Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ. Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy". Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Tin về cái chết của Gioan Tẩy giả là một nhắc nhở cho Đức Giêsu về số phận tương tự của một ngôn sứ đang chờ đợi Ngài. Đức Giêsu cùng với môn đệ rút lui khỏi đó, đi thuyền đến một chỗ vắng. Ngài không muốn đối đầu với kẻ thù khi giờ của Ngài chưa đến. Nhưng lạ thay chỗ vắng này lại bất ngờ biến thành chỗ đông người, khi người ta kéo nhau đi bộ mà đến trước nơi Ngài sắp đến. Ra khỏi thuyền, Ngài đã thấy họ ở đó rồi. Chắc họ vui vì họ đi bộ mà nhanh hơn người chèo thuyền! Còn Đức Giêsu thấy họ thì chạnh lòng thương, dù kế hoạch đi lánh mặt ở chỗ vắng của Ngài bị vỡ (c. 14).
Khi môn đệ xin Thầy giải tán đám đông, để họ đi mua thức ăn cho đỡ đói, Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn.”(c. 16). Hẳn là họ đã hết sức bối rối trước mệnh lệnh khó hiểu này. Làm sao chuyện đó xảy ra được? Làm sao nuôi được đám đông ngần này người ở nơi hoang vắng? Tất cả những gì họ có trong tay chỉ là năm cái bánh và hai con cá (c. 17). Nhưng những điều đó thì thấm vào đâu! Họ thất vọng, chán nản, khi thấy sứ mạng thì lớn, mà khả năng lại bé nhỏ. “Đem lại đây cho Thầy!” (c. 18). Thầy Giê su bảo môn đệ đem đến cho mình tất cả bánh và cá họ có. Vấn đề không phải là ít hay nhiều, nhưng là tất cả. Ngài cần đóng góp nhỏ bé của chúng ta để làm những điều lớn lao. Hãy đem lại cho Ngài tất cả bánh và cá của đời ta: một chút thời giờ, một chút khả năng, một chút thiện chí. Rồi để mặc Ngài định liệu. Cảnh tượng thật đẹp trong mùa xuân có bãi cỏ xanh mướt. Dân chúng ngồi trên cỏ thành từng nhóm nhỏ. Bánh và cá được trao từ tay các môn đệ đến tay Đức Giêsu. Từ tay Đức Giêsu dâng lên Cha Ngài trên trời với lời tạ ơn chúc tụng. Rồi từ tay Đức Giêsu trở lại tay các môn đệ, từ tay các môn đệ đến tay đám đông dân chúng (c. 19), và dân chúng hẳn đã bẻ ra chia sẻ cho nhau. Phép lạ bánh hóa nhiều diễn ra thật mầu nhiệm. Đức Giêsu đã không làm nên một núi bánh để các môn đệ đến lấy mà phát. Dường như bánh đã hóa nhiều khi được bẻ ra và trao đi từ tay nọ đến tay kia. Đức Giêsu đã phải bẻ năm cái bánh cho mười hai môn đệ. Các môn đệ cũng phải bẻ ra để trao cho đám đông. Nếu họ cứ giữ cho mình thì năm cái bánh sẽ mãi chỉ là năm cái bánh. Bẻ ra và trao đi không làm người ta trở nên nghèo, nhưng trở nên dư dật. Nếu bạn dám trao hết cho Ngài mọi sự bạn có, thì thế giới sẽ được no đủ. Phép lạ bánh hóa nhiều mãi mãi xảy ra khi ta chia sẻ qua tay Giêsu. Hôm nay Thầy Giêsu vẫn mời chúng ta: Các con hãy cho họ ăn. Cầu nguyện:
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ. Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải. Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người. Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người, xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.” Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại. ------------------------------------------
Thiên Chúa yêu thương săn sóc như người mẹ hiền. Không chịu nổi khi thấy con cái đau khổ thiếu thốn. Đã nghe thấy tiếng than thở của Ít-ra-en sống kiếp nô lệ lầm than. Đã ra tay giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Khi vào sa mạc không có bánh ăn, họ kêu than trách móc. Chúa đã ban man-na nuôi họ. Ăn man-na mãi cũng chán, thiếu thịt, họ lại kêu than oán trách. Mô-sê vừa thương vừa sợ. Chạy đến kêu cầu Chúa. “Sao Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? …Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: ‘Hãy bồng nó vào lòng, nhu vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hữa với cha ông chúng? Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn”. Mô-sê, tôi tớ của Chúa cũng có tấm lòng của Chúa. Yêu thương dân. Nên không chịu nổi tiếng kêu than của dân. Và Chúa chạnh lòng thương ban chim cút cho họ ăn dư thừa (năm lẻ).
Đến thời sau hết, chính Thiên Chúa đích thân đến chăm sóc dân Người. Hôm nay Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng yêu thương chăm sóc cho dân như người mẹ hiền. Chúa chạnh lòng thương vì thấy họ lầm than khốn khổ. Chúa dạy các tông đồ phải lo cho họ ăn. Đừng để họ đói khát đi về đường xa trời tối. Bánh của Chúa ban khiến họ không những ăn no nê. Mà còn hạnh phúc. Vì cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. Và hơn nữa Chúa còn chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Giải thoát họ khỏi nô lệ trong cõi u mê không lối thoát. Chúa chính là tấm bánh làm no thoả mọi cơn đói khát của con người. Với quyền năng và tình thương Chúa biến những tấm bánh bé nhỏ thành lớn lao nuôi cả vạn người. Chúa biến nỗi khổ thành niềm vui. Chúa biến thất vọng thành hi vọng. Chúa biến nô lệ thành tự do. Chúa biến lầm than thành hạnh phúc.
Có những tiên tri giả đem tấm bánh giả dối đến cho dân. Tấm bánh vẽ với những lời hứa hão huyền, dễ dãi. Như Kha-nan-gia. Ông không làm theo lời Chúa. Ông đưa dân vào con đường lầm lạc. Nên chính ông phải chết trước (năm chẵn). Tấm bánh của Chúa là tấm bánh thật. Tấm bánh ban không dễ dàng. Vì chính Chúa phải từ trời xuống. Phải chịu biết bao vất vả. Phải chịu cả khổ hình và cái chết. Mới có thể ban tấm bánh hạnh phúc đích thực thoả mãn mọi cơn đói khát của ta. Mô-sê và Giê-rê-mi-a cũng là những môn đệ đích thực. Nên phải đau khổ, vất vả, yêu thương phục vụ dân Chúa.
Xin cho con biết phân biệt bánh thật và bánh vẽ. Xin cho con trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Phục vụ bằng tình yêu và hi sinh. Để đem tấm bánh của Chúa cho nhân loại.
Truyện kể một người đàn bà nghèo về vật chất, nhưng lại giầu về lòng tin. Người chủ căn phòng, nơi bà thuê là một người đàn ông giàu có, nhưng keo kiệt và vô đạo; ông thường đem lòng tin của người đàn bà ra làm trò cười.
Một hôm, người đàn bà cầu nguyện lớn tiếng với Chúa rằng hiện trong nhà không còn lấy một hột gạo. Ðể cho người đàn bà một bài học về sự mê tín dị đoan, kẻ vô đạo liền lấy một ổ bánh mì, rón rén đặt trước cửa phòng người đàn bà, bấm chuông rồi chạy vội về phòng mình.
Người đàn bà mở cửa phòng lấy ổ bánh mì, trở lại phòng và cầu nguyện: "Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con biết rằng lúc nào Chúa cũng nhậm lời con".
Người đàn ông rất tâm đắc khi nghe một lời cầu nguyện như thế. Ông đến gõ cửa phòng người đàn bà và nói vọng vào: "Hỡi người đàn bà ngu xuẩn, bà tưởng rằng Chúa đã nhậm lời cầu xin của bà ư? Chính tôi là người đã mang ổ bánh đặt trước cửa phòng bà đó".
Làm như thể không để ý đến lời nói của người đàn ông, người đàn bà nghèo lại tiếp tục cầu nguyện: "Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, vì Chúa luôn trợ giúp con trong lúc túng ngặt: Chúa dùng ngay cả một tên quỷ để đáp lại lời cầu xin của con".
*****
Trong Tin Mừng hôm nay, khi các môn đệ xin Chúa giải tán dân chúng về các làng mạc để họ tự mua thức ăn, Ngài đã truyền lệnh cho họ: "Các con hãy liệu cho họ ăn". Rồi với năm chiếc bánh và hai con cá do các môn đệ mang đến, Ngài đã nuôi trên 5,000 người được ăn no nê mà còn dư 12 thúng bánh vụn.
Ngày nay, các đám đông đói ăn ấy được nhân lên đến cả triệu lần, họ không chỉ đói, mà còn chết đói nữa là khác. Ðã và đang có biết bao người làm những việc hy sinh để nuôi sống đám đông ấy, nhưng vấn đề quá lớn lao đối với những giới hạn của con người. Dĩ nhiên, con người phải làm hết sức có thể để giúp đỡ đồng loại, nhưng với sức riêng, con người không thể giải quyết được vấn đề quá lớn lao ấy, họ cần có sự trợ lực từ bên trên. Thật thế, chúng ta cần phải có những việc làm cụ thể, vì "đức tin không có việc làm là đức tin chết". Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể mang lại cơm bánh cho người đói khát, khi chúng ta cũng trao ban cho họ lời cầu nguyện của chúng ta. Tự sức mình, với năm chiếc bánh và hai con cá, các môn đệ không thể nuôi sống trên 5,000 người; thế nhưng, xem chừng Chúa Giêsu không thể làm phép lạ, nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá ấy.
Người Kitô hữu chúng ta không chỉ làm công tác xã hội. Năm chiếc bánh và hai con cá do đóng góp và san sẻ của chúng ta cần phải đi đôi với niềm tin và lời cầu nguyện. Với niềm tin và lời cầu nguyện, chúng ta hãy xác tín rằng cách nào đó, Chúa hằng nhậm lời chúng ta và chắc chắn phép lạ luôn diễn ra. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày".
Ước gì những cố gắng chia sẻ và trao ban của chúng ta luôn được thực thi bằng tất cả niềm tin và lời cầu nguyện. Ước gì niềm tin và lời cầu nguyện của chúng ta cũng được thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể của chúng ta.
Tin Mừng hôm nay nói đến việc Chúa Giêsu thực hiện phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi sống dân chúng đang theo Ngài: "Các con hãy cho họ ăn", đó là những lời phát xuất từ tình yêu thương của Thiên Chúa.
Thật vậy, trước thách thức phải là một cái gì đó để giúp những anh em lâm cảnh khốn khó cần được trợ giúp, các tông đồ đã tỏ ra muốn thoái thác. Họ lý luận dựa trên bình diện tự nhiên: trời đã tối và trong nơi hoang vắng này tìm đâu ra của ăn cho một số đông dân chúng như vậy, do đó cần phải giải tán dân chúng để họ tự tìm kiếm lương thực nơi các vùng lân cận.
Tuy nhiên, với Chúa Giêsu, lý luận tự nhiên này xem ra không còn được chấp nhận nữa. Chúa ra lệnh cho các tông đồ: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính các con hãy liệu cho họ ăn". Chúa không để cho các tông đồ phải tự sức mình mà lo, Ngài chỉ cần các ông cộng tác và đóng góp những gì có thể, dù chỉ là một phần nhỏ so với nhu cầu bao la. Chỉ năm chiếc bánh với hai con cá, Chúa đã thực hiện phép lạ nuôi sống năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em.
Ngày hôm nay, người tín hữu Kitô cũng đang đứng trước nhu cầu bao la của biết bao người đang cần được trợ giúp, và người Kitô hữu không được tránh né bổn phận liên đới với những gì có thể. Trước khi khám phá và đóng góp phần nhỏ bé của mình, chúng ta cần phải thay đổi chính tâm tư của mình và để cho tâm hồn mình tràn đầy tình yêu của Chúa, hầu có thể dấn thân sống theo Chúa một cách thiết thực hơn.
Xin Chúa cho chúng ta biết quảng đại chia sẻ với người khác, dù chỉ là một phần nhỏ. Xin cho chúng ta trở thành phương tiện hữu hiệu chuyển thông tình yêu Chúa cho những người chung quanh.
Chiều đến các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” Đức Giêsu bảo họ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn có năm chiếc bánh và hai con cá!” Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!” (Mt. 14, 15-18)
Phép lạ này hé mở cho thấy bữa tiệc ly chiều thứ năm tuần thánh.
Những phép lạ hóa bánh ra nhiều còn loan báo một sứ điệp cũng không kém quan trọng cho mỗi người chúng ta, người công giáo cũng như mọi người Kitô là “Hãy cho họ ăn”
Hãy cho họ ăn!
Đức Giêsu không nói để họ tự lo, tự túc. Người không hỏi họ có gì để mua của ăn. Người không nói phải lựa lọc ra! Ai là kẻ lắng tai nghe Chúa, ai không, ai giầu ai nghèo, ai trẻ ai già, đàn ông, đàn bà, ai thông thái, ai có đức tin, ai nô lệ ai tự do, ai ngu đần, chỉ theo Chúa vì tò mò, vì chế diễu. Đức Giêsu không đặt vấn đề phân biệt. Người truyền cho đám đông ngồi xuống trên cỏ và họ được Thiên Chúa cho ăn no nê. Nhờ kẻ đã đưa cho Người chút ít, chỉ chút xíu thôi dâng cho Người, đủ cho Người tạ ơn Chúa Cha để làm phép lạ bánh ra nhiều cho đám đông hưởng dùng dư dật.
Họ được ăn no nê.
Điều đáng ngạc nhiên bánh hóa nhiều cho đám đông, rất đông đã tụ họp lại chỉ trong một vài giờ, đã trở thành một cộng đồng lớn rất ổn định để dự bữa ăn này. Họ không còn cần gì nữa, các môn đệ đã cung cấp tất cả: tất cả! Tôi nghĩ đến những tổ chức bác ái giúp người nghèo, giúp các nơi truyền giáo. Những tổ chức đó cần chúng ta đóng góp, nhưng chẳng đủ cho tất cả! công việc tông đồ bớt đi, mất mát dần mòn vì còn thiếu quá nhiều!
Quả thật, Đức Giêsu là trung tâm, là nguồn mọi ơn phúc, Người ban Lời và bánh. Rồi đến đoàn môn đệ nhỏ bé sống quanh Người, các vị đó đã cho dân chúng tất cả mọi sự vì hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa, các vị rất giống Đức Kitô, đã thông ban ơn Chúa cho tất cả. Các vị là những kẻ nối dài cánh tay của Chúa.
Được dư đầy.
Sống gần Thiên Chúa được hưởng phong phú dồi dào lòng thương xót. Chính trong Ngài tất cả những kẻ đói khát được no đầy, chớ gì sự tưởng nhớ quê trời làm thỏa mãn tràn trề lòng chúng ta.
Xem lại CN 18 TN A, CN 18 TN B, // Lễ Mình Máu Thánh năm C và thứ Sáu tuần 2 PS và thứ Hai tuần 18 TN.
Khi đọc chuyện các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy có những cuộc truy lùng của vua chúa quan quyền rất gắt gao thời bấy giờ. Khi hay tin, các ngài thường lẩn trốn để tránh cơn nguy biến ập đến cho mình và đoàn chiên. Sự tránh né đó không phải do nhát đảm, cũng không phải sợ chết, nhưng đây là cách khôn ngoan vì ích lợi của con chiên.
Hôm nay, đoạn Tin Mừng khởi đầu bằng việc thông báo cho biết rằng: sau khi Đức Giêsu nghe tin Gioan bị bắt, Ngài đã lẩn trốn vào nơi hoang vắng để tránh sự ra tay tàn ác của vị vua này. Bởi lẽ Ngài thừa hiểu số phận của Gioan thì cũng là số phận của chính Ngài. Nhưng giờ của Đức Giêsu chưa đến, nên Ngài đã tiến vào hoang mạc..., tìm nơi thanh vắng, một mặt để thoát nạn, mặt khác để thầy trò tâm tình sau những ngày vất vả ngược xuôi vì sứ vụ.
Tuy nhiên, vì đám đông rất cảm phục những lời khôn ngoan, nên đã tìm đến để nghe Ngài giảng dạy. Họ nghe đến say mê, nghe đến nỗi quên ăn, nên khi chiều đến, ai nấy đều đói. Vì thế, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, nên không những nuôi dưỡng họ bằng Lời Hằng Sống, mà còn nuôi họ về mặt phần xác khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và yêu thương chữa lành bệnh tật cho họ.
Tuy nhiên, để phép lạ được thành hiện thực, Đức Giêsu cần sự cộng tác của người môn đệ, vì thế, Ngài đã truyền lệnh cho các ông: “Hãy mang lại đây cho thầy”; và “hãy cho họ ăn”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Trước hết, khi giờ chưa đến, thì cần khôn ngoan để tránh sự nguy hiểm do kẻ thù gây nên.
Thứ hai, hãy tin tưởng vào quyền năng tuyệt đối nơi Đức Giêsu. Bởi vì khi lòng thương xót của Ngài được đụng chạm đến chúng ta, thì mọi chuyện được dư thừa như chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá. Nhưng khi đã được Đức Giêsu can thiệp nuôi cả 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ em mà sau đó còn thu lại được 12 thúng đầy.
Thứ ba, hãy biết thương đến những người nghèo, nghèo về thể xác, nghèo về tinh thần. Luôn tìm cách chữa trị những vết thương thể xác và tâm linh cho anh chị em chúng ta. Chúa không chấp nhận việc chúng ta thương hình thức, tức là chỉ có nói, mà Ngài muốn chúng ta thương thật, tức là hành động kịp thời.
Lạy Chúa Giêsu, phép lạ hóa bánh ra nhiều đã thể hiện tình thương của Chúa dành cho nhân loại vô bờ. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết rung động trước nỗi khốn cùng của anh chị em đồng loại, để chung tay cộng góp nhằm làm cho cuộc sống của họ bớt khổ hơn. Nhưng trước hết, xin Chúa ban cho chúng con sự khôn ngoan để biết điều nên làm và điều không nên hoặc chưa nên. Amen.
Sứ điệp: Những công việc của con người tự nó không có giá trị siêu nhiên, nhưng khi cộng tác với Thiên Chúa, nó sẽ trở thành hành động cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước sự kiện Chúa làm phép lạ bánh hóa ra nhiều, con đã tự hỏi: Chúa chỉ cần phán một lời là có thể làm phép lạ, nhưng tại sao Chúa không làm thế, mà Chúa lại cần đến năm chiếc bánh và hai con cá?
Lạy Chúa, Chúa không làm như con nghĩ. Chúa cần sự cộng tác của chúng con. Chúa cần con người góp công chung sức để mưu ích cho nhau. Sự đóng góp của các môn đệ, chẳng thấm vào đâu, nhưng từ đó Chúa đã thực hiện một bữa ăn no nê cho dân chúng.
Thánh Âu-tinh đã nói: “Để tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người, nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác”.
Lạy Chúa, nhìn vào thế giới hôm nay, con tin chắc rằng Chúa cũng đang chạnh lòng thương xót nhân loại đau khổ vì đói khát, vì bệnh tật, vì dốt nát, vì chiến tranh. Chúa cũng có thể làm mọi sự để cứu độ chúng con, nhưng Chúa cần đến sự cộng tác nhỏ bé của chúng con.
Xin Chúa giúp con luôn biết mở rộng trái tim trước nhu cầu của anh chị em. Xin dạy con biết mở rộng bàn tay dâng hiến cho Chúa và cho tha nhân. Dù sự đóng góp của chúng con chẳng đáng kể là gì so với nhu cầu của thế giới, nhưng con tin Chúa đang chờ đợi đón nhận và nhân lên gấp bội. Xin Chúa dạy chúng con biết nghĩ tới nhau, biết chia sẻ cho nhau, để nhân loại khỏi bị diệt vong vì ích kỷ. Amen.
Nakamura, một thiếu nữ Nhật, 18 tuổi, gia nhập đạo Công giáo được bốn năm, từ ngày vào đạo, hầu như không ngày nào bỏ tham dự thánh lễ lúc 6g30 sáng.
Ngày 6/8/1945, Mỹ thả trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hirôshima. Cảnh tượng tàn phá thật là khủng khiếp... Đã gần hai tuần, vị linh mục phụ trách giáo điểm truyền giáo không thấy Nakamura đi lễ nên quyết định đi thăm nàng. Ngài khổ sở len lỏi mãi, mới tới được nhà Nakamura. Hỡi ôi, nhà nàng đã sụp đổ tan tành, chỉ còn cái tường cao chừng hai thước trơ trọi đứng đó... Vị thừa sai thổn thức vòng lại phía sau nhà. Trời ơi, một cái chòi thô sơ, bốn góc là bốn cái cột, chung quanh che bằng chiếu, mành, áo quần rách, trên nóc, mấy tấm tôn kẽm xiêu vẹo. Ngài bước vào trong. Ôi lạy Chúa, một cái chõng thô sơ, ọp ẹp: Nakamura nằm trên đó, áo xống tả tơi, cháy sém, hai tay hai chân co quắp như một xác chết...
Vị linh mục khựng lại, không sao nói được một lời. Sau một lát, ngài lấy can đảm gọi tên nàng. Nakamura nhúc nhích, nhưng không sao trở mình được. Nàng bị thương nặng quá, chân tay mình mẩy, chỗ nào cũng thấy sây sát. Ở đầu vai bên phải, thịt xương cháy xám lòi ra, để một lỗ hổng, có thể đút lọt bàn tay. Vị linh mục xắn áo, lau chùi, dọn dẹp rồi giúp nàng xoay mình. Nakamura mở hai mắt nhìn vị linh mục, tràn ra mấy giọt lệ, cựa quậy tay trái như muốn giơ lên chào mà không giơ lên nổi. Nàng nói thì thầm: “Cha có đưa Mình Thánh Chúa đến cho con không?”. Vị linh mục chưa kịp trả lời nàng, thì nước mắt đã trào ra. Sau ít phút trao đổi, vị linh mục được biết, đã 14 ngày qua, trừ ra cha nàng, ông cũng bị thương nặng, mỗi ngày đem cho nàng chút ít đồ ăn, nước uống, còn ngoài ra, chẳng ai lo lắng chăm sóc nàng. Vậy mà Nakamura không một lời kêu ca than thở, không kêu xin xót thương giúp đỡ. Nàng như quên hết mọi đau đớn, ê chề, chỉ nhỏ nhẹ hỏi: “Cha có đưa Mình Thánh Chúa đến cho con không?”. Vị linh mục nghẹn ngào cảm kích cực độ, nước mắt cứ thi nhau trào ra...
Ngài trở lại nhà, lấy Mình Thánh Chúa cho Nakamura rước lễ, rồi ngài nán ở lại, lau chùi, dọn dẹp thêm chút nữa túp lều của nàng... Nakamura nhỏ nhẹ nói với ngài: “… Đã bốn năm nay, con chuẩn bị vào Dòng. Con muốn tận hiến đời con cho Chúa, muốn phục vụ hết mình những người nghèo khó, bệnh tật. Hiện giờ, con thế này, không biết Chúa sẽ dẫn dắt con về đâu? Dẫu sao, ở đâu, đi về hướng nào, ra sao, Chúa là nguồn sức mạnh, là nguồn hạnh phúc, là tất cả của con...”.
Hôm sau, vị linh mục trở lại, mang theo Mình Thánh Chúa… nhưng Nakamura đã về trời với Bạn Chí Thánh Giêsu... không còn trên mặt đất khổ đau này nữa. Nakamura mới gia nhập đạo được mấy năm, hằng ngày đi lễ ban sáng và rước lễ... bị tai nạn, cửa nhà tan nát, thương tích đầy mình, đớn đau tinh thần, thể xác, mà không một lời kêu ca, ta thán. Gặp linh mục Nakamura chỉ hỏi đến Mình Thánh Chúa... Vị thừa sai xác tín: Ngoài trường “Thánh Thể” ra, không còn trường nào khác dạy được như vậy! (Theo tạp chí “Mater nostra”, Trương Vân Thục, OSB sưu tầm).
Suy niệm
Dân Chúa khao khát nước Trời, họ bỏ tất cả để được lắng nghe và như lời dạy của Đức Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Ngài đã cho họ thêm: Đã làm cho họ được no đủ, họ được thỏa lòng khao khát Lời công chính, Lời đó dẫn về nước Trời. Nước đó được bắt đầu nơi tâm hồn của người theo Chúa, bởi vì khi theo và nghe Đức Kitô giảng dạy, chính Ngài thương xót và chữa lành những người bệnh tật, Ngài làm cho họ no thỏa nhu cầu sự sống con người tại “chỗ hoang vắng” (Mt 14:13), chỗ Ngài làm bánh hóa nhiều gợi lại cho chúng ta hình ảnh sa mạc mà dân Do Thái đi trong bốn mươi năm và được nuôi bằng manna, bánh bởi Trời để dân Người được sống trong hành trình về đất hứa, nơi đó “mọi người sẽ được nuôi ăn và ăn no nê” (x. Đnl 6,11; 11,15; 31,20).
Trước sự khao khát Lời Hằng Sống mà dân Chúa đứng trước sự đói khát của nhu cầu thân xác, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “…các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Với sự lo toan của con người, các con không thể lo cho cả ngàn người, đó là sự phản ứng bất lực nơi con người trước những nhu cầu to lớn về lương thực cho năm ngàn người. Người bảo các ông: “Hãy đem lại cho Thầy”. Chúa truyền cho dân “ngả lưng trên cỏ” (Mt 14:19) có nghĩa là sửa soạn ăn, ngả lưng là tư thế để ăn, như là tư thế sẵn sàng để lãnh nhận hồng ân. “Cầm bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ”: Chúa làm hành động giống như trong bữa tiệc ly (x. Mt 26,26), và cũng để chỉ tới bữa tiệc sau này trên nước Trời (x. Mt 8,11-12; 22,1-10). Hành động trung tâm của nước Trời và mọi người đều ăn no. Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mêssia trong Kinh Thánh (x. Đnl 6,11; Tv 132,15; Is 65,10). Phép lạ bánh hóa nhiều của Chúa Giêsu gợi cho chúng ta sự việc: Tiên tri Êlisê ra lệnh cho các đầy tớ đa nghi mang hai mươi chiếc bánh nuôi cả trăm người (x. 2V 4,42-44). Các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14:13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15).
Như dân Chúa tìm về đất hứa, như những người cất bước tìm nước Thiên Chúa và nghe Lời giảng dạy, chúng ta đến với Chúa, được Ngài chăm sóc đỡ nâng, chữa lành mọi vết thương, cho đủ thỏa tất cả…
Ý lực sống
“Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê” (Tv 144,16).
1. Tìm hiểu Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu có mọi đức tính đáng ca tụng: khiêm nhường, công bình, can đảm, tế nhị... nhưng nổi bật nhất là lòng thương xót. Đức Giêsu đến trần gian để thực hiện chương trình cứu rỗi. Tình thương của Người được thể hiện bằng cách giảng dạy và cứu con người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, cũng như ban bánh nuôi sống họ.
Còn chúng ta, đối với anh em chung quanh, ta có thái độ nào? Yêu thương giúp đỡ hay lãnh đạm dửng dưng? Cách đối xử của ta đối với tha nhân sẽ là bằng chứng cho thấy chúng ta có phải là Kitô hữu đích thực hay chỉ là giả hiệu.
2. Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dầy của họ cũng phải nổi loạn khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn đang ở nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Bằng ấy thực phẩm thì nhằm nhò gì với một biển ngươi như vậy! Nhưng Chúa Giêsu cứ bảo họ ngồi xuống thảm cỏ để cho Người làm việc. Thánh Matthêu kể: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được 12 giỏ đầy”.
3. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu “chạnh lòng thương khi gần gũi dân chúng của Người”. Mặc dầu họ không phải là bà con, bạn hữu hay những người quen biết, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Người là thương, và vì thương nên Người chữa bệnh, giảng dạy và cho họ ăn. Xem như mọi người đều là đối tượng cho tình thương của Chúa.
Tại sao Chúa lại yêu thương đến thế?
Khi muốn làm cho người ta hiểu tại sao Chúa lại yêu con người như thế, thì các nhà tư tưởng của Ai cập xưa đã viết nên một câu chuyện thật đẹp như sau: Thiên Chúa xuống tận bờ sông Nilô, lấy tay nhào bùn và đắp nên hình người. Nhưng thật không may cho Chúa là khi Người thọc tay vào đất thì đúng vào một cái hang của một con cua. Tay của Người bị cua kẹp chảy máu ra. Các thiên thần sợ quá muốn băng bó cho Chúa nhưng Người không cho mà nói: “Cứ để vậy! Cứ để cho máu của Ta hòa với máu của con người để cho con người biết Ta yêu nó như thế nào”. Thiên Chúa yêu con người là vì Thiên Chúa tìm thấy sự sống của chính mình trong con người (Mỗi ngày một tin vui).
4. Chúa Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính các con hãy liệu cho họ ăn”. Chúa không để cho các Tông đồ phải tự sức mình mà lo, Ngài chỉ cần các ông cộng tác và đóng góp những gì có thể, dù chỉ là một phần nhỏ so với nhu cầu bao la. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa đã thực hiện phép lạ nuôi sống 5000 đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
5. Thánh Augustinô viết: “Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người, nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác”.
Trong sứ điệp Lời Chúa hôm nay, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ cộng tác với Người trong việc phục vụ tha nhân khi nói: “Chính anh em cho họ ăn”. Với quyền năng vô biên, Chúa Giêsu có thể tự mình làm phép lạ nuôi sống mọi người chứ không cần sự giúp đỡ của các môn đệ. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn mời gọi các ông cộng tác, để từ đó, Người dọn ra một bữa ăn no nê cho dân chúng.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ ngày xưa: “Chính anh em hãy cho họ ăn” cũng chính là lời Người mời gọi chúng ta dấn thân phục vụ trong thế giới ngày nay. Tôi có gì để cho tha nhân? Thưa, đó là tất cả những gì tôi đang có: sức khỏe, tài năng, những ơn Chúa ban... Chúa muốn tôi sử dụng những hồng ân đó để phục vụ và chăm sóc mọi người.
6. Truyện: Lời cầu xin của người đàn bà.
Truyện kể một người đàn bà nghèo về vật chất, nhưng lại giầu về lòng tin. Người chủ căn phòng, nơi bà thuê là một người đàn ông giầu có, nhưng keo kiệt và vô đạo, ông thường đem lòng tin của người đàn bà làm trò cười, đùa giỡn.
Một hôm, người đàn bà cầu nguyện lớn tiếng với Chúa rằng hiện trong nhà không còn lấy một hột gạo. Để cho người đàn bà một bài học về sự mê tín dị đoan, kẻ vô đạo liền lấy một ổ bánh mì, rón rén đặt trước cửa người đàn bà bấm chuông rồi chạy vội về phòng mình.
Người đàn bà mở cửa phòng lấy ổ bánh mì, trở lại phòng và cầu nguyện tạ ơn: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con biết rằng lúc nào Chúa cũng nhận lời con cầu xin”.
Người đàn ông rất tâm đắc khi nghe một lời cầu nguyện như thế. Ông bèn đến gõ cửa phòng người đàn bà và nói vọng vào: “Hỡi người đàn bà ngu xuẩn kia, bà tưởng rằng Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của bà ư? Chính tôi là người đã mang ổ bánh đặt trước cửa phòng bà đó”.
Làm như thể không để ý đến lời nói của ông ta, người đàn bà nghèo lại tiếp tục cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, vì Chúa luôn trợ giúp con trong lúc túng ngặt; Chúa dùng ngay cả một tên quỷ để đáp lại lời cầu xin của con”.
Tường thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều của Thánh Mat-thêu chứa nhiều ngụ ý:
1. Tấm lòng của Chúa Giêsu: “Ngài thấy dân chúng đông đảo thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ”, và sau đó còn giảng dạy cho họ và làm phép lạ cho họ có bánh ăn. Ta hãy chú ý là họ không xin, sáng kiến làm tất cả những việc đó đều xuất phát từ tấm lòng của Chúa Giêsu.
2. Mô tả Chúa Giêsu là Môsê mới nuôi dân mới bằng thứ lương thực trổi vượt hơn manna ngày xưa.
3. Tiên báo về bí tích Thánh Thể.
4. Vẽ lên hình ảnh Giáo Hội; Chúa Giêsu ở giữa, các tông đồ ở kề bên Ngài, và dân chúng ở chung quanh.
B.... nẩy mầm.
1. Rất nhiều lần Tin Mừng ghi nhận rằng khi Chúa Giêsu thấy dân chúng thì Ngài chạnh lòng thương. Tuy họ không phải là bà con, bạn hữu hay là những người quen biết với Ngài, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Ngài là thương, và vì thương nên Ngài chữa bệnh, giảng dạy và cho họ ăn. Ai cũng là đối tượng của tình thương Chúa.
Phần tôi thì khác, tôi hay phân loại người ta thành hai hạng: người thân và người dưng. Đối với người dưng thì tôi thờ ơ lãnh đạm. Xin Chúa cho con có một tấm lòng yêu thương bao la như Chúa, nhất là khi con là tông đồ của Chúa.
2. “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”: Cách giải quyết vấn đề của các tông đồ rất tự nhiên và bình thường. Tự dân chúng tìm đến đây thì tự họ phải lo thức ăn cho họ thôi. Các tông đồ đâu có trách nhiệm gì về chuyện đó. Đây là suy nghĩ tự nhiên. Nhưng Chúa Giêsu bảo “Các con hãy cho họ ăn”: đây là suy nghĩ của tình thương.
Có nhiều hoàn cảnh, người môn đệ Chúa không được làm theo suy nghĩ của tự nhiên mà phải theo suy nghĩ của tình thương.
3. “Chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá”. Khi trả lời Chúa Giêsu như thế, một đàng các tông đồ nghĩ là không thể làm gì được để giải quyết cơn đói của đám đông mấy ngàn người, và đàng khác có lẽ các ông nghĩ số lương thực ít ỏi đó nên dành cho nhóm của họ và Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu bảo “Hãy đem lại đây cho Thầy”: Ngài không muốn người ta ai ai cũng ích kỷ lo cho riêng mình. Ngài dạy phải vừa quảng đại vừa phó thác vào Ngài: hãy đưa cho Ngài để Ngài làm phép lạ giúp ích cho nhiều người.
4. Một người hồi giáo làm nghề đập đá có thói quen vào đền thờ cầu nguyện với Đức Ala. Ngày nào anh cũng thấy một con chim cú mù đứng bất động trên vách tường trước mặt và một con chim cú khác mang thức ăn đến cho nó. Cảnh tượng ấy làm cho anh suy nghĩ: “Đấng Ala quan tâm lo lắng cho cả một con chim cú mù. Còn ta, tại sao ta phải luôn luôn lo lắng về của ăn hằng ngày. Ta phải biết phó thác cuộc đời cho sự quan phòng của Đấng Ala”. Thế là anh bỏ nghề và ngày ngày đến trước của đền thờ để chờ được Đấng Ala chăm sóc như Ngài đang chăm sóc cho con chim cú mù.
Một người bạn biết chuyện, đến khuyên: “Tôi nghĩ là anh chưa hiểu được đều mà Ala muốn nói với bạn qua hình ảnh hai con chim. Ngài không hề muốn bạn trở thành con chim cú mù, nhưng hãy học lấy tấm gương chia sẻ của con chim cú lành mạnh” (Chờ đợi Chúa)
5. “Chúa Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ và theo Người.” (Mt 14,13)
Không biết từ lúc nào, tâm hồn tôi trở nên thờ ơ với việc cầu nguyện: thờ ơ vì những dễ dãi, vì sự lười biếng của chính mình. Những buổi tối đáng ra phải dành cho Chúa, tôi ngụy biện: mình mệt mỏi hay còn nhiều bài học... mà thực ra không phải lúc nào cũng vậy. Tôi mất dần sự đối thoại với Chúa vá đôi khi tôi cảm thấy Chúa nhật vời xa. Những lúc nguyện cầu (như một thói quen!) tôi vẫn để tâm đến những gì xảy ra xung quanh với cảm giác mong muốn nhanh nhập cuộc.
... Những người Do Thái khi nghe biết Chúa Giêsu đến một nơi hoang vắng, đã không quản ngại đường xa để đến với Người với cả lòng nhiệt thành. Và Chúa đã ban cho họ những điều vượt quá lòng họ mong ước. Còn tôi, đã biết phải gặp Chúa ở đâu, đã tham dự thánh lễ và đã rước cả mình thánh chúa; vậy mà tôi vẫn không nhận ra được điều quý giá này: có Chúa ở đó với ơn lành của Ngài. Phải chăng sự dễ dàng đến những “nơi gặp Chúa” khiến tôi thực sự không gặp được Người?
Lạy Chúa, xin cho con ý thức được Chúa là bánh nuôi sống con và đó là ân phúc vượt lên mọi điều con đang mong ước. Và xin cho con (trong một ý nghĩa nhỏ bé nhất) được là bánh tan hoà với anh em. (Hosanna)
1. Đọc trong Tin Mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi gần gũi với dân của Người. Mặc dầu họ không phải là bà con, bạn hữu hay là những người quen biết, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Người là thương, và vì thương nên Người chữa bệnh, giảng dạy và cho họ ăn. Xem như mọi người đều là đối tượng cho tình thương của Chúa.
Tại sao Chúa lại yêu thương đến thế?
Khi muốn làm cho người ta hiểu tại sao Chúa lại yêu con người như thế, thì các nhà tư tưởng của Ai Cập xưa đã viết nên một câu chuyện thần thoại thật đẹp như sau: Thiên Chúa xuống tận bờ sông Nilô, lấy tay nhào bùn và đắp nên hình người. Nhưng thật không may cho Chúa là khi Người thọc tay vào đất thì đúng vào một cái hang của một con cua. Tay của Người bị cua kẹp chảy máu ra. Các thiên thần sợ quá muốn băng bó cho Chúa nhưng Người không cho mà nói: “Cứ để vậy! Cứ để cho máu của Ta hòa với máu của con người để cho con người biết ta yêu nó như thế nào”. Thiên Chúa yêu con người là vì Thiên Chúa tìm thấy sự sống của chính mình trong con người.
Xin Chúa cho chúng ta có được một phần nào tấm lòng yêu thương bao la như Chúa, nhất là khi chúng ta là những tông đồ của Chúa.
2. “Xin thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn” (Mt 14,15).
Rõ ràng là các Tông đồ của Chúa lo sợ trước một thách thức không thể vượt qua được trên bình diện con người. 5.000 người đàn ông không kể đàn bà con trẻ đang gặp cảnh đói không có gì ăn vào lúc trời sắp tối, nghĩa là mọi sinh hoạt buôn bán giữa người với người dường như sắp bị đóng lại. Các ông lo sợ và nói theo khuynh hướng tự nhiên là muốn phủi tay chạy trốn trước thách thức khó khăn ấy, để rồi từ đó muốn đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng, còn muốn cả Chúa Giêsu cũng phải làm như vậy: “Xin Thầy hãy cho họ về hoặc vào làng để mua gì ăn, vì trời đã tối và họ có thể kiếm được gì ăn qua cơn đói chăng?” (Mt 14,15).
3. Chúa Giêsu không muốn như vậy. Điều Chúa muốn là “Các con hãy lo cho họ ăn” (Mt 14,16). Đó là mệnh lệnh của tình thương.
Rõ ràng là phải có một tình thương bao la kinh khủng mới dám nghĩ đến một việc làm như thế. Không thể thoái thác trách nhiệm trước những khó khăn phải đối đầu.
Khoảng nửa đêm, có một em bé tìm đến gõ cửa nhà mẹ Têrêsa. Mẹ bước xuống nhà và mở cửa cho em. Vừa khóc nức nở em vừa nói:
- Thưa mẹ, con tìm về với mẹ con và mẹ con nói: “Ta sẽ đánh mày”. Con tìm về với cha con và cha con đã đuổi con đi. Mẹ ơi! xin mẹ đừng đuổi con đi nữa nghe. Ít là mẹ, xin mẹ hãy thương con.
Mỗi ngày, ở nhiều nơi trên thế giới, những cảnh tượng giống như thế vẫn thường xảy ra và không phải chỉ xảy ra ở những nước nghèo đói như Ấn Độ, mà còn xảy ra ngay cả ở những nước giàu có và tiên tiến. Những đứa trẻ đang khao khát được yêu thương và được chăm sóc. Đây chính là sự nghèo đói sâu xa nhất!
Mẹ Têrêsa đã từng đón nhận hơn 40 ngàn người bị bỏ rơi như vậy ở các ngả đường thành phố Calcutta. Mẹ mang họ về các viện mồ côi, các trung tâm cấp cứu và ở đó, họ đã chết cách bình an dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thiên Chúa và với niềm xác tín là được Chúa yêu thương, một tình thương được cụ thể hóa qua tình thương của Mẹ Têrêsa và các nữ tử Bác ái của mẹ. Mẹ và các chị chưa từng thấy ai trong số những người nghèo bị bỏ rơi ấy từ chối tình thương của Chúa. Trong những giây phút cuối đời, tất cả họ đều đã nói: “Lạy Chúa, con yêu Chúa, và con tin Chúa rất yêu thương con”.
Để kết thúc tôi xin được gửi đến anh chị em một bài thơ được treo tại Đan viện các nữ tu dòng thánh Clara nước Brasil. Bài thơ như sau:
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống, nhưng bạn có thể mang lại cho người khác ý muốn vui sống. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban Đức tin, nhưng bạn có thể làm chứng nhân cho Ngài. Chỉ có Thiên Chúa mang lại niềm hy vọng, nhưng bạn có thể mang lại niềm tín thác cho anh chị em mình. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tình thương, nhưng bạn có thể dạy tha nhân biết yêu thương. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hòa bình, nhưng bạn có thể gieo sự đoàn kết. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban niềm vui, nhưng bạn có thể mỉm cười với mọi người. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sức mạnh, nhưng bạn có thể nâng đỡ người nản chí thất vọng. Chỉ có Thiên Chúa là Đường, nhưng bạn có thể chỉ đường cho người khác. Chỉ có Thiên Chúa mới là ánh sáng, nhưng bạn có thể làm ánh sáng ấy tỏa sáng trước mặt người khác. Amen. ------------------------------
Lúc 7 giờ chiều thứ năm 30-5-2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ đầu tiên kính Mình Máu Thánh Chúa tại thềm Đền thờ thánh Gioan Laterano. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đặc biệt quảng diễn câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ khi thấy đám đông dân chúng đến với Ngài và khi chiều về họ không có gì để ăn: “Chính các con hãy cho họ ăn”[1]. Đức Thánh Cha nhận xét rằng: “Đứng trước nhu cầu của đám đông, giải pháp của các môn đệ là mỗi người hãy nghĩ đến mình: giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn! Bao nhiêu lần các tín hữu Kitô chúng ta cũng bị cám dỗ như thế! Chúng ta không dám đảm trách những nhu cầu của người khác, chúng ta thường để họ ra đi với câu nói đạo đức: ‘Xin Chúa giúp đỡ bạn!’. Nhưng giải pháp của Chúa Giêsu đi theo một hướng đi khác, một hướng đi làm cho các môn đệ ngạc nhiên: ‘Chính các con hãy cho họ ăn’.
Đức Thánh Cha giải thích rằng: Lời mời gọi của Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ là ‘Chính các con hãy cho, hãy chia sẻ.’ Và họ đã chia sẻ 5 chiếc bánh và hai con cá. Nhưng chính những chiếc bánh và cá ấy, Chúa đã làm cho đám đông được ăn no nê... Điều này có nghĩa là trong Giáo Hội, và cả trong xã hội, chúng ta không được sợ hãi, nhưng hãy ‘liên đới’, chúng ta hãy biết đặt những gì chúng ta có để Chúa sử dụng, đặt những khả năng khiêm hạ của chúng ta, vì chỉ trong sự chia sẻ, trao ban, cuộc sống chúng ta mới được phong phú, và mang lại nhiều hoa trái”.[2]
Trước đây, khi Suy Niệm đoạn Tin Mừng này trong tác phẩm “5 chiếc bánh và 2 con cá”, Đức Hồng Y Phanxico Nguyễn Văn Thuận cũng đã diễn tả cùng một ý như Đức Thánh Cha. Đức Hồng Y nói: Các môn đệ muốn chọn con đường dễ nhất, khỏe nhất: “xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu muốn các môn đệ hành động ngay trong phút hiện tại. “Chính các con hãy cho họ ăn”. Chúng ta cũng hãy hành động ngay trong phút hiện tại với tất cả những gì mình có. Không chọn dễ dãi nhưng chọn tình yêu.
Cũng như các môn đệ, chúng ta cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Chúa Giêsu: Ngài chạnh lòng thương yêu cứu giúp mọi người đến quên bản thân mình. Chúng ta cũng chỉ có thể học được bài học này, nếu chúng ta có trái tim của Chúa Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trái tim đầy tình yêu thương. Hãy học cách yêu thương như Chúa bằng cách đáp ứng ngay, chia sẻ ngay, không tìm cách giải quyết né tránh, cũng không chọn cách phục vụ theo kiểu dễ dãi không dính bén đến mình.
Ước gì khi cảm nghiệm Lời Chúa dạy qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng dám dấn thân, dám chia sẻ ngay khi chúng ta chỉ có một phần ít ỏi nhỏ bé.
Lạy Chúa, Lời Chúa dạy các Tông Đồ hôm nay: “Họ không cần phải đi đâu xa, chính anh em hãy cho họ ăn”, Lời này đã làm tim con đau nhói. Nhiều lúc con chẳng quan tâm gì đến người chung quanh, Con chỉ đòi hỏi, ra lệnh mà không có tâm hồn chia sẻ, Con nỡ tâm nhìn anh chị em con đói khát về vật chất Thiếu vắng Lời Chúa là sức sống, là ánh sáng cho họ. Xin giúp con mau thực hành những điều Chúa đã dạy. Biết quảng đại yêu thương, Dám chia sẻ ngay khi con chỉ có một phần ít ỏi. Xin cho con thực thi lời hy vọng này: “Ðiều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta". Amen.
* Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha.
Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong Dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm Dòng ở Rôma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.
Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng. Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này. Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết. Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm. Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22), dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi. Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15). Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực. Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối. Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió. Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong. Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền. Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió. Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên. Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không? Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an. Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ. Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài. Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh. Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26). Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình. Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió. Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ!” (c. 27). Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin. Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28). Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước. Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không. Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy. Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế. Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm. Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động. Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29). Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng? Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy. Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên. Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin. Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm. Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt. Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền. Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng. Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền. Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió. Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta. Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc. Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế. Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi. Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm. Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33). Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước. Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi. Xin cứu con khi con hầu chìm. Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã. Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen. -------------------------------
Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.
Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).
Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.
Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.
Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?
2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó, khiêm nhường?
3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?
Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm này hơn:
- Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường thuật.
- Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải Thần Khí của Người.
- Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.
Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể đơn sơ, dễ hiểu: "Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Ðến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến với các tông đồ".
Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố thiên nhiên. Câu nói của Chúa: "Thầy đây, đừng sợ!" nhắc lại công thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: "Ta là Ðấng Ta là".
Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Lạy Chúa, Ðấng đã kêu gọi mọi người "Ðừng sợ".
Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan thử thách.
Thấy Người đi trên mặt biển các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm chính Thầy đây đừng sợ!” Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt. 14, 26-30)
Phêrô
Mọi chú ý đổ dồn vào một nhân vật: Phêrô. Ông là tông đồ thứ nhất. Ông nói, làm nhân danh các bạn khác. Hơn nữa, ông là người thứ nhất trong các kẻ tin. Ông tỏ vẻ rất linh hoạt và diễn xuất niềm tin xuất sắc. Ông mạnh mẽ và hiên ngang tuyên bố những lời kêu gọi và lôi cuốn con người. Đó là khát vọng sâu xa hướng về mình, ở bên mình, ở với mình. Đó là bước đường dẫn tới hố sâu vì được người ta tin cậy và yêu mến. Thế rồi, khi lòng tin cậy yếu đuối, lập tức kéo theo sự mất sức căn bản và những nguy khốn tứ bề ập tới làm mình run sợ mất lòng trông cậy. Lúc đó mình là mồi ngon cho các thế lực đe dọa, nếu mình không tìm ngay đến bàn tay của Thầy đến cứu vớt. Có lòng trông cậy, có lòng tin, nhưng quá hèn mọn, quá yếu ớt thì đừng bo bo cậy mình. Chỉ có đức tin vô điều kiện mới mong dẫn dắt các bạn một cách chân chính mà thôi. Điều xảy ra với tông đồ thứ nhất là Phêrô, luôn là gương mẫu cho tất cả những kẻ tin tưởng.
Giáo Hội
Giáo hội toàn thể luôn luôn ở trước tôn nhan Đức Giêsu. Giáo hội đã được bảo đảm thắng vượt mọi gian nan thử thách, có đủ khả năng thoát khỏi mọi nguy biến. Giáo hội biết mình được bảo đảm không bao giờ bị đắm chìm tan biến theo chiều dài của lịch sử ở điều kiện nắm vững đức tin.
Một đức tin đơn sơ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng này nhắc nhở chúng ta bài học về Phêrô bước đi trên mặt biển: một bài học về đức tin đơn sơ, không giải thích. Một đức tin biểu lộ bằng cử chỉ, bằng chỉ cần động đến gấu áo Chúa, nhưng đã diễn tả mọi rung động của con tim. “Nếu anh không trở nên trẻ nhỏ…”. Nếu đức tin không như thế, chúng ta phức tạp hóa đức tin của chúng ta, đức tin sẽ mất sức mạnh, mất sức sống! Ước chi chúng ta hãy hết lòng nói với Chúa: “Lạy Chúa, con tin”.
lễ Cung Hiến Đền Thánh Phê-rô và Phao-lô, ngày 18 tháng 11.
Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé”; hay “ma mới bắt nạt ma cũ”; hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện... dựa vào tiền và quyền... Vì thế, không lạ gì khi vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé họng!
Đứng trước thực trạng ấy, chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”; “Ngài có thực sự hiện hữu không?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy?”.
Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các môn đệ đang trên thuyền để đi sang bờ bên kia. Trong lúc các ông trèo thuyền ra xa, thì gió lớn nổi lên, khiến các ông lo sợ. Đúng lúc đó, Đức Giêsu hiện đến mà các ông không nhận ra Ngài. Vì thế, trong cơn hốt hoảng, các ông đã la lên: “Ma đấy”. Thấy vậy, Ngài đã trấn an các ông và nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!". Tuy nhiên, chưa tin và vẫn còn nghi ngờ, nên Phêrô đã thử liều một phen mang tính thách thức: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài".
Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho Phêrô đi trên mặt nước với Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học: nếu có niềm tin và tín thác vào Chúa trong sự khiên tốn thì sẽ được Chúa thương.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy nhớ đến câu nói của Đức Giêsu khi xưa: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!".
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi hoang mang và sợ hãi chẳng kém các môn đệ của Chúa là bao! Nhưng như các môn đệ, các ngài đã tin vào Chúa và được Chúa cứu, thì xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con cũng được Chúa thương như các môn đệ khi xưa. Amen.
Sứ điệp: Giữa biển đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn hiện diện bên ta dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu. Còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chẳng bao giờ Chúa bỏ các tông đồ một mình trong sóng gió. Chúa luôn có mặt chính lúc các ngài đang gặp thử thách. Chúa đến củng cố niềm tin các ngài: “Cứ yên tâm Thầy đây, đừng sợ”.
Lạy Chúa, hôm nay con nhớ đến Giáo Hội đang gặp những cơn sóng gió, những khủng hoảng, đang phải đương đầu với nhiều thế lực, những quyền bính, những phong trào: tất cả như những đợt sóng vùng lên đòi nhận chìm Chân Lý.
Con cũng nhớ đến những khủng hoảng của loài người trong xã hội hôm nay. Khủng hoảng của gia đình và của chính bản thân con. Chúng con đang bị vật nhào giữa biển đời đầy bất công, hận thù, đang quay cuồng trong dòng sông gian nan vất vả, và linh hồn con đang thoi thóp giữa cơn sóng gào tội lỗi.
Lạy Chúa, con vẫn tin tưởng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con. Xin Chúa đến nâng đỡ để chúng con đi trọn hành trình trần gian trong bình an của Chúa. Xin Chúa yên ủi và giúp chúng con vượt qua những đau khổ, nhất là những người không còn được xã hội quan tâm. Xin cho chúng con nhận ra Chúa vẫn ở bên chúng con và cho chúng con biết tin tưởng vào tình yêu Chúa luôn mãi. Niềm tin sẽ là sức mạnh và bình an luôn mãi cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền để sang bờ bên kia. Còn Người thì lên núi cầu nguyện. Thuyền các ông ra giữa biển, bỗng gió lớn nổi lên... Lúc gần sáng, Chúa đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Các ông thấy Người thì hoảng sợ tưởng là ma. Người bảo: “Thầy đây, đừng sợ!” Nhưng Phêrô cũng còn hoài nghi nên thưa: “Nếu thật là Thầy, xin cho con đi trên nước mà đến với Thầy”. Chúa bảo ông đi. Nhưng đi một đỗi, ông thấy sóng gió thì sợ nên bị chìm xuống. Ông hoảng hốt xin Chúa cứu giúp. Chúa liền giơ tay nắm lấy ông và trách sao ông kém lòng tin, nếu ông tin Chúa vững vàng thì ông khỏi bị chìm trong nước. Các môn đệ thấy vậy thì tin thật Người là Con Thiên Chúa.
Qua biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ trong cơn giông tố, chúng ta cần có một số suy nghĩ:
- Đối với Chúa: Việc này không có gì khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ, chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Chúa đi trên sóng nước không có gì phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng uy quyền Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy nhận thấy tỏ tường: Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng nước, truyền cho chúng yên lặng, vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng.
- Đối với chúng ta: Lòng tin của chúng ta còn quá yếu kém, nên chúng ta cần phải cầu xin Chúa rất nhiều. Đứng trước cuộc đời đầy đau khổ, chúng ta chẳng khác nào con thuyền bập bềnh trên mặt biển đầy sóng gió. Chúa vẫn có ở đó và chờ đợi để đưa cánh tay đỡ lấy chúng ta. Đứng trước khổ đau của đồng loại, chúng ta lại được Chúa sử dụng như những chiếc phao ,để cho bao nhiêu người khác được cứu thoát.
- Đối với Giáo hội: Giáo hội được tượng trưng như con thuyền. Thuyền gặp bão, Giáo hội Chúa gặp thử thách, nhưng Chúa Giêsu không để cho các Tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo hội một mình gặp thử thách: “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa muốn cho các Tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các Tông đồ, Chúa đến với Giáo hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Chúng ta hãy coi Chúa Giêsu giáo dục đức tin cho Phêrô và các Tông đồ: ban đầu Ngài để cho các Tông đồ bị bão biển doạ (cũng như để Phêrô bị chìm xuống). Khi các ông sợ, các ông nghĩ tới Chúa. Cuối cùng Ngài ra tay cứu giúp. Kết quả là các ông tin vào Ngài: “Thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.
Thánh Phêrô Đamianô viết: ”Giữa cuộc đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn ở bên ta, dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu; còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an”.
Việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ và Người cho Phêrô đi trên mặt nước giúp chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống. Trong mọi khó khăn thử thách, Người luôn ở bên ta, chỉ có điều là chúng ta có đức tin đủ mạnh và lòng yêu mến đủ lớn, để có thể mau mắn nhận ra và kêu xin Người cứu giúp hay không mà thôi.
Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé’, hay “ma cũ bắt nạt ma mới” hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện... dựa vào quyền và tiền... Vì thế, không lạ gì vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé miệng!
Đứng trước tình trạng ấy, chúng ta không thể không đặt câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”, “Ngài có thực sự hiện hữu không?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy”.
Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho ông Phêrô đi trên mặt nước đến với Ngài giúp chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta bài học: nếu có niềm tin vào Chúa trong sự khiêm tốn thì sẽ được Chúa thương (Ngọc Biển).
Truyện: Hãy bám chặt vào Ta
Có người kể: Tối qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng một luồng sáng xuất hiện; và Chúa Giêsu hiện ra mỉm cười và nói: “Con hãy ngồi trên tấm thảm này với Ta”.
Lòng tràn đầy vui sướng, tôi làm theo ý Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.
Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để tỏ bày niềm vui: nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh vì Ngài không còn bận tâm gì đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chủ rút từng sợi chỉ của tấm thảm thả cho nó bay lơ lửng ở trên không trung. Hết sợ chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió. Chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế mà Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa làm gì thế? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm sẽ tan tành hay sao?”
Chúa Giêsu mỉm cười nắm tay tôi và nói: Sao con nhát đảm và kém tin thế? Hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không sợ gì, dù có bị tước đoạt mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng đi nữa”.
Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì quả thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn và tôi giật mình thức giấc.
1. Chúa Giêsu “bắt buộc” các môn đệ phải xuống thuyền ngay, để sang bờ bên kia trước, còn Ngài thì ở lại cho dân chúng ra về. Một sự khẩn trương, vội vã, có vẻ như đang đứng trước một nguy hiểm. Tại sao? vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng đã quá hăng hái, một sự hăng hái trần tục vì thấy mình được hưởng thụ vật chất. Sự hăng hái này không hợp với sứ mạng Messia của Chúa Giêsu. Ngài không muốn cho sự hăng hái lệch lạc này tác động lên các môn đệ, và vội vã bảo các ông sang ngay nơi khác.
2. Chúa Giêsu đi trên mặt nước: Cựu ước nhiều lần nói về việc đi trên mặt nước ( G 9, 8- 38, 16; Tv 77, 20; Kb 3, 15; Si 24, 5) nhưng đều gán vào cho Thiên Chúa. Vậy với chi tiết Chúa Giêsu đi trên mặt nước, Mátthêu ngụ ý so sánh Chúa Giêsu với Thiên Chúa.
3. Phêrô đi trên mặt nước: So sánh với 2V 2, 1-55: Ngôn sứ Êlia dùng áo choàng đập xuống nước, nước rã làm hai cho ông đi qua. Về sau Êlisê dùng tấm áo choàng của Thầy Êlia của mình mà đập xuống nước, nước cũng rẽ làm hai cho Êlisê đi qua. Nghĩa là Êlisê đã nhận được thần lực của Thầy mình, nhưng có điểm khác biệt là: Êlisê nhận thần lực qua một vật dụng là tấm áo, còn Phêrô nhận thần lực của Thầy chỉ nhờ đức tin. Một trong những tư tưởng thần học của Mátthêu là người môn đệ được Thầy ban cho cùng quyền lực như Thầy. Hãy xem 9, 6 - 9, 8 - 10, 1 - 16, 19 - 18, 18. Nhưng điều đáng lưu ý là các môn đệ nhận được quyền lực của Thầy nhờ đức tin.
4. Phêrô sợ, nên bị chìm. Ông xin Chúa Giêsu cứu thì được Ngài cần tay nâng lên. Qua việc này Chúa Giêsu muốn huấn luyện cho các môn đệ (mà Phêrô là đại diện) để giúp họ tiến bước dần trên cuộc hành trình đến đức tin.
Suy gẫm
1. Tin Mừng Gioan cho biết thêm là sau khi hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Chúa Giêsu không muốn các môn đệ mình lây nhiễm các quan niệm về Đấng Messia lệch lạc ấy nên buộc họ vội vàng rời khỏi nơi đó. Chúa Kitô không muốn người ta coi Chúa như một Đấng chỉ ban cơm bánh. Chúa không muốn người ta đến với Ngài chỉ để xin những ơn vật chất.
2. Chúng ta hãy coi cách Chúa Giêsu giáo dục đức tin cho Thánh Phệrô và các tông đồ: Ban đầu Ngài để cho các tông đồ bị bão biển đe dọa (cũng như Phêrô bị chìm xuống). Khi các ông sơ, các ông nghĩ tới Chúa. Cuối cùng Ngài ra tay cứu giúp, kết quả là các ông tin vào Ngài “Thật, Thầy là con Thiên Chúa”.
Nhiều khi xem ra Chúa bỏ mặc chúng ta trong những hoàn cảng khó khăn. Nhưng đó chính là cách Chúa giáo dục đức tin cho chúng ta. Do đó đừng hoảng sợ, cũng đừng nản lòng. Hãy kêu lên Chúa như Phêrô xưa: “Lạy Thầy, xin cứu con”.
3. Có một bà nổi tiếng là đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?” “Ồ không, tôi không phải là người có một đức tin lớn lao, mà chỉ là người có một đức tin nhỏ bé đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.”
4.”Sau khi giải tán đám đông, Người lên núi và cầu nguyện chiều đến Ngài vẫn ở đó một mình”. (Mt14, 23).
Con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ đi vào sa mạc để ở bên Chúa và trò chuyện với Chúa. Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con, chỉ cần một chút cố gắng của Tình yêu là con có thể tạo ra sa mạc. Mỗi ngày con có biết bao nhiêu giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất. Khi chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, chờ điện thoại trả lời, chờ món hàng đang được gói. Khi lên cầu thang, khi đến nơi làm việc, khi bị kẹt xe, khi cúp điện bất ngờ, thay vì bực bội nóng ruột con lại cảm thấy mình sống an bình trong sự hiện diện của Chúa. Lạy Chúa, những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày giúp con tỉnh thức để nhạy cảm với Chúa. Xin cho con yêu mến Chúa hơn, để tìm ra những sa mạc mới và vui vẻ bước vào.
5. Chúa liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi” (Mt14, 31).
Trong cuộc sống Kitô hữu, Đức tin là điều quan trọng. Chúng ta vẫn tin có Chúa, vẫn đi lễ, vẫn rước lễ hằng ngày, làm việc thệc thiện, việc bác ái giúp đỡ người khác; nhưng đôi lúc, chúng ta đã làm những việc đó như một người máy hay theo một thói quen.
Do đó, thật là tồi tệ khi ta gặp phải rủi ro hay thất bại nào…Vì ta đã đối phó bằng cách để Chúa qua một bên, bỏ hết mọi việc từng làm. Dần đần ta không còn giữ được đức tin và lúc này tâm trạng của ta rất giống tâm trạng của Thánh Phêrô khi được Chúa cho đi trên mặt biển. Mỗi người chúng ta thử nhìn xem mình sống đạo ra sao, mình đã thực sự có đức tin chưa? Hay chúng ta tin vì thấy bạn bè mình tin, không tin không được. Hay ta chỉ tin vì được sinh ra trong một gia đình Công giáo.v.v..
Say mê với phép lạ “hoá bánh ra nhiều”, các môn đệ như muốn hưởng chút tự hào vì mình có Thầy quyền phép, nhưng Chúa Giêsu liền “bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia”. Chúa yêu mà chẳng chiều lòng người. Tình yêu phải sáng suốt, can đảm, mạnh mẽ, để không làm cho người mình thương yêu suy thoái. Chúa dạy ta bằng chính hành động của Người.
Giữa những thành công ru ngủ lòng người, Chúa Giêsu đưa các môn đệ vào giữa biển đời đầy sóng gió. Nhưng Người vẫn đồng hành với họ, khi sóng gió nổi lên, khi các Tông đồ sợ hãi, tiếng yêu thương của Chúa Giêsu luôn vang lên: “Cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”. Dù trong bình an, dù trong lầm than, Chúa vẫn ở bên chúng ta để bảo vệ, che chở.
Nhiều lần chúng ta gặp sóng gió trên đường đời, sóng gió trong gia đình, trong công việc, chúng ta hoang mang và thầm nghĩ Chúa quyền năng và giàu tình thương, nhưng Người đâu rồi? Chúa luôn lên tiếng “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”.
Thánh Phêrô muốn được sức mạnh, quyền năng như Chúa để làm chủ biển cả và sóng gió, Chúa ban cho ông khi nói: “cứ đến”. Giây phút đầu, Phêrô đã làm chủ biển khơi khi nhìn vào Chúa, ông đi trên mặt nước mà đến với Người. Nhưng khi ông nhìn vào mãnh lực sóng gió và khiếp sợ, thì ông bị chìm. Khi Chúa là sức mạnh trong ta, ta thắng được mọi sóng gió và thử thách. Nhưng khi Chúa không còn là lẽ cậy trông, là sức mạnh cho ta, thì biển đời sẽ vùi lấp ta.
“Người đâu mà kém tin vậy?”. Chúa trách Phêrô và có thể cũng trách chúng ta bao lần trong đời, khi ta hoang mang xao xuyến. Một em học sinh sợ đi lễ thì mất giờ học bài. Bậc phụ huynh thì sợ con đi dự lễ, đọc kinh, học giáo lý thì ảnh hưởng việc học ở trường! Sinh hoạt trong xứ thì sợ mất việc nhà! “Người đâu mà kém tin vậy?”, đó là lời mà Chúa vẫn còn nói với chúng ta mỗi ngày.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín vào tình Chúa yêu thương, để trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, dù vui hay buồn, dù bình an hay khi gặp gian nan sóng gió, chúng con vẫn vững tin: Chúa luôn ở kề bên để bảo vệ, giữ gìn chúng con an bình. Amen.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm". Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa, tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại. Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm. Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan. Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít. Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia. Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà. Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin: “Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.” Người mẹ đau vì con của mình đau. Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái. Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy. Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to. Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội. Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu. “Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.” Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần. Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu. Người phụ nữ vẫn là người độc thoại. Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà. Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.” Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát. Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ. Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích. Chị không phải là chiên của nhà Israel. Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi, vì Cha tôi chưa sai tôi đến. Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ. Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng, và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu. Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế. Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu. Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin: “Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25); khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22). Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà. Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ. Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con, vì tình yêu nối kết cả hai nên một. Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu. Người đưa ra lời từ chối thứ hai quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng: “Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.” Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành. Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà. Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng. Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái. Họ tự hào về tính ưu việt của mình trong tư cách là Dân riêng của Chúa. Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ. Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi. Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa: “Thưa Ngài đúng thế. Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.” Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà, không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn. Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái, bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống. Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng. Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng. Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà. Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.” Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11). Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con. Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối. Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng. Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu, và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người. Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất… Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…” Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm. Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt: “Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”. Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó. Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp. Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao. Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ. Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha. Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục. Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai: “Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,” để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.” Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám. Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại. Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa. Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau. Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại, tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín. Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay. Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ. Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó. Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống. Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau thuong của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. ------------------------------------------
Các bài Sách Thánh hôm nay tương phản nhau mãnh liệt: niềm tin của dân ngoại và sự bất tín của Ít-ra-en. Ít-ra-en đã chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Chúa làm nhưng vẫn thiếu niềm tin. Hôm nay họ sợ người khổng lồ nên chống đối Mô-sê, chống lại ý Chúa. Không chịu vào Đất Hứa theo hướng nam qua vùng Ca-đê mà chọn đi vòng qua phía đông theo sông Gióc-đan. Họ thiếu niềm tin vào Chúa. Xét về quân đội thời ấy, còn ai mạnh hơn Ai cập. Thế mà Chúa đã tiêu diệt tất cả trong nháy mắt. So với quân đội Pha-ra-ô thì những người khổng lồ này có là gì. Nếu tin Chúa họ đâu phải sợ hãi đến hoảng loạn và chống lại ý Chúa như vậy (năm lẻ).
Tuy Ít-ra-en bất tín. Nhưng Chúa vẫn trung tín. Sau khi trừng phạt rồi lại xót thương. Tiếp tục yêu thương và cứu chữa họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi sẽ được xây lại” (năm chẵn).
Lòng thương xót của Chúa bao la. Nên sau cùng đã trải rộng ra khỏi Ít-ra-en, đến với mọi dân mọi nước. Hôm nay người phụ nữ Ca-na-an đã được hưởng lòng thương xót của Chúa. Đó là dấu hiệu Chúa lập ra một dân mới. Bà chưa hề biết Chúa, mới chỉ nghe nói, thế mà đã tin tưởng hết sức vào Chúa. Chúa đặt ra trước mặt bà 3 chướng ngại lớn và bà đã vượt qua. Một sự im lặng. Chúa không đáp lại lời bà xin. Nhưng bà vẫn tha thiết, kiên trì và dai dẳng cầu xin. Một lời từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi”. Ranh giới đã được phân định. Thế mà bà vẫn nhất quyết nài xin. Một lời nhục mạ: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Thật là tàn nhẫn. Nhưng bà này đã chấp nhận: “Nhưng chó cũng có thể được những mảnh vụn bánh từ bàn chủ rơi xuống”. Và Chúa phải khen ngợi lòng tin của bà. Bà không còn phải là chó con nữa. Bà trở nên con cái Chúa. Được đồng bàn với Chúa. Không còn phải chờ bánh vụn. Nhưng được hưởng bánh tự do trên bàn của Chúa.
Tạ ơn Chúa vì Lòng Thương Xót của Chúa bao la trải rộng khắp mười phương. Xin cho con được vững tin vào Lòng Thương Xót của Chúa.
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi. Ðức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Ðấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho". Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: "Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: "Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương xót con". Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó". Ðây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa, Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa, Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)
Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Có óc khinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
Trong câu chuyện kể về phép lạ của Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, người ta kể về gương sáng đức tin của một bà mẹ. Chuyện kể rằng: nhờ mối liên hệ thân tình với Đức Hồng Y, lòng quý trọng và niềm tin tuyệt đối vào ngài, vì thế, bà thường xuyên cầu khấn với ngài khi con bà đang trong tình trạng hôn mê sâu nhiều tháng và chỉ còn chờ chết ngay tại đất nước Hoa Kỳ văn minh tiến bộ vào hạng nhất nhì thế giới!
Quả thật, cậu chủng sinh con bà đã thoát khỏi tử thần khi được chính Đức Hồng Y cầu thay nguyện giúp nhờ vào lòng tin của bà mẹ.
Hôm nay, Tin Mừng cũng trình thuật phép lạ Đức Giêsu đã làm khi cho một bé gái thoát khỏi quỷ ám nhờ vào lòng tin của mẹ em.
Thật vậy, lời cầu xin“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” của người phụ nữ xứ Canaan đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, nên bà đã được Ngài xót thương. Nhưng Đức Giêsu còn muốn kiểm chứng đức tin của bà xem có phát xuất từ con tim yêu mến hay chỉ là thực dụng???
Tuy nhiên, càng đi sâu vào câu chuyện, chúng ta lại càng thấy niềm tin ấy được tỏa sáng. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì qua sự thinh lặng của Đức Giêsu và nhất là lời khước từ của Ngài khi nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Đồng thời, bà còn gặp khó khăn khi những người Dothái cũng như của chính các môn đệ ngăn cản không cho bà đến gần Đức Giêsu, thế nhưng, niềm hy vọng vào tình thương của Chúa đã làm cho bà đặt hết niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì thế, bà đã thốt lên: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đứng trước niềm tin đặc biệt đó, Đức Giêsu đã phải chạnh lòng thương đến con bà khi nói: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta nhiều khi đức tin mang tính nhất thời, tức là chỉ tin khi thuận tiện. Mặt khác, niềm tin của mỗi người có lúc mang tính nửa vời, tức là tin Chúa 50%; 50% còn lại thì dành cho những thần khác...
Tuy nhiên, niềm tin thì hời hợt như vậy, nhưng khi có người khác thể hiện niềm tin vào Chúa thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản hay cho là phù phiếm... như các môn đệ và người Dothái khi xưa. Phải chăng họ không muốn vào Nước Trời, nhưng những người muốn vào thì chính họ lại ngăn cản không cho vào.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt niềm tin tuyệt đối nơi Chúa. Đồng thời ý thức rằng: niềm tin trưởng thành là một niềm tin trải qua thử thách và có kinh nghiệm thực sự về Chúa. Cuối cùng, hãy biết noi gương Chúa để thi ân giáng phúc cho những người hoạn nạn, kể cả họ là kẻ thù của ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa và luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Xin cũng cho chúng con có lòng nhân hậu với hết mọi người. Amen.
Sứ điệp: Niềm tin mãnh liệt và khẩn khoản của người đàn bà dân ngoại đã làm Chúa Giêsu không nỡ từ chối ban phép lạ cho bà.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con thấy có hai lần Chúa đã từ chối không ban phép lạ, nhưng vì niềm tin và lời khẩn khoản của người xin, Chúa đã thực hiện phép lạ: đó là lời cầu xin của Đức Maria tại đám cưới Ca-na, và câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an hôm nay.
Niềm tin mạnh mẽ và kiên trì đã khiến Chúa không nỡ từ chối ban ơn. Xét cho cùng, chúng con thực không xứng đáng để Chúa ban ơn cho. Con không có quyền đòi Chúa làm phép lạ. Điều con có thể làm được và phải làm, đó là tin tưởng vào Chúa, xác tín vào tình thương đầy quyền năng của Chúa và đặt trọn hy vọng vào Chúa.
Khi con cầu xin Chúa, con thường muốn Chúa thực hiện theo ý muốn của con, vào thời điểm mà con muốn, mà con không hiểu rằng điều quan trọng là tin tưởng và phó thác vào Chúa, phó dâng để Chúa thực hiện điều tốt nhất cho con theo ý định của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì tín thác vào Chúa, cho con biết bày tỏ tấm lòng của con trong nhẫn nại. Chúa biết điều con cần, nhưng Chúa cũng muốn con tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Đôi lúc vì cuộc đời quá đau khổ và phức tạp, con không còn dám tin vào Chúa nữa. Và vì nghi ngờ nên con không dám cầu xin nữa. Xin Chúa giúp con vững tin ngay cả trong những lúc khó tin và không còn gì để hy vọng. Amen.
Một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.
Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, người bán hàng dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp người bán hàng vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói: “Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi”. Em bé mỉm cười đáp: “Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con”. Người bán hàng ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy?” Em bé dí dỏm trả lời: “Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều”.
Em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy. Người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan khiêm tốn nhận mình là dân ngoại, so sánh với dân Chúa Israel? Bà coi mình nhỏ bé như “chó con” chỉ đáng được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”, chính vì bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, cho nên bà được Chúa rộng ban theo lòng thương xót của Ngài, còn hơn cả lòng bà mong ước.
Suy niệm
Người đàn bà ngoại giáo khẩn cầu xin Chúa chữa lành cho con bà bị quỷ ám. Lời cầu của người đàn bà đầy niềm tin, nhẫn nại và khiêm tốn. Bà nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Mêssia - Cứu Thế (dòng dõi Đavít) (x. Mt 15:22) trong lúc đó những người Do Thái không chấp nhận tư cách Mêssia của Ngài. Chính đức tin mạnh mẽ với lòng khiêm tốn chân thành của bà đã làm Chúa Giêsu xúc động, Ngài đã thi ân trên lời cầu xin.
Sự viên mãn đời đời của chúng ta là do đức tin. Chính thánh Phaolô đã xác định: “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17; Gl 3,11), đức tin không phải do chúng ta đạt tiêu chuẩn mà có, nhưng là một ơn riêng nhưng không của Thiên Chúa ban cho. Đức tin có nghĩa là tin một cách đơn sơ, cởi mở, vô điều kiện vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng và ban sự sống như người phụ nữ đã tín thác tuyệt đối bằng lời cầu xin: “Xin rủ lòng thương tôi!...” (Mt 15:22), cả khi bị thử thách, niềm tin vẫn không lay chuyển như người nữ Canaan xác tín: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi!” (Mt 15:25). Lòng kiên nhẫn của bà được sinh ra từ đức tin, như thánh Giacôbê xác quyết: “Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1,3). Các môn đệ muốn đuổi bà đi vì sợ bà quấy rầy Thầy. Nhưng các ông không làm lay chuyển đức tin của bà nơi sức mạnh cứu độ của Chúa Giêsu, sức mạnh có thể chữa lành con bà. Cho nên, thay vì thối chí rút lui với tâm hồn cam chịu số phận, bà tiến đến quỳ trước Ngài và van xin một cách khiêm tốn, chân thành và đơn sơ. Hình ảnh của bà đã nói lên một chân lý: Đức tin được dọn đường bằng khiêm nhượng.
Người phụ nữ mang tâm tình như trẻ nhỏ tin và chạy đến với cha mình, bà xác tín vào tình yêu và quyền năng của Chúa, Ngài là Đấng không bao giờ rút lại tình yêu đối với người đặt niềm tin tưởng phó thác vào Ngài. Hình ảnh đức tin nơi bà có nghĩa là tin như trẻ nhỏ, tin vào sự chiến thắng của Thiên Chúa trên tất cả. Niềm tin đó được Thánh vịnh quả quyết tin Chúa như con tin vào cha: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131). Cho nên, Đức Kitô đã quả quyết nơi người mang đức tin trẻ nhỏ trở nên vĩ đại: “Ai hạ mình xuống như những trẻ nhỏ sẽ là người lớn trong nước Trời” (Mt 18:4).
Nếu như ban đầu, là một hành động thử thách, Đức Giêsu đã làm ngơ trước lời khẩn cầu trong niềm tin của bà, nhưng Ngài không thể im lặng trước lòng tin mang tâm tình chân thành, khiêm tốn của một người mẹ dám làm tất cả cho con mình được sống, Chúa Giêsu trả lời, “Này bà, đức tin của bà mạnh. Bà được như bà tin”... “Lập tức, con gái bà được lành” (Mt 15:28). Bà hạnh phúc vì Thiên Chúa thi ân: Con yêu của bà được chữa lành, niềm tin của bà đã nở hoa.
Xin Đức Kitô – Đấng đã nhìn thấu lòng tin của người phụ nữ Canaan, cũng hãy dạy con vì con luôn có nhu cầu tin chân thành và khiêm tốn như người phụ nữ Canaan, tin là không đòi hỏi, là tín thác, chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không. Niềm tin phát sinh kiên nhẫn và với lòng khiêm cung trước Thiên Chúa qua mọi hoàn cảnh trong cuộc đời, chúng con sẽ được Thiên Chúa ở cùng và thi ân…
Đức tin có sức mạnh vô song, có khả năng đảo ngược tình cảnh hay đời người, giúp chúng ta vượt qua được gian khổ và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ Canaan nhờ lòng tin mạnh mẽ đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy nhiên con gái của bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đều bó tay vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng vì đức tin mạnh mẽ của bà, Chúa Giêsu đã chữa cho con bà được khỏi ngay lúc đó.
Ta thường hát bài “Lòng mẹ” của nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào”. Người đàn bà Canaan này rất mực thương con nên đã đến xin Chúa Giêsu chữa cho con bà bị quỷ ám. Nhưng ngoài tình mẹ thương con cao độ, còn có một điểm khác đáng chú ý, đó là sự phát triển lòng tin nơi bà mẹ. Trước tiên bà gọi Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, một tước hiệu mang tính cách trần thế, nghĩa là bà chỉ nhìn Chúa Giêsu như một con người. Tiếp đến, khi nghe Chúa Giêsu nói Ngài chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel, bà đã chấp nhận Ngài là một vị tiên tri, và hơn thế nữa, bà gọi Ngài là “Lạy Ngài”, một tước hiệu mang tính cách thiêng liêng, tương tự như danh hiệu “Lạy Chúa”, và như thế chứng tỏ rằng cuối cùng bà đã chấp nhận Thần tính nơi Chúa Giêsu.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Maisen, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó con người gặp gỡ Chúa Giêsu (Mỗi ngày một tin vui).
Có thể nói người phụ nữ Canaan đã thắng được Chúa Giêsu nhờ lòng tin và sự khiêm tốn. Thật thế trước lời đáp trả cứng cỏi của Chúa: “Ta chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel...”, “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”, nhưng người phụ nữ Canaan không buông xuôi ngã lòng, bà khiêm tốn đáp: “Đúng thế, nhưng chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thiên Chúa phải đầu hàng trước niềm tin và sự khiêm tốn của con người.
Nhà văn Pháp Marcel Proust nhận xét: một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ tìm gặp được những vùng đất mới, cho bằng có được đôi mắt mới. Đôi mắt ấy giúp họ khám phá thế giới quen thuộc, nhưng chứa chất nhiều bí ẩn, tuyệt diệu hữu ích cho cuộc sống.
Người đàn bà xứ Canaan trong trình thuật Tin mừng hôm nay, quả thật có đôi mắt mới. Bà không nhìn Chúa Giêsu như những người Nazareth, đồng hương của Chúa, để khinh bỉ Ngài. Bà cũng không nhìn Chúa Giêsu như những đồng hương xứ Canaan của bà, để xa tránh Chúa. Trái lại, bà nhận ra trong con người Giêsu ấy quyền năng, mà không ai trong xã hội có thể có để cứu giúp bà trong cơn khốn đốn. Ở nơi Ngài, bà trực giác nhận ra một lòng thương xót thường trực, khích lệ bà tìm đến. Như người thấy được kho báu trong ruộng, bà bỏ hết những mặc cảm, đến với Chúa Giêsu và đặt tất cả niềm tin vào Ngài. Với bà, Giêsu là Đấng làm cho con tim của bà và con bà “vui trở lại” (5 phút Lời Chúa).
Thánh nữ Monica đã kiên trì cầu nguyện trong suốt 27 năm ròng để con trai của bà được ơn hoán cải trở về với đức tin Công giáo. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận lời bà cầu xin. Người không chỉ đưa cậu con trai Augustinô trở về, mà còn làm cho cậu trở thành một vị đại thánh trong Giáo hội.
Niềm tin mãnh liệt và thái độ khẩn khoản nài xin của người phụ nữ đã làm Chúa Giêsu cảm động, và Người không nỡ từ chối cứu giúp. Nhờ vậy, cô con gái của bà được chữa lành. Sự kiên trì cầu xin của người đàn bà xứ Canaan làm gương sáng cho người Kitô hữu chúng ta.
Thật vậy, trong cuộc sống ngày nay, đức tin gặp rất nhiều thử thách. Tuy nhiên, có trải qua thử thách, chúng ta mới chứng tỏ được lòng tin mạnh mẽ của mình. Vì vậy, chúng ta được mời gọi luôn tin tưởng, cậy trông vào Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Truyện: Niềm tin nửa vời
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông nắm được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên, bốn bể chỉ có yên lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con sẽ tin Chúa và dạy cho người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao?”.
Chúa Giêsu đáp lại lời xin của một phụ nữ Canaan. Có một số điểm đáng ta lưu ý:
1. Về thân phận của bà này: Bà là một người bị xã hội do thái khai trừ vì bà vừa là phụ nữ vừa là người ngoại.
2. Về sự thử thách mà bà gặp phải: thân phận bị khai trừ, Chúa Giêsu lại làm ngơ trước lời bà xin, lại còn nói nặng ví bà là chó. Nhưng bà đã kiên trì vượt qua mọi thử thách ấy.
3. Kết quả: Chúa Giêsu khen bà “có lòng tin mạnh”, và còn nói “bà muốn sao thì được vậy”.
B.... nẩy mầm.
1. Có thể khẳng định rằng không ai không gặp thử thách về đức tin. Chính Chúa Giêsu muốn thế. Người phụ nữ này bị thử thách đức tin rất nặng. Vậy khi đức tin ta bị thử thách, ta đừng nản lòng, vì đó là chuyện phải có thôi, chẳng sớm thì muộn.
2. “Xin Thầy thương (mà ban ơn) để cho bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”:
- Ý nghĩa thái độ của các môn đệ: làm ơn không phải vì thương mà vì để khỏi bị quấy rầy nữa. Phần Chúa Giêsu thì chẳng những muốn ban thứ ơn mà bà xin, mà còn muốn ban thêm một ơn quý trọng hơn nữa là chính đức tin.
- Khi tôi xin Chúa ơn gì mà Chúa chậm ban, tôi hãy tự nghĩ: tôi muốn Chúa ban ơn cho nhanh để Chúa khỏi bị quấy rầy nữa, hay thà chậm một chút nhưng được thứ ơn quý hơn ơn mà tôi xin.
3. “Muốn sao thì được vậy”: quả là một ơn ban vô cùng to lớn. Ai mà không mong mình muốn sao được vậy. Chúa Giêsu sẵn lòng ban cho ta ơn này miễn là chúng ta có đức tin mạnh.
4. “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26)
Đọc xong đoạn Phúc Âm, một bạn trong nhóm nói: “Có những lúc mình cảm thấy Chúa thử thách mình quá đáng!” Tôi cũng đã có lúc như vậy. Những lúc ấy tôi đã nổi giận, đã nghĩ: chẳng cần Chúa nữa. Và mỗi lúc tôi càng cảm thấy thất vọng. Phải, tôi đã không có được sự tin tưởng, phó thác của người đàn bà dân ngoại.
Lạy Chúa, Chúa thử thách để lòng tin của con mạnh mẽ. Với lòng tin mạnh mẽ, con mới có thể làm được mọi điều thiện hảo. (Hosanna)
5. ‘Vâng lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”: người phụ nữ này chẳng những có đức tin mà còn có lòng khiêm tốn. Khi xin thì phải có sự khiêm tốn kèm theo. Xin người ta và xin những thứ vật chất mà còn phải khiêm tốn, huống chi xin Chúa và xin những ơn siêu nhiên.
6. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. (Mt 15,28)
Một lần nọ, tôi cùng nhóm bạn trò chuyện. Chúng tôi nói về sự sống và cái chết. Câu chuyện mỗi lúc một căng thẳng, mọi người tranh cãi kịch liệt. Khi tôi nói: “Con người chết đi mai mốt tới ngày tận thế sẽ sống lại”, thì một số bạn bật cười và cười một cách diễu cợt. Tôi muốn biện bạch cho lời nói của mình nhưng không thể vì họ còn mãi cười. Có điều làm tôi rất buồn là thấy có cả những người đồng niềm tin với tôi cũng cười. Tôi không hiểu vì sao họ cười, có lẽ vì bè bạn cười chăng, vì sợ quê lây với tôi hay vì tự bản thân họ cho đó là phi lý... Niềm tin của chúng ta như thế có đúng chưa? Người đàn bà dân ngoại còn hơn tôi và bạn, một mình bà chạy đến với Chúa Giêsu mà tuyên xưng niềm tin của mình cho dù xung quanh là những người xa lạ, chưa quen hoặc chưa tin vào Chúa. Hình ảnh về người đàn bà dân ngoại và hình ảnh về những người bạn ấy giúp tôi suy nghĩ lại niềm tin của chính mình. Tôi đang tin vào ai hay tin vào cái gì? (Hosanna)
Lạy Chúa, xin củng cố niềm tin của con, xin thêm sức để con biết sống niềm tin ấy ở giữa anh em. (Hosanna)
1. Có thể khẳng định rằng, trong đời không ai mà không gặp thử thách. Qua việc Chúa thử thách người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay, dường như Chúa muốn nói với mọi người rằng, thử thách, nhất là sự thử thách về đức tin là cơ hội, là dịp để cho con người được trưởng thành hơn.
Đây là những tư tưởng được ghi từ Internet:
- Một con tằm phải trải qua đau đớn để tự chui ra khỏi cái kén và trở thành con bướm biết bay.
- Một hạt giống nằm sâu trong lòng đất nảy mầm phải tự vươn thẳng lên xuyên qua tầng đất dày để thành cây cứng cáp.
- Con tằm nào được người ta cắt vỏ kén chui ra sẽ mãi bò quẩn quanh cái kén mà không bao giờ thành loài bướm biết bay.
- Hạt giống nằm trên mặt đất dễ dàng nảy mầm nhưng sẽ bị bật gốc khi gặp cơn giông tố.
- Bạn đã từng nghe nói đến vỉa đá ngầm nổi tiếng kéo dài 1.800 dặm từ New Guinea đến Úc mà khách du lịch một khi đã đến nơi đây, không thể không ghé thăm. Tại đây, một người khách đã hỏi người hướng dẫn viên du lịch một câu hỏi khá thú vị:
- Tôi quan sát thấy cũng vỉa đá này, ở ngoài đại dương nó thật rực rỡ và sống động trong khi trong hồ nước nó lại xám xịt và thiếu sức sống. Tại sao lại như thế?
Người hướng dẫn viên giải thích rằng: “Những vỉa đá dưới hồ tuy chìm trong nước nhưng vì không phải đấu tranh sinh tồn nên chúng chẳng thể hoàn thiện được. Trong khi đó, những vỉa đá phía đại dương lại không ngừng đối diện với biết bao nhiêu là sức mạnh khắc nghiệt của thiên nhiên như sóng gió, bão tố... để tồn tại. Và khi chịu đựng những thử thách như thế, nó mới có cơ hội để thay đổi và thích nghi. Nó vẫn phát triển thật mạnh mẽ và liên tục tái sinh”.
- Có nghịch cảnh, có thử thách thì mới biết rằng, bạn đang sống. Thử thách giúp bạn mạnh mẽ và kiên trì hơn. Nếu gặp khó khăn, bạn không nên quá lo lắng hay sợ hãi. Đừng chùn bước và hãy tự nói với mình rằng: “Nhờ vậy mà ta trưởng thành...”.
- Con người không thể chọn cho mình nơi sinh ra, nhưng có thể tự chọn cho mình một cách sống. Thất bại, bất hạnh có thể là điều tuyệt vọng với người này nhưng có thể là may mắn với người khác - tùy vào cách chúng ta đón nhận, bằng cách dũng cảm vượt qua hay tự thương thân trách phận mà gục ngã.
2. Chúng ta hãy nghe Lời Chúa nói với bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được như vậy”. Từ giờ đó, người con gái bà được khỏi. (Mt 15,28).
Nếu có ai đó nghiên cứu về lịch sử thơ văn thì người đó không thể không biết đến tên tuổi của Lý Bạch. Lý Bạch là một trong những thiên tài lừng lẫy nhất của thế giới. Thơ ông bát ngát những ước mơ đẹp, thấm thía tình thương yêu con người. Làm sao mà ông được như vậy?
Tương truyền, từ thuở nhỏ, Lý Bạch đã yêu say đắm thiên nhiên, ao hồ, sông núi nhất là những con người trong vùng. Chú bé thường mải mê đi tìm những hoa cỏ đẹp, có khi quên cả buổi học, chán cả lớp học.
Một hôm, chú men theo dòng suối đến chân núi, thấy một người đàn bà tóc bạc ngồi mê mải với một phiến đá và một mảnh sắt nhỏ. Chú đến gần xem và tò mò hỏi:
- Bà ơi, bà mài sắt làm gì thế bà?
Bà nhìn chú bé đáng yêu, đáp:
- Bà mài sắt để làm kim khâu cháu ạ!
Mặt bà sao phúc hậu thế. Giọng bà sao hiền từ thế. Rồi bà bảo bé Lý Bạch ngồi bên bà. Chú nhìn đăm đăm hai bàn tay đưa đi đưa lại miếng sắt hàng trăm ngàn lần trên phiến đá mài, chú khẽ hỏi:
- Miếng sắt to thế này mà làm kim được hở bà?
Bà bảo:
- Mài mãi, sắt cũng mòn đi, bé lại, rồi thành cái kim.
Chú lại hỏi:
- Thế bao giờ mới xong hở bà?
Bà đáp, giọng ôn tồn, nhỏ nhẹ:
- Bà cứ mài, mài mãi, hôm nay, mai, một tháng, hai tháng, năm nay, sang năm, thế nào cũng xong - bà nói tiếp, dằn giọng hơn - phải xong.
Chào bà cụ, chú bé đứng dậy ra về. Suốt dọc đường, chú suy nghĩ về lời bà: có công mài sắt, có ngày nên kim. Cái phút bà ngẩng nhìn chú với ánh mắt sáng mà nói: “Thế nào cũng xong, phải xong”, cái phút ấy làm bừng lên một luồng sáng thật sáng nơi lòng chú bé và suốt đời vẫn còn rung động mãi trong tâm hồn, trái tim của Lý Bạch. Từ ngày ấy, Lý Bạch chú ý hơn đến sách vở, lớp học, rồi quen dần, ham mê đọc thật nhiều sách, ghi chép cẩn thận. Với tâm hồn dễ xúc động, với kiến thức rộng bao la, Lý Bạch để lại cho đời sau những áng thơ tuyệt mỹ.
Xin được kết thúc bằng lời chúc của Thánh Giacôbê: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.” (Gc 1,12).
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
Khi nghĩ đến cái chết sắp đến của mình, Đức Giêsu lại nghĩ đến thân phận hạt lúa mì. Ngài nói một điều mà ai cũng biết như một định luật tự nhiên, một điều chẳng làm ai ngỡ ngàng kinh ngạc. Nếu một hạt lúa rơi xuống đất và không chết đi, nó trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó mới mang nhiều hoa trái” (c. 24). Đức Giêsu ví mình như hạt lúa đem gieo. Điều kiện để đời Ngài đơm bông kết trái, đó là cái chết. Không chấp nhận chết đi, hạt lúa vẫn chỉ là hạt lúa trơ trọi. Đức Giêsu không muốn mình là thứ hạt lúa ấy, được bao bọc vững chắc bởi lớp vỏ, cố giữ cho mình được nguyên vẹn, vì thế cũng chẳng chịu vươn ra khỏi mình, chẳng dám đánh mất chính mình để nảy mầm sinh hạt. Đức Giêsu đã đón lấy cái chết như con đường để sự sống sinh sôi. Cái chết của Ngài trên thập giá có khả năng kéo được mọi người lên (Ga 12, 32), và thu hút cả vũ trụ về với Thiên Chúa. Có một hạt lúa mang tên Giêsu. Hạt lúa ấy đã chấp nhận chịu mục nát, để cả thế giới trở thành đồng lúa thơm trĩu hạt. Mỗi Kitô hữu cũng là một hạt lúa, được mời gọi để sống như hạt lúa Giêsu. “Ai yêu mạng sống của mình, thì sẽ mất nó; còn ai ghét mạng sống của mình ở trần gian này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (c. 25). Vấn đề là yêu hay ghét cuộc sống ở đời này. Kitô hữu không phải là những kẻ chán đời hay khinh rẻ cuộc đời tại thế. Ghét mạng sống ở đây chỉ có nghĩa là không đặt nó lên chỗ cao nhất, không để nó chiếm chỗ của Thiên Chúa. Chính khi nhận ra giá trị tương đối của cuộc đời trần thế này, chúng ta mới có hy vọng giữ được nó mãi mãi. Ngược lại, thái độ bám chặt vào đời này, gắn bó với nó một cách lệch lạc, lại dẫn đến việc đánh mất hạnh phúc, cả đời này lẫn đời sau. Thánh Laurensô đã bị thiêu sống ở Rôma trên một chiếc giường sắt, sau khi ngài đã phân phát tài sản của cộng đoàn cho người nghèo. Thầy phó tế Laurensô đã sống như người phục vụ cho Đức Kitô (c. 26) bằng cuộc sống và cái chết tử đạo năm 258. Được ở bên Thầy Giêsu mãi mãi và được Cha Thầy quý trọng, đó là điều Laurensô được hưởng và cũng là hy vọng của chúng ta. Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi. Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc. Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người. Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người, và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore) ------------------------------------------
Sứ điệp: Nhờ cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã phục sinh và đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Để được sống đời đời, người theo Chúa chỉ có một chọn lựa: chết đi cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đường Chúa đã đi là con đường khổ giá và kết thúc bằng sự sống lại vinh hiển. Từ đó Chúa đã làm phát sinh sự sống Thiên Chúa cho con người. Con hiểu được rằng: Chúa đã chịu chết vì con như hạt lúa gieo vào lòng đất và chịu mục nát đi.
Rồi Chúa đã sống lại như hạt nảy mầm, phát sinh hoa trái, mùa màng là sự sống Thiên Chúa trong con. Và Chúa kêu mời con đến tham dự sự sống của Chúa. Nhưng để được như thế, con phải chọn đúng con đường Chúa đã đi. Con đường hẹp dẫn tới sự sống là con đường từ bỏ, hy sinh, vác thập giá hằng ngày qua các bổn phận đời thường và qua các đòi buộc của luật Chúa và luật Giáo Hội.
Nhưng lạy Chúa, bản tính con người của con lại yếu đuối quá. Con sợ phải cố gắng, phải hy sinh, phải từ bỏ và phải thiệt thòi. Con dễ ngã theo lời mời của đam mê, tìm hưởng thụ, sống phóng túng. Con thích đi vào con đường rộng dẫn đến cõi chết.
Lạy Chúa, nhờ lời cầu thay nguyện giúp của Thánh Lô-ren-xô, xin giúp con mạnh dạn đi theo con đường khổ giá. Xin giúp con từ bỏ chính bản thân mình để phục vụ anh em, phụng sự Chúa. Chính lúc chết đi cho tội lỗi và ích kỷ, là lúc con được vui sống với Chúa muôn đời. Amen.
Ghi nhớ: “Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
Tôi nhớ về tuổi ấu thơ bên ruộng lúa, rau muống ở Biên Hoà. Bên bờ ruộng, người ta có trồng chuối nên tôi đã được nhìn cây chuối mang một buồng quả chín. Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống. Cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình, chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá, cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt… Cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh tuyệt đẹp về sự hy sinh.
Dưới gốc cây chuối mẹ sắp chết đi, xuất hiện nhiều chồi non của những cây chuối mới. Người trồng chuối chỉ chọn một mầm, để có một cây chuối mới cho năng suất cao. Một cuộc sống mới, một sự hy sinh mới lại bắt đầu...
Sinh trái, đơm hoa, cây chuối mẹ héo tàn và chết, từ gốc cây lại nảy ra mầm chồi non cho một sức sống mới…
Suy niệm
Chúa Kitô tự ví mình là hạt lúa gieo vào lòng đất, định mệnh của hạt giống chịu chôn vùi, chịu mục nát trong đất bùn. Mục nát không phải mất đi nhưng là để đâm chồi nảy lộc: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà… thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,23-24). Hạt giống mục nát trong đất nhưng tạo sự sống nảy mầm sống mới sinh nhiều bông hạt khác. “Hạt giống Giêsu” chết đi tạo vinh quang phục sinh, sức sống mới cho nhân loại.
Sự phục sinh khải hoàn, khơi nguồn sự sống cho cả nhân loại bắt đầu bằng việc đi vào cuộc thương khó, lãnh nhận cái chết của Đức Giêsu. Các môn đệ là những người theo Chúa Kitô cũng đều đi qua cuộc thương khó, sự cố gắng không ngừng nghỉ rao giảng Tin Mừng và đi vào cái chết như là những hạt lúa giống gieo vào lòng đất để cho mùa lúa niềm tin mới phát triển. Ngài cũng mời gọi chúng ta những môn sinh tin vào Ngài, theo Ngài cùng tháp vào Ngài mang thân phận của lúa mì gieo vào lòng đất như yêu cầu: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26). Theo Ngài làm thân phận hạt lúa giống gieo vào lòng đất để tạo sức sống mới chung cho toàn nhân loại.
Theo chân Chúa, là được mời gọi cùng bước vào một hành trình đi vào lòng đất của hạt giống. Một hành trình mạo hiểm, chấp nhận sự hy sinh, cố gắng không ngừng: bóc trần, mục nát, hòa tan trước thánh ý của Thiên Chúa, như Đức Kitô đã bước vào. Sự mạo hiểm này đã có lần Phêrô đã chối từ bước vào, khi không cam đảm nhận mình là môn sinh của Thầy (x. Mt 26,57-58.69-75; Mc 14,53-54.66-72; Lc 22,54-62; Ga 18,15-27), cũng như trước đó ông cũng đã từng ngăn cản Thầy tiến bước đường khổ giá (x. Mt 16:21-23; Mc 8,21-33). Hình ảnh đó phác họa sự ngập ngừng, sợ hãi của người Kitô hữu trước những bước đi vào mầu nhiệm thương khó cuộc đời - mầu nhiệm hạt giống gieo vào lòng đất để chết đi.
Suy nghĩ đến thân phận của hạt giống và chiêm ngưỡng những bước đi vào sự chết của Chúa Giêsu, chúng ta có một niềm xác tín hơn vào chính mình gắn bó với Thầy với thân phận hạt giống như Thầy và hân hoan: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125,6).
Ý lực sống:
“Bài học quan trọng nhất, con người có thể học được trong cuộc sống:
Không phải là sự đau khổ hiện hữu trong thế giới, lệ thuộc nơi chúng ta biết rút từ bài học,
biết chuyển đổi đau khổ, nỗi buồn thành niềm vui” (R.Tagore).
--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy các môn đệ một sự thật rất lạ thường về vấn đề sống chết:
- Có chết thì mới có sống: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi thì nó mới sinh nhiều bông hạt”; “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
- Chính Chúa Giêsu đã đi con đường lạ thường ấy, và Ngài bảo các môn đệ cũng hãy theo Ngài trên con đường ấy: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”
1.”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Bạn hãy đọc lại câu này nhưng đổi một số chữ: hạt lúa = người tín hữu; đất = thế giới này; chết đi = hy sinh để phục vụ.
2.”Có chết thì mới có sống”, điều nghịch lý này không chỉ đúng đối với hạt giống, với các thánh tử đạo (“Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”, Tertulien), mà còn rất đúng trong tu đức: tôi có chết đi con người cũ thì mới sống lại thành con người mới; tính xấu có chết đi thì tính tốt mới sinh ra được.
3. Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bà đến than thở với cha linh hướng. Ngài nói:
- “Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh cũng không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng nhường chỗ cho lá non mẩy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy, khi sự sống mới của Đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên đường đạo đức.”
4.”Thật Thầy bảo thật anh em: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi. Còn nếu chết đi, nó mới sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24)
Nhìn đồng lúa chín vàng, hạt lúa trĩu nặng, mấy khi tôi nghĩ đến những hạt giống âm thầm đi vào lòng đất, từng ngày, từng giờ, lặng lẽ nẩy mầm trong đêm, vượt đất vươn lên…
Vẫn âm thần lặng lẽ, lặng lẽ như tiếng chổi tre của người phu quét rác, lặng lẽ như vạn đôi tay của các công nhân đang miệt mài xây dựng, lặng lẽ như tấm lưng còng của mẹ già tần tảo sớm khuya, lặng lẽ như những bước chân truyền giảng Tin Mừng…Tất cả đều tự nhiên, âm thầm và lặng lẽ trong bài học cho đi.
Các môn đệ xúm lại hỏi Chúa: ai là người lớn nhất trong Nước trời? Chúa không trả lời ngay. Người gọi một trẻ nhỏ vào đứng trước mặt các ông rồi nói: Ai không trở nên như trẻ nhỏ, không sống đơn sơ, thật thà, khiêm tốn như trẻ nhỏ thì không được vào Nước trời. Và ai trở nên giống trẻ nhỏ: đơn sơ, hoàn toàn lệ thuộc phó thác, thì sẽ làm lớn hơn hết trong Nước trời...
Cái đẹp của tuổi thơ là sự vô tư hồn nhiên, không bon chen, không hận thù tranh chấp và hoàn toàn tin tưởng cậy dựa vào cha mẹ. Trong đời sống thiêng liêng, Đức Giêsu muốn chúng ta mang lấy những tâm tình của trẻ thơ: khiêm tốn, tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa là Cha yêu thương. Đồng thời, Ngài cũng khuyên chúng ta phải tôn trọng trẻ em, những kẻ bé mọn, những người yếu đuối và ngay cả những người tội lỗi... Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều được giá Máu cứu chuộc, thế nên chúng ta phải đón nhận tất cả mọi người anh em, không trừ một ai.
Theo nhận xét của nhiều người, trẻ em giống như một cây non, chúng yếu đuối phải cậy dựa vào người lớn, chúng hoàn toàn nương nhờ vào cha mẹ và cha mẹ bảo sao chúng biết vậy. Cũng thế, trẻ nhỏ giống như tờ giấy trắng, muốn viết gì vào đấy cũng được. Rồi trẻ nhỏ rất dễ tin, chúng tin vào cha mẹ và tin rằng: chỉ có cha mẹ mới thoả mãn được mọi nhu cầu của chúng. Đó là thái độ chúng ta phải có đối với Chúa, trước mặt Ngài, chúng ta phải thấy mình thực sự nhỏ bé, yếu đuối, bất lực và cần sự trợ giúp của Ngài.
Đàng khác, trẻ nhỏ thì hồn nhiên, ngây thơ, trong sạch, không biết quanh co, lừa đảo gian dối, không biết để lòng oán hờn, thù hằn, ghen ghét, không bon chen với trăm thứ lo lắng của người lớn. Hồn nhiên là một thái độ tự nhiên của trẻ nhỏ, và được diễn tả bằng tình thương... Chúng tin vào một người, chỉ khi nào chúng cảm thấy người ấy thương chúng. Thuyết phục bằng lý lẽ sẽ không có hiệu quả, nếu không kèm bằng tình thương. Đó là thái độ của chúng ta phải có đối với Chúa, và đó là cách để chúng ta được Chúa yêu thương và được đón nhận vào Nước trời (Lm. Phạm Văn Phượng).
Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một giải thích về mối phúc đầu tiên, khi Ngài gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các môn đệ và tuyên bố: “Nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước trời”. Trong quan niệm người Do thái, trẻ em chưa được xem như một con người hoàn toàn, do đó trẻ em được coi là biểu tượng của thiếu sót, bất toàn, yếu đuối và bị khinh thường. Có lần các môn đệ đã tỏ ra khó chịu, khi thấy Chúa Giêsu để cho trẻ em đến gần Ngài. Nơi trẻ em, Chúa Giêsu nhìn thấy hình bóng những người, mà Ngài gọi là những kẻ bé mọn. Hãy hoá nên như trẻ nhỏ có nghĩa là hãy trở nên trống rỗng, nghèo nàn để được Thiên Chúa lấp đầy. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Nghèo khó chỉ có giá trị, khi nó là một cởi bỏ mọi ràng buộc có thể làm con người trở thành nô lệ trong cuộc sống. Hãy hoá nên như trẻ nhỏ cũng có nghĩa là chấp nhận thân phận mỏng dòn, tội lỗi của mình. Sự ràng buộc đầu tiên mà con người phải tháo gỡ chính là con người cũ tội lỗi, để Thiên Chúa có thể trở thành sức sống của con người (Mỗi ngày một tin vui).
Tâm hồn đơn sơ của con trẻ dễ dàng gần Chúa hơn. Con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhắc nhở chúng ta điều này. Không lâu trước khi qua đời, thánh nữ đã viết lại bí quyết sống của mình như sau: “Tôi muốn tìm phương thế để lên trời qua con đường nhỏ, thật ngay thẳng, thật ngắn, một con đường nhỏ thật mới. Chúng ta đang sống trong thiên niên kỷ của nhiều phát minh. Trong những nhà giàu, một thang máy thay thế cho những nấc thang thật tiện lợi. Tôi cũng muốn tìm gặp một thang máy để đưa tôi lên với Chúa Giêsu, bởi vì tôi quá nhỏ bé để leo lên cái thang của sự trọn lành”. Và theo thánh nữ, thì chiếc thang máy để đưa ta tới trời chính là đôi cánh tay của Chúa. Điều cần là chúng ta phải sống nhỏ bé và ở lại trong tình thương của Chúa.
Truyện: Tấm lòng đơn sơ thành thật
Vào mùng hai tết Canh Thìn năm 2000, trong lúc đi chơi, bé Thiên Thanh, 9 tuổi, lớp 3A trường Phạm Như Xương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Ninh, đã nhặt được chiếc ví có rất nhiều tiền.
Trên đường cầm chiếc ví đến trạm công an khu vực ở gần đó để giao, bé Thiên Thanh thấy một người khách dáng cao to, đang lúi húi tìm kiếm một vật gì đó, khuôn mặt đầy vẻ lo âu.
Đoán đây chính là người mất chiếc ví, bé đến gần và hỏi thì quả thật đúng như vậy. Em đã trao cho người khách chiếc ví còn nguyên vẹn dưới sự chứng kiến của nhiều người. Số tài sản gồm 4.100.000 đồng, 1.300 mỹ kim, 12 chỉ vàng và tất cả giấy tờ cá nhân quan trọng như hộ chiếu v.v...
Người khách may mắn đã hết lời khâm phục cám ơn bé Thiên Thanh. Để tỏ lòng biết ơn, người khách đã lấy 2 triệu đồng và 100 mỹ kim biếu em, nhưng bé một mực không nhận và hồn nhiên nói:
- Cháu xin cám ơn bác, nhưng cô giáo cháu đã dạy rằng: khi đi đường mà nhặt được của rơi, thì phải tìm cách trả lại cho người bị mất, cháu không nhận tiền thưởng của bác đâu!
Hoàng đế Valêrianô là con người độc ác, lại cố tình tham lam, và khi biết Giáo hội còn nhiều tài sản có thể làm thỏa mãn lòng tham của ông, lập tức ông hạ lệnh bắt thầy Lô-ren-sô tới để tra của. Hoàng đế nói với Lô-ren-sô:
- Cha ngươi và những người Kitô giáo trách ta xử ác với các ngươi, giờ đây ta hứa sẽ dễ dãi với các ngươi, nếu các ngươi đem nộp cho ta tất cả của cải, những chén vàng, đĩa bạc, chân nến, và các đồ thờ quí giá: ta rất cần những đồ đó để tăng cường ngân quỹ quốc gia.”
Lô-ren-sô nhanh nhẹn trả lời:
- Thưa hoàng đế, Giáo hội tôi rất giầu. Của cải trong kho bạc của hoàng đế cũng không thấm vào đâu. Tôi sẽ nộp cho hoàng đế những vật quí báu ấy. Vậy xin hoàng đế cho tôi ít ngày để kịp thu thập của cải đó lại. Vậy xin hoàng đế gia hạn cho tôi 3 ngày thôi và đồng thời cử quan lãnh binh Hi-pô-lit (Hypolite) giúp đỡ.”
Trong mấy ngày sống bên cạnh Lô-ren-sô, Hy-po-lit được mắt thấy tai nghe những việc bác ái và đời sống thánh thiện của Lô-ren-sô. Được ơn Chúa thúc giục tâm hồn, quan lãnh binh và toàn gia gồm 19 người xin trở lại đạo và được thầy phó tế Lô-ren-sô rửa tội cho.
Ít ngày sau Hy-po-lit đã dâng mạng sống vì đức tin một cách quảng đại, hài cốt Ngài an táng trên đường Ti-bua (Tibur) Sau được đi về Lu-cô (Lucques). Giáo hội dâng lễ kính thánh Hy-pô-lit ngày 13.8.
Còn Lô-ren-sô, Ngài công nhiên đi khắp thành phố Roma, tập trung các bệnh nhân mà Giáo hội vẫn nuôi sống, gồm mọi thứ phong, hủi, mù lòa, què quặt…. độ ngàn rưởi người, Ngài mướn những chiếc xe ngựa và chở họ thẳng tới cung điện nhà vua.
Thấy công việc kỳ lạ của thầy Tổng phó tế, dân chúng Roma bảo nhau đi xem đông đúc. Đoàn xe ngừng lại trước sân rồng, Lô-ren-sô tâu trình lớn tiếng:
- Tâu hoàng đế, đây là tất cả kho tàng quý báu của Giáo hội chúng tôi. Đây là những người cùng khốn, nhưng nhờ công việc cứu trợ họ mà chúng tôi đã tích trữ được nhiều của quí trọng trên trời. Hoàng đế hãy đón nhận tất cả những của cải này để dùng cho dân thành Roma và cho chính hoàng đế.”
Biết mình bị lừa gạt và những lời thách thức khiêu khích đó, Valeriano đỏ mặt tía tai nổi giận đùng đùng.
- Ngươi phải chết, nhưng đừng tưởng sẽ được chết ngay đâu, ta sẽ kéo dài cái chết của ngươi bằng trăm ngàn cực hình.
Người lính chiến dũng cảm của Chúa Kitô mạnh dạn thưa:
- Ngài tưởng tôi sợ cực hình sao? Ô không! Ngài cho những cực hình đó là dữ tợn, song tôi không sợ chút nào, mà còn ước mong từ lâu.
- Ngươi tưởng rằng, những “của quý” kia sẽ cứu ngươi thoát khỏi những cực hình này sao?
- Tôi cậy vào của cải trên trời, là lòng Chúa nhân từ thương xót, Chúa sẽ ban cho hồn tôi được thanh thoát, dù khi thân xác tôi phải phanh ra trăm nghìn mảnh.
Bạo vương truyền đánh đòn thánh nhân lần nữa đồng thời lệnh cho lý hình nung đỏ những thanh sắt dí vào khắp mình thánh nhân.
Không kêu la than trách, thánh nhân chỉ ngửa mặt lên cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, Con một Thiên Chúa, xin hãy thương đến tôi tớ Chúa đã bị cáo là không chối danh Chúa, đã bị tra khảo vì dám tuyên xưng danh thánh Chúa giữa trăm ngàn cực hình”.
Bạo vương tức giận quát:
- Mày là thằng phù thủy, mày coi khinh cực hình, nhưng nhân danh các thần minh, nếu mày không tế lễ các Ngài ta sẽ hành hạ như chưa từng ai có thể làm được.
Thánh nhân mạnh bạo trả lời:
- Nhờ ơn Chúa, tôi không sợ chút nào, mọi khổ hình sẽ qua đi. Chúc đức vua hăng hái thi hành điều đức vua đã dự định để làm khổ tôi.
Hoàng đế Valêrianô vẫn chưa nguôi căm tức, ông truyền đặt trước mặt thánh tử đạo những dụng cụ hành hình có thể làm dựng tóc gáy người xem. Vua lên tiếng hỏi lý lịch thánh nhân. Lô-ren-sô trả lời:
- Quê tôi ở Tây Ban Nha, từ nhỏ tôi sang ở Rôma được rửa tội và giáo huấn trong đức tin công giáo.
- Người gọi Thiên Chúa Đấng dạy ngươi bất kính các thần minh và coi thường các khổ hình phải không?
- Nhân danh Chúa Kitô, tôi không sợ cực hình chút nào.
Nghe lời thách thức này, bạo vương căm giận như điên cuồng, ông truyền nung đỏ giường sắt và áp mình thánh nhân vào lửa. Nhưng vì toàn thân Ngài đã bị vết thương nên dù có bị đốt Ngài cũng không cảm thấy đau đớn hơn: Ngài nguyện thầm:
- Lạy Chúa, xin nhận của lễ xông mùi ngọt ngào này.
Rồi quay lại phía bạo vương Ngài nói:
- Tâu đức vua, đức vua phải biết rằng: lửa này chỉ làm cho tôi tươi tỉnh hơn, nhưng nó sẽ dành sức nóng của nó để thiêu đốt Ngài đời đời.
Người ta thấy Valêrianô có vẻ bối rối, bọt mép sùi ra; ông đã bị mù quáng trong giận dữ. Thánh nhân tươi cười nói thêm:
- Ngài không thấy nửa người tôi bị rán chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia rán cho hết đi để Ngài có thể dùng thịt rán này”.
Khi lý hình đã lật Ngài lên, Ngài nói:
- Đã chín rồi, mời nhà vua ăn đi.
Lúc đó đoàn giáo dân sợ sệt đứng chung quanh thấy một vòng sáng lạ lùng bao bọc Ngài và xác Ngài tỏa ra hương thơm ngào ngạt.
Biết rằng cuộc chiến đấu sắp hoàn tất, thánh Lô-ren-sô tạ ơn Thiên Chúa rằng:
- Lạy Chúa tôi, tôi đội ơn Chúa, vì nhờ Chúa mà tôi sắp được vào nước hạnh phúc
Rồi Ngài tắt thở, hôm đó là ngày 10.8.258.
Xác thánh nhân được hai người lính kính cẩn an táng một nơi cách thành phố Roma hai ngàn thước. Tới thế kỷ IV vua Constantinô đã xây cất một ngôi thánh đường nguy nga trên chính mộ thánh nhân và thánh đường mang tên thánh nhân.
Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã giúp thánh Lô-ren-sô toàn thắng trên ngọn lửa ác hình, xin tắt lửa ham muốn tội lỗi trong lòng chúng con.
Thánh Laurensô sinh tại thôn Huêca nước Tây Ban Nha. Cha mẹ ngài là người rất đạo hạnh. Quãng đời thơ ấu của Laurensô không được ghi lại tường tận, chỉ biết rằng: Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để sang du học tại Rôma và đã sống cả cuộc đời trần thế tại đây
Được sống nơi kinh đô Giáo Hội, Laurensô hăm hở học hành và rèn luyện nhân đức, nên chẳng bao lâu tiếng nhân đức và tài học rộng hiểu sâu của ngài vang lừng khắp nơi. Khi vừa lên ngôi ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức tân Giáo Hoàng Xíttô đã chọn Laurensô làm Phó tế giúp việc cho ngài.
Nhưng rồi cơn bách hại đạo làm cho Giáo Hội Chúa lại phải sống trong âu lo và thử thách. Giông tố đó do Hoàng đế Valêrianô gây ra. Để trốn tránh, giáo sĩ cũng như giáo dân phải sống dưới những hang toại đạo hoặc trong những nhà giáo dân kín cổng, cao tường.
Hoàng đế Valêrianô ra lệnh cho quân lính bí mật theo dõi Đức Giáo Hoàng và một đêm kia, quân lính đã tìm ra con đường nhỏ, quanh co dẫn xuống hầm giữa nghĩa địa Prêtêta. Bắt được Đức Giáo Hoàng đang ngồi giảng dạy Lời Chúa giữa đông đảo giáo dân. Quân lính xông vào bắt Đức Giáo Hoàng và đoàn tháp tùng đem nộp cho quan. Ngài bị án chém đầu. Được tin sét đánh này, thầy Phó tế Laurensô vội vã chạy theo Đức Giáo Hoàng và năn nỉ xin được cùng chết với vị cha chung. Nhưng Đức Giáo Hoàng Xíttô an ủi:
- Con yêu dấu, cuộc bách hại đạo dữ dội đang chờ đợi con, vài ngày nữa con sẽ theo Cha. Phần Cha, nay đã già cả, Cha sẽ trải qua những thử thách này cách nhẹ nhàng, nhưng con còn trẻ trung, đầy nghị lực, con sẽ phải trải qua cuộc bách hại đạo vẻ vang hơn nhiều. Rồi Đức Giáo Hoàng ban phép lành vĩnh biệt người con yêu dấu, để đi ra pháp trường.
Trước cái tang chung của Giáo Hội và trước cảnh “Đoàn chiên không chủ chăn”, thầy Phó tế Laurensô suốt ngày đêm đi săn sóc và an ủi giáo dân đang ẩn nấp, rải rác khắp thành Rôma.
Hoàng đế Valêrianô là con người độc ác, lại tham lam, khi biết Giáo Hội còn nhiều tài sản, lập tức, ông hạ lệnh bắt thầy Phó tế Laurensô tới để tra của. Hoàng đế nói với thầy:
- Giáo Hoàng và các người Kitô giáo trách ta xử ác với họ. Giờ đây ta hứa sẽ dễ dãi nếu ông đem nộp cho ta tất cả của cải như chén vàng, đĩa bạc, chân nến và các đồ thờ quý giá: Ta rất cần các đồ đó để tăng cường ngân quỹ quốc gia.
Thầy nhanh nhẹn trả lời:
- Thưa Hoàng đế, tôi rất giàu, chính kho bạc của Hoàng đế cũng không thấm vào đâu, tôi sẽ nộp cho Hoàng đế những vật quý báu ấy. Vậy xin Hoàng đế cho tôi ít ngày để kịp thu gom của cải đó lại.
Hoàng đế gia hạn ba ngày.
Còn thầy Phó tế Laurensô ngang nhiên đi khắp thành phố Rôma, tập trung các bệnh nhân mà Giáo Hội vẫn cấp dưỡng, gồm mọi thứ bệnh: Phong cùi, mù loà què quặt, độ chừng 1.500 người. Ngài thuê những chiếc xe ngựa chở họ thẳng tới cung điện Hoàng đế.
Thấy công việc kỳ lạ của thầy, dân thành Rôma rủ nhau đi xem rất đông. Đoàn xe ngừng trước cung điện Hoàng đế, thầy tâu trình lớn tiếng:
- Tâu Hoàng đế, đây là tất cả kho tàng quí báu của Giáo Hội Công giáo chúng tôi, đây là những người nghèo khổ, bệnh tật, nhưng chính nhờ công việc cứu trợ họ và chúng tôi đã tích trừ được nhiều kho báu trên trời. Xin Hoàng đế hãy đón nhận tất cả của cải này để dùng cho thành Rôma và cho chính Hoàng đế.
Trước những lời đầy khiêu khích đó, Hoàng đế Valêrianô đỏ mặt, tía tai, nổi giận đùng đùng, ông truyền đánh đòn thầy bằng roi sắt; rồi truyền đem các dụng cụ hành hình ra trước mặt thầy và nói:
- Ngươi sẽ phải chết, nhưng ngươi đừng tưởng sẽ được chết ngay đâu ta sẽ kéo dài cái chết của ngươi bằng trăm ngàn cực hình .
Người lính dũng cảm của Chúa Kitô mạnh dạn thưa:
- Ngài tưởng tôi sợ cực hình sao? Không đâu! Ngài cho những cực hình đó là ghê sợ, nhưng tôi không sợ chút nào, mà còn ước mong từ lâu.
- Ngươi tưởng rằng, “những của cải quí báu” kia sẽ cứu ngươi thoát những cực hình sao?
- Tôi cậy vào của cải trên trời, đó là lòng Chúa nhân từ thương xót. Thiên Chúa sẽ ban cho tôi được giải thoát, dù khi thân xác tôi phải phanh ra làm trăm ngàn mảnh.
Hoàng đế truyền đánh đòn thầy lần nữa. Đồng thời, Hoàng đế truyền cho lý hình nung đỏ những thanh sắt dí vào khắp mình ngài.
Không kêu la, than trách, thầy ngửa mặt lên trời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương đến tôi tớ Chúa đã bị kết án là không chối Chúa, đã bị tra tấn vì dám tuyên xưng Danh Thánh Chúa giữa trăm ngàn cực hình”.
Hoàng đế tức giận hét lên:
- Mày là thằng phù thủy, mày coi khinh cực hình, nhưng nhân danh các thần minh, nếu mày không tế lễ các ngài, ta sẽ hành hạ mày như chưa từng ai có thể làm được.
Thầy mạnh dạn trả lời:
- Nhờ ơn Chúa, tôi không sợ chút nào, mọi cực hình sẽ qua đi. Chúc Hoàng đế hăng hái thi hành điều ngài dự định để làm khổ tôi.
Được lệnh, lý hình lấy roi sắt tua gắn chì đánh túi bụi vào thân xác ngài, đến nỗi những mảnh thịt bóc ra tung toé. Khắp mình mẩy tím bầm, đẫm máu. Thầy tưởng giờ phút vinh quang đã tới. Nhưng từ trời có tiếng vang lên báo cho ngài biết ngài còn phải chịu đựng thử thách gay go hơn nữa. Chính Hoàng đế cũng nghe thấy những tiếng vang đó, Hoàng đế kêu lên:
- Đoàn quân Rôma, các ngươi không nghe thấy ác quỉ đang kéo tới cứu phạm nhân, khinh dể thần minh và coi thường các khổ hình sao?
Như không để ý đến lời hò hét của Hoàng đế, thầy sốt sắng cầu xin:
- Lạy Chúa, xin thương đến người tôi tớ bất xứng này, con nguyện xin Chúa hãy ban cho những người có mặt đây được trở lại cùng Chúa. Xin Chúa hãy an ủi họ trước toà phán xét.
Bấy giờ, một Thiên thần lấy hình một thanh niên tới an ủi và lau chùi các vết thương cho thầy. Một binh sĩ tên là Rômanô được Chúa cho xem thấy sự lạ này, đã mạnh dạn tiến thẳng tới xin thầy Phó tế Laurensô rửa tội cho anh và sau đó Rômanô cũng được phúc tử đạo.
Hoàng đế Valêrianô vẫn chưa nguôi căm tức, Hoàng đế truyền đặt trước mặt thầy những dụng cụ hành hình có thể làm sởn tóc gáy người xem. Hoàng đế hỏi lý lịch, thầy trả lời:
- Quê tôi ở Tây Ban Nha, từ nhỏ tôi đến ở Rôma được rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công giáo.
- Ngươi tôn thờ Thiên Chúa, Đấng dạy ngươi bất kính các thần minh và coi thường các khổ hình phải không?
- Nhân danh Chúa Kitô, tôi không sợ khổ hình chút nào .
Nghe lời thách thức đó, Hoàng đế căm giận như điên cuồng, truyền nung đỏ giường sắt và đặt thầy lên giường sắt nung đỏ. Lúc đó, ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin nhận hy lễ xông hương thơm ngọt ngào này.
Rồi, quay sang phía Hoàng đế, ngài nói:
- Tâu Hoàng đế, Hoàng đế có biết không, lửa này chỉ làm cho tôi tươi tỉnh hơn, nhưng nó sẽ dành sức nóng để thiêu đốt Hoàng đế đời đời.
Hoàng đế Valêrianô tức giận, sùi bọt mép và trở nên mù quáng trong giận dữ còn thầy tươi cười nói tiếp:
- Hoàng đế không thấy nửa người tôi được nướng chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia để nướng tiếp cho kỹ đi để Hoàng đế có thể ăn thịt nướng này.
Khi lý hình đã lật thầy lên, ngài nói:
- Đã chín rồi, mời Hoàng đế ăn đi.
Lúc đó, đoàn giáo dân đứng vây quanh, thấy một vầng sáng lạ lùng bao quanh thầy và xác ngài toả ra hương thơm ngào ngạt.
Biết rằng cuộc chiến đấu sắp hoàn tất, thầy cảm tạ Thiên Chúa:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì nhờ Chúa mà con sắp được vào nước hạnh phúc,
Rồi ngài tắt thở, hôm đó là ngày 10 tháng 8 năm 258.
Xác thầy được hai linh mục kính cẩn an táng một nơi cách thành phố Rôma hai ngàn thước. Thế kỷ IV, Hoàng đế Constantinô đã xây cất một ngôi thánh đường nguy nga trên chính mộ thánh nhân và được mang tên thánh Laurensô.
Từ thế kỷ thứ IV, người ta đã mừng lễ kính Ngài với một đêm canh thức trọng thể và từ Roma, việc tôn kính Ngài đã lan khắp Giáo hội rất sớm. Các thánh Ambroise ở Milan, Augustin ở Châu Phi và Maxime ở Turin đều có lưu lại những bài giảng về lễ kính thánh nhân. Và sau thánh Ambroise, thánh Prudence cũng kể lại cuộc tử đạo của thánh nhân (công vụ của Polychrone và các bạn, khoảng năm 550).
Mặc dầu nhiều chi tiết trong cuộc khổ nạn đó mang tính huyền thoại, nhưng lại là nguồn gốc cho các điệp ca trong thần vụ. Thánh Ambroise khi kể lại cuộc tử nạn đó một thế kỷ sau nói rằng thánh Laurent bị thiêu trên một giàn sắt. Xác Ngài được an táng trên đường Tiburtina, nửa thế kỷ sau, hoàng đế Constantin cho xây một thánh đưòng trên mộ Ngài: Đây chính là đại giáo đường thánh Laurent ngoại thành, một trong bảy nhà thờ lớn ở Roma, và là nhà thờ chính trong tám nhà thờ của thành phố Rôma dâng kính thánh nhân.
Chuyện về các hành vi trong cuộc khổ nạn của thánh Laurent kể rằng thánh nhân bị bắt vì không tuân luật thuế quan buộc nộp các tài sản Giáo hội cho chính quyền hoàng đế. Sau khi xin khất lại, Ngài tập hợp những người nghèo khó, ốm đau lại và hai ngày sau, Ngài đưa họ đến trước mặt quan quyền và thưa: "Đây là tài sản của Giáo hội!".
Thánh nhân liền bị bắt và tra khảo nhiều lần. Ngài đã trả lời các lý hình: "Tôi tôn thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Chúa, nên tôi đâu sợ cái tra khảo của các ông". Bị đặt trên một vỉ sắt dưới để than cháy, Ngài còn quay lại phía lý hình, đùa: "Anh trở tôi được rồi đấy, bên này chín rồi". Đức giáo hoàng Damase cho khắc trên mộ ngài: "đòn roi, lý hình, lửa thiêu, hình khổ, xích xiềng, tất cả điều thua đức tin của Lôrensô".
Niềm tin và lòng bác ái của thánh Laurent cũng như đức can đảm anh hùng của Ngài qua nhiều thế kỷ là nguồn cảm hứng cho lời cầu nguyện của Giáo hội, lòng đạo đức của giáo dân, rất nhiều tranh ảnh, thậm chí cả kiến trúc ...
Quả thế, Philippe II, để thực hiện lời hứa với thánh Lôrensô, đã xây Escorial trong tỉnh Madrid, theo dạng thiết kế một giàn sắt nhắc nhớ dụng cụ tra tấn thánh phó tế Lôrensô xưa. Còn thánh Bênado thế kỷ XII thì dâng tu viện Thoronet vùng Var để kính thánh nhân. Thánh Lôrensô được nhắc tới trong lời nguyện Thánh Thể và có tên trong kinh cầu các thánh.
Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.
Tin Mừng hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Lôrensô vì tình yêu Chúa.
"Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Theo định luật tự nhiên, để có bông hoa đẹp tươi nở khoe sắc lung linh trên cành, thì nguồn gốc trước kia nó từng là một hạt nhỏ xấu xí, khô lóc. Nhưng khi gặp đất và nước, nó trương lên, nứt nẻ rồi bung ra, ngoi lên mầm sống mới, cây từ từ phát triển đến lúc nở hoa sinh trái. Hạt lúa được gieo vào ruộng bùn cũng phải trương lên, hư thối để mọc lên cây mạ, rồi thành cây lúa tươi tốt và cuối cùng sinh bông hạt trĩu nặng. Đó là một cuộc đánh đổi tự nhiên mà vô cùng lời lãi. Bởi vì “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15, 42-44). Chính Chúa Giêsu đã từ bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự, để rồi sinh ơn cứu rỗi, cho muôn người được ơn cứu độ và bước vào sự sống mới. Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa thật dễ hiểu để áp dụng cho cuộc đời của Người, đồng thời là qui luật chung cho những ai muốn bước theo Ngài. Người chính là hạt lúa được gieo vào lòng đất. Cuộc thương khó và cái chết của Người dẫn tới sự sống bất diệt, để quy tụ dân Do Thái và dân ngoại thành một cộng đoàn đông đảo được hưởng ơn cứu độ.
Trong cuộc đời người Kitô hữu, nếu tôi sẵn sàng chịu bung vẩy trày xước vì lội ngược dòng đời, để sống theo Lời Chúa dạy, chết đi cho những tội lỗi, nết xấu, thì chính Chúa sẽ biến đổi, làm cho tôi được lại sự sống mới, như thánh Phaolô nói: “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào (2Cr 9,10).
“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 25-26). Chúa Giêsu quả quyết: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được-mất trong sự bỏ mình hay giữ lấy, Người đã chứng minh bằng luật tự nhiên: “Nếu hạt giống rơi xuống đất không thối đi, nó sẽ chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ nảy sinh hàng trăm những hạt khác”.
Với ý nghĩa này, ta có thể nhận ra lý do phải hy sinh, “chết” đi để được “sống”. Ai chăm lo tìm kiếm lạc thú ở đời này thì sẽ mất đời sống vĩnh cửu. Còn ai dám từ bỏ bản thân vì Chúa và vì Tin Mừng thì sẽ được hưởng sự sống đời đời mai sau. Người môn đệ - “kẻ phục vụ Thầy” cũng phải đi cùng một con đường như Chúa Giêsu để đạt tới vinh quang. Như hạt lúa, chúng ta cũng phải chết đi cho tội lỗi để sinh nhiều bông hạt.
Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó là thánh Lôrenxô.
Thật ra, người ta biết rất ít về vị thánh này...
Theo tương truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục vụ Giáo Hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtô II, và có lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của Hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.
Chuyện kể lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo Hội và trợ giúp người nghèo. Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo Hội.
Sau khi Ðức Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay đến số phận chờ đợi mình mà Giáo Hội phải trải qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của Giáo Hội, ngài phân phát cho họ. Ðể cung cấp đủ cho số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các chén thánh dùng trong phụng tự...
Hoạt động bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên thị trưởng Roma. Ông cho rằng, Giáo Hội phải có rất nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điệu đến để cung khai về tất cả tài sản của Giáo Hội. Vị phó tế khôn ngoan này đã xin hoãn lại một thời gian để xếp đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo Hội. Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn tật, đui mù, góa bụa, cô nhi... và cho họ xếp hàng đứng trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên bố: "Ðây là tất cả tài sản của Giáo Hội".
Viên thị trưởng đã cho lời tuyên bố này là một thách thức ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như một con thú...
Câu chuyện trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này, chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: ngài đã chết vì Ðức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối với lời mời gọi bước theo Ðức Kitô.
Sống và chết cho Ðức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.
Có nhiều hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người Kitô đang phải trải qua.
Sống trọn vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử đạo từng ngày. Quyết trí trung thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
Quyết trí trung thành với Giáo Hội dù phải chịu những phân biệt đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
Văn sĩ Robert Jordan Mayer đã viết tập sách có tựa đề Tạ Ơn Chúa. Trong đó ông chia ra ba loại cho đi: cho đi vì tức, cho đi vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
- Kẻ cho đi vì tức thường nói: “Tôi không thích cho đi, vì kẹt quá nên đành phải làm như vậy”. Cho đi vì tức thì cho đi rất ít, vì món quà mà không có người cho thì không giá trị.
- Người cho đi vì bổn phận thì nói: “Tôi phải cho đi”. Cho đi vì bổn phận thì cho đi nhiều hơn là cho đi vì tức, nhưng món quà không hấp dẫn, không màu sắc.
- Người cho đi vì lòng biết ơn thì nói: “Tôi muốn cho đi”. Cho đi vì lòng biết ơn thì cho đi mọi sự và làm cho thế gian nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình thuộc loại người nào trong ba mẫu người vừa nêu trên: cho đi vì tức, cho vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Laurensô vì tình yêu Chúa.
Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.
Lạy Chúa,
Xin hãy khắc ghi thật sâu vào tâm trí con Lời Chúa dạy về hy sinh và phục vụ. Vì công nghiệp của thánh Laurentio tử đạo, xin ban cho con ơn can đảm và trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và ngay cả khi phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em.
Ca nhập lễ lễ thánh Laurensô viết rằng: “Đây là thánh Laurensô, Người đã hiến thân phục vụ Hội Thánh: vì thế Người được phúc tử đạo, để hân hoan tiến lên gặp Chúa Kitô”.
Thánh Laurensô đã kiên cường phục vụ Giáo Hội, phục vụ dân Chúa bất chấp những gian nan, thử thách khó nguy, Ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên nước trời.
CON NGƯỜI KIÊN CƯỜNG:
Thánh Laurensô sinh ra trong một gia đình đạo đức: cha mẹ của Ngài là những người rất mực đạo hạnh. Ngài được cha mẹ hạ sinh tại miền Huescô, nước Tây Ban Nha. Vì cha mẹ Ngài rất sùng đạo, luôn ở trung tín với Thiên Chúa, với Hội Thánh và yêu thương mọi người, thánh nhân đã sớm được cha mẹ cho đi du học bên Roma và Ngài sống suốt cuộc đời tại đây. Thánh nhân học giỏi, chuyên cần và siêng năng đạo đức, trau dồi kiến thức, nên chẳng bao lâu tiếng tăm của Ngài đã vang dội khắp nơi. Đức Giáo Hoàng Sixtô liền triệu vời Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc cho tòa thánh. Thời GiáoHội sơ khai, chức phó tế không quá 7 người và chỉ có chức đó mới được chọn làm Giáo Hoàng. Cuộc bách đạo lúc đó nổi lên, Giáo Hội gặp sóng gió lớn, các kẻ thù tìm cách bắt vị thủ lãnh Giáo Hội để làm cho đàn chiên tan tác. Thánh Laurensô luôn kiên cường đi thăm viếng các tín hữu nơi các hang toại đạo, giảng dậy và ban các bí tích. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương các người nghèo nàn, nhất là những người ốm đau, bệnh tật. Thánh nhân bị bắt, bị tra tấn dã man, nhưng Ngài vẫn một mực trung thành với Thiên Chúa, với Giáo Hội, Ngài cảm nghiệm sâu xa lời Chúa “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26)
THÁNH NHÂN LÃNH PHÚC THIÊN ĐÀNG:
Nhà vua đã tìm mọi cách để dụ dỗ thánh nhân bỏ đạo, nhưng thánh Laurensô đã một mực trung thành với Chúa và nhất quyết không bao giờ bỏ đạo. Vua căm phẫn vì không thuyết phục nổi thánh nhân, nên đã hạ lệnh cho lý hình nung đỏ giường sắt và đặt ngài trên đó. Thánh nhân đã vui cười chịu đựng và sau cùng đã ra đi về với Chúa trong bình an ngày 8 tháng 8 năm 258.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, thánh phó tế Laurensô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều Người dậy và noi gương Người mà yêu mến Chúa và anh em (Lời nguyện Nhập lễ, Lễ thánh Laurensô, phó tế, tử đạo).
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Tại sao thánh Laurensô được tôn kính cách đặc biệt như vậy? Thật khó mà trả lời được. Nếu bản tường thuật về cuộc tử đạo của Ngài là đúng sự thật, câu trả lời ấy sẽ rõ rệt.
Sau đây là tóm lược bản tường thuật ấy:
Là tổng phó tế của thánh Xystô, Laurensô gặp Đức giáo hoàng đang bị bắt giữ và trách Ngài đã không cho mình được chia sẻ triều thiên tử đạo với Ngài. Đức giáo hoàng hứa rằng trong vài ngày nữa, Laurensô sẽ được lãnh phúc tử đạo, đau đớn hơn nhiều. Ngài còn truyền cho vị tổng phó tế của mình hãy phân phát tài sản Giáo hội cho người nghèo. Khi những lời này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh.
Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Dêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng: - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Bản tường thuật khó tin nổi. Tác giả đã lẫn lộn hai vị hoàng đế Dêciô và Valêrianô khi coi ông này là tổng trấn dưới quyền ông kia. Hơn nữa, Đức Xystô không bị xử mà bị chặt đầu khi bị giam.
Một cách tổng quát, người ta công nhận rằng: thánh Laurensô là một trong bảy vị phó tế của Đức Xystô và chịu tử đạo vào năm 158. Nhưng nếu Ngài chỉ bị chặt đầu như các bạn thì chắc không đủ lý do để được tôn kính đặc biệt như vậy.
Thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Đêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng: - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
1. Lịch sử - phụng vụ
Theo Depositio Martyrum trong lịch thánh Jérôme, thánh Lôrensô đã tử đạo tại Rôma, trên đường Tiburtina ngày 10 tháng 8 năm 258, bốn ngày sau các phó tế khác bị xử tử cùng với Đức giáo hoàng Sixte II, lễ kính ngày 7 tháng 8 (xem Cyprien, Ep 80). Từ thế kỷ thứ IV, người ta đã mừng lễ kính Ngài với một đêm canh thức trọng thể và từ Roma, việc tôn kính Ngài đã lan khắp Giáo hội rất sớm. Các thánh Ambroise ở Milan, Augustin ở Châu Phi và Maxime ở Turin đều có lưu lại những bài giảng về lễ kính thánh nhân. Và sau thánh Ambroise, thánh Prudence cũng kể lại cuộc tử đạo của thánh nhân (công vụ của Polychrone và các bạn, khoảng năm 550). Mặc dầu nhiều chi tiết trong cuộc khổ nạn đó mang tính huyền thoại, nhưng lại là nguồn gốc cho các điệp ca trong thần vụ. Thánh Ambroise khi kể lại cuộc tử nạn đó một thế kỷ sau nói rằng thánh Laurent bị thiêu trên một giàn sắt. Xác Ngài được an táng trên đường Tiburtina, nửa thế kỷ sau, hoàng đế Constantin cho xây một thánh đưòng trên mộ Ngài: Đây chính là đại giáo đường thánh Laurent ngoại thành, một trong bảy nhà thờ lớn ở Roma, và là nhà thờ chính trong tám nhà thờ của thành phố Rôma dâng kính thánh nhân.
2. Thông điệp và tính thời sự
Các lời nguyện thánh lễ cũng như các bản văn khác trong phụng vụ Giờ kinh tô điểm hình ảnh phó tế Lôrensô, vị tử đạo nổi tiếng nhất của Giáo hội Rôma.
Lời nguyện trong ngày nhắc lại lòng bác ái nồng nhiệt của vị thánh phó tế luôn trung thành với việc phục vụ đến nổi được vinh quang tử đạo, như lời thánh Augustin đã mô tả rất xác đáng: “Anh em biết đấy, trong Giáo hội ở Rôma, Ngài thi hành chức năng phó tế. Chính tại đây Ngài trình bày về Máu thánh Đức Kitô, và chính tại đây Ngài đổ Máu mình vì thánh danh Đức Kitô” (phụng vụ bài đọc: bài giảng của thánh Augustin)
Chuyện về các hành vi trong cuộc khổ nạn của thánh Laurent kể rằng thánh nhân bị bắt vì không tuân luật thuế quan buộc nộp các tài sản Giáo hội cho chính quyền hoàng đế. Sau khi xin khất lại, Ngài tập hợp những người nghèo khó, ốm đau lại và hai ngày sau, Ngài đưa họ đến trước mặt quan quyền và thưa: “Đây là tài sản của Giáo hội!”. Thánh nhân liền bị bắt và tra khảo nhiều lần. Ngài đã trả lời các lý hình: “Tôi tôn thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Chúa, nên tôi đâu sợ cái tra khảo của các ông”. Bị đặt trên một vỉ sắt dưới để than cháy, Ngài còn quay lại phía lý hình, đùa: “Anh trở tôi được rồi đấy, bên này chín rồi”. Đức giáo hoàng Damase cho khắc trên mộ ngài: “đòn roi, lý hình, lửa thiêu, hình khổ, xích xiềng, tất cả điều thua đức tin của Lôrensô”.
Niềm tin và lòng bác ái của thánh Laurent cũng như đức can đảm anh hùng của Ngài qua nhiều thế kỷ là nguồn cảm hứng cho lời cầu nguyện của Giáo hội, lòng đạo đức của giáo dân, rất nhiều tranh ảnh, thậm chí cả kiến trúc... Quả thế, Philippe II, để thực hiện lời hứa với thánh Lôrensô, đã xây Escorial trong tỉnh Madrid, theo dạng thiết kế một giàn sắt nhắc nhớ dụng cụ tra tấn thánh phó tế Lôrensô xưa. Còn thánh Bênado thế kỷ XII thì dâng tu viện Thoronet vùng Var để kính thánh nhân. Thánh Lôrensô được nhắc tới trong lời nguyện Thánh Thể và có tên trong kinh cầu các thánh.
“Nếu hạt lúc mì rơi xuống đất không thối đi thì nó không sinh hoa kết quả”. Ðây là hình ảnh nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu: chết mới nói lên lời, chết mới được tôn vinh. "Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15, 13). Ðức Giêsu đã khải hoàn đi vào Giêrusalem như một vị vua hiền lành và khiêm tốn, cỡi trên mình lừa. Cuộc khải hoàn vinh thăng đưa Chúa Giêsu vào bữa tiệc ly và Ngài loan báo về cuộc tôn vinh sắp tới của Ngài (Ga 12,20-36). Chính lúc chết đi, Chúa Giêsu được Cha của Ngài tôn vinh. Giờ khổ nạn và cái chết thập giá của Chúa Giêsu là giờ Ngài được tôn vinh (Ga 12, 23).
Ðiều này rất phù hợp với cuộc đời của thánh Lô-ren-xô phó tế, vì rằng Ngài được sinh ra ở nước Tây Ban Nha, miền Huescô trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Ngài sống quãng đời niên thiếu với sự ấp ủ yêu thương của cha mẹ. Ngài được cha mẹ uấn nắn, giáo dục trong sự kính sợ Chúa, tuân theo ý Chúa. Thánh nhân sớm rời bỏ gia đình, nước Tây Ban Nha để du học bên Roma và sống trọn quãng đường trần thế ở Roma.
Thánh nhân luôn chứng tỏ là người ham học, tìm tòi và trau dồi tài đức. Ngài có cuộc sống trí thức và đạo đức trổi vượt. Danh tiếng Ngài lan tỏa khắp nơi, vì thế chẳng bao lâu Ðức Thánh Cha biết và cất nhắc Ngài. Ðức Giáo Hoàng Sixtô triệu Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc Tòa Thánh. Vào thời thánh nhân, chức phó tế thuộc giáo triều không được quá 7 người và chỉ có những vị này mới có cơ may lên ngôi Giáo Hoàng.
Thánh Lô-ren-xô luôn nêu gương đời sống thánh thiện cho nhiều người. Ngài sống sự sống của Chúa như lời thánh Phaolô nói: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi". Thánh nhân đã hoàn toàn lột bỏ con người cũ và mặc lấy chính Ðức Kitô. Cuộc sống của Ngài hoàn toàn thuộc về Chúa. Thánh nhân hăng say làm việc tông đồ. Ðiều Ngài lãnh nhận nơi Chúa: "Các con đã lãnh nhận nhưng không, phải cho nhưng không", thánh Lô-ren-xô đã trao ban lại tình yêu cho nhiều người khác, nhất nhất để tôn vinh Ðức Kitô. Ngài ý thức mãnh liệt: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi", nên trước những thử thách, trước phong ba bão táp của cuộc đời, thánh nhân vẫn luôn đặt tin tưởng vào Chúa: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế". Thánh Lô-ren-xô cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa Giêsu: "Thầy đây đừng sợ".
Thánh nhân luôn kiên cường trước cơn bách đạo khốc liệt thời Valerius. Ðánh chủ chiên, chiên sẽ tan nát. Ðó là chủ trương của những kẻ cấm đạo. Thánh nhân đã miệt mài, siêng năng thăm viếng các kitô hữu đang trú ẩn trong các hang toại đạo, khuyến khích, động viên họ kiên cường giữ đạo, giảng dậy cho họ và ban bí tích cho họ. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương những người nghèo, những người cùng khổ, những người bệnh hoạn tật nguyền. Hăng say với sứ mạng loan truyền ơn cứu độ và giới thiệu Ðức Kitô cho người khác, miệt mài, cần cù với công việc, Ngài không sợ hiểm nguy vì Ngài xác tín Chúa luôn hiện diện và Thánh Thần luôn hướng dẫn chỉ bảo. Ngài cứ xông xáo với công việc cứu thế. Ðể cho vinh danh Chúa được chiếu tỏa mãnh liệt, Chúa đã gửi thánh giá cho Ngài. Ngài bị bắt, bị tra tấn dã man và vì không lay chuyển được lòng tin của thánh Lô-ren-xô bỏ đạo, nhà vua đã căm tức cho nung đỏ giường sắt và đặt Ngài nằm trên giường đã được nung đỏ. Ngài quyết một lòng trung thành với Ðức Kitô. Thánh nhân tuy đau đớn thân xác tột độ, nhưng Ngài vẫn tươi cười chịu đựng những cực hình không sao diễn tả nổi. Thánh nhân đã an nghỉ trong Chúa ngày 10/8/258 trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Thánh nhân được đặt làm bổn mạng của những người nghèo và là quan thầy của những quản thủ thư viện, quan thầy của phòng cháy chữa cháy và những nghề nghiệp có liên quan tới lửa.
Mừng lễ thánh Lô-ren-xô phó tế, ta hãy xin Người cầu thay nguyện giúp ta để ta luôn cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: "giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình".
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn biết noi gương bắt chước thánh nhân yêu thương người nghèo và nhiệt tình với sứ mạng mỗi người đã được Giáo Hội trao phó.
Xin thánh Lô-ren-xô thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa yêu mến Chúa.
Phó tế Laurensô Tử Đạo vào ngày 10 tháng 8 năm 258, vào đầu thế kỉ IV các tín hữu rất sùng kính Ngài. Ngay tại Roma, có tới 35 nhà thờ mang tên Laurensô. Suốt năm phụng vụ có 25 lễ kính, trong đó có thánh lễ kính thánh Laurensô và có Kinh Chiều I. Ngài là một trong bảy Phó tế sống bên cạnh Đức Giáo hoàng. Thời ấy, Phó tế được bầu làm Giáo hoàng, nhiệm vụ của Phó tế là giữ tài sản của Giáo Hội do giáo dân dâng cúng để chia sẻ vào việc từ thiện. Đêxyô, vua Rôma đã ra lệnh chặt đầu Đức Giáo Hoàng Sistus II và các phó tế đang dâng lễ với Đức Giáo Hoàng trong hang toại đạo. Riêng có phó tế Laurensô được tha mạng nhằm bắt ông phải hiến tất cả tài sản của Giáo Hội cho vua, vì Laurensô hứa với vua là 3 ngày sau sẽ dâng tất cả. Trở về nhà, Laurensô lấy tất cả tài sản đang quản lý chia cho mọi người nghèo, rồi ông dẫn những người nghèo ấy đến trước mặt vua, thưa: “Đây là tài sản của Hội Thánh, tôi dâng hết cho ngài”. Vua căm phẫn trước cử chỉ ngạo ngược ấy của Laurensô, nên sai nung lửa tấm sắt đỏ rực, rồi trói Laurensô quăng trên đó, nằm trên tấm sắt Laurensô còn khôi hài nói với vua: “Thưa ngài, phía này chín rồi, ngài có thể ăn được!”
Như vậy, Laurensô đã thực thi Lời Kinh Thánh: “Mỗi người hãy cho tùy theo ý định của lòng mình, không buồn phiền, không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9,7: Bài đọc). Laurensô không chỉ rộng tay chia sẻ của cải do giáo dân đóng góp, mà đặc biệt ông đã chia chính mạng sống mình vì Tin Mừng, để làm cho Lời Đức Giêsu nói về những kẻ theo Ngài được ứng nghiệm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
Đó là định luật tất yếu phải xảy ra cho những ai theo Đức Giêsu để sinh nhiều hoa trái việc lành, như Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24: Tin Mừng). Hạt giống vật chất nếu chết đi là thối luôn, không thể mọc lên được. Do đó, ta phải hiểu Lời Đức Giê-su nói “hạt lúa mì chết đi” là ám chỉ chính Ngài sẽ bị giết và được ông Nicôđêmô lãnh xác Ngài an táng trong lòng đất, chưa trọn ba ngày, thì “hạt giống” này đã mọc lên (Chúa Giêsu Phục Sinh), để rồi Ngài sai các Tông Đồ đi khắp thế giới tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc: ban Thánh Tẩy cho họ, và dạy họ mọi điều Đức Giê-su đã truyền cho các ông (x Mt 28,19-20), và cứ như thế cho tới ngày cánh chung, thì từ “hạt lúa mì” ấy đã chết sinh ra biết bao hạt khác, mà thánh Gioan được Chúa cho nhìn thấy trước: “Con Chiên đứng trên núi Sion và với 144 ngàn người, mang danh của Ngài và danh của Cha Ngài viết trên trán họ. Ngoài 144 ngàn người ấy, những người đã được mua chuộc từ cõi đất, họ là những kẻ không bị dây dớm với phụ nữ vì họ trinh khiết; họ được tháp tùng theo Chiên Con bất cứ Ngài đi đâu; họ đã được mua chuộc giữa loài người, làm tiên thường hiến dâng Thiên Chúa và Con Chiên” (Kh 14,1.3b-4).
Những người được Chúa cứu độ đã diễn tả người tôi trung Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã nói: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53, 10-12).
Người tôi trung gương mẫu nhất của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu, Ngài muốn chúng ta giữ được mạng sống mình, thì phải đi trên con đường Ngài đã đi (x 1 Ga 2,6). Chính vì vậy mà Đức Giêsu kêu gọi: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy,Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy”( Ga.12,26 Tin Mừng).
“Đức Giêsu ở đâu, người phục vụ Ngài cũng ở đó” nghĩa là muốn hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa, thì trước đó phải phục vụ giống Đức Giêsu ở đồi Sọ. Tuy nhiên chưa phải chết khổ nhục như Ngài, thì ít ra lúc ở với Chúa Giêsu trong Thánh Lễ, phải quảng đại dâng nhiều thời giờ để nghe, tìm hiểu và suy gẫm Lời Chúa, dù có ngăn trở công ăn việc làm, có tổn thương đến cơ thể làm mỏi mệt, nhưng vì yêu lại thích sự khó nhọc đó. Kìa cô cậu yêu nhau cả ngày làm việc vất vả mỏi mệt, thế mà tối hẹn nhau nơi vắng trò chuyện tới khuya, nói nói, nghe nghe, quên hết cả thời gian. Tại sao người Công Giáo biết rằng vì yêu Chúa mà dự Lễ mới được Chúa ban nhiều ơn, thế mà không muốn nghe giảng nhiều điều, chỉ thích càng vắn càng tốt, 10 phút là dài. Nếu chủ chăn và giáo dân ai cũng nghĩ như thế, thì hỏi rằng có còn yêu Chúa hay là bất hòa, vì cô cậu lúc bất hòa thì chẳng nghe nhau nữa, cực chẳng đã nói mấy điều cho xong việc!
Vậy chỉ những người vì tin yêu Chúa Giêsu mà đến dự Lễ, thì mới được Ngài hứa: “Thầy sẽ đi dọn chỗ cho anh em và khi Thầy trở lại, Thầy sẽ đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng được ở đó” (Ga.14,3), như Ngài đã xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng được ở đó với Con, để chúng được chiêm ngưỡng vinh quang của Con mà Cha đã ban cho Con” (Ga 17,20). Đó là “phúc lộc Chúa dành cho người biết thương xót và cho vay mượn” (Tv 112/111, 5a: Đáp ca). Vì vậy Đức Giêsu quả quyết: “Ai theo Tôi, sẽ không đi trong bóng tối nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12bc Tung hô Tin Mừng)
THUỘC LÒNG
-Hc. 29,12-13: Rộng tay chia sẻ là con chất đầy kho lẫm, và con sẽ thoát mọi nỗi gian nguy. Của chia sẻ sẽ nên vũ khí giúp con chống địch thù, lợi hại hơn cả khiên dầy giáo nhọn.
-Tb. 4,10-11: Việc chia sẻ cứu cho khỏi chết và không để rơi vào cõi âm ty. Vì trước nhan Đấng Tối Cao, của chia sẻ là một lễ vật quý giá.
-2Cor. 9,6-8: Ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện.
-2Cor.9,9: Người rộng tay ban phát cho kẻ túng nghèo, đức công chính của họ tồn tại muôn đời.
-1Ga.3,17: Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thật sự.
-Cv. 20,35: Cho thì có phúc hơn là lấy.
-Giáo sư Alfred Adler nói: Kẻ nào không quan tâm đến người khác, chẳng những nó gặp nhiều khó khăn trên đời, mà còn là kẻ gây tác hại cho xã hội.
-Linh mục Carlyle nói: Muốn biết lòng nhân ái của ai, chỉ cần xem cách người đó đối xử với các tôi tớ.
-Nhà tâm lý học Ive nói: Phần lớn nỗi thống khổ của người nghèo là họ nhìn thấy cách dùng tiền của phung phí, vô ý thức của người giàu.
Sự sống con người vốn đáng quý, bởi nó bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Trong sự vâng phục Chúa Cha, Chúa Giêsu đã được sai đến để yêu thương cứu chuộc con người khỏi mọi tội lỗi, và cho con người sự sống vĩnh cửu. Noi gương Chúa Giêsu, có những người đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu bất diệt vượt trên mọi đau khổ và cả cái chết. Đó chính là thánh Laurensô tử đạo mà hôm nay Giáo hội mừng kính.
Thánh Laurensô sinh tại một thị trấn ở Aragon, nước Tây Ban Nha. Ngay từ khi còn trẻ, Laurensô đã được gửi đi du học ở Rôma. Tại đó, ngài đã được Đức Giáo hoàng Xíttô II trao chức phó tế để phục vụ trong nhà thờ và giúp đỡ những người nghèo như “tài sản của Giáo hội”.
Vào tháng 8 năm 258, Hoàng đế Valerianô ra lệnh cấm đạo, Đức Giáo hoàng Xíttô II bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế, trong đó có Laurensô. Khi bị bắt, viên tổng trấn Roma yêu cầu Laurensô giao tất cả tài sản của Giáo hội cho đế chế. Tuy nhiên, theo lời chỉ dạy của Đức Giáo Hoàng, trước khi ra pháp trường, Laurensô đã phân phát hết tiền của, tài sản của Giáo hội cho người nghèo, ngài còn bán cả các phẩm phục quý giá để có thêm tiền phân phát.
Khi tổng trấn chất vấn về số tài sản ấy thì Laurensô đã khẳng định những người nghèo, những người khuyết tật, người mù lòa và đau khổ mới là những thực sự là ‘tài sản của Giáo hội’. Viên tổng trấn nổi giận, buộc Laurensô phải dâng lễ tiến các thần minh. Vị phó tế Laurensô đã từ khước dù phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên giàn sắt nung đỏ và đã lãnh phúc tử đạo vào ngày 10 tháng 8 năm 258 tại Rôma. Trước khi chết, ngài đã cầu xin cho mọi tín hữu trong thành phố Rôma được ơn trở lại với Ðức Kitô, và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới.
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo được các tín hữu ở Rôma yêu mến một cách đặc biệt. Thời Trung Cổ, đã có ít là 34 thánh đường ở Rôma được dâng kính thánh nhân. Ngài cũng là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Thánh Laurensô đã sống triệt để Lời Chúa dạy, như hạt lúa mì chịu chôn vùi dưới đất, thánh nhân đã chịu mục nát trong thân phận con người để trỗi dậy mạnh mẽ trong sức sống mới của Thiên Chúa. “Người được lãnh nhận Đấng trao ban chính mình tại bàn tiệc thánh thế nào, thì người cũng trao hiến chính mình làm của ăn cho người khác như vậy. Khi sống người yêu mến Đức Kitô, thì lúc chết người cũng bắt chước Đức Kitô. Các thánh tử đạo đã đi theo Đức Kitô đến nỗi chịu đổ máu, chịu đau khổ như Người. Các thánh tử đạo đã đi theo Đức Kitô, nhưng không phải chỉ có các ngài thôi. Quả thế, các ngài đi qua, cầu vẫn chưa sập; các ngài uống nước, suối vẫn chưa khô. Thưa anh em, vườn của Chúa có đủ các loại hoa: không phải chỉ có hoa hồng tử đạo, mà còn có hoa huệ khiết trinh, có dây trường xuân hôn nhân, có hoa tím góa bụa”. [1]
Mỗi người chúng ta dù ở bậc sống nào cũng được mời gọi góp hương sắc cho vườn hoa của Giáo hội. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính mình khi gặp những đau khổ thử thách, đó chính là trường đào luyện để chúng ta nên giống Đức Kitô “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Chúng ta dễ dàng theo Chúa khi được những điều may lành, nhưng cũng dễ dàng bỏ Chúa khi gặp khó khăn thử thách. Vì thế chúng ta phải tha thiết xin Chúa ban ơn để chúng ta đủ sức đón nhận những nghịch cảnh trong niềm tín thác. Các thánh cũng là những con người yếu đuối như chúng ta, nhưng các ngài biết dựa vào sức mạnh của Chúa và quy hướng mọi sự về Chúa.
Cuộc sống xã hội hôm nay luôn cần những con người biết yêu mến và bảo vệ Giáo hội, nhất là những người nghèo khổ. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm nhận rằng “Khi đời sống nội tâm tự khép kín trên những hứng thú riêng tư, thì sẽ không còn chỗ cho kẻ khác, người nghèo không tìm được lối vào; người ta không còn nghe được tiếng của Thiên Chúa; không còn hưởng được niềm vui êm ái tình yêu của Người, không còn hứng thú làm việc thiện” (EG 2). Vì thế, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hãy canh tân việc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô để có được sức bật mới mẻ tràn đầy niềm vui, biết ra đi trao tặng yêu thương, sự quan tâm chia sẻ với những người nghèo khổ và những ai đang đói khát tình thương cứu độ.
Ngày hôm nay, chúng ta không còn phải tử đạo qua gươm giáo hay lửa nung thiêu đốt, nhưng chúng ta có thể làm chứng cho Tin Mừng bằng thái độ sống công bằng bác ái, bằng lòng thương cảm đối với những người nghèo khổ, người bị gạt ra bên lề xã hội, những con người bị tước mất quyền sống và quyền được hưởng tự do là con cái Chúa. Noi gương thánh Laurensô, chúng ta hãy cùng nắm lấy tay nhau tạo nên một vòng tròn yêu thương, lan tỏa và tiếp thêm sức mạnh của Chúa cho thế giới đang từng ngày nghèo đi và thiếu vắng tình thương.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng đã đến thế gian để yêu thương và cứu chuộc nhân loại nghèo khổ, xin cho chúng con biết đón nhận những điều trái ý trong cuộc sống, biết thánh hóa những đau khổ trở thành ân phúc thiêng liêng mang lại cho chúng con niềm hạnh phúc đích thực.
Thánh Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo hội và những người nghèo, xin cho chúng con cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân, trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu đau khổ bách hại. Amen.
1/ Thánh Laurensô sinh tại Huescô nước Tây Ban Nha. Cha mẹ Ngài là những người đạo đức. Ngài rời quê hương để đi du học Roma và đã sống suốt cuộc đời trần thế tại đây.
2/ Ngài là một trong bảy phó tế được giáo hội chọn để đứng ra giúp đỡ người nghèo và Ngài được giao cho trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo hội. Khi đạo bị cấm cách dưới thời Hoàng đế Valerian bùng nổ, Đức Giáo Hoàng Sisto bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác.
3/ Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Laurensô chạy theo khóc lóc nức nở: "Cha ơi, Cha đi đâu mà không cho nô bộc này đi theo?" Ðức Giáo hoàng trả lời: "Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta”.
4/ Nghe những lời như thế, Laurensô thật vui mừng, Ngài về lấy hết tiền của trong kho của Giáo hội phân phát cho người nghèo, và còn bán hết những phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.
5/ Khi những điều này tới tai Hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Khi bị điệu ra trước mặt Hoàng đế, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Ông được dành cho 3 ngày để thâu thập của cải. Khi đã tới kỳ hạn, Ngài dẫn hết những người nghèo tới trình diện với Hoàng đế, như là tài sản của Giáo hội. Nhà vua nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Thánh nhân từ khước nên phải chịu mọi cực hình, Ngài bị nướng trên vỉ sắt nung đỏ. Khi sắp chết, Ngài còn khôi hài nói với Hoàng đế: “Một bên đã chín rồi, hãy nướng bên kia nữa mà ăn”.
6/ Sau đó, trước khi chết, Ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài đã lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 158 (sau CN).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con noi gương bắt chước Thánh Laurensô một lòng vì yêu Chúa, yêu Giáo hội và hết lòng phục vụ người nghèo. Xin cho con có được tấm lòng quảng đại như Thánh nhân, một lòng trung kiên làm chứng cho Chúa, cho dù có chịu mọi thiệt thòi trong thân xác. Amen.
Ở đời, nhiều người cúc cung phục vụ “sếp” của mình, mong có được ô dù để giúp mình thăng tiến trên quan lộ. Khi kêu gọi những ai theo Ngài phải “phục vụ”, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta theo một cung cách sống khác. Trước hết đó là cung cách của Ngài, là một vị Thầy, chứ không phải là một ông “sếp” lớn đòi “được kẻ hầu người hạ”, vì Ngài là Đấng đến để “phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (x. Mt 20,28). Và đó cũng là cung cách của những ai muốn “theo Thầy Giê-su”: những ai “phục vụ Thầy thì cũng ở với Thầy”; họ cũng trở nên “người rốt hết” (Mc 9,35) giống như Thầy; và nếu Thầy đã “rửa chân cho họ” thì họ cũng phải “rửa chân cho nhau” (x. Ga 13,13-15).
Mời Bạn: Thầy Giê-su của chúng ta là vậy. Theo Thầy Giê-su là ở với Thầy và làm những gì Thầy làm. Thầy ở trong tâm hồn tôi, mời gọi tôi ở lại với chính mình, nơi sâu thẳm, thầm kín nhất của tâm hồn mình, là sống và hành động trước sự hiện diện của Thầy. Thầy ở trong tha nhân, trong cả những người tôi không thích; Thầy bảo tôi, yêu họ là yêu Thầy (x. Ga 21,16). Thầy ở nơi mỗi tình huống lớn nhỏ của đời tôi, Ngài mời gọi tôi nhớ đến Ngài và cùng với Ngài suy nghĩ hành động và gặp gỡ tha nhân theo cung cách của Thầy, người đến để phục vụ.
Sống Lời Chúa: Làm việc bổn phận hằng ngày của mình trong tâm thế của Thầy Giê-su là phục vụ bắt đầu từ người gần mình nhất.
Cầu nguyện: Lạy Thầy Giê-su, xin cho con được theo Thầy, phục vụ Thầy và được ở lại với Thầy như ý Thầy muốn. Amen.
------------------------------------------
Suy Niệm 19. Thánh Laurensô, vị thánh bảo trợ nghệ sĩ hài
--Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Duc Trung Vu, CSsR, Từ: aleteia.org (10.8.2019)
WHĐ (9.8.2021) - Hồi thế kỷ thứ 3, có bảy thầy phó tế trợ giúp công việc cho Đức Giáo hoàng Sixtus II tại Rôma. Đế chế Rôma vẫn là một nơi đầy thách thức đối với những người tin Chúa và triều đại của Hoàng đế Valerian cũng không phải là ngoại lệ.
Điều khiến Thánh Laurensô rơi vào tầm ngắm của Hoàng đế La Mã là vì vị Hoàng đế cho rằng: Giáo hội Công giáo sở hữu một lượng lớn kho báu. Một viên quan đã tra hỏi Laurensô về vị trí cất giữ kho báu của Giáo Hội, và Thánh Laurensô trả lời đơn sơ: “Hãy đón lấy những người nghèo này. Họ chính là những kho báu mà tôi đã hứa sẽ chỉ cho các ông kiếm tìm; ngoài ra còn có những viên ngọc trai và đá quý, ấy chính là những góa phụ và các trinh nữ được thánh hiến, họ là vương miện của Giáo hội.”
Câu trả lời thông minh của thánh nhân không được đón nhận và do đó ngài đã bị cầm tù. Không mất nhiều thời gian để vua quan Roma kết án thánh Laurensô bằng một cái chết dã man, vì ngài cương quyết từ chối tôn thờ các vị thần Rô-ma. Người ra còn thuật lại những gì xảy ra tiếp theo và đây sẽ là lý do giải thích tại sao thánh Laurensô được nhiều diễn viên hài nhận làm thánh quan thầy.
Những kẻ hành quyết đã lột trần thánh nhân, đặt ngài trên vỉ sắt, chất đống than cháy dưới đó và ấn những chiếc chĩa sắt đã nung nóng lên người ngài. Và với vẻ mặt vui vẻ thánh Laurensô nói với viên quan Rô-ma: "Nhìn kìa, ông đã nướng chín tôi ở một bên rồi, bây giờ lật tôi lại bên kia và sẵn sàng ăn nhé!"
Câu nói hài hước này đã khiến những người hành quyết phẫn nộ, họ tăng nhiệt và làm cho thánh Laurensô chết cháy.
Một trong những lý do giúp thánh Laurensô có thể tìm thấy sự nhẹ nhàng thanh thản trong hoàn cảnh đen tối như vậy, đó chính là niềm tin của ngài vào Thiên đàng. Ngài biết rằng chết vì Đức tin sẽ mở đường cho phần thưởng vĩnh cửu của ngài và vì thế cái chết không còn đáng sợ. Thực vậy, ngài đã đón nhận lấy cái chết trong an bình. Những lời cuối cùng của thánh nhân là một lời cầu nguyện với Chúa, "Con cảm tạ Chúa, vì con đã xứng đáng để đi qua cổng Nhà Chúa!"
Tấm gương của Laurensô về đức tin tràn đầy niềm vui giữa đau khổ là một tấm gương cho tất cả chúng ta. Nụ cười của thánh nhân ngay trong những giây phút đau khổ đến cùng cực nhất nhắc nhở chúng ta rằng: chúng ta đừng để mình trở thành những Ki-tô hữu mang vẻ mặt buồn rầu, u ám. Như thánh Laurensô, ngay trong đau khổ vẫn tìm được một lý do để mỉm cười!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? "Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".
Con đường của người môn đệ Thầy Giêsu là con đường không êm ả. Ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần đầu về số phận sắp đến của mình, Ngài đã nói đến số phận của các môn đệ (cc. 24-28). Họ được mời chia sẻ cùng một thân phận với Thầy và như Thầy. Thầy trò sẽ phải đi qua con đường hẹp, con đường của khổ đau và cái chết. Nhưng cuối cùng con đường ấy dẫn đến phục sinh (Mt 16, 21). Phục sinh, sự sống, niềm vui, sẽ chiến thắng. Chiến thắng ấy chỉ mua được bằng khổ đau và cái chết tự nguyện. Như thế điều kiện để giữ được sự sống đời sau là dám mất sự sống đời này. Đây thật là một liều lĩnh của đức tin, vì nếu không thực sự tin vào đời sau, thì chẳng ai muốn thả mồi bắt bóng. Cuộc đời này có nhiều điều chân thiện mỹ, có nhiều giá trị đáng trân trọng. Nhưng lắm khi cũng phải hy sinh chúng cho những giá trị lớn hơn, cho Đấng là Chân Thiện Mỹ viết hoa, là Giá Trị của mọi giá trị. Cái tôi của tôi là một giá trị lớn, là quà tặng độc đáo Chúa ban cho tôi. Chẳng có hai cái tôi giống nhau dưới mắt Chúa. Cùng với cái tôi, Chúa ban cho tôi tự do, lý trí, trái tim, thân xác… Chúa còn ban cho tôi vũ trụ vật chất với bao tài nguyên để tôi sống nhờ, và cả một thế giới với bao cái tôi khác, để tôi sống với như anh em. Cái tôi là món quà quý nhất Chúa ban cho tôi. Cái tôi cũng là món quà quý nhất tôi có thể dâng lại cho Chúa. Nhiều tôn giáo nói đến từ bỏ cái tôi, phá chấp ngã. Đức Giêsu cũng mời bất cứ ai muốn bước theo Ngài phải từ bỏ chính mình, không phải vì cái tôi của mình là xấu xa, đáng ghét, nhưng chỉ vì nó chỉ là thụ tạo trước mặt Đấng Tạo Hóa đã dựng nên nó. Từ bỏ chính mình là đặt mình ở dưới Thiên Chúa, không coi mình là trung tâm, và để cái tôi của mình trọn vẹn tùy thuộc vào ý muốn của Ngài. Thầy Giêsu đã sống từ bỏ mình như vậy trong suốt cuộc đời trần thế. Ngài luôn sống như một người con thảo, một người được Cha sai. Lạ thay, chính lúc từ bỏ mình, múc cạn chính mình, hủy mình ra không, thì Ngài lại được phục hồi chính mình và được siêu tôn trên mọi sự (Pl 2, 9). Trong Kitô giáo, cái tôi được thanh luyện, nhưng không bị loại bỏ. Cái tôi ấy cũng không bị Thiên Chúa nuốt chửng hay hòa tan. “Ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (c. 25). Như thế từ bỏ mình là cách duy nhất để giữ mình cho toàn vẹn. Chẳng thể nào yêu mến và phục vụ lại không gắn liền với việc từ bỏ mình. Có khi từ bỏ một định kiến hay tự ái, một quyền lợi hay ảnh hưởng riêng, cũng khó như một hy sinh mạng sống. Vác thập giá của mình là vác gánh nặng của bổn phận mỗi ngày, vác yếu đuối của người anh em mỗi ngày, vác cuộc đời mình mỗi ngày. Thầy Giêsu đòi chúng ta vác thập giá của mình mà theo Thầy cho đến chết. Vì Thầy là Con Thiên Chúa, vì Thầy đã lấy lại được sự sống, nên chúng ta tin tưởng vác thập giá bước đi sau Thầy. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con. Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con. Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con. Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con. Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con. Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con. Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con. Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con. Trước khi con đặt Chúa lên trên hết, Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa. Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy. Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi. Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen. ------------------------------------------
Ai cũng muốn được. Không ai chịu mất. Nhưng thế nào là được và thế nào là mất thì không phải ai cũng hiểu. Nhất là vì con người có hai đời sống. Đời này và đời sau. Trong hai đời sống hai cách được và mất khác nhau. Được ở trần gian là thực tế trước mắt nên nhiều người tìm kiếm. Được ở Nước Trời xa vời nên nhiều người không thấy. Tuy nhiên được ở trần gian mau qua như trần gian. Được trên Nước Trời là vĩnh viễn. Được ở trần gian không bao giờ thoả mãn. Được trên Nước Trời là hạnh phúc trọn vẹn. Khác biệt lớn lao và khó khăn nhất là cách chiếm đoạt rất khác nhau. Được ở trần gian do vun quén cho bản thân. Được trên Nước Trời lại thủ đắc bằng từ bỏ hết những gì ở trần gian, kể cả bản thân và mạng sống mình. Như lời Chúa phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được ở trên Nước Trời là sự sống vĩnh cửu, dù cả trần gian cũng không so sánh được. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”? chính Chúa mới là Chúa Tể trời đất, có quyền xét xử định đoạt số phận chúng ta. Trần gian chỉ chiếm được đời này. Phải bó tay trước đời sau. Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Ai bỏ Chúa theo trần gian chỉ được một chút đời này. Ai bỏ trần gian mà theo Chúa chỉ bị thiệt thòi một chút đời này. Nhưng sẽ được đời sau vô cùng phong phú sung mãn không gì sánh được. Thiên Chúa làm chủ. Điều đó được chứng tỏ qua dòng lịch sử.
Thời Mô-sê Thiên Chúa đã cứu người Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập. Ít-ra-en đang nô lệ bỗng thành tự do. Đang tản mát bỗng thành một dân tộc. Đang bơ vơ bỗng được đất chảy sữa và mật. Đang yếu ớt bỗng chiến thắng quân đội Ai cập hùng mạnh nhất thế giới thời ấy. Đó chính là vì Chúa là Thiên Chúa của họ (năm lẻ).
Ít-ra-en phản bội nên bị Chúa phạt. Phải làm nô lệ cho Ni-ni-vê. Nhưng rồi đến ngày Chúa phục hồi dân Chúa. “Phải, đức Chúa khiến cho Gia-cóp và Ít-ra-en lấy lại sức kiêu hùng”. Ngài cho Ni-ni-vê hùng mạnh một thời gian. Rồi trừng phạt vì họ không tuân hành thánh ý. “Bấy giờ, hễ ai nhìn thấy ngươi cũng đều phải tránh xa và nói: “Ni-ni-vê đã bị phá tan hoang!” Ai còn cảm thương nó? Ta tìm đâu cho ngươi những người an ủi”? (năm chẵn).
Hôm nay Chúa mời gọi tôi. Hãy khôn ngoan đừng khờ dại. Hãy biết chọn Thiên Chúa chứ đừng chọn thế gian. Hãy biết bỏ đời này để được đời sau. Được chính Chúa. Là hạnh phúc muôn đời.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về những điều kiện để được làm môn đệ Ngài: từ bỏ mình, vác Thập giá, và đi theo Chúa Giêsu. Cả ba kiểu nói đều đồng nghĩa với nhau, và đều nói lên cái cốt yếu của đời sống Kitô hữu, đó là đón nhận đau khổ như chính Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết dành cho Ngài.
Chúa Giêsu đã đưa ra những điều kiện trên đây liền sau khi Ngài loan báo về cuộc tử nạn của Ngài: Ngài sẽ bị đau khổ và bị treo trên Thập giá. Thập giá vốn là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả vì cuộc sống và giáo lý của Ngài. Như vậy tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải trải qua con đường Thập giá ấy. Thật ra, đau khổ vốn là phần số chung của mọi người: đã mang tiếng khóc vào đời là mang lấy cả thân phận khổ đau, có khác chăng là thái độ của con người trước đau khổ mà thôi.
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của khổ đau, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận khổ đau; chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.
Bức tượng Mẹ Maria bồng xác Chúa Giêsu trên tay, do danh họa Michel-Angelo thực hiện và hiện được đặt tại Ðền thờ thánh Phêrô ở Rôma, là một trong những kiệt tác về sự đau khổ. Mẹ Maria ôm xác Chúa Giêsu trong vòng tay Mẹ, không gì buồn thảm bằng; thế nhưng đó cũng là một trong những kiệt tác về yêu thương. Tất cả đều tùy thuộc thái độ của con người trước khổ đau. Con người có thể trốn chạy khổ đau, con người có thể suốt một đời phàn nàn về khổ đau. Nhưng con người cũng có thể biến khổ đau thành một hành động yêu thương; đó là thái độ của Chúa Giêsu và cũng phải là thái độ của tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Nơi nào có Thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài ngay trong khổ đau, để giữa những giờ phút tăm tối và thử thách, chúng ta vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống.
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình? (Mt. 16, 24-26)
Đây là vấn đề lớn được Đức Kitô nói với mỗi người chúng ta! Bạn có yêu tôi không? Bạn có yêu tôi hơn những người kia không? tình yêu của bạn đối với tôi tới mức nào? bạn yêu tôi thì hiến trọn vẹn tình yêu của bạn, ai yêu như thế thì không còn là mình nữa, nhưng hoàn toàn là người mình yêu!
Yêu…
Bạn thấy không: Đức Kitô yêu chúng ta trọn vẹn. Người hiến thân trọn vẹn cho chúng ta và hỏi chúng ta có yêu Người trọn vẹn không? chúng ta hãy hiến dâng mình để sống được cảm nghiệm được tình yêu biết yêu mến độc nhất ấy! Hãy hỏi mình xem đã yêu bao nhiêu. Có giống Người không? có yêu đến cực điểm của con người mình không? có như Người yêu chúng ta đến giọt máu cuối cùng không?
Không phải chúng ta đã làm Đức Kitô chết, nhưng chính Người đã tự hiến mạng sống Người cho mỗi người chúng ta. Và Người có quyền hỏi chúng ta bằng câu cốt yếu độc nhất này: bạn có yêu tôi không?
Dù ở hoàn cảnh nào, nghề nghiệp nào, Đức Giêsu đều hỏi: bạn có yêu tôi không?
Không có thể so sánh với người khác. Đây là câu hỏi cho chính bản thân mình, mỗi cá nhân hãy tự hỏi và tự trả lời một cách tự do, một câu trả lời hợp với khả năng yêu mến của mình.
Ngày nay.
Phải nói rằng Thiên Chúa gần chúng ta một cách kỳ lạ, hằng ngày trong đời sống chúng ta, kích thích từng tiếng nói của chúng ta để lời Ngài 2000 năm được hiện tại hóa vào nếp sống con người chúng ta ngày nay.
Tình yêu không biên giới, không già, khắc phục mọi xa cách không gian và thời gian!
Ngày nay, khi đi phỏng vấn để xin việc, người ta thường đòi hỏi những điều kiện về sức khỏe và chuyên môn, đồng thời tùy một số công việc đặc thù, cần phải có sự thỏa thuận cụ thể hơn. Cũng vậy, khi được gọi để trở thành môn đệ, Đức Giêsu cũng đòi hỏi người môn sinh phải hội đủ những điều kiện cần thiết để chu toàn bổn phận của người thừa sai, hầu những ai được gọi và chọn thì đều cảm thấy hạnh phúc khi thi hành sứ vụ của người sai đi.
Hôm nay, bài Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu đòi hỏi những người Ngài muốn gọi và chọn để ra đi thi hành sứ vụ cần phải “từ bỏ mình và vác thập giá theo Ngài”.
Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Tuy nhiên, nhìn dưới khía cạnh của Kinh Thánh, thì sự đòi hỏi này của Đức Giêsu mang tính tự do cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc. Tức là tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, hay ăn trên ngồi trước, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi và niềm vui của kẻ khác.
Từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo, tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường hẹp. Con đường của hy sinh, thiệt thòi. Con đường của tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.
Thật vậy, từ bỏ chính mình quả là điều khó nhất, bởi vì: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3). Nhưng nhiều người lại có suy nghĩ là: bỏ tất cả, nhưng từ bỏ mình thì nhất quyết không, bởi vì họ từ bỏ cái tôi thì phải chăng họ không còn là họ nữa!
Tuy nhiên trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết an vui khi chọn Chúa làm gia nghiệp. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.
Sứ điệp: Để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu đã bằng lòng đón nhận khổ đau và chịu chết trên thập giá, nên Chúa đã được phục sinh vinh quang. Chúa mời gọi ta là môn đệ Ngài, hãy bước theo Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã yêu thương con và đã để lại cho con một mẫu gương yêu thương tuyệt vời. Cuộc đời của Chúa chiếu tỏa rạng ngời tình yêu cứu độ. Chúa đã yêu thương và yêu đến cùng, dù phải chịu bao gian nan, bao chống đối, bao khổ đau và cả cái chết trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã bằng lòng đón nhận tất cả vì yêu, vì Chúa mời gọi con chấp nhận cùng mang lấy thân phận tôi tớ với Chúa trong cuộc sống và trong cái chết.
Xin cho con hiểu và xác tín rằng phải qua thập giá mới được vinh quang phục sinh. Xin cho con can trường quảng đại trước gian nan khổ đau vất vả, để đem lại hạnh phúc, niềm vui và ơn cứu độ cho mình và anh em. Con sẽ chấp nhận khổ đau không chỉ vì khổ đau, nhưng vì muốn biểu lộ tình yêu cứu thế. Xin giúp con quảng đại hy sinh để cộng tác với Chúa làm cho Nước Trời lớn lên trong con, trong gia đình, trong xóm ngõ, trong giáo xứ, và góp phần làm cho bộ mặt trần thế nên trời mới đất mới.
Lạy Chúa, xin cho con ghi nhớ Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì?”. Con vẫn thường đi tìm những cái lợi mau qua trước mắt mà coi nhẹ sự sống linh hồn và chẳng quan tâm đến số phận đời đời. Xin Chúa giúp con hằng ngày biết hy sinh, từ bỏ chính mình để theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình”.
Khi nhắc đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí ông Leonardo de Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích, hoặc đặt ra những câu chuyện vui sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa một tờ giấy trắng và cái bút:
Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lì trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cái bút như sau:
- Tại sao anh lại làm thế? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi như thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.
Nhưng cái bút trả lời:
- Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ kể từ nay anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người. Lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.
Tờ giấy chưa kịp trả lời cái bút thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nay đã đổi màu, đầy bụi mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cái bút và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người (R.Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 52).
Suy niệm
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ, đồng thời cũng nói với mọi người chúng ta, người tin theo Ngài như môn sinh: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Mối tình thâm sâu của người môn sinh Chúa Giêsu được biểu tượng bằng hình ảnh thập giá, chính thập giá liên kết vận mệnh của môn đệ với vận mệnh của chính Thầy: Thầy sao trò vậy, như Chúa Giêsu đã từng quả quyết: “Môn sinh không hơn Thầy”, Thầy vác thập giá, trò cũng mang thập tự. Như lời Chúa mời gọi các môn đệ, chúng ta cũng được mời gọi đi theo bước chân Ngài: Bước đầu là từ bỏ và vô hiệu hóa những ràng buộc chính mình với thế gian, để được tự do thanh thoát dưới ân sủng của Thánh Linh và tình yêu, bước tiếp những bước đi mới, những bước đi huyền nhiệm thập giá để có thể tiếp nhận khổ đau và cái chết theo kế hoạch và tình yêu của Chúa Cha, như Thầy đã bước đi trong hành trình thập giá tiến về đồi Canvê. Trong thập giá, khám phá ra sự phục sinh vinh quang, mà Thầy Giêsu đã khai mở bằng sự phục sinh của chính Ngài khi bước qua thập tự.
Hình ảnh đó được ẩn dụ dưới hình ảnh chim cú đã phát triển được đôi mắt sáng nhờ “bị” đẩy vào bóng đen. Chính trong bóng tối, chim cú được khai mở khả năng thấy sáng của mình và bóng đêm không thể khuất phục được sức sống của chim cú ngay trong đêm. Hình ảnh chim cú sáng mắt trong đêm tối là biểu tượng của sự khám phá ra nét công hiệu của những “mũi tên ngược” trong cuộc sống của kiếp nhân sinh, cách đặc biệt của đời sống niềm tin đó là những thập giá mà chúng ta mang qua những thử thách, với những chén đắng mà chúng ta uống xuyên qua những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống. Thập giá và chén đắng này làm bừng sáng con mắt đức tin và khai mở con mắt tình yêu nơi người sống trong huyền nhiệm thập giá. Chính họ có một nhãn quan mới nhìn vào cuộc sống với biết bao nhiêu biến động có thể mang dáng dấp của bóng tối.
Trong thập giá tình yêu trở nên hy lễ sống động: Hy lễ tình yêu mà Chúa Giêsu dâng tiến lên Chúa Cha để đền tội cho nhân loại. Hy tế đó luôn kéo dài trong lịch sử và mời gọi mọi người chúng ta bằng sự đóng góp của bản thân tham dự vào hy tế qua cuộc sống được thánh hóa dưới thập giá, như tâm tình thánh Phaolô khuyên tín hữu thành Rôma “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).
Hãy cùng lên Giêrusalem để vác thập giá theo Chúa là lời mời gọi từ bỏ những thực tại hào nhoáng phù du lôi kéo con người đi vào thế gian với vỏ bọc an toàn tạm bợ “được cả thế giới”, nhưng lại đánh mất chính mình, mất tư cách bạn hữu, mất tư cách môn sinh. Từ bỏ tất cả để vác thập giá tiến lên Giêrusalem, để tôi và bạn được như thánh Phaolô: “Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô” (Pl 1,21) và “biết Đức Kitô là một mối lợi” (Pl 3,8). Khám phá ra thập giá trong đời mà mỗi chúng ta mang và tiến đến đồi Canvê với một tinh thần “vượt qua” mang tình yêu Thiên Chúa.
Nơi thập giá, Ngài mời gọi tôi và bạn cùng xốc vác cuộc đời, trong đó có cái tôi của tài năng, thánh thiện, nhưng cũng có sự khiếm khuyết, bất toàn, đau khổ, thử thách… Ngài không ngừng cứu thoát chúng ta, và chúng ta vác thập giá là cùng Ngài chiến đấu như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy cùng tôi chiến đấu...” (Rm 15,30).
Từ bỏ mình vác thập giá và nhờ đó mà thập giá của tôi và bạn trở nên hy lễ tình yêu, để xứng đáng tham dự vào hiến tế sống động của Chúa Kitô trên thập giá.
Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường Thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo: “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”.
Lời tuyên bố trên là một điều kiện Chúa đề ra và đòi ý chí tự do của mỗi người. Chúa không cưỡng bách ai, Chúa không ép buộc ai phải theo Chúa. Đây là quyền tự do của con người để có thể tự do lựa chọn hay từ chối, nhưng mỗi người phải chịu trách nhiệm về sự tự do lựa chọn của mình.
Đối với người Do thái thời ấy hằng ngày chứng kiến những tội nhân vác khổ giá ra nơi hành hình, thì chắc hẳn hình ảnh mà Đức Giêsu dùng trong Tin mừng hôm nay đã quá rõ ràng. Cuộc sống của những người theo Đức Kitô cũng như của chính Ngài là cuộc sống của từ bỏ, hy sinh, chấp nhận đau khổ. Chúa Giêsu không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình.
Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống. Tại sao con người phải đau khổ? Tại sao con người phải vác thập giá? Chúa Giêsu không đưa ra một giải đáp nào. Ngài vác lấy Thập giá. Ngài sống như một con người đau khổ, và Ngài nói với chúng ta: Thập giá là con đường giải thoát, con đường dẫn tới sự sống... (Mỗi ngày một tin vui).
“Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Qua câu nói này, Chúa muốn dạy các môn đệ cũng như mọi người thấy rõ những gì họ tin và bằng lòng trả giá. Chúa muốn những ai tin Chúa, phải quyết tâm đi vào con đường mà Chúa đã đi. Đó là con đường từ bỏ mình và vác thập giá. Từ bỏ mình là từ bỏ con người vị kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi, ti tiện, sai trái, từ bỏ tất cả những gì mình muốn nhưng Chúa không muốn để hoàn toàn trống rỗng mà chứa đựng một mình Chúa thôi. Còn vác thập giá mình là chấp nhận và chịu đựng những đau khổ tinh thần và thể xác của cuộc đời.
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của đau khổ, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận đau khổ, chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.
“Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất...”.
Muốn hiểu câu nói này, chúng ta phải biết thánh Mátthêu viết sách này vào khoảng năm 80-90 SC, nghĩa là ông viết vào những ngày cay nghiệt nhất. Những lời này có ý nói rằng: “Đã đến lúc con người có thể cứu mạng sống mình bằng cách chối bỏ niềm tin, nhưng như thế thì chẳng những không cứu được mạng sống mình theo đúng nghĩa thật sự mà là đánh mất nó”. Người giữ lòng trung tín có thể chết, nhưng chết để mà sống. Còn người bỏ đức tin mình để được an thân thì có thể sống để mà chết. Trong thời đại chúng ta, không có những cuộc cấm đạo khắt khe như thế, nhưng của cải vật chất, chức quyền, danh vọng... có thể làm cho chúng ta chết mà mất linh hồn.
Thánh Matthêu đã dùng từ “Sự sống” để nói lên hai thực tại khác nhau: sự sống trần gian và sự sống đời đời. Sứ điệp của Chúa xem ra ngược đời và chói tai, nhưng nếu không chế ngự tính ích kỷ và không dẹp bỏ những tham vọng của mình, chúng ta sẽ làm hư đi cuộc sống hiện tại lẫn cuộc sống tương lai. Nếu không dám liều, không thích nghi chương trình sống theo các bậc thang giá trị của Chúa, chúng ta sẽ đứng ngoài lề Tin mừng và tình yêu của Chúa.
Khi kêu gọi con người từ bỏ mình để đi theo Ngài, Chúa Giêsu cũng không mời gọi con người khinh chê hay ghét bỏ sự sống đến mức huỷ diệt sự sống, nhưng là đừng để mình làm nô lệ cho lợi lộc vật chất, trái lại đặt Chúa và tìm kiếm Nước Chúa trên hết mọi sự.
Truyện: Thánh giá vừa sức mình
Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một ngày kia, thiên thần hiện đến phán bảo:
- Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và lựa chọn thánh giá vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:
- Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
- Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo: “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”
Khi giải thích ý nghĩa con đường thập giá ấy, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”.
B.... nẩy mầm.
1. “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”: Chúa không ép tôi theo Ngài, Chúa không buộc tôi bỏ mình và vác thập giá. Ngài chỉ mời tôi thôi và cho tôi tự do. Nếu tôi muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi.
Nhưng vì thương tôi, nên Ngài cho biết những sự lợi hại: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì?”
2. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống (…) Đau khổ không là một đày đoạ mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn ("Mỗi ngày một tin vui")
3. Nơi nào có thập giá, nơi đó có Thiên Chúa.
4. Hai cách đi theo Chúa:
Chính Thánh Don Bosco đã tưởng tượng chuyện sau đây: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế!”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.
Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã làm theo ý Chúa. (Chờ đợi Chúa)
5. “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy.” (Mt 16,25)
Thượng úy Tô Đức Thắng, người mới được đài truyền hình VTV1 ca ngợi về lòng can đảm, hy sinh quên mình vì những người hàng xóm. Vừa thấy tên cướp có súng vượt rào vào nhà bà hàng xóm, anh đuổi theo không chút sợ hãi, đồng thời báo cho những công an khác. Anh đã bị thương vì trúng đạn. Anh đã quên đi sự an bình của mình để lo an bình cho người khác. Ngay lúc ấy, anh đã thể hiện trọn vẹn con người và phẩm chất của mình. Phẩm chất ấy, ai cũng phải trân trọng.
Chính lúc hủy mình ra không, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thế đó, là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã huỷ mình vì Tình yêu, tình yêu với Cha và tình yêu với con người.
Lạy Chúa, xin dạy con hiểu được: Chính lúc quên mình là lúc con gặp lại được bản thân, vì khi cho đi là lúc con nhận lãnh. (Hosanna).
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển dung. Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông. Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu. Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm. Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong. Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa. Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15). Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay. “Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài, nhưng các ông không chữa được” (c. 16). Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ lại không thể giải quyết được trường hợp này. Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng, hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ? Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm. Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17). Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà. Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17) “Đem cháu lại đây cho tôi” Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức. Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ. Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này, tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17). Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19). Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng. “Tại anh em kém tin!” (c. 20). Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu. Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8). Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia), chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia). Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì. Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa. Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2). Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự. Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời, như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10). Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin, và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa. Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ. Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được những đồi núi nơi lòng con người hôm nay. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín. Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay. Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ. Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó. Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống. Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau thưong của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. ------------------------------------------
Thế giới nhiễu nhương. Ma quỉ và bạo chúa thống trị thế giới. Sự ác và sự dữ đè bẹp con người. Nếu không có đức tin con người không thể sống nổi.
Thời Mô-sê dân Ít-ra-en chỉ là một nhóm người nô lệ. Không tổ chức. Không lực lượng. Nhưng họ có đức tin. Họ tin vào Chúa. Họ đi theo Mô-sê. Và Chúa đã làm những việc vượt quá sức tưởng tượng của họ. “Anh em được những thành lớn và đẹp mà anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh em đã không tích trữ, những bể nước có sẵn mà anh em đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh em đã không trồng”. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ họ “đừng quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ…anh em phải kính sợ…phải phụng thờ…và nhân danh Người mà thề” (năm lẻ).
Thời Kha-ba-cúc, mặc dù Ít-ra-en bị Can-đê đặt ách thống trị tàn ác, chỉ vì Ít-ra-en tội lỗi phản bội Chúa. Nhưng Chúa khuyên nhủ dân hãy cứ tin tưởng và chờ đợi. Vì ngày Chúa giải thoát dân rồi sẽ đến: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu”. Trong khi chờ đợi phải giữ vững đức tin. Vì “ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (năm chẵn).
Thời Chúa Giê-su ma quỉ hoành hành ác liệt. Khống chế con người. Các tông đồ cũng đành chịu thua. Nhưng khi Chúa đến, Chúa dùng quyền năng chế ngự và bắt ma quỉ phải vâng phục. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. “Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó”. Chúa cho biết ma quỷ hoành hành vì con người thiếu niềm tin. Chúa than phiền vì thế hệ thiếu niềm tin: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa”? Ngài cho các tông đồ biết mọi việc trên thế giới có thể giải quyết dễ dàng với người có lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia! Nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Thời đại chúng ta bị biết bao ngọn núi ngăn trở khiến ta nản lòng. Tưởng không có gì có thể xê dịch được những ngọn núi ngăn chặn đời sống. Nhưng ta hãy an tâm. Nếu có đức tin một chút thôi, ta có thể giải quyết vấn đề cộng đoàn thật dễ dàng. Và thế giới ổn định. Vì khi có đức tin ta sống nhờ Chúa. Ta làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Và mọi việc sẽ tốt đẹp.
Thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người". Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong. Có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xẩy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Ðấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn cứu chữa con người khỏi mọi tật bệnh; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.
Nguyện xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để nhận ra bàn tay Chúa luôn dẫn dắt chúng ta và luôn sống trong bình an dưới sự chăm sóc của Ðấng Toàn Năng.
Bây giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại sao anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. [Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện]. (Mt. 17, 19-21)
Nếu người ta nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, thì có lòng tin vào Đức Kitô đã đủ làm những điều phi thường: Chữa khỏi các bệnh tật.
Chớ gì có niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và Đức Kitô, tôi hoàn toàn đồng ý! Lời dạy của Đức Kitô được chép lại rõ ràng, cần phải đọc lại các sách Tin Mừng, đặc biệt của thánh Gio-an, để xác tín điều đó. Lòng tin là điều kiện cần cho lời cầu nguyện biết bao, nhất là lời cầu nguyện cầu xin.
Nhưng chưa đủ.
Nhưng cần thiết lời cầu nguyện phải hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu, lúc sống ở trần thế, đã không chữa mọi bệnh tật cho dân Ít-ra-en, các tông đồ cũng thế. Vì nếu đánh giá lòng tin bằng được khỏi bệnh thì lòng tin đó chỉ như một thứ tiền trả cho việc chữa bệnh. Lòng tin như thế có đủ không? Đó không phải là thứ lòng tin sống động, không phải là thứ lòng tin của thứ phần tử trong Giáo Hội, của thân thể Đức Kitô. Lòng tin như thế là của những người không tín ngưỡng.
Tôi nghĩ những đoạn Tin Mừng này có thể sẽ bị hiểu lầm và sẽ gây ra những quá đáng đạo đức.
Vâng: Một lòng tin sâu sắc.
Lòng tin trong sáng và nhiệt thành ăn rễ sâu vào tâm hồn siêng năng hơn là hành động nhất thời. Nếu người ta không thường xuyên sống với tâm tình yêu mến và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì làm sao tránh khỏi không nghi ngờ. Chỉ khi nào có một chút niềm tin hoàn hảo mới mong phát sinh ra những công cuộc kỳ diệu hữu hình và vô hình.
Có những Đấng Thánh có lòng tin, một lòng tin sâu xa, sống động! đã xẩy ra và còn xẩy ra nơi các Đấng một đức tin trọn vẹn để thực hiện ơn gọi đặc biệt trong Hội Thánh.
Một sự cám dỗ lớn lao nhất thường đến với con người, đó là cơn cám dỗ về sự kiêu ngạo.
Thật vậy, sự kiêu ngạo nó thường trực trong con người, và mức độ nguy hiểm của chúng là rất cao. Có thể ví rằng: sự kiêu ngạo luôn nhăm nhe bừng phát, chúng giống như bình xăng còn ma quỷ như bó đuốc. Nếu không cẩn thận và đề phòng bằng sự khiêm nhường, ắt không sớm thì muộn, chúng cũng làm cho bình xăng bốc cháy!
Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy, từ xa xưa, người ta vẫn bị mắc vào cám dỗ này.
Khởi đi từ Nguyên Tổ loài người là Ađam và Evà; rồi câu chuyện tháp Babel, đến hành động của Môsê, Aharon, Đavít, và ngay cả đến các môn đệ, tất cả đều bị ngã gục trước sự cám dỗ của ma quỷ dưới lưỡi hái của sự kiêu ngạo.
Thật vậy, cậy vào sức riêng của mình là chuyện bình thường. Tuy nhiên, vì tự tin đến độ không cần đến Thiên Chúa thì lại là kẻ bất thường, vì thế, thất bại là lẽ đương nhiên.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy việc các môn đệ thất bại trong việc trừ quỷ. Nguyên do chính là do các ông tự mãn và cậy vào khả năng riêng của mình chứ không phải là niềm tin vào Thiên Chúa.
Tin Mừng thuật lại, sau khi Đức Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Đức Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám. Các môn đệ tiến lại gần và hỏi: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?". Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được".
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Đức Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn ven thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Trong cuộc sống đức tin của chúng ta, có lẽ không cần phải xin Chúa cho được chuyển núi dời non theo nghĩa đen. Nhưng điều mà chúng ta cần chuyển dời chính là ngọn núi của kiêu căng, tự ái, ghen ghét. Có thế, chúng ta mới để cho đức tin mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được lớn mạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết gắn bó với Chúa để được Chúa yêu thương. Amen.
Sứ điệp: Sức mạnh của đời sống người Kitô hữu tùy thuộc vào mức độ của lòng tin. Lòng tin yếu, người Kitô hữu sẽ bất lực; còn lòng tin mạnh, người Kitô hữu sẽ vượt qua mọi thử thách.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, sau khi chứng kiến Chúa trừ quỷ kinh phong, các tông đồ đã hỏi Chúa: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy?”. Bản thân con cũng nhiều lần tự hỏi: “Tại sao mình cứ sống tầm thường mãi?”. Câu trả lời của Chúa thật rõ ràng: “Vì các ngươi yếu lòng tin”.
Vì yếu lòng tin mà con chưa cảm nhận được hết ánh nhìn yêu thương của Chúa, cái nhìn trìu mến, mời gọi, khích lệ. Và vì thế con chưa một lần mạnh dạn thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Con thường tránh né ánh nhìn của Chúa, vội cúi đầu quay đi. Vì yếu lòng tin mà con làm ngơ trước tiếng gọi của người anh em đang cần giúp đỡ. Vì yếu lòng tin mà con dè dặt tính toán mỗi khi cần hy sinh, con ngại ngùng đứng dưới chân dốc cuộc đời, thu hẹp khát vọng của mình lại. Đời con vẫn cứ tầm thường vì tự thâm tâm con đã cam nhận sống tầm thường. Con tự vạch ra xung quanh mình những chuẩn mực an toàn, không được lỗi luật và cũng chớ phiêu lưu. Con chôn nén bạc Chúa trao xuống lòng đất và chịu đựng quãng đời vô vị trôi qua. Lạy Chúa, con yếu tin quá.
Giờ đây con muốn tìm lại ánh mắt của Chúa, muốn lắng nghe tiếng Chúa thôi thúc trong tâm tư con. Xin Chúa củng cố đức tin yếu ớt của con. Chúa muốn con vươn cao và sẵn sàng ban ơn để con có thể vươn lên. Với lòng tin mạnh mẽ mà Chúa ban cho con, con sẽ cố gắng sống thánh và sẵn sàng chấp nhận mọi thách đố của cuộc sống. Với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ dấn thân trọn vẹn để sống cho Chúa và cho anh chị em. Và với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ có đủ sức mạnh để chiếm được Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được”.
Thời Thập Tự Quân (Croisade), một kỵ sĩ bị quân nghịch đạo tấn công sắp chết. Trong cơn nguy hiểm đó, ông nhìn lên trời và khấn: “Lạy Chúa, nếu con đánh trận còn sống, con sẽ thắp một cây sáp nơi mồ Chúa và đem cây sáp luôn cháy sáng về tận nhà”.
Ông được thoát nạn. Giữ lời hứa, ông thắp một cây sáp nơi mồ Chúa và tìm cách mang nó về tận nhà.
Trên đường về, ông luôn che cho cây nến khỏi tắt vì gió mạnh. Sắp hết cây nến này, ông thắp cây nến khác. Cứ thế, ông đem cây nến đó về tận nhà như lời đã hứa với Chúa.
Thật là một gương anh dũng!
Cây đèn đức tin của chúng ta cũng vậy, trên con đường về quê Trời, phải luôn được chúng ta thắp sáng.
Suy niệm
Hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên nó trở nên lớn nhất các loại rau cỏ. Hạt giống đức tin nếu chỉ bằng hạt cải, khi lớn lên sẽ làm được những việc phi thường như lời Chúa Giêsu cắt nghĩa trong Tin Mừng thánh Matthêu: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, nhưng khi được nuôi dưỡng và lớn lên thành cây lớn nhất trong các loại rau mà chim trời có thể ẩn náu” (Mt 13,32).
Hãy nuôi dưỡng đức tin, dù nhỏ bé như hạt cải nhưng khi lớn lên sẽ làm được việc dời non lấp biển như Tin Mừng đã thuật lại các việc vĩ đại thành sự nhờ đức tin: Khi người đàn bà bị băng huyết đến sờ vào gấu áo Chúa với niềm tin bà được Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9,22). Ông trưởng hội đường có đứa con gái ốm nặng sắp chết, ông tin vào Chúa nhưng sau đó hơi chút hồ nghi vì gia nhân bảo con ông đã chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), ông vững tin, và Người đã làm cho em bé gái sống lại. Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và tin vào Ngài (Mc 9,23), Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành. Tin rằng thầy Giêsu có thể chữa lành cho người anh em bất toại, nhưng không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mặt Chúa Giêsu và Ngài chữa lành cho anh (Lc 5:20). Người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15:21-28), chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt lên: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy” (Mt 15:28). Viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông khi tuyên xưng niềm tin mạnh mẽ vào Ngài (Mt 8,5-13). Đức tin của Martha đặt nơi Thầy là nguồn sự sống, Ngài đã thực hiện một phép lạ lớn lao: Cho Ladarô sống lại (x. Ga 11,7-44).
Nhưng đức tin lúc gặp phong ba bão tố nơi người tôi tớ, chính lúc đó cảm nghiệm được sự vô dụng của mình nên cần tin và bám víu vào Chúa, như Phêrô với lòng đơn thành xin Chúa cho được đi trên mặt biển đến với Chúa. Nhưng khi gặp phong ba ông hoài nghi, thiếu tin tưởng nên chìm xuống nước ông kêu cứu và Chúa ra tay nâng đỡ ông (x. Mt 14:22-33).
Tin Mừng cho chúng ta thấy sức mạnh của niềm tin. Thật thế, đức tin bằng hạt cải có thể dời non lấp biển…
Ý lực sống:
“Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Lúc Chúa Giêsu và 3 môn đệ thân cận ở trên núi (biến hình) thì ở dưới núi, người ta đem đến cho các môn đệ một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong, nhưng các ông không chữa được. Còn Chúa Giêsu đã quát mắng quỷ, nó đã xuất khỏi đứa trẻ ngay. Các ông phải một phen mất mặt. Các ông đã đến gần hỏi lý do tại sao các ông đã thất bại. Chúa cho biết lý do thất bại của các ông là thiếu lòng tin. Nếu các ông có lòng tin thì làm gì cũng được.
Tin mừng thuật lại, sau khi Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Chúa Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám, các môn đệ tiến lại gần và hỏi: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Chúa Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn vẹn thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong, có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xảy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn chữa con người khỏi mọi bệnh tật, nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào (Mỗi ngày một tin vui).
Mục sư Martin Luther nói: “Đức tin cho phép chúng ta nắm giữ trong tay những điều chúng ta không thấy được”.
Đức tin biến đổi chúng ta từ người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa. Đức tin làm cho những việc tầm thường trở thành những việc có giá trị phi thường. Đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào những điều dường như không thể lý giải. Đức tin cũng chính là điều kiện cần thiết, để Chúa Giêsu làm phép lạ cứu chữa người bệnh. Việc Chúa Giêsu chữa bệnh kinh phong cho em bé trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình về sức mạnh của lòng tin. Thật vậy, chính nhờ lòng tin vững vàng của người cha mà em bé được chữa lành.
Con người dễ mắc phải cám dỗ cậy vào sức riêng và do đó dễ gặp thất bại trong đời sống. Chính các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ đó. Thật vậy, sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Ngài, Chúa Giêsu muốn các ông xuống núi, trở về với những vấn đề của cuộc sống. Ngài muốn các ông nhận thức giới hạn của mình khi để các ông thất bại trong việc trừ quỉ câm. Trước đây nhờ quyền năng Chúa các ông đã xua trừ được nhiều quỷ. Có lẽ các ông bắt đầu quên điều đó, quên rằng mình chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi các ông nhận thức rõ sự bất lực của mình, Chúa đã giải thích cho các ông biết rằng để thành công, các ông cần có đức tin dù chỉ là đức tin nhỏ bé, cần gắn bó với Chúa, và theo nhiều bản Tin mừng bổ túc, cần phải cầu nguyện và ăn chay (R.Veritas).
Như hạt cải trổ thành cây lớn, đức tin đích thực dù ở khởi điểm còn ở mức độ nhỏ, nhưng rồi sẽ phát triển thêm thành cây lớn. Hơn nữa, chúng ta cũng nên lưu ý điều này là sự phát triển không tự động cách máy móc, cần có sự cộng tác của đương sự với ơn Chúa, để phát triển đức tin thêm nữa cho đến mức độ trưởng thành và sự cộng tác này được củng cố bằng lời cầu nguyện và việc ăn chay. Đây có thể là bài học Chúa Giêsu nhắc khéo cho các môn đệ khi Ngài phán: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay, cầu nguyện”.
Truyện: Cần có niềm tin Một tướng quân quyết định tấn công cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.
Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và cầu nguyện. Khi trở ra, ông nói với họ:
- Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ.
Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin tưởng rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng. Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh nói với tướng quân rằng:
- Kết quả cho thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh.
Tướng quân trả lời:
- Rất đúng - và ông cho hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa!
Lúc Chúa Giêsu và 3 môn đệ thân cận đang ở trên núi (biến hình) thì ở dưới núi, người ta đem đến cho các môn đệ một đứa trẻ bị quý ám mắc kinh phong. Nhưng các ông không chữa được. Khi Chúa Giêsu trở lại, Ngài nói lý do thất bại là thiếu lòng tin.
B.... nẩy mầm.
1. “Ôi thế hệ kém lòng tin và hư hỏng. Ta còn phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?”: Chúa Giêsu đang than phiền về ai thế? Về những người do thái, về cha của đứa trẻ, và về cả các môn đệ Ngài.
Các môn đệ đã ở với Chúa bao nhiêu năm mà vẫn kém lòng tin và hư hỏng. Tôi cũng thế. Chúa phải buồn vì ở với tôi, Chúa phải than vì chịu đựng tôi.
Xin tha cho con và xin thêm đức tin cho con.
2. Thất bại là do yếu lòng tin.
3. Chúa Giêsu nói đức tin có sức mạnh chuyển núi rời non. Tôi không cần chuyển dời núi Thái Sơn hay Trường sơn, mà cần chuyển dời những ngọn núi kiêu căng, tự ái, ích kỷ, dục vọng. Bấy lâu này dù tôi đã cố gắng nhiều nhưng chẳng làm chúng nhúc nhích tí gì cả. Hôm nay tôi thử dùng sức mạnh đức tin vào ơn Chúa để chuyển động chúng xem sao. Tôi hãy nhớ lời tâm sự của Thánh Phaolô: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng là sức mạnh của tôi”, vì “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
4. Con người dễ mắc phải cám dỗ cậy vào sức riêng mình và do đó dễ gặp thất bại trong cuộc sống. Chính các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ đó. Ngài muốn các ông nhận thức giới hạn của mình khi để các ông thất bại trong việc trừ quỷ câm. Trước đây, nhờ quyền năng Chúa, các ông đã xua trừ được nhiều quỷ. Có lẽ các ông bắt đầu quên điều đó, quên rằng mình chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi để các ông nhận thức rõ sự bất lực của mình, Chúa đã giải thích cho các ông biết rằng để thành công, các ông cần có đức tin dù chỉ là đức tin nhỏ bé, cần gắn bó với Chúa, cần phải cầu nguyện và ăn chay ("Mỗi ngày một tin vui")
Chủ đề của bài Tin Mừng hôm nay là sức mạnh của lòng tin: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi... sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.
1. Ở đây chúng ta không thể không xúc động trước đức tin của người cha cậu bé.
Dầu các môn đệ đã được Chúa ban quyền trừ quỉ, nhưng trong trường hợp này họ phải công nhận mình bất lực. Nhưng dù các môn đệ thất bại, người cha vẫn không chút nghi ngờ quyền phép của chính Chúa Giêsu. Đứng trước sự việc mới xảy ra, dường như ông ta đã tự nhủ: “Nếu tôi gặp được chính Chúa Giêsu thì mọi khó khăn của tôi sẽ được giải quyết, nhu cầu của tôi sẽ được thỏa mãn”.
Ở đây có một cái gì rất chua chát, có một cái gì đó rất phổ biến và thức thời. Có nhiều người cảm thấy Giáo hội, những người theo Chúa Giêsu, trong thời mình, thế hệ mình đang sống đã thất bại, đã bất lực không thể đối phó nổi với những thói hư tật xấu của con người. Nhưng trong tâm tưởng họ nghĩ được rằng: “Nếu ta có thể vượt qua được người theo Chúa hôm nay; nếu ta có thể tiến tới phía sau bộ mặt của Giáo hội, bỏ qua sự thất bại của Hội thánh, mà gặp được chính Chúa Giêsu thôi, thì ta sẽ nhận được những điều chúng ta cần”. Đây là điều vừa lên án chúng ta vừa khích lệ chúng ta, nhiều người dù đã mất lòng tin nơi Giáo hội, vẫn không bao giờ bỏ mất niềm tin nơi Chúa Giêsu.
Có một người hỏi một học giả Á Đông nổi tiếng là người xác tín vào Thiên Chúa rằng:
- Tại sao ông là người học cao hiểu rộng, đã biết đến nơi đến chốn về các tôn giáo, về các triết lý cao siêu của Á Đông mà ông lại đón nhận Tin Mừng như vậy?
Vị học giả trả lời:
- Tôi vốn dĩ giống như một người chìm tàu giữa đại dương, sóng cả dập vùi, sức người có hạn. Các vị lãnh đạo tôn giáo khác đã dạy tôi rằng: Con phải bơi lội theo phương pháp này, tập dưỡng sức theo phương pháp nọ. Nhưng các lý thuyết ấy không cứu vớt tôi ra khỏi biển sâu. Chỉ có Chúa Giêsu, Ngài đã nhảy xuống biển và liều chết để cứu vớt tôi, vì vậy tôi tin vào Ngài.
2. Và cũng ở đây, chúng ta thấy đức tin hết sức cần thiết.
Đây là những lời của mẹ Têrêsa:
“Thế giới thiếu vắng đức tin vì có quá nhiều ích kỷ, quá nhiều cái tôi. Để sống đức tin chân thật, lòng người phải quảng đại cho đi.
“Thành quả của lời cầu nguyện là đức tin. Thành quả của đức tin là tình yêu. Thành quả của tình yêu là phục vụ. Thành quả của phục vụ là hòa bình”.
“Theo huyết thống, tôi là người Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian này. Và theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về những người bất hạnh, đau khổ”.
Ngày xưa, những vua nước Ba Tư có thói quen để trong gối 5 vạn đồng tiền vàng cho dễ ngủ. Hoàng đế Caligual nuôi nhiều thú dữ ngoài cửa đền để ngăn không cho ai vào khi ngài ngon giấc. Bertom để một cái vòng trên đầu trong khi ngủ, để đề phòng nhỡ trần nhà có rơi xuống thì không bị vỡ đầu. Nhưng những cái đó thực ra có ích lợi gì?… Cái gối tốt nhất và êm nhất là lương tâm yên tĩnh.
Piere de Verónne đã phải chịu đau đớn vì Đức Tin. Người bị đâm nhiều nhát. Sau những nhát đâm đầu tiên. Người can đảm kêu to: “Tôi tin!”. Khi ngã xuống, không thể nói được nữa, Người lấy ngón tay nhúng vào máu viết lên mặt đất: “Tôi tin!”.
Nếu có đức tin thì không có việc gì phải sợ. Khi Chúa Giêsu nói về việc chuyển núi dời non thì Ngài dùng một thành ngữ quen thuộc đối với người Do Thái. Chuyển núi dời non là những từ ngữ thường người Do Thái dùng để chỉ sự thanh toán những khó khăn. Chúa Giêsu không hề dùng nó theo nghĩa đen, hữu hình. Ngài muốn nói rằng: “Nếu ngươi có đủ đức tin, tất cả mọi khó khăn sẽ được giải quyết, luôn cả những công tác khó khăn nhất cũng có thể thực hiện được”.
Một tướng quân quyết định tấn công cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.
Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và cầu nguyện. Khi trở ra, ông nói:
- Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ.
Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng. Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh nói với tướng quân rằng:
Kết quả cho ta thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh.
Tướng quân trả lời:
- Rất đúng, và ông cho anh hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa.