sách biện giáo, quen biết với nhiều học giả trong triều đình và đưa họ vào Kitô giáo. Cách truyền giáo của cha Matteo khiến ta nghĩ đến dụ ngôn men và bột. Người phụ nữ đã trộn men vào một lượng bột rất lớn. Ba đấu bột bằng khoảng 50 ký bột, làm bánh đủ cho cả trăm người ăn. Điều đáng ta để ý ở đây là chuyện trộn men vào bột. Một lượng men nhỏ được người phụ nữ trộn đều với khối bột lớn. Đây là một công việc vất vả, làm bằng tay. Khi được trộn nhuyễn, ta không còn phân biệt được men với bột Qui trình lên men đòi hỏi thời gian. Men phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nó, khi làm cả khối bột lên men, nở ra. Bấy giờ ta mới nhận ra sự hiện diện ẩn dấu và tác động của men trong bột. Khi ăn những tấm bánh thơm, chẳng ai thấy men, vì men đã thành bánh rồi. Nhưng không có men thì cũng chẳng có bánh. Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói về Nước Trời. Khởi đầu chỉ là một số lượng nhỏ bé, nhưng với thời gian sẽ gây được một ảnh hưởng lớn lao và tốt lành. Tỷ lệ người Công giáo tại Việt Nam không đông, một lượng men nhỏ. Nhưng nếu chúng ta khiêm tốn có mặt và phục vụ giữa lòng dân tộc, tôn trọng những giá trị văn hóa và tâm linh của đồng bào, chúng ta có hy vọng làm cho khuôn mặt của Công giáo trở nên phong phú hơn, dễ mến hơn và hấp dẫn hơn. Phải chấp nhận như men bị chôn vùi, biến mất trong đống bột. Phải có mặt ở mọi nơi, mọi ngành nghề, mọi lãnh vực nghiên cứu. Nhưng cũng phải kiên nhẫn chờ men phát huy tác dụng. Nếu chúng ta chẳng làm cho đất nước này thành tấm bánh thơm ngon, nếu môi trường chúng ta đang sống, đang làm việc chẳng có gì tiến bộ, chẳng công bằng hơn, huynh đệ hơn, hạnh phúc hơn, trong sạch hơn… thì có khi chúng ta phải tự hỏi xem mình có còn là thứ men tốt không. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời, Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó. Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài. Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống. Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế. Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống. Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Thời xa xưa Chúa đã làm biết bao việc kỳ diệu. Đó là những việc lớn lao không gì so sánh nổi. Chúa đã giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ người Ai-cập. Những điềm thiêng dấu lạ, đặc biệt việc dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ, đã trở thành những kỳ tích lẫy lừng, khiến người Ai-cập run sợ, và các dân chung quanh kinh hoàng. Trên ngọn Xi-nai, Chúa bày tỏ uy phong trong khói lửa mịt mù, sấm chớp kinh hoàng. Mô-sê, tôi tớ Chúa, mặt sáng như mặt trời, nhờ tiếp xúc với Chúa. Và thật yêu thương, Chúa ban Lề Luật cho dân Chúa. Đó chính là Mười Điều Răn còn tồn tại đến ngày nay (năm lẻ).
Chúa yêu thương dân Chúa như thế. Nhưng dân Chúa lại luôn phản bội. Tương tự như chuyện chiếc đai lưng. Chúa yêu thương dân, muốn dân ở với Chúa. Như chiếc đai lưng thắt chặt mình, Chúa mang dân trên vai như trên cánh phượng hoàng. Lìa xa Chúa, người dân giống như chiếc đai lưng mục nát. Không dùng được nữa (năm chẵn).
Đến thời sau hết Chúa đã cho Con Một Chúa giáng trần. Khai mạc Nước Trời. Không còn những việc lớn lao. Nhưng là những việc bé nhỏ. Thiên Chúa trở nên bé nhỏ. Nước Trời ẩn vào đời thường. Như hạt cải. Như nắm men. Nhưng hạt cải trở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Nắm men làm dậy cả thúng bột thế giới. Biến thế giới thành bánh thơm ngon. Thành rượu mới tràn trề sự sống và hạnh phúc. Là hạt lúa mục nát để sinh muôn ngàn bông hạt. Người môn đệ của Chúa hãy tiếp tục đi vào con đường Chúa đã mở. Trong thế giới kiêu ngạo luôn đề cao hiệu quả và thành công, người môn đệ hãy noi gương Chúa, làm chứng về sự bé nhỏ khiêm nhường. Tự do. Công bình. Bác ái. Thế giới ích kỷ cần sự quảng đại quên mình. Thế giới lạnh lùng vô cảm cần tình yêu quan tâm chăm sóc. Thế giới ưa thành tích kỳ vĩ cần những con người bé nhỏ làm việc âm thầm. Thế giới yêu chuộng vàng bạc đến thờ lạy nó đang cần những con người biết vượt trên vật chất, nâng cao những giá trị thiêng liêng của Nước Trời. Thế giới lìa xa Chúa như những chiếc đai lưng mục nát cần được phục hồi bằng những con người gắn bó với Chúa, như những chiếc đai lưng thắt chặt vào Chúa. Đó chính là những giá trị giúp phục hồi thế giới. Đó chính là cây cao bóng cả che chở thế giới. Đó chính là chất men làm sống lại thế giới.
Dụ ngôn hạt cải và nắm men trong Tin Mừng hôm nay đều nhấn mạnh đến sự bất tương xứng của thời kỳ đầu của Nước Trời và của thời kỳ kết thúc. Dụ ngôn hạt cải nói đến sự tăng trưởng của Nước Trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men trong bột ám chỉ chiều sâu, tức là sự biến đổi bên trong. Cũng như cây cải nhỏ bé thường thấy ở miền giáp hồ Tibêria có thể cao tới ba thước, Nước Trời cũng bắt đầu hiện diện từ thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu và của Giáo Hội tiên khởi trong sự khó nghèo và thiếu thốn. Và đó là giáo huấn nền tảng của dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Dựa vào những hình ảnh này, Chúa Giêsu cho thấy kiểu cách truyền giáo của Ngài không phù hợp với những chờ đợi của người Do thái, nghĩa là Nước Trời đến trong thầm lặng, như Chúa Giêsu đã nói: "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Bởi vì thánh sử viết Phúc Âm sau thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu trên đất Palestin, chúng ta có thể thấy ngay sự bành trướng đầu của Nước Trời và của Tin Mừng nơi các cộng đoàn Kitô tiên khởi. Thánh sử nói rõ: trên cành cây cải, chim trời có thể đến trú ngụ, điều này ám chỉ các dân ngoại được kết nạp vào Giáo Hội do Chúa Giêsu sáng lập.
Dụ ngôn men trong bột, một nắm men có thể làm dậy cả khối bột. Ý nghĩa và bài học của dụ ngôn này đi song song với dụ ngôn hạt cải. Men Nước Trời tức ơn thánh, dù ngấm ngầm, nhưng hiệu nghiệm nơi tâm hồn con người và trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ về sức mạnh của men Nước Trời. Ngài không đến theo kiểu cách lôi kéo sự chú ý của con người. "Nước Thiên Chúa ở giữa các ngươi". Trong cử hành Thánh Lễ, Lời Chúa và Mình Chúa như men có sức làm lớn lên và biến đổi tâm hồn con người. Ai biết lãnh nhận với tâm hồn ngay thẳng, người đó sẽ được biến đổi nên giống Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy cầu xin cho Dân Chúa tức là Giáo Hội trở nên dấu chỉ của hạt giống và men của Nước Trời trong thế gian này, cho tới ngày Nước Chúa được hoàn tất trong vinh quang.
Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo vào ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.” (Mt. 13, 31-33)
Hai dụ ngôn này (dụ ngôn hạt cải và nắm men) tóm tắt tất cả lịch sử cuộc đời và sứ điệp Đức Giêsu! sẽ là lầm lạc khi kêu gào cho chủ nghĩa chiến thắng, hoặc hiểu rằng dụ ngôn này chỉ áp dụng cho đời sống thiêng liêng của ta thôi. Khi nói về “Nước Thiên Chúa” Chúa Giêsu không nghĩ đến cá nhân nào, mà chỉ nhìn thân thể mầu nhiệm của Người trong tất cả quá trình khổ nạn và phục sinh, một thân thể ấy không ngừng lớn lên và phát triển.
Thân thể mầu nhiệm.
Thân thể ấy sẽ trải qua những cơn khủng hoảng, tất cả những cơn khủng hoảng của sự phát triển như những nổi loạn để tỏ tính độc lập tự chủ, những cơn bừng dậy của tuổi trưởng thành mà lại phủ nhận mình trưởng thành, không dám nhận trách nhiệm, từ chối cả những niềm vui của tuổi ấy.
Một thoáng nhớ lại lịch sử Giáo hội như thế, cho ta thấy rõ rằng tất cả chúng ta là Nước Thiên Chúa. Khi khẳng định như vậy, thiết tưởng ta không nên kết án lời cự tuyệt mạnh mẽ của những người khác, là tự kiêu tự đại về ưu thế, về chủng tộc được tuyển chọn của họ. Có lẽ đó chỉ là thái độ của một số cá nhân thôi, chứ không phải là giáo huấn của Chúa Giêsu.
Cây mà “Chim trời tới làm tổ trên cành được” Cây ấy đón nhận mọi loài chim chóc, không hề có sự phân biệt, vì cây không loại trừ một con chim nào, nhưng che chở tất cả, là nơi có muôn mầu muôn vẻ thanh bình.
Hạt giống Phúc Âm ấy, nắm men bé nhỏ kia là Đức Kitô và Nước Trời chính là lẽ sống của ta, là nguyên lý cho ta tìm được hạnh phúc và tình yêu.
Hãy làm thành những tế bào của con người.
Một người hoàn toàn hiến thân cho Nước Thiên Chúa, để cho Nước ấy biến đổi, tái tạo mình, thì đúng là tấm men vùi trong môi trường người ấy sống và ảnh hưởng tốt đến môi trường ấy. Sức sống nơi người ấy tác động đến tất cả những người chung quanh. Không phải những biến cố lịch sử lớn lao mới có tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, nhưng cả đến những sinh hoạt rất đời thường vẫn diễn ra hằng ngày cũng khiến chúng ta cảm nhận được sức sống này. Khi một người có trái tim đầy tràn yêu thương thì tình yêu của người ấy luôn bộc lộ và tỏa làn sang người khác vậy.
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần quan tâm! Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, trong nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé Xin người chớ xem thường Trong em có chất liệu Của một bậc đế vương”
Hay là:
“Hãy nhìn một đốm lửa Xin người chớ xem thường Dù nhỏ bằng đầu đũa Đốt cả rừng lẫn nương”.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn dùng dụ ngôn“men trong bột” để ám chỉ Nước Trời. Thật vậy, được khởi đi từ những gì là nhỏ bé, đơn sơ, âm thầm trong sự khiêm tốn. Nhưng một khi đã hội đủ những cơ hội thuận tiện, Nước ấy sẽ lớn mạnh và lan rộng khắp nơi, khiến cho quyền lực của thế gian và ma quỷ có mạnh đến đâu cũng không thể thắng nổi.
Qua hình ảnh này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: hãy bắt đầu hành trình đi tìm và sống những giá trị Tin Mừng trong sự khiêm tốn và âm thầm, chúng ta sẽ gặp được chân lý. Nước Trời chỉ đến với những người thực sự đơn sơ, chân thành.
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên chứng tá của Tin Mừng thông qua đời sống gương sáng của mình.
Mong sao mỗi chúng ta ý thức điều đó và thi hành cách xuất sắc như “men” được trộn vào trong bột và làm cho bột dậy men.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết mau mắn đón nhận thánh ý Chúa và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, nhờ đó, chính chúng con được biến đổi và những ai gặp chúng con cũng được biến đổi theo. Amen.
Sứ điệp: Người Kitô hữu như là những hạt cải và nắm men được Thiên Chúa gieo vào trần gian để làm cho Nước Chúa phát triển.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chỉ với một nhóm Mười Hai nhỏ bé được Chúa gieo vào một dân tộc, mà hôm nay khắp mọi nơi trên thế giới, người ta đã biết đến và đang nhìn thấy Giáo hội của Chúa. Dù thế giới còn đầy dẫy những bóng tối của tội lỗi, của hưởng thụ, của bất công, bạo lực, nhưng ánh sáng của chân lý Phúc Âm trong Giáo Hội đang trở thành niềm hy vọng cho thế giới vươn lên.
Lạy Chúa, hôm nay, Chúa cũng đang cần đến con như cần đến một hạt cải nhỏ bé: một hạt cải của sự khiêm nhường, của lòng quảng đại, hăng say và nhiệt tình, để Chúa có thể đến với mọi người, mọi nơi.
Chúa cũng đang cần đến con như cần đến một nắm men thấm sâu vào môi trường con đang sống: nắm men của lòng bác ái, bao dung, công bằng, của tinh thần trách nhiệm để làm dậy lên một cuộc sống mới khi mọi người biết yêu thương nhau.
Lạy Chúa, được như thế không phải là điều đơn giản. Con chỉ là một con người yếu đuối và ích kỷ, đức tin yếu kém và lòng mến lạnh nhạt. Nhưng con tin sức mạnh của ơn thánh Chúa sẽ biến đổi con. Xin cho con biết khiêm nhường và tin tưởng phó thác nơi Chúa. Con sẽ cố gắng hết khả năng, phần còn lại con tin Chúa sẽ hoàn tất tốt đẹp.
Con tin rằng sức mạnh Nước Trời sẽ bắt đầu trong âm thầm khiêm tốn, nhưng sẽ phát triển từ từ theo thời gian, và cuối cùng sẽ đạt tới kết quả lớn lao tốt đẹp. Lạy Chúa, con tin vào quyền năng Chúa. Xin trợ giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Hạt cải trở thành cây đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó”.
Đạo Công giáo không được truyền bá bằng những cuộc tranh biện dài dòng liên tiếp diễn ra, cho bằng tấm gương trong trắng đi ngược với tính ích kỷ, bất công, thương luân bại lý của người đời.
Trong cuốn sách thời danh “Fabiola”, Đức Hồng y Wiseman đã đề cao hấp lực vô cùng mạnh mẽ của gương sáng Kitô hữu lúc Giáo hội phôi thai đối với các linh hồn có ác cảm với Công giáo hơn hết. Trong cuốn sách đó, chúng ta nhận thấy bước đi cương quyết của một linh hồn tới gần ánh sáng. Đó là Fabiola, cô con gái của ông Fabiô.
Cô con gái của ông Fabiô hết sức bỡ ngỡ khi thấy những tình cảm cao thượng, những nhân đức anh hùng nơi một số người thuộc mọi tầng lớp xã hội. Nhưng cô càng đổi lòng, càng được ơn soi sáng hơn nữa khi cô dần dần khám phá ra tất cả những người cô ca tụng là bác ái, xả kỷ, nhã nhặn, ngọt ngào, tiết độ, tôn trọng công bình, trinh tiết kia, đều theo thứ tôn giáo mà trước đây, người ta đã rỉ rón vào tai cô rằng: Đó là một thứ tà đạo!
Từ giây phút đó, cô xin gia nhập Công giáo (x. Hồn tông đồ).
Suy niệm
Hai dụ ngôn hạt cải và men trong bột mở ra một cái nhìn rất lạc quan về thực tại nước Trời nơi tấm lòng của kiếp nhân sinh được Thiên Chúa cứu độ: Nếu có niềm tin nhỏ bé và ít ỏi, nhưng một khi vượt qua được những trở ngại để vươn lên, hạt cải nước Trời sẽ trở thành một cây lớn, làm chỗ nương tựa cho cuộc sống, niềm tin này giúp con người luôn vươn lên phát triển tâm linh và cuộc sống; hạt giống đức tin có những khả năng không ngờ: Khi được gieo xuống đất, hạt giống bé tí xíu mọc lên thành một cây to. Thật ra, tác nhân chính của sự việc, đó là Thiên Chúa. Chính Người làm nảy sinh điều bất ngờ. Cộng với niềm tin nhỏ bé được nuôi dưỡng, con người có men của lòng mến nước Trời, lòng mến sẽ biến đổi bột, kiếp nhân sinh một cách mãnh liệt, từ đó cho ra những tấm bánh thơm ngon cho nhân gian và làm của lễ dâng lên Thiên Chúa.
Trong cuộc sống hằng ngày, nếu mỗi Kitô hữu ý thức từng lời nói, hành động nhỏ bé của mình, như men, như hạt cải, thì nước Trời được lớn lên, mau lan rộng trong tâm hồn mọi người do sức mạnh của ân sủng đức tin và lòng mến lan tỏa.
Thật thế, nếu luôn nuôi dưỡng niềm tin hạt cải và lòng mến dậy men, tôi và bạn sẽ cảm nghiệm được tâm tình của thánh Phaolô: “Tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2,4).
Mong thay, một niềm tin được nuôi dưỡng dù chỉ bằng hạt cải… Và mong thay một lòng mến sống động như men dậy bột.
Ý lực sống:
“Hạt cải trở thành cây đến nỗi chim trời đến nương náu” (Mt 13,32).
Hôm nay Chúa Giêsu nói hai dụ ngôn về Nước trời qua hình ảnh hạt cải và nắm men. Sự phát triển của Nước Thiên Chúa được ví như hạt cải, tuy bé nhỏ nhưng được nảy mầm và lớn lên phi thường. Cũng vậy, như nắm men vùi vào ba đấu bột, nắm men có sức mạnh làm dậy tất cả đấu bột. Hạt cải và nắm men tuy nhỏ bé, nhưng đưa đến kết quả ngoài sức tưởng tượng. Nước Thiên Chúa cũng có sức mạnh để phát triển, làm sung mãn và biến đổi được tất cả như vậy.
Dụ ngôn hạt cải và nắm men trong Tin mừng hôm nay đều nhấn mạnh đến sự bất tương xứng của thời kỳ đầu của Nước trời và của thời kỳ kết thúc. Dụ ngôn hạt cải nói đến sự tăng trưởng của Nước trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men trong bột ám chỉ chiều sâu, tức là sự biến đổi bên trong. Cũng như cây cải nhỏ bé thường thấy ở miền giáp hồ Tibêria có thể cao tới ba thước, Nước trời cũng bắt đầu hiện diện từ thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu và của Giáo hội tiên khởi trong sự khó nghèo và thiếu thốn. Và đó là giáo huấn nền tảng của dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Sự tăng trưởng của Nước trời
Hình ảnh cây cải ở xứ Palestin chắc chắn khác cây rau cải ở Việt Nam, hạt cải thuộc lớp hạt rất nhỏ khi gieo xuống, nhưng khi mọc lên cây cải cao lớn, mà chim trời có thể đến nương náu dưới tàn lá nó được. Nước trời ban đầu thật nhỏ bé trên dưới vài chục người với Chúa Giêsu và các môn để quanh quẩn trong xứ Palestin nhỏ bé, nhưng trải qua lịch sử thăng trầm, đến bây giờ Hội thánh có trên một tỷ người có mặt khắp nơi trên thế giới.
Chức năng của Nước trời, của Hội thánh là phải lớn lên và trở thành bóng mát cho đời, cho mọi người nương ẩn giữa bão táp mưa sa của cuộc đời. Mọi thành viên trong Nước trời là chúng ta đều có nghĩa vụ truyền giáo và sống chứng nhân để làm cho Nước trời lớn mạnh.
Sự thâm nhập của Nước trời
Nếu ai đã từng xem cách thức ủ bột, ủ cơm hay ủ trái cây để làm rượu, thì sẽ không lạ gì về công dụng của men. Men là một loại chất xúc tác, hai công dụng của nó là: thấm nhập và biến đổi những gì men được trộn vào.
Chân lý Nước trời, bản chất Hội thánh là phải thấm nhập vào nhân loại và thế giới trong mọi hoàn cảnh và môi trường. Ngay nơi bản thân Kitô hữu phải thâm nhập được trộn lẫn vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, để nhờ đời sống chứng nhân, chúng ta sẽ giúp mọi thứ biến đổi theo Tin mừng, chứ không phải như cục men nằm yên sẽ chỉ là vô dụng. Chân lý này là Lời Chúa, có sức biến đổi tâm hồn mọi người, từ đó biến đổi thế giới theo văn minh tình thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn hạt cải và nắm men trong bột để ám chỉ Nước trời. Thật vậy, được khởi đi từ những gì là nhỏ bé, âm thầm trong sự khiêm tốn. Nhưng một khi đã hội đủ những cơ hội thuận tiện, Nước ấy sẽ lớn mạnh và lan rộng khắp nơi, khiến cho quyền lực của thế gian và ma quỉ có mạnh đến đâu cũng không thể thắng nổi.
Qua hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: hãy bắt đầu hành trình đi tìm và sống những giá trị Tin mừng trong sự khiêm tốn và âm thầm, chúng ta sẽ gặp được chân lý, Nước trời chỉ đến với những người thực sự đơn sơ, chân thành.
Mỗi Kitô hữu là thành phần của Hội thánh, có sứ mạng góp phần làm phát triển đạo Chúa và trở nên chất men trong xã hội loài người, hằng ngày dùng đời sống đạo đức lương thiện của mình biến đổi thế giới nên tốt lành hoàn hảo.
Truyện: Thế giới chưa hoàn chỉnh
Có một phiên bản của câu chuyện sáng thế như sau: Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo ra cây cối, sinh vật, chim cá... Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần liền hỏi:
“Thưa Chúa, vậy thế giới đã xong chưa?” Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.
Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra con người và nói với họ: “Ta mệt rồi, Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con”. Họ đồng ý. Sau đó, bất cứ lúc nào các thiên thần hỏi Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn là: “Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của Ta”.
Có những điều mà chúng ta có thể làm và phải làm, Thiên Chúa sẽ không làm điều đó thay cho chúng ta. Không phải vì Ngài không thể làm mà chỉ vì muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta phải gieo hạt giống, đó là phần của chúng ta. Nhưng khi làm điều ấy, chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta không thể làm mọi việc. Chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Đó là phần của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa làm phần việc của Ngài. Không một chủ nông trại hoặc người làm vườn nào sẽ nói với bạn điều ấy.
1. Vấn đề: Có người hồ nghi khi thấy thực tế khiêm nhường của công trình Chúa Giêsu và khi nghe Ngài nói về tương lai to lớn huy hoàng của Nước Trời: một nhóm nhỏ bé những môn đệ như thế này, đứng trước những khó khăn như thế đó, mà sẽ tạo thành Nước Trời huy hoàng như thế kia hay sao?
2. Giải đáp: Chúa Giêsu trả lời rằng "đúng thế", cũng như một hạt cải bé tí sẽ trở nên một cây khổng lồ, hay một nhúm men ít ỏi sẽ làm dậy cả thúng bột, tác động của Thiên Chúa sẽ khiến cho nhóm người bé mọn ít ỏi này trở thành một Dân Mới quy tụ hết mọi dân.
B.... nẩy mầm.
1. Hạt cải và nắm men cũng giống như một hòn sỏi ở chỗ đều bé nhỏ. Nhưng chúng khác hòn sỏi ở chỗ chúng có sức sống bên trong. Ném hòn sỏi xuống đất thì nó vẫn trơ trơ, còn gieo hạt cải xuống đất hoặc vùi nắm men vào thúng bột thì kết quả khác hẳn. Như thế, điều khác nhau và cũng là điều kỳ diệu chính là sức sống bên trong.
Tôi đón nhận những ơn Chúa và những lời Chúa như đón nhận một hòn sỏi hay một hạt cải, một nắm men?
Là một Kitô hữu, tôi sống giữa những người khác như hòn sỏi hay như hạt cải, nắm men?
2. “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó nguyền rủa bóng tối”. Nhiều người khi thấy xã hội đầy dẫy sự xấu thì chán nản. Họ không tin vào sức cải hóa của Tin Mừng, họ không tin vào tác động của ơn Chúa. Hãy dùng ánh sáng Tin Mừng, hãy dùng ơn thánh Chúa ban cho ta để bắt tay vào cuộc cảm hóa môi trường mình sống. Nếu ngày xưa nhóm 12 tông đồ chùn bước trước tình trạng đầy dẫy khó khăn của đế quốc Rôma thì đã không có Giáo Hội như ngày nay.
3. Một nhà kinh tế được mời đến nói chuyện với một nhóm thương gia. Ông lấy một miếng giấy trắng lớn, vẽ trên đó một chấm đen và hỏi người ngồi hàng đầu xem anh ta thấy gì. Anh mau mắn trả lời: “một chấm đen”
Ông lần lượt hỏi từng người, tất cả đều trả lời thấy một chấm đen. Lúc đó, diễn giả mới bình tĩnh nói: “Các anh thấy một chấm đen. Đúng. Nhưng sao không một ai thấy cả một tấm giấy trắng lớn!” (Góp nhặt)
4. “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ gieo trong ruộng mình. Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men” (Mt 13,31-33)
Báo Tuổi Trẻ 96 có giới thiệu khuôn mặt của một nữ triệu phú: Chị đã thoát ra từ cuộc sống dường như đang ở bước đường cùng của mình, với hai bàn tay trắng cùng một tấm thân tật nguyền của chứng bệnh phong cùi mà mọi người xung quanh ai cũng ghê sợ. Chính chị cũng đã có lúc không biết sống để làm gì và làm gì để sống. Nhưng cuối cùng, vì tình yêu dành cho con, chị đã đứng vững và thành công. Nhờ tình yêu và nghị lực của chị, người con trai của chị mới có thể thành đạt, thành công và thành nhân.
Tình yêu mời gọi tình yêu và cứ thế… dậy men cuộc sống.
Lạy Chúa, dẫu có “nhỏ hơn” nắm men, hạt cải, con cũng nguyện xin Chúa cho con can đảm sống và chỉ sống vì yêu thương. (Hosanna)
TinMừng – TN 17 – Thứ 3 1.8.2023 Th. Anphong Ligori, nhớ: Bài học kiên nhẫn.
"Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy".
* Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
Khi ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe". Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
“Chẳng phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng của ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” (Mt 13, 27). Có lẽ một số Kitô hữu trong Hội Thánh sơ khai đã đặt câu hỏi tương tự khi họ thấy có những phần tử xấu trong cộng đoàn của mình. “Ông có muốn chúng tôi nhổ đi không?” Ông có muốn chúng tôi trục xuất họ ra khỏi cộng đoàn không? Có người tưởng rằng một Hội Thánh phải gồm toàn những thánh nhân. Hội Thánh không có chỗ cho tội nhân, cho con cái Ác Thần (c. 38). Lời từ chối của ông chủ ruộng cho thấy sự nhẫn nại của Thiên Chúa. “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (Mt 13, 28-29). Thiên Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa, con cái Nước Trời sống chung với con cái Ác Thần cho đến tận thế. Nhẫn nại và bao dung là dấu hiệu của sự thánh thiện đích thực, sự thánh thiện này biết chờ đợi, biết tôn trọng tự do của con người. Đôi khi chúng ta cũng có thái độ nóng nảy của Giacôbê và Gioan, khi đòi đốt cả làng người Samari khi họ không chịu đón Chúa (Lc 9, 54). Chúng ta vẫn sống trong một thế giới vàng thau lẫn lộn. Có khi không phân biệt được lúa với cỏ lùng, vì trong cái tốt vẫn ẩn hiện bóng dáng của cái bất toàn, và trong cái xấu thi thoảng cũng lóe lên những tia sáng của chân lý. Một người tốt có thể trở nên cỏ lùng. Một người xấu có thể trở nên gié lúa trĩu hạt. Chúng ta chưa thể nói gì về một con người khi người ấy chưa nhắm mắt, và khi chưa nghe lời phán xử cuối cùng của Thiên Chúa. Người đầu tiên được bảo đảm vào Nước Trời lại là một tên gian phi. Nhiều vị thánh hôm nay là những người trước đây đã làm điều gian ác. Nếu tôi tự đặt câu hỏi: Tôi là lúa hay cỏ lùng? Tôi sẽ thấy lúng túng khi tìm câu trả lời. Nơi trái tim tôi, tôi thấy có sự giằng co giữa chọn Chúa và Ác Thần. Có lúc tôi thấy mình như đã thuộc trọn về Chúa, có lúc lại thấy thế gian và xác thịt như hoàn toàn thống trị mình. Ngay trong điều tốt tôi làm, vẫn có điều gì không tuyệt đối trong suốt. Tôi hiểu rằng cỏ lùng vẫn có chỗ trong thửa ruộng của lòng tôi. Thiên Chúa vẫn chấp nhận tôi như thế đó. Nếu Ngài nghiêm phạt tôi thì tôi đâu còn sống đến nay. Dụ ngôn trên nhắc chúng ta không được tiếm quyền xét xử của Thiên Chúa, không đòi xóa sạch sự dữ trong một sớm một chiều. Nhưng chúng ta lại không được để mặc cho sự dữ thao túng. Chúng ta dám hy sinh mạng sống để xây dựng một thế giới công bình. Đức Giêsu đã bị sự dữ nuốt chửng, nhưng cuối cùng Ngài đã chiến thắng. Cuộc đời Kitô hữu là một nỗ lực không ngừng để nhổ cỏ lùng nơi mình, và khao khát vươn tới sự thánh thiện của chính Thiên Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa. Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào... Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ. Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. Amen. ---------------------------------------
Nhân hậu và từ bi là tên của Thiên Chúa. Chính Người đã mặc khải cho Mô-sê. Biết bao lần dân Ít-ra-en phản bội. Mỗi khi bỏ Thiên Chúa,họ liền gặp tai ương hoạn nạn: “Tôi bước ra đồng nội: này kẻ chết vì gươm, quay trở lại đô thành: nọ bao người đói lả”. Họ tỉnh ngộ và trở về xin Chúa tha thứ: “Lạy Chúa, chúng con nhận rằng mình gian ác và cha ông sai lỗi đã nhiều. Quả chúng con đều đắc tội với Chúa! Vì Danh Thánh, xin Chúa đừng chê bỏ chúng con”. Họ kêu cầu Danh Thánh Chúa vì biết Danh Thánh Chúa là nhân hậu và từ bi. Và Chúa luôn rộng lượng tha thứ (năm chẵn).
Danh Thánh nhân hậu và từ bi được chính Thiên Chúa ngỏ với Mô-sê. Khi dân phản loạn đúc tượng bò vàng, Mô-sê nổi giận đập vỡ bia đá giao ước. Và ông tha thiết xin Thiên Chúa tha tội cho dân: “Lạy Chúa…Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài”. Quả thật Thiên Chúa đầy nhân hậu và từ bi. Trước một tội lỗi tầy đình như thế, Thiên Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ. Vì Người là Thiên Chúa nhân hậu từ bi: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi” (năm lẻ).
Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi. Người đã thực hiện điều đó trong dụ ngôn lúa đồng và cỏ lùng. Nhân hậu và từ bi nên không cho nhổ ngay cỏ lùng. Chịu đựng lỗi lầm nên kiên nhẫn chờ đợi cho đến cùng. Nhân hậu và từ bi nên sợ phải trừng phạt oan uổng: “Sợ khi nhổ cỏ sẽ làm tổn thương lúa”. Nhân hậu và từ bi vì tin tưởng kẻ xấu sẽ nên tốt. Chờ đợi kẻ xấu ăn năn hối cải. Cho họ thời giờ, cơ hội. Chờ đợi cho đến khi hết thời gian. Thật lạ lùng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Chỉ tìm tha thứ. Tìm thông cảm. Tìm điều tốt đẹp cho con người. Dù con người luôn phản bội. Có thể nói con người hư đi là do tội lỗi của chính mình. Chúa cho ta đủ cơ hội, đủ thời giờ. Cho đến khi hết thời gian, Chúa mới chịu xét xử.
Hãy tin tưởng nơi Chúa. Hãy mau ăn năn hối cải. Tội nào Chúa cũng có thể tha thứ. Và hãy ăn năn sám hối. Vì thời giờ có hạn. Ta không biết giờ nào kẻ trộm đến.
Ngày 13/5/1917 Ðức Mẹ hiện ra với ba trẻ mục đồng tại Fatima và cho biết Nước Nga sẽ trở lại. Cũng chính năm đó, Lénine đã thực hiện cuộc cách mạng tháng mười để xóa bỏ mọi bất công của chế độ quân chủ và xây dựng thiên đàng tại thế. 80 năm trước đây, lắng nghe và tin vào những lời tiên báo của ba trẻ Fatima thật là phi lý. Nhưng thời giờ của Thiên Chúa không phải là thời giờ của con người. Lucia, một trong ba trẻ đã được diễm phúc chứng kiến sự ứng nghiệm của lời tiên báo; các bức tường đã sụp đổ, bạo động và máu nhường chỗ cho sự tha thứ, lòng nhân từ, tinh thần hòa giải.
Kiên nhẫn là một trong những bộ mặt của niềm hy vọng Kitô giáo. Con người làm lịch sử, nhưng chính Thiên Chúa mới là Ðấng hướng dẫn mọi nẻo đường về với Ngài. Ðó là bài học mà có lẽ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn về cỏ lùng thoạt tiên gợi lên cho chúng ta một trong những thảm kịch lớn của nhân loại. Ở thời đại nào cũng có những người muốn thanh tẩy xã hội bằng các cuộc sàng lọc không tiếc xót: từ Tần Thủy Hoàng đến Hitler, Pônpốt qua các cuộc chiến hiện nay. Khi người ta muốn loại bỏ cỏ lùng, thì người ta cũng nhổ đi cả cây lúa tốt tươi.
Qua dụ ngôn cỏ lùng, có lẽ Chúa Giêsu còn muốn nói đến một thảm kịch khác sâu sắc hơn, đó là thảm kịch của lòng người. Trong đáy thẳm tâm hồn, ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co xâu xé giữa một bên là khả năng hướng thiện và một bên là sức mạnh của tối tăm. Cỏ lùng vẫn cố gắng vươn lên trong cánh đồng tâm hồn chúng ta. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy một cách chính xác khi Ngài nói: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, còn sự ác không muốn thì tôi lại làm". Sức mạnh của tội ác, của ma quỷ, của sự dữ trong tâm hồn mỗi người chúng ta là một thực tại không thể chối cãi được. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã chẳng dạy chúng ta cầu nguyện: Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ đó sao?
Cảm nghiệm sâu sắc về nỗi yếu hèn và khốn khổ của mình, con người mới cảm thấy cần cảm thông, kiên nhẫn và tha thứ cho người khác hơn. Ðó là bài học thực tiễn mà có lẽ mỗi người chúng ta cần đào sâu, đồng thời cầu xin để mỗi ngày chúng ta phát hiện ra những tia sáng tình thương của Chúa và chia sẻ tình yêu với những người xung quanh.
Sách Xuất Hành chương 33,7-11; 34,5-9 nhắc đến việc ông Môsê nói chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như người với người, đó là mẫu gương cho việc cầu nguyện của mọi người Kitô hôm nay. Cầu nguyện là nói chuyện trực tiếp với Chúa. Chúng ta có thể xét mình xem đời sống cầu nguyện của tôi hiện nay ra sao? Cái gì giúp tôi dễ dàng cầu nguyện tiếp xúc với Thiên Chúa?
Một người Kitô mà mất liên lạc với Thiên Chúa thì giống như là sống nơi ngõ hẽm cụt, giống cùng hoàn cảnh như kẻ chối bỏ Thiên Chúa. Hơn nữa, càng cầu nguyện chúng ta càng được biến đổi, trở nên giống như Chúa, nhất là bắt chước được thái độ kiên nhẫn và nhân từ của Thiên Chúa đối với từng tật xấu của anh chị em chung quanh. Thái độ kiên nhẫn nêu gương của Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải qua dụ ngôn Cỏ Lùng trong ruộng lúa được kể lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu hôm nay.
Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho tới ngày cuối cùng Ngài mới ra tay phán xét phân biệt kẻ lành người dữ trong khi đó thì các tôi tớ không có đủ kiên nhẫn chờ đợi, muốn nhổ bỏ cỏ lùng ngay khi vừa phát hiện ra chúng. Phải, mỗi người chúng ta cần noi gương kiên nhẫn của Thiên Chúa và người Kitô học được sự kiên nhẫn đó nhờ qua việc cầu nguyện.
Lạy Chúa,
Chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa nhân từ và kiên nhẫn bởi vì Chúa tuy là Ðấng toàn năng nhưng lại phán xét con người một cách đại độ, nhân từ. Chúa dạy chúng con sống nhân từ, kiên nhẫn như Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng yêu thương tha thứ những sơ sót lỗi lầm của anh chị em chung quanh.
Lạy Chúa,
Xin dạy chúng con biết chấp nhận những giới hạn của chính mình cũng như của anh chị em chung quanh như chính Chúa đã chấp nhận chúng con. Xin dạy con biết dấn thân làm việc cho Chúa nhưng đồng thời biết kiên nhẫn chịu đựng chờ đợi tới ngày hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái tốt lành nơi chính chúng con và trong xã hội chung quanh.
“Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cò lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” Người đáp: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các Thiên Thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế thì cũng xảy ra như vậy.” (Mt. 13, 36b. 37-40)
Phúc Âm trình bày cho ta màn chung cuộc vĩ đại của Tấn Tuồng Nhân Loại. Lần cuối cùng người ta được gặp lại Con Người, các người lành và kẻ dữ. Các Thiên Thần được phái xuống ngay để thi hành lệnh chọn lựa!
Tôi mừng vì biết rằng nếu tôi thi hành đúng từng chữ một mà bài học Phúc Âm dạy tôi thì tôi chẳng phải dục lòng tin về thực tại những hình ảnh thánh sử dùng.
Lại nữa tôi không thể sử dụng Phúc Âm mà áp đặt những phạm trù của tôi để phân loại người lành kẻ dữ, làm như vậy có lẽ sẽ gây những ngạc nhiên, vả lại, nhiều nơi trong Phúc Âm, Chúa cũng lưu ý tôi về điều này:
Tôi nhớ hai điều Chúa gợi ý cho chúng ta.
Điều thứ nhất.
Chúa Giêsu nói: “Ai có tai hãy nghe!” không phải là lần đầu, Chúa nhắc nhở chúng ta điều này. Chúng ta có tai nghe để nghe, có mắt để nhìn, có trí khôn để hiểu biết! Chúa ngỏ lời với những người nghèo khó của Nước Trời. Người không để mình chìm đắm trong những suy nghĩ trừu tượng và không và không hiểu nổi. Ta không viện cớ biện minh cho sự ta không biết. Bởi lẽ, hết thảy chúng ta đều biết Chúa đòi hỏi nơi ta điều gì, chúng ta hiểu biết cả đấy. Nhưng ta cũng giống những người Do-thái xưa nói rằng: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi.” Hoặc giống như những người Co-rin-tô nói với thánh Phao-lô: “Thôi để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói”
Điều thứ hai.
Chúa Giêsu nói: “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”. Người không sợ hãi gương xấu, không tôn trọng lề luật họ sẽ nhận ra những nỗi khủng khiếp của hành động chối từ tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì làm gương xấu là hành động phản bội tình yêu, đi ngược với sự thật, và ai không tôn trọng luật pháp, người ấy chối bỏ những giới răn của Chúa, những giới răn của tình yêu! Một tình yêu cũng gây tổn thương như tình yêu Đức Kitô đối với ta vậy. Một tình yêu vốn tra vấn ta trong từng giây phút cuộc đời ta. Nếu yêu mến, ta không thể sống lì trong gương xấu làm cớ cho người khác sa ngã; nếu yêu mến Chúa, ta tuân giữ lệnh truyền của Chúa.
Ở đời, người ta thường nguyền rủa những người ác độc, bất nhân. Họ cũng không ngừng đặt ra với Chúa những vấn nạn như: “Tại sao ông này bà nọ tội lỗi như vậy mà vẫn được Chúa thương, sao Chúa không phạt quách đi cho rồi?”; Hay “tại sao buôn gian bán lận, ăn trên ngồi trước, tham nhũng, bóc lột mà không gặp phải tai ương, ngược lại, họ vẫn suôn sẻ, chót lọt và thành công? Trong khi mình đạo đức, liêm chính, tốt lành thì lại không được may mắn như thế?”.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc các môn đệ xin Đức Giêsu giải thích dụ ngôn cỏ lùng cho các ông hiểu thêm.
Trước khi đi vào nội dung của phần giải thích, chúng ta lược qua bản chất của cỏ lùng để thấy được tại sao Đức Giêsu lại kể dụ ngôn trên.
Cỏ lùng là một loại cỏ dại thường mọc chung với lúa. Lúc còn nhỏ, chúng giống và rất khó phát hiện. Đến ngày đơm bông thì chúng mới lộ rõ ra, bởi vì thân chúng thường cao và nhỏ hơn lúa, hạt chúng cũng nhỏ và râu dài hơn. Tuy nhiên, đã nhận ra, nhưng để nhổ cũng khó, vì rễ nó và lúa đã ăn quyện lại với nhau, khi nhổ cỏ lùng, không chừng lúa cũng lên theo. Người ta chỉ có thể tách biệt giữa cỏ lùng và lúa khi thu hoạch. Nhưng lý do tại sao lại phải tách biệt như vậy? Thưa vì hạt cỏ lùng là một loại rất độc, ăn nhiều sẽ gây chóng mặt, đau ốm, nếu nặng sẽ hôn mê.
Khi giải thích dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy khởi đầu là thuần chủng, tốt lành, nhưng sau có sự pha tạp. Lý do là vì kẻ thù phá hoại nên đã gieo trộm cỏ lùng vào ruộng lúa. Điều này cho thấy: Giáo Hội và mỗi người chúng ta luôn gặp phải những chống đối, thù nghịch, thế lực tội lỗi luôn tìm cách để làm hại linh hồn ta.
Mặt khác, dạy cho ta bài học về sự kiên trì, đừng nóng vội. Nếu nóng vội, nhiều khi chúng ta nông nổi và vô tình làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc đời ta và tha nhân.
Sự thật đã nhiều lần chứng minh cho chúng ta thấy: có nhiều người tội lỗi tầy trời, nhưng vào một thời điểm nhất định, họ nhận ta tình thương của Thiên Chúa và tội lỗi của họ quá nhiều. Vì thế, họ đã sẵn sàng thay đổi cuộc đời, nên lối sống của họ đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại. cũng không thiếu gì nhiều người một thời được mệnh danh là “thánh sống”, nhưng kết cục lại chìm đắm trong tội do bị sa đà và nằm lỳ trong kiêu ngạo.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết quay trở về với Thiên Chúa vì Ngài rất nhân từ và khoan dung, trừ khi chúng ta không đón nhận sự tha thứ của Ngài mà thôi. Mặt khác, Lời Chúa khuyên răn chúng ta hãy bình tĩnh trong việc xét đoán anh chị em mình. Hãy để cho anh chị em ta có cơ hội hoán cải, hầu trở nên con người tốt lành. Cần nhớ rằng: sự phán quyết cuối cùng thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn sám hối với chính mình và sự khoan nhân, kiên nhẫn đối với anh chị em chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa kiên nhẫn chờ đợi kẻ dữ hoán cải để được cứu độ. Ta cũng hãy bắt chước Chúa để sống nhân từ bao dung với nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng nhân hậu từ bi, chậm giận và giàu lòng thương xót. Dù chúng con tội lỗi, Chúa vẫn không muốn tiêu diệt chúng con. Chúa chờ đợi và tìm kiếm chúng con là những người lầm đường lạc lối trở về với Chúa.
Lạy Chúa, trên thế giới và ngay cả trong Hội Thánh, người xấu việc xấu còn đó rất nhiều. Không ai muốn chấp nhận cái xấu. Vì vậy loài người chúng con luôn muốn tiêu diệt nhau, đối xử tàn ác với nhau, nóng giận xua đuổi nhau. Chúng con muốn nhổ sạch cỏ lùng ngay tức khắc. Và ngay chính tâm hồn con cũng vừa tồn tại lúa tốt, vừa tồn tại cả cỏ lùng. Con luôn có ơn Chúa đỡ nâng và thánh hóa, nhưng tâm hồn con lại để cỏ lùng của tội lỗi, của tính mê tật xấu phát triển. Chúa vẫn yêu thương và kiên nhẫn đợi chờ con sống tốt hơn.
Hôm nay, con nghe Lời Chúa và nhìn lên gương Chúa, để học với Chúa lòng bao dung nhân từ và kiên nhẫn. Con thấy chính con là cỏ lùng đã được Chúa cho tồn tại đến hôm nay. Xin ban cho con luôn biết chấp nhận người khác, cảm thông và chịu đựng lẫn nhau. Khi thấy người khác lầm lỗi, xin giúp con kiên nhẫn nhắc bảo, cầu nguyện cho nhau, khích lệ nhau. Xin Chúa đừng để con vì nóng giận mà đối xử tàn nhẫn với anh em. Chúa bao dung và kiên nhẫn chờ đợi con, xin cho con biết bao dung và kiên nhẫn chờ đợi anh em. Chúa hy vọng con sẽ hoán cải nên tốt, xin cho con biết hy vọng về người khác. Amen.
Ghi nhớ: “Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy”.
Không ai trọn lành thánh thiện toàn diện được đâu. Ai ai cũng có tật xấu, không nhiều thì ít. Người lành thánh mỗi ngày ít nhất cũng có bảy tám lần lầm lỡ, sai sót.
Chúng ta hãy học tập nơi Benjamin Franklin. Mỗi khi đêm về, ông xét mình về từng tật xấu của ông, rồi ông lập chương trình đánh tỉa từng tật xấu: Mỗi tuần, ông quyết thắng cho được một tật xấu.
Chúng ta hãy quyết chừa tính xấu, quyết diệt tính xấu, nhất là những tính xấu nổi bật nhất của mình.
Và chúng ta đừng bao giờ dại dột để rước thêm một tính xấu mới nào vào trong cuộc đời của mình.
Suy niệm
Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn lúa và cỏ lùng: Lúa tốt là con cái nước Trời và cỏ lùng là con cái ma quỷ…
Khi đến mùa gặt là ngày tận thế, ngày Chúa phán xét chung, ngày Chúa Giêsu lại đến một cách vinh quang để hoàn tất chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Cỏ dại, con cái bóng tối bị quăng vào lửa, hỏa ngục và lúa tốt, con cái ánh sáng được cất vào kho, tham dự vinh quang nước Trời...
Cho nên trong tiến trình gieo trồng và chăm sóc lúa, cần phát triển lúa để thu hep cỏ lùng và chúng phải bị tận diệt dần dần bằng việc thiện... Tối và sáng không thể cùng hiện diện; thiện và ác không thể cùng tồn tại trong cộng đoàn, giáo xứ, gia đình... Và cả trong mỗi người chúng ta, đôi lúc làm theo sự thiện, lại có lúc chiều theo quyền lực của sự dữ.
Cuộc sống trần thế là cuộc lữ hành, đó là thời gian thanh luyện. Chúng ta cầu xin Thánh Thần, để Ngài đến kết án tội lỗi trong chúng ta: Cỏ lùng phải được tiêu diệt để lúa thêm tốt tươi và Thánh Thần đổi mới địa cầu; để Giáo hội và mỗi người chúng ta được tinh tuyền trong ngày đón Ðức Giêsu trở lại trong vinh quang.
Ý lực sống:
“Nhưng dầu Chúa là chủ tể sức mạnh, Chúa xét xử nhân hậu, và Chúa cai trị chúng con với nhiều khoan dung”... (Kn 12,16).
Bài Tin mừng hôm nay là chuyện các môn đệ xin Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng. Một dụ ngôn chỉ ra nguyên nhân của sự thiện ác từ đâu và chứng minh một thực tế là thiện và ác cùng tồn tại song hành với nhau.
Dụ ngôn này cho biết trong các công việc của Nước Thiên Chúa, vẫn có xen lẫn những công việc của ma quỉ, mà trong giai đoạn sống ở trần gian, người ta không thể nào triệt bỏ hết được, chỉ đến ngày tận thế sự phân định mới rõ ràng. Vì thế, dụ ngôn cỏ lùng có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền xét xử.
Chúa Giêsu đích thân giải thích cho các Tông đồ về ý nghĩa dụ ngôn cỏ lùng: Người đi gieo giống tốt là Chúa Giêsu, hạt giống tốt là con cái Chúa, thửa ruộng là thế gian, là nơi con người sinh sống làm việc, phục vụ, cỏ lùng là người xấu, người dữ, kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỉ, mùa gặt là ngày tận thế, thợ gặt là các thiên thần. Lúa tốt thì được thu vào kho lẫm tức là những người lành, thánh thiện thì được thưởng. Còn cỏ lùng thì được thu lại và đốt đi, tức là những người xấu thì bị tống vào hoả ngục.
Dụ ngôn này dễ hiểu và hợp tình hợp lý. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người, đó là cánh đồng lúa mì mà trong đó cỏ lùng mọc lẫn lộn bên cạnh cây lúa tốt. Còn đối với con người, xấu tốt ở xen lẫn với nhau, vàng thau lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, hoặc đôi khi đánh giá lầm mà coi người tốt ra người xấu, hoặc người xấu ra người tốt.
Ở đâu cũng có anh hùng
Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên.
Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác, đó là điều không thể tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chết, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.
Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như cho cỏ lùng và lúa cùng mọc lên, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt chiên ra khỏi dê, người lành khỏi kẻ dữ. Trong khi chờ đợi ngày phân xử, chúng ta được mời gọi yêu thương mọi người, nhất là tạo điều kiện cho những kẻ tội lỗi biết sám hối trở về đường lành, còn việc xét xử thì dành cho Thiên Chúa.
Giữa thế gian vàng thau lẫn lộn, giữa biển đời cá tốt cá xấu, giữa cuộc đời kẻ lành người dữ cùng chung sống với nhau và chỉ được Chúa phân định trong ngày ra trước toà phán xét, để thưởng công hay luận phạt. Ngày đó, như nông dân gom lúa vào lẫm và đốt cỏ lùng, thì Thiên Chúa cũng thưởng công Nước trời hạnh phúc cho kẻ lành và ném vào hoả ngục những kẻ gian ác tội lỗi (Mỗi ngày một tin vui).
Qua dụ ngôn cỏ lùng, Chúa Giêsu mạc khải Thiên Chúa là Đấng nhân từ, giàu lòng thương xót, “chậm bất bình và hết sức khoan dung”. Ngài không chỉ trì hoãn đến ngày tận thế mới “nhổ cỏ lùng” trừng phạt kẻ tội lỗi. Ngài “đợi chờ đến mùa gặt” để con người có thời gian hoán cải, biến đổi từ cỏ lùng trở thành lúa tốt. Trong khi đó, phải chăng vì kiếp người quá vắn vỏi, con người không có đủ kiên nhẫn với nhau, luôn tìm cách bới ra khuyết điểm của nhau để loại trừ nhau, tiêu diệt nhau.Thiên Chúa rất mực công minh đồng thời Ngài lại đầy lòng nhân từ, thương xót. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán và kết án con người. Nhưng Ngài lại chờ đợi “cho tới mùa gặt” mới thực thi quyền xét xử ấy. Và một khi xét xử Ngài lại xét xử khoan dung. Trong khi Chúa sẵn sàng chờ đợi để cho cả cỏ và lúa mọc lên cho tới mùa gặt, thì chúng ta làm gì? Phải chăng chúng ta vội vàng “nhổ cỏ” bằng những cư xử nghiệt ngã, tàn nhẫn với tha nhân? Hay chúng ta khoanh tay, trố mắt ngồi chờ “thi gan” với Chúa? Là con cái Chúa, chúng ta hãy sống bao dung nhẫn nại, quảng đại, tha thứ để góp phần làm cho “cỏ lùng” được “biến đổi gien” trở thành “lúa tốt” (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Để thành ngọc trai
Trong tập nhật ký của một sinh viên, người ta đọc được câu chuyện này: Tôi ở cùng phòng với một người Nhật Bản. Cô ấy có một viên ngọc. Mẹ cô đã tặng cô ấy viên ngọc ấy trước khi lên đường sang Mỹ du học. Gia tộc cô từ đời này sang đời khác làm nghề nuôi trai lấy ngọc. Trước khi cô đi, mẹ đã gọi cô vào phòng, đưa cho cô viên ngọc và nói:
- Khi người ta nhét hạt cát vào bên trong vỏ con trai biển, nó cảm thấy rất khó chịu, nhưng lại không có cách nào đẩy hạt cát ra ngoài. Lúc đó, con trai phải đối mặt với hai sự lựa chọn, hoặc là phải quyết một trận sống còn với hạt cát đó, hoặc là tìm cách đồng hoá nó để hai bên có thể chung sống hoà bình với nhau. Con trai biển đã lựa chọn cách làm thứ hai. Nó dùng cơ thể mềm mại của mình ôm lấy hạt cát, đồng thời tiết ra chất xà cừ từng lớp lớp bao bọc lấy hạt cát. Vì thế sự hình thành của ngọc trai là hành trình từ đau khổ đến sự tròn trịa đầy đặn.
Có lẽ nhiều người đã từng nghe câu chuyện này, nhưng rất ít người biết dùng quan điểm của con trai biển để nhìn nhận nghịch cảnh. Trong cuộc sống có rất nhiều những sự việc không như ý, làm thế nào để bao dung, đồng hoá chúng, chấp nhận chúng như một phần của cuộc sống, để cuộc sống bớt đi phiền muộn, có lẽ đó là bài học cần thiết nhất đối với con người trong xã hội hôm nay.
1. Ta hãy suy gẫm về thái độ kiên nhẫn của Chúa đối với những người xấu. Chúa kiên nhẫn vì:
a/ Nhân từ chờ kẻ xấu ăn năn. “Cây lau bị dập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét Ngài chẳng nở tắt đi”; “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”;
b/ Vì tôn trọng tự do mà Ngài đã ban cho mỗi người.
Trách nhiệm mỗi người:
a/ Sử dụng tự do để chọn điều tốt;
b/ Tác động lên những người chung quanh để kêu gọi họ về phía tốt.
2. Với thời gian, lúa có thể lớn mạnh lấn át cỏ lùng, nhưng đồng thời cỏ lùng cũng có thể lớn mạnh làm chết lúa. Do đó, sự kiên nhẫn chờ đợi của Chúa vừa là cơ hội mà cũng vừa là nguy cơ cho mỗi người chúng ta. Hôm nay tôi còn xấu, nhưng ngày mai tôi có thể trở thành tốt. Ngược lại hôm nay tôi tốt, nhưng ngày mai có thể tôi sẽ xấu.
Bởi đó, tôi chớ nên vội đánh giá người khác, và cũng chớ nên tự mãn về mình. Mọi người đều phải tận dùng thời giờ và cơ hội của Chúa để ngày càng trở nên hoàn thiện như Cha trên trời.
3. Một giám mục chúc mừng viên quản lý gian hàng điện khí về công việc tốt đẹp của anh. Ngài nói rằng không bao giờ hết ngạc nhiên về khoa điện năng tuyệt vời.
- Đúng, và con cũng chưa bao giờ nghĩ về điều đó mà không ngạc nhiên về sự kiên trì của Chúa.
- Sự kiên trì của Chúa? Anh muốn nói gì?
- Ngài có bao giờ tự hỏi sao Đấng sáng tạo phải đợi hàng thế kỷ mới có một vài người khám phá nguồn điện phong phú trong vũ trụ chỉ chờ được sử dụng? (Góp nhặt)
4. “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước Cha họ” (Mt 13,43)
Trên đường về quê trời, từ xa chúng ta đã thấy thấp thoáng đích đến. Kìa, tại sao bạn dừng lại? Không, không thể được! Đừng dừng lại bạn nhé!
Tôi biết bạn đang chao đảo vì nắng gắt của dư luận. Tôi biết gối bạn đã chồn, chân bạn đã mỏi đã nát vì chông gai, nay lại hụt hẫng do những vực thẳm của bất công và những khúc quanh của lòng người. Đừng cố làm ra vẻ thản nhiên, đừng cố che dấu cái tôi đầy đau khổ thất vọng. Bạn hãy cùng tôi đọc lại câu Phúc Âm này để san sẻ cho nhau niềm hy vọng. Quãng đường còn lại chắc chắn sẽ vui vẻ hơn, đỡ vất vả hơn.
Bạn hãy nhìn về phía trước và cùng tôi dấn bước tiến lên. Tôi đã thấy nghị lực và khát vọng hạnh phúc trong mắt bạn. Chúng ta sẽ cập bến.
Lạy Chúa, được nên công chính trong bí tích Thánh Tẩy, xin cho chúng con biết nâng đỡ nhau trên con đường công chính, con đường về nhà Cha. (Hosanna)
Với dụ ngôn này, Chúa muốn cho chúng ta thấy Ngài sẵn sàng chấp nhận tình trạng pha trộn tốt xấu trong Nước của Thiên Chúa trong giai đoạn trần thế.
1. Chúa muốn chúng ta cũng hãy biết chấp nhận nhau.
Đây là câu chuyện có thật. Chuyện này cho chúng ta thấy việc chấp nhận nhau trong cuộc sống sẽ đem lại nhiều niềm vui và hạnh phúc cho nhau: Học giả Lâm Ngữ Đường nổi tiếng là người chiều vợ. Để cho vợ vui, ông thường ngồi trên chiếc ghế tựa, miệng hút xì gà lắng nghe vợ nói chuyện, thỉnh thoảng lại phụ họa vài câu. Nếu vợ tức giận, ông sẽ chẳng nói một câu nào. Tuyệt chiêu của ông là: nói ít tốt hơn nói nhiều. Ông cho rằng, vợ chồng cãi cọ nhau chẳng qua là do bất đồng ý kiến, tức giận, nói thêm một câu càng làm cho tình hình thêm căng thắng. Ông thường dùng sự khôi hài để “điều hòa âm dương”. Ông còn khuyên người khác: “Lúc vợ vui, bạn nên chiều theo ý cô ấy. Lúc vợ tức giận, bạn nên nhường nhịn cô ấy”.
Vợ ông chúa ghét người khác nói cô ấy mập, thích nhất được người khác khen cô ấy có chiếc mũi dọc dừa vừa cao vừa thẳng. Vì thế, mỗi khi vợ không vui, Lâm Ngữ Đường đến gần vuốt chiếc mũi của vợ, khiến cô ấy phải bật cười. Có nhiều khi, sau bữa ăn, ông còn giúp vợ rửa bát. Vợ ông rất sợ tiếng bát vỡ cùng với sự vụng về của ông trong công việc bếp núc, nhưng nghĩ đến sự thành tâm của chồng, cô ấy để mặc cho ông “biểu diễn”.
Đối với việc trang điểm của phụ nữ, ông không hề bủn xỉn chút nào. Ông biết vợ rất coi trọng giày dép, nên mỗi khi đi ngang qua tiệm giày, ông thường để cho vợ vào chọn mua giày, còn mình thì dắt con đi xem những cửa hàng bên cạnh.
Học giả Lâm Ngữ Đường nói: “Những ký ức trong những ngày tháng gian khổ là những ký ức ngọt ngào nhất”.
Mặc dù hai vợ chồng ông lúc còn trẻ rất nghèo, nghèo đến nỗi không có tiền đến rạp xem phim, nhưng tuần nào họ cũng đến thư viện mượn một chồng sách về. Hai người cùng nằm bên ngọn đèn dầu đọc sách thâu đêm. Thú vui này của họ được duy trì đến lúc già. Ông Lâm Ngữ Đường đã chứng tỏ cho mọi người thấy: khi vợ chồng chung sống hòa thuận với nhau thì nghèo túng không đồng nghĩa với “khổ”. Hai vợ chồng luôn cảm nhận được những niềm vui mình dang có và cố gắng cùng nhau tận hưởng niềm vui đó.
Schopenhauer đã nói thật chí lý: “Chúng ta ít khi nghĩ đến những cái chúng ta có, mà chỉ nghĩ đến những cái mà ta không có. Đó là nguyên nhân hầu của hết những thảm trạng đời ta. Chính nó đã gây ra nhiều sự đau khổ hơn bất cứ cuộc chiến tranh hay bệnh thiên thời nào trong lịch sử trái đất này.”
2. Bài học kiên nhẫn.
Kiên nhẫn là một trong những bộ mặt của niềm hy vọng Kitô giáo. Con người làm nên lịch sử, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng hướng dẫn mọi nẻo đường về với Người. Đó là bài học mà có lẽ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
Ta hãy tập kiên nhẫn như Chúa đối với những người xấu. Schopenhauer bảo: “Trên đường đời, hành lý quan trọng nhất phải mang theo là lòng nhẫn nhục”.
Chúa kiên nhẫn vì:
a/ Ngài chờ kẻ xấu ăn năn. “Cây lau bị dập Ngài không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét Ngài không nỡ tắt đi”(Mt 12,20); “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”(Ed 33,11)
b/ Vì tôn trọng tự do mà Người đã ban cho mỗi người.
Một trong những câu chuyện dân gian hay nhất ở vùng cận Đông còn truyền tụng lại là câu chuyện về ông Abraham:
Abraham là người rất tốt bụng. Ông thường dời bữa ăn sáng lại chờ đến khi có một người đói đến để cùng chia sẻ bữa ăn với ông. Một ngày nọ, có một cụ già đi ngang qua và được ông mời vào và được dùng bữa.
Nhưng trước khi dùng bữa, Abraham nghe thấy cụ già thì thầm đọc lời kinh của người ngoại đạo, ông liền mời cụ già đi nơi khác. Cụ già chưa đi khuất, thì Abraham nghe tiếng Chúa trách:
- “Abraham! Abraham! Ta đã cung cấp lương thục để nuôi sống cụ già trên 80 năm qua, mặc dù cụ không phải là người tin thờ Ta, thế mà con không đủ kiên nhẫn và nhân từ để chia sẻ một bữa ăn với cụ sao?”
Thư 2 Phêrô 3,15: “Và anh em hãy biết rằng, Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ, như ông Phaolô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh em, theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông”.
Lời của mẹ Têrêsa: “Hãy thật chân thành khi tiếp xúc với nhau và có lòng can đảm để chấp nhận lẫn nhau. Hãy luôn ghi nhớ cộng đồng của chúng ta không bao gồm những người đã nên thánh, mà gốm những người đang cố trở thành thánh nhân. Vì vậy, chúng ta hãy thật kiên nhẫn với lỗi lầm và thất bại của nhau”. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn. Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng. Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời, có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết. Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau: ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua... Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc hay ngần ngại giằng co. Tất cả diễn ra thật nhanh và tràn ngập niềm vui thanh thản. Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào khi chiếm được kho báu và viên ngọc. Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới. Thái độ của hai người trên được coi là bình thường. Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế. Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được, có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn. Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng, nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng. Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất, chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc. Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững, Ðức Giêsu là viên ngọc quý đích thực, chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ, xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật. Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ, dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa. Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin. Bản thân tôi có thấy Ðức Giêsu là viên ngọc quý, và Nước Trời là kho báu không? Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình và ngây ngất trước giá trị của chúng, người ấy mới hồn nhiên và vui tươi đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này để lấy kho báu bất diệt trên trời (x. Mt 6,20). Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn, qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm, tôi chợt gặp Ðức Giêsu như viên ngọc ngời sáng, hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường: tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình để mua lấy tình bạn với Ngài không? Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả thì chỉ vì ta chưa thấy. Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi, ắt ta sẽ thấy. Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Có thể ngồi yên không khi biết trong vườn ruộng nhà có một kho tàng chôn giấu. Chắc chắn ai cũng phải tức khắc đào xới tìm cho bằng được. Nước Trời là kho tàng, là ngọc đẹp quí giá không gì so sánh được. Ai biết được giá trị thì sẽ dành hết thời giờ để đi tìm cho đến khi gặp được. Tìm được rồi sẽ bán tất cả những gì mình có để mua cho bằng được kho tàng đó.
Nước Trời quí giá như thế nhưng lại không ở xa, ở rất gần ta, ngay trong vườn trong ruộng nhà ta. Có lần Chúa đã nói: “Nước Trời đang ở giữa anh em”. Nước Trời ở gần để ai muốn tìm có thể thấy. Nước Trời ở gần vì vừa tầm tay mọi người. Trẻ, già, lớn, bé, giầu, nghèo, sang, hèn, quan quyền, thứ dân, thông thái, dốt nát đều có thể tìm thấy.
Nước Trời quí giá không phải vì đem đến cho ta mối lợi vật chất. Ta không chiếm được của cải nhưng được chính Chúa là nguồn hạnh phúc, là kho tàng quí giá không gì so sánh được. Chiếm được Chúa, ta trở nên một người khác, đầy tràn hạnh phúc cao quí như khuôn mặt sáng láng của Mô-sê. Chả trách Mô-sê đã từ bỏ tất cả để chỉ tìm Chúa và thánh ý Chúa thôi. Ông đàm đạo với Chúa không bao giờ chán. Đến 40 đêm ngày tức là không còn thời gian.
Nước Trời ở thật gần. Mô-sê chỉ cần đến lều Hội Ngộ là có Chúa ở đó rồi. Chúa ở đâu thì nơi ấy thành thiên đàng, thành Nước Trời. Như Phê-rô say sưa xin Chúa cho dựng 3 lều trên núi Tabor vì muốn ở lại đó vĩnh viễn sau khi được chiêm ngắm thiên đàng hạnh phúc qua cuộc Chúa hiển dung. Khi tâm hồn ta có Chúa thì thiên đàng ở trong ta. Khi trong cộng đoàn có tình yêu thương thì Thiên Chúa ở trong anh em.
Có lẽ ta giống như Giê-rê-mi-a lang thang đau khổ vì chưa gặp được Chúa. Sống lạc lõng giữa thù địch Giê-rê-mi-a nghĩ rằng hạnh phúc Chúa hứa chỉ là ảo mộng. Nhưng Chúa đã thương dẫn đường chỉ lối cho ông đến hạnh phúc là được ở trước tôn nhan Chúa: “Nếu ngươi trở về, ngươi sẽ được ở trước nhan Ta”. Hạnh phúc đó là Chúa “sẽ giải thoát ta khỏi tay kẻ dữ” và mọi người “sẽ trở lại với ngươi chứ không phải ngươi trở lại với chúng”. Và hạnh phúc tột đỉnh là khi nghe Lời Chúa, cuộc đời ta sẽ hân hoan vì được nên giống Chúa: “gặp được Lời Chúa con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thỏa lòng con, vì con được mang danh Ngài”.
Còn chần chờ gì nữa. Hãy đi tìm kho tàng Nước Trời. Đừng tìm đâu xa, Nước Trời ở gần ngay bên.
Bài thơ "Viên Ngọc Quý Giá Nhất" của thi hào Tagore có nội dung như sau:
Sanathan cầu nguyện đang lúc đi bách bộ dọc theo bờ sông, bỗng có một thanh niên tiến đến và thành khẩn van xin ngài bố thí. Nhà hiền triết đáp: "Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi, Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi".
Người thanh niên tiếp tục nài nỉ: - Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp ngài, vì chỉ có ngài mới có thể giúp tôi và làm cho tôi nên giàu có.
Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quý mà ông đã tình cờ tìm được. Ông nghĩ rằng biết đâu viên ngọc này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó. Ông liền chỉ cho người thanh niên nơi cất giấu viên ngọc.
Người thanh niên ra đi đào bới và đã tìm được viên ngọc quý. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm. Khi bình minh vừa ló dạng, anh tìm đến với nhà hiền triết và khẩn khoản nài xin:
- Thưa ngài, xin hãy cho tôi viên ngọc quý hơn mọi viên ngọc quý. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi thứ của cải.
Nói xong, anh ném viên ngọc xuống dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.
Bài thơ trên đây có thể minh họa cho chúng ta cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất mát là được lợi lộc, cho là được nhận lãnh, chết là được sống. Ðó là cái nghịch lý mà Chúa Giêsu đã quảng bá và sống cho đến tận cùng: cái chết trên Thập giá và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài là một thể hiện của cái nghịch lý ấy.
Trong Tin Mừng hôm nay, với hai dụ ngôn có nội dung gần như nhau, một lần nữa, Chúa Giêsu muốn đề ra cái nghịch lý ấy: vì Nước Trời, con người phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất tất cả. Thế nhưng Nước Trời là gì? Chúa Giêsu xem ra đã không mất giờ và dài dòng trong những lý thuyết khô khan. Với các môn đệ, Ngài nói như một mệnh lệnh: "Hãy theo Ta" và họ đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Với người thanh niên giàu có, Ngài mời gọi: "Hãy về bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo, và trở lại đi theo Ta".
Hãy đi theo Ngài, vì Ngài là tất cả. Hãy đánh đổi mọi sự để được sống với Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Nước Trời: nơi Ngài, con người tìm được kho tàng quý giá nhất; nơi Ngài, con người được sống và sống sung mãn. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào". Các môn đệ được kêu gọi trước tiên để sống với Ngài. Ðược sống với Ngài, đi theo Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống, đó là nội dung đích thực của tư cách làm môn đệ.
Kitô giáo do đó thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát.
Dù sống trong hoàn cảnh nào, bất cứ người môn đệ nào của Chúa Kitô cũng đều cảm nghiệm được lời tiên báo của Ngài: "Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ". Không bị bách hại công khai, thì cũng bị chống đối hay loại trừ, đó là số phận của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa Kitô, Ðấng chúng ta đã chọn làm gia nghiệp, luôn gìn giữ chúng ta trên bước đường theo Chúa, và củng cố chúng ta trong nghịch lý mà Ngài đã sống: mất mát là lợi lộc, cho là lãnh nhận, chết là được sống.
Bài dụ ngôn về kho tàng và viên ngọc quý có thể gợi lên cho chúng ta những qui luật về đầu tư hay kinh tế thị trường.
Có một số yếu tố mà kinh tế thị trường cần phải tuân thủ mới mong thành công.
Trước hết và quan trọng hơn cả là động lực và sự hy sinh của con người. Ðây là qui luật cơ bản để cho kinh tế thành công. Thiếu sự cần cù siêng năng của con người, kinh tế không thể nào tiến.
Kế đó là sự thanh liêm và chữ tín của con người. Người đầu tư cũng như công nhân cần phải tôn trọng các khế ước mà họ đã cam kết thi hành.
Yếu tố thứ ba giúp cho kinh tế được thành công là tinh thần kỷ luật. Thời gian và những cố gắng đầu tư vào trong các dự án có khi chỉ được đền đáp trong tương lai.
Nhưng một yếu tố khác không kém phần quan trọng để giúp cho kinh tế được vững mạnh đó là sự cộng tác giữa các công nhân. Dĩ nhiên, chỉ có cộng tác thực sự khi con người biết tôn trọng nhau và lấy sự tử tế mà đối xử với nhau mà thôi.
Cuối cùng, các nhà làm luật phải thông qua luật đầu tư một cách công bình và hợp lý.
Tựu trung, kinh tế thị trường tùy thuộc rất nhiều vào các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức không nằm bên lề của kinh tế mà là linh hồn và nền móng của kinh tế.
Tìm kiếm và xây dựng những giá trị đạo đức là nền tảng cho cuộc sống con người. Gia tài quý giá nhất để lại cho con cái không phải là của cải vật chất mà chính là chuẩn bị cho chúng một vốn liếng tri thức và đạo đức đầy đủ. Với hình ảnh của kho tàng được chôn giấu trong thửa ruộng hay một viên ngọc quý mà người ta phải bán tất cả để mua cho bằng được. Chúa Giêsu muốn nói tới tính cách triệt để của niềm tin. Tin là đầu tư và đầu tư là sẵn sàng hy sinh tất cả. Một nền kinh tế lành mạnh là một nền kinh tế được xây dựng trên chuẩn mực đạo đức. Một niềm tin vững mạnh là một niềm tin đòi hỏi con người phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì mình có.
Sức sống của một Giáo Hội không được đánh giá dựa trên những ngôi thánh đường nguy nga, các cuộc biểu dương rầm rộ hay ngay cả con số đông các linh mục mà Giáo Hội chỉ có thể phong chức nhờ mặc cả bằng quà cáp hay lót đường. Nếu cốt lõi của một nền kinh tế lành mạnh là những giá trị đạo đức thì chắc chắn sức sống đích thực của một Giáo Hội sẽ chẳng bao giờ được đánh giá dựa trên những sự kiện bên ngoài, có khi chỉ là những thỏa hiệp với kết quả của trần đời và những sức mạnh của tăm tối. Sẵn sàng đánh mất tất cả vì Tin Mừng của Chúa Kitô phải chăng đó không là đòi hỏi mà qua bài dụ ngôn về kho báu và viên ngọc quý Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho Giáo Hội và các tín hữu Kitô chúng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.”
“Nước Trời lại giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt. 13, 44-46)
Hai thái độ của con người đối với Nước Trời. trong trường hợp kho báu bị chôn vùi, đó là thái độ của một người tình cờ nhận ra được một giá trị; khá nhiều người có thái độ này đối với Đức Giêsu; họ chẳng mấy bận tâm đến chuyện gặp Chúa Giêsu; họ không đi tìm Người. Thế mà bỗng dưng họ bị Người nắm bắt, cuốn hút dường như bởi một sức mạnh không sao cưỡng lại được. Còn trong dụ ngôn viên ngọc quý, đó chính là tâm trạng của một người đang đi tìm chân lý, giống như phần đông chúng ta, như Đi-cô-đê-mô đi tìm Chúa trong đêm tối.
Hai hạng người.
Không phải chỉ là hai thái độ, hai tâm trạng mà cũng là hai “Hạng” người nữa. Trong con người cày ruộng phát hiện ra được kho báu vùi dấu trong ruộng, chúng ta gặp được hình ảnh con người của sinh hoạt đời thường; đó là con người không thắc mắc đặt vấn đề, con người “nghèo khó” chỉ biết rất ít về Chúa. Tình cờ người ấy khám phá ra Thiên Chúa và có một cái gì làm thay đổi đời sống của người ấy mà người chung quanh không hiểu biết được, người ấy “Vui mừng bán đi tất cả những gì mình có mà mua thuở ruộng ấy.” Ai có thể hay chăng tại sao người ấy lại có cử chỉ như vậy?
Còn người thương gia đi tìm ngọc đẹp gợi nhớ lại hình ảnh một người buôn bán một thứ gì quan trọng lắm, một người buôn đồ nữ trang có một vụ buôn bán quan trọng, người ấy biết đúng giá cả những mặt hàng.
Niềm vui khám phá.
Bao lâu chưa tìm gặp, con người phải mang tâm trạng xao xuyến lo âu. Nhưng khi đã gặp được rồi, thì người ta sẵn lòng cho đi tất cả miễn là dành được sự thiện vô giá ấy. Chính kho báu ấy đòi người ta phải hy sinh tất cả những gì mình có, hy sinh tất cả con người của mình thì mới có được kho báu ấy. Đó phải là một sự dấn thân hoàn toàn, một đòi hỏi triệt để. Chúa Giêsu không nhượng bộ chút nào, nhưng Người cũng tỏ cho thấy sự hấp dẫn lạ lùng của ơn cứu độ, và niềm vui vô biên dành cho người tìm gặp được ơn cứu độ ấy.
Hai dụ ngôn này còn gợi cho ta một suy nghĩ khác. Khi đã tìm được kho báu kia, viên ngọc đẹp ấy, người ta đều cảm nhận được niềm vui vô biên, khôn tả, và chính niềm vui ấy mới khiến người ta dấn thân hết sức, hết mình. Có nghĩa là phải làm tất cả để giữ mãi được niềm vui và phấn khởi của sự khám phá này.
Có được Thiên Chúa là có được tất cả, chỉ mình Chúa là đủ rồi. Người ta có thể hiểu được chân lý này nhờ kinh nghiệm mà thôi.
Thánh Phanxicô X. là con một người giàu có. Ngài thuộc thành phần quý tộc. Vì thế, không lạ gì khi còn trai trẻ, thánh nhân ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian! Tuy nhiên, nhờ người bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo Lời Chúa vào tai Phanxicô: “... được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).
Nhờ câu Lời Chúa trên mà ngài được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ con người ham mê của cải trần thế trở thành một tu sĩ nghèo khó. Từ một người ham mê khoa bảng trần gian trở thành một người chỉ biết rao giảng chân lý Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta hãy xác định lại căn tính ơn gọi của mình, đó là đi theo Ngài. Đi theo Đức Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp, lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn. Sẵn sàng sống những giá trị Tin Mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn. Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với thánh ý Chúa. Làm được điều đó, ấy là lúc chúng ta khôn ngoan như người lái buôn và chàng thanh niên trong Tin Mừng đi tìm “kho tàng” và “viên ngọc quý” hôm nay.
Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: Nước Trời là “kho tàng” bền vững và Ðức Giêsu là “viên ngọc quý” đích thực. Đạt được “kho tàng” là Nước Trời; chiếm hữu được “viên ngọc quý” là chính Đức Giêsu thật là điều không dễ! Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải đánh đổi bằng những hy sinh, cố gắng và tin tưởng tuyệt đối, ngay cả cái chết.
Lạy Chúa Giêsu, có Chúa là có tất cả, không có Chúa kể như không có gì. Xin cho chúng con hiểu được điều đó, quyết tâm và đánh đổi bằng mọi giá để có Chúa làm gia nghiệp của cuộc đời chúng con. Amen.
Sứ điệp: Nước Trời có một giá trị cao quý vô cùng đến độ có thể đánh đổi tất cả những gì ta có. Thế nhưng điều quan trọng hơn, đó là con người phải nhận ra giá trị cao quý ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con hiểu rằng Nước Trời thật giá trị cao quý, cao quý đến độ người ta có thể đánh đổi tất cả để chiếm đoạt và có thể từ bỏ tất cả để giành lấy. Nước Trời thật giá trị cao quý, bởi vì Nước Trời là chính Chúa, là được sống trong tình yêu của Chúa, được chia sẻ chính sự sống của Chúa.
Xin Chúa giúp con học hỏi, tìm hiểu không ngừng, để con khám phá giá trị cao quý của Nước Trời, để mỗi ngày con lại càng nhận ra Chúa thật là cần thiết cho con. Lúc đó con sẽ bỏ tất cả, đánh đổi tất cả, để chiếm đoạt Nước Chúa cho bằng được, và lòng hân hoan vui sướng vì được cả một kho tàng.
Người đi tìm ngọc quý, người thương gia, là những người sành sỏi, biết nhận định hơn hay kém, thật hay giả… để có thể quyết định chọn lựa dứt khoát. Cũng vậy, để có thể dấn thân hoàn toàn sống cho Chúa, con cũng phải nhận định. Xin giúp con nhận ra rằng Chúa trổi vượt hơn mọi sự ở đời này. Chúa là lẽ sống và là hạnh phúc của con. Được Chúa là được tất cả, mà mất Chúa là mất tất cả.
Trong cuộc sống thường ngày, khi mua một món hàng, con hỏi những người thông thạo để mua món hàng nào tốt nhất và đẹp nhất. Cũng thế, để nhận ra giá trị Nước Trời, xin cho con biết siêng năng học hỏi nơi Lời Chúa, nơi các thánh, nơi giáo lý của Hội Thánh, con sẽ không chọn lầm và không có gì phải nuối tiếc khi chọn Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó”.
Ignatiô sinh tại Lôyôla miền Cantabria nước Tây Ban Nha trong một gia đình giàu sang, phú quý và đầy thế giá vào năm 1493. Ignatiô đã nhập ngũ và bị thương khi quân đội Tây Ban Nha giao tranh với quân đội Pháp ở Pampelune vào năm 1523.
Thời gian nằm bệnh viện dưỡng bệnh lâu dài. Sau khi đã đọc rất nhiều sách vở, người ta đưa cho chàng cuốn sách Hạnh các thánh. Chính gương mẫu đời sống các thánh đã thúc giục Ngài: “Hãy bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu”, ngài tự hỏi: Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phanxicô và Đôminicô đã làm chăng?
Ơn trên thúc đẩy, Ignatiô bắt đầu khám phá ra mầu nhiệm nước Trời trong ơn gọi của mình, Ngài đã bỏ thanh kiếm quý tộc của mình ở bàn thờ Đức trinh nữ Maria tại Mont-Serrat. Ngài sống một đời sống họa lại tình yêu của Chúa Giêsu, Ngài đã sống khó nghèo như một người ăn mày, Ngài đã viết nhiều sách rất có giá trị về mặt đạo đức và thiêng liêng. Cùng với các cộng sự viên ngài đã sáng lập Dòng Chúa Giêsu tức là Dòng Tên, châm ngôn của Dòng là: “Tất cả cho vinh danh Chúa hơn”.
Ignatiô thường cầu nguyện: “Xin ban cho con tình yêu và ơn thánh Chúa, thế là con giàu rồi, con không xin gì nữa”.
Suy niệm
Chúa Giêsu dùng hình ảnh kho báu và ngọc quý, nói lên giá trị tuyệt đỉnh của nước Trời, theo Chúa Kitô đó là mục đích lớn nhất của đời người. Muốn đạt tới nước Trời, con người phải nỗ lực đi tìm và hy sinh tất cả để gìn giữ khi tìm thấy. Nếu như giá trị của kho tàng, vàng, ngọc, kim cương vượt lên trên mọi giá trị của con người mà họ hăng say tìm kiếm ở trần gian, qua hình ảnh này, Chúa Giêsu cũng nói về niềm vui, giá trị nước Trời vượt trên tất cả. Tuy nhiên, kho tàng nước Trời, ngọc quý của Thiên quốc là những của cải không hề bị mất đi trong lúc vàng, kho tàng, ngọc, kim cương sẽ chỉ có giá trị ở đời này, còn kho tàng nước Trời là vĩnh cửu, nên nước Trời sẽ vượt lên trên mọi thứ vật chất, vui sướng của trần thế.
Để hiểu thêm ý nghĩa của dụ ngôn kho tàng và ngọc quý mà Chúa Giêsu muốn truyền dạy, chúng ta tìm hiểu chi tiết hoàn cảnh xã hội Do Thái đương thời. Thời đó, do tình trạng chính trị với sự đe dọa xâm lăng của ngoại bang ở vùng Trung Đông, chôn giấu của cải là việc thông thường để gìn giữ nó trước biến động, giống như Việt Nam chúng ta vào thời chiến tranh, chôn giấu của cải để bảo vệ nguyên vẹn trước những biến động. Theo luật người Rôma thời ấy, ai tìm được bảo vật thì họ có quyền sở hữu. Nhưng theo luật Do Thái thì quyền sở hữu thuộc về chủ thửa đất. Dụ ngôn này cho thấy Đức Giêsu rất thông thạo về luật lệ và phong tục Do Thái. Trong dụ ngôn kho báu, tìm được báu vật là một sự tình cờ; nhưng trong dụ ngôn tìm ngọc quý đó là một chủ tâm, chủ tâm làm mọi sự để đạt được nước Chúa.
Ngày hôm nay, con người vẫn mải mê tìm kiếm vật chất mà quên đi những giá trị của nước Trời, con người lo lắng mọi sự thế gian: Làm tất cả để giàu, để đẹp, chính vì mải mê đó mà quên đi những thực tại quê Trời mà họ cần phải tìm kiếm. Con người hôm nay đặt tất cả mọi lo toan, lo lắng, mà quên Đức Kitô và nước Ngài như thánh Âugustinô đã nhìn thấy trong cách sống con người: “Chúa Giêsu không đáng giá chútnào, nếu Ngài không được coi trọng hơn tất cả”. Phải chăng, Chúa Giêsu không phải là kho tàng, nước Trời mà Ngài rao giảng không có giá trị gì với chúng ta chăng?
Chúa Giêsu đã hứa với những ai dành trọn tâm cho việc tìm kiếm nước Chúa: “Trên hết, hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Bạn để tâm hồn mình định hướng tìm kiếm nước Thiên Chúa, mình sẽ có được tất cả, vì nước Thiên Chúa mà bạn tìm được sẽ chiếm hữu bạn. Chính lúc đó, bạn sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc có nước Trời. Nước Trời bắt đầu ở trong tâm hồn của bạn như lời nguyện Giáo hội xác định: “Và cho chúng con được nếm trước những ân huệ Cha sẽ ban cho chúng con ở đời sau” (Lời tiền tụng các thánh Trinh Nữ và các thánh Tu Sĩ) “bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt”(Pl 3,12).
Xin cho con xác định đời con để con luôn nỗ lực tìm kiếm nước Trời.
Ý lực sống:
Để tâm toàn ý tìm nước Trời Con vui tiến bước vì ngày mai.
Hai dụ ngôn “kho tàng” và “ngọc quí” mà Tin mừng hôm nay thuật lại qua lời rao giảng của Chúa Giêsu là một lời mời gọi chúng ta đừng để mất cơ hội khi Nước Thiên Chúa đến. Nước Thiên Chúa đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng là một thực tại bị ẩn giấu như kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng và như viên ngọc lẫn lộn trong số các loại ngọc giữa chợ đời. Vì thế, phải thao thức đi tìm, biết phân định chọn lựa, dám dấn thân và từ bỏ tất cả để đổi lấy nó.
Ý nghĩa của dụ ngôn
Dụ ngôn kho tàng không đặt vấn đề luân lý về hành động của người mua thửa đất. Dụ ngôn chỉ muốn đề cao giá trị của Nước trời, nên nhấn mạnh niềm sung sướng của người kia thôi. Theo luật Rôma thời ấy, thì kẻ gặp được báu vật chôn giấu như vậy, có quyền chiếm hữu. Còn theo luật Do thái, trong văn mạch của dụ ngôn này thì quyền sở hữu báu vật thuộc về chủ thửa đất, vì thế người kia khi tìm thấy, đã chôn giấu rồi về nhà bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng ấy.
Dụ ngôn đi tìm ngọc quí cũng mang ý nghĩa tương tự như dụ ngôn kho tàng. Nước trời cao quí hơn tất cả mọi sự con người có thể có, nên con người phải sẵn sàng hy sinh tất cả, để chiếm được nước ấy. Có người hiểu thương gia là Chúa Giêsu, và viên ngọc quí là con người: Con Thiên Chúa đã hy sinh tất cả vì loài người chúng ta (2Cr 8,9; Pl 2,6-11) (Giải thích của Lm. Trần Hữu Thành).
Dụ ngôn kho báu và viên ngọc quí nói tới sự cao quí tột bực của Nước trời mà không có thứ giá trị nào sánh bằng. Tựa như khi phát hiện ra khó báu hay tìm được viên ngọc quí, người ta bán hết tất cả những gì mình có để tậu cho được, thì khi những ai khám phá ra Nước trời, mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ và họ sẵn sàng đánh đổi tất cả để dành cho được nước ấy.
Theo cách diễn đạt của dụ ngôn, thì thường là Thiên Chúa “chôn giấu lại” kho tàng sau khi đã chỉ cho chúng ta thấy. Nó chỉ thuộc về chúng ta sau khi đã bền bỉ kiên trì và chịu đựng khổ đau, để có khả năng lãnh nhận kho báu ấy. Hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quí” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết giá trị của chúng thì quí hoá, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn trong đó. Nước trời có đó nhưng mấy ai khám phá ra và mấy ai nhận thấy được giá trị vĩnh cửu để đầu tư đời mình. Kho báu được chôn giấu nên phải tìm kiếm và đào bới, muốn có ngọc đẹp phải bôn ba đây đó tìm mua. Nước trời là một thực tại siêu việt nên phải vất vả tìm kiếm với cả lòng khao khát và hy sinh (Hiền Lâm).
Kitô giáo thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát (Mỗi ngày một tin vui).
Hôm nay, Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta xác định lại căn tính ơn gọi của mình, đó là đi theo Ngài. Đi theo Chúa Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp, lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn. Sẵn sàng sống những giá trị Tin mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn. Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với thánh ý Chúa. Làm được điều đó, ấy là lúc chúng ta khôn ngoan như người lái buôn và chàng thanh niên trong Tin mừng đi tìm “kho tàng” và “viên ngọc quí” hôm nay.
Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: Nước trời là “kho tàng” bền vững và Chúa Giêsu là “viên ngọc quí” đích thực. Đạt được “kho tàng” là Nước trời; chiếm hữu được “viên ngọc quí” là chính Chúa Giêsu thật là điều không dễ! Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải đánh đổi bằng những hy sinh, cố gắng và tin tưởng tuyệt đối, ngay cả cái chết.
Truyện: Cần phần rỗi linh hồn
Attila xâm chiếm nước Italia với các binh đoàn hùng hậu của ông. Khi đã chiếm đóng làm chủ khắp mọi nơi thuộc đế quốc Rôma, ngày kia quân lính đến báo cáo với ông ta rằng: “Ở vùng ông ta đang trú đóng có một vị ẩn tu rừng”. Attila, ông vua hiếu chiến, hung dữ, rất kiêu căng này luôn muốn mọi người run sợ sụp lạy trước mặt mình, nên ông ta nảy ra ý định thử đến gặp vị ẩn sĩ xem sao.
Tưởng rằng vị tu hành sẽ sợ hãi khi phải đối diện với nhà chinh phục khét tiếng này, không ngờ, người của Thiên Chúa chẳng những không run khiếp, trái lại còn tỏ ra ung dung tự tại khiến Attila vừa nể phục vừa cảm mến. Sau khi trò chuyện với một người khôn ngoan, có tài đáp ứng mau lẹ, Attila bèn hứng chí nói: “Ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi có thể ước muốn trong vương quốc của ta”. Lúc đó, vị tu sĩ vừa ngửa tay chìa về phía Attila vừa nói: “Thưa ngài, trong toàn vương quốc của ngài tôi chỉ ước muốn một điều duy nhất: Phần rỗi của linh hồn ngài”.
Hai dụ ngôn này có cùng một ý nghĩa: Nước Trời rất quý giá nên đáng cho người ta bán tất cả những gì mình có để đổi lấy.
Hai dụ ngôn này chẳng qua cũng là nhấn mạnh thêm một tư tưởng chủ yếu mà Matthêu đã nhiều lần nói tới những chỗ khác, như: Chúa Giêsu nói với anh thanh niên nhà giàu “Hãy bán hết những gì anh có, đem chia cho người nghèo, bấy giờ anh sẽ được kho tàng Thiên quốc, rồi hãy cầu nguyện và theo Ta” (x. Mt 19,16-22); để được Nước Trời, phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả nếu cần thì chặt tay, chặt chân, móc mắt (x. Mt 18,8-9). Tóm lại, để được Nước Trời, chẳng có hy sinh nào được kể là quá lớn cả.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Nước Trời quý giá hơn tất cả. Bởi vì chỉ có Nước Trời là tồn tại vĩnh viễn. Còn mọi giá trị khác thì có ngày sẽ mất. ”Được lời lãi cã thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?” (Mt 16,26)
2. Ngày xưa, người ta chưa biết tới dịch vụ ngân hàng, nên cất dấu của cải bằng cách đem cất dấu ở một nơi người khác không biết. Nhưng cất dấu quá bí mật đến nỗi lắm khi chủ nhân chết đi thì không ai khác biết. Kho tàng trở thành vô chủ. Ta thử nghĩ, nếu có ai tình cờ biết được kho tàng ấy, người đó sẽ sung sướng thế nào! Mà có ai biết nó mà lại thờ ơ không tìm cách lấy nó bằng được hay không?
Tôi là người được biết kho tàng Nước Trời đó. Vậy tôi phải cảm ơn Chúa. Nhưng tôi có quá ngu dại khi không tha thiết gì tới kho tàng ấy không? Tại sao tôi lại không dám bỏ những thứ khác để đổi lấy kho tàng ấy?
3. Nhiều khi tôi tiếc vì phải từ bỏ thứ này thứ nọ. Tôi không nhớ rằng Chúa Giêsu đã hứa sẽ bù lại cho tôi một kho tàng vô giá.
4. Một người nông dân đang nghe John Wesley giảng về việc sử dụng của cải. Trong phần thứ nhất, nhà giảng thuyết quảng diễn tư tưởng ”Hãy thu hoạch (làm giàu) tối đa”. Người nông dân thúc cùi chỏ người bên cạnh và nói ”Một bài giảng tuyệt vời”. Wesley khai triển điểm thứ hai ”Hãy tiết kiệm tối đa”. Người nông dân lại khen: ”Chưa bao giờ tôi được nghe một bài giảng hay như vậy”. Wesley sang điểm thứ ba: ”Hãy chia sẻ tối đa”. Người nông dân mất hứng, rút lui khỏi nhà thờ và buồn bã về nhà. (Góp nhặt)
5. Người nông dân bán đi tất cả để mua cho được thửa ruộng vì biết rằng trong đó có kho tàng đang ẩn giấu. Người thương gia cũng vội vã đầu tư mọi gia sản mình vào viên ngọc quý.
Vì lợi nhuận, các nhà doanh nghiệp chẳng ngần ngại đầu tư tiền bạc vào các công trình. Chỉ vì chiến thắng, các vận động viên đầu tư mọi sức lực vào việc luyện tập. Vì tưong lai, người trẻ sẵn sàng đầu tư chất sám và thời gian cho sự học hỏi.
Tôi tự hỏi: ”Vì Nước Trời, tôi đã dám nghĩ đến chuyện đầu tư cho Đức Tin chưa nhỉ?”
Lạy Chúa, xin thúc đầy con luôn biết đầu tư tất cả cho đức tin bằng việc đặt Chúa vào trọng tâm cuộc sống, và biến lời thương mến thành hành động tin yêu. (Hosanna)
6. Khi bước vào trần gian , chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Thế nhưng khi nắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng.
Xuất thân từ bụi tro rồi chúng ta cũng sẽ trở về tro bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Không ai trong chúng ta có thể tưởng tượng cuộc sống đó như thế nào, chỉ biết rằng tình yêu sẽ là giá trị mãi mãi tồn tại, và chỉ có tình yêu mới thắng được sự chết và tất cả những gì trói buộc chúng ta trong cuộc sống này.
Lạy Chúa, cuộc sống của con được dệt bằng một chuỗi của vui tươi và sầu khổ, thành công và thất bại, sum hợp và ly tán. Chúa dùng những điều đó nhắc nhở con rằng cuộc sống này chóng qua và mời gọi con nghĩ đến giá trị vĩnh cửu. Trong mọi sự, xin cho con biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, và biết sống những giây phút hiện tại như chính giờ phút con phải đến gặp Chúa. (Hosanna)
1. Hai dụ ngôn này có cùng một ý nghĩa: Nước Trời rất quý giá nên đáng cho người ta bán tất cả những gì mình có để đổi lấy.
Nước Trời quý giá hơn tất cả. Bởi vì chỉ có Nước Trời mới tồn tại vĩnh viễn, còn mọi giá trị khác có ngày sẽ mất. “Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào được ích gì?” (Mt 16,26).
Thi hào Tagore có viết một bài thơ với tựa đề là “Viên ngọc quí giá nhất”. Bài thơ có nội dung như sau:
Đang lúc đi bách bộ dọc theo bờ sông, vừa đi vừa cầu nguyện thì nhà hiền triết Sanathan bỗng thấy một thanh niên tiến đến với mình. Chàng thanh niên thành khẩn van xin Ngài bố thí cho anh một cái gì đó.
Nhà hiền triết đáp: - Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi, Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi.
Người thanh niên tiếp tục nài nỉ: - Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp Ngài, vì chỉ có Ngài mới có thể giúp tôi và làm cho tôi nên giàu có.
Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quý mà ông đã tình cờ tìm được. Ông nghĩ rằng, biết đâu viên ngọc quí này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó. Nghĩ vậy cho nên ông liền chỉ cho người thanh niên nơi ông đã cất giấu viên ngọc.
Người thanh niên ra đi đào bới và đã tìm được viên ngọc quí. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm.
Khi bình minh vừa ló dạng, anh tìm đến với nhà hiền triết và lại khẩn khoản tiếp tục nài xin: - Thưa ngài, xin hãy cho tôi viên ngọc quý, quý hơn mọi viên ngọc quý nữa cơ. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi thứ của cải. Nói xong, anh ném viên ngọc xuống dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.
Một viên ngọc quý, quý hơn mọi viên ngọc quí. Viên ngọc ấy là viên ngọc nào? Thánh Nữ Têrêsa Avila cho chúng ta biết đó chính là Chúa. Chỉ có Chúa mới là giá trị tuyệt đối cho mọi cuộc tìm kiếm.
Thánh Augustino sau bao nhiêu năm trời ngụp lặn trong đam mê lạc thú, những thứ mà ông tưởng rằng, chúng sẽ đem lại cho ông niềm vui và hạnh phúc, nhưng cuối cùng cũng đã phải thốt lên: “Lạy Chúa, linh hồn con khắc khoải sao xuyến cho đến khi con tìm được Chúa”. Và tìm được Chúa như lời thánh Têrêsa Avila là đã quá đủ rồi. “Một mình Chúa là đủ”.
2. Bán tất cả để sở hữu thửa ruộng. Bán tất cả để mua viên ngọc quý.
Người nông dân bán đi tất cả để mua cho được thửa ruộng vì biết rằng, trong đó có kho tàng đang ẩn giấu. Người thương gia cũng vội vã đầu tư mọi gia sản mình vào viên ngọc quý.
Vì lợi nhuận, các nhà doanh nghiệp chẳng ngần ngại đầu tư tiền bạc vào các công trình. Chỉ vì chiến thắng, các vận động viên đầu tư mọi sức lực vào việc luyện tập. Vì tương lai, người trẻ sẵn sàng đầu tư chất xám và thời gian cho sự học hỏi.
Một em học sinh thuộc câu lạc bộ Sainta Clara ở Hoa Kỳ. Mỗi ngày em thức dậy lúc 5g30 sáng ra hồ bơi luyện tập suốt hai giờ đồng hồ rồi vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, em lại ra hồ tập luyện thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới học bài và đi ngủ đúng 9 giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình tập luyện và kỷ luật của mình. Em chỉ nhận tham gia một vài sinh hoạt xã giao với bạn bè khi nào chương trình đó không cản trở việc học và tập luyện bơi lội của em. Một hôm có người tò mò hỏi: “Tại sao em làm như vậy? “.
Em trả lời xác tín: “Tôi muốn đoạt giải vô địch môn bơi lội trong thế vận Hội Thể thao sắp đến”. Thái độ hy sinh mọi sự cho mục tiêu duy nhất mà em học sinh kia đã nói lên: “Tôi muốn đoạt giải bơi lội trong thế vận Hội Thể thao sắp đến”.
Nếu phần thưởng dành cho vận động viên đoạt giải trong các cuộc thi đấu tại thế vận hội ngày xưa chỉ là một ngành lá ô liu, hay ngày nay là những huy chương vàng, bạc, đồng... nghĩa là những thứ mau qua, kèm theo chút danh vọng chóng tàn, mà con người còn sẵn sàng đầu tư tất cả cuộc đời cho những thứ ấy, thì tại sao người Kitô hữu chúng ta, lại không dám làm như thế đối với một phần thưởng vô cùng cao quí, đó là Nước Trời?
Qua hai dụ ngôn “Kho Báu” và “Viên Ngọc Quí”, được kể trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hẳn muốn nói với chúng ta rằng, cần phải đầu tư cuộc đời của chúng ta cho Đức Tin.
Lạy Chúa, Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen. ----------------------------------
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa: "Có". Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
Dụ ngôn chiếc lưới được coi là dụ ngôn cuối cùng trong một chuỗi bảy dụ ngôn của chương 13 theo Tin Mừng Mátthêu. Dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng với dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Cả hai đều nói đến sự tách biệt kẻ xấu và người tốt vào ngày tận thế, và kẻ xấu sẽ bị Thiên Chúa luận phạt nghiêm minh (cc. 42. 50). Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi để nói về Nước Trời. Có khi là hình ảnh nông nghiệp như dụ ngôn người gieo giống, dụ ngôn lúa và cỏ lùng, hay dụ ngôn hạt cải. Có khi là hình ảnh về chăn nuôi như dụ ngôn về người mục tử. Có khi là hình ảnh về ngư nghiệp như trong dụ ngôn chiếc lưới. Một số môn đệ của Ngài đã sống bằng nghề chài lưới ở hồ Galilê. Thời xưa việc đánh cá ở hồ này cũng đơn giản như ở quê ta ngày nay. Những ngư phủ đi trên những chiếc thuyền nhỏ. Họ quăng lưới vào những nơi thấy dấu hiệu có cá đang đi. Lưới với những hòn chì nặng sẽ chụp xuống đàn cá và họ chỉ cần kéo vào bờ. Một chi tiết đáng chú ý ở đây là họ gom được mọi loại cá, cả tốt lẫn xấu. Hình ảnh này gợi cho ta về việc mọi người, bất luận tốt xấu, đều được mời gọi tham dự bàn tiệc Nước Trời (Mt 22, 9-10). Trong Hội Thánh, cũng có sự pha trộn giữa người tốt, kẻ xấu, như được ám chỉ trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Ở các tỉnh ven hồ Galilê, ta dễ thấy cảnh tượng các ngư phủ ngồi trên bờ, gom cá đánh được trong ngày, giữ lại cá tốt, quăng đi cá xấu. Chỉ khi lưới đầy, họ mới làm công việc lựa cá như vậy (c. 48). Tương tự như trên, chỉ khi đến ngày tận thế, các thiên thần mới xuất hiện để tách biệt kẻ xấu ra khỏi người công chính (c. 49). Như thế tình trạng hiện nay của Hội Thánh vẫn là chưa hoàn hảo. Không phải mọi Kitô hữu đều đã sống tinh thần Bài Giảng trên núi. Có những Kitô hữu không sinh trái, vì hạt giống nhận được đã bị thui chột, bởi thử thách gian nan hay mối lo toan vật chất (Mt 13, 18-22). Có những Kitô hữu tuy vẫn kêu Đức Giêsu là Lạy Chúa! (Mt 7, 21-23), vẫn nhân danh Ngài mà nói tiên tri, trừ quỷ hay làm phép lạ, nhưng lại không thi hành ý muốn của Cha trên trời và làm điều gian ác. Có những Kitô hữu dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới (Mt 22, 11-13). Có những Kitô hữu là muối nhạt, đã trở thành vô dụng (Mt 5, 13). Như thế gia nhập Hội Thánh không phải là một bảo đảm để được cứu độ. Còn cần sống hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5, 48). Thời nay chúng ta không thích nghĩ đến những chuyện bị coi là xa xôi, như chuyện tận thế, chuyện Thiên Chúa phán xét và luận phạt. Chúng ta thích sống yên ổn với một Thiên Chúa nhân hậu vô cùng, đến độ có vẻ như hỏa ngục chỉ là chuyện viển vông để dọa con nít. Nhưng dù sao cũng không tránh được ngày cỏ lùng bị tách khỏi lúa, cá xấu bị tách khỏi cá tốt, kẻ bất lương bị tách khỏi người lành. Cuối cùng Nước Trời sẽ không còn chút bóng dáng của sự dữ, và Thiên Chúa sẽ là mọi sự cho mọi người (1 Cr 15, 28). Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen. ---------------------------------------
Lưới trời lồng lộng. Thưa mà không lọt. Ngày tận thế, các thiên thần sẽ kéo một mẻ lưới cuối cùng trên biển trần gian. Rồi sẽ chọn cá tốt tức là người lành để được cho vào Nước Trời hưởng hạnh phúc, chọn cá xấu tức người dữ để ném vào Hỏa ngục chịu hình phạt muôn đời.
Muốn chắc chắn được tuyển chọn, ta phải kéo lưới hằng ngày trong mảnh ao tâm hồn ta. Vì trong mảnh ao tâm hồn bé nhỏ cũng có cá tốt lẫn cá xấu và cả rác rưởi nữa. Lưới của ta là Lời Chúa soi dẫn cho ta biết đường ngay nẻo chính. Là tiếng lương tâm giúp ta phân biệt phải trái, đúng sai trong những việc ta làm hằng ngày. Là lời giáo huấn của Bề trên hướng dẫn ta cách cụ thể trong môi trường ta sống. Là quyết tâm chọn Chúa, chọn lề luật Chúa, chọn đường nên thánh. Là ý chí diệt trừ điều xấu ngay khi phát hiện. Là ước muốn nên thánh, nên trọn lành, nên người con hiếu thảo của Cha trên trời. Nếu ta kéo lưới tâm hồn hằng ngày, dứt khoát loại bỏ những con cá xấu, những rác rưởi khỏi tâm hồn, thì đến ngày tận thế, khi các thiên thần kéo mẻ lưới cuối cùng, ta đã được thanh luyện trở nên cá tốt rồi.
Để trở nên cá tốt, ta phải noi gương Mô-sê. Mô-sê không làm gì theo ý riêng. Nhất nhất đều theo ý Chúa, từng chi tiết trong việc xây dựng lều Hội Ngộ. Từng chi tiết trong việc trang hoàng Hòm Bia. Từng chi tiết trong các nghi lễ tế tự dành cho Chúa. Càng nghe lời Chúa, ông càng đi trên đường trọn lành và lại càng được Chúa tiếp tục hướng dẫn. Không những hướng dẫn cho cá nhân ông, Chúa còn hướng dẫn cho cả dân Israel, dẫn đường chỉ lối cho họ đi vào Đất Hứa, tránh xa mọi nơi nguy hiểm, thù nghịch (năm lẻ).
Để trở nên cá tốt ta phải noi gương Giê-rê-mi-a, để Chúa nhào nặn đời mình như người thợ gốm nhào nặn đất sét thành chiếc bình quí giá. Hoàn toàn vâng phục. Hoàn toàn để Chúa thực hiện chương trình của Chúa trong đời ta. Mọi sự sẽ tốt đẹp. Và khi ta lầm lỗi, Chúa có thể đập nát chiếc bình dang dở, để làm lại từ đầu. Đó là việc sửa phạt sẽ khiến ta đau đớn. Nhưng chính nhờ thế, Chúa vứt bỏ cá xấu, gạt bỏ rác rưởi khỏi tâm hồn ta, biến ta thành loài cá tốt, thành chiếc bình hoàn hảo không còn tì vết.
Có một Bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục cao niên và tuyên bố: "Thưa Ðức Cha, con đến để thông báo cho Ðức Cha biết con đang nghĩ đến chuyện ra khỏi Giáo Hội, Ðức Cha nghĩ sao?".
Vị Giám mục yêu cầu ông cho biết một vài lý do khiến ông có ý định đó. Viên Bác sĩ nhìn thẳng vào mắt vị Giám mục và nói: "Thưa Ðức Cha, Ðức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này 2,000 năm nay, thế mà con người có khá hơn không?".
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: "Bác sĩ nói thật chí lý, nhưng Bác sĩ hãy thử nghĩ lại: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay, vậy mà ngày nào Bác sĩ cũng như tôi, ai cũng phải rửa tay".
Nghe thế, viên Bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy có thái độ kiên nhẫn bao dung hơn đối với Giáo Hội của Ngài. Qua hình ảnh chiếc lưới thả xuống biển, kéo lên với đủ loại cá, trong đó người ta giữ lại những con cá tốt và ném đi những con cá xấu, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người chỉ được thực hiện trọn vẹn vào ngày cánh chung mà thôi, trong khi chờ đợi, thì người môn đệ của Ngài cần có thái độ kiên nhẫn, bao dung.
Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô. Tự bản chất, Giáo Hội là thánh thiện, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, nhưng Giáo Hội thánh thiện ấy lại gồm những con người tội lỗi. Ý thức cơ bản và quan trọng nhất của người Kitô hữu chính là luôn nhận biết mình là tội nhân, để từ đó kêu cầu lòng thương xót của Chúa và sự tha thứ của anh em. Thiếu ý thức ấy, người Kitô hữu sẽ rơi vào thái độ kiêu căng giả hình của những người Biệt phái bị Chúa Giêsu lên án gắt gao. Ðồng hành với nhân loại, mang đến cho nhân loại Tin Mừng cứu rỗi, cũng như Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, Giáo Hội chỉ có thể thực thi sứ mệnh của mình với thái độ kiên nhẫn, cảm thông, yêu thương, tha thứ mà thôi. Không ngôn ngữ nào hùng hồn hơn, không sứ điệp nào có tính thuyết phục hơn lòng nhân từ, sự khoan dung và tha thứ. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là tuyệt đỉnh của hành động cứu rỗi của Ngài và lôi kéo mọi người lên với Ngài.
Luôn ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, không ngừng cảm thông với những thiếu sót bất toàn trong Giáo Hội, cố gắng thực thi lòng nhân từ bao dung với mọi người, đó là thách đố đang đặt ra cho người Kitô hữu chúng ta hơn bao giờ hết. Xin Chúa khơi dậy trong tâm hồn chúng ta lòng yêu mến Giáo Hội được thể hiện bằng những cử chỉ cảm thông bao dung, kiên nhẫn mỗi ngày.
“Nước Trời còn giống như chuyện một chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các Thiên Thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính. Và quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt. 13, 47-50)
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Đó là loại câu hỏi chỉ có thể gây bối rối. Khi ta hiểu biết rồi, mà sau đó lại không hành động theo, thì người ta có quyền chất vấn ta. Nếu hiểu biết sao anh lại làm ngược lại điều anh biết? Anh không chữa mình được. Nếu không hiểu biết sao anh không nói ra điều đó? Vì thế hiểu biết là điều quan trọng, chính sự hiểu biết biện minh họăc kết án cho thái độ, hành vi của ta.
Tôi chọn lựa.
Giống như trong các dụ ngôn khác, ta phải lưu ý điều này là ttc không xét xử cũng chẳng kết án: Người nhìn thấy mọi sự, Người biết hết tất cả rồi, và theo thiển ý tôi, “đương nhiên” có sự tách biệt hạt giống tốt với cỏ lùng, thì phải chăng chính sự thể rõ ràng như vậy rồi trước khi ông chủ có ý kiến? Trong mớ cá đủ loại có cá tốt cá xấu. Nhưng không phải Thiên Chúa xét xử và phân loại; cỏ lùng và cây lúa chúng đã khác nhau và phân biệt nhau rồi. Cũng vậy đến ngày tận thế, kẻ xấu sẽ bị tách ra khỏi hàng ngũ những người công chính, thì cũng không phải là do Chúa lên án, là bởi vì chính hành động của con người đã biết sống tự do hay nô lệ cho một chúa tể nào đó mà họ sùng bái.
Chúa hỏi chúng ta: “Anh em có hiểu không?” Hiểu cho rõ để rồi lựa chọn và lựa sự thiện bằng tất cả lòng thành tâm, thiện chí và trung thành. Đó chính là ý nghĩa thực của đời ta!
Tôi hiểu biết.
Chúa kết thúc dụ ngộn với lời: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” Cái cũ đó là chủ đề về vương quyền của Thiên Chúa, chủ đề lớn thống lĩng toàn bộ lịch sử của dân Ít-ra-en. Chúa Giêsu đã đến cùng với Tin Mừng của Người làm cho vương quyền của Thiên Chúa nên trọn, đó là cái mới.
Như vậy truyền thống vẫn luôn luôn được sống động, như thường phải được giải thích theo sự am hiểu sâu xa hơn để có thể đạt cái mới đích thực và việc thực hiện luôn được hoàn hảo hơn.
“Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 8), vì thế, Ngài luôn yêu thương hết mọi người không phân biệt tốt xấu, giàu nghèo hay chức vị cao thấp.
Bản chất đó hôm nay được Đức Giêsu mặc khải qua dụ ngôn “chiếc lưới”.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói: chiếc lưới như là Nước Trời. Chụp xuống biển là hành động Lời Chúa được trao ban. Bắt được đủ mọi thứ cá chính là mọi người đều được Lời Chúa dạy dỗ. Cá tốt, là những người nghe và thực hành Lời Chúa. Cá xấu là những người không nghe, hay có nghe nhưng Lời Chúa không biến đổi được họ vì sự ích kỷ và kiêu ngạo. Tuy nhiên, cá tốt và cá xấu đều tồn tại! Chỉ khi chiếc lưới chụp xuống và được kéo lên, lúc ấy chúng mới bị phân biệt. Cá tốt thì cho vào giỏ. Cá xấu thì quăng ra ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy là cá tốt trong chiếc lưới của Ngài. Đồng thời cũng dạy ta bài học về sự kiên nhẫn và sẵn sàng yêu thương hết mọi người. Biết mở lòng để đón nhận sự bất toàn của anh chị em mình, hầu chờ cơ hội để Chúa và cả chúng ta cải hóa anh chị em.
Cuối cùng chúng ta cần xác định quyền xét xử là của Chúa và do Chúa. Bổn phận của chúng ta là tin tưởng, cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng, phó thác nơi Chúa, cậy dựa vào ơn Chúa để can đảm biến đổi. Xin cho chúng con được trở thành cá tốt trong ngày sau hết để được Chúa cho vào giỏ của Chúa là Nước Trời. Amen.
Sứ điệp: Hội Thánh là thánh nhưng vẫn bao gồm những con người tội lỗi. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền xét xử thanh lọc. Và phải đợi đến tận thế mới là lúc thanh lọc chung cuộc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã quy tụ chúng con vào Hội Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã thiết lập một Giáo Hội thánh thiện, và Giáo Hội phải thánh để làm cho mọi người nên thánh. Nhưng trong thực tế con thấy Giáo Hội vẫn phải cưu mang trong lòng mình những con người tội lỗi, trong đó có con. Đôi khi chính trong lòng Giáo Hội vẫn còn nhiều tội lỗi, nhiều tiêu cực, nhiều cách sống thế tục. Điều đó đã trở nên một gương mù và làm cho nhiều người thắc mắc, công kích: tại sao Giáo Hội lại còn nhiều tội lỗi thế?
Lạy Chúa, Chúa cho con hiểu rằng bao lâu còn ở trần gian, Giáo Hội cũng như chiếc lưới bắt cả cá tốt lẫn cá xấu. Đến ngày chung thẩm chiếc lưới mới được kéo lên, và lúc đó chính Chúa sẽ tách biệt cá tốt khỏi cá xấu.
Con cảm tạ Chúa luôn nhân từ kiên nhẫn chờ đợi con. Xin cho con biết tận dụng những ngày con đang sống ở trần gian để nhờ ơn Chúa, con tự thanh luyện mình trở nên thánh thiện như bản chất của Giáo Hội.
Đứng trước những thực tế trong Giáo Hội, xin giúp con đừng nản lòng, và càng không bao giờ phê bình chỉ trích, trái lại, xin cho con càng yêu mến và cầu nguyện cho Giáo Hội nhiều hơn, đồng thời cho con biết tích cực cộng tác để làm cho bộ mặt Giáo Hội ngày càng xinh đẹp trong sáng hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài”.
Các bổn đạo đầu tiên trong Giáo hội sơ khai thiếu tất cả mọi yếu tố để thành công: thông thái, giàu sang, chức quyền, lợi khẩu… Họ chỉ có một điều: Sống đời sống đức tin rất gương mẫu. Nhờ đó, họ đã đem được rất nhiều người ngoại giáo trở lại đạo Chúa.
Gương tốt đánh tan bóng tối, đem lại ánh sáng linh động và vạch rõ con đường ngay chính. Gương tốt làm cho người ta tuân giữ luật Chúa và xa lánh tội lỗi.
Tertulianô viết về các bổn đạo đầu tiên này: “Chỉ có sự hiện diện của mình, các bổn đạo đầu tiên cũng đủ làm cho tính xấu phải hổ thẹn”.
Suy niệm
Cũng giống như dụ ngôn lúa và cỏ lùng, dụ ngôn chiếc lưới cá đề cập cuộc phán xét của Thiên Chúa trong ngày tận thế. Dụ ngôn nhấn mạnh việc ngư phủ tách cá tốt và cá xấu ra khỏi nhau khi lưới được kéo lên: Cá tốt cho vào giỏ tượng trưng cho người công chính được Chúa cho hưởng vinh quang Thiên quốc, cá xấu bị ném ra ngoài tượng trưng cho kẻ xấu bị trừng phạt nơi hỏa ngục.
Hình ảnh của chiếc lưới đầy cá mà Chúa Giêsu nói trong dụ ngôn, cho thấy nước Trời bao gồm đủ mọi hạng người đi tìm nước Trời và chỉ có những người tìm kiếm được mới được Thiên Chúa đón rước vào nước Ngài. Người được chọn là người biết kiên tâm đời mình muốn gì và tìm kiếm như tìm kiếm nước Trời. Bổn phận của người tìm kiếm Nước Trời được dùng bằng hình ảnh mà Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13,52).
Thiên Chúa quăng lưới tình yêu nước Trời xuống biển trần gian bắt được mọi thứ cá, Ngài chỉ lượm cá tốt là những người công chính, nghĩa là Thiên Chúa chỉ đón nhận những ai muốn được Thiên Chúa biến đổi và làm cho ra tốt. Còn những ai chối bỏ Ngài chính là cá xấu bị loại ra khỏi vòng yêu thương của Thiên Chúa sẽ ở ngoài vòng dây yêu thương và bất hạnh muôn đời.
Ý lực sống:
“Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,7-9).
Dụ ngôn chiếc lưới này gần giống như dụ ngôn cỏ lùng. Cả hai dụ ngôn đều nói tới vần để kẻ tốt và kẻ xấu sống chung với nhau, và sự phân biệt rõ ràng dứt khoát, mỗi kẻ một nơi, chỉ xảy ra vào ngày tận thế, ngày phán xét cuối cùng.
Như chiếc lưới quăng xuống biển bắt được mọi thứ cá, Thiên Chúa cũng căng lưới tình yêu ra và chụp vào mọi người, không ai bị loại ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Thế nhưng, Chúa chỉ lựa cá tốt. Thiên Chúa chỉ đón nhận những ai muốn được Ngài biến đổi và làm cho tốt, còn những ai chối bỏ, thì sẽ bị loại ra khỏi vòng tay yêu thương và sẽ chịu hình phạt muôn đời.
Dụ ngôn lưới cá thời Chúa Giêsu không giống cách đánh cá công nghiệp thời nay. Cách đánh cá này giống như cách đánh cá của người dân quê miền bể chúng ta. Đây là thứ lưới vét (lưới giùng) dài và rộng. Dân chài chia thành hai nhóm kéo hai đầu lưới, bao vây cả một vùng biển mà dân chài tưởng là có đàn cá, từ từ vòng vào bờ, kéo lưới lên bãi, xum nhau lại nhặt cá.
Theo giải thích của nhiều giáo phụ thì biển là thế gian, cá là nhân loại, dân chài là các tông đồ, lưới là Hội thánh và là việc rao giảng Tin mừng, nhặt cá tốt và cá xấu là phân biệt kẻ lành kẻ dữ trong ngày phán xét.
Theo cánh đánh cá ở trên, các ngư phủ sau khi kéo lưới vào bờ, họ thường ngồi lựa cá tốt và cá xấu. Cá tốt thì thu gom lại còn cá xấu thì loại bỏ đi. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh lưới cá này để chỉ Nước Chúa, tức là Hội thánh của Chúa, có nhiều thành phần khác nhau, tốt xấu khác nhau. Ai cũng có thể ở trong Giáo hội, không phân biệt, không kỳ thị chủng tộc, màu da, tiếng nói, văn minh, giàu nghèo. Tuy nhiên sẽ có ngày Chúa phân xử là lựa chọn kỹ càng, lúc ấy Thiên Chúa sẽ quyết định ai là người tốt, ai là người xấu, ai là con cái thật của Chúa, ai là thứ giả hình giả mạo. Chúa Giêsu còn nói rõ: các thiên thần sẽ tách biệt kẻ xấu và người công chính. Kẻ xấu sẽ bị ném vào lò lửa không hề tắt, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng, còn người công chính sẽ chói sáng như mặt trời.
Dụ ngôn cái lưới có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền xét xử. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người. Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như để cho các tốt cá xấu sống chung trong biển cả, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt cá tốt ra khỏi cá xấu, người lành khỏi kẻ dữ.
Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.
Một lần nữa chúng ta được nghe Chúa Giêsu mạc khải về ngày tận thế qua dụ ngôn chiếc lưới đầy cá và sự lựa chọn của ngư dân. Trong ngày sau hết cũng vậy, Thiên Chúa sẽ tách biệt người công chính ra khỏi kẻ gian ác. Kẻ gian ác thì chịu án phạt, còn người công chính được ân thưởng trong Nước trời.
Vì thế, Hội thánh ở trần gian giống như chiếc lưới, mời gọi mọi người không trừ ai. Thế nhưng, trong Hội thánh, mọi tín hữu đều hướng tới mục tiêu là nên thánh, nên công chính để được Chúa tuyển chọn vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong ngày sau hết. Trở nên người công chính, đó là ước mong của mọi người chúng ta khi làm môn đệ Chúa Kitô. Và chính điều mong ước này là động lực thúc đẩy chúng ta sống công chính theo gương Ngài để được chọn vào trong Nhà Chúa. Lời Chúa mời gọi “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Nhờ bí tích Rửa tội chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, chúng ta nên sống công chính thánh thiện để mỗi ngày một nên giống Chúa hơn (5 phút Lời Chúa).
Dụ ngôn này nói về sự thanh lọc người tốt và kẻ xấu để cho vào hoặc loại khỏi Nước Trời.
Trong dụ ngôn, có 3 sự so sánh:
a) Thế gian (như biển cả) là nơi người tốt và kẻ xấu lẫn lộn nhau b) Người xấu và kẻ tốt (như cá tốt và cá xấu – nghĩa là cá ăn được và cá không ăn được) c) Sự thanh lọc (như lựa cá).
Điều đáng lưu ý là chính Thiên Chúa ấn định thời điểm thanh lọc vì chính Thiên Chúa ấn định lúc nào kéo lưới lên. Một chi tiết nữa đáng lưu ý là đến lúc thanh lọc thì chỉ còn hai hạng người dứt khoát: hoặc là người tốt, hoặc là người xấu, không có hạng lừng khừng đứng giữa.
B.... nẩy mầm.
1. “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá”: Thay vì bực tức và khó chịu vì có những người xấu ở trong Giáo Hội và trong cộng đoàn của mình, sao tôi không nghĩ đến tình thương của Chúa khi Ngài khoan dung cho những người xấu ấy vào Giáo Hội và cộng đoàn để có cơ hội hoán cải họ?
2. Trong chiếc lưới có cả cá tốt và cá xấu. Trong Giáo Hội có người tốt lẫn người xấu. Chúa khoan dung để như thế vì Ngài muốn cho kẻ xấu có thời giờ hoán cải thành người tốt.
Gợi ý cầu nguyện: cầu cho Giáo Hội, cầu cho cộng đoàn mình. Xin ơn biết khoan dung và kiên nhẫn như Chúa…
3. Thân phận của Giáo Hội dưới thế cũng giống như thân phận của mỗi con người: có tốt và xấu lẫn lộn. Đừng lên án Giáo Hội, đùng lên án ai cả. Cũng đừng bực tức bất mãn với Giáo Hội hay với bản thân mình. Thái độ phải có là khiêm tốn nhìn nhận thực tế và kiên trì sửa đổi để ngày một nên tốt hơn.
4. Một bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục và tuyên bố: “Con đến cho Đức Cha hay con đang muốn ra khỏi Giáo Hội. Đức Cha nghĩ sao?” Vị Giám mục xin ông cho biết lý do. Ông nói: “Đức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này gần 2000 năm rồi, thế mà con người có khá hơn không?”. Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: “Bác sĩ nói chí lý. Nhưng bác sĩ cũng hãy nghĩ coi: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay. Vậy mà sao ngày nào bác sĩ cũng như tôi cũng đều phải rửa tay?”. Nghe thế, vị bác sĩ thinh lặng ra về, không còn nghĩ tới chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa. ("Mỗi ngày một tin vui").
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa: "Có". Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
Dụ ngôn chiếc lưới được coi là dụ ngôn cuối cùng trong một chuỗi bảy dụ ngôn của chương 13 theo Tin Mừng Mátthêu. Dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng với dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Cả hai đều nói đến sự tách biệt kẻ xấu và người tốt vào ngày tận thế, và kẻ xấu sẽ bị Thiên Chúa luận phạt nghiêm minh (cc. 42. 50). Đức Giêsu đã dùng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi để nói về Nước Trời. Có khi là hình ảnh nông nghiệp như dụ ngôn người gieo giống, dụ ngôn lúa và cỏ lùng, hay dụ ngôn hạt cải. Có khi là hình ảnh về chăn nuôi như dụ ngôn về người mục tử. Có khi là hình ảnh về ngư nghiệp như trong dụ ngôn chiếc lưới. Một số môn đệ của Ngài đã sống bằng nghề chài lưới ở hồ Galilê. Thời xưa việc đánh cá ở hồ này cũng đơn giản như ở quê ta ngày nay. Những ngư phủ đi trên những chiếc thuyền nhỏ. Họ quăng lưới vào những nơi thấy dấu hiệu có cá đang đi. Lưới với những hòn chì nặng sẽ chụp xuống đàn cá và họ chỉ cần kéo vào bờ. Một chi tiết đáng chú ý ở đây là họ gom được mọi loại cá, cả tốt lẫn xấu. Hình ảnh này gợi cho ta về việc mọi người, bất luận tốt xấu, đều được mời gọi tham dự bàn tiệc Nước Trời (Mt 22, 9-10). Trong Hội Thánh, cũng có sự pha trộn giữa người tốt, kẻ xấu, như được ám chỉ trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Ở các tỉnh ven hồ Galilê, ta dễ thấy cảnh tượng các ngư phủ ngồi trên bờ, gom cá đánh được trong ngày, giữ lại cá tốt, quăng đi cá xấu. Chỉ khi lưới đầy, họ mới làm công việc lựa cá như vậy (c. 48). Tương tự như trên, chỉ khi đến ngày tận thế, các thiên thần mới xuất hiện để tách biệt kẻ xấu ra khỏi người công chính (c. 49). Như thế tình trạng hiện nay của Hội Thánh vẫn là chưa hoàn hảo. Không phải mọi Kitô hữu đều đã sống tinh thần Bài Giảng trên núi. Có những Kitô hữu không sinh trái, vì hạt giống nhận được đã bị thui chột, bởi thử thách gian nan hay mối lo toan vật chất (Mt 13, 18-22). Có những Kitô hữu tuy vẫn kêu Đức Giêsu là Lạy Chúa! (Mt 7, 21-23), vẫn nhân danh Ngài mà nói tiên tri, trừ quỷ hay làm phép lạ, nhưng lại không thi hành ý muốn của Cha trên trời và làm điều gian ác. Có những Kitô hữu dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới (Mt 22, 11-13). Có những Kitô hữu là muối nhạt, đã trở thành vô dụng (Mt 5, 13). Như thế gia nhập Hội Thánh không phải là một bảo đảm để được cứu độ. Còn cần sống hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5, 48). Thời nay chúng ta không thích nghĩ đến những chuyện bị coi là xa xôi, như chuyện tận thế, chuyện Thiên Chúa phán xét và luận phạt. Chúng ta thích sống yên ổn với một Thiên Chúa nhân hậu vô cùng, đến độ có vẻ như hỏa ngục chỉ là chuyện viển vông để dọa con nít. Nhưng dù sao cũng không tránh được ngày cỏ lùng bị tách khỏi lúa, cá xấu bị tách khỏi cá tốt, kẻ bất lương bị tách khỏi người lành. Cuối cùng Nước Trời sẽ không còn chút bóng dáng của sự dữ, và Thiên Chúa sẽ là mọi sự cho mọi người (1 Cr 15, 28). Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ. Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do. Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh. Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen. ---------------------------------------
Lưới trời lồng lộng. Thưa mà không lọt. Ngày tận thế, các thiên thần sẽ kéo một mẻ lưới cuối cùng trên biển trần gian. Rồi sẽ chọn cá tốt tức là người lành để được cho vào Nước Trời hưởng hạnh phúc, chọn cá xấu tức người dữ để ném vào Hỏa ngục chịu hình phạt muôn đời.
Muốn chắc chắn được tuyển chọn, ta phải kéo lưới hằng ngày trong mảnh ao tâm hồn ta. Vì trong mảnh ao tâm hồn bé nhỏ cũng có cá tốt lẫn cá xấu và cả rác rưởi nữa. Lưới của ta là Lời Chúa soi dẫn cho ta biết đường ngay nẻo chính. Là tiếng lương tâm giúp ta phân biệt phải trái, đúng sai trong những việc ta làm hằng ngày. Là lời giáo huấn của Bề trên hướng dẫn ta cách cụ thể trong môi trường ta sống. Là quyết tâm chọn Chúa, chọn lề luật Chúa, chọn đường nên thánh. Là ý chí diệt trừ điều xấu ngay khi phát hiện. Là ước muốn nên thánh, nên trọn lành, nên người con hiếu thảo của Cha trên trời. Nếu ta kéo lưới tâm hồn hằng ngày, dứt khoát loại bỏ những con cá xấu, những rác rưởi khỏi tâm hồn, thì đến ngày tận thế, khi các thiên thần kéo mẻ lưới cuối cùng, ta đã được thanh luyện trở nên cá tốt rồi.
Để trở nên cá tốt, ta phải noi gương Mô-sê. Mô-sê không làm gì theo ý riêng. Nhất nhất đều theo ý Chúa, từng chi tiết trong việc xây dựng lều Hội Ngộ. Từng chi tiết trong việc trang hoàng Hòm Bia. Từng chi tiết trong các nghi lễ tế tự dành cho Chúa. Càng nghe lời Chúa, ông càng đi trên đường trọn lành và lại càng được Chúa tiếp tục hướng dẫn. Không những hướng dẫn cho cá nhân ông, Chúa còn hướng dẫn cho cả dân Israel, dẫn đường chỉ lối cho họ đi vào Đất Hứa, tránh xa mọi nơi nguy hiểm, thù nghịch (năm lẻ).
Để trở nên cá tốt ta phải noi gương Giê-rê-mi-a, để Chúa nhào nặn đời mình như người thợ gốm nhào nặn đất sét thành chiếc bình quí giá. Hoàn toàn vâng phục. Hoàn toàn để Chúa thực hiện chương trình của Chúa trong đời ta. Mọi sự sẽ tốt đẹp. Và khi ta lầm lỗi, Chúa có thể đập nát chiếc bình dang dở, để làm lại từ đầu. Đó là việc sửa phạt sẽ khiến ta đau đớn. Nhưng chính nhờ thế, Chúa vứt bỏ cá xấu, gạt bỏ rác rưởi khỏi tâm hồn ta, biến ta thành loài cá tốt, thành chiếc bình hoàn hảo không còn tì vết.
Có một Bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục cao niên và tuyên bố: "Thưa Ðức Cha, con đến để thông báo cho Ðức Cha biết con đang nghĩ đến chuyện ra khỏi Giáo Hội, Ðức Cha nghĩ sao?".
Vị Giám mục yêu cầu ông cho biết một vài lý do khiến ông có ý định đó. Viên Bác sĩ nhìn thẳng vào mắt vị Giám mục và nói: "Thưa Ðức Cha, Ðức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này 2,000 năm nay, thế mà con người có khá hơn không?".
Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: "Bác sĩ nói thật chí lý, nhưng Bác sĩ hãy thử nghĩ lại: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay, vậy mà ngày nào Bác sĩ cũng như tôi, ai cũng phải rửa tay".
Nghe thế, viên Bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy có thái độ kiên nhẫn bao dung hơn đối với Giáo Hội của Ngài. Qua hình ảnh chiếc lưới thả xuống biển, kéo lên với đủ loại cá, trong đó người ta giữ lại những con cá tốt và ném đi những con cá xấu, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người chỉ được thực hiện trọn vẹn vào ngày cánh chung mà thôi, trong khi chờ đợi, thì người môn đệ của Ngài cần có thái độ kiên nhẫn, bao dung.
Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô. Tự bản chất, Giáo Hội là thánh thiện, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính, nhưng Giáo Hội thánh thiện ấy lại gồm những con người tội lỗi. Ý thức cơ bản và quan trọng nhất của người Kitô hữu chính là luôn nhận biết mình là tội nhân, để từ đó kêu cầu lòng thương xót của Chúa và sự tha thứ của anh em. Thiếu ý thức ấy, người Kitô hữu sẽ rơi vào thái độ kiêu căng giả hình của những người Biệt phái bị Chúa Giêsu lên án gắt gao. Ðồng hành với nhân loại, mang đến cho nhân loại Tin Mừng cứu rỗi, cũng như Chúa Giêsu, Ðấng cứu độ, Giáo Hội chỉ có thể thực thi sứ mệnh của mình với thái độ kiên nhẫn, cảm thông, yêu thương, tha thứ mà thôi. Không ngôn ngữ nào hùng hồn hơn, không sứ điệp nào có tính thuyết phục hơn lòng nhân từ, sự khoan dung và tha thứ. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là tuyệt đỉnh của hành động cứu rỗi của Ngài và lôi kéo mọi người lên với Ngài.
Luôn ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, không ngừng cảm thông với những thiếu sót bất toàn trong Giáo Hội, cố gắng thực thi lòng nhân từ bao dung với mọi người, đó là thách đố đang đặt ra cho người Kitô hữu chúng ta hơn bao giờ hết. Xin Chúa khơi dậy trong tâm hồn chúng ta lòng yêu mến Giáo Hội được thể hiện bằng những cử chỉ cảm thông bao dung, kiên nhẫn mỗi ngày.
“Nước Trời còn giống như chuyện một chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các Thiên Thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính. Và quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt. 13, 47-50)
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Đó là loại câu hỏi chỉ có thể gây bối rối. Khi ta hiểu biết rồi, mà sau đó lại không hành động theo, thì người ta có quyền chất vấn ta. Nếu hiểu biết sao anh lại làm ngược lại điều anh biết? Anh không chữa mình được. Nếu không hiểu biết sao anh không nói ra điều đó? Vì thế hiểu biết là điều quan trọng, chính sự hiểu biết biện minh họăc kết án cho thái độ, hành vi của ta.
Tôi chọn lựa.
Giống như trong các dụ ngôn khác, ta phải lưu ý điều này là ttc không xét xử cũng chẳng kết án: Người nhìn thấy mọi sự, Người biết hết tất cả rồi, và theo thiển ý tôi, “đương nhiên” có sự tách biệt hạt giống tốt với cỏ lùng, thì phải chăng chính sự thể rõ ràng như vậy rồi trước khi ông chủ có ý kiến? Trong mớ cá đủ loại có cá tốt cá xấu. Nhưng không phải Thiên Chúa xét xử và phân loại; cỏ lùng và cây lúa chúng đã khác nhau và phân biệt nhau rồi. Cũng vậy đến ngày tận thế, kẻ xấu sẽ bị tách ra khỏi hàng ngũ những người công chính, thì cũng không phải là do Chúa lên án, là bởi vì chính hành động của con người đã biết sống tự do hay nô lệ cho một chúa tể nào đó mà họ sùng bái.
Chúa hỏi chúng ta: “Anh em có hiểu không?” Hiểu cho rõ để rồi lựa chọn và lựa sự thiện bằng tất cả lòng thành tâm, thiện chí và trung thành. Đó chính là ý nghĩa thực của đời ta!
Tôi hiểu biết.
Chúa kết thúc dụ ngộn với lời: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” Cái cũ đó là chủ đề về vương quyền của Thiên Chúa, chủ đề lớn thống lĩng toàn bộ lịch sử của dân Ít-ra-en. Chúa Giêsu đã đến cùng với Tin Mừng của Người làm cho vương quyền của Thiên Chúa nên trọn, đó là cái mới.
Như vậy truyền thống vẫn luôn luôn được sống động, như thường phải được giải thích theo sự am hiểu sâu xa hơn để có thể đạt cái mới đích thực và việc thực hiện luôn được hoàn hảo hơn.
“Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 8), vì thế, Ngài luôn yêu thương hết mọi người không phân biệt tốt xấu, giàu nghèo hay chức vị cao thấp.
Bản chất đó hôm nay được Đức Giêsu mặc khải qua dụ ngôn “chiếc lưới”.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói: chiếc lưới như là Nước Trời. Chụp xuống biển là hành động Lời Chúa được trao ban. Bắt được đủ mọi thứ cá chính là mọi người đều được Lời Chúa dạy dỗ. Cá tốt, là những người nghe và thực hành Lời Chúa. Cá xấu là những người không nghe, hay có nghe nhưng Lời Chúa không biến đổi được họ vì sự ích kỷ và kiêu ngạo. Tuy nhiên, cá tốt và cá xấu đều tồn tại! Chỉ khi chiếc lưới chụp xuống và được kéo lên, lúc ấy chúng mới bị phân biệt. Cá tốt thì cho vào giỏ. Cá xấu thì quăng ra ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy là cá tốt trong chiếc lưới của Ngài. Đồng thời cũng dạy ta bài học về sự kiên nhẫn và sẵn sàng yêu thương hết mọi người. Biết mở lòng để đón nhận sự bất toàn của anh chị em mình, hầu chờ cơ hội để Chúa và cả chúng ta cải hóa anh chị em.
Cuối cùng chúng ta cần xác định quyền xét xử là của Chúa và do Chúa. Bổn phận của chúng ta là tin tưởng, cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con tin tưởng, phó thác nơi Chúa, cậy dựa vào ơn Chúa để can đảm biến đổi. Xin cho chúng con được trở thành cá tốt trong ngày sau hết để được Chúa cho vào giỏ của Chúa là Nước Trời. Amen.
Sứ điệp: Hội Thánh là thánh nhưng vẫn bao gồm những con người tội lỗi. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền xét xử thanh lọc. Và phải đợi đến tận thế mới là lúc thanh lọc chung cuộc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã quy tụ chúng con vào Hội Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã thiết lập một Giáo Hội thánh thiện, và Giáo Hội phải thánh để làm cho mọi người nên thánh. Nhưng trong thực tế con thấy Giáo Hội vẫn phải cưu mang trong lòng mình những con người tội lỗi, trong đó có con. Đôi khi chính trong lòng Giáo Hội vẫn còn nhiều tội lỗi, nhiều tiêu cực, nhiều cách sống thế tục. Điều đó đã trở nên một gương mù và làm cho nhiều người thắc mắc, công kích: tại sao Giáo Hội lại còn nhiều tội lỗi thế?
Lạy Chúa, Chúa cho con hiểu rằng bao lâu còn ở trần gian, Giáo Hội cũng như chiếc lưới bắt cả cá tốt lẫn cá xấu. Đến ngày chung thẩm chiếc lưới mới được kéo lên, và lúc đó chính Chúa sẽ tách biệt cá tốt khỏi cá xấu.
Con cảm tạ Chúa luôn nhân từ kiên nhẫn chờ đợi con. Xin cho con biết tận dụng những ngày con đang sống ở trần gian để nhờ ơn Chúa, con tự thanh luyện mình trở nên thánh thiện như bản chất của Giáo Hội.
Đứng trước những thực tế trong Giáo Hội, xin giúp con đừng nản lòng, và càng không bao giờ phê bình chỉ trích, trái lại, xin cho con càng yêu mến và cầu nguyện cho Giáo Hội nhiều hơn, đồng thời cho con biết tích cực cộng tác để làm cho bộ mặt Giáo Hội ngày càng xinh đẹp trong sáng hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Người ta lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài”.
Các bổn đạo đầu tiên trong Giáo hội sơ khai thiếu tất cả mọi yếu tố để thành công: thông thái, giàu sang, chức quyền, lợi khẩu… Họ chỉ có một điều: Sống đời sống đức tin rất gương mẫu. Nhờ đó, họ đã đem được rất nhiều người ngoại giáo trở lại đạo Chúa.
Gương tốt đánh tan bóng tối, đem lại ánh sáng linh động và vạch rõ con đường ngay chính. Gương tốt làm cho người ta tuân giữ luật Chúa và xa lánh tội lỗi.
Tertulianô viết về các bổn đạo đầu tiên này: “Chỉ có sự hiện diện của mình, các bổn đạo đầu tiên cũng đủ làm cho tính xấu phải hổ thẹn”.
Suy niệm
Cũng giống như dụ ngôn lúa và cỏ lùng, dụ ngôn chiếc lưới cá đề cập cuộc phán xét của Thiên Chúa trong ngày tận thế. Dụ ngôn nhấn mạnh việc ngư phủ tách cá tốt và cá xấu ra khỏi nhau khi lưới được kéo lên: Cá tốt cho vào giỏ tượng trưng cho người công chính được Chúa cho hưởng vinh quang Thiên quốc, cá xấu bị ném ra ngoài tượng trưng cho kẻ xấu bị trừng phạt nơi hỏa ngục.
Hình ảnh của chiếc lưới đầy cá mà Chúa Giêsu nói trong dụ ngôn, cho thấy nước Trời bao gồm đủ mọi hạng người đi tìm nước Trời và chỉ có những người tìm kiếm được mới được Thiên Chúa đón rước vào nước Ngài. Người được chọn là người biết kiên tâm đời mình muốn gì và tìm kiếm như tìm kiếm nước Trời. Bổn phận của người tìm kiếm Nước Trời được dùng bằng hình ảnh mà Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13,52).
Thiên Chúa quăng lưới tình yêu nước Trời xuống biển trần gian bắt được mọi thứ cá, Ngài chỉ lượm cá tốt là những người công chính, nghĩa là Thiên Chúa chỉ đón nhận những ai muốn được Thiên Chúa biến đổi và làm cho ra tốt. Còn những ai chối bỏ Ngài chính là cá xấu bị loại ra khỏi vòng yêu thương của Thiên Chúa sẽ ở ngoài vòng dây yêu thương và bất hạnh muôn đời.
Ý lực sống:
“Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,7-9).
Dụ ngôn chiếc lưới này gần giống như dụ ngôn cỏ lùng. Cả hai dụ ngôn đều nói tới vần để kẻ tốt và kẻ xấu sống chung với nhau, và sự phân biệt rõ ràng dứt khoát, mỗi kẻ một nơi, chỉ xảy ra vào ngày tận thế, ngày phán xét cuối cùng.
Như chiếc lưới quăng xuống biển bắt được mọi thứ cá, Thiên Chúa cũng căng lưới tình yêu ra và chụp vào mọi người, không ai bị loại ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Thế nhưng, Chúa chỉ lựa cá tốt. Thiên Chúa chỉ đón nhận những ai muốn được Ngài biến đổi và làm cho tốt, còn những ai chối bỏ, thì sẽ bị loại ra khỏi vòng tay yêu thương và sẽ chịu hình phạt muôn đời.
Dụ ngôn lưới cá thời Chúa Giêsu không giống cách đánh cá công nghiệp thời nay. Cách đánh cá này giống như cách đánh cá của người dân quê miền bể chúng ta. Đây là thứ lưới vét (lưới giùng) dài và rộng. Dân chài chia thành hai nhóm kéo hai đầu lưới, bao vây cả một vùng biển mà dân chài tưởng là có đàn cá, từ từ vòng vào bờ, kéo lưới lên bãi, xum nhau lại nhặt cá.
Theo giải thích của nhiều giáo phụ thì biển là thế gian, cá là nhân loại, dân chài là các tông đồ, lưới là Hội thánh và là việc rao giảng Tin mừng, nhặt cá tốt và cá xấu là phân biệt kẻ lành kẻ dữ trong ngày phán xét.
Theo cánh đánh cá ở trên, các ngư phủ sau khi kéo lưới vào bờ, họ thường ngồi lựa cá tốt và cá xấu. Cá tốt thì thu gom lại còn cá xấu thì loại bỏ đi. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh lưới cá này để chỉ Nước Chúa, tức là Hội thánh của Chúa, có nhiều thành phần khác nhau, tốt xấu khác nhau. Ai cũng có thể ở trong Giáo hội, không phân biệt, không kỳ thị chủng tộc, màu da, tiếng nói, văn minh, giàu nghèo. Tuy nhiên sẽ có ngày Chúa phân xử là lựa chọn kỹ càng, lúc ấy Thiên Chúa sẽ quyết định ai là người tốt, ai là người xấu, ai là con cái thật của Chúa, ai là thứ giả hình giả mạo. Chúa Giêsu còn nói rõ: các thiên thần sẽ tách biệt kẻ xấu và người công chính. Kẻ xấu sẽ bị ném vào lò lửa không hề tắt, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng, còn người công chính sẽ chói sáng như mặt trời.
Dụ ngôn cái lưới có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền xét xử. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người. Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như để cho các tốt cá xấu sống chung trong biển cả, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt cá tốt ra khỏi cá xấu, người lành khỏi kẻ dữ.
Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.
Một lần nữa chúng ta được nghe Chúa Giêsu mạc khải về ngày tận thế qua dụ ngôn chiếc lưới đầy cá và sự lựa chọn của ngư dân. Trong ngày sau hết cũng vậy, Thiên Chúa sẽ tách biệt người công chính ra khỏi kẻ gian ác. Kẻ gian ác thì chịu án phạt, còn người công chính được ân thưởng trong Nước trời.
Vì thế, Hội thánh ở trần gian giống như chiếc lưới, mời gọi mọi người không trừ ai. Thế nhưng, trong Hội thánh, mọi tín hữu đều hướng tới mục tiêu là nên thánh, nên công chính để được Chúa tuyển chọn vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong ngày sau hết. Trở nên người công chính, đó là ước mong của mọi người chúng ta khi làm môn đệ Chúa Kitô. Và chính điều mong ước này là động lực thúc đẩy chúng ta sống công chính theo gương Ngài để được chọn vào trong Nhà Chúa. Lời Chúa mời gọi “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Nhờ bí tích Rửa tội chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, chúng ta nên sống công chính thánh thiện để mỗi ngày một nên giống Chúa hơn (5 phút Lời Chúa).
Dụ ngôn này nói về sự thanh lọc người tốt và kẻ xấu để cho vào hoặc loại khỏi Nước Trời.
Trong dụ ngôn, có 3 sự so sánh:
a) Thế gian (như biển cả) là nơi người tốt và kẻ xấu lẫn lộn nhau b) Người xấu và kẻ tốt (như cá tốt và cá xấu – nghĩa là cá ăn được và cá không ăn được) c) Sự thanh lọc (như lựa cá).
Điều đáng lưu ý là chính Thiên Chúa ấn định thời điểm thanh lọc vì chính Thiên Chúa ấn định lúc nào kéo lưới lên. Một chi tiết nữa đáng lưu ý là đến lúc thanh lọc thì chỉ còn hai hạng người dứt khoát: hoặc là người tốt, hoặc là người xấu, không có hạng lừng khừng đứng giữa.
B.... nẩy mầm.
1. “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá”: Thay vì bực tức và khó chịu vì có những người xấu ở trong Giáo Hội và trong cộng đoàn của mình, sao tôi không nghĩ đến tình thương của Chúa khi Ngài khoan dung cho những người xấu ấy vào Giáo Hội và cộng đoàn để có cơ hội hoán cải họ?
2. Trong chiếc lưới có cả cá tốt và cá xấu. Trong Giáo Hội có người tốt lẫn người xấu. Chúa khoan dung để như thế vì Ngài muốn cho kẻ xấu có thời giờ hoán cải thành người tốt.
Gợi ý cầu nguyện: cầu cho Giáo Hội, cầu cho cộng đoàn mình. Xin ơn biết khoan dung và kiên nhẫn như Chúa…
3. Thân phận của Giáo Hội dưới thế cũng giống như thân phận của mỗi con người: có tốt và xấu lẫn lộn. Đừng lên án Giáo Hội, đùng lên án ai cả. Cũng đừng bực tức bất mãn với Giáo Hội hay với bản thân mình. Thái độ phải có là khiêm tốn nhìn nhận thực tế và kiên trì sửa đổi để ngày một nên tốt hơn.
4. Một bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục và tuyên bố: “Con đến cho Đức Cha hay con đang muốn ra khỏi Giáo Hội. Đức Cha nghĩ sao?” Vị Giám mục xin ông cho biết lý do. Ông nói: “Đức Cha nghĩ coi: Giáo Hội đã có mặt trên trần gian này gần 2000 năm rồi, thế mà con người có khá hơn không?”. Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: “Bác sĩ nói chí lý. Nhưng bác sĩ cũng hãy nghĩ coi: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay. Vậy mà sao ngày nào bác sĩ cũng như tôi cũng đều phải rửa tay?”. Nghe thế, vị bác sĩ thinh lặng ra về, không còn nghĩ tới chuyện rời bỏ Giáo Hội nữa. ("Mỗi ngày một tin vui").
Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như vậy".
Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Được mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy.
Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
Theo các sách Tin Mừng, Gioan bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc. Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê. Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias, một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình. Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp, người anh cùng cha khác mẹ với mình. Chuyện ngoại tình của Hêrôđê bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được. “Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4). Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21). Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công. Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả. Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng. Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục. Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan. Bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê hẳn có nhiều quan khách tham dự. Chuyện cô công chúa như Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem, là một chuyện lạ, nhưng vẫn có thể đã xảy ra. Không rõ vì cô xinh đẹp hay vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6). Từ đó Hêrôđê không còn đủ sáng suốt, tỉnh táo, khi vội vã đưa ra một lời hứa kèm theo lời thề với cô. Cô muốn xin gì, nhà vua cũng thề hứa ban cho (c. 7). Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm. Ông đã không lường được hậu quả của chuyện đó. Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà. Bà đã xúi con gái xin ngay thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm. Hêrôđê hẳn đã lặng người khi nghe cô bé xin điều ấy. Ông lấy làm đau buồn vì đây thật là chuyện không ngờ (c. 9). Ông bị đặt trước một chọn lựa: giết hay không giết Gioan. Đám đông quan khách tạo một áp lực vô hình trên ông. Vì đã lỡ thề hứa trước mặt họ, nên ông không dám rút lại. Ông sợ rút lại sẽ bị mang tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín. Hêrôđê đã chọn mình, chọn danh dự và cái ghế của mình hơn. Ông hy sinh Gioan để giữ được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia. Làm sao chúng ta có can đảm nhận ra mình sai lầm và dừng lại? Làm sao chúng ta không bị cuốn từ tội này sang tội khác? Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa ấy. Hêrôđê là người bị nô lệ bởi nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách… Đúng hơn là ông sợ mất chính mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình. Có những lúc chợt tỉnh ngộ, tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai. Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng. Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn mê muội của tôi. Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt. Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải. Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con. Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày. Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do. ---------------------------------------
Thiên Chúa vô cùng nhân từ. Thiên Chúa nhân từ với ta. Người mong muốn ta cũng nhân từ với đồng loại. Vì thế Người ra luật cử hành Năm Toàn Xá. Năm Toàn Xá là năm thể hiện lòng nhân từ. Chúa truyền cho dân phải nhân từ với người nghèo khổ. Không được ỷ mạnh hiếp yếu. Nhưng phải tôn trọng những người bé nhỏ nghèo hèn. Vì thế trong Năm Toàn Xá phải trả người nô lệ về tự do. Phải trả ruộng đất cho người vì túng thiếu đã phải bán. Phải giữ luật Chúa chứ không theo luật rừng. PHải sống theo ý Chúa chứ không theo dục vọng: “Không ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng các ngươi phải kính sợ Thiên Chúa” (năm lẻ).
Con người ta thường theo thú tính. Ở đời mạnh được yếu thua. Vì thế Giê-rê-mi-a gặp nạn. Ông yếu thế hơn tư tế và các thủ lãnh. Nên họ muốn giết ông. “Bấy giờ, các tư tế và ngôn sứ nói với các thủ lãnh và toàn dân rằng: “Con người này đáng lãnh án tử, vì ông ta đã tuyên sấm chống lại thành này, như chính tai các ông đã nghe”. Họ tức giận vì Giê-rê-mi-a lên án lối sống sa đoạ của họ. Nếu họ chưa giết ông chỉ vì họ sợ Chúa phạt như lời Giê-rê-mi-a ngăm đe: “Nếu các người giết tôi, thì chính các người sẽ phải chuốc lấy máu vô tội cho mình, cho thành này và dân cư trong thành” (năm chẵn).
Hê-rô-đê hoàn toàn cư xử theo thú tính. Ông ỷ quyền thế cướp vợ của anh mình. Ông cậy mạnh nên bắt giam Gio-an Tẩy giả. Vì Gio-an dám lên án tội lỗi của vua. Ông nhẹ dạ vì điệu múa của cô gái nên hứa liều. Vì sĩ diện nên ông không dám rút lại lời hứa liều, dù ông biết làm thế là sai. Vì dục vọng ông phải giết thánh Gio-an Tẩy giả, dù biết ngài vô tội: “Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã tró ththeef, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an”.
Các môn đệ của Chúa như Gio-an được sai đến để xây dựng xã hội công bằng. Không còn mạnh hiếp yếu. Và xã hội bác ái. Phải nghĩ đến người bé nhỏ nghèo hèn. Mua bán gì đến Năm Toàn Xá phải trả lại chủ cũ. Xã hội sống theo Lời Chúa sẽ tạo hạnh phúc. Con người kính sợ Thiên Chúa sẽ biết kính trọng và yêu thương đồng loại. Xã hội chống lại Thiên Chúa sẽ sống theo dục vọng và thú tính. Xã hội ấy sẽ tràn đầy bất công và bất hạnh.
Trong Tin Mừng hôm nay, tác giả hai lần nhắc đến Gioan Tẩy giả trong tương quan với Chúa Giêsu.
Ở khởi đầu trình thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó chính là Gioan Tẩy giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của Gioan Tẩy giả như chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho con mình: "Con là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho Ngài". Ơn gọi đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.
"Các con sẽ làm chứng về Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Một chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng".
Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.
Lịch sử nhân loại lúc nào cũng có chiến tranh, lúc nào cũng có hận thù. Khi thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu cách đây hai ngàn năm, người ta cũng xôn xao bàn tán về cái chết của ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mátthêu đã ghi lại hoàn cảnh cái chết của vị tiền hô. Ngài chết vì đã nói lên sự thật. Ngài chết cho sự thật. Tín hữu Kitô là những người đã đi theo Ðấng đã từng tuyên bố: "Ta là sự thật". Họ phải là những người sẵn sàng chết cho sự thật ấy.
Trong một cuộc thăm dò do viện Galup thực hiện, sáu mươi chín phần trăm người dân Mỹ cho biết họ tin là không có những chuẩn mực luân lý tuyệt đối. Trong một cuộc thăm dò khác, bảy mươi mốt phần trăm nói rằng không hề có một chân lý tuyệt đối. Không có chân lý tuyệt đối, cho nên theo họ chỉ có chân lý của số đông. Tiêu chuẩn của chân lý là số đông. Ðiều gì đám đông nghĩ, đám đông tin, đám đông bỏ phiếu, đám đông tán thành, là đúng. Chính vì tiêu chuẩn của chân lý là đám đông, nên có biết bao nhiêu hành động tội ác được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã tán thành. Còn gì độc ác dã man cho bằng hành động phá thai, nhưng nó đã được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã đồng tình.
Ðấng là sự thật đã chết trơ trụi một mình trên thập giá. Tuyên xưng mình là sự thật, sống cho sự thật, thường cũng đòi hỏi người tín hữu Kitô phải lội ngược dòng. Sự thật không có tính vụ lợi. Sự thật không được đánh giá bằng những lợi lộc hay đổi chác. Sự thật đòi hỏi con người phải hy sinh tất cả để nói lên sự thật và trung thành với sự thật. Sống chết cho sự thật, không có phần thưởng nào khác hơn là chính sự thật, bởi lẽ vì sống cho sự thật có thể mất hết mọi sự nhưng không đánh mất chính mình.
Thời ấy tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” (Mt. 14, 1-2)
Đoạn này kề về cuối đời của thánh Gio-an Tiền Hô, một con người bảo vệ chân lý. Ngài đã trung thành sống với Lời Ngài giảng. Đó chính là đức tính của vị ngôn sứ.
Ngôn sứ là ai?
Ngày nay quá nhiều kẻ tuyên bố sự thật. Họ rêu rao sự thật đến rát cổ mỏi miệng.
Có kẻ tách khỏi Giáo Hội và xỉ nhục điều này điều kia của Giáo Hội, phỉ nhổ vị này vị kia. Kẻ đó không phải là kẻ chân chính.
Gio-an Tiền Hô thành chướng ngại vật, là lời khiển trách sống động đới với Hê-rô-đê và với chúng ta nữa. Ngài không nói: “Hãy làm như tôi!” nhưng Ngài nói: “Đó là huấn lệnh của Chúa!” Thính giả nghe Ngài, nhưng còn phải nhìn kỹ Ngài sống thế nào! cần phải chiêm ngắm chân lý của sứ ngôn và đời sống của Ngài, thì họ sẽ không còn dám sống ích kỷ nữa.
Ngày nay thì sao?
Ngày nay có nhiều ngôn sứ không?
Ngôn sứ là người loan báo Đức Giêsu Kitô. Ông phải làm chứng về Đức Kitô.
Đức Giêsu là ai? Ngôn sứ phải nói về Người như thế nào cho thế hệ hiện tại: trước hết chúng ta phải nói đến quá khứ, kể lại Tin Mừng: nói về sự sống lại của Người, về con người mới mà Người đã làm chúng ta trở lên con người mới đó.
Ngôn sứ không được vì mình, nhưng phải là chứng nhân cho thế hệ hiện tại.
Khi xem các chương trình nhạc kịch, khán giả thường có những nhận xét đúng – sai cũng như đặc điểm của vai diễn qua các nhân vật. Ngoài ra, độc giả còn nhận thấy hình ảnh của mình thông qua con người và diễn xuất của các nghệ sĩ…
Hôm nay, trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy xuất hiện 4 nhân vật, mỗi nhân vật mang một nét đặc trưng riêng cả về nhân thân và lối sống. Các nhân vật đó là: Gioan Tẩy Giả; vua Hêrôđê; bà Hêrôđia; và, con gái bà Hêrôđia. 4 nhân vật đó như thế nào? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
Thứ nhất là Gioan Tẩy giả:
Gioan Tẩy giả là ngôn sứ vĩ đại, đến để loan báo về Đấng Cứu Thế và chuẩn bị lòng dân đón nhận Ngài. Vì thế, ông đã biểu lộ vai trò ngôn sứ bằng một thái độ sống hết sức khiêm tốn, hy sinh, can đảm, mạnh mẽ và bất khuất trước bạo lực, cho dù phải chịu tù đày và chết tróc.
Thứ hai là vua Hêrôđê:
Ông được biết đến như một kẻ ác nhân. Ông đã lộng hành khi dùng quyền. Coi thường đạo lý và buông theo sắc dục mà bất chấp đúng - sai. Ông đã làm trái với lương tâm khi truyền lấy đầu ông Gioan để thỏa mãn điều thề hứa bất chính của mình.
Thứ ba là Bà Hêrôdia:
Vì ưa thích điều bất chính, nên đã không chấp nhận sự thật mà Gioan loan báo. Vì thế, lòng thù ghét nổi lên như nước thủy triều. Thay vì dạy dỗ con mình làm điều tốt, bà lại xúi con mình làm điều bất chính khi xin vua lấy đầu Gioan Tẩy Giả. Sự ác tâm này là con đẻ của hận thù và ghen ghét vì mối lợi trước mắt.
Thứ tư là con gái bà Hêrôdia:
Cô gái trẻ này được biết đến như một nhân vật có tài mà không có đức. Vì thế, thay vì sử dụng tài của mình để làm việc thiện, cô ta đã dùng nó như là một thứ mua vui thuần túy và phá hoại. Tệ hơn nữa là cô không hề áy náy khi biết rõ rằng việc mình làm chỉ là để thỏa nãm sắc dục của vua quan và phục vụ sự hận thù của mẹ cô với Gioan Tẩy giả.
Trong cuộc sống hôm nay, không thiếu gì những hình ảnh của Hêrôđê đang hiện ra qua những hành động của những người chỉ thích ham mê sắc dục, bất chấp sự thật để làm những điều lỗi lầm ghê tởm.
Cũng vẫn còn đó nơi ta hình ảnh của bà Hêrôdia. Nhiều lúc, thay vì dạy con làm điều tốt, thì lại chỉ vẽ cho trẻ những điều sai trái, miễn sao đạt được điều bất chính nơi ta mà thôi. Và cũng không thiếu những sự ngộ nhận nơi ta như con gái bà Hêrôdia…
Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang trong mình hình ảnh và đặc tính của Gioan Tẩy Giả. Luôn tìm mọi cách để Lời Chúa được loan báo mọi nơi, mọi lúc. Sẵn sàng chấp nhận hy sinh và ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa và sự thật về Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Lời Chúa và sẵn sàng rao giảng Lời ấy cho mọi người, dù có phải hy sinh. Amen.
Sứ điệp: Hoa trái của Xa-tan là tội lỗi. Hoa trái của Thánh Thần là công chính và tình yêu mến. Tư tưởng, lời nói, việc làm của ta phải do Chúa Thánh Thần thúc đẩy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Tin Mừng hôm nay cho con thấy hai hạng người. Hạng người thứ nhất suy nghĩ và hành động theo tinh thần xác thịt. Bà Hê-rô-đi-a vì ham danh, ham quyền, ham lợi lộc, đã bỏ chồng đuổi theo vua Hê-rô-đê. Hơn nữa, vì nuôi lòng hận thù, bà đã dạy con gái mình phạm tội ác là xin được đầu thánh Gio-an đặt trên đĩa. Còn vua Hê-rô-đê vì ham sắc dục đã cướp vợ của anh mình. Hơn nữa, vì sợ mất mặt, vua Hê-rô-đê đã liều giết thánh Gio-an Tẩy Giả cách bất công. Tội ác kéo theo tội ác.
Ngược lại thánh Gio-an Tẩy Giả đã để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Ngài đã can đảm nói lên sự thật, đã chấp nhận chết cho sự thật, chết cho công lý.
Lạy Chúa, con hiểu rằng cuộc đời là một cuộc chiến. Sự thiện và sự ác đấu tranh nơi con, giành giật từng tư tưởng, từng lời nói và từng việc làm của con. Chúa dạy con nghĩ điều thiện, nói những lời tốt đẹp và làm việc lành. Chúa ban ơn để đời con sinh ra hoa trái thánh thiện. Chúa động viên con và hé mở cho con thấy phần thưởng thiêng liêng nếu con biết sống theo Thánh Ý Chúa.
Xin Chúa đừng để con chạy theo lợi lộc, danh vọng, sắc dục, hận thù, để rồi gây ra tội ác. Xin Chúa chớ để con sa chước cám dỗ. Amen.
Ghi nhớ: “Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu”.
Bà Eva sinh được hai con trai, là Cain và Aben. Lớn lên, Cain làm nghề trồng trọt, còn Aben chuyên nuôi chiên cừu. Aben dâng lên Chúa những con cừu đầu lứa béo tốt. Chúa nhận của lễ của Aben, mà không nhìn đến lễ vật của Cain. Cain tức giận, sầm mặt xuống...
Thấy vậy, Chúa hỏi ông: “Sao ngươi tức giận? Nếu ngươi làm điều tốt việc phải, sao chẳng ngửa mặt lên?”...
Cain đã chẳng biết nhận lỗi, đã chẳng nghe Lời Chúa dạy mà sửa mình, lại còn thêm tức giận, ghen ghét Aben và giết hại em, lại chối và dối gạt Thiên Chúa là không biết em đâu khi Chúa hỏi: “Em ngươi đâu?”.
Cain bị phạt phải lang thang lưu lạc trên mặt đất, cực khổ cày cấy, nhưng đất sẽ chẳng sinh hoa màu, phải đói khổ...
Suy niệm
Chúa Giêsu với lời giảng uy quyền và làm được những việc vĩ đại như chữa lành bệnh, cho kẻ chết sống lại... nên danh tiếng Ngài lừng lẫy khắp nơi, vang đến tai vua Hêrôđê. Ông cho rằng Ðức Giêsu là Gioan Tẩy giả mà ông đã giết chết nay sống lại. Ông nghĩ thế vì bị lương tâm cắn rứt khiến ông sống bất an...
Thật thế, Gioan, vị ngôn sứ bộc trực, thẳng thắn thi hành sứ vụ lên tiếng phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu và đối mặt với cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa: Ông đã ngăn cản vua Hêrôđê cướp vợ của anh trai vua khi người anh trai này vẫn còn sống, chính vì thế mà ông bị tống ngục và Hêrôđia, người tình của vua đã tìm cách ám hại ông (Mc 6,17-29). Chính vì ích kỷ, tự ái, ghen ghét... Hêrôđia tìm dịp ám hại Gioan Tẩy giả và Hêrôđê đã thực hiện điều ấy.
Người quân tử Gioan chính trực không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, chỉ luôn biết sống trung tín và loan báo những gì Thiên Chúa muốn ông nói và làm, ngay cả khi phải trả giá bằng cái chết.
Gioan minh chứng cho sự trung thực, thẳng thắn, là triều thiên tử đạo đổ máu đào cản ngăn những điều bất nghĩa bất nhân.
Gioan luôn mãi là tấm gương cho chúng ta học tập và noi theo. Ông không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả hy sinh cuộc sống.
Ý lực sống:
« Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Ga 15,18-19)
1. Vua Hêrôđê nghe danh Chúa Giêsu thì tưởng là Gioan Tẩy Giả đã chết mà nay đã sống lại. Chính Gioan là người trước kia đã cấm không cho vua cướp vợ của anh là Hêrôđia. Bà này bực tức nên xúi giục nhà vua tống Gioan vào ngục... Và ngày nọ nhân dịp nhà vua ăn tiệc mừng ngày sinh nhật, con gái bà ta nhảy múa làm cho nhà vua vui thích, nên vua hứa ban cho nó bất cứ điều gì nó muốn. Nghe tin đó, bà Hêrôđia muốn trả thù, nên xúi nó xin cái đầu của Gioan. Nhà vua nghe lời xin đó rất lấy làm buồn, vì ông kính nể Gioan, nhưng đã trót hứa nên phải sai người đi chém đầu ông mà giao cho con bé.
2. Ông vua Hêrôđê này là người có tính thích của lạ và khoái nghe hùng biện. Vì thế, ông nghe đồn Gioan giảng dạy rất hay, nên ông cho mời Gioan đến thuyết trình trong triều, nhưng không phải để nghe diễn thuyết về chân lý mà là để thưởng thức tài hùng biện của Gioan. Thánh Gioan liền chộp lấy cơ hội này để thức tỉnh lương tâm tội lỗi của Hêrôđê và Hêrôđia. Ngài kịch liệt khuyến cáo nhà vua không được phép cưới vợ của anh mình, Hêrôđê giật mình và phản công bằng cách ra lệnh tống giam Gioan vào ngục. Phần Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở hành động sai trái của bà, nên bà tìm mọi cách để giết được Gioan mới thôi (Phạm Văn Phượng).
3. Một ông vua Hêrôđê ham mê tửu sắc lại muốn giữ thể diện vì đã lỡ thề với cô gái trước mặt bá quan văn võ, một bà Hêrôđia lăng loàn đem lòng oán hận đối với người đã lên tiếng tố giác mối quan hệ bất chính của bà, những người này ngoan ngoãn vâng theo sự thúc đẩy đen tối của Satan mà dấn bước không chút đắn đo vào hành vi tội lỗi. Còn Gioan thực thi sứ mệnh Thiên Chúa trao ban, dọn đường cho Đấng Messia, dám một mình bênh vực lẽ phải, không khuất phục trước bạo quyền, ông mạnh mẽ lên án nhà vua: ngài không được phép lấy vợ của anh mình. Gioan đã sống và chết cho sứ mệnh. Ông làm tròn bổn phận Thiên Chúa giao phó (5 phút Lời Chúa).
4. Phải biết nghe tiếng nói của lương tâm, vì lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa. Bao lâu lương tâm chưa được thanh thản, con người sẽ chưa có bình an thực sự.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ vụ ông Nguyễn Thanh Chấn (ở tỉnh Bắc Giang) bị kết án oan ở tù 10 năm (từ tháng 8/2003 đến tháng 11/2013). Vụ án đi vào ngõ cụt khi công an bức cung dùng nhục hình ép buộc ông Chấn nhận tội giết chị Nguyễn Thị Hoan để cướp của. Thế rồi sau 10 năm, anh Lý Nguyên Chung đã ra đầu thú chính anh mới là thủ phạm giết người. Lý Nguyên Chung sau khi trốn vào Gia Lai, đã thay tên đổi họ và không còn ai biết gì về anh nữa, nhưng rồi bỗng dưng anh lại về đầu thú, chỉ vì lý do 10 năm trời anh không khi nào ăn ngon ngủ yên vì tội lỗi của mình ám ảnh. Thật đúng như dân gian có câu:
Hổ giết người hổ lăn ra ngủ
Người giết người thức đủ năm canh.
Cũng thế, vua Hêrôđê vì một chút sĩ diện và ham mê nhục dục đã ra tay giết hại thánh Gioan Tẩy Giả. Bây giờ khi nghe dân chúng đồn đoán Gioan đã sống lại nơi Đức Giêsu thì ông đã phân vân lo lắng vì hành động của mình.
5. Giáo hội tiếp tục sứ mệnh của các tiên tri, Giáo hội phải trở thành tiếng nói của Chúa Kitô. Như Gioan Tẩy giả đã dùng cái chết của mình để dọn đường cho Chúa, người Kitô hữu cũng có sứ mệnh làm chứng cho Chúa Kitô. Trong những dòng cuối cùng của thông điệp Hòa Bình dưới thế, Đức Gioan XXIII đã nói: “Mỗi Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao băng chiếu sáng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa anh em mình, và người Kitô hữu càng đóng trọn vai trò ấy khi càng sống kết hợp với Chúa”.
6. Truyện: Gương can đảm tuyệt vời.
Năm 1028, khi thấy mình gần đất xa trời, vua Constantin IX ở Rôma đã cho mời nhà quí tộc Romanus đến. Vua muốn cùng một lúc vừa truyền ngôi, vừa gả công chúa Theodora cho ông.
Nhưng Romanus tâu vua, mình hết lòng cảm ơn lòng thương của vua, song ông đã có vợ.
Không đếm xỉa gì đến lời tâu, vua truyền cho ông, nếu không lấy con vua thì sẽ bị khoét hai con mắt, muốn chọn đằng nào thì chọn. Rồi nhà vua cho ông một ngày để suy nghĩ.
Sau một ngày, ông Romanus vào chầu. Hoàng đế cho gọi công chúa đến, một công chúa tài sắc vẹn toàn. Nhưng Romanus can đảm tâu vua:
- Dây hôn phối ràng buộc hạ thần với vợ do Thiên Chúa ràng buộc. Thế gian không ai có quyền tháo cởi.
Vua ra sức ép nhưng vô ích.
Ông Romanus cam lòng chịu khoét mắt hơn là lỗi lề luật Thiên Chúa.
Đó là một con người đã hướng sự can đảm của mình vào những mục tiêu thật chính đáng.
Qua chuyện này ta biết được đôi điều về Gioan và Hêrôđê.
1. Gioan Tẩy giả:
Một ngôn sứ trung thành với sứ mạng.
Một con người can đảm dám nói thật.
Con người ngôn sứ đó được dân chúng kính nể, kể cả giết Ngài cũng phải nể sợ Ngài.
2. Hêrôđê:
Một con người dám làm tất cả tội lỗi để thoả mãn những ước muốn xấu của mình.
Nhưng trong thâm tâm, con người này có nhiều nỗi sợ: sợ lương tâm (nên tưởng Chúa Giêsu là Gioan sống lại), sợ dư luận, và sợ vợ.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Cả hai nhân vật Gioan và Hêrôđê đều can đảm nhưng mỗi người có một cách khác nhau: Gioan can đảm làm điều tốt cho dù phải hy sinh tính mạng. Hêrôđê can đảm dám phạm bất cứ tội lỗi nào.
Không riêng gì tính can đảm, mà nhiều khả năng khác của con người (như trí thông minh, sức mạnh…) Phải được định hướng cho đúng mới tốt được. Kẻ càng can đảm, thông minh và mạnh khỏe mà sử dụng những khả năng đó để làm điều xấu thì tai hại càng lớn.
Cám ơn Chúa đã ban cho con những khả năng. Nhưng xin dạy con biết dùng chúng cho đúng hướng.
2. Xét đến tâm trạng thì Hêrôđê tuy là vua nhưng lòng luôn áy náy lo âu, còn Gioan tuy là một tử tội nhưng lúc nào lòng cũng thanh thản. Vì Gioan làm đúng lương tâm còn Hêrôđê làm trái lương tâm.
3. Khi thấy hai con trai của mình đã lớn, người cha bảo chúng đi học nghề để tự lực cách sinh. Ba cha con thu xếp rồi lên đường đến một ngôi làng nọ. Người anh chọn nghề thợ rèn rồi vui sống với nghề nghiệp của mình. Người cha và đứa em tiếp tục đi đến một ngôi làng khác. Một hôm, hai cha con đi ngang một cánh đồng và thấy một con bò đang gặm cỏ, người chăn ở đâu không thấy mà làng mạc thì xa. Đứa con nói với cha: “Con thích làm nghề ăn trộm vì công việc nhẹ nhàng mà thu hoạch lại lớn”. Người cha nhăn mặt nhưng vẫn gật đầu nói “Con hãy đợi cha ở ven rừng. Cha cần vào làng có công việc”.
Người cha vừa đi khuất thì người con đã vội lùa đàn bò về nhà trọ. Khi người cha về đến nhà hai cha con bắt tay vào việc làm thịt bò. Nhưng trước khi thưởng thức món thịt bò, người cha nói: “Ta hãy đoán xem ai trong chúng ta sẽ béo lên vì thịt bò này”.
Hai cha con phải mất nhiều ngày mới ăn hết thịt bò, Trong khi người cha cứ ăn thì người con cứ đứng lên ngồi xuống không yên, chốc chốc anh lại ra ngoài xem có ai theo dõi mình không. Sau một tuần lễ, hai cha con kiểm tra xem ai béo hơn ai. Quả thật, người cha đã lên cân thấy rõ, còn người con ngày một gầy thêm. Lúc bấy giờ người cha mới giải thích: ”Con biết không, thịt bò con ăn là thịt bò ăn trộm, còn thịt bò cha ăn là thịt bò cha đã bỏ tiền ra mua hẳn hoi. Trong khi con ở ven rừng nhìn ngắm con bò thì cha đã vào làng thương lượng với chủ bò để mua nó. Con thấy chưa, của ăn trộm chẳng bao giờ để ta ăn ngon ngủ yên được”. (Trích: “Chờ đợi Chúa”).
4. Bất kỳ ai trong chúng ta cũng được Thiên Chúa ban cho đặc ân cao quý là có quyền tự do lựa chọn. Chúng ta được quyền chọn bất cứ điều gì, hành động thế nào, cư xử ra sao như chúng ta muốn. Nhưng chúng ta đừng quên phải sử dụng quyền đó như thế nào. Vua Hêrôđê đã cho mình quyền “tự do” của một ông vua, nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết. Nhưng đâu biết rằng chính lúc ông thực hiện quyền tự do ấy cũng là chính lúc ông bị ràng buộc bởi một sức mạnh khác; đó là lời thề và danh dự của ông trước mặt các khách dự tiệc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết sử dụng quyền tự do mà Ngài đã ban tặng cho con trong ánh sang của Lời Ngài. (Hosanna).
1. Cả hai nhân vật Gioan và Hêrôđê đều can đảm nhưng mỗi người hướng về những mục đích khác nhau: Gioan can đảm làm điều tốt cho dù phải hy sinh tính mạng. Hêrôđê can đảm dám phạm bất cứ tội lỗi nào.
Không riêng gì tính can đảm, mà nhiều khả năng khác của con người (như trí thông minh, sức mạnh, quyền lực…) cũng phải được định hướng cho đúng mới tốt được.
Cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta những khả năng, quyền lực v.v… Nhưng xin dạy chúng ta biết sử dụng chúng cho đúng hướng.
Năm 1028, khi thấy mình gần đất xa trời, vua Constantin IX ở Rôma cho mời nhà quí tộc Rômanus đến. Vua muốn cùng một lúc vừa truyền ngôi, vừa gả công chúa Theodora cho ông.
Nhưng Rômanus tâu vua, mình hết lòng cám ơn lòng thương của vua, song ông đã có vợ.
Không đếm xỉa gì đến lời tâu, vua truyền cho ông, nếu không lấy con vua thì sẽ bị khoét hai con mắt, muốn chọn đàng nào thì chọn. Rồi nhà vua cho ông một ngày để suy nghĩ.
Sau một ngày, ông Rômanus vào chầu. Hoàng đế cho gọi công chúa đến, một công chúa tài sắc vẹn toàn. Nhưng Rômanus can đảm tâu vua:
- Dây hôn phối ràng buộc khanh với vợ do Thiên Chúa ràng buộc. Thế gian không ai có quyền tháo cởi.
Vua ra sức nài ép song vô ích.
Ông Rômanus cam lòng chịu khoét mắt hơn là lỗi lề luật Thiên Chúa.
Đó là một con người đã hướng sự can đảm của mình vào những mục tiêu thật chính đáng.
2. “Vua muốn giết ông Gioan, nhưng sợ đám đông vì họ coi ông là ngôn sứ” (Mt 14,5).
Bất kỳ ai trong chúng ta cũng được Thiên Chúa ban cho đặc ân cao quý là có quyền tự do lựa chọn. Chúng ta được quyền chọn bất cứ điều gì, hành động ra sao, cư xử như thế nào. Nhưng chúng ta đừng quên cách chúng ta phải sử dụng quyền đó cho chính đáng. Vua Hêrôđê đã cho mình quyền “tự do” của một ông vua, nghĩa là muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết. Nhưng đâu biết rằng, chính lúc ông thực hiện quyền tự do ấy cũng là chính lúc ông bị ràng buộc bởi một sức mạnh khác. Đó là lời thề và danh dự của ông trước mặt các khách dự tiệc. Ngược lại, Gioan đã sử dụng những khả năng Chúa ban cho mình để bênh vực cho lẽ phải. Cho nên dù có bị giam cầm và bị chặt đầu nhưng lòng ông cũng thanh thản vì ông làm đúng lương tâm.
Tờ New York Times ngày 17.3.1994 có đăng câu chuyện có thật của một phạm nhân:
Ông Ricardo Caputo, một tội phạm nghiêm trọng của tòa án liên bang đã giết chết bốn người vợ trong thời gian 20 năm. Bằng nhiều thủ đoạn khéo léo, ông đã trốn thoát khỏi mọi mạng lưới pháp luật bao vây lùng bắt của tòa án liên bang. Tuy nhiên, sau 20 năm, ông ta đã tự ra đầu thú tại một sở cảnh sát ở Mineola, New York bởi vì lương tâm ông cắn rứt không còn chịu nổi. Khi ra đầu thú, ông cho biết, ông thà bị giam cầm trong ngục còn sướng hơn bị lương tâm cắn rứt và tội lỗi dày vò.
3. Chúng ta đừng coi thường tiếng nói của lương tâm vì đó là tiếng nói của Chúa.
Trong cuốn sách có tựa đề là “Chờ đợi Chúa” người ta đọc được câu chuyện này: Một người cha kia có hai người con. Khi thấy hai con trai của mình đã lớn, người cha bảo chúng đi học nghề để tự lực cánh sinh. Ba cha con thu xép rồi lên đường đến một ngôi làng nọ. Người anh chọn nghề thợ rèn rồi vui sống với nghề nghiệp của mình. Người cha và đứa em tiếp tục đi đến một ngôi làng khác. Một hôm, hai cha con đi ngang một cánh đồng, thấy một con bò đang gặm cỏ, người chăn ở đâu không thấy mà làng mạc thì xa. Đứa con nói với cha:
- Con thích làm nghề ăn trộm vì công việc nhẹ nhàng mà thu hoạch lại lớn.
Người cha nhăn mặt nhưng vẫn gật đầu nói:
- Con hãy đợi cha ở ven rừng. Cha cần vào làng có công việc.
Người cha vừa đi khuất thì người con đã vội lùa con bò về nhà trọ. Khi người cha về đến nhà, thì hai cha con bắt tay vào việc làm thịt bò. Nhưng trước khi thưởng thức món thịt bò, người cha nói:
- Ta hãy đoán xem ai trong chúng ta sẽ béo lên vì thịt bò này.
Hai cha con phải mất nhiều ngày mới ăn hết thịt bò. Trong khi người cha ăn thì người con cứ đứng lên ngồi xuống không yên, chốc chốc anh lại ra ngoài xem có ai theo dõi mình không. Sau một tuần lễ, hai cha con kiểm tra xem ai béo hơn ai. Quả thật, người cha đã lên cân thấy rõ, còn người con ngày một gầy thêm. Lúc bấy giờ người cha mới giải thích:
- Con biết không, thịt bò con ăn là thịt bò ăn trộm, còn thịt bò cha ăn là thịt bò cha đã bỏ tiền ra mua. Trong khi con ở ven rừng nhìn ngắm con bò thì cha đã vào làng thương lượng với chủ bò để mua nó. Con thấy chưa, của ăn trộm chẳng bao giờ để ta ăn ngon ngủ yên được. ---------------------------------------