Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 351-400 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Tâm sự của ngôi sao. Người ta hay gọi tôi là ngôi sao lạ. Chúa cho tôi xuất hiện trên bầu trời HiểnLinh ABC351
Tâm sự của ngôi sao. Người ta hay gọi tôi là ngôi sao lạ. Chúa cho tôi xuất hiện trên bầu trời cách đây hai ngàn năm. Chúa trao cho tôi một sứ mạng đặc biệt, đó là dẫn đường cho các nhà chiêm tinh ở vùng Ba-tư, để họ đến gặp Đấng Cứu độ của dân Do-thái ở Israel. Sự xuất hiện của tôi đã lôi kéo sự chú ý của họ. Một vì sao mới xuất hiện rạng ngời rực rỡ Được coi là dấu hiệu cho sự chào đời của một bậc đại vương. Tôi là ngôi sao lạ được Thiên Chúa sử dụng. Xin đừng hỏi làm sao tôi có thể dẫn các nhà chiêm tinh đi trên đoạn đường cả ngàn cây số để đến đất Israel. Khi đến thánh đô Giêrusalem thì tôi dừng lại, biến mất. Tôi muốn họ có thời giờ để hỏi thăm và báo cho nhà vua. Và khi vua Hêrôđê sai các nhà chiêm tinh đi Bêlem, thì tôi lại xuất hiện, tiếp tục đi trước họ, dẫn đường, Và tôi chỉ dừng lại khi đến tận căn nhà của Hài Nhi. Như thế là nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất. Con người hôm nay hay hỏi xem tôi là ngôi sao gì mà lạ thế! Đúng tôi là ngôi sao sáng trên trời cao, nhưng ánh sáng của tôi thật ra không ở trên, mà ở trong, chiếu soi và hướng dẫn tâm trí con người gặp Chúa. Ai trong các bạn cũng có một ánh sao như thế trong lòng! Chỉ để ý một chút là thấy ngay. Tâm sự của Hêrôđê Cả, vị vua đang ở tại Giêrusalem. Vào những năm cuối đời, tôi có nhiều nỗi sợ và hoang tưởng. Tôi sợ mình sẽ không được tiếp tục làm vua. Tôi muốn giết tất cả những ai có thể đụng đến ngai vàng của tôi. Và thực sự tôi đã giết bà vợ người Do-thái và ba đứa con trai. Hôm nay tôi vừa bối rối, vừa nổi giận, khi có những nhà chiêm tinh đến từ vùng Ba-tư xa xôi để nói về sự chào đời của một vị vua Do-thái mới sinh nào đó. Nguy quá, như thế là ngai vàng của tôi bị đe dọa rồi. Tôi muốn biết rõ vị vua ấy sinh ra ở đâu. Các thượng tế và kinh sư đã cho tôi biết: đó là Bêlem. Tôi đã giả vờ sai họ đi trước đến Bêlem, để nhờ thông tin của họ, tôi có thể giết ngay vị vua mới sinh này. Nhưng kế hoạch của tôi có thành không? Tâm sự của các nhà chiêm tinh dân ngoại. Chúng tôi là những người có học thức cao, có chuyên môn. Đối với chúng tôi, bầu trời như cuốn sách được mở ra. Chúng tôi dễ dàng đọc thấy những điều thú vị trong đó. Khi thấy ngôi sao lạ, chúng tôi quyết định lên đường, với lễ vật, vì tin thế nào mình cũng gặp được một vị đại vương. Bất chấp đường xa ngàn dặm, với bao hiểm nguy vất vả, chúng tôi vẫn bị thôi thúc và háo hức tiến bước, có ánh sao trên đầu dẫn lối, và ánh lửa trong tim chiếu soi. Khi ngôi sao dừng ở Giêrusalem, chúng tôi tưởng đã đến nơi. Nhưng cần có mặc khải của Kinh Thánh, chúng tôi biết Bêlem mới là nơi mình phải đến. Ngôi sao lại xuất hiện và dẫn đường khiến chúng tôi vui quá đỗi. Thật ngỡ ngàng khi ngôi sao dừng lại ở một ngôi nhà đơn sơ, không phải là hoàng cung cao sang với tiền hô hậu ủng. Nơi đây có một người mẹ bên một Hài Nhi còn thơ dại. Vì tin đây là Đấng mà ngôi sao đã dẫn đường chỉ cho, chúng tôi sấp mình xuống, cung kính bái lạy, và dâng lễ vật. Chúng tôi không chỉ tin đây là Đấng Cứu độ của người Do-thái, mà còn tin đây là Đấng Cứu độ của cả thế giới. Tâm sự của Thiên Chúa Cha. Phải làm sao để mọi người nhận biết Con của mình được sai đến. Cách đây hai ngàn năm, ngôi sao lạ đã mời gọi lôi cuốn dân Ba-tư. Bây giờ phải tìm những dấu lạ mới, những ngôn ngữ mới, hấp dẫn, để con người hôm nay đọc được, hiểu được, và tin vào Chúa Con. Nhờ thông thạo khoa chiêm tinh mà người xưa gặp được Chúa Con, ngày nay, mọi khoa học, mọi thứ hiểu biết, phải là những con đường dẫn con người đến gặp Thiên Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến, Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Thánh Tê rê sa Calcutta.
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương HiểnLinh ABC352
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không? 2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không? 3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
Lễ Hiển Linh diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Ngày xưa lễ này còn được HiểnLinh ABC353
Lễ Hiển Linh diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Ngày xưa lễ này còn được gọi là lễ Ba Vua. Lễ Hiển Linh được cử hành rất long trọng ở Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ Đông Phương, tương tự như lễ Giáng Sinh bên Giáo Hội theo nghi lễ Latin (Tây Phương).
1. Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân tộc Do Thái
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã gọi Abraham, đã hứa cho ông có con cháu được đông như sao trên trời như cát dưới biển. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Do Thái là dân riêng của Ngài qua giao ước trên núi Sinai. Qua lịch sử dân Do Thái, người ta nhận ra Thiên Chúa thương dân tộc này một cách đặc biệt, Ngài can thiệp vào lịch sử của dân này qua việc sai gởi các thẩm phán, các vị vua thiên sai, các tiên tri tới với dân để chăm sóc và dạy dỗ dân nhân danh Ngài.
Người Do Thái khi nhận biết họ là dân riêng của Thiên Chúa, thường gọi những dân tộc khác là dân ngoại. Khách quan mà nói, dân Do Thái đáng tự hào vì Thiên Chúa đã tuyển chọn họ, làm họ thành dân tư tế của Thiên Chúa, nghĩa là, dân tộc làm trung gian giữa Thiên Chúa và các dân tộc khác cũng như toàn thể nhân loại. Họ là dân tộc mà Đức Kitô thuộc về, và là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả con người.
Hôm nay, Lời Chúa trong sách tiên tri Isaya cho thấy một cái nhìn mới. Thiên Chúa xuất hiện như ánh sáng bùng lên trong bóng tối. Muôn dân tiến về Yêrusalem dâng tiến lễ vật lên Thiên Chúa. Muôn dân cũng được tôn thờ Thiên Chúa, và như vậy, được trở thành con dân Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng đối với dân ngoại mà tiên tri Isaya đã loan báo thời Cựu Ước. Thánh Phaolô cũng lập lại điều này thời Tân Ước: “trong Đức Kitô Yêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Nhờ Đức Kitô, các dân tộc khác cũng được ngang hàng với dân Do Thái.
2. Thiên Chúa tỏ mình qua những trung gian
Qua ngôi sao, Thiên Chúa tỏ mình cho các nhà đạo sĩ, những nhà thông thái bên Đông Phương, để họ nhận biết Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng mọi phương tiện để tỏ mình cho con người, qua những công việc mà người ta đang làm. Những nhà chiêm tinh nhìn ngắm trăng sao, và qua đó họ gặp gỡ được Thiên Chúa. Các nhà đạo sĩ này là những người tốt. Họ đã làm như họ hiểu biết. Họ đã bỏ mọi công việc để đi tìm Đấng Thiên Chúa tỏ lộ cho họ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hướng dẫn họ qua ngôi sao, sau khi họ đã cố gắng làm hết sức đi tìm Đấng đó nơi những con người, cụ thể nơi Hêrôđê và dân tộc Do Thái. Thiên nhiên có thể là những dấu chỉ và trung gian giúp con người nhận biết Thiên Chúa.
Qua các nhà đạo sĩ, Thiên Chúa đã tỏ mình cho vua Hêrôđê và dân chúng ở Yêrusalem. Tuy nhiên, những người này không có thiện chí và không có ao ước như ba nhà đạo sĩ. Họ chỉ xôn xao, bàn tán, và mọi chuyện lại như thường. Riêng Hêrôđê, ông sợ em bé mới sinh sẽ chiếm đoạt ngai vàng, nên đã thu thập thông tin nơi các đạo sĩ, không phải để đến kính viếng như ông nói với các đạo sĩ, nhưng để có thể tru diệt em bé “trời định” này. Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng con người không đủ thiện tâm và quảng đại để đi tìm và đón nhận Ngài. Con người cũng thường là trung gian và dấu chỉ để Thiên Chúa nói với những người khác. Tuy nhiên, con người tự do đón nhận mặc khải của Thiên Chúa hay không.
Qua công việc bổn phận, Thiên Chúa vẫn đang tỏ mình cho tất cả mọi người. Ngài có thể tỏ mình cho họ ngay trong công việc mỗi người đang làm. Những công việc này có thể là những công trình khoa học nhằm giúp ích lợi cho con người, cũng có thể là những công việc tầm thường nhằm phục vụ ích lợi của tha nhân như công tác vệ sinh nơi công cộng. Chính Thiên Chúa đi tìm con người và tìm mọi cách để tỏ mình cho con người.
3. Bình an dưới thế cho người thiện tâm
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, là dân tư tế, là dân Thiên Chúa chọn để Thiên Chúa nói với toàn thể các dân tộc rằng, Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Một khi con người nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương dân Do Thái, và nhận biết Thiên Chúa yêu thương các dân tộc khác như dân Do Thái, thì họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người vô cùng.
Những người Do Thái ở Yêrusalem chưa chắc đã tốt hơn ba nhà đạo sĩ, biểu trưng cho những người thuộc các dân tộc khác. Ba vị đạo sĩ này đã vượt đường xa ngàn dặm để đi tìm biết Đấng trời cao loan báo qua ngôi sao, trong khi những người Do Thái vẫn thờ ơ trước tin “mừng” các nhà đạo sĩ mang lại. Qua biến cố này, người ta nhận ra những người Do Thái không được coi thường các dân tộc khác, không được nghĩ rằng Thiên Chúa là của riêng họ và những dân tộc khác là dân ngoại. Cũng tương tự vậy, các Kitô-hữu không được coi thường những người không là Kitô-hữu, vì có thể những người này cũng được Thiên Chúa tỏ lộ cho họ ngang qua những “vì sao” khác với những gì Thiên Chúa đã tỏ lộ cho dân Do Thái và Kitô-hữu. Về khía cạnh cá nhân, có những người không là Kitô-hữu tốt hơn một số người mang danh Kitô-hữu; chẳng hạn, các nhà đạo sĩ đã mở lòng đón nhận Thiên Chúa hơn vua Hêrôđê và những cư dân tại Yerusalem.
Dân Do Thái xác tín họ là dân riêng của Thiên Chúa, là dân tộc tư tế. Kitô-hữu cũng xác tín mình là những người được Thiên Chúa yêu thương qua việc nhận biết Đức Yêsu là Đấng Thiên Sai và là Thiên Chúa nhập thể. Tuy vậy, không gì cấm cản Thiên Chúa tỏ mình cho những dân tộc khác và những người khác không phải là Do Thái và Kitô-hữu, như xưa Ngài đã tỏ mình cho ba vị đạo sĩ. Thuộc dân tộc Do Thái hoặc là Kitô-hữu chưa đủ để bảo đảm rằng một người là người tốt, hoặc tốt hơn những người không là Do Thái hoặc Kitô-hữu. Thiên Chúa không đứng về phe phái của bất cứ ai. Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Mọi người đều là dân của Ngài, và Ngài yêu thương tất cả con dân Ngài. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, những người không là Kitô-hữu có được cứu độ không? Tại sao? 2. Đâu là điểm khác biệt chính yếu giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác? 3. Theo bạn, Thiên Chúa có yêu thương một Kitô-hữu hơn một người không là Kitô-hữu không? Tại sao? 4. Dân tộc Việt Nam biết Đức Kitô từ khi nào? Tổ tiên cha ông chúng ta trước thời đó có được cứu độ không? Tại sao?
Trong những thập niên đầu tiên, Giáo Hội đã mừng lễ Chúa Hiển Linh thay vì Lễ Chúa Giáng Sinh HiểnLinh ABC354
Trong những thập niên đầu tiên, Giáo Hội đã mừng lễ Chúa Hiển Linh thay vì Lễ Chúa Giáng Sinh. Ngày nay, Giáo Hội phương đông vẫn chọn ngày Lễ Chúa Hiển Linh là ngày lễ chính của Mùa Giáng Sinh. Việc coi trọng và mừng cách đặc biệt lễ Chúa Hiển Linh vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong Giáo Hội của chúng ta. Chẳng hạn ở Tây Ban Nha, lễ Chúa Hiển Linh được mừng rất trọng thể với những cuộc rước lớn có hóa trang; và đặc biệt hôm nay người ta mới tặng quà Giáng Sinh cho nhau, bởi vì hôm nay, hài nhi Giêsu, sau khi sinh ra được 12 ngày, mới nhận được quà của người ta, nghĩa là của các đạo sĩ!
Lễ Chúa Hiển Linh phải là một lễ lớn, bởi vì biến cố Ngài sinh ra đã là một niềm vui, nhưng niềm vui này vẫn chưa trọn vẹn khi chưa được thật nhiều người biết đến. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này trong cuộc sống: dù mình có là ai, hay dù người kia có là ai, nếu chưa được người khác nhận biết, thì cũng như không! Và đó cũng chính là ý nghĩa của từ ngữ “hiển linh” (Épi-phanie, trong tiếng Hi-lạp), có nghĩa là xuất hiện, hiển hiện cho mọi người nhận biết.
Ngày lễ Hiển Linh, là ngày Chúa tỏ mình ra cho mọi dân tộc được nhận biết. Nhưng đây mới chỉ là biến cố khởi đầu; bởi vì, Chúa sẽ chỉ được thực sự được nhận biết bởi cả loài người bằng mầu nhiệm Vượt Qua, chết và phục sinh. Một trong ba quà tặng, là mộc dược loan báo mầu nhiệm Thương Khó của hài nhi Giêsu.
* * *
Thánh sử Mát-thêu, trong sách Tin Mừng của mình, nhấn mạnh cách đặc biệt đến vai trò của thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể (x. Mt 1, 1-25). Nhưng tại sao trong trình thuật Hiển Linh quan trọng này, từ đầu đến cuối, thánh sử lại không nhắc đến sự hiện diện của Thánh Cả?
Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
(c. 11)
Xem ra cũng thật là kì lạ! Khi có quà (vàng, nhũ hương và mộc dược), thì “người ta” không nhắc tới Thánh Giuse; nhưng khi có việc, Thánh Giuse của chúng ta lại được nhắc tới, và được nhắc tới lúc ngài đang ngủ ngon!
Này ông Giuse, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập!
(c. 13)
1. “Vì Sao của Người” (c. 1-2)
Có “mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông”, nghĩa là từ phía chúng ta, Đất Nước Việt Nam; vì thế hành trình của họ nói về chúng ta, mời gọi chúng ta và đại diện cho chúng ta. Họ còn được gọi là đạo sĩ, vì họ thường làm tư tế và cố vấn cho các vua. Vì thế, chúng ta được mời gọi nhìn ra mọi dân tộc ngang qua hình ảnh các đạo sĩ. Chúng ta hãy hình dung ra và chiêm ngắm hành trình của các ông: để đi tìm Chúa, họ cần đến nhau như thế nào, họ cần vượt qua những khó khăn, ngăn trở hay thử thách nào?
Thật vậy, hành trình đi tìm Chúa của các đạo sĩ vất vả biết bao, bởi vì các ông phải vượt qua rất nhiều trở ngại: phải lìa bỏ quê hương, đến nơi thật xa và lạ, đối diện với những khác biệt về ngôn ngữ văn hóa, ngôi sao dẫn đường lúc ẩn lúc hiện, bị lạc đường, phải hỏi thăm nhưng lại hỏi thăm lầm người, bị lừa dối…; và chúng ta còn có thể hình dung ra biết bao khó khăn khác nếu chúng ta đặt mình vào hành trình của các đạo sĩ. Như các đạo sĩ, chúng ta được mời gọi khao khát đi tìm gặp Chúa, nhất là trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay dâng hiến; và trong hành trình đi tìm Chúa, chúng ta cần đến nhau và cần đến Ngôi Sao dẫn đường biết bao, nghĩa là cần đến Ánh Sáng Lời Chúa, Ánh Sáng Tin Mừng, Ánh Sáng Ngôi Lời Sáng Tạo soi dẫn.
Và họ không thể hiệp nhất và cùng đi về một hướng nếu không có “Vì Sao”. Chúng ta hãy chiêm ngắm “Vì sao của Người” và xin Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được hết ý nghĩa, vì có tầm quan trọng đặc biệt giúp chúng ta hiểu Đức Ki-tô sâu hơn và rộng hơn:
* “Vì sao” xuất hiện trên trời cao và bên phương Đông, nghĩa là ở nơi các dân tộc xa xôi. Như thế, Biến cố sinh ra nhỏ bé và nghèo hèn, nhưng lại có liên quan đến sáng tạo và các dân tộc xa xôi, ngang qua sự hiện diện của “Vì Sao”.
* “Vì sao của Người”, không chỉ là hiện tượng thiên nhiên, nhưng còn là Logos, nghĩa là trật tự, hài hòa, vẻ đẹp, sinh động trong công trình sáng tạo, đã được bày tỏ cho các dân tộc ở rất xa rồi (x. Rm 1)
* “Vì Sao của Người” không chỉ hiện diện trong sáng tạo nhưng còn trong văn hóa, niềm tin và những gì tốt đẹp nơi con người, ngang qua những giá trị nhân bản và thiêng liêng.
Như thế, Ngôi Lời trong sáng tạo, trong các nền văn hóa và Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể là một (x. Tv 19, 5 và Rm 10, 18). Nhận ra “vì sao của Người” hiểu như trên, sẽ dẫn người ta đến với Đức Giê-su Nazareth. Và đó chính là hành trình của các nhà chiêm tinh, của con người hôm nay và của chúng ta hôm nay.
Tuy nhiên, tước hiệu “Đấng Ki-tô” (c. 4) và nhất là tước hiệu “Vua dân Do Thái” (c. 2) đã loan báo mầu nhiệm Thương Khó rồi, nghĩa là cách thức Người trở nên và là Vua của Dân Do Thái và của cả loài người, cách thức Người bày tỏ căn tính thần linh của Người là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Thật vậy, người ta sẽ lên án tử Người, khi Người nhận mình là “Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa” (x. Mt 26, 63); và tước hiệu “Vua dân Do Thái” (x. Ga 19, 19-22) sẽ gắn liền mãi mãi với Thập Giá Đức Ki-tô (INRI: Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum, nghĩa là “Giê-su Nazareth Vua Người Do Thái”). Ngang qua biến cố sinh ra, lớn lên và chịu thương khó, chúng ta nhận ra cách Ngài làm Vua, đó không phải là cách thức của con người, cụ thể là cách thức của Vua Hê-rô-đê, nhưng là cách thức của Thiên Chúa.
2. Vua Hê-rô-đê và mầu nhiệm Thập Giá (c. 3-8)
Ngôi Lời Thiên Chúa đến với thế giới loài người cách âm thầm, khiêm tốn và đơn sơ đã làm cho người Do thái, mà các thượng tế và kinh sư là đại diện, dửng dưng, cho dù họ có cả lịch sử cứu độ được ghi chép thành Sách Thánh, loan báo Đấng Mêsia. Nhưng điều kì lạ là, những người ở phương xa thì tìm kiếm và đơn sơ nhận biết Chúa, khởi từ những dấu chỉ xa xôi và gián tiếp. Điều này có thể chất vấn chúng ta, là những người được Chúa ban cho rất nhiều ơn huệ và dấu chỉ để nhận biết, thờ lạy và ca tụng Chúa.
Nhưng điều kì dị nhất, đó là Đấng Cứu Thế đến hiện diện nhỏ bé, khiêm tốn và hiền lành, nhưng lại làm bật lên sự ghen ghét và ý muốn loại trừ bằng bạo lực. Vì trái với nhân tính, nên ghen ghét và bạo lực phải được che đậy bằng vẻ bề ngoài thiện ý: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Vẻ bề ngoài giả dối và sẽ đạt tới tột đỉnh nơi cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô.
Vua Hê-rô-đê đại diện cho quyền bính xã hội, các thượng tế và kinh sư cho quyền bính tôn giáo. Hai quyền bính sẽ có mặt và đi tới cùng ý định loại trừ Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó. Đó là những điều kì lạ và kì dị. Nhưng điều kì lạ nhất là, một đàng, Chúa vẫn cứ để mọi sự đi tới cùng, đàng khác, mọi sự vẫn cứ ứng nghiệm lời Kinh Thánh, nghĩa là lịch sử cứu độ không thất bại, nhưng vẫn được hoàn tất. Trong trình thuật Hiển Linh, chúng ta nhận ra rằng, Chúa vẫn dẫn dắt lịch sử, vẫn hiện diện trong các biến cố ngang qua việc “báo mộng”, cho các nhà chiêm tinh và nhất là cho Thánh Giuse.
3. Vì Sao và Hài Nhi (c. 9-12)
Chúng ta hãy chiêm ngắm sự tương hợp giữa “Vì Sao”, với những ý nghĩa chúng ta đã nhận ra, và “Hài Nhi bọc tã nằm trong máng cỏ”. Và khi cầu nguyện với trình thuật Hiển Linh, chúng ta còn được mời gọi chiêm ngắm cách Chúa làm cho mình được nhận biết. Khi sinh ra, để cho muôn dân được nhận biết, Chúa không chọn một hoàng tộc đang trị vì, không chọn sinh ra ở thủ đô hay trong một thành phố lớn, không chọn sinh ra trong cung điện; Chúa không tự làm cho mình lớn lên như thổi như một em bé đầy quyền năng và uy thế. Vậy, chúng ta hãy trở lại với hang đá, để chiêm ngắm hài nhi Giêsu “được bọc tã, nằm trong máng cỏ” và đang thiếp ngủ, bên cạnh có Đức Mẹ và Thánh Giuse thật bình dị như bao người cha và người mẹ khác.
Các đạo sĩ từ xa vượt qua biết bao nhiêu khó khăn và cuối cùng tìm thấy một khung cảnh như thế đó. Như thế đó, nhưng các ông đã sấp mình thờ lạy và dâng tặng cho Chúa những gì cao quí nhất của chính mình và diễn tả tâm tình tôn thờ và chúc tụng. Chúng ta hãy hình dung ra các nhà chiêm tinh sấp mình thờ lạy Người, và dâng tiến vàng, nhũ hương và mộc dược. Các quà tặng đã nói lên con đường Ngài sẽ đi: Ngài được trao ban vương quyền vĩnh cửu (vàng), nhưng phải vượt qua đau khổ và sự chết (mộc dược) bằng lời nguyện xin tín thác (nhũ hương). Sự đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành tột bực của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, loan báo sự đơn sơ, khiêm tốn và hiền lành tột bực của Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thập Giá. Nhưng đó lại là cách Chúa chọn, Chúa yêu thích để bày tỏ sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, để Hiển Linh cho loài người chúng ta.
Trong hành trình đức tin và nhất là trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng được mời gọi nhận biết Chúa, là Ân Huệ lớn lao nhất và tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người chúng ta, giống như người phụ nữ Samari đã nhận biết Chúa trong trình thuật theo thánh Gioan (x. Ga 4). Khi cầu nguyện với trình thuật Hiển Linh, chúng ta hãy khao khát được nhận biết và hiểu biết Chúa nhiều hơn và xin Chúa bày tỏ cho chúng ta “Vì Sao” của Ngài, để cho chúng ta nhận biết và thờ lạy Ngài, như các nhà chiêm tinh.
* * *
Chúng ta hãy trở lại với câu hỏi đã được nêu ra về cách hiện diện của Thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Hiển Linh: Thánh sử Mát-thêu, trong sách Tin Mừng của mình, nhấn mạnh cách đặc biệt đến vai trò của thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể; nhưng tại sao trong trình thuật Hiển Linh quan trọng này, từ đầu đến cuối, thánh sử lại không nhắc đến tên của Thánh Cả?
Đó là vì Thánh Giuse đã nhận ra Mầu Nhiệm quá lớn so với sự nhỏ bé và bất xứng của mình, Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Vì thế, ngay từ đầu, ngài đã muốn « lui lại phía sau » và ngài đã luôn muốn « lui lại phía sau » khi có cơ hội. Và cơ hội là đây, khi Hài Nhi Giê-su, với tư cách là Ngôi Lời, thu hút và tỏ mình ra cho các dân tộc xa xôi, ngang qua sự hiện diện của các đạo sĩ. Thánh sử Mát-thêu như đã nhận ra và tôn trọng tâm tình “lui lại phía sau” của Thánh Giuse, khi không nhắc đến tên của Thánh Nhân, mặc dù ngài chắc chắn đã hiện diện, nhưng một cách kín đáo trong thinh lặng; và cả sau đó nữa, thánh sử kể lại: “Này ông Giuse, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập!”. “Hài Nhi và Mẹ Người”, thay vì “vợ con ông”! Có một khoảng cách thần linh giữa ngài và Con Thiên Chúa cùng với Mẹ Người. Thánh Giuse luôn tôn trọng khoảng cách này và ngài tôn trọng đến cùng.
Hơn thế nữa, chúng ta còn được mời gọi nhận ra, ở đây, nơi Mầu Nhiệm Chúa Hiển Linh, Thánh Giuse như đã sống trước ơn huệ được “lui lại phía sau” cách trọn vẹn, sau khi đã hoàn tất sứ mạng “cưu mang” Ngôi Lời Chúa và để cho Ngôi Lời trở thành Đấng Emmanuen, nghĩa là “Thiên Chúa Ở Cùng Chúng ta”, và nhất là để cho Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, và cả Mầu Nhiệm Mẹ Thiên Chúa nữa, thực sự “Hiển Linh” nơi mầu nhiệm Vượt Qua.
Trong chương đầu tiên của Tin Mừng thứ nhất, chúng ta đã tìm hiểu và suy niệm về gia phả của HiểnLinh ABC355
Trong chương đầu tiên của Tin Mừng thứ nhất, chúng ta đã tìm hiểu và suy niệm về gia phả của Chúa Giê-su, cũng như biến cố truyền tin của Thiên Thần dành cho thánh Giu-se. Qua đó chúng ta nhận ra được sự hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử Ít-ra-en và ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân tộc này, nhưng cũng vượt qua dân tộc này để ơn cứu độ đến với muôn dân. Chúng ta cũng nhận ra sự công chính của thánh Giu-se, dù ở trong hoàn cảnh éo le, nhưng thánh nhân đã kiên trung sống tinh thần công chính, bỏ đi những dự định và kế hoạch của mình, để đón nhận và thực thi sứ mạng cùng thánh ý Chúa cách trọn hảo.
Tiếp nối với hai trình thuật trên, thánh Mát-thêu kể tiếp cho chúng ta nghe về biến cố khác cũng rất thú vị. Đó là câu truyện các nhà chiêm tinh xa xôi tìm đến với Hài Nhi Giê-su được sinh ra ở làng Bê-lem nhỏ bé. Chúng ta cùng đọc lại trình thuật này: “1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem,2 và hỏi: ‘Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người’. 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.5 Họ trả lời: ‘Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:6 Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời’.
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: ‘Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người’. 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (Mt 2,1-12).
Khi đọc trình thuật trên, chúng ta thấy có một cái khung rõ rệt với nhân vật là các nhà chiêm tinh. Trong câu đầu tiên, thánh sử Mát-thêu viết: “Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem” (2,1), và câu cuối vời phần các nhà chiêm tinh đi khỏi: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (2,12).
Chúng ta cũng thấy các nhà chiêm tinh là nhân vật chính trong bài Tin Mừng. Họ đi tìm Hài Nhi mới sinh để bái lạy (thờ lạy) người. Động từ “bái lạy” được nhắc đến hai lần và gắn liền với các nhà chiêm tinh: “Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (câu 02) và “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (câu 11). Ngoài ra, động từ “bái lạy” này còn được nhắc đến một lần nữa ở câu 08 gắn liền với ý định giả tạo của vua Hê-rô-đê, một nhân vật khác được nhắc đến trong câu truyện: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Trong trình thuật chúng ta cũng thấy Hê-rô-đê là một nhân vật lịch sử và địa danh Bê-lem là vị trí địa lý có thể kiểm chứng được. Giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu và suy niệm trình thuật này.
“Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Đoạn Tin Mừng bắt đầu với việc nhắc đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Giê-su ở tại Bê-lem. Thánh sử Mát-thêu tiếp tục nhắc đến tên của Hài Nhi là Giê-su. Tên Giê-su (Jesus – Jeshua), như chúng ta biết, có nghĩa là: Thiên Chúa cứu độ. Điều này cũng được diễn tả trong biến cố truyền tin của thánh Giu-se vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21).
Như thế, chúng ta thấy ý nghĩa thần học được nêu lên ở đây, là chỉ có Thiên Chúa mới có thể tha thứ tội lỗi, mới có thể ban ơn cứu độ. Hài Nhi Giê-su có sự liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa, liên kết trực tiếp với quyền năng thánh thiêng và cứu độ. Nếu chúng ta đọc và chiêm niệm những gì Chúa Giê-su làm trong hành trình sứ vụ, sẽ nhận ra được ý nghĩa của tên Giê-su. Ngài đã cứu chữa người bất toại nằm trên chõng do những người khiêng đưa xuống từ mái nhà. Ngài đã đưa mắt nhìn đến người phong hủi, khi anh ta xin Ngài: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch. Ngài đã trả lời: Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1,41). Với người phụ nữ bị bệnh băng huyết 12 năm, Ngài không giận dữ, khi bà ta lén đụng vào tua áo của Ngài với một niềm tin đơn sơ là sẽ được khỏi. Ngài đã gọi bà ra trước đám đông và nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34), và còn biết bao ơn chữa lành cứu rỗi mà Đức Giê-su ban phát. Thật vậy, đi đến đâu Ngài ban phát ơn lành đến đó.
Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem. Đó là địa danh của một làng nhỏ cách Giê-ru-sa-lem khoảng 7 Km về phía Nam. Nhưng Bê-lem có nghĩa là gì? Bê-lem có nghĩa là “nhà bánh”. Bê-lem cũng được nhắc đến trong Cựu Ước. Như trong sách 1Sm 16,1 có viết: “Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua”. Như thế, Bê-lem là quê của Gie-sê và cũng là quê hương của vua Đa-vít: “Anh Đa-vít đã nài nẵng xin phép con chạy về Bê-lem, thành của anh, vì ở đó có hy lễ hằng năm cho toàn thị tộc” (1Sm 20,6). Về điều này cũng được nhắc trong Tân Ước: “ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít” (Lc 2,4). “Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” (Ga 7,42).
Ngoài ra, trong ý nghĩa thần học, Ratzinger giải thích rằng: “Bê-lem là nơi sinh của vua Đa-vít. Trong câu chuyện, ý nghĩa thần học của vị trí này sẽ được làm rõ qua câu trả lời của vua Hê-rô-đê cho câu hỏi của các nhà chiêm tinh, Đấng Mê-sia sẽ sinh ra ở đâu. Vị trí địa lý của Bê-lem được xác định thêm bằng phụ chú ‘tại Giu-đê’, có thể mang thêm một ý nghĩa. Trong lời chúc lành của Gia-cóp, vị tổ phụ này nói tiên tri với con mình là Giu-đa: ‘Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục’ (St 49,10). Trong một trình thuật về Đa-vít đích thực đến, vị vua mới sinh của người Do Thái sẽ cứu độ tất cả mọi dân tộc, đều phải nhận lời tiên báo này như nền tảng”.[1]
Ngoài Bê-lem và Giu-đê là hai địa danh, Mát-thêu cũng nhắc đến một nhân vật lịch sử: Vua Hê-rô-đê cả. Về ông vua này, cha Vũ Phan Long giải thích như sau: “Vua này cai trị miền Giu-đê (năm 37-4 tcn). Bởi vì ông xuất thân từ miền I-đu-mê, ở về phía nam xứ Giu-đê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn”.[2]
Nhà thánh kinh học Pesch cũng suy tư về nhân vật Hê-rô-đê trong trình thuật này như sau: “Như trong Phúc Âm về Giáng Sinh (Lc 2,1-11) hoàng đế Au-gút-tô được gợi lên ngay khởi đầu, thì trình thuật của Mát-thêu trong chương 2 cũng khởi đầu bằng việc gợi lên danh tính Hê-rô-đê ‘vua dân Do Thái’. Nếu một bên là hoàng đế với đòi hỏi hoà bình cho thế giới như đối lập với Hài Nhi mới sinh, thì ở đây vị vua, được ân huệ của hoàng đế, cai trị đất Do Thái – điều này làm cho ông cũng đòi hỏi mọi người phải xem ông như Đấng Mê-sia, là đấng cứu độ cho toàn vương quốc Giu-đê”.[3]
Như thế, Chúa Giê-su sinh ra trong một địa danh và trong một lịch sử rõ rệt được ghi dấu qua nhân vật là vua Hê-rô-đê. Đến bây giờ chúng ta vẫn có thể kiểm chứng được địa danh và nhân vật này trong lịch sử. Vì vậy, câu truyện Giáng Sinh của Chúa Giê-su không phải là một huyền thoại nào cả. Chúa Giê-su sinh vào cuộc đời và Người muốn ghi chính tên mình vào cuốn sách lịch sử nhân loại, tại một vùng đất rõ rệt và trong một giai đoạn lịch sử của một dân tộc.
Câu truyện kể tiếp rằng: “có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem”. Trước khi đi tìm hiểu về nhân vật “các nhà chiêm tinh”, chúng ta cũng nên dừng bước để khám phá một điều: “Bê-lem trong miền Giu-đa” có ý nghĩa ám chỉ Hài Nhi mới sinh ra tại đó được đặt đối diện với vua Hê-rô-đê đang trị vì ở Giê-ru-sa-lem. Hơn nữa, đối với Mát-thêu, Giê-ru-sa-lem là thành phố mà Chúa Giê-su đã bị kết án và bị giết chết: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27,25). Nhưng cuối cùng ai mới là vị Vua thực sự của dân Ít-ra-en và của toàn thể nhân loại?
Giờ đây, chúng ta tìm hiểu các nhà chiêm tinh, họ còn được gọi là các đạo sĩ hay ba vua. Trong bản văn tiếng Hy Lạp là magos, diễn tả những người khôn ngoan, chuyên môn nghiên cứu tinh tú trên trời. Trong truyền thống Giáo Hội, câu truyện các nhà đạo sĩ được đọc với câu Thánh Vịnh:
“Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật” (Tv 72,10).
Cũng như với lời của tiên tri I-sai-a:
“Đức Chúa là Đấng Cứu Chuộc và là Đức Thánh của Ít-ra-en, Người phán thế này: Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy vì uy quyền của Đức Chúa là Đấng trung thành, là Đức Thánh của Ít-ra-en, Đấng đã tuyển chọn ngươi” (Is 49,7).
Với Ratzinger, “theo hai đoạn Thánh Kinh trên các nhà đạo sĩ từ Phương Đông ‘trở thành’ các vị vua, và cùng với họ có cả lạc đà hai bướu, một bướu đều đến hang đá. Và nếu lời hứa của bản văn này đẩy xa điểm xuất phát của những vị này cho đến Phương Đông thật xa (Tarschisch = Tartessos bên Tây Ban Nha), thì lưu truyền đã triển khai về tính phổ quát đã được báo trước của vương quốc các vị vua này; các vị vua như đại diện cho ba lục địa đã được công nhận thời đó: Phi Châu, Á Châu và Âu Châu. Vị vua đen cũng thuộc về nhóm này: trong vương quốc của Chúa Giê-su không có sự phân biệt về dòng giống và xuất xứ. Nhân loại ở trong Người và được kết hiệp với nhau nhờ Người, mà không đánh mất sự phong phú của tính đa dạng. Sau này, người ta lại chia các vị vua tượng trưng cho số tuổi của con người – thiếu niên, trưởng thành và già lão. Đây cũng là một ý tưởng hay, cho thấy những hình dáng khác nhau của đời sống con người trong sự kết hiệp với Chúa Giê-su, mỗi thời đoạn mang một ý nghĩa và sự hiệp nhất nội tâm.
Tư tưởng căn bản vẫn là: những người khôn ngoan từ phương Đông là một khởi điểm, họ cho thấy sự lên đường của nhân loại hướng về Đức Ki-tô, khai mở một tiến trình, xuyên suốt cả lịch sử. Không phải chỉ có họ là những con người đã tìm được con đường đi đến Đức Ki-tô. Họ hiện diện như một sự mong chờ sâu lắng của tâm trí con người, sự chuyển động của tôn giáo và lý trí con người đến gặp Đức Ki-tô”.[4]
Ngoài ra, còn có truyền thống gọi ba vua với tên Caspar, Melchior và Balthasar (thế kỷ VIII). Sau đó, Caspar được coi là một người da đen. Về hình ảnh của ba vua, ở đây xin nhắc đến một truyền thống rất tốt đẹp ở bên Đức và Áo. Đó là truyền thống của nhóm Sternsinger (tạm dịch là Hát với ngôi sao): vào ngày lễ Hiển Linh, trong mùa đông lạnh giá, chúng ta thấy các em giúp lễ mặc quần áo theo kiểu của ba vua với một em cầm ngôi sao đi đầu. Các em đi hết nhà này đến nhà nọ trong giáo xứ. Trước mỗi nhà các em dừng lại, bấm chuông và khi chủ nhà đón tiếp, các em vào nhà hát cho chủ nhà nghe một vài câu hát nói lên sứ điệp Giáng Sinh của Chúa Giê-su. Cuối cùng các em dùng phấn để viết lên trên cửa nhà số của năm đó và hàng chữ viết tắt, vd.: 20-C+M+B-19. Nghĩa là Christus Mansionem Benedicat – Đức Ki-tô chúc lành cho nhà này trong suốt năm 2019. Tuy nhiên, hàng chữ C+M+B, trong nguyên thuỷ ám chỉ về tên của ba vua: Caspar, Melchior và Balthasar. Đặc biệt hơn nữa, công việc của các em Sternsinger trở thành một công việc bác ái giúp cho những nơi nghèo khổ. Mỗi năm, các em hướng về một chương trình giúp cho các nước nghèo đã được chọn nhận sự giúp đỡ.
Trở về với bài Tin Mừng, các nhà chiêm tinh khi đến Giê-ru-sa-lem đã hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Ba nhà chiêm tinh là những người đi tìm, những người hỏi thăm và những người hy vọng sẽ tìm thấy được điều họ tìm kiếm. Câu hỏi của họ hướng về Hài Nhi chuẩn bị được sinh ra tại Bê-lem: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” theo Ratzinger, câu hỏi này rõ ràng không phải là cách diễn đạt của vùng Do Thái. Trong vùng Do Thái người ta không nói về vua của Ít-ra-en. Trong thực tế, thuật ngữ ngoại giáo về “vua dân Do Thái” sẽ trở lại một lần duy nhất trong cuộc xử án Đức Giê-su và trong bản ghi án trên thập giá, hai lần đều do người ngoại giáo Phi-la-tô sử dụng (x.Mc 15,9 và Ga 19,19-22). Ở đây, có thể nói, ngay lúc những người ngoại giáo đầu tiên hỏi về Đức Giê-su, mầu nhiệm thập giá đã xuất hiện cách ẩn kín, mầu nhiệm này liên kết chặt chẽ với vương quyền của Người”.[5]
Tiếp theo câu hỏi về nơi Hài Nhi sinh ra, ba nhà chiêm tinh đã nói rõ lý do họ đi tìm Vua dân Do Thái. Đó là họ đến để bái lạy Người. Khi nghe những lời của các đạo sĩ, vua Hê-rô-đê phản ứng thế nào? Thánh Mát-thêu thuật lại như sau: “Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.5 Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:6 Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
Trước hết, có một điểm thú vị ở đây, đó là các nhà chiêm tinh đến đền vua Hê-rô-đê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Điều này càng làm cho câu chuyện thêm phần ly kỳ chăng? Mát-thêu diễn tả tiếp rằng, Hê-rô-đê đã bối rối. Không bối rối sao được, khi một quân vương lại nghe tin về một cuộc sinh hạ bí nhiệm sẽ xảy ra trong vùng đất của mình, và hơn nữa em bé sinh ra sẽ xứng đáng lên ngôi. Chúng ta cũng không nên quên bản chất độc ác và rất sợ hãi cũng như luôn nghi ngờ mọi người của Hê-rô-đê.
Nhưng không chỉ Hê-rô-đê bối rối. “Vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao”. Hình ảnh “bối rối chung của Hê-rô-đê và của cả thành Giê-ru-sa-lem” là một điều không tưởng được, vì theo các nhà chú giải, vua Hê-rô-đê không được chú ý ở thành Giê-ru-sa-lem, cũng như người dân Giê-ru-sa-lem không thích vua Hê-rô-đê, một vị vua có gốc gác là người ngoại, người I-đu-mê, và ông rất gian ác. Theo Ratzinger, “điều này như hướng ý đến việc Đức Giê-su tiến vào thành Thánh cách vinh quang trước ngày Người chịu khổ hình, như thánh Mát-thêu tường thuật “cả thành đều bị đánh động” (Mt 21,10). Dù sao, cả hai cảnh cho thấy vương quyền của Đức Giê-su cùng liên kết với đề tài khổ nạn”.[6]
Ngoài ra, sự liên hệ giữa Hê-rô-đê và dân thành Giê-ru-sa-lem ở đây, vẫn nêu bật thật rõ ràng việc dân Do Thái loại trừ Đức Giê-su và dân ngoại đón tiếp Người. Đối với Mát-thêu, Giê-ru-sa-lem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân Giê-ru-sa-lem là những người sẽ nói trong phần cuối của Tin Mừng: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27,25). Sự bối rối của vua Hê-rô-đê và dân Giê-ru-sa-lem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, Đấng Mê-sia.
Trước câu hỏi của các nhà chiêm tinh, dù bối rối đó, nhưng Hê-rô-đê làm gì để đi tìm được câu trả lời? “Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu”. Chính Hê-rô-đê, một vị vua gian ác ngoại quốc thuộc gốc dân I-đu-mê, trở thành trung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Ông triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Ki-tô sinh ra ở đâu. Hai nhóm người này đã trả lời Hê-rô-đê như thế nào? Họ đã tra khảo Kinh Thánh để trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
Câu trả lời này mang tính cách sấm ngôn và gồm lời của ngôn sứ Mi-kha cùng một lời rút từ sách Samuen quyển thứ hai: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ sẽ được sinh ra” (x.Mk 5,1), “vị mục tử chăn dắt dân Ít-ra-en (x.2Sm 5,2).
Về câu trả lời này được trích dẫn từ hai sách trên, Ratzinger đã giải thích, bằng cách nhắc đến bản văn bằng tiếng Hy Lạp: “Khi trích dẫn những lời này, thánh Mát-thêu ghi thêm hai sự khác biệt thật tế nhị. Trong khi phần lớn của bản văn lưu truyền, đặc biệt là bản văn dịch bằng tiếng Hy Lạp, nói: ‘Người là thành nhỏ nhất giữa các thành Giu-đa’, thánh Mát-thêu lại viết: ‘Người không phải là thành phố không có ý nghĩa gì so với các thành to lớn của Giu-đa’. Hai cách nói của bản văn giúp chúng ta hiểu – mỗi bản văn một cách – sự nghịch lý của hành động Thiên Chúa, xuyên suốt trong Cựu Ước. Điều vĩ đại sẽ đến từ điều xem ra nhỏ bé và vô nghĩa theo tiêu chuẩn của nhân loại; bấy giờ điều xem ra là lớn trước mắt thế giới sẽ vỡ tung và biến mất… Một lời của Đức Maria rút từ thánh thi Magnificat tóm tắt sự nghịch lý của hành động Thiên Chúa: ‘Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường’ (Lc 1,52). Bản văn Cựu Ước đánh giá Bê-lem bé nhỏ giữa các thành Giu-đa, cũng đưa ra cách thức hoạt động của Thiên Chúa. Ngược lại, khi thánh Mát-thêu viết: ‘ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa’, xem như ngài muốn loại bỏ nghịch lý này. Thành phố không có một ý nghĩa gì, bây giờ được công nhận trong sự vĩ đại của nó. Từ thành phố nhỏ này, vị mục tử đích thực của Ít-ra-en được sinh ra”.[7]
Như thế, vị mục tử đó chính là vị lãnh tụ được nhắc đến trong quyển hai Samuen (5,2). Đó là hình ảnh của vua Đa-vít mới được hiện thực ngay trong Chúa Giê-su với tinh thần yêu thương và giàu lòng thương xót. Ngài là vị mục tử và cũng là lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en. Khi nghe các kinh sư và thượng tế cho biết rõ ràng nơi chốn mà Hài Nhi Giê-su sẽ sinh ra, thì Hê-rô-đê có phản ứng nào tiếp theo?
Thánh sử Mát-thêu kể tiếp như sau: “7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Việc Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến và hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện nói lên sự bối rối của ông nhiều hơn nữa. Nếu đọc câu truyện đến đây, thì ai ai cũng có một linh cảm là sẽ có truyện chẳng lành có thể xảy ra. Sự chẳng lành này “được bọc” bởi sự nham hiểm của vua Hê-rô-đê, khi ông như thể rất tán thành điều mà các đạo sĩ làm: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Hê-rô-đê cũng dùng động từ “proskynesis – bái lạy – thờ lạy”, nhưng có thực sự Hê-rô-đê và các đạo sĩ đang “ngồi chung một chiếc xuồng”? Gregory the great chia sẻ: “Hê-rô-đê hỏi cho biết nơi Hài Nhi sinh ra với ý hướng ông thờ lạy Hài Nhi, nhưng thực ra ông sẽ tiêu diệt Hài Nhi, nếu ông tìm thấy Hài Nhi. Nhưng có lợi gì, khi sự độc ác của con người chống lại kế hoạch của Thiên Chúa? Không có sự khôn ngoan nào, hiểu biết nào và kế hoạch nào có thể chống lại Thiên Chúa (x.Cn 21,30)”.[8]
Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng, vua Hê-rô-đê cũng đang kéo các đạo sĩ theo bè theo phái của ông. Nguy hiểm biết bao, khi sự dữ “lên đường” để đi kiếm đồng minh, để kéo bè lập phái. Khốn thay cho những phận người lại đui mù nghe theo và trở thành đồng minh và rồi sau đó là đồng loã của sự dữ. May mắn thay, khôn ngoan của con người không thể bằng khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân ái. Chính Ngài đã can thiệp và tiêu diệt mưu mô ác độc xấu xa của vị vua ác ôn kia.
Sau khi nghe nhà vua nói xong, ba nhà chiêm tinh liền ra đi. Điều thú vị của câu truyện là sự xuất hiện trở lại của ngôi sao mà họ đã thấy trước đó. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”. Khi đọc những câu trên, chắc là chúng ta sẽ có những câu hỏi về ngôi sao ở Bê-lem như: Ngôi sao nào vậy? Có ngôi sao này hay không có? Và nếu có, thì ngôi sao có thực sự xuất hiện vào thời điểm đó không? Thiên văn học nói gì về điều này?
Trước những câu hỏi mang tính thiên văn này, một số giáo phụ và một số nhà chú giải cho rằng, không nhất thiết phải mày mò tìm hiểu để có câu trả lời dựa trên phương diện thiên văn học, vì hình ảnh ngôi sao ở đây được hiểu trong ý nghĩa thần học và không dính líu tới thiên văn học. Nhà thánh kinh học Pater Lagrange đã chú ý như sau: “Qua ngôi sao này Thánh Kinh chắc chắn dạy cho chúng ta nhiều điều hơn là qua các hành tinh của các nhà thiên văn học”.[9] Như thế, điều mà nhiều nhà chú giải hướng đến là ý nghĩa thần học của ngôi sao.
Tuy vậy, dù có hiểu theo nghĩa thần học, nhưng theo Ratzinger, cũng không nên bỏ qua câu hỏi mang tính cách thiên văn, vì vậy cũng nên hỏi xem có thể đây là một hiện tượng trên trời được xác định như hiện tượng thiên văn học hay không. Vì thế, với Ratzinger chúng ta cùng tìm hiểu về ý nghĩa theo thiên văn học. Sau đó, chúng ta sẽ cùng hướng đến ý nghĩa thần học của ngôi sao.
“Johannes Kepler (+1630) đã đưa ra một cách giải quyết dựa trên khoa thiên văn tân tiến. Kepler tính toán vào các năm 7-6 trước công nguyên (tcn), theo đó có một sự hội tụ các hành tinh Jupiter, Saturn và Mars. Vào năm 1604 cũng có một cuộc hội tụ tương tự như vậy, và có một supernova – một siêu tinh tú xuất hiện. Nó được xem như một ngôi sao yếu ớt và thật xa. Tiếp đến là một vụ nổ vĩ đại, đến độ suốt tháng, suốt tuần đã bung ra một sức sáng mạnh mẽ. Kepler cho supernova này là một ngôi sao mới. Theo ông, sự hội tụ ngày xưa liên kết với một supernova, đến độ hiện tượng ngôi sao sáng chói trên Bê-lem cũng có thể được giải thích theo thiên văn. Cũng gây cấn không kém, nhà trí thức vùng Goettingen Friedrich Wiesler tìm được trong bản thời biểu Trung Hoa, vào năm 4 tcn ‘một ngôi sao sáng chói xuất hiện và chiếu sáng suốt một thời gian dài’ (Gnilka t.44).
Nhà thiên văn học thành Vienne, Konradin Ferrari d’Occhieppo, cho thấy, trong thành Babylon – trung tâm thiên văn học vào thời xưa, nhưng đã sa sút vào thời Chúa Giê-su – ‘vẫn còn một nhóm nhà thiên văn hoạt động… Hiện tại còn có những bản bằng đất nung, có ghi những tính toán về thiên văn…đây là những bằng chứng không thể chối cãi được’. Sự hội tụ giữa những hành tinh Jupiter và Saturn theo chòm sao hình con cá, đã xuất hiện vào năm 7-6 tcn – ngày nay người ta cho rằng sao này thực sự xuất hiện vào thời Giáng Sinh của Chúa Giê-su – theo các nhà thiên văn Babylon tính toán và đưa đến kết luận, nơi đất Giuđa đã có ‘vị vua của dân Do-thái’ được sinh ra.
Nhà thiên Ferrari d’Occhieppo đưa ra lý thuyết về supernova ad acta. Theo ông, chỉ cần giải thích ngôi sao Bê-lem qua việc hội tụ các sao Jupiter và Saturn trong chòm sao Con Cá, mà ông tin rằng có thể xác định được ngày tháng. Về việc này, điều quan trọng là hành tinh Jupiter đại diện cho thần linh chính yếu của Babylon là thần Marduk. Ferrari tóm kết như sau: ‘Jupiter, ngôi sao của thần linh vĩ đại Babylon, xuất hiện với tất cả ánh quang vào lúc chiều tàn cạnh sao Saturn, tinh tú đại diện cho dân Do Thái’. Chúng ta nên bỏ qua các chi tiết. Qua việc hội tụ các hành tinh, các nhà chiêm tinh Babylon có thể đúc kết một biến cố quan trọng mang tính phổ quát, một vị Chúa mang ơn cứu độ được sinh trong xứ Giu-đa – theo như Ferrari”.[10]
Những điều trên có ý nghĩa gì? Ratzinger giải thích và đưa về ý nghĩa thần học của ngôi sao: “việc hội tụ lớn lao giữa Jupiter và Saturn theo dấu chòm sao con cá vào năm 7-6 tcn có thể là một sự kiện có thật có thể minh chứng. Hội tụ này gợi ý cho các nhà chiêm tinh trong vùng Babylon – Ba Tư hướng đến xứ Giu-đa, đến vị ‘vua của dân Do Thái’… Hình ảnh ngôi sao có thể là một động lực thúc đẩy, dấu chứng đầu tiên để lên đường bề ngoài và bề trong; nhưng ngôi sao đã không thể nói cho những con người này, nếu như họ đã không được đánh động từ bên trong nhờ niềm hy vọng vào ngôi sao xuất hiện trên nhà Gia-cóp:
‘Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên; một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp’ (Ds 24,17).
Trong câu chuyện này, có hai điểm nổi bật: trước tiên, ngôi sao dẫn các nhà đạo sĩ đến xứ Giu-đa. Đương nhiên, khi đi tìm vị vua mới sinh của người Do Thái, họ phải đến vương quốc Ít-ra-en và vào dinh nhà vua. Nơi đó, vị vua tương lai mới có thể sinh ra. Nhưng để tìm cách dứt khoát con đường đi đến người thừa kế đích thật của nhà Đa-vít, họ cần phải có những lời chỉ dẫn của Thánh Kinh Ít-ra-en, lời của Thiên Chúa hằng sống. Các giáo phụ còn nhấn mạnh một phương diện khác. Gregor thành Nazianz nói, ngay giây phút các đạo sĩ quỳ phục trước Đức Giê-su, thời điểm chấm dứt của thiên văn học đã đến, từ bây giờ các ngôi sao sẽ đi theo con đường do chính Đức Ki-tô xác định”.[11]
Thật là thú vị khi Mát-thêu nói về ngôi sao của Chúa Giê-su, ngôi sao của Đấng Mê-sia. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan cũng đề cập đến Sao Mai là biểu tượng hướng về Chúa Giê-su: “Đó là quyền mà chính Ta đã được Cha Ta trao cho. Ta sẽ ban Sao Mai cho người ấy” (Kh 2,28) và “Ta là Giê-su, Ta đã sai thiên thần của Ta đến với các ngươi để làm chứng về những điều trên đây, liên quan đến các Hội Thánh. Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đa-vít, là Sao Mai sáng ngời” (Kh 22,16). Theo Ravasi, có thể nói rằng, “Ngôi sao mà thánh Mát-thêu đề cập tới là dấu hiệu của việc mạc khải về Đấng Mê-sia của vũ trụ”.[12]
Như thế với sự dẫn đường của ngôi sao, các nhà chiêm tinh tìm đến được hang Bê-lem. Tiếp theo Mát-thêu diễn tả: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”. Trong câu này, Mát-thêu nói về niềm vui lớn lao “vô cùng” của các nhà chiêm tinh, khi họ nhìn thấy ngôi sao dừng lại chỗ Hài Nhi Giê-su sinh ra. Thật vậy, khi Thiên Chúa chiếu toả ánh sáng của Ngài, thì phận hèn thấp kém của nhân trần sẽ tràn ngập niềm vui khôn tả. Niềm vui của các đạo sĩ còn “lớn lao” hơn nữa, vì kẻ đi tìm đã gặp được điều mình mong ước. Nếu chúng ta nhìn đến hậu cảnh của các đạo sĩ, thì niềm vui này còn mang một ý nghĩa sâu hơn, vì các đạo sĩ là những người đại diện cho những dân tộc ngoại giáo, giờ đây tìm thấy được ơn cứu độ, tìm và gặp được Vị Mục Tử nhân lành giàu lòng thương xót.
Chrysostom chia sẻ rằng: “Trên con đường này, hết điều kỳ diệu này đến điều kỳ diệu khác liên kết với nhau: các nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi, ngôi sao đi trước họ. Tất cả những điều này đủ để làm say mê cả trái tim bị chai đá… Hơn nữa, ngôi sao khi thì xuất hiện trên chỗ Hài Nhi nằm, khi thì tan biến đi đâu đó. Điều này tự nó đã chỉ ra một quyền năng lớn lao hơn bất cứ vì sao nào: đầu tiên thì tự ẩn náu, sau thì lại xuất hiện và rồi đứng yên tại chỗ và chiếu sáng. Từ tất cả những điều này, ai nhìn ngắm đều được thúc đẩy đi đến niềm tin. Đó là lý do tại sao mà các nhà chiêm tinh vui mừng. Họ đã tìm thấy điều mà họ tìm kiếm. Họ đã tỏ ra là những sứ giả của niềm tin. Cuộc hành trình dài của họ đã không hoài công. Sự ước ao tìm được Đấng được Xức Dầu đã trở thành hiện thực. Hài Nhi mới sinh là Đấng Thánh. Họ đã nhận ra điều này trong sự thờ lạy của họ”.[13]
Ngoài ra, khi nói về niềm vui, trong Tin Mừng cũng có nhiều niềm vui của cuộc hội ngộ giữa thiên và trần. Có thể nói đến niềm vui hiện diện trong biến cố Thiên Thần truyền tin cho Mẹ Maria, niềm vui của các phụ nữ trong buổi sáng ngày Chúa Phục Sinh (x.Mt 28,8).
Trở về với bài Tin Mừng, chúng ta thấy các nhà chiêm tinh bước vào trong chỗ Hài Nhi đang nằm, sau đó trước Hài Nhi, họ đã quỳ mọp xuống. Đó là cách thờ lạy phải thực hiện trước vị Thiên Chúa là Vua. Theo Pesch, “bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” là từ ngữ được Mát-thêu thích dùng cho nhiều nhân vật trong Tin Mừng. Như người phong hủi sụp lạy trước Chúa để xin cứu chữa (x.Mt 8,2); viên thủ lãnh đến gần và bái lạy Chúa để xin chữa cho cô con gái vừa mới chết (x.Mt 9,18); các môn đệ chứng kiến Chúa Giê-su đi trên mặt nước đến với các ông và trong khung cảnh Chúa làm cho biển lặng, các môn đệ bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14,33); người phụ nữ thành Ca-na-an đến bái lạy và nài van Chúa Giê-su chữa cho cô con gái bị quỷ ám (x.Mt 15,25); mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến bái lạy Chúa Giê-su để xin cho hai người con mình: “một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy” (Mt 20,20); sau khi Chúa phục sinh, Chúa hiện ra và chào các phụ nữ và“Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người” (Mt 28,9). Mười một môn đệ được Chúa Phục Sinh hiện ra trên một ngọn núi ở miền Ga-li-lê cũng bái lạy Người (x.Mt 28,17).[14]
Nhưng hành vi bái lạy hay sấp mình thờ lạy này có ý nghĩa gì? Luz giải thích như sau: “Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mát-thêu hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giê-su bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; 20,20) và bởi các môn đệ (14,33), liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa, đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).[15]
Trở về với bài Tin Mừng, các nhà chiêm tinh là những người khôn ngoan đã phủ phục trước Hài Nhi và thờ lạy Người, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đó là dấu hiệu họ công nhận Hài Nhi và quyền năng của Người có trên họ. Với sự thờ lạy của các nhà chiêm tinh trước Hài Nhi, chúng ta được hướng dẫn đến với dung mạo của Chúa Giê-su, Người là “con cháu vua Đavít” (Mt 1,1), là “Con Thiên Chúa” (x. Mt 1,21; 2,15) và là Đấng “Em-ma-nu-en” (Mt 1,23). Hài Nhi Giê-su không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin.
Về thái độ “thờ lạy” của ba nhà chiêm tinh, Walter Kasper suy niệm như sau: “Với sự thờ lạy Hài Nhi, ba nhà chiêm tinh đã diễn tả rõ ràng điều nền tảng và quan trọng, điều là chuẩn mực và tiêu chí cuối cùng, để có thể phân định và để có thể đi đến những quyết định. Đó chính Chúa Giê-su Ki-tô. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa, Đấng ẩn mình và vô hình, đang hiện diện sống động. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, Đấng bình thường ngự trong ánh sáng không thể vươn tới và đối với con người chúng ta luôn là một mầu nhiệm sâu thẳm không bao giờ đạt tới. Trong Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm và trở nên một người như chúng ta. Như thế, Chúa đã giúp cho chúng ta có được khả năng phân biệt Thiên Chúa thật và các thần thánh ngẫu tượng sai lạc. Ai hướng nhìn lên Hài Nhi Giê-su và lắng nghe Người, thì sẽ không bao giờ lạc đường cả. Chúa Giê-su Ki-tô đã tự nói cho chúng ta biết rằng, ai thấy Người, là thấy Chúa Cha. Chúa Giê-su là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14,8)… Hôm nay có nhiều người không biết về chính nguồn cội họ đến từ đâu và cùng đích họ sẽ đi về đâu, cũng như họ cũng không biết phải bắt đầu cuộc sống của họ ở điểm nào và với cái gì, họ cũng không tìm ra nơi có thể tin tưởng và cậy dựa vào. Còn với chúng ta là Ki-tô hữu thì khác. Điều lớn lao và tuyệt đẹp trong Ki-tô giáo là: Trong Chúa Giê-su Ki-tô chúng ta có được tiêu chí cụ thể, có được hướng đi rõ ràng. Người là Mục Tử nhân lành, là Người Đồng Hành với chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta cần phải tin tưởng vào Người luôn mãi”.[16]
Đi cùng với thái độ thờ lạy, ba nhà chiêm tinh đã dâng lên Hài Nhi ba lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Theo Ratzinger, “Trước Hài Nhi, các nhà đạo sĩ đã thực hiện việc proskyneô, có nghĩa là quỳ mọp trước Hài Nhi. Đó là cách thức thờ lạy phải thực hiện trước vị Thiên Chúa là Vua. Hành động này nói lên ý nghĩa của những lễ vật mà ba đạo sĩ dâng lên. Đây không phải là những quà tặng thông thường mà Thánh Gia có thể sử dụng ngay lúc này. Các lễ vật nói lên ý nghĩa của việc thờ lạy. Chúng công nhận tước hiệu là vua cao sang. Vàng và nhũ hương, như trong đoạn I-sai-a 60,6 nói, như lễ vật thờ phượng mà các dân tiến dâng Thiên Chúa của Ít-ra-en:
‘Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa’ (Is 60,6)”.[17]
Ngoài ra, theo truyền thống của Giáo Hội, thì vàng hướng ý đến vương quyền của Đức Giê-su, nhũ hương về tính chất là Con Thiên Chúa và mộc dược nói lên mầu nhiệm khổ nạn. Thánh Phê-rô Kim Ngôn có nói: “Dâng hương để nhận Người là Chúa, dâng vàng để nhận Người là Vua, và dâng mộc dược để loan báo Người sẽ chết” (Bài giảng của thánh Phê-rô Kim Ngôn, Giờ Kinh sách, vọng Hiển Linh).
Kết thúc câu truyện, thánh sử Mát-thêu cho người đọc biết được hành trình tiếp theo của các nhà chiêm tinh: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (Mt 2,12). Lời kết thúc bài Tin Mừng đã diễn tả sự hoạt động quyền năng của Thiên Chúa. Ngài đã hướng dẫn các đạo sĩ về lại xứ sở của họ, và song song chính Thiên Chúa đã làm cho âm mưu quỷ quyệt của vua Hê-rô-đê đổ vỡ hoàn toàn, và vị vua trần gian này không có quyền hành và ảnh hưởng gì trên Hài Nhi Giê-su, vị Vua trên hết các vua.
Để cho bài Tin Mừng “vang vọng” lại trong tâm hồn, chúng ta cùng suy tư và cầu nguyện với những gợi ý sau:
Nhìn ba nhà chiêm tinh, chúng ta nhận ra rằng, chúng ta cũng thuộc về thành phần dân ngoại như họ, vì chúng ta không phải là người Do-thái.
Tuy vậy, Thiên Chúa và lòng thương xót của Ngài vẫn chiếu dãi ánh sáng đến với chúng ta, vì Hài Nhi sinh ra cho mọi người chứ không cho riêng ai. Thật vậy, lời Ngài hứa luôn là lời sống động: “Để bất cứ ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Hôm nay, bạn và tôi cùng đọc lại lời kinh tin kính một cách chậm rãi. Chúng ta đọc như là một tín hữu sống sự ý thức cao độ, chứ không như “chú vẹt” cất lên những lời kinh quá quen thuộc.
Khi đọc kinh Tin Kính chậm rãi và chú tâm, bạn và tôi coi xem câu nào trong lời kinh “lôi cuốn”, thì dừng lại để nghiền ngẫm, suy tư và cầu nguyện với câu đó.
Ba nhà chiêm tinh là những người đi tìm, những người hỏi thăm và những người hy vọng sẽ tìm thấy được điều họ tìm kiếm. Như ba nhà chiêm tinh, chúng ta cũng cần trở thành những người đi tìm, những người hỏi thăm và những người hy vọng. Chúng ta không nên là những người sống theo kiểu “dửng dưng mặc kệ”, nhất là trong xã hội văn minh Tây Phương, nơi người ta đang “dửng dưng và mặc kệ” Thiên Chúa. Với họ niềm tin vào tôn giáo không còn quan trọng nữa. Chúng ta không đi vào “vết chân” này, ngược lại chúng ta cần dõi theo ngôi sao, cần có lý tưởng là Chúa Giê-su Hài Đồng. Trên hành trình của niềm tin, chúng ta tiếp tục tìm nhiều hơn nữa, hỏi thăm nhiều hơn nữa. Chúng ta hỏi về chính Chúa, về Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa, chúng ta tìm sự hiện diện gần gũi của Chúa, chúng ta tìm chính sự dịu ngọt của Chúa. “Quaerere Deum, tìm kiếm Chúa: Điều đó làm nên con người, điều đó làm cho con người lớn lên và làm cho phẩm giá của con người tỏ lộ. Nếu chúng ta không còn tìm Chúa nữa, thì chúng ta đang đi vào một ‘ngã rẽ’ làm cho chúng ta trở nên những con thú”.[18]
Ba nhà chiêm tinh đã được ngôi sao dẫn đến gặp Hài Nhi Giê-su. Trong đời bạn, ngôi sao nào đã dẫn đường bạn đến với Đức Tin, đến để gặp Chúa? Ngôi sao đó có thể là chính cha mẹ, bạn bè hay một người nào đó. Bạn hãy nhớ đến người đó và nhìn lại sự kiện bạn được dẫn đến gặp Chúa. Giờ đây, đến với Hài Nhi Giê-su đang nằm trong máng cỏ, với hết tấm lòng bạn hãy thờ lạy Người và hãy cảm tạ tri ân Thiên Chúa.
Ba nhà chiêm tinh thờ lạy Hài Nhi. Đó là hình ảnh thật đẹp! “Ai quỳ phục thờ lạy trước Chúa Giê-su, người đó không bị ‘nhỏ lại’, ngược lại người đó sẽ cảm nhận được sự lớn lao thật và lời mời gọi đích thật. Thái độ thờ lạy không làm cho chúng ta ‘nhỏ lại’, mà còn gìn giữ chúng ta trước tình trạng ‘thích làm lớn’. Thái độ thờ lạy Hài Nhi Giê-su nói cho chúng ta biết rằng: Có một người lớn hơn tất cả sức mạnh và quyền lực của thế giới này”.[19]
“Thờ lạy và kính sợ” là hành động rất căn bản cho đời sống của người Ki-tô hữu. “Kính sợ Chúa là đầu mối mọi sự khôn ngoan”. Điều răn đầu tiên trong 10 điều răn là “Thờ phượng và kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự”. Bạn đã và đang thờ phượng Thiên Chúa như thế nào? Bạn hãy xét lại cách thờ phượng của bạn với Chúa xem, bạn đã thờ phượng và kính sợ Chúa cách xứng hợp và đúng đắn chưa? Ngoài ra, cũng nên coi kỹ lại xem, gián tiếp hay trực tiếp, ý thức hay vô thức bạn đang thờ phượng một thần thánh khác, có thể là tiền bạc, là danh vọng, là “cái tôi to tướng”… Bạn nên làm gì để quay về với Thiên Chúa, Đấng duy nhất bạn phải thờ lạy? Với những câu hỏi này, bạn hãy đến với Hài Nhi Giê-su, thờ lạy Người và tâm tình với Người nhé!
Hê-rô-đê rất mưu mô xảo quyết và rất ác tâm. Ông ta chỉ muốn giữ vững chiếc ghế của mình, và manh tâm giết hại Hài Nhi Giê-su. Hơn nữa, ông ta còn muốn lôi kéo các đạo sĩ về phía ông. Bạn có trải nghiệm gì về việc bị sự dữ “cám dỗ” và lôi kéo bạn về phe phái của chúng? Bạn nên làm gì để tránh được sự lôi kéo đó, để không trở thành đồng minh của sự dữ?
Ba đạo sĩ tìm thấy được Hài Nhi, thì vui mừng và dâng lễ vật lên cho Hài Nhi. Bạn có muốn dâng lễ vật của bạn lên cho Hài Nhi không? Lễ vật đó là gì vậy?
Hình ảnh của ba nhà chiêm tinh với tâm tình thờ lạy Hài Nhi Giê-su đưa chúng ta đi vào trong cầu nguyện. Giờ đây chúng ta cùng dâng lên Chúa lời Thánh Thi trong Lễ Hiển Linh:
“Ba hiền sĩ thoạt nhìn Con Trẻ, Vội cúi mình thi lễ tiến dâng: Này đây phẩm vật đông phương, Vàng ròng mộc dược nhũ hương kính chầu. Như biểu tượng Vua cao Chúa cả, Nắm uy quyền nhiệm lạ vô song, Chúa Cha tiền định cho Con Thể theo tiến vật mà tuân ý trời. Vàng rực rỡ soi ngời ngôi vị, Ngát hương trầm nhủ ý Thiên Vương, Ra đời gieo vãi tình thương Liệm thân mộc dược dọn đường mai sau. Bê-lem hỡi, ta nào ngờ tới, Ngươi trở nên vĩ đại đâu bằng! Nơi Ngôi Thiên Tử cao sang, Giáng trần cứu thế ngang hàng lê dân. Ðoàn ngôn sứ bao lần tường thuật Nhiều cớ bằng sự thật hiển nhiên, Vua Trời kêu gọi chăm chuyên, Ngõ hầu đạt tới cơ duyên Nước Người. Nước Trời ấy trải dài muôn vật, Phủ trăng sao biển đất thinh không, Cả bình minh lẫn hoàng hôn, Thiên nhai vời vợi âm cung mịt mù. Muôn lạy Ðức Giê-su trìu mến, Ðã dủ thương tỏ hiện rõ ràng, Dâng Ngài hai chữ vinh quang, Muôn đời hiển trị thiên đàng uy linh”.[20]
---------------------------------------------------- [1] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.127-128. [2] FX. Vũ Phan Long, Các bài Tin Mừng Mát-thêu dùng trong phụng vụ. T.33. [3] Pesch R., Die Weihnachtsbotschaft. Bibelwerk Verlag, Stuttgart 2016. S.117-118. [4] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.135-136. [5] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.143. [6] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.144. [7] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.145-146. [8] Manlio Simonetti (Edited). Ancient Christian commentary on Schripture, Matthew 1-13. Inter Varsity Press 2001. S.23. [9] Trích bởi Ravasi G.F., Das Evangelium nach Matthaeus. Neue Stadt Verlag. München 1992. S.56. [10] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.138-139. [11] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.139-141. [12] Ravasi G.F., Das Evangelium nach Matthaeus. Neue Stadt Verlag. München 1992. S.56. [13] Manlio Simonetti (Edited). Ancient Christian commentary on Schripture, Matthew 1-13. S.26-27. [14] Pesch R., Die Weihnachtsbotschaft. S.143-144. [15] Luz U., Das Evangelium nach Matthaeus, 1. Teilband, Benziger Verlag, Zuerich 1985. S.120. [16] Kasper W., Bedenke dein Geheimnis. Meditation zu Advent und Weihnachten. Kbw. Verlag. Stuttgart 2015. S.81-83. [17] Ratzinger J., Đức Giê-su thành Nazareth, phần III: Thời thơ ấu của Đức Giê-su. T.149. [18] Kasper W., Bedenke dein Geheimnis. Meditation zu Advent und Weihnachten. S.76. [19] Kasper W., Bedenke dein Geheimnis. Meditation zu Advent und Weihnachten. S.83-84. [20] Thánh thi giờ kinh Sách lễ Hiển Linh..
Biến cố các nhà đạo sĩ từ phương đông đến tìm Chúa tại Bêlem xem như một chuyện thần thoại HiểnLinh ABC356
Biến cố các nhà đạo sĩ từ phương đông đến tìm Chúa tại Bêlem xem như một chuyện thần thoại. Có ngôi sao lạ hiện ra dẫn đường cho ba đạo sĩ, có thiên thần hiện ra báo mộng cho các ông tìm đường khác ra về. Thiên thần gọi Giuse đem Maria và Hài nhi trốn sang Ai Cập.
Xem như chuyện thần thoại, nhưng lại chuyện có thật và đến hôm nay, chưa có một nhà sử học nào chứng minh là một chuyện thần thoại. Những dấu lạ chứng minh rằng chính Thiên Chúa can thiệp trực tiếp vào thế giới để giúp con người biết được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu vớt mọi người không trừ ai.
Những việc truyền tin cho Đức Mẹ, thiên thần đã đến báo tin. Thiên thần cũng báo tin cho các mục đồng khi Chúa sinh ra. Tất cả những sự can thiệp đó không là thần thoại mà là những cách thế Chúa dùng để giúp con người, để mang cho con người những hồng ân của Ngài.
Thiên Chúa đã dùng một hiện tượng tự nhiên để mạc khải cho các đạo sĩ biết mầu nhiệm ơn cứu độ, mầu nhiệm giấu kín đã được mạc khải. Mầu nhiệm đó là: Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”.
Giáo Hội mừng mầu nhiệm đó trong lễ hôm nay. Giáo Hội xem đó như một hồng ân lớn lao cho nhân loại và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho Giáo Hội. Giáo Hội lãnh nhận Tin Mừng Chúa và cảm thấy có trách nhiệm loan truyền tin vui đó cho mọi người.
Khi xưa, tiên tri Isaia nhìn thấy vinh quang của Giêrusalem chói ngời, là hình bóng của Giáo Hội hôm nay. Giáo Hội tỏa sáng và các dân tộc đổ về Giáo Hội. Ngôi sao hiện ra cho các đạo sĩ thì hôm nay, ngôi sao đó chính là Giáo Hội, dẫn các dân tộc về với Chúa. Mỗi người tín hữu phải là một ngôi sao cho những người anh em khác chưa biết Chúa, một ngôi sao đủ sáng để hướng dẫn người khác tìm về với Chúa: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Anh em hãy làm việc lành để mọi người nhìn thấy những việc lành của anh em mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng ta không cần phô trương, không cần quảng cáo. Việc lành tự nó tỏa sáng.
Chúng ta có thành ngôi sao chưa? Chúng ta có làm việc lành gì khiến người ta nhìn thấy được? Chúa không đòi hỏi chúng ta làm những gì lạ lùng, Ngài chỉ muốn chúng ta sống tốt, thật tốt: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con là Đấng trọnlành”. Tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta phải tốt và thật tốt.
Các đạo sĩ đã cực khổ đi tìm một vị vua mà họ chỉ mới thấy loan báo qua một vì sao, chúng ta đã được biết Chúa, chúng ta có cảm thấy cần tìm Chúa nữa không? Hay chúng ta hãnh diện đã biết Chúa rồi, không cần tìm nữa? Chúng ta biết Chúa thực sự không hay chỉ biết mập mờ? Hãy tìm kiếm công phu như các đạo sĩ mới mong tìm gặp Ngài. Chúng ta hãy lên đường, hãy đi vào những nẻo đường của Kinh Thánh, của bí tích, của việc siêng năng nghe lời Chúa, của chiêm ngắm cầu nguyện. Đừng sợ khó khăn, nhọc mệt, chúng ta sẽ không tiếc công khó, vì khi tìm được Chúa, chúng ta sẽ thấy cuộc đời chúng ta tươi sáng như thế nào. Các thánh đã tìm Chúa và đã gặp được Ngài, và hôm nay các ngài đã được hạnh phúc với Ngài.
Đức tin không là một kho tàng chúng ta có sẵn, đem cất giữ trong cái tủ nào đó, mà là một cuộc tìm kiếm không thôi. Vì chúng ta không bao giờ biết Chúa trọn vẹn. Niềm tin như sự sống, cần được lớn lên, triển nở. Tiên tri Isaia đã bảo chúng ta: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được”. Đây là thời gian ân huệ cho chúng ta vì chúng ta còn dịp để tìm kiếm: “Ai tìm thì sẽ gặp”. Chúa đã nói như thế. Nhưng trước khi chúng ta tìm Chúa thì Chúa đã đến tìm chúng ta. Ngài đã đến trong thân phận con người, đã sống giữa chúng ta. Ngài vẫn luôn đi phía trước và chúng ta mãi chạy theo Ngài. Chúng ta không thể nắm bắt Chúa trong vòng tay, Ngài vẫn vượt xa tầm tay chúng ta, Ngài luôn mời gọi. Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta.
Ba đạo sĩ đã công phu tìm kiếm và được mãn nguyện. Các ông đã tin và thờ lạy Chúa qua hình ảnh của một em bé nghèo. Và cử chỉ tôn thờ của họ là hiến dâng của lễ. Họ đã nhìn nhận em bé nghèo kia là vua, là Chúa. Họ đã dâng những gì quí báu nhất của họ. Họ đã ra về mang trong tim hình ảnh của một Thiên Chúa nghèo nàn, nhưng dễ thương. Chúa đến với chúng ta cũng dưới hình ảnh của em bé nghèo nàn yếu ớt đó. Chúng ta có nhận ra Ngài không? Chúng ta có cảm thấy rằng chúng ta hạnh phúc hơn họ không? Chúng ta có Chúa gần kề. Ngài tỏ hiện cho chúng ta không chỉ bằng hình ảnh của một em bé mà thôi, Ngài tỏ hiện cho chúng ta bằng muôn vạn hình thức, chúng ta có thấy được không? Vạn vật chung quanh chúng ta là một dấu hiệu của Ngài, mọi biến cố trong đời sống là một sứ điệp. Chúa luôn hiện diện: “ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Ngài đến với chúng ta qua khuôn mặt của một người nào đó, qua một cuộc gặp gỡ bình thường với ai đó. Đức tin cho chúng ta một cái nhìn mới. Đức tin cho chúng ta thấy vũ trụ nầy đầy tràn Thiên Chúa, là dấu hiệu của tình yêu Chúa. Chúng ta đang sống trong bàn tay yêu thương của Chúa. Hạnh phúc biết bao cho ai nhìn thấy Chúa qua mọi tạo vật!
Nhưng đức tin cũng đưa chúng ta vào thử thách, vào đau khổ. Ba đạo sĩ tìm Chúa để tôn thờ. Vua Hêrôđê tìm Chúa với ý định khác, để tiêu diệt. Thế gian cũng biết Chúa, nhưng để tiêu diệt. Vua Hêrôđê đã bảo vệ ngai vàng bằng cách biến Bêlem thành một biển máu hài nhi vô tội. Chúng ta thuộc về Chúa. Sống, đối với người tin Chúa, là chấp nhận mọi đau khổ vì Chúa. Ngay từ khi mới sinh, Chúa Giêsu đã bị bách hại. Cuộc bách hại của Hêrôđê báo trước cái chết trên thập giá.
Sống đức tin là chia sẻ thân phận với Đấng đã thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta. Ngài đã chia sẻ thân phận của chúng ta khi xuống thế làm người, mang lấy tội lỗi của con người, thì chúng ta, cũng đồng số phận với Ngài. Chúng ta phải bị bách hại. Sau nầy Chúa Giêsu cũng cảnh báo các tông đồ: “ Thầy sai chúng con như chiên giữa sói”.
Cuộc sống đức tin không là một cuộc sống nhàn hạ sung sướng mà là một cuộc liều mạng cho Chúa. Trong hơn hai mươi thế kỷ, Giáo Hội luôn là đối tượng cho người ta chống đối, không lúc nào mà không có bách hại. Hiện nay trên thế giới, những cuộc bách hại tàn khốc đang xảy ra trong nhiều nước. Satan không bao giờ ngơi nghỉ tàn phá Giáo Hội, bách hại những người theo Chúa. Những cuộc bách hại đẫm máu tuy nhiên, không nguy hại bằng những cuộc bách hại không đẫm máu. Người ta bách hại bằng cách tàn phá tất cả những giá trị đạo đức, bằng lối sống vô luân, bằng những phương tiện pháp lý đi ngược với phẩm giá con người như hợp thức hóa việc ly dị, cho tự do giết hại thai nhi, và nhiều hình thức khác. Chúa Giêsu đã bảo chúng ta: “Đừng sợ những người chỉ giết chết thân xác mà không giết được linh hồn”, nhưng hôm nay người ta giết cả xác lẩn hồn.
Sống đức tin hôm nay đòi hỏi can đảm không thua gì thời Giáo Hội sơ khai. Chúng ta không vì thế mà nản chí, vì những thử thách càng làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn, sáng suốt hơn. Đức tin chúng ta được truy luyện hơn. Chúng ta vững tin vì Chúa xem ra yếu ớt như một trẻ thơ, nhưng lại là Chúa của lịch sử. Con người dù có làm gì đi nữa, cũng chỉ là bọt bèo, như con thú vật một ngày kia phải chết. Chúa cũng đã nói : “Chúng con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Trong lúc sắp chịu chết trên thập giá, Ngài đã nói như thế. Và Ngài đã toàn thắng sự chết và vẫn sống.
Tin chính là bám vào Đấng đã toàn thắng sự chết, là đầu và là cuối của mọi sự. Chúng ta chỉ sợ một điều là chúng ta có thể phản bội tình yêu của Chúa.
Chúng ta cần được củng cố trong niềm tin, cần được nâng đỡ trong những cơn bách hại, vì chúng ta cũng chỉ là ngọn lau phất phơ trước gió thôi. Chúa biết điều đó và Ngài đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài ở cùng chúng ta bằng một tấm bánh mà chúng ta được phép nuốt vào trong chúng ta. Tấm bánh nhỏ đó là nguồn sinh lực vô giá vì nó là tình yêu nguyên vẹn của Chúa chúng ta. Ngài không để chúng ta chiến đấu một mình. Ngài luôn đến với chúng ta và vì thế, Ngài đã biến những con người yếu ớt thành những con người can đảm phi thường. Chúa chúng ta vẫn là Thiên Chúa. Người ta tưởng Ngài chỉ là một bóng mờ nhưng những kẻ bách hại nằm xuống, Ngài vẫn còn đó. Tin vào Chúa, chúng ta bước tới, loan báo tình yêu của Ngài cho mọi tạo vật.
THIÊN CHÚA: ĐẤNG BIỂU LỘ TÌNH THƯƠNG - ĐI TÌM CON NGƯỜI
Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến!
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, vượt trên hết mọi sự. Ngài dùng tất cả mọi phương thế hầu HiểnLinh ABC357
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, vượt trên hết mọi sự. Ngài dùng tất cả mọi phương thế hầu mạc khải ơn cứu độ cho muôn người thuộc mọi thời, mọi nơi. Hôm nay, cùng với Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta theo chân các nhà đạo sĩ lên đường đến thờ lạy, dâng kính, tán tụng Chúa Hài Đồng.
Chúng ta thường hay gọi Ba Vua, nhưng thực ra họ là những người chiêm tinh, nhìn trăng sao, nghiên cứu những điềm thiêng dấu lạ, mà qua đó Thiên Chúa muốn mạc khải chương trình Cứu độ của Ngài. Họ là những người biết sử dụng tài năng, tài trí, các phương tiện, trí khôn, tinh hoa thời đó mà tiến bước theo tiếng gọi, lời mời của Thiên Chúa qua những sự kiện gần gũi với cuộc sống của họ. Từ phương Đông, các đất nước xa xôi, họ không ngại gian nan nguy khó, lên đường dù nghìn trùng trắc trở, theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua ngôi sao lạ, tiến đến Bê-lem để bái thờ, dâng kính Chúa Hài Nhi như tiên tri I-sa-ia loan báo “vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Isa 60, 1-2) Thiên Chúa không ẩn mình hay khép kín, hoặc xa lánh con người tội lỗi, nhưng Ngài thổ lộ, mạc khải kế hoạch yêu thương, chương trình cứu độ, và chỉ dẫn chúng ta biết nhận ra Ngài qua mầu nhiệm Nhập thể của Con Một Ngài. Đây không phải là một lời hứa suông, mà chính là ý định của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Ki-tô Giê-su. Hơn nữa, một cách cụ thể, Thánh Phao-lô đã xác tín và trình bày rõ ràng qua thư gửi cho Giáo đoàn Ê-phê-sô “tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giê-su Ki-tô” (Ep 3, 3. 5-6). Một Thiên Chúa gần gũi, luôn đi bước trước dìu dắt, yêu thương trọn hảo, chẳng chê bỏ con người yếu đuối, mỏng dòn, hay xa ngã như chúng ta.
Mặc khác, Thiên Chúa không chờ đợi chúng ta đi tìm Ngài, nhưng Ngài đi tìm chúng ta trước; và còn hướng dẫn, dạy dỗ, chỉ đường cho chúng ta đến với Ngài qua mọi phương tiện, sự kiện, cảm nghiệm, dấu chỉ, kể cả sự cố xảy trong đời chúng ta. Để rồi, nhờ ơn Chúa giúp và sự vâng phục đáp trả lời kêu mời của Ngài, chúng ta nhận biết Ngài, nhận ra chương trình của Ngài trong đời sống, trong mối tương quan, trong những lãnh vực khác nhau, v.v…Thiên Chúa đã dùng dấu chỉ ‘sao trời’, lĩnh vực mà ba nhà đạo sĩ am hiểu mà dẫn đường chỉ lối cho họ tiến đến Bê-lem gặp gỡ Con Thiên Chúa xuống thế làm người, cứu độ nhân loại. Ngược lại, Vua Hê-rô-đê và những người thông luật, am hiểu Kinh Thánh Cựu ước, biết ý định của Chúa qua lời các tiên tri ‘tại Bê-lem thuộc xứ Giu-đa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bê-lem, đất Giu-đa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giu-đa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta’ (Mt 2, 5-6), nhưng họ không dùng những phương tiện ấy để nhận ra Thiên Chúa - một vị Thiên Chúa hiện hữu, gần gũi và hằng đi tìm con người. Vì lòng đố kỵ, ‘cái tôi’ mà Vua Hê-rô-đê và các nhà thông luật, đại giáo trưởng đã phớt lờ tiếng gọi của Chúa thúc giục trong tâm hồn họ qua lời Kinh Thánh mà họ nằm lòng. Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, dù tất bật đến đâu, dù bận rộn và thăng trầm, vui buồn sướng khổ, dù ở bậc sống nào chăng nữa, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta, đi tìm chúng ta, trông chờ chúng ta, biểu lộ chương trình Ngài cho chúng ta và hằng hướng dẫn chúng ta biết nhận ra Ngài; nhưng thật đáng buồn, dường như chúng ta lại trở nên giống Vua Hê-rô-đê, các kỳ lão hơn là ba nhà đạo sĩ vâng phục đáp trả lời mời của Chúa! Vì vậy, chúng ta xem ý định, chương trình, kế hoạch của bản thân, của cộng đoàn, của hội nhóm hơn những điều Chúa muốn, Chúa mong mỏi và biểu lộ hằng ngày qua đời sống cầu nguyện, đời sống phục vụ, tận hiến, truyền giáo cũng như các việc bác ái của chúng ta!
Và khi gặp gỡ Hài Nhi Giê-su cùng với Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se, ba nhà đạo sĩ đã quỳ gối, bái lạy Ngài, và dâng lên những gì quý giá nhất của họ: vàng, nhũ hương và mộc dược, thể hiện niềm tín thác trọn hảo của họ, lòng cậy trông vô bờ bến cũng như tình yêu son sắt không phai tàn. Còn chúng ta, chúng ta dâng gì cho Chúa Hài Đồng khi được diện kiến Ngài? Lễ vật quý giá của chúng ta là gì? ‘Vàng’ của chúng ta là gì? Có phải lòng yêu Chúa không hề thay đổi và tình mến thương anh chị em vô vị lợi? ‘Nhũ hương’ của chúng ta là chi? Chẳng phải là niềm trông cậy thắm thiết vào chương trình đầy lòng thương xót của Thiên Chúa sao? Và ‘mộc dược’ của chúng ta là gì? Niềm thành tín sâu sắc, chẳng hề nhạt phai chăng?
Mau chân cất bước ra đi, Ba nhà đạo sĩ ngại gì xa xôi. Một lòng đáp trả lời mời, Tiến về hang đá đầy vơi vui mừng. Con đây mang đến lễ dâng, ‘Vàng’ thì chẳng có, bâng khuâng nỗi niềm. Đời này vẹn mãi con tim, Kiên trung, tín thác, kiếm tìm ý Cha. ‘Nhũ hương’ cậy mến bao la, Trọn đời son sắt, lời ca hát mừng. Lòng con vang mãi tưng bừng, ‘Mộc dược’ thành tín, hoà cùng muôn dân. Cảm tạ Tình Chúa tri ân Sống sao cho trọn, ân cần lòng Cha. Amen!
Chủ đề: Tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa là ánh sao dẫn đường Kính thưa ...
Kinh Thánh là cuốn sách Thiên Chúa tự tỏ bày tình yêu và lòng thương xót đối với thế gian, nhằm HiểnLinh ABC358
Kinh Thánh là cuốn sách Thiên Chúa tự tỏ bày tình yêu và lòng thương xót đối với thế gian, nhằm lôi kéo thụ tạo liên kết với Ngài trong tình yêu và sự sống. Sự tỏ bày này được gọi bằng một tên riêng “hiển linh”, vừa mang chiều kích thiêng thánh, vừa diễn tả sự hiện diện cụ thể của Đức Chúa trong lịch sử.
Theo triết tự: “hiển linh”(hiểu như phép lạ) là sự xuất hiện của thần linh giải cứu những chiến binh, những thành trì, đang bị địch quân vây khốn, là xoay đổi tình thế từ đen tối sang sáng láng rạng ngời, từ yếu đuối sang mạnh mẽ, từ nô lệ, áp bức sang độc lập, tự do....
Isaia diễn tả cuộc hiển linh bằng cách đọc lại lịch sử dân tộc mình, cốt nhấn mạnh hiệu quả của biến cố thần hiển: “Dân tộc bước đi trong tối tăm, đã nhìn thấy ánh sáng rạng ngời, ánh sáng bừng lên chiếu soi người cư ngụ miền thâm u sự chết” (Is 9,1). Chúa đã rút lại án phạt, đã tặng ban ân sủng, đã hủy diệt chiến tranh bằng cách bẻ gẫy gông cùm, xiềng xích, đốt sạch những quân trang, quân dụng phục vụ chiến trường... Ngôn sứ đồng hóa hiển linh với con trẻ Belem: một hài nhi đã chào đời, một người con đã được ban tặng chúng ta, Ngài lãnh nhận quyền bính, chịu trách nhiệm dẫn dắt muôn dân trong công bình, chính trực, nghĩa là, trong tình yêu và lòng thương xót vô biên, từ bây giờ và cho đến muôn đời.
Sau khi đã liệt kê mọi hiệu quả biến cố hiển linh, Isaia công bố thành ngữ bản lề làm điểm tựa cắt nghĩa tính hợp lý của lịch sử cứu độ : “Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó” (Is 9, 6). Cha Thuấn dịch: “ Lòng phẫn ghen”, nhóm các giờ kinh phụng vụ dịch: “Yêu thương nồng nhiệt”, bản TOB dịch: “Tình yêu cháy bỏng”.
Tôi tâm đắc bản dịch của UBGM về phụng vụ, xuất bản 1969: “Lòng ghen yêu”(amour jaloux). Lòng ghen yêu, tự thân, đòi sự chung thủy tuyệt đối, độc chiếm hoàn toàn, không chấp nhận bất cứ một mảy may phân chia ; lòng ghen yêu sẵn sàng hủy diệt kẻ thù đe dọa tình yêu ấy.
Khi áp dụng lòng ghen yêu cho Thiên Chúa, người ta không suy diễn theo kiểu cách loài người, nghĩa là, coi vật này, người kia là thù địch, là kẻ phá hoại. Thiên Chúa không có kẻ thù hiểu theo nghĩa siêu hình, mà chỉ có thù địch hiểu theo nghĩa luân lý, đạo đức. Kẻ thù của Chúa là tối tăm, tội lỗi, thù oán, ghen ghét, giận hờn, chia rẽ, lăng loàn, ganh tỵ và cả sự chết nữa. Nói TC ghen yêu, là muốn tuyên xưng quyền năng cứu độ tuyệt đối được hoàn thành trong sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su, nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được giải thoát, được thừa hưởng tình yêu và sự sống thần linh cách vô lường.
Bài đọc I diễn tả lòng ghen yêu của Chúa thiên binh trang điểm cho dân được tuyển chọn bằng những ân huệ thiên hình vạn trạng, khiến nó trổi vượt trên tất cả. Vẻ huy hoàng Chúa ban cho Israel khiến chư dân nao nức, cất bước tìm về chiêm ngắm, để soi mình vào đó và cũng ước mong được Chúa mặc cho hồng ân như thế.
Đại diện cho nhóm chư dân là ba vua đến từ Phương Đông.
Theo ánh sao dẫn đường, tất cả tìm đến Belem. Họ gặp hài nhi và mẹ người. Luca nhẹ nhàng nhắc rằng: “họ hết sức vui mừng, sấp mình thờ lạy” (Lc 2, 11) và tại đây quà tặng được trao đổi cho nhau: vàng, nhũ hương, mộc dược, được đổi lấy Giê-su, Quà tặng của lòng thương xót.
Dĩ nhiên, họ vui mừng vì đã đổi của hèn lấy của cực trọng là Nước Trời, là Giê-su, Chúa cả trời đất: sấp mình thờ lạy biểu đạt lòng tin, còn vui mừng là hiệu quả của đức tin ấy. Cuộc đời các vị vua này đã biến đổi hoàn toàn vì đã chọn đường khác trở về quê hương mình. Đường khác ở đây là đường đức tin, được củng cố bằng đức cậy, được nuôi dưỡng bằng đức mến.
Thưa anh chị em,
Ánh sao dẫn đường là kế hoạch Thiên Chúa dùng để bày tỏ tình yêu và lòng thương xót cho những ai thành tâm, thiện chí kiếm tìm Ngài. Đây là đường của yêu thương, của phục vụ trong lòng thương xót.
Do vậy, những ai muốn dấn bước trên nẻo đường này, đều phải đóng đinh thân xác mình cùng những đam mê vào thập giá và nhất quyết sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần.
Lễ hiển linh là lời mời gọi chúng ta bước theo ánh sao và trở nên ánh sao để Phúc Âm hóa bản thân và tân Phúc Âm hóa con người trong thế giới hôm nay.
Sứ mệnh thật lớn lao, đầy gian nan thử thách, nhưng nhiều niềm vui và ơn an ủi của Thánh Thần.
Bước theo ánh sao là triệt để sống hoán cải, loại bỏ nếp sống xưa kia, nếp sống của con người cũ, chiều theo những đam mê, lầm lạc và nhiều thứ tệ đoan. Bước theo ánh sao là mặc lấy con người mới trong sự công chính, bình an, đạo đức, hiền lành, khiêm tốn, chu toàn mọi bổn phận thuộc đấng bậc mình.
Trở nên ánh sao là mang lấy tâm tư của Chúa Giê-su, là nối dài tình yêu và lòng thương xót của Giê-su trong chính cuộc đời mình.
Cụ thể: biết chấp nhận và tha thứ cho nhau, sẵn sàng chia sẻ tùy khả năng với những anh chị em nghèo khó, bất hạnh, bệnh tật, gắn bó với nếp sống văn hóa toàn thể, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương.
Phải luôn nhắc mình: Tôi phải nên giống Chúa, phải yêu như Chúa yêu!
Chắc chắn, cuộc đời chúng ta sẽ là ánh sao đích thực hướng dẫn con người hội nhập vào gia đình Ba Ngôi, cội nguồn của “tình yêu và sự sống” thật.
Xin Chúa chúc lành cho cộng đoàn mừng lễ Chúa hiển linh hôm nay. Amen.
Chắc hẳn ai trong chúng ta ít ra cũng đã có một lần bị “Lầm đường lạc lối” cả về nghĩa đen lẫn HiểnLinh ABC359
Chắc hẳn ai trong chúng ta ít ra cũng đã có một lần bị “Lầm đường lạc lối” cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đi lạc đường, sai đường, nhầm đường là chuyện đương nhiên khi chúng ta chưa có kinh nghiệm hay là lần đầu mình muốn tìm đến một nơi nào đó. Cũng có thể, vì lý do chủ quan hay khách quan, sau một thời gian dài, chúng ta mới nhận ra rằng, sự nghiệp, công việc mà mình đã-đang làm hay lý tưởng, ơn gọi mà mình đã-đang theo đuổi-dấn thân bấy lâu nay, hóa ra là mình đã bị lầm tưởng, sai lạc, “lầm đường lạc lối”. Khi phát hiện ra mình bị “lầm đường lạc lối” như vậy, chúng ta có thất vọng, chán nản, bỏ cuộc, hay nỗ lực, cố gắng để tìm ra hướng đi, con đường mới; những lúc như vậy, điều gì sẽ giúp để chúng ta có thể định hướng lại hầu vững tin, dấn thân và tiến bước?
Lễ Hiển Linh hôm nay, Thiên Chúa đang mạc khải và chiếu tỏa tình thương cứu độ cho tất cả chúng ta qua nhiều cách thế, với những ai thành tâm thiện chí, sẽ được Chúa ban ơn để họ được thỏa lòng mong đợi. Điều này được minh chứng qua các bài đọc Lời Chúa. Ánh sáng đã soi chiếu, lan tỏa cho chúng ta cùng toàn thể nhân loại, đó là “Ánh Sáng của Con Thiên Chúa”. Qua ánh sáng tình thương và ân sủng đích thực này, Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta, một khi đã khám phá ra, tìm gặp được, hãy dấn thân, tin theo và tiến bước, để rồi chính chúng ta trong hành trình ơn gọi-sứ vụ của mình, cũng có thể trở nên gương sáng soi dẫn cho người khác đến tìm gặp Chúa và sống trọn vẹn cho Ngài.
Bài đọc một, Tiên tri Isaia đã mời gọi những ai cư ngụ và sống tại Giêrusalem hãy cảm nếm vì Thiên Chúa đã thương chiếu rọi ánh vinh quang của Ngài trên dân. Những ai nhận ra ánh sáng ân sủng này của Thiên Chúa, hãy vui mừng để loan báo và sống với ân ban đó; để từ đây tất cả mọi nước mọi dân cũng sẽ nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa qua Giêrusalem. “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.”
Trong bài đọc hai Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Ngài cho các tín hữu Ephêsô biết: ánh sáng ân sủng của Thiên Chúa được mạc khải cho Ngài đến từ Chúa Giêsu Kitô. Qua Đức Giêsu Kitô và những người mà Chúa ủy thác, dân ngoại cũng được thừa hưởng ân sủng và trở nên dân thánh Chúa trong nhiệm thể của Chúa Giêsu Kitô. Hơn ai khác, chính bản thân Phaolô, khi Ngài nhận được ánh sáng ân sủng, Ngài đã khiêm tốn, mở lòng để Chúa làm cho trở nên tông đồ của mọi dân mọi nước. Giờ đây, Phaolô cũng mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài luôn khiêm tốn, mở lòng trước ơn ban tình thương của Chúa, hãy để cho ánh sáng Chúa soi dẫn hầu qua sứ vụ-ơn gọi của chúng ta, ơn Chúa được lan tỏa đến với tha nhân.
Tin mừng theo Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta có ba cách thế được mạc khải để giúp con người nhận ra được tình thương, hồng ân của Thiên Chúa đến từ dấu chỉ ánh sáng của ngôi sao lạ; nhưng lại có ba cách đáp trả khác nhau. Trước hết, với ba nhà Đạo sĩ: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Mặc dầu họ là dân ngoại, không phải dân riêng Do Thái được tuyển chọn, nhưng khi nhận biết có dấu lạ đặc biệt từ ngôi sao, họ đã phân tích, suy xét và nhận định rằng đây chính là ngôi sao của một vị Vua người Do Thái mới sinh ra. Họ đã mau mắn thu xếp mọi sự để lên đường theo dấu chỉ của ánh sao. Trên hành trình tìm đến với vị Vua mới sinh này, chắc hẳn không biết bao nhiêu khó khăn mà họ đã gặp phải. Có lúc họ không còn biết phải chọn lối đi và hành trình nào, vì ánh sáng từ ngôi sao không còn nhìn thấy nữa. Nhưng không vì thế mà họ bỏ cuộc, họ đã quyết tâm để tìm hỏi, cuối cùng với những nỗ lực, họ cũng được đáp đền. “Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng.” Thật vậy, với sự mạc khải qua ánh sao, ba nhà Đạo sĩ đã được diện kiến Chúa Hài Nhi Giêsu, họ đã hân hoan vui sướng, dâng tiến lễ vật với lòng tôn kính, cảm tạ và tri ân. Qua đây, chúng ta thấy điều mà bài đọc một tiên báo được ứng nghiệm: “Tất cả mọi người đang tụ họp, tìm đến…đem theo vàng và nhũ hương và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.”
Thứ đến, với các Thượng tế và Kinh sư, khi được hỏi họ: “Vua Do Thái mới sinh ra ở đâu?”Họ đã trích dẫn Kinh Thánh và biết rõ theo lời tuyên báo thì Ngài sẽ được sinh ra tại Bêlem. Với những chuyên gia, họ đã nhận ra được mạc khải từ Kinh Thánh, họ biết đường, biết lối, nhưng chẳng ra đi tìm kiếm hay hành động gì cả; ánh sáng Lời Chúa không đem lại ý nghĩa, ơn thánh gì, nên trong họ không có sự thay đổi nào. Cuối cùng, với Hêrôđê, khi ông được các Đạo sĩ và các Thượng tế báo cho biết về vị Vua mới sinh. Mới nghe tin, ông đã hoang mang lo sợ; và để biện hộ cho chính mình, ông đã mưu toan, tìm kế để sát hại Hài Nhi Giêsu. Đây chính là thái độ, hành động chối từ, dập tắt ánh sáng đã được mạc khải. Hai cung cách đáp trả trên của các Kinh sư và Hêrôđê chính là sự “lầm đường lạc lối”. Còn với chúng ta hiện nay, con đường cuộc sống chúng ta đi đang như thế nào?
Thưa ACE, qua Lời Chúa và qua các Bí tích của ân sủng, chúng ta cũng được Chúa mạc khải và mời gọi: hãy đến để được Chúa ban ơn chúc phúc. Vậy, liệu chúng ta có khiêm tốn, mở lòng và mau mắn đáp trả, hay chúng ta vẫn cứ thờ ơ-dửng dưng, hoặc tệ hại hơn là chúng ta đã từ chối, khước từ trước ánh sáng chỉ đường, ơn ban hồng ân của Chúa khi chúng ta yếu đuối, phạm tội. Lạy Chúa, xin cho lòng trí và cuộc sống chúng con luôn khao khát tìm gặp được ánh sao sáng là Đức Giêsu Kitô, để cùng với ơn thánh của Ngài trao ban, chúng con có thể bước đi trong con đường ngay chính, thánh đức và đạt tới bến bờ an vui, hạnh phúc đích thực. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Hôm nay là lễ Hiển Linh, cử hành việc các đạo sĩ theo dấu một vì sao để tìm đến với Hài nhi HiểnLinh ABC360
Hôm nay là lễ Hiển Linh, cử hành việc các đạo sĩ theo dấu một vì sao để tìm đến với Hài nhi Giêsu. Hành trình và hành động thờ lạy của các đạo sĩ là những ví dụ điển hình về cách thức chúng ta đi tìm và gặp được Đức Kitô trong cuộc sống. Lễ Hiên Linh thường được giải thích như là một lời mời gọi cả dân ngoại cùng với người Do Thái đến tôn thờ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, được nhấn mạnh trong bài đọc thứ nhất và bài đọc thứ hai. Trình thuật cũng đưa ra các ví dụ để nhận ra các nhà lãnh đạo hư hỏng trong dân Do Thái thời đó.
Trong bài Tin Mừng của thánh Matthêu, chúng ta bắt gặp sự lo lắng của vua Hêrôđê trước tin Chúa Giêsu là vua dân Do Thái, cho rằng sự ra đời của Hài nhi là hiểm họa tiềm ẩn đe dọa quyền lực của ông. Hêrôđê hỏi ý kiến các thượng tế và kinh sư để biết thêm thông tin về sự xuất hiện của Đấng Mêssia. Lời bàn bạc của các nhà lãnh đạo Do Thái với vua Hêrôđê diễn giải bản văn từ sách ngôn sứ Mikha và 2 Samuen: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa; vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời.” Những đoạn này nói về vua Đavit và giao ước hứa hẹn triều đại vững bền cho ông.
Thánh sử Matthêu giải thích những đoạn Kinh Thánh này theo cái nhìn về việc ra đời của Chúa Giêsu tại Bêlem, tạo nên mối liên hệ giữa Chúa Giêsu, vua Đavit và Kinh Thánh Do Thái. Các nhà lãnh đạo Do Thái không luồn cúi, không xoa dịu hay làm cho Hêrôđê thỏa mãn với những gì ông ta muốn nghe. Họ không phủ nhận mối đe dọa tiềm ẩn đối với quyền lực của Hêrôđê; đúng hơn, họ khẳng định tầm quan trọng của một Đấng Mêssia, người sẽ trổi lên như một nhà chăn dắt dân tộc từ Bêlem. Mặc dù ý định xấu xa của Hêrôđê đã rõ ràng nhưng họ vẫn chọn nói sự thật trước quyền lực nhà vua.
Rất quan tâm đến vấn đề nên vua Hêrôđê nhờ các nhà đạo sĩ làm gián điệp, cử họ đi khám phá tung tích của Hài nhi Giêsu. Thánh sử Matthêu mô tả các đạo sĩ dâng những quà tặng mà độc giả Do Thái xem là quan trọng: vàng, nhũ hương và một dược, những lễ vật liên quan đến vương quyền, chức tư tế và việc tẩn liệm.
Các đạo sĩ đã được báo mộng - một hình thức phổ biến trong Kinh Thánh để nói về việc giao tiếp thần linh - không quay trở lại với Hêrôđê, vì vậy họ tránh nhà vua và khôn ngoan đi lối khác mà về xứ sở. Có lẽ vua Hêrôđê muốn dồn họ tới chỗ Hài nhi Giêsu sinh ra và mưu toan giết hại Ngài như ông đã làm sau đó trong trình thuật về việc thảm sát các trẻ sơ sinh. Thay vì gây nguy hiểm cho Hài nhi Giêsu hoặc chính họ, các đạo sĩ đã tránh vua Hêrôđê như một biện pháp để phòng vệ.
Các nhà cầm quyền Do Thái và các đạo sĩ đấu tranh với ý định xấu xa của vua Hêrôđê và tìm ra những cách hữu ích để không hỗ trợ sự suy đồi của ông.
Những bài đọc này nhắc nhở chúng ta biết ơn những người đương đầu với những nhà lãnh đạo gây ra bất công và thức tỉnh chúng ta nhận ra cách thức Chúa tiếp tục kêu gọi chúng ta nói lên sự thật với những người lãnh đạo như thế. Trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay, giống như các vị đạo sĩ, chúng ta phải tiến đến gần Chúa Kitô hơn, nỗ lực dấn thân trong thế giới và xa tránh sự suy đồi bằng mọi giá.
Hiểu biết nhiều, tài cao đức rộng, nếu không đem ra thực hành, không cho đi, thời gian trôi qua HiểnLinh ABC361
Hiểu biết nhiều, tài cao đức rộng, nếu không đem ra thực hành, không cho đi, thời gian trôi qua, khả năng vốn quý ấy mai một, cũng thành ra vô nghĩa, đáng tiếc ! Gặp được niềm vui, lo ki cóp cho mình, cố tình bưng bít, không chia sẻ, thiên hạ vẫn gọi là kẻ ích kỷ. Có lòng quảng đại, biết yêu cha, mến mẹ, sống hết tình hết mình, tuy không mang lại sự giầu có, nhưng bình an, niềm vui, sẽ ở với ta, sẽ nói lên tất cả: tình yêu trở nên vĩ đại khi ta rộng lòng cư xử với nhau, hoặc sẽ tan biến khi người ta ích kỷ với nhau. Sai sót, bê bối, của cha mẹ, có thể làm cho kinh tế gia đình khó khăn, con cháu đau khổ ; nóng tính, cư xử thiếu hài hòa của cha xứ, làm sao lại không ảnh hưởng xấu đến đời sống đức tin của giáo xứ ?
Mặt trời mọc ở phương đông, trăng sao tỏa sáng khi trời đêm không mưa gió bão bùng, đó là chân lý ; các tinh tú rạng soi khắp muôn dân là theo quy luật, dù hoàn cảnh địa lý vùng miền có khác nhau. Trong khi các Đạo sĩ từ xa thấy sao lạ, và họ nhanh chóng lên đường, những kẻ ở gần không thấy, không phân biệt được đâu là sao lạ, đâu là sao thường ! Nghịch lý ở đời vẫn phản ánh sự thật phũ phàng: Bụt chùa nhà không thiêng, trong khi quan niệm: có bệnh vái tứ phương, thực tế thì thầy thuốc càng ở phương xa càng thiêng. Triều thần Hêrôđê không thấy sao lạ, nhưng họ có các chuyên gia tài giỏi tính được giai đoạn “Vua mới sinh” ở Belem. Người tín hữu vẫn hiểu: “Chúa hiển linh” là “Chúa tỏ mình ra”, vấn đề rắc rối là “trông thấy” và mở lòng đón như nhận thế nào ?
Hành trình khám phá dấu lạ điềm thiêng, tìm kiếm Vua mới sinh, các Đạo sĩ phải đối diện nhiều gian khổ, nguy hiểm, thao thức muốn được thấy của các Đạo sĩ, phản ánh một sự thật: đi ngược lại với suy xét của đám đông, hoặc ta là thiên tài, hoặc ta là kẻ ngu ngốc. Được và mất, thấy và không thấy, có thể là cơ hội minh chứng bản lĩnh, có thể là một tai họa xóa đi tất cả những gì ta đang có. Người đời có lời khuyên răn đầy thách thức: thà rằng ăn đậu ăn rau trong bình an, còn hơn cá thịt rượu tây trong sợ hãi. Không biết hành trình tìm kiếm đức tin thực tế của các Đạo sĩ, của cha ông chúng ta thì sao, chỉ biết rằng, dù người ta có vận sức dụng mưu tới đâu, nếu thiếu đi niềm tin vào vào trời đất, tổ tiên dòng tộc, coi như bạn tự chối bỏ phúc lộc rồi.
Trong khi chỉ người kitô hữu mới nghe: ai xin sẽ được, ai tìm sẽ gặp, ai gõ sẽ mở cho, vậy các Đạo sĩ năm đó chưa phải là kitô giáo, người đời còn xem họ là những bậc quân vương hiển hách, do đó hành trình tìm kiếm của họ không hề đơn giản ! Thấy và không thấy, chắc hẳn phải do nét đẹp tâm hồn, do ý chí quyết tâm muốn được thấy, được gặp. Thấy và không thấy, nhất định không phải do mắt tinh tai thính, không phải do mắt mờ vì tuổi tác, nói theo lý lẽ tự nhiên: người không muốn tới đích, thì cho dù khởi sự có tốt mấy, cũng hoài công vô ích. Triều thần Hêrôđê, và cả người tín hữu đạo gốc chúng ta hôm nay, ai cũng có thời gian để tìm, có cơ hội để thấy để gặp, nhưng không phải gặp đại gia, thấy công danh sự nghiệp, mà là thấy Chúa trong tha nhân, gặp Chúa trong bình an tâm hồn.
Ngày hôm nay, tìm gặp người đẹp, tìm gặp người tài, nhìn thấy người giầu, nhìn thấy người có chức quyền, không khó. Có chăng, tìm gặp được bình an tâm hồn, tìm gặp được niềm vui trong các tương quan gia đình, xã hội, khó hơn. Thấy được nghĩa cử yêu thương, cảm nhận được hạnh phúc thật ngay trong hiện tại và tương lai, đó mới là khó. Sống theo quan niệm của người trẻ hôm nay: ai sao ta vậy, ai làm bậy, đừng làm theo. Sống theo lập luận của Thánh Augustinô: ông kia bà nọ nên thánh được, tại sao ta không ? Đúng, chúng ta hiện không dị tật, không đui mù câm điếc, chúng ta còn có nhiều tiện nghi hiện đại, hơn hẳn các Đạo sĩ năm xưa. Vì thế, “thấy và gặp” niềm vui hạnh phúc, gặp Chúa trong đời sống đức tin, thấy Chúa trong anh chị em, luôn cần thiết, để ta thấy và gặp.
Nếu như tiền nhân chúng ta nói rằng: không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có người tuyệt vọng vì hoàn cảnh, thì quả thực, cơ hội để sửa sai, cơ hội để làm lại cuộc đời, hay cơ hội để nhìn, để thấy Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ không phải là mơ hồ ! Sao lạ mà Đạo sĩ đã thấy, có thể chúng ta không gặp, nhưng sự kiện lạ, những dấu lạ đang xảy ra nơi cuộc sống này: con nhà nghèo học giỏi, người không giầu có địa vị, nhưng vẫn xả thân làm thiện nguyện hết mình. Cuộc sống đầy phức tạp, tìm kiếm câu trả lời đúng hoặc sai, thấy và không thấy không hề dễ dàng, nếu thiếu sự quyết tâm, không đủ bình tĩnh để đứng dậy mỗi khi nghĩ sai, nói không chuẩn, thực hành thiếu chính xác. Chúng ta hôm nay không quyền thế, nên không có quyền “đe loi”, hoặc cấm cản người khác tới Belem. Chúng ta có cơ hội để học hỏi, để mạnh dạn tìm kiếm hạnh phúc bằng tinh thần khiêm tốn như các Đạo sĩ: “Vua người Do thái mới sinh hiện ở đâu ?”. Cơ hội để thấy Chúa nơi anh chị em, cơ hội để gặp bình an, niềm vui hạnh phúc, chắc chắn là dấu lạ hàng ngày ở xung quanh ta, xin Hài nhi Giêsu chúng lành cho mỗi người chúng con. Amen.
Đến một nơi chưa một lần đến, gặp một người chưa một lần gặp, ta phải tự giới thiệu, nếu không HiểnLinh ABC362
Đến một nơi chưa một lần đến, gặp một người chưa một lần gặp, ta phải tự giới thiệu, nếu không được ai đó đã quen biết trước giới thiệu ta cho những người xa lạ, lần đầu tiên gặp gỡ.
Ngôi Lời của Thiên Chúa đã tỏ mình cho nhân loại bằng cả hai cách : được người khác giới thiệu và tự giới thiệu :
Được người khác giới thiệu, khi Ngôi Lời được Chúa Cha dùng hẳn một dân tộc được tuyển chọn là Ítraen để giới thiệu, và trao cho lịch sử của dân tộc này một sứ vụ rất quan trọng, là chuẩn bị công trình Nhập Thế, Nhập Thể để cứu chuộc của Ngôi Lời Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Thực vậy, bên cạnh sứ vụ làm chứng giữa các dân tộc chân lý Thiên Chúa Giavê là Thiên Chúa duy nhất, dòng dõi của tổ phụ Ápraham còn mang một trọng trách khác nữa là loan báo từ hàng ngàn năm trước, qua các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa chọn trong dân để báo trước Đấng Thiên Sai sẽ đến để cứu chuộc loài người, mà hình ảnh về Ngài đã được mô tả như sau « trong sách ngôn sứ Isaia : Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa » (Lc 4, 17-19).
Và khi thời gian đã đến, Ngôi Lời được Gioan, người anh họ được Thiên Chúa tuyển chọn làm Tiền Hô giới thiệu cho mọi người « như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa » (Lc 3,4-6).
Gioan đã vừa giới thiệu Đức Giêsu, vừa tự giới thiệu mình : « Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi » (Ga 1,23), «Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần » (Mc 1, 7-8). Ấn tượng hơn cả là một hôm kia, « khi ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, thì liền nói : « Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng : « Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi » (Ga 1,29-30).
Không chỉ được giới thiệu, Ngôi Lời còn tự giới thiệu mình dọc suốt Tin Mừng, đặc biệt trong đêm Giáng Sinh, Ngài tự giới thiệu mình dưới hình hài « một trẻ thơ sơ sinh bọc tã, nằm rong máng cỏ », như sứ thần Chúa đã nói với các mục đồng khi hiện ra báo cho họ tin mừng Giáng Sinh : « Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ » (Lc 2, 12).
Khi tỏ mình cho các mục đồng, Thiên Chúa làm người đã tự giới thiệu mình là con người nghèo khó, bé nhỏ như trẻ sơ sinh mong manh, yếu đuối. Đồng thời tự giới thiệu mình là lương thực nuôi sống mọi người khi nằm trong máng để cỏ cho chiên lừa ăn, nhất là đã sinh ra ở một làng có tên Bêlem, nghiã là « Nhà của cơm bánh », ở đó sẽ chẳng còn ai phải đói khát, thiếu ăn.
Thiên Chúa làm người ấy còn tự giới thiệu mình qua những tặng vật của ba đạo sĩ theo ngôi sao lạ đến từ phương xa (x. Mt 2, 11) : với vàng, Ngài tự giới thiệu mình là vua với quyền « xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn…, bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ, ra tay cứu độ kẻ khó nghèo, đập tan lũ cường hào ác bá.. Triều đại Người, đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn » (Tv 71, 2.4.7) ; với « nhũ hương », Ngôi Lời tỏ mình cho muôn dân Ngài là Đức Chúa, vì chỉ Đức Chúa mới được xông hương thờ lậy, và được chúc tụng, như
« muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen rằng : « Vinh danh Thiên Chúa trên trời» trong đêm Giáng Sinh (Lc 2, 13-14) , « vì vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa » trên « bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân » (Is 60,1-2) ; sau cùng, với « mộc dược », Ngôi Hai Thiên Chúa tự tỏ mình với muôn dân Ngài là con người thật, vì Ngài cũng chết và được tẩm liệm bằng mộc dược như mọi người.
Tóm lại, Đức Giêsu đã tỏ mình qua mầu nhiệm Giáng Sinh : Ngài là Con Người thật, như thánh Gioan tông đồ đã qủa quyết : « Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người » (Ga 1, 14), và chân lý ấy được thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại củng cố mạnh mẽ khi viết cho giáo đoàn Philípphê : « Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự » (Pl 2, 6-8).
Cùng một lúc, Ngôi Lời Thiên Chúa cũng tỏ mình là Đức Chúa, Đấng Cứu Tinh, Đấng đến để cứu chuộc nhân loại, như lời trấn an các mục đồng của sứ thần : «Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa » (Lc 2, 10-11). Ngài là Thiên Chúa thật, Thiên Chúa của Vinh Quang trên trời, và Thiên Chúa của Bình An cho hết mọi người thiện tâm dưới thế.
Với mỗi người, Thiên Chúa còn tỏ mình là người Cha nhân hậu, Mục Tử nhân lành, người Bạn Đường nhân ái luôn có mặt, đồng hành để yêu thương, ủi an, bênh đỡ, cứu chữa, làm cho « sống và sống dồi dào » (Ga 10,10), như con cái được thừa hưởng gia nghiệp, như bạn hữu tri âm tri kỷ biết mọi việc của chủ mình, và như đoàn chiên được âu yếm chăm sóc, nâng niu.
Hôm nay, có lời ca cứ âm vang trong ta: “Xin dẫn đường con đi về Thiên Quốc yên bình của Ngài HiểnLinh ABC363
Hôm nay, có lời ca cứ âm vang trong ta: “Xin dẫn đường con đi về Thiên Quốc yên bình của Ngài, sóng gió trên dòng đời xin đưa dìu thuyền con tới bến. Xin cho lòng con luôn đặt niềm tin vào bàn tay Chúa, xin giúp con can trường để vượt qua nỗi nguy sợ trên đời” (bài hát “Bước đi với Ngài”, tác giả Đăng Khoa -Small). Quả thật, đường càng gian nan nhưng có Thầy Giêsu dẫn lối, ta lại càng thêm vững tin bước đi, bởi chính Chúa là sức mạnh cho ta.
Giáng sinh về, ngắm nhìn hang đá, ta dừng lại nơi hình ảnh của ba nhà chiêm tinh. Họ đã theo dấu của ngôi sao lạ xuất hiện bên phương Đông để tìm kiếm vua dân Dothái. Hành trình ấy chắc hẳn đã mang lại cho các ông nhiều trải nghiệm thú vị, được cảm nếm niềm hạnh phúc lớn lao khi được gặp Đấng Kitô; đồng thời, các ông cũng phải vượt qua rất nhiều gian khổ và thách đố. Thánh sử Mátthêu thuật lại rằng: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2, 2). Chỉ nhìn thấy ngôi sao của Người xuất hiện, họ đã hăng hái ra đi. Khi không nhìn thấy ngôi sao nữa, họ tìm đến Giêrusalem, gặp vua Hêrôđê để được giúp đỡ. Ta ngạc nhiên trước sự bối rối của vua Hêrôđê và sự xôn xao của cả thành Giêrusalem. Khi nghe tin Đức Vua dân Do thái mới sinh họ đã không vui mừng. Sự bối rối của vua Hêrôđê và những toan tính của ông đã cho thấy ông không hề mong đợi sự xuất hiện của Đấng Kitô. Cả thành Giêrusalem cũng xôn xao trước một tin bất ngờ như thế, nhưng chẳng có ai lên đường tìm kiếm. Ngay cả những kinh sư và các biệt phái là những người thuộc lòng Kinh Thánh, biết rõ nơi Đấng Kitô sẽ sinh ra, cũng đã không lên đường tìm kiếm. Chỉ có ba nhà chiêm tinh rong ruổi kiếm tìm với tất cả lòng khát khao và sự kiên trì. Lòng khát khao của họ đã được đền đáp. “Ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng” (Mt 2, 10). Họ mừng rỡ bởi ngôi sao sẽ hướng dẫn họ, giúp họ tìm thấy Hài Nhi. Niềm vui ấy còn được diễn tả rõ nét qua từng hành động: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2, 11). Ta có vui mừng khi Đấng Kitô đã sinh ra? Người sinh ra cho ta và vì ta.
Hãy dừng lại, ta sẽ thấy được nỗi khát khao nơi tâm hồn mình. Hãy để Chúa Thánh Thần dẫn đưa, kiên trì trong từng chặng đường. Hãy để ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu sáng nơi tâm hồn ta, giúp ta nhận ra vẻ đẹp thần linh nơi những con người mình gặp gỡ. Chúa Kitô ở trong họ. Người sẵn sàng tỏ mình cho ta.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh. Nhờ thế, con được thôi thúc ra khỏi mình để tìm kiếm Chúa bằng cách đến với người anh chị em xung quanh con. Xin cho con cũng nhận ra Chúa nơi những người con gặp gỡ. Xin cho lòng con luôn cháy lửa khát khao được gặp Chúa, để con cũng vui niềm vui của các nhà đạo sĩ được Chúa tỏ mình nơi hình hài một bé thơ. Con tin, Chúa sẽ dẫn con đi qua muôn nẻo đường của đức ái. Amen.
Lúc còn nhỏ, tôi rất thích mỗi khi đến rằm. Tối hôm đó, tôi vừa đi vừa nhìn lên bầu trời để ngắm HiểnLinh ABC364
Lúc còn nhỏ, tôi rất thích mỗi khi đến rằm. Tối hôm đó, tôi vừa đi vừa nhìn lên bầu trời để ngắm trăng cứ như là nhà chiêm tinh vậy. Tôi cảm thấy hình như trăng và các ngôi sao di chuyển theo tôi. Tôi nghe nói rằng mỗi người sinh ra đều có một ngôi sao chiếu mạng, thế là tôi cứ mãi ngắm xem sao chiếu mạng của mình ở đâu? Có sáng lung linh không? Cũng có một sao thật sáng đã xuất hiện ở Phương Đông từ hơn 2000 năm trước đây.
Tin Mừng Mátthêu thuật lại việc các nhà chiêm tinh đã đi tìm vua dân Dothái dưới sự soi dẫn của ngôi sao lạ. Họ đã lên Giêrusalem và hỏi vua Hêrôđê: “Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2, 2). Tuy nhiên, họ đã không nhận được câu trả lời điều họ mong chờ. Bấy giờ, ngôi sao lạ họ thấy ở Phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Ánh sáng của ngôi sao đó không những chỉ hướng đi mà còn chiếu soi lòng họ. Ngôi sao đó là Đức Kitô. Nhờ sự khao khát và lòng hăng say tìm kiếm vua dân Do thái, các nhà chiêm tinh đã đạt được lòng ước mong. Hành động lên đường của họ nói lên một thái độ cởi mở tâm hồn. Họ đã mở lòng mình ra để cho ánh sáng Thiên Chúa rọi vào và cư ngụ. Khi gặp được Vua Do thái, từ đáy lòng, họ sấp mình thờ lạy Hài Nhi, mở bảo tráp dâng vàng, nhũ hương và mộc dược. Còn vua Hêrôđê, khi nghe các nhà chiêm tinh hỏi về nơi vị vua dân Dothái mới sinh thì lòng dạ ông đầy lo sợ và ghen tức. Cuộc sống của ông bắt đầu trở nên bất an và có những hành động gây ra đau thương cho dân. Ông đã từ chối cơ hội được gặp Đấng là bình an, ông cũng đánh mất cuộc sống an bình.
Ngày nay, ngôi sao lạ vẫn chiếu sáng cho mọi người nhưng chỉ những ai khát khao và mau mắn đi tìm mới gặp được Ngài. Ngài luôn hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Những ai đến với Ngài không chỉ được nhìn thấy mà còn được Ngài ngự đến và sống trong tâm hồn. Chính thánh Phaolô đã nhận ra và viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Ước chi, mỗi người chúng ta cũng được ánh sáng Chúa Kitô ngự trong tâm hồn và chỉ dẫn mỗi ngày.
Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã cho ánh sao là Ngôi Lời Nhập Thể soi đường cho chúng con đi nhưng chúng con vẫn chưa dám sống trong ánh sáng nên chúng con luôn sống trong sự bất an và lo sợ. Nguyện xin ánh sáng Chúa tiếp tục soi vào lòng chúng con và giúp chúng con nhận ra Chúa mỗi ngày. Nhờ đó, không chỉ chúng con mà hết thảy tất cả mọi người đều được sống trong ánh sáng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Để việc lưu thông trên đường được an toàn, người ta sẽ đặt các biển báo, tín hiệu đèn giao thông HiểnLinh ABC365
Để việc lưu thông trên đường được an toàn, người ta sẽ đặt các biển báo, tín hiệu đèn giao thông. Để tàu bè có thể cập đúng bến, người ta sẽ xây ngọn hải đăng ở các bờ biển. Ngày xưa, để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến với “Vị Vua mới sinh”, Thiên Chúa đã dùng “ngôi sao lạ”. Theo ánh sao, các nhà chiêm tinh đã đến được tận nơi Hài Nhi Giêsu ở. Cuộc sống của chúng ta cũng có nhiều “ngôi sao lạ” Chúa dùng để dẫn đường , giúp ta đến với Thiên Chúa.
Sự xuất hiện của “ngôi sao lạ” khiến cho các nhà chiêm tinh không khỏi tò mò. Theo kinh nghiệm của mình, họ tin rằng đó là dấu của một vị vua mới chào đời. Họ quyết định lên đường từ phương Đông đến tận Giêrusalem đem theo với vàng, nhũ hương, mộc dược (x. Mt 2,11). Đó là một quyết định rất táo bạo. “Đức vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2, 2). Câu hỏi đó khiến vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao (x. Mt 2, 3). Thật vậy, làm sao lại có một vị vua mới sinh đang khi vị vua đương nhiệm còn sống? Đã bao giờ chúng ta nhìn thấy một ngôi sao lạ và lên đường ? Nếu không phải là các nhà chiêm tinh, chúng ta “dại gì” lên đường. Chẳng có gì đảm bảo cho cuộc lên đường đó. Thật ra, chúng ta khó có thể nhìn ra “ngôi sao lạ” theo kiểu của các nhà chiêm tinh. Nhưng thiết nghĩ, Chúa vẫn tỏ mình ra cho chúng ta qua nhiều cách thức khác nhau, điều quan trọng là nhận ra và can đảm “lên đường”.
Trong cuộc sống, chúng ta có thể trở thành “ngôi sao lạ” dẫn đưa người khác đến với Thiên Chúa. Để là ngôi sao dẫn đường, chúng ta phải có ánh sáng. Ánh sáng đó không phải là ánh sáng của đèn điện, đèn dầu hay của một ngọn nến nhưng ánh sáng đó được thắp lên bằng đức tin, lòng mến được thể hiện ra chính cuộc sống của chúng ta. Ánh sáng ấy sẽ thật sự sáng khi chúng ta tiến gần đến ánh sáng là Đức Giêsu Kitô. Vì chính Người là ánh sáng. Có câu chuyện kể rằng, có một bà mẹ kia, bà này rất ghét cô con dâu của mình. Đơn giản chỉ vì cô là người Công Giáo. Một ngày kia, bà bị tai biến, phải nằm liệt giường. Trong thời gian đó, bà bắt đầu có cảm tình với cô con dâu theo đạo Công Giáo. Khi sắp về với tổ tiên, bà ước ao được trở thành người Công Giáo và còn khuyến khích những người con trai của bà hãy lấy một người Công Giáo làm vợ. Bà nói, “mẹ chưa thấy người con dâu nào tốt như nó”. Chúng ta thấy đó, cô con dâu trong câu chuyện trên đã dùng chính đời sống của mình để làm chứng cho Thiên Chúa. Cô đã yêu thương, tha thứ và hết lòng chăm sóc mẹ chồng đang khi bà rất ghét cô. Chính đời sống tốt lành của cô đã trở thành lời giới thiệu và dẫn đưa mẹ chồng đến với đức tin Công Giáo. “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng” (1 Ga 2,10).
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã ban Con Một của Người cho nhân loại chúng con. Xin cho chúng con nhận ra Chúa chính là ánh sáng. Ước mong sao, đời sống chúng con trở thành ánh sáng soi đường cho muôn người tìm đến với Chúa và chính chúng con phải là người dẫn đưa anh chị em lương dân đến với Chúa. Chúng con tin rằng, hôm nay Chúa vẫn dùng cách này hay cách khác để tỏ mình ra cho chúng con như xưa Chúa đã dùng “ngôi sao lạ” để dẫn đưa các nhà chiêm tinh đến với Con Một Chúa. Amen.
Hình như phía trên mọi Hang Đá Máng Cỏ đều có một ngôi sao. Đó là Ngôi Sao Dẫn Đường hướng HiểnLinh ABC366
Hình như phía trên mọi Hang Đá Máng Cỏ đều có một ngôi sao. Đó là Ngôi Sao Dẫn Đường hướng về Máng Cỏ. Lễ Hiển Linh là lễ Ánh Sáng. Mầu nhiệm Ánh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng dẫn các Đạo Sĩ từ Đông Phương đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.
Thế nhưng, làm sao một ngôi sao trên trời lại có thể như ngọn đèn đi trước dẫn đường, rồi dừng lại chính xác trên ngôi nhà nơi Hài Nhi đang ở? Rõ ràng ngôi sao đã trở thành biểu tượng cho ánh sáng đức tin làm cho dân ngoại nhận biết Chúa Giêsu là Vua, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Một khi đã gặp Ngài, đã tin vào Ngài thì người ta không trở lại con đường cũ nữa mà đi theo đường khác “đường sự thật, đường sự sống”. Bước đi trong ánh sáng định hướng thiêng liêng, con người luôn sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa.
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Ngôi sao của Thiên Chúa là ánh sao mà Người dùng để lôi kéo thụ tạo đến với Người. Ánh sao ở đây là lời mời gọi, một sự gợi mở, một sức hút, một sự chỉ đường. Chỉ có “Ngôi sao của Người” mới dẫn con người đến để gặp Thiên Chúa.
Các nhà chiêm tinh Đông Phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.
Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Chuyện đang công khai, Hêrôđê chuyển thành bí mật: “bí mật vời các nhà chiêm tinh, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi phái các vị ấy đi, căn dặn: xin đi dò hỏi tường tận… khi tìm thấy xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy người”. Tất cả những động từ trên đây cho thấy cáo già Hêrôđê đang tìm cách biến các nhà chiêm tinh thành gián điệp phục vụ cho âm mưu đen tối của ông. Hêrôđê vốn gian hùng, sánh được với Tào Tháo của Trung Hoa. Hêrôđê mưu toan làm cho các nhà chiêm tinh thành mật thám của mình, để dò biết đích xác mà giết vua người Do thái mới sinh. Nhưng Thiên Chúa can thiệp để các nhà chiêm tinh đến thờ lạy “vua dân Do thái mới sinh” và ra về an toàn.
Các đạo sĩ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi đường khác mà về xứ mình”.
Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” (Mt 8,11). Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Ngày nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Thế nhưng, “Ngôi sao của Người” có thể là các Thánh, là Giáo hội, là các giáo hoàng, các giám mục, các linh mục, là tu sĩ, là cha mẹ, là những người thầy, là những người bạn, những người giúp chúng ta đến với Thiên Chúa. Những ánh sao này phản chiếu ánh sáng từ một Vì Sao đích thực: Đức Kitô, và nó chỉ lung linh khi nó dẫn đường đến với Thiên Chúa mà thôi.
Mẹ thánh Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa.
Đặc biệt, chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” . Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi : “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Gioan giải thích : “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.
“Ngôi sao của Người” dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. (x.Verbum Domini, số 124).
“Ngôi sao của Người” dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng “Ngôi Sao của Người”, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Phúc Âm giữa lòng trần thế. Loan báo Phúc Âm là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những “Ngôi sao của Người” cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.
Tri thức (hoặc kiến thức) gồm các dữ kiện, thông tin, cách mô tả, kỹ năng nhờ trải nghiệm cuộc sống HiểnLinh ABC367
Tri thức (hoặc kiến thức) gồm các dữ kiện, thông tin, cách mô tả, kỹ năng nhờ trải nghiệm cuộc sống hoặc được giáo dục. Vô tri bất mộ. Người ta yêu mến vì đã biết rõ và tin tưởng. Và đó là khôn ngoan.
Nhưng thế nào là khôn ngoan và khôn ngoan là gì? Kinh Thánh cho biết: “Bước đầu để đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi. Chăm lo học hỏi là yêu mến Đức Khôn Ngoan. Mà yêu mến là tuân giữ lề luật. Chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan là bảo đảm được trường sinh bất tử.” (Kn 6:17-18) Các đạo sĩ thực sự là những con người có tri thức và khôn ngoan.
Sự khôn ngoan là một nhân đức cần thiết: “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban.” (Kn 7:14) Nhiều vấn đề có liên đới với nhau: “Kẻ có lương tri là có nguồn sự sống, sự dại khờ là hình phạt kẻ ngu si. Trí khôn ngoan làm miệng nên khéo léo và thêm sức thuyết phục cho đôi môi.” (Cn 16:22-23) Kinh Thánh còn cho biết điều lạ lùng: “Sự khôn ngoan làm cho người khôn mạnh hơn cả mười thủ lãnh trong thành.” (Gv 7:19) Không thể sống thiếu khôn ngoan, vậy thì chắc chắn phải tìm kiếm, bởi vì “trí khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại.” (Kn 3:15)
Các đạo sĩ đã quyết định tìm kiếm Nguồn Mạch của Đức Khôn Ngoan khi nhận biết điều kỳ diệu từ Ngôi Sao Lạ. Họ mau mắn lên đường dù biết sẽ gặp gian khó trên hành trình đức tin, và lòng thành của họ đã được đền đáp: Gặp được chính Thiên Vương Giêsu. Họ đã quên mình và tiến dâng Ngài những gì quý giá nhất trên đời này.
Người ta biết nhờ học hỏi và tìm hiểu, nhưng biết gì thì thực sự là vấn đề. Cái cần biết thì không biết, cái không cần biết thì lại biết. Hiểu biết điều hay thì tốt, hiểu biết điều xấu thì nguy hiểm – trức tiên là hại chính mình.
Chắc hẳn Hêrôđê là người hiểu biết, nhưng lại hiểu biết những thứ xấu xa. Ông không thật lòng muốn gặp Chúa bởi vì ông độc ác, nham hiểm, ích kỷ, tham quyền cố vị, ưa hình thức, trọng địa vị, khoái chức tước, thích quyền lực để hành hạ người khác. Có quyền hành mà hèn hạ, sợ người khác lấn quyền nên sát hại cả những trẻ thơ vô tội, thậm chí ông giết cả con trai của mình vì sợ nó chiếm ngôi báu. Vô cùng hèn hạ và độc ác!
Từ hàng ngàn năm trước, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và nay đã ứng nghiệm: Ngôi Hai mặc xác phàm làm người ở giữa nhân loại. Ngài làm người để chia ngọt sẻ bùi với thân phận con người của nhân loại, và Ngài muốn tỏ mình ra cho muôn dân nhận biết Ngài, thế nhưng người nhà lại không chịu đón nhận Ngài khi Ngài đến nhà mình. (Ga 1:11)
Phàm nhân chúng ta chỉ là những kẻ nô lệ tội lỗi, nhưng số phận của chúng ta được chính Đức Giêsu đến biến đổi, và chúng ta còn được trở nên con cái của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” (Is 60:1-2) Đó là Ánh Sáng vinh quang của Thiên Chúa, là chính Đức Kitô giáng sinh tại Belem năm xưa, và từ nay, Ánh Sáng đó luôn chiếu tỏa khắp nơi, khiến bóng tối phải lùi bước mọi nơi và mọi lúc.
Chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái của Thiên Chúa, mà còn được Ngài quan tâm, chăm sóc, nâng niu, chiều chuộng,… Quả thật, chúng ta không thể không vui mừng hớn hở với tâm hồn rạo rực. Thật diễm phúc biết bao!
Vì thế, “chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” (Is 60:3-4) Trong số chư dân đó có chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ, và trong số những người Việt, chúng ta lại được diễm phúc làm con cái của Thiên Chúa. Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng khắp đất nước hình chữ S thân yêu của dân Việt, không ngoại trừ ai.
Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia tiên báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” (Is 60:5-6) Và rồi điều đó đã ứng nghiệm một cách kỳ diệu.
Nhận biết là điều không dễ, không phải cứ thấy là biết, nhìn ngoài mà có biết trong? Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng, ai thực sự tin? Dù người ta có tin hay không thì Ngài vẫn là Ngài, chính Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:6)
Các vua chúa trần gian đi đâu cũng được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Thiên Vương Giêsu lại khác, Ngài đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn,” (Lc 5:32) Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất,” (Lc 19:9) và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào.” (Ga 10:10) Phong cách và hành động của Ngài có vẻ “lập dị” lắm, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí có những người không muốn hiểu. Bởi vì Ngài thấu suốt mọi sự, biết rõ tư tưởng của bất kỳ ai, Ngài cũng nói thẳng: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta.” (Is 55:8)
Tuy nhiên, triều đại của Ngài luôn “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn,” (Tv 72:7) để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự.” (Tv 72:11) Hài Nhi nơi máng cỏ là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, luôn theo sát đồng bào, luôn tận tụy với đám dân nghèo, đặc biệt là cương quyết bảo vệ công lý và chân lý. Ngài không chỉ tay năm ngón, sai người khác làm, Ngài trực ngôn và hành động cụ thể để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ.” (Tv 72:12-13)
Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc Hòa Bình, mọi công dân đều sống trong cảnh thái an, vô ưu, vô sầu, và tận hưởng niềm hạnh phúc đích thực mãi mãi.
Người ta tuôn đến từ mọi miền, ngay cả những vùng sâu xa nhất, từ “các hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống Ngài, những vua chúa cũng đều tới tiến dâng lễ vật, mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72:10-11). Đức Kitô là Vua Công Lý, “Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ.” (Tv 72:12-13) Đó là điều mà Giáo Hội luôn quan tâm, được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo thời Đức Leo XIII (1810-1903), nhất là từ Công Đồng Vatican II.
Như để giải thích, Thánh Phaolô nói: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” (Ep 3:2-3) Tông truyền là một trong bốn đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó cũng là mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đồng thời cũng là tình liên đới với nhau – kể cả với người khác đạo.
Thánh nhân nói rõ: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3:5-6) Vì thế, chúng ta không có lý do gì để ỷ lại hoặc kỳ thị bất kỳ ai.
Theo lời kể của Thánh Mátthêu trong Mt 2:1-12, khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Lúc đó, vua Hêrôđê thấy đáng quan ngại, ngay lập tức ông triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê.” Đúng như trong sách ngôn sứ có chép rõ ràng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời.”
Vốn tính nham hiểm, ông bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài.” Nghe có vẻ rất tử tế. Nhưng không thể nghe, mà phải nhìn. Hêrôđê là con cáo già, đểu thật chứ không đểu giả, lọc lừa và mánh khóe một cách tinh vi, người khác khó có thể nhận ra.
Động thái của cáo già Hêrôđê nhắc nhở chúng ta về lời nói và hành động, liệu có gì “lệch pha” chăng? Theo bản chất, ai cũng nói hay về mình, muốn chứng tỏ mình tốt lành, nhất là khi đang lập mưu thâm kế độc. Lời nói lúc này “ngọt” hơn cả mía lùi. Đáng sợ lắm!
Các đạo sĩ cứ tưởng ông vua này tốt bụng nên họ vui mừng lên đường, nhưng chẳng có con cáo nào hiền từ. Ông ta chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình mà thôi.
Khi ra khỏi hoàng cung, họ lại thấy ngôi sao mà họ đã thấy ở phương Đông. Họ đi theo hướng ánh sao và tới đúng nơi cần đến. Vào trong hang đá, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi. Họ chân thành và nỗ lực tìm gặp Chúa Giêsu, và họ đã được gặp. Họ tin và can đảm ra đi, tránh người xấu như Hêrôđê, sống tốt lành và hành động tích cực.
Thiết tưởng sống tốt không chỉ là làm lành và lánh dữ, mà còn phải tích cực hành động, bảo vệ công lý cho tha nhân. Các đạo sĩ là bài học về sự cảnh giác, trong thời đại mà sự ác không ngừng hoành hành như loại đại dịch nguy hiểm vậy. Hèn nhát là động thái tồi tệ, vì Kinh Thánh nói: “Khốn thay những tâm hồn HÈN NHÁT, những bàn tay rã rời, và người tội lỗi lập lờ nước đôi.” (Hc 2:12)
Lạy Thiên Chúa, xin soi sáng để chúng con không lạc đường khi tìm kiếm Ngài, xin giúp chúng con nhận biết chính mình để không ảo tưởng, và xin ban ơn khôn ngoan để chúng con phân định đúng Thánh Ý Ngài. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin giúp chúng con sống ngay thẳng, không nhìn người khác bằng nhãn quan suy diễn hoặc định kiến. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong cuộc đời mỗi người đều có một ngôi sao dẫn đường, đó là sự thánh thiện, sự nhận thức đúng HiểnLinh ABC368
Trong cuộc đời mỗi người đều có một ngôi sao dẫn đường, đó là sự thánh thiện, sự nhận thức đúng sai, mà người ta thường nói : làm lành lánh dữ.
Sự nhận thức tự nhiên trong tâm hồn, môi trường gia đình, xã hội, học thức, bạn bè, như người ta thường nói : chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở. Điều đó có nghĩa là : “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Trong cuộc đời mỗi người thường được liên tưởng đến một vì sao, nếu ai sinh ra may mắn hạnh phúc, thì người ta bảo, người ấy là” ngôi sao hạnh phúc”, còn nếu ai bất hạnh , kém may mắn, thì người ta bảo: “ sinh nhằm sao xấu”, hay là “ ngôi sao bất hạnh”, “ ngôi sao cô đơn “ v.v…
Vâng, từ xa xưa, người ta vẫn tìm kiếm chân lý trên các vì sao, “ ăn cơm dưới đất, nói chuyện trên trời”, quả thật dành cho những nhà tri thức. Khoa học thường phản lại tôn giáo, nhưng thật sự ra khoa học chính là quyền năng siêu nhiên của Thiên Chúa, nếu không có Thiên Chúa thì không có khoa học, bởi vì , khoa học chính là những hiện tượng tự nhiên trong trái đất, mà còn người phải tìm kiếm, tìm tòi, phải chứng minh. Nhưng, khoa học còn muôn điều kỳ diệu chưa thể chứng minh được. Khoa học không thể có sự tha thứ, khoa học không có tình yêu, nói chung khoa học là Robot. Khoa chiêm tinh cũng là một môn khoa học, nhưng , chiêm tinh là một môn khoa học tôn giáo, bởi vì, khoa chiêm tinh không thể chứng minh thực nghiệm, mà hoàn toàn phải dực vào siêu nhiên, những hiện tượng siêu nhiên biểu lộ tự nhiên, để những ai nghiên cứu thì biết được, nhưng hoàn toàn không nắm bắt được , vì nó thuộc về siêu nhiên tức ở trên cao, vì “Chiêm “ có nghĩa là nhìn nhắm , quan sát, nghiên cứu tỷ mĩ lâu dài. “ Tinh ” là ngôi sao, là tinh tú trên bầu trời. Như vậy, chiêm tinh có nghĩa là : nghiên cứu các vì sao trên bầu trời.
Như vậy, Lễ Hiển Linh là một Lễ nhắc nhớ về một Mầu Nhiệm mang tính khoa học, nghĩa là vừa khoa học, vừa linh thiêng, có thể nói cách khác Lễ Hiển Linh là nhắc nhớ về Khoa học và Tôn Gíao.Như vậy, dẫn chứng được khoa học có trong siêu nhiên, vì tự nhiên nhờ siêu nhiên mà có.
Con người tin có khoa học, nhưng họ lại phủ nhận siêu nhiên, vì khoa học chỉ là những định luật chứng minh đã có sẵn, mà con người tìm kiếm, khai thác, chứ không phải khoa học là do con người tao ra, sức lao động của con người chỉ chứng minh điều đã có trong vũ trụ. Như vậy, khoa học có sẵn trong vũ trụ, mà vũ trụ mặc nhiên không do con người tạo thành, mà do một Đấng Toàn Năng, đó là Thiên Chúa.
Người ta có học triết học và Thần Học , thì chính là những môn khoa học về Thiên Chúa. Như bóng tối và ánh sáng chẳng hạn, đó là chân lý và tình yêu. Chân lý là ánh sáng, tình yêu là bóng tối. Vậy , nếu chúng ta nói : “ Thiên Chúa là Chân lý” , thì rõ rồi, bởi vì, “Thiên Chúa là ánh sáng”. Nhưng, khi chúng ta nói :” Thiên Chúa là tình yêu”, chẳng lẽ, “ Thiên Chúa là bóng tối “ hay sao ?!. Vâng, như vậy, đến đây thật “lấn cấn”, vậy phải lý giải làm sao , khi nói : “ Thiên Chúa là tình yêu”?! Như , chúng ta biết, Thiên Chúa tạo dựng đất trời có ngày và đêm, rõ ràng, ban ngày , không thể có 24 giờ, ban đêm cũng vậy, không thể có 24 giờ. Thiên chúa phân định ngày và đêm thật rõ ràng. Tại sao, chúng ta phân biệt được Ngày và Đêm, vì ngày có ánh sáng, đêm có bóng tối. Ánh sáng và bóng tối : chính là Chân Lý và Tình Yêu. Vậy, ai nói : Tình Yêu là : Ánh Sáng thì không phải. Tình yêu chính là bóng tối, như người ta thường nói: “ yêu là mù quáng”. Bởi vì: Tình yêu là bóng đêm, thì không thể sáng được.
Vâng, chỉ có Tình Yêu của Thiên Chúa mới có “ánh sáng”, bởi vì, Thiên Chúa “làm Chủ” ngày và đêm. Như vậy, “Tình Yêu” của Thiên Chúa không ở trong “ bóng tối”.
Từ đó, chúng ta hiểu được Thánh Gía Cứu Độ, chính là : “Ơn tha thứ” của Thiên Chúa qua Đức Kitô . Bởi vì, “Tình Yêu” không thể tách rời khỏi Thiên Chúa , cũng như ngày và đêm không thể tách rời nhau. Cũng vậy, “Tình Yêu” nơi Thiên Chúa không thể tách khỏi “ chân lý “ nơi Ngài được. Vâng, vì vậy “ Thiên Chúa là Tình yêu” chính là một “Chân Lý”. Vì vậy, Tình Yêu nơi Thiên Chúa không phải là “ bóng tối” mà là “ánh sáng” Ánh Sáng ban sự sống. Vì, một ngày chỉ có “ màn đêm”, thì vạn vật không sống được. Cũng vậy, một ngày chỉ có “ban ngày” mà thôi, nghĩa là chỉ có ánh sáng, thì vạn vật không thể sống nổi. Vì thế, vạn vật phải “ chấp nhận “ tình yêu, dù nguyên lý của “ tình yêu” là bong đêm.
Nếu ai đó, sống thiên về lý trí, thì người ta bảo: Nó sống khô khan, không có tình cảm. Còn nếu, người nào đó, sống thiên về tình cảm, thì người ta nói : Nó sống ủy mỵ, nhu nhược, ngu si .
Vâng, từ đó, chúng ta cần sống theo” Ngôi Sao Giêsu”, vâng, “Ngôi Sao Lạ” Giữa Đêm Giáng Sinh, chính là “ Ngôi Sao Lạ” dẫn đường cho ba nhà chiêm tinh trong Lễ Hiển Linh hôm nay, chính là “NGÔI SAO GIÊSU” vậy./. Amen
Vâng, xin cúi lạy “Ngôi Sao Giêsu”, Ngôi Sao dẫn đường cho chúng con thoát mọi cạm bẫy của Satan và thế gian, để chúng con bước theo “Ánh Sáng” chỉ đường là chính Chúa. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen
Cứ mỗi lần mừng lễ Hiển Linh, tôi lại mường tượng một ánh sao hiện ra trên bầu trời và như HiểnLinh ABC369
Cứ mỗi lần mừng lễ Hiển Linh, tôi lại mường tượng một ánh sao hiện ra trên bầu trời và như ba nhà đạo sĩ dõi theo ánh sao đó dẫn họ tới hang đá Bêlem tìm gặp Hài Đồng Giêsu. Rồi có một dạo khi ánh hỏa châu còn lóe trên nhiều nơi, tôi lại nghĩ đường đi tới Chúa có muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một con đường duy nhất để thấy và gặp được Chúa là con đường hẹp, con đường thập giá.
Năm xưa ấy, cách đây hơn 2.000 năm, có một ánh sao lung linh thắp sáng dẫn đường, chỉ lối cho ba nhà đạo sĩ đi tìm Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Ánh sao ấy theo như Tin Mừng Mt 2,1-12 viết cứ ẩn hiện và rồi dừng ngay nơi hang đá Bêlem để ba nhà đạo sĩ tới cung chiêm Vua Giêsu.Thoạt đầu, họ đến Giêrusalem và hỏi: " Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi bái lạy Người " ( Mt 2, 2 ). Hêrôđê bối rối trước tin báo của ba nhà đạo sĩ. Ông lo âu và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao, náo động.Sở dĩ Hêrôđê sợ sệt, bối rối, âu lo vì Ông là con cáo già e sợ uy quyền, ngai vàng của mình sẽ bị lung lay. Ông rất sợ bị lật đổ khi nghe tin Chúa Giêsu sinh ra. Giêrusalem không đón nhận Chúa dù rằng: " Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa mọi người" ( Ga 1, 14 ).
Vâng, cả Hêrôđê và cả dân kinh thành Giêrusalem đều không được Thiên Chúa soi sáng, đều không được Chúa Thánh Thần tác động. Họ không thể nhận ra Hài Đồng Giêsu là Vua nhưng là Vua Hòa Bình:" Nước của Ngài không thuộc thế gian này ". Do đó, họ xao xuyến, hoang mang đến cùng tột. Hêrôđê và triều thần của Ông, cùng bàn dân thiên hạ vẫn không hiểu Hài Đồng Giêsu với hình hài một trẻ thơ, khiêm hạ, khó nghèo, Hài nhi ấy chỉ là Vua theo nghĩa thiêng liêng: Ngài là Chúa muôn loài, muôn vật, Ngài là Vua vũ trụ và vua con người.Do đó, Hêrôđê sợ hãi mất ngôi vì Ông nghĩ nông cạn, hời hợt theo cái nhìn trần gian. Thay vì đón chờ, đi tìm để cung chiêm, thờ lạy Vua Giêsu.Hêrôđê lại cho triệu hồi tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu ( Mt 2, 4 ). Hêrôđê hỏi kỹ càng không phải để đến tìm gặp Chúa để thờ lạy Chúa nhưng để mưu đồ tiêu diệt một vị Vua thiêng liêng mà Ông lầm tưởng là sẽ đứng lên để chiếm đoạt ngôi báu của Ông. Chính vì thế, khi Ông bị các nhà đạo sĩ không trở lại nữa, Ông đã nổi cơn thịnh nộ ra lệnh cho tru diệt hết những trẻ em từ hai tuổi trở xuống.Ông tưởng làm thế là thoát được món nợ và ngai báu của Ông sẽ vững bền thiên thu...Ông đã lầm và Ông đã quá ác độc.Ông đã là con người thật tầm thường. Ba nhà đạo sĩ lại theo ánh sao và gặp được Hài Đồng Giêsu.
Chúa đã dùng ánh sao lạ để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương Đông tới hang đá Bêlem để gặp Hài Đồng Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Với ơn soi sáng của Thiên Chúa, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, tất cả như bừng sáng vì họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu của Người là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến ( Mt 2, 11 ). Thiên Chúa đã dùng một ánh sao để dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ tìm gặp Người. Thiên Chúa cũng dùng các thiên thần để báo tin cho các mục đồng tới Bêlem để gặp Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Ba nhà đạo sĩ phương Đông đã thực sự gặp được Chúa bởi vì họ có lòng thành, tâm hồn trong sạch, đôi bàn tay tinh khiết. Họ đã thương Chúa, kính Chúa thực tình và họ đã cung tiến, dâng cho Chúa những báu vật của quê hương họ. Họ đã được Chúa đoái thương và chấp nhận.
Xưa chúa tỏ mình ra bằng ngôi sao lạ để các nhà đạo sĩ tìm được nơi Chúa sinh ra. Ngày nay, Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều kiểu, nhiều cách. Chúa đã nói với con người, với loài người, với thế giới qua vẻ đẹp của vũ trụ, qua những khám phá, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những cử chỉ, những thái độ thành tâm thiện chí của con người. Chúa vẫn đi tìm con người hơn là con người đi tìm Chúa. Bao kỳ công của thế giới, bao vẻ đẹp của vũ trụ là bấy nhiêu ánh sao dẫn đường chỉ lối để con người tìm gặp được Chúa. Bao nhiêu cử chỉ tế nhị, thân thiện, bao nhiêu việc bác ái là bấy nhiêu ngôi sao lạ đưa đường dẫn lối để con người đi tìm gặp Chúa.
Hãy bừng sáng Giêrusalem...Hãy bừng sáng, đây là lời khuyên người môn đệ Chúa hãy làm lan tỏa niềm vui được thấy Chúa cho những người chung quanh. Hãy trở nên men, nên muối cho đời, hãy trở nên men đạo đức cho thế giới, cho mọi người. Người môn đệ Chúa phải chiếu sáng cuộc hành trình đức tin của người khác như ngôi sao lạ Bêlem, ngôi sao mà ba nhà đạo sĩ thấy thì hết sức vui mừng vì họ tìm được Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy tỏ ra cho chúng con thấy được Chúa như xưa Chúa đã dùng ánh sao Bêlem để dẫn đường chỉ lối cho ba nhà đạo sĩ gặp được Chúa Cứu Thế. Amen.
“Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược”
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ:
Lễ Chúa Hiển Linh (còn được gọi là Lễ Ba Vua) mang ý nghĩa hết sức quan trọng của Kitô giáo HiểnLinh ABC370
Lễ Chúa Hiển Linh (còn được gọi là Lễ Ba Vua) mang ý nghĩa hết sức quan trọng của Kitô giáo, vẫn được gọi là đạo Công Giáo vì là tôn giáo đón nhận hết mọi người làm tín đồ, không phân biệt mầu da sắc tộc. Thế nhưng Kitô giáo lại thừa kế di sản của Do-thái giáo là tôn giáo của dân Israel được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa và xem Thiên Chúa là Thiên Chúa riêng của mình. Với sự xuất hiện của Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu, Thiên Chúa công bố Người là Chúa của muôn dân (chứ không chỉ là Chúa của dân Israel mà thôi). Sự kiện HiểnLinh ABC(hay ba nhà chiêm tinh hay đạo sĩ) Phương Đông tìm đến Bêlem bái lạy Hài Nhi Giêsu và tiến dâng cho Người lễ vật hoàng gia có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại tức Thiên Chúa được dân ngoại nhìn nhận là Vua, là Chúa của mình như dân Israel vậy.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12: Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12: Có hai nội dung trong bài Phúc Âm
3.1 Con Trẻ Giêsu là Vua dân Do-thái: Từ nhiều thế kỷ trước Thánh Kinh Cựu Ước đã loan báo sự xuất hiện của Vua dân Do-thái sẽ sinh ra từ dòng dõi Đavít để cai trị dân theo đường lối của Thiên Chúa. Nay Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người đã chào đời tại Bêlem là một thành nhỏ bé xứ Giuđa. Đó chính là Hài Nhi Giêsu, con bà Maria. Tin Mừng Mátthêu ghi lại: “Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người".
3.2 Con Trẻ Giêsu là vua của muôn dân: Do-thái và dân ngoại: Trong Cụu Ước Thiên Chúa đã nhiều lần biểu lộ (mạc khải) Người là Thiên Chúa không chỉ của dân Israel mà của mọi dân mọi nước và mọi người, nhưng dân Israel đã không ghi nhớ mặc khải quan trọng ấy. Qua việc ba đạo sĩ Phương Đông (tượng trưng cho các dân ngọai) tìm đến Giêrusalem để bái lạy vua dân Do-thái, Thiên Chúa tái khẳng định Chúa Giêsu là vua cùa mọi dân mọi nước và mọi người.
3.3 Sứ mạng của Vua Giêsu: là quy tụ muôn dân muôn nước muôn người trong Vương Quốc của Thiên Chúa để hết mọi người phụng thờ và tôn vinh Thiên Chúa là Thần Linh duy nhất của nhân loại. Vì yêu Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật và con người. Cũng vì yêu Thiên Chúa muốn mọi người đuợc cứu độ trong Con của Người là Chúa Giêsu Kitô.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12:
4.1 Càm tạ Thiên Chúa và Chúa Giêsu: Đó là điều đầu tiên mà các Kitô hữu có thể và phải làm. Thiên Chúa đã ban cho loài người một Vị Vua hiên lành và thánh thiện để Người cai trị loài người theo đường lối của Thiên Chúa. Ân huệ lốn lao ấy người Kitô hữu cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa và Vua Giêsu suốt đời cũng chưa xứng.
4.2 Tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua muôn dân: Đó là điều thứ hai mà các Kitô hữu có thể và phải làm. Thiên Chúa đã dựng nên hết mọi người, đã cứu độ hết mọi người trong Chúa Giêsu Kitô thì Kitô hữu chúng ta phải tuyên xưng Người là Vua muôn dân, là Chúa các chúa. Đó là lô gích của sự việc và là lẽ sống cùa chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho lòai người chúng con để Người cai trị muôn dân muôn nước theo đường lối của Cha. Xin Cha lắng nghe lời cầu xin tha thiết của chúng con.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN:
1.- «Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho hết mọi người trên thế giới này được ơn khát khao găp được Thiên Chúa và Con của Người là Chúa Giêsu Kitô sinh ra ở Bêlem.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy tích cực tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa để giới thiệu Ngài cho mọi người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi người mở lòng đón nhận vua Giêsu và sống trong Vương Quốc của Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả mọi người được ơn gặp Hà Nhi Giêsu là Vua muôn vua.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban cho chúng con Vua Giêsu để Người cai trị chúng con theo đường lối của Cha.
Xin Cha ban Thánh Thần và sức mạnh của Ngài cho chúng con để chúng con đón nhận Vua Giêsu và gia nhập Vương Quốc của Người.
Cũng xin Cha ban Thánh Thần và sức mạnh của Ngài cho chúng con để chúng con giới thiệu Vua Giêsu cho những người chung quanh chưa nhận biết Người.
Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, là Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến để mọi người được làm con Cha. Amen.
Lúc 12g trưa 25-12 Đại lễ Mừng Chúa Giáng Sinh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Sứ HiểnLinh ABC371
Lúc 12g trưa 25-12 Đại lễ Mừng Chúa Giáng Sinh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Sứ điệp Giáng sinh cùng với Phép lành Urbi et Orbi. Đức Thánh Cha nói rằng: “Chúng ta hãy mở lòng ra đón nhận ân sủng trong ngày hôm nay, là chính Đức Kitô. Chúa Giêsu là “ngày” rực rỡ xuất hiện nơi chân trời của nhân loại. Một ngày của lòng thương xót, ngày mà Thiên Chúa Cha chúng ta đã mặc khải lòng nhân từ vô biên của Ngài cho toàn thế giới. Một ngày của ánh sáng, xua tan bóng tối của sợ hãi và âu lo. Một ngày của hoà bình, ngày để gặp gỡ, đối thoại, và trên hết, để hoà giải. Một ngày của niềm vui: một “niềm vui lớn lao” cho người nghèo, người thấp hèn và cho tất cả mọi người”. Cho tất cả mọi người bất luận lương hay giáo.
Qủa thế, trong bài đọc 1 Tiên tri Isaia khẳng định với dân Do thái xưa và chúng ta hôm nay rằng: “Bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (Is 60,1-3). Rồi hôm nay, HiểnLinh ABCtrên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. HiểnLinh ABClà những người phương xa, không có Đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ánh sáng của Lòng Thương Xót Chúa. Theo ánh sao, các Ngài đến được Giêrusalem và ánh sáng của Lời Chúa các Ngài đã đến gặp được Chúa Giêsu, dung nhan của Lòng Thương Xót đang nằm trong máng cỏ. Vâng, chính Đức Giêsu là ngôi sao của Lòng Thương Xót Chúa dẫn tất cả chúng ta, mọi nước mọi dân đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến là lòng thương xót. Qủa thế, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Ngày nay có rất nhiều người đang tìm đến Lòng Thương Xót Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa Giêsu Kitô để theo Ngài. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như ba Vua, họ cần có những ánh sao của Lòng Thương Xót soi đường dẫn lối. Nhưng ngày nay Chúa không còn dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi của Lòng Thương Xót dẫn mọi người đến với Chúa. Để là ngôi sao của Lòng Thương Xót trước hết và trên hết chúng ta phải có ánh sáng Lòng Thương Xót mà chúng ta nhận tự nơi Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, chính là Lời và hành động của Ngài, có nghĩa là trở nên đồng hình đồng tư tưởng, lời nói và việc làm với Ngài. Người Kitô hữu chỉ sống, làm chứng và loan báo Lòng Thương Xót khi chính cuộc sống của chúng ta có Lòng Thương Xót của Chúa tức là “Hãy thương xót như Chúa Cha”.
Trong Tông Sắc Dung Nhan Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Chúa Giê-su đã xác định rằng, Lòng Thương Xót không phải chỉ là một nét đặc trưng nơi hành động của Thiên Chúa. Nói cho đúng hơn, Lòng Thương Xót còn là tiêu chuẩn, mà nhờ đó người ta nhận ra những ai thực sự là con Thiên Chúa. Như vậy, chúng ta được kêu gọi để thực thi Lòng Thương Xót, bởi chính Lòng Thương Xót cũng đã được biểu lộ với chúng ta rồi. Để thực thi lòng thương xót, chúng ta hãy nghe Lời của Chúa Giê-su, Đấng đã làm cho Lòng Thương Xót trở thành một lý tưởng sống cũng như trở thành tiêu chuẩn cho sự chính xác nơi việc làm chứng của Đức Tin chúng ta: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7)” (số 9§3). Xót thương người đó là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, chôn xác kẻ chết, chuộc kẻ làm tôi, lấy lời lành mà khuyên người, dậy dỗ kẻ mu muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Những hành vi thương xót này chính là ánh sáng chiếu soi người ta nhận ra chúng ta là môn đệ và Đạo Chúa một cách nhanh nhất và hữu hiệu nhất, đó là phương thế Chúa Giêsu đã dạy: “cứ dấu này mà người ta nhận biết Chúa là anh em thương xót nhau”. Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta không phải là nhà thần học lỗi lạc, không phải là giảng thuyết hùng hồn rao giảng về Đạo Chúa, Mẹ chỉ là một bà Nữ tu đơn sơ, khó nghèo, lận lội leo neo lang thang trên đường phố tìm kiếm những người nghèo, bệnh tật ốm đau, những người bị bỏ rơi, những người khuyết tật khốn khổ, những người thân tàn ma dại, những người sắp chết để chăm sóc, yêu thương, an ủi và phục vụ họ đến hơi thở cuối cùng. Những cử chỉ yêu thương của Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng tình yêu thương xót của Chúa một cách hùng hồn và nhanh nhất cho mọi người không chỉ trên đất nước Ấn độ mà cả thế giới.
Ước gì qua Lời Chúa, nhờ Mình và Máu Chúa mà chúng ta sắp rước lấy, xin Chúa cho chúng ta can đảm đẩy lui bóng tối của hận thù, ghen ghét, kỵ thị và bất công. Đồng thời biết giữ gìn ngọn lửa thương xót mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con để từng phút giây của cuộc sống biết thương xót nhau ngõ hầu khắp nơi trong gia đình, giáo xứ, Giáo phận, Giáo hội và xã hội ngập tràn ánh sáng tình yêu thương xót của Con Thiên Chúa giáng sinh. Amen.
Trong Sứ điệp Giáng sinh năm nay, Đức Thánh Cha nói rằng như các mục tử, những người đầu HiểnLinh ABC372
Trong Sứ điệp Giáng sinh năm nay, Đức Thánh Cha nói rằng như các mục tử, những người đầu tiên chạy đến hang đá, chúng ta cũng ngạc nhiên trước dấu chỉ mà Thiên Chúa đã ban. Hài Nhi được Đức Trinh Nữ Maria sinh ra cho chúng ta, đã nói gì với chúng ta? Đó là Thiên Chúa là Người Cha tốt lành luôn đồng hành và sẻ chia thân phận với chúng ta vì vậy tất cả chúng ta là anh em của nhau. Vì thế, chúng ta hãy mở lòng ra đón nhận ân sủng trong ngày hôm nay, là chính Đức Kitô. Chúa Giêsu là “ngày” rực rỡ xuất hiện nơi chân trời của nhân loại. Một ngày của tình yêu Thiên Chúa thể hiện, ngày mà Thiên Chúa Cha chúng ta đã mặc khải lòng nhân từ vô biên của Ngài cho toàn thế giới. Một ngày của ánh sáng, xua tan bóng tối của sợ hãi và âu lo. Một ngày của hoà bình, ngày để gặp gỡ, đối thoại, và trên hết, để hoà giải. Một ngày của niềm vui: một “niềm vui lớn lao” cho người nghèo, người thấp hèn và cho tất cả mọi người.
Qủa thế, Lời Chúa trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia khẳng định với dân Do thái xưa và chúng ta hôm nay rằng: “Bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (Is 60,1-3). Rồi hôm nay, HiểnLinh ABCtrên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. HiểnLinh ABClà những người phương xa, không có Đạo, các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ, đó là ánh sáng của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa luôn đồng hành và sẻ chia. Vâng, chính Đức Giêsu là ngôi sao của tình yêu Thiên Chúa luôn sẻ chia và đồng hành dẫn tất cả chúng ta, mọi nước mọi dân đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến và sẻ chia để rồi đến bến bờ bình an, hạnh phúc và sự sống đời đời. Như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Cho nên, khi thấy được vì sao của Chúa Giêsu xuất hiện, các nhà Đạo sĩ chuẩn bị lễ vật và hăm hở đăng trình đến để sẻ chia với vị Vua mới ra đời. Các ông lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định nhưng có ánh sao đồng hành dẫn lối cho các ông đi. Tin Mừng cho thấy cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen, người ta không biết nhưng khi mở Thánh Kinh, tức Lời Chúa đồng hành dẫn lối các ông đến Belem gặp được Chúa Hài Nhi, các ông đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Các nhà đạo sĩ chia sẻ với vua Giêsu bằng những lễ vật dâng tiến: vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này.
Chúng ta hôm nay được Chúa thương cứu độ và đồng hành, vậy hãy mau mắn đến với Chúa Hài Nhi để chia sẻ với Ngài bằng việc dâng những lễ vật của chúng ta: Trước hết là vàng, đó là lòng yêu mến chân thật của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định: “Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. Vàng đây cũng chính là đức tin trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào làm chao đảo hay lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội, tội lỗi hay tuyệt vọng. Tiếp đến, chúng ta hãy dâng sẻ chia cho Chúa nhũ hương, đó chính là tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể. Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm. Nhũ hương còn là những lời kinh cầu nguyện của chúng ta, như thánh vịnh đã viết: “Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa”. Sau cùng chúng ta hãy chia sẻ cho Chúa Hài Nhi là dâng mộc dược, đó là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua thánh lễ dâng trên bàn thờ, mộc dược còn là những hy sinh trong cuộc sống: hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô để làm chứng cho Chúa.
Ba nhà đạo sĩ đã đồng hành với nhau đến thờ lạy Chúa dù có gặp khó khăn trăm bề nhưng vượt qua tất cả vì “một cây làm chẳng nên non, cây chụm lại nên hòn núi cao”. Trong đời sống đức tin chúng ta cũng vậy, là Kitô hữu chúng ta hãy đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ, nương tựa và dìu nhau mà tiến bước, như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành với nhau trong hành trình đức tin này.
Ước gì qua Lời Chúa của lễ Hiển Linh hôm nay, xin Chúa cho chúng ta nhận ra rằng hành trình đức tin của chúng ta luôn có Chúa tỏ mình qua việc sẻ chia và đồng hành với chúng ta, chúng ta hãy tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành sẻ chia của Chúa để đời sống đức tin của chúng ta sống động, mạnh mẽ và chân thật. Vậy, khi chúng ta được Chúa tỏ mình như thế, chúng ta cũng cần lên đường chia sẻ, đồng hành và gặp gỡ những người chưa biết Chúa, nhất là những gia đình đang gặp khó khăn để giới thiệu Hài Nhi Giêsu cho họ để họ biết và đón nhận Hoàng Tử bình an vào trong cuộc của họ, Ngài sẽ làm cho họ bình an như chúng ta. Amen.
Tin mừng Mt 2:1-12: Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện...
Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi: “Thế giới hôm HiểnLinh ABC373
Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi:
“Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu”
Và được kết quả như sau:
- 61% cho rằng thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 47% nói rằng sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại trên thế giới này.
- 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.
- 58% cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 59% cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi
- 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.
- 26% cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu.[1]
Tại sao lại có những kết quả trái ngược như thế?
Trở lại lịch sử, chúng ta thấy: Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ của nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử. Ba thái độ đó là:
1. Con người và phản ứng của Hêrôđê
Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy liền bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Marianne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander và Aristobulus cũng bị ông sát hại luôn. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ của Hêrôđê còn được thấy rõ hơn trong những việc chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, vu khống rồi hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung, vì ông biết rằng khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết.
Chính vì ganh ghét và thù địch, Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình, nên đã quyết tâm tiêu diệt Hài Nhi.
Ngày nay cũng vậy, vẫn còn nhiều người quyết tâm tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu và luôn tìm cách loại trừ Ngài.
2. Phản ứng của các tư tế và các Kinh Sư
Họ hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật lệ, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng của mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa, không đáng quan tâm.
3. Con người và phản ứng của các nhà đạo sĩ
Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng quyền hành và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như các thầy Lêvi đối với dân Israel. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên.
Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng phẩm cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì họ sẽ đắm chìm trong sự kinh ngạc, yêu mến và ca tụng Ngài.[2]
Quả thế, các đạo sĩ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết đến lời tiên, không biết đến lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận ra. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho được.
Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.[3]
Nhìn vào các đạo sĩ, nếu chúng ta khao khát và quyết tâm tìm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa trong cuộc đời chúng ta. Amen. ---------------------- [1] Báo Công Giáo và dân tộc, số 1487-1488, trg. 53 [2] William Barclay [3] TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Lễ Hiển Linh
Một dấu lạ, một ngôi sao lạ xuất hiện, và dưới cặp mắt của ba nhà đạo sĩ này, là một điềm lành, vì theo cách hiểu của người thời bấy giờ, một vị vua cao cả đã ra đời.
Một con người xuất hiện trên trần gian, thì trên trời xuất hiện một vì sao. Đó là ngôi sao hộ mạng cho người đó. Ngôi sao càng sáng, càng to thì người đó sẽ là một vĩ nhân hay một vị vua.
Qua dấu hiệu của vì sao lạ, ba đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm người được ngôi sao đó hộ mạng, vì chưa từng thấy một ngôi sao nào sáng và to như thế.
Cuộc tìm kiếm không kém gay go. Các ông phải vào Giêrusalem để hỏi thăm vì đến gần thành Giêrusalem, ngôi sao bất thần biến mất. Các ông tưởng rằng đã đến nơi rồi, vì Giêrusalem là kinh thành của Đức Đại Vương. Kinh Thánh Do Thái mà các ông đã nghiên cứu cũng nói đến “ngôi sao của Ngài sẽ mọc lên”. Phải tìm kiếm thôi.
Dân thành Giêrusalem tò mò đổ xô ra xem phái đoàn của các đạo sĩ. Hỏi thăm thì không ai biết có vị vua nào mới sinh mà chỉ có ông vua già là Hêrôđê. Các đạo sĩ đến đền vua và hỏi thăm. Nghe điều đó, vua Hêrôđê giật mình vì ông rất sợ mất ngôi. Vua nào mới sinh?
Ông là người Do Thái và cũng biết Kinh Thánh. Ông cho mời các tiến sĩ ở Đền thờ đến và hỏi Đấng Kitô sinh ra ở đâu. Họ cho biết là tại Bêlem vì có lời chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, ngươi không phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israen dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2,6). Vua Hêrôđê cho quí đạo sĩ biết và căn dặn: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về hài nhi và khi đã tìm được, các khanh hãy cho trẫm hay vì chính tôi cũng muốn đến triều bái Ngài”.
Yên lòng, các đạo sĩ ra đi, nhưng lạ thay! Ngôi sao lạ lại xuất hiện. Vui mừng khôn tả, các vị đã đi theo ngôi sao mãi đến Bêlem… và họ đã tìm được người họ muốn tìm.
Thay vì tìm được một em bé trong một lâu đài sang trọng, các ông chỉ tìm thấy một trẻ em nghèo nàn trong một căn nhà nhỏ, không có gì là sang trọng.
Nhưng họ đã tin. Tại sao họ có thể tin được em bé nghèo nàn tả tơi đó là một vị vua cao cả. Do dáng vẻ thông minh lạ thường của em chăng? Cũng có thể, nhưng theo thông thường thì không ai dám nhìn nhận em bé nghèo nàn đó là một vị vua mới ra đời, chỉ vài tháng tuổi.
Chúng ta phải nhận rằng Thiên Chúa đủ quyền phép để cho người ta nhận ra vinh quang của Ngài trong những dáng vẻ hết sức nhỏ hèn.
Các mục đồng, nhờ lời báo của các thiên thần thấy một em bé mới sinh nằm trong máng cỏ. Các đạo sĩ chỉ có ánh sao, nhưng họ đã nhận ra em bé nghèo nàn kia là một vị vua cao cả, vì nhờ một ánh sáng bên trong mà chúng ta gọi là đức tin.
Vì thế Giáo hội gọi biến cố này là biến cố hiển linh. Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài qua một em bé nghèo nàn, cho các dân ngoại.
Thánh Phaolô đã dạy trong thư gởi giáo đoàn Rôma: “Con người có thể nhận biết Thiên Chúa qua tạo vật…” huống chi ở đây, ánh sao lạ cũng là một yếu tố hướng dẫn con người đến với Chúa.
Các vị đạo sĩ đã tin và để diễn tả niềm tin đó, họ tặng cho em bé những món quà quí họ đã dự trù mang theo, đó là vàng, nhủ hương và mộc dược. Người ta đã tìm ý nghĩa của các tặng vật ấy, nhưng điều đó không quan trọng. Giáo hội đọc thấy ý nghĩa của biến cố này như một sự tỏ hiện vinh quang Chúa cho các dân ngoại.
Chúa Giêsu đến trong dân Do Thái, nhưng không đến chỉ cho riêng dân Do Thái mà cho tất cả nhân loại. Ngài đến để cứu vớt toàn thể nhân loại mà chúng ta là một phần. Ngài đến cho mọi người, nhưng mấy người đã nhận ra Ngài? Thánh Gioan đã nói: “Người đã đến nhà Người, nhưng người thân không chấp nhận Người”.
Vì không ai chấp nhận Ngài, nên Ngài đành phải chọn hang đá Bêlem. Cả thế giới mênh mông của Ngài chỉ dành cho Ngài một máng cỏ.
Thế giới hôm nay cũng như hôm qua đã không tiếp nhận Ngài và hơn nữa lại loại trừ Ngài, xem như một vật cản không cho họ sống theo ý muốn của họ. Thế giới hôm nay mang tâm trạng của Hêrôđê, chỉ mong tiêu diệt Thiên Chúa để tự do cho mình làm bá chủ hoàn cầu. Nhiều người đã nói rằng rồi đây khoa học sẽ giải quyết tất cả mọi vấn đề, sẽ đem lại hạnh phúc cho con người mà không cần Thiên Chúa.
Trong thực trạng của thế giới hôm nay, không có vấn đề gì được giải quyết, và hạnh phúc vẫn vắng mặt. Chúa đem đến tình thương, nhưng con người từ chối để đi vào hận thù, bạo lực. Chúa đem bình an, nhưng con người chỉ muốn chiến tranh. Chúa đem sự sống và hạnh phúc, nhưng con người tìm đủ cách để tiêu diệt lẫn nhau và đưa nhau vào hố sâu của tuyệt vọng.
Sống trong một thế giới hỗn loạn và bất an, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì những hồng ân Chúa ban. Dù cuộc sống không tha thứ cho chúng ta, dù bao nhiêu khó khăn vây bọc chúng ta, nhưng chúng ta không bi quan mà càng tin tưởng mãnh liệt hơn: “Chúa là nơi con nương ẩn… Chúa là thành lũy bảo vệ con… Chúa là mục tử chăn dắt con…” (Thánh vịnh).
Chúng ta được yêu thương che chở như thế, hãy làm bất cứ cái gì, với bất cứ giá nào giúp anh em chúng ta, những người chưa biết được tình thương của Chúa, để họ cũng được hưởng nhờ hồng ân như chúng ta.
Mọi Kitô hữu Hãy trở thành những vì sao, dù nhỏ thôi, nhưng có thể thấy được, để hướng anh em chúng ta đến với nguồn tình yêu.
“Ta là ánh sáng thế gian… Anh em là ánh sáng thế gian…”
Chúa Giêsu muốn như thế. Đừng để cho lời ấy mất đi giá trị của nó.
Ánh sáng là yêu thương, là khiêm tốn phục vụ, là quên mình để nghĩ đến kẻ khác. Ánh sáng này phải luôn chiếu sáng trong cuộc sống chúng ta, để “mọi người nhìn thấy những việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời”.
Có một bài hát sinh hoạt đã diễn tả con người như là một ánh sao sáng cho nhau. “Đếm ánh sao HiểnLinh ABC375
Có một bài hát sinh hoạt đã diễn tả con người như là một ánh sao sáng cho nhau. “Đếm ánh sao đêm tôi gọi người. Hồng xanh xanh hồng xanh trắng xanh. Ngôi sao xanh kia chính là anh. Ngôi sao vàng chính là chị đây. Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen”.
Thực vậy, sao thì phải tỏa sáng. Sao có nhiệm vụ phá tan bóng đêm thì đương nhiên sẽ không có ngôi sao đen. Cuộc đời con người là “nhân chi sơ tính bản thiện” thì cũng phải tỏa sáng bằng những việc tốt, việc thiện. Con người đi trong tối tăm của sự ác, của tội lỗi là con người đang đánh mất căn tính thiện của mình. Con người chỉ là người khi sống theo lẽ phải, theo luân thường đạo lý mà Thượng Đế đã an bài.
Là người ky-tô hữu, Chúa Giê-su còn mời gọi chúng ta phải tỏa sáng bằng hành động yêu thương: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”. Yêu thương không phải trên đầu môi chót lưỡi, nhưng yêu thương biến thành hành động phục vụ. Việc phục vụ bác ái như màu cờ sắc áo, như ngọn đèn chiếu tỏa để mọi người xung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu.
Phục vụ theo tinh thần ky-tô giáo là phục vụ vô vị lợi, phục vụ quảng đại mà không cần đền đáp như trong lời Bài Ca Phục Vụ, tác giả Mi Trầm đã trình bày: “Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không chờ”. Phục vụ với tinh thần là cho không, là quên mình ấy quả thực là một ngọn đuốc thiêng chiếu sáng cho thế gian còn đầy bóng tối của ích kỷ, của chia rẽ, của hận thù.
HiểnLinh ABCnăm xưa đã nhờ ánh sao để đến triều bái Chúa. Muôn dân hôm nay rất cần ánh sao yêu thương nơi người tín hữu tỏa sáng để dẫn dắt anh em đến với Chúa. Nhưng tiếc thay, cuộc sống của chúng ta vẫn chưa phản chiếu tình yêu của Chúa ra bên ngoài. Chúng ta đã sống thiếu tình yêu, thiếu lòng bác ái, bao dung với nhau. Chúng ta vẫn còn mang thù hận, ghen tương với nhau. Nhiều người vẫn chưa có thiện cảm với đạo Công giáo vì chúng ta chưa sống tin mừng qua việc xây dựng tình hiệp nhất, công lý và bình an. Chúng ta vẫn sống chia rẽ, lỗi công bình, gây mất bình an qua lời nói châm chọc, kết án, bỏ vạ cáo gian anh em mình.
Đời sống của chúng ta dù ít dù nhiều luôn có ảnh hưởng trên người khác. Nhất là các bậc cha mẹ, thầy cô luôn tác động mạnh trên lối sống của con trẻ. Có biết bao gương lành của người lớn đã làm nên những con người phi thường cho nhân thế. Nhưng cũng có biết bao gương xấu của cha mẹ hay các nhà giáo dục đã làm cho biết bao con người sa đoạ hay lạc lối.
Xã hội luôn cần gương sáng để đẩy lùi bóng tối. Xã hội luôn cần những ánh sao sáng cho bầu trời thêm trong xanh. Xin cho đời sống chúng ta luôn là ánh sao dẫn về chân thiện mỹ tình thương. Xin đừng để những lối sống tội lỗi của chúng ta trở thành gương mù cho anh em. Amen. --------------------------
Con người chúng ta thích sĩ diện nhưng lại bỏ quên đồng loại. Thích lễ hội nhưng bỏ qua công HiểnLinh ABC376
Con người chúng ta thích sĩ diện nhưng lại bỏ quên đồng loại. Thích lễ hội nhưng bỏ qua công bình bác ái. Thích tiếng khen nhưng lại bàng quan với cái khổ của anh em. Thế nên, người xưa có câu:
“Sống thì chẳng cho ăn Khi chết làm văn tế ruồi”.
Có một lần đi thăm bệnh nhân ở một vùng sâu miền núi. Bệnh nhân đau đã lâu và thấy trong nhà không có gì đáng giá ngoài con heo trong chuồng.Tôi hỏi chủ nhà sao không bán con heo lấy tiền chữa bệnh cho bà, để con heo làm gì?
Chủ nhà bảo: để con heo ấy phòng khi bà nó chết thì có cái mà mổ để đãi khách?
Rồi ông nói tiếp: "Ở quê nhà nào cũng phải vậy cha ạ".
Rồi ông kể: khi trong nhà có người già yếu bệnh nặng khó qua khỏi, con cháu trong nhà phải chuẩn bị trước một con heo nuôi trong chuồng. Nếu không nuôi heo kịp, có thể vay mượn heo của bà con họ hàng trong xóm mổ thịt trước, sau đó nuôi con heo khác trả nợ cũng được. Đây là truyền thống mình không làm thì họ cười cho...!
Có lẽ người bệnh sẽ không vui khi người thân lo xa mà không lo gần. Bỏ hình mà bắt bóng nên chẳng có giá trị trên tình người.
Hôm nay nhân ngày lễ Ba Vua, tôi nhớ tới câu chuyện được kể rằng: có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏvới mùng mền?
Quả thực, sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy lòng trắc ẩn của tình người.Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40).
Và hôm nay Hài Nhi Giê-su vẫn đang giáng sinh nơi những mái gia đình có hoàn cảnh khó khăn và khổ đau.
Nơi đó có những con người đang thiếu thốn cái ăn, cái mặc, Chúa Hài Nhi đang mời gọi chúng ta hãy làm điều thiết thực là mang cơm ăn áo mặc hơn là những nhà hát ngàn tỉ hay những trung tâm tráng lệ, đền đài nguy nga. Nơi đó có những con người đang đau khổ bởi đau ốm bệnh tật triền miên mà tiền thì lại thiếu. Chúa hài nhi đang mời gọi chúng ta hãy cúi xuống những mảnh đời bất hạnh ấy để cùng chung tay giúp họ vượt qua những lúc nguy nan. Nơi đó có những người đang cô đơn ngay chính trong gia đình của mình, vì vợ chồng thiếu đối thoại và cảm thông, Chúa hài nhi đang mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà quan tâm tới nhau để chia sẻ gánh nặng cuộc đời cho nhau. Nơi đó có những người đang ở tạm bợ nơi những khu nhà ổ chuột hay chỉ là phòng trọ chật hẹp đầy thiếu thốn, Chúa hài nhi đang mờ gọi chúng ta hãy tạo tình liên đới để không ai mặc cảm về những thiếu thốn của mình. Vâng, Chúa đang hiển linh một cách cụ thể nơi những mái tranh nghèo đầy thiếu thốn. Chúa Hài Nhi đang mời gọi chúng ta đến triều bái Người, cùng dâng cho Người những phương tiện cuộc sống hơn là những đền đài nguy nga ngay giữa dân nghèo. Hãy sống thiết thực khi cho cơm, cho áo người nghèo hơn là những khu nhà cao sang lạnh vắng tình người. Hãy viếng thăm dân nghèo nơi chính mái tranh nghèo khó của họ hơn là đánh trống phô trương trong các ngôi nhà hội nghị máy lạnh xa hoa... Ước gì mỗi người chúng ta hãy là những đạo sĩ dám dấn thân bước tới với những gia đình khổ đau nơi những mái nhà đơn sơ, chật hẹp, thiếu thốn để niềm vui Chúa giáng sinh được mang đến cho mọi người. Amen.
Đức Giêsu là Ánh Sáng muôn dân, Ánh Sáng cho muôn dân được thấy đường ngay nẻo chính, Ánh HiểnLinh ABC377
TMĐP- Đức Giêsu là Ánh Sáng muôn dân, Ánh Sáng cho muôn dân được thấy đường ngay nẻo chính, Ánh Sáng cho mọi người được nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho nhân loại tìm gặp Thiên Chúa là Nguồn Vui vĩnh cửu, Hạnh Phúc đời đời.
Hầu như ai cũng thích ánh sáng và sợ bóng tối: căn phòng sáng sủa vẫn thích hơn góc tối mù u, nắng ấm ban mai vẫn thích hơn những ngày vắng bóng mặt trời, và không gì ngao ngán, bực bội hơn những buổi tối cả khu phố bị cúp điện, và nhà nhà, người người phải chìm trong bóng tối.
Nhưng không phải ánh sáng nào cũng chiếu sáng, ngọn đèn nào cũng ấm áp, vui tươi, vì có những ánh sáng làm chói mắt, những luồng sáng làm sợ hãi, run rẩy, những ánh đèn làm thui chột, mù lòa như ánh sáng phẫn nộ từ đôi mắt đe dọa của cán bộ chấp pháp, như luồng sáng trấn áp, khai thác lột trần từ những bóng đèn cao thế trong phòng hỏi cung, tất cả như muốn lập tức đốt cháy cuộc đời nghi can.
Khác với những ánh sáng khủng bố, tiêu diệt, các bài đọc phụng vụ trong lễ Hiển Linh hôm nay cho chúng ta thấy: Đức Giêsu là Ánh Sáng muôn dân, Ánh Sáng cho muôn dân được thấy đường ngay nẻo chính, Ánh Sáng cho mọi người được nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho nhân loại tìm gặp Thiên Chúa là Nguồn Vui vĩnh cửu, Hạnh Phúc đời đời.
Và Ánh Sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa ấy đã được loan báo từ hàng ngàn năm trước trong Cựu Ước qua miệng các ngôn sứ, như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi” (Is 60,1-2).
Chính ánh sáng vinh quang của “Thiên Chúa làm người” đã toả chiếu và bao phủ các mục đồng trong đêm Giáng Sinh và dắt họ đến gặp Hài Nhi “sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12); chính ánh sáng vinh quang của “Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” đã hướng dẫn các đạo sĩ từ phương xa đến Bêlem bái lậy Đấng Kitô, Đức Vua dân Do Thái, đồng thời mở lối mới cho các vị trở về nhà an toàn, mà không trở lại Giêrusalem gặp vua Hêrôđê, vì ông này có lòng dạ nham hiểm đã sắp đặt kế hoạch truy lùng, sát hại Hài Nhi Giêsu, phòng xa nguy cơ bị tiếm ngôi (x. Mt 2,1-12).
Thánh Phaolô, người có kinh nghiệm thiêng liêng rất đặc biệt về Ánh Sáng của Thiên Chúa, trên đường bách hại các người theo đạo. Sách Công vụ Tông Đồ kể lại: “Đang khi ông đi trên đường và đến gần Đamát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,3-5). Ánh sáng ấy đã biến đổi ông từ kẻ bách hại các Kitô hữu trở thành Tông Đồ Dân Ngoại.
Nhờ kinh nghiệm bản thân được ánh sáng kêu gọi và biến đổi, tông đồ Phaolô là người hiểu rõ hơn ai hết “mầu nhiệm Đức Kitô”, mà chính thánh nhân đã khẳng định khi viết: “Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Kitô thế nào” (Ep 3, 4), và mầu nhiệm ấy chính là “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Vâng, Lễ Hiển Linh là lễ của Ánh Sáng, lễ tràn ngập Ánh Sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa toả chiếu vinh quang của Ngài trên tất cả chúng ta. Ngài là Ánh Sáng thế gian (x. Ga 8,12), Ánh Sáng muôn dân, muôn nước, “Ánh Sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2, 32), Ánh Sáng của Lời Hứa cứu độ, Ánh Sáng cảnh tỉnh, thương xót, chữa lành, xóa tội, như Ngài đã ban ánh sáng cho người mù bẩm sinh. Và chính Ngài là Ánh Sáng làm cho chúng ta được biết Ngài, trở lại với Ngài, yêu mến và hiệp nhất với Ngài trong một Thân Thể là Hội Thánh, đồng thời biến đổi chúng ta thành những người mang ánh sáng của Ngài cho đời tăm tối, và làm chứng Ngài là Ánh Sáng của Tình Yêu thương xót, cứu độ.
Xin Ngôi Lời Thiên Chúa ban cho tâm hồn mỗi người chúng ta Ánh Sáng bình an của Ngài, như lời hứa của Đấng Cứu Thế nhân hậu được các thiên thần hát giữa ánh sáng huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dứới thế cho người Chúa thương” (Lc 2,14).
"Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi.., và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người… Họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược."
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Lễ Chúa Hiển Linh (hay Lễ Ba Vua) là Lễ mừng biến cố hay sự kiện Chúa Giêsu Hài Nhi được HiểnLinh ABC378
Lễ Chúa Hiển Linh (hay Lễ Ba Vua) là Lễ mừng biến cố hay sự kiện Chúa Giêsu Hài Nhi được ba nhà đạo sĩ (hay ba nhà chiêm tinh hay ba nhà thiên văn học hay ba Vua) từ Phương Đông tìm đến Bêlem xứ Giuđê để triều bái Chúa Giêsu là Vua (người Do-thái) mới sinh ra và dâng tiến những lễ vật hoàng gia (là vàng, nhũ hương và mộc dược) để tỏ lòng tôn kính và suy phục của mình. Nói cách khác Lễ Chúa Hiển Linh là Lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Vì thế mà Lễ Chúa Hiển Linh mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời trần thế của Con Thiên Chúa làm người và của Kitô giáo chúng ta. Vậy chúng ta hãy dành thời gian và tâm hồn để suy gẫm về ý nghĩa của Lễ ấy.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12: Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12:
3.1 Sự kiện ba nhà đạo sĩ từ Phương Đông tìm đến Giêrusalem hỏi về vua Do-thái mới sinh ra ở đâu: Ba nhà đạo sĩ hay ba nhà chiêm tinh hay ba nhà thiên văn học hay HiểnLinh ABClà ba nhà thông thái thời bấy giờ chuyên nghiên cứu về các vị tinh tú trên bầu trời. Nhờ sự nghiên cứu ấy mà họ nhận ra ngôi sao lạ và ý nghĩa của nó. Họ đến từ Phương Đông là miền dân ngoại đối với người Israel. Họ tìm đến Giêrusalem để tìừa m vua người Do-thái mới sinh ra. Họ tìm thông tin ở triều đình vua Hêrôđê và những người thông thái của dân Israel. Họ đã tới nơi và gặp được Con Trẻ Giêsu và Mẹ Người là Đức Maria. Họ bái lạy Người và tiến dâng Người lễ vật châu báu là vàng, nhũ hương và mộc dược. Ba lễ vật ấy vửa mang tính giá trị thực tế vừa mang tính biều tượng (ám chỉ cuộc táng xác CHúa trên đồi Canvê 33 năm sau)
3.2 Vua Hêrôđê và các đại giáo trưởng và luật sĩ Israel: Trái ngược với sự nôn nóng và tích cực tìm kiếm vua người Do-thái mới snh ra của ba nhà đạo sĩ Phương Đông là sự thờ ơ của những nhà lãnh đạo Israel và sự độc ác nham hiểm của vua Hêrôđê. Những nhà lãnh đạo Israel biết nơi Đấng Mêsia sinh ra nhưng không muốn tìm đên nơi ấy. Còn vua Hêrôđê thì âm mưu giêt Trẻ Thơ và lửa gạt ba nhà đạo sĩ bằng những lời lẽ khôn ngoan lễ độ.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12:
4.1 Chúng ta hãy đón nhận và sống theo ơn soi sáng của Thiên Chúa: Không phải là những nhà thông thái như ba đạo sĩ Phương Đông nhưng chúng ta cũng nhận được ơn soi sáng của Thiên Chúa nhiều lần trong đời. Chúng ta hãy làm theo những soi sáng ấy để nhận ra Thiên Chúa và những chân lý của cuộc đời.
4.2 Chúng ta hãy tiến dâng cho Hài Nhi Giêsu những lễ phẩm hảo hạng nhất: Là những người đã nhận ra Chúa Hài Nhi Giêsu (là Con Thiên Chúa, là vua Israel) chúng ta hãy noi theo ba nhà đạo sĩ tiến dâng cho Người những lễ phẩm hảo hạng nhất mà chúng ta có: tài năng sức khỏe, thời gian, của cải vật chất v.v.. vì Người xứng đáng với sự tiền dâng ấy của chúng ta.
V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 2,1-12:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã sinh ra và tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ Phương Đồng tai Bêlem. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
1.- «Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người ơn khát khao tìm kiếm Đấng Cừu Thế mà Thiên Chúa gửi đến cho loài người.
Xướng: Chúng ta cùn g cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy nhiệt thành giúp người khác tìm ra Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã sinh ra ở Bêlem.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu sống chân thực trong lời nói và trong việc làm của mình
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Nghe nhà vua nói, họ lên đường.Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả các Kitô hữu biết trân quý đức tin và mạc khải mà Thiên Chúa đã ban cho họ trong/qua Hội Thánh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại chúng con. Người đã tỏ mình ra với ba nhà đạo sĩ Phương Đông, đại diện cho các dân tộc chưa nhận biết Chúa
Chúng con xin Cha ban Thánh Thần cho chúng con để Người giúp chúng con mạnh dạn rao truyền Con Trẻ Giêsu cho những người chưa biết Chúa. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha và Chúa chúng con Amen.
Sàigòn ngày 01 tháng 01 năm 2022 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Chủ đề: "Món quà to tát nhất dâng lên cho Vua các vua chính là cuộc sống đầy tình yêu thành tín và phụng sự tha nhân"
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Wise Man (Một nhà đạo sĩ khác) HiểnLinh ABC379
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Wise Man (Một nhà đạo sĩ khác), kể về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Ấu vương. Thế nhưng trên đường đến gặp 3 vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng, ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc là Artaban đã trở nên già nua nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính báo cho ông biết đây chính là vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt Artanban cảm thấy trái tim như bị tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artanban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:
"Này Artanban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ Ta. Khi Ta đói ông đã cho Ta ăn, Ta khát, ông đã cho ta uống, Ta trần trụi ông đã cho Ta mặc, Ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà".
***
Câu chuyện về Artanban cũng là câu chuyện của nhiều người thời đại này. Giống như Artanban, khi bắt đầu vào đời, nhiều người cũng đã từng mơ ước làm được một điều gì cao cả. Nhưng thời gian trôi qua, những hoàn cảnh dồn dập xảy đến vượt quá khả năng kiếm soát của họ khiến họ không thực hiện được những giấc mơ của mình, để rồi cuối cùng những ước mơ ấy tan biến đi. Chẳng hạn như một thiếu nữ đã từng mơ ước đi theo nghề thương mại hoặc mỹ thuật, nhưng trước khi bắt đầu nghề nghiệp của mình thì cô lại gặp và lấy một người đàn ông nào đó. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu cuộc sống gia đình, thế là mộng ước của thiếu phụ ấy dần dần nhạt mờ giống như trường hợp của Artanban. Thiếu phụ ấy cuối cùng chỉ còn biết dâng trọn thời giờ cho cái gia đình trẻ trung của mình.
Câu chuyện này có thể kết thúc ở đây, và nếu thế, đây là một câu chuyện đáng buồn, vì nó kể chuyện một phụ nữ chưa bao giờ thực hiện được hoài bão lớn lao của đời mình. Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó chỉ kết thúc vào một ngày trong tương lai, khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ điều Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta; điều gì con làm cho gia đình con, chính là con làm cho Ta".
Hoặc chúng ta hãy xét đến trường hợp một thanh nhiên có tài. Chàng mơ ước leo lên được địa vị cao trong công ty của chàng. Vì thế chàng làm việc chăm chỉ và hy sinh mọi thứ. Thế nhưng đột nhiên xảy ra sự cố trục trặc gây cản trở bước tiến của chàng dù chàng chẳng hề lầm lỗi chi, đó chẳng qua là việc xui xẻo mà thôi. Tuy vậy, chàng thanh niên vẫn tiếp tục sống lương thiện, làm việc chăm chỉ và trung tín. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây là một chuyện buồn, vì nó đề cập đến một chàng trai không bao giờ thực hiện được giấc mộng to tát của đời mình. Thế nhưng câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó sẽ chỉ kết thúc vào lúc Chúa Giêsu nói với chàng ta điều mà Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta, vì điều gì con đã làm một cách lương thiện và trung tín, tức là con đã làm cho Ta".
Ngoài ra ta còn có thể nêu ra một câu chuyện có thực về một thanh niên tên là Tony. Chàng du lịch khắp thế giới và xuất hiện thường xuyên trên sân khấu lẫn truyền hình với tư cách là tay trống trong một nhóm ca nhạc nổi tiếng khắp thế giới. Rồi một ngày nọ, Tony cảm thấy được Chúa gọi làm linh mục. Khi chàng rời bỏ nhóm ca nhạc để vào chủng viện. Nhiều người cho rằng chàng là kẻ điên khùng. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu như vậy thì đây là một câu chuyện buồn về một gã thanh niên để cho mộng ước vuột khỏi tầm tay mình. Tuy nhiên câu chuyện không kết thúc ở đây. Hiện Tony đang làm linh mục tại gíao phận Dallas. Chàng sống rất hạnh phúc. Một ngày kia, Chúa Giêsu cũng sẽ nói với chàng như đã từng nói với Artanban: "Hỡi Tony, suốt đời con đã giúp đỡ Ta, điều gì con làm cho giáo dân trong xứ, chính là con đã làm cho Ta".
Như thế, Lễ HiểnLinh ABCnhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị vua các Vua. Và câu chuyện "Một nhà đạo sĩ khác" (The Other wise Man) nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của Ba Vua, bởi vì món quà chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, như nhũ hương, mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artanban: "Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta. Vì bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn này…. của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25: 34-35-40).
Chúng ta hãy kết thúc với lời "nguyện xin lòng quảng đại" của thánh Ignatio de Loyola:
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phục vụ Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không hề tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đã thi hành Thánh Ý Chúa. Amen".
Chúng ta vừa mừng sinh nhật lần thứ 2021 của Đức Giêsu. Nói đến lần thứ 2021, thì có nghĩa HiểnLinh ABC380
Chúng ta vừa mừng sinh nhật lần thứ 2021 của Đức Giêsu. Nói đến lần thứ 2021, thì có nghĩa là phải có lần thứ nhất. Như vậy, chúng ta lấy mốc thời gian nào để tính là năm thứ nhất. Câu trả lời là dựa vào năm Đức Giêsu sinh ra. Như vậy, biến cố Đức Giêsu ra đời là khởi đầu của một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Dù ngày hôm nay, các chuyên viên có tính lại là năm Chúa Giêsu sinh ra không phải là năm thứ 1, nhưng Ngài được sinh ra vào khoảng năm thứ 6 trước Công nguyên. Đấy là vì ông Denise thuộc thời Trung cổ tính sai. Dẫu vậy, nhưng trong tâm trí của ông Denise và cũng như của tất cả nhân loại đều lấy ngày Chúa Giêsu giáng sinh là trung tâm của lịch sử. Ngài đã bước vào lịch sử của nhân loại và làm xoay chiều lịch sử ấy. Ngài mặc cho lịch sử trần tục của con người một ý nghĩa mới, lịch sử cứu độ. Từ đây, Thiên Chúa đã làm người và ở với con người. Thiên Chúa đã từ trời cao xuống trần gian để cho con người trần gian được bước lên trời. Đất với trời đã giao duyên!
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, nghĩa là chúng ta mừng kính việc Đức Giêsu bày tỏ vinh quang của Ngài cho 3 nhà đạo sĩ Đông phương và cũng là cho tất cả chúng ta. Nhưng biến cố ấy thay vì trở thành niềm vui cho hết nhân loại thì lại trở thành tin buồn và thảm hoạ cho một số người. Tại làm sao lại có chuyện ấy xảy ra? Có phải vinh quang của Thiên Chúa không có sức mang lại hạnh phúc cho con người không? Có phải Thiên Chúa đã chịu thua sự nhẫn tâm của con người rồi chăng? Ngày Chúa Giêsu sinh ra, các Thiên thần đồng thanh tung hô rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương", nhưng xem ra việc Chúa Giáng trần chỉ mang lại tai hoạ cho con người mà thôi!
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu. Ngài yêu thương hết thảy con người cho dẫu rằng con người có nhận ra điều đó hay không? Chúa không muốn biến con người thành những cổ máy Robot, nên đã trao cho họ tự do. Và vì lạm dụng tự do, nên con người đã chống lại Thiên Chúa; coi Thiên Chúa như đối thủ của mình, như người tranh giành hạnh phúc của mình. Thật là một điều đáng buồn cho con người.
Chúa Giêsu vẫn sinh ra cho con người dẫu rằng con người có đón tiếp Ngài hay không? Và quả thực, con người đã chối từ Ngài ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc đời dương thế của Ngài. Nhưng Ngài chấp nhận tất cả và chịu sinh ra trong cảnh nghèo nàn nhất của kiếp người. Nhà bảo sanh là chuồng bò, chiếc nôi là máng cỏ, thời tiết là giữa mùa Đông giá rét run người. Người ta không muốn đón tiếp Chúa vì Chúa đến trong thân phận của người nghèo khổ và quá âm thầm.
Hơn nữa, ngày mà Chúa tỏ vinh quang cho nhân loại thì lại trở thành ngày buồn thảm: Hêrôđê bối rối vì sợ bị chiếm ngôi, các gia đình có con trẻ từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Giuđêa và các vùng lân cận phải một trận khóc than thảm thiết vì con trẻ của họ bị giết! Lý do là vì sự độc ác của con người, cụ thể là vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là đại diện cho tất cả những con người ham hố quyền lực trên thế giới. Họ sẵn sàng gây ra bao nhiêu đau khổ, chết chóc cho nhân loại để bảo vệ uy quyền cho mình. Ngày nào trên thế giới còn có những con người ham hố quyền lực thì ngày đó nhân loại còn phải chịu đau khổ và chết chóc.
Sân khấu lịch sử cuộc đời còn có vai của những con người trong vai các kinh sư và luật sĩ. Họ thông thạo Thánh kinh, biết rõ nhiều vấn đề nhưng họ sợ cực khổ, sợ mất mát, ngại hy sinh nên đem những hiểu biết của mình chôn vùi trong tủ kính. Vì thế, những hiểu biết của họ không giúp ích gì cho ai và cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho bản thân họ. Họ là hạt giống có lớp vỏ vàng óng. Họ cố bảo vệ lớp vỏ của mình cho thật đẹp và không chịu làm trở thành thân phận của hạt giống, phải chịu thối đi để sinh ra trăm nghìn bông hạt mới. Vì thế, mãi mãi họ là hạt lúa cô đơn, hạt lúa vàng vô ích và sẽ có ngày sẽ hư mất.
Nhưng cũng may là thế giới này cũng còn có những con người khát khao tìm kiếm chân lý như 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông. Nếu không, thì cuộc đời này sẽ biến thành nghĩa trang lạnh lùng, đầy dẫy những xác chết, và trái tim con người sẽ hoá đá! Hình ảnh 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông trở thành mẫu mực cho những ai khao khát sự thật và sự sống. Khi nhận ra được ánh sáng chân lý rồi, thì họ không ngần ngại hy sinh, sẵn sàng chịu cực khổ, mất mát và nguy hiểm để lên đường tìm kiếm. Và những cố gắng của họ đã được đền bù xứng đáng. Họ đã được Thiên Chúa đong đầy sự khao khát của họ. Vì "Phúc cho ai biết khao khát nên trọn lành và tìm kiếm chân lý, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho được đầy no".
Mừng lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm lại chính mình xem chúng ta đang có trong mình hình ảnh của ai? Của Hêrôđê, của những Kinh sư hay của ba nhà Đạo sĩ Phương Đông? Chúng ta có phải là những người đang ham hố quyền lực để sẵn sàng tiêu diệt, loại trừ người khác để bảo vệ uy thế và chỗ đứng cho mình không? Hay chúng ta lại là những người Kinh sư, thông thạo Thánh kinh, biết rất nhiều về Lời Chúa nhưng lại không làm theo và không màng gì đến những Lời ấy? Hay chúng ta là những Nhà Đạo sĩ đang khao khát và kiếm tìm chân lý, để khi nhận ra được chân lý đang soi dẫn cuộc đời của mình thì sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan, hy sinh mọi sự để lên đường tìm kiếm chân lý? Phúc cho chúng ta nếu chúng ta đang mang trong mình hình ảnh của những nhà Đạo sĩ Phương Đông ngày xưa!
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mở đầu bằng một lời hiệu triệu rất long trọng, qua lời ngôn sứ Isaia HiểnLinh ABC381
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mở đầu bằng một lời hiệu triệu rất long trọng, qua lời ngôn sứ Isaia: “Hãy đứng lên, bừng sáng lên, Giêrusalem”. Nội dung của bài sách thánh thứ nhất cho ta thấy một bầu khí sôi động, hùng hồn như lệnh triệu tập của một đại lễ, hay một cuộc tổng động viên. Giêrusalem không còn vẻ tĩnh lặng đơn điệu của ngày thường, mà trở nên điểm quy tụ của cả thế giới. Mọi vương quyền trên thế giới đều đến đây để phủ phục tôn thờ Đấng Tối Cao. Mọi sản vật quý hiếm từ mọi miền đều được chuyển tải về đây để dâng tiến Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài. Những đoàn lạc đà nhiều chưa từng thấy, đến nỗi che rợp đất. Lạc đà là phương tiện giao thông của thời đó. Khi nói đến số lạc đà nhiều như vậy, có nghĩa là khách thập phương đông vô kể, từ muôn phương đang tiến về thành Thánh. Giêrusalem chói ngời, rạng rỡ, như cô dâu được trang điểm kỹ lưỡng, toả hào quang đến mọi miền xung quanh.
Vì lý do gì mà Giêrusalem bừng sáng đến thế? Đó là vì Đấng Cứu thế đã xuất hiện. Lời ngôn sứ Isaia bảy trăm năm trước đó đã được ứng nghiệm. Đấng Cứu thế đã hạ sinh. Người là Vua các vua và là Chúa các chúa. Thánh lễ hôm nay được gọi là lễ Hiển Linh. Từ này thường được dùng trong Kinh Thánh Cựu ước để diễn tả việc Thiên Chúa xuất hiện. Mỗi khi Ngài xuất hiện, hoặc để tỏ quyền năng tuyệt đối của Ngài, hoặc để cứu giúp dân Do Thái đang gặp tai ương hoạn nạn. Việc Thiên Chúa hiển linh cũng nói lên sự quan tâm chăm sóc đối với Dân được tuyển chọn. Trong lịch sử Cứu độ, nhiều lần Chúa đã hiển linh để cứu giúp dân Do Thái. Như thế, lễ Hiển Linh giới thiệu với chúng ta: Đức Giêsu là Vua của các vua. Người là Đấng muôn dân mong đợi. Ba nhà đạo sĩ, mà chúng ta quen gọi là ba vua, đã từ phương xa đến để chào kính và tôn thờ vị Vua mới sinh. Ba loại lễ phẩm: vàng, nhũ hương, mộc dược cho thấy ba vị này đến từ ba miền khác nhau của phương Đông. Các nhà chú giải Kinh Thánh giải thích: vàng là lễ vật tặng các vua chúa ; nhũ hương là lễ vật dâng tiến các thần linh ; mộc dược là thuốc thơm để tẩm liệm thi hài người quá cố, như một lời tiên báo Chúa Giêsu sẽ chịu chết để cứu độ nhân loại.
Khi mừng lễ Hiển Linh, Giáo hội cũng giới thiệu cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng Cứu độ toàn thể nhân loại. Người cũng là Vua vũ trụ. Vương quốc của Người là vương quốc tình yêu, công bình và bác ái. Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta đã suy tư về tước vị Vua của Chúa Giêsu. Qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, ơn Cứu độ được đề nghị cho toàn thể thế giới, chứ không giới hạn nơi dân tộc Do Thái như quan niệm của Cựu ước. Thực tế hôm nay đã chứng minh: trên khắp hoàn cầu, mọi quốc gia và lãnh thổ, Đức tin vào Chúa Giêsu được tuyên xưng và loan truyền. Hệ thống tổ chức của Giáo hội như các Giáo phận, các Dòng tu, các Giáo xứ, các Cộng đoàn đã chứng minh có Chúa hiện diện và điều khiển Giáo hội. Giáo hội của Chúa bao gồm mọi màu da, mọi ngôn ngữ, mọi văn hoá, mọi truyền thống. Giáo hội như một vườn hoa mênh mông với ngàn hương sắc khác nhau. Tất cả đều có chung một Phép rửa, một Đức tin, một Phụng vụ. Chất men Tin Mừng đã thấm nhập nơi mọi nền văn hoá và mọi dân tộc. Thánh Phaolô đã diễn tả trong thư gửi giáo dân Êphêsô như sau: « Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa muốn » (Bài đọc II).
Thánh vịnh 71 được hát lên trong phần Đáp ca đã diễn tả tình thương bao la hải hà của Thiên Chúa: « Người giải thoát bần dân kêu khổ, và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo… Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ”. Tác giả Thánh vịnh cũng ca ngợi vinh quang sáng ngời của vị Tân Vương: Triều đại Người, đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng trái đất ». Đức tin Kitô giáo đã nhận ra vị Tân Vương này là Hài nhi Giêsu sinh hạ tại Bêlem năm xưa.
Nếu ơn Cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô có tính phổ quát, thì bất kể ai, nếu thành tâm thiện chí thì đều được Thiên Chúa đón nhận vào gia đình của Ngài. Dưới cái nhìn của người Do Thái, ba nhà đạo sĩ được coi là những « người ngoại », nhưng họ có trái tim chân thành và thiện chí đi tìm Chân lý. Các ông đã vượt qua đường trường với bao nguy hiểm, để tìm cho bằng được vị Vua mới sinh. Những khó khăn không làm các ông nhụt chí và bỏ cuộc, kể cả khi không nhìn thấy ngôi sao dẫn đường. Cuộc tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ phần nào phác họa đời sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ tin là một cuộc lên đường tìm kiếm liên lỉ, là một chuỗi liên tục những khám phá bất ngờ. Những ai nỗ lực tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Ngài. Đức tin trước hết đòi chúng ta phải biết chấp nhận những hy sinh. Các nhà đạo sĩ là những người trí thức uyên thâm. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương lên đường vì nhận ra thông điệp của ngôi sao lạ. Trong đời sống đức tin, muốn được gặp Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lối sống không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Khi các nhà đạo sĩ không còn nhìn thấy ngôi sao, họ không nản lòng, nhưng kiên trì tìm hiểu để thấy hướng đi cho mình. Mục đích được gặp vị Vua mới sinh đã cho các ông quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Các ông nêu gương cho chúng ta về sự kiên nhẫn và hy vọng. Quả thế, trong hành trình tìm kiếm Chúa, có những lúc chúng ta cảm thấy nản chí vì những thử thách gian nan. Sự kiên trì và cậy trông chắc chắn sẽ giúp ta tìm thấy Chúa và gặp gỡ Ngài.
Khi các nhà đạo sĩ cảm thấy đứng trước ngõ cụt của hành trình tìm kiếm vị Vua mới sinh, các ông đã vào Giêrusalem. Ở đây, các chuyên gia đã khảo cứu Kinh Thánh và tìm được lời giải đáp. Nhờ hướng dẫn trong lời ngôn sứ Mika (x. Mk 5,1), các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng đạt được điều nguyện ước của mình. Ngày hôm nay, Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta trong Kinh Thánh. Nội dung Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người. Muốn tìm kiếm Chúa, ta phải chuyên tâm học hỏi và suy niệm Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta trên bước đường đời. Chuyên tâm suy niệm và sống Lời Chúa sẽ giúp ta sống thánh thiện trọn lành.
“Hãy bừng sáng!”. Đây là lời mời gọi ngôn sứ Isaia gửi đến thành thánh Giêrusalem. Đây cũng là lời nhắn nhủ mà Giáo Hội gửi đến các tín hữu nhân dịp lễ Hiển Linh hôm nay. Đức Kitô là Ánh sáng muôn dân. Thiên Chúa đã phán qua lời ngôn sứ Isaia: « Này đây Ta đặt con làm ánh sáng muôn dân, để con đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất » (Is 49,6). Lời này đã được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Người là ánh sáng trần gian. Người đến để dẫn dắt nhân loại bước ra khỏi u tối của tội lỗi và của quyền lực sự chết. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng của Đức Kitô, để rồi trong cuộc sống thường ngày, họ trở nên ánh sáng, phản ánh sự thánh thiện của Thiên Chúa giữa cuộc đời còn nhiều tăm tối. Trở nên ánh sáng để soi sáng cho bản thân. Trở nên ánh sáng cũng để giúp người khác từ bỏ tội lỗi, nên con người hoàn thiện nhờ thấm nhuần giáo huấn của Chúa Giêsu. Ba nhà đạo sĩ đã nhờ ánh sao soi đường để đến thờ lạy Hài nhi Giêsu, Vua muôn dân. Ơn gọi của người tín hữu là trở nên ngôi sao toả sáng trong cuộc đời. Chúng ta đang sống trong Giáo Hội, tức là sống trong thành thánh Giêrusalem mới. Nếu cá nhân mỗi tín hữu toả sáng, thì Giáo hội của Chúa cũng sẽ toả sáng và làm điểm quy tụ cho muôn dân hướng về.
Thưa anh chị em, như ba nhà đạo sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy Chúa Giêsu, tôn vinh Người là lý tưởng của cuộc đời chúng ta. Nhờ lòng yêu mến và chuyên tâm tuân giữ Lời Chúa Giêsu, chúng ta sẽ trở nên giống như Người. Đó là vinh dự, đồng thời cũng là bổn phận của người Kitô hữu trong bối cảnh cuộc đời hôm nay.
Hầu như ai cũng thích ánh sáng và sợ bóng tối: căn phòng sáng sủa vẫn thích hơn góc tối mù HiểnLinh ABC382
Hầu như ai cũng thích ánh sáng và sợ bóng tối: căn phòng sáng sủa vẫn thích hơn góc tối mù u, nắng ấm ban mai vẫn thích hơn những ngày vắng bóng mặt trời, và không gì ngao ngán, bực bội hơn những buổi tối cả khu phố bị cúp điện, và nhà nhà, người người phải chìm trong bóng tối.
Nhưng không phải ánh sáng nào cũng chiếu sáng, ngọn đèn nào cũng ấm áp, vui tươi, vì có những ánh sáng làm chói mắt, những luồng sáng làm sợ hãi, run rẩy, những ánh đèn làm thui chột, mù lòa như ánh sáng phẫn nộ từ đôi mắt đe dọa của cán bộ chấp pháp, như luồng sáng trấn áp, khai thác lột trần từ những bóng đèn cao thế trong phòng hỏi cung, tất cả như muốn lập tức đốt cháy cuộc đời nghi can.
Khác với những ánh sáng khủng bố, tiêu diệt, các bài đọc phụng vụ trong lễ Hiển Linh hôm nay cho chúng ta thấy: Đức Giêsu là Ánh Sáng muôn dân, Ánh Sáng cho muôn dân được thấy đường ngay nẻo chính, Ánh Sáng cho mọi người được nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho nhân loại tìm gặp Thiên Chúa là Nguồn Vui vĩnh cửu, Hạnh Phúc đời đời.
Và Ánh Sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa ấy đã được loan báo từ hàng ngàn năm trước trong Cựu Ước qua miệng các ngôn sứ, như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi” (Is 60,1-2).
Chính ánh sáng vinh quang của “Thiên Chúa làm người” đã toả chiếu và bao phủ các mục đồng trong đêm Giáng Sinh và dắt họ đến gặp Hài Nhi “sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12); chính ánh sáng vinh quang của “Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” đã hướng dẫn các đạo sĩ từ phương xa đến Bêlem bái lậy Đấng Kitô, Đức Vua dân Do Thái, đồng thời mở lối mới cho các vị trở về nhà an toàn, mà không trở lại Giêrusalem gặp vua Hêrôđê, vì ông này có lòng dạ nham hiểm đã sắp đặt kế hoạch truy lùng, sát hại Hài Nhi Giêsu, phòng xa nguy cơ bị tiếm ngôi (x. Mt 2,1-12).
Thánh Phaolô, người có kinh nghiệm thiêng liêng rất đặc biệt về Ánh Sáng của Thiên Chúa, trên đường bách hại các người theo đạo. Sách Công vụ Tông Đồ kể lại: “Đang khi ông đi trên đường và đến gần Đamát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,3-5). Ánh sáng ấy đã biến đổi ông từ kẻ bách hại các Kitô hữu trở thành Tông Đồ Dân Ngoại.
Nhờ kinh nghiệm bản thân được ánh sáng kêu gọi và biến đổi, tông đồ Phaolô là người hiểu rõ hơn ai hết “mầu nhiệm Đức Kitô”, mà chính thánh nhân đã khẳng định khi viết: “Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Kitô thế nào” (Ep 3, 4), và mầu nhiệm ấy chính là “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Vâng, Lễ Hiển Linh là lễ của Ánh Sáng, lễ tràn ngập Ánh Sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa toả chiếu vinh quang của Ngài trên tất cả chúng ta. Ngài là Ánh Sáng thế gian (x. Ga 8,12), Ánh Sáng muôn dân, muôn nước, “Ánh Sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2, 32), Ánh Sáng của Lời Hứa cứu độ, Ánh Sáng cảnh tỉnh, thương xót, chữa lành, xóa tội, như Ngài đã ban ánh sáng cho người mù bẩm sinh. Và chính Ngài là Ánh Sáng làm cho chúng ta được biết Ngài, trở lại với Ngài, yêu mến và hiệp nhất với Ngài trong một Thân Thể là Hội Thánh, đồng thời biến đổi chúng ta thành những người mang ánh sáng của Ngài cho đời tăm tối, và làm chứng Ngài là Ánh Sáng của Tình Yêu thương xót, cứu độ.
Xin Ngôi Lời Thiên Chúa ban cho tâm hồn mỗi người chúng ta Ánh Sáng bình an của Ngài, như lời hứa của Đấng Cứu Thế nhân hậu được các thiên thần hát giữa ánh sáng huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dứới thế cho người Chúa thương” (Lc 2,14).
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), nên Ngài không chỉ tỏ mình cho dân HiểnLinh ABC383
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), nên Ngài không chỉ tỏ mình cho dân Israel, mà còn tỏ mình cho mọi dân nước, để ai tin thì đều được đón nhận ơn cứu độ.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể về các nhà chiêm tinh đi tìm kiếm Đấng cứu tinh vừa mới giáng sinh, họ như đại diện cho các dân ngoại nhận ra dấu chỉ lạ lùng của thiên nhiên. Matthêu viết theo lối văn khải huyền của người Do thái, nên không thể hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen.
Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu cho các nhà chiêm tinh biết Con Ngài đã chào đời. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nhận thấy lời mời gọi lên đường để tìm kiếm vị Cứu Chúa của muôn dân. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả để bước đi trong đêm tối, chỉ còn dựa vào ánh sao của niềm tin khi tỏ khi mờ. Họ chỉ gặp được Chúa sau khi trải qua nhiều gian nan thử thách trên đường, và chỉ nhận ra Chúa với cái nhìn đức tin mạnh mẽ, nhất là khi đứng trước cảnh hang lừa tồi tàn. Thiếu đức tin, người ta vẫn thấy Chúa nhưng không nhận ra Ngài.
Các nhà chiêm tinh từ ngàn dặm xa xôi đã lên đường tìm Ðấng Cứu Thế, đang khi Hêrôđê và hàng lãnh đạo Do thái giáo cũng được báo tin, thì lại bình chân như vại. Bởi lẽ các luật sĩ hay biệt phái chỉ thao thức về lề luật; các thượng tế chỉ lo nghi lễ trong đền thờ; các kỳ lão chỉ bận tâm về truyền thống. Họ là những người lãnh đạo tôn giáo nhưng lại tự mãn và khép kín trong những cơ chế an toàn và cứng nhắc. Còn vua Hêrôđê thì toan tính để khai trừ vị vua mới sinh.
Thời nay vẫn có những triết gia chủ trương bất khả tri, coi Thiên Chúa chỉ là một phạm trù siêu việt, nếu Ngài có hiện hữu thì cũng không ăn nhập gì đến thế giới loài người. Vẫn có những nhà khoa học và những người chủ trương vô thần phủ nhận những gì là thần linh, họ cho điều huyền nhiệm cũng chỉ là huyền thoại. Vẫn không thiếu những kẻ có quyền thế tìm cách trù dập chân lý. Đối với họ, vũ trụ thiên nhiên như một đối tượng để nghiên cứu và khống chế, chứ không mang tính siêu nhiên, càng không như một dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Nhưng cũng trong thời đại này, dù không là Kitô hữu, vẫn có biết bao người đang rong ruổi tìm kiếm Thiên Chúa. Có ánh sáng nào đó soi chiếu trên đường đời của họ, khiến họ miệt mài phục vụ trong mọi lãnh vực, nhằm nâng cao đời sống tinh thần và góp phần kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn, hướng con người đến những giá trị tâm linh, vĩnh cửu.
Còn chúng ta thì sao? Nếu không tỉnh thức, ta dễ tự mãn với những điều mình hiểu biết về Thiên Chúa, chẳng còn thao thức tìm Ngài, nên cũng chẳng quan tâm gì đến những dấu chỉ hay thời điềm. Dường như đời sống đức tin đã được gói gọn trong các câu kinh và nghi thức. Những gì sâu xa nhất cũng đã được hệ thống hóa trong các cử hành phụng vụ, nên ta cảm thấy quá đầy đủ, không cần nhận ra Chúa nơi điều gì khác.
Cần có lòng khao khát chân lý và sự thiện hảo như các nhà chiêm tinh, để ta can đảm ra khỏi mình, ra khỏi những an toàn và tiện nghi đang trói buộc mình hằng ngày, để thấy Chúa đang tỏ mình qua mọi biến cố của đời sống. Trong ý nghĩa đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi các tín hữu hãy ra khỏi chính mình để tìm đến với tha nhân: “Theo Chúa Giêsu, có nghĩa là học cách ra khỏi chính mình, để đi gặp tha nhân… nhất là những người xa cách nhất, những người bị lãng quên, những người đang cần được cảm thông, cần an ủi, giúp đỡ… Theo Chúa Giêsu, đòi ta phải ra khỏi lối sống đức tin mệt mỏi chỉ theo thói quen, ra khỏi cám dỗ co cụm trong những khuôn khổ của mình, và rốt cuộc là khép kín với chiều kích hoạt động đầy sáng tạo của Thiên Chúa”[1].
Vì thế, Đức Thánh Cha mạnh mẽ khuyến khích chúng ta:“Hãy lên đường cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô”[2].
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúa không chỉ tỏ mình cho Israel, mà còn tỏ mình cho mọi dân mọi nước, Chúa vẫn làm sáng lên những ánh sao, không phải chỉ ở trên trời cao, mà chính yếu là trong lòng người thế, để cho thiên hạ luôn biết nẻo tìm về.
Chúa đặc biệt tỏ mình cho những ai, có tâm hồn đơn sơ và ngay chính, biết sống công bình và bác ái yêu thương, không quá vấn vương bám víu vào trần thế, không bị đam mê và lắng lo kiềm chế, để sống cuộc đời trong tâm thế hồn nhiên.
Như các nhà chiêm tinh đi tìm Chúa, xin cho con biết ra khỏi mình, ra khỏi định kiến và lười biếng tinh thần, ra khỏi tiện nghi và tự mãn bản thân, để nhận ra Chúa nơi đời sống tha nhân, và qua dấu chỉ của thiên nhiên vạn vật.
Xin cho con dám sống niềm tin lên đường, luôn can trường và chấp nhận đau thương, để sau khi vượt qua nhiều gai chướng, được gặp Chúa ở cuối cuộc hành hương, là niềm vui hạnh phúc chốn thiên đường, mà lòng con vẫn hằng luôn mong ước.
Cho con nên dấu chỉ của Chúa ở mọi nơi, là ánh sao giữa đời trong đêm tối, để âm thầm luôn dẫn lối đưa đường, là ánh sao hiền lành và khiêm nhượng, ánh sao phục vụ với tất cả tình thương, tỏa sáng an bình của Chúa Giáng Sinh. Amen.
—------------------------
[1] Buổi tiếp kiến chung đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô 27-3-2013. [2] Đức Thánh Cha Phanxicô: Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, s. 48.
Khi còn nhỏ, chúng ta học cách xua đi bóng tối bằng cách vặn ngọn đèn lên. Đèn càng sáng thì HiểnLinh ABC384
Khi còn nhỏ, chúng ta học cách xua đi bóng tối bằng cách vặn ngọn đèn lên. Đèn càng sáng thì bóng tối càng bị đẩy lùi. Ánh sáng còn xóa tan những sợ hãi do không gian tăm tối mang lại. Quy luật tự nhiên là ánh sáng và bóng tối không thể cùng lúc chiếm ngự cùng một chỗ. Một là chúng ta ở trong bóng tối, hai là ở trong ánh sáng. Và trong thế gian này, bóng tối thì không bao giờ ở xa. Nó luôn luôn ở ngay bên cạnh, chờ đợi cơ hội để xâm chiếm.
Bóng tối có khi đồng lõa với sự dữ. Bóng tối của không gian làm cho con người trì trệ và ngưng mọi hoạt động. Bóng tối của sự dữ làm cho con người sợ hãi có khi mất lý trí, ý chí và tự do.
Điển hình là bóng tối của Covid đã và đang bao trùm trái đất suốt hai năm qua. Bóng tối Covid gây bao đau thương của chết chóc, chia ly. Bóng tối của Covid để lại bao tổn thương tinh thần lẫn vật chất.
Nhân loại lúc này đang cần ánh sáng để đẩy lùi sự dữ. Nhưng lực bất tòng tâm. Ánh sáng con người vẫn chưa đủ để xua tan bóng tối của sự dữ.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy cùng HiểnLinh ABCbước theo ánh sao dẫn chúng ta tìm gặp Đấng là Ánh Sáng cho trần gian. Vâng, Hài Nhi mới sinh ra trong Đêm Cực Thánh chính là Ánh Sáng, là Lửa Trời mà các ngôn sứ đã tiên báo trong Is 60:1, “Giêrusalem! Hãy đứng lên! Hãy bừng sáng, bởi ánh sáng của ngươi đã xuất hiện. Vinh quang của Thiên Chúa [giờ đây] như bình minh chiếu tỏa rạng ngời trên ngươi”.
Ánh sáng nơi máng cỏ Belem đã mang lại niềm vui cho HiểnLinh ABCđể họ bước ra khỏi bóng tối của u mê, của lầm lại để đến với ánh sáng chân lý và sự thật. Khi HiểnLinh ABClên đường vẫn gặp những cản trở của bóng tối nhưng họ kiên trì vượt qua. Điều quan trọng là sau khi đã gặp Đấng cứu thế thì họ đã chuyển sang lối khác mà về. Nghĩa là không còn đi trên con đường cũ của bóng tối sự dữ.
Mừng lễ Chúa hiển linh xin Chúa soi sáng cho chúng ta can đảm bước ra khỏi bóng tối của lòng mình còn đầy tham sân si và tội lỗi. Xin cho chúng ta cũng biết đi theo ánh sáng của Chúa để ra khỏi những bóng tối của phe nhóm, bè phái để sống hiệp nhất và yêu thương.
Chúa giáng sinh luôn mời gọi con người hãy để ánh sáng của Chúa bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Hãy bước ra khỏi bóng tối để nhờ có ánh sáng sẽ thay đổi đời sống. Nhờ ánh sáng con người được sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Và nhờ ánh sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa chúng ta được chữa lành mọi thương tích tội Adam để trở nên con cái của Chúa. Nhờ ánh sáng của Chúa sẽ xua tan bóng tối của sự dữ đang bủa vây chung quanh. Đồng thời cũng hãy trở thành kẻ dẫn đường cho anh em bước đi trong áng sáng của Tin mừng Chúa.
Mừng lễ Chúa hiển linh chúng ta hãy xin ánh sáng của Chúa xua tan bóng tối sự dữ Covid trên địa cầu. Xin Chúa mang lại ánh sáng bình an và hy vọng cho cuộc đời chúng ta. Amen.
Hôm nay, ta được theo chân của ba nhà chiêm tinh tìm đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Hành trình đi HiểnLinh ABC385
Hôm nay, ta được theo chân của ba nhà chiêm tinh tìm đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Hành trình đi tìm Chúa của ba nhà đạo sĩ hôm nay cho ta nhiều bài học.
Tin Mừng cho thấy ba nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao ở phương đông. Ngôi sao xuất hiện là một điềm báo lạ lùng. Họ hứng khởi ra đi, lòng tràn đầy hy vọng, tràn đầy tin tưởng mình sẽ gặp được một vị vua vĩ đại vừa mới sinh. Ngôi sao dẫn đường cho họ. Đường nhiều gian nan, khó khăn nhưng họ vẫn ra đi. Tin Mừng không nói rõ là họ đã đi trong bao lâu nhưng ta cũng có thể hình dung những khó khăn mà họ gặp phải: đường xa, có đoạn đường bằng phẳng và cũng có lắm đoạn gập ghềnh sỏi đá; có lúc trời mát mẻ nhưng cũng có những ngày trời nắng nóng hay mưa rơi; có khi bước đi mà ánh mắt dõi nhìn ngôi sao dẫn đường nhưng cũng có khi phải lần trong đêm tối. Họ không biết rõ điểm đến của mình ở đâu. Họ chỉ có ngôi sao trên trời dẫn lối. Trời và đất thì cách xa ngàn trùng nhưng họ vẫn chẳng chùn bước chân. Mặt đất rộng bao la, đâu sẽ là nơi họ sẽ dừng chân? Nói khác đi, đâu mới là nơi có Hài Nhi hiện diện? Đây là bài học đầu tiên ta nhận được, đừng dừng bước vì những khó khăn nhưng cứ hướng lên ánh sao mà đi.
Họ gặp rất nhiều người nhưng chẳng ai biết tin về vị vua mới sinh. Cuối cùng họ đã đến thành Giêrusalem, vào đúng dinh của vua Hêrôđê. Họ hỏi về vị vua mới sinh. Tin mừng ấy khiến cho vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem thì xôn xao. Vua Hêrôđê liền triệu tập những kinh sư đến để hỏi xem vua mới sinh phải sinh ra ở đâu. Các kinh sư mở Kinh Thánh trích dẫn chính xác: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 5-6). Vua Hêrôđê như ngồi trên đống lửa, ngai vàng của ông đang bị đe dọa. Ông bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (x. Mt 2, 7-8). Con đường dẫn đến với Hài Nhi mới sinh chỉ in dấu chân của ba nhà chiêm tinh, và chỉ có họ mới thực sự được gặp Đấng họ hằng khao khát kiếm tìm. Bài học thứ hai ta nhận được là sau hành trình gian khổ, ta sẽ gặp được điều ta mong đợi.
Trong cuộc đời mình, ta cũng nhận thấy có những ngôi sao dẫn đường, giúp ta tìm đến với Chúa. Ngôi sao đầu tiên đó chính là mẹ của ta. Chính mẹ là ngôi sao đầu tiên đưa ta đến với Chúa. Bằng chính đời sống đạo đức, những yêu thương âm thầm, mẹ đã dạy ta những lời kinh đơn sơ, mẹ cõng ta đến nhà thờ, mẹ gieo vào tâm hồn ta ước mơ sống đời tu. Lúc ta gặp khó khăn trong việc học, chính mẹ là người đã động viên ta, thắp lên ước mơ trong lòng ta, để ta không bỏ dở việc học. Mẹ luôn âm thầm đi phía sau để nâng đỡ từng bước chân của ta. Ngôi sao thứ hai đó chính là người cha đã khuất của ta. Người đã luôn nhắc ta chỉ một điều: “Bám vào Chúa nghe con, đừng buông ra”. Ngôi sao ấy đã khuất bóng nhưng ánh sáng vẫn chiếu rọi nơi tâm hồn ta, đưa ta tìm về bên Chúa mỗi ngày. Bước vào đời tu, ta được hướng dẫn và đồng hành từ những vị huấn luyện, các ngài như những ngôi sao sáng chỉ lối cho ta tìm gặp Chúa. Dù cho nhiều lúc trời mưa hay bão tố, ngôi sao bị che khuất thì ta vẫn luôn tin rằng, kiên trì bước theo Chúa ta sẽ gặp được Người.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã dùng ngôi sao để chỉ dường cho ba nhà chiêm tinh, cho họ được đến thờ lạy Chúa. Chúa đã tỏ mình cho dân ngoại được biết. Chúa mời gọi con hãy tìm kiếm Chúa mỗi ngày, và trở nên một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm đến với Chúa. Bằng chính đời sống chứng tá khiêm nhường phục vụ, yêu thương tha thứ của mình, con sẽ chiếu sáng như vì sao xưa kia đã dẫn đường cho những nhà chiêm tinh đến thờ lạy Chúa. Con được đọc và hiểu Kinh Thánh, con có khao khát tìm kiếm Chúa nhưng con phải đi xa hơn nữa, đó là lên đường như ba nhà chiêm tinh. Bao lâu con biết nỗ lực vượt qua mọi gian nan, kiên trì tìm kiếm Chúa thì chính Chúa sẽ tỏ mình cho con, cho những người đang sống cùng con. Amen.
“Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Câu hỏi của các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông đã làm náo động cả thành Giêrusalem và nhất là làm náo động tâm hồn vua Hêrôđê. Các ông đã theo dấu của “ngôi sao lạ” để thực hiện một hành trình dài. Cuối cùng, “ngôi sao lạ” dẫn họ đế tận nơi Hài Nhi ở. Họ liền sấp mình thờ lạy Người (x. Mt 2, 1-12).
Qua sự kiện các nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến bái lạy vị vua mới sinh, chúng ta có HiểnLinh ABC386
Qua sự kiện các nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến bái lạy vị vua mới sinh, chúng ta có thể thấy rằng, Tin Mừng Giáng Sinh là tin mừng dành cho dân ngoại. Hành trình của họ quả gặp nhiều khó khăn. Chỉ một dấu từ “ngôi sao lạ”, họ mạnh dạn thực hiện một cuộc hành trình dài. Điều gì đã thôi thúc họ làm điều đó? Họ vào hoàng cung để hỏi tin tức. Dĩ nhiên, sự thường thì vua chúa phải sinh ra trong cung điện, đền đài của vua. Điều đó thật dễ hiểu. Tưởng chừng như họ có thể gặp được Vị Vua mới sinh nhưng họ đã không tìm thấy vị vua ấy nơi cung điện của vua chúa. “Xin quý ngài đi dò hỏi tưởng tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2, 8). Sau khi được vua Hêrôđê ngỏ lời như vậy, họ liền ra đi. Họ tiếp tục đi dưới sự dẫn đường của “ngôi sao lạ”, lòng mừng rỡ vô cùng (x. Mt 2, 10).
Không tìm thấy Vị Vua mới sinh ở đền đài vua chúa, các ông lại được gặp một Hài Nhi mới sinh nơi máng cỏ nghèo hèn. Thật khó tin, Vua mà lại sinh nơi nghèo hèn đến thế. Vừa bước vào cửa, mùi ẩm mốc, mùi của các súc vật, rơm rạ bốc lên. Không một chút do dự, họ liền tiến đến và bái lạy Người. Chúng ta có thể hình dung được khung cảnh lạ lùng này không? Họ mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11). Không biết, đã bao lần họ thực hiện chuyến đi tương tự. Có thể, mỗi lần nhìn thấy một “ngôi sao lạ” xuất hiện, họ đều thực hiện một chuyến đi như thế. Nhưng chuyến đi lần này thật đặc biệt. Đặc biệt về nơi chốn và cách thức vị vua được sinh ra. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Khi theo dõi hành trình của ba nhà chiêm tinh, chúng ta như được hòa mình vào niềm vui của họ. Con Một Thiên Chúa, Vị Vua mới hạ sinh tỏ mình ra cách đơn sơ nghèo hèn nơi máng cỏ Bêlem. Chúng ta được mời gọi đi sâu hơn vào kinh nghiệm gặp gỡ với Vị Vua ấy trong biến cố Giáng sinh để cảm nhận được tình yêu bao la Ngài dành cho mỗi người chúng ta. Tình yêu ấy không chỉ dành cho một ít người, một vài dân tộc nhưng dành cho cả nhân loại. Thiên Chúa nhân từ đến trần gian nhưng sự thật là Ngài đã bị từ chối. Như lời thánh Gioan đã từng nói: “Người đã đến nhà mình nhưng ngời nhà chẳng chịu đón nhận” ( Ga 1, 11). Trong hoàn cảnh này, có thể nói, các nhà chiêm tinh đã an ủi Thiên Chúa của chúng ta biết dường nào khi họ diễn tả được lòng yêu mến, ái mộ của mình qua một chuyến đi đầy vất vả. Thiên Chúa đã đến với dân ngoại và phải chăng Người đã được họ đón nhận?
Chúng ta tiếp tục được mời gọi nhìn về hành trình cuộc đời của mình. Chúng ta có đang hăm hở đến với Thiên Chúa mỗi ngày? Ngài vẫn luôn đến với mỗi người chúng ta qua nhiều cách thức khác nhau. Thỉnh thoảng, Ngài dùng các dấu lạ để hướng dẫn chúng ta hệt như “ngôi sao lạ” đã dẫn các nhà chiêm tinh vậy. Có khi, Ngài âm thầm, đơn sơ nhỏ bé, khiêm tốn đến với chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Chúng ta có đang khao khát đi đến để được đón rước Người mỗi ngày? Mỗi khi không nhận đợc một “dấu lạ” nào của Ngài, chúng ta có kiên trì để tiếp tục cuộc hành trình như các nhà chiêm tinh? Khi đã gặp được Ngài, chúng ta đừng ngần ngại, hãy dâng lên Ngài những gì mình có. Ngài sẽ thương đón nhận của lễ mọn hèn của chúng ta. Bởi chúng ta cũng là dân ngoại được Thiên Chúa đoái thương, là “ôliu dại đã được tháp nhập vào đó và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ôliu chính” (x. Rm11, 17).
Sao Thiêng Dẫn Đường Tới Hang Đá, Đạo Sĩ Theo Hướng Tìm Thánh Nhi. Khoảng cách xa HiểnLinh ABC387
Sao Thiêng Dẫn Đường Tới Hang Đá Đạo Sĩ Theo Hướng Tìm Thánh Nhi
Khoảng cách xa hay gần là một khái niệm, không nhất thiết giống nhau – dù nghĩa đen hay nghĩa bóng. Về không gian, chỉ vài km có khi người ta lại cảm thấy xa hơn cả ngàn km. Cụ thể như giữa năm 2021, khi dịch bệnh lên tới đỉnh cao, cả hàng chục ngàn người phải tháo chạy khỏi Saigon mà người ta không hề ngần ngại, mặc dù đường đi cách trở – có người đi trăm km, có người đi cả ngàn km; có người phải lội bộ, có người đi xe đạp hoặc chiếc xe máy “cùi” mà thôi.
Thấy mà ngán ngẩm, nhưng với họ cũng chỉ là “chuyện nhỏ.” Cái khó ló cái khôn. Khi xác định vấn đề và quyết tâm, người ta không e ngại hoặc lo sợ gì nữa, nhất là khi bản năng sinh tồn thức dậy. Khi muốn thì người ta tìm ra phương tiện, khi không muốn thì người ta tìm ra đủ lý do để thoái thác và biện hộ.
Điều đó đã được chứng minh. Ngày xưa, có những con người khôn ngoan thông thái đã thực sự quyết tâm khi nhận ra một ánh sao rất lạ lùng. Chúng ta quen gọi họ là ba vua, nhưng thật ra không chỉ có ba người mà nhiều người, họ không phải là những quốc vương mà là các đạo sĩ, chiêm tinh gia, người khôn ngoan,… ở các nơi khác nhau từ Đông phương xa xôi. Họ đã phát hiện và theo dấu Ánh Sao Lạ đến diện kiến Vương Nhi Giêsu cùng với Song Thân của Ngài tại hang đá Belem đơn nghèo.
Họ đã làm những gì cần làm: quên mình và tiến dâng những gì quý giá nhất. Người ta thông tuệ nhờ tìm hiểu và học hỏi để biết những gì cần thiết, không cần biết những gì không cần thiết. Khôn và dại đôi khi bị hiểu lẫn lộn. Triết gia La Rochefoucauld nói: “Có ba thứ ngu dốt: không biết điều phải biết, biết không rõ ràng điều đáng biết, và biết điều không nên biết.”
Hiểu và biết “gần” nhau mà khác nhau. Hiểu nhưng có thực hiện hay không, đó mới thực sự là vấn đề. Tốt hay xấu là nguyên do bởi chính mình. Dựa vào Phúc Âm thứ nhất – Tin Mừng theo Thánh sử Mátthêu, và các nghiên cứu về lịch sử tôn giáo, có các chi tiết và các điểm khác biệt từ câu chuyện về các đạo sĩ. Có 4 điểm chính cần biết để hiểu: [1] Họ là người Ba Tư đến từ vùng đất bán thần thoại Shir – liên quan Trung quốc cổ đại. [2] Không chỉ ba mà cả chục đạo sĩ đến viếng thăm Hài Nhi Giêsu. [3] Ba đạo sĩ được mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Ông Tổ Adam. Theo quy ước, người ta đồng ý gọi tên họ là Balthasar, Gaspar và Melchior. [4] Họ thuộc một giáo phái có niềm tin vào việc cầu nguyện thầm lặng nên đã chờ đợi rất lâu để có thể nhận thấy Ngôi Sao Lạ xuất hiện, và họ tin đó là dấu hiệu báo về một vị Thiên Tử.
Lịch sử là lịch sử. Sự thật là sự thật. Vấn đề quan trọng là TIN NHẬN Hài Nhi là Thiên Chúa, là Chúa Tể càn khôn, một trẻ sơ sinh nhưng là Đấng tạo dựng muôn loài và chính mình – dù chúng ta đã già nua rồi. Như Gioan Tẩy Giả xác định: “Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1:15 và 30)
ĐẾN NƠI CẦN ĐẾN
Thiên Chúa đã hứa ban Ngôi Con từ ngàn xưa, và giờ đây Ngôi Hai xuất hiện. Lời hứa ứng nghiệm tỏ tường. Là tội nhân, nhưng chúng ta được Đức Giêsu tháo gỡ gông cùm tội lỗi và phục hồi cương vị là con cái Chúa. Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” (Is 60:1-2) Thế thì thật hạnh phúc – đối với cả nhân loại và riêng từng người. Niềm vui khôn tả!
Không chỉ vậy, tội nhân chúng ta còn được Ngài quan tâm đặc biệt: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông.” (Is 60:4) Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng, là Đấng Cứu Thế. Ngài đến để giao hòa đất trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:6)
Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, nhưng Thiên Vương Giêsu lại ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ chứ không được phục vụ. Ngài đến KÊU GỌI tội nhân sám hối ăn năn, (Lc 5:32) TÌM và CỨU những gì đã mất, (Lc 19:9) và BAN SỰ SỐNG dồi dào cho mọi người. (Ga 10:10) Nhân loại không thể hiểu cách Ngài thực hiện nhưng đó là sự thật minh nhiên, vả lại tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của chúng ta không phải là đường lối của Ngài. (Is 55:8)
Chính Hài Nhi bé nhỏ nơi máng cỏ kia là Tạo Hóa, triều đại Ngài rực rỡ những đóa công lý và thái bình thịnh trị vĩnh viễn, (Tv 72:7) mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước phụng sự Ngài. (Tv 72:11) Ngài toàn năng nhưng rất nhân từ, luôn theo sát đồng bào, tận tụy với đám dân nghèo, công lý và sự thật được bảo vệ tới cùng, để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ.” (Tv 72:12-13) Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa.
Các hiền triết nhận biết có một “dị nhân” vừa xuất hiện, họ không quản ngại đường xa, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm kiếm. Chính ánh sao đã dẫn đường và dừng lại trên một hang chiên lừa xơ xác. Không ai có thể ngờ được, nhưng họ đã tin thật đó là Đấng họ muốn tìm kiếm.
Chúng ta thật may mắn, không phải đoán già đoán non vì đã được biết đó là mầu nhiệm. Thánh Phaolô cho biết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô.” (Ep 3:2-3) Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh tông đồ và ngôn sứ của Người.” (Ep 3:5) Và mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa. (Ep 3:5-6) Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được thừa kế gia nghiệp của Thiên Chúa, nên một thân thể và cùng chia sẻ với Ngài.
Khắp nơi ánh sáng tỏa lan Ánh Sáng Ngôi Lời. Ngôn sứ Isaia hân hoan mời gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” (Is 60:1-2) Ánh bình minh xua tan bóng đêm đen, ánh sáng tiêu diệt bóng tối. Điều đó chỉ có thể là ánh sáng vĩnh cửu, ánh sáng đến từ Thiên Chúa.
2. LÀM VIỆC PHẢI LÀM
Thời đó là lúc vua Hêrôđê trị vì miền Giuđê. Các đạo sĩ đến Giêrusalem và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2:1-2)
Nghe vậy, vua Hêrôđê kinh ngạc, cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Là vua nên Hêrôđê sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ ra đời.” (Mt 2:6) Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các đạo sĩ và hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi ra vẻ tốt lành: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (Mt 2:8) Nghe nhà vua nói thế, họ an tâm ra đi mà không hề biết vua Hêrôđê có mưu đồ đen tối.
Họ không chỉ là những người thông thái mà còn giàu có. Họ thấy Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai người nghèo và lũ chiên lừa mà họ vẫn không thất vọng, vẫn thực sự mãn nguyện. Y như truyện cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó là sự thật minh nhiên. Và rồi họ đã dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình.
Họ đã nỗ lực tìm kiếm Chúa Giêsu, gặp và tin, can đảm vào đời, tìm cách tránh “ác nhân” Hêrôđê, nỗ lực hành động tích cực và sống tốt lành. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân – và cho chính mình. Kinh Thánh cho biết: “Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất; từ viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi. Và dân cư tận chân trời góc biển sẽ tới hát mừng danh thánh Chúa, tay bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời. Muôn thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ, và tên ngươi, thành được Chúa chọn, sẽ lưu truyền hậu thế đến ngàn năm.” (Tb 13:13)
Belem bé nhỏ nhưng chợt hóa thành nơi tràn ngập ánh sáng kỳ diệu – ánh sáng của Hồng Ân, của Đức Tin, của Yêu Thương, của Lòng Thương Xót, của Hòa Bình, của Chân Lý, của Hạnh Phúc, của Sự Sống, của Vĩnh Cửu, của Công Lý, của Tự Do,… Belem bé nhỏ mà vĩ đại vì là nơi Thiên Chúa chọn để Đấng Thiên Sai giáng sinh làm người và thực hiện kỳ công cứu độ của Ngài.
Thực sự vô cùng nguy hiểm đối với kẻ vừa ngu ngốc vừa thâm độc mà lại có quyền hành nữa. Hêrôđê mưu mô vì sợ người khác “chạm” đến cái ngai vàng của mình, vì cái ghế đó liên quan quyền lực và lợi lộc. Thời nay cũng chẳng thiếu những dạng người hoặc bóng dáng như Hêrôđê. Họ là những kẻ có mặt người mà dạ thú, chỉ sợ mất chức, mất quyền, tìm mọi cách “cố thủ” để bảo vệ “chiếc ghế” chứ chẳng có ý tốt lành gì, cố ý giữ phần tư lợi chứ chẳng là phục vụ người khác. Loại người Hêrôđê ngày nay còn độc ác và nguy hiểm hơn chính Hêrôđê ngày xưa. Biết mà làm như không biết đối với những kẻ khoác lác thì đó là khôn ngoan thực sự.
Các đạo sĩ không chỉ khôn ngoan, thông thái, mà họ còn thành tín với tầm nhìn đức tin rất sáng chói và sâu xa, bởi vì họ thực sự tin nhận Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng Thật, Nguồn Sống Thật, Thiên Chúa Thật. Đúng vậy, Hài Nhi Giêsu là Vị Cứu Tinh duy nhất của nhân loại. Với niềm xác tín, Thánh Piô Năm Dấu đã cầu nguyện: “Xin Chúa đến tái sinh trong linh hồn con và ở lại mãi mãi.”
Lạy Thiên Chúa nhân lành và toàn năng, xin ban tầm nhìn tâm linh cho chúng con, để chúng con thấy Ngài nơi mọi người, nhất là nơi những con người đau khổ; xin giúp chúng con theo chân các đạo sĩ đi tìm Chúa và hành động cụ thể; xin thanh lọc tâm trí chúng con để không lây nhiễm mọi sự dữ, biết phân định đúng ý Ngài. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin nguyện giúp cầu thay suốt chặng đường đời lữ hành. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Mạo hiểm để hy vọng sớm nổi danh nổi tiếng, hoặc có chí khí làm ăn để thoát nghèo, những thành HiểnLinh ABC388
phần như vậy ở đâu chúng ta cũng gặp. Cất bước lên đường tìm kiếm danh, lợi, thú, khao khát gặp “bụt thần” để xin điều ước, chắc chắn vẫn còn là câu chuyện “thời sự” đối với xã hội hôm nay. Ra trường đời “cọ sát” với : thật-giả, tốt-xấu, mưu-mô, tranh đấu-bình đẳng…., cho đến khi biết trở về với cõi lòng mình, phải chăng được như thế là nhờ gặp thấy dấu lạ ?
Ba đạo sĩ từ Đông phương lên đường tìm kiếm dấu lạ, không phải vì mưu cầu vật chất, không có ý củng cố sức mạnh tinh thần, nhưng họ vẫn phải đối diện với nguy hiểm, lung lạc mục đích khám phá dấu lạ. Các vị Đạo sĩ nhờ được trang bị số kiến thức cần thiết để biết nhìn trời, nhìn sao, nhất là đủ khôn ngoan, để không bỏ lỡ cơ hội xem bằng mắt, bắt bằng tay dấu lạ Hài Nhi. Các mục đồng, các đạo sĩ, không thể tự biết tìm đến Belem, nếu không có dấu lạ chỉ đường, cả triều thần Hêrôđê và chúng ta hôm nay, đều cần đến sự tác động của dấu lạ mang tên Giêsu.
Quyết định làm một chuyến hành hương tới Belem, ngoài ý chí, nghị lực, các đạo sĩ còn cần có thao thức và ước muốn dấn thân, lên đường. Thực ra, tới Belem không phải chỉ có một con đường, hang đá ở nhà thờ, ở gia đình và hang đá ở cõi lòng mỗi người vẫn là nơi thích hợp hơn cả, để con người gặp gỡ Hài Nhi Giêsu. Điều kiện chung cho xưa và nay vẫn là khao khát chân lý, là thể hiện được niềm tin như các nhà đạo sĩ, như các mục đồng. Hôm nay đây, bằng mắt đức tin, bằng tinh thần cầu nguyện, người ta vẫn sáng lên niềm vui, hạnh phúc, khi chấp nhận để tình yêu Giêsu đi vào mọi ngõ ngách đời mình.
Nhiều người cho rằng : một con én không làm nên mùa xuân; nhưng chỉ cần một tác động nhỏ của lắng nghe, nhiều xung đột vẫn được hàn gắn, hóa giải. Nhờ dấu lạ từ điềm trời, các mục đồng, các đạo sĩ, họ được dẫn tới Belem gặp gỡ Hài Nhi, chỉ đơn giản như vậy, nhưng tâm hồn của họ khi nhìn, xem, thấy “Trẻ Giêsu”, đều hiểu đó là dấu lạ tình thương, là ơn cứu độ. Cảnh cơ hàn ở Belem năm xưa được nồng ấm lên nhờ tình người, ở đó không ồn ào náo nhiệt do mưu kế làm ăn, nhưng âm hưởng chúc tụng tôn vinh được chung nhịp với tiếng hát thiên thần vang hòa.
Hài Nhi Giêsu đã trở dấu lạ Tin Mừng cho người nghèo khó, Hài Nhi Giêsu biến đổi các đạo sĩ từ người “đứng chót” thực sự lên hàng đầu nhận biết ơn cứu độ. Dấu lạ từ Belem đã tỏa ánh quang cho khắp muôn dân nhận biết Ngôi Lời Nhập Thể Làm Người, qua các mục động và các đạo sĩ “hang đá Belem”, “tình yêu cứu độ” bắt đầu mở ra cho muôn dân thiên hạ. Mắt sáng tinh thông là cơ may cho con người, nhưng tỏ tường đến độ dám làm một hành trình “thờ lạy Vua người Do-thái”, hẳn không phải là tình cờ, mà trước hết là nhờ tinh yêu.
Ngày hôm nay, việc gặp gỡ thờ lạy Giêsu không cần phải có kiến thức “thiên văn”, không cần phải hàng đêm nhìn lên bầu trời trông chờ “sao lạ”. Đúng hơn, “dấu lạ Giêsu” đang biến mọi đối tượng trở nên tình yêu của Ngài. Các mục đồng, các đạo sĩ phát hiện dấu lạ từ trời, họ đều nhanh chóng lên đường, và rồi họ thật vui mừng hạnh phúc khi gặp Hài Nhi. Mỗi chúng ta hôm nay, khi phát hiện Đức Giêsu là tình yêu bởi trời, nhất định phải khẩn trưởng gặp gỡ Ngài, nếu không niềm vui ơn cứu độ rồi cũng chỉ là chuyện tưởng tượng, chóng qua mà thôi.
Ngày hôm nay, người Kitô hữu được soi dẫn làm việc bổn phận đối với Chúa và Hội Thánh, nhưng nếu thiếu đi sự quyết tâm, chúng ta cũng chỉ là những luật sĩ biệt phái sống trong chờ đợi theo ý mình, lý thuyết mơ hồ. Gặp được niềm vui, thấy được con đường dẫn tới hạnh phúc là mừng, nhưng nếu không dấn thân để có Chúa để được biến đổi, để đức tin trở thành hành động, thì hoàn toàn vô ích, thất bại.
Muốn gặp Hài Nhi Giêsu, các đạo sĩ không thể ngồi nhà ung dung chờ đợi, các ngài đã lên đường, đã hành động bằng lý trí của người trưởng thành. Hành trình của các đạo sĩ có lúc sao ẩn, sao hiện, nhưng dấu lạ của tình thương không thay đổi, dù chặng đường gặp Hài Nhi của chúng ta hôm xưa và hôm nay có gian truân khác nhau. Thiên Chúa yêu thương loài người, các đạo sĩ đến Belem họ có vàng, mộc dược nhũ hương, các mục đồng đến Belem chỉ có tấm lòng, do đó bất cứ thành phần nào, đến gặp Chúa đều vui mừng hạnh phúc với tình yêu cứu độ.
Con vua thời được làm vua, chúng ta thường nghĩ như thế, nhưng tiền nhân chúng ta còn cho biết có chí thì nên, có tâm thì được. Đó phải là thao thức lên đường gặp gỡ Chúa, dù hành trình mỗi người có khổ đau, hiểm nguy giăng mắc có khác nhau, nhưng tình yêu vẫn là động lực, là dấu chỉ tự do của mỗi người. Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta chính “dấu lạ Giêsu”, khi mà mỗi chúng ta đều làm cuộc lên đường chia sẻ, giúp nhau gặp gỡ tình yêu ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng nhân loại. Amen.
Có một giai đoạn, nhiều người nghĩ rằng, Thiên Chúa là độc quyền của người tín hữu. Vì thế HiểnLinh ABC389
Có một giai đoạn, nhiều người nghĩ rằng, Thiên Chúa là độc quyền của người tín hữu. Vì thế, các sinh hoạt tôn giáo gần như là sinh hoạt khép kín trong những người đồng đạo. Trải qua một thời gian dài, người Công Giáo chỉ sống thu mình trong các sinh hoạt của mình, xem nhẹ việc bổn phận giới thiệu Chúa cho anh chị em dân ngoại, vì quên rằng, Thiên Chúa cũng là Chúa của mọi dân tộc. Ngày nay, đại lễ Chúa Giáng Sinh đã trở thành ngày vui chung của nhiều người, nhiều dân tộc, trong đó, nhiều người dù không tin, hoặc không theo Chúa vẫn cảm nhận được niềm vui mỗi khi lễ Giáng sinh về.
Công đồng Vaticano II đã thúc đẩy Giáo hội bước ra ngoài với thế giới và để thế giới có thể dễ dàng bước vào Giáo hội. Thiên Chúa không còn là điều cấm kỵ, nhưng được giới thiệu dưới nhiều hình thức để mọi người có thể nghe biết về Thiên Chúa. Đặc biệt những năm vừa qua, các vị chủ chăn đã không ngừng mời gọi, thúc đẩy mọi tín hữu phải đi ra khỏi sự êm ấm, khỏi nếp sống cũ, thói quen cũ của mình để đem Chúa đến với anh em. Thiên Chúa không bao giờ chịu dừng chân, Ngài cũng không chấp nhận bị nhốt kín trong các nghi lễ. Lòng thương xót của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi những người có đạo, nhưng lòng thương xót của Ngài còn được tuôn đổ xuống trên tất cả mọi người, kể cả những người chưa biết Chúa.
Lễ Chúa Hiển Linh hôm nay muốn nhấn mạnh đến tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với toàn dân, tình yêu thương của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngày xưa, tiên tri Isaia đã nhìn thấy trước cảnh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa tràn ngập khắp địa cầu. Giêrusalem là nhà của Thiên Chúa ở giữa loài người trở thành nơi các dân tộc, các quốc gia quy tụ về. Thiên Chúa làm cho Giêrusalem vươn vai đứng dậy đón nhận vinh quang của Thiên Chúa và cũng là nơi chiếu toả vinh quang Thiên Chúa. Các dân tộc sẽ từ muôn phương đổ về Giêrusalem để tôn thờ, quy phục Thiên Chúa : Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi, các chư dân sẽ tiến về phía ngươi, các vua chúa sẽ hướng về ánh bình minh của ngươi. Thiên Chúa sẽ làm cho Giêrusalem trở nên phú túc phì nhiêu : Các lạc đà từng đàn che rợp đất, các dân tộc từ Sơva kéo đến, mang theo vàng bạc và trầm hương. Cái nhìn của Isaia cho thấy Giêrusalem không còn là của riêng Israel, Thiên Chúa không còn bị giới hạn trong dân Do Thái nữa mà Thiên Chúa là Thiên Chúa của mọi dân tộc.
Thánh Matthew đã thấy tình thương cứu độ của Thiên Chúa được trao ban cho dân ngoại qua đại diện là các đạo sĩ từ phương Đông tìm đến với Hài Nhi Giêsu. Nếu như với dân Do Thái, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để chuẩn bị cho dân đón nhận Đấng Cứu Thế, thì đối với dân ngoại, Thiên Chúa lại dùng những dấu chỉ và sự kỳ diệu của thiên nhiên để đưa họ đến với Ngài. Các đạo sĩ là các nhà chiêm tinh của Phương Đông, vùng đất có nhiều truyền thống tôn giáo. Các vị này đã nhận ra sự khác thường trong vũ trụ, đó là sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Theo truyền thống của Phương Đông, mỗi con người sinh ra đều gắn liền vận mệnh của mình với một vì sao. Khi thấy xuất hiện trên bầu trời một ngôi sao toả sáng khác thường, các đạo sĩ nghĩ đến vận mệnh của một vị quân vương vừa mới xuất hiện. Với lòng tin đơn sơ như thế, họ đã rủ nhau lên đường để tìm kiếm vị vua của người Do Thái mới sinh.
Sự kiện này cho thấ, tình yêu và lòng quảng đại của Thiên Chúa dành cho dân ngoại, Ngài không giới hạn lòng thương xót vào một số người, nhưng Ngài để cho lòng thương xót ấy tuôn tràn trên toàn thể nhân loại. Bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã tạo cơ hội cho dân ngoại cũng được hưởng tình thương của Chúa. Tuy nhiên, hành trình tìm đến với Đấng giàu lòng thương xót là một hành trình nhiều gian nan, thử thách và chỉ những ai kiên trì mới có thể gặp được Thiên Chúa.
Hành trình của các đạo sĩ là một hành trình đi tìm ánh sáng đức tin. Để có thể gặp được Thiên Chúa, họ phải chấp nhận ra khỏi sự êm ấm của bản thân, từ bỏ những ràng buộc của công việc, gia đình để lên đường. Các ông đã phải trải qua hành trình rất xa và gian nan, có những lúc ánh sao như vụt tắt, nhưng các vị không chán nản thất vọng, trái lại, các ông đã tìm đến cung điện của Hêrôđê để hỏi về vị vua mới sinh hiện ở đâu. Khi được chỉ cho biết tại Belem, đất Giuđa, các đạo sĩ lại tiếp tục lên đường, ngôi sao lại xuất hiện như để khuyến khích các ông. Các ông đã tìm đến nơi. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lậy người. Các đạo sĩ bước vào nhà, là ngôi nhà nơi Thánh Gia đang sống, nhưng ngôi nhà ấy còn là hình ảnh ngôi nhà Giáo hội, là nơi Thiên Chúa đang hiện diện. Các đạo sĩ là những người dân ngoại đã tìm được Chúa Giêsu, họ được mời gọi bước vào nhà của Chúa để ở nơi đây, họ cùng với mọi người tôn thờ Thiên Chúa, được chung hưởng tình yêu và hạnh phúc với Thiên Chúa.
Các đạo sĩ đã mở kho báu để dâng cho Thiên Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược. Với những lễ vật này, họ đã thể hiện lòng tin và sự tôn thờ của mình dành cho Thiên Chúa tối cao. Gặp gỡ Đấng là Tình yêu, đón nhận được lòng thương xót từ nơi Thiên Chúa, các đạo sĩ đã không giữ lại riêng cho mình, các ông được thúc đẩy để sống một lối sống khác, bước đi trên con đường khác để đem lòng thương xót Chúa về cho quê hương xứ sở mình.
Khác với các đạo sĩ là nhưng người lên đường tìm kiếm, Hêrôđê và các thượng tế, đại diện giới lãnh đạo và cả dân chúng đã tỏ ra vô cảm trước tin vui Thiên Chúa Giáng sinh. Mặc dù khi nghe tin Vua dân Do Thái mới sinh, họ có một chút phản ứng, nhưng lại là phản ứng tiêu cực. Phản ứng này xuất phát từ những tâm hồn thiếu vắng tình yêu, nhưng đầy tràn ghen tị, kiêu căng và hận thù. Họ sợ rằng, vị Vua mới sinh sẽ tranh giành quyền lực của họ, sẽ gây ảnh hưởng hơn họ, vì thế, họ tìm cách để triệt hạ Ngài bằng tất cả các thủ đoạn độc ác, được mặc dưới cái vỏ tốt lành. Họ bí mật lên kế hoạch thà giết lầm hơn bỏ sót, nhưng bên ngoài, họ vẫn nói với các đạo sĩ : Các ngài hãy đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, khi đã tìm thấy, xin báo lại cho chúng tôi, để chúng tôi cũng đến bái lậy Người. Một khi con người không có tình yêu thương, thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn, thì họ sẽ hành xử gian dối, độc ác như thế.
Thiên Chúa yêu thương, Ngài muốn cho mọi dân tộc trên thế giới tin và đón nhận tình yêu của Ngài. Ngài dùng nhiều cách thế để đưa họ đến với Ngài và đưa tình yêu của Ngài đến với họ. Tuy nhiên, Ngài vẫn muốn dùng mỗi chúng ta là những người được hưởng tình yêu thương của Chúa, phải tiếp tục đem tình yêu ấy đến cho những anh em khác chưa nhận biết Chúa.
Theo Đức Thánh Cha Fancis, việc đem Chúa cho anh em không phải là một chương trình quảng cáo hay tuyên truyền, cũng không phải là một cuộc rao bán như bày hàng trong siêu thị, mà phải là cảm nghiệm từ trong tâm hồn về tình thương của Chúa để sống và thể hiện tình thương ấy trên gương mặt, trên hành động và cả cuộc đời của mình. Khi mỗi người Kitô hữu sống trong hạnh phúc vì được Chúa yêu như thế, mọi người sẽ bị thu hút bởi cách sống vui và sống hạnh phúc của chúng ta, họ sẽ tìm đến với Chúa.
Điều Chúa mong đợi chúng ta khi đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa là nói về việc Chúa đã yêu và đã làm cho mình. Nói cho họ về một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa chạnh thương và Ngài cũng là Cha của mỗi chúng ta, Ngài muốn mỗi người quay về sống trong tình yêu thương chăm sóc của Ngài.
Giống như các đạo sĩ trở về quê với một con người đã được biến đổi, vì được gặp gỡ, đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa, mỗi chúng ta cũng sẽ phải sống một nếp sống khác. Chúng ta sẽ không thể nói về Chúa nếu chúng ta không chịu thay đổi để nên giống Chúa, cũng như không thể nói về Chúa khi chúng ta vẫn sống theo con người cũ, thói quen cũ. Lời nói và cuộc sống của chúng ta chỉ có thể trở nên đáng tin khi chúng ta để cho Chúa biến đổi chúng ta mỗi ngày.
Qua việc tham dự Thánh lễ và các Bí tích, Thiên Chúa thêm sức mạnh cho chúng ta, giúp ta trở nên ngoan ngoãn để cho Lời Chúa uốn nắn và biến đổi nên con người mới, trở nên chứng nhân của lòng Chúa xót thương. Amen.
Bài hát “Ngày ánh sáng” của nhạc sĩ Nguyên Kha gợi cho chúng ta về hình ảnh của ngày lễ hôm HiểnLinh ABC390
Bài hát “Ngày ánh sáng” của nhạc sĩ Nguyên Kha gợi cho chúng ta về hình ảnh của ngày lễ hôm nay: “Hôm nay muôn dân đã được thấy ánh sáng. Hôm nay Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Người là Vua uy quyền, là Vua vinh quang, Vua Thái Bình, Vua muôn đời”.
Rõ ràng “ánh sáng đã đến thế gian để chiếu soi mọi người”. Ánh sáng này không chỉ chiếu soi cho dân tộc Do Thái, mà còn cho muôn dân, để “những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Ánh sáng đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa Cha.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Is 60, 1-6 Cách Chúa Giêsu 765 năm, Isaia đã loan báo cho Israel về “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi”. Nhờ vinh quang này mà: “Mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng”.
Tin Mừng: Mt 2, 1-12 Vinh quang đó được thiên thần loan báo cho các mục đồng, để rồi họ lên đường tìm kiếm và gặp được ánh sáng nơi hang đá Belem.
Vinh quang đó hôm nay các nhà chiêm tinh ở tận phương Đông đã nhận ra và đã lên đường tìm kiếm: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”.
Qua phụng vụ Lời Chúa hôm cho chúng ta thấy rõ điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói đến nhiều lần trong Năm Thánh này, đó là “dung mạo Lòng Thương Xót”, được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô qua hình ảnh Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Dung mạo đó hết sức đơn sơ, gần gũi. Tuy nhiên dung mạo đó lại được ánh sáng của Chúa soi dẫn cho “mọi nước, mọi dân được nhìn thấy”. Vì vậy, ánh sáng này cũng chính Lòng Thương Xót của Chúa, giúp chúng ta nhận ơn cứu độ cho cuộc đời mình.
II. THÁI ĐỘ TRƯỚC ÁNH SÁNG CỦA CHÚA
Đứng trước ánh sáng chỉ đường của Chúa, con người sẽ có hai thái độ.
Đón nhận
Thái độ của các nhà chiêm tinh ở tận phương Đông đã nhận ra vì sao lạ chính là vị cứu tinh nhân loại, nên mặc dù họ là những người ngoại giáo, họ đã không quãng ngại từ bỏ tất cả để đi tìm. Từ đây, ánh sáng này mới là ánh sáng thật, ngôi sao này mới là ngôi sao chân lý… Họ sẵn sàng từ bỏ cuộc sống đang vốn bình yên của mình để đến bái thờ một Hài Nhi do ánh sao lạ chỉ đường. Chắc chắn khi trở về quê nhà, đối tượng niềm tin của họ sẽ thay đổi, từ trước đến giờ có thể họ thờ những vị thần huyền bí của họ, nhưng hôm nay họ đã suy phục Hài Nhi Giêsu; cuộc sống của họ cũng sẽ không còn như xưa, niềm vui, tình liên đới đã tác động đến họ.
Không đón nhận
Đối nghịch với các nhà chiêm tinh, các thượng tế, các kinh sư của người Do Thái thuộc lòng câu kinh thánh: “Phần người, hỡi Bê lem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành phố nhỏ nhất của Giuđa, vì người là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”, nhưng họ không nhận ra Vị Cứu Tinh nhân loại đã sinh ra tại đó.
Hêrôđê sau khi biết rõ một Hài Nhi đã giáng sinh tại Bêlem, thay vì đến tôn thờ, ông đã bày mưu để tiêu diệt vị cứu tinh, dẫn đến một thảm hỏa là cuộc thảm sát các trẻ sơ sinh dưới 2 tuổi.
Như vậy, đứng trước ngôi sao lạ chính là ánh sáng của Chúa, sẽ có những người đón nhận và được thay đổi, nhưng cũng có những người không đón nhận nên họ cứ cố chấp và ở lì trong tình trạng cũ của mình.
III. THÁI ĐỘ TRƯỚC LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Lòng Thương Xót Chúa tồn tại từ đời nọ trãi qua đời kia, đặc biệt Lòng Thương Xót đó rộng mở trong Năm Thánh này. Thế nhưng con người chúng ta đã có thái độ nào trước Lòng Thương Xót của Chúa?
Các nhà chiêm tinh mau mắn và không ngại gian khó trên hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, và HiểnLinh ABC391
Các nhà chiêm tinh mau mắn và không ngại gian khó trên hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, và họ đã gặp được Ngài. Họ đã dâng tiến Chúa những gì quý giá nhất. Đó là một Hành Trình Đức Tin.
Hêrôđê không gặp được Chúa vì độc ác, nham hiểm, ích kỷ, tham quyền cố vị, ưa hình thức, trọng địa vị, khoái chức tước, thích quyền lực để hành hạ người khác.
Lễ Hiển Linh trước đây được gọi là lễ Ba Vua. Thực ra không chỉ có ba người mà nhiều người, họ cũng không phải là các Quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia. Họ từ Đông phương xa lắc xa lơ, và với con mắt “nhà nghề”, họ đã nhận biết có Ánh Sao Lạ xuất hiện, chắc chắn có sự kiện rất lạ. Ngôi sao này kỳ lạ đến nỗi họ đã phải tức tốc lên đường tìm hiểu cho rõ ngọn nguồn, nghĩa là họ đã được Ơn Chúa tác động, nhưng điều quan trọng là họ mau mắn làm theo linh hứng của Chúa Thánh Thần. Họ cứ đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường họ đến Belem, họ được diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài ngay tại nơi hang đá xa xôi, hẻo lánh, lại còn hôi tanh nữa.
Hiển linh là Thiên Chúa tỏ cho nhân loại biết Hài Nhi Giêsu là Thiên Tử, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Các đạo sĩ đại diện nhân loại nhận biết và thờ lạy Con Thiên Chúa. Lời cầu nguyện “xin cho Danh Cha cả sáng” đã và đang trở nên hiện thực.
Từ hàng ngàn năm trước, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và nay đã ứng nghiệm đúng như lời hứa đó: Ngôi Hai mặc xác phàm làm người và ở giữa nhân loại. Ngài làm người để chia ngọt sẻ bùi với thân phận con người của chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Thiên Chúa dùng để tỏ mình ra cho muôn dân.
Chúng ta chỉ là những kẻ nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được chính Đức Giêsu đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, và còn được thừa nhận là con cái của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60:1-2). Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên Chúa, Ánh Sáng đó là Đức Kitô giáng sinh tại Belem, và từ nay, Ánh Sáng đó luôn chiếu tỏa khắp nơi, bóng tối phải lùi bước ở bất cứ nơi nào có Ánh Sáng.
Thật hạnh phúc biết bao! Chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc, nâng niu, chiều chuộng. Quả thật, chúng ta không thể không vui mừng hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui còn hơn ngày hội hoặc lễ, tết.
Và vì vậy, “chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60:3-4). Trong số chư dân đó có chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ, và trong số những người Việt, chúng ta lại được diễm phúc làm con cái của Thiên Chúa. Vâng, Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng dọc suốt đất nước hình chữ S thân yêu của dân Việt chúng ta.
Thật kỳ diệu biết bao! Đúng như ngôn sứ Isaia đã tiên báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (Is 60:5-6).
Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:6). Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32), Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19:9), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” (Ga 10:10). Cách làm của Vua Nghèo quá “khác người”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” (Is 55:8).
Thế nhưng triều đại của Vua Nghèo lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72:11). Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn theo sát đồng bào, Ngài luôn tận tụy với đám dân nghèo, Ngài cương quyết bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật. Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).
Vương Quốc của Thiên Chúa là vương quốc hòa bình, mọi công dân đều sống trong cảnh thanh thản, vô ưu, vô sầu, và luôn tận hưởng niềm hạnh phúc thực sự.
Từ khắp nơi, không trừ nơi nào, ngay cả những vùng sâu vùng xa nhất, từ “các hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống Ngài, những vua chúa cũng đều tới tiến dâng lễ vật, mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72:10-11). Đức Kitô là Vua Công Lý, “Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ” (Tv 72:12-13). Đó là điều mà Giáo hội đang rất quan tâm, được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo, nhất là từ Công đồng Vatican II.
Thánh Phaolô nói: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây” (Ep 3:2-3). Tông truyền là một trong bốn đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó cũng là mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đồng thời cũng là tình liên đới với nhau – kể cả với người không cùng tôn giáo.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6). Vì thế, chúng ta không có lý do gì để “chảnh” hoặc kỳ thị người khác, dù người đó là ai.
Thánh sử Mátthêu kể: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2). Nghe tin ấy, vua Hêrôđê mới tá hỏa tam tinh, như bị sét đánh ngang tai, vì tâm bất chính nên ông bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ đều trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê”. Đúng như trong sách ngôn sứ có chép rõ ràng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2:6).
Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài” (Mt 2:7). Nghe chừng tử tế quá! Miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm. Đây là loại “đểu thật” chứ không “đểu giả”, lọc lừa và mánh khóe một cách tinh vi, người khác khó có thể nhận ra, khi biết bị lừa thì “chuyện đã rồi”. Động thái của vua Hêrôđê cũng nhắc chúng ta xem lại lời ăn tiếng nói và hành động của mình có “lệch pha” hay không, vì ai cũng có thể nói hay về mình, muốn chứng tỏ mình “tốt lành” nhưng thực ra lại đang mưu mô thâm hiểm.
Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi, vì họ ngay lành nên cứ tưởng ông vua này cũng tốt lành. không hề biết vua Hêrôđê “khẩu Phật, tâm xà”, mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình thôi! Họ đâu ngờ rằng hôn quân Hêrôđê chẳng dễ dãi cho họ đi như vậy đâu, ông ta tính “đường dài” hơn, chơi “nước cờ” cao hơn. Chứ nếu ông ta không tính xa thì hẳn ông ta đã bỏ tù họ hoặc lệnh cho họ bị “cẩu đầu trảm” rồi.
Ra khỏi hoàng cung, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, rồi mới dừng lại. Lạ thật! Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Vào trong hang đá, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi. Sau đó, họ “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện rôm rả với Song Thân của Bé. Có lẽ lúc này lũ mục đồng vẫn tíu tít bên Bé Yêu Giêsu, không muốn rời xa…
Giả sử nếu là chúng ta là các đạo sĩ, chưa chắc chúng ta muốn bước vào, thậm chí có thể kéo nhau quay về cho nhanh, và có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu! Nhưng thật lạ, các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”, nhưng họ vẫn không hề thất vọng và tin thật rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ can đảm bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện hoàn toàn có thật, không phải hư cấu do óc tưởng tượng của con người. Và rồi không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo. Quá đỗi diệu kỳ!
Ngày nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Chứ nếu tận mắt chứng kiến thì chắc chúng ta không thể và không dám tin Em Bé có tên là Giêsu kia lại chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Vậy là chúng ta may mắn. Thánh Phaolô viết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” (Ep 3:2-3). Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” (Ep 3:5). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).
Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động”. Đó là sống Đức Tin cụ thể, tức là thực hành lòng thương xót và thể hiện lòng nhân từ như Thiên Chúa Cha.
Các hiền sĩ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, thế nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Họ lại tiếp tục nhận được ơn Chúa. Chắc lúc này họ mới nhận thấy mình thực sự may mắn vì thoát khỏi “nanh vuốt” của ông vua dã tâm Hêrôđê. Việc Chúa làm thật là kỳ diệu!
Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh “ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân. Các đạo sĩ là bài học cảnh giác cho chúng ta đề phòng ngày nay, khi mà sự ác đang hoành hành khắp nơi.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin giúp chúng con biết noi gương các đạo sĩ, luôn miệt mài tìm kiếm Chúa và can đảm hành động đúng đắn. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con thực hiện mọi sự theo đúng Tôn Ý Ngài trong từng nhịp thở. Xin cho chúng con trở thành những ánh sao sáng để người khác có thể nhận biết Chúa, xin giúp chúng con biết mau mắn và kiên trì tìm kiếm Chúa, và gặp được Chúa ngay trên cuộc lữ hành trần gian này, nhất là được gặp Chúa trên Nước Trời mai sau.
Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, xin thương nguyện giúp cầu thay. Xin giúp chúng con sống ngay thẳng, tâm địa tốt lành, không nhìn người khác bằng nhãn quan suy đoán theo thiên kiến. Tất cả vì sáng danh Chúa chứ không vì vinh danh chúng con hoặc tư lợi.
Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Lễ Chúa Hiển linh hôm nay có nghĩa là Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết tình yêu, lòng thương HiểnLinh ABC392
Lễ Chúa Hiển linh hôm nay có nghĩa là Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ của Ngài qua sự nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Vì yêu thương nên Thiên Chúa đã khiêm nhường sinh xuống trần, mặc lấy thân phận yếu hèn của con người, và sống giữa chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết câu chuyện ba nhà đạo sĩ từ Phương Đông xa xôi, bây giờ là quốc gia I-ran, được ngôi sao trên bầu trời dẫn lối chỉ đường vượt núi đồi, khó khăn và nguy hiểm, tìm đến Belem và gặp Hài Nhi Giêsu đang nằm trong máng cỏ, có sự hiện diện của Đức Maria và thánh Giuse. Chúng ta có thể hình dung được trạng thái của các đạo sĩ trong những giây phút đầu tiên gặp gỡ. Có lẽ các đạo sĩ ngạc nhiên và ngỡ ngàng với khung cảnh khó tin trước mắt, không phải là nơi cung điện nguy nga hay cao sang quyền quí và đủ mọi tiện nghi. Nhưng một điều chắc chắn là các ông không lầm lạc. Như các mục đồng chăn chiên đã được thiên thần loan báo và chỉ dẫn, các ông nhận ra và tin thật đây là Vị Vua, Đấng Cứu Thế, vì đã được Kinh thánh cho biết và ngôi sao sáng dẫn đường. Sau đó các đạo sĩ đã tâm tình thờ lạy và dâng lễ vật trân quí cho Chúa.
Chúng ta biết trong ngày Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh xuống trần đã không được dân Ngài đón tiếp. Họ đã từ chối khiến Ngài phải sinh ra trong một nơi ở của súc vật, đúng như Tin mừng thánh Gioan nói: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài.” Vì sự từ chối của dân Chúa, tình yêu ơn cứu độ giờ đây được ban cho dân ngoại, mà ba đạo sĩ từ Phương Đông xa xôi là đại diện, như lời báo trước của ngôn sứ I-sa-i-a: “Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.”
Như thế, ông bà anh chị em thân mến, với sự giáng sinh nhập thể của Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ không còn bị giới hạn trong một dân tộc hay một miền đất nào nữa, nhưng được ban cho hết mọi người. Đây là một mầu nhiệm và là hồng ân của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu không biên giới, không phân biệt và ban cho hết mọi người, người tốt người xấu, người lành kẻ dữ, cho tất cả mọi người trần thế. Tình yêu cao cả của Thiên Chúa bao la, không biên giới, không giới hạn, và hằng tuôn đổ xuống trên mọi người. Thiên Chúa tiếp tục mạc khải tình yêu và hồng ân của Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận biết có người sẳn sàng tiếp đón, và có những người từ chối. Tuy nhiên, để đón nhận được tình yêu và hồng ân cao quí đó, mỗi người chúng ta cần mở rộng tâm hồn để tiếp nhận, và chúng ta có thể học được nơi ba vị đạo sĩ những phương cách để tiếp nhận.
Phương cách thứ nhất mà chúng ta có thể học được nơi các đạo sĩ là tấm lòng khao khát chân thật tìm kiếm Chúa, tìm kiếm sự mạc khải cũng như thánh ý Chúa trong Kinh thánh cho chúng ta. Chúng ta thấy các đạo sĩ có lòng khao khát tìm kiếm Vị Vua, cho nên các ngài đã dùng thời giờ học hỏi nghiên cứu Kinh Thánh để biết ngày giờ, nơi chốn và dấu chỉ. Chúng ta nhận biết mặc dù ở tận Phương Đông xa xôi và giữa bầu trời đầy sao, các đạo sĩ vẫn liên tục tìm kiếm, học hỏi để phát hiện vị sao lạ giữa muôn ngàn tinh tú. Và để nhận ra rõ và chắc chắn ngôi sao này là điềm báo vị Vua mới sinh ra, các đạo sĩ đã phải dựa vào Kinh Thánh trong sách Dân số đã cho biết “Một ngôi sao mọc lên từ Gia-cóp, một vương trượng xuất từ Israel” (Ds 24, 17)
Phương cách thứ hai mà chúng ta học được nơi các đạo sĩ để tiếp nhận tình yêu và hồng ân của Chúa là sự kiên nhẫn. Chúng ta biết trong cuộc hành trình tìm đến, ngôi sao dẫn đường đột nhiên biến mất làm cho các đạo sĩ lo sợ và phân vân “Không biết có nên tiếp tục cuộc hành trình hay trở lại quê nhà?” Họ đã phải hỏi những người Do thái: “Vua người Do thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người.” Các đại giáo trưởng và luật sĩ người Do thái đã cho các đạo sĩ biết qua lời Thánh Kinh: “Tại Be-lem, thuộc xứ Giuda, vì đó là lời do Đấng tiên tri đã chép.” Sự kiên nhẫn và lòng nhiệt thành của họ đã được đền đáp xứng đáng “Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng.”
Phương cách cuối cùng mà chúng ta có thể học được nơi các đạo sĩ là: ý chí lên đường hành động, hay thực hành Lời Chúa chỉ dạy. Các đạo sĩ biết Kinh thánh và nhìn thấy ngôi sao chỉ đường, nhưng tất cả những điều đó sẽ không ích lợi gì, nếu họ không lên đường thực hành cuộc hành trình tìm đến. Họ biết cuộc hành trình xa xôi, khó khăn và nguy hiểm, nhưng với ý chí kiên cường tìm đến Vị Vua, cho nên họ đã chỗi dậy lên đường, thực hành lời Kinh thánh chỉ dạy. Các đạo sĩ tin sẽ được trợ giúp để tìm gặp được người mong ước.
Ông bà anh chị em thân mến. Trong lúc tôi đọc, suy nghiệm câu chuyện ba đạo sĩ tìm kiếm Chúa, bất thình lình tôi nghĩ đến những điểm tương đồng trong việc chúng ta đến tham dự Thánh lễ hàng tuần. Tôi tin tất cả chúng ta được chính Chúa Ki-tô chỉ dẫn trong Tin mừng, cũng như thôi thúc chúng ta tìm đến với và gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể, để tiếp nhận thánh ý Chúa trong Lời Chúa, và hồng ân tình yêu của Chúa trong Thánh Thể. Chúng ta tin Lời Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho chúng ta trong cuộc hành trình đức tin nơi trần gian đầy những sự khó khăn, thử thách và nguy hiểm, và Thánh Thể là nguồn sức mạnh bảo tồn ý chí giúp chúng ta can đảm vượt qua. Đời sống đức tin của chúng ta là một cuộc hành trình đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có tấm lòng chân thành khao khát, kiên nhẫn và thiện chí như ba đạo sĩ, và phải can đảm thực hành Lời Chúa chỉ dẫn, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách. Ba đạo sĩ không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường.
Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao sáng, loan báo và chia sẻ tình yêu thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng toả ánh sáng lòng thương xót của Chúa đến những người sống chung quanh chúng ta, để qua ánh sáng tình yêu và thương xót Chúa, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên Chúa là ánh sáng chân thật, và tiếp nhận ơn cứu độ của Chúa.
Nhân dịp đầu năm mới 2016, xin cầu chúc tất cả ông bà anh chị em có một đời sống đức tin trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn đến với Chúa.
Nhà bác học Newton, sau khi làm ra kính viễn vọng, sau khi quan sát vũ trụ và sau khi nhìn thấy HiểnLinh ABC393
Nhà bác học Newton, sau khi làm ra kính viễn vọng, sau khi quan sát vũ trụ và sau khi nhìn thấy mọi huy hoàng rực rỡ vẻ đẹp diệu kỳ của muôn thụ tạo, đã thốt lên: Tôi thấy Thiên Chúa ở đầu kính viễn vọng của tôi.
Ông là một người thông thái. Ông làm khoa học, nhưng khoa học của ông là khoa học của đức tin. Khác một số người, bởi khi nghiêng cứu khoa học, họ chối từ đức tin, chối bỏ Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội của mình, của mọi loài thụ tạo.
Câu chuyện của Newton có phần giống câu chuyện của ba nhà đạo sĩ mà Tin Mừng lễ Hiển Linh giới thiệu nhằm giúp chúng ta suy niệm. Thánh Mathêô cho biết, ba nhà Đạo Sĩ lần theo ánh sao lạ trên bầu trời để tìm gặp Chúa. Khi đến thủ đô Giêrusalem, họ dừng lại tại đền vua Hêrôđê vì ngỡ, Thiên Chúa làm người phải sinh ra ở nơi sang trọng, đài các.
Nhưng không, Thiên Chúa làm người mà Hêrôđê sợ Ngài tranh giành ngôi vua của mình, chẳng màn chi đến vinh hoa trần thế, chẳng thèm một chút bã phù phiếm thế gian.
Hêrôđê, kẻ có quyền trong dân Chúa, kẻ nắm giữ kho tàng mạc khải, kẻ thuộc nằm lòng truyền thống đức tin. Xung quanh ông có quá nhiều những cố vấn. Dù họ sẵn sàng giúp ông thấu hiểu Kinh Thánh và Lề Luật của Thiên Chúa, nhưng lòng ông không hề có Chúa mà chỉ có mọi thứ đam mê trần thế thống trị.
Cả những thượng tế, kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở, nhưng không tin Thiên Chúa hiện diện giữa cõi đời.
Còn các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Tất cả họ cùng chung những điểm giống nhau, đó là: Hiểu biết về luật Chúa, về Kinh Thánh, gìn giữ đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa, được dân chúng kính trọng, được hưởng lợi lộc từ tôn giáo… nhưng thật trớ trêu, thật nghịc lý: Tất cả họ đều xa cách Thiên Chúa, giuột mất ơn cứu độ.
Lòng Hêrôđê và cả hoàng triều của ông chỉ đầy thủ đoạn, độc ác, tranh giành, say sưa trong vinh quang trần thế. Đến muôn đời, Hêrôđê không bao giờ gặp được Đấng mà lẽ ra mình phải tôn thờ, phải thần phục. Cả hoàng triều của ông sẽ chẳng bao giờ gặp được Đấng Thiên Chúa làm người, mặc dù Đấng ấy giáng trần sát cạnh hoàng triều của ông.
Còn các Đạo Sĩ, dù thuộc thành phần dân ngoại và rất xa xôi về mặt địa lý cũng như sự hiểu biết mạc khải, lại mặc lấy đức tin trong nghiên cứu khoa học của mình. Họ đã lên đường đi tìm, không chỉ hiện tượng thiên nhiên, nhưng qua hiện tượng thiên nhiên, họ tìm kiếm Đấng Minh Quân của lòng mình và của trần thế. Họ tin tưởng Ngài là Đấng Cứu Chuộc. Lòng thành đã đưa họ đến với Chúa Hài Nhi.
Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người khôn ngoan, khiêm tốn, đó là một dấu chỉ để nhận ra Thiên Chúa. Dù ngôi sao có sáng, nhưng lòng các đạo sĩ còn sáng hơn ánh sao. Họ đã lên đường, đã vượt qua bao nhiêu gian lao, đã đối mặt bao nhiêu mạo hiểm. Họ đã đến hang Bêlem, đã quỳ trên nệm rơm mà khấu đầu thờ lạy Thiên Chúa làm người trong thân phận mong manh của một hài nhi.
Ánh sáng của tâm hồn, ánh sáng của lòng tin đã cho họ gặp Chúa. Họ đã chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp điều gì. Nhưng họ tin, đó là Đấng Cứu Chúa của mình. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi là vua. Nhũ hương, vì Ngài là Tư Tế. Mộc dược, Ngài sẽ chết như mọi người.
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những người học rộng, nghiêng cứu giỏi, hoạt bát, tinh ranh… Thế giới không thiếu gì những triết gia lý luận sắc bén, những người vô thần có quyền to lộng đẹp, những chánh trị gia lãnh nhiều chức tước tha hồ thao túng trong bàn tay sắt, nhiều nhà khoa học tài giỏi, nhiều người thành đạt trong nhung lụa, nhiều người đỗ đạt hết bằng cấp này đến bằng cấp khác… Họ được thế gian coi là xuất chúng, uyên thâm...
Nhưng họ thuộc nòi giống Hêrôđê. Có mấy ai trong họ đã nhìn thấy ánh sáng từ trời cao chiếu soi cõi lòng người. Có mấy ai trong họ đã nhìn thấy bất cứ một ánh sáng nào của lòng tin, của con đường về hạnh phúc trường cửu...
Dòng dõi của Hêrôđê kiêu ngạo, cho tới muôn đời vẫn không tìm thấy Thiên Chúa, vẫn sống trong u tối, vẫn là những kẻ ngu dốt dù họ đầy những tri thức thực nghệm…
Mừng lễ Hiển Linh, suy niệm lại việc Chúa tỏ mình cho dân ngoại qua những đại diện là các Đạo Sĩ, chúng ta học lấy bài học khiêm nhường. Xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn, một đức tin đơn sơ, một cõi lòng mềm dẻo sẵn sàng để Chúa uốn nắn thành những con người biết tha thiết đi tìm Chúa qua tất cả mọi thời gian sống, nơi mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của đời mình.
Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của tất cả mọi người đơn sơ, tâm thành, hướng thiện mà thôi. Ba Đạo Sĩ đã cúi mình bước vào hang đá để kính thờ Hài Nhi không ngai vàng, không quyền lực, nghèo đến nỗi phải sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ… Các Đạo Sĩ có tình yêu, có lòng sốt mến, có sự chân thành. Họ đã gặp Đấng là Thiên Chúa của lòng họ.
Chỉ có thiện tâm mới có thể gặp Thiên Chúa, Chân Lý trường tồn của đời người...!
“Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa"… Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê” (Lc 2:22-23,39).
Tuy nhiên, rất có thể, Thánh Gia lại hành trình đến Bêlem với ý định ở lại đó vĩnh viễn. Vì không HiểnLinh ABC394
Tuy nhiên, rất có thể, Thánh Gia lại hành trình đến Bêlem với ý định ở lại đó vĩnh viễn. Vì không phải Bêlem thực sự là nơi sinh và quê hương của Chúa Giêsu đó sao? Hơn nữa, Bêlem nằm gần Giêrusalem, một điều kiện có lợi cho Thánh Gia về nhiều mặt. Hơn nữa, khi trở về từ Ai Cập, Thánh Giuse một lần nữa có ý định định cư tại Bêlem.
Thánh Gia có lẽ đã ở Bêlem khoảng một năm thì khá bất ngờ có những người lạ đến Giêrusalem, những bậc Hiền Sĩ từ Phương Đông. Với câu hỏi thẳng thắn: “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Ngài xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Ngài” (Mt 2:2), những bậc Hiền Sĩ từ Phương Đông đã đưa Hêrôđê và tất cả thành Giêrusalem vào một cơn “bối rối và xôn xao” (Mt 2:3). Hêrôđê, lão già bạo chúa khát máu, trong pháo đài của Đavít, không tìm thấy giải pháp nào tốt hơn hơn là hỏi Tòa Công luận về nơi sinh của Đấng Mêsia, trong sự kích động gian trá và xảo quyệt của mình. Ông đã truyền đạt câu trả lời cho những Bậc Hiền Sĩ, rằng Bêlem là mục tiêu của cuộc tìm kiếm của họ, và bảo họ đi tìm Chúa Hài đồng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông…” (Mt 2:8), vốn là niềm vui sướng chân thành của họ, “lại dẫn đường cho họ” (Mt 2:9), và dưới sự hướng dẫn của ánh sao ấy, các đạo sĩ đã đến được Bêlem.
Đất nước của Những Bậc Hiền Nhân này nằm ở phía đông Giuđê. Họ là những nhà quý tộc, Magi, những người cai trị bộ tộc vốn có thể có được những cuốn sách thánh thiêng. Điều đó đã giúp có mối tương quan mật thiết với trời cao, đến nỗi, khi một vị thần sáng chói lạ thường xuất hiện trên bầu trời, họ sẽ rời nhà của họ ra đi nhằm bày tỏ tấm lòng tôn kính đối với vị Vua và Đấng Mêsia mới sinh. Trên thực tế, ngôi sao đã xuất hiện vào thời điểm Đấng Cứu Độ sinh ra hoặc ít lâu sau đó, và họ coi việc làm theo hướng dẫn do Trời Cao gửi đến là nỗ lực chính trong cuộc đời của họ. Ít nhất, sự xuất hiện của ngôi sao trên máng cỏ của Đấng Cứu Độ khiến chúng ta suy niệm về mục đích sâu xa nhất của họ. Vì vậy, họ đến Bêlem và tìm thấy nơi ở của Trẻ thơ được ngôi sao chỉ ra cho họ, như thể ánh sao đó là một người đầy kinh nghiệm sành sõi chì vẽ cho họ.
Cùng với những người hầu cậnvà những con vật chuyên chở đồ đạc của họ, họ có thể đã đến trú tại một quán trọ của thị trấn, và sau đó gửi người đến Thánh Gia để hỏi xem liệu họ có thể được phép đến thăm Thánh Gia hay không, vì họ đã đến theo sự hướng dẫn của một ngôi sao để tôn thờ Trẻ thơ. Thánh Giuse đã đón tiếp các người hầu cận theo cách ân cần của mình. Và giờ đây chính các vị vua xuất hiện cùng với những người hầu cận của họ, những người đi theo sau mang theo những món quà quý giá mà họ đã lấy ra từ trong những chiếc rương và từ trong những chiếc túi bên yên ngựa; vì ở Phương Đông, có tục lệ là không ai được đến trước mặt một vị hoàng tử với tay không. Mẹ Maria, theo cách đơn giản và thuận tiện của mình, đã chuẩn bị cho cuộc đón tiếp các bậc Hiền Nhân, Mẹ ôm Chúa Hài Đồng trong lòng mình trên vạt áo. Khi nhìn thấy Trẻ thơ thánh, các vị vua đã xếp thành một vòng tròn phủ phục trước mặt Ngài; và với đức tin sâu sắc, với sự tôn kính và sự khiêm cung, cùng với tình yêu và niềm vui sâu thẳm trong trái tim của họ, họ đã tôn thờ Ngài và dâng lên Ngài cả bản thân và mọi thần dân của họ.
Sở hữu một tinh thần cao quý, sáng suốt và cõi lòng thực sự của hoàng tộc vương giả, họ không bị xao xuyến trước sự việc bất bình thường là Giêrusalem không biết gì về Chúa Hài Đồng, hoặc trước nơi cư ngụ đơn sơ và nghèo khó của Chúa Hài Đồng và của cha mẹ của Ngài. Họ không mấy quan tâm đến những biểu hiện bên ngoài và chỉ làm theo những chỉ bảo của trái tim đơn sơ và đức tin của họ như Chúa đã dạy họ. Vì thế, trong tinh thần đó, họ lấy ra những lễ vật mà những người hầu cận đã sắp xếp trong các tráp quý giá đang để trên thảm, và dâng lên Chúa Hài đồng - vàng, nhũ hương và mộc dược. Những món quà vốn mang trong mình sự huyền bí, tượng trưng cho sự sẵn sàng, đức tin, tình yêu và sự tôn thờ của họ, và tiêu biểu cho thần tính, vương quyền và sứ vụ Cứu Thế của Trẻ thơ bé.
Đấng Cứu Độ thơ bé thần thánh nhìn cảnh tượng trước mặt Ngài một cách hiền từ, biết rõ ý nghĩa của những món quà, và trả lại tất cả cho họ và cho thần dân của họ cùng với mọi ơn phúc tràn đầy, xem họ như những người lính canh tuyến trước và là hoa trái đầu tiên của Dân ngoại. Rất có thể sau đó các đạo sĩ đã ngồi xuống hàn huyên với Mẹ Thiên Chúa và Thánh Giuse. Hai Đấng khoản đãi họ bằng một sự giản dị đáng ngưỡng mộ bằng cách kể cho họ nghe những hoàn cảnh thân tình hơn về việc Đấng Cứu Độ đến như thế nào. Đây là dịp đầu tiên Mẹ Thiên Chúa hướng dẫn thế giới dân ngoại, và Thánh Cả Giuse đã chia sẻ trong bài huấn từ đó. Các đạo sĩ trở thành Kitô hữu và mang Đức tin chân chính về đất nước của họ.
Vì vậy, họ đã rời khỏi Hài Nhi, Mẹ Maria và Thánh Giuse với lòng biết ơn mãnh liệt, sự hài lòng và vui mừng chân thành. Tuy nhiên, họ đã không quay trở lại Giêrusalem. Trong một giấc mơ, họ nhận được lệnh thánh thiêng phải tránh Giêrusalem trên đường trở về nhà, vì Hêrôđê đã quyết tâm hủy diệt Trẻ thơ. Và vì vậy, ngay trong đêm đó, các đạo sĩ cùng với những người tùy tùng hướng về phía nam dọc theo con đường dẫn qua sông Gioócđan. Những gì họ đã thấy, đã học và đã trải qua đáng công khó họ đã bỏ ra. Họ đã hoàn thành nhiệm vụ của cuộc đời mình.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vô cùng vui mừng trước chuyến viếng thăm đáng chú ý này của Những Bậc Hiền Nhân. Thánh Giuse rất thích thú và vui mừng trước những người thánh thiện có tính cách rất giống Ngài. Trước hết, Ngài vui mừng vì điều đó sinh ích lợi cho Mẹ Maria và người Con yêu dấu của Ngài. Vinh dự lớn lao đã được tỏ lộ cho các Ngài. Lẽ khôn ngoan của Đông Phương đã đến để tỏ lòng tôn kính đối với trí khôn thần thánh của Trẻ thơ không lời này. Vương quyền của Trẻ thơ có vẻ như yếu đuối này đã tỏ lộ một cách vinh quang biết bao! Ngay vừa sinh ra và bắt đầu trị vì, mặc dù nghèo khó, thì Ngài đã có được vàng bạc, của cải và đã kêu mời được các tôi tớ và những người tôn thờ Ngài từ những vùng đất xa xôi; Trời và đất vâng lời Ngài, và sự giáng trần của Ngài gây kinh hoàng cho những kẻ thù của Ngài.
Sự kiện này là đỉnh núi Tabor trong thời thơ ấu của Chúa Kitô. Chẳng phải Thánh Giuse đã vui mừng ngất ngây và cất tiếng nói theo lời của Thánh Phêrô: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều” (Mt 17:4) sao? Hơn nữa, chẳng lẽ không người nào có thể phân biệt được mầu nhiệm ơn gọi này của dân ngoại vốn ám chỉ một cách thức Thánh Giuse được mời gọi làm quan thầy cho các sứ vụ dành cho dân ngoại sao?
Vị trí cao quý mà Thánh Giuse đã nắm giữ trong mầu nhiệm này, mà bản thân mầu nhiệm đó là một dấu chỉ báo trước về sự tôn vinh Ngài trong tương lai của Giáo hội Dân ngoại, được thể hiện một cách tinh tế và thành công nhất trong một bức tranh khảm thế kỷ mười ba tại Nhà thờ Đức Bà ở Paris, trong đó thánh Giuse được mô tả. trong một khu vực riêng dưới mái hiên, đứng tựa trên cây trượng của mình với thái độ chiêm niệm và dường như sẵn sàng đón nhận sự tôn kính thích hợp của riêng mình từ những vị Hiền Sĩ. Một họa sĩ sau này thuộc trường phái ấn tượng, Fra Angelico, đã vẽ chân dung Thánh Giuse thực sự đã tham dự vào cuộc hàn huyên thân tình với một trong những vị vua và có ý định hướng dẫn vị vua này về Đức tin một cách nghiêm cẩn.
Trong một bức tranh khác của cùng nghệ sĩ tài năng thiên phú đó, Thánh Giuse, hân hoan với sự quí giá của món quà vương giả, được cho thấy đang mở một trong những chiếc tráp chứa món quà đó, mà Ngài có thể dâng cho Hài Nhi Thánh như một biểu hiện của niềm tin tưởng của toàn thế giới dân ngoại đặt cọc trước nơi Đấng Cứu Độ Thơ Bé, vì Thánh Giuse là bổn mạng của họ.
Lễ HIểNLINH ABClà tên gọi cũ. Hiện nay gọi là LỄ HIỂN LINH, tức lễ kỷ niệm ba nhà đạo sĩ đến HiểnLinh ABC495
thờ lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, cũng được hiểu là lễ Chúa Tỏ Mình Cho Dân Ngoại. Chúa tỏ mình cho dân ngoại thế nào? Làm sao để nhận ra Chúa?
CHÚA SINH RA THEO CỰU ƯỚC
Nghe các bài đọc về phụng vụ trong lễ HiểnLinh ABCai cũng cảm động vì cảnh tráng lệ huy hoàng nơi thị thành, ánh sáng chan hòa chiếu tỏa khắp phố phường, muôn nhà muôn nơi như tiên tri Isaiah mô tả. “Hỡi Jerusalem, hãy vùng dậy trong huy hoàng. Ánh sáng của ngươi đã đến, vinh quang Thiên Chúa chiếu rọi trên ngươi. Hãy trông kìa, bóng tối bao phủ tràn lan mặt đất, mây mù bao phủ muôn dân. Nhưng Thiên Chúa chiếu sáng trên ngươi và trên ngươi là vinh quang Thiên Chúa…” (Is 60:1-6). Các dân ngoại từ những phương trời xa xôi đã đến nhờ ánh sáng chiếu toả trên thành Jerusalem hướng dẫn. Họ mang theo tặng vật cùng với con trai con gái của Thị Trấn Thánh! Mặc dù bóng tối bao phủ muôn dân, nhưng vinh quang Thiên Chúa đã bừng sáng chiếu tỏa như ánh bình minh ban mai. Làm sao chúng ta có thể diễn tả đầy đủ và đúng mức nỗi vui mừng hân hoan của chúng ta khi đón chào Thiên Chúa Ra Đời!
CHÚA GIÁNG SINH THEO TÂN ƯỚC
Câu chuyện Tin Mừng thánh Mátthêu kể về HiểnLinh ABCđược sao trời dẫn đường đến thờ lạy Chúa Hài Đồng (Mt 2:1-12) chúng ta phải nghĩ đến một cuộc phấn đấu căm go đang lấp ló khi mà Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua Chúa Kitô. Đọc câu chuyện thật cẩn thận và để ý một chút, chúng ta sẽ thấy câu chuyện không đơn thuần chỉ nói về một hài nhi, mà là câu chuyện khá bi thảm của một người lớn. Chiến trận đã đề ra và quân đội đã sẵn sàng. Một hài nhi vô tội vừa chào đời thì đồng thời cũng phải đối đầu với chết chóc do quyền lực thế gian. Chúa Giêsu đã là mối đe dọa đối với Hêrôđê và mọi thế quyền. Một đàng là ngai vàng của một ông vua trần thế, một đàng là vương quyền tôn giáo của nhiều người..….
CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA HIểNLINH ABCĐI TÌM CHÚA
Tại quê hương xa vời, ở những miền đất xa lạ, ba nhà đạo sĩ có thể bình thản sống hưởng thụ cảnh vua chúa quan quyền một cách thoải mái, nhưng họ băn khoăn cảm thấy bồn chồn trong lòng như thiếu thốn một cái gì. Thế là họ bằng mọi cách chấp nhận mọi khó khăn hiểm nguy lên đường làm cuộc hành trình viễn xứ để tìm cho ra chân lý sự sống. Môt viễn tượng đầy hứa hẹn. Ba nhà đạo sĩ đã làm một cuộc hành trình dài, phải đối diện với biết bao nghịch cảnh trên đường tìm kiếm lý tưởng. Khác với những kẻ chăn chiên nghèo hèn ở ngay tại chỗ. Nhưng chúng cũng gặp những nghịch cảnh, những phương tiện giúp chúng chuẩn bị tâm hồn đón nhận sứ điệp của các thiên thần. Chúng đã phải vượt qua mọi sợ hãi tiến bước về Bethlehem để gặp Chúa Hài Đồng.
Đối với ba vua, cuộc hành trình đi về Bethlehem khó khăn hơn nhiều vì đường xá xa xôi hiểm trở. Không phải là một cuộc hành hương du lịch vui chơi, có tính lãng mạng mà chúng ta thường thấy nơi quang cảnh hang đá máng cỏ ngày nay. HiểnLinh ABCkhông là những người mộng tưởng hay những nhân vật, biểu tượng bất thường về tôn giáo. Các ngài là những người thực tâm quyết định hy sinh cả tiền bạc, thời giờ, nghị lực và, có thể cả mạng sống mình để tìm cho ra được chân lý, người có thể đem lại hòa bình đích thực.
CỰU ƯỚC, JERUSALEM LÀ DẤU CHỈ DÂN NGOẠI NHẬN BIẾT CHÚA
HiểnLinh ABCđã không bị lạc trên đường tới Jerusalem. Thị trấn hoa lệ này cũng không làm cho cuộc hành trình của các ông bị ngưng trệ. Nhưng, từ Jerusalem, có sao trời hướng dẫn, họ đã đổi hướng đi Bethlehem. Những nhân vật này từ phương Đông, là những người ngoại quốc, họ được hướng dẫn không phải do sự khôn ngoan và hiểu biết về thiên văn nhờ các vì sao, mà còn được chỉ bảo bởi Cựu Ước. Ý nghĩa của cựu ước rất quan trọng. Chúa Kitô đã kêu gọi muôn dân của mọi quốc gia, dân ngoại cũng như Do Thái là phải theo Người. Có thể nói rằng Jerusalem và Cựu Ước chính là điểm mốc khởi hành đối với dân ngoại trên đường hành hương đi tìm Niềm Tin vào chúa Giêsu Kitô. Dân chúng trong thị trấn vĩ đại này, ngay cả chính vua Hêrôđê cũng đã là dụng cụ chỉ đường cho ba nhà đạo sĩ tìm đến với Chúa Kitô.
ĐIỂM KHỞI HÀNH CỦA CHÚNG TA ĐI TÌM CHÚA
Việc này có ý nghĩa gì đối với cuộc hành hương đi tìm sự thật, Chúa Giêsu Kitô của chúng ta ngày nay? Dĩ nhiên Cựu Ước phải là trung tâm điểm của cuộc hành trình của chúng ta. Phải chăng những thị trấn của chính chúng ta, tâm hồn chúng ta với những hỗn loạn và nghi hoặc, lại không được dùng làm điểm khởi hành đi tìm niềm tin của chúng ta hay sao?
Trung tâm điểm của toàn thể câu chuyện Tin Mừng với những tương phản ở ngay chính Hài Nhi Giêsu ở Bethlehem. Đó là Niềm Vui. Hêrôđê e ngại, sợ dân chúng “quá vui”. Anh em đừng sợ, tôi báo tin mừng trọng đại cho anh em, cũng là tin mừng cho muôn dân. (Lc 2:10). Theo Tin Mừng thánh Mátthêu thì chúng ta không biết cái gì đã xẩy ra cho HiểnLinh ABCkhi họ trở về xứ sở họ, có thể chắc chắn rằng họ đã thay đổi đường đi. Họ thay đổi tâm hồn, vì họ đã khám phá ra Sự Thật. Họ thấy ở Jerusalem và Bethlehem không có một Chúa cho riêng nước này hay nước nọ, cũng không có một tiên tri mới, nhưng là một Thiên Chúa, đấng Cứu Chuộc nhân loại đã hiện hình làm người bằng xương bằng thịt. Đấng Cứu Thế, Niềm Vui của nhân loại.
Cuối cùng, HiểnLinh ABCđã đi theo con đường riêng của mình trở về nước, bởi vì họ không còn bị mê hoặc hồ nghi nữa. Họ cảm thấy ngỡ ngàng vì nỗi vui mừng quá lớn, và ngôi sao dẫn đường cho họ lại hiện ra tiếp tục dẫn lối cho họ đi. Đây không phải chỉ là dấu hiệu của thời đại Chúa Giêsu sinh ra, mà còn là dấu chỉ của thời đại ngày nay cho chúng ta. Khi chúng ta tìm được niềm vui lâu bền giữa vòng tròn quanh quẩn với những buồn rầu, nghi hoặc, thất vọng, dửng dưng và vô nghĩa…thì cách duy nhất phải làm là chúng ta quỳ gối và tôn thờ Chúa Kitô.
Lạy HiểnLinh ABC(Gaspar, Melchior và Balthasar), xin hãy chúc bình an và ban lòng khiêm tốn tràn đầy tâm hồn chúng tôi, gia đình chúng tôi! Khi chúng tôi nghe thấy tiếng gọi của tử thần, của sợ hãi và nghi hoặc, chớ gì chúng tôi có được can đảm tiếp tục đi theo con đường của chúng tôi….và vui mừng, bởi vì chúng tôi đã thấy và đã kinh qua sự huy hoàng cao cả của Thiên Chúa.
ĐÔI LỜI KẾT
Để kết thúc, xin muợn lời Thánh nữ Têrêsa Bênêđícta Thánh giá làm lời suy niệm về mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh:
“Quì gối chung quanh hang đá là hình ảnh của Ánh Sáng: Những đứa trẻ đơn sơ dịu dàng, những mục đồng đầy tin tưởng, những ông vua khiêm cung, Stephen, môn đệ nhiệt tình, và Gioan, môn đệ của tình yêu, tất cả những người đã nghe theo tiếng gọi của Chúa. Họ là kẻ thù của đêm tối cố chấp và mù quáng: các thánh sử là những người thực sự biết đấng Cứu Chuộc nhân loại sinh ra ở đâu và lúc nào, nhưng các ngài sẽ không đưa ra kết luận là: ‘Chúng ta hãy về Bethlehem,’ Vua Herod là người muốn giết Chúa. Con đường tỏa đi từ Chúa Hài Đồng nơi máng cỏ…..”
Có người chọn con đường đi đến Sự Sống, có người chọn con đường đi đến Sự Chết. Ngày nay khi chúng ta rời xa máng cỏ Chúa Hài Đồng là Vua, xin hãy hy sinh hiến mình cho lý tưởng của cuộc sống là trung tâm điểm của niềm vui Giáng Sinh. Nhất quyết đi theo con đường LÝ TƯỞNG, con đường của NIỀM TIN vào Chúa Kitô đã sinh ra làm người và chịu chết trên thập giá, không để cho thế quyền lung lạc chạy theo thế quyền và bả vinh hoa bội phản Chúa.
Đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật Lễ Hiển Linh xong, tôi cứ thắc mắc là tại sao những nhà chiêm HiểnLinh ABC396
Đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật Lễ Hiển Linh xong, tôi cứ thắc mắc là tại sao những nhà chiêm tinh, những khoa học gia, những nhà thiên văn học người Do Thái ở gần ngay Bethlehem lại không khám phá ra sự xuất hiện của ngôi sao lạ, mà chỉ có ba nhà chiêm tinh ở tận bên Phương Đông thấy mà thôi?
Có phải những nhà chiêm tinh ở Phương Đông thông minh, nhạy bén và tinh mắt hơn những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn học người Do Thái chăng? Tôi không nghĩ như vậy!
Thế nhưng sau khi đọc qua đoạn Kinh Thánh của thánh Mátthêu kể về cuộc hành trình của ba nhà chiêm tinh tới Bethlehem thì tôi mới khám phá ra một lý do khiến Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh ngoại giáo tận bên phương Đông: Đó là sự ĐƠN SƠ của các ngài. Thánh sử Mát-thêu chỉ ra ba điểm đơn sơ của các ngài!
• Khi thấy ánh sao chỉ đường biến mất, thì họ đã đi vào hoàng cung để hỏi vua Hê-rô-đê đang trị vì rằng:“Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2:2). Hỏi như vậy thì có khác nào nói với Hê-rô-đê rằng Hài Nhi kia mới là vua đích thực của dân Do Thái, còn ông là vua...giả mạo!
• Khi nghe vua Hê-rô-đê dặn dò “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người" (Mt 2:8), thì ba vị chiêm tinh gia lập tức tin vào lời của nhà vua. Nếu thiên thần không báo mộng rằng“tìm lối khác mà về xứ của mình” (Mt 2:12) thì ba ông chiêm tinh này chắc chắn sẽ quay về báo cho nhà vua biết nơi Hài Nhi Giê-su đang ở.Chưa hết, khi họ đến gặp Hài Nhi nằm trong máng cỏ, họ không thắc mắc, cũng chẳng đặt vấn đề tại sao vua dân Do Thái lại ở một nơi lạnh lẽo và nghèo hèn như vậy? Nhưng đã “sấp mình thờ lạy Người… mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến [Hài Nhi]” (Mt 2:11).
Bạn thân mến, rõ ràng là Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh, là vì họ là những người rất đơn sơ. Chính Chúa Giê-su cũng đã khẳng định, chỉ những ai có tấm lòng đơn sơ, hiền hậu và khiêm hạ thì mới được Ngài mạc khải cho biết những màu nhiệm nước Trời mà thôi! “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10:21). Khi bạn và tôi sống đơn sơ, thành tâm và trung tín trong việc đi tìm Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ tỏ mình ra cho tôi và bạn thấy rõ sự hiện diện của Ngài trong từng biến cố vui buồn của cuộc đời.
Thế nhưng, thú thật với bạn, sống một đời sống đơn sơ giữa một thế giới đầy dẫy những phức tạp và đảo điên này thì không phải là chuyện dễ dàng! Người ta sẽ cười nhạo, chê bai chúng mình là khờ khạo, khinh thường và nhìn chúng mình bằng những ánh mắt không mấy thân thiện.
Thế nhưng xin bạn đừng quên, những người sống đơn sơ và khiêm nhu là những người hạnh phúc, họ sẽ gặp nhiều sự lành lắm. Thật đấy! Người có tâm hồn đơn sơ thì...
• Ít có kẻ thù. Bạn cứ nghĩ mà xem, ai mà lại chấp nhất mấy người sống đơn sơ và bị coi là khờ khờ chứ?
• Sống trong an vui và hạnh phúc bởi vì người có tâm hồn đơn sơ không phải mệt óc lo cho những chuyện trả thù, trả đũa và chẳng để bụng giận dỗi ai cả, hễ nằm xuống là...ngủ.
• Được Thiên Chúa yêu thương và ban cho khả năng nhận ra sự hiện diện của Ngài trong những biến cố vui buồn, trong những thăng trầm khổ ải và cả trong những biến đổi đau thương của cuộc sống.
Xin hãy cố gắng sống thật đơn sơ, càng đơn sơ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu:
• Đừng thêm đừng bớt, đừng bịa đặt thêm mắm thêm muối, đừng cho thiên hạ ăn bánh vẽ với thịt lừa nhưng “hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không” (Mt 5:37).
• Đừng khoe khoang, đừng vênh váo trong những lúc thành công, khi được người khác khen ngợi, tán tụng... nhưng hãy thưa với Chúa một cách thật đơn sơ: “Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô duyên, chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi!” (Lc 17:10).
• Khi phạm lỗi, khi làm sai, xin hãy chân thành nói: “XIN LỖI.” Khi phạm tội, hãy chạy ngay đến với Chúa qua bí tích Giải Tội và thưa với Ngài: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha” (Lc 15:18).
Cầu chúc bạn thành công trong việc tập luyện sống một đời sống đơn sơ. Nếu chúng mình cậy trông vào ơn Chúa và cố gắng luyện tập thì chắc chắn sự đơn sơ sẽ ở với chúng mình bởi vì con người do Thiên Chúa làm nên, vốn rất đơn sơ và ngay thẳng (GV 7:29). Xin Chúa chúc lành và ban cho bạn niềm vui, sự hạnh phúc trong tuần lễ của năm mới 2022 này.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể lại việc tìm kiếm của các nhà khôn ngoan thông thái, còn được HiểnLinh ABC397
Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể lại việc tìm kiếm của các nhà khôn ngoan thông thái, còn được gọi là các chiêm tinh gia. Họ chuyên nghiên cứu sao trời và tin rằng mỗi người chúng ta có một ngôi sao chiếu mệnh. Và vào đúng lúc Đức Giê-su sinh ra thì họ đã nhìn thấy một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và theo kinh nghiệm dựa trên sự hiểu biết của họ thì ngôi sao đó ám chỉ một con người sẽ làm thay đổi bộ mặt thế giới mới được sinh ra. Họ đã theo dấu ngôi sao lên đường tìm kiếm và thờ lậy.
Như những người tìm kiếm, chúng ta cảm phục sự hy sinh, lòng can đảm, vượt qua bao gian khổ trên hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh. Nhưng thật ra, điều mà chúng ta cần để ý là qua biến cố này chúng ta nhận ra việc Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, chứ không còn chỉ riêng cho dân Do Thái mà thôi. Nguồn ơn cứu độ được ban cho mọi người.
Như vậy, thưa anh chị em.
Biến cố tỏ mình của Đức Giê-su cho muôn dân hôm nay giúp chúng ta nhận ra chiều kích tràn đầy của Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Giáng Sinh dù thế nào vẫn chỉ là cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho dân Israel, dân riêng của Ngài. Với Lễ Hiển Linh, mầu nhiệm đó đạt đến mức toàn diện. Thiên Chúa sinh ra làm người và tỏ mình cho muôn dân muôn nuớc, bao gồm cả chúng ta. Việc tỏ mình là sáng kiến của Thiên Chúa, không ai có thể yêu cầu hay buộc Ngài phải làm chuyện đó. Nhưng, nếu chúng ta không nhận biết, không đón nhận và không loan báo cho nhau thì quả là một điều thiếu sót. Như thế, biến cố này còn đóng một vai trò thật quan trọng trong hành trình niềm tin và cách sống đạo của chúng ta.
Hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh không dễ dàng. Dù có ngôi sao dẫn đuờng, nhưng ngôi sao lúc ẩn lúc hiện. Cũng có lúc các ông bị mất dấu; không phải do các ông đi lạc; nhưng ngôi sao không xuất hiện thì biết lối nào để đi. Trong hoàn cảnh đó, họ không hề thất vọng; tiếp tục tìm kiếm bằng cách dò hỏi những ai đã được tiên báo về sự xuất hiện của con trẻ Giê-su. Họ đã hỏi các thượng tế và kinh sư về thời gian và nơi chốn của vị lãnh tụ, đấng chăn dắt dân Thiên Chúa sẽ ra đời.
Với chi tiết này chúng ta thấy rằng các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó cũng là những người khôn ngoan thông thái. Họ còn hiểu biết đạo Chúa. Thế mà, những điều họ biết là cái biết của lý trí, dựa theo kinh điển mà không hề cất bước đi tìm cho nên cái khôn ngoan của họ, những điều họ biết cũng chẳng giúp gì cho họ. Còn Vua Hê-rô-đê cũng biết; nhưng điều nhà vua biết không đem vua lại gần Chúa; trái lại cái biết đó lại là nguyên nhân khiến cho vua lo sợ. Phát sinh từ nỗi sợ hãi hoang tưởng, sợ mất quyền hành; vua đã tìm cách tiêu diệt và giết hết những ai là mầm mống đe doạ sẽ lật đổ ngai vàng của ông. Cho dù như thế, nhưng Thiên Chúa vẫn dùng họ như dụng cụ khai lối chỉ đường cho người khác. Thiên Chúa luôn soi sáng cho những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, cho dù trên hành trình tìm kiếm, nhiều lúc chúng ta cảm thấy ánh sáng khi ẩn, khi hiện, đường đi không rõ và tương lai lại mịt mù.
Ngoài ra, sự việc tỏ mình của Thiên Chúa trong thân phận của trẻ thơ Giê-su hôm nay chỉ trọn vẹn khi Người đã cho đi tận cùng cuộc sống của mình. Chính việc cho đi và tự hiến sau cùng của Đức Giê-su mới là cuộc tỏ mình huy hoàng nhất về chân tuớng đích thật của Người qua biến cố Phục Sinh. Vào ngày đó, con người của Đức Giêsu được bao phủ trọn vẹn thần tính của Thiên Chúa. Và cũng chính nhờ ơn Phục Sinh mà chúng ta nhận ra thần tính của Đức Chúa. Các môn đệ là nhân chứng về cuộc Hiển Linh Phục Sinh. Niềm tin của chúng ta hôm nay cũng dựa vào lời chứng của các tín hữu tiên khởi; đó chính là: Thiên Chúa đã tỏ mình trong thân phận con người của Đức Giêsu, Người đã ở giữa chúng tôi và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người từ Chúa Cha mà đến.
Như vậy, với trình thuật Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho mọi người biết rằng: trong Chúa không ai là người ngoài cuộc hết. Tất cả đều được mời gọi đón nhận và làm chứng về ơn cứu độ. Ai ai cũng đựợc diễm phúc làm con của Ngài. Ai ai cũng được mời gọi sống để tỏ bầy sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây chính là hồng ân và sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa đã làm người, đã tỏ chân tướng đích thật của Ngài cho chúng ta nhận biết. Nhưng chúng ta đã làm gì để tỏ ra cho người khác nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình? Cũng có lúc chúng ta cảm thấy Chúa rất gần gũi, Người đang ở sát bên mình và thúc giục chúng ta ra đi để chu toàn sứ mạng. Với ý ngay lành chúng ta tuởng như là Chúa rất cần chúng ta để làm cho Danh Người cả sáng. Nhưng thực tế lại khác, có những giây phút buồn chán khi đối diện với muôn ngàn khó khăn khiến chúng ta dễ có khuynh hướng buông xuôi và bỏ cuộc… Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta lại gán cho Chúa ý nghĩ của mình là Chúa bỏ rơi con. Thật ra, Thiên Chúa không chán nản, không hề thất vọng về ta. Ngài luôn luôn dùng đủ mọi cách thức để bộc lộ, lôi kéo và hướng dẫn chúng ta.
Vì thế, giống như hành trình tìm kiếm của các nhà chiêm tinh, trong cuộc sống chúng ta cũng nhận ra dấu của ngôi sao, các dấu chỉ thời đại mà Chúa dùng để soi sáng và mời gọi chúng ta. Tất cả đều là ánh sáng của Chúa. Ngay cả có những lúc ánh sao bị biến mất thì Chúa lại dùng đường lối khác, như những con người giống Hê-rô-đê và những vị học giả thông thái am tường đạo Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng họ, không chừa một ai, để hỗ trợ, động viên, nhắn gửi cho các nhà chiêm tinh và mỗi người chúng ta một sứ điệp là ta vẫn đáng tin, đừng chán nản, hãy tiếp tục lên đuờng và căng buồm ra khơi.
Như vậy, sứ mạng làm cho người khác nhận ra Thiên Chúa nơi mình không nằm xa và ở ngoài khả năng của chúng ta. Nó nằm ngay trong bản thân, giữa gia đình, qua mối dây liên hệ giữa vợ chồng và con cái, giữa các kẻ tin và người không tin, giữa những ai đủ can đảm để cho Mầu Nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa tỏ mình qua các việc làm như:
Trao cho nhau nụ cuời, dành cho nhau các câu nói cảm thông hơn là trách móc, ghen tỵ và oán than nhau.
Đến với nhau bằng trái tim biết rung động để khoan hồng, dung thứ và đón nhận những thiếu sót và bất toàn của nhau.
Mở rộng đôi tay nhân ái để đón tiếp hơn là loại bỏ, hất hủi và xua đuổi nhau.
Nói chung, đó là các việc nói lên hành trình tìm kiếm và thực thi Lời Chúa bằng chính cuộc sống mình. Tất cả đều là lời mời gọi, là các cơ hội để Thiên Chúa được tỏ mình qua lối sống chứng nhân, tuy bình thường nhưng lại chứa đựng quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa nơi mình.
Cầu xin cho mọi người có lối sống nêu trên để qua đó, chúng ta có nhiều cơ hội bộc lộ thân thế và nguồn ơn cứu độ của Người cho muôn dân. Amen!
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa giới thiệu Con Một của Ngài cho nhân loại. Như thánh Mác-xi-mô HiểnLinh ABC398
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa giới thiệu Con Một của Ngài cho nhân loại.
Như thánh Mác-xi-mô, viện phụ, nhận xét:
“Người tỏ chính mình ra theo tầm mức lãnh hội của kẻ đón nhận… Người thích ứng với khả năng tiếp nhận của họ.”
Khi muốn giới thiệu Con của Ngài cho các mục đồng, Những người ít học, đơn sơ, hẹn mọn, vất vả cả đêm để canh giữ đàn vật, Thiên Chúa đã cho một thiên sứ đến gặp họ, rực rỡ và sáng láng, Để báo tin Đấng Kitô được sinh ra như trẻ thơ nằm trong máng cỏ (Lc 2,1-20).
Nhưng Thiên Chúa không chỉ tỏ mình rực rỡ cho các người chăn chiên nghèo, Ngài còn muốn tỏ mình cho những người giàu có, khôn ngoan, học thức, có địa vị. Cả những người này cũng có chỗ trong trái tim của Thiên Chúa. Trong lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa giới thiệu Con của Ngài Cho những nhà chiêm tinh thuộc vùng Ả-rập, hay Ba-tư, hay Babylon.
Dựa theo lễ vật của họ, hẳn họ phải là người giàu có. Dựa theo khả năng nhìn bầu trời, họ phải là những người có kiến thức thiên văn.
Họ có thể là những tư tế hay cố vấn cho nhà vua, làm việc trong triều đình. Đặc biệt hơn cả, họ không phải là người Do-thái; họ là dân ngoại. Thiên Chúa muốn cả những người này cũng nhận biết Con của Ngài. Nhưng Thiên Chúa tỏ mình bằng những cách khác nhau, cho những giới khác nhau. Vì họ chuyên nghiên cứu các vì sao, nên Ngài có thể dùng bầu trời mà trò chuyện với họ.
Ngài đã cho xuất hiện một vì sao, không hẳn là sáng rực rỡ, ai cũng nhận ra, Nhưng là vì sao rất lạ, khiến họ bị thu hút mãnh liệt và lôi kéo họ lên đường.
Nhìn vì sao lạ, họ tin chắc có một vị Vua đã sinh ra, vị Vua người Do-thái đang mong đợi, cũng là vị Vua cho cả thế giới. Vì thế họ hướng về Giêrusalem, chỉ mong được gặp và bái lạy vị Tân Vương. Rất có thể họ đã đi cả ngàn cây số dọc theo sông Êuphrát, rồi mới xuống Ítraen. Nhờ tin lời các ngôn sứ mà họ đi Bêlem, quá vui khi gặp được Hài Nhi và Thân Mẫu.
Họ đã bày tỏ niềm kính tôn qua cử chỉ cúi đầu chạm đất, và dâng lễ vật. Thiên Chúa đã nói với họ qua một ngôi sao, thì nay lại nói trong một giấc mơ. Ngài nhắc họ đừng gặp Hêrôđê nữa nhưng đi đường khác mà về. Thánh Mátthêu đã kể cho độc giả thời của ngài một câu chuyện đẹp và ý nghĩa. Những người Do-thái hiểu ngay lời sấm của ông Bilơam đã được ứng nghiệm. Nhà chiêm tinh ngoại giáo này đã thấy “một vì sao xuất hiện từ Giacóp” (Ds 24,17).
Bây giờ vì sao ấy đã xuất hiện rồi, một vị Đại Vương đã được sinh ra. Đó là Đấng Mêsia, Đấng sẽ chăn dắt dân Ítraen và sẽ là Vua cả hoàn vũ. Cùng với các nhà chiêm tinh, chúng ta hãy đến để bái lạy và thờ lạy Hài Nhi, Vì chúng ta tin Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa làm người.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyến khích chúng ta làm hang đá ở khắp nơi. Ngài đã nhắc chúng ta đặt tượng “Ba Vua” nơi hang đá, ở đó không thể nào thiếu sự hiện diện của một ngôi sao trên cao chỉ đường. Chúng ta không được quên vai trò của ngôi sao nơi máng cỏ, Bởi lẽ con người hôm nay vẫn cần ánh sao để gặp được Chúa. Không phải ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, Nhưng là “sao mai mọc lên trong tâm hồn anh em” (2 Pr 1,19).
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã tự nhận mình là Sao Mai sáng ngời (Kh 22,16). Chính ngài sẽ ban cho chúng ta Sao Mai ấy (Kh 2,28). Không thể mừng lễ Hiến Linh mà không nghĩ đến những vì sao, Và ý thức mình chính là một trong những vì sao cần tỏa sáng (Pl 2,15).
Cầu Nguyện Lạy Chúa là Ánh sáng thân thương, Giữa những bủa vây của u sầu ảm đạm,
Xin Chúa dẫn con đi. Đêm thì tối, đường còn xa, Xin Chúa dẫn con đi, Xin giữ bước chân con. Con đâu dám xin thấy tương lai xa xôi, Chỉ thấy một bước trước mặt cũng đủ rồi. Chưa bao giờ con như bây giờ, Cũng chưa bao giờ con xin Chúa dẫn dắt. Con đã quen tự chọn và thấy con đường của mình. Nhưng giờ đây, xin Chúa dẫn con đi.
Ngày lễ Hiển Linh trước đây được gọi là Lễ Ba Vua. Tên gọi lễ Ba Vua nhắc lại sự kiện ba nhà HiểnLinh ABC399
Ngày lễ Hiển Linh trước đây được gọi là Lễ Ba Vua. Tên gọi lễ Ba Vua nhắc lại sự kiện ba nhà đạo sĩ từ phương Đông đến Belem để thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Khi gọi là lễ Ba Vua, là chúng ta nhấn mạnh tới sự kiện. Còn khi nói Lễ Hiển Linh là chúng ta chú trọng tới ý nghĩa và nội dung của ngày lễ. Qua sự kiện ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Giêsu, Chúa tỏ mình ra cho muôn dân và khẳng định: Người là Đấng Cứu độ muôn loài. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Belem, những người đầu tiên được đón tiếp Chúa là Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng chăn chiên. Họ đều là những người Do Thái. Tuy thế, ơn Cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại không chỉ dành cho người Do Thái, mà được dành cho mọi dân tộc trên thế giới. Cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông đã nói lên điều đó. Vì lẽ đó mà Phụng vụ ngày nay gọi ngày lễ này là Lễ Hiển Linh, muốn nhấn mạnh tới ý nghĩa của sự kiện này. Cuộc lên đường đầy gian nan trắc trở của ba nhà đạo sĩ, vừa là thiện chí kiếm tìm Chân lý của các ông, vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa gửi đến các ông để các ông đến tôn nhận vương quyền của Đấng Cứu thế. Ngôi sao lạ chính là biểu tượng của lời mời gọi đó.
Thiên Chúa là Cha chung của hết mọi dân tộc. Đức Giêsu là quà tặng của Chúa Cha cho nhân loại. Quà tặng ấy là bằng chứng hùng hồn về tình thương của Thiên Chúa. Thánh Gioan thánh sử đã viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Như thế, những ai đón nhận Chúa Giêsu là đón nhận quà tặng từ Thiên Chúa Cha. Đón nhận Chúa Giêsu không dừng lại ở những công thức hay ngôn từ, mà còn là thiện chí thực hiện giáo huấn của Người. Nhờ thực thi giáo huấn của Chúa Giêsu, biết bao người đã từ bỏ tội lỗi và nên hoàn thiện. Món quà vô giá này, Thiên Chúa không ban cho riêng một dân tộc hay một cá nhân nào, nhưng hết thảy mọi người đều được mời gọi đón nhận quà tặng của Thiên Chúa. Qua sự kiện ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa muốn giới thiệu quà tặng đó cho muôn dân. Các lễ vật của các nhà đạo sĩ là vàng, trầm hương và mộc dược hàm chứa lời tôn vinh Chúa Giêsu là Thiên Chúa (qua biểu tượng Trầm hương), là Vua (Vàng) và Đấng Cứu thế (Mộc dược).
Tính phổ quát của ơn Cứu độ còn được diễn tả một cách đặc biệt qua Lời Chúa trong Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn sứ Isaia. Giêrusalem được giới thiệu như trung tâm thế giới, và từ đó vinh quang của Thiên Chúa toả lan. Ngày ấy, người khắp nơi sẽ tuôn về Thánh Đô. Các dân tộc, các nền văn hóa đều quy hướng về Chúa, các loại sản phẩm tượng trưng cho sự phong phú đang dạng của các dân tộc đều được mang về Giêrusalem để dâng cho Chúa. Đến với Giêrusalem là đến với Nhà Đức Chúa để tôn vinh và cảm tạ Ngài. Đây là một viễn tượng tương lai, vừa diễn tả Thiên Chúa là Cha chung của gia đình nhân loại, vừa cho thấy sẽ có ngày vinh quang Ngài toả lan đến tận cùng thế giới.
Đức Giêsu là Ánh sáng muôn dân, như lời Ngôn sứ Isaia: “Này đây Ta đặt con làm ánh sáng muôn dân, để con đem ơn Cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất” (Isaia 49,6). Cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ đã làm cho những gì Bài đọc I diễn tả và lời ngôn sứ Isaia vừa trích dẫn được ứng nghiệm. Với ánh sao chỉ đường, ba nhà đạo sĩ đã “nhìn thấy” nơi Hài Nhi này là Vua và là Đấng Cứu độ. Họ đã đến thờ lạy Hài Nhi. Họ đã vượt đường xa dặm thẳm để đến với Belem. Cuộc gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu đã làm họ thỏa mãn và quên hết mệt mỏi của chặng đường dài.
Cuộc tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ phần nào phác họa đời sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ tin là một cuộc tìm kiếm liên lỉ, là một chuỗi liên tục những khám phá và những bất ngờ. Những ai nỗ lực tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Ngài. Đức tin trước hết đòi chúng ta phải biết chấp nhận những hy sinh. Các nhà đạo sĩ là những người trí thức uyên thâm. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương lên đường vì nhận ra thông điệp của một ngôi sao. Họ cũng khôn ngoan cân nhắc trước mưu mô của Hêrôđê. Ông ta lấy danh nghĩa đi thờ lạy Hài Nhi nhưng thực ra muốn ngấm ngầm giết hại vị Vua mới sinh. Trong đời sống đức tin, muốn được gặp Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lối sống không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Khi các nhà đạo sĩ bị lạc đường, họ không nản lòng, nhưng kiên trì tìm hiểu để thấy hướng đi cho mình. Mục đích được gặp vị Vua mới sinh đã cho các ông quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Các ông nêu gương cho chúng ta về sự kiên nhẫn và hy vọng. Quả thế, trong hành trình tìm kiếm Chúa, có những lúc chúng ta nản chí vì những thử thách gian nan. Sự kiên trì và cậy trông chắc chắn sẽ giúp ta tìm thấy Chúa và gặp gỡ Ngài.
Nếu ba nhà đạo sĩ đã cất công lên đường tìm cho bằng được Hài Nhi mới sinh, thì những nhà chuyên viên Kinh Thánh kiến thức uyên thâm lại dửng dưng với việc Đấng Cứu thế ra đời. Đây là một nghịch lý vẫn tồn tại ở mọi thời. Chi tiết này cho ta thấy tìm kiếm và tôn thờ Chúa không phải chỉ trong sách vở và lý thuyết suông, nhưng còn là nỗ lực để gặp được Chúa trong cuộc đời. Không chỉ dửng dưng với việc Đấng Cứu thế hạ sinh, Hêrôđê gian ác còn sợ vị Vua mới sinh cướp mất ngai vàng của mình, nên đã ra kế hoạch giết hại vị Vua ấy.
Nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu độ muôn dân, thì không còn sự phân biệt dân Do Thái với dân ngoại, vì tất cả đều được quy hướng về Thiên Chúa. Mọi lời chúc tụng tôn vinh đều dâng về Ngài. Thánh Phaolô đã khẳng định với tín hữu Êphêsô: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”. Như vậy, ngày lễ Hiển Linh nhắc chúng ta vinh dự lớn lao Chúa ban. Bởi lẽ, chúng ta trước đây đều là “dân ngoại”, nhưng nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu. Chúng ta được gọi là con Thiên Chúa. Nếu năm xưa ba nhà đạo sĩ đã nhờ ngôi sao chỉ đường để đến thờ lạy vị Vua mới sinh, thì hôm nay, mỗi Kitô hữu được mời gọi trở nên một ngôi sao toả sáng giữa cuộc sống đầy ồn ào náo nhiệt và bon chen tính toán. Bởi lẽ, nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được trở nên ánh sáng trần gian, vì được kết hợp với Đức Kitô là Ánh Sáng ngàn đời từ Thiên Chúa Cha, Đấng là cội nguồn ánh sáng. Các Kitô hữu trở nên ngôi sao sáng khi cố gắng sống trung thực, với lương tâm ngay thẳng và với tâm hồn thánh thiện. Những đức tính này có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với anh chị em không cùng niềm tin, và như thế, họ nhận ra Đức Giêsu và giáo huấn của Người.
Sau khi gặp gỡ và thờ lạy Chúa Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã “đi lối khác mà về xứ mình”. “Đi lối khác” là kết quả của cuộc gặp gỡ với vị Vua mới sinh. “Đi lối khác” cũng là để tránh gặp Hêrôđê đang manh tâm tìm cách xuyên tạc và phủ nhận sự thật. Người tín hữu, sau khi mừng lễ Giáng Sinh cũng cần tìm ra một lối đi mới cho đời mình, nghĩa là đoạn tuyệt với lối sống cũ còn đầy khuyết điểm, gian tham và ích kỷ. Đó chính là hành trình gặp gỡ Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ trần gian. Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng trần gian, xin chiếu rọi những góc khuất trong cuộc đời chúng con, nhờ đó, chúng con có thể chiếu toả ánh sáng trong đời sống hằng ngày. Xin hãy giúp chúng con để mỗi Kitô hữu trở nên một ánh sao chỉ đường cho nhiều người biết Chúa là Đấng Cứu độ và là Vua vinh quang. Amen.
Trang Tin Mừng hôm nay kể: theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung HiểnLinh ABC400
Trang Tin Mừng hôm nay kể: theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái vị vua mới sinh, vì nghĩ vị vua mới sinh đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng khi ba vị đến cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên, không biết chuyện gì đã xảy ra ở cung điện này. Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Các Kinh sư cũng không biết, họ mở Thánh Kinh thì mới biết tại Bê-lem, miền Giu-đê. Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế, Con Thiên Chúa và Thiên Chúa làm người không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đê. Điều đáng chú ý ở đây nhờ ánh sáng từ Thánh Kinh đã soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Chúa mỗi ngày. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (Tv 119,105). Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: là nơi những người ở ngay trong nhà mình, trong giáo xứ, trong xã hội và chính trong cuộc sống chúng ta. Thật quá bất ngờ phải không?
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ. Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các Thánh đường, trong giờ kinh nguyện... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong cuộc sống, trong tha nhân sống giữa dòng đời này. Cho nên, Thánh Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình". Rồi, qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là những người đói khát, những người rách rưới hoặc mình trần, người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ…. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người kể cả dân ngoại. Vì vậy, mà Thánh Phaolô trong bài đọc hai xác quyết rằng: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15), và “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong cuộc đời và trong xã hội và trong cuộc đời của chúng ta để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc, sự giúp đỡ sẻ chia đồng hành với những người đau khổ chung quanh chúng ta, là sự trân quý thân xác linh hồn chúng ta khỏi sa vào vòng tội lỗi, là sự cam lòng, trung tín vác thập giá theo chân Chúa mỗi ngày dù cuộc sống có nhiều cam go thử thách khó khăn, là sự thưa xin vâng thực thi sống Lời Chúa để nên thánh mỗi ngày, là sự hy sinh tha thứ phục vụ nhau trong gia đình... Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người hôm nay.
Cho nên, Cha nhạc sĩ Nguyễn Duy viết rằng: “Chúa chấp nhận cuộc sống của con, nên Ngài đã đến với con người, sống kiếp con người giữa nơi cuộc đời. Những bước đường, Ngài dắt dìu con, cho hạnh phúc không tan biến đâu, Chúa đã gọi mời giết chết đơn côi.
2. Chúa muốn chọn cuộc sống của con, để đời con dõi bước theo Ngài, sống chết cho Ngài hiến dâng trọn đời. Thánh giá Ngài, đường hướng đời con, những lần con đau thương đắng cay, thánh giá của Ngài thắp sáng tâm tư.
3. Mắt đoái nhìn cuộc sống trần gian, con nào hiểu những bước vội vàng, cấu xé tranh giành của bao con người. Nếu biết rằng, vì chính trần gian, Chúa nhập thế như bao chứng nhận, con sẽ hiểu được chính Chúa cao sang.
4. Đã đến ngày cải hóa đời con, con người cũ sống chỉ cho mình, đến lúc trở thành con người của Ngài. Để đến ngày đổi mới lòng con, chỉ tình yêu tung bay khắp nơi, con với mọi người chất ngất tin yêu.
[ĐK:] Chúa muốn nhận cuộc sống của con, nắm tay con Ngài dìu từng bước, Chúa luôn đợi chờ đổi trao thương mến. Phút cảm động lệ vỡ tràn mi, ôi thân con dịu huyền như thế, chính con không hiểu vì Ngài thương con.
Ôi thân chúng ta dịu huyền như thế, chính chúng ta không hiểu nhưng chỉ nhờ ánh sáng Lời Chúa chúng ta mới hiểu. Ước gì mỗi người chúng ta một khi đã hiểu thì cũng biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho mình, gia đình và cho tha nhân nhờ ánh sáng cuộc sống thánh và thiện của người Kitô chúng ta. Amen.