Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 101-150 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới ------------------------------------ Năm A: Phúc Âm: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.
Năm B: Năm C: -------------------------------------
Cuộc hiển dung của Đức Giê-su xảy ra vào khỏang tám ngày sau khi Người tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua. Bấy giờ Người dẫn ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi (28). Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Đức Giê-su đổi khác: y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (29), có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người về “cuộc Xuất hành” mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (31). Phê-rô đã xin Đức Giê-su cho dựng lều (33). Rồi có đám mây bao phủ các ông, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” (34-35). Sau cuộc biến hình, các môn đệ đã “nín thinh, không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã chứng kiến” (36).
3. CHÚ THÍCH:
- C 28b-29: + Đức Giê-su lên núi: Đây có thể là núi Her-mon, cao 2.795 mét ở gần thành Xê-da-rê Phi-líp. Nhưng ngày nay đa số các nhà chú giải cho đó là núi Tha-bo, cao 562 mét, cách thành Xê-da-rê Phi-líp một đoạn đường, đi bộ mất từ 6 đến 8 ngày. + Cầu nguyện: Tin mừng Lu-ca đã ghi lại nhiều lần Đức Giê-su cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 10,21 ; 22,41-42 ; 33,34.46). + Đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê: Đây là ba môn đệ thân tín, sau này sẽ được chứng kiến “Giờ” của Thầy trong vườn Cây dầu trước khi bị bắt (x. Mt 26,37). Vì thế hôm nay Đức Giê-su cho các ông thấy trước vinh quang của Người, hầu đủ sức vượt qua cơn thử thách ấy.
- C 30-31: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Mô-sê là một mục tử tài ba, sống vào thế kỷ XII trước Công nguyên. Ông có công cứu con cháu Gia-cóp thóat ách nô lệ cho dân Ai cập, biến dòng tộc Gia-cóp trở thành một dân tộc có luật pháp, tôn giáo và quân đội... Cuối cùng Mô-sê đã thành công trong việc đưa dân Ít-ra-en về miền Hứa Địa do Đức Chúa hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham va con cháu ngài là miền Ca-na-an. Mô-sê là tiền ảnh của Đức Giê-su sau này.- Ê-li-a: là một ngôn sứ sống vào thế kỷ IX trước Công nguyên trong thời Các Vua. Ông có công chấn hưng tôn giáo, giải thóat dân Ít-ra-en khỏi sự tôn thờ thần tượng của dân ngoại. Ông là tiền ảnh của Gio-an Tiền sứ, là người sẽ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai (x Ga 1,21; MC 9,11). + Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển: Vì được tham dự vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, nên Mô-sê và Ê-li-a đều được tham phần vào vinh quang của Đức Giê-su. + Nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem: Cuộc “Xuất hành” của Đức Giê-su gồm mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, sắp được hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem.
- C 32-ABC33: + Ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt: Sự kiện các môn đệ ngủ mê cho thấy cuộc biến hình xảy ra vào ban đêm. Sự kiện này tương tự như sau này, ba ông cũng ngủ mê khi Đức Giê-su cầu nguyện trong vườn Cây Dầu (x Mt 26,40.43.45). + Chúng con xin dựng ba cái lều: một cái cho Thầy, một cái cho ông Mô-sê và một cái cho ông Ê-li-a: Câu này cho thấy lúc bấy giờ người Do thái đang mừng lễ Lều Trại tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem (x. Lv 23,33-34 ; Ds 29,12-ABC38).
- C 34-36: + Có một đám mây bao phủ các ông: Nhắc lại đám mây bao phủ dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất hành (x. Xh 40,35). Khi truyền tin, sứ thần cũng đề cập tới quyền năng Thiên Chúa sẽ bang trợ Ma-ri-a như sau: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). + “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn”: Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Đức Giê-su là Con, và là “Người Tôi trung được Thiên Chúa tuyển chọn” (x. Is 49,7). Trong cuộc Khổ Nạn, các thủ lãnh Do thái cũng nói rằng: “Nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn” (Lc 23,35). + “Hãy vâng nghe lời Người!”: Đức Giê-su là Ngôi Lời nhập thể (x. Ga 1,14). Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 3,34) và Lời Người cần phải được đón nhận. + Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su: Cuộc hiển dung chấm dứt sau lời tuyên phán của Chúa Cha. Các môn đệ im lặng, chờ ngày các mặc khải kia được ứng nghiệm.
4. CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su đã biến hình trên quả núi cao là núi nào? 2) Tại sao Đức Giê-su cho ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được chứng kiến việc biến hình vinh quang của Người? 3) Hai nhân vật nào của Cựu ước đã hiện ra khi Đức Giê-su hiển dung và ba vị đã nói chuyện về vấn đề gì? 4) Cuộc biến hình xảy ra vào ban ngày hay ban đêm? Tại sao? 5) Đám mây bao phủ ba môn đệ nói lên điều gì? 6) Chúa Cha đã giới thiệu Đức Giê-su là ai?
Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SI-TA ĐÊ-LI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sưa đánh lộn và làm mất an ninh trật tự. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố như sau: “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng kết quả bao nhiêu. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án được. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm”.
Sau khi vào nhà tù Đe-li vẫn ngoan cố, coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường xuyên đánh đập bạn tù và chống lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một hầm tối dơ bẩn và đầy chuột cống... Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đe-li nghe thấy có tiếng nói như sau: “Hỡi Đe-li, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức lực để làm tốt, mà cứ làm điều ác chống lại kẻ khác”... Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đê-li luôn suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đe-li đã gặp được Đức Giê-su trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời mình từ năm 12 tuổi. Từ đó, hình ảnh của Đức Giê-su thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”, “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”... Anh cảm thấy tâm hồn bình an mà từ trước đến nay anh chưa bao giờ được hưởng. Rồi những ngày sau đó, khuôn mặt của những người đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh cảm thấy rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).
Cảm nghiệm ấy đã biến Đe-li từ một người hung ác gian tham và đầy thù hận, trở thành một con người độ lượng bao dung! Sự biến đổi nội tâm khiến cho Đe-li không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận thấy có sự biến đổi nơi anh, họ đã cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án từ mười xuống 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào “Nhóm cải thiện chế độ lao tù”. Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đe-li đi thăm và động viên các tù nhân và hhuyên họ học tập tốt. Nhờ đó nhiều người đã sớm được trở về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pi-tơ Mác-sôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải này như sau: “Si-ta Đe-li là một bằng chứng sống động cho thấy: anh không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!”.
Như vậy chính nhờ ơn Chúa mà Si-ta Đê-li đã được ơn biến đổi từ một tù nhân khét tiếng hung ác trở thành một tín hữu có lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, một môn đệ đích thực của Chúa Giê-su khi anh quyết tâm học hỏi và thực hành Lời Chúa dạy, bênh vực những người yếu thế và tích cực góp phần làm cho nhiều người trở về làm con Chúa như mình.
3. SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay cho thấy Mùa Chay là thời gian thuận tiện để người tín hữu được ơn biến đổi nện tốt hơn và cần phải có những điều kiện nào để được biến đổi:
1) Phải kiên trì cầu nguyện: Ba môn đệ thân tín của Đức Giê-su là các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đã ngủ mê mệt khi Đức Giê-su đang cầu nguyện. Nhiều tín hữu hôm nay cũng thường bỏ bê việc cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày. Ho viện cớ quá bận bịu với việc làm ăn sinh sống nên không có giờ cầu nguyện, trong khi sẵn sàng bỏ nhiều thời gian để nói chuyện “chat” với bạn bè, chơi games hay xem phim trên mạng hoặc tụ tập ăn nhậu bê tha… Sự cầu nguyện chính là thái độ tiên quyết cho thấy chúng ta có thiện chí muốn đổi mới đời sống hay không.
2) Phải nhờ ơn Chúa giúp: Đức Giê-su đã hiển dung khi đang cầu nguyện với Thiên Chúa như Tin Mừng ghi lại: “Dung nhan Ngừơi biến đổi và y phục Người cũng trở nên trắng tinh chói sáng”. Cũng vậy, muốn được ơn đổi mới, các tín hữu cần lên núi cao để gặp Thiên Chúa. “Núi cao” ở đây không nhất thiết ở nơi đâu xa mà có thể ngay trong lòng chúng ta, khi chúng ta cùng đọc kinh tối với gia đình, hay khi tham dự các buổi ngắm nguyện tại nhà thờ, khi tham dự các buổi tĩnh tâm trong Mùa Chay Thánh... Chính nhờ ơn Chúa giúp mà chúng ta mới có thể được biến đổi như lời Chúa dạy: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!” (Ga 15,5).
3) Phải năng học sống Lời Chúa: Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Đức Giê-su là Con yêu dấu được tuyển chọn, và kêu gọi các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Lời Chúa có khả năng tỉa sạch các thói hư và biến đổi chúng ta nên tạo vật mới của Thiên Chúa (x. Ga 15,2). Trong Mùa Chay này, nhờ chấp nhận con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”, biểu lộ qua việc quýet tâm ăn chay, hãm mình và chia sẻ bác ái… mà chúng ta sẽ được ơn Chúa biến đổi nên con thảo của Chúa Cha như Chúa Giê-su xưa.
4. THẢO LUẬN:
1) Trong Tin Mừng, các môn đệ thường buồn ngủ mỗi lần cùng Đức Giê-su cầu nguyện. Còn bạn, bạn có gặp khó khăn nào khi cầu nguyện không? Bạn cần làm gì để vượt qua điều ấy?
2) Trong Mùa Chay Hội Thánh kêu gọi các tín hữu siêng năng cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo để được ơn biến đổi. Vậy bạn sẽ làm gì cụ thể?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin hãy biến đổi con người con trong Mùa Chay này: Mỗi lần con được gặp Chúa, xin biến đổi con được nên giống Chúa nhiều hơn: Xin hãy biến cái nhìn của con nên hiền từ bao dung như cái nhìn yêu thương của Chúa. Xin biến đổi môi miệng con chỉ nói những lời động viên an ủi những người đau khổ. Xin biến đổi tai con để sẵn sàng lắng nghe và cảm thông với những ai cần sẻ chia nâng đỡ. Xin cũng biến đổi khuôn mặt con luôn rạng ngời vinh quang của Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, ước chi những ai có dịp tiếp xúc với con đều nhận ra Chúa đang ở trong con qua ánh mắt nụ cười của con. Ước chi mọi người đều nhìn thấy sự hiền lành bao dung của Chúa qua lời nói và thái độ ứng xử của con. Con biết rằng: Thế giới hôm nay không cần những tín hữu chỉ đạo đức bằng kinh lễ tại nhà thờ, nhưng cần những ai biết vừa cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Chúa, lại vừa biết tích cực dấn thân phục vụ tha nhân đau khổ. Xin cho con biết bỏ ý riêng ích kỷ để tích cực góp phần giúp cho nhiều người nhận được ơn cứu độ của Chúa.
Mạc Khải - đó là những gì Phêrô, Giacôbê và Gioan cảm nghiệm được khi họ thấy Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê. Mạc khải - cũng là những điều chúng ta cảm nghiệm hàng ngày trong khi cầu nguyện. Chúng ta dĩ nhiên không nhìn thấy các tầng trời mở ra, không thấy Chúa chói loà biến hình trước mắt, nhưng chúng ta chắc chắn trong lúc cầu nguyện và gẫm suy lời Chúa sẽ nhận ra chính Ngài đang mạc khải về mình.
Trong Mùa Chay đầu tiên của Thiên Niên Kỷ, điều rất quan trọng cho mỗi người chúng ta là hãy lập một thời biểu cầu nguyện và trung thành với thời biểu ấy. Hãy tập cầu nguyện và năng cầu nguyện hàng ngày. Từ sáng sớm khi mọi sinh hoạt còn đang trong thế tĩnh, hãy để tâm hồn lắng đọng và cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện. Chúng ta có thể dùng chính lời tuyên xưng của các Thánh Tông đồ hay trong Kinh Tin Kính. Hãy dùng chính những lời tuyên xưng này để sát hạch lại lương tâm chúng ta. Hãy thống hối những lỗi lầm chúng ta làm mất lòng Chúa. Hãy mở rộng lòng mình trước lượng hải hà của Ngài và hãy mặc lấy tâm tình biết ơn và ngợi khen những hồng ân, tình yêu cũng như những phúc lành chúng ta đã lãnh nhận trong suốt cuộc đời mình.
Mỗi ngày chúng ta dành thời gian để đọc và suy gẫm Lời Chúa, tốt nhất là những bài đọc của thánh lễ trong ngày. Hãy xin Chúa Thánh Thần nói với chúng ta về những lời Thánh Kinh này và cấy những lời ấy vào tâm hồn chúng ta cũng như giúp chúng ta đem chính những lời ấy vào cuộc sống thường ngày ngay nơi môi trường chúng ta tiếp xúc với. Năng tưởng nhớ và gẫm suy về những gì chúng ta đã đọc sẽ dễ giúp chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu và thánh hiến công việc chúng ta làm hơn.
Trong suốt thời gian ở với Chúa Giêsu, Phêrô, Giacôbê và Gioan đã học được cách cầu nguyện. Lời cầu nguyện sống động của chúng ta dù đơn sơ nghèo nàn nhưng cũng đủ để thay đổi cuộc sống chúng ta với ơn thánh của Chúa. Với niềm tin dù sỏi đá nhưng trọn vẹn, chúng ta sẽ từng bước nhìn thấy và cảm nghiệm được những thay đồi này. Thiên Chúa sẽ mạc khải về Ngài nhiều và nhiều hơn nữa cho chúng ta để nhờ đó chúng ta nhìn ra ý định và chương trình của Ngài. Sự mạc khải mà Phêrô, Giacôbê và Gioan cảm nhận đã ở lại trong các ngài và chính Chúa Thánh Thần đã làm sống lại những cảm nhận đó trong cuộc đời họ để rồi từ đó họ xây dựng cho mình niềm tin và sự tuyên xưng vững vàng và trung thực về Chúa Giêsu (2Pet 1, 17-18). Trong đời sống cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, Thiên Chúa cũng muốn chúng ta làm sống dậy lời của Ngài thể hiện qua cách sống, tình yêu và tinh thần phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội.
Như các Tông đồ khi thấy Chúa biến hình trong ánh quang rực rỡ, Phêrô đã thưa Ngài: "Lạy Thầy, thật tuyệt vời nếu chúng con được ở đây!" (Lc 9, 33). Mỗi lần chúng ta bắt đầu cầu nguyện, đó cũng phải là điều thật tuyệt vời vì chúng ta đang ở cùng Chúa Giêsu. Ngài là Thiên Chúa phục sinh sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta nếu chúng ta mở rộng lòng mình đón tiếp Ngài trong khi cầu nguyện. Chúng ta hãy vui mừng rằng: "Ngài có quyền khắc phục muôn loài và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài" (Phil 3, 21).
(Khởi Nguyên 15,5-15; Philíp 3,17-4,1; Luca 9,28-36)
Phúc Âm: Lc 9, 28b-36
"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến. Suy Niệm:
Chúa Nhật trước đã đưa chúng ta vào 40 ngày Chay của Chúa Giêsu và đã cho chúng ta thấy Người lướt thắng các cơn cám dỗ của Satan như thế nào, để chúng ta biết phấn đấu theo gương Người trong Mùa Chay này và trong suốt cả đời sống. Hôm nay phụng vụ nhắc lại chuyện Chúa biến hình trên núi như là hình ảnh báo trước vinh quang Phục sinh đang chờ Người ở bên kia Mầu nhiệm Thập giá. Và như vậy Chúa nhật hôm nay muốn cho chúng ta thấy trước quang cảnh của cuối mùa Chay, đang khi Chúa nhật trước đã khai mạc mùa này và các Chúa nhật sau sẽ nói về quãng giữa của đầu và cuối mùa Chay Thánh. Chúng ta sẽ tìm hiểu việc Chúa biến hình và nhờ đó sẽ suy nghĩ về hai bài đọc Thánh Kinh kia để làm cho ngày hôm nay rực lên ánh quang vinh của Chúa. 1. Việc Chúa Biến Hình
Chúng ta sẽ theo sát bản văn của Luca. Người bắt đầu cho một chi tiết đáng kể. Theo Người, câu chuyện Chúa biến hình trên núi xảy ra chừng 8 ngày sau hôm Người báo tin cho môn đệ biết: Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ... bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại. Người cũng bảo: Ai muốn đi theo sau Người, thì hãy chối bỏ chính mình và vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà đi theo Người. Những lời ấy không làm cho môn đệ an tâm, nên Người đã hứa sẽ cho một số môn đệ có mặt hôm đó được thấy vinh quang của Người. Và hôm nay, Người đem ba ông: Phêrô, Gioan, Giacôbê lên núi với Người.
Như vậy, câu chuyện Chúa biến hình hôm nay là để thi hành Lời Người đã hứa. Ba môn đệ sẽ được xem thấy vinh quang của Người để bù lại những lời tiên báo việc Người sẽ bị nộp, bị giết. Phải chăng đây không phải là khía cạnh vinh quang của mầu nhiệm thập giá? Ðó là mầu nhiệm Phục sinh phải đi liền với mầu nhiệm Tử nạn. Các môn đệ được thấy trước ánh sáng Phục sinh để họ khỏi nao núng khi thấy Người chịu đau khổ và chúng ta được phấn khởi đi vào con đường mùa Chay mà hôm nay khai mạc, chúng ta đã thấy là con đường phấn đấu.
Nhưng vì việc biến hình lại xảy ra khoảng 8 ngày sau hôm Chúa Giêsu nói về việc Tử nạn? Chúng ta có được phép nghĩ rằng ngày thứ 8 cũng là ngày thứ nhất trong tuần lễ của người Kitô hữu không? Do đó cả việc Tử nạn cả việc Phục sinh đều được loan báo trong cùng một ngày, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, ngày cử hành các mầu nhiệm cứu thế trọng đại của Chúa chúng ta.
Người chỉ đem theo Phêrô, Gioan, Giacôbê vì ba người này sẽ được thấy Người hấp hối trong vườn Cây Dầu, để làm chứng những ai đã tham dự mầu nhiệm Tử nạn cũng sẽ được chia sẻ vinh quang Phục sinh. Và cũng như ở vườn Cây Dầu sau này, hôm nay ở đây Ðức Giêsu mãi miết trong cầu nguyện đang khi các môn đệ "li bi giấc ngủ". Nhiều việc quan trọng đã hoặc sẽ xảy ra trong hoàn cảnh tương tự. Chính những khi Ðức Giêsu cầu nguyện nhiều là có những việc trọng đại đã đến.
Hôm nay, đang lúc Người cầu nguyện, dung nhan Người đã ra khác. Y phục Người cũng sáng hẳn lên. Luca không chú trọng lắm đến những thay đổi này. Ông không coi việc biến hình là chính, nếu chúng ta được phép nói như vậy. Ông quan tâm đến nội dung hơn là hình thức. Ông tìm hiểu bản chất hơn là hiện tượng. Những nét xa lạ về sắc diện và y phục cho thấy đang có gì khác thường xảy đến cho Người.
Quả thật, có hai nhân vật đến trao đổi với Ðức Giêsu. Ðó là Môsê và Êli, một ông luật pháp và một nhà tiên tri. Ðó là cả Cựu Ước đang tâm sự với Người. Cũng có thể hiểu hai ông đã mang đến một bầu khí cánh chung. Nhiều người nghĩ rằng Êli phải đến trước để đi tiền hô cho Ðấng Thiên Sai. Sự hiện diện của ông ở đây chứng tỏ thời đại Thiên Sai đã đến. Và Môsê nhà luật pháp của đạo cũ, nay đến chào mừng và "bàn giao" với nhà luật pháp mới...
Nếu thế thì sao sự việc không xảy ra trên núi Sion? Ngọn núi đang có sự hiện diện của ba vị chỉ là ngọn núi quen thuộc của Ðức Giêsu. Người hay lui tới đây cầu nguyện. Sion bị truất phế rồi ư? Chúng ta phải hiểu như vậy; vì thời đại thiên sai và cánh chung không còn ưu tiên cho nơi nào và dân nào nữa. Người ta không còn cần phải chọn Giêrusalem hay Garizim làm điện thờ duy nhất nữa. Người ta chỉ cần tìm đến với Ðức Giêsu mà cả Luật pháp (đạo cũ) và Tiên tri (đạo mới) đều đang tuyên chứng.
Môsê và Êli hiện ra trong vinh quang, vì họ đã tham dự vào công cuộc của Chúa và vì họ trở lại trong ánh sáng Phục sinh. Họ nói với Ðức Giêsu về cuộc ra đi sắp tới của Người sẽ xảy ra ở Giêrusalem tức là cuộc tử nạn Phục sinh vượt qua của Người... Chúng ta có thể bảo Môsê đã san sẻ kinh nghiệm cho Người không? Bởi vì khi ông được tiếp xúc với vinh quang của Thiên Chúa lần đầu tiên ở núi Horeb trước bụi gai cháy một cách kỳ diệu, ông đã được sai đi để tổ chức vượt qua cho con cái Israen. Ai trong lịch sử Cựu Ước có kinh nghiệm hơn ông về vấn đề này. Cuộc vượt qua Biển Ðỏ do ông tổ chức đã trở thành tiêu biểu cho mọi lần Chúa muốn cứu dân. Hôm nay ông đến để nói với Ðức Giêsu về cuộc sắp ra đi của Người. Lễ Vượt Qua của đạo mới sẽ bao trùm và kiện toàn lễ vượt qua đạo cũ khi Môsê cũ đã trò chuyện hết với Môsê mới là Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Câu chuyện giữa các Ngài ở ngoài tai các môn đệ; cũng như sau này trong vườn Cây Dầu họ chẳng biết gì về việc Chúa hấp hối. "Phêrô và các bạn li bì giấc ngủ". Xác thịt của họ còn nặng nề, chưa hiểu được mầu nhiệm Tử nạn, khi ánh sáng Phục sinh chưa làm họ tỉnh dậy.
Bấy giờ bừng mắt ra, họ thấy vinh quang của Ðức Giêsu và thấy hai người đang đứng với Người, tức là trước đây họ chưa thấy dung nhan mặt Người đã ra khác và y phục của Người đã trở nên trắng ngời. Họ là những kẻ ngu mê cho đến khi chuyện ra đi tử nạn đã qua.
Nhiệm vụ của Môsê và Êli cũng đã rồi. Họ ra đi, để lại Ðức Giêsu đứng với môn đệ của Người. Luật pháp và tiên tri đã tuyên chứng cho công cuộc cứu thế của Người, thì đến sinh hoạt của Hội Thánh Phêrô lên tiếng xin làm ba lều cho Chúa Giêsu, cho Môsê và cho Êli. Luca bảo rằng: Phêrô không biết mình nói gì. Mà quả thật, ông không thấy Môsê và Êli đã ra đi rồi sao? Ðàng khác sao lại có chuyện tất cả lịch sử dừng lại ở đây? Chỉ có mấy người được ở trên núi hạnh phúc này sao? Còn muôn muôn, ứu ức, triệu triệu con người của các dân tộc phải được tề tựu về đây nữa chứ? Không, câu nói của Phêrô chưa để ý đến mọi khía cạnh. Nó chỉ có giá trị nói lên một sự thật, sự thật ở đây là hạnh phúc...
Thiên Chúa không phủ nhận một tấm lòng thành như vậy. Người cho một đám mây rợp xuống trên tất cả mọi người. Người hứa và bảo đảm sẽ cho mọi người được hạnh phúc và chia sẻ vinh quang. Người muốn nói, mọi người sẽ được đưa vào sự sống của Chúa Giêsu tử nạn phục sinh, miễn là người ta hãy nghe lời Ngài.
Là vì có tiếng phán ra từ trong đám mây, y như hôm nào ở bờ sông Giođan. Chỉ thêm một điều hôm nay Thiên Chua bảo mọi người hãy nghe lời Con của Người. Và như vậy cuộc hiển linh hôm nay không nhằm tấn phong Ðức Giêsu làm Tôi Tớ Thiên Chúa đến để thi hành sứ mạng cứu thế, cho bằng đặt Người đứng trên mọi loài sau khi Người đã tử nạn phục sinh. Người sẽ là Chúa của Hội Thánh sau khi ơn cứu độ đã được ban cho mọi người.
Thế nên, sau khi lời tuyên bố, các môn đệ chỉ còn nhìn thấy một mình Chúa Giêsu. Họ đã nín thinh, chờ ngày các mạc khải hôm nay trở thành sự thật. Và sau khi Ðức Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời, họ đã ra đi khắp nơi công bố Người là Chúa để thâu nạp mọi dân tộc đến nghe Lời Người mà được chia sẻ vinh quang phục sinh.
Câu chuyện Chúa biến hình vì thế, không còn cho chúng ta thấy một Ðức Giêsu phấn đấu để lướt thắng các cơn cám dỗ như trong Chúa nhật trước nữa. Chúa nhật hôm nay báo trước vinh quang của Người sau Mầu nhiệm Thánh giá, để chúng ta cũng như ba môn đệ ngày xưa được vững lòng đi vào con đường khổ nạn của Người. Chúng ta được hạnh phúc hơn Abraham trong bài Cựu Ước hôm nay biết bao! Ðọc lại câu chuyện này, chúng ta sẽ thêm phấn khởi tin vào ơn cứu độ đang được dành cho chúng ta. 2. Abraham Tin Vào Chúa
Câu chuyện sẽ thêm nhiều ý nghĩa, nếu chúng ta nhớ rằng nó đã không được viết vào thời Abraham (vì thời đó làm gì Do Thái đã có chữ viết) nhưng mãi về sau này. Chúng ta có thể nghĩ đây là tác phẩm của một thần học gia rất đạo đức, sống ở đất Do Thái vào khoảng trước hoặc sau lưu đày. Ông thấy hoàn cảnh thật đen tối. Ðất nước này không còn là của con cái Israen nữa. Sản nghiệp Lời Hứa đã hoàn toàn tiêu tan. Cứ như thế này mãi sao? Hay là sẽ có lúc Thiên Chúa ngoảnh mặt lại? Phần đa số trong dân không còn hy vọng nữa vì sự thật quá phủ phàng. Nhưng niềm tin, niềm tin của các tổ phụ dân vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn nhiều người, trong đó có tác giả của đoạn văn hôm nay. Niềm tin ấy tìm cách lóe lên trong đêm tối, vươn lên khi sắp bị giập xuống. Nó mượn đời sống của chính tổ phụ Abraham để chỗi dậy. Nó viết lại một câu chuyện trong cuộc đời của vị tổ phụ để lấy lại nghị lực.
Tình cảnh của tổ phụ Abraham bấy giờ không bi đát sao? Thân ông càng ngày càng già yếu. Bạn ông, bà Sara, cũng đã hết thời sinh sản. Thế mà hai người vẫn chưa có lấy một mụn con! Ðang khi ấy Chúa vẫn phán: Dòng dõi của Abraham sẽ đông đúc nhiều hơn sao trên trời và cát ngoài biển. Abraham tin Chúa, nhưng quả là tin trong đêm tối.
Rồi Chúa còn hứa cho ông một Ðất Nước làm quê hương. Ðiều hứa này được tác giả bài sách hôm nay để ý. Nó động đến điều ông đang thắc mắc. Vị tổ phụ ngày xưa được hứa ban Ðất Nước này khi người không có quyền trên một tấc đất ở đây. Ngày nay con cái Israen có còn nên hy vọng làm chủ được Ðất Nước này khi nó đang nằm trong tay quân xâm lược hay không? Tác giả nhìn vào niềm tin của vị Tổ Phụ mà thêm phấn chấn. Ông viết lại niềm tin này để phấn khởi đồng bào của ông. Do đó chúng ta được bản văn hôm nay.
Nó cho chúng ta thấy Abraham như đã ép được Chúa phải cho ông một bảo đảm về Lời Hứa. Khi Người hứa ban Ðất Nước này cho ông, ông đã bạo dạn thưa: "Lạy Chúa Giavê, làm sao tôi biết là tôi sẽ được nó làm cơ nghiệp?" Và Chúa đã phải ban cho ông một bằng chứng. Ðó là Giáo Ước. Người bảo ông lấy một con bê, một con dê, một con cừu, một con chim gáy và một con bồ câu. Abraham đem hết các vật ấy lại, rồi bổ đôi ba con vật lớn, đặt mỗi phần đối chiếu với phần kia. Theo tục lệ thời ấy, hai bên ký kết giao ước sẽ đi qua những phần thịt này để cam kết số phận mình sẽ bị phanh thây ra như thế nếu mình không giữ lời giao ước. Vậy, Abraham cũng chờ Chúa đến để đi qua... Và khi mặt trời đã lặn, thì này một lò lửa nghi ngút khói và một đuốc cháy đã ngang qua giữa những mảnh thịt. Abraham biết rằng Chúa đã đến và đã cam kết. Lửa khói và đuốc sáng là dấu hiệu hiện diện của Người. Người cam kết một mình để tỏ ra ưu vị và sự quyết tâm của Người, khiến Abraham chỉ còn biết sấp mình thờ lạy và đặt hết tin tưởng vào Chúa.
Con cái Israen thời của tác giả bản văn này, làm sao không phấn khởi khi nghe nói như vậy? Tổ phụ của họ vì tin mà được Ðất Nước này. Họ cũng sẽ giữ và lấy lại được Ðất Nước nếu có niềm tin như thế. Và cơ sở của niềm tin chính là Giáo Ước. Thiên Chúa đã hứa, hứa một cách long trọng và có khế ước nghiêm chỉnh. Chính Người sẽ thực hiện điều ấy.
Chúng ta cảm phục tác giả. Nhưng sánh với ông hạnh phúc của chúng ta thật to lớn biết bao! Chúng ta được hứa ban sản nghiệp Nước Trời là sự sống đời đời. Nhưng chúng ta không phải chỉ có Lời Hứa và giao ước, mà còn có bảo chứng cụ thể là việc Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết và đã ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta. Sự kiện Ngài sống lại, ai chối được nữa? Bài Tin Mừng hôm nay đã báo trước. Môsê và Êli đã tuyên chứng. Các Tông đồ đã được nếm thử. Phêrô đã mãn nguyện rõ ràng... Chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh để đi con đường mùa Chay, con đường của đời sống. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô đoán chắc về hạnh phúc phục sinh của chúng ta mai ngày. 3. Chúa Sẽ Biến Ðổi Thân Xác Khốn Hèn Của Chúng Ta
Thánh Tông đồ khuyên hết mọi người bắt chước Người và bắt chước những kẻ sống theo gương mẫu của Người, vì Người tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu nhiệm Thánh Giá. Ðang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Ðức Kitô. Họ lấy bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang nơi những điều đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do Thái. Họ là những người chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh phúc, Họ sẽ đi tới diệt vong. Con đường của họ, không nên đi vào.
Trái lại, quê hương của chúng ta là trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là Ðức Giêsu Kitô. Người sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh quang của Người. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường thập giá, là con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.
Hôm nay bài Tin Mừng đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Tác giả bài sách Khởi Nguyên đã khuyên con cái Israen đặt niềm tin vào quê hương họ. Chúng ta còn phấn khởi biết bao khi theo lời thánh Phaolô mà nghĩ đến quê hương trên trời, nơi Ðức Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang để lấy sự vinh quang của Người bọc lấy và đưa chúng ta về hạnh phúc đời sau, như các môn đệ của Người hôm nay đã được nếm thử trên núi Biến hình. Vậy chúng ta hãy tin vào mầu nhiệm thập giá. Hãy sống cuộc đời không lấy bụng làm Chúa, nhưng biết nhìn xa hơn những điều dưới đất...
Giờ đây, trong Thánh Lễ chúng ta đang làm như thế. Chúng ta nhìn xa hơn bánh rượu để thấy Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta nhìn xa hơn thánh giá để thấy hy vọng phục sinh. Ðồng thời chúng ta cũng nhìn nhau xa hơn những nét bên ngoài để thấy anh em là chi thể của nhau trong Ðức Giêsu Kitô. Như thế không còn cho phép ta sống theo xác thịt nữa, nhưng như đã lột xác, đợi ngày biến hình thật sự với ngày Chúa trở lại trong vinh quang mà lễ Chúa Biến hình hôm nay đã báo trước. (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) -----------------------------------
Khi có ai gặp khó khăn đến chia sẻ với chúng ta, chúng ta thường khuyên họ hãy cầu nguyện, xin Chúa giúp cho tai qua nạn khỏi. Mà thực vậy, cầu nguyện đích thực bao giờ cũng hữu hiệu. Chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay nói về cuộc Hiển dung của Chúa Giê-su, nghĩa là Người biến đổi hình dạng trên núi Ta-bô-rê. Thánh Lu-ca ghi rõ: Hôm ấy Đức Giê-su lên núi cầu nguyện… Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác. Vậy chúng ta hãy hỏi Chúa cầu nguyện điều gì mà khiến cho dung mạo Người biến đổi? Có lẽ chúng ta quá để ý tới chi tiết và diễn tiến câu truyện mà quên mất nội dung cầu nguyện của Chúa Giê-su ở trên núi.
Cầu nguyện là một cuộc đàm đạo, dĩ nhiên là đàm đạo với Chúa. Ở đây chúng ta hiểu là Chúa Giê-su đang nói chuyện với Chúa Cha. Lại có thêm hai người nữa cùng giúp Chúa Giê-su cầu nguyện, đó là ông Mô-sê biểu tượng cho Lề Luật và ông Ê-li-a biểu tượng cho các Ngôn sứ. Tất cả Kinh Thánh Cựu Ước gồm Lề Luật và sách Ngôn sứ đều nói về sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su. Do đó, với sự hiện diện của Mô-sê và Ê-li-a, việc Chúa Giê-su đàm đạo với Chúa Cha có nghĩa là Chúa Giê-su đang tâm sự với Chúa Cha về sứ mệnh của Người, hay nói đúng hơn, là Người nói với Chúa Cha về cuộc Thương Khó Người sắp chịu tại Giê-ru-sa-lem. Chúa Giê-su cần nói chuyện với Chúa Cha về cuộc Thương Khó để củng cố niềm tin vào Chúa Cha hơn. Sự có mặt của Mô-sê và Ê-li-a giúp Người xác tín lại sứ mệnh cứu độ Chúa Cha đã trao cho Người chu toàn. Nhìn cuộc Thương Khó tới gần, với bản chất con người, Chúa Giê-su cũng thấy nao núng. Cho nên nói chuyện với Chúa Cha hoặc cầu nguyện là phương thức giúp Chúa Giê-su múc lấy sức mạnh vô song của Thiên Chúa, nhờ đó Người can đảm thi hành sứ mệnh và chấp nhận cuộc Thương Khó để chuộc tội cho nhân loại.
Chúa Cha đã đáp lại lời cầu nguyện và niềm tin của Chúa Giê-su. Người tuyên dương Chúa Giê-su với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Cầu nguyện với lòng tin trọn vẹn và hiếu thảo đối với Chúa Cha đã biến đổi dung mạo của Chúa Giê-su. Mọi sự trở nên sáng tỏ. Chúa Giê-su quyết tâm thi hành sứ mệnh, hoàn tất kế hoạch cứu độ yêu thương mà Chúa Cha đã tiền định từ muôn thuở.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có khi nào chúng ta cầu nguyện để xin Chúa giúp chúng ta xác tín sứ mệnh Chúa trao cho chúng ta không? Chúa Giê-su cầu nguyện trên núi để thân thưa với Chúa Cha rằng Người sẵn sàng lên Giê-ru-sa-lem thi hành sứ mệnh cứu độ. Cũng thế, mỗi người chúng ta có một sứ mệnh: làm linh mục, tu sĩ, giáo dân, làm cha mẹ, con cái, giáo viên, học trò... Nhưng khi phải chu toàn bổn phận và sứ mệnh, chẳng ai là không thấy nao núng sợ hãi. Chúng ta cần lòng tin và can đảm. Chính trong cầu nguyện, chúng ta sẽ được biến đổi.
Hình ảnh ông Phê-rô và hai bạn “ngủ mê mệt” cũng là hình ảnh mỗi người chúng ta nhiều khi không còn thấy rõ lý tưởng đời mình nữa. Có quá nhiều thứ trên đời làm cho sứ mệnh chúng ta bị lung lạc. Vợ chồng có thể bị cám dỗ phản bội nhau. Giám mục có thể bị cám dỗ lộng quyền thay vì làm mục tử nhân lành. Linh mục có thể bị cám dỗ làm việc mục vụ cách máy móc và thiếu tinh thần phục vụ. Giáo dân có thể bị cám dỗ sống đạo cho có lệ… Nhưng tất cả chúng ta đều có thể cùng nghe Chúa Cha mời gọi: “Đây là Con Ta (Đức Giê-su Ki-tô), người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giê-su dạy chúng ta chu toàn sứ mệnh mỗi ngày, nhất là trong mùa Chay này.
Lc 9:28b-36: 28 Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. 29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. 31 Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. 32 Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người. 33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” Ông không biết mình đang nói gì. 34 Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. 35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” 36 Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
Văn mạch của đoạn trên đây là Chúa Giêsu lần đầu tiên bày tỏ cho các môn đệ của Người về cuộc khổ nạn Người sẽ chịu (9:22). Phần Người, Người sẵn sàng đi lên Giêrusalem để thực hiện điều ấy (9:21-50). Bố cục của đoạn 9:28-36 có thể được phân chia dựa trên sự phân bố của động từ ginomai, “xảy ra là” (9:28.29.30.34.36): - Khung cảnh (9:28); - Cảnh biến hình (9:29-31); - Phản ứng của các môn đệ (9:32-ABC33); - Lời giải thích của Thiên Chúa (9:34-35); - Phản ứng của các môn đệ và kết luận (9:36). Đoạn nầy được đóng khung bởi việc Chúa Giêsu và các môn đệ lên núi (9:28) và xuống núi (9:37).
Bối cảnh của trình thuật biến hình nầy là “khoảng tám ngày sau những lời ấy”, “Người lên núi cầu nguyện, đem theo Phêrô, Gioan và Giacôbê” (9:28). “Những lời ấy” là những lời tiên báo về cuộc khổ nạn (9:21-22) và lời mời gọi từ bỏ mạng sống để theo Chúa Giêsu (9:23-27). Trong cuộc biến hình, Chúa Cha cho các môn đệ thấy vinh quang Con của Người và qua đó xác nhận trước sự sống lại mà chính Chúa Giêsu đã tiên báo, “sẽ sống lại vào ngày thứ ba” (9:22). Đồng thời, đó thật sự là nguồn an ủi rất lớn cho các môn đệ. Họ được đem theo để chứng kiến cuộc biến hình. Nếu họ được mời gọi bỏ mình và vác thánh giá theo Người, họ cũng có thể tham dự vào vinh quang của Người (9:23-24). “Núi” là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Nơi ấy Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện, nhất là vào những bước ngoặt quyết định trong đời Người (6:12; 9:28.29; 21:37; 22:39-40). Vậy, trong cuộc biến hình, Thiên Chúa hành động tất cả cho Con của Người và các môn đệ.
Thiên Chúa làm cho Chúa Giêsu xuất hiện trong vinh quang (6:29-30). Những yếu tố trong đoạn nhỏ nầy liên quan rất mật thiết với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, và nhất là đến lời Người nói với những ai từ bỏ mọi sự để đi theo Người. Họ có thể được thấy trước ngay bây giờ vinh quang của Người mà Người đã hứa (9:26). “Dung mạo” không chỉ một phần của thân thể, mà cả con người toàn vẹn (x 7:27; 9:51.52). Nó trở nên “khác” là trở nên vinh quang trước mắt các môn đệ. Họ đã thấy vinh quang của Người (x. 9:32). Vinh quang nầy chỉ tạm thời. Nó sẽ tỏ hiện cách sung mãn và dứt khoát sau khi Người đã đi qua cái chết (24:26). Chiếc áo trắng tinh chiếu sáng của Người chỉ tình trạng Người đang trong thế giới của Thiên Chúa (x. 9:26; Cv 1:10); không chỉ mình Người, mà cả Môsê và Êlia cũng ở trong vinh quang ấy (x. 9:31). Hai ông là những đại diện của Lề luật và các ngôn sứ đã nói những điều liên quan đến cuộc khổ nạn và vinh quang của Người (x. 24:26-27 và 24:44-46). Nội dung cuộc đàm đạo là “cuộc xuất hành của Người” (9:31). Sự ra đi nầy sắp sửa được thực hiện tại Giêrusalem. “Hoàn thành” là hoàn thành theo ý của Chúa Cha (x. 22:16; 24:44). Trong đoạn tiếp theo, Luca nêu rõ là Người “đi lên Giêrusalem” (9:51.53). Như thế, lúc nầy khi được biến đổi trong vinh quang, cuộc khổ nạn của Người cũng được loan báo.
Thiên Chúa làm cho các môn đệ nhìn thấy và hưởng vinh quang của Con của Người (9:31-35). Trong câu ngay trước đoạn nầy Chúa Giêsu cho biết một số người sẽ được thấy Nước Thiên Chúa (9:27). Chúa Giêsu vinh quang chính là hiện thân của Nước Thiên Chúa nầy (x. 23:51-52). “Phêrô và những người cùng với ông” đang nhìn thấy Chúa Giêsu vinh quang (9:32). Tình trạng của các môn đệ đáng chú ý và phân tích. Họ “trở nên buồn ngủ mê mệt” một đàng; đàng khác, khi tỉnh dậy họ thấy vinh quang của Người (9:32). Đây là cách trình bày về phương thức Thiên Chúa thông tin cho con người; chẳng hạn Abraham (15:12), Daniel (Dn 8:18; 10:9), và Giuse (x. Mt 1:24). Thấy vinh quang của Người cũng chính là thấy tình trạng của Người khi đã phục sinh và cả sự cứu độ do Người mang đến (x. 21:27-28). Việc Phêrô xin làm ba căn lều tại đó có thể là ông muốn vinh quang xuất hiện nơi Chúa Giêsu được giữ mãi. Marcô ghi nhận là ông không hiểu điều ông nói (x. MC 9:6). Vậy, Thiên Chúa đã làm cho các môn đệ thấy vinh quang của Chúa Giêsu.
Thiên Chúa xác nhận điều Người đã làm (9:34-35). Sự hiện diện của Thiên Chúa được trình bày qua hình ảnh “đám mây” (9:34[2X].35). Đám mây ấy “phủ trên” các môn đệ, như Thánh Thần “phủ trên” Maria khi đến truyền tin (1:35). Các môn đệ sợ hãi, vì họ ý thức là đang đi vào và ở trước mặt Thiên Chúa (9:34). Và lúc nầy, tiếng Thiên Chúa phát ra ngỏ với các môn đệ và khẳng định về Con của Người (9:35). Lần nầy, xác nhận “Đây là Con Tôi” được kèm theo tính từ “được tuyển chọn” và mệnh lệnh “hãy nghe lời Người”, thay vì “yêu dấu” và mệnh đề khẳng định “Cha hài lòng về Con” như trong biến cố phép rửa (x. 3:22). “Tuyển chọn” để thi hành một sứ mệnh (x. Is 42:1). Thiên Chúa tuyển chọn Con của Người (9:35), để chịu đóng đinh (x. 23:35). Chúa Giêsu cũng chọn các môn đệ để đi theo con đường của Người. Bởi đó, họ phải nghe lời của Người, như chính Người đã nghe lời Cha của Người. Như thế, mệnh lệnh của Chúa Cha đã đóng lại việc biến hình và xác nhận là đúng những điều Chúa Giêsu đã nói về cuộc khổ nạn của Người và những điều kiện theo Người.
Chúa Giêsu biến hình trong vinh quang với mục đích là để cho các môn đệ thấy. Thấy để tin Người là Con Thiên Chúa. Và thấy để lắng nghe Người mà đi vào cuộc khổ nạn và phục sinh với Người.
Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Văn mạch: 9:21-50: 9:21-22: đừng nói ai cả là Người Con Nhân Loại sẽ chịu khổ nạn. 9:23-27: hay theo Thầy, từ bỏ mạng sống mình. 9:28-36: biến hình. 9:37-43: chua lành người bị quỷ ám. 9:46-48: ai la người lớn nhất. 9:49-50: ai không nghịch cùng ta la thuận với ta.
Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật II Mùa Chay, Năm C.
Bài Đọc I (Sách Khởi Nguyên 15: 5-12, 17-18) nhắc đến Giao Ước Thiên Chúa đã thiết lập với tổ Phụ Abraham. Đó là Giao Ước Cũ qua việc đổ máu sinh vật để hiến tế.
Trong Bài Đọc II (Philiphê 3: 17-4:1), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Chúa Giêsu Kitô đã đến trong thân xác loài người chúng ta, và đổ máu mình ra để thiết lập một Giao Ước Mới, Giao Ước vĩnh cửu, để cứu chuộc nhân loại, và Người “sẽ biến đổi thân xác hèn mọn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Chúa.” Bài Phúc Âm Năm C (Luca 9: 28-36) cũng như Năm A (Matthêu 17: 1-9) và Năm B (Mátcô 9: 2-ABC10) đều nói đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan “Lên Núi” cầu nguyện và biến hình sáng láng trước mặt các ông, và ba ông đều cảm thấy thật hạnh phúc êm đềm, muốn “cắm lều” để ở lại mãi mãi trong hạnh phúc êm đềm đó. Nhưng các ông đã phải tỉnh mộng, lại phải “Xuống Núi” để đối diện với thực tế của cuộc sống hàng ngày.
Abram đã được Chúa gọi, và ông đã vâng lời Chúa, bỏ thành Ur, quê hương yêu dấu của ông để ra đi “đến một vùng đất Chúa chỉ cho ông.” Chúa đã đổi tên ông là Abraham, và thử thách ông trong nhiều biến cố, đặc biệt qua việc ông vâng lời Chúa và sẵn sàng hy sinh cả người con trai duy nhất của ông làm của lễ hiến tế cho Chúa, nên ông đã “ được Chúa chúc phúc và cho sinh sản con cháu đông đúc… và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ của ông,” (Sách Khởi Nguyên 22: 1-18)
Chúa Giêsu đã mặc lấy xác con người như chúng ta , và Ngài đã vâng phục Đức Chúa Cha để chấp nhận mọi thử thách trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng Cứu Độ: chịu người ta chống đối, nhục mạ và kết án như một tội nhân, và sau cùng Ngài đã chấp nhận chịu nạn, chịu chết nhục nhã trên Thánh Giá, mai táng trong mồ, rồi Ngài mới sống lại và về trời vinh hiển để mở đường cứu độ cho chúng ta.
Giáo Hội Chúa ngay từ khởi đầu cho đến ngày nay, cũng luôn gặp bao bách hại, thù ghét và chống đối như Chúa Giêsu đã nói trước: “Nếu thế gian ghét chúng con, chúng con hãy biết rằng, họ đã ghét Thày trước… Họ ghét chúng con vô cớ; nhưng chúng con hãy làm các chứng nhân cho Thày.” (Gioan 15: 18-27). Vâng lời Chúa, Giáo Hội, qua các thế hệ cho đến ngày nay và mãi mãi, vẫn luôn cố gắng để đem ánh sáng và chân lý Tin Mừng tình thương đến cho mọi người, mọi nơi, dù luôn phải chấp nhận những chống đối, bách hại, vì “Bóng tối luôn thù ghét Ánh sáng” và “kẻ dữ luôn rình mò hãm hại người lành”.
Trong cuộc hành trình Đức Tin, mọi người tín hữu chúng ta cũng đều phải trải qua những gian khổ, thử thách và bách hại cách này hay cách khác, dù chúng ta luôn cố gắng làm lành, lánh dữ và tìm cách giúp đỡ mọi người. Hơn nữa, dẫu vẫn là những con người mang bản tính yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn phải cố gắng vượt thắng những đam mê thế gian, ‘những gì trái ngược với Thập Giá của Chúa Kitô,” trước khi thân xác chúng ta được cất khỏi đời này, và được biến đổi nên giống thân xác vinh hiển của Chúa.
Mùa Chay là một thời gian tĩnh tâm dài, để chúng ta có nhiều thời giờ cầu nguyện nhiều hơn, dâng nhiều hy sinh, hãm mình hơn, và tiết kiệm trong việc tiêu pha để dành dụm tiền bạc giúp đỡ những người đang cần được giúp đỡ. Đặc biệt trong cuộc lạc quyên giúp đỡ các nạn nhân động đất tại Haiti vừa qua, chúng ta đã thật sự quảng đại đóng góp qua các tổ chức Cứu Trợ Công Giáo, số tiền đã lên tới nhiều triệu Mỹ Kim.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta trong Mùa Chay Thánh này. Xin Chúa chúc lành cho Giáo Hội toàn cầu, đặc biệt cho các nơi đang bị bách hại như ở Việt Nam, và nhiều nơi trên thế giới. Xin Mẹ Maria, các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Thánh chuyển cầu cho chúng ta.
Còn gì vui hơn khi thấy giấc mơ thành sự thật. Các môn đệ đã thấy rõ Đức Giêsu đến thực hiện tất cả mộng ước của dân Do thái về Đấng Messia. Niềm hi vọng tưởng như bừng lên khi ông Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” (Lc 9:20) Nhưng đám mây đen đã kéo đến với lời Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới (x. Lc 9:22), tiếp sau biến cố Gioan Tẩy giả vừa mới bị giết (Mt 14:1-12; MC 6:14-29).
CẢNH BỒNG LAI
Để khai quang đám mây đen đó, “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.” (Lc 9:28b) Chỉ có lời cầu nguyện mới giữ nổi niềm hi vọng. Chính vì thế, Đức Giêsu đặt hết niềm tin tưởng nơi Chúa Cha, Đấng có thể thỏa mãn mọi niềm hi vọng. “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác.” (Lc 9:29) Cuộc kết hiệp đã đưa Người xa rời thế giới chung quanh, đi vào cảnh bồng lai Thiên Chúa. Cả cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc kết hiệp vĩ đại đó: “Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.” (Lc 9:29) Cuộc kết hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nhất là tương quan phụ tử: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn.” (Lc 9:35) Tương quan này sẽ chi phối tất cả cuộc đời và con người của Đức Giêsu. Tương quan cực kỳ sâu đậm, cao đẹp và thắm thiết. Tất cả những tương quan khác trong biến cố biến hình đều tùy thuộc vào tương quan đó. Nhờ thế, Đức Giêsu đã có thể làm tất cả mọi sự để hoàn thành sứ mệnh cứu độ trần gian. Sứ mệnh đó bắt nguồn từ lời hứa của Thiên Chúa.
Lời hứa đó được nhắc lại khi “ông Môsê và ông Eâlia hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.” (Lc 9:31) Những hình ảnh Cựu Ước tuyệt vời này đã củng cố niềm tin cho các tông đồ. Nguyên sự xuất hiện đó đã đưa uy tín của Đức Giêsu lên tột đỉnh niềm tin của các ông. Huống nữa các ông Môsê và Eâlia còn nói về một cuộc xuất hành mới tại Giêrusalem. Cuộc xuất hành mới sẽ đem muôn dân vào miền đất hứa mới. Đức Giêsu rất xứng đáng lãnh đạo toàn thể nhân loại, chứ không chỉ một dân tộc như Môsê. Người còn có thể phóng tầm nhìn xa hơn một tiên tri như Eâlia để đem lại niềm hi vọng lớn lao cho lòng người, vì Người sẽ đem tất cả nhân loại vào tương quan sâu xa với Thiên Chúa. Chỉ trong tương quan này, “con người mới tìm thấy chính mình cách trọn vẹn và khám phá ra ý nghĩa tối hậu của đời sống.” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 27/2/2001) Nhờ tương quan đó, Người đã có thể hoàn thành cuộc xuất hành ở Giêrusalem, cao điểm của mọi lời hứa.
Khi các nhân vật Cựu Ước đã hoàn thành nhiệm vụ, các nhân vật Tân Ước cũng được trình diện với Thiên Chúa trong công cuộc xuất hành mới. Đây là những nhân vật quan trọng sẽ góp phần vào công cuộc giải phóng dân Chúa. Do đó các ông cũng cần đi vào cuộc tiếp xúc sâu xa với Thiên Chúa. Cuộc tiếp xúc với các nhân vật Cựu Ước đã khiến Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều lý tưởng. Nhưng ông bị đẩy xa hơn. Đám mây đã đem các ông vào một trời đất mênh mông, vượt trên mọi biên giới trần gian. Các ông bị choán ngợp trong thế giới Thiên Chúa. Thật vậy, khi “ông (Phêrô) còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.” (Lc 9:34) Lúc này các ông không còn nghe thấy tiếng loài người nữa, nhưng trực tiếp nghe Thiên Chúa xác quyết về bản chất và sứ mệnh của Đức Giêsu. Người thực sự là Con Thiên Chúa, được tin tưởng và ủy thác việc hoàn thành cuộc xuất hành mới. Nếu Thiên Chúa còn tin tưởng và giao cho Người sứ mệnh cao cả như vậy, làm sao con người lại không tin ? Tiếng nói của Chúa Cha là một bảo đảm vững chắc nhất: “Hãy vâng nghe lơi Người !” (Lc 9:35) ngay cả trong những nghịch lý của cây khổ giá. Từ nay, Lời Chúa phải có một giá trị tuyệt đối. Chỉ cần nghe lời Đức Giêsu là vâng phục Thiên Chúa. Bởi vậy, “tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu.” (Lc 9:36) Từ nay chẳng cần một cuộc biến hình nào nữa, vì chỉ một mình Đức Giêsu cũng đủ cho con người thấy tất cả hồng ân cao cả của Thiên Chúa.
CUỘC XUẤT HÀNH MỚI.
Chỉ khi nào vào trong đám mây, nghĩa là cũng biến hình như Chúa, các tông đồ mới có thể định hướng cho cuộc xuất hành mới. Hướng mới chính là Đức Giêsu Kitô. Trước đây, dù ngay khi còn trên núi, các ông đã lâm vào tình trạng “không biết mình đang nói gì” (Lc 9:33) hay “hoảng sợ.” (Lc 9:34) Nhưng giờ đây, sau khi đã thấy rõ tất cả sự thật về Đức Giêsu, chắc chắn các ông sẽ vững tâm hơn. Từ nay, các ông tin tưởng tuyệt đối “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3:21) Cuộc biến hình này sẽ đẩy chúng ta vào cuộc xuất hành mới.
Cuộc biến hình đó có thể thực hiện ngay trên mặt đất. Xưa kia, vì “tin Đức Chúa,” (St 15:6) ông Abraham được “Đức Chúa lập giao ước.” (St 15:18) Không những thề, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15:5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể là người công chính.” (St 15:6) Nói khác, lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời ông.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, hơn nữa trở nên bạn hữu Đức Kitô, để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa. Từ cuộc hiệp thông này, chúng ta mới có thể hòa giải với tha nhân. “Hòa giải cho dù mình có lỗi đã là khó. Hòa giải ngay cả khi người ta lỗi đến mình xem ra còn khó khăn hơn vì nhiều người vẫn cho là điều nhục nhã vô lý.” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 25/2/2001) Lòng tự ái thật là trái núi lớn nằm chình ình giữa tương giao nhân loại. Nhưng nếu “có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17:20-21) Ai có thể lường hết sức mạnh đức tin ?!
Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Là con cái Giáo hội và là chính Giáo hội, người Kitô hữu phải làm gì để luôn phản ánh “vinh quang của Đức Giêsu” (Lc 9:32) giữa những sinh hoạt muôn mặt hôm nay ? Làm sao sống xứng đáng “là niềm vui, là vinh dự” (Pl 4:4) của Giáo hội giữa một thế giới đầy bất ổn và buồn chán hôm nay ? Chỉ có cách bám chặt vào niềm hi vọng duy nhất là Đức Kitô. Sống giữa trần thế, nhưng chúng ta vẫn không quên “quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta.” (Pl 3:20)
Biến cố Chúa Giê-su biến đổi hình dạng có quan hệ chặt chẽ với sứ mệnh cứu độ của Người, nhưng lại được ba thánh sử Tin Mừng thuật lại qua những chi tiết đặc biệt để làm nổi bật những khía cạnh khác nhau của sứ mệnh ấy. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến cuộc Xuất hành và vinh quang rạng ngời của Chúa Giê-su như một mời gọi và khích lệ cho những ai muốn làm môn đệ Chúa. Đó cũng là con đường thiêng liêng Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình bước đi theo Chúa trong thời gian đặc biệt của mùa Chay thánh. Vậy cuộc Xuất hành của Chúa Giê-su là gì và nó sẽ đưa Người đi tới đâu?
1) “Ông Mô-sê và ông Ê-li-a nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”
Trong cuộc biến đổi hình dạng trên núi, ta thấy bên cạnh Chúa Giê-su xuất hiện hai nhân vật: ông Mô-sê tiêu biểu cho Lề Luật và ông Ê-li-a tiêu biểu cho lời các ngôn sứ. Hai vị là chứng nhân của Cựu Ước làm chứng cho sứ mệnh Đấng Mê-si-a của Chúa Giê-su. Hoặc nói khác đi, sự hiện diện của hai vị nói cho ta biết sứ mệnh của Chúa Giê-su là đến trần gian để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Tình yêu ấy được biểu lộ qua Lề Luật Người ban cho dân Ít-ra-en và những kêu gọi nhắc nhở Người nói với họ qua các vị ngôn sứ. Tuy nhiên, những biểu lộ tình yêu ấy vẫn chưa đủ để nhân loại hối cải và trở về với Thiên Chúa. Do đó, giờ đây đến lúc Thiên Chúa sẽ đích thân nói với nhân loại qua Con Một của Người (Dt 1:2). Người thực hiện kế hoạch cứu độ qua sứ mệnh của Chúa Giê-su. Theo kế hoạch ấy, Chúa Giê-su, “trưởng tử của nhân loại mới” sẽ làm một cuộc Xuất hành, dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa. Người rao giảng Tin Mừng, giúp ta nhận ra và đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Người còn tỏ ra tình yêu của Thiên Chúa bằng những việc làm của Người như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo (Lc 4:18-19). Cách sau cùng và cũng là cách rõ ràng nhất để nói cho nhân loại biết về tình yêu Thiên Chúa, đó là Chúa Giê-su sẽ hoàn tất cuộc Xuất hành tại Giê-ru-sa-lem. Không phải là hoàn tất cuộc Xuất hành để làm ông vua trần gian cai trị nước Ít-ra-en, nhưng là hoàn tất cuộc Xuất hành bằng cái chết, sống lại và lên trời như lời tiên báo của các ngôn sứ về Đấng Mê-si-a. Như thế, cuộc Xuất hành của Chúa Giê-su bắt đầu bằng mầu nhiệm Nhập Thể, tiếp tục với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và hoàn tất với mầu nhiệm Phục Sinh.
Khi kể lại các ông Mô-sê và Ê-li-a đàm đạo với Chúa Giê-su về cuộc Xuất hành của Người, thánh sử Lu-ca muốn nói lên một diễn tiến tâm lý trong tâm hồn Chúa Giê-su trước quyết định đi Giê-ru-sa-lem. Người nhìn thấy được phần nào những gì sẽ chờ đợi Người tại Giê-ru-sa-lem. Một đàng là sự an toàn của cá nhân mình, một đàng là thánh ý Chúa Cha muốn Người phải sẵn sàng chịu chết để biểu tỏ tình yêu Thiên Chúa. Quả thực là một cuộc phân định thánh ý Chúa vô cùng cam go. Đàng khác, sự hiện diện của Mô-sê và Ê-li-a mang ý nghĩa chứng nhân Cựu Ước cũng cho ta thấy sự quyết tâm trung thành với thánh ý Thiên Chúa Cha ở nơi Chúa Giê-su rồi. Chính lúc Người “nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9:51) là lúc các môn đệ “nhìn thấy vinh quang của Người” (Lc 9:32; xem 9:26).
2) Ý nghĩa cuộc biến đổi hình dạng của Chúa Giê-su đối với các môn đệ
Với Chúa Giê-su, cuộc biến đổi hình dạng là cuộc phân định và chọn lựa thánh ý Chúa Cha để sẵn sàng chịu chết vì phần rỗi nhân loại. Nhưng biến cố ấy cũng mang ý nghĩa vô cùng quan trọng cho các môn đệ Người.
Đọc phần Tin Mừng trước biến cố này, ta nhận thấy thánh Lu-ca ghi lại việc ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Sau đó là Chúa tiên báo cuộc Thương khó lần thứ nhất và tiếp theo nói về những điều kiện phải có để theo Chúa. Ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, nhưng ý niệm của ông về Đấng Ki-tô không đúng. Cũng như mọi người Do-thái khác, ông Phê-rô chỉ có duy một ý niệm về Đấng Ki-tô là một đấng mê-si-a trần thế, cần thiết cho nước Ít-ra-en để làm cho quốc gia được độc lập và dân chúng tự do hạnh phúc. Giờ đây cuộc đàm đạo của Chúa với ông Mô-sê và Ê-li-a giúp làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực về sứ mệnh của Đấng Ki-tô. Nhờ vậy, ông Phê-rô và các môn đệ Chúa biết rõ họ phải đáp lại lời gọi của Chúa như thế nào trước những điều kiện Người đã đưa ra. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).
Tuy nhiên, không phải theo Chúa là đi vào ngõ cụt của đời người. Chúa đã hé mở cho các ông thấy tương lai của họ khi Người cho họ xem thấy một chút vinh quang Phục Sinh của Người. Nếu họ trung thành cùng chịu đau khổ với Người, họ cũng sẽ được chung phần vinh hiển với Người, như thánh Phao-lô đã từng lập đi lập lại nhiều lần.
Tin Mừng Mác-cô cho chúng ta một hình ảnh sống động về việc theo Chúa. Sau hai lần tiên báo cuộc Thương khó, lần thứ ba Chúa Giê-su nói với các Tông đồ: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư...” (MC 10:33). Chúa Giê-su không nói để một mình Người lên Giê-ru-sa-lem thôi. Nhưng Người cũng muốn tất cả những ai theo Người hãy cùng lên Giê-ru-sa-lem với Người, tham dự vào cuộc Thương khó của Người.
3) Cuộc sống ta là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô
Hơn ai hết, thánh Phao-lô Tông đồ là người sống cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Ki-tô. Trong các thư của ngài, tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3:10) đã trở thành nguyên lý căn bản đưa ta đến sự cứu rỗi. Hoặc nói khác đi, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô có nghĩa là ta được cứu rỗi.
Nhưng cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Ki-tô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời. Mỗi ngày một chút, ta rũ bỏ đi con người cũ, loại dần đi lối sống tội lỗi của ta để sống theo lối sống mới theo Thánh Thần, ta sẽ thuộc về Chúa Ki-tô mỗi ngày một gắn bó hơn. Muốn vậy, ta phải học biết lối sống của Chúa bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, để lắng nghe lời Chúa và chiêm ngưỡng Chúa. Nhưng đọc và suy gẫm thôi thì chưa đủ. Ta còn phải đem những điều suy gẫm ấy vào cuộc sống, để cho lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của ta sao cho giống với cách của Chúa Giê-su.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thiên Chúa phán với ba Tông đồ: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Chúa cũng phán với tôi những lời ấy. Tôi sẽ làm gì để “vâng nghe lời Người”?
Suy nghĩ về cuộc Xuất hành của Chúa Giê-su, tôi học được những gì? Sứ mệnh của tôi là gì và tôi có cố gắng hoàn tất sứ mệnh ấy trong sự kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su không?
Vinh quang của Chúa đã nâng đỡ đức tin của các môn đệ. Còn với tôi, điều gì nơi Chúa nâng đỡ đức tin của tôi? Tôi cảm tạ Chúa thế nào về điều ấy?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không cần những Ki-tô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. A-men”. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 24)
Mục đích của Mùa Chay là từng bước dẫn chúng ta đi vào mầu nhiệm Đức Kitô để hiểu và sống, đúng như lời nguyện thánh lễ Chúa Nhật I: “Xin giúp chúng con sống những ngày khắc khổ ấy để học biết Đức Kitô và dõi theo gương Người”.
Bài này sẽ trình bày hai điểm:
1. Mầu nhiệm biến hình; 2. Những bài học rút ra.
I. Mầu nhiệm Đức Giêsu biến hình
1. Đây là một kinh nghiệm thiêng liêng Đức Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta.
Cuộc biến hình có lẽ đã xảy ra ban đêm (bằng chứng là các môn đệ của Người đang “ngủ li bì”), khi Người đang chìm đắm trong cầu nguyện. Một chi tiết nên được quan tâm.
Quả thật, những biến cố trọng đại trong cuộc đời Đức Giêsu luôn gắn liền với sự cầu nguyện, như khi Người chịu phép rửa tại sông Giođan, khi tuyển chọn các môn đệ, trước khi đi vào cuộc thương khó, hay khi hấp hối trên thập giá.
2. Những biến đổi hình dáng bên ngoài không phải là những chi tiết thánh sử chú ý cho bằng để nói lên sự vinh quang của Đức Giêsu. Vinh quang này gắn liền vớiï đau khổ để cho thấy mầu nhiệm toàn vẹn của Người cũng như mục đích của đạo Chúa không phải là đi tìm sự đau khổ. Thật vậy, đau khổ chỉ là con đường tất yếu phải đi ngang qua mà thôi. 3. Hai ông Môisê và Eâlia xuất hiện rồi biến mất sau đó là để nói với chúng ta rằng Đức Giêsu chính là niềm mong đợi của dân Do thái. Người là Đấng Thiên Sai cứu thế. Từ nay, mọi sự phải tập trung vào Người. Tiếng của Chúa Cha phán từ trời cũng không có mục đích nào khác hơn ngoài việc giới thiệu Đức Giêsu là Chúa của đạo mới. Từ nay, theo đạo là theo Đức Giêsu và lắng nghe lời của Người.
4. Hình ảnh ba môn đệ thân tín li bì trong giấc ngủ là để minh hoạ một điều: con người “xác thịt” sẽ khó khăn trong việc đón nhận mầu nhiệm.
II. Những bài học được rút ra
1. Lời mời gọi biến hình. Thánh Luca không muốn kể một câu chuyện, cho bằng muốn ta suy nghĩ, đặc biệt trong mùa chay. Đức Giêsu biến hình là hình ảnh của mầu nhiệm phục sinh, hình ảnh của con người mai sau, như Thánh Phaolô nói: “chúng ta cũng sẽ được sáng láng như Người”.
Thánh Luca đồng thời cũng muốn mời gọi ta bắt chước Chúa mà biến hình, nghĩa là thay đổi đời sống tận căn. Bất cứ sự thay đổi nào cũng làm cho ta nên xinh đẹp hơn, hấp dẫn hơn, như thể các môn đệ sau khi tỉnh dậy đã choáng ngợp, ngất ngây trước hình ảnh Chúa biến hình và chỉ muốn cư ngụ mãi trên núi.
2. Nếu Đức Giêsu đã biến hình đang khi cầu nguyện thì dường như Thánh Luca khi kể lại câu chuyện này cũng muốn nói với chúng ta hôm nay rằng: con người muốn biến đổi thì phải cầu nguyện. Chính sự cầu nguyện có sức thay da đổi thịt chúng ta như khi chúng ta hít khí trời vậy. Vả lại sự biến đổi nào mà lại không cần đến ơn Chúa ?. Rất nhiều khi chúng ta không thay đổi được chỉ vì thiếu sức mạnh của Chúa.
3. Đời sống đạo của chúng ta hôm nay là bước theo Đức Giêsu và lắng nghe lời Người. Thánh sử Luca muốn nhấn mạnh điều này khi nói rằng đó là tiếng nói của Chúa Cha, nghĩa là đó là một mệnh lệnh.
4. Tuy là một chi tiết phụ, nhưng Thánh Luca không quên kể lại cảnh ba môn đệ thân tín chìm đắm trong “giấc ngủ li bì”, hình ảnh minh hoạ sự yếu đuối của con người không thể đón nhận mầu nhiệm Đức Giêsu, nhất là mầu nhiệm khổ nạn. Rồi đây, khi Chúa hấp hối trong vườn Cây Dầu, vẫn lại ba môn đệ này được ghi nhận là đang ngủ: tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt lại nặng nề.
Kết luận
Mùa chay mời gọi ta “biến hình” như Đức Giêsu. Chính khi bản thân ta được “biến hình” mà ta có thể nói: tôi đã “học biết Đức Kitô và dõi theo gương Người” (Lời cầu nguyện Chúa Nhãt I mùa chay).
Một lần nữa, ta lại thấy thánh Lu-ca sử dụng khéo léo cách móc nối đoạn Tin Mừng Chúa Giê-su biến đổi hình dạng với lời Chúa tuyên bố trước đó về những điều kiện để theo Người, khi ngài mở đầu câu truyện: “Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện...” Viết như thế, thánh sử muốn ta phải căn cứ vào những lời Chúa Giê-su đã nói và việc Người lên núi cầu nguyện làm chìa khóa để hiểu được ý nghĩa của sự kiện Người biến đổi hình dạng. Do đó, ta không thể bỏ qua đoạn Tin Mừng đi trước câu truyện này. Vậy sau khi nêu lên những điều kiện phải có để theo Người, Chúa Giê-su khẳng định: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, sẽ có kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9:27). Có nghĩa là trước khi chết họ đã có thể “thấy Nước Thiên Chúa” ngay tại đời này rồi. Đó là những lời Chúa Giê-su nói tám ngày trước khi Người “lên núi cầu nguyện” và biến đổi hình dạng. Những chi tiết quan trọng này sẽ soi sáng để ta hiểu được tại sao Chúa tỏ ra hình dạng vinh hiển.
a) Thấy Nước Thiên Chúa nghĩa là nhận biết Chúa Giê-su là ai
Bài Tin Mừng Lu-ca Chúa Nhật I mùa Chay đã trình bày Chúa Giê-su trong hoang địa chịu cám dỗ chối bỏ căn tính cũng như sứ mệnh của mình và Chúa đã chiến thắng cám dỗ. Đó cũng là cám dỗ của mọi người môn đệ. Vậy mà sau khi Chúa cho các tông đồ biết Người sắp chịu cuộc Thương khó, thi hành sứ mệnh cứu chuộc tội lỗi loài người, tức là cho các ông biết rõ chân tính của Người, thì các ông lại không muốn chấp nhận điều ấy. Đó là lý do về phía các tông đồ, sở dĩ Chúa Giê-su muốn tỏ ra vinh hiển Người sẽ lãnh nhận sau khi hoàn tất sứ mệnh của Người Tôi tớ chịu đau khổ là vì Người muốn giúp các ông lấy cái nhìn đức tin mà nhận biết Người thực sự là ai.
Đối với Tin Mừng Lu-ca, “thấy Nước Thiên Chúa” nghĩa là nhìn nhận và tuân phục quyền tối cao của Đức Giê-su Phục Sinh. Hoặc nói theo Phao-lô, thấy Nước Thiên Chúa có nghĩa là tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa (Pl 2:11; Rm 10:9). Hay nói theo suy tư thực tiễn cho ta, thấy Nước Thiên Chúa ngay tại đời này có nghĩa là ta đã nhận biết Chúa Giê-su là Đấng nào và có lòng tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh. Khi biến đổi hình dạng nên sáng láng, Chúa Giê-su cho các tông đồ thoáng nhận ra vinh hiển tương lai của Người. Điều này rất cần thiết cho các ông, vì các ông sẽ không còn nhìn căn tính và sứ mệnh của Chúa Giê-su một cách phiến diện hoặc tiêu cực nữa, nhưng là một hình ảnh trọn vẹn từ thập giá đến vinh quang. Các ông sẽ cùng với Chúa lên Giê-ru-sa-lem, không phải để hồ hởi chứng kiến Người được dân chúng tôn làm vua trần thế, nhưng là để cùng chịu đau khổ và chịu chết với Người (2 Tm 2:11b-12a), đồng thời cũng để củng cố niềm tin của họ vào sự Phục Sinh vinh hiển của Người.
Những lời Chúa Giê-su vừa nói với “mọi người” không chỉ dành cho các tông đồ, nhưng cho hết thảy những ai muốn làm môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi. Ai cũng cần phải “thấy Nước Thiên Chúa,” cần phải nhìn nhận và làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh trong cuộc sống trần gian của mình. Cuộc biến hình sáng láng của Chúa sẽ phá tan đi tất cả những nét sai lạc ta thường có về hình ảnh đích thực của Đấng Cứu Thế, đồng thời cũng củng cố đức tin của ta nơi Người.
b) “Đang lúc Chúa Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác”
Ta đều biết cầu nguyện giữ vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của Chúa Giê-su. Người hằng cầu nguyện với Chúa Cha, cầu nguyện cho mình, cầu nguyện cho môn đệ và cho cánh đồng truyền giáo. Lần này chắc chắn là Người cầu nguyện cho chính mình khỏi sa chước cám dỗ, giống như tám ngày trước đây Người đã cầu nguyện (Lc 9:18) để có sức mạnh thẳng thắn bác bỏ đề nghị của Phê-rô muốn can gián Người lên Giê-ru-sa-lem thi hành sứ vụ Đấng Ki-tô. Trong lần cầu nguyện này, Người phải “lên núi” để gặp gỡ Chúa Cha. Người đàm đạo với ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a trước sự hiện diện của Chúa Cha. Nội dung câu chuyện của các Ngài là “cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.” Chúa Giê-su thấy cần phải lập đi lập lại xác tín căn tính và sứ mệnh đích thực của mình. Quỷ bỏ đi sau cám dỗ tại hoang địa, chờ đợi thời cơ. Và đây chính là thời cơ, tức là “giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (Ga 13:1) hoặc giờ của “cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.” Càng gần tới “giờ” thì càng là thời cơ thuận tiện cho Xa-tan. Cơn cám dỗ triền miên về căn tính và sứ mệnh đang tiến gần đến cao điểm tại Vườn Cây Dầu. Để thắng cơn cám dỗ quyết liệt, Chúa Giê-su muốn khiêm tốn chấp nhận kế hoạch và thánh ý của Chúa Cha được tỏ ra cho Người qua Lời Chúa là Lề Luật và các Ngôn sứ. Sự xuất hiện của ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a nhắc nhở Chúa Giê-su sẽ thực thi những gì đã được chép trong Kinh Thánh về Người.
Cầu nguyện biến đổi con người Chúa Giê-su. Hình ảnh sáng láng chỉ về vinh quang Người sẽ lãnh nhận sau khi hoàn tất sứ mệnh. Tuy nhiên ta cũng có thể nghĩ đây là tình trạng “được chiếu sáng” (illumination) của Chúa Giê-su, hoàn toàn quán triệt được căn tính và sứ mệnh của Người. Với xác tín trong sáng và sắt đá như thế, Chúa Giê-su mới có thể chu toàn được sứ mệnh vô cùng khó khăn và cao cả Chúa Cha đã trao phó cho Người. Hình ảnh đẹp đẽ và linh thiêng của Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Người tôi trung của Thiên Chúa, đã được chính lời Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn,” cũng là những lời Người đã phán với Chúa Giê-su khi chịu phép rửa của Gio-an (Lc 3:22).
c) Ông Phê-rô muốn dựng lều cho Chúa
Một cách nào đó, cuộc hiển dung của Chúa Giê-su đã tác động trên ông Phê-rô và các bạn ông. Ông thưa với Chúa: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy...” Ông đã thay đổi phần nào, đã hiểu phần nào con người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giê-su nhờ những gì ông đã được chứng kiến ở trên núi với Người. Cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa khi được chiêm ngưỡng Chúa Giê-su biến đổi hình dạng đã gợi ý cho ông làm một cái gì đó để được “ở lại” với Người. Ông đề nghị dựng một cái lều cho Chúa Giê-su để Người “cư ngụ” với ông như Thiên Chúa đã cư ngụ tại Lều chứng với dân Do-thái trong sa mạc ngày xưa. Nhưng quả thực,Chúa Giê-su Con Thiên Chúa “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” rồi (Ga 1:14).
Ta cần để Chúa Giê-su cư ngụ với ta, thì ta mới nhận biết được Người là ai và sứ mệnh của Người là gì. Ý định dựng lều của ông Phê-rô phải được thực hiện nơi mỗi người Ki-tô hữu. Ta lấy gì để dựng lều đây? Trái tim ta sẽ là “túp lều lý tưởng.” Trí tuệ ta sẽ là nơi ta nghĩ về Người. Ý chí ta sẽ là chỗ để ta muốn và hăng hái đáp lại lời gọi của Người. Tóm lại, tất cả con người ta sẽ là nơi Chúa tiếp tục biến hình, để ta sống nhưng không phải ta mà là Chúa Giê-su sống trong ta và chiếu sáng trong ta.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Chúa Giê-su nói với mọi người: “Thầy bảo thật anh em, trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không nếm sự chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”, tức là những người nhận biết Người là Đấng Ki-tô đích thực. Vậy tôi đang có mặt trong Giáo Hội của Chúa Giê-su, nhưng tôi có thực sự nhận biết con người và sứ mệnh của Người không? Tại sao không?
Đâu là “cuộc xuất hành” của tôi? Tôi sẽ hoàn thành thế nào cho đúng với tư cách là Ki-tô hữu con Chúa?
Những lời Chúa đã nói với tôi khi tôi được rửa tội: “Đây là người con Ta yêu dấu” có thể được nghe lại vào lúc này và ở đây không?
Cuộc biến đổi hình dạng của Chúa giúp tôi có tâm tình nào trong hành trình đức tin mùa Chay này?
Lời nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con. Thế giới hôm nay không cần những ki-tô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng. Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 24)
Trong bối cảnh mùa chay, mùa sám hối, mùa hoán cải và đổi đời, thì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta vững bước trong tin tưởng đứng trước những nghi ngờ và tiếng cười chế của trần gian.
Qủa thật giữa một thế giới mà mọi tiến bộ văn minh khoa học đang hình thành chung quanh ta một niềm hy vọng chan chứa sinh lực và tươi mát, thì tiếng mời gọi hoán cải thật qúa lạc lõng, nếu không nói là điên khùng. Tôi có người cháu gái lứa tuổi đôi mươi, sau nhiều tháng đi làm cho một nhóm dịch thuật những tác phẩm chữ nôm công giáo: phần lớn là chuyện các thánh. Nó tuyên bố đời sống mấy ông Thánh qúa kỳ cục, ở bẩn, ăn bẩn, chúi đầu vào những vết lở lói thấy mà kinh. Và nó nói "kinh qúa, chẳng thèm làm Thánh"! Phải chăng đó cũng là kết luận của mỗi người chúng ta, tuy nguyên do có khác biệt với cháu gái tôi. Cái guồng máy xã hội hiện đại không cho con người có nhiều suy nghĩ vượt ra khỏi khuôn khổ của công ăn việc làm, của những cân đối thu chi trong ngân sách gia đình, của những tiện nghi đời sống qúa đa dạng và hấp dẫn.
Vì vậy, ngày nay những ngành triết học, văn chương, nghệ thuật dường như cũng không còn chỗ đứng trong sinh hoạt xã hội. Nói theo thánh Phaolô con người "sống thù nghịch với Thập Giá Đức Kitô: chúa tể của họ là cái bụng, họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này."
Phải có những cuộc biến hình cho con người hôm nay. Những giây phút họ có được một cảm nghiệm tự thân về một cuộc sống rực rỡ khác đáng mơ ước và hy vọng hơn đời thường của họ. Yếu tố làm nên cuộc biến hình: chính là Giao Ước.
Giao Ước đã biến đổi hậu vận của Abraham: đó là khẳng định của Lời Chúa trong sách Sáng Thế. Cũng chính là Giao Ước đã làm cho núi Tabor hôm nay ngợp ánh sáng vinh quang. Giao Ước ấy tập trung vào ý muốn và lời gọi của Thiên Chúa gọi đích danh mỗi con người "Đây là Con Ta yêu dấu". Giao Ước "sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người".
Cuộc biến hình hôm nay diễn ra trong Phụng Vụ Thánh.
Abraham đã phải bắt "một con bò cái ba tuổi, một con dê cái 3 tuổi, một con cừu đực 3 tuổi, một con chim gáy mái, một bồ câu con", có lần ông phải trói cả chính con một mình là Isaac... tự tay ông phải chặt, phải cắt và phải đặt hiến lễ của mình ... phải canh chừng để lễ vật không bị cướp mất... Con người trong Phụng Vụ Thánh phải tích cực tham dự trong hiến vật của mình với tấm lòng đi vào ký kết Giao Ước dứt khoát với Thiên Chúa. Mọi canh tân Phụng Vụ chỉ đạt tới ý nghĩa của nó khi hoàn thành nhiệm vụ này. Chớ gì những thừa tác viên của Phụng Vụ luôn tỉnh thức bên hiến lễ chí thánh, và thiết lập nên cung thánh thiêng liêng trong lòng mỗi tín hữu. Để cuộc biến hình được thực hiện cho con người hôm nay. Tất nhiên Phụng Vụ chỉ đạt tới đỉnh của biến cố biến hình, khi một chiếc lò bốc khói, và một cột lửa băng qua lễ vật: Thánh Thần Tác Thánh. Mọi nỗ lực của con người là cần thiết, nhưng chính Thánh Thần mới làm cho mỗi nỗ lực ấy trở nên một yếu tố trong cấu trúc biến hình.
Chúa Giêsu đưa 3 môn đệ lên một ngọn núi cao, khoảng chừng 600 thước và các ông chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa cũng như đã xem thấy sự đau khổ của Ngài trong vườn cây dầu.
Ngài mạc khải cho thấy sự đau khổ của Ngài pha lẫn với vinh quang sáng lạn. Ngài phải chết nhục nhã, đau thương rồi mới khải hòan trong phục sinh vinh hiển. Đau khổ như cánh bèo trôi dạt trên sông, đau thương là thung lũng nước mắt. giữa thế gian đau khổ, là nguyên nhân gây nên bực bội buồn phiền. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì sau đau khổ là vinh quang phục sinh, cũng như sau cơn mưa trời lại sáng, sau mùa xuân trời lại sang xuân.
Xưa có một anh làm nghề bưng trống tên là Năm. Anh thường đem đến làng khác để bán. Một hôm leo đồi lặn suối gánh trống đi bán, đến gốc cây đa đầu làng anh mệt lả, liền nghỉ chân thì thấy bác Sáu đã ngồi thở hổn hển bên cạnh. Hai người bắt chuyện rồi Năm đem cơm nắm ra chia sẻ. Cuối cùng anh Năm nhờ ông Sáu gánh giúp một đoạn đường. Hai người bắt đầu xuống dốc và khát nước, họ liền ghé cái giếng kiếm nước uống, thành giếng lại rêu rong và dốc lại không có gầu. Anh Năm nghĩ ra kế buộc dây vào lưng ông Sáu cho tụt xuống uống nước, uống xong anh kéo lên. Đến lượt anh Năm xuống giếng thì ông Năm để cho anh uống nước no rồi gánh gánh trống đi biệt. Anh la hét cũng không có tiếng trả lời, chịu trận cho đến tối mới có người ra giếng kéo anh lên. Đi một quãng đường nữa thì tối, anh phải vào một ngôi chùa xin sư cụ cho trú chân. Trong chùa lại có 4 con qủy hay đi ăn đêm về trễ, sợ bị ăn thịt, sư cụ chỉ cho một cái hang bên chùa để trú an toàn. Nữa đêm bầy qủy về trước cửa chùa nói chuyện:
- Nhà chùa có chôn 4 chum bạc bên cạnh và 4 chum vàng đàng sau cửa ra vào. Tên khác lại nói:
- Trong hang có một cục Ngọc Thạch nguy hiểm ai mà nhặt được ném chúng ta thì chết. Nghe thấy vậy, anh Năm thò tay vơ lấy cục Ngọc mà ban chiều anh đã trông thấy. Anh ném bày qủy, bất chợt bị chết tốt, thế là anh thoát nạn, cám ơn sư cụ cầm cục Ngọc ra đi rồi hôm sau quay trở lại đào lấy mấy chum vàng và bạc về làm giầu. Ông Sáu gánh trống đi xa, đến chập tối vào xin trọ ở cái miếu cây đa đầu làng. Miếu cũng thường có qủy hiện hình ban đêm, ông nằm lăn ra ngủ, để gánh trống ở cửa miếu. Đến khuya qủy hiện hình bước lên mặt trống kêu tùng tùng khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy. Một con qủy chạy trốn vào trong miếu thấy có người liền bóp cổ chết. Nó lại ra ghõ trống kêu gọi lũ qủy về miếu ăn mừng vì đã hạ sát được kẻ bày mưu. Trong lúc đau khổ mất trống, anh Năm lại gặp hên là được của về làm giầu. Trong lúc ông Năm đánh cáp được gánh trống, lại gặp xui (lũ qủy bóp cổ chết). May rủi, sống chết là đau khổ và vinh quang, cũng như Chúa tỏ cho các môn đệ thấy cái khổ nhục, bị chết treo trên thánh giá rồi mới được phục sinh. Cuộc đời chúng ta cũng sẽ gặp những lúc đau khổ, nhục nhã, mất mát, tàn lụi rồi mới đến lúc vinh quang. Chúng ta hay biết tuân theo thánh ý Chúa trong mọi lúc và trong mọi sự.
Những ai mê phim chưởng hoặc nghiền đọc Kim Dung thì rất quen thuộc với từ ngữ “xuống núi”. Nó mang cái ý nghĩa đầy đủ của hành động “hạ sơn hành hiệp”. Và đối với một võ sinh hay một môn sinh khi được thầy cho xuống núi, cũng có nghĩa là đã học được, luyện được đầy đủ võ công, và đã sẵn sàng ra đi để vào chốn giang hồ, bênh đỡ những kẻ bần cùng, cô thân, cô thế. Làm việc thiện, việc công ích, và thay đổi bộ mặt của xã hội.
Nhưng nếu đọc kỹ bài trình thuật của Luca hôm nay, chúng ta thấy có một cái gì khác thường trong cách thức mà Chúa Giêsu sai các môn đồ ngài xuống núi. Nó không giống như việc sai đi của những sư tổ, sư phụ hoặc sư mẫu trong các môn phái khi sai môn sinh của mình xuống núi. Đó là các môn sinh của Đức Kitô xuống núi trong khi võ công chưa đạt, chưa được chuẩn bị đầy đủ và kỹ lưỡng. Điều này có thể tìm thấy qua những lời ghi nhận của Thánh ký Luca về tình trạng của Phêrô, Giacôbê và Gioan khi ở trên núi: “Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê” (Luca 9:32). Không những thế, khi ông mở miệng nói với Chúa và bày tỏ ước muốn ở lại núi, “Phêrô cũng không rõ mình đang nói gì” (Luca 9:33). Tuy vậy, Chúa Giêsu vẫn sai các ông xuống núi. Các ông xuống núi và cả ngài cũng xuống núi. Phải chăng vì không nắm bắt được rõ ràng những gì đã xẩy ra trên núi, hoặc do Chúa ngăn cấm nên “các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến” (Luca 9:36).
Và chúng ta học được gì, tìm thấy gì qua cung cách cư xử của Chúa Giêsu và của ba môn đệ kia, khi áp dụng vào đời sống chứng nhân của các Kitô hữu, đặc biệt, trong mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho việc đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh.
Các môn đệ ngủ mê:
Chúa Giêsu biết các môn đệ của mình ngủ mê. Và trong tư thế ngủ mê như vậy, những gì các ông thấy và biết về Chúa Giêsu chắc chắn còn thiếu sót, và rất hạn hẹp. Đây cũng là cái biết và thấy của Kitô hữu chúng ta đối về Chúa. Nhưng, Chúa Giêsu vẫn sai các môn đệ và chúng ta xuống núi. Xuống núi để làm chứng về những gì chúng ta đã biết và đã thấy nơi Chúa. Câu hỏi được nêu lên ở đây là tại sao Chúa làm như vậy? Nhỡ ra các môn đệ và cả chúng ta nữa, tất cả đều nói sai và nói không trúng về Chúa. Và làm như vậy Chúa có bị thiệt thòi không.
Đây cũng là thái độ và lý luận của những tông đồ, những Kitô hữu ươn lười và biếng nhác. Họ viện dẫn không biết nhiều, không hiểu nhiều, và không thấy nhiều về Chúa nên tự châm chước cho mình khỏi phải sinh hoạt, khỏi phải ra đi, khỏi phải chu toàn trách nhiệm tông đồ, trách nhiệm men muối giữa đời.
Thật ra, ai có thể dám tự cho mình biết, nhìn, và thấy rõ về Chúa như Chúa đáng thấy, đáng nhìn, và đáng hiểu biết. Không một ai. Và điều này lại là một sự khôn ngoan của Thượng Trí. Ngài muốn mình là một cái gì mãi mãi mới mẻ, mãi mãi đáng yêu, và mãi mãi thu hút để chính khi chúng ta muốn nói về ngài, muốn trình bày về ngài, và muốn chỉ cho người khác về ngài, cả chúng ta nữa, cũng phải để mình bị thu hút bởi ngài. Hơn thế nữa, ngài muốn giữ cho chúng ta khỏi kiêu căng và tự phụ, cho mình đã nắm bắt, đã biết hết, và đã thấu hiểu được Thiên Chúa. Và đó chính là lý do ngài sai các môn đệ và chúng ta xuống núi, mặc dù chúng ta chưa thực sự đầy đủ và sẵn sàng.
Nói trong cơn mê:
Cũng như thái độ nhìn và biết. Các môn đệ và cả chúng ta nữa, không phải chỉ là nói với nhau, nói với người khác, mà ngay cả khi nói với Chúa, chúng ta vẫn đôi lúc như nói trong giấc mơ.
Cũng rất hay, vì trong giấc mơ hay nói trong lúc mê sảng những lời nói xem ra vô nghĩa nhưng lại mang tính cách hết sức quan trọng. Phân tâm học đã coi những giấc mơ như một biểu tượng cho những gì mà lúc còn tỉnh táo con người nhìn, thấy, làm, hoặc ước muốn. Cũng có thể là những đau khổ và thử thách lớn lao đã ghi ấn tượng mạnh mẽ trong tiềm thức của một người.
Một hành động đi vào tiềm thức là một hành động khó quên và hầu như không dễ phai mờ. Nó cũng nói lên mơ ước hoặc thao thức của một người.
Cơn mê sảng của Phêrô và các bạn ông có lẽ đã phản ảnh điều các ông nhìn và thấy đó là Chúa Giêsu, Êlia, và Maisen. Cả ba đang bàn về cái chết của Chúa Giêsu và những việc sẽ sẩy đến cho ngài tại Giêrusalem. Mặc dù dân chúng và các thượng tế chưa làm gì cho Chúa Giêsu. Ngài chưa bị khổ nạn, chưa bị đóng đinh trên thập giá, nhưng vì những gì mà các ông thoáng nhìn ấy đã quá ấn tượng, đã quá kinh ngạc, và lớn lao đến độ nó đã đi vào tiền thức của các ông, khiến các ông chỉ còn ú ớ, ngọng ngịu khi muốn nói lên những ấn tượng ấy.
Đôi khi trong đời sống tâm linh của người Kitô hữu, một lần nào đó, và một biến cố nào đó đã khắc sâu vào tâm trí những ấn tượng và những cảm nhận về tình yêu Thiên Chúa. Những điều này như những gì cứ mãi bồng bềnh trong vô thức, và nó thực sự là những ấn tượng rất khó quên, mà trong cái ý nghĩa thiêng liêng của đời sống ơn gọi, ngài muốn chúng ta làm sống lại, làm hiện hữu trong đời sống.
Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn các môn đệ ngài và chúng ta xuống núi, và phải đi vào với dòng đời để giới thiệu ngài, giới thiệu Tin Mừng của ngài với mọi người qua sự thâm tín, và qua đức tin vững mạnh của chúng ta về ngài. Nói trong cơn mê đây không phải là nói mê sảng, nói vớ vẩn mà là nói ra những tiềm ẩn thấu kín trong cõi lòng mình về Thiên Chúa. Và điều này đòi phải có sự cầu nguyện, suy gẫm thẩm sâu.
Giữa kín điều đã mình thấy:
Ở đây cũng lại là một hình ảnh tương phản và khác thường trong thế giới tâm linh. Các môn đệ sau khi đã nhìn thấy Chúa biến hình sáng láng. Khi xuống núi lại giữ kín trong lòng mình.
Có phải vì sợ mình không biết rõ, thấy rõ, và không tỉnh táo để nói về Chúa, hay ngược lại, đây là điều mà Chúa muốn cho tất cả những ai khi đã biết, đã thấy, đã hiểu và đã yêu Chúa thì hãy giữ kỹ lấy cho mình. Hình ảnh này không phải là ích kỷ, tự ty hay mặc cảm, mà là hình ảnh của thương gia khôn ngoan đi tìm ngọc quý mà chính Chúa Giêsu đã có lần đề cập đến. Người thương gia khôn ngoan ấy khi khám phá ra viên ngọc quý đã giấu kín và hy sinh tất cả tài sản để làm sở hữu thửa ruộng có viên ngọc quý ấy.
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã không làm gì khác hơn, mà còn bị chính Chúa cấm không được nói. Vì nói ra chưa chắc đã có ai tin, và để rồi khi sự thật xẩy ra, lại bị hỏa mù không phân biệt được đâu là giả, đâu là thật.
Vậy nếu nói ra không ai tin, thì giữ trong lòng là điều tốt. Giữa và suy gẫm trong lòng noi gương Mẹ Maria. Nhưng có lẽ đối với Chúa Giêsu, trong trường hợp này, cách tốt hơn là làm chứng bằng hành động mình và cuộc sống mình những gì mình đã nghe, đã thấy, và đã biết. Và đấy là sứ mạng mà Chúa trao cho Phêrô, các bạn ông, và cả chúng ta khi xuống núi.
Xuống núi để sống, để làm chứng cho Chúa mặc dù sự hiểu biết, sự thấy của ta có hạn. Hữu hạn, bất toàn là chính là thân phận con người. Và đó cũng là điều nói lên xác tín của chúng ta khi được trao phó sứ mạng làm chứng nhân cho ngài. Vậy chúng ta hãy cùng xuống núi với Đức Kitô.
Trong Thánh Kinh, nhất là trong Cựu Ước có 2 truyền thống văn chương diễn tả Thiên Chúa một cách rất khác nhau, thậm chí có vẻ như mâu thuẫn với nhau nhưng thực sự lại bổ sung cho nhau. Một truyền thống nhấn mạnh đến tính gần gũi, thân mật của Thiên Chúa khiến con người có thể dễ dàng gặp gỡ Người và trò truyện với Người. Một truyền thống khác lại nhấn mạnh đến tính thánh thiện, cao cả và siêu việt khôn lường của Thiên Chúa khiến con người không sao gặp được Người, không cách nào thấy được dung nhan của Người. Suy nghĩ kỹ một chút, chúng ta thấy cả 2 truyền thống trên đều đúng, vì Thiên Chúa của Do-thái giáo và của Ki-tô giáo vừa là Đấng gần gũi, vừa là Đấng siêu việt, vừa là Đấng loài người có thể gặp gỡ truyện trò, vừa là Đấng cao sang siêu việt khôn lường.
Ba bài Thánh Kinh hôm nay cho chúng ta khám phá Thiên Chúa với cả hai đặc điểm trên, nhất là trong bài Phúc Âm, chúng ta được chứng kiến sự kiện hiển dung của Chúa Giê-su và được nghe lời nhắn nhủ của Chúa Cha là hãy vâng nghe lời Người là Chúa Giê-su Con Cha.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (St 15, 5-12.17-18): Thiên Chúa lập giao ước với ông Áp-ram vì ông tin Chúa. 5 Khi ấy, Thiên Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!"6 Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.
7 Người phán với ông: "Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu." 8 Ông thưa: "Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu? " 9 Người phán với ông: "Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non." 10 Ông kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. 11 Mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi.
12 Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông.
17 Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. 18 Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram.
2.2 Trong bài đọc 2: Pl 3,17-4,1: Đức Ki-tô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. 3/17 Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. 18 Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: 19 chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. 20 Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. 21 Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.
4/1 Bởi vậy, hỡi anh em thân mến lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy.
2.3 Trong bài Tin Mừng: Lc 9,28-36: Đang lúc Đức Giê-su Ki-tô cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác. 28 Hôm ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. 29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. 31 Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. 32 Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. 33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." Ông không biết mình đang nói gì. 34 Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. 35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” 36 Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (St 15, 5-12.17-18) là tường thuật rất cảm động của Sách Sáng Thế về cách cư xử gần gũi, thân tình của Thiên Chúa đối với ông Áp-ram (sau được đổi tên thành Áp-ra-ham) là người được Thiên Chúa chọn làm “khởi đầu” của một “trang sử mới” gọi là Lịch Sử Cứu Chuộc! Lễ ký kết Giao Ước giữa Thiên Chúa và ông Áp-ra-ham được thực hiện một cách hữu hình, bằng máu và thịt của những con vật, sau khi ông Áp-ra-ham đã thể hiện lòng tin tuyệt đối vào lời hứa của Thiên Chúa.
à Trong đoạn St 15, 5-12.17-18 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa của Cựu Ước là Đấng rất quan tâm đến thân phận của loài người. Sau khi Tổ Tông A-đam và E-và phản nghịch, Thiên Chúa có cả một chương trình, một kế hoạch tuyệt vời để khôi phục lại sự đổ vỡ của Chương Trình Tạo Dựng lúc ban đầu. Thiên Chúa đã chọn một người trong hàng triệu con người tên là Áp-ram thuộc một bộ tộc miền Trung Đông. Thiên Chúa cần có sự hợp tác của ông để khởi đầu một giai đoạn mới. Ông Áp-ram đã đáp lại sự chọn lựa và tin tưởng của Thiên Chúa. Nhờ đó Giao Ước đã được thiết lập trên cơ sở tình yêu và lòng tin của hai phía. Giao Ước ấy vẫn tồn tại và chúng ta trở thành đối tác của Thiên Chúa, vì các Ki-tô hữu kế thừa vai trò và địa vị của những người Ít-ra-en xưa.
3.1.2 Bài đọc 2 (Pl 3,17-4, 1) là những lời tha thiết của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm thức tỉnh các tín hữu Phi-líp-phê sai lạc và hủ hóa. Thay vì sống thánh thiện cho tương xứng với địa vị cao sang của những người đã được chuộc bằng giá máu và thập giá của Chúa Ki-tô thì họ lại chạy theo những thứ giả trá và hèn hạ của thế gian.
àTrong đoạn Pl 3,17 – 4,1 trên, chúng ta đón nhận ơn huệ mà Chúa Giê-su Ki-tô đã ban cho các Ki-tô hữu chúng ta. Bằng quyền năng của Thiên Chúa, và công nghiệp của Thập Giá, Chúa Giê-su biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. Người giúp chúng ta sống thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa và tương xứng với ơn huệ mà Người đã ban tặng cho các tín hữu.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 9,28-36) là tường thuật của Thánh Lu-ca về Biến Cố Chúa Giê-su Hiển Dung bầy tỏ quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa cho ba môn đệ. Trong khung cảnh như thần tiên ấy, chúng ta đọc thấy những “ẩn dụ” đầy ý nghĩa của Giao Ước. Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật của Giao Ước Mô-sê, vì ông là người đã được Thiên Chúa chọn để đem dân Ít-ra-en ra khỏi cảnh nô lệ Ai-cập; người đã nhận từ tay Thiên Chúa Bia Đá Mười Giới Răn là Giao-Ước-được-cụ-thể-hóa, người đã hướng dẫn dân tiến về Miền Đất mà Thiên Chúa đã hứa với Áp-ra-ham…..
Còn Ê-li-a là một ngôn sứ vĩ đại được giao sứ mạng củng cố lòng tin của dân vào lời hứa của Giao Ước mà Thiên Chúa đã cam kết với cha ông tổ tiên của Ít-ra-en là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Cả Mô-sê và Ê-li-a đều có mặt bên Chúa Giê-su là Mô-sê Mới và là Ê-li-a của Thời Cứu Độ. Có nghĩa là Lịch Sử hay Giao Ước Cứu Độ cô đọng, hội tụ ở đây, trên núi Ta-bo này, trong con người có tên là Giê-su Na-da-rét!
à Qua đoạn Phúc Âm Lc 9,28-36 này, Chúa Giê-su đã tự mạc khải cho ba môn đệ thân tín và mọi người chúng ta biết Người là Thiên Chúa làm người, Người là Trung Tâm của Lịch Sử Cứu Độ, Người là Đấng thực hiện Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với Áp-ra-ham, với Ít-ra-en, với nhân loại. Chúa Giê-su - bằng Thập Giá và Phục Sinh - đã phục hồi con người thành đối tác mới của Giao Ước Mới và đem tất cả lợi ích của Giao Ước ấy đến cho loài người. Mạc khải ấy của Chúa Giê-su được chính Thiên Chúa Cha phê chuẩn một cách long trọng và công khai: "Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Từ nay trở đi, vâng nghe lời Chúa Giê-su là sống Giao Ước Mới, là chu toàn trách nhiệm của đối tác trong Giao Ước của Thiên Chúa.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Là VÂNG NGHE LỜI CHÚA GIÊ-SU như chính Chúa Cha đã nhắn nhủ và mời gọi: "Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI 4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng vừa gần gũi, thân mật, vừa cao sang, siêu việt. Chúng ta có thể gặp gỡ trò chuyện tâm tình với Người nhưng đồng thời không bao giờ chúng ta có thể nắm bắt được Người.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Lời Chúa
để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi kiểm điểm xem mình vâng nghe Lời Chúa Giê-su như thế nào? Vâng nghe Lời Chúa Giê-su
* trước hết là nghe, đọc và suy niệm Lời Chúa trong Phúc Âm; * kế đến là thi hành những giới răn và lời mời gọi của Chúa, cũng trong Phúc Âm; * và sau cùng là giúp người khác biết vâng nghe Lời Chúa Giê-su như chính mình đã vâng nghe.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 «Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho loài người ngày hôm nay, nhất là cho những người không tin, để họ được Thiên Chúa ban ơn soi sáng mà tin vào Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Hội Thánh Công Giáo khắp năm châu, cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để mọi Ki-tô hữu tuyên xưng một cách mạnh mẽ và can đảm lòng tin vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, được ơn vâng nghe Lời Chúa Giê-su mà tích cực tìm cách nghe, đọc, suy niệm, học hỏi Lời Chúa và cầu nguyện trong Mùa Chay và trong Năm Đức Tin 2013 này.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang sống trong u mê, tăm tối và thành kiến vì bị sự ham hố chức quyền, danh vọng, giầu sang, lạc thú giam hãm để họ được ơn giải thoát khỏi cảnh ngục tù ấy mà vâng nghe lời Chúa trong lương tâm và những lời chân thật từ cộng đồng xã hội.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Không nói đâu xa mà chỉ nói từ ngày Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp Cao APEC tại Hà Nội hồi tháng 11.2006 và từ ngày được là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) thì Việt Nam đã ký được nhiều hợp đồng ‘béo bở” với các đại công ty, tập đoàn của các nước trên thế giới. Nếu các hợp đồng ấy được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thì sẽ đem lại không biết bao nhiêu lợi ích cho cả hai bên.
Trong lãnh vực tôn giáo và tâm linh, các Ki-tô hữu đã được chọn làm đối tác của/trong một Hợp Đồng đặc biệt gọi là Giao Ước. Người thiết lập hay ký kết Hợp Đồng hay Giao Ước với chúng ta là chính Thiên Chúa, Chúa Tể Vũ Trụ và Lịch Sử, vô cùng vĩ đại và cao siêu. Giao Ước ấy Thiên Chúa đã lập với Ông Áp-ra-ham, đã ký với dân Ít-ra-en và đã hoàn thành nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Trong việc ký kết và thực hiện Hợp Đồng, các đại công ty và tập đoàn nước ngoài đổ tiền vào Việt Nam đầu tư, chẳng phải vì họ thương yêu người dân Việt Nam mà chỉ vì họ muốn có nhuận lớn nhất cho họ mà thôi. Khác với các đối tác trần gian, trong Giao Ước đã ký kết với loài người, Thiên Chúa không tìm lợi ích cho riêng mình mà chỉ tìm lợi ích cho con người.
Các Bài Thánh Kinh hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về Đấng đã lập Giao Ước với chúng ta. Cũng giúp chúng ta nhìn rõ hơn những lợi ích mà Giao Ước đem lại cho chúng ta để chúng ta thực hiện hay sống Giao Ước phù hợp với tư cách là đối tác của Thiên Chúa!
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: St 15, 5-12.17-18: Thiên Chúa lập giao ước với ông Áp-ram vì ông tin Chúa.
5 Khi ấy, Thiên Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! "6 Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.
7 Người phán với ông: "Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu." 8 Ông thưa: "Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu? " 9 Người phán với ông: "Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non." 10 Ông kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. 11 Mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi.
12 Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông.
17 Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. 18 Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram.
(2) Bài đọc 2: Pl 3,17-4, 1: Đức Ki-tô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. 17 Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. 18 Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: 19 chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. 20 Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. 21 Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.
1 Bởi vậy, hỡi anh em thân mến lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 9,28-36: Đang lúc Đức Giê-su Ki-tô cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác.
28 Hôm ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. 29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. 31 Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. 32 Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. 33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." Ông không biết mình đang nói gì. 34 Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. 35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” 36 Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (St 15, 5-12.17-18) là những lời tường thuật rất cảm động của Sách Sáng Thế về cách cư xử gần gũi, thân tình của Thiên Chúa đối với ông Áp-ram (sau được đổi tên thành Áp-ra-ham) là người được Thiên Chúa chọn làm “khởi đầu” của một “trang sử mới” gọi là Lịch Sử Cứu Chuộc! Lễ ký kết Giao Ước giữa Thiên Chúa và ông Áp-ra-ham được thực hiện một cách hữu hình, bằng máu và thịt của những con vật, sau khi ông Áp-ra-ham đã thể hiện lòng tin tuyệt đối vào lời hứa của Thiên Chúa.
Trong đoạn St 15, 5-12.17-18 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa của Cựu Ước là Đấng rất quan tâm đến thân phận của loài người, sau tội phản nghịch của Tổ Tông A-đam và E-và. Người có cả một chương trình, một kế hoạch tuyệt vời để khôi phục lại sự đổ vỡ của Chương Trình Tạo Dựng lúc ban đầu. Thiên Chúa đã chọn một người trong hàng triệu con người tên là Áp-ram thuộc một bộ tộc miền Trung Đông. Thiên Chúa cần có sự hợp tác của ông để khởi đầu một giai đoạn mới. Ông Áp-ram đã đáp lại sự chọn lựa và tin tưởng của Thiên Chúa. Nhờ đó Giao Ước đã được thiết lập trên cơ sở tình yêu và lòng tin của hai phía.
Giao Ước ấy vẫn tồn tại và chúng ta trở thành đối tác của Thiên Chúa, vì các Ki-tô hữu kế thừa vai trò và địa vị của những người Ít-ra-en xưa.
(2) Bài đọc 2 (Pl 3,17-4, 1) là những lời tha thiết của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm thức tỉnh các tín hữu Phi-líp-phê sai lạc và hủ hóa. Thay vì sống thánh thiện cho tương xứng với địa vị cao sang của những người đã được chuộc bằng giá máu và thập giá của Chúa Ki-tô thì họ lại chạy theo những giả trá và hèn hạ của thế gian.
Trong đoạn Pl 3,17 – 4,1 trên, chúng ta được nghe nói về ơn huệ mà Chúa Giê-su Ki-tô đã thực hiện cho các Ki-tô hữu chúng ta. Bằng quyền năng của Thiên Chúa, và công nghiệp của Thập Giá, Chúa Giê-su biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. Người giúp chúng ta sống thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa và tương xứng với ơn huệ Người đã được ban tặng.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 9,28-36) là tường thuật của Lu-ca về Biến Cố Chúa Giê-su Hiển Dung tức tỏ quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa ra cho ba môn đệ thấy. Trong khung cảnh như thần tiên ấy, chúng ta đọc thấy những “ẩn dụ” đầy ý nghĩa của Giao Ước. Mô-sê, người đã được Thiên Chúa chọn để đem dân Ít-ra-en ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; người đã nhận từ tay Thiên Chúa Bia Đá Mười Giới Răn là Giao-Ước-được-cụ-thể-hóa, người đã hướng dẫn dân tiến về Miền Đất mà Thiên Chúa đã hứa với Áp-ra-ham…. Vì thế Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật của Giao Ước. Còn Ê-li-a là một ngôn sứ vĩ đại được giao sứ mạng củng cố lòng tin của dân vào lời hứa của Giao Ước mà Thiên Chúa đã cam kết với cha ông tổ tiên của Ít-ra-en là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Cả Mô-sê và Ê-li-a đều có mặt bên Chúa Giê-su. Người là Mô-sê Mới và là Ê-li-a của Thời Cứu Độ. Có nghĩa là Lịch Sử hay Giao Ước Cứu Độ cô đọng, hội tụ ở đây, trên núi Ta-bo này, trong con người có tên là Giê-su của Na-da-rét!
Qua đoạn Phúc Âm Lc 9,28-36 này, Chúa Giê-su đã tự mạc khải cho ba môn đệ thân tín và mọi người chúng ta biết Người là Thiên Chúa làm người, Người là Trung Tâm của Lịch Sử Cứu Độ, Người là Đấng thực hiện Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với Áp-ra-ham, với Ít-ra-en, với nhân loại. Chúa Giê-su - bằng Khổ Nạn Thập Giá và Phục Sinh - đã phục hồi con người thành đối tác mới của Giao Ước Mới và đem tất cả lợi ích của Giao Ước ấy đến cho loài người. Mạc khải ấy của Chúa Giê-su được chính Thiên Chúa Cha phê chuẩn một cách long trọng và công khai: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Từ nay trở đi, vâng nghe lời Chúa Giê-su là sống Giao Ước Mới, là chu toàn trách nhiệm của đối tác trong Giao Ước của Thiên Chúa.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: NGHE LỜI CHÚA GIÊ-SU như chính Chúa Cha đã nhắn nhủ và mời gọi: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”"
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem:
tôi ý thức và sống tư cách là đối tác giao ước với Thiên Chúa như thế nào?
tôi vâng nghe lời Chúa Giê-su - như Chúa Cha đã căn dặn - như thế nào trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội?
Cụ thể hơn, tôi đã vâng nghe và thi hành sự hướng dẫn của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư Mục Vụ 2006 về những điểm quan trọng sau đây như thế nào?
(a) sống quy chiếu vào đời sống Thiên Chúa Ba Ngôi,
(b) sống ơn gọi nên thánh,
(c) sống sứ mạng chứng nhân,
(d) canh tân bản thân,
(e) dấn thân phục vụ và
(g) góp phần xây dựng một xã hội công bằng (1).
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
1. Lạy Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Chuộc, Lời Chúa đã nói về ông Áp-ra-ham là tổ phụ của tất cả chúng con trong lòng tin “Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính”, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa, vì Chúa đã chọn ông Áp-ra-ham để thực hiện kế hoạch Cứu Chuộc nhân loại của Chúa.
Xin Chúa dạy chúng con biết tin vào Lời Chúa như Tổ Phụ Áp-ra-ham để chúng con được kể là người công chính trước mặt Chúa! Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
2. Lạy Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Chuộc, vì thương yêu nhân loại và muốn cứu vớt loài người mà “Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ra-ham”, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa, vì Chúa đã lập Giao Ước với ông Áp-ra-ham để thực hiện kế hoạch Cứu Chuộc nhân loại của Chúa.
Xin Chúa dạy chúng con biết trân trọng và tuân giữ Giao Ước mà Chúa đã ký kết với Tổ Phụ Áp-ra-ham, để chúng con được Chúa chúc phúc và ban ơn Cứu Độ. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
3. Lạy Thiên Chúa là Cha Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã nhắn nhủ chúng con trong cuộc hiển dung trên núi Ta-bô: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban Con Một Chúa cho chúng con để Người thực hiện kế hoạch Cứu Chuộc nhân loại của Chúa.
Xin Chúa dạy chúng con biết vâng lời Người, vì Người là Con và là người được Chúa Cha tuyển chọn. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể làm người, Thánh Phao-lô đã dạy chúng con: “Người có quyền năng… và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng con nên giống thân xác vinh hiển của Người”, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Chúa, vì Chúa đã chết để cứu chuộc chúng con và khôi phục địa vị của chúng con là đối tác Giao Ước với Thiên Chúa.
Xin Chúa hãy biến đổi hồn xác chúng con cho chúng con nên giống Chúa mỗi ngày một hơn!Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Ai vậy? Đức Giáo Hoàng Tiên Khởi: Phêrô. Vì sao? Vì được thấy thiên đàng. Lạ vậy! Thấy thiên đàng sao lại bị mất. Câu chuyện thế nào?
1- Sự kiện
Chúa và 3 môn đệ, trong đó có Phêrô được Chúa dẫn lên một ngọt núi cao. Như thói quên thường xuyên. Chúa quì xuống cầu nguyện. Lạ lùng! Dung mạo Người bỗng dưng biến đổi: mặt Người bỗng rực lên sáng chóa như mặt trời. Áo Người trinh trong như tuyết. Lạ lùng hơn nữa, có hai vị đại tiên tri là Maisen và Elia ở đâu cũng xuất hiện đàm đạo với Chúa. Khung cảnh lạ lùng và tráng lệ ấy, làm Phêrô ngây ngất và hồn bay đi; đến nỗi, ông bỗng thốt lên: “Lạy Thầy, được ở đây thì sướng quá. Con xin làm ba lều: một cho Thầy, một cho Maisen, và một cho Elia”. Ông nói, mà ông không hiểu sao mình nói, và cũng chẳng biết mình nói gì. Nhưng vừa nói xong, lúc ngẩng đầu lên, thì tất cả đã biến mất. Chỉ còn lại khung cảnh cũ, với Chúa Giêsu và hai người bạn môn đệ.
2-ABC Giải thích
Vì sao Phêrô mất hồn? Bởi quá lạ lùng, sự kiện làm ông bỡ ngỡ, kinh ngạc. Gần ba năm trời chung sống với Thầy, tuy có chứng kiến những phép lạ, nhưng chưa bao giờ Chúa tỏ lộ một cách trực tiệp thế này. Không còn là khuôn mặt bình thường hằng ngày, mà giờ đây Ngài tỏ lộ khuôn mặt uy quyền và vô cùng của một Thiên Chúa. Ông chợt nhớ lại lời của Chúa, nói với Maisen hôm nào ở trên núi Sinai: “Không ai nhìn thấy mặt Thiên Chúa mà không phải chết”. Dung mạo rực rỡ và chói chang của Chúa, hút mất hồn ông. Ông quên hết. Ông quên mình là ai và đang ở đâu nữa.
3- Khám phá
Là chứng nhân sống, Phêrô, Giacôbê và Gioan đã khám phá được điều gì? Qua việc chứng kiến sự kiện lạ lùng này.
- Chúa Giêsu đích thực là Thiên Chúa. Đàng sau cái dáng vẻ của một con người như mọi người. Chúa Giêsu đích thực là một Thiên Chúa. Và đây, là điểm mấu chốt niềm tin mỗi người. Không có niềm tin này, mọi niềm tin khác sẽ mang đổ sông, đổ biển.
- Hạnh phúc thiên đàng là có thật, và vượt quá sự tưởng tượng của con người. Vừa chớm thấy thôi, Phêrô đã sướng run lên, và môi miệng đã phải vội vã bật phát lên ú ớ: “Thưa Thầy ở đây thì sướng quá”.
- Chúa Giêsu chính là Ngôi Hai xuống thế cứu đời. Từ trong đám mây, có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Này là Con Ta yêu dấu”. Đó là một lời xác định rõ ràng cho nhân thế. Vâng lời Chúa Cha, mà Ngài đến. Ngài đến để cứu vớt nhân loại chúng ta.
Gợi ý suy niệm:
1- Bạn có biết, mục đích của Chúa Giêsu biến hình để làm gì không? 2-ABC Bạn giải thích thế nào: là Chúa, sao Ngài lại bị bắt và bị giết?
Hơn 10.000 người đã tụ tập tại một Nhà Thờ làng thuộc Tổng Giáo Phận Tellicherry ở Kerala, sau khi tin tức lan truyền rằng khuôn mặt của Chúa Giêsu xuất hiện trên Bánh Thánh trong Thánh Lễ buổi sáng. Tổng Giáo Phận đã vội vã tập hợp một đội điều tra hiện tượng xảy ra tại Nhà Thờ Chúa Kitô Vua, Vilakannur, khoảng 50km về phía đông của thành phố Kannur.
Linh Mục chánh xứ, cha Thomas Pathickal, 60 tuổi, nói với trang web mattersindia: cha đã cai quản Giáo Xứ này từ ba năm trước, cha cho biết đã làm theo sự hướng dẫn của Đức Tổng Giám Mục George Valiamattam, của Tổng Giáo Phận Tellicherry, để giữ cho "phép lạ" Thánh Thể bên trong Nhà Tạm của Nhà Thờ.
Hơn 500 Tín Hữu đang cầu nguyện trong Nhà Thờ, khi họ chờ đợi các cuộc điều tra Tổng Giáo Phận, quyết định phổ biến cho mọi người biết. Các quan chức cảnh sát cấp cao từ các quận, huyện và địa phương cũng kéo đến, cũng như người dân từ các Giáo Xứ khác kéo đến Vilakannur. Nhiều phương tiện xe cộ cũng kéo đến đông nghẹt cả con đường đến vùng Paithalmala, nơi đây cũng là một địa điểm nổi tiếng cho du khách ưa du lịch mạo hiểm.
Cha Thomas Pathickal nói hiện tượng này xảy ra khi Giáo Xứ đang chuẩn bị cho Lễ Chúa Kitô Vua vào ngày 24 tháng 11. Tường thuật lại sự việc, cha nói tại thời điểm trong Thánh Lễ sáng lúc 7g00, cha nhận thấy một điểm trên Bánh Thánh "trở nên lớn và sáng hơn, sau đó xuất hiện khuôn mặt Chúa Giêsu." Cha để Bánh Thánh đó sang một bên và tiếp tục Thánh Lễ bằng Bánh Thánh khác trong Nhà Tạm.
Sau Thánh Lễ, cha gọi ông thủ từ đến, người này sau khi xem cũng nói với cha rằng đó là gương mặt của Chúa Giêsu. Sau đó cha đặt Bánh Thánh đó vào Mặt Nhật và để lên bàn thờ trong Thánh Đường. Hàng trăm người khác cũng nhìn thấy khuôn mặt sáng ngời của một người đàn ông râu tóc dài. "Chỉ có màu đen và trắng, ngoài ra không có màu nào khác", cha Pathickal nói khuôn mặt sáng ngời đó vẫn có thể nhìn thấy được, sau khi cha cất Bánh Thánh trong Nhà Tạm, lúc đó khoảng 11 giờ sáng theo như sự hướng dẫn của Đức Tổng Giám Mục. Cha Thomas cho biết lòng tin của cha trở nên mạnh mẽ sau khi nhìn thấy "Phép lạ"…
Được thành lập vào năm 1962, Giáo Xứ có hơn 500 gia đình và 1.250 người Công Giáo và hầu hết trong số họ là thế hệ thứ hai và thứ ba của những người đã di cư từ Trung Tâm Kerala thế kỷ trước. ( Miracle at Vilakkannoor, Kannur, Kerala, India 2013 ). Từ hơn hai năm nay, Lm. Thomas và Giáo Xứ Vilakannur được diễm phúc chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa Giêsu trên Thánh Thể, như xưa ba môn đệ đã được hưởng phúc chiêm ngưỡng Người hiển dung.
Trong Tin Mừng theo Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay hôm nay, tường thuật Đức Giêsu sau khi cầu nguyện, đã biến hình sáng láng, diệu kỳ trước ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Hai ông Môsê và Êlia, đại diện cho Lề Luật và Ngôn Sứ, cùng hiện đến đàm đạo với Người về cuộc Xuất Hành sắp đến. Trong khi ba đấng còn mải mê ngủ vùi, khi chợt tỉnh dậy thì cuộc hiển dung sắp kết thúc, được nghe tiếng phán từ Trời: "Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người."
Như vậy, qua Tin Mừng, cầu nguyện hàm chứa nhiều ý nghĩa quan trọng, như hạnh ngộ cùng Thiên Chúa, lắng nghe Thánh Ý Chúa để vâng phục thi hành, cùng niềm hy vọng Nước Trời.
Cầu nguyện hạnh ngộ
Hàng ngày, sau khi giảng dạy, Đức Giêsu luôn lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, như đúc kết những những thành quả và thất bại trong ngày, giãi bày cùng Đức Chúa Cha, lẫn tâm sự vui buồn. Tuy có rất nhiều người hăng hái, đón nhận, nghe theo Người rao truyền ơn cứu độ, nhưng cũng không ít người phản đối, chống báng, vì lời dạy quá tân kỳ, gây “sốc” với mọi người.
Trước những biến cố quan trọng, hay khúc quanh cuộc đời sắp diễn ra, Đức Giêsu càng hết sức tha thiết cầu nguyện: Khi Người chịu phép rửa ( Lc 3, 21 ), sau khi nổi tiếng chữa người phung ( Lc 5, 16 ), cầu nguyện suốt đêm trước khi chọn 12 Tông Đồ ( Lc 6, 12 ), trước khi loan báo sự thương khó lần thứ nhất ( Lc 9, 18 ), trước khi Người hiển dung ( Lc 9, 28 ), vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha ( Lc 10, 21 ) Trước khi dạy Kinh Lạy Cha ( Lc 11, 1 ), cầu xin cho Phêrô vững lòng tin ( Lc 22, 32 ), cầu nguyện trước khi chịu thương khó ( Lc 22, 41-42 ), cầu xin tha thứ cho kẻ dữ hại mình ( Lc 23, 34 ), cầu nguyện phó linh hồn trong tay Chúa Cha ( Lc 23, 46 )…
Cầu nguyện vốn là việc rất cần thiết và cấp bách của người Kitô hữu, con của Chúa, hầu luôn được hân hạnh gặp gỡ Ngài. Bước vào mùa Chay Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi mọi người chay tịnh qua ba cách thức chính yếu. Đó là cầu nguyện, ăn chay và bác ái. “Cầu nguyện giữ vị thế đầu tiên, đó là việc tỏ ra cởi mở và tin tưởng vào Chúa: nó là cuộc gặp gỡ riêng tư với Người, việc thu ngắn khoảng cách gây ra bởi tội lỗi. Cầu nguyện tức là nói rằng: "Con là kẻ thiếu thốn, con cần Chúa. Chúa là sự sống của con và là ơn cứu độ của con." ( Đức Thánh Cha Phanxicô, Bài Giảng trong Lễ Tro 10.2.2016 ).
“Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 142 ).
Cầu nguyện hiệp nhất
Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Cả hai người đại diện cho Cựu Ước đến an ủi, chia sẻ, đồng cảm và đồng tình với Đức Giêsu, dấn thân vào cuộc thương khó và tử nạn sắp đến.
Cầu nguyện còn là tỉnh thức lắng nghe, đón nhận và tìm hiểu Thánh Ý, thể hiện qua các chứng nhân, dấu chỉ, ngôn sứ, cùng chấp nhận, vâng phục đau khổ, gian nan, thách đố, mà cao điểm là dâng hiến cuộc đời, hiệp nhất vào cuộc tử nạn của Đức Giêsu.
“Con tìm bạn để an ủi, nâng đỡ con khỏi cô đơn. Sao con không tìm người bạn không bao giờ phản bội con, và có thể ở với con liên lỉ bất cứ nơi nào ?” ( Đường Hy Vọng, số 130 ).
Cầu nguyện hy vọng
Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Với con người, cầu nguyện còn có khả năng biến hình, thăng hoa, thánh hoá, bộc lộ thần tính mà Thiên Chúa đã ẩn giấu, khắc ghi trong từng người, ngay từ khi Ngài tạo dựng. Nhờ lời cầu nguyện của Đức Giêsu, ba môn đệ được hạnh phúc chiêm ngưỡng Nước Trời, như Người đã phán: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt tại đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa.” ( Lc 9, 27 ).
Như thế, cầu nguyện liên lỉ với Thiên Chúa, sẽ gia tăng niềm hy vọng được vào Nước Chúa, cùng thoát khỏi cái chết vĩnh viễn. Nhờ sốt sắng cầu nguyện, các Thánh thường được xuất thần, vinh dự “thấy Nước Thiên Chúa,” ngay khi còn sống dưới dương thế.
Với người tín hữu bình thường, cầu nguyện là đặt tất cả niềm hy vọng vào Chúa Quan Phòng trong mọi tình huống vui buồn, đau khổ, gian nan, phó dâng lên Chúa, để được an ủi và bình an. Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Rôma luôn siêng năng cầu nguyện trong lúc nguy nan: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” ( Rm 12, 12 ).
“Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: "Khi con cầu nguyện, đừng lo phải nói gì ! Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo, và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con." Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử” ( Đường Hy Vọng, số 127 ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình khi đang cầu nguyện, dung nhan sáng láng, thánh thiện, biểu lộ Thần tính của Người, xin phù trợ, đốt lửa mến cho chúng con sốt sắng cầu nguyện, để chúng con cũng được biến đổi, có thể hạn chế nhân tính, kềm hãm thú tính, hầu chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển Thần tính, siêng năng gặp gỡ, tâm tình, hiệp nhất với Thánh Ý, cũng như hoàn toàn tin cậy, phó thác, hy vọng vào Lòng Thương Xót Chúa vô biên, xứng đáng làm con Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con luôn tha thiết cầu nguyện, luôn biết lắng nghe tiếng gọi đi theo Chúa, luôn sống theo Thánh Ý nhiệm mầu, mặc dù gian nan, đau khổ, hiểm nguy thách thức, hầu luôn được hiếp nhất với Chúa trong niềm hy vọng tràn trề. Amen.
Sau biến cố Gioan Tẩy Giả bị chém ðầu ( Mt 14, 1-12; MC 6, 14-29 ), Chúa Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới, Người sẽ lên Giêrusalem để chịu thương khó và chịu chết. Một ðám mây ðen che phủ các môn ðệ. Họ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện anh em phản đối kịch liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Ðể khai quang ðám mây ðen ðó và để củng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi Thabor. Người biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh, cho họ hưởng nếm một chút Thiên Đàng trước Thiên Đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin, thêm mạnh mẽ, thêm xác tín.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.
Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” ( MC 9, 3 ); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” ( Mt 17, 2 ); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” ( Lc 9, 29 ). Khi biến đổi hình dạng nên sáng láng, Chúa Giêsu cho các tông đồ thoáng nhận ra vinh hiển tương lai của Người.
Suy niệm biến cố Biến Hình, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: “Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môsê “Khi ông Môsê từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môsê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” ( Xh 34, 29-35 ). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng”. ( x. Đức Giêsu thành Nadarét, Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 268 ).
Cuộc kết hiệp đã đưa Chúa Giêsu đi vào thiên giới. Cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc kết hiệp vĩ đại đó: “Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Cuộc kết hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nét nhất là tương quan phụ tử: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” ( Lc 9, 35 ). Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây bao phủ các ông. Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” ( MC 1, 11 ). ( sđd, trang 172 ).
Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu Ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môsê đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngủi, Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” ( Lc 9, 31 ). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn” ( sđd. trang 268 ).
Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của ḿnh. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.
Trên núi cao, Chúa Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều lý tưởng trên núi cao. ( Ảnh: Nhà Nguyện trên đỉnh núi Thabor ).
Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Thabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Thabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Chúa Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Mêsia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Mêsia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn” ( sđd. trang 269 ).
Chứng kiến Chúa Hiển Dung, thấy rõ tất cả sự thật về Thầy, các môn ðệ vững tin hõn. Từ nay, các ông tin týởng tuyệt ðối “Ngýời có quyền nãng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền nãng ấy mà biến ðổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngýời” ( Pl 3, 21 ).
Sự kiện Chúa Giêsu biến hình cùng với sự xuất hiện của hai chứng nhân Cựu Ước, Môsê và Êlia, thêm một lần nữa, khẳng định sứ mệnh của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và còn hơn thế nữa, lời Chúa Cha giới thiệu: “Này là con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Mọi người, mọi thời phải nghe Lời Chúa Giêsu, vì đây là Lời Chúa Cha, vì chỉ một mình Chúa Giêsu là Thầy mà thôi. Những chứng cứ về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế thật quá rõ ràng. Con người muốn được sống và hưởng vinh quang Thiên Chúa, điều kiện cần và đủ, là tin vào Chúa Giêsu Kitô.
“Vâng nghe lời Người” là tất cả những gì cần thiết để con người đi đến bến bờ vinh quang của Thiên Chúa. Đó là cuộc hành trình của Đức Tin: “Con người trên đường lữ hành về với Đấng Tuyệt Đối. Đời sống con người trên trái đất là một cuộc lữ hành. Đức Tin lữ hành của con người hướng con người về Thiên Chúa, giúp con người chọn lựa những gì sẽ làm cho mình đạt tới sự sống vĩnh hằng. Do vậy, mỗi giây phút trong cuộc lữ hành trên trái đất đều quan trọng, quan trọng với những thách đố và chọn lựa của nó” ( x. Tiến về ngàn năm thứ ba, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” ( Lc 9, 23 ). Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “nhý sý tử gầm thét, ngày ðêm rình mò chờ chực cắn xé” ( 1Pr 5, 8 ). Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” ( Lc 4, 13 ) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta,
Nếu chúng ta “có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi ðây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm ðýợc” ( Mt 17, 20-21 ). Sức mạnh ðức tin thật lớn lao !
Bài ðọc 1 kể về Ðức Tin của Abraham. Nhờ “tin Ðức Chúa” ( St 15, 6 ), Abraham ðýợc “Ðức Chúa lập giao ýớc” ( St 15, 18 ). Không những thế, ông còn trở thành Tổ Phụ của dòng dõi ðông nhý sao trên trời ( x. St 15, 5 ). Nhýng trên hết, nhờ Lòng Tin, ông ðýợc “Ðức Chúa kể ông là ngýời công chính” ( St 15, 6 ). Lòng tin ðã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong ðời Abraham. Ðức Tin ðã khiến Abraham výợt núi bãng rừng ðến miền ðất hứa.
Ðất hứa ðó, ngày nay không ðóng khung trong ranh giới Do Thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội ðã trải rộng khắp mặt ðất. Mặc dù niềm tin ðó ðã gặp nhiều thử thách, nhýng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt ðối vào Thiên Chúa nõi Ðức Giêsu Kitô. Nhờ ðó, Giáo hội ðã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hõn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành ngýời công chính, thành bạn hữu của Ngýời ðể có thể ði vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình Đức Tin đi đến sự sống mới. Phaolô ðã ði trọn hành trình ấy và ngài ðúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến ðổi trở nên giống Chúa Kitô. Tý týởng “trở nên ðồng hình ðồng dạng với Chúa Kitô” ( Pl 3, 10 ) bàng bạc trong các bức thý của ngài và ðã trở thành nguyên lý cãn bản ðýa chúng ta ðến Õn Cứu Rỗi.
Cuộc biến ðổi ðể trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hõn là một tiến trình kéo dài cả ðời ngýời. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con ngýời cũ, loại dần lối sống tội lỗi ðể làm con ngýời mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” ( Bài đọc 2 ).
Thiên Chúa yêu thýõng con ngýời là một tình yêu không “môn ðãng hộ ðối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thýõng của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Mêsia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu.
Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thýõng lạ lùng ðó. Thiên Chúa hiến mình cho con ngýời: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết ðể vào Phục Sinh khai mở con ðýờng dẫn tới sự sống. Tin vào tình thýõng Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách ðọc và suy gẫm Tin Mừng, ðem Lời Chúa vào cuộc sống, ðể cho Lời Chúa thay ðổi cách suy nghĩ, nói nãng và hành ðộng của chúng ta ðýợc trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Ðó là ðýợc biến hình trong Chúa, nên ðồng hình ðồng dạng với Chúa nhý Phaolô ðã từng cảm nghiệm: ‘Tôi sống nhýng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 10 ).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong ngýời ðó… sẽ sinh nhiều hoa trái” ( Ga 15, 5 ). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê với ba môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacobê nhằm đưa chúng ta đi vào vinh quang tuyệt vời của Chúa sau khi Ngài Phục sinh khải hoàn. Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt rạng ngời của Chúa Giêsu. Chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu trên núi Tabôrê sẽ giúp chúng ta thâm tín và xác tín sâu xa gương mặt rạng ngời, uy nghi thánh thiện của Chúa. Thánh Luca là thánh sử duy nhất viết:” Đang lúc Chúa Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác…” ( Lc 9, 29 ). Gặp gỡ Chúa Giêsu, nhìn ngắm khuôn mặt sáng láng của Chúa, chúng ta như được biến đổi: biến đổi nội tâm, biến đổi cả thân xác vì rằng gặp được Chúa Giêsu, đức tin của chúng ta sẽ được củng cố vững chắc, lòng chúng ta hừng hực ấm lên, những gì chúng ta sử dụng hầu như cũng được biến đổi:” Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa “ ( Lc 9, 29 ).Tin Mừng của thánh Luca thuật lại:” …có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia “ ( Lc 9, 30 ). Đức thánh Cha Phanxicô đã mở năm thánh Lòng Chúa Thương Xót. Ngài cho thấy nhân loại và mỗi người chúng ta phải thay đổi, phải nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng giầu lòng thương xót để nhận ra những yếu đuối, những vấp phạm của mình cần được thanh luyện để nhận ơn tha thứ của Lòng Thương Xót của Chúa.
Một Phêrô chối Chúa ba lần, nhưng đã hối cải ăn năn, được Chúa yêu thương tha thứ, một Giakêu bị người Pharisêu và những người Do Thái kết án là tội lỗi, đã được Chúa ghé nhà, làm cho Ông sám hối, trở về và qua đó, cả gia đình của Giakêu cũng được ơn trở về…Mùa chay năm nay có một điều rất đặc biệt là Giáo Hội đang nao nức, nhiệt tâm sống Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta phải mau mắn đi tìm gặp Chúa. Gặp Ngài, chúng ta tin tưởng Ngài sẽ biến đổi chúng ta. Lên núi để gặp Chúa biến hình như ba môn đệ thân tín của Chúa khi xưa, ngày nay, chúng ta không có cơ hội như ba môn đệ. Tuy nhiên, lên núi là trở về cõi lòng thâm sâu của mình để như ngôn sứ Êdêkiên đã thưa cùng Chúa:” Hãy tạo cho con quả tim trong sạch…”.
Quả tim trong sạch, cõi lòng trong sạch là nơi Chúa ngự. Chúng ta phải đổi mới con tim, đổi mới cõi lòng. Chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới suy nghĩ, đổi mới cái nhìn. Chúng ta chỉ có thể nhận ra người khác khi chúng ta có con mắt sáng ngời của đức tin, chúng ta có suy nghĩ tốt về người khác. Miệng chúng ta không thốt ra những lời độc địa, cay chua, nhưng chúng ta chỉ nói những điều tốt lành.Cả đời sống chúng ta phải luôn dành giờ để gặp Chúa bởi vì chúng ta dễ nại nhiều lý do để lãng quên Chúa. Chúng ta phải dành nhiều giờ để cầu nguyện. Chính Chúa Giêsu đã dành rất nhiều giờ để cầu nguyện. Cả cuộc đời của Ngài là lời cầu nguyện không ngừng. Ngài cầu nguyện trước khi chọn các tông đồ, cầu nguyện khi hóa bánh và cá, cầu nguyện trong mọi biến cố của cuộc sống. Có thể nói, Chúa Giêsu cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngơi. Ngài gặp gỡ Chúa Cha…Chúng ta đã dành cho Chúa bao nhiêu giờ cầu nguyện trong ngày, trong đời. Đọc lại Tin Mừng, chúng ta nhận thấy các môn đệ cũng thờ ơ với việc cầu nguyện. Trong giờ phút quan trọng, quyết định, Chúa Giêsu đã tỉnh thức, mồ hôi và máu chảy ra trong vườn Cây Dầu, nhưng các môn đệ vẫn ngủ vùi, không tỉnh thức, không cầu nguyện. Hôm nay, trên núi thánh Tabôrê, các môn đệ đang ngủ khi Chúa biến hình.Các ông chỉ tỉnh dậy và thoáng thấy vinh quang của Chúa.
Điều này thực sự chưa đủ vì tuy có thấy vinh quang thoáng qua của Chúa đó trong khi ông Môsê và ông Êlia biến mất. Dụi mắt để thấy rõ hơn, Phêrô muốn kéo dài cái vinh quang của Chúa, nên ông xin Chúa được dựng ba lều trên núi như thầm nghĩ rằng các ông sẽ được Chúa cho thấy vinh quang sáng ngời ấy mãi. Tuy nhiên, các ông chưa có can đảm để nhìn thấy Chúa đau khổ, và chịu nhục hình thập giá trên núi Canvariô.Các ông là các môn đệ thân tín của Chúa thật đấy nhưng các ông chỉ hưng phấn chốc lát khi thấy khuôn mặt rạng ngời của Chúa biến đổi. Mùa chay là cơ hội, là dịp thuận tiện giúp ta quay trở về với Chúa, làm hòa với anh em. Chúng ta đã thực sự để cho Chúa biến đổi chúng ta chưa ? Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót của Chúa, chúng ta có để Chúa nói với chúng ta không ? Chúng ta có nhận ra Lòng Thương Xót của Chúa không ?
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi chúng con, xin tăng thêm đức tin cho chúng con, xin tạo cho chúng con một trái tim mới, một cõi lòng mới, xin giúp chúng con biết nhận ra tiếng Chúa trong cõi thâm sâu của cõi lòng và nhận ra Chúa đang hiện diện nơi anh chị em của chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ lên núi Tabôrê để làm gì ? 2. Ai đã hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu ? 3.Mặt mũi của Chúa Giêsu trở nên thế nào ? 4.Y phục Người thế nào ? 5. Phêrô thưa với Chúa Giêsu làm sao ? 6.Mùa Chay là cơ hội nào đối với chúng ta ?
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố biến hình của Chúa Giêsu, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.
Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện... bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình:
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ? 2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình? 3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?
Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x.Lc 9, 14). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x.Lc 9, 22). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x.Lc 9, 33). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là « Ðức Kitô của Thiên Chúa » và được Đức Giêsu trao cho chìa khóa Nước Trời (x.Mt 16, 19). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, « Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa! » (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là « người môn đệ Chúa yêu » (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: « Chúng tôi có thể uống chén của Thầy » (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Đấng Kitô, kẻ khác cho là Môisen hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x.Lc 9,19).
Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.
Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng:
Vinh quang Ba Ngôi
Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: « Ðây là Con Ta Yêu Dấu! » (Lc 9, 35). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ .
Lắng nghe lời Đức Giêsu
Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, còn vang lên Lời của Thiên Chúa Cha chỉ cho chúng ta biết « Con Yêu Dấu của Ngài », và mời gọi chúng ta « hãy nghe lời Người » (Lc 9, 34).
Xin ơn biến đổi
Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.
Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người ; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi kể lại cuộc Hiển dung của Chúa Giê-su trên núi, các thánh sử Tin Mừng Nhất lãm đều nhắc đến cuộc đàm đạo giữa Người với ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Riêng thánh Lu-ca cho chúng ta biết đề tài của cuộc đàm đạo này là “cuộc xuất hành Chúa sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Vậy cuộc xuất hành này là gì và Chúa Giê-su sẽ hoàn thành như thế nào?
Có lẽ các thánh sử không cần phải thuật lại nội dung cuộc đàm đạo, vì chính sự hiện diện của ba vị đã nói lên ý nghĩa câu chuyện của các ngài rồi. Dĩ nhiên nhân vật chính là Chúa Giê-su và sự hiện diện của hai vị trong Cựu Ước tượng trưng cho tất cả những điều được ghi chép trong sách Lề Luật và các ngôn sứ để nói về sứ mệnh của Chúa Giê-su. Như thế, chúng ta có thể hiểu chắc chắn rằng tất cả những điều các ngài nói chuyện với nhau đều xoay quanh chủ đề sứ mệnh của Chúa Giê-su, hoặc hiểu rõ hơn theo thánh Lu-ca là các ngài nói về cuộc xuất hành, tức cuộc Thương khó Chúa Giê-su sắp chịu tại Giê-ru-sa-lem. Lu-ca gọi đây là cuộc xuất hành, nghĩa là cuộc ra đi của Chúa Giê-su.
Nói tới cuộc xuất hành, chúng ta liên tưởng tới cuộc Xuất Hành của dân Do-thái ra khỏi đất Ai-cập dưới sự lãnh đạo của ông Mô-sê. Được Thiên Chúa trao sứ mệnh, ông Mô-sê đã đưa dân Ít-ra-en thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập để vào Đất Hứa. Giống như Mô-sê, Chúa Giê-su là Mô-sê Mới, đã được Thiên Chúa Cha trao sứ mệnh dẫn toàn thể nhân loại thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Sứ mệnh của Chúa là rao giảng Tin Mừng cứu độ và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, kêu gọi người ta bỏ đàng tội lỗi và sống xứng đáng làm con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên sứ mệnh không chỉ là rao giảng và làm phép lạ, mà tột đỉnh của sứ mệnh phải là cuộc Thương khó tại Giê-ru-sa-lem. Cuộc xuất hành của Chúa Giê-su về với Chúa Cha và đưa nhân loại về với Người sẽ được thực hiện qua ba mầu nhiệm: chết, sống lại và lên trời. Vì tầm quan trọng vô cùng của nó, Chúa Giê-su ba lần báo trước cho các môn đệ biết những gì sẽ xảy ra trong cuộc xuất hành này. Thế mà họ nhất định không muốn chấp nhận, lại còn cố theo đuổi những mục đích thế tục đi ngược với sứ mệnh của Chúa Giê-su. Cho nên mục đích Chúa biến đổi hình dạng sáng láng không phải chỉ để Người tái xác tín tầm quan trọng của cuộc xuất hành mà chấp nhận, nhưng còn là dịp để Người kêu gọi và củng cố niềm tin của các môn đệ vào sứ mệnh của Người.
Đối với cuộc Hiển dung của Chúa Giê-su, phản ứng của ba môn đệ thật phức tạp. Trước hết, khi Chúa đàm đạo với hai vị khách thì các ông “ngủ mê mệt”. Hẳn là các ông vẫn còn đắm chìm trong tham vọng theo đuổi một vị mê-si-a trần thế! Nhưng “khi tỉnh hẳn”, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su, nên muốn ở trong vinh quang ấy mãi mãi. Rồi khi có đám mây, biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, bao phủ các ông, thì các ông “hoảng sợ”. Có lẽ Chúa Cha muốn “quay” cho các ông chóng mặt, rồi Người mới dõng dạc tuyên bố: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”! Đây cũng chính là thông điệp Chúa Cha muốn họ – và chúng ta nữa – hãy lãnh nhận: Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Cùng với bài Tin Mừng, bài đọc sách Sáng Thế và bài Thánh thư Phi-líp-phê lại cho chúng ta hiểu thêm một ý nghĩa nữa của biến cố Hiển dung. Vì ông Áp-ram tin Chúa, nên Chúa lập giao ước với ông và biến đổi thân phận của ông, làm cho ông trở nên tổ phụ của một dân tộc. Tiếp đến là bài trích thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-líp-phê cho chúng ta niềm tin rằng “Chúa Ki-tô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”. Chúa Giê-su xuất hành về với Chúa Cha. Nhưng chắc chắn Người không về tay không, mà Người dẫn theo “một đàn em đông đúc” (Rô-ma 8:29), vì Người là “trưởng tử” của một nhân loại mới! Như thế, biến cố Hiển dung kêu gọi ta hãy đặt trọn niềm tin vào người Anh Cả ấy và mau mắn lên đường ra đi (xuất hành) cùng với Người và anh chị em chúng ta. Chúng ta cứ nghe lời Chúa Cha phán dạy và chăm chú nhìn vào Chúa Giê-su để khỏi lạc đường!
Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới. Đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.
Lời mời gọi đổi mới được chính Đức Giêsu mạc khải qua biến cố Biến Hình mà chúng ta cử hành hôm nay.
1. Ý nghĩa cuộc biến hình của Đức Giêsu
Thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất (x. Lc 9, 22) cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Ngài (Lc 9, 23-26), đồng thời nó cũng diễn ra trong bối cảnh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin (x. Lc 9,18-21).
Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến.
Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người về với Thiên Chúa trong vinh quang.
Khi mạc khải như thế, Đức Giêsu muốn lật tẩy những xu hướng và đam mê của các Tông đồ về Ngài theo kiểu trần tục, đó là việc thiết lập triều đại chốn trần thế..., để rồi chính bản thân các ông sẽ được bù đắp bằng những ân lộc trần gian chốn quan trường!
Qua đó, Ngài mời gọi các ông đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang, vì: hạnh phúc, vinh quang không bao giờ dành cho những người trốn tránh đau khổ. Nếu có thì cũng chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, hão huyền do con người tưởng tượng ra và gán ghép rồi đặt tên cho nó là hạnh phúc, chứ thực ra không có thật! Vinh quang có thật chính là vinh quang của những người can dự vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của chính Đức Giêsu; để đi từ đau khổ đến vinh quang.
Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, ý riêng và ngay cả sự sống thể xác... Hành trình này quả là cam go, không dễ, sẽ có người chán nản mà bỏ cuộc, nên đây là lý do Đức Giêsu biến hình trước mặt các Tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông.
2. Chúng ta cũng được mời gọi biến hình
Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên của chúng ta có thể ví như được đặt vào một khuôn đúc mới để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.
Nhờ cuộc biến hình này, mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi vây phủ.
Điều này cho thấy, nơi con người chúng ta, luôn mang hình ảnh, dáng dấp, thái độ của Tông đồ Phêrô, hay như các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi cơn sốt sắng đến, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi sự để được ở với Chúa, nhưng khi bả vinh hoa phú quý chào mời, chúng ta cũng tranh dành quyền lực và ganh đua nhất nhì với nhau trong sự ích kỷ, đê tiện của bản năng. Kinh nghiệm này đã được Thánh Phaolô thốt lên: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thủa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-ABC24).
Như vậy có thể nói: nếu muốn được hạnh phúc, vinh quang, chúng ta sẽ phải biến đổi như thánh Phaolô mời gọi. Đây là điều kiện để được chung phần với Đức Giêsu trong vinh quang.
3. Không biến hình thì chẳng được chung phần với Chúa!
Khi cử hành lễ Chúa Biến Hình, chúng ta cần xác tín rằng: Thiên Đàng hay hạnh phúc không thể có được nếu chúng ta cứ sống một cuộc sống bê tha, ăn chơi, đàn điếm! Hạnh phúc Nước Trời chỉ có được sau những đêm ngày chiến đấu với bản năng, ý riêng, để chỉ sống cho Thiên Chúa và những giá trị Nước Trời, khi đã sẵn sàng khước từ sự níu kéo đầy hấp dẫn của thế gian.
Vì thế, có lẽ chúng ta phải lội ngược dòng để chấp nhận lột xác, có khi phải chấp nhận mất mát, cay đắng và đôi khi phải đánh đổi ngay cả mạng sống.
Các thánh là những người đã chấp nhận sống ngược đời vì chân lý và Tin Mừng để được đổi mới. Chẳng hạn như:
Môsê đã biến hình khi ông từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa. Êlia cũng vậy. Đức Giêsu thì đến chỉ để làm theo ý Chúa Cha. Phêrô và các Tông đồ, trong đó phải kể đến Phaolô, tất cả đều đã biến đổi từ con người nhát đảm, ham danh, hám lợi trở thành một con người can đảm, trung thành sống chết với đức tin, để chỉ còn giữ lại một mối lợi tuyết đối, đó là được biết Đức Giêsu và được ở trong Ngài.
Rồi nơi lịch sử Giáo Hội, đã có biết bao gương sáng về những cuộc đổi đời ngoạn mục đến kỳ diệu! Thật vậy, có những vị từ một người nghiện rượu, xì ke, ma túy đến nghiện Giêsu; từ những kẻ khát tình, trác táng chốn ăn chơi, trở thành người say mê Giêsu đến độ vì Ngài mà bỏ hết mọi sự; lại có người từ gái làng chơi trở thành vị thánh; có người dùng cả một hệ tư tưởng để chống đối đạo, đi theo bè rối, khi được biến đổi, họ đã trở thành người bảo vệ các chân lý đức tin đến chết trong anh dũng, kiên trung; có người từ trai tứ chiếng, đầu đường xó chợ lại trở thành đấng lập dòng...
Đây chính là mẫu gương điển hình về những cuộc biến hình trong Giáo Hội thời xưa và thời nay cũng như mãi về sau.
Mong sao, nơi sự kiện Chúa biến hình và những mạc khải của Ngài cũng như qua gương sáng nơi các thánh, chúng ta cũng hãy làm một cuộc biến hình mới của mỗi người để được trở nên giống Chúa và được chung hưởng hạnh phúc với Ngài bên các thánh trong Nước Hằng Sống. Amen.
Mùa Chay không phải chỉ là thời gian sám hối ăn năn mà còn là thời gian nhận biết bản tính và vận mạng đích thực của chúng ta ở bên kia những sự vật hữu hình, đó chính là ý nghĩa của việc Chúa biến hình hôm nay.
Thực vậy, Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.
Rồi Ngài nói chuyện với Maisen và Elia. Sự hiện diện của hai vị này cũng như câu chuyện trao đổi liên kết một cách mầu nhiệm trong thân phận con người và vinh quang của cuộc đời mai hậu. Điều này chứng tỏ rằng giữa những đau khổ ở đời này, con người sẽ được sống lại và được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.
Sau đó tầng trời mở ra và có tiếng nói: Này là con Ta. Cảnh tượng giống như lúc Ngài chịu phép rửa bên bờ sông Giođan. Vì thế, Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là Chúa Giêsu biến hình. Ngài là người đầy tớ thực hiện ý định của Chúa Cha, cho nên chúng ta phải tin tưởng, lắng nghe và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Sự kiện biến hình trên đây cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của con người là phải qua đau khổ và sự chết để được thông phần vinh quang của Thiên Chúa. Đồng thời nó còn là bảo chứng thần linh của con người và sứ mạng của Đức Kitô, thắp lên cho mỗi người chúng ta niềm hy vọng, bởi vì sự kiện trên cho chúng ta thấy được ý nghĩa của mầu nhiệm sự chết và sống lại, cả hai liên kết mật thiết với nhau, vì trong sự chết, chúng ta sẽ tiến tới quê trời, cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương vĩnh cửu.
Lúc bấy giờ thân xác khổ đau của chúng ta sẽ được mặc lấy vinh quang của Thiên Chúa, như một con sâu cắn chiếc kén để trở thành một cánh bướm xinh đẹp. Sự thay đổi này được thực hiện nhờ vào tâm tình sám hối. Với tâm tình sám hối, thân xác tội lỗi này sẽ được chế ngự và đổi mới bởi đời sống trong ơn sủng và tình thương của Chúa.
Vì vậy, sống sự biến hình là một đòi hỏi hằng ngày của người Kitô hữu. Nói cách khác, từng ngày sống, người Kitô hữu chúng ta không ngừng lột xác, không ngừng đổi mới để được trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây cũng là ý tưởng câu thánh Phaolô, ngài nói: Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài. Đồng thời ngài rất đau buồn khi nhận thấy có những kẻ sống thù nghịch với thập giá. Hãy góp phần vào sự biến hình của chính thân xác mình bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu, để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta.
1 - Ngữ cảnh
Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Đức Giêsu đang ở tại một khúc quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên xưng Người là "Đấng Kitô của Thiên Chúa" (9,20) và nhân dịp đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở MC 9,2-ABC8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2 - Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28); 2) Cuộc Hiển Dung (9,29-35): a) Lý do (cc. 29-32), b) Cuộc đối thoại (cc. 33-35);
3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).
3 - Vài điểm chú giải
- dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ "được biến hình" (metamorphôthê) trong MC (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.
- có hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là "hai nhân vật, hai người đàn ông" (andres dyo), ta có thể nghĩ đến "hai người đàn ông y phục sáng chói" trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc "hai người đàn ông mặc áo trắng" trong truyện Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám mây).
- Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai-cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (# Đất hứa).
- ngủ mê mệt (32): Dịch sát là "bị đè nặng trong giấc ngủ" (bebarêmenoi hypnô).
- vinh quang (32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng từ "vinh quang" ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga 12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL).
- thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình trạng này.
- đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là "từ đám mây có tiếng phán ra". Vậy có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là "sự hiện diện của Thiên Chúa") của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
- Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các "Bài ca về Người Tôi Trung" (Is 42,1; 49,7).
- trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.
4 -Ý nghĩa của bản văn
Khung ảnh của bản văn này như sau: Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám (9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. MC 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. MC 9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn đệ "vác thập giá" và thị kiến về "vinh quang" được nối kết chặt chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ tác giả Lc xác định biến cố xảy ra vào "khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy" (c. 28), tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu "vác thập giá mà theo" Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định "đem theo" ba môn đệ và kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục sinh.
Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là "cầu nguyện". Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III.
* Cuộc Hiển Dung (29-35)
Đang khi Người cầu nguyện, thì "dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà" (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai (= biến hình) có trong MC và Mt (x. MC 9,2; Mt 17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.
Không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về "cuộc xuất hành" Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với dân Người đến chỗ hoàn tất.
Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ô-liu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều..." (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm cảm trước sự viên mãn cánh chung, thiết lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết "dựng ba cái lều" vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình đang nói gì" (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển dung trong chương trình cứu độ phổ quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 MC b 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người" (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây, mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại từ. Diễn ra như sau: "Chính Người, anh em hãy nghe lời!"). Mạc khải từ trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi tớ Đức Chúa, phải chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia của dân Israel cà những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.
Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với MC (MC 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ (x. MC 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông "nín thinh". Đây là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ ("Trong những ngày ấy").
* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng, không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm truyện MC (MC 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thât bại. Nhưng qua lời giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là "chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).
5 - Gợi ý suy niệm
1. Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi: để "cầu nguyện" (c. 28). Người dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần dà hiểu được những gì sẽ xảy ra, đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người đến. Giống như ba môn đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến gần Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình của Thiên Chúa. Nhờ có Người làm trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có ý làm cho chúng ta và chúng ta biết cách xử sự với Thiên Chúa.
2. Trong khi cầu nguyện, dung mạo của Đức Giêsu "đổi khác" (c. 29). Tác giả không nói là "biến hình" như các Tin Mừng khác. Điều xảy ra trong truyện này không nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng là cho ba môn đệ. Không phải Người là Đấng phải thực hiện một kinh nghiệm hoặc phải biết một điều gì mới, nhưng chính các ông mới phải tiến tới trong việc hiểu biết Người và tin tưởng vào Người. Ánh sáng trên dung nhan Đức Giêsu cho chúng ta hiể trong khi cầu nguyện, Người đã hiểu chương trinh cứu độ của Cha Người và đã chấp nhận chương trình đó. Hy sinh của Người sẽ không phải là một thất bại, mà là một bước tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
3. Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa Môsê và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa, một lịch sử được Thiên Chúa hướng dẫn. Người phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất; Người cũng đáng được trân trọng và nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu không xuất hiện bất ngờ như một sao băng không hề có liên hệ gì với quá khứ, nhưng Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với dân Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn tất.
4. Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa không phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng gì bao nhiêu đối với đức tin và lối sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan này mà bản chất của tương quan của Người đối với loài người chúng ta cũng được làm sáng tỏ, cả ý nghĩa của Người đối với chúng ta, những chờ đợi mà chúng ta có thể có nơi Người, những bổn phận phát xuất từ tương quan này đối với chúng ta.
5. Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ phải nghe lời Đức Giêsu. Tất cả Sách Thánh của Israel đều dẫn tới Đức Giêsu. Bằng bản thân, bằng hoạt động và bằng lời nói của Người, Đức Giêsu đưa đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho các môn đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và sự sống lại của Người, Người sẽ phải giải thích Cựu Ước cho họ (x. Lc 24,17).
Phúc Âm thánh Luca thường được gọi là Phúc Âm cầu nguyện. Tin Mừng nói đến 15 lần việc Chúa đi cầu nguyện thì 11 lần do thánh Luca.
Hôm nay, Chúa đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện và việc Chúa biến hình xảy ra trong giờ cầu nguyện đó. Nhiều khi người ta cũng chứng kiến cảnh một số các thánh mặt rạng rỡ trong khi đăm chiêu đàm đạo với Chúa.
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, cao khoảng 600 thước và cho các ông được chứng kiến vinh quang của Ngài, như một ngày kia các ông sẽ là nhân chứng cuộc hấp hối của Ngài trong vườn Cây Dầu. Trong đời của Chúa, đau khổ và vinh quang gắn liền với nhau thì trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng vậy. Sự đọc kinh cầu nguyện sẽ giúp ta vượt thắng đau khổ lo âu, biến hóa đau khổ thành vinh quang.
Đang khi Chúa cầu nguyện thì “diện mạo Ngài đổi khác thường”, như có ánh sang từ châu than loan tỏa ra, “áo Ngài trắng tinh sáng láng”, và hai bên có Moisê và Êlia xuất hiện. Hai nhà tiên tri đại diện Cựu ước cũng đã từng được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trên núi Horeb (I Vua 19, 13-21), và Sinai (X.H 20, 2-ABC17).
Ba Đấng đàm đạo về việc gì?
Luca là người duy nhất cho biết: “Về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem”.
Chúa Giêsu là Con Chiên sẽ gánh hết tội nhân loại. Ngài là vật tế sinh. Ngài biết rằng Ngài đến cũng vì mục đích ấy. Vinh quang núi Taborê không làm quên lãng khổ nạn đồi Calvê. Khuôn mặt sang chói hôm nay, một ngày kia sẽ “không còn hình tượng” (Isaia). Áo chói lọi hôm nay, một ngày kia sẽ bị lột trần phân chia.
Là một người như chúng ta, Chúa cũng có tình cảm, cũng cần được chia sẻ trong những phút ưu phiền cô đơn, Moisê và Êlia đã từng bị bắt bớ có thể mang lại phân nào chút thông cảm và an ủi, trước giờ quyết định quan trọng.
Nhưng, nhất là lời kinh của Chúa đến thẳng Đức Chúa Cha “Đấng hằng tôn vinh Chúa Con” (Gio 8, 54). Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Ba lần, có tiếng bởi trời vọng xuống để long trọng tôn vinh Đức Chúa Con; đó là sau khi Ngài chịu phép Rửa, khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, hôm nay trên núi biến hình và ngày mai khi sắp bước vào tuần tử nạn. Cuộc biến hình là một suy tôn bằng hành động rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Câu kết luận Chúa dành cho chúng ta hôm nay: HÃY NGHE LỜI NGƯỜI. Moisê và Êlia đã biến mất, đạo cũ đã lùi vào dĩ vãng. Mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vắng bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên. “Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu”.
Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ông đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, TTK đảng cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố: “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ‘ông ấy’ lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định: “Khi người ta được may mắn gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8-4-1988).
“Lạy Chúa Giêsu là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con, trong tay Ngài con được an toàn. Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.
Nếu Ngài ruồng bỏ con, con không còn gì để hy vọng nữa. Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con.
Và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa” (HY Newman)
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao và tại đó, Ngài đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời. Áo Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Rồi lại có Môisê và Elia hiện ra và trò chuyện với Ngài.
Trước cảnh tượng huy hoàng ấy, Phêrô đã thốt lên:
- Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Elia.
Qua sự việc kể trên, chúng ta nhận ra một khuynh hướng chung cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đó là chúng ta vốn ưa thích những sự việc lạ lùng và khác thường.
Đúng thế, dân làng Nadarét đã khâm phục sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thế nhưng vì không thấy Ngài làm một phép lạ nào, nên họ đã tỏ ra bực bội tức tối và muốn xô Ngài xuống vực thẳm.
Dân Do Thái nhiều người đã muốn suy tôn Ngài lên làm vua, vì Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ trong hoang địa. Thế nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu nói về một thứ của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Ngài, thì họ đã lấy làm chướng tai gai mắt, nên đã bỏ Ngài mà đi. Và cũng chính họ trước tòa án Philatô, khi nhìn thấy vóc dáng thiểu não và thân hình tiều tụy của Ngài, đã không ngần ngại kêu gào:
- Đónh đanh nó đi, đóng đanh nó vào cây thập giá.
Hêrôđê cũng vậy, ông ta muốn gặp Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ, chỉ vì óc tò mò, mong được xem Ngài biểu diễn những trò ngoạn mục. Thế nhưng, khi thấy Ngài giữ thái độ yên lặng, thì ông đã cười nhạo và khoác cho Ngài một chiếc áo trắng để nói lên rằng Ngài chỉ là một tên điên khùng, mà trao trả Ngài lại cho Philatô.
Thái độ của Phêrô hôm nay cũng vậy. Trên đỉnh Tabôrê, ông đã say mê ngất ngây trướ cảnh tượng huy hoàng và ánh vinh quang của Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi nghe Ngài nói về cuộc thương khó sắp xảy ra, thi ông đã lấy làm bực bội và lên tiếng can ngăn, khiến Ngài đã phải quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc của người đời, mà chẳng biết chi đến những việc của Thiên Chúa.
Rồi chính Phêrô trong sân nhà thầy cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần. Không hiểu trong lúc chối Chúa như vậy, ông có nhớ tới vinh quang Tabôrê nữa hay không?
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta nhận thấy cách thức hoạt động của Thiên Chúa thật khác xa với cách thức hoạt động của chúng ta, đúng như lời Ngài đã nói:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, đang khi chúng ta đi tìm những sự vinh quang và những việc lạ lùng khác thường, thì Chúa lại dùng chính những cái nhỏ bé, những cái tầm thường và ngay cả những khổ đau, những thất bại và ngay cả cái chết tủi nhục của mình để cứu độ chúng ta.
Lịch sử đã cho chúng ta hay biết về sự thật này. Có ai tầm thường cho bằng Đavít, một cậu bé chăn chiên, thế mà Thiên Chúa đã dùng cậu bé này để thiết lập một triều đại mới, dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim và phồn vinh.
Có ai khiêm nhường cho bằng Maria, một thôn nữ âm thầm, thế mà Thiên Chúa đã dùng Mẹ để khởi đầu cho chương trình cứu thế.
Có ai đã thất bại cho bằng Chúa Giêsu với cái chết ê chề và nhục nhã trên thập giá, thế mà Ngài lại dùng chính khổ đau của thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Và ngày hôm nay, Chúa vẫn còn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng đó là chúng ta có biết lắng nghe và thực thi ý định của Ngài được tỏ lộ qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn ấy hay không ?
Cách đây vài năm khi đang đi bộ lang thang khu siêu thị, tôi để ý thấy đám đông chăm chú nhìn vào một cái gì đó trong tủ kính trưng bày của một cửa tiệm. Tò mò, tôi bước tới nhìn xem. Người ta ngắm một bức tranh. Bức tranh vẽ đủ mọi màu sắc sáng với những biểu tượng và hình thù chẳng có ý nghĩa gì. Ban đầu tôi chợt nghĩ: “Chắc là một loại nghệ thuật trừu tượng. Và mình sẽ không bao giờ có thể hiểu được loại nghệ thuật này !”
Tình cờ, một trong những người khách chỉ vào bức tranh và nói: “Tôi thấy Ngài rồi ! Tôi thấy Ngài rồi !” “Thấy cái gì ? Thấy ai ?” một vài người đứng đó hỏi. “Thủng thẳng đã, tôi không chắc chắn lắm, và tôi cũng không muốn quấy rầy quí vị”. Sau đó một người khác cũng la lên: “Rồi, tôi cũng thấy Ngài nữa !”
Một vài người lắc đầu bỏ đi. Và chỉ còn vài người chúng tôi ráng đứng lại nhìn. “Xin lỗi, bà có thể nói lại cho tôi biết cái gì vậy ?” Tôi hỏi một trong những người đã nói rằng bà trông thấy “Ngài”. Bà cắt nghĩa: “Đây là một bức hình ba chiều, nếu nhìn vào bức hình khi có ánh sáng phù hợp vào đúng góc cạnh, sẽ nhìn thấy một bức hình ở đó”. Thế hả ? Tôi đáp lại nhưng vẫn còn nghi ngờ. “Nhưng nó không dễ nhìn thấy đâu !” Bà nói thêm. “Tôi phải mất gần ba chục phút mới nhìn ra đấy. Nhưng kìa thấy rồi”. Bà chỉ ngón tay vào bức hình: “Bộ không thấy sao ?” Bà hỏi. Tôi cố gắng nhìn tập trung vào bức tranh muốn chóng cả mặt. “Tôi chẳng trông thấy gì cả”, tôi phải tự thú như vậy, “Hay là tưởng tượng đấy ?” Bà mỉm cười, rồi quay mặt bước đi, nhưng vẫn không quên khích lệ tôi: “Đừng bỏ cuộc ! Cố nhìn thêm chút nữa !”
Tôi đã phải nhìn vào bức hình đó hằng chục lần nữa mà cũng không thấy gì. Trên đường trở ra bãi đậu xe, tôi quyết định trở lại để thử nhìn thêm một lần nữa. Khi tôi nhìn vào bức tranh, hơi cúi khom đầu xuống một chút, những đường nét trang trí bắt đầu mờ nhạt, và một khuôn mặt xuất hiện. Một cách rất khoan khoái tôi nhận ra đây là khuôn mặt của Chúa Giêsu. “Tôi đã trông thấy Ngài ! Tôi đã trông thấy Ngài !” Rồi mất thêm một tiếng đồng hồ nữa để giúp cho những người xung quanh cũng nhìn thấy Ngài. Thật là thú vị trông thấy khuôn mặt của họ tươi sáng hẳn lên khi nhận diện ra khuôn mặt của Chúa Giêsu lần đầu tiên sau những nỗ lực vất vả.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, bài Phúc âm thánh Matthêu nói về cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi. Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy khuôn mặt vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên. Họ đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày trong khoảng thời gian ba năm. Họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai.
Trong cuốn “Jésus: A Fait De Moi, Un Témoin”, “Chúa Giêsu Đang Sống Qua Nhân Chứng”, cha Emiliano Tardif chia sẻ như sau: “Một sứ giả Tin Mừng trước tiên phải là một chứng nhân có một kinh nghiệm cá nhân về sự chết và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và là người truyền đạt cho kẻ khác, không chỉ là một đạo lý, mà một Đấng-Vẫn- Sống đang ban sự sống dồi dào”. “Không ai có thể trở thành sứ giả đích thực của Tin Mừng, nếu người đó không có kinh nghiệm đời sống mới mà Chúa Giêsu ban cho”.
Chúa Giêsu đã cho ba môn đệ trải qua kinh nghiệm về hình ảnh vinh quang của Ngài để giúp họ học hỏi và sống đời sống chứng nhân sau này.
1. Thiên Chúa nâng chúng ta lên.
Trong Cựu ước, ngọn núi cao thường là nơi mô tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa đã mời gọi Môsê đi lên núi để lãnh nhận Mười điều răn. Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người Chúa Giêsu tuyển chọn, được đưa lên núi cao để hưởng đặc ân của Thiên Chúa. Họ đã chứng kiến một điều sẽ ảnh hưởng sâu xa trong cuộc đời chứng nhân sau này như Phêrô đã thú nhận: “Là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai”.
Ngài cũng có chương trình riêng cho mỗi người chúng ta. Bằng những cách gọi rất cá nhân và khác nhau, Thiên Chúa đã mời gọi mỗi người và nâng chúng ta lên. Chúng ta sẽ cảm nghiệm được điều này nếu biết cầu xin và đón nhận với lòng biết ơn. Cha Emiliano Tardif đã chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của ngài: “Chúng ta có thể gặp được chính Tin Mừng là Chúa Giêsu Kitô, Đấng hôm qua và hôm nay vẫn là thế, và hằng sống muôn đời”.
Sách Giáo lý Công giáo, số 556 cũng đã viết: “Sự biến hình cho ta nếm trước ngày quang lâm vinh hiển của Chúa Kitô, “Đấng sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta, để hóa nên giống như thân xác vinh hiển của Ngài”.
2. Thiên Chúa đem chúng ta xuống.
Sau kinh nghiệm cực kỳ sung sướng vừa thấy Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang sáng ngời của Ngài, thì có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Vừa mới lên cao đến tột đỉnh sáng ngời, liền bị hạ sấp mặt xuống đất trong kinh hãi. Thiên Chúa nâng họ lên cao và hạ họ xuống thấp. Đây là những chi tiết thú vị của câu chuyện.
Dân gian Việt Nam gọi cái thăng trầm, và thử thách của cuộc đời là: “Lên voi xuống chó”, “Lên bổng xuống trầm”, “Lên ngàn xuống bể”, “Lên thác xuống ghềnh”. Những thành ngữ rất gợi hình này nói lên một phần thực tại của cuộc sống lữ hành.
Thánh Kinh cũng thường diễn tả việc Thiên Chúa hạ những kẻ cao sang và kiêu căng xuống. Tiên tri Isaia đã viết: “Vì Đức Chúa, các đạo binh đã dành sẵn một ngày để trị tất cả những gì kiêu căng ngạo nghễ, trị tất cả những gì tự cao tự đại: chúng sẽ bị hạ xuống”. Sách 1 Samuel nói: “Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhấc lên cao”. Thánh vịnh 75 nói rằng: “Chỉ Thiên Chúa mới là thẩm phán, Chúa hạ bệ người này, cất nhắc kẻ kia”. Trong bài ca “Ngợi Khen”. “Kinh Magnificat” xác định: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”.
Thánh Phaolô đã trải qua kinh nghiệm này, đang “hằm hằm những lời đe dọa và giết chóc…” thì “bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói…”. Và chính Chúa Giêsu cũng đã bước qua những thăng trầm này: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con ?”
3. Tin tưởng vào Chúa Giêsu và tiếp tục cuộc sống:
Thiên Chúa đã đưa ba tông đồ lên núi, làm họ ngã sấp mặt xuống đất, thì cũng chính Ngài, qua Đức Giêsu Kitô lại nâng họ lên: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Rồi cùng với họ đi xuống núi. Trên đường đi xuống núi lòng họ hoang mang, đầy những câu hỏi, nghi vấn, nhưng Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Bí mật của cuộc biến hình này tạo nên sự tin tưởng cho các tông đồ khi phải đối diện với đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu trên thập giá và của chính các ông sau này.
Họa sĩ người Ý, Raphael (1483 – 1520), khi chết mới 37 tuổi, nhưng đã để lại một số lượng tác phẩm tuyệt vời cho hậu thế. Một trong những tác phẩm danh tiếng của ông có tên là “Cuộc Biến Hình”, “Transfiguration”. Trong tang lễ, bức tranh này đã được đặt trên đầu quan tài của ông. Bức tranh vẽ có hai phần. Phần trên, diễn tả cảnh Chúa Giêsu biến hình trong sự sáng láng và vinh quang của Ngài, mặt Ngài chiếu sáng, áo Ngài trắng như tuyết. Bản tính Thiên Chúa ngời sáng qua nhân tính của Ngài. Ở bên phải là Môsê, đại diện cho luật cũ, và bên trái là tiên tri Elia, đại diện cho các tiên tri của Cựu ước. Ở dưới chân của Chúa Giêsu là ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong sự sửng sốt và kinh ngạc khi thấy vinh quang thiên quốc của Ngài.
Trái lại, phần dưới của bức tranh tối tăm u buồn. Trong cái u tối đó có một bé trai bị bệnh, đang đau đớn quằn quại trên chiếc giường nhỏ, gia đình qui tụ xung quanh, cùng với chín tông đồ còn lại. Một tông đồ đang chỉ tay vào em bé bị bệnh, và một tông đồ khác chỉ tay hướng về Chúa Giêsu đang trên đường đi xuống núi. Các tông đồ không thể chữa được cơn bệnh ngặt nghèo của em bé, chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chữa được. Em bé trai phải hướng về Chúa Giêsu và tin tưởng vào Ngài.
Đau khổ và thập giá là sự kiện hiển nhiên trong cuộc sống. Chúng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Không ai có thể tránh khỏi. Sách Giáo lý Công giáo cũng xác định rằng: “Muốn vào chốn vinh quang của Ngài”, “Ngài phải trải qua thập giá tại Giêrusalem”.
Sự biến hình của Chúa Giêsu trong vinh quang chính là niềm hy vọng và tăng cường sức mạnh cho chúng ta đang khi cố gắng trung thành với Ngài giữa những cám dỗ, đau khổ và thử thách. Đó là lý do tại sao câu chuyện Chúa Giêsu biến hình được sắp xếp cử hành trong Mùa Chay. Giống như em bé trai thống khổ trong bức tranh vẽ của Raphael, chúng ta không bao giờ thất vọng khi nhìn ngắm vào thập giá của Chúa Giêsu, mà phải luôn tìm kiếm Ngài trong vinh quang. Chỉ qua Ngài, với Ngài, và ở trong Ngài chúng ta mới chiến thắng được thế gian và ma quỉ.
Một người cao cấp trong ngành kinh tế Hoa-Kỳ sang thăm Canađa và đã gọi một cú điện thoại viễn liên (long distance) từ nơi ông ở Toronto sang tận Montreal. Sau khi nói chuyện xong, ông đã hỏi giá và được cho biết là cú điện thoại viễn liên ấy tốn mười bốn đồng, năm mươi xu tiền Mỹ-kim. Vị kinh tế gia ấy nổi sùng lên và nói: "Sao đắt quá vậy? Ở xứ tôi ở, tôi gọi đến hỏa ngục hay gọi từ đó cũng chỉ mất có mười bốn đồng năm mươi xu!" Nhân viên tổng đài điện thoại trả lời: "Đúng vậy thưa ông, nơi ông ở và chỗ ông gọi đó cùng trong vùng mà thôi!"
Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy Chúa Toàn Năng là Đấng quá xa vời với chúng ta. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc ta lại cảm thấy Thiên Đàng lại rất gần với chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mô tả lại một mối cảm nghiệm chót đỉnh trong cuộc sống của Chúa Giêsu và ba vị Tông Đồ.
Chúa Giêsu dẫn Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan "lên một ngọn núi cao" (Mt 17:1). Các ngài lên núi cao ấy để "cầu nguyện" như Thánh Luca đã thuật lại (Lk 9:28). Chúa Giêsu và ba môn đệ đã tách biệt nhau khi cầu nguyện. Mỗi vị có một nhu cầu riêng. Chúa Giêsu đã đi đến khúc ngoặc mới của cuộc sống và công việc truyền giáo của Ngài. Các kẻ thù đang toan tính ám hại Ngài, và do đó Ngài phải quyết định xem cần phải rời bỏ Đất Thánh hay tới thẳng Giêrusalem và thẳng thắn đối đầu với những kẻ muốn giết Ngài. Lúc này đây Chúa Giêsu cần biết rõ ràng Thánh Ý Chúa Cha trong vấn đề này: Ngài có đang làm công chuyện và quyết định đúng như ý Chúa Cha không? Ngài có đang làm tròn mục đích của đời Ngài không?
Còn ba vị môn đệ kia thì đây là lúc tìm sự hướng dẫn để có thể hiểu công cuộc của Chúa Giêsu. Chỉ mới tám ngày trước đó, Phêrô đã có một ánh nhìn tuyệt vời về Chúa Giêsu là: "Thầy là Đấng Thiên Sai". Nhưng ngay sau đó, khi Chúa Giêsu mặc khải về sự đau khổ và phải chết của Đấng Thiên Sai thì Phêrô đã từ chối không muốn nghe. Ngay còn tấm bé, Phêrô đã được nghe biết rằng Vị Thiên Sai sẽ là vị tướng anh hùng vĩ đại, bách chiến bách thắng. Bởi đó, lúc này đây thật là khó cho Phêrô có thể chấp nhận Chúa Giêsu như là "Người Đầy Tớ Đau Khổ"; và do vậy Phêrô đã nói với Chúa: "Điều ấy sẽ không xảy đến cho Thầy, lạy Chúa". Nhưng Chúa Giêsu đã gay gắt mắng Phêrô: "Hãy lui ra sau Ta, Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta; vì ngươi chỉ theo ý loài người mà không theo ý Thiên Chúa" (Mt 17:22-ABC 23). Chính vì thế, giờ đây ba vị môn đệ cần phải cầu nguyện xin được ơn soi sáng trong vấn đề này. Khi Chúa Giêsu và môn đệ đang cầu nguyện thì Maisen, đại diện cho Luật và 'lia, đại diện cho các ngôn sứ, hiện ra và đàm đạo với Chúa. Thánh Mátthêu muốn cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ đã phải suy ngắm sâu xa về truyền thống và quá khứ của họ hầu có thể tìm ra được Ý Thiên Chúa. Và chúng ta có thể dường như nghe được tiếng của Maisen và 'lia xác định những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Ngài nói đúng!... Hãy nghe lời Ngài! Hãy cùng đi với Ngài lên Giêrusalem mà đừng để ý tới những trắc trở."
Khi mà một người được cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trực tiếp như trên núi cao xưa thì thật khó mà tìm lời để diễn tả tâm tình mình. Trong trường hợp này, các Thánh Sử Tin Mừng đã diễn tả cách hay nhất cho chúng ta. Các ngài thuật rằng kìa có một đám mây xuất hiện, và mây trong quan niệm cổ thời bấy giờ được coi là có sự trực tiếp Hiện Diện Vinh Quang Thiên Chúa. Rồi từ đám mây ấy, Thiên Chúa trực tiếp phán ra. Nôm na cho vui, đây là cú điện thoại trong vùng nhưng nó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với chúng ta. Thiên Chúa đến với chúng ta trong muôn ngàn cách, nhưng không có cách nào quan trọng hơn khi Ngài tỏ Mình trực tiếp với chúng ta và chúng ta cảm nghiệm được sự đối diện trực tiếp ấy với Ngài cách rõ ràng mật thiết. Chúa Giêsu và ba môn đệ kia chắc chắn đã muốn trèo lên núi cao để có thể cảm nhận cách rõ ràng mật thiết sự Hiện Diện Linh Động của Thiên Chúa. Mối cảm nghiệm đó rồi nó cũng tự kết thúc, song các ngài còn trách nhiệm phải đáp trả. Phêrô đã muốn dựng mấy lều và lưu lại luôn trên núi đó. Điều này xảy ra chúng ta cũng dễ hiểu thôi, vì ngay như chúng ta chỉ mới được Thánh Thần soi sáng xoa dịu trong những cuộc tĩnh tâm thôi mà đã không muốn bỏ đi rồi. Chúa Giêsu đã tảng lờ lời đề nghị của Phêrô và dẫn các ông xuống núi trở về lại xóm làng. Khi các ngài trở lại thôn xóm đã nhìn thấy gì? Các ngài đã nhìn thấy những nhu cầu cần thiết của dân chúng. Ngay tức khắc, các ngài đã phải nghe lời van xin của một người cha cho con mình: "Xin Thầy hãy thương đến con trai tôi vì nó bị bịnh phong giật khổ sở lắm" (Mt 17:15).
Trong Giáo Hội có những dòng tu chuyên lo việc cầu nguyện và điều đó rất tốt! Song phần đông còn lại chúng ta chuyên chú trong việc cầu nguyện cần phải theo Chúa Giêsu xuống khỏi núi mà đi vào những thôn xóm đang cần sự giúp đỡ. Những người theo Chúa Giêsu phải biết trung thành và cân bằng trong việc cầu nguyện và hoạt động!
Nhiều lần Chúa Giêsu đã trách mắng đám đông theo Ngài vì họ chỉ muốn xem phép lạ. Ngài đã từ chối không muốn trở thành Vị Thiên Sai phù phép của họ. Thường xen kẽ giữa những lúc tuyệt vời của dấu lạ và phép lạ là những ngày dài khó khăn, bẩn thỉu, đói khát thực hành sự vâng phục đối với các môn đệ Chúa Giêsu. Nếu bốn cuốn Phúc Âm dài gấp ngàn lần cuốn hiện tại thì chúng sẽ ghi nhiều những công việc của Chúa Giêsu trong ba năm hoạt động công khai, và rất có thể chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy những hoạt động của Chúa trong những ngày ấy thật bình thường. Chúng ta có thể chắc rằng giữa cuộc cảm nghiệm ngây ngất trên núi là những ngày gian nan khó khăn trong các xóm làng, đó là lúc các môn đệ Chúa phải vượt qua bằng đức tin chứ không phải bằng dấu lạ.
Trong một trăm chuyện ngắn hay của Việt Nam, được hội Văn Hóa Hà Nội tuyển chọn và cho xuất bản, người ta thấy đứng đầu danh sách là chuyện có tựa đề: "Thầy Lazarô Phiền". Đây là chuyện ngắn được một tác giả công giáo, ông Nguyễn Trọng Quảng sáng tác vào năm 1887 và được xem là chuyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.
Mở đầu câu chuyện tác giả nhắn nhủ như sau:
Nếu có xuống Bà Rịa, đi ngang qua nghĩa địa ở làng Phước đến gần nhà thờ các Thánh Tử Đạo, hãy vào thăm một ngôi mộ, đây là ngôi mộ của một tu sĩ tên là Lazarô Phiền.
Tên của nhân vật có thể gợi lên cả cuộc đời của vị tu sĩ này là một chuỗi những ngày khổ đau, những phiền muộn. Mẹ ông qua đời vì bệnh dịch tả năm ông mới được ba tuổi. Năm ông lên mười hai tuổi, cùng với ba trăm tín hữu công giáo khác, cha của cậu bé Phiền đã bị Văn Thân thiêu sống trong ngục, còn cậu bé thì tay chân bị phỏng nặng nhưng cậu bé đã cố lết ra ngoài và được cứu thoát. Một sĩ quan Pháp thương tình đưa cậu bé Phiền lên Sàigòn và giới thiệu cho một gia đình Việt Nam giàu có. Cùng với người con trai trong gia đình này, Lazarô Phiền đã được cho ăn học đến nơi đến chốn. Sau khi đã thành tài, được bổ nhiệm đi làm thông ngôn, hai người thương nhau như là anh em ruột thịt. Tình nghĩa giữa hai người bạn lại càng thắm thiết hơn khi chính gia đình của người bạn này đã đứng ra lo chuyện gia đình cho Lazarô Phiền, nhưng niềm vui của cuộc sống hôn nhân không được trọn vẹn, bởi vì có một người đàn bà khác vì yêu Thầy Lazarô Phiền nhưng không được đáp trả nên đã tìm cách hãm hại Thầy.
Qua hai lá thư giả mạo của người đàn bà này, Lazarô Phiền nghi ngờ người vợ của mình có tư tình với người bạn thân của mình, cho nên không làm chủ được cơn ghen, ông đã lập mưu giết người bạn thân và dùng thuốc độc để sát hại vợ mình. Hai cuộc mưu sát đã được tính toán một cách tài tình, cho nên kẻ sát nhân đã tránh được lưới của pháp luật. Thế nhưng về phần mình, Lazarô Phiền ngày đêm bị tòa án của lương tâm cắn rứt. Cuối cùng ông xin vào tu trong một tu viện ở Sàigòn. Sau sáu năm tu luyện, Lazarô Phiền được thực sự trở thành một tu sĩ, mọi người trong tu viện đều thầm khâm phục sự thánh thiện của thầy, nhưng riêng thầy vì không bao giờ xưng thú hành động sát nhân của mình, cho nên đêm ngày không bao giờ được sự bình an trong tâm hồn. Phải cho đến lúc lâm bệnh nặng và ngày trước khi qua đời, thầy mới xin phép nhà Dòng cho về thăm quê hương ở Bà Rịa, tìm đến vị linh mục chánh xứ để xưng tội. Chỉ sau khi cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, thầy mới nhắm mắt lìa đời và ra đi trong bình an.
Câu chuyện trên đây có thể mang lại cho chúng ta một ánh sáng để nắm bắt được bài đọc của việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe. Có trải qua đau khổ và sự chết mới được vào vinh quang phục sinh, đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy cho ba người môn đệ thân tín khi cho các ông chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi. Thế nhưng cùng với bài học này, Chúa Giêsu cũng muốn bày tỏ một chân lý khác, đó là con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi sống thực trọn vẹn với Thiên Chúa mà thôi.
"Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe Lời Người". Chúa Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha, bởi vì Ngài đã vâng phục Chúa Cha, cho nên đã đón nhận cuộc sống cùng tất cả những hệ lụy của cuộc sống đau khổ và cuối cùng là cái chết trên thập giá. Bí quyết của Chúa Giêsu chính là sống cho Chúa Cha, sống thuộc trọn về Chúa Cha, sống vâng phục Thiên Chúa Cha qua cuộc sống vâng phục và vâng phục cho đến chết.
Chúa Giêsu đã vạch ra cho nhân loại bí quyết của hạnh phúc và bình an đích thực khi sống và thuộc trọn về Thiên Chúa mà thôi. Đây là chân lý nền tảng của cuộc sống mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đào sâu mỗi khi chúng ta trở lại với Mùa Chay. Cầu nguyện, ăn chay, hãm mình, thực thi bác ái, những thực hành này không nhằm một mục đích nào khác hơn là nhắc nhở chúng ta rằng, cùng đích của cuộc sống không phải là cuộc đời tạm bợ này nhưng là sự sống vĩnh cửu, nhờ sự kết hợp với Chúa chúng ta đã có thể cảm nghiệm được ngay từ trần gian này.
Kinh nghiệm hàng ngày không ngừng nói với chúng ta rằng, tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú, không bao giờ mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Có tất cả mọi sự nhưng thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì con người không bao giờ có được hạnh phúc và bình an đích thực trong tâm hồn. Trái lại, khi sống cho Chúa, sẵn sàng như Tổ Phụ Abraham, từ bỏ mọi ràng buộc để được sống trọn cho Chúa thì con người mới thực sự sống sung mãn và tìm được bình an trong cuộc sống.
Mùa Chay, chúng ta được Giáo Hội mời gọi để duyệt xét sự chọn lựa căn bản của chúng ta, trong khi mưu tìm cuộc sống, chúng ta có đặt Chúa vào trọng tâm của cuộc sống hay không? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa không? Chúng ta chỉ thực sự hạnh phúc và an vui nếu chúng ta trả lời một cách khẳng định cho những câu hỏi nền tảng ấy.
Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
"Ai thấy Ta là thấy Cha" (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người."
Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).
Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: "Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người" (2Pr 1,16-18).
Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.
Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.
Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện. Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
1. Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển dung là gì?
2. Lời Chúa Cha giới thiệu về Đức Giê-su: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!». Nội dung của lời giới thiệu này có mấy điểm? Là những điểm nào?
3. Vâng nghe lời Đức Giê-su như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi ích gì?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa thị kiến hiển dung của Đức Giê-su
Đây là một thị kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải cho ba môn đệ thấy thần tính của Đức Giê-su. Những gì thấy trong thị kiến đều có một ý nghĩa thần bí:
– ngọn núi cao: biểu tượng sự siêu việt, thánh thiện, cao cả, thanh thoát, xa rời thế tục
– chỉ có bốn thầy trò với nhau: sự mạc khải chỉ biểu lộ cho những người thân thiết nhất, mang tính riêng tư.
– sự biến hình đổi dạng: cho thấy một bản chất sâu xa bên trong, một cái gì sẽ được tỏ hiện trong tương lai. Người thường không thấy được điều ấy, họ chỉ thấy được cái gì hiện ra bên ngoài trong hiện tại.
– dung nhan chói lọi như mặt trời: biểu tượng của thần tính, hay thiên tính, đầy vinh quang, quyền lực.
– y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết.
– Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo: đây là hai nhân vật lớn nhất tiêu biểu cho Cựu Ước, hay Giao Ước cũ. Mô-sê, nhà làm luật, tượng trưng cho luật pháp, Ê-li-a, ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, đại diện các ngôn sứ. Luật pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là những thứ biểu trưng và thiêng liêng nhất trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai người có thế giá nhất đã báo trước sự ra đời của Đức Giê-su. Mô-sê là tác giả của bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu của Cựu Ước) đã tiên báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Đnl 18,15-19). Còn Ê-li-a là nhân vật mà Thiên Chúa sai đến như một dấu chứng báo trước ngày mà chính Thiên Chúa đến trần gian (x. Ml 3,23). Trong thị kiến này, hai ông biểu tượng cho hai chứng từ sống động nhất làm chứng cho thiên tính của Đức Giê-su.
– Đám mây sáng ngời bao phủ cả ba người: tượng trưng cả ba người đều đến từ Thiên Chúa, và đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh (cũng như trong các kinh điển của các tôn giáo), đám mây tượng trưng cho mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện diện: chẳng hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái qua biển đỏ (Xh 13,21-24), cột mây trước Lều Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay Gia-Vê thường hiện ra với Mô-sê trong đám mây (Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,15-16).
– Tiếng phán ra từ đám mây: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!»: Đây là dấu chứng mạnh nhất, vĩ đại nhất mang tính dứt khoát cho biết Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa, mà mọi người có thể tin tưởng và vâng phục. Chính Chúa Cha trực tiếp giới thiệu «Con Yêu Dấu» của mình. Còn lời chứng nào giá trị hơn nữa?
2. Hãy vững tin vào thiên tính của Đức Giê-su
Qua thị kiến hiển dung này, Thiên Chúa đã trực tiếp củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su vào Ngài, và cũng gián tiếp củng cố niềm tin của các môn đệ khác, và cả chúng ta nữa. Thị kiến này các ông đã mang theo trong tâm trí suốt cuộc đời như một hành trang quý báu giúp các ông tin vững chắc vào Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế mà mọi người đều trông mong. Nhờ niềm tin vững chắc này, các ông rao giảng về Đức Giê-su một cách xác tín, và vượt qua được mọi gian lao thử thách do việc rao giảng ấy. Thánh Phê-rô đã nhắc lại biến cố này như một dấu chứng chắc chắn để mọi người tin vào lời chứng của mình: «Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người» (2Pr 1,16-18).
Nếu mục đích của sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các tông đồ vào thiên tính của Đức Giê-su, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin mỗi người chúng ta. Đức tin được càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm, chứ không chỉ tuyên xưng ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Ki-tô hữu càng thêm sâu sắc và phong phú, càng làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.
3. «Hãy vâng nghe lời Người!»
Qua biến cố hiển dung, Đức Giê-su chẳng những được giới thiệu cho chúng ta. Sự giới thiệu có giá trị hay không, và giá trị đến mức nào tùy thuộc vào thế giá của người giới thiệu. Còn ai có thế giá trong tôn giáo cho bằng Mô-sê và Ê-li-a, và nhất là còn ai thế giá trong toàn vũ trụ bằng Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này. Chúa Cha đã giới thiệu Ngài: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!».
Lời giới thiệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng nội dung rất quan trọng, gồm 3 điểm sau đây:
a) Đức Giê-su là Con Thiên Chúa: Đó là một chức vị duy nhất và cao nhất sau Chúa Cha trong toàn vũ trụ. Ngài là Con duy nhất của một Thiên Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất Thiên Chúa của Ngài.
b) Đức Giê-su rất đẹp lòng Chúa Cha: Một người đẹp lòng Chúa Cha tất nhiên hết sức hoàn hảo, không một khiếm khuyết nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do phẩm chất hết sức cao quí của Ngài.
c) Vì thế, Chúa Cha khuyên chúng ta «hãy vâng nghe lời Người!». Lời khuyên của Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng lại đầy khôn ngoan và quyền năng ắt phải có một giá trị vô cùng lớn. Không một lời khuyên nào đối với ta có thể khôn ngoan và đem lại lợi ích cho ta như vậy. Vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Đức Giê-su.
Thánh Phê-rô, người đã chứng kiến việc hiển dung của Đức Giê-su và đã nghe được lời giới thiệu về Ngài của Chúa Cha, đã phải thốt lên tâm tình của mình: «Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời» (Ga 6,68). Chính Đức Giê-su cũng đã xác nhận: «Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết» (Ga 8,51). «Không bao giờ phải chết» ở đây nghĩa là có được sự sống đời đời.
4. Sự sống đời đời do vâng nghe lời Đức Giê-su
Lợi ích lớn lao do việc vâng nghe lời Đức Giê-su chính là có được sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở đời này, thậm chí «tại đây và lúc này» (hic et nunc) một cách hết sức hiện sinh. Sự sống ấy đã được Đức Giê-su nói đến trong câu: «Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Đó là thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Đó là sự bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
Sự sống đời đời ấy ta có được là do vâng nghe lời Đức Giê-su, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như Đức Giê-su đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được «hạt giống sự sống đời đời» ở đời này do việc vâng nghe lời Đức Giê-su, ta mới có được «cây sự sống đời đời» ấy ở đời sau (x. Kh 22,2.14.19).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã giới thiệu Đức Giê-su cho con, đã khuyên con hãy vâng nghe lời Ngài. Con biết: sự sống đời đời – là điều con ao ước nhất và có khả năng làm thỏa mãn con nhất – con có thể tìm được nhờ vâng nghe lời Ngài một cách triệt để và sâu xa. Xin Cha giúp con thực hiện được điều ấy. Amen.
Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào?
Việc Chúa tỏ bày vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta? Và qua đó, Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?
Suy tư gợi ý:
Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào ?
Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng nhiều thể thức khác nhau:
Khi thì uy hùng lẫm liệt: như trong trường hợp Thiên Chúa ban bố 10 điều răn tại núi Si-nai trong tiếng sấm nổ rền vang, khói toả nghi ngút làm cho dân Do Thái phải khiếp sợ (Xh 20, 16-31); hoặc bằng cánh tay mạnh, Ngài đưa dân Do Thái vượt qua biển đỏ chân khô ráo trong khi binh hùng tướng mạnh của Ai Cập cùng với xa mã đuổi theo bị vùi dập trong làn nước biển (Xh 14, 15-31); trên đường dẫn đến Đa-mát, trong ánh sáng chói loà, Ngài đã làm cho Phao-lô ngã ngựa, mắt ông bị quáng ba ngày sau mới thấy lại được (Cv 9, 1-19)
Khi thì êm ái thân mật: trường hợp Ap-ram và Môi-sen đã gặp gỡ chuyện trò với Chúa mặt giáp mặt, Sa-mu-en được Chúa gọi ban đêm (1Sm 3,1-14), hay thánh Giu-se (Mt 1, 20; 2, 20) và các đạo sĩ Phương Đông đã được Chúa báo mộng (Mt 2,12).
Khi thì huy hoàng rực rỡ như trường hợp Đức Giê-su biến hình trên núi được diễn tả trong bài Tin Mừng thánh Mát-thêu hôm nay.
Việc Chúa tỏ vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta ? Và qua đó,Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì ?
Khi tỏ bày vinh quang bằng những dấu lạ điềm thiêng, Thiên Chúa luôn nhằm đáp lại một nhu cầu nào đó của con cái Ngài:
Để dẫn dắt: như cột mây dẫn đường cho dân Do Thái trong sa mạc (Xh 13,21-22;15,19-20).
Để cứu giúp dân khi gặp khó khăn hay khi bị quân địch vây khốn.
Để chữa lành các bệnh nhân, nâng đỡ, bồi bổ sinh lực cho những kẻ yếu đuối.
Và nhất là để củng cố niềm tin cho các tông đồ và dân chúng.
Trong bài sách Sáng Thế hôm nay, Ap-ram sở dĩ dám rời xứ sở, họ hàng và thân phụ để đi đến một vùng đất mới mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông vì ông đã được tiếp cận với Thiên Chúa. Ngài đã thiết lập giao ước với ông, và hứa sẽ làm cho ông thành một dân lớn (St 12,1-2). Nhờ lòng tin mạnh mẽ và nhờ ơn trợ giúp của Ngài, ông đã vượt qua mọi thử thách và đi đến cùng đích, để trở thành cha của những kẻ tin vào Thiên Chúa.
Trong thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa đã sẵn sàng chịu mọi cực hình tù tội vì danh Đức Ki-tô. Thánh nhân đã khuyên ông Ti-mô-thê: "Thiên Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã xuất hiện" (2 Tm 1, 9-10)
Trong cuộc đời công khai của Đức Giê-su, Ngài đã tỏ vinh quang bằng nhiều phép lạ: biến nước thành rượu (Ga 2,1-12), hoá bánh ra nhiều (Mt 14, 13-21; 16, 32-ABC39), chữa lành các bệnh nhân: những người mù, què, câm, điếc (Mt 4, 23-24) phong hủi, cho người chết sống lại (Ga 11,1-44). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã biến hình trước mặt ba tông đồ thân tín: "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng và kìa các ông thấy Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra cùng đàm đạo với Người". Nhìn thấy thế, các ông vô cùng sung sướng, nhưng khi nghe tiếng phán từ đám mây sáng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng lời Người" thì các ông đã kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất……
Mặc dầu được ở kề cận với Đức Giê-su, được Ngài trực tiếp huấn luyện, các tông đồ nhiều lần còn tỏ ra nghi ngại khi dấn thân vào cuộc sống phiêu lưu "rày đây mai đó", "Con chồn có hang ,con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Mt 8,20). Và thậm chí - vì sợ bị thiệt thòi khi theo Chúa - có vị đã mạnh dạn đặt với Chúa một câu hỏi rất khó nghe: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" (Mt 19,27). Rồi khi Đức Giê-su loan báo về bí tích Thánh Thể: " … ăn thịt và uống máu Con Người ….." (Ga 6,53), nhiều môn đệ lấy làm chướng tai nên đã rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Dù đã quyết tâm theo Chúa, các tông đồ vẫn chưa dứt bỏ được những cố tật: tham lam chức quyền, địa vị, quyền lợi (Mt 20,20-23), thích dựa vào quyền lực, vũ khí (Mt 26,52).
Việc Chúa tỏ vinh quang là nhằm củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Việc Đức Giê-su biến hình trở nên sáng láng, hay những dấu lạ Ngài làm, như gián tiếp nói với các tông đồ cũng như cho mọi người: "Có Thầy đây! Đừng sợ!" (Mt 10,26-31) Ngài luôn có mặt trong vũ trụ, làm chủ vũ trụ và sẵn sàng giúp đỡ những ai kêu cầu Ngài: "Hỡi những ai yếu nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho". Ngài muốn chỉ cho chúng ta thấy giá trị của đau khổ. Đau khổ chính là cửa hẹp, là đường dẫn đến vinh quang.
NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su, suốt 33 năm sống ở trần gian, Ngài đã nêu gương cho chúng con trong sự vâng lời làm theo ý Đức Chúa Cha. Và khi về trời, Ngài đã sai Đức Chúa Thánh Thần đến để giúp chúng con hiểu biết và thực thi những điều Ngài đã dạy chúng con. Xin Chúa cho mỗi người chúng con trong bất cứ tình huống nào của cuộc sống, luôn vững tin và cậy dựa vào Chúa, Đấng là chủ vũ trụ, Ngài luôn hoạt động để biến đổi thế giới.
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giê-su khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và hiện tượng
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức Giê-su hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài
Khi sống với Đức Giê-su, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Mô-sê và Ê-li-a, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: «Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người». Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức Giê-su cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng «theo hình ảnh của Ngài» (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), «giống như Ngài» (St 1,26; 5,1), để trở thành «con cái Ngài» (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa «ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại» là «được thông phần bản tính của Ngài» (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi «được thông phần bản tính của Ngài», một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Ki-tô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Ki-tô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều «hiển dung» trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gio-an nói: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức Giê-su hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con «hiển dung» trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
Một ngày kia có một ông vua muốn tập tổ chức một cuộc thi. Đề tài của cuộc thi được giữ kín. Nhà vua cho công bố thể lệ và mọi nơi mọi nước đều có quyền tham dự. Thế là tin tức được loan đi. Ai ai cũng nô nức hoan hỉ mong chờ.
Sau khi các phái đoàn từ khắp nơiđã tụ tập về kinh thành....Gồm đủ mọi thành phần có thể nói là ưu tú nhất:
Phái đoàn Ấn độ với cả hàng tấn dụng cụ đã tập trung đầy đủ. Phái đoàn Ai cập cũng tương tự như thế. Phái đoàn Arménie với kinh nghiệm nghề nghiệp đầy mình cũng đã sẵn sàng. Riêng phái đoàn Hy Lạp thì đến kinh đô với một thái độ rất thảnh thơi và gọn nhẹ.
Đề tài của cuộc thi là: họa lại chân dung của hoàng đế.
Thể lệ cuộc thi là mỗi một phái đoàn được cung cấp một gian phòng biệt lập. Trong thời gian các nghệ nhân làm việc thì họ bị hoàn toàn cô lập với bên ngoài.
Họ được cho một thời gian là hai tháng để hoàn thành tác phẩm của mình.
Hết thời hạn nhà vua ra lệnh cho tất cả các phái đoàn dự thi phải trưng bày cho mọi người xem tác phẩm của mình.
Chính nhà vua đích thân đi quan sát và chấm thi.
Ngài đến chỗ trưng bày của các nghệ nhân Ấn độ. Ngài phải ngạc nhiên vì bức tranh của những họa sĩ Ấn độ vễ về Ngài. Thật là tuyệt vời.
Bước sang chỗ trưng bày của các nghệ nhân Ai cập. Ngài lại càng ngạc nhiên hơn trước pho tượng cẩm thạch mà họ đã công phu tạc nên. Nó giống Ngài y như đúc.
Đến chỗ trưng bày của người Arménie, nhà vua cũng ngạc nhiên không kém.
Sau cùng khi đến gian hàng trưng bày của người Hy Lạp nhà vua chỉ thấy vỏn vẹn có bức tường bằng cẩm thạch. Chỉ vỏn vẹn có thế. Ngoài ra không có gì khác. Bức tường được đánh thật bóng, bóng đến mức độ khi nhà vua nhìn vào đó thì nhà vua thấy hình hài của Ngài như được in trên đó với tất cả những chi tiết dù là nhỏ nhất. Khi được yêu càu giải thích lý do tại sao họ lại làm như thế thì họ trả lời: " Thưa hoàng thượng chúng tôi nghĩ chẳng có ai có thể họa được khuôn mặt của hoàng đế ngoài chính hoàng thượng ra"
Và nhà vua đã cho họ được giải nhất.
Họa lại khuôn mặt của Đức Kitô đó là mục đích của Giáo Hội. Và như nhà họa kiêu điêu khắc gia Michel Ange nói: "Để tạo được một bức tượng điều quan trọng chính là những gỉ được gọt bỏ đi".
Muốn tìm lại được hình ảnh của Thiên Chúa nơi ta, điều quan trọng là ta phải gọt bỏ đi những gì là con người chúng ta. Chỉ với cách đó hình ảnh của Thiên Chúa mới có thể được hiển lộ ra ở nơi ta.
Chúa Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem: sẽ bị bat bị hành hình và sẽ bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 16, 21) . Cái tin độc ngột ấy cũng như lời giảng dạy về luật phải từ bỏ mình vác thập giá, đã làm cho các ông bàng hoàng lo sợ. Chúa cảm thấy cần phải nâng đỡ tinh thần của họ bằng cách cho họ hay một phần trong nhóm của họ được nhìn thấy vinh quang của Ngài. Vì thế, tám ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ lên núi cao và biến hình trước mặt các ông.
Ba môn đệ đó là Phêrô mà Ngài vừa đặt làm nền tảng Giáo nội, Gacôbê người sẽ là chứng nhân tiên khởi bằng máu, và Gioan, người môn đệ Ngài yêu mến. Họ cũng là ba chứng nhân cuộc hấp hối khổ nạn sau này.
Trước mặt các ông, Ngài biến hình. Mặt chiếu sáng như mặt trời, áo trong như tuyết. Có Môisê và Elia hiện ra đàm đạo với người. Đây là cuộc hiển linh tương tự như cuộc Hiển linh ở núi Sinai, ở đó Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài cho Môisê (Xuất hành 24,12-ABC8), và cho Elia
(1 Vua 19,1-14). Hai vị đã được “thấy và nghe” Chúa ở núi Horeb, hôm nay cũng hiển hiện bên cạnh Chúa. Ba môn đệ ngã sấp xuống và rất sợ hãi. Từ trong đám mây, có tiếng Thiên Chúa vọng lên. Tiếng ấy chúng ta đã nghe trên giòng sông Giođan sau khi Chúa chịu phép Rửa (Mt 3,17). Cũng mấy lời ấy: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Bởi vì Chúa Giêsu là Đấng mạc khải Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa. Đấng mà Thiên Chúa sủng ái. Từ đây, mọi tiên tri cho dầu cao cả đến đâu như Moisê, như Elia, đều chỉ là những bóng mờ khi mặt trời xuất hiện.
Các ông ngây ngất trong sợ hãi. Chưa bao giờ được thấy cảnh tượng ấy. Phêrô cất tiếng nói nhưng cũng không hiểu mình đã nói gì.
Không phải là vô lý-do mà Phụng vụ đatc bài Phúc âm Biến hình hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo hội đưa chúng ta lên núi, để chúng ta càng tin tưởng vào Chúa Giêsu, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa tới núi Can-vê.
Chúng ta cần được Chúa đến gần, sờ đụng vào ta, như “đã đến gần và gần động vào các Tông đồ”, để chúng ta thức tỉnh, để chúng ta biết thánh hóa mọi gian lao đau khổ trên đường đời.
Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài biến hình và xuống núi. Rồi đây Ngài cũng sẽ biến hình, “Không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy cho chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn, sống lại-Per Crucem ad lucem.
Mục sư Oscar Cullman, một nhà thần học Tin lành được mời diễn thuyết cho một số nhà trí thức Công giáo họp lại Strasbourg ở Pháp về cuộc khủng hoảng sau Công đồng Vaticanô II. Ông nói: “Cuộc khủng hoảng hiện nay không phải chỉ xảy ra trongGiáo hội Công giáo, chính trong Giáo hội Tin lành của chúng tôi cũng không thoát khỏi. Một tràng lý do là Kitô hữu không chấp nhận sự điên dại của Thập giá Chúa, như thánh Phaolô đã dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họtránh hy sinh tránh khó nghèo. Họ tìm lơi khen, họ muốn tự do theo ý riêng họ. Họ muốn theo Chúa Giêsu lúc Người biến hình trên núi Taborê, nhưng dừng lại bên ngoài vườn Giệtsêmani, và không trèo lên núi Thập giá".
Mỗi năm ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu truyện Người biến hình chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ không lợi đụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn, dè dặt, và khi Người Đói ngươi bị cám dỗ như một người thường.
Hôm nay, chúng ta nhin ngắm sự vinh quang ẩn giấu của Người, thiên tính của Người.
Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu ban đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều, và nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng: Thực sự Đức Giêsu đã thất bại và Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật đồng thời, từ cả từng lớp trí thức tôn giáo thời Người lại khước từ Người, nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng giương bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2 -12,4 -12,24 -12,38 -15,2-ABC16,1-16,6).
Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người. Với nhóm Mười Hai nhỏ bé, người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến người đã xa lánh Miền Paléttin, ởĐó tình hình từ nay đã trở nên nguy hiểm, người chạy sang tị nạn ở bên Libăng, về phía Miền Xêdarê Philip. Ở Đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức tin.. rồi, lập tức người nói: Tôi phải sang Giêrusalem... chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tế và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại." (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi Đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh quang của Cha Người..” (Mt 16,27-28).
Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tưởng chúng ta sắp đọc, xảy đến.
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thế: một lối quanh co trên một con đường núi cả bốn người, họ đu đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần.. Không khí trở nên tươi tắn và mát mẻ đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám đông còn xa ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao? Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong chốn thinh lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu, trong Mùa Chay này?
Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là một chủ đề Mátthêu ưa thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi Bánh được chia sẻ (Mt 15,29) núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt 18,16): Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Sinai được tái hiện trên Núi biến hình ; nhưng Đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi Đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2 ; Tv 2,6) ; chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nadarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ.
Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3 ; 26,61) còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?
Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Mátthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia nói về ánh sáng cũng như thế, Môsê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và đa mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35): Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng, ánh sáng, lửa,.
Động từ Hy Lạp được Mátthêu sử dụng ở đây “metamorphoun", có nghĩa chữ là "biến dạng": Đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: "Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa, đã lấy hình dạng con người đầy tớ... (Pl 2,6-7) nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thế nói được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.
Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.
Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba môn Đó đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với hình dạng của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37).. Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù và tự hạ mình của Người.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia.
Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên ông đức tin của mình, lên tiếng và nói tới đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia luật pháp và các Ngôn sứ.. Môisê là người đã khỏi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để mở đầu giai đoạn chấm dứt các thời đại như người tiên báo đấng Mêsia (Mt 17,l0-13).
Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thế nói là cố định lại nói trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này: "Tôi sẽ dựng nhiều lều..." chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thế bắt được hạnh phúc và cố định nó lại
Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.
Đám mày này, biểu tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40,34-35; V 8,10-12), cảt ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người, đám mây.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mày sáng người lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở Đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua Đó muốn chứng minh rằng chúng ta không thế nào hiểu những từ này như thế chúng chỉ mô tả một thứ cảnh tượng. Động từ "lấy bóng mình bao phủ, bằng tiếng Hy Lạp "épiskiazô", chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc l,35). Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do thái nổi tiếng nhất "shékinah, nghĩa là "Nhà ở", Hiện Diện của Thiên Chúa".
Và có tiếng từ đám mày phán rằng: "Đây là Con yêu dấu Ta, Ta hài lòng về Người các ngươi hãy vàng nghe lời Người.
Cái từ nhỏ, bề bên ngoài có vẻ không quan trọng “Này đây" chính nó mang đầy ý nghĩa trong chuyện kể nó, được lặp lại ba lần: “này đây một sự hiện ra, này đây một đám mày, này đây một tiếng nói trong Kinh Thánh, Đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt này đây! Chính ở Đó ? Chính là thế đấy ! Chúng ta ở Đó chẳng để làm gì cả.
Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự mạc khải về Phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn "hơn" cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khỏi đầu tác vụ của Người.. bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.
Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của Mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho chúng con.
Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống ? Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.
Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Mátthêu, các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước mặt thực thế linh thánh thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phường con người không được tạo đụng để thứ mình lại với chính mình trong một thứ tự hủy con người được tạo đụng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thế bằng thờ phượng: Và điều Đó luôn luôn mang hình thức một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống... Phải chết cho chính mình đã, để yêu mến Tha Thế.
Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy những cữ chỉ yêu thương những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng của nó.
Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ con một mình Đức Giêsu mà thôi đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy"
Sách kinh lễ không dám dùng từ chính xác bởi vì, một cách có chủ ý , Mátthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp "egeirein", "vực dậy", để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu hình dậy và làm cho sống lại nếu Thiên Chúa nói về đám mây, thì Đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất.. mà để làm cho con người sống lại.
Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những bách hại “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở Đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2Pr 1,68) mỗi một lần thế hiện nhiệm tích Thánh Thế là một trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm .
Muốn đi theo tiếng Chúa gọi, Abraham đã phải bỏ quê hương và những người thân.
Muốn đi theo Chúa, các môn đệ phải từ bỏ mình và vác thập giá hàng ngày để đi loan báo Tin Mừng, các tông đồ phải chịu biết bao gian khổ.
Họ đã bỏ rất nhiều. Bù lại họ được gì? Abraham nhận được lời Chúa hứa ban cho một dòng dõi đông đảo, các môn đệ được Đức Giêsu cho thoáng thấy vinh quang ở cuối cuộc hành trình, và người tông đồ được hứa “tên các con được ghi trong sổ trời”. Tin theo những lời hứa về một tương lai xa vời như thế đúng là phiêu lưu.
Thông thường, người khôn ngoan không nên phiêu lưu, thà giữ lấy cái hiện tại tuy bình thường nhưng chắc chắn, còn hơn bỏ nó để theo đuổi một tương lai chỉ mới có trong lời hứa. Nhưng đó là lối cư xử giữa loài người với nhau vì loài người thì rất khó tin. Nhưng đối với Thiên Chúa thì rất đáng phiêu lưu như vậy, vì đã có nhiều bằng chứng cho thấy lòng trung tín thực hiện lời hứa của Ngài.
Hơn nữa, Ngài có kêu gọi chúng ta từ bỏ để phiêu lưu theo Ngài cũng chỉ vì Ngài muốn đưa chúng ta trở về hạnh phúc thuở ban đầu mà thôi. Thực ra phiêu lưu theo Chúa không phải là phiêu lưu, chỉ cần có đức tin vào lòng trung tín của Chúa là có bảo đảm.
Rất nhiều người đã dám phiêu lưu như vậy: Abraham (2 lần: bỏ quê hương, giết con một), Đức Maria (khi thưa vâng với Thiên thần), các môn đệ (lập tức bỏ thuyền, bỏ lưới và gia đình để theo Đức Giêsu)
Hình ảnh con rùa: nếu nó cứ rụt đầu rút chân vào vỏ thì xem ra an thân đấy nhưng nó cứ mãi ở lì một chỗ, không bao giờ tiến đến đâu cả. Chỉ khi nào nó dám thò dầu thò chân ra để bước thì, tuy có thể gặp nguy hiểm đấy, có thể bị đau đấy, nhưng có thế nó mới tiến được.
2. Đức tin lên đường
Chuyện tổ phụ Abraham cho ta thấy được điều quan trọng này: đức tin là một cuộc lên đường.
-Tại sao? Vì “đạo” là đường, con đường Thiên Chúa dẫn dắt để chúng ta từ tối tăm tới ánh sáng, từ cõi chết đến cõi sống: Trong Thánh Kinh, mỗi lần Chúa gọi ai thì Ngài đều bảo họ lên đường đi theo Ngài.
-Mà muốn lên đường thì phải từ bỏ, vì hành trang càng gọn nhẹ thì bước hành trình càng nhanh. Thiên Chúa đã bảo với Abraham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi”.
-Hành trình đức tin luôn bao hàm ý nghĩa phiêu lưu: Abraham hành trình lên dường nhưng không biết mình sẽ đi tới đâu ông chỉ biết mình đang đi theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa: “đến đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”.
-Rất nhiều tín hữu chỉ lo gìn giữ những tín điều giáo lý và các lễ nghi. Đó chỉ là giữ đạo chứ không phải sống đạo.
3. Cuộc biến hình và cuộc hấp hối của Chúa.
Linh mục Mark Link (trong quyển Sunday homi- lies, Year A) đã so sánh việc Đức Giêsu biến hình và việc Ngài hấp hối:
-Cả hai việc cùng diễn ra trên núi: biến hình trên núi Tabor, hấp hối trên núi Cây Dầu.
-Ở hai nơi, Đức Giêsu đều biến hình: trên núi Tabor Ngài biến từ hình dáng loài người thành hình dáng Thiên Chúa; trên núi Cây Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa vinh quang thành hình dáng con người yếu đuối.
-Hai việc biến hình đều xảy ra lúc Đức Giêsu đang cầu nguyện.
-Và cả hai biến cố này đều xảy ra trước mắt 3 nhân chứng Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Dáng vẻ yếu đuối của Đức Giêsu là hình ảnh của Ađam cũ, còn dáng vẻ uy nghi sáng láng là hình ảnh của Adam mới. Thân phận của chúng ta cứng thế: Có những lúc chúng ta sốt sắng ngất ngây, như Đức Giêsu trên núi Tabor. Khi ấy chúng ta cảm thấy mến Chúa yêu người quá; chúng ta muốn ở mãi trong tình trạng ngây ngất đó; Nhưng rồi lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng, như đang ở núi Cây Dầu, Khi ấy, phần Adam cũ trong ta nổi dậy mãnh liệt. Chúng ta cảm thấy chán nản, không ai thương mình và mình cũng không muốn thương ai: Hình như Thiên Chúa cũng xa lánh mình.
Nhưng có một chi tiết quan trọng là Đức Giêsu đã luôn cầu nguyện trong cả hai biến cố đó. Chính sự cầu nguyện đã liên kết thống nhất 2 phương diện ngược hẳn nhau trong cùng một con người của Ngài.
Mark Link đã kết thúc bài suy gẫm của mình bằng lời kinh sau đây (dịch thoáng):
Lạy Thiên Chúa, xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Đức Giêsu trên núi Tabor. Trong những lúc đó xin cho con biết làm như Đức Giêsu xưa: con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện, và con sẽ được nghe lời Chúa nói Con là con yêu dấu của Cha .
Lạy Thiên Chúa, khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Đức Giêsu xưa: con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con. Amen”
4. Mảnh suy tư
a/ Biến hình.
Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai biến hình nên tốt hơn và biến hình thành xấu hơn, tuỳ vào tác nhân gây nên sự biến hình ấy.
Trong các môn đệ Đức Giêsu, Gioan là thí dụ của lối thứ nhất và Giuđa là thí dụ cha lối thứ hai.
Những tác nhân ảnh hưởng giúp biến hình nên tốt là những gì ta yêu, những gì những tâm hồn ta lên cao, những gì làm ta thức tỉnh, những gì kêu gọi ta bước tới, những gì mở rộng cửa lòng ta ra...
b/ Hiếu động
Phêrô là một con người hiếu động, luôn cần làm một cái gì đó.
Trên núi biến hình, thay vì thinh lặng chiêm ngưỡng, ông lại muốn dựng 3 chiếc lều.
Không phải mọi thời trong cuộc sống đều phải dùng để làm một cái gì đó. Có thời phải yên tĩnh
- để nghỉ ngơi - để suy nghĩ - để lắng nghe - để kinh ngạc - để chiêm ngưỡng - để tôn thờ
Không ít người lầm tưởng rằng đời sống tôn giáo cốt ở tin vào những tín điều và thực hiện một số việc đạo đức, bác ái. Thật ra thì người có niềm tin tôn giáo là tin vào một Đấng Thần Linh và nỗ lực sống theo giáo lý của Người. Nhưng điều quan trọng nhất của đời sống tôn giáo chính là mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ giữa tạo vật và Đấng Thần Linh. Nổi bật trong mối quan hệ ấy là sự đáp trả của con người, trước tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Trong mặc khải Ki-tô giáo thì Thiên Chúa là Đấng luôn mời gọi con người lên đường đi tìm Hạnh Phúc chính là Sự Sống Thật.
Chúa nhật II Mùa Chay A ttrình bày tiếng Chúa gọi con người ra đi, với thái độ tin cậy và phó thác vào lời hứa của Ngài, vào Đức Giê-su Ki-tô - Đấng đã chết và phục sinh để loài người biết đường tìm về Nhà Cha.
1. SỐNG LÀ RA ĐI
Cuộc sống là một trào lưu luôn luôn chuyển động, như dòng sông,dòng suối, như dòng xe cộ chen chúc trên đường phố. Vì thế, có người cho rằng sống là chuyển động, là đổi mới, là ra đi. Đời sống Ki-tô hữu cũng có những nét tương tự.
1. Thiên Chúa luôn mời gọi con người ra đi
Lịch sử Ki-tô giáo được đan bằng những cuộc hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Cách đức Giê-su Na-da-rét hơn hai ngàn năm, đã nổi bật một nhân vật sống hết tình hết ý với cuộc hẹn hò ấy. Đó chính là Áp-ra-ham, tổ phụ của những kẻ tin. Đang sống yên vui trên quê cha đất tổ, Áp-ra-ham được Thiên Chúa mời gọi ra đi, đến một miền xa lạ: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi ". Áp-ra-ham không chỉ được Thiên Chúa mời gọi bỏ quê cha đất mẹ để lao vào một cuộc hành ttrình tưởng như không có ngày mai. Sau này, lời mời gọi của Thiên Chúa còn đòi ông hiến tế con trai độc nhất của mình cho Thiên Chúa (St 22) ; nghĩa là phải không ngừng ra đi khỏi những gì là an toàn và vững chắc nhất về mặt nhân loại.
Và Áp-ra-ham đã lên đường theo tiếng Chúa, đã dâng con để thể hiện sự phục tùng tuyệt đối với Thiên Chúa. Không ai có thể sánh được với Áp-ra-ham. Vì thế, Hội Thánh vẫn nhận Áp-ra-ham là tổ tiên, là mẫu mực của kẻ tin.
Sau Áp-ra-ham, lịch sử Ki-tô giáo còn không biết bao nhiêu nhân vật nổi danh khác, đã nêu cao tấm gương vâng thco tiếng Chúa mời gọi ra đi. Các ngôn sứ thời Cựu ước và các tông đồ thời Tân ước là những Dũng Sĩ đáp lại tiếng Chúa. Họ đã bỏ xứ sở bỏ cha mẹ, ruộng vườn, nghề nghiệp... để lao mình vào cuộc phiêu lưu không có ngày mai ( !)
2. Thiên Chúa là Đấng ra đi đầu tiên và không ngừng
Người ta chỉ hiểu được Áp-ra-ham, các ngôn sứ, các tông đồ các nhà truyền giáo mọi thời đại... khi người ta tìm về với mặc khải Ki-tô giáo. Thiên Chúa của đức Ki-tô là Đấng Thiên Chúa luôn đi bước trước trong cuộc hẹn hò, gặp gỡ với vũ trụ và con người. Ngay từ những trang đầu của Sáng thế ký, Thiên Chúa đã bộc lộ bản chất của mình là một Thiên Chúa không chịu đóng kín, mà là một Thiên Chúa ra khỏi chính mình để sáng tạo vạn vật, vũ trụ và con người. Khi con người bội phản, phá đổ chương ttrình đầu tiên của Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng không dừng lại ở sự đổ vỡ ấy, mà Ngài lại một lần nữa thể hiện sáng kiến "đi bước trước" . Áp-ra-ham được mời gọi để tạo lập một dân mới, cho một lịch sử mới, một tương lai mới, một hẹn hò mới.
Thiên Chúa cũng không dừng ởn Áp-ra-ham, ơ Mô-sê ... hay một ngôn sứ nào khác. Thiên Chúa còn thực hiện một cuộc xuất thân tuyệt vời và tột độ: Ngôi Lời nhập thể làm người để đến với loài người, đem hạnh phúc cho loài người và giúp loài người lên đường ra đi, tìm về với Thiên Chúa.
Còn nữa, Thánh Thần của Cha và của Đức Ki-tô tiếp tục hiện diện và hoạt động trong các tâm hồn, các cộng đoàn và trong dòng lịch sử nhân loại ... để bảo đảm sự có mặt đầy thương yêu của Thiên Chúa bên cạnh con người. .
II. TIN LÀ HI VỌNG: ĐIỂM TỰA CỦA HÀNH TRÌNH RA ĐI
Để đáp lại tiếng gọi ra đi của Thiên Chúa, con người cần có một điểm tựa, một bảo chứng để sự phiêu lưu của mình không bị hụt hẫng. Đi sâu vào thái độ của Áp-ra-ham, của các tông đồ và mọi tín hữu Ki-tô, chúng ta không tìm thấy gì khác, ngoài một mềm tin và hi vọng.
1. Tin và hi vọng vào lời hứa của Thiên Chúa
Đối với Áp ra-ham và các ngôn sứ thời Cựu ước, Lời Chúa hay xác thực hơn lời hứa của Thiên chúa là bảo chứng giá trị nhất khiến cho các ngài không chút ngần ngại đáp trả: "Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ ... Ta sẽ ..." !!! Nhìn bên ngoài, xem ra thật mỏng manh giữa một bên là lời hứa (trong tương lai gần hay xa ...) của Thiên Chúa, và một bên là đòi hỏi, là mời gọi dấn thân. Chính đây là hành động TIN vì con người giao cả mạng sống và tương lai của mình cho Đấng mời gọi mình. Áp-ra-ham đã tin và đã hi vọng nên đã ra đi, đã hiến dâng con một là I-xa-ác cho Thiên Chúa. Lịch sử đã minh chứng cuộc ra đi và hiến dâng của ông là tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Thiên Chúa không hẹp hòi với ông, trái lại, những lời hứa của Ngài được thực hiện cách sung mãn nhất.
2. Tin và hi vọng vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và phục sinh.
Các Tông Đồ cũng đã nhận được lời mời gọi của Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng mà sau này các ngài nhận ra là Mê-si-a của Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa. Các tông đồ và các môn đệ khác cũng đã tin và hi vọng vào lời mời gọi ấy, và nhất là để tin và hi vọng vào cuộc sống, vào cái chết trên thập giá và vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài để dấn thân, để đáp trả, để lên đường cất bước thco Thầy. Cuộc biến hình gắn liền với lời loan báo thương khó là lời tiên báo mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh, mầu nhiệm làm nền cho Đức Tin và Hi Vọng Ki-tô giáo. Vinh quang trần gian không lôi cuốn được các ngài. Ngục tù tra tấn, đói khát không làm dừng chân các ngài. cuộc Sống của các ngài gắn liền với cuộc sống của Đức Giê-su: “Không phải tôi sống, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi). Thánh Phao-lô đã nói lên quan điểm và thái độ sống của các tông đồ.
Thco chân các tông đồ là hàng triệu hàng triệu con người nam có, nữ có, già có, trẻ có ... thuộc mọi dân tộc, mọi thời đại cũng lao mình vào cuộc hành ttrình đi gặp gỡ Thiên Chúa, trông cậy và tin tưởng vào Lời-thiên-chúa-làm-người đang chờ ở phía trước. Họ cũng không phải uổng công, vì Đức Giê-su là Đấng Trung Tín và Quảng Đại sẽ là phần thưởng lớn lao nhất cho sự ra đi của họ.
III. CÁM DỖ DỪNG CHÂN
Không phải bất cứ ai được mời gọi cũng đều sẵn sàng cất bước đi. Không phải bất cứ lúc nào con người chúng ta cũng mạnh tin và tràn trề hi vọng để đi tiếp cuộc hành ttrình. Có nhiều lúc, nhiều người chúng ta không muốn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Cơn cám dỗ dừng chân có thể xảy ra với bất cứ ai, vào bất cứ giai đoạn nào trong cuộc sống.
1. Những thái độ từ khước tiếng Thiên Chúa mời gọi ra đi
Chúng ta không đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng nhiều cách, với nhiều lý do. Có thể vì chúng ta giả điếc làm ngơ, coi như không nghe không biết tới tiếng Chúa. Có thể vì chúng ta để cho tiếng thế gian, xác thịt lấn át tiếng Chúa trong tâm hồn. Có thể vì chúng ta ngủ quên, tưởng rằng Chúa chỉ gọi chúng ta một lần khi chúng ta được đổ nước Thánh Tẩy trên đầu, còn sau đó chúng ta có quyền sống thế nào thì tuỳ ý thích của chúng ta. Cũng có thể vì chúng ta thích "định cư” không muốn ra đi, chán phiêu lưu gian khổ. Tiền bạc, địa vị, chức quyền, sự tự mãn, thành công ... đều có thể trở thành những yếu tố khiến chúng ta ngủ quên hoặc xây tường đắp luỹ cho tháp ngà của mình. .
2. Sợ phiêu lưu, thiếu tin và hi vọng
Nhìn sâu vào kinh nghiệm cá nhân của từng người và của từng cộng đoàn, chúng ta sẽ thấy được nguyên nhân sâu xa của thái độ dừng chân. Đó là sợ phiêu lưu, không đủ tin cậy, phó thác và hi vọng vào Lời của Thiên Chúa. Lao mình vào cuộc phiêu lưu thco tiếng Chúa mời gọi đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả kể cả chính bản thân và sự an toàn của mình. Chính đó là mấu chốt của Niềm Tin Kitô giáo. Sự đơn sơ phó thác trẻ thơ - như Tê-rê-xa Hài Đồng, như Charles de Foucauld - đòi chúng ta phải trở thành nhỏ bé, hèn mọn, khiêm cung tận cùng, để giao mình vào vòng tay của Cha, phó mặc Cha muốn định đoạt sao, muốn hành động sao là tuỳ Cha. Áp-ra-ham, các ngôn sứ, các tông đồ ... các Ki-tô hữu chân chính đều sống cái kinh nghiệm tâm linh độc đáo ấy !
Kết luận
Suy niệm về sự ra đi củaAp-ra-ham, và nhất là về biến cố Biến Hình của Chúa Giê-su, chúng ta được mời gọi hãy ra khỏi chính mình, ra khỏi sự an toàn tâm lý, tài chính, xã hội, tôn giáo của mình để gieo mình vào cuộc phiêu lưu Niềm Tin, đáp trả tiếng Chúa mời gọi. thco chân Áp-ra-ham, thco chân các tông đồ, thco chân chính Đức Giê-su ... chúng ta thưa với Cha: Lạy Cha, này con đây, con sẵn sàng ra đi ... thco tiếng Cha mời gọi.
LỜI NGUYỆN TÍN HŨU
CHỦ TẾ: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng luôn luôn đi bước trước để hẹn hò với con người ... để mời gọi chúng ta đáp trả. Tin yêu và cậy trông vào Tình Thương của Chúa, chúng ta dâng lên Chúa lời cầu xin tha thiết.
Ý NGUYỆN: .
1. Lạy Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi Áp-ra-ham từ bỏ tất cả để ra đi thco tiếng gọi của Chúa, để cộng tác với kế hoạch cứu độ của Chúa. Xin cho chúng con biết đáp trả như Áp-ra-ham, mạnh dạn lên đường, vững tin vào lời hứa của Thiên Chúa.
2. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã đáp lại ý định của Cha, từ khước vinh quang thần linh và mạng sống ... đến nỗi phải chết trên thập giá để đi vào phục sinh. Xin Chúa giúp chúng con thực hiện cuộcvượt Qua mà Chúa dành cho mọi môn đệ của Chúa, để chúng con được ơn cứu rỗi.
3. Lạy Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng có mặt trong mọi cuộc hành ttrình Đức Tin. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng, nâng đỡ chúng con, để chúng con luôn thức tỉnh và hăng hái tiến bước trên mọi nẻo đường thco chúa.
CHỦ TẾ: Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha mời gọi chúng con ra đi. Cha ban sức cho chúng con thực hiện cuộc hành ttrình tìm về với Cha. Cha là phần thưởng cho mọi cuộc hẹn hò, gặp gỡ. Xin Cha ban sức mạnh Tin Cậy Phó Thác cho chúng con, để chúng con gieo vào lòng Cha và đi đến tận cùng thế giới vì vinh danh Cha. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giê-su, Con Cha, Chúa chúng con.
Trong Chúa nhật I Mùa Chay, bao giờ Hội thánh cũng chọn bài Tin Mừng nói về những cơn cám dỗ Chúa Giêsu phải trải qua, để giúp tín hữu ý thức về mối nguy hiểm trong đời sốông đức tin: những cơn cám dỗ. Tương tự như thế, trong Chúa nhật I Mùa Chay, Hội thánh luôn chọn bài Tin Mừng về cuộc. Hiển dung của Chúa Kitô hữu để giúp chúng ta ý thức về một nguy hiểm khác: sự chán nản, nhụt chí troông đời sốông đức tin. Để vượt qua mối nguy hiểm này và để trung tín đến cùng với Thiên Chúa, trong Chúa nhật hôm nay, Hội thánh mời gọi ta chiêm ngắm và suy niệm về ơn gọi và sự trung tín của Tổ phụ Abraham, nhất là của chính Chúa Giêsu.
1. Ơn gọi và Sự trung tín của Tổ phụ Abraham
Trong 11 chươông đầu của sách Sáng thế, tác giả cho thấy sau tội nguyên tổ, càng ngày con người càng xa rời Thiên Chúa và chìm sâu trong tội lỗi, dẫn đến những hậu quả bi thảm trong mối quan hệ của con người với nhau cũng như với thiên nhiên, vũ trụ quanh mình. Những chương sách nói với ta một bài học cụ thể: con người không thể tự cứu lấy mình, không thể tự mình quay về với chân lý và sự sốông đích thực.
Tuy nhiên từ chương 12, tác giả mở ra một chân trời hi vọng với bài tường thuật về việc Thiên Chúa kêu gọi Tổ phụ Abraham. Chính Thiên Chúa xuống với con người, trò chuyện với họ, dẫn dắt họ trên đường tìm lại quê trời. Sáng kiến đó là của Thiên Chúa nhưng con người cần phải cộng tác tích cực, và tổ phụ Abraham chính là con người đã tích cực đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Tích cực đáp trả vì Ngài phải chấp nhận những hi sinh anh hùng cho lời đáp trả đó. Vào thời điểm đó Abraham là vị tộc trưởng giầu có và quyền thế, có cả trăm cả ngàn chiên bò. Ông lại đã lớn tuổi, và tâm lý người già là muốn định cư, không muốn phải dời chuyển xa xôi đến những miền đất lạ lẫm. Thế nhưng khi được Thiên Chúa kêu gọi. “Ong đã ra đi như Chúa bảo" (St 12,4). Phải có niềm tin tưởng và tín thác tuyệt đối, ông mới có thể đáp trả mau mắn như thế.
Niềm tín thác đó đã không chỉ xuất hiện một lần nhưng trở thành thái độ thường xuyên của ông trong cuộc sống. Lời hứa Thiên Chúa dành cho ông bao gồm hai khía cạnh: một miền đất làm gia nghiệp, và làm cha một dân đông đảo. Thế nhưng trong thực tế lời hứa ấy đã đươc thực hiện thế nào?
Khi đến Canaan - Palestin ngày nay - Abraham khám phá ra rằng những dân tộc khác đã chiếm hữu mảnh đất đó và ông không đủ sức mạnh chống lại họ. Ông phải thương lượng với họ để được sống tại đó. Rồi 600 năm sau, mảnh đất đó mới thuộc về con cháu của Abraham, nhưng ông đã an nghỉ trong niềm tin tưởng rằng Chúa đã giữ Lời Người đã hứa.
Còn về đường con cái, bà Sara vợ ông đã quá tuổi sinh nở, và chính ông cũng đã già, nhưng ông vẫn tin tưởng vào lời hứa của Chúa, và thực sự vợ ông đã sinh một người con trong lúc tuổi già. Niềm tin đó bị thử thách đến cùng cực khi Chúa mời gọi ông hiến tế người con duy nhất cho Ngài. Ngay cả khi bị thử thách như thế, Abraham vẫn một niềm tín thác, và đứa con yêu quí được trả tội cho ông.
Chính niềm tin tín thác và vâng phục tuyệt đối đó đã khiến cho Abraham được gọi là "cha các kẻ tin" (Rm 4,11), và là tấm gương cho ta về sự trung tín, vượt qua mọi gian nan thử thách.
2. Ơn gọi và Sự trung tín của Chúa Giêsu
Cũng như tổ phụ Abraham, Chúa Giêsu đã được Cha mời gọi ra đi khỏi quê hương là trời cao, để đến trong lúc gian nhằm cứu độ nhân loại, và Ngài đã vâng phục hoàn toàn.
Trong cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu, cả hai thời điểm đặc biệt mà Chúa Cha đã chọn để biểu lộ sứ mạng Người đã giao phó cho Chúa Con: khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, mở đầu sứ vụ Công khai; và khi Chúa Giêsu biến hình trên Núi thánh. Trong hai lần đó, tiếng của Cha từ trời cao vọng xuống: "Đây con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người" (Mt 17,5). Tiếng phán đó có mục đích gì?
Chúa Cha cho phép vinh quang của Con được chiếu tỏa trên Núi thánh, để xác quyết về sứ vụ đã giao phó cho Chúa Giêsu, và cho ta nhận biết sứ vụ đó. Sự hiện diện của Môisê và Êlia nhằm mục đích làm sáng tỏ công trình Chúa Giêsu thực hiện. Chúa Giêsu là Môisê mới, hướng dẫn dân Israel mới (là toàn thể nhân loại) đi về Đất hứa là Nước Trời; chính Ngài cung cấp cho dân mọi lương thực cần thiết trong suốt cuộc hành trình. Đồng thời Ngài tiếp tục Công việc của Êlia là lôi con người ra khỏi tình trạng thờ ngẫu tượng, để quay về với Thiên Chúa.
Ngoài ra, qua cuộc Hiển dung, Chúa Cha còn muốn nâng đỡ Chúa Giêsu trong việc thi hành sứ mạng cứu thế, và cũng nâng đỡ tất cả chúng ta. Lúc đó, Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem; ở đó Ngài sẽ bước vào cuộc khổ nạn như Ngài đã loan báo cho các môn đệ. Ngài sẵn lòng chấp nhận mọi đau khổ, kể cả cái chết; tuy nhiên trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy run rẩy sợ hãi (x. Mt 26, 37). Chỉ có tình yêu của Cha mới có thể đem lại sức mạnh lớn lao cho Ngài vượt qua thử thách và chu toàn sứ mạng. Bên cạnh đó, chính các môn đệ được chứng kiến vinh quang của Thầy Giêsu cũng được nâng đỡ. Mãi sau này, thánh Phêrô vẫn còn nhắc lại kinh nghiệm này để nâng đỡ các tín hữu của Ngài: “khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người..."
(2 P 1,16 – 17)
3. Ơn gọi và những thử thách trong đời sống Kitô hữu
Trong những thế kỷ đầu, Mùa Chay là thời gian chuẩn bị trực tiếp cho anh chị em dự tòng lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Như thế, mùa Chay cũng là thời gian để mỗi Kitô hữu ý thức lại bí tích Thánh tẩy mình đã lãnh nhận; trong bí tích hàm chứa ơn gọi cao quí Thiên Chúa dành cho ta: ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nội dung đang cần được quan tâm hơn nữa trong năm 1999 là năm Hội thánh hướng lòng lên Thiên Chúa là Cha, và mời gọi chúng ta xem xét lại tư cách làm con của mình.
Ơn gọi làm con Thiên Chúa là ơn gọi nền tảng vì "chỉ có một đời sống Kitô hữu, còn các ơn gọi khác nhau là những tia sáng của nguồn sáng duy nhất là chính đức Kitô phản chiếu trên dung nhan Giáo hội" (Gioan Phaolô II). Ơn gọi đó là "bước theo Chúa Kitô, chọn Người làm ý nghĩa tối hậu cho đời sống, đến độ có thể nói như thánh Tông đồ: đối với tôi, sống là Đức Kitô" (GP II). Sự sống của Thiên Chúa đã được ban tặng cho ta khi ta lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, nhưng sự sống ấy còn ẩn dấu trong thân phận con người trần thế, nhất là vì những tội lỗi và yếu đuối của ta. Một ngày nào đó, sự sống ấy sẽ bùng nổ với tất cả vẻ huy hoàng rục rỡ và lúc ấy ta sẽ reo lên như thánh Phêrô: " Thưa Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”.
Ơn gọi đó thật cao cả nhưng để có thể trung tín đến cùng, tội không phải là điều dễ dãi. Trong Chúa nhật I mùa Chay, Hội thánh đã cảnh giác ta về những cám dỗ có thể hủy hoại đời sống của con cái Chúa. Trong Chúa nhật II Hội thánh tội nhắc nhở về một nguy hiểm khác là những thử thách trong đời sống đức tin, cũng làm cho ta nhụt chí và đánh mất sự trung tín cần có. Chính vì thế, suy niệm về cuộc Hiển Dung của Chúa Kitô là cơ Hội tốt để hâm nóng niềm tin và trung kiên trong thử thách: " Câu chuyện Hiển Dung đánh dấu một thời điểm quyết định trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Đây là biến cố mặc khải nhằm củng cố niềm tin trong lạim các môn đệ, chuẩn bị cho bước vào tấm thảm kịch Thập giá và báo trước vinh quang Phục sinh. Hội thánh vẫn thường xuyên ôn lại mầu nhiệm này, với Hội thánh là đoàn dân đang tiến về cuộc gặp gỡ cánh chung với Đức Chúa của mình. Cũng như ba môn đệ chọn lọc, Hội thánh chiêm ngưỡng khuôn mặt được biến hình của Chúa Kitô, để được củng cố trong niềm tin và để khỏi hoang mang trước khuôn mặt tan nát của Người trên thập giá" (GP II).
Qua những tâm tình thổ lộ với người môn đệ thân yêu của mình bài đọc II, thánh Phao lô chính là mẫu gương cụ thể cho ta noi theo. Lúc ấy, Ngài đang bị giam trong ngục thất tại Rôma và chính trong cảnh lao tù, Ngài nói với môn đệ của mình: “Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng, làm tông đồ và Thầy dậy. Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng lại không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày đó". Và Ngài nói với môn đệ của mình, cũng là nói với Tất cả chúng ta: "Anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. Kết luận
Ước chi cuộc Hiển Dung của Chúa Kitô tặng ban sức mạnh cho ta, để có thể vượt qua mọi thử thách trong đời sống đức tin trung kiên với Chúa đến cùng, và ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô sẽ bừng tỏa trong cuộc sống đời thường của ta.
Qua bài Tin Mừng của Chúa nhật I mùa chay, Giáo Hội nhắc nhớ biến cố Chúa Kitô đã dùng việc ăn chay, cầu nguyện để lướt thắng các quyến rũ, lướt thắng những đam mê bất chính của xác thịt.
Qua bài Tin Mừng của Chúa nhật II mùa chay, Giáo Hội nhắc tới sự kiện Chúa Giêsu biến hình để chứng minh Ngài quả thực là Ngôi Hai Thiên Chúa, những rồi Ngài sẽ phải chịu lên án bất công… phải vác Thập giá, bị đóng đinh vào Thập giá và qua cái chết thê thảm, rồi mới sống lại. Vì thế Ngài mới căn dặn ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê:
“Các con không được nói với ai về việc đã thấy cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Suốt cuộc đời công khai của Chúa, Chúa dạy chúng ta phải sống công bằng bác ái, phải vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa, để được cùng Chúa sống lại trong vinh quang.
Cũng vì thế, trong Giáo Hội, trải qua các thời đại, đã có biết bao con người, chẳng những vui vẻ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, đau khổ, chấp nhận các cực hình vì Chúa, mà một số các Ngài còn khao khát, ước ao chịu đau khổ nhiều hơn để dõi bước theo đường Thập giá của Chúa.
Bị giam trong ngục, Thánh Tống Viết Bường (tử đạo ngày 23.10.1838, 60 tuổi) cứ 10 ngày một lần, phải ra hầu tòa. Lần nào quan cũng hỏi:
“Có bỏ đạo không?. Ngài trả lời: lâu nay tôi chỉ thờ một Thiên Chúa dựng nên vạn vật, lẽ nào tôi lại bỏ Chúa tôi?”
Mỗi lần thưa như vậy là Ngài bị một trận đòn 20 hèo, những Ngài không than trách một lời. một vị quan trước kia là bạn thân của Ngài đến thăm châm biếm hỏi Ngài có muốn được đổi gông xiềng nặn hơn, chứ thứ này tôi còn thấy nhẹ!” Thân thể Ngài và các đồng bạn đầy thương tích, vì cứ hai ngày người ta lại lôi ra đánh đòn. Nhưng người chiến sĩ kiên cường của đức tin vẫn còn cho là ít. Ngài nói:
“Người ta đánh đập tôi ít quá tôi muốn đa đánh đập nhiều hơn”.
Quan hình bộ thượng thư Võ Xuân Cần khuyên ông chiều theo ý vua: “Bỏ đạo lúc này thôi, rồi sau muốn làm gì thì làm”. Nhưng ông trả lời: Quan lớn có lòng thương thì tôi cũng xin quan lớn một điều, là cho tôi đa trọn vẹn chữ trung với Chúa Trời”.
Trước khi bị xử tử, viên sĩ quan có phận sự xử ông đã nói;
“Tống Viết Bường, ông không có tội gì ngoài tội theo đạo công giáo, ông hãy xuất giáo, Hoàng thượng sẽ tha cho ông, và hoàn lại cấp bậc cho”.
“Không, tôi đang đi đến đích của đời tôi, tôi không muốn lùi lại”.
Năm 1831 giặc đá vách ở Quảng Nam nổi lên quấy phá, quan quân phải đi đánh giặc. Tống Viết Bường, lúc đó là thân cấm binh chánh đội trưởng, được phái đi thị sát mặt trận. Trở về triều đình ông tâu trình thành quả đạt được. Nhưng có người ghen ghét tố cáo ông theo đạo Công giáo. Vua hạch hỏi ông: “Khi xong công tác, Khanh có viếng Chùa non Nước không?”. Ông bình tĩnh trả lời: “Muôn tâu, vì chùa Non Nước đâu có giặc mà đánh”. Vua hỏi tiếp: “Lệ thường dẹp giặc xong rồi thì phải vô chùa lễ bái, tại sao khanh không đi?”. Thế là vua Minh Mạng biết có những người Công giáo ngay trong triều đình. Cuối năm 1832, nhà vua truyền lập dnh sách những người có đạo trong hàng ngũ thân cấmbinh, trong đó có Tống Viết Bường. Lập tức ông bị giam ngục.
Bốn lần binh lính khiêng ông qua Thập Tự, ông đề mạnh dạn chống cự. lần khác quan bắt lính kéo chân ông chạm vào Thập giá, ông phản đối: “Việc này do các quan làm, chứ tôi không bao giớ làm như thế”. Quan tức giận truyền đánh tàn nhẫn hơn các lần khác. Đàn áp không được, các quan quay sang dụ dỗ. Quan hình Bộ thượng thư Võ Xuân Cần khuyên ông chiều theo ý vua “Bỏ đạo lúc này thôi, rồi sau muốm làm gì thì làm”. Nhưng ông trả lời: “Quan lớn có lòng thương thì tôi cũng xin quan lớn một điều, là Chúa tôi được trọn vẹn chữ trung với Chúa Trời”.
Trong nhà giam ông thường khuyên các đồng bạn hãy tỏ ra dũng cảm làm chứng cho Tin Mừng, cậy trông Đức Mẹ nâng đỡ phù trì ban ơn bền vững đến cùng. Mỗi ngày ông Phalô cầu nguyện, suy gẫm và đọa kinh Mân Côi. Mỗi tháng nhờ có Linh mục cải trang vào thăm, ông xưng tội và rước Mình Thánh Chúa. Hai Linh mục An và Vững thay nhau vào khích lệ ông. Ông 9ã sáng tác được một bài thơ gởi cha An, biểu lộ lòng trung kiên sắt đá, coi mọi khổ đau là niềm vui trong Chúa.
Thấy không thể làm lay chuyển đức tin của ông, quan thượng thư bộ Hình liền xin nhà vua tuyên án. Vua trả lờ: “Cần gì bản án, cứ tra tấn nữa đi, nếu nó không chịu đạp lên Thập Tự, thì cứ đánh cho chết, rồi quăng xac ra ngoài thành là xong”.
Lần thứ hai các quan tâu lại, vua Minh Mạng mới chấp thuận châu phê bản án trảm quyết, treo đầu ba ngày làm gương răn đe kẻ khác. Tuy nhiên vua vẫn chưa cho thi hành ngay, có ý chờ ông khi ân xá. Các quan nói ý vua cho ông biết, nhưng ông từ chối việc xin ân xá.
Ngày 23.10.1833, lúc 5 giờ chiều quân lính báo tin cho ông đội biết giờ hành xử đã đến. Ông bình thản giã từ 6 đồng bạn và người thông dịch viên tên là Micae, có con trai kết hôn với ái nữ của ông (cũng bị án tử hình giam hậu, đến sau đã bị xử). Ông nói: “Xin anh em thêm lời cầu nguyện, để tôi lãnh nhận Thánh ý Chúa. Đừng lo cho tôi, anh em hãy luôn đi theo đường lối của Chúa.”
Trên đường ra pháp trường, lấy cớ bị trói và mang gông nặng, ông kéo dài giờ di chuyển, để được xử trên nền thờ nhà thờ Thợ Đúc. Khi tới nhà thờ Thợ Đúc thì trời đã tối, quân lính cho dừng lại.
Dưới Ánh sáng le lói của mấy ngọn đuốc, ông Phalô được tháo gông, cởi trói và tự do trong ít phút. Ông tiến lên vài bước, bình tĩnh đứng nhìn lần sau hết những mái nhà thâniêu của giáo xứ vây quanh ngôi nhà thờ hoang tàn. Rồi ông bước lên chiếc chiếu do một bạn cũ tên Thục ở Cam Ranh đưa cho lính trải. Ông quỳ xuống cầu nguyện giây láy, và yêu cầu lính thi hành án xử.
Lính trói tay ông và vung gươm chém bay đầu ông. Thủ cấp ông phải bêu 3 ngày nơi ngôi nhà thờ sụp đổ ở Thợ Đúc. Sau đó thi hài vị tử đạo được đem an táng tại Phủ Cam.
Lớp địa chất học ở đại học Cansas làm một cuộc du khảo tới Colorađo để nghiên cứu về các thứ đá và sự hình thành của chúng. Sáu sinh viên và một giáo sư của họ mang đồ dùng rồi tiến lên ngọn đồi. Họ chọn một địa điểm và dựng một lều trại đơn giản. Trong một tuần để ở đây, tình bạn hữu giũa họ phát triển, nhất là giữa giáo sư và các sinh viên. Ong đã xếp đặt để đến lượt mình củi đốt lửa, dọn bữa ăn, rửa chén dĩa, xếp lại mùng mền, làm cho địa điểm dễ ở như có thể được. Họ chung sống, chuyện vãn, cầu nguyện, ăn uống và chia sẻ những điều tìm kiếm với nhau. Lòng yêu mến của các sinh viên đối với giáo sư cứ lớn mãi lên từng giờ. Đến lúc nhổ trại, một trong những sinh viên đó buột miệng nói lớn tiếng: “Tôi muốn chúng ta ở đây luôn – đây là đời sống”.
Ông giáo dư khôn khéo cảnh cáo: “Tom này, tôi biết, những cảm nghĩ của em. Tôi cũng có cảm nghĩ như em. Nhưng chúng ta là thành phần của xã hội. Những điều chúng ta học được ở đây, chúng ta phải chia sẻ với người khác. Có lẽ một lần khác, chúng ta có thể ở lại làm một cuộc du khảo như thế này”.
Cũng có điều gì giống như thế xảy ra cho Chúa Giêsu và ba tông đồ như Tin Mừng hôm nay tường thuật: Chúa Giêsu đem ba tông dồ tới chỗ ở riêng biệt trên núi cao, Ngài tỏ mình cho họ trong ánh sáng và vinh quang của Ngài là Thiên Chúa. Các tông đồ quá cảm động, muốn ở lại đó luôn mãi. Nhưng sự sáng láng rực rỡ và niềm vui qua đi quá mau. Chúa Giêsu chỉ cho họ thưởng thức một chút hạnh phúc sự sống dành cho những người trung tín theo Ngài.
Chúng ta, những người đi theo Chúa Kitô có bao giờ cảm nghiệm được chút nào ở những điểm cao của đời sống không ? Chắc là có.
Sinh nhật của một em bé, lời nói đầu tiên của nó, ngày nó bắt đầu đi học, rước lễ lần đầu, thi đậu, lễ cưới, lễ phong chức, lễ khấn dòng, đứa cháu đầu tiên. Nhưng giữa những cao điểm này còn có những chóp đỉnh nhỏ của hạnh phúc – một sự thôi thúc cầu nguyện như chúng ta ngắm nhìn những vì sao, những biểu lộ tình yêu của trẻ em, cha mẹ, bạn hữu, những ngày sinh nhật, những ngày kỷ niệm, lễ tạ ơn, lễ Giáng sinh, khi Doug trở về từ vùng vịnh, khi Sue tìm được việc làm, khi con cái biểu lộ tài năng của chúng.
Những sự kiện hạnh phúc này rất là thú vị khi đời sống xem ra chậm chạp và buồn tẻ. Đó là lý do mẹ Giáo hội làm sống lại cuộc biến hình ngay lúc khởi đầu mùa chay. Trong mùa hy sinh hãm mình này, câu chuyện Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các tông đồ trong ánh sáng rực rỡ, nâng chúng ta lên, vỗ về chúng ta, làm phấn khởi chúng ta, làm chúng ta mong đợi ánh sáng của lễ Phục sinh.
Như những lúc hạnh phúc nhất của đời sống có liên hệ với gia đình nhân loại thì những niềm vui tinh thần, những lúc tâm hồn thảnh thơi, cũng liên hệ với gia đình thiêng liêng của chúng ta, gia đình của Thiên Chúa, chúng ta tụ họp nơi đây vì điểm cao của tuần lễ – thánh lễ.
Thánh lễ có những dấu chỉ của cuộc biến hình. Thánh lễ đưa chúng ta lên núi của bàn thờ này. Nó tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu trong sắc trắng cùng bánh Thánh. Trong nghi lễ thánh này, chúng ta cùng ăn, cùng hát, cùng cầu nguyện, cùng chúc mừng nhau. Đó là một sự kiện vui mừng, một cao điểm, một cử hành. Cùng với thánh Phêrô, mỗi người chúng ta có thể kêu lên: “Được ở đây thì tốt lắm”.
Hôm nay chúng ta bước vào tuần II Mùa Chay; mượn lời của Thánh Vịnh, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình tín thác, tin tưởng, cậy trông vào tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng chính là tâm tình của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời của Ngài, Ngài đã sống trọn vẹn sự vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Anh chị em thân mến!
Chúng ta đến đây để hiệp dâng thánh lễ mỗi người có một tâm tình riêng với tất cả sức nặng của khổ đau từng ngày, cũng như sức nặng của tội lỗi trên tâm hồn chúng ta. Xin Chúa tiếp tục độ trì chúng ta, xin Ngài tha thứ cho tất cả những tần mà chúng ta thiếu tin tưởng hoặc thiếu niềm tin yêu vào Ngài, cũng như những tần chúng ta khước từ người anh em của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến!
Đám tang của một em bé trai hai tuổi lại một thành phố bên Anh Quốc vào năm 1992 đã gây nên một xúc động mạnh trên toàn nước Anh. Hàng ngàn người đã đi theo xe tang trong tiếng than khóc nức nở mà tưởng chừng không có lời an ủi nào có thể cầm lại được. Có lẽ người dân Anh không chỉ khóc thương số phận hẩm hiu của một em bé, mà còn để tang cho một xã hội đang giẫy chết trong bạo động.
Thật thế, em bé trai hai tuổi này mà cả nước Anh than khóc là nạn nhân của hai cậu bé chỉ mới lên mười tuổi. Ở lứa tuổi mà lẽ ra tâm hồn phải còn trong trắng, nhưng hai cậu bé này đã giết người không biết gớm tay. Đó là hình ảnh của một nền văn hoá mà Đức Tổng Giám mục Anh Giáo đã gọi là "nền văn hoá của bạo động".
Trong tang lễ của con mình, cha mẹ của em bé đã chọn bài hát có tựa đề: "Hãy Chữa Lành Thế giới" của danh ca Mtchael Jackson. Qua đó, họ muốn nhắn gởi cho nước Anh và toàn thế giới một sức điệp hy vọng, và đó cũng là ý nghĩa của bài giảng mà vị Giám mục chủ tế đã đọc trong tang lễ. Ngài đã phát biểu như sau: "Cái chết của một em bé vô tội đang mời gọi chúng ta hãy làm một cái gì đó để làm cho cuộc sống được tốt hơn". Đây không phải là một cái chết vô ích, cái chết của em bé này cũng đã tay động cả thế giới, cái chết của em bé đã mang lại một niềm hy vọng.
Anh chị em thân mến!
Chúng ta bước vào tuần II Mùa Chay, mùa mà hằng năm Giáo Hội thiết tập để mời gọi chúng ta sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu một cách ý thức và tích cực hơn, hầu được tham dự vào sự Phục Sinh vinh quang của Ngài. Cái chết ô nhục của Chúa Giêsu trên Thập giá cũng như cái chết thương tâm của em bé hai tuổi người Anh trên đây vẫn mãi mãi là một lời tố cáo tội ác của nhân loại.
Thế nhưng, Thiên Chúa không bao giờ đầu hàng trước lội ác của con người. Qua cái chết trên Thập giá của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cũng muốn nói rằng: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Thập giá không chỉ là biểu trong tội ác của con người, mà còn là dấu chỉ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa và là biểu hiện của niềm hy vọng. Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn nhắn gởi cho một số môn đệ thân tín của Ngài, khi Ngài cho họ chứng kiến cuộc biến hình của Ngài trên núi Tabor.
Trước đó sáu ngày, Chúa Giêsu đã loan báo về cuộc tử nạn của Ngài, và thái độ của Phêrô tiêu biểu cho phản ứng chung của các môn đệ, đó là việc thánh Phêrô đã kéo Chúa Giêsu lại đàng sau và bày tỏ nỗi bất bình của ông. Với các môn đệ, nếu Chúa Giêsu chết đi thì vương quốc mà Ngài đã hứa sẽ không bao giờ đến, như thế giấc mộng "công hầu khanh tướng" của các ông tan lành mây khói. Chính trong tâm trạng đó mà các môn đệ đã được Chúa Giêsu cho chứng kiến những phút biến hình vinh hiển của Ngài, cũng như nghe được tiếng phán của Chúa Cha: "Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Ngài".
Chúa Giêsu là người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha, bởi vì Ngài đã sống vâng phục thánh ý của Thiên Chúa Cha bằng cách biến cái chết thành con đường cứu rỗi. Ngài đã biến khổ giá thành con đường dẫn đến vinh quang.
Hào quang bao phủ Chúa Giêsu trong lúc biến hình là một khẳng định về chân lý ấy. Qua đó, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin của các môn đệ và Ngài vạch ra cho các ông con đường phải theo. Đó là con đường của Thập giá dẫn đến vinh quang, đó là con đường của đau khổ dẫn đến hân hoan, con đường của sự chết dẫn đến sự sống Phục Sinh, con đường của thất bại dẫn đến hy vọng.
Anh chị em thân mến !
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta sống mầu nhiệm khổ đau bằng cách tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, nghĩa là với tinh thần chấp nhận và tín thác. cuộc sống con người là một đan xen của vui buồn, hân hoan và sầu khổ. Khi Nhập Thể làm người, Chúa Giêsu đã không thoát khỏi số phận ấy. Thế nhưng, Ngài đã chiếu rọi ánh sáng vào đau khổ và sự chết khi đón nhận tất cả với tâm tình hiến dâng, phó thác và tin yêu. Với Chúa Giêsu, thua thiệt, mất mát đã trở thành lợi lộc, thất bại rủi ro trở thành cơ may.
Chúng ta tuyên xưng điều đó qua công thức: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưa việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến". Tin Mừng mà chúng ta loan báo không phải là sự chết chóc, mà chính là niềm hy vọng vào niềm tin của Chúa Kitô Phục Sinh. Ước gì lời tuyên xưng đó được thể hiện từng ngày sống, từng giờ, từng giây và từng phút bằng cả cuộc sống tín thác yêu thương, hân hoan của chúng ta. Và đó cũng là chứng tích mà xã hội đang giẫy chết trong hận thù, bạo động và mất niềm tin, họ đang phải chờ đợi nơi người tín hữu Kitô của chúng ta sức sống mới của Chúa Kitô Phục Sinh trong vinh thắng và yêu thương.
Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và kìa các ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái." Ông còn đang nói, thì kìa có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và kìa có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người !" Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp xuống đất. Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: "Chỗi dậy đi, đừng sợ !"Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.
Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: "Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy."
Tại sao Chúa Giêsu đến đây ? Sao Ngài lại đến nơi đồi núi hoang vắng này ? Luca hé cho ta thấy câu trả lời: "Ngài lên núi để cầu nguyện" (Lc 9,29).
Trước hết, chúng ta hãy nhìn qua khung cảnh nơi đã diễn ra giờ phút vinh quang cho Chúa Giêsu và ba môn đệ tuyển chọn. Có một truyền thuyết cho rằng cuộc biến hình xảy ra trên núi Taborê, nhưng không lấy gì làm đáng tin. Trên đỉnh núi Taborê có một đồn lũy và một tòa lâu đài lớn, ta thấy việc hiển biến khó có thể xảy ra trên một hòn núi có đồn lũy, và theo như Luca ghi lại, thì chúng ta biết Chúa chúng ta lên đó để cầu nguyện. Ngài cần nơi yên tĩnh. Việc hiển biến dễ xảy ra trên núi Hétmôn hơn. Hétmôn nằm cách Xêdarê Philipphê 23 cs. Đó là một hòn núi cao, cao đến nỗi người ta có thể nhìn thấy nó từ biển chết, ở đầu bên kia Palestine , cách đó hơn 160 Km, Núi Hetmôn cao 3.000 mét, cao hơn thung lũng Giođan 3.500 mét . Việc biến hình không thể xảy ra trên tận đỉnh núi, vì núi quá cao. Tristram kể lại ông và đoàn leo núi đã leo lên đó như thế nào. Để lên đến tận đỉnh núi, họ phải leo mất năm tiếng đồng hồ. Trên đỉnh cao như thế, sinh hoạt rất khó khăn. Tristram nói:
"Chúng tôi ở lại trên đỉnh núi gần suốt ngày, nhưng chẳng bao lâu chúng tôi bị đau vì không khí loãng quá". Cuộc biến hình chắc đã xảy ra vào ban đêm, Luca kể lại rằng lúc ấy các môn đệ đều ngủ gục (Lc 9,32). Ngày hôm sau, Chúa Giêsu và ba môn đệ trở xuống đồng bằng thì gặp người cha có đứa con kinh phong đang đợi họ (Lc 9,37). Hiện tượng lạ lùng này chắc đã xảy ra vào lúc hoàng hôn, sẩm tối hoặc trong ban đêm.
Chúng ta hãy đặt mình vào địa vị Chúa Giêsu lúc ấy, Ngài đang trên đường tiến tới thập giá. Ngài biết rất rõ điều đó, Ngài đã nhiều lần nói với môn đệ như vậy. Tại Xêdarê Philipphê, chúng ta thấy Ngài đối phó với một vấn đề và giải quyết một câu hỏi. Chúng ta đã thấy Ngài đang tìm xem có người nào biết Ngài là ai, Ngài làm gì không? Chúng ta thấy câu hỏi đã được giải đáp thỏa đáng và Phêrô biết rằng chỉ có thể mô tả Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng vẫn còn một câu hỏi lớn hơn nữa mà Chúa Giêsu cần phải giải quyết trước khi Ngài lên đường đi chuyến cuối cùng. Chúa Giêsu cần biết thật chắc chắn rằng Ngài đang làm những điều mà Cha Ngài muốn Ngài làm, Ngài cần phải biết rõ ý Thiên Chúa là muốn Ngài đi đến Giêrusalem để lên thập giá. Chúa Giêsu lên núi Hetmôn để hỏi Thiên Chúa câu hỏi:
"Con có làm theo ý Cha khi con hướng mặt về Giêrusalem không?" Chúa Giêsu lên núi Hetmôn để nghe mệnh lệnh của Thiên Chúa và để nghe tiếng phán của Thiên Chúa . Chúa Giêsu không bao giờ hành động mà không hỏi ý Chúa Cha. Làm sao Ngài có thể bắt tay vào một hành động trọng đại nhất từ xưa tới nay mà không hỏi ý Thiên Chúa ? Tất cả mọi việc, Chúa Giêsu đều hỏi một câu duy nhất là: "Có phải đây là ý của Thiên Chúa đối với tôi không?" Và đó là câu hỏi Chúa Giêsu đã trình lên giữa cảnh hoang vắng trên sườn núi Hetmôn. Điểm khác biệt lớn lao giữa Chúa Giêsu và chúng ta, và là một trong những điểm quan trọng làm thành con người Chúa Giêsu , ấy là Ngài luôn luôn hỏi Thiên Chúa "Thiên Chúa muốn tôi làm gì?" , còn chúng ta hầu như lúc nào cũng hỏi "tôi muốn làm gì?" Chúng ta thường nói rằng đặc điểm có một không hai của Chúa Giêsu là Ngài vô tội. Như thế có nghĩa là gì ? Nghĩa là, Chúa Giêsu không hề có ý riêng mà chỉ có ý Thiên Chúa . Khi Chúa Giêsu gặp một vấn đề, Ngài không tìm cách giải quyết bằng năng lực suy nghĩ riêng của mình, Ngài không đem vấn đề hỏi ý kiến người khác, Ngài đem nó đến nơi vắng vẻ và đến cùng Thiên Chúa .
Tại trên núi, có hai nhân vật xuất hiện gặp Chúa Giêsu, đó là Moisen và Êlia. Chúng ta sẽ ngạc nhiên nhận thấy rằng hai nhà lãnh tụ vĩ đại, tôi tớ của Thiên Chúa, có những kinh nghiệm có thể đem đối chiếu với Chúa Giêsu ở nhiều phương diện. Từ trên núi Sinai xuống, Moisen không ngờ rằng da mặt ông sáng chói. Cả Moisen và Êlia đều có những giờ phút tiếp xúc với Thiên Chúa trên đỉnh núi. Moisen đã lên núi Sinai để nhận bảng Luật Pháp, Êlia đã gặp Thiên Chúa trên núi Hôrép, không phải trong cơn lốc, cũng không phải trong cơn động đất, nhưng trong tiếng êm dịu nhỏ nhẹ. Cái chết của Moise và Êlia cũng đặc biệt kỳ lạ. Thánh Kinh kể lại cái chết đơn độc của Moisen trên núi Nêbô, tường thuật như chính Thiên Chúa là người chôn vị lãnh tụ vĩ đại đó:
“Thiên Chúa bèn chôn người trong thung lũng tại xứ Môáp, đối ngang Bếtphêô, cho đến ngày nay không ai biết được mộ của người”. Còn Êlia thì theo truyện xưa kể lại, ông đã ra đi bằng xe lửa và ngựa lửa, trước sự kinh ngạc của môn đệ Êlisê. Hai nhân vật vĩ đại xuất hiện gặp Chúa Giêsu khi Ngài sắp lên đường đi Giêrusalem , là những nhân vật gần như là bất tử.
Như vậy, sự xuất hiện của Moisen và Êlia ở đây rất là xứng hợp. Nhưng đó không phải là lý do thật để Moisen và Êlia xuất hiện với Chúa Giêsu .
Một lần nữa, chúng ta lại phải quay về với ký thuật của Luca. Luca nói rằng Moisen và Êlia nói chuyện với Chúa Giêsu "về sự Ngài qua đời, là sự phải ứng nghiệm tại thành Giêrusalem" (Lc 9,31). Từ ngữ "qua đời" trong tiếng Hi lạp rất có ý nghĩa. Nguyên văn nó là exodos, chữ dùng để chỉ cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai cập đi vào sa mạc hoang vu để rồi cuối cùng đến miền Đất Hứa. Nó chỉ một cuộc hành trình gian nan nhất trong lịch sử nhân loại, cả dân tộc hoàn toàn tin cậy Thiên Chúa đi đến một nơi mà mình không biết. Đó chính là điều Chúa Giêsu sắp làm. Với niềm tin cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa , Chúa sắp đi vào một cuộc hành trình vô cùng mạo hiểm đến thành Giêrusalem , một cuộc hành trình đầy nguy hiểm, một hành trình đến thập giá, nhưng cũng là hành trình đem lại vinh quang.
Trong tư tưởng Do thái , hai nhân vật vĩ đại Moisen và Êlia tiêu biểu cho một số điều. Moisen là nhà lập pháp vĩ đại, là người đem luật pháp của Thiên Chúa đến với loài người. Êlia vĩ đại hơn hết trong các tiên tri, qua ông, Thiên Chúa trực tiếp phán cách đặc biệt với loài người. Hai vị này là đỉnh cao của lịch sử và thành tích tôn giáo của Is-ra-en. Có thể nói đó là hai nhân vật lớn nhất trong lịch sử Is-ra-en đến với Chúa, lúc Ngài sắp lên đường bắt đầu cuộc hành trình mạo hiểm đến nơi chưa biết, để bảo Ngài cứ đi tới. Trong họ, tất cả lịch sử đứng dậy chỉ vào Chúa Giêsu khi Ngài đang đi trên đường của Ngài. Trong họ, tất cả lịch sử nhìn nhận Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của lịch sử. Nhà lập pháp lớn nhất và nhà tiên tri lớn nhất công nhận Chúa Giêsu là người họ hằng mơ ước, là người họ đã báo trước. Sự xuất hiện của họ là hiệu lệnh cho Ngài bước tới. Như vậy, những nhân vật lớn nhất nhân loại làm chứng rằng Chúa Giêsu đã đi đúng đường và khuyên ngài cứ đi trong cuộc xuất hành mạo hiểm đến Giêrusalem và Đồi Khổ Nạn.
Nhưng còn hơn thế nữa, không phải chỉ có nhà lập pháp lớn nhất và vị tiên tri lớn nhất bảo đảm với Chúa Giêsu rằng Ngài làm đúng, mà còn có chính tiếng phán của Thiên Chúa đến với Ngài rằng Ngài đã đi đúng đường. Các tác giả Phúc Âm đều nói đến đám mây sáng chói che phủ họ. Đám mây đó là một phần của lịch sử dân Is-ra-en. Trong suốt lịch sử Is-ra-en, đám mây sáng láng tượng trưng cho Thiên Chúa Toàn Năng. Khắp trong Cựu ước đều có hình ảnh đám mây, trong đó hiện diện vinh quang nhiệm màu của Thiên Chúa .
Chúng ta có thể ghi thêm một sự kiện linh hoạt nữa. Các du khách có kể lại một hiện tượng kỳ lạ, đặc biệt của núi Hetmôn. Edersheim viết rằng: "Một điểm đặc sắc đáng lưu ý về núi Hetmôn là mây tụ lại hết sức nhanh trên đỉnh núi, chỉ trong vài phút, mây đã họp thành một cái nắp dày úp trên đỉnh núi, rồi lại tan ra cũng nhanh y như vậy, và hoàn toàn biến mất". Trong dịp này chắc chắn có một đám mây kéo đến sườn núi, và chắc chắn mới đầu các môn đệ không để ý, vì hiện tượng đó xảy ra rất thường trên núi Hetmôn. Nhưng đã có một việc xảy ra, chúng ta không cần phải đoán điều gì xảy ra, đám mây đã trở nên sáng chói và bí ẩn, và từ đó phán ra tiếng phán thiên thượng uy nghiêm, đóng ấn thừa nhận của Thiên Chúa trên Giêsu, Con Ngài. Ngay lúc đó, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được phúc đáp, Ngài đã biết không còn nghi ngờ gì nữa rằng Ngài đã đi đúng đường và cứ tiếp tục đi tới.
Núi Biến Hình đối với Chúa Giêsu quả thật là một đỉnh núi tâm linh. Cuộc xuất hành đã đặt ra trước mặt Ngài, Ngài có đi đúng đường chăng? Cuộc mạo hiểm ra đi đến Giêrusalem đến vòng tay chờ đợi của thập giá như thế có đúng không? Trước hết, có sự minh xác của lịch sử, có nhà lập pháp và vị tiên tri lớn hơn hết bảo Ngài cứ đi tới. Nhưng rồi lại càng lớn hơn cả sự vĩ đại trên đây là tiếng phán đem lại cho Ngài chính sự chuẩn y của Thiên Chúa . Chính việc xảy ra trên Núi Biến Hình đã khiến Chúa Giêsu bước đi không nao núng trên con đường tới thập giá.
Sự Hiển Biến không phải chỉ tác động trên Chúa Giêsu , mà còn cả cho môn đệ nữa.
- Chắc chắn tâm tư các môn đệ vẫn còn xót xa, hoang mang bởi lời quả quyết của Chúa Giêsu rằng Ngài phải tới Giêrusalem , để chịu nhục hình, bị đối xử như tên tội phạm, chịu đau đớn, bị đónh đinh trên thập giá và chết. Trước mắt họ, tương lai chỉ toàn là màu đen nhục nhã. Nhưng toàn cảnh Núi Hiển Biến là vinh quang. Vinh quang là nét chính của câu truyện từ đầu cho đến cuối. Mặt của Chúa Giêsu sáng rỡ như mặt trời, áo Ngài rực rỡ chói lòa như ánh sáng.
Người Do thái biết rõ lời hứa của Thiên Chúa dành cho người công chính: "Mặt họ chiếu sáng như mặt trời". Không một người Do thái nào thấy đám mây sáng láng mà không nghĩ đến vinh quang, vinh quang của Thiên Chúa giáng ngự trên Ngài. Chắc chắn cảnh tượng đó đã làm cho các môn đệ phấn khởi, họ đã thấy vinh quang bên kia cảnh nhục nhã, khải hoàn bên kia cảnh khổ đau, vương miện bên kia thập giá. Ngay lúc ấy, họ cũng chưa phải là đã hiểu trọn vẹn, nhưng chắc chắn họ đã lờ mờ ý thức được rằng thập giá hoàn toàn khổ nhục, nhưng nó đi liền với vinh quang là nét chính của cuộc xuất hành đến Giêrusalem và đến cái chết.
- Xa hơn nữa, Phêrô đã học được hai bài học trong đêm đó. Khi Phêrô thức dậy thấy cảnh tượng đó, ông phản ứng ngay, đề nghị dựng ba lều, một cho Chúa Giêsu , một cho Môisen, một cho Êlia. Phêrô luôn luôn là con người của hành động, lúc nào ông cũng phải làm một cái gì. Nhưng cũng cần có những thời giờ yên tĩnh, thì giờ để suy gẫm, tôn thờ, thì giờ dành cho niềm kính sợ, phủ phục trước sự hiện diện của vinh quang thiên quốc: "Hãy lặng thinh và biết Ta đây là Thiên Chúa " (Tv 45,11). Có thể nhiều lúc chúng ta quá bận rộn làm việc, trong lúc lẽ ra chúng ta nên yên lặng lắng nghe, học hỏi, tôn thờ trong sự hiện diện của Chúa. Trước khi bước ra chiến đấu mạo hiểm, con người cần để thì giờ quì xuống, học hỏi, cầu nguyện.
- Mặt khác, Phêrô lại muốn chờ đợi trên sườn núi. Ông muốn kéo dài giờ phút huy hoàng ấy, ông không muốn trở về với công việc thường ngày, ông muốn ở lại mãi mãi với vinh quang rực rỡ.
Mọi người đều có thể có cảm nghĩ đó. Ai đã từng trải qua những giây phút thân mật, trong sáng, bình an, gần gũi với Chúa cũng đều muốn kéo dài những giây phút ấy, như có người đã diễn tả: "Núi Biến Hình bao giờ cũng thích thú hơn là công tác phục vụ hàng ngày hay con đường thập giá" (MC Neile). Nhưng Núi Biến Hình được ban cho ta chỉ để cho ta có sức mạnh làm công tác phục vụ hàng ngày và bước đi trên con đường thập giá. Đã có một lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, xin hãy giúp con nhớ rằng: đạo không bị giới hạn nơi nhà thờ hay nguyện đường, cũng không chỉ thực hành bằng cầu nguyện hay suy gẫm mà ở bất cứ nơi nào con được ở trong sự hiện diện của Chúa" (S. Wesley). Giờ phút vinh quang không xuất hiện vì chính nó, nó xuất hiện là để khoác vẻ đẹp lóng lánh, rực rỡ cho những công việc bình thường mà trước kia chúng chẳng hề có.
LỜI CẦU NGUYỆN TÍN HỮU
Kêu mời: Anh chị em thân mến,
Đã qua một tuần sống trong Mùa Vọng, chúng ta mong đợi Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến. Hôm nay lời thánh Gioan Tẩy Giả một lần nữa nhắc nhở chúng ta: Phải sám hối và sinh hoa quả là các việc lành. Chúng ta hãy cầu xin ơn Chúa giúp chúng ta xứng đáng đón mừng Chúa đến:
1. Chúng ta cầu nguyện cho Hội Thánh: Đức Giáo hoàng, Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân trong Hội Thánh… Xin cho mọi thành phần Dân Chúa biết nghe lời thánh Gioan mà sám hối, lãnh nhận ơn giao hòa và tích cực cùng nhau chuẩn bị bằng những việc làm thiết thực cho Danh Chúa cả sáng.
2. Chúng ta cầu nguyện cho các Kitô-giáo khác và lương dân: Trong thời gian gần đến ngày Lễ Giáng Sinh, người người đều nao nức chuẩn bị lễ hội bên ngoài, hoặc mua bán những tặng vật, lễ vật Giáng Sinh…; Xin cho mọi người cũng nhờ đó mà đón nhận Ánh sáng Giáng sinh của Chúa cứu độ mọi người.
3. Chúng ta cầu nguyện cho những tín hữu đang phải vất vả vì cuộc sống túng thiếu về vật chất hoặc về tinh thần. Xin cho những tín hữu này đón nhận cuộc sống kham khổ của Gioan Tẩy Giả và thực hành lời dạy của Ngài mà chuẩn bị đón mừng Chúa cứu độ trần gian.
4. Chúng ta cùng cầu nguyện cho hết mọi người trong họ đạo. Xin cho các Linh mục, hàng Quới chức, bậc làm cha mẹ, các giáo lý viên… hướng dẫn mọi người chuẩn bị mọi sự trong ngoài, để mọi người thật sự hân hoan mừng Chúa Giáng Sinh sắp đến.
Kết thúc: Lạy Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng, Chúa đã yêu thương loài người chúng con quá bội, đến nỗi đã ban Con Chúa làm người cho chúng con được ơn cứu độ. Xin Chúa nhậm lời chúng con kêu xin, mà ban Thánh Thần sức mạnh, giúp chúng con sám hối tội lỗi và quyết tâm làm nhiều việc lành phúc đức, để đón mừng Con Chúa đang ngự đến trần gian, là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen
Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy ví dụ như tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Người ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Vì cái chính yếu thì vô hình, ta chỉ nhận thấy được bằng trái tim.
Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu, ví dụ như con người. Khi nhìn một người ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Hiếm khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Nhưng còn linh hồn của người ta thì không ai thấy bao giờ. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.
Đức Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn. Bình thường không ai nhận ra thiên tính của Người, ngay cả các môn đệ luôn kề cận bên Người.
Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra, các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Người. Thần tính vinh quang biểu lộ, rọi sáng vào nhân tính làm cho nhân tính được tôn vinh "Diện mạo của Đức Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng".
Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hy vọng vì nhân tính của Đức Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào cái thế giới tối tăm, tội lỗi, yếu hèn, vào cái thân xác rã rời mệt mỏi của ta.
Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng: Thiên Chúa đang ẩn hình trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của thân thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: "Người ở bên trong, còn tôi ở bên ngoài".
Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải là đi tìm cái ở cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống. Anh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che lấp đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tin Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi của tôi, thì dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nơi tối tăm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa hơn.
Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.
Như thế, sống Mùa Chay chính là bóc hết lớp vỏ tội lỗi để dung nhan Thiên Chúa tỏ hiện rạng ngời nơi tâm hồn tôi. Hành trình Mùa Chay chính là hành trình nội tâm trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa. An chay nghĩa là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nẩy lộc trong các tâm hồn.
Chương trình hành động trong Mùa Chay, là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Đức Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu, sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.
Như thế ta đang cộng tác vào việc biến hình thế giới.
Như thế ta đang bước theo chân Đức Kitô đưa nhân loại vào hành trình Phục sinh.
Lạy Đức Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em.
Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen. Góp Nhặt Đá Cát
Khởi sự Tin Mừng Mátthêu nhìn nhận Đức Giêsu là Con Vua Đavít (1,6-16). Tên của Người là Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu” (1,21) Nhưng người ta còn gọi Người là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Chính Người năng tự xưng là Con Người (11,19; 12,8-)
Mầu nhiệm Đức Kitô phải đánh động ta
Riêng các môn đệ khi được yêu cầu phát biểu ý kiến, đã tuyên xưng “Thầy là Đấng được Xức Dầu Tấn Phong, Con Thiên Chúa hằng sống” (16,16). Điều quan trọng là lời ông Phêrô mới tuyên xưng được chính Đức Giêsu xác nhận là do Thiên Chúa Cha mạc khải (16,17)
Tiếp theo liền sau đó, Đức Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất. Rồi Người nêu điều kiện cho những ai muốn bước theo Người, là họ phải từ bỏ chính mình, phải vác thập giá mình mà theo Người (16,24). Kế đến Đức Giêsu tiên báo “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (16,27). Chính Người liền sau đó, đã lên núi và biến đổi hình dạng như được kể trong bài Tin Mừng hôm nay (17,1-9)
Như vậy, điều được hàm ý là không ngôn ngữ loài người nào có thể nói cho ta biết Đức Giêsu là ai nếu không có sự can thiệp từ trời cao.
Với môn đệ Simon Phêrô, sự can thiệp của Thiên Chúa đã đến với ông qua lời giới thiệu của ông Gioan Tẩy Giả với hai môn đệ của ông này trong đó có người anh ruột của Simon Phêrô, là Anrê. Và ông Anrê này đến lượt đã giới thiệu cho em mình khi nói “Chúng tôi đã gặp Đấng được Xức Dầu Tấn Phong” (Ga 1,41). Tin Mừng Gioan còn cho biết chính việc Đức Giêsu biến nước lã thành rượu ngon tại Cana khiến các môn đệ tin vào Đức Giêsu (Ga 2,11)
Một cách nổi bật, quyền năng của Thiên Chúa còn đụng chạm tới ông Simon Phêrô cách riêng, khi Đức Giêsu chiếu cố đến nhà ông và đụng vào tay bà mẹ vợ của ông, để cho bà ta đang nằm liệt, được chỗi dậy khỏi cơn sốt (8,14)
Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy quyền năng của Đức Giêsu không những cứu các môn đệ khỏi chết giữa biển động (8,25) mà còn đặc biệt cứu Phêrô khi ông bắt đầu chìm nên kêu xin Đức Giêsu cứu ông (14,30)
Nhưng tất cả những trường hợp nói trên cũng chỉ giúp Phêrô nhận ra sự bé nhỏ của mình trước mầu nhiệm vô song của Thiên Chúa hiện diện nơi Đức Giêsu. Phêrô sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu được mầu nhiệm đó, mà chỉ được ban cho ơn hiểu biết từng chút một về bản thân Đức Giêsu và về chương trình cứu độ Ngài đến để thực hiện. Do đó đă xảy ra tình trạng tiền hậu bất nhất nơi Phêrô. Ông được Thiên Chúa Cha mạc khải cho biết Đức Giêsu là ai; hơn nữa Đức Giêsu còn chúc phúc cho ông và gọi ông bằng danh xưng Phêrô do Ngài ban tặng, để ông trở nên Tảng Đá, trên đó Ngài sẽ xây Hội Thánh của Ngài (16,18). Thế mà khi Đức Giêsu tiết lộ chương trình Chúa Cha giao phó cho Ngài là lên Giêrusalem lãnh lấy nỗi chết, để rồi sẽ sống lại, thì Phêrô đã kháng cự lại chương trình đó và đã bị quở trách nặng lời (16,23)
Vấn đề không phải chỉ là Đức Giêsu thực hiện chương trình đó, mà cả Phêrô cũng phải đặt mình để Ngài lãnh đạo theo chương trình đó.
Thực ra, không riêng Phêrô, mà tất cả những ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu đều không có con đường nào khác ngoài con đường vác thập giá mình mà theo Ngài (16,24). Bởi lẽ trò không trọng hơn Thầy, nếu “Đức Giêsu đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (x. 8,17), thì làm sao ta có quyền từ khước vác lấy cây thập giá Ngài dành cho ta để ta theo Ngài?
Nhưng đường thánh giá theo chân Đức Giêsu là đường đưa ta tới vinh quang vì “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm.” (16,27)
Lời khẳng định tiếp theo của Đức Giêsu khi nói: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người hiển trị” (16,28), lời khẳng định ấy cho thấy Nước Thiên Chúa không xa. Nước ấy gắn liền với bản thân Đức Giêsu, Đấng hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, nhưng đến ngày thứ ba sẽ sống lại.
Mầu nhiệm ấy phải lôi cuốn ta
Vậy biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng (17,1-9) là để giúp các môn đệ thấy rõ hơn Ngài là ai theo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ta được đặt đối diện với vực thẳm của mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu - mầu nhiệm ấy phải đánh động ta, lôi cuốn ta, khiến ta say mê! Nhưng chìa khoá để mở cho ta thấy mầu nhiệm lại do chính Đức Giêsu nắm giữ! Một câu chuyện nhỏ có thể giúp ta nhận ra vấn đề vừa nêu.
Tác giả cuốn “Bảy Thói Quen của Những Người Thành Đạt” (The Seven Habits of Highly Effective People. Fireside. New York 1989) là ông Trần Cao Vọng (Stephen R. Covey).
Sáng Chúa Nhật hôm ấy, ông Vọng bước vào toa xe điện ngầm ở Nữu Ước. Ông đặt mình vào bầu khí yên lặng, trong đó người thì đọc báo, người trầm ngâm suy nghĩ, người trầm ngâm suy nghĩ, người lim dim ngủ. Thật là một cảnh an bình.
Bỗng một người đàn ông và các con ông bước vào toa tầu. Bọn trẻ ồn ào, khó bảo, làm cho không khí trong toa tầu thay đổi hẳn.
Ông Vọng kể lại: “Người đàn ông ngồi xuống cạnh tôi, nhắm mắt, hình như không chú ý đến những gì đang xảy ra. Bọn trẻ la hét, ném đồ vật, vồ cả mấy tờ báo của người khác. Chúng quấy phá quá sức, nhưng người đàn ông ngồi cạnh tôi vẫn không làm gì.
Thật khó mà không nổi cáu. Tôi không thể tin rằng ông ta vô tâm đến thế, để cho bọn trẻ chạy loạn lên mà không làm gì cả, choi như không có trách nhiệm. Dễ nhìn thấy những người khác trong toa cũng đều nổi giận. Sau cùng, không thể chịu đựng được nữa, tôi quay sang ông ta và nói: “Thưa ông, bọn trẻ nhà ông quấy đảo quá, ông không bảo chúng được một câu hay sao?”
Người đàn ông ngước mắt như lần đầu tiên biết được tình hình này và nhẹ nhàng nói: “Vâng, thưa ông, ông nói phải. Tôi nghĩ rằng tôi phải làm một cái gì. Vâng, chúng tôi vừa ở bệnh viện ra, mẹ các cháu vừa mất cách đây khoảng một giờ. Tôi không biết nghĩ như thế nào. Tôi cho rằng chúng cũng không biết xử trí ra sao.”
Ông Vọng nói tiếp: “Bỗng tôi nhìn sự vật một cách khác và bởi vì tôi nhìn khác nên tôi cũng nghĩ khác, cảm thấy khác, hành động khác. Cơn giận của tôi biến mất. Tôi không phải lo kiểm soát thái độ hay hành vi của tôi; con tim tôi tràn đầy nỗi đau của người đàn ông ấy. Một thiện cảm và lòng thương dâng lên trong tôi: “Vợ ông mới mất ư? Ồ, xin lỗi! Ông có thể cho tôi biết chuyện được không? Tôi giúp gì được ông đây?” Mọi cái đã thay đổi trong chốc lát.” (ibd., trang 30-31)
Mầu nhiệm phải khiến ta say mê
Cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu là một thị kiến như chính Ngài cho biết (Mt 17,9). Thị kiến ấy mang lại một nhận thức hoàn toàn mới về nhân vật chính trong thị kiến là Đức Giêsu. Trước đó, Ngài chỉ là một người giữa muôn người, lại là người Nadarét nên dễ bị coi thường (x.Ga 1,46). Sau thị kiến, con người ấy còn gặp phải biết bao nỗi gian truân. Ngài bị phản bội, bị bắt, bị vu khống và cuối cùng bị giết chết trơ trụi trên thập giá. Cả sau khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết, không phải thế giới ùn ùn kéo đến để chấp nhận quyền lãnh đạo của Ngài. Nhưng điều quan trọng là từng người phải được hoán cải do nhận thức hoàn toàn mới về con người Giêsu làng Nadarét. Nhận thức ấy do ơn đức tin có thể được tóm tắt như sau:
+ Dung nhan chói lọi gợi ý cho thấy Đức Giêsu là Môsê mới đến để kiện toàn Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa (Mt 5,17).
+ Hai nhân vật Môsê và Êlia đàm đạo (Mt 17,3) về điều mà Luca gọi là “Cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9, 31) vì chính Ngài cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21). Điều này phải làm cho người có nhận thức mới trào dâng một lòng thống hối và tri ân - Khác với ông Vọng chỉ tỏ thiện cảm và lòng thương mà thôi.
+ “Đây là Con yêu dấu của Ta - Hãy vâng nghe lời Người” (17,5). Tùy ở mức lắng nghe Thần Khí của Đức Giêsu nói, ta mới hiểu sâu hơn được về mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và mới được hoán cải để sống hợp với nhận thức mới.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn tâm đắc được gì về câu chuyện xảy ra cho ông Trần Cao Vọng nơi toa xe điện ngầm? Đã bao giờ bạn cảm thấy điều xảy ra tương tự như vậy do nhận thức hoàn toàn mới về đức tin?
2. Bạn tâm đắc được gì về: Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời (c.2)? Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo (c.3)? Đây là Con yêu dấu của Ta… hãy vâng nghe lời Người (c.5)?
Trong cuốn sách tựa đề "Gương Hiếu Thảo", tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng. Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: "Con nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau khỏe". Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên lăng cha cho trọn đạo hiếu.
Khi đề cập đến đạo hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.
Có lẽ trong những quốc gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ..., nơi mà "tứ đại đồng đường", ba bốn đời vẫn ở chung nhau dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?
Lý do là vì nhiều người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: "Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14:26).
Vấn đề được đặt ra là: "Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?"
Điều cần xác minh trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: "ngươi phải thảo kính cha mẹ". Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.
Vậy thì làm sao để lý giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?
Thật ra có gì khó hiểu đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và xây dựng đất nước đó.
Mấy ai lại không biết một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà Vua Giêsu đã truyền dạy.
Mấy ai lại không biết một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: "Mẹ ở nhà con đi làm thánh". Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì con người có tên Giêsu.
Nhưng không phải là ai cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết, hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết, một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý, khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).
Thế thì, một khi nhận thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.
"Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu". Hai nhà đại tiên tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. "Chỉ còn một mình Chúa Giêsu". Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây "mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên". Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.
Thật chí lý thay niềm xác tín của Giáo hội: "Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu"..
"Ngài đã biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng láng như mặt trời, áo Ngài nên trắng phau như ánh sáng".
Tự bản chất con người ai cũng muốn trở nên xinh đẹp; thích tìm kiếm và nhìn ngắm những cảnh đẹp; thích những vật hay những người thuộc về mình cũng đẹp; thích được người ta chiêm ngưỡng vì mình đẹp; và vì thế tìm mọi cách để làm đẹp cho mình và những vật hay những người thuộc về mình.
Người ta đã đầu tư biết bao tiền của, công sức, tài năng và thời giờ để phục vụ nhu cầu làm đẹp và khiếu thẩm mỹ của con người. Sự hiện diện của các ngành thẩm mỹ, du lịch, hội họa, điêu khắc, phim ảnh và kiến trúc đã nói lên lòng khát khao vẻ đẹp nơi con người.
Phải chăng lòng khát khao vẻ đẹp ấy nơi con người cùng với những cố gắng làm đẹp của họ chính là một ơn gọi căn bản gắn liền với bản chất con người?
Tin Mừng hôm nay thuật về việc Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín nhất của Người, và vẻ đẹp của Người đã khiến họ đã ngẩn ngơ chiêm ngắm. Qua cuộc biến hình này, Chúa Giêsu không những tỏ cho chúng ta thấy vẻ đẹp tuyệt vời của Người nhưng còn khơi dậy nơi chúng ta hy vọng sẽ được trở nên xinh đẹp như chính Người.
Nói cách khác, qua biến cố biến hình nầy Chúa Giêsu đã khơi dậy "ơn gọi làm đẹp" trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Điều đáng tiếc là chúng ta bị ảnh hưởng của quan niệm thế gian nên thường dừng lại ở việc tìm kiếm và ngưỡng mộ cái đẹp tự nhiên, cái đẹp bị giới hạn trong phương diện vật chất thể lý chóng qua, mà không thiết tha tìm kiếm và chiêm ngưỡng cái đẹp siêu nhiên, cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của nhân đức, cái đẹp thần thiêng của ơn thánh, cái đẹp sẽ tồn tại mãi mãi. Chính cái đẹp thần thiêng sung mãn ấy là cái đẹp mà Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng và kiếm tìm qua cuộc biến hình trên núi của Người.
Vì được dựng nên giống hình ảnh Chúa, con nguời được chia sẻ cái đẹp của chính Chúa, Cái Đẹp Tuyệt Đối. Tội lỗi-tội tổ tông và tội riêng ta-đã làm lệch lạc và lu mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Lòng khát khao những nét đẹp trong thế giới tự nhiên nơi chúng ta phải là dấu chỉ của lòng khát khao tìm kiếm và chiêm ngưỡng Thiên Chúa và được chia sẻ Cái Đẹp Tuyệt Đối của chính Người.
Chúa Giêsu xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, nghĩa là để giúp chúng ta khôi phục lại hình ảnh tuyệt mỹ của Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta. Khi biến hình trên núi, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ nhận biết Người chính là "phản ảnh của vinh quang, là ẩn tượng" của Thiên Chúa (Heb 1:3).
Cũng theo thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa kêu gọi để "nên đồng hình đồng dạng với hình ảnh Con của Người, để Ngài nên trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc" (Rom 8:29); nghĩa là ta được mời gọi để trở nên xinh đẹp tuyệt vời như chính Chúa Giêsu.
Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự chuẩn bị của Người dành cho các môn đệ. Nhờ đó, họ có thể chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người trên thập tự mà không vấp phạm. Điều này cũng giống như việc các bác sĩ thẩm mỹ chỉnh hình cho các bệnh nhân xem hình vẽ dung mạo xinh đẹp mà họ sẽ có sau khi chữa trị, để họ dễ chấp nhận những tốn kém hay đớn đau phiền toái của quá trình điều trị.
Trong Chúa Giêsu và nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người, tất cả nhân loại chúng ta đã tìm được phương thức lột xác và chỉnh hình để xóa bỏ dung mạo xấu xa ghê tởm vì tội lỗi và khôi phục lại vẻ đẹp siêu việt tuyệt vời của hình ảnh Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta.
Đó là Tin mừng mà Giáo hội muốn công bố cho mọi người qua mọi thời đại.
Bài trích sách Sáng Thế trong phụng vụ hôm nay nói đến việc Abraham được Chúa kêu gọi để từ bỏ quê hương để đi đến miền đất mới Chúa hứa ban với bao phúc lộc, và ông đã ra đi. Qua việc đón nhận niềm tin Công giáo và bí tích Rửa tội, chúng ta đã chấp nhận đi ra khỏi giới hạn của sự khao khát và kiếm tìm những cái đẹp thuần túy vật thể và tự nhiên, để bắt đầu theo chân Chúa Giêsu kiếm tìm, chiêm ngưỡng và thông dự vào vẻ đẹp siêu nhiên thần thiêng của chính Thiên Chúa.
Thánh Phaolô trong thư gửi Timôtê trong bài đọc 2 của Phụng vụ hôm nay cũng đã kêu gọi Timôtê "hãy chung phần cam khổ vì Tin mừng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng cứu thoát ta, và đã ra thánh triệu kêu gọi ta, không chiếu theo các việc ta làm, nhưng là chiếu theo chính dự định và ân sủng Người đã ban cho ta trong Đức Kitô Giêsu, từ trước đời đời hằng có, và nay đã cho hiển hiện nhờ cuộc Hiển linh của Cứu Chúa chúng ta, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã hủy diệt sự chết và chiếu sáng ra sự sống, và sự bất hoại, nhờ Tin Mừng" (1 Tim 1: 8b-10).
Giáo Hội muốn dùng chính những lời này trong Mùa Chay để kêu gọi chúng ta chấp nhận và nỗ lực thực thi những đòi hỏi của Tin mừng để được lột xác biến hình hầu có được vẻ đẹp siêu việt vĩnh hằng của chính Chúa Giêsu.
Trong xã hội hôm nay rất nhiều người chấp nhận tốn kém, kỷ luật và phiền toái như kiêng ăn, uống thuốc, tập thể dục thể thao hay giải phẫu để có được vẻ đẹp mau qua chóng tàn của thân xác. Chẳng lẽ người tín hữu chúng ta lại không dám quyết tâm sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, "ơn gọi làm đẹp" tâm linh sao?
Lạy Mẹ Maria là Mẹ Tuyệt Mỹ, xin Mẹ giúp chúng con luôn khao khát say mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp thần linh của Chúa Giêsu Con Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng con biết chấp nhận và thánh hoá mọi đau khổ trong cuộc sống để Chúa biến đổi chúng con nên "đồng hình đồng dạng" như hình ảnh tuyệt vời của chính Người. Amen.
"Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông" (Mt 17,2)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Lời Chúa hôm Chúa nhựt tuần trước kêu gọi chúng ta chọn lựa: đừng chọn ý riêng nhưng hãy chọn ý Chúa. Lời Chúa hôm nay mời chúng ta hành trình đi theo Chúa: như tổ phụ Abraham, như các tông đồ. Riêng bài Tin Mừng cho thấy nếu ta dám hành trình theo Chúa trên con đường thập giá thì sẽ được cùng Ngài đến vinh quang.
Chúng ta hãy cất bước theo Người.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúa vẫn luôn kêu gọi chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng vì quá bận rộn với những việc trần tục, chúng ta ít khi lắng nghe tiếng Chúa.
- Đi theo Chúa thì phải từ bỏ. Nhưng chúng ta ít quảng đại không dám từ bỏ như lời Tin Mừng mời gọi.
- Nhân chi sơ tính bản thiện. Nhưng do tội lỗi nên chúng ta đã làm cho hình ảnh tốt đẹp ban đầu của chúng ta bị biến đổi ngày càng xấu xa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc Cựu Ước (St 12,1-4a)
Văn mạch xa: 11 chương đầu sách Sáng thế cho biết Thiên Chúa đã tạo dựng loài người, ban cho loài người một cuộc sống hạnh phúc (hình ảnh vườn Eden), nhưng loài người đã chọn lựa sai và phạm tội nên bị đuổi ra khỏi nơi hạnh phúc đó, và tội tiếp tục lan tràn, hậu quả của tội tiếp tục bành trướng, hầu như vô phương cứu chữa. Nhưng từ chương 12, một tia sáng hy vọng loé lên: Thiên Chúa nhớ đến loài người, Ngài chọn tổ phụ Abraham để thực hiện chương trình đưa loài người trở về hạnh phúc ban đầu.
- Tổ phụ Abraham đang sống ở Ur, một cuộc sống an cư lạc nghiệp cùng với bà con, với tài sản.
- Thiên Chúa hiện ra với ông và bảo ông bỏ hầu hết những thứ đó để ra đi.
- Cuộc hành trình này rất phiêu lưu vì Chúa chưa cho biết ông sẽ đi tới đâu. Ông chỉ cần phó thác đi theo sự chỉ dẫn từ từ của Chúa: "Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi".
- Tại sao Chúa bảo thế ? Vì con người vốn có khuynh hướng bám lấy sự an nhàn sẵn có (cụ thể là cuộc sống vật chất, cuộc sống hiện tại - đời này). Thực ra cuộc sống đó không phải là tốt nhất, mà là cuộc sống khổ sở của thân phận bị đuổi khỏi vườn địa đàng. Do đó Thiên Chúa mới bảo Abraham ra đi. Nhìn bằng cặp mắt loài người, đó là một cuộc phiêu lưu bỏ mồi bắt bóng, nhưng thực ra đó là cuộc hành trình rời bỏ nơi khổ sở để trở lại vườn diệu quang.
2. Đáp ca: Tv 32
Đây là tâm tình hoàn toàn trông cậy phó thác vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Tâm tình này rất hợp cho những người đang dấn bước trong cuộc hành trình do Chúa dẫn dắt.
3. Bài Tin Mừng (Mt 17,1-19)
Văn mạch: Phía trước Bài Tin Mừng này (Mt 17,1-9) có câu nói của Đức Giêsu "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Đây cũng là một cuộc hành trình của người làm môn đệ Chúa. Một cuộc hành trình cũng gian khổ và đầy tính phiêu lưu như Abraham xưa. Nhưng bài Tin Mừng Chúa Nhựt này cho ta thoáng thấy một chút về cái tương lai của cuộc hành trình ấy: Đức Giêsu biến hình ra vinh quang. Nghĩa là sau khi qua gian khổ thì sẽ tới vinh quang. Và trong khi Ngài biến hình, có tiếng Chúa Cha từ trời phán "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người". Ý Chúa Cha cho biết Ngài muốn các môn đệ Đức Giêsu cũng hãy dấn thân vào cuộc hành trình của Ngài, và như thế Ngài rất hài lòng, Ngài cũng sẽ cho họ được biến hình ra vinh quang.
4. Bài thánh thư (2 Tm 1,8b-10)
Chẳng những mỗi người phải dám dấn thân vào một cuộc hành trình phiêu lưu theo Chúa, mà còn phải hành trình mang Tin Mừng đến cho người khác. Cuộc hành trình thứ hai này cũng gian khổ, nhưng cũng đáng thực hiện. Bởi thế Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu: "Anh em hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng" (câu 8b).
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Hành trình và phiêu lưu
Muốn đi theo tiếng Chúa gọi, Abraham đã phải bỏ quê hương và những người thân
Muốn đi theo Chúa, các môn đệ phải "từ bỏ mình và vác thập giá hàng ngày"
Để đi loan báo Tin Mừng, các tông đồ phải chịu biết bao gian khổ.
Họ đã bỏ rất nhiều. Bù lại họ được gì ? Abraham nhận được lời Chúa hứa ban cho một dòng dõi đông đảo, các môn đệ được Đức Giêsu cho thoáng thấy vinh quang ở cuối cuộc hành trình, và người tông đồ được hứa "tên các con được ghi trong sổ trời". Tin theo những lời hứa về một tương lai xa vời như thế đúng là phiêu lưu.
Thông thường, người khôn ngoan không nên phiêu lưu, thà giữ lấy cái hiện tại tuy bình thường nhưng chắc chắn, còn hơn bỏ nó để theo đuổi một tương lai chi mới có trong lời hứa. Nhưng đó là lối cư xử giữa loài người với nhau vì loài người thì rất khó tin. Nhưng đối với Thiên Chúa thì rất đáng phiêu lưu như vậy, vì đã có nhiều bằng chứng cho thấy lòng trung tín thực hiện lời hứa của Ngài. Hơn nữa, Ngài có kêu gọi chúng ta từ bỏ để phiêu lưu theo Ngài cũng chỉ vì Ngài muốn đưa chúng ta trở về hạnh phúc thuở ban đầu mà thôi. Thực ra phiêu lưu theo Chúa không phải là phiêu lưu, chỉ cần có đức tin vào lòng trung tín của Chúa là có bảo đảm.
Rất nhiều người đã dám phiêu lưu như vậy: Abraham (2 lần: bỏ quê hương, giết con một), Đức Maria (khi thưa vâng với Thiên thần), các môn đệ (lập tức bỏ thuyền, bỏ lưới và gia đình để theo Đức Giêsu)
Hình ảnh con rùa: nếu nó cứ rụt đầu rút chân vào vỏ thì xem ra an toàn đấy nhưng nó cứ mãi ở lì một chỗ, không bao giờ tiến đến đâu cả. Chỉ khi nào nó dám thò đầu thò chân ra để bước thì, tuy có thể gặp nguy hiểm đấy, có thể bị đau đấy, nhưng có thế nó mới tiến được.
2. Đức tin lên đường
Chuyện tổ phụ Abraham cho ta thấy được điều quan trọng này: đức tin là một cuộc lên đường.
- Tại sao ? Vì "đạo" là đường, con đường Thiên Chúa dẫn dắt để chúng ta từ tối tăm tới ánh sáng, từ cõi chết đến cõi sống. Trong Thánh Kinh, mỗi lần Chúa gọi ai thì Ngài đều bảo họ lên đường đi theo Ngài.
- Mà muốn lên đường thì phải từ bỏ, vì hành trang càng gọn nhẹ thì bước hành trình càng nhanh. Thiên Chúa đã bảo với Abraham: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi".
- Hành trình đức tin luôn bao hàm ý nghĩa phiêu lưu: Abraham hành trình lên đường nhưng không biết mình sẽ đi tới đâu, ông chỉ biết mình đang đi theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa: "đến đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi".
- Rất nhiều tín hữu chỉ lo gìn giữ những tín điều giáo lý và các lễ nghi. Đó chỉ là "giữ đạo" chứ không phải "sống đạo".
3. Cuộc biến hình và cuộc hấp hối của Chúa
Linh mục Mark Link (trong quyển Sunday homilies, Year A) đã so sánh việc Đức Giêsu biến hình và việc Ngài hấp hối:
- Cả hai việc cùng diễn ra trên núi: biến hình trên núi Tabor, hấp hối trên núi Cây Dầu.
- Ở hai nơi, Đức Giêsu đều biến hình: trên núi Tabor Ngài biến từ hình dáng loài người thành hình dáng Thiên Chúa ; trên núi Cây Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa vinh quang thành hình dáng con người yếu đuối. - Hai việc biến hình đều xảy ra lúc Đức Giêsu đang cầu nguyện.
- Và cả hai biến cố này đều xảy ra trước mắt 3 nhân chứng Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Dáng vẻ yếu đuối của Đức Giêsu là hình ảnh của Ađam cũ, còn dáng vẻ uy nghi sáng láng là hình ảnh của Ađam mới. Thân phận của chúng ta cũng thế: Có những lúc chúng ta sốt sắng ngất ngây, như Đức Giêsu trên núi Tabor. Khi ấy chúng ta cảm thấy mến Chúa yêu người quá ; chúng ta muốn ở mãi trong tình trạng ngây ngất đó ; Nhưng rồi lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng, như đang ở núi Cây Dầu. Khi ấy, phần Ađam cũ trong ta nổi dậy mãnh liệt. Chúng ta cảm thấy chán nản, không ai thương mình và mình cũng không muốn thương ai. Hình như Thiên Chúa cũng xa lánh mình.
Nhưng có một chi tiết quan trọng là Đức Giêsu đã luôn cầu nguyện trong cả hai biến cố đó. Chính sự cầu nguyện đã liên kết thống nhất 2 phương diện ngược hẳn nhau trong cùng một con người của Ngài.
Mark Link đã kết thúc bài suy gẫm của mình bằng lời kinh sau đây (dịch thoáng):
Lạy Thiên Chúa, xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Đức Giêsu trên núi Tabor. Trong những lúc đó xin cho con biết làm như Đức Giêsu xưa: con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện, và con sẽ được nghe lời Chúa nói "Con là con yêu dấu của Cha".
Lạy Thiên Chúa, khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Đức Giêsu xưa: con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con. Amen"
4. Mảnh suy tư
a/ Biến hình Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có hai: biến hình nên tốt hơn và biến hình thành xấu hơn, tuỳ vào tác nhân gây nên sự biến hình ấy.
Trong các môn đệ Đức Giêsu, Gioan là thí dụ của lối thứ nhất và Giuđa là thí dụ của lối thứ hai.
Những tác nhân ảnh hưởng giúp biến hình nên tốt là những gì ta yêu, những gì nâng tâm hồn ta lên cao, những gì làm ta thức tỉnh, những gì kêu gọi ta bước tới, những gì mở rộng cửa lòng ta ra…
b/ Hiếu động
Phêrô là một con người hiếu động, luôn cần làm một cái gì đó.
Trên núi biến hình, thay vì thinh lặng chiêm ngưỡng, ông lại muốn dựng 3 chiếc lều.
Không phải mọi thời trong cuộc sống đều phải dùng để làm một cái gì đó.
Có thời phải yên tĩnh
- để nghỉ ngơi - để suy nghĩ - để lắng nghe - để kinh ngạc - để chiêm ngưỡng - để tôn thờ
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Hôm nay Đấng Cứu độ chúng ta tỏ vinh quang Người cho ba môn đệ được thấy. Chúng ta hãy tôn vinh Người và tin tưởng cầu xin.
1- Trước khi chịu khổ hình Thập giá / Đức Kitô đã tỏ vinh quang cho các môn đệ được thấy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian / được nhìn thấy vinh quang trong Thánh giá / và tin thật Chúa đã chiến thắng khải hoàn.
2-ABC Mỗi ngày qua màn ảnh truyền hình / qua báo chí / chúng ta chứng kiến biết bao đau khổ trong cuộc sống / đau khổ vì thiên tai / vì chiến tranh / vì sự độc ác của người khác / đau khổ do bệnh tật / do quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho những anh chị em đang gặp thử thách / một niềm tin yêu và hy vọng để vui sống.
3- Ước mơ tha thiết của con người ở mọi thời đại / là được sống hạnh phúc / mà thái độ của Thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay là một ví dụ điển hình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người / đều tìm được hạnh phúc trong đời sống riêng tư của mình.
CT: Lạy Chúa, Đức Giêsu Kitô Con Chúa đã chuẩn bị cho các tông đồ khỏi hoang mang trước mầu nhiệm thập giá, nhưng luôn vững tin vào sự tất thắng của Người. Xin cũng ban cho chúng con một niềm tin sắt đá, để chúng con có thể đứng vững trước mọi giông tố phũ phàng của cuộc đời. Chúng con cầu xin…
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta được Thiên Chúa nhận làm con. Vậy trong tâm tình hiếu thảo, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh lạy Cha do chính Đức Giêsu đã dạy.
- Trước lúc Rước lễ: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng làm biến đổi cuộc sống chúng ta khi xoá tội lỗi trần gian. Phúc cho ai được mời đến…"
VII. GIẢI TÁN Anh chị em đã được biến hình nên giống Đức Giêsu. Anh chị em hãy ra về bình an và tỏa chiếu ánh sáng Đức Giêsu cho mọi người chung quanh.
Tất cả chúng ta đều có những giây phút nhìn thấy vinh quang của thế giới tương lai, phía bên kia những bóng tối của trần gian này.
Trong quyển sách nhan đề The Golden String (Sợi dây vàng). Văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một thời kỳ đáng nhớ khi ông còn là một cậu học sinh. Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ra ngoài dạo chơi. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng chim hót mới hay ho làm sao. Cậu ngạc nhiên tại sao trước đây mình chưa bao giờ được nghe chúng hót hay như thế. Trong lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy một vài bụi táo gai đang nở trông thật dễ thương và đang toả ngát mùi hương thơm dịu dàng trong không khí. Bede lại ngạc nhiên tại sao trước đó cậu không hề nhận ra vẻ đẹp và hương thơm của chúng. Cuối cùng cậu đi tìm một sân chơi. Ơ đây mọi vật đều yên tĩnh. Trong khi đứng đó ngắm nhìn mặt trời từ từ lặn khuất xuống chân trời, cậu bỗng nghiêng mình quì xuống trên mặt đất; giống như cậu đang cảm nghiệm được sự hiện diện rất gần gũi của Chúa bên cạnh mình. Griffiths viết:
"Bây giờ khi nhìn lại lúc ấy, tôi cảm thấy hình như đó là một trong những biến cố có tầm quyết định trong cuộc đời tôi". Griffiths nói rằng cho mãi đến lúc ấy, cậu chỉ là một học sinh bình thường, bằng lòng với thế giới hiện có chung quanh. Giờ đây cậu đã nhìn thấy thế giới này một cách hoàn toàn mới mẻ. Nói theo lời thi sĩ Wordswoth, cậu ta đã nhìn thế giới ấy với "Vẻ vinh quang tươi mát đầy mộng mơ".
Kinh nghiệm của Bede Griffiths giúp chúng ta thoáng thấy được những gì mà Peter, James và John cảm nghiệm được vào buổi chiều hè cách đây hai ngàn năm. Khi Chúa Giêsu biến hình trước mắt họ. Đó cũng là một giây phút quyết định trong cuộc đời họ. Trước thời điểm ấy, ba Tông Đồ này đã nhìn thấy Chúa Giêsu theo cách thức bình thường mỗi ngày, giờ đây họ bắt đầu nhìn thấy Ngài trong một viễn cảnh hoàn toàn mới mẻ. Họ bắt đầu nhìn thấy Ngài với "Vẻ vinh quang tươi mát đầy mộng mơ".
Giống như điều Bede Griffiths từng cảm nghiệm được trong thời niên thiếu, thánh Phêrô cũng chẳng bao giờ quên được cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Nhiều năm về sau, trong lá thư thứ hai của Ngài, Thánh Phêrô đã diển tả lại cảm nghiệm ấy như sau:
"Chính mắt chúng tôi đã nhìn thấy sự cao cả của Ngài, chúng tôi đã có mặt lúc Ngài được Chúa Cha trao ban cho đanh dự và vinh quang, khi có tiếng phán cùng Ngài, tiếng nói phát xuất từ sự vinh quang tối thượng: "Đây là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng". Chính chúng tôi đã nghe được lời này vang xuống từ trời khi chúng tôi cùng ở với Ngài trên núi thánh (2Pr 1: 16-18).
Tất cả chúng ta đều có thể hiểu được cảm nghiệm của thánh Phêrô trên đỉnh núi cũng như cảm nghiệm của cậu bé Bede Griffiths. Tất cả chúng ta đều đã từng có những cảm nghiệm tương tự như thế trong cuộc sống của mình. chúng ta từng cảm nghịêm được những lúc trong chớp nhoáng. Chúng ta dường như thoáng nhìn thấy một thế giới ở bên kia thế giới này. Nhà tâm lý học Abraham Maslon gọi những lúc thấu thị như thế là "những khoảnh khắc cao điểm". Đây là những lúc khoảnh khắc chớp nhoáng mà chúng ta thấy đựơc một điều phi thường bên kia những biến cố bình thường. Đấy là những giây phút biến hình khiến Peter, James và John bị choáng ngợp trước ý thức kỳ lạ về sự hiện diện của Thiên Chúa, và nếu những khoảnh khắc này xảy đến mà chúng ta biết chăm chú lắng nghe, chúng ta cũng sẽ nghe được tiếng nói từ trời phát ra: "Này là con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng. Hãy nghe lời Ngài!".
Rủi thay chúng ta lại chẳng biết chu tất những cảm nghiệm này từ đầu đến cuối. Rủi thay chúng ta lại còn quên cả lúc chúng xảy đến cho chúng ta nữa! Hoặc đáng tiếc hơn nữa, khi càng lớn tuổi, chúng ta lại càng ít dạo bước ra ngoài trời nhìn ánh hoàng hôn hoặc không còn leo lên núi để tìm gặp những cảm nghiệm như thế. Bede Griffiths đã nêu rõ điểm này trong quyển sách của ông. Ong viết:
"Có lẽ ít có người nào chưa từng có được một cảm nghiệm giống như thế vào một lúc nào đó trong cuộc đời, nhưng họ thừơng hay dễ dàng để cho cảm nghiệm ấy trôi đi…. Thế giới quanh ta lại trở về với dáng vẻ bình thường và thị kiến ấy vội vàng bị xoá đi mất".
Thực sự là Chúa Giêsu sống lại vẫn thường xuyên cho chúng ta thấy sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta. Nhưng chúng ta lại quá bận rộn đển nỗi chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta quá bận rộn đến nỗi chẳng có thời gian dừng lại để tìm kiếm Ngài.
Bài Phúc Am hôm nay đề cập với chúng ta về tình trạng này và nhắc lại cho chúng ta ý thức Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài đã sống lại và muốn biểu lộ chính Ngài cho chúng ta qua gia đình, qua con cái chúng ta, qua thiên nhiên vạn vật, qua việc chúng ta tụ họp nơi đây vào mỗi chủ nhật. Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta tìm kíêm Chúa Giêsu không chỉ trong những biến cố khác thường của cuộc sống, mà còn trong những biến cố rất đỗi bình thừơng. Chúa Giêsu hiện diện khắp nơi trong thế giới chúng ta. Chúa Giêsu muốn chúng ta tìm kiếm Ngài. Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta chỉ cần ngước mắt là nhìn thấy. Đây chính là sứ điệp và cũng là lời mời gọi của bài Phúc âm hôm nay.
Năm 1613, có người đàn ông nọ tên là Fra Giovani có viết những giòng sau:
"Sự ảm đạm trong thế giới này chỉ là một chiếc bóng. Đàng sau chiếc bóng ấy là niềm vui nằm trong vòng tay của chúng ta. Chúng ta có thể thấy được nét rạng rỡ và vinh quang ngay trong bóng tối, miễn là chúng ta biết nhìn. Chúng ta chỉ cần nhìn thôi. Vậy tôi xin anh chị em hãy nhìn đi. Tất cả những gì chúng ta gọi là thử thách, là sầu khổ đều ẩn chứa một ân huệ - anh chị em cứ tin tôi đi - và trong đó còn chứa đựng sự hiện diện của Thiên Chúa bao trùm trên chúng ta. Và niềm vui của chúng ta cũng vậy, cũng ẩn giấu ơn thánh hoá của Chúa trong đó".
Để kết thúc, chúng ta hãy lặp lại lời kinh nhập lễ hôm nay vì Lời Kinh này tạo nên câu kết luận phù hợp với sứ điệp của bài Phúc âm hôm nay. Xin anh chị em cùng yên lặng hiệp ý với tôi:
"Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con đón nhận Lời Ngài và xin giải thoát chúng con khỏi bức màn tăm tối nguyên thuỷ che khuất ánh nhìn của chúng con.
Xin hãy phục hồi nguồn sáng cho chúng con
Để chúng con được nhìn ngắm Con Ngài".
Chúng con cầu xin nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.