Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 101-150 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Trong một buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang sưởi ấm quanh đống lửa. Khi ấy: HiểnLinh ABC101
Trong một buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang sưởi ấm quanh đống lửa. Khi ấy, hai người trong bọn họ tranh luận với nhau để so sánh xem đạo của ai là đạo thật. Okoro, người cao tuổi nhất trong bọn chỉ ngồi yên lặng nghe hai người kia tranh luận. Đột nhiên, hai người kia quay sang nói với Okoro rằng: “Quyết định dùm chúng tôi, Okoro. Tôn giáo nào đúng?” Okoro vuốt râu, ngẫm nghĩ và nói: “Các anh nên biết rằng, có ba lối để đi từ đây lên xưởng ép dầu. Anh có thể đi thẳng lên đồi, đấy là lối ngắn nhất nhưng phải leo dốc cao nhất. Anh có thể đi quanh bên phải của ngọn đồi, lối ấy không xa nhưng đường gập ghềnh và nhiều ổ gà lồi lõm. Hoặc là anh có thể đi quanh bên trái của ngọn đồi, đấy là đường xa nhất nhưng lại là lối đi dễ nhất”. Okoro nói thêm rằng: “Các anh nên biết rằng, khi các anh đến nơi, người chủ không hỏi các anh đến bằng cách nào. Ông ta chỉ hỏi hoa qủa các anh mang đến có tươi tốt không?”
Trong những câu chuyện kể về Đức Giêsu sinh ra, có hai nhóm người đến kính viếng hài nhi mới sinh, đó là mục đồng và ba vua. Tại sao giáo hội không có lễ kính các mục đồng để tưởng nhớ việc họ đã kính viếng Chúa Hài Đồng, nhưng hôm nay giáo hội lại đặc biệt cử hành lễ Hiển Linh để kính nhớ ngày HiểnLinh ABCkính viếng Hài Nhi Giêsu? Bởi vì sự viếng thăm của HiểnLinh ABClà một bất ngờ. Các mục đồng biết được việc Chúa sinh ra là do các thiên thần trực tiếp hiện đến trong đêm vắng để báo tin. Đấy là sự bày tỏ tự nhiên và hầu hết mọi người trong chúng ta đều lãnh hội được. Về phần HiểnLinh ABCthì khác, họ biết tin Chúa sinh ra là do họ quan sát một ánh sao. Ngôi sao chẳng nói với họ điều gì. Họ đã phải tự tìm hiểu dấu hiệu tự nhiên của ánh sao để biết ý nghĩa và nơi mà ánh sao đã dẫn đưa họ đến. Nếu chúng ta nhớ rằng, HiểnLinh ABClà những người thờ lạy thiên nhiên, sùng bái tạo vật qua việc quan sát sự di chuyển của tinh tú và các thiên thể Chúa tạo dựng, thì chúng ta sẽ thấy rằng việc HiểnLinh ABCchiêm bái Hài Nhi Giêsu là một thách đố cho niềm tin của chúng ta.
Như những người hái dừa, người theo đạo thường tin rằng chỉ có truyền thống tôn giáo của mình mới đúng là đường đến với Chúa. Đây là điều chúng ta thường nghe khi đề cập đến lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14:6). Chúng ta vội vã kết luận rằng con đường của Chúa tương đương với truyền thống tôn giáo của mình. Nhưng sấm ngôn của Chúa cảnh cáo chúng ta về những diễn giải hạn hẹp ấy rằng: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Isaia 55:8); đấy là lý do làm cho chúng ta ngỡ ngàng về việc HiểnLinh ABCkính viếng Chuá Hài Đồng, và là câu chuyện lạ thường để cho chúng ta biết rằng Chúa không giới hạn bất kỳ một truyền thống tôn giáo nào.
Nên để ý xem có bao nhiêu truyền thống tôn giáo khác nhau tìm biết Con Thiên Chúa giáng trần. Bọn mục đồng, bị xem là hạng người dơ bẩn không đáng được vào Đền Thờ cầu nguyện nếu không trải qua thời kỳ thanh tẩy; họ đã tìm biết Chúa qua các thiên thần trực tiếp hiện ra báo tin. HiểnLinh ABCđã tìm biết Chúa bằng sự quan sát ánh sao. Và các kinh sư của vua Hêrôđê thì tìm biết Chúa qua sách ngôn sứ. Thị ứng, ánh sao, sách thánh... Nhiều cách khác nhau nhưng đã đưa đến một chân lý. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là bất cứ truyền thống tôn giáo nào cũng tốt lành như nhau. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng khi ánh sao dẫn lối đến Giêrusalem thì tắt, và HiểnLinh ABCđã phải nhờ các kinh sư chỉ lối đến Bê-Lem. Tuy rằng đã có ánh sáng tự nhiên của ánh sao, HiểnLinh ABCvẫn cần ánh sáng siêu nhiên của sách thánh, để cuối cùng tìm đến được với Chúa.
Vậy câu hỏi chính của câu chuyện là: “Ai đã thật sự tìm biết Chúa Giêsu?” Vua Hêrôđê và các kinh sư, người có ánh sáng siêu nhiên là kinh thánh nhưng lại không tìm thấy Chúa, nhưng HiểnLinh ABClà những người đi theo ánh sáng tự nhiên của ánh sao đã có thể tìm ra Chúa. Tại sao? Vì giới cầm quyền Do-Thái có được chân lý tỏ ra trong sách thánh nhưng họ đã không tin theo. Họ đã không bước đi trong ánh sáng của thánh kinh. Còn HiểnLinh ABCthì khác, họ chỉ biết ánh sao và bước theo ánh sao dẫn lối. Việc có được chân lý không quan trọng cho bằng làm thế nào để chuẩn bị bước đi trong ánh sáng của chân lý ấy mà chúng ta đang nhận biết. Thà rằng chúng ta có ánh sao mờ dẫn lối, còn hơn là có được ánh sáng siêu nhiên chói chan của thánh kinh mà chúng ta lại sao lãng, hững hờ.
Là Kitô hữu, chúng ta hằng tin rằng chính tôn giáo cho ta có con đường công chính. Nhưng điều ấy có đem lại bổ ích gì nếu chúng ta không bước đi theo con đường công chính ấy. Những người sùng bái thiên nhiên hoặc kẻ không biết Chúa, họ chỉ biết thành tâm quyết chí theo ánh sáng mờ ảo của thiên nhiên; họ có thể đến với Chúa Giêsu trước những Kitô hữu hằng tán tụng Thiên Chúa, nhưng không bước đi trong đức tin. Đấy thật là một thách đố mà chúng ta cần đối diện trong câu chuyện ba vua, những người đã tìm và đã gặp được Chúa. ---------------------------------
Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính, nhân tính và vương: HiểnLinh ABC102
Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính, nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu.
William Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn sống vào giữa thế kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông được độc giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông bằng cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng của ông lấy tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món quà của vị đạo sĩ”. Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim bằng món gì đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng hồ.
Hôm áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp rất đẹp, trong đó có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng mái tóc của nàng. Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim rất yêu quí mái tóc dài của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có buồn phiền vì nàng cắt và bán nó đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng thôi.
Dela leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai đứa nàng. Nàng mở cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp gói lại thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc ngắn của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì cả. Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela mở hộp ra, nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp để nàng chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra, chàng cũng khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ rất đẹp dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải tóc.
Có những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc nhiên nhưng bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm cho kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những món quà đó biểu tượng và nói lên.
***
Câu chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển Linh hôm nay, cũng gọi là Lễ HiểnLinh ABC(tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại sao O. Henry lại đề tựa cho câu chuyện ấy là “Món quà của nhà Đạo Sĩ”. Có lẽ vì những món quà của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày đầu tuần, các phụ nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn của con người.
Vì thế món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ bị thương tổn vì ngài là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được toàn bộ mọi thứ cảm xúc của con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô đơn.,…Ngài cũng không khác gì chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.
Bây giờ chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ hương trong việc phụng tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món quà bằng nhũ hương tượng trưng cho Thượng Đế tính của Đức Giêsu. Thánh Phaolô đã nói về Thượng Đế tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo dân ở Philipphê: “Đức Giêsu vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài…. Đã trở nên giống người phàm, và chấp nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả nhất trên trời” (Pl 2,6-9)
Cuối cùng chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho đức vua. Nhà vua là vị thủ lãnh ở bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối với dân chúng, ông bảo đảm là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người khác ủng hộ. cộng tác với ông nhờ chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính là một vị vua như thế. Ngài lãnh đạo bằng tình thương. Ngài bảo đảm có chính nghĩa khi thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian. Và Ngài thôi thúc mọi người cộng tác với Ngài trong công việc ấy. Điều đó dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ Hiển Linh hôm nay.
Hiện nay trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng hơn lễ Giáng sinh. Sở dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra với thế giới ngoại giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là “Lễ của Chư Dân”.
Những gì được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng phải được chúng ta tiếp tục trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi dân mọi nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng chính những cố gắng của chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc trên thế giới biết “Tin Mừng” này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc lấy xác thịt và sống giữa chúng ta chúng ta phải nói cho họ biết rằng Đức Giêsu đã đi vào lịch sử không phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào thời của Ngài, mà cứu độ tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại nữa.
Đức Giêsu đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế giới mới, thế giới mà trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà trong đó những người nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình, yêu thương, nơi mà trước đó họ chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt. đó chính là “Tin Mừng” mà chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ điệp thực tiễn của lễ Hiển Linh hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi người chúng ta phải hành động.
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ vô danh. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh rất sống động.
“Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt, khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất, khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà, khi các mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về, thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu “Để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã gẫy đổ, để người đói được ăn no, để tù nhân được giải phóng, để các nước xây dựng lại, để đem lại hoà bình cho mọi người, và để hoà nhạc bằng trái tim”. ---------------------------------
Hầu như tất cả những người lính khi đến Trung Đông để chiến đấu đều cảm nghiệm được vẻ: HiểnLinh ABC103
Hầu như tất cả những người lính khi đến Trung Đông để chiến đấu đều cảm nghiệm được vẻ tuyệt mỹ về ban đêm khi nhìn lên bầu trời trong đêm. Chân trời được trải rộng từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, và đượm đầy những ngôi sao kim cương lóng lánh mà không bị một chút ảnh hưởng nào của đèn đuốc.
Hôm nay mừng Lễ Hiển Linh hoặc còn gọi là Lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại được đại diện bằng ba nhà chiêm tinh. Có lẽ thời đó, ba nhà chiêm tinh cũng đã nhìn lên bầu trời đen tuyền rực rỡ đầy sao để học hỏi về thiên văn. Tuy họ không biết gì về khoa học thiên văn như chúng ta thời nay một cách rõ rệt, nhưng một điều mà họ đã bắt gặp là sự xuất hiện của một ngôi sao lạ.
Khi chúng ta đọc Sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy Thiên Chúa tạo dựng nên trời đất một cách lạ lùng. Ngón tay của Ngài đã tạo dựng nên bầu trời và sắp đặt trong đó những vì sao lấp lánh xoay vần theo định luật của chúng. Chúng ta có thể suy ra rằng tác giả sách Sáng Thế Ký đã nhìn lên bầu trời và nhận ra cảnh đẹp lộng lẫy của nó, và từ từ suy ra sự hiện diện của Thiên Chúa và uy quyền của Ngài.
Chúng ta ngày nay cũng nhận ra vẻ uy linh đó trong tất cả mọi sự hiện hữu trong vũ trụ này. Chúng ta biết rằng tất cả mọi sự trong vũ trụ đều được Thiên Chúa quan phòng từ sự di chuyển các hành tinh cho đến sự mọc lên một ngọn cỏ nhỏ bé.
Phía sau ổ bánh mì là bột lúa mạch, Phía sau bột lúa mạch là cái máy xay bột, Phía sau cái máy xay bột là lúa mạch và mưa gió, Phía sau nữa là mặt trời... Thiên Chúa
Các nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem và hỏi Vua Hêrôđê: Vua mới sinh ở đâu... Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Ngài ở Phương Đông (Mt 1:2). Cũng thế, phía sau của ngôi sao là sự quan phòng của Thiên Chúa.
Khi ba nhà chiêm tinh lúng túng không biết đi đâu để tìm kiếm Vua mới sinh ở Giêrusalem thì ngôi sao lạ lại xuất hiện và dẫn họ đến nơi ở của Vua mới sinh... Cũng thế, phía sau Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ, và Thánh Giuse là Thánh ý của Chúa Cha.
Cuộc Giáng Sinh của Chúa Kitô nói cho chúng ta rằng ở giữa tâm điểm của vũ trụ có một Đấng Toàn Năng đang hiện hữu một cách thật sự.
Sự hiện hữu của Thiên Chúa nói cho chúng ta rằng trong giây phút hiện tại không chỉ bao gồm bằng những sự việc và những gì gọi là "đẹp đẽ" nhưng còn có những sự việc "xấu xa" đang xảy ra khắp nơi. Cho dù thế nào đi nữa, chúng ta biết rằng ở đằng sau mọi sự đều có sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa Toàn Năng.
Các nhà chiêm tinh đã hớn hở vui mừng đến gặp Chúa Hài Đồng và họ quì xuống sụp lạy Ngài. Hôm nay, chúng ta tụ tập trong Thánh Đường này và chúng ta cũng làm như các nhà chiêm tinh, chúng ta tìm đến gặp Chúa Hài Đồng và thờ lạy Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể cứ ở lại nơi Thánh Đường để thờ lạy Ngài, nhưng chúng ta còn phải ra đi để đem Tin Mừng ơn cứu độ đến cho những người khác để họ cũng biết đến để thờ lạy Chúa Hài Đồng. Chúng ta hãy nói cho thế giới biết rằng ở đằng sau tất cả mọi sự là ngón tay quan phòng của Đấng Toàn Năng.
Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua, vì nhắc: HiểnLinh ABC104
Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua, vì nhắc lại sự tích HiểnLinh ABChay ba nhà Chiêm tinh Phương Đông đến Giêrusalem và Bêlem tìm kiếm Chúa Hài Nhi mới sinh ra. Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, thậm chí có thể nói đó là ý nghĩa cốt yếu của Kitô giáo, vì từ trước tới giai đoạn này, người Do Thái quan niệm rằng Thiên Chúa là Chúa của Israel là dân riêng mà thôi. Chân lý được giấu kín nay mới được bộc lộ là Thiên Chúa là Chúa của muôn dân, muôn nước và Ơn Cứu độ Chúa ban là Ơn Cứu độ phổ quát nghĩa là dành cho hết mọi người, không phân biệt mầu da, chủng tộc, giai tầng xã hội….
Chúng ta hãy mở rộng tầm nhìn và tâm hồn để hiểu và sống ý nghĩa của Lễ Hiển Linh.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
(1) Đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. (2) Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. (3) Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. (4) Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. (5) Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. (6) Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng ĐỨC CHÚA.
(2) Bài đọc 2: Ep 3,2-3a.5-6: Thánh Phaolô là người phục vụ nhiệm cục Kitô.
(2) Thưa anh em, hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em. (3) Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô. (5) Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và Ngôn sứ của Người. (6) Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban.
(3) Bài Tin Mừng: Mt 2,1-12: Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giêsu Hài Nhi (1) Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem, (2) và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (3) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: (6) 'Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia công bố là một Đấng Thiên Chúa đem niềm hân hoan và ánh sáng chan hòa, đem giầu sang và vinh quang đến cho thành Giêrusalem, thủ đô của Israel. Giêrusalem được nhân cách hóa thành một con người và con người này đã được biến đổi hoàn toàn, thậm chí trở thành điểm tập trung của muôn dân muôn nước, nhờ sự kiện Thiên Chúa đến trần gian, trong nhà Giacóp.
(2) Thiên Chúa mà Thánh Phaolô muốn giới thiệu với tín hữu Êphêsô và mọi người là một Đấng Thiên Chúa đã giao phó cho Phaolô sứ mạng rao giảng Kế hoạch hay Nhiệm cục Cứu độ của Người: đó là dân ngoại cùng được thừa kế như/với người Do Thái để cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban là Ơn Cứu độ trong/nơi/nhờ Chúa Kitô Giêsu. Nói cách khác Phaolô được giao sứ mạng loan truyền một bí mật xưa rày vẫn được giấu kín của Thiên Chúa. Đó là, vì yêu thương, Thiên Chúa sẽ cứu độ hết mọi người, không phân biệt mầu da, sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc hay địa vị xã hội, có đạo hay lương dân.
(3) Thiên Chúa mà Thánh Matthêu muốn thế giới nhận ra là Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và làm một trẻ sơ sinh được bọc tã nằm trong máng cỏ; nhưng lại là Đấng thu hút và đón tiếp hết mọi người, từ kẻ chăn chiên nghèo hèn (theo con mắt phàm trần) đến hạng quan quyền vua chúa (cũng theo con mắt phàm trần) như ba nhà chiêm tinh từ Phương Đông. Thái độ và cử chỉ (sấp mình thờ lạy) cũng như lễ vật (vàng, nhũ hương, mộc dược) của ba nhà chiêm tinh Phương Đông dành cho Hài Nhi Giêsu, hé mở cho chúng ta thấy chân dung đích thực của Trẻ Sơ Sinh: Người là Vua, là Chúa và là Đấng sẽ tự hiến thành Lễ Vật toàn thiêu cứu độ muôn dân muôn nước.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai phần:
Một là chúng ta hãy nhìn nhận, đón rước Hài Nhi Giêsu với tư cách Người là Vua, là Chúa, là Đấng Cứu Chuộc hết mọi người trong nhân loại, không phân biệt nguồn gốc, địa vị xã hội.
Hai là, cũng như Thánh Phaolô, chúng ta được Thiên Chúa giao một sứ mạng cao cả là làm cho người ta biết kế hoạch của Thiên Chúa là Ngôi Lời đến trần gian để cứu chuộc hết mọi người, giáo cũng như lương, để mọi người, mọi dân, mọi nước làm thành một Thân Thể, một Gia Đình, một Cộng Đồng duy nhất. Vì thế chúng ta có sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng và rao giảng Tin Mừng cho những người chung quanh.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Là khi chúng ta thực hiện hai việc cơ bản sau:
1. Cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng, nhìn nhận và đón rước Hài Nhi Giêsu là Vua, là Chúa, là Đấng Cứu độ nhân loại.
2. Đặc biệt yêu thương những người chưa nhận biết Thiên Chúa và Chương Trình Cứu độ của Người mà ra sức giúp mọi người nhận biết Chúa và đón nhận Kế hoạch và Ơn Cứu độ Phổ quát của Người.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, ba nhà Chiêm tinh Phương Đông đã dâng lên Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược để bày tỏ lòng quy phục đối với Chúa là Vua, là Chúa và là Đấng sẽ được mai táng trong mồ. Chúng con cũng quy phục và nhìn nhận Chúa là Vua là Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con bằng khổ nạn phục sinh. Nhưng chúng con không có vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Chúa. Chúng con xin dâng lên Chúa Của Lễ riêng của chúng con. Vàng là lòng tin yêu son sắt. Nhũ Hương là đời sống bác ái chứng nhân. Và Mộc Dược là tất cả những hy sinh, hãm mình và từ bỏ đối với của cải, chức quyền, danh vọng và lạc thú trần gian. Chúng con xin Chúa hãy làm Vua, làm Chúa và làm Đấng Cứu độ chúng con!
Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, Chúa tỏ mình ra với ba nhà Chiêm tinh từ Phương Đông tìm đến nhìn nhận và thờ lạy Chúa. Chúa cũng muốn tỏ mình ra và đón nhận hết mọi người, mọi dân trong Nhà/Gia đình của Chúa, vì Chúa là Đấng Cứu độ muôn dân, muôn loài. Xin Chúa ban cho chúng con Lòng Nhiệt Thành Tông Đồ để chúng con dũng cảm làm chứng cho Chúa trong mọi môi trường sống và lao động của chúng con. Amen.
"Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, có mấy đạo sĩ từ Phương đông đến bái lạy Ngài" (Mt 2,1-2)
Minh họa
- Hình: Mille images 41 C
- Câu Thánh Kinh: "Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, có mấy đạo sĩ từ Phương đông đến bái lạy Ngài" (Mt 2,1-2) Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc I (Is 60,1-6): "Hỡi Giêrusalem hãy tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi."
- Đáp ca (Tv 71): "Lạy Chúa, các dân nước sẽ ca ngợi Ngài."
- Tin Mừng (Mt 2,1-12): "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Ngài." - Bài đọc II (Êp 3,2-6): "Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô."
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Đức Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia: HiểnLinh ABC105
Đức Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
- Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
- Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 60,1-6
Mặc dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến:
- Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
- Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân do thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Như vậy, giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
2. Đáp ca: Tv 71
Tv này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính là Đức Giêsu.
3. Tin Mừng: Mt 2,1-12
Các "đạo sĩ" là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức do thái ở Giêrusalem dù thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ý nghĩa thật của ngôi sao lạ
Nhiều người vẫn nghĩ rằng ngày xưa có một ngôi sao lạ xuất hiện trên vùng trời Phương Đông để dẫn đường các đạo sĩ. Sao đi trên trời, người đi dưới đất, và khi đến Bêlem thì ngôi sao dừng lại, chiếu một luồng ánh sáng xuống đúng nơi mà Chúa Hài Đồng đang ở. Thế là các đạo sĩ vào nhà, quỳ xuống thờ lạy Đức Giêsu và dâng lễ vật cho Ngài.
Những người biết khoa học chút ít đều coi đây là chuyện hoang đường: làm sao bước chân con người có thể theo kịp tốc độ di chuyển của tinh tú ! ?
Sự thật hay là hoang đường ?
Xin thưa, đây là một cách viết, khai thác một hình ảnh để diễn đạt một chân lý. Theo cách viết của Thánh Matthêu, lý do thúc dục các đạo sĩ lên đường là vì "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài xuất hiện bên Phương Đông". Matthêu không hề viết là ngôi sao cùng sánh bước với các đạo sĩ trên khắp những đoạn đường từ Phương Đông đến Giêrusalem. Bởi đó họ phải đi tìm, và khi đến Giêrusalem họ phải hỏi người khác nữa. Câu trả lời giúp họ biết hướng để tiếp tục cuộc hành trình chính là một câu Sách Thánh. Mãi khi đến gần Bêlem thì Ngôi Sao mới xuất hiện lại để dẫn họ đến chỗ Hài Nhi đang ở.
Tóm lại, Ngôi Sao là một dấu chỉ thôi thúc lên đường. Nhưng cuộc hành trình đòi hỏi phải cố gắng, kiếm tìm, dò hỏi nhiều nơi, nhiều người, nhất là Sách Thánh. Và cuối cuộc hành trình, dấu chỉ lại rực sáng như để xác nhận rằng cuộc hành trình đã đạt đến điểm tới.
* 2. Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin:
a/ Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (Thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình: có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
c/ Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
* 3. Lên đường
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư ? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? "Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chinh Ta" (Mt 25,35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời kinh thánh: Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rày ư ? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên được tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên được tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
* 4. Ánh sáng và bóng tối
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng: Bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau. Năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho HiểnLinh ABCtìm ra Chúa Hài Nhi ?
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu những chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: "Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Ítraen " (Ds 24, 17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israen " (Mk 5,1).
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường. hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Đức Giêsu đã phải thốt lên: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài " (Mt 8,11-12).
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: "Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5, 14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Chúng ta đừng chỉ lo gìn giữ ngọn nến của ngày chịu phép rửa tội, nhưng hãy can đảm thắp sáng những ngọn nến còn trong bóng tối lầm lạc và tội lỗi, để thế giới này luôn đi trong ánh sáng chân thật của Chúa.
***
Lạy Chúa Hài Đồng, Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới này và trong lòng mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con biết kín múc nơi Chúa là chính Nguồn Sáng, để chúng con có khả năng đẩy lui mọi bóng tối trong chúng con và trong lòng mọi người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu") Minh hoạ:
* 5. Ánh sáng Đức tin
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: "Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không ?" Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: "Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao ?"
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
***
Ánh sáng Đức tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực Hoàng gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: "Các con là ánh sáng thế gian" (x. Mt.5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng Đức tin luôn chiếu tỏa rạng ngời.
Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào Lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gia nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá.
Để giữ vững đức tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng giám mục Fulton Sheen khẳng định: "Để trắc nghiệm Đức tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió".
Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao khi lạc mất, người tín hữu Kitô luôn được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:
Một câu Kinh Thánh đánh động lòng ta. Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm. Một lời khuyên nhắc nhở chân tình. Một gương sáng làm ta xúc động
. Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng Thì hãy là ánh lửa non cao. Nếu không thể là ánh lửa non cao. Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình"
**
Đức Gioan Phaolô II trong Giáo lý năm Thánh 2000 có viết: "Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc "hiển linh" trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân.
**
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.
Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng lan tỏa khắp thế giới. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Ông vua thứ tư
Có một truyền thuyết cho rằng những người khách từ phương Đông tìm đến thờ lạy Chúa Hài Đồng là 3 vị vua, tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Có một truyền thuyết khác lại cho rằng ngoài 3 vị ấy, còn một vị vua thứ tư nữa, tên là Artaban. Sau đây là truyền thuyết về ông vua thứ tư ấy.
Cũng như 3 vị vua kia, Artaban cũng thấy ngôi sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ vật gồm một viên bích ngọc, một viên hồng ngọc và một viên ngọc trai, Ông lên đường tiến đến điểm hẹn với 3 vị vua kia. Tuy nhiên dọc đường ông gặp một người bị thương nặng đang nằm bên vệ đường, ông phải dừng lại đưa người đó đến một lữ quán nhờ chăm sóc. Vì thế khi đến điểm hẹn thì 3 vị kia đã đi mất rồi.
Cần có một con lạc đà để có thể đi băng qua sa mạc, ông bán viên bích ngọc đi để mua lạc đà. Nhưng khi tới Bêlem thì lại trễ, vì Thánh Giuse và Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh nạn sang Ai cập.
Artaban đành tìm một quán trọ để nghỉ đêm. Trong quán ông gặp một người đàn bà bế một đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi trốn tránh cuộc lùng bắt của đám lính Hêrôđê. Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm tới. Artaban ra cửa gặp chúng và đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào lữ quán. Ông rất buồn vì giờ đây lễ vật ông định dâng Chúa Hài Đồng chỉ còn có mỗi một viên ngọc trai.
Ông lại lên đường tìm Chúa Hài Đồng. Nhưng ông luôn bị trễ: nghe tin Đức Giêsu đang ở đâu ông đều tìm đến nhưng khi đến nơi thì Ngài đã đi nơi khác. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng khi nghe tin người ta sắp đem Đức Giêsu đi đóng đinh trên đồi Golgotha. Ông vội vã tìm đến, hy vọng là với viên ngọc trai còn lại, ông có thể cứu sống Ngài. Tuy nhiên trên đường đến Golgotha, ông gặp một cô gái đang bị quân lính rượt bắt. Cha của cô thiếu nợ quá nhiều nên người ta định bắt cô để bán làm nô lệ trừ nợ. Artaban đưa viên ngọc trai ra, và quân lính để cô gái được tự do. Giờ đây Artaban chỉ còn đôi bàn tay trắng.
Chiều hôm ấy, khi mặt trời bắt đầu lặn, một cơn động đất khiến các nhà cửa đều rung rinh, ngói nhà bay tứ tung. Một viên ngói rơi trúng đầu ông. Thế là ông chết trước khi đến được ngọn đồi Golgotha. Artaban không gặp được Đức Vua mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực tìm kiếm.
Tuy nhiên, nhìn theo một phương diện khác thì Artaban đã thực sự gặp được Đức Vua của lòng ông, bởi vì bao nhiêu năm nay Ngài đã ngự trị trong lòng ông. Ngài đã làm cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông làm những việc bác ái và luôn duy trì niềm hy vọng trong suốt cuộc hành trình của ông.
Ai đang đi tìm Chúa với trọn niềm tin yêu hy vọng thì đã gặp được Chúa rồi.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa đã muốn cứu độ tất cả mọi người, và Người đã dùng ánh sao lạ để hướng dẫn muôn dân tìm đến Đức Giêsu, Đấng Cứu độ duy nhất. Chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Đức Giêsu đã thiết lập Hội thánh và sai đi đến với mọi người / Xin Chúa cho Hội thánh luôn trở thành ánh sáng hướng dẫn muôn dân tìm đến ơn cứu độ của Chúa.
2. Chúa đã ban quyền cho các nhà cầm quyền trong xã hội / Xin Chúa hướng dẫn họ thi hành quyền hành đối với mọi người theo lẽ công bằng, theo sự thật, và luôn tôn trọng nhân phẩm của mỗi người.
3. Chúa đã muốn cứu độ mọi người không trừ ai / Xin Chúa cho những người chưa biết Chúa, những người từ chối Chúa, và những người chống đối Chúa sớm nhận ra ánh sáng chân lý và tình thương của Chúa.
4. Mỗi Kitô hữu đều phải là ánh sáng cho đời / Xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / luôn sống đúng với Tin mừng của Chúa / để trở thành ánh sao dẫn đường cho người chung quanh trở về với Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, lễ Hiển Linh hôm nay nhắc cho chúng con nhớ đến trách nhiệm của Kitô hữu là phải luôn tìm kiếm Chúa để gặp gỡ và sống hiệp thông với Chúa, đồng thời cũng phải giúp anh chị em chung quanh chúng con tìm kiếm và gặp gỡ Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn ý thức và chu toàn trách nhiệm đó. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh những chỗ sau đây:
. (Sau lời Truyền phép, đoạn 3): "Nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời dâng hiến Cha (như những lễ vật mà các đạo sĩ ngày xưa dâng cho Chúa Hài đồng)…
. (Đoạn cầu cho Hội Thánh): "… Xin cho Hội Thánh Cha trong cuộc lữ hành trần thế được đức tin vững vàng và lòng mến sắt son (Xin cho Hội Thánh nhiệt thành loan báo mầu nhiệm Tình thương bao la của Cha muốn cứu độ tất cả mọi người)…
. (Đoạn cầu cho những kẻ qua đời): "Xin Cha nhớ đến anh chị em tín hữu chúng con đã lìa cõi thế, và mọi người sống đẹp lòng Cha mà nay đã ly trần (cùng linh hồn những người thành tâm thiện chí dù không biết Cha nhưng lòng vẫn hướng về Cha)…
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con thành những kẻ xây dựng bình an giữa mọi người không phân biệt tín ngưỡng, giai cấp, trình độ, hoàn cảnh…
VII. GIẢI TÁN
Ngày xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người. Chúc anh chị em ra về bình an.
Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái: HiểnLinh ABC106
Suy Niệm: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người.”(Mt 2:2) Khi ta ngắm nhìn vũ trụ bao la, công trình tạo dựng của Thiên Chúa, lòng ta tràn đầy niềm vui. Xưa kia, giữa muôn vì sao, Chúa dùng ngôi sao sáng hơn để dẫn đường cho những người thiện tâm biết đến thờ lạy Chúa. Ngày nay, sao lạ mờ dần, thay vào đó nhiều sao sáng sống động, là Kitô hữu, khắp năm châu đang dẫn nhiều người đến với Thiên Chúa. Ngài đã dùng ân sủng để tô đẹp tâm hồn họ và các nhân đức như những tia sáng tỏa ra trong cuộc sống làm chứng nhân giữa lòng đời. Không có một Kitô hữu nào là tầm thường và vô dụng, ngay cả người tàn tật. Tony Melendez là một người tàn tật từ bẩm sinh. Sinh ra thiếu hai tay. Anh không kêu trách than vãn, nhưng biết dùng đôi chân để đánh đàn. Chính nhờ biết dùng "ân phúc bất thường" này mà anh đã đánh đàn cho buổi lễ có hàng ngàn người tham dự khi đức Giáo Hoàng Gioan Phalô ll thăm Los Angeles. Sau khi rước lễ, anh dùng đôi chân ấn lên phím đàn bài ca "Amazing Grace". Tiếng đàn thu hút muôn ngàn đôi mắt hướng về ca đoàn. Tiếng đàn đã khơi nguồn giòng lệ của hàng ngàn người dự lễ. Họ vừa cảm động vừa đê mê. Cảm động vì thấy một người tàn tật thiếu đôi tay, biết dùng đôi chân để phục vụ giờ thờ phượng. Đê mê vì sự chân thành của anh mà tiếng đàn đã giúp nâng tâm hồn của đám đông tín hữu lâng lâng như lên tới thiên đường!
Thực Hành: “Nhờ Tin Mừng, các dân ngọai được nên đồng thừa tự trong Chúa Kitô.” (Eph 3:6) Cho dù tội đã làm hoen ố, lu mờ nhiều tâm hồn. Nhưng Chúa vẫn khoan dung, kiên nhẫn ban mùa ân phúc năm nay để ăn năn trở lại và tiếp tục sứ mạng đem ánh sáng của ơn cứ độ cho những ai chưa biết Chúa. Xin thắp lên trong con ánh sáng niềm tin yêu và hy vọng.
CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
Ngày xưa chúng ta gọi lễ này lề Lễ Ba Vua. Thực ra đây không phải là 3 vua, nhưng là 3 nhà: HiểnLinh ABC107
Ngày xưa chúng ta gọi lễ này lề Lễ Ba Vua. Thực ra đây không phải là 3 vua, nhưng là 3 nhà Đạo sĩ ở Đông phương. Họ là những người chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn thần bí. Theo tục truyền tên họ là: Caspar, Melchior và Balthasar, lúc đó họ khám phá ra rằng có một vì sao mới xuất hiện. Ở Đông phương, ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Đối chiếu với lời tiên báo ghi trong sách Dân Số 24,17 "khi một ngôi sao mọc lên từ Giacob (nhà Đavít) thì một vương trượng (vua) xuất hiện từ Israel (Do Thái)." Do đó ba nhà đạo sĩ này biết ngay rằng có một vua mới sinh ra ở đất Do Thái. Vì thế tuy ở xa nhau, họ đều nhất tề lên đường tìm đến thủ đô Do Thái là Giêrusalem để hỏi vua Hêrôđê cho biết nơi tân vương mới sinh ra hầu tới thờ lạy Ngài (Mt 2,2). Chính Hêrôđê thì không biết. Ông lại hoảng sợ vị Tân Vương này sẽ chiếm mất địa vị của mình nên triệu tập triều đình để hỏi và được họ cho biết là ở Bêlem xứ Giuđêa dựa theo lời đã tiên báo trong sách Tiên tri Mica 5,1 rằng: "Và ngươi, Bêlem, thuộc đất Giuđêa, hẳn ngươi không phải nhỏ nhất trong các bộ lạc Giuđêa vì từ ngươi sẽ xuất hiện một vị thủ lãnh, kẻ sẽ chăn dắt Israel dân Ta" (Mt 2,3-6).
Ba nhà đạo sĩ này thành tâm đi tìm Chúa Giêsu và họ đã gặp được Ngài như lòng mong ước. Trái lại Hêrôđê thâm độc mưu mô định lợi dụng cả ba nhà Đạo sĩ này để thực hiện kế hoạch tiêu diệt Chúa Hài Nhi, thì đã thất bại ê chề, để rồi phạm thêm những tội ác khác như sát hại tất cả các hài nhi trong nước từ hai tuổi trở xuống. Chẳng ai trong chúng ta muốn theo gương Hêrođê. Nhưng chúng ta đã thành tâm tìm Chúa như ba nhà Đạo sĩ này chưa? Chúng ta có chấp nhận hy sinh như họ: rời xa quê hương, khó khăn nguy hiểm dọc đường và khiêm nhường dâng cho Chúa những lễ vật vàng, nhũ hương, mộc dược, tượng trưng lòng Tin Cậy Mến chưa? Chúa đã tỏ mình ra (hiển linh) cho họ và họ đã vội vã ân cần hân hoan tiếp nhận Ngài. Chúng ta cũng đã được Chúa ban cho nhưng không ánh sáng đức Tin. Chúng ta có mau mắn và ân cần thực hiện đức Tin ấy mỗi ngày trong đời sống chúng ta chưa?
Lạy Chúa, tuần này tối sáng con sẽ cảm tạ ơn Chúa đã tỏ mình ra cho con trong đức Tin bên giếng Rửa tội và con quyết tâm sống đức Tin ấy như ba nhà Đạo sĩ này.
Trong bài thơ “Chuyện cổ nước Nga”, thi sĩ Phyliss McGinley kể lại chuyện bà Babushka. Bà: HiểnLinh ABC108
Trong bài thơ “Chuyện cổ nước Nga”, thi sĩ Phyliss McGinley kể lại chuyện bà Babushka. Bà được mời đến gặp Hoàng Nhi mới sinh ở Bê-lem khi đang chuẩn bị đi ngủ. Tiếng gió rít và cái lạnh mùa đông ùa vào cùng với các mục đồng đến gõ cửa nhà bà. Họ chia sẻ Tin Vui: Hài Nhi bao lâu chờ đợi nay đã giáng sinh. Họ xin bà đến giúp đỡ Ngài một chút. Babushka là một cụ già tốt bụng, nhưng hơi ấm của cái giường xem ra chèo kéo bà mạnh mẽ hơn là một chuyến đi ngoài trời đêm lạnh giá. Bà bảo với các mục đồng: sáng mai bà sẽ đi. Họ xin bà một ít thực phẩm, để thay mặt bà, tiếp tế cho thánh gia, bà lại bảo: “Sáng mai”.
Trời vừa tảng sáng, bà Babushka giữ đúng lời hứa. Bà sửa soạn một giỏ thực phẩm và quà:
“Một khăn quàng cho mẹ, ấm như nắng tháng sáu. Cho con trong máng cỏ, một chiếc muỗng bạc xinh. Lục lạc, đồ chơi, cả chiếc đàn ngà bé tí. Nhưng đến nơi, chuồng vật... đã vắng người.”
Cụ bà Babushka đã đến yết kiến và tặng quà cho Hài Nhi quá trễ. Thánh Giu-se được báo mộng đã đem cả hai mẹ con trốn sang Ai Cập mất rồi. Bà giận mình đã không đi từ tối hôm qua. Sự hối tiếc ấy lớn quá khiến bà lang thang khắp thế giới đi tìm Hài Nhi Thiên Sai. Bà nhập vào số đông những kẻ lang thang khắp chiều dài lịch sử để tìm gặp Đấng sẽ mang lại cho họ niềm hy vọng và ý nghĩa cuộc đời. Trong cuộc hành trình dài ấy, bà gặp thấy nhiều em bé gầy guộc không đủ ăn, không đủ ấm, nhiều bà mẹ vất vả nuôi con. Mỗi một bé thơ đều được bà tặng quà. Bà hy vọng đấy là Hài Nhi Thiên Sai, dù chẳng bao giờ bà biết chắc.
Nếu đến cuối đời ta sẽ gặp mặt Đức Giê-su thì cả đời ta là một đời tìm kiếm Ngài như bà Babushka. Ta sẽ mang khuôn mặt tìm kiếm nào đây trong những khuôn mặt xuất hiện nơi bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe ? Chắc không ai trong chúng ta tìm Chúa để giết. Lại càng không có ai trong chúng ta muốn giết Chúa đến độ thà giết lầm chứ không bỏ sót như vua Hê-rô-đê. Trong suốt chiều dài lịch sử, thời nào cũng có những quan quyền muốn giết Chúa nhưng làm sao mà giết được, thế nên cứ “giết lầm” các tín hữu vô tội. Các Thánh Anh Hài chính là hình ảnh của các Thánh Tử Đạo mọi thời, vô tội nhưng vì Chúa mà phải chết, phải bị coi là công dân hạng hai, phải giữ luật riêng dành cho người đi Đạo !
Chắc cũng không ai trong chúng ta như các bậc cha thầy Ít-ra-en. Họ quá ư là thuộc Kinh Thánh, họ biết Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu, nhưng biết để chỉ cho người ta đi kiếm, còn mình thì nằm nhà ! Khi nhắc đến các nhà thông luật này, Thánh Mát-thêu chắc có ý mắng khéo người Do Thái. Bởi vì khi ngài viết Tin Mừng thì đã là ba bốn mươi năm sau khi Chúa lên Trời. Khi ấy người ngoại lũ lượt theo Đạo, còn Dân Chúa, mà nhất là các nhà thông luật như Biệt Phái, Kinh Sư thì vẫn cứng lòng, tỉnh queo, cứ như lời hứa Đấng Cứu Thế vẫn còn bụi bám rêu phong chưa nhúc nhích. Mãi cho đến ngày nay, dân Do Thái vẫn còn chờ Đấng Cứu Thế đấy thôi.
Chắc cũng không có ai trong chúng ta như dân thành Giê-ru-sa-lem, nghe nói Chúa giáng sinh thì xôn xao ồn ào, “sôi như... Coca Cola”. Rồi sau đó HiểnLinh ABCmuốn đi tìm Chúa thì cứ việc đi, còn ta vẫn bình chân như vại. Dân Chúa mà như thế thì có khác chi dân ngoại ? Người bên lương cũng vui Noel, ồn ào đón mừng Chúa Giáng Sinh, lắm khi còn ăn to hơn cả Dân Chúa, và xong rồi thì thôi, chuẩn bị chơi tiếp Tết Tây, chẳng đi tìm Chúa làm gì !
Đại đa số chúng ta đều là những người vì ông bà cha mẹ đi Đạo nên mình cũng đi Đạo, chúng ta có phải đi tìm đi kiếm gì đâu. Lắm khi cũng có thể nói được rằng nếu mình sinh ra trong một gia đình bên lương thì chắc mình cũng là người lương chứ chẳng phải con nhà có Đạo. Lắm khi chúng ta giống cục đất sét, bố mẹ Đạo nắn ra ta thì ta có Đạo, còn bố mẹ bên lương nắn ra ta thì ta là người lương. Đời chúng ta gặp Chúa chẳng khác chi những mục đồng, có phải tìm tòi gì đâu mà cũng được gặp. Sinh ra trong một gia đình đi Đạo là một ân huệ Chúa ban nhưng-không, như những mục đồng đang đêm được Thiên Thần báo cho đi gặp Chúa, khác với HiểnLinh ABCphải lặn lội đường xá xa xôi, hỏi han đủ thứ.
Nhưng nếu chúng ta bằng lòng với tầm cỡ mục đồng thôi thì chúng ta cũng chỉ thấy Chúa cỡ sơ sinh thôi chứ chưa thấy Chúa đi rao giảng, chết và sống lại. Người ngoại cũng chỉ biết đến Lễ Giáng Sinh chứ họ có hiểu gì về Lễ Phục Sinh đâu. Thế nên, muốn là một tín hữu đi Đạo một cách trưởng thành, có thể “qua mặt” hay đứng vững được trước quan quyền gian ác như Hê-rô-đê, thì phải nâng cấp lên tầm cỡ Ba Vua, nghĩa là phải cất công đi tìm Chúa.
Tìm ở đâu ? Tìm trong thiên nhiên, Thiên Chúa khiêm tốn nép mình đằng sau các vì sao lấp lánh, sau một con chim sẻ hay một bông hoa dại ngoài đồng. Càng nhận ra trật tự lạ lùng trong trời đất thì càng thấy rằng phải có bàn tay nào đó xếp đặt, và bàn tay ấy quyền phép ngoài sức tưởng tượng của ta. Như HiểnLinh ABCđã thấy một ngôi sao lạ xuất hiện mà đoán ra rằng một quân vương vừa mới chào đời, Chúa cũng muốn chúng ta nhìn xuyên qua những biến cố xảy ra trên thế giới, trong đời ta, để thấy sự có mặt của Chúa. Có những người trong đời họ đã xảy ra những trường hợp mà bàn tay Chúa can thiệp rõ ràng đến độ khó mà phủ nhận được.
Tìm ở đâu nữa ? Thưa, nơi sự chia sẻ của người khác, giống như HiểnLinh ABCphải nhờ người khác chỉ đường. Thiếu nhi muốn tìm Chúa mà lười đi học Giáo Lý thì làm sao mà gặp được ! Các anh chị yêu nhau mà chỉ lo tiệc tùng quần áo chứ chẳng lo gì đến Giáo Lý Hôn Nhân, khi sao sáng thì dung dăng dung dẻ, đến khi sao hết sáng thì biết tìm Chúa nơi đâu mà cứu vãn gia đình mình.
Có người đã thắc mắc chẳng biết vì lý do gì mà Chúa lại không dẫn ba ông Vua đi một lèo tới hang đá cho rồi, lại còn phải quẹo vào Giê-ru-sa-lem làm chi cho thêm phần rắc rối. Xin thưa, ấy là vì Chúa muốn cho muôn người thuộc mọi thời đại ai cũng có một ngôi sao dẫn đường để đi tìm Chúa. Ngôi sao lạ kia là của HiểnLinh ABCthôi, chỉ đường cho HiểnLinh ABCxong rồi thì nó biến mất. Còn chúng ta đây, chúng ta muốn đi tìm Chúa thì đi theo ngôi sao nào bây giờ ? Rõ ràng là khi ngôi sao dẫn đường biến mất, HiểnLinh ABCphải nhờ đến Kinh Thánh mới biết Chúa sinh ra ở đâu.
Chúng ta bây giờ cũng thế, chúng ta đang ở trong tình trạng HiểnLinh ABCmất ngôi sao, vì thế cũng như Ba Vua, chúng ta phải nhờ đến Kinh Thánh mới biết Chúa ở nơi nào. Không một phương tiện nào đưa ta đến với Chúa hữu hiệu hơn Ngôi Sao Lời Chúa. Không một người nào nói cho ta biết về Chúa rõ ràng và chính xác hơn Lời Chúa. Những người giúp người khác đi tìm Chúa mà không mở Kinh Thánh ra thì coi chừng chỉ đường tầm bậy !
Hôm nay HiểnLinh ABCđến Bê-lem để gặp Chúa. Bê-lem có nghĩa là Nhà Bánh. Hôm nay chúng ta cũng đến Nhà Thờ này để gặp Chúa. Nhà Thờ này cũng là Nhà Bánh, Nhà của Bánh Thánh. HiểnLinh ABCđến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Chúng ta đến để thờ lạy Chúa Thánh Thể. HiểnLinh ABCcó quà cho Chúa. Còn chúng ta có cái gì không ? Hay chúng ta lại... vòi quà Chúa ?
Blaise Pascal có câu: “Nếu cái mũi của Cléopâtre ( nữ hoàng Ai Cập ) mà ngắn hơn một chút: HiểnLinh ABC109
Blaise Pascal có câu: “Nếu cái mũi của Cléopâtre ( nữ hoàng Ai Cập ) mà ngắn hơn một chút nữa thôi, thì cả bộ mặt trái đất này đã đổi khác rồi”. Hay là câu nói của Victor Hanson: “Với những chữ nếu, thì người ta đã bỏ gọn Paris vào trong một cái chai”. Cha ông Việt Nam ta khi nhìn những người cứ hít hà chắt lưỡi nuối tiếc dĩ vãng, đã nói: “Con cá sẩy bao giờ cũng là con cá lớn”. Tái Ông trong tích truyện cùng tên, không chấp nhận những suy nghĩ và thái độ sống như thế: Trong cái rủi có cái may và ngược lại. Cuộc đời cho ta những kinh nghiệm của Tái Ông, nhưng hành xử ra rao khi đối diện với cái rủi ro có lúc chẳng khác gì thảm họa, cũng như thái độ thế nào khi may mắn chợt đến, thì hình như đa số Ki-tô hữu chúng ta còn phải học rất nhiều ở Tái Ông.
Tái Ông không tin số phận. Tái Ông chẳng cần đến qá khứ. Tái Ông chỉ biết đón nhận cái thực tại đang xảy đến, rất bình tĩnh, rất minh triết, dù là màu hồng hay màu đen, bởi tin rằng nếu có gì “bất biến”, thì đó là con người, còn mọi biến cố, dù xán lạn hay u tối, rồi cũng sẽ qua đi. Hơn nữa, trong những lúc no nê thoả thích, con người cũng hãy chuẩn bị để không bị lung lạc khi đói khổ lầm than. Bài học lý thuyết mà ta thuộc lòng và vẫn gọi ấy, ở mức độ cao sâu hơn vô vàn, là lòng tin – cậy – mến ở ơn Chúa Quan Phòng. Nhưng thực hành các nhân đức này trong đời, dù chỉ một phần của người không biết Chúa như là Tái Ông, thì quả chẳng dễ dàng chút nào. Bài Tin Mừng Lễ Chúa Hiển Linh hôm nay nói lên điều ấy.
Trước hết là chuyện Ông Vua Hê-rô-đê: Nếu ông ta không quá mưu mô quỷ quyệt, song lại lười biếng, mà hành động ngay khi nghe tin về “vị vua mới sinh”; hơn nữa, khi “nói có sách, mách có chứng” như vậy, thì Chúa Hài Nhi khó mà chạy thoát và đã không có những bé thơ vô tội phải thiệt mạng. Đó còn là chuyện của ba nhà đạo sĩ: Không phải nghe theo đam mê mãnh liệt của “nghề” nhìn trăng sao mà đoán định việc trời đất, cũng không so đo hơn thiệt, không tính toán lợi ích, sức khoẻ, danh dự, mà chỉ muốn hành động ngay khi thấy Ngôi Sao Lạ. Đó là chuyện của các chức sắc “đạo đời” Do Thái, những kẻ mà theo cách nói của dân ghiền bóng đá ngày nay là “ăn cùng Kinh Thánh; ngủ cùngKinh Thánh; mơ với Kinh Thánh”, nhưng chẳng có đủ ước ao lẫn dũng khí để làm theo những gì được nói tỏ tường trong Kinh Thánh !
Đó còn là Giu-se và Ma-ri-a: có thể vui mừng cảm động khi thấy ba người đức cao vọng trọng sụp lạy trước Hài Nhi, nhưng không bám víu vào quyền năng Chúa để thách thức và chống trả sự ác, song sẵn sàng trẩy đi Ai Cập để tránh sự truy sát của Hê-rô-đê. Niềm tin, đức tin dạy chúng ta sống tròn đầy cái hiện tại ! Tái Ông – kẻ ngoại đạo thời xưa, chỉ có niềm tin, không có Đức Tin – luôn sống với hiện tại, cái “hic et nunc” ( ở đây và lúc này ), bởi biết rằng: bằng ấy thôi đã quá đủ cho một đời người.
Sau này khi rao giảng công khai, Chúa Giê-su cũng nói: ngày mai có ngày mai. Ngày nào đủ khổ cho ngày đó ! Quá khứ hết thuộc quyền của ta, muốn vớt vát cũng không được nữa ! Tương lai không thuộc về ta, lấy gì mà bảo đảm chắc chắn, trừ phi coi quá khứ như bài học giúp ta tránh sai lầm cho cái hiện tại và để ta cố gắng chuẩn bị tốt hơn cho cái tương lai ! Đó chính là ý nghĩa của câu Tin Mừng nói về thái độ sống của Mẹ Ma-ri-a: “Còn Đức Ma-ri-a thì giữ những điều ấy trong lòng và suy đi nghĩ lại”.
Cuối cùng, Chúa không Hiển Linh tình cờ, bởi Chúa đâu chỉ có hiển linh cho dân ngoại, cho người chưa tin, hay cho nhiều người lâu nay vẫn nghĩ và ca ngợi tình thương của Chúa ! Chúa vẫn đang và vẫn hiển linh cho... chúng ta: Hiển linh để cho tanhìn thấy mà tin cậy vào Chúa trong mọi thời khắc cuộc đời, trong mọi suy nghĩ và hành động, nhất là có đủ dũng cảm để quyết định và kiên trì với lựa chọn của mình khi biết đó là điều Chúa nói với ta. Có như thế, chúng ta mới hiểu thấu được ý nghĩa của truyền giáo chính là chúng ta giới thiệu Chúa Ki-tô, “giúp” Người hiển linh với tha nhân, với dân ngoại, bằng chính đời sống thực hành bác ái chân thành.
Có thể nói: chúng ta “hiển linh” thay cho Chúa. Nếu ( lại nếu ! ) một mai chúng ta không thể “hiển linh” như Chúa đã làm hôm nay với ba đạo sĩ nữa, thì ta phải đặt lại vấn đề Đức Tin và đời sống đạo đức của chính mình và cách tốt nhất không phải là chạy đến trước Chúa để đấm ngực cầu xin mà hãy nhìn anh em chúng ta, nhìn những người đang “hiển linh” cho mọi người bằng cuộc sống thực hành Phúc Âm gương mẫu, nhìn cả những Ki-tô hữu đang bằng lòng với danh lợi thế trần mà bỏ qua những đòi hỏi của Tin Mừng, sau cùng mới nhìn lại chính mình: Tôi là ai ? Tôi đã làm gì ? Tại sao tôi không thể, hoặc không còn có thể “hiển linh Chúa” cho tha nhân ?
Và rồi “giật mình, mình lại thêm thương nỗi mình” ( Kiều, Nguyễn Du ), vì rằng: Có khi lại phải cần đến ánh sáng... dân ngoại chiếu soi, “hiển linh” cho Ki-tô hữu là chính tôi !
Chúa Nhật 8 tháng 1 năm 2006, Giáo Hội Công Giáo mừng Lễ Hiển Linh hay Lễ Chúa Hiển: HiểnLinh ABC110
Chúa Nhật 8 tháng 1 năm 2006, Giáo Hội Công Giáo mừng Lễ Hiển Linh hay Lễ Chúa Hiển Linh, lễ trọng. Đúng ra, ngày Lễ vào 6 tháng 1 hằng năm, nhưng mừng vào Chúa Nhật, vì thế năm nay từ thứ sáu ( 6 tháng 1 ) dời sang Chúa Nhật ( 8.1.2006 ) kế tiếp; hoặc, nếu 6 tháng 1 sau thì dời vào Chúa Nhật trước, như năm 2003, Lễ Hiển Linh vào Chúa Nhật 5.1.2003. Trong Niên Lịch Phụng Vụ trước Công Đồng Vatican II ( 1962 – 65 ) hay trước thập niên 1970, Lễ Hiển Linh quen được gọi là Lễ Ba Vua. Như thế, tại sao và ý nghĩa thế nào ?
Để mở rộng hiểu biết góp phần tham dự vào ngày Lễ một cách ý thức, linh động và sốt sắng, người viết xin tóm lược đôi điều tìm hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa ngày Lễ.
NGUỒN GỐC:
Từ gốc tiếng Hy Lap “Epiphaneia”, Lễ có nghĩa xuất hiện, tỏ rõ ra, là ngày mừng “Hài đồng Giê-su được các nhà chiêm tinh hay đạo sĩ từ Đông Phương, thấy ngôi sao lạ xuất hiện, nên đi theo đến Giê-ru-sa-lem để kính viếng và bái lạy Người.” Tuy theo trích thuật Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu ( Mt 2, 1 – 12 ) chỉ nói “có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông” ( Mt 2, 1 ), nhưng các nhà nghiên cứu Thánh Kinh giải thích: các vị chiêm tinh hay đạo sĩ là lớp người trí thức, thuộc hàng tư tế và làm cố vấn cho nhà vua; họ đến từ Phương Đông, quê hương của dân ngoại Ba-la-am ( Ds 23 – 24 ). Căn cứ vào ba lễ vật “vàng, nhũ hương và mộc dược” mà các đạo sĩ dâng tiến lên Hài nhi Giê-su ( Mt 2, 11 ), các Giáo Phụ thường giải thích: vàng chỉ Hài nhi Giê-su là Vua; nhũ hương chỉ Thiên Chúa, và mộc dược ( để ướp xác ) chỉ nhân tính. ( x. Tân Ước, tr. 58 ). Ba lễ vật do ba vị tiến dâng, mỗi vị với tư cách một ông vua, như tiếng La-tinh “Tres Magi” có nghĩa là Ba Vua. Như lời Thánh Vịnh Đa-vít, HiểnLinh ABCtượng trưng cho dân ngoại được Thiên Chúa tỏ ra cho họ:
“Vua chúa Tác-xi và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật; vua chúa Sa-ba và Sê-ba sẽ đem triều cống lại chầu. Vua chúa hết thảy sẽ bái lạy ngài; tất cả muôn dân sẽ làm tôi ngài” ( Tv 72 ).
Thánh Truyền cho biết: “Khi bà Hê-lê-na ( 247 – 330 ), mẹ của hoàng đế Constantino, cùng trở lại đạo với đại đế ( khoảng năm 325 ), bà đã cho tìm kiếm và gặp xác của ba vị vua có tên là Men-ki-ô, Ban-ta-xa và Gát-pa ( Melchior, Balthazar, Gaspard ). Bà cho đưa hài cốt của HiểnLinh ABCvề thành Constantinople của đế quốc By-dăng-tin, và được nghênh tiếp trọng thể. Sau đó, Đức Cha Eustorgius, Giám Mục thành Milan, đã xin rước hài cốt của HiểnLinh ABCvề Giáo Phận của ngài. Đến năm 1162, vua Frédéric Barberousse chuyển hài cốt HiểnLinh ABCqua thành phố Cologne, tại Đức. Nơi đây, Đức Giám Mục Philippe de Heinsberg cho xây đền thờ cung kính có thể xem như một tuyệt tác mỹ thuật quí giá nhất thời Trung Cổ. Nghiên cứu còn cho biết về sau Ba Vua, lúc về già, lại được Thánh Tô-ma Đi-đi-mô hướng dẫn khi ngài truyền giáo ở Ba-tư, và họ trở lại Đạo Chúa, Thành Tông Đồ Ki-tô giáo.” ( Từ điển Imago Mundi, 1-2 ).
Tháng 8 năm 2005, tại Cologne, Đức, nơi có hài cốt Ba Vua, Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX được tổ chức từ 15 đến 20 tháng 8, có Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI đến dự và chọn chủ đề “Chúng tôi đến bái lạy Người” ( Mt 2, 2 ) như lời mấy nhà đạo sĩ nói với vua Hê-rô-đê.
Ý NGHĨA:
Từ thời Giáo Hội tiên khởi, trước thế kỷ 4, lễ được các Ki-tô hữu mừng vào 6.1 để kính nhớ hai sự kiện về xuất hiện linh thiêng của Ngôi Lời cứu thế: Xuất hiện bằng nhục thể sinh ra trong hang đá và xuất hiện Ngôi Hai của Ba Ngôi Thiên Chúa, gọi chung là Lễ Chúa Hiển Linh. Vì ngày lễ có nguồn gốc Đông Phương, nên các Giáo Hội Phương Đông, đặc biệt là Giáo Hội Chính Thống ( Orthodox Church ) lấy ngày 6.1 làm Lễ Chúa Giê-su Giáng Sinh. Theo Lịch Phung Vụ Chính Thống 6.1.2006 là Lễ Giáng Sinh và 19.1 mới là Lễ Ba Vua, cũng 13 ngày, từ 6 đến ngày 19.1.2006, như Công Giáo từ 25.12.2005 đến Lễ Hiển Linh 6.1.2006. Hôm nay, người Công Giáo cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đã dùng ngôi sao dẫn đường mà tỏ cho muôn dân biết Con Một Chúa, xin Chúa thương ban cho chúng con, sau khi đã biết Chúa nhờ Đức Tin, thì cũng được dẫn đến chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa”.
Ngôn Sứ I-sa-i-a hân hoan “vì sự sáng của ngươi đã tới và vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi” ( Is 30, 1 ). Thánh Phao-lô xác tín: “Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giê-su Ki-tô” ( Ep 3, 6 ). Qua Tin Mừng, chúng ta được nghe Thánh Mát-thêu tường thuật việc các nhà đạo sĩ tìm kiếm và gặp Chúa ( Mt 2, 1 – 12 ).
Tham dự Lễ Hiển Linh 2006, xin các giáo hữu Công Giáo hiệp thông với anh em Chính Thống Giáo đón mừng Chúa Giê-su Giáng Sinh, để tất cả Ki-tô hữu cùng hường đến Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Ki-tô hữu, từ 18 đến 25.1.2006 sắp tới đây.
Sống đạo thời vi tính, khoa học là sống trọn niềm tin yêu nơi Đức Chúa cùng với các khoa học: HiểnLinh ABC111
Sống đạo thời vi tính, khoa học là sống trọn niềm tin yêu nơi Đức Chúa cùng với các khoa học gia, lịch sử. Sống với khoa học gia và lịch sử là sống có lập trường chắc nịch về những gì liên quan đến khoa học, lịch sử. Dù cho, có là khoa học thiên văn hay nhân chủng. Dù cho, có là lịch sử nhân loại hay lịch sử cứu rỗi, cũng vẫn thế. Vẫn cứ “đầu cao, mắt sáng”, chẳng sợ gì.
Vừa qua, một số khoa học gia Đạo Chúa đã tìm cách có được một luận cứ vững vàng để giải thích hiện tượng “vì sao lạ” dẫn đường chỉ lối cho các Đạo Sĩ đến được làng Bét-lem nhỏ bé. Phần đông trong họ, đi đến luận cứ khá phức tạp về thiên văn học, quyết lý giải sự kiện “vì sao lạ” nào đó đã xuất hiện vào thời Đức Giê-su hạ sinh. Dù bị lôi cuốn vào cách lý luận của mấy khoa học gia theo loại này, tôi vẫn tự hỏi sao các vị ấy cứ đặt mình trong tình huống gây nhiều rắc rối đến thế. Bởi, “vì sao lạ” nói đến trong Tin Mừng Thánh Mát-thêu chẳng dính dáng gì đến thiên văn, địa hội của một ai. Đây chỉ là lối ghi nhanh về một sự kiện tôn giáo nhằm diễn tả sự thể là Trời cao vẫn làm chủ. Vẫn hướng dẫn các hiện tượng xảy đến với thế giới nhân trần. Rất đơn giản. Chỉ thế thôi.
Hình ảnh về một “vì sao lạ” cũng được sử dụng theo cách tương tự trong các sách Khởi Nguyên, Dân Số, Ngôn Sứ I-sai-a và Thánh Vịnh. Toàn bộ các lễ hội mùa nay đều mang tính biểu trưng, không nhất thiết là khoa học. Đầu thế kỷ thứ 3, chính Hippolytus cũng đã làm công việc ghi nhanh sự kiện tôn giáo tương tự như thế. Lúc ấy, là ngày thứ 12 sau Giáng sinh, cộng đồng dân Chúa đã long trọng cử hành lễ hội tưởng nhớ này. Con số 12 tự nó đã là âm vang dội lại hành vi tốt lành của Thiên Chúa trong công cuộc tạo dựng vạn vật và tái tạo chúng ta.
“Vì sao lạ” dẫn đường Đạo Sĩ được sử dụng theo cùng một cung cách tực hồ hình ảnh khác ở Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu. Chú ý đến trọng tâm 3 chương đầu của Tin Mừng này, người đọc sẽ nhận ra được những biến cố khác thường. Ở chương nhất, ta thấy Thánh Giu-se đã nhận được thông điệp từ vị Thiên Sai tỏ bày cho ngài biết về công trình của Đức Chúa thể hiện trong giấc mộng, không bình thường. Tới chương hai, ta lại thấy xuất hiện các Đạo Sĩ từ phương Đông đã dõi bước theo ánh sao chỉ đường. Vào chương ba, thì bầu trời trên cao đã rộng mở. Và, Đức Chúa đã có lời phán dạy nhân lúc Đức Ki-tô chịu thanh tẩy. Dựa theo tiêu chuẩn nào đi nữa, câu chuyện ở đây cũng tương tự như phần mở đầu cho một tiểu sử lớn. Đây hẳn là mặc khải tỏ bày – còn gọi là Hiển Linh – về vinh quang Đức Chúa lâu nay soi rọi thế giới loài người.
Nhìn kỹ hơn, sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa đã tỏ hiện nơi nào. Cho người nào. Nhìn vào đó, ta sẽ thấy rõ ràng tín hiệu đầu tiên gửi đến với Giu-se khi thánh nhân đang trong cơn thiếp ngủ. Sự kiện thứ hai được diễn lộ cho các nhà chiêm tinh, khác đạo. Để rồi các vị ấy cũng sẽ tường thuật lại cho bạo chúa Hê-rô-đê biết, hầu lập tức khơi dậy một đe doạ, đối đầu dẫn đến Đức Giê-su Ki-tô. Sự kiện thứ ba, đích thị để gửi đến thường dân Do thái đang lũ lượt kéo nhau đi nghe Gio-an Tẩy Giả giảng thuyết. Nội dung 3 chương sách của Tin Mừng cho thấy ánh vinh quang của Đức Chúa, thể hiện nơi con người Đức Giê-su Ki-tô, đã công khai đến với hết mọi người. Từ đó, sự việc ấy sẽ chuyển đổi cuộc sống mỗi người, mọi người. Trong đó, riêng cuộc đời của Thánh Giu-se, các chiêm tinh gia, Gio-an Tẩy Giả và những ai có diễm phúc được nghe Giê-su Đức Chúa dẫn dạy. Như thế, tất cả sẽ kông còn ở vị trí cuộc đời như trước nữa.
Lễ Hiển Linh tuyệt nhiên không là phóng tác thuật truyện về sao chổi Halley. Nhất định là không. Đây là lễ hội mặc khải cho mọi người biết: vinh quang của Đức Chúa đã tác động làm đổi thay tâm can con người. Nhà thơ Thomas Stearns Eliot người Mỹ ( 1888 – 1965. Ảnh chân dung kèm theo ) đã nhận ra điều này khi ông có những lời thơ tuôn chảy trong tập truyện với nhan đề “The Journey of the Magi – Hành trình Đạo Sĩ Phương Đông” như sau:
“Hạ Sinh hay Chết Chóc ? Chắc chắn là Hạ Sinh, đủ chứng cứ, sao vẫn còn ngờ vực. Ta chứng kiến nhiều hạ sinh cũng như lịm chết, vẫn tưởng rằng mọi sự đều khác biệt. Hạ Sinh này gay go, tựa hấp hối, cũng chua cay tựa hồ cơn Chết lịm. Lại trở về khung trời Thiên Quốc ấy, nào dễ dầu nơi cơ cấu ngàn xưa nơi người dân bắt chụp toàn ngẫu tượng sẽ vui vầy với cái chết nào đây.”
*******
“Birth or Death ? There was a Birth, certainly, We had evidence and no doubt. I have seen birth and death, But had thought they were different; this Birth was Hard and bitter agony for us, like Death, our death. We returned to our places, these Kingdoms, But no longer at ease here, in the old dispensation, With an alien people clutching their gods. I should be glad of another death”.
Nếu quả có như thế, thì mong rằng vào đại lễ này, chúng ta sẽ thay đổi được tâm can. Một thay đổi giúp ta chết đi cho chính mình. Để rồi sẽ lại tái sinh trong vinh quang của Đức Chúa. Chết đi, ngõ hầu ánh sáng quang vinh Chúa luôn chiếu rọi tâm hồn mọi người trong chúng ta. Cũng, cầu mong cho mỗi người ghi nhớ được rằng lễ Hiển linh không chỉ có nghĩa với riêng mình, đơn độc. Nhưng, lễ hội này còn nhắc ta cố gắng công khai đến thẳng với mọi người. Đem tin vui chứng tỏ cho họ thấy niềm tin yêu ta vẫn có. Hiển linh còn là đại lễ giúp ta đem cuộc sống thực tế chứng minh cho mọi người thấy rằng: chúng ta đã kiến tạo nên thế giới hiện sinh này; và, chúng ta vẫn nỗ lực tái tạo lại thế giới ấy, để nó không còn lầm đuờng, lạc lối nữa.
Cử hành mừng lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta quyết tái tạo một thế giới chỉ chú ý đến khoa học, vật chất. Cái thế giới chỉ để tâm đến những gì mang tính lịch sử. Thứ khoa học và lịch sử gồm toàn gỗ, đá. Tuyệt nhiên không có đến niềm tin, yêu. Thiếu thốn cả tình người.
Lm. Dã Sơn Minh Cát ( Úc ), bản dịch của MAI TÁ ---------------------------------
Lễ Hiển Linh hay cũng được gọi là Lễ Ba Vua, nhắc lại sự kiện ba Đạo Sĩ từ bên Phương đông: HiểnLinh ABC112
Lễ Hiển Linh hay cũng được gọi là Lễ Ba Vua, nhắc lại sự kiện ba Đạo Sĩ từ bên Phương đông đã nhìn thấy ngôi sạo lạ xuất hiện trên khung trời thuộc vùng đất quê hương họ và rồi tin tưởng lần mò theo ánh sao lạ đó hướng dẫn, họ đã tìm gặp được Ấu Chúa Giêsu trong máng cỏ Bethlem để thờ lạy.
Chắc chắn rằng, năm xưa vào đêm ngôi sao lạ xuất hiện, không phải chỉ có ba Đạo Sĩ là nhhũng người duy nhất mới nhìn thấy ngôi sao lạ mà thôi, nhưng còn có biết bao nhiêu người đồng thời cũng nhìn thấy ngôi sao đó nữa. Nhưng ngoài ba vị Đạo Sĩ, tất cả những người khác đều không nhìn thấy gì đặc biệt nơi ngôi sao lạ. Đối với họ, đêm đó cũng như bao nhiêu đêm đầy sao khác, đã qua đi theo chu kỳ xuay vần của vũ trụ, và họ cảm thấy không có gì cần phải quan tâm tới. Trái lại, ba Đạo Sĩ lại tìm thấy nơi ngôi sao lạ một tín hiệu, một điềm báo đặc biệt, một sứ điệp quan trọng cho đời họ. Đó chính là điểm khác biệt ! Đó chính là sự nhạy cảm của tình yêu và niềm xác tín nơi những người có con mắt đức tin. Vâng, các Đạo Sĩ không chỉ dừng lại nơi những sự kiện xảy ra trước mắt, không chỉ nhìn thấy nơi ngôi sao đêm hôm đó chỉ là một ngôi sao như bao ngôi sao khác đang lấp lánh trên bầu trời, cũng như sau đó không chỉ nhìn thấy đứa bé sơ sinh đang nằm trong máng cỏ là một bé sơ sinh như bao bé sơ sinh khác, nhưng các vị đã nhìn thấu và đã khám phá ra phía sau những sự kiện cụ thể trước mắt là những thực tại siêu việt và sâu nhiệm khác.
Cũng như trong cái mĩm cười của một người, chúng ta không chỉ nhìn thấy những thớ thịt co giãn trên khuôn mặt người ấy, nhưng còn ghi nhận phía sau những hiện tượng thể lý đó là một sự biểu lộ tình yêu và sự hạnh phúc vui sướng của một con người.
Đúng vậy, tất cả các sự kiện xảy ra trong cuộc đời này đều có khuôn mặt và sứ mệnh riêng của chúng: cuộc sống của chúng ta, những cuộc gặp gỡ, những kinh nghiệm sống, v.v… Không có gì là tình cờ ngẫu nhiên hay vô nghĩa cả. Và đương nhiên trong các biến cố buồn vui của cuộc đời, rất có thể đã từng xuất hiện một ngôi sao lạ nào đó soi đường chỉ lối cho chúng ta. Nhưng tiếc thay, chúng ta thường chỉ trông thấy ánh sáng và đường di chuyển của ngôi sao, mà lại không nhận ra được ý nghĩa và dấu chỉ của nó, không nhận ra được những tín hiệu quan trọng nhắm gửi cho chúng ta. Chúng ta đúng là những người « có tai mà chẳng nghe, có mắt mà chẳng nhìn thấy ». Như thế, thêm một cơ hội tốt nữa cho cuộc đời lại qua đi ! Trong khi đó, các Đạo Sĩ lại không chỉ nhìn thấy nơi ngôi sao như một thiên thể cứ theo chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ: mọc lên rồi lại lặn đi, nhưng các ngài đã nhận ra nơi ngôi sao cả một lời kêu gọi, một lời mời mọc và cả một mặc khải sâu xa dành cho họ!
Nhưng một sự mạc khải hay một tín hiệu được ẩn dấu trong cũng như sau những sự kiện trước mắt như thế, rất cần đến những con người luôn biết mở rộng tâm hồn và cuộc đời mình để đón nhận những sứ điệp siêu nhiên. Các Đạo Sĩ đã chổi dậy và lên đường ra đi. Họ ra đi vì họ đã biết mở rộng tâm hồn mình cho sự xuất hiện của Cứu Chúa muôn dân, cho các đường lối của Người. Họ cũng lên đường và ra đi, vì họ nhận ra được tín hiệu qua ngôi sao lạ và tin tưởng bước theo ánh sao lạ hướng dẫn. Ngôi sao lạ đã không những xuất hiện trên bầu trời, nhưng còn xuất hiện trong tâm hồn họ, soi sáng và sưởi ấm tâm trí họ và họ đã hăng hái lên đường để được sống những giờ phút của ngôi sao đời mình tại Giê-ru-sa-lem !
Còn những người đồng thời khác của các ngài ở lại nhà, để thà hưởng một giấc ngũ dài còn hơn là vất vã mạo hiểm vô ích. Đối với họ việc tìm hiểu và giải đáp những vấn nạn về ý nghĩa cuộc đời, sự cứu rỗi và sự sống siêu việt của con người chỉ là những điều thừa thải, không quan trọng. Đối với họ, điều quan trọng là cuộc sống hiện tại và những gì đang nắm chặt trong tay. Thế giới loài người vẫn cứ vậy, như bao giờ, không chút đổi thay. Thế giới đã không hề thay đổi và cũng sẽ không bao giờ thay đổi. Chỉ vài ba người nào đó mới biết can đảm chổi dậy, thoát ra khỏi sự ù lì nhàn nhã của những thói quen đời thường, để lên đường bước theo ngôi sao đời mình, tiến về Bê-lem của ơn sủng, tiến về chân trời cứu rỗi !
Còn bạn và tôi, chúng ta có đủ khôn ngoan và can đảm để nhìn lên ánh sao đời chúng ta và bước theo nó, để cuối cùng chúng ta sẽ tìm gặp được ý nghĩa và sự sung mãn của đời mình như ba Đạo Sĩ xưa, chứ không để lỡ cơ hội tốt một lần nữa ? Nói cách khác, chúng ta có cương quyết đổi mới đời mình không ? Chúng ta có dứt khoát nối lại nhịp cầu giữa chúng ta và Thiên Chúa, giữa chúng ta với mọi anh em đồng loại, nhất là với những người nghèo đói, cơ cực, và những người bị kỳ thị, bị khinh rẽ, nói tắt là những người sống bên lề xã hội, đã từng bị tội lỗi đánh đổ hay không ?
Ngôi sao lạ đời chúng ta vẫn luôn tỏa sáng và đang chờ chúng ta bên ngoài « dinh hê-rô-dê » của lòng ích kỷ hẹp hòi, của hận thù và ghen ghét, của một cuộc sống thiếu ơn thánh Chúa, v.v… để tiếp tục hướng dẫn chúng ta tìm gặp được Cứu Chúa nơi máng cỏ của tình thương huynh đệ. Chúc bạn luôn nhận diện được ngôi sao lạ của đời bạn và các tín hiệu của nó !
Tôi nghĩ bạn đã biết rồi, lễ Hiển Linh là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, cho toàn thể: HiểnLinh ABC113
Tôi nghĩ bạn đã biết rồi, lễ Hiển Linh là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, cho toàn thể thế giới biết đến Ngài và đến thờ lạy Ngài.
Nhưng tôi lại cứ thắc mắc là tại sao những nhà chiêm tinh, những nhà khoa học, những nhà thiên văn học người Do Thái ở gần ngay Bethlehem lại không khám phá ra sự xuất hiện của ngôi sao lạ mà chỉ có ba nhà chiêm tinh ở tận bên Phương Đông thấy mà thôi?
Có phải những nhà chiêm tinh ở Phương Đông thông minh, nhạy bén và tinh mắt hơn những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn học người Do Thái chăng? Tôi không nghĩ như vậy!
Thế nhưng sau khi đọc qua đoạn Kinh Thánh của thánh Matthew kể về cuộc hành trình của ba nhà chiêm tinh tới Bethlehem thì tôi mới khám phá ra một lý do khiến Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh ngoại giáo tận bên phương Đông: Đó là sự ĐƠN SƠ.
Mời bạn cùng với tôi đọc vài đoạn trong bài Phúc Âm của thánh Matthew để thấy sự ĐƠN SƠ của ba nhà chiêm tinh gia như thế nào nhé!
• Khi ngôi sao đột nhiên biến mất, khi các ngài mất sự hướng dẫn của ánh sao thì họ đã đi vào hoàng cung để hỏi vua Herod đang trên ngai vàng rằng: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2:2). Bạn thấy ba nhà chiêm tinh của chúng ta có đơn sơ không? Có ai lại đi hỏi vị vua đang trị vì dân Do Thái rằng vua mới sinh ra của dân Do Thái ở đâu không? Hỏi như vậy thì có khác nào nói với Herod rằng Hài Nhi kia mới là vua đích thực của dân Do Thái, còn ông là vua. .. giả mạo! Mất chỗ đeo giây chuyền như chơi chứ bộ!
• Khi nghe vua Herod dặn dò “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người" (Mt 2:8), thì ba vị chiêm tinh gia lập tức tin vua Herod như tin kinh Tin Kính vậy! Bạn nghĩ thử xem, nếu ba nhà chiêm tinh, sau khi chứng kiến cảnh “nhà vua … triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu” (Mt 2:2) và thấy thái độ bối rối của ông ta, sau đó lại đổi giọng ngọt ngào nói rằng "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." thì các ông phải biết rằng đó là một âm mưu có dụng ý xấu chứ? Đàng này các ông phải đợi cho đến lúc thiên thần báo mộng thì lúc đó mới vỡ lẽ ra âm mưu ác độc của vua Herod và mới “tìm lối khác mà về xứ của mình” (Mt 2:12) thì quả thật, quả thật họ quả là quá đơn sơ!
• Chưa hết, khi ba nhà chiêm tinh đến gặp Hài Nhi nằm trong máng cỏ cùng với bà mẹ trẻ quê mùa, tầm thường, họ liền “sấp mình thờ lạy Người… mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến [Hài Nhi]” (Mt 2:11). Bạn cứ ngẫm nghĩ thử mà xem, đường đường là những người có thế giá và địa vị cao trong xã hội (wise men, kings, astrologers...) mà họ lại phủ phục sấp mình trước một đứa bé mỏng manh, yếu đuối cùng với một bà mẹ quê mùa trong một khung cảnh nghèo xơ nghèo xác và hôi hám bẩn thỉu toàn mùi bò, lừa. Ba vị chiêm tinh gia của chúng mình cũng chẳng hề nêu thắc mắc, cũng chẳng đặt vấn đề hay lý luận “Con vua mà sao không có lính gác, vua chúa gì mà nghèo te tua như vậy?...” thì bạn thấy tâm hồn của họ có đơn sơ không? Đơn sơ quá đi chứ lại!
Thế còn tôi và bạn thì sao? Trên hành trình đức tin đi tìm Chúa, chúng mình đã có được một tâm hồn đơn sơ giống như ba nhà chiêm tinh xưa không? Khó trả lời quá phải không bạn? Thật vậy!
• Khi tôi gây bè, kéo cánh, kiếm cách hạ nhục, làm mất danh dự, bôi bác, vu oan cáo vạ, hoặc kiếm cách khống chế người khác thì lúc ấy sự đơn sơ không hề có trong tôi.
• Khi tôi lợi dụng bục giảng, dùng nó như là một khẩu đại bác để pháo ông này, bắn bà nọ, độp anh chị kia... thì lúc ấy sự đơn sơ của tôi đã bị bắn ra khỏi tâm hồn mất rồi!
• Khi tôi mở miệng nói những lời nói có ẩn ý xấu, châm chích người này, chia rẽ người kia, gây hiểu lầm, gây đau khổ cho người nọ… thì khi ấy, sự đơn sơ đã từ giã tôi ra đi không kèn, không trống!
• Khi tôi ghen tương, tị hiềm, gian dối, lừa bịp, mánh mung, mạt sát, hạ nhục, văng tục, chửi thề, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, đánh con, đập vợ, chửi chồng, hỗn láo, bất hiếu với cha mẹ, ăn nhậu, bài bạc, bê trễ việc bổn phận … thì đó là dấu chỉ đời sống của tôi chẳng đơn sơ chút nào cả.
Bạn thân mến, Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho những ai có tấm lòng đơn sơ, hiền hậu và khiêm hạ mà thôi! Chính Chúa Giêsu đã nói:
• “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ [tức là sống đơn sơ], thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18:3).
• “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Luke 10:21).
Vâng thưa bạn, chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ và ngay chính mới được nhìn thấy Chúa bởi vì chính Thiên Chúa là mẫu gương của sự đơn sơ: Nơi Ngài hạ sanh, căn nhà Ngài trú ngụ, khi Ngài đi rao giảng, nơi Ngài chịu tử nạn, nấm mồ chôn Ngài... Hỏi thử có ai sống và chết đơn sơ như Chúa Giêsu không?
Khi bạn và tôi sống đơn sơ, thành tâm và trung tín trong việc đi tìm Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ tỏ mình ra cho tôi và bạn thấy rõ sự hiện diện của Ngài trong từng biến cố vui buồn của cuộc đời.
Thế nhưng, thú thật với bạn, sống một đời sống đơn sơ giữa một thế giới đầy dẫy những phức tạp và đảo điên này thì không phải là một chuyện đơn giản! Bạn và tôi sẽ phải trả một giá khá đắt đấy! Người ta sẽ cười nhạo, chê bai chúng mình là khờ khạo, khinh thường và nhìn chúng mình bằng những ánh mắt không mấy thân thiện. Thế nhưng xin bạn đừng quên những người sống đơn sơ và khiêm nhu là những người hạnh phúc, họ sẽ gặp nhiều sự lành lắm. Thật đấy! Người có tâm hồn đơn sơ thì...
• Ít có kẻ thù, ai mà lại để bụng và chấp mấy người sống quá đơn sơ và bị coi là khờ khờ chứ?
• Sống trong an vui và hạnh phúc bởi vì người có tâm hồn đơn sơ không phải mệt óc lo cho những chuyện trả thù, trả đũa và chẳng để bụng giận dỗi ai cả, nằm xuống là. .. ngủ.
• Được Thiên Chúa yêu thương và ban cho khả năng nhận ra sự hiện diện của Ngài trong những biến cố vui buồn, trong những thăng trầm khổ ải và cả trong những biến đổi đau thương của cuộc sống.
Bạn có muốn sống đơn sơ không? Hãy tập ngay từ bây giờ đi. Chúng mình hãy tạo cho mình một lối sống càng đơn sơ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu:
• Trong cách ăn nếp ở:
- Đừng đua đòi, bon chen, đừng mua sắm những loại quần áo cầu kỳ, sang trọng đắt tiền! Đừng mua sắm xe đẹp, nhà to, tàu thuyền xịn chỉ vì muốn người ta khen ngợi.
- Đừng kén ăn, đừng chê bai những món ăn do chồng, do vợ, do cha mẹ, ông bà đã vất vả nấu nướng dọn trên bàn ăn. Cũng đừng lãng phí sức khỏe và tiền bạc cho những chai rượu mạnh đắt tiền, hay dùng những món ăn cao lương mỹ vị nơi những nhà hàng sang trọng!
• Trong cách giao tiếp:
- Đừng ba hoa bốc phét, đừng nổ văng miểng, đừng nói những lời mỉa mai, chua cay, châm chích, đay nghiến... Nói năng đơn sơ thôi, đừng nịnh hót, đừng bợ đỡ ca tụng người khác nhưng trong lòng thì không ưa họ.
- Đừng thêm đừng bớt, đừng bịa đặt thêm mắm thêm muối, đừng cho thiên hạ ăn bánh vẽ với thịt lừa nhưng “hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không” (Mt 5:37).
- Đừng khoe khoang, đừng ngạo mạn trong những lúc thành công, khi được người khác khen ngợi, tán tụng... nhưng hãy thưa với Chúa một cách thật đơn sơ: “Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô duyên, chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi!” (Luke 17:10).
- Khi lầm lỡ, lúc phạm phải những lỗi lầm xúc phạm đến chồng, vợ, cha mẹ, con cái, tha nhân. .. bạn hãy chân thành nói lên hai tiếng XIN LỖI. Khi phạm tội, hãy chạy ngay đến với Chúa qua bí tích Giải Tội và đơn sơ nói với Ngài: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha” (Luke 15:18).
Cầu chúc bạn thành công trong việc tập luyện sống một đời sống đơn sơ. Nếu chúng mình cậy trông vào ơn Chúa và cố gắng luyện tập thì chắc chắn sự đơn sơ sẽ ở với chúng mình bởi vì “Con người do Thiên Chúa làm nên, vốn [rất] đơn sơ [và] ngay thẳng...” (Giảng Viên 7:29). phamtinh@yahoo.com
Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước: HiểnLinh ABC114
Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.
Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ, bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và gặp gỡ Chúa.
Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?
Bên hang đá Chúa giáng sinh hình ảnh chiên bò cừu lừa với các mục đồng rất quen thuộc thân: HiểnLinh ABC115
Bên hang đá Chúa giáng sinh hình ảnh chiên bò cừu lừa với các mục đồng rất quen thuộc thân thương. Nhưng hình ảnh hai ba chú Lạc đa, có lẽ thời đó do HiểnLinh ABCcưỡi băng qua sa mạc vùng Trung đông mang tới, không những làm tăng vẻ sống động nhộn nhịp quang cảnh hang đá mà còn nói lên phần nào ý nghĩa cho ngày lễ, cho đời sống nữa.
Vậy Lạc đà bên hang đá Chúa giáng sinh có thể nói gì với chúng ta?
Đi tìm Chúa.
Lạc đà là loài thú vật, có thể nói là đặc biệt sống bên vùng trời Trung Đông và phía bắc Phi châu, nơi có nhiều bãi cát sa mạc. Lạc đà là con vật dùng để di chuyển, chuyên chở trong vùng sa mạc cát nóng. Ngày xưa HiểnLinh ABCtừ Phương Đông xa xôi đi tìm đến hang đá Chúa sinh ra, có thể cũng đã sử dụng con vật này đi đường. Lạc đà vì thế là con vật dẫn đường đi tìm Chúa.
Lạc đà là loài thú vật sống trong vùng sa mạc hoang vu tĩnh mịch, nơi con người cũng đến sống tìm Chúa: ngày xưa Maisen, các Ngôn sứ , rồi Thánh Gioan Tiền Hô đã từng sống trong sa mạc hoang vu yên tĩnh chay tịnh tìm Chúa. Chúa Giêsu sau này cũng đã trải qua 40 đêm ngày trong sa mạc cầu nguyện với Thiên Chúa. Theo những gương đó nhiều vị Thánh và những nhà Dòng khổ tu khó nghèo trong Hội Thánh thường tìm đến sống ẩn dật trong nơi vắng vẻ yên tịnh để tìm Chúa.
Hình ảnh chú Lạc đà cao lớn hiền hòa, không đòi hỏi về đồ ăn nước uống, nhu cầu xa xỉ, bước đi trên bãi cát nóng bỏng ngoài sa mạc là hình ảnh sống động gương mẫu cho các người sống đời ẩn tu khó nghèo đơn giản, muốn sống đời yên tịnh đi tìm Chúa. Và ngay cả chúng ta, nếu muốn tìm Chúa, cũng phải tìm đến nơi yên tĩnh. Chúa không ở nơi ồn ào với âm thanh náo động.
Qùy gối bái phục
Lạc đà khi chuyển vận người hay đồ vật tới đích điểm, theo lệnh của chủ, hai chân trước từ từ gập gối qùy xuống mặt đất, đoạn đến hai chân sau. Có vậy người có thể leo lên hay leo xuống hay hàng hóa được chất dỡ bốc lên xuống. Qùi gối là hình ảnh một thói quen tập tục rất tốt lành: một tâm hồn khiêm nhường.
Ba Vua: Caspar, Melchior và Balthasar khi bước vào hang đá cũng qùi gối xuống, từ từ mở hộp đựng Vàng, Mộc dược và Nhũ hương dâng kính tặng Hài Nhi Giêsu. HiểnLinh ABCkhông nói gì, không xin gì. HiểnLinh ABCtìm thấy Chúa là đủ rồi. HiểnLinh ABCqùy gối cúi mình trước Chúa Giêsu là vị Vua mới sinh. Đó chính là cung cách thờ lạy Chúa của người có lòng khiêm nhường trước Thiên Chúa, Đấng tối cao của đời sống.
Đời sống cộng đoàn
Lạc đà sống theo đàn. Chúng di chuyển từng đoàn chung với nhau xuyên qua sa mạc, mà người tây phương đặt tên là Caravan. HiểnLinh ABCtìm đến Hài Nhi Giêsu cũng đi chung với nhau. Họ không đi một mình. Đây cũng là hình ảnh cộng đoàn Hội Thánh của Chúa ở trần gian: tất cả mọi người cùng di chuyển chung đi tìm Chúa.
Trên đường đi tìm Chúa, mọi người cần nhau, mọi người cùng nâng đỡ nhau. Hình ảnh dấu chân HiểnLinh ABCngày xưa cùng cỡi lạc đà vượt đường xa đến hang đá tìm Chúa nói lên lòng hăng say phấn khởi của họ: Chúng tôi muốn đến thờ lạy Người!( Mt 2,2)
Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh đều là những biến cố tỏ bày VINH QUANG CỦA THIÊN: HiểnLinh ABC116
Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh đều là những biến cố tỏ bày VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA. Trước hết là với dân riêng Ít-ra-en. Kế đến là với các dân tộc khác mà chúng ta thường gọi là dân ngoại. Thật ra thì không có dân tộc nào là ở ngoài Lòng Yêu Thương bao la và vĩnh cửu của Thiên Chúa cả. Còn nếu chúng ta muốn phân biệt “kẻ trong”/“người ngoài” thì chúng ta đừng quên rằng “người ngoài” đáng kể hơn “kẻ trong”. Đó chính là ý nghĩa Lễ Hiển Linh hôm nay. Các bài đọc Thánh Kinh sẽ giúp chúng ta thấy rõ điều ấy!
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Is 60, 1- 6: Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem.
1 Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. 2 Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. 3 Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. 4 Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. 5 Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. 6 Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng ĐỨC CHÚA.
(2) Bài đọc 2: Ep 3, 2- 3a. 5-6: Thánh Phao-lô là người phục vụ mầu nhiệm Đức Ki-tô. 2 Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. 3 Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. 5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. 6 Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
(3) Bài Tin Mừng: Mt 2, 1-12: Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giê-su Hài Nhi.
1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 6 "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời."
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Is 60,1-6) là những lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a nói về cảnh huy hoàng của thành Giê-ru-sa-lem trong ngày “thần hiện” (Epiphania) tức ngày Thiên Chúa tỏ mình ra. Cảnh huy hoàng phải được hiểu theo nghĩa tôn giáo và tâm linh nên chỉ bằng cái nhìn đức tin, chúng ta mới cảm nhận được vẻ huy hoàng ấy.
Trong đoạn Is 60,1-6 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương Dân riêng của Người như thế nào khi Người có cả một kế hoạch tuyệt vời từ đời đời để biến Giê-ru-sa-lem thành trung tâm của cuộc tập họp của các dân, các nước trong vui mừng hân hoan không sao tả hết. Thành Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho Dân Chúa (là Ít-ra-en cũ và mới) và cho từng tâm hồn, từng cộng đoàn tôn thờ Thiên Chúa.
(2) Bài đọc 2 (Ep 3,2-3a.5-6) là những dòng viết tuyệt vời của Thánh Phao-lô Tông đồ, về kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa là mạc khải từng bước Chương Trình Cứu Độ của Người.
Qua đoạn thư Ep 3, 2-3a.5-6 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa có Tình Yêu bao la và là Đấng Quan Phòng kỳ diệu. Thiên Chúa biết con người có nhiều giới hạn về không gian, thời gian, về trình độ văn hóa và tâm linh, nên Ngài tỏ mình ra cách tiệm tiến và có tiến trình đàng hòang cho phù hợp với trình độ tiếp nhận của con người.
(3) Bài Tin Mừng (Mt 2, 1-12) là tường thuật về một biến cố “rất quan trọng” đã xẩy ra trong những ngày đầu đời của Chúa Giê-su. Biến cố này có thể nói là trọng tâm và là cùng đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể: Thiên Chúa mạc khải mình cho dân ngoại.
Thật vậy, qua đoạn Phúc Âm Mt 2,1-12 này, Thiên Chúa là Chúa không chỉ của riêng dân tộc Do Thái mà của hết mọi dân tộc trên mặt địa cầu này. Các nhà chiêm tinh Phương Đông được mạc khải và nhìn nhận Hài Nhi Giê-su chẳng những là Vua dân Do Thái mà còn là Vua của mọi dân tộc khác trên trái đất này.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có ba phần: phần thứ nhất là giáo lý, hai phần sau là thực hành:
Phần thứ nhất: Vua Dân Do Thái cũng là Vua các Dân Ngoại (tức Vua muôn dân) đã sinh ra tại Bê-lem. Đó là Hài Nhi Giê-su con Bà Ma-ri-a. Ngài xuất hiện trong thân phận trẻ thơ, yếu ớt, mỏng manh, vô hại. Thế mà Ngài lại bị người đời (là quyền lực trần gian) tìm cách giết hại. Ngay từ những ngày đầu tiên đời sống trần thế, Chúa Giê-su đã bị kết án và mãi sau này bản án ấy mới được gắn trên đầu Ngài khi Ngài bị treo trên Thập Giá: “Giê-su Vua Dân Do Thái” (Mt 27,37).
Phần thứ hai: Thiên Chúa mời gọi hết mọi người tìm đến với Giê-su và nhìn nhận thờ lạy Ngài là Con Thiên Chúa và dâng tiến lễ vật quý giá nhất cho Ngài như các nhà chiêm tinh Phương Đông. Điều quan trọng là mỗi người nhận ra những ngôi sao dẫn đường của riêng mình. Đó có thể là một con người, một cuốn sách, một cuốn phim, một biến cố, một lời nói….
Phần thứ ba: Thiên Chúa đã dùng những ngôi sao lạ để dẫn đường các nhà chiêm tinh Phương Đông tìm kiếm Chúa Giê-su. Thiên Chúa cũng dùng mỗi người chúng ta làm đèn sáng, làm ngôi sao, làm cột chỉ đường cho người khác tìm đến Chúa.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi “kiểm điểm” mình xem:
3.1 Tôi đã tìm kiếm, nhìn nhận và suy phục Chúa Giê-su Cứu Thế như thế nào? (Tìm kiếm, nhìn nhận và suy phục không phải chỉ một lần mà là nhiều lần và liên tục trong cuộc sống của tôi).
3.2 Tôi đã nhậy cảm như thế nào với các “tín hiệu” mà Chúa gửi cho tôi, để tôi nhận ra Dung Mạo, Tấm Lòng và Thánh Ý của Chúa mà yêu mến và thi hành?
3.3 Tôi đã ý thức như thế nào về việc Thiên Chúa dùng tôi như các dấu hiệu hay các bảng chỉ đường, để giúp người khác tìm kiếm, nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa?
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 Lạy Thiên Chúa là Đấng cao sang và từ nhân, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã ban Chúa Giê-su, Con Một Yêu Dấu, cho nhân loại, cho chúng con và cho Hội Thánh. Xin Chúa ban cho hết mọi người ơn nhận ra, tiếp rước và suy phục Chúa Giê-su làm Vua của mọi người.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người và sinh ra ở Bê-lem, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã đến trần gian và tỏ mình cho các nhà chiêm tinh Phương Đông tượng trưng cho các dân tộc trên mặt địa cầu. Xin Chúa tỏ mình ra với hàng tỷ con người đang khát khao tìm kiếm Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, là Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người và sinh ra ở Bê-lem, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã dùng các vì sao mà dẫn đường cho các nhà chiêm tinh Phương Đông đến tận Bê-lem để gặp được Chúa. Xin Chúa hãy dùng mọi phương thế Chúa có trong tay quyền năng của Chúa để vạch lối chỉ đường cho bao người còn đang tìm kiếm Chúa trong tối tăm lầm lạc.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 Lạy Chúa Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa và là Đấng soi sáng dẫn đường cho các tâm hồn. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa và xin Chúa dùng chúng con làm tín hiệu, đèn sáng và bảng chỉ đường cho những người sống chung quanh chúng con, để họ tìm về với Thiên Chúa là Chúa của muôn dân, muôn người.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu chuyện đã: HiểnLinh ABC117
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu chuyện đã xảy ra như sau:
Bấy giờ một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và ba nhà đạo sĩ phương Đông, là những người nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên, đã hiểu được ý nghĩa của ngôi sao lạ.Họ đã lên đường, bước đi dưới sự soi dẫn của ánh sao và cuối cùng đã gặp được Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem, mà họ tin rằng Ngài chính là vua dân Do Thái. Trước khi trở về quê cũ, họ đã thờ lạy và dâng lên Hài Nhi lễ vật của địa phương mình, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Từ câu chuyện trên, tôi muốn rút ra một kết luận: Ngoài ánh sao lạ đã soi đường cho ba nhà đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem, thì mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một ánh sao, dẫn lối cho những người chung quanh, nhất là những người thân yêu cùng sống trong một mái ấm gia đình tìm gặp được Thiên Chúa.
Thực vậy, như chúng ta thường xác quyết:
- Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.
Dưới mái nhà thân yêu này, trước hết chính cha mẹ phải là một ánh sao dẫn đưa con cái đến cùng Chúa, bởi vì tại đây, ngoài cái nền giáo dục nhân bản, tức là đào luyện cho con cái trở nên những người biết sống tự lập và biết sống với người khác, hầu đem lại lợi ích cho quốc gia, cho xã hội, là người tín hữu, chúng ta còn phải cho con cái một nền giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn chúng để chúng trở nên những người con cái Chúa.
Vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, cha mẹ đã dạy cho chúng qua đôi tay vụng dại lên làm dấu thánh giá, còn môi chúng bập bẹ những lời kinh đơn sơ.
Hơn thế nữa, đời sống gương mẫu của cha mẹ sẽ có được một sức lôi cuốn hấp dẫn con cái đến cùng Chúa, vì lời nói như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo.
Augustinô là một chàng trai chơi bời trác táng, thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và trở nên một vị giám mục thánh thiện và khôn ngoan,
Tiếp đến vợ chồng cũng phải trở nên một thứ ánh sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng phải biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Người chồng là một tân tòng, nếu không được gương sáng của người vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị thui chột.
Có một ông bố rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày kia, khi ông trở về thì trời đã khuya, nhìn vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn, lại có cả những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm ấy chính là tiếng người vợ đang dạy cho đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một luồng ánh sáng chiếu soi, ông bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng Chúa.
Một khi mọi người trong mái ấm thân yêu có được một đời sống gương mẫu, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Có một câu truyện về một ông vua trẻ mới lên ngôi kế vị cha. Nhà vua trẻ này rất yêu thương: HiểnLinh ABC118
Có một câu truyện về một ông vua trẻ mới lên ngôi kế vị cha. Nhà vua trẻ này rất yêu thương và cảm thông với thần dân trong vương quốc. Thế nhưng, xem ra dân chúng không màng chi đến sự quan tâm săn sóc của nhà vua khiến nhà vua rất buồn lòng. Sau khi lắng nghe ý kiến của các quan cận thần, nhà vua cải trang thành một thường dân, rời bỏ cung điện và đến sống giữa những người dân của mình, ngoài những lúc làm việc, ông đi thăm những người nghèo chung quanh, giúp đỡ những người đau yếu, khuyên nhủ những ai gặp khó khăn, cứ như thế chẳng mấy chốc ông đã chiếm được cảm tình của mọi người. Thế rồi một hôm ông bỗng biến mất, và sau đó xuất hiện trở lại như một vị vua. Lúc đó dân chúng mới nhận ra người nghèo lạ lùng này chính là vua của họ. Kể từ đó dân chúng yêu thương hiệp nhất với nhau và quan tâm đến những dự án mà nhà vua thực hiện để nâng cao mức sống của họ.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiển Linh, nghĩa là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Nếu lễ Giáng Sinh nhấn mạnh đến khía cạnh nhập thể từ trên cao xuống thì lễ Hiển Linh cho thấy chiều kích hiển linh của mầu nhiệm nhập thể và nhắc nhớ con người rằng Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là Vua vũ trụ.
Tin Mừng hôm nay nêu bật hai thái độ khác nhau của con người đối với Con Thiên Chúa nhập thể, đó là chấp nhận hoặc chối từ. Hêrôđê đã xem Chúa như kẻ thù, như một người sẽ chiếm lấy địa vị và quyền lực của ông, ông đã không biết theo ơn Chúa soi sáng để nhìn thấy dấu chỉ Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử và thiên nhiên để đi tìm và nhìn nhận Chúa. Còn các đạo sĩ phương Đông đã dám ra khỏi cảnh sống thường ngày của mình, từ bỏ tiện nghi mình đang hưởng, để đi theo sự soi sáng của ân sủng Chúa, để nhận ra lời mời gọi của Chúa qua ánh sao dẫn đường. Họ thành tâm đi tìm và đã gặp, và khi gặp được, họ không thắc mắc tại sao, nhưng khiêm tốn tôn thờ Vua vũ trụ nơi dung mạo một Hài Nhi yếu đuối, nghèo hèn, cũng như dân chúng trong câu truyện trên đã nhận ra vua của họ qua dung mạo một người nghèo sống giữa họ.
Thiên Chúa vẫn luôn mạc khải chính mình cho chúng ta qua dung mạo người anh em, qua các Bí tích, qua những dấu chỉ tầm thường đơn sơ của đời sống mỗi ngày, nhưng liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để nhìn thấy, lắng nghe và chấp nhận Chúa hay không? Xin Chúa giúp chúng ta thành tâm đi tìm Chúa để được gặp Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc các đạo sĩ Đông Phương đã theo ánh sao tìm đến triều bái: HiểnLinh ABC119
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc các đạo sĩ Đông Phương đã theo ánh sao tìm đến triều bái Hài Nhi Giêsu mới giáng sinh tại Bêlem. Lời tiên tri Isaia từ 600 năm trước đã được thực hiện: ‘Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước… Lạc đà đàn đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Epha, dân Saba hết thảy kéo lại, tải đến vàng với trầm hương và chúng cao rao lời khen ngợi Giavê’.
Chúng ta hãy theo sau các nhà đạo sĩ trung thành với ánh sáng đã nhận được: ‘Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên trời Đông, và chúng tôi đến bái yết Ngài’. Đối với chúng ta, ngôi sao đó chính là ý muốn của Thiên Chúa, là đức tin vào Chúa Kitô, hay đúng hơn là chính Chúa Kitô – ánh sáng soi cho mọi dân tộc. Ánh sáng đó vẫn luôn chiếu sáng, nhưng sở dĩ chúng ta không nhận ra là vì chúng ta còn yêu tối tăm hơn ánh sáng, và vì con mắt tâm hồn chúng ta còn bị cái đà của ích kỷ che khuất. Để tìm gặp Chúa Kitô, chúng ta cũng phải liều mạng như các đạo sĩ để ra khỏi xu hướng thích dễ dãi, hưởng thụ, ngại gian khổ.
Cũng như các đạo sĩ đã gặp thấy Hài Nhi cùng Đức Maria, Mẹ Ngài, chúng ta cũng không thể tìm Chúa Kitô riêng rẽ tách biệt khỏi Mẹ Ngài được, bởi lẽ sau khi thụ thai và sinh hạ Ngài, Đức Maria còn có sứ mạng trao tặng Ngài cho chúng ta. Do đó tình yêu của chúng ta đối với Chúa Kitô không thể tách khỏi tình yêu đối với Đức Trinh Nữ Maria.
Các đạo sĩ đã dâng tiến Hài Nhi Giêsu lễ vật: vàng, nhũ hương, mộc dược, chúng ta cũng hãy dâng tiến Ngài tấm lòng vàng, hương thơm lời cầu nguyện, và mộc dược hy sinh hằng ngày để mưu cầu ơn thánh cho các linh hồn. Ý thức hiến dâng càng sinh động và liên tục, hiệu quả lời cầu nguyện càng được bảo đảm.
Sau cùng chúng ta đừng quên cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, bởi vì nhờ các ngài mà đức tin đã đến với chúng ta. Nhờ các ngài mà chúng ta được niềm vui hiển linh, đó là Chúa Kitô tỏ mình ra cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất: HiểnLinh ABC120
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho HiểnLinh ABCtìm ra Chúa Hài Nhi?
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: “một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1)
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Theo ngôn từ phương đông thời cổ, đạo sĩ (còn gọi là thuật sĩ) là những nhà tu tiên trốn lánh: HiểnLinh ABC121
Theo ngôn từ phương đông thời cổ, đạo sĩ (còn gọi là thuật sĩ) là những nhà tu tiên trốn lánh trần tục, tịch cốc để luyện phép trường sinh. Dĩ nhiên, danh từ đạo sĩ trong đoạn Phúc Âm ngày lễ Hiển Linh phải được hiểu theo nghĩa khác.
Ba nhà đạo sĩ lặn lội từ phương xa đến Bêlem thờ kính Chúa Giêsu sơ sinh, là những bậc nhân sĩ, có lẽ là những tư tế ngoại giáo, và chắc hẳn là những nhà chiêm tinh. Lễ vật dâng tiến gồm vàng, trầm hương và một-dược nên người ta đồng ý cho rằng ba vị có thể từ miền Ả rập tới. Theo viễn ảnh thánh chép sử trình bày Đức Kitô đến để thực hiện những lời tiên tri, chúng ta đọc lại Thánh Vịnh 72: “Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật”. Chắc hẳn vì có đoạn Thánh Vịnh này mà truyền thống Kitô giáo đã gọi ba đạo sĩ là ba vua, do đó lễ Hiển Linh còn có tên nữa là Lễ Ba Vua.
Tiếp theo hai bài đọc I và II, bài Phúc Âm nêu ra tính phổ quát toàn cầu của ơn cứu độ Thiên Chúa tặng cho loài người.
1) Phúc Âm chống đối tất cả mọi chủ nghĩa chủng tộc. Không phân biệt nguồn gốc, màu da, giai cấp, mọi người đều được biến cố Giáng Sinh triệu tập để chung hưởng một niềm vui phổ quát. Nhưng ít ra cũng phải có một vì sao mọc lên để mời gọi nhân loại. Giáo Hội đảm nhận trách vụ thắp lên và duy trì nguồn ánh sáng đánh thức và hướng dẫn loài người. Giáo Hội, nghĩa là tất cả các Kitô hữu, cũng là mỗi Kitô hữu. Phúc thật cho chúng ta nếu chúng ta biết nêu cao gương sáng, nói lời nhân ái xây dựng, hoặc dấn thân phục vụ đồng loại – làm như vậy là thắp lên nguồn sáng Phúc Âm, đem niềm vui cho anh em chúng ta.
2) Theo lối giải thích truyền thống, những lễ vật của HiểnLinh ABCtượng trưng cho vương quyền, thiên tính và khổ nạn của Đức Giêsu. Trầm hương và một-dược là những hương liệu. Một-dược dùng để ướp xác kẻ chết. Trầm hương, nhất là thứ đốt trên bàn thờ dâng hương trong đền thờ Giêrusalem, tượng trưng cho lễ vật dâng hiến để tỏ lòng hân hoan thờ phụng. Chúng ta hãy biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và Thiên Chúa chúng ta.
Như đã nói, thật là dại dột nếu muốn xem ký sự của thánh Matthêu như một phóng sự lịch: HiểnLinh ABC122
Như đã nói, thật là dại dột nếu muốn xem ký sự của thánh Matthêu như một phóng sự lịch sự tuyệt đối chính xác. Sự kiện đã xảy ra thật, được thánh chép sử- hoặc cựu truyền mà ông nhắc lại lồng trong một hình thái ký sự hoà hợp với văn hoá Cựu Ước và não trạng người đương thời. Những sự kiện rất thật lẫn lộn với những yếu tố được rút ra từ ký ức tôn giáo của dân tộc và cả từ Kinh Thánh nữa. Đối với chúng ta, điều chủ yếu là thu lượm ký sự này lời giáo huấn mà thánh sử muốn truyền đạt. Vả lại ông cũng không chú ý đến sự kiện lịch sử vì bản chất của nó, chỉ cốt soi sáng để làm nổi rõ tầm mức của sự kiện.
1) Sự kiện ba nhà Đạo sĩ đến thờ lạy ‘Vua của người Do Thái’ làm cho Hêrôđê động tính hiếu kỳ, rốt cục nổi giận, sự kiện đó cho thấy Đức Giêsu được thụ phong một vương quyền thời đó, thánh Matthêu đem đối chiếu thái độ các đạo sĩ nó tương phản với cách xử sự của Hêrôđê. Một bên là những người tìm kiếm Chúa – bên kia là một ông vua chuyên chế bị tư lợi và kiêu ngạo làm mờ mắt. Điều này mời chúng ta nhớ lại tính chất của Vương quyền Chúa. Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh, và đã vào trong Vinh Quang Nước Người. Mọi vật điều suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi tạo vật suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người. Người cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả và chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện, hơn nữa, để khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhượng và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến cùng Đức Vua, Đấng mà những kẻ phụng sự cũng là những kẻ thống trị có quyền bính. Triều đại Chúa là một triều đại của Chân Lý và sự sống của ân sủng và thánh thiện, của công lý tình yêu và hoà bình’ (Ánh sáng muôn dân, 36). Sự phủ phục của các đạo sĩ dưới chân Hài Nhi Giêsu nhắc chúng ta nhớ lại điều này: muốn nhận biết Thiên Chúa thì phải ao ước thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình. Ngược lại, hướng của Hêrôđê chứng minh rằng khi lòng bị sa lầy trong tham vọng, khắc nghiệt, bất công, thì trí sinh mù quáng.
2) Tại sao sau khi cho tin đúng, cấp lãnh đạo dân tộc và những ký lục không chịu khó đi tìm ‘Vua của người Do Thái’. Chắc là vì họ không cho rằng công phu tìm kiếm của các đạo sĩ là quan trọng. Có thể đây là hạng người thần cảm – họ nghĩ vậy – còn mình là cấp hữu trách, mình phải sáng suốt. Bất hạnh thay, lý trí họ đã biến thành chủ trương hệ thống hoá cứng rắn. Đa số trong bọn họ thành tâm muốn trung thành với Thiên Chúa, nhưng lại dựng lên giữa Thiên Chúa và họ một hệ thống chủ thuyết – lý luận, định kiến – hệ thống đó khiến cho trí tuệ họ không thể hấp thụ được cái chưa từng thấy, cái bất ngờ. Đó là tình trạng của bất cứ khoa học nào không quan tâm trước hết đến sự cởi mở do cầu nguyện đem lại. Càng thu thập về kiến thức vế trí tuệ, càng phải phát triển kiến thức về tâm hồn, là loại kiến thức giữ cho tâm khảm trong tư thế sẵn sàng nghênh tiếp những sự can thiệp của Thiên Chúa. Cấp lãnh đạo dân Do Thái đã không nhận ra Đức Giêsu vì họ muốn Đấng Cứu Thế hiển linh ở trình độ họ, trong uy thế của quyền bính, thông tuệ, hành động. Nhưng Đấng Cứu Thế đó lại xuất hiện với nét mặt một đứa trẻ, con nhà nghèo. Những kẻ khiêm nhượng và những kẻ nghèo hèn đã nhận ra Ngài. Chúng ta tự hỏi: chúng ta đi tìm kiếm Đức Giêsu ở đâu?
Câu chuyện này gây ra 2 cảm tưởng trái ngược nhau: (a) một đàng có những chi tiết khiến ta nghĩ: HiểnLinh ABC123
Câu chuyện này gây ra 2 cảm tưởng trái ngược nhau: (a) một đàng có những chi tiết khiến ta nghĩ rằng đây là một chuyện hoang đường, giả tạo, chẳng hạn: cuộc hành trình dài của các đạo sĩ, ngôi sao lạ di chuyển dẫn đường rồi cuối cùng chỉ đúng vào chỗ Thánh Gia đang ở, cả thành Giêrusalem khi hay tin có vua mới sinh ra lẽ ra phải vui mừng mà sao lại bối rối. Hêrôđê phải triệu tập tất cả các thầy thượng tế để hỏi một câu rất dễ, mọi người đều biết nơi Hài Nhi sinh ra trong khi Hêrôđê không biết, sao chẳng ai tò mò đi theo các đạo sĩ để xem Hài Nhi v.v. (b) nhưng đàng khác có nhiều chi tiết rất hợp với lịch sử, như quan tâm của các chiêm tinh gia phương đông về một vì vua cứu thế, những hồi nổi cơn bất ngờ của Hêrôđê...
Những nét không thật và những nét thật ấy khiến chúng ta nghĩ rằng tác giả không chủ ý viết một bài tường thuật đúng nghĩa, mà chỉ muốn viết một bản văn để diễn tả quan điểm thần học của mình. Trong mục đích đó, tác giả đã xử dụng văn thể Midrash (xem lại trang 19, số III,4): tường thuật một sự kiện có thật nhưng giải nghĩa thoáng rộng nhằm đưa ra một bài học cho độc giả.
II. Vấn đề đặt ra bài học của Matthêu
- Trong cộng đoàn của Matthêu mà đa số là Kitô hữu gốc Do Thái, người ta rất thắc mắc về sự kiện tại sao trong khi lương dân thì đón nhận Đức Giêsu Kitô, còn dân Chúa chọn lại từ chối Ngài.
- Matthêu viết chuyện này (theo văn thể Midrash) nhằm đưa ra câu trả lời: Tại vì lương dân ngoan ngoãn với Thiên Chúa hơn, chẳng hạn các đạo sĩ. Họ chỉ có hiểu biết rất đơn sơ tự nhiên (chiêm tinh), nhưng nhờ ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Chúa (biểu tượng là ngôi sao lạ), nên đã được dẫn tới đức tin vào hài nhi Giêsu. Ngược lại, các thủ lãnh tôn giáo của người do thái cùng với Hêrôđê, mặc dù đã có Sách thánh trong tay (họ biết rõ là hài nhi sẽ sinh tại Bêlem) nhưng vẫn không tin. Sự kiện Đức Giêsu được lương dân tin thờ gợi nhớ đến lời của ngôn sứ Isaia (49,23 và 60,3-6), cũng như Tv 72,10-15.
- Matthêu vừa giải đáp thắc mắc của cộng đoàn, vừa xoáy sâu hơn vào luận đề chung của mình trong cả 2 chương nhập đề:
. Bảng gia phả chứng minh sự châm rễ của Đức Giêsu vào lịch sử dân biệt tuyển .
. Câu chuyện báo tin cho Giuse cho thấy tính siêu việt của Đức Giêsu .
. Câu chuyện các đạo sĩ này cho thấy tính vương giả của Ngài, đồng thời hé mở cái nghịch lý vẫn thấy xuất hiện tới lui nhiều lần trong tác phẩm: dân Chúa đã không chấp nhận Ngài.
III. Giải thích một số chi tiết
- Bêlem: ở 7km phía Nam Giêrusalem, là quê quán của Booz, Jessé và nhất là của Đavít (1S 16 20,6).
- Hêrôđê: Đây là Hêrôđê Cả, trấn nhậm miền Judée (37-4 trước công nguyên). Sử sách làm chứng rằng vào những năm cuối đời, ông nghi ngờ mọi người có ý đồ lật đổ ông, vì thế mà ông không ngại ra tay tàn sát tất cả những ai mà ông nghi là sắp làm hại ông, kể cả những người trong gia đình ông.
- Đạo sĩ: Có lẽ đây là những nhà chiêm tinh ngoại đạo nhưng có tiếp xúc với đạo Do Thái và cùng chia sẻ một số niềm tin của Do Thái, trong đó có niềm tin vào Đấng Messia sắp đến. Họ sống ở phía bờ bên kia sông Jordan. Từ thế kỷ V, người ta cho rằng họ là những vị vua số lượng là 3. Đến thế kỷ 8 người ta còn đặt cho các ông những tên là Gaspar, Balthasar và Melchior.
- Vua Do Thái mới sinh ở đâu? Matthêu nhấn mạnh đến tính vương giả của Đức Giêsu. Đồng thời Matthêu cũng cho thấy một nét mỉa mai: chính lương dân nhận ra tính vương giả này và nói cho dân Do Thái hay.
- Ngôi sao: Do Thái giáo dựa vào Dc 24,17: "Một ngôi sao sẽ xuất ra từ nhà Giacóp, một vương trướng sẽ chổi dậy từ nhà Israel" để tin rằng sự xuất hiện một ngôi sao lạ là dấu chỉ Đấng Messia đến.
- Chúng tôi đến thờ lạy Ngài: Động từ "thờ lạy" (preskunêô) được Cựu Ước thường dùng để chỉ việc lương dân đến tôn thờ Giavê trong Đền Thờ. Matthêu dùng động từ này có ngụ ý nói đến tính đại đồng của ơn cứu rỗi mà Đức Giêsu mang đến.
- Cả thành Giêrusalem bối rối: chi tiết này rõ ràng là phóng đại. Matthêu phóng đại như vậy để diễn tả ý tưởng cả một phần lớn dân Do Thái từ chối Đức Giêsu. Chi tiết này càng làm nổi bật cái nghịch lý mà ta đã nói ở trên.
- cc 4-5: không nhằm chúng minh sự ngu dốt của Hêrôđê, cũng không chứng minh sự thông thái của các ký lục và thượng tế, mà đơn giản Matthêu chỉ dùng mấy câu này để dẫn vào câu Sách Thánh mà Matthêu sắp trích dẫn sau đó.
- c 6: Mt trích dẫn phối hợp Mt 5,1-3 và 2S 5,2 để trình bày Đức Giêsu là một vua Đavít mới.
- c 10: Niềm vui của các đạo sĩ: "Các ông vui mừng hớn hở". So sánh với Lc 2,10 (Tin vui vĩ đại). Đó là niềm vui to lớn của lương dân khi thấy Đức Giêsu mang đến cho họ ơn cứu rỗi mà bấy lâu nay họ khao khát chờ mong.
- c 11: Cử chỉ của các đạo sĩ cho thấy vừa tính vương giả vừa tính thần linh của Đức Giêsu. Các lễ vật (vàng, hương và mộc dược) là những lễ vật được dâng cho bậc vương giả (xem Tv 72,15 vàng, Is 60,6 vàng và hương, Tv 45,8 mộc dược).
Kết luận
Nghịch lý đã khởi sự diễn ra; Hêrôđê và các thủ lãnh tôn giáo cùng với phần đông dân do thái đã khước từ Đức Giêsu, nhưng lương dân thì lại đến triều bái và tôn thờ Ngài, cũng giống như cộng đoàn Kitô đang tập hợp chung quanh Đức Giêsu phục sinh. Như thế thì lời của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện (Is 60 và 62): đông đảo lương dân kéo đến Giêrusalem mới, một Giêrusalem sáng ngời vinh quang Thiên Chúa.
Ba Vua tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của người Do Thái về một: HiểnLinh ABC124
Ba Vua tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của người Do Thái về một thời đại vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm tin ấy có thể đã lan tràn ra hàng trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng? Có người đã nêu ra giả thuyết rằng có những cuốn lịch trong các miền nói trên ghi rằng trong thời gian ấy Vị Chúa Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở Palestine. Dù sao, chúng ta thấy một số người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về đề tài này, ta có thể nêu lên vài suy nghĩ sau đây:
1) Tìm Chúa Kitô đòi hỏi trước hết phải có một thái độ tinh thần căn bản
Người ta sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể đưa tới Chúa. Cứ chấp nhận rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí mong chờ một ông vua Cứu Thế, dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi sao, một dấu hiệu, tâm hồn họ tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết nhận ra, giữa trăm ngàn yếu tố tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta đến Đức Kitô không? Dấu hiệu ấy có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm thấy cần phải phó thác cho Chúa, vì chỉ mình Người có sức soi sáng và giải quyết. Có thể là một niềm vui lớn lao, từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm tạ Chúa. Dấu hiệu ấy cũng có thể là một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu biết nhìn, ta sẽ nhận ra sự hiện diện kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp như thế, ta cần phải để ý tới những dấu hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo sĩ đã lên đường
Muốn tìm Đức Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng ‘yên chuyện’ và ‘an tọa’ của mình. Có người ‘an tọa’ trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác, trong một địa vị ‘ngon lành’; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương thiện v.v… Bằng cách này hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng tự đóng kín trong tình cảnh ‘yên thân’, nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá ra một cái gì lạ lùng, chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được sự mong chờ của ta, với điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo sĩ tìm kiếm một cách tích cực
Bao lâu ánh sao còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn đường. Nhưng kìa, ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng. Không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu vật chỉ đạo lạ lùng, tức ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han. Họ đi đến những nhà hữu trách tôn giáo. Những người này không muốn bị phiền hà về vụ ông Vua mới sinh ra, nhưng họ cho ba người khách những lời chỉ dẫn đúng. Thế là các đạo sĩ được ‘thưởng công’: họ tìm thấy Chúa Giêsu. Trong đời ta có thể đã có những dấu này, dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan biến đi. Bổn phận ta bây giờ là tiếp tục nỗ lực tìm kiếm với những phương tiện thông thường sẵn có. Lúc ấy Đức Kitô sẽ không lẩn tránh đâu.
Lễ Hiển Linh đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ: HiểnLinh ABC125
Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn dân.
Chúng ta hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy và chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng, tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận ra sứ điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các ngài có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần chừ do dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho người đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do Thái.
Thái độ của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh Augustinô diễn tả như sau:
“Các ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ, họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến, và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy”.
Có lẽ chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi ba trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi nhận ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó là sau khi đã khám phá ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở chặng cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn tay trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được thiên thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê hương xứ sở của mình.
Qua đó chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó, chúng ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng những phản bội.
Hãy noi gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến: HiểnLinh ABC126
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ HiểnLinh ABCnữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?”.
Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…
Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, HiểnLinh ABCđã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra, HiểnLinh ABCtìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…
Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời. HiểnLinh ABCgặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.
3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
“Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của: HiểnLinh ABC127
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “HiểnLinh ABCtoan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như HiểnLinh ABCgặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
Is: 60:1-6; TV 72; Êphêsô 3: 2-3a, 5-6; Matthêu 2: 1-12
Các Thầy Giảng thân mến,
Epiphany là bày tỏ ra. Thời xưa ở Ai Cập ngày này là ngày đông chí. Các Kitô hữu thời trước:HiểnLinh ABC128
Epiphany là bày tỏ ra. Thời xưa ở Ai Cập ngày này là ngày đông chí. Các Kitô hữu thời trước chọn ngày hôm nay để dự thánh lễ Chúa Giêsu là Ánh Sáng đến trong đêm dài nhất trong năm, để soi sáng cho sự tăm tối của mê muội và tội lỗi. Các Giáo Hội Đông Phương và Chính Thống mừng ngày Chúa Giáng Sinh vào hôm nay là ngày Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. Ngài tỏ mình ra như thế nào? Trong kinh thánh và phụng vụ ngày lễ hôm nay nói đến một Ánh Sáng soi rọi vào nơi tăm tối mà chúng ta đang sống, và Ánh Sáng đó giúp chúng ta chiến đấu để giử vững đức tin và không mất hy vọng. Lễ nầy nhấn mạnh là Ánh Sáng của Thiên Chúa đã đến với trần gian và với tất cả mọi người:Ánh Sáng chiếu soi trong đêm tối, và đem hy vọng vào nơi chán nản.
Những lời trong sách Isaia gồm những bài hát (Is.56-66) diễn tả việc Thiên Chúa gầy dựng lại dân Ngài và xây dựng lại đền thánh Jerusalem. Bài đọc I mở đầu với câu:" Hãy vùng đứng dậy, hãy bừng sáng lên"(Is.60:1). Câu này nhắc tôi nhớ đến những lúc mẹ tôi đánh thức tôi dậy để đi học:"Hãy thức dậy, trời sáng rồi". Nhất là về mùa đông, mỗi sáng phải đánh thức con dậy trong lúc trời còn tối mò, đó là việc mẹ tôi phải làm.
Nhưng khi Thiên Chúa gọi Jerusalem, Lời của Thiên Chúa là một lời hùng mạnh có nghị lực. Dân Jerusalem không phải tự mình khôi phục lại đền thánh, Thiên Chúa sẽ đến, Ngài sẽ đến trong vinh quang, như một Ánh Sáng để đánh thức dân Ngài. Toàn thế giới đang sống trong đêm tối mịt mù, nhưng Jerusalem lại bừng sáng lên với Ánh Sáng của Thiên Chúa và các dân tộc ngoại bang (các nước khác) sẽ nhìn thấy Ánh Sáng đó và sẽ tiến về phía Ánh Sáng.
Ngôn sứ Isaia nói về ánh sáng, và khi nào dân Chúa trông thấy ánh sáng thì sẽ chiếu rạng lên "Vì trên ngươi Vinh Quang Giavê sẽ rạng ngời" Các bạn có thấy những người có vẽ rạng ngời vì đức tin của họ, hay vì những gì họ đã thấy? Họ là những người rất bình thản và đầy tin tưởng trong những biến cố. Như những giáo lý viên, những nhạc sĩ điều khiển hợp xướng, những người siêng năng cầu nguyện trong nhà thờ hay trong các nhóm cầu nguyện, những người đi thăm người đau ốm, những người tình nguyện làm việc trong giáo xứ, người mang cơm đến những gia đình thiếu thốn, những người giúp giải quyết những vấn đề về luật pháp hay sức khoẻ cho nhữung ai không đủ sức tự lo cho họ được. Những người vừa nêu trên không phải là những người chỉ làm sơ sài một số việc đâu, họ là những người luôn luôn tận tụy với giáo xứ. Họ làm việc từ năm này qua năm nọ. Họ đã thấy ánh sáng của Thiên Chúa và họ đáp lại với tình thương yêu. "Và Vinh quang Chúa hiện rõ trên họ."
Phúc âm khởi đầu với khái niệm về cảnh tối tăm. Chúa Giêsu đã sinh ra trong một thế giới tối tăm mù mịt dưới thời vua Herod. Nhưng có HiểnLinh ABCđến trong đêm tối ở Jerusalem vì họ theo ánh sáng của ngôi sao. Theo sách của John J. Pilch nói là họ không phải ba Vua, hay là ba Vị thông thái về thiên văn. Sự thật họ là những đạo sĩ chỉ dạy cho các vị quan quyền vua chúa thời ấy ở những vùng như Iraq và Iran hiện nay.
Theo Phúc âm thánh Matthêu, ba nhà đạo sĩ theo ánh sáng của một ngôi sao để đi tìm Chúa Giêsu, để kính chào Ngài rồi đi trở về quê họ. Họ đã đến và nói là họ muốn kính bái "Vua Do Thái mới sinh ra". Theo sách ông Pilch thì những người đạo sĩ ở trong các triều đình đông phương không ưa thích các triều đình tây phương là những đế quốc, và chắc là họ không ưa gì đế quốc La Mã. Họ đã đến triều đình của một vua bù nhìn của đế quốc La Mã là Herod để tìm một vị vua mới sinh ra trong đất bị dân La Mã chiếm đóng mà họ không ưa gì. Sự hiện diện của ba người đó báo tin cho vua của đế quốc La Mã biết là có một vị Vua mới của dân Do Thái và có thể là nhân tố sẽ lôi cuốn dân tộc các nước đông phương lân cận. Câu hỏi của ba vị đạo sĩ đó làm cho vua Herod biết là sẽ có vua từ đông phương dẫn dắt dân chúng, không từ một vương quốc mà từ một gia đình hèn mọn ở Bêlem.
Ánh Sáng đến trong đêm tối sẽ chiếu rọi những người khó hèn trên quả đất này, và điều này cho chúng ta biết là những người nghèo hèn không phải là những người vô giá trị trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đứng về phía họ và sẽ ngự xuống ở giữa họ. Mới nhìn vào ngày lễ chúng ta tưởng ba vị thông thái là ba nhân vật chính, nên gọi là "lễ ba Vua". Nhưng sự thật họ không phải là vai chính, mà vai chinh là Chúa Kitô, ngày lễ này là ngày Chúa tỏ mình ra, Thiên Chúa tỏ mình ra cho tất cả mọi người, nhất là những người bị coi là người sống bên ngoài xã hội, như ba người thông thái kia.
Phúc âm nhắc chúng ta biết là không phải tất cả mọi người đều trông thấy Ánh Sáng. Ba vị thông thái trông thấy ánh sáng và tìm theo ánh sáng họ đã thấy. Vua Herod, đáng lý cũng phải thấy ánh sáng do vì có những thượng tế và kỳ mục khuyên bảo, nhưng ông ta không chịu nhìn vào ánh sáng. Điều buồn cười trong phuc âm hôm nay là chính những người rất gần truyền thống xã hội và giáo lý Do Thái là những người rất thông thạo về kinh thánh và những lời các ngôn sứ về đấng Messia là những người có thể thấy ánh sáng, nhưng họ lại không nhìn vào ánh sáng và không chấp nhận ánh sáng đó. Trong khi đó những người hoàn toàn ở ngoài lề xã hội Do Thái vừa thấy ánh sáng thì họ đi tìm tới gặp được Hài Nhi Ki Tô.
Epiphany là lễ của những người được Thiên Chúa ban ơn gọi để từ bỏ gia đình và những gì quen thuộc để đi tìm Chúa Kitô ở những nơi mà họ chưa hề nghĩ đến. Chúng ta sẽ gặp Ngài ở đâu, và đem những lễ vật gì đến dâng hiến Ngài khi chúng ta gặp được Ngài trong xã hội chúng ta? Đáng lý dâng trầm hương chúng ta có thể gặp những gia đình nghèo túng, nhất là những gia đình cô quả mà có con mọn. Hiện nay có chừng 25 triệu trẻ em nghèo đói trong một xã hội giàu sang phú quý như Hoa Kỳ, và biết bao nhiêu trẽ em nghèo đói trên khắp thế giới. Đáng lý dâng vàng chúng ta có thể gởi tiền giúp những trẽ em nghèo và những gia đình vô gia cư, hay những chương trình giúp trẻ em và người lớn tuổi khắp cùng thế giới. Đáng lý dâng mộc dược, chúng ta có thể đi thăm người đau ốm và người hấp hối.
Phúc âm cho chúng ta biết chuyện một ngoi sao sáng trên nền trời dẫn đường cho ba vị người nước ngoài đến với Chúa Kitô. Chúng ta không thấy sao lạ nhưng chúng ta có ơn Chúa luôn luôn giúp đỡ chúng ta tìm đến Chúa Kitô. Ơn thánh Chúa cũng như ngôi sao lại dẫn đường cho chúng ta đến những nơi xa lạ để tìm gặp Chúa Kitô. Các đạo sĩ mang lễ vật đến tặng Chúa. Đó là những lễ vật thường dùng để tặng các vua chúa. Nhưng hiện nay Chúa Kitô không ở trong đền đài sang trọng, Chúa ở với người nghèo khó. Lễ này nhắc chúng ta là Chúa Kitô tỏ mình ra trong khung cảnh nghèo nàn, và cho những người mà chúng ta không hề nghĩ đến. Và quà chúng ta đem đến cho những người nghèo khó đó là chính bản thân chúng ta.
Trong những tuần vừa qua chúng ta làm đủ mọi thứ để sửa soạn đón Chúa Giáng sinh. Nhưng những ngày này chỉ chú trọng đến việc chúng ta phải làm gì. Theo thánh kinh thì chính Thiên Chúa mới là vai chính: Thiên Chúa đã bày tỏ Ngài qua tin mừng cho những người đang còn trong bóng tối. Đó là lời ngôn sứ Isaia nói: "và vinh quang Người hiện rõ trên ngươi", đó chính là lời thánh Matthêu loan báo khi nói đến ba vị đạo sĩ đến từ phương đông theo ánh sáng của một ngôi sao. Mở đầu kinh thánh Thiên Chúa là Chúa ban sự sống, và bây giờ chúng ta vui mừng vì Thiên Chúa tự hiến thân mình. Đây là lễ đem ánh sáng cho đức tin của chúng ta, là chính Thiên Chúa đã hiến thân Ngài cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Có nhiều giáo xứ muốn thắp thêm nhiều cây nến trên cung thánh vào dịp lễ này. Nhiều giáo xứ cho hai em giúp lễ cầm đèn sáng đi lên để hai bên bàn thờ. Sao lại không thể cho thêm nhiều người mang đèn để hai bên bàn thờ. Có nơi để đèn tại giếng rữa tội. Làm những điều đó chúng ta sẽ hiểu lễ này nhiều hơn. Lúc Cha chủ tế đi vào, nhà thờ nên tắt đèn, và đoàn người đi kiệu nến vào để khắp cung thánh là điều diễn tả rất sinh động về lễ ánh sáng. Chúa Kitô đã cùng chúng ta tỏ mình ra cho toàn thế giới.
Dõi theo ánh sao các nhà đạo sĩ đã mau mắn lên đường trong hy vọng tràn đầy. “Chúng tôi:HiểnLinh ABC129
Dõi theo ánh sao các nhà đạo sĩ đã mau mắn lên đường trong hy vọng tràn đầy.” Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện “ ( Mt 2,2 ). Các nhà đạo sĩ sau khi gặp Hêrôđê,các Ngài đã ra đi và cũng ánh sao đó lại xuất hiện, dẫn lối chỉ đường cho các Ngài đến hang đá Bêlem tìm gặp Hài Đồng Giêsu. Tin Mừng viết rõ, các Ngài dâng Hài Đồng Giêsu những đặc sản quí giá của địa phương là vàng, nhũ hương và mộc dược ( Mt 2, 11 ).
ÁNH SÁNG BỪNG LÊN CHIẾU RỌI, ĐÓ LÀ ĐỨC GIÊSU KITÔ:
Ngôn sứ Isaia viết:”Dân đang lần bước trong tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi “( Is 9,1 ). Ánh sáng chiếu soi là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng cho muôn dân, muôn nước. Quả thật, từ khi ông bà Adam và Evà phạm tội, nhân loại chìm trong tối tăm của khổ đau và sự chết. Con người tưởng rằng không bao giờ có thể thoát khỏi bóng tối của đau khổ, của tối tăm, của sự chết. Nhân loại vì nguyên tổ phạm tội luôn dò dẫm, lần mò trong bóng tối tăm, mong chờ,mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian, soi chiếu thế giới. Ngôi Sao Hy Vọng,một Ngôi Sao lạ xuất hiện ở phương trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn. Lễ Hiển Linh là lễ Con Thiên Chúa đến trần gian không chỉ dành riêng cho Dân Do Thái nhưng là tỏ mình cho mọi người, cho dân ngoại. Đại diện là ba nhà đạo sĩ trong đó có tất cả mọi người chúng ta. Ngộ giả Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta thì Người cũng muốn mỗi người chúng ta phải trở thành những ánh sao soi chiếu người khác. Chúa luôn yêu thương, trung tín với con người dù cho con người thất trung, phản bội. Do đó, con người đừng bao giờ thất vọng về chính mình. Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao Hy Vọng đã không bao giờ làm ai thất vọng, chúng ta cũng đừng bao giờ để ai thất vọng vì chúng ta.
XIN CHO NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG CHO BA NHÀ ĐẠO SĨ PHƯƠNG ĐÔNG VẪN DẪN ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI GẶP CHÚA:
Ngôi sao xưa đã dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ Phương Đông đến gặp Chúa nơi hang đá Bêlem và rồi các nhà đạo sĩ đã gặp được Vua Trời Đất. Các Ngài vui mừng, phấn khởi. Tin Mừng không thấy ghi lại một câu nói nào của ba nhà đạo sĩ hay câu nói nào của Mẹ Maria hoặc thánh cả Giuse. Nhưng chúng ta có thể ngầm hiểu chính sự im lặng thánh của Mẹ Maria, của thánh cả Giuse và ngay sự im lặng của ba nhà đạo sĩ đã nói lên giờ phút linh thiêng Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại mà ba nhà đạo sĩ là đại diện mọi người. Sự im lặng thánh diễn tả việc các nhà đạo sĩ cung chiêm Chúa cả Trời Đất với tất cả lòng yêu mến, kính trọng và tin cậy của họ nơi Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô đã tỏ mình ra cho mọi dân tộc, Ngài đem an bình, hạnh phúc và ơn cứu độ đến cho mọi người. Chúa đã tỏ mình ra từ lâu nhưng thực tế còn biết bao người chưa nhận biết Chúa, còn biết bao người chưa thấy Ngôi Sao Hy Vọng dù rằng Ngôi Sao vẫn cứ luẩn quẩn trên bầu trời để dẫn đưa con người tìm gặp Chúa. Thế giới ngày nay văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ, nhưng còn biết bao người chưa nhận ra Ngôi Sao dẫn đường để tìm gặp Chúa. Ngôi sao xưa đã dẫn các nhà đạo sĩ phương Đông tìm ra được nơi Chúa sinh ra và họ đã cung chiêm, bái lạy Hài Đồng Giêsu. Xin cho Ngôi Sao xưa vẫn là Ngôi sao ngày nay đang dẫn mọi người đến với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Ngôi Sao Hy Vọng, xin giúp nhiều người, mọi người nhận ra Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng để tất cả như ba nhà đạo sĩ mau mắn đến thờ lạy Vua Giêsu. Xin cho chúng con trở thành những Ngôi Sao lạ để dẫn đường cho nhiều người tìm gặp Chúa. Amen.
The Epiphany of the Lord Lời Chúa cho Hôm nay: TÌM CHÚA QUA CÁC DẤU CHỈ.
* WE HAVE SEEN HIS STAR IN THE EAST *
Bài đọc 1: Isaia 60,1-6= Ánh Sáng của Người đến rồi / Your light has come. Bài đọc 2: Eph.3,2-3;5-6= Tin Mừng cho mọi mọi người / Good New for all… Tin Mừng: Matth.2,1-12= Chúng tôi đến bái lạy Người / We come to adore the Lord.
A- Tôi cảm nghiệm Sống và chia sẻ 3 bài đọc trên: ( Reflections, live out and share)
Mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới:HiểnLinh ABC130
1/ Mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Các vị chiêm tinh là những ai… đã vất vả tìm gặp Chúa, còn tôi đã quyết tâm làm gì ?
Astrologers from the East arrived …:"Where is the newborn king of the Jews?... ( Mtth.2, 1-2 )
2/ Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy người, rồi mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến. Bạn đã đón nhận Chúa thế nào trong đời sống và gia đình với nhiều vất vả hôm nay? Làm sao bạn có thể thấy Chúa hiện diện trong người nghèo khó?
…entering the house, found the child with Mary His mother. They prostrated themselves… ( Matth.2, 11 )
3/ Mầu nhiệm trong Đức Kitô và nhờ Tin mừng...., mọi người cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa. Tôi đã có cái nhìn nào về các anh em ngọai gíaò cùng tin Đức Kitô?
…In Christ Jesus the Gentils…. Members of the same body and shares of the promises… ( Eph. 3, 2-3;5-6)
4/ Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của Người đến rồi, vinh quang của Chúa như bình minh chiếu tỏa. Các biến động đang xảy hôm nay trên thế giới, nói gì với tôi? Tôi đã thức tỉnh điều gì?
Rise up in splendor, Jerusalem! Rise up in splendor, Jerusalem! Your life has come... ( Is.60, 1 )
B- Tôi chọn câu Kinh Thánh hay nhất để làm Châm ngôn sống: ( The best God"s Word )
…CÙNG LÀM NÊN MỘT THÂN THỂ VÀ CÙNG CHIA SẺ ĐIỀU THIÊN CHÚA ĐÃ HỨA.
…members of the same body and sharers of the promise… of the Gospel. ( Eph.3, 6)
C- Tôi quyết tâm làm gì để Sống Lời Chúa dạy hôm nay: ( So what am I doing / For action )
- Tôi chọn 1 trong 4 gợi ý Cảm nghiệm Sống ở phần A để áp dụng vào đời sống.( Practice )
- Tôi tìm Chúa qua những biến cố, dấu chỉ hàng ngày, sống hài hoà với mọi người trong Đức Kitô.
D- Tôi cầu nguyện và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice )
1- Lạy Chúa, các nhà chiêm tinh là những người ngọai đạo, khi thấy ngôi sao, họ đã quyết tâm đi tìm gặp Chuá. Xin cho con biết mau mắn đến với Chúa qua các biến cố xảy đến trong đời con.
2- Thánh Phalô đã nói: Các dân ngọai được cùng thừa kế gia nghiệp, cùng làm thành một thân thể,. Xin gíup con biết sống tình anh em con Chúa với mọi người. trong mầu nhiệm của Đức Kitô.
Lời hay ý đẹp: NGƯỜI TÍN HỮU ĐẾN NHÀ THỜ LÀ ĐỂ ĐÓN NHẬN VÀ SỐNG MẦU NHIỆM THÁNH THỂ VỚI MỌI NGƯỜI, VÀ ĐỂ CHIA SẺ NIỀM TIN.
"Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng Maria mẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược"
Một trong những câu tiếng Anh mà tôi thích hơn cả là "You can give without loving, but you:HiểnLinh ABC131
Một trong những câu tiếng Anh mà tôi thích hơn cả là "You can give without loving, but you can"t love without giving". Tạm dịch là "Bạn có thể cho mà không yêu, nhưng bạn không thể yêu mà không cho".
Mùa Giáng sinh là mùa chúng ta thấy rõ sự thật chứa đựng trong câu nói trên. Thật vậy, trong những ngày này người ta thường quan tâm đến việc mua sắm quà cáp tặng nhau. Các món quà tặng nhau có thể khác biệt từ những thứ đơn sơ như một lá thư, một cánh thiệp, một cú điện thoại chúc lễ, một phong bì với mấy tờ giấy bạc, một chiếc áo ấm, một chiếc quần tay hay đến những thứ mắc tiền như chiếc nhẫn kim cương, hoặc một chiếc xe mới. Giá trị vật chất của các món quà có thể khác nhau, nhưng mục đích của chúng thì giống nhau: chúng bày tỏ sự lưu tâm thương mến quý trọng của người cho dành cho người nhận.
Nếu việc trao tặng không phát xuất từ tình thương mà chỉ cốt để thỏa mãn các đòi hỏi của sự công bình, để cầu cạnh trục lợi hay dụ dỗ, thì người ta không gọi tặng phẩm là quà tặng nữa, nhưng là tiền công, là của hối lộ hay miếng mồi đặt bẩy.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người là tương quan yêu thương. Hơn nữa, Thiên Chúa chính là Tình Thương. Mọi việc Người làm cho nhân loại đều phát xuất từ tình thương vô biên của Người dành cho họ. Vì vậy, mọi sự con người đón nhận từ Thiên Chúa đều là những quà tặng tình thương và nhằm mục đích giúp chúng ta bước sâu hơn vào liên hệ yêu thương với Người.
Trong tất cả những quà tặng Thiên Chúa trao ban cho con người, Chúa Giêsu chính là món quà vượt trên tất cả. Ngài chính là món quà tự thân của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nghĩa là Thiên Chúa đã trao ban chính mình Người cho nhân loại nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, như thánh Gioan viết: "Quả Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế (đó) đến đỗi thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời" (Jn 3:16).
Đó chính là một trong những ý nghĩa sâu xa nhất của lễ Giáng sinh.
Tình thương chỉ có thể đáp trả bằng tình thương. Nếu trong lễ Giáng sinh, chúng ta đã có dịp chiêm ngắm tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho loài người nơi Chúa Hài Đồng, thì hôm nay - lễ Hiển linh - chúng ta có dịp học hỏi với ba nhà Đạo sĩ mà ta thường gọi là HiểnLinh ABCvề sự đáp trả của con người trước quà tặng tự thân của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và những lễ vật mà Thiên Chúa muốn đón nhận từ con người chúng ta.
Theo Tin mừng thánh Matthêô, lễ vật ba Đạo sĩ dâng lên Chúa là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là quý kim và là biểu tượng của hàng vương giả; nhũ hương là loại hương dùng trong việc thờ phượng Thiên Chúa và các bậc thần linh; và mộc dược là thước dùng trong việc tẩm liệm người chết.
Qua việc dâng tặng Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược, các Đạo sĩ đã thay mặt Hội thánh để tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua Tình yêu, Đấng đáng được muôn loài suy phục và đáng được ngự trị trong tâm hồn từng người; Ngài chính là Thiên Chúa Chí Tôn đáng được mọi người thờ lạy với tình yêu tuyệt đối; và Ngài đã vì yêu thương chúng ta nên đã mắc lấy bản tính và thân phận con người của ta, nên giống chúng ta mọi sự chỉ trừ tội lỗi, và tột đỉnh của tình yêu hiệp nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Giêsu chính là việc Ngài đã chia sẻ sự chết của ta.
Vàng, nhủ hương và mộc dược ở đây cho ta thấy địa vị siêu việt của Chúa Giêsu. Đồng thời, những lễ vật này cũng nhắc chúng ta nhớ đến phẩm giá cao trọng tuyệt vời của ơn gọi làm người Kitô hữu. Vì khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, được trở nên chi thể của Thân thể nhiệm mầu của Chúa là Hội thánh. Chúng ta được Chúa Kitô cho chia sẻ chính địa vị vương đế, tư tế và ngôn sứ của Người. Thánh Phêrô đã gọi chúng ta là "dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn là sở hữu" của Chúa để ca ngợi vinh quang Chúa (1 Pet 2:9).
Qua việc mạc khải cho chúng ta biết những lễ vật ba Đạo sĩ - những người đại diện đầu tiên của Hội thánh - đã dâng tiến Chúa Hài đồng, Chúa muốn chúng ta cũng phải dâng tiến Chúa những lễ vật mà vàng, nhũ hương và mộc dược đã được chọn làm biểu tượng. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người vàng ròng là lòng mến yêu tuyệt đối dành cho Người qua việc sống trọn vẹn giới luật mến Chúa yêu người. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người nhũ hương của một đời sống được thấm nhuần bầu khí nguyện cầu mà đỉnh cao là hy lễ Thánh thể, khi chúng ta được nên một với Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa một động tác yêu mến tôn thờ cao trọng nhất. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Chúa mộc dược của một sự bỏ mình liên lỉ qua những hy sinh to nhỏ trong cuộc sống hàng ngày như một sự nối dài của cái chết hy sinh trên thập tự của Chúa Giêsu, để qua đó chúng ta được chia xẻ vinh quang phục sinh của Người.
Với tinh thần yêu thương hiệp nhất, cầu nguyện và hy sinh, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên giống cuộc sống của chính Chúa Kitô và làm thành một lễ vật sống động đẹp lòng Chúa. Đây chính là điều thánh Phaolô từng kêu gọi các tín hữu tiên khởi phải nỗ lực thực hiện: "Vậy hỡi anh em, nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi khuyên anh em: hãy hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em. Đừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương trí, mà biến hình đổi dạng, làm sao cho anh em thẩm định được ý định Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo" (Rm 12:1-2).
Chúng ta còn phải học với ba Đạo sĩ cách thức dâng tiến lễ vật lên Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật rằng "Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng MariaMẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược" (Mt 2:11).
Khi ấy, Chúa Giêsu là một Hài Nhi mới sinh còn hoàn toàn tùy thuộc sự chăm sóc của Mẹ Maria. Chúa chưa thể tự mình đón nhận lễ của ba Đạo sĩ. Người muốn Mẹ Maria thay Người đón nhận lễ vật của các ông. Về phía ba Đạo sĩ, khi gặp Chúa Hài Nhi và phục bái Người thì các ông luôn gặp Chúa và phục bái Người bên cạnh Mẹ và có lẽ Chúa Hài Nhi đang ở trong vòng tay Mẹ. Chắc chắn lúc ấy các lễ vật của ba Đạo sĩ chỉ được Chúa đón nhận bằng một cách duy nhất: qua tay Mẹ Maria!
Đó là lý do tại sao các tín hữu đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại luôn noi gương ba Đạo sĩ và làm theo ý Chúa khi biết nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và để tận hiến cho Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ day chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa bằng tinh thần yêu thương bác ái, cầu nguyện và hy sinh, để xứng đáng với ơn gọi làm con Chúa, là Kitô hữu của mình. Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết nhờ Mẹ để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và tận hiến cho Chúa, như gương ba Đạo sĩ năm xưa. Amen. NS Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Mỗi năm đến tháng Mười Hai, người người tấp nập mua sắm những món quà để trao tặng:HiểnLinh ABC132
Mỗi năm đến tháng Mười Hai, người người tấp nập mua sắm những món quà để trao tặng cho nhau trong ngày Noel mà ta gọi là Sinh Nhật Chúa Kitô. Chắc chắn bạn và tôi có rất nhiều niềm vui trong đêm Noel, vì cũng đã tặng và nhận được những cánh thiệp dễ thương, những món quà rất đỗi ngạc nhiên. Nhưng trong vui mừng hoan hỉ đó, có ai trong chúng ta nghĩ đến món quà để tặng cho Chúa Hài Nhi như ba nhà Đạo sĩ không? Thánh Matthêu kể lại ba nhà Đạo sĩ đã vất vả theo ánh Sao lạ để tìm Chúa Hài Nhi. Họ đã tìm thấy và dâng lên Ngài: vàng, nhũ hương và mộc dược. Còn tôi, làm sao tôi tìm thấy Chúa để dâng lên Ngài món quà của tôi?
Henry Van Dyke có thuật lại câu chuyện với nhan đề “The Other Wiseman” như sau. Artaban là người đáng lẽ đã cùng ba nhà Đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaben cũng mang một túi ngọc quí để dâng tặng Ấu Vương, thế nhưng trên đường đến gặp ba vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ ngồi bên vệ đường và đã cho đi tất cả số ngọc quí của mình. Qua bao nhiêu năm sau, Artaban đã trở nên nghèo và tiếc nuối vì không được gặp Đấng mà ông mơ ước được trông thấy. Một ngày kia, ông được nghe một tiếng kỳ diệu phán với ông: “Này Artaban, đừng buồn khổ nữa! Suốt đời con đã giúp đỡ ta. Món quà mà con đã cho người khốn khổ kia là đã cho ta rồi.”
Câu truyện trên đây cho ta biết rằng: chúng ta có thể tìm gặp Chúa và dâng lên Chúa những món quà quí giá hơn cả những món quà của ba Đạo sĩ nữa. Bởi vì món quà của chúng ta không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần, mà chính là món quà của tình yêu và tinh thần bác ái với tha nhân. Hôm nay, Giáo hội mừng kính lễ Hiển linh Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại qua các Đạo sĩ để nhắc nhủ chúng ta rằng, tất cả chúng ta đều có những món quà để dâng tặng cho Chúa.
Hãy chạy đến với Bí tích Thánh thể, chúng ta có thể tìm gặp Đức Kitô mà không cần phải tốn phí công lao, khó nhọc vất vả lên đường tìm nơi xa xôi mà chỉ cần mở rộng tâm hồn để đón nhận Chúa bằng lòng tin, cậy, mến.
Hãy đến với người nghèo khó đáng thương để giúp đỡ họ, Chúa sẽ tỏ cho ta thấy hình ảnh Ngài trong họ. Mỗi mùa Giáng sinh đến và qua đi, chúng ta biết trao cho nhau những món quà quí giá nói lên tình cảm con người với nhau, nhưng thử hỏi có một cánh thiệp, món quà nào cho người hành khất bên đường, hay cho những ai rét run vì giá lạnh và cô đơn không?
Hãy nhiệt tình chào hỏi những người bạn không ưa thích với một ánh mắt trìu mến, một nụ cười cảm thông. Hãy làm hoà với những ai bạn vừa gây gỗ hay ghét cay ghét đắng. Hãy thăm hỏi những bệnh nhân liệt giường không thuốc thang. Hãy san sẻ một món quà cho những trẻ mồ côi không ai quan tâm đến.
Đó là những món quà có giá trị, ý nghĩa nhất. Chắc chắn Chúa sẽ hài lòng với chúng ta.
Lạy Chúa Hài Nhi yêu mến, xin mở mắt chúng con nhìn thấy Chúa qua tha nhân, để chúng con biết sống quãng đại và biết nhận ra dấu chỉ của thời đại hầu đón nhận ý Chúa và tìm đến với Người.
Phụng vụ hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể lễ Hiển linh của Chúa chúng ta, đó là:HiểnLinh ABC133
Phụng vụ hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể lễ Hiển linh của Chúa chúng ta, đó là ngày lễ quan trọng cho Giáo Hội. Ngày lễ Giáng sinh Chúa Kitô mạc khải chính mình cho dân Do thái, nhưng ngày lễ Hiển linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại qua các vị Đạo sĩ. Chữ hiển linh có nghĩa là: Chúa mở nguồn ân sủng ánh sáng cho toàn thể nhân loại. Tiên tri Isaia nói với toàn thể nhân loại rằng: “Hỡi Giêrusalem! Kìa tối tăm bao phủ địa cầu, u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi, Thiên Chúa đang đứng dậy, và vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Ngài.”
Trong bối cảnh đêm Giáng sinh, Thiên thần báo tin vui “Đấng Cứu thế giáng sinh” cho các mục đồng tại cánh đồng Bêlem (Lc 2:1-12). Việc các Đạo sĩ nhìn thấy sao lạ xuất hiện, họ quyết định lên đường tìm đến Bêlem để triều yết “Vua Do thái” mới sinh. Hai cuộc hành trình từ hai khởi điểm khác nhau trong không gian và thời gian, nhưng cùng một mục đích: tìm gặp Chúa Hài Nhi.
Đời sống Kitô hữu thường được diễn tả như một cuộc hành trình. Hình ảnh mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất hành trình là một diễn tiến có khởi điểm và đích tới: tôi từ đâu tới và đang đi về đâu. Thứ hai, hành trình hiểu là có di chuyển, thay đổi. Đứng tại chỗ không gọi là hành trình. Vì thế hôm nay tôi đi xa hơn hôm qua và kém ngày mai. Vì có di chuyển nên có vấn đề nhanh chậm, đúng hướng hay lạc đường. Thứ ba, hành trình nào cũng có gian lao, vất vả thấm mồ hôi và bụi đường. Người lữ hành trên đường về cố hương phải dạn dày với gió sương, mưa nắng, nhọc nhằn và đói khát. Phương châm của người lữ hành là nhắm hướng trước mặt mà tiến tới. Cuộc hành trình về nha Cha trên trời mỗi người hành trình một khác, nhưng vẫn có những tương đồng. Ba Đạo sĩ và các mục đồng đều nhận được dấu chỉ của Chúa trước khi lên đường. Các Đạo sĩ nhìn thấy ngôi sao lạ xuất hiện trên trời, còn các mục đồng được thiên thần đến báo tin. Họ hân hoan lên đường, dù không có gì bảo đảm chắc chắn, ngoài những lời giải thích vắn tắt của các Thiên thần “các ngươi sẽ thấy một con trẻ bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12).
Đức tin dạy rằng Chúa ở khắp mọi nơi. Điều đó có nghĩa là mọi biến cố, mọi sự vật, sự việc xảy ra trong đời sống đều là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Qua những dấu chỉ đó, Chúa tỏ cho ta biết về chính Ngài về tình thương, sự săn sóc, quan phòng, bình an, niềm vui, ơn tha thứ của Ngài. Và đồng thời Chúa cũng tỏ cho ta biết Ngài chờ đợi nơi ta. Những biến cố cũng là lời mời gọi của Chúa, những “ánh sao lạ”, những lời báo tin vui, “Hôm nay Đấng Cứu thế đã giáng sinh” cho chúng ta (Lc 2:12). Nhưng vì chúng ta quá bon chen với đời sống hiện tại, nên thường không nhìn thấy những “ánh sao” của Chúa. Đời sống có nhiều lời mời gọi, nhiều thu hút và níu kéo, nên ta không có giờ để “dừng lại”, để suy nghĩ về những biến cố xẩy ra hằng ngày. Trái lại, công danh sự nghiệp, tình yêu và giải trí... những vấn đề đó chiếm hết đầu óc và thì giờ của ta, làm ta say mê, tất cả những vấn đề khác bị xuống hàng thứ yếu, hay bị gạt ra ngoài. Vì thế, ta cần những ngôi sao dẫn đường để nhận ra những dấu chỉ và thi hành ý Ngài.
Sau khi nhìn thấy ngôi sao, “vì chúng tôi đã thấy ngôi sao Người ở phương Đông” (Mt 2:2), các Đạo sĩ đã lên đường, “và chúng tôi đến thờ lạy Ngài”. Sau khi được thiên thần báo tin, các mục đồng hân hoan rủ nhau tiến về Belem “chúng ta hãy đi Belem để xem việc đã xảy ra và Chúa đã cho chúng ta biết” (Lc 2:15). Cả hai cùng đồng hành chứ không độc hành. Trong cuộc hành trình đức tin, người tín hữu không độc hành. Họ đồng hành với Chúa Kitô và với anh em. Vì thế Ngài muốn chúng ta nâng đỡ nhau trong cuộc lữ hành trần gian về với Ngài. Không có Kitô hữu nào ích kỷ, thu mình vào “vỏ ốc” mà có thể sống ơn gọi Kitô cách hoàn toàn. Chúa bảo chúng ta trở nên ánh sáng, muối đất. Không đến với anh em làm sao tôi có thể chu toàn sứ mệnh này. Sống ích kỷ là “đốt đèn rồi bỏ dưới đáy thùng”, là không chịu chiếu sáng. Vì thế mỗi Kitô hữu phải dấn thân phục vụ và nên nhân chứng đích thực của Tin Mừng tình thương trong môi trường sống của mình.
Sau khi gặp Chúa Hài Nhi, các Đạo sĩ được báo mộng nên dùng “đường khác” trở về quê hương. Gặp được Chúa đời sống chúng ta sẽ được biến đổi; chúng ta sẽ đi “con đường khác”, là con đường mà Chúa Kitô nói đến trong Phúc âm “là đường của sự thật và sự sống” thì chúng ta sẽ hành trình trong niềm vui và bình an. Cuộc sống sẽ trở nên những vì sao sáng dẫn đường cho muôn dân nhận biết Chúa và tìm đến tôn thờ Ngài, hầu được trở nên đồng thừa tự lời hứa vinh quang với toàn dân Chúa. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần Lời Hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Đó cũng là sứ mệnh truyền giáo mà Giáo hội nhắc nhở chúng ta hôm nay. Mỗi người hãy can đảm mạo hiểm làm một cuộc hành trình tiến về Belem và dám trở về nhà bằng một tuyến đường mới qua cuộc sống. Khi đã tìm thấy Belem rồi, như các Đạo sĩ dâng cho Ngài vàng, nhũ hương, mộc dược; còn chúng ta dâng chính con người mình cho Ngài như một tạo vật được tháp nhập vào Chúa Kitô. Món quà đó thật có giá trị đáng giá, quí báu và không bao giờ hư nát. Để rồi cuối cuộc hành trình chúng ta sẽ gặp được Con trẻ Giêsu, thánh Giuse và Mẹ Maria. Lúc đó chúng ta sẽ giới thiệu Chúc Kitô cho mọi người mình tiếp gặp hằng ngày.
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay theo thánh Matthêu về “lễ Ba Vua” (ba thánh sử khác không:HiểnLinh ABC134
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay theo thánh Matthêu về “lễ Ba Vua” (ba thánh sử khác không tường trình biến cố này), chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về “các nhà chiêm tinh”! Ngày xưa ở Trung Đông, nhất là tại Ba-tư, các vị chiêm tinh, hoặc đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại đặt tên cho họ: Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ thứ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho toàn nhân loại, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.
Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân Số: “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp (nhà Đavít), một vương trượng (vua) trổi dậy từ Ít-ra-en”(24:17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để đến thờ lạy người.
Khi đến Giê-ru-sa-lem là thủ đô Do-thái, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của tân vương. Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, hỏi tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân, và được biết Đấng Kitô sinh ra ở Bêlem dựa theo lời tiên báo trong sách Mi-kha: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (5:1). Hài Nhi mới sinh ra chính là vị Cứu Tinh (Mê-si-a) mà Ít-ra-en đã mong chờ từ lâu.
Khi tìm được Vua Hài Nhi, họ sấp mình bái lạy Người và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba lễ vật tượng trưng: vàng nói rằng Người là vua, vì vàng là kim loại quý dùng để dâng cho vua; nhũ hương nói rằng Người là Thiên Chúa vì người ta xông hương để tôn kính các thần thánh; mộc dược, hương liệu được dùng để liệm người chết, nói lên nhân tính của Người. Các Kitô hữu nhìn nhận nơi Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai được mong đợi (vàng), Con Thiên Chúa (nhũ hương), Đấng hiến dâng mạng sống trên thập giá (mộc dược).
Các vị chiêm tinh này đại diện cho các dân ngoại đã nhìn nhận vương quyền của Hài Nhi ngay từ lúc Người mới chào đời. Họ cũng đại diện cho những người thành tâm thiện chí tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa. Với những bước dọ dẫm và với sự kiên trì, cuối cùng họ đã gặp được Thiên Chúa và dâng cho Người những thứ quý giá nhất.
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy dùng ít phút để suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, vược xa trí tưởng tượng của con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Nhưng Con Thiên Chúa ở trong một máng cỏ nghèo nàn. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người không phải qua bề ngoài nghèo hèn bằng con mắt nhân loại, nhưng bằng con mắt đức tin.
Cách đây 2000 năm nay, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ. Từ đó, Người muốn mỗi người chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh (“Các con là ánh sáng cho trần gian” -Mt 5:14) để dẩn dắt tha nhân đến với Thiên Chúa, như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2:15)
Uớc gì mỗi người chúng ta là một ngôi sao đức tin, được chiếu tỏa bởi tình thương và bác ái trong đời sống thường nhật của chúng ta.
Từ ngày còn trẻ, tôi vẫn thích đọc đi đọc lại đoạn Phúc Âm của Thánh Matthêu đoạn II câu 1:HiểnLinh ABC135
Từ ngày còn trẻ, tôi vẫn thích đọc đi đọc lại đoạn Phúc Âm của Thánh Matthêu đoạn II câu 1 đến 12, nói về 3 Nhà chiêm tinh - quen gọi là HiểnLinh ABC- đi tìm thờ lạy Chúa Giêsu sinh ra.
Bài Phúc âm với nhiều tình tiết hấp dẫn xem ra phù hợp với óc tưởng tượng phong phú của thanh niên, nhưng sau này tôi mới biết, óc tưởng tượng rất cần thiết cho việc nghiền ngẫm Kinh Thánh, không chừng là dụng cụ để Chúa Thánh Linh tác động trong lòng mỗi người, ở bất cứ thời nào, ở bất cứ địa vị nào. Vậy ta hãy tưởng tượng không phải là Ba Vua, mà là Bốn Vua đi tìm thờ lạy Chúa Giêsu.
Một ông mang vàng, một ông mang mộc dược, một ông mang nhũ hương, đi một nhóm với nhau, hẹn ông thứ tư tên là Arbakan mang kim cương và ngọc bích đi riêng lẻ, song hẹn nhau ở một điểm và ngày giờ, để cùng nhau tìm gặp Chúa Giêsu.
Arbakan trên đường đi bị chậm trễ, vì bận giúp đỡ một người bị cướp dọc đường, bỏ sống dở chết dở. Ông phải đem người bị nạn tới bệnh viện và trao một phần ngọc quí để các thầy thuốc chăm sóc cho người bị thương.
HiểnLinh ABCchính thức đúng ngày đúng giờ rủ nhau cùng đi và như Phúc Âm kể lại, họ đã được gặp Chúa và dâng lễ vật. Riêng ông Vua thứ Tư đến chậm, lạc đường, nên đến đúng lúc cả gia đình Thánh Gia di cư sang Ai Cập. Lúc đó quân lính của vua Hêrôđê đang tràn qua kinh thành Belem chém giết các trẻ em vô tội. Arbakan đi qua một khu phố thấy toán lính đang vây hãm một đám đông các mẹ bồng con, chúng đang định xông vào chém giết, ông chạy lại gặp vị chỉ huy của nhóm lính, đưa cho hắn một túi kim cương, để xin tha chết cho nhóm trẻ con ngây thơ. Bọn lính lấy châu ngọc và tha chết cho các em rồi rút lui.
Ông Vua thứ Tư quyết định ở lại Giêrusalem, số châu ngọc còn lại, ông phát cho quan gia đầy tớ và cho họ về cố quốc, chỉ giữ lại 5, 3 viên ngọc, để dành làm kế sinh nhai.
Mấy hôm sau, ông đang lang thang trên khu vực núi đồi gần kinh thành Giêrusalem, thì gặp một đám thanh niên người La-mã càn quấy đang bắt giữ và nạt nộ một cô gái Do-thái. Ông tiến tới và bỏ nốt mấy viên ngọc quí ra cho tụi thanh niên, để đổi lấy tự do cho cô gái bất hạnh.
Từ đó, ông sống một đời thanh bạch vẫn không ngừng đi tìm Chúa, cho tới hơn 80 tuổi. Mắt ông đã mờ, chân tay run rẩy, đi đâu phải chống gậy. Một hôm ông lê bước ra cửa thành thấy đám đông la hét, bọn lính La-mã đang xô đẩy một người đàn ông vác thanh dọc của cây khổ giá, do linh tính thúc đẩy, ông liền đi theo đám đông lên Núi Sọ chứng kiến Người bị đóng đanh, đưa mắt nhìn, ông có cảm giác là đã tìm thấy Ngài Giêsu, Vua dân Do-thái, mà Ngôi sao trên bầu trời năm xưa đã tiên báo. Mặc dầu trên đầu Ngài chỉ là mạo gai thay cho triều thiên và toàn thân trần trụi thay cho áo hoàng bào. Ông lão run run quì xuống chân Cây khổ giá đưa mắt nhìn lên đôi mắt hiền dịu của Chúa, đưa 2 bàn tay ra và nói: “Lạy Thầy Giêsu, theo Ngôi sao dẫn đường, con biết Ngài đã sinh ra, và con đã đi tìm Ngài suốt 30 năm trời, lúc đó đôi bàn tay con còn đầy châu ngọc để hiến dâng lên Ngài, giờ đây con đã tìm thấy Ngài trong cảnh khốn quẫn, thì những của cải con đã tiêu phí hết, con chỉ còn đôi Bàn Tay trống rỗng hiến dâng Ngài”.
Chúa Giêsu nở một nụ cười âu yếm và phán ra trong hơi thở hổn hển: ”Ông lão yêu mến của Ta ơi! Ông đã tìm thấy Ta nhiều lần rồi mà: Qua con người bị trọng thương, qua mấy em nhỏ vô tội, qua người con gái bị áp bức và giờ đây qua Người tử tội Giêsu trên khổ giá. Ông đã hiến dâng cho Ta toàn bộ kho ngọc quí, vậy giờ đây hãy giơ 2 tay trống rỗng ra, Ta sẽ đổ vào đó tràn đầy những giọt Máu châu báu của Ta”.
Ông lão Arbakan thấy bàn tay của mình mở rộng và những giọt Máu từ Trái Tim, từ các vết thương trên thân xác Chúa đổ tràn đầy, biến thành các viên trân châu bảo ngọc. Ông lão hoa mắt gục xuống.
Vào lúc 3 giờ chiều hôm ấy, Chúa trút hơi thở cuối cùng, linh hồn bay thẳng về trời, có 2 linh hồn khác bay hầu hai bên: Một ông Vua Chiêm tinh giầu có vừa kể, đã hiến dâng tất cả, để tìm thấy... Chúa... là tất Cả. Một anh ăn trộm nghèo rớt muồng tơi đã đi ăn trộm, và biết Ăn trộm cả Thiên đàng, nơi có Chúa và Tất cả.
Ôi! Lạy Chúa, 2000 năm qua, không phải chỉ 4 vua và hàng triệu triệu con người lên đường tìm Chúa, trong đó có các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo hữu chúng con. Ai là người đã vào số 3 Vua... đã thấy Chúa trong cảnh đơn sơ khó nghèo ở Belem, nhưng cũng đã Tin Chúa, thay đổi cả cuộc đời và được cứu thoát.
Ai là người như ông vua thứ Tư miệt mài tìm Chúa trong cả cuộc đời, nhưng lại thấy Chúa trong thân tàn ma dại, đau khổ cùng cực, cô đơn, hấp hối trên Khổ Giá, để rồi cũng được trở nên đích thực Giầu có vì thấy Chúa.
Đó là những kẻ “Có phúc vì thấy Chúa mà tin”, song đa số là những kẻ “Không thấy mà tin” và vì thế được Tuyên Xưng là có phúc.
Đó là những ai - Tìm thấy Chúa trong người bị thương - con trẻ bị bách hại - người bị áp bức và muôn vàn trường hợp khác như Chúa đã tóm tắt trong dụ ngôn Ngày Phán xét: “Khi Ta đói các con đã cho ăn v.v...”.
Nói đúng hơn, đó là những Ngôi Sao đã mọc lên trên Bầu trời của đời chúng con, báo hiệu và hướng dẫn chúng con thấy Chúa.
Ngôi sao trên bầu trời đêm xanh huyền diệu cũng nói lên vẻ huy hoàng của Thiên Chúa sáng tạo.
Ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Giáo Hội hoàn vũ như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đang hướng dẫn cả nhân loại đi tìm gặp gỡ Chúa.
Ngôi sao đã tắt như Mẹ Térésa Calcuta đã từng mở mắt cho mọi người tìm gặp Chúa trong những trẻ cô đơn, những người già hấp hối.
Những ngôi sao chúng con yêu, yêu chúng con, có ngôi chúng con không thích hoặc không thích chúng con, có Ngôi quen thuộc hoặc lạ lẫm, có Ngôi sao là dấu chỉ vui mừng thành công, nhưng cũng nhiều khi là thất bại đắng cay chảy nhiều nước mắt. Tất cả đều có hệ gì, nếu chúng con tìm thấy Chúa và có can đảm xòe bàn tay để hiến dâng cho Chúa những gì chúng con có. Cho đến ngày cuối cùng của đời trong cái trống rỗng của đôi bàn tay, vì đã cho đi tất cả vì Chúa, chúng con được gặp gỡ Chúa lần sau hết, được đầy tràn kho báu của Bửu Huyết Chúa đã đổ ra để Cứu Chuộc chúng con và toàn thể nhân loại. Chớ gì được như vậy. Amen.
Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy có đoạn Chúa Giêsu nhắc nhở con người cần biết nhận định:HiểnLinh ABC136
Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy có đoạn Chúa Giêsu nhắc nhở con người cần biết nhận định những hiện tượng tự nhiên, thế tục để suy nghiệm hầu thăng tiến nơi hành trình tâm linh, “Đức Giê-su cũng nói với đám đông rằng: "Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các người nói ngay: "Mưa đến nơi rồi", và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió nồm thổi, các người nói: "Trời sẽ oi bức", và xảy ra đúng như vậy. Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét? Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải?” (Lc. 12:54-57).
Phúc Âm được viết dưới dạng hồi ký qua cách ráp nối những biến cố xảy đến với Chúa Giêsu, những dụ ngôn Ngài giảng dạy, những câu nói ám định, dùng những sự thể hiện thực, mắt thấy tai nghe, nhưng tất cả đều hàm chứa sự khôn ngoan đòi hỏi tâm trí con người suy nghiệm thâm sâu hầu áp dụng nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh.
Thí dụ câu nói, “Ai có tai thì nghe” được lặp đi lặp lại tám lần nơi Phúc Âm Nhất Lãm. Ai là người được sinh ra không có tai ngoại trừ những trường hợp được coi là bất hạnh. Tất nhiên tai dùng để nghe, nhưng tại sao lại phải đặt vấn đề ai có tai thì nghe. Xét như thế, câu hỏi được nêu lên, phỏng tai có thể nghe hay tai chỉ là phương tiện để nghe. Vậy sự gì, sự thể nào dùng tai để nghe nơi mỗi người. Suy vậy, câu Phúc Âm “Ai có tai thì nghe” mang ý tứ thâm sâu nào đó cần được suy tưởng.
Bài Phúc Âm Lễ Hiển Linh nêu lên trường hợp mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương nhận biết ngôi sao lạ và tìm đến Giêrusalem để triều bái hài nhi Giêsu. Những nhà đạo sĩ đó nếu không chiêm ngắm những hiện tượng xảy ra nơi trời đất tất sẽ không nhận biết sự xuất hiện của ngôi sao lạ. Cũng như chúng ta, nếu không để ý, theo dõi thời tiết qua radio, TV, hoặc mạng lưới điện tử, hay nơi báo chí, chắc chắn sẽ gặp nhiều cảnh phiền hà vì rơi vào những trường hợp thời tiết bất thuận nơi cuộc sống.
Xét thế, cuộc đời một người có thể nói là cơ hội hay phương tiện để học những bài học cần phải học. Dẫu cơ hội thuận ý hay bất lợi cũng đều được coi là cơ may đối với những ai để tâm nghiệm chứng vì cho dù thế nào, người ấy cũng học được bài học nào đó tuy không chấp nhận đó là cơ may.
Chúng ta may mắn được Chúa Giêsu là đường, là sự thật, và là sự sống, là những cơ may hướng dẫn nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh. Những sự khôn ngoan, những cơ hội, những phương thức Ngài chỉ dạy được ghi lại nơi Phúc Âm.
Mấy nhà đạo sĩ Đông phương chiêm nghiệm sự chuyển vận của trời đất nên nhận biết ngôi sao lạ dẫn đến chiêm bái Hài Nhi. Chúng ta có để tâm suy nghiệm những cơ may được ghi lại nơi Phúc Âm để thăng tiến nơi hành trình tâm linh hay để cho cuộc đời của mình qua đi như đã chưa bao giờ hiện hữu nơi cõi nhân sinh. Không suy nghiệm Phúc Âm tất nhiên chấp nhận lỡ chuyến tầu, một chuyến tầu trị giá cuộc đời một người.
Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu:HiểnLinh ABC137
Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.
Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố… Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác. Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực: thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê Thị Thành… Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao: thánh Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta… Và ngôi sao sáng chói trong mọi thời đại: Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối.
Lạy Chúa Giêsu, Ánh Sáng thần linh giữa trần gian, luôn ban cho chúng con cũng như mọi người những ngôi sao dẫn đường.
“Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, …” (Mt 2,1)
Chiêm tinh là gì? Chiêm tinh được coi như môn khoa học nhận thức về những mối quan hệ qua:HiểnLinh ABC138
Chiêm tinh là gì? Chiêm tinh được coi như môn khoa học nhận thức về những mối quan hệ qua lại giữa vũ trụ thiên nhiên và con người, và "là thuyết về mối quan hệ dường như tồn tại giữa các vị trí của các vì sao trên trời và các sự kiện lịch sử, số mệnh con người và của các dân tộc".
Chiêm tinh thời cổ đại
Chiêm tinh học xuất hiện từ thời cổ đại và cùng phát triển dần dần ở cả phương Tây và phương Đông.
Lịch sử khoa chiêm tinh ở châu Âu và Trung Đông có mối quan hệ mật thiết với nhau, miền này có ảnh hưởng đến miền kia. Bouché Leclercq, Cumont và Boll cho rằng thời điểm giữa thế kỷ IV trước công nguyên là lúc mà chiêm tinh Babylon đã chắc chắn xâm nhập vào văn hóa châu Âu.
Sự lan rộng của khoa chiêm tinh trùng hợp với sự ra đời của giai đọan khoa học thực sự của khoa thiên văn tại chính Babylon. Điều này có lẽ đã làm suy yếu khoa chiêm tinh về một số mặt mà khoa chiêm tinh đã có ít nhiều ảnh hưởng trên các giáo sĩ và quần chúng. Một yếu tố khác dẫn đến sự sụp đổ của niềm tin cũ tại thung lũng sông Euphrate có lẽ là sự xâm nhập của người Ba Tư là những người đã mang đến cho họ một tôn giáo hòan tòan khácvới tôn giáo đa thần của cư dân Babylon và Assyri.
Chiêm tinh Ai Cập: dựa trên sự kết hợp của Mặt trời và sao Thiên Lang (sirius). Khi sao Thiên Lang xuất hiện, nước sông Nin sẽ dâng lên mang đến màu mỡ cho những cánh đồng trên lưu vực sông. Kim tự tháp của Ai Cập cũng phản ánh tầm quan trọng của khoa chiêm tinh. Tất cả những kim tự tháp đều hướng về phíc cực bắc của bầu trời, Nhiều pharaon rất thích khoa thiên văn. Ramses II tương truyền là đã định vị được các chòm sao Bạch dương, Bắc giải, Thiên xứng và Hổ cáp và có lẽ cả chòm sao Song sinh.
Chiêm tinh Hi Lạp: Sau khi Alexander Đại đế chiếm đóng Ai Cập vào năm 332 trước công nguyên, Ai cập chịu sự cai trị và ảnh hưởng người Hi Lạp. Chính tại Ai Câp thời Alexander Đại đế, khoa chiêm tinh tử vi xuất hiện lần đầu tiên. Việc cố gắng tìm dấu vết của các hành tinh vào thời điểm sinh ra của mỗi người là đóng góp có ý nghĩa nhất của người Hi Lạp cho khoa chiêm tinh. Đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của khoa chiêm tinh tử vi là nhà chiêm tinh và thiên văn Ptolemy mà công trình của ông là bộ Tứ Thư (Tetrebiblos) đặt cơ sở cho truyền thống tử vi phương Tây. Dưới thời Hi Lạp và đặc biệt là thời đại của Ptolemy, các hành tinh, các sao, các cung đã hòan chỉnh và và vai trò của nó thay đổi rất ít so với ngày nay. Tác phẩm của Ptolemy về chiêm tinh cũng là cơ sở cho việc giảng dạy của phương Tây về môn học này trong 1300 năm tiếp theo. Các nhà chiêm tinh chia Hoàng đạo thành 12 cung (mỗi cung 30 độ): Aries - Bạch dương (21/3-20/4); Taurus – Kim ngưu (21/4-21/5); Gemini - Song Sinh (22/5-21/6); Cancer - Bắc giải (22/6-23/7); Leo - Sư Tử (24/7-23/8); Virgo - Xử Nữ (24/8-23/9); Libra - Thiên Bình (24/9-23/10); Scorpio - Hổ cáp (24/10-22/11); Sagittarius - Nhân Mã (23/11-21/12); Capricornus – Dương cưu (22/12-20/1); Aquarius - Bảo bình (21/1-19/2); Pisces - Song Ngư (20/2-20/3)
Chiêm tinh châu Âu thời trung cổ và thời phục hưng
Khoa chiêm tinh thể hiện tòan bộ sự hiểu biết và truyền thuyết thần bí của người Do Thái và qua họ cùng với những kênh khác đã trở thành chất liệu của khoa chiêm tinh thời trung cổ. Cuối cùng, điều này dẫn đến việc những giáo sĩ cao cấp của Giáo hội Công giáo và những mục sư Tin Lành sử dụng những sự giúp đỡ của các nhà chiêm tinh.
Trong thời Trung cổ, các chà chiêm tinh được gọi là “mathematici”. Về mặt lịch sử, từ ngữ “mathematicus” được dùng để chỉ một người thông thạo khoa chiêm tinh, thiên văn và tóan học. Vì việc chữa bệnh dựa trên một chừng mực nào đó của khoa chiêm tinh, các bác sĩ phải học một ít về tóan và chiêm tinh.
Vào thế kỷ XIII, Johannes de Sacrobosco (1195-1256) và Guido Bonatti (người Ý) là những nhà chiêm tinh nổi tiếng nhất ở Anh và châu Âu. Quyển “Liber Astronomicus” nổi danh là tác phẩm thiên văn quan trọng nhất được in bằng tiếng la tinh vào thế kỷ XIII.
Jerome Cardan (1571-1576, vừa là nhà chiêm tinh, bác sĩ, tóan học và còn là một người cờ bạc, rất ghét Martin Luther và vì vậy ông đã đổi ngày sinh của Luther để cho Luther có một lá số tử vi không có lợi. Dưới thời Cardan, cũng như dưới thời Augustus, người ta thường giấu giếm giờ và ngày sinh cho đến khi nào họ tìm được một nhà chiêm tinh yêu thích.
Chiêm tinh Trung Hoa và Đông Á
Người phương Tây thường gọi là “Chiêm tinh Trung Hoa” theo truyền thống nhưng thực ra không chỉ là Trung Hoa nhưng còn để chỉ Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam.
Người ta tin rằng khoa chiêm tinh đã xuất hiện ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ ba trước công nguyên. Khoa chiêm tinh được đánh giá rất cao ở Trung Hoa và quả thực người ta cho rằng Khổng Tử coi trọng khoa chiêm tinh khi nói rằng “Trời cho điềm tốt và điềm xấu, người khôn ngoan phải ứng xử cho phù hợp”. Một chu kỳ 60 năm bao gồm 5 vòng 12 con giáp được tìm thấy trong các tài liệu có từ đời nhà Thương (1766 – 1050 trước công nguyên). Một trong những nhà chiêm tinh nổi tiếng nhất là Chu Tử (sống vào khỏang 300 năm trước công nguyên ) đã viết “Khi một triều đại mới sắp sửa nổi lên, Trời sẽ cho nhân dân thấy những điềm hứa hẹn”
Chiêm tinh dưới thời Kitô giáo
Ngay từ đầu, giáo hội Công giáo đã mạnh mẽ bác bỏ những điều giảng dạy sai lầm của khoa chiêm tinh. Các giáo phụ lên tiếng đòi hỏi phải trục xuất những người Sanđê (Chaldeans) vì đã gây nguy hại cho nhà nước và quần chúng vì họ đã hành nghề thần bí, giữ các quan niệm sai trái và cổ vũ cho lối thờ phượng sai lạc. Những khuynh hướng sai lầm này gây khó khăn cho việc nhận định cái đúng và cái sai và àm suy yếu nền tảng luân lý của đạo đức con người. Những giáo hội Kitô giáo đầu tiên không dung tha cho những tín hữu nào tin theo lọai “giả khoa học” này. Nhà tóan học nổi tiếng là Anguila Ponticus bị trục xuất ra khỏi công đòan Kitô giáo tiên khởi vào năm 120 vì tội chiêm tinh dị giáo. Những Kitô hữu ban đầu ở Rôma coi chiêm tinh là những điều chua xót nhất vì lúc bấy giờ, kẻ thù của họ quá mạnh bởi lẽ những nhà chiêm tinh có lẽ đã góp phần khuấy động cuộc bách hại những Kitô hữu ban đầu.
Khi Kitô giáo lan rộng, các nhà chiêm tinh mất ảnh hưởng và dần dần rơi vào quên lãng. Việc cải đạo của Hòang đế Constantine sang Kitô giáo đã đặt dấu chấm hết cho tầm quan trọng cái gọi là “khoa học” đã từng làm mưa làm gió trong khỏang thời gian 500 năm trên đời sống nhân dân Rôma. Năm 321, Constantine ra sắc lệnh kết án tử hình những người làm nghề phù thủy và cả những người tin theo họ. Như thế khoa chiêm tinh lập tức biến mất khỏi cộng đồng Kitô giáo ở Tây Âu trong nhiều thế kỷ. Chỉ còn một số người Ả Rập và Do Thái còn tiếp tục nghiên cứu mà thôi. Không may, giữa lúc ấy, nhu cầu tính tóan ngày lễ Phục sinh lại cần đến khoa chiêm tinh và chính lúc này khoa thiên văn dần dần tách khỏi khoa chiêm tinh truyền thống.
Vào thời Phục hưng, với việc khai sinh ra thuyết Nhật tâm (Mặt trời là trung tâm chứ không phải là trái đất), khoa chiêm tinh còn được coi trọng một thời gian nữa nhưng ngày càng mất dần ảnh hưởng. Tại Pháp, dưới sức ép của các cha dòng Tên, Colbert (Thủ tướng Pháp) xóa bỏ khoa chiêm tinh và cấm giảng dạy trong các trường đại học. Tại Anh, khoa này cũng bị xóa bỏ sau nước Pháp khỏang một thế kỷ. Tuy nhiên, Isaac Newton vẫn tiếp tục nghiên cứu trong đại học “để xem những gì là đúng đắn” (pour voir ce qu’il y a de vrai). Đến thế kỷ XVIII, sự tách biệt hẳn giữa hai khoa chiêm tinh và thiên văn được xác định.
Chiêm tinh ngày nay
Vào thế kỷ XX, khoa chiêm tinh xuất hiện trở lại trong các sách biên niên (almanachs), các tạp chí, sau đó là trong các chương trình phát thanh. Khoa chiêm tinh lại tìm được một chỗ đứng đáng kể trong thời đại mới. Như thế, khoa chiêm tinh vẫn càn một số người tin theo.
Tuy nhiên, giá trị của khoa chiêm tinh cần phải được đánh giá lại một cách khoa học nhằm xóa bỏ mê tín dị đoan như việc cúng sao giải hạn chẳng hạn.
Bài Phúc Âm Lễ Hiển Linh hôm nay (Mat. 2:1-12) không những kể về hành trình đức tin:HiểnLinh ABC139
Bài Phúc Âm Lễ Hiển Linh hôm nay (Mat. 2:1-12) không những kể về hành trình đức tin mạo hiểm của các đạo sỹ phương Đông đến thờ lạy đấng Cứu Độ duy nhất trần gian, mà còn diễn tả vinh quang Thiên Chúa được tỏa sáng nơi sự sống con người, nơi một hài nhi—hài nhi Jesus.
Các đạo sỹ đã tìm gì? Họ đi tìm “vua dân Do Thái mới sinh.” Họ tìm một hài nhi mới sinh ra. Họ đã đến dâng vàng, mộc dược, nhũ hương và phủ phục trước một hài nhi bình thường như mọi hài nhi khác. Ánh sao trên trời và ánh sao trong tâm hồn mà Thiên Chúa đã soi sáng họ làm điều đó: thờ lạy Thiên Chúa nơi một hài nhi.
Hơn nữa, để hài nhi Jesus thoát khỏi bàn tay bạo tàn của Herode, các đạo sỹ đã trở về xứ sở mình theo đường khác theo như mộng báo. Các đạo sỹ còn là những người bảo vệ mạng sống hài nhi Jesus.
Con Thiên Chúa đã làm người, làm một hài nhi yếu ớt cần sự chăm sóc, yêu thương, và công lao vất vả của cha mẹ trần gian. Vinh quang người tỏ rạng nơi sự sống con ngưòi, nơi một hài nhi. Ôi, cao quí thay sự sống con người, sự sống của các hài nhi! Ôi, cao quí thay phẩm giá con người.
Hôm qua theo tin của VietCatholic nạn phá thai giảm 95% từ 1989 ở Croatia nhờ phản ứng mạnh mẽ của các Giám mục nước này. Bản tin trích dẫn: “Các Đức Giám Mục Croatia đã cùng nhau đồng lòng, đồng trí đưa ra các chương trình hành động cụ thể, trong việc giáo huấn các chủng sinh, các tầng lớp Linh Mục, và các nam/nữ tu sĩ về sự cao quý và tính thánh thiên của sự sống. Và chính từ đó, nạn phá thai đã giảm xuống, và ơn gọi ngày càng tăng lên, và tất cả mọi người đều cùng nhau tâm đầu ý hiệp với Đức Thánh Cha”.
Ở Hoa Kỳ, các Giám mục nỗ lực huấn luyện ý thức của giáo dân và mọi người về sự thánh thiêng của sự sống con người. Ngoài những thư chung, lời giảng dạy công khai, và lời cầu nguyện tín hữu trong các thánh lễ, các ngài còn tổ chức biểu tình hàng năm tại Washington DC để đòi các nhà lập pháp thay đổi luật cho phép phá thai.
Việt Nam là nước có tỷ lệ phá thai rất cao. Theo AFP, hằng năm ở Viêt Nam có 1.4 triệu thai nhi bị phá. Đáng buồn thay, tỷ lệ phá thai cũng rất cao trong những ngưòi công giáo. Chắc chắn các vị chủ chăn biết được điều đó trong mục vụ của mình. Ước gì các vị chủ chăn ở Việt Nam có những chương trình biện pháp cụ thể để đánh động ý thức giáo dân về trách nhiệm bảo vệ mạng sống các hài nhi chưa đưọc sinh ra và giảm được tỉ lệ phá thai nơi ngưòi công giáo và ở Việt Nam.
Xin Chúa giúp mỗi người công giáo chúng ta cũng nhận ra vinh quang của Thiên Chúa nơi mỗi hài nhi và bảo vệ sự sống của các hài nhi. Amen.
John Wu đã diễn tả thật khéo trong cuốn "Đông Gặp Tây" về ba đạo sĩ theo dấu sao lạ tìm đến:HiểnLinh ABC140
John Wu đã diễn tả thật khéo trong cuốn "Đông Gặp Tây" về ba đạo sĩ theo dấu sao lạ tìm đến Bê-Lem dâng vàng, nhũ hương và mộc dược cho Đấng Cứu Thế. Đó là kho tàng của Đông Phương dâng hiến cho nhân loại.
Món quà thứ nhất là vàng, so với quan niệm từ buổi sáng dấn thân vào đời xây dựng bằng luân thường đạo lý "nhân nghĩa lễ trí tín" của đạo Nho. Nhập thế là thái độ cần thiết tạo nên vàng bạc, góp phần tô điểm làm giầu trần gian mang được ý nghĩa hiện hữu trong cuộc nhân sinh trên mặt tinh cầu này.
Món quà thứ hai là nhũ hương, sánh với ánh sáng ban chiều của Lão Trang xuất thế, biết siêu thoát bay bổng lên như hương trầm, biết nhàn tản mà hưởng được sinh thú sống trên đời chứ không chỉ hùng hục "lao động vinh quang, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm".
Món quà thứ ba là mộc dược, kết tinh tư tưởng Ấn Độ, có thể ví với cái nhìn giác ngộ trong đêm tối cuộc đời, thấy được mọi sự đều như bọt bèo phù du trôi nổi trên dòng sông, có đó rồi lại mất đó, sắc sắc không không. Mộc dược để ướp xác đời chóng qua chóng hết mà ngộ được lẽ vô thường.
John Wu đã thấy được cả ba ngón tay đều chỉ "mặt trăng", đều có thể là ngôi sao dẫn đường. Ông đã theo dấu chỉ và bỗng nhận ra Đạo, đã trở thành một người theo Đạo Chúa. Ông đã có công dịch Thánh Kinh ra tiếng Tàu với màu sắc văn hóa hội nhập. Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan, ông đã dịch chữ Ngôi Lời (Logos trong triết lý Hy Lạp) là Đạo: "Từ nguyên thủy đã có Đạo... Nhờ Đạo, vạn vật được tạo thành, và không có Đạo thì chẳng có sự gì được tạo thành... Đạo đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (Gioan 1:1-14).
ĐÔI NẠNG LÀM QUÀ
Vở nhạc kịch "Amahl và Những Người Khách Ban Đêm" trên màn ảnh TiVi đã trở thành bất hủ giống như bản Messia của Handel vậy. Nhiều người xem mà ít để ý tới xuất xứ của vở kịch này do tác giả là Gian Carlo Menotti. Nhạc cảnh thật xúc động không ngờ lại chính là câu truyện thực trong cuộc đời của Gian Carlo Menotti, một người Mỹ gốc Ý.
Năm 1951 Gian Carlo Menotti được đài truyền hình NBC ký hợp đồng cho một nhạc kịch dịp lễ Giáng Sinh. Ông đã nhận một ngàn Mỹ kim tiền đặt cọc. Nhưng rồi đến mùa thu mà ông cũng không sao có một đề tài nào cả. Ông thất vọng đến gặp hãng NBC để trả tiền lại, nhưng hãng không chịu. Vì thế ông phải đi lang thang tìm hứng.
Một hôm ông vào Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật ở New York thì tình cờ bị hút hồn bởi một bức tranh vẽ "Ba Đạo Sĩ" của họa sĩ Hieronymus Bosch người Hà Lan vào thế kỷ 15. Nhìn bức tranh, Gian Carlo bỗng dưng nhớ lại những ngày thơ ấu tại quê xưa ở làng Cadegliano bắc Ý. Trẻ con Ý không có thói quen chờ ông già Noel Santa chui theo ống khói xuống phát quà, nhưng chờ HiểnLinh ABCmang quà từ phương Đông. Gian Carlo mỉm cười nhớ lại lúc cùng em là Tullio ráng thức chờ HiểnLinh ABCmang quà tới, nhưng trước khi gặp được HiểnLinh ABCthì hai anh em đã lăn ra ngủ rồi. Trong giấc mơ Gian Carlo vui mừng thấy HiểnLinh ABCđến thật. Từ đàng xa có ba người cỡi lạc đà rung điệu nhạc thánh thót hào hứng. Gian Carlo thấy HiểnLinh ABClội qua tuyết lạnh thăm nhiều nhà nghèo vùng bắc Ý trước khi đi Bê Lem. HiểnLinh ABCtới một ngôi nhà xiêu vẹo nghèo nàn, ở đó có một bà góa và một đứa bé trai tên là Amahl, và đã cho một món quà lạ.
Không ngờ đó lại là câu truyện thời thơ ấu của Gian Carlo. Lúc lên bốn tuổi, Gian Carlo bị bại cả hai chân phải chống nạng. Bác sĩ bảo đó là một loại bệnh không chữa được, nên phải mang tật suốt đời! Nhưng bà vú nuôi rất thương đứa bé, đã nghĩ tới một nhà thờ trên núi miệt Lugano có kính Đức Mẹ Cao Sơn (Madonna del Monte), nơi đã xảy ra nhiều phép lạ. Bà hỏi Gian Carlo có tin Đức Mẹ chữa khỏi bại chân không thì đứa bé gật đầu. Thế là bà đã dẫn Gian Carlo lên núi cầu nguyện. Chính nơi đây, Gian Carlo đã nhận được món quà quí nhất đời là được khỏi bại chân. Niềm tin của bà vú nuôi và của cậu bé Gian Carlo đã là thuốc thần.
Hình ảnh một đứa bé chống nạng đi lên núi, rồi nhận được món quà lạ, mang đôi nạng tới làm quà dâng cho Chúa cùng với Ba Vua. Quả là một thần hứng tuyệt vời.
VẼ BẰNG ÁNH SÁNG
Tôi đang có thể đi được, cử động được, đánh máy được, chẳng phải là món quà quá quí hay sao? Cũng lạ và đầy hứng khởi như phép lạ nhận quà của Gian Carlo Menotti. Đó là phép lạ đi trên mặt đất, nhận ra quà lạ mỗi ngày, mỗi phút giây. Chỉ cần ánh sáng lóe lên trong mắt, trong tim.
Trong một lớp học chụp hình, tôi đã sửng sốt nhận ra một điều rất đơn giản. Đó là tập cảm nhận ánh sáng. Chụp hình là vẽ bằng ánh sáng. Chiếc máy chụp như cây cọ, mà ánh sáng là chất sơn màu. Họa sĩ biết chọn màu sơn thì nhà ảnh cũng biết lựa ánh sáng. Để ý một chút thì thấy ánh sáng mang chất lạ lùng lắm. Màu ánh sáng chói chang ban trưa khác với màu nhung mềm lúc trời mây. Màu tươi vui nhảy múa trên những đọt lá trong nắng sớm khác với màu trầm ngâm suy tư lúc mặt trời lặn. Màu ánh sáng xuyên qua những hạt mưa long lanh khác với màu mơ mộng thơ thẩn trong sương mù. Ánh sáng lại tùy lúc mạnh hay yếu, đậm hay nhạt, gợi lên những cảm giác và tâm tình khác nhau. Ánh sáng cũng đến từ nhiều phía, diễn lên những chiều kích có khi thâm sâu bền chặt, có khi hời hợt vội vàng. Ban đêm không có ánh sáng thì mọi vật trở thành tối đen. Đúng là ánh sáng tô màu vạn vật, vẽ lên bức tranh tuyệt tác mỗi phút giây.
Cũng với những bông hoa súng đơn sơ dưới ao nước trong khu vườn ở Giverny phía tây bắc Paris mà tôi có dịp ghé thăm vào năm 1995, họa sĩ Claude Monet đã vẽ được nhiều bức tranh tuyệt tác. Cùng một bông súng mà mang nhiều tâm tình khác nhau tùy theo ánh sáng ban sáng, ban trưa, hay ban chiều. Mà cũng tùy tâm tư bên trong người vẽ nữa. Đó là cái nhìn của phái ấn tượng mà Monet là một trong những người nổi nhất. Ông nói vẽ một cọng lá cũng giống như vẽ một người đẹp làm mẫu. Cũng công trình như nhau, cũng thẩm mỹ như nhau.
Ánh sáng đang tung tăng chạy ùa vào phòng qua cửa sổ đây này. Tôi nhìn ánh sáng mà cảm nhận độ mạnh, yếu, màu sắc, tâm tình, như nhìn một phép lạ, như lần đầu tiên trong đời biết nhìn ra ánh sáng. Hào hứng quá phải không? Và chắc chắn nhiều người cũng nhìn thấy như vậy khi đi xuống phố, khi lái xe trên xa lộ. Và thế giới mỗi phút giây đều mặc một bộ áo mới nhí nhảnh bơm sinh khí tạo nên chất sống động lạ thường.
TIN VUI NHẬN ĐƯỢC QUÀ QUÍ
Ngày 19 tháng 3 năm 1627, Cha Đắc Lộ đã đặt chân tới Cửa Bạng, nơi dân chúng thường làm nghề mò tìm ngọc trai dưới biển. Thấy thế, Ngài đã giới thiệu một thứ quà quí hơn nhiều. Đó là ánh sáng niềm tin vào Đạo Chúa Trời. Đây là lần đầu tiên danh xưng Đức Chúa Trời được Cha Đắc Lộ dùng, rất gần gũi với văn hóa và tâm thức người Việt. Ngài đã thuật lại buổi gặp gỡ đầu tiên trong cuốn Đắc Lộ, Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài:
“Chúng tôi vừa cập bến thì một số đông dân xứ này thấy chúng tôi đến gần liền lấy thuyền của làng lân cận đến mừng chúng tôi, chất vấn chúng tôi xem chúng tôi là những người nào, từ đâu mà tới và đem theo những hàng hóa mới lạ nào. Tôi đáp nhân dịp này chúng tôi đến bán cho người Đất Bắc một hạt trai quí mà không đắt, để cho người nghèo khó nhất cũng có thể mua được miễn là có ý ngay lành. Thấy dân chúng tỏ ra muốn xem, thì tôi cho họ hiểu là hạt trai này không thể coi bằng con mắt thân thể nhưng bằng con mắt tinh thần biết phân biệt thật giả. Nói tóm lại chúng tôi đến giảng dạy đạo thật có giá hơn hết các hàng hóa của người An Độ, và một mình nó có thể mở đường tới cõi phúc đích thực và trường cửu.”
“Khi nghe nói về điều mà họ thường gọi là Đạo theo ngôn ngữ các nho sĩ, và Đàng theo ngôn ngữ bình dân có nghĩa là đường lối, thì họ tò mò muốn tôi cho biết đạo thật và đàng thật mà chúng tôi định rao giảng. Sau đó tôi lấy đề tài thảo luận với họ về nguyên lý vạn vật, tôi quyết định công bố dưới danh hiệu Chúa Trời Đất." (Hồng Nhuệ dịch, trang 82-83; mời đọc tác phẩm Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài trên Mạng Lưới Dũng Lạc)
PHÚT CẢM NHẬN QUÀ QUÍ
Mỗi người trong cuộc sống cũng đang mò mẫm đi tìm ngọc quí, và bỗng khám phá ra những món quà kinh ngạc như John Wu, như Gian Carlo Menotti, như Claude Monet, như nhà ảnh vẽ bằng ánh sáng kỳ diệu, như ba nhà tầm đạo từ phương Đông:
"Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương, và mộc dược mà dâng tiến." (Mt 2:10-11)
Tất cả đều là những ngôi sao lạ dẫn đường để thấy được kho tàng giầu có sung túc là chính Chúa Giêsu. Lúc dâng hiến, cho đi, cũng chính là lúc nhận lãnh trọn vẹn, được chính quà tặng trân quí nhất, vượt trên cả bạc vàng, nhũ hương, mộc dược. Vì Ngài mới là Đạo đúng chiều kích, đã nhập thể làm người, nhập thế để giải thoát mang đến cho cuộc hiện hữu một ý nghĩa đích thực, và siêu thoát để con người biết hướng về quê hương hằng thể. "Thầy là đường, là sự thật và sự sống. Thầy đến để cho anh em được sống sung mãn."
Vì thế mà giờ đây tôi cần tĩnh lặng, mở rộng tâm ra mà lãnh nhận món quà quá quí này. Tất cả kho tàng giầu có đây rồi, phép lạ đây rồi, sửng sốt quá!
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng, có người tìm gặp thì liền chôn giấu lại, rồi về vui mừng bán mọi sự mình có mà mua lấy thửa ruộng ấy.” (Mt 13:44)
Lm. Trần Cao Tường (từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình, Thời Điểm xuất bản) Mời thăm Mạng Lưới Dũng Lạc http://www.dunglac.org và www.dunglac.net , góp tư liệu xây nhà Văn Hóa & Niềm Tin.
Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng HiểnLinh ABCở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm: HiểnLinh ABC141
Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng HiểnLinh ABCở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm thõa mãn trí tưởng tượng của khán giả, người ta thường đem đến những vật kỳ lạ, và cho là lễ vật của HiểnLinh ABCtiến Chúa như: khỉ, vẹt, lạc đà…Lễ HiểnLinh ABCcòn có một thủ tục khác nữa là chơi trò bắt thăm làm vua. Người ta cho một hạt đâu hay một tượng nhỏ vào trong chiếc bánh ngọt, và chia ra thành từng phần cho những người trong nhà, ai được miếng bánh có hạt đâu hay tượng nhỏ đó sẽ được làm vua, được đội triều thiên trong bữa ăn. Thủ tục này bắt chước thủ tục của dân ngoại ở Rôma, Đức… còn trong tu viện nếu được làm vua sẽ được làm chủ tọa cộng đoàn khi dự nghi lễ phụng vụ và chủ tiệc ngày hôm ấy. Từ thời Trung Cổ người dân ngoại và cả người Công Giáo đều ao ước được giống như ba vua, để được dâng lễ vật tiến Chúa, được chủ tọa nghi lễ phụng vụ… Đó chỉ là những hình thức bên ngoài của thời Trung Cổ, nhưng ít nhiều cũng cho thấy tâm tình bên trong; họ ao ước giống HiểnLinh ABCcả trong đức tin, hành động và cả lòng can đảm.:
1. Trong đức tin
HiểnLinh ABCchính là những người dân ngoại đầu tiên nhận biết Chúa. Và chính nhờ đức tin qua ngôi sao lạ đã hướng dẫn đường đi, nước bước cho các ông. Thật vậy đức tin chính là ơn ban cao trọng nhất, vì không có đức tin chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa được. Hơn nữa không có đức tin thì sẽ như người mù lòa không biết đường biết hướng về đâu. Nhưng phài luôn nhớ rằng đức tin luôn là ơn ban nhưng cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Đức tin đến với HiểnLinh ABCkhông như một phép lạ để họ nhận biết Người. Họ được ngôi sao lạ dẫn đường , ngôi sao này có thật hay không chúng ta không cần biết. Điều quan trọng là qua ngôi sao lạ HiểnLinh ABCnhận biết đó là điềm Thiên Chúa gởi đến soi sáng và đưa họ đến Bêlem để thờ lạy Chúa.
Ngày xưa HiểnLinh ABCnhờ đức tin soi sáng dẫn đường đã được thõa lòng hạnh phúc. Ngày nay Thiên Chúa cũng soi sáng chúng ta bằng nhiều cách qua các biến cố. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết lấy đức tin để đón nhận chưa?
2. Hành động
Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. Nếu HiểnLinh ABCnhìn thấy ngôi sao mà không lên đường, thì việc trông thấy ngôi sao nào có ích gì? Đối với chúng ta cũng vậy, nếu có đức tin mà không sống theo đức tin thì có ích gì. HiểnLinh ABCvừa nhìn thấy ngôi sao lạ thì nhận biết ngay đó chính là quyền phép Thiên Chúa thì các ông không cần tìm hiểu nguyên do, mà mau mắn bước theo. Thật là một niềm tin mãnh liệt là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Dứng trước chân lý đức tin đòi hỏi ta cũng phải có thái độ tùng phục như vậy. Do đó chúng ta hãy mau mắn làm theo ba vua, khi thấy “ngôi sao đức tin” phải vội vã lên đường, nếu ta còn lưỡng lự chậm chạp rất có thể ngôi sao đó sẽ tắt lim và không còn ánh sáng nào soi đường cho ta đi về quê thật là nước thiêng đàng nữa.
3. Can đảm
HiểnLinh ABCđã từ giã gia đình thân yêu, không ngại thân già sức yếu, đường sá nguy nan, chấp nhận tất cả những khó khăn chỉ mong làm tròn thánh ý Chúa đã tỏ ra với mình. Chúng ta những người đang lữ hành, con đường mình đi chắc chắn cũng có rất nhiều chông gai hiểm trở. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng với bản thân mình, với những xu hướng xấu từ ngay trong chính bản thân… Như HiểnLinh ABCđã đạt được đích đến là Thiên Chúa, thì chúng ta tin rằng với con đường đức tin mình cũng sẽ đạt được hạnh phúc đời đời. Vì thế mà mỗi người hãy can đảm vượt mọi trở ngại đời này, để sống xứng đáng với đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho ta.
Không, phải con đường đức tin lúc nào cũng trơn tru, lắm lúc cũng bị mây mù che khuất như HiểnLinh ABChôm nay, nhưng với sự quyết tâm và lòng thành các ông đã vượt qua bằng cách hỏi thăm đường. Chúng ta cũng vậy lắm lúc con mắt đức tin mình cũng bị che mù làm ta không còn nhận ra đường đi nữa, không còn biết phải đi con đường nào và xử sự ra sao. Lúc đá cũng hãy biết chạy đến những người khôn ngoan, hướng dẫn đức tin như: cha sở, cha linh hướng hoặc những người khôn ngoan, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lầm lạc và cũng tìm được Chúa như HiểnLinh ABCxưa đã thấy.
Trong ngày lễ hiển linh hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài đồng tâm tình thờ lạy. Ta chẳng có vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng chúng ta có tấm lòng, có con tim. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa với tất cả lòng chân thành và con tim yêu mến đó.
Lạy Chúa, chỉ tin không thì chưa đủ, mà còn đòi hỏi con phải mau mắn thi hành những điều đức tin dạy, như thế mới là sống theo ý Chúa . Amen
Ánh sáng và sự tối tăm tạo thành một biểu tượng kinh thánh đầy quyền lực cho sự tương phản: HiểnLinh ABC142
Ánh sáng và sự tối tăm tạo thành một biểu tượng kinh thánh đầy quyền lực cho sự tương phản giữa Thiên Chúa và tội lỗi cùng những u mê của con người. Biểu tượng này là nỗi xót xa nhất của chúng ta trong lúc cho riêng mình, vì chúng ta thường xuên đối diện với sự tối tăm: bạọ lực, sự thử thách cam go về nhu cầu kinh tế, và cuộc khủng hoảng chung của đức tin và ý nghĩa.
Nhưng sự tối tăm được liên kết tới sự nhận thức và nâng cao nhận thức của chúng ta, vì nơi mà chỉ một vài người nhìn là bóng tối và nỗi u sầu, người khác lại trải qua ánh sáng rực rỡ. Ngôn từ Isaiah đã được viết cho những ai trải qua những tăm tối tràn trề trong trạng thái hủy diệt, sự lưu đày và phân chia xã hội. Nó gây ra nhiều linh hồn – tìm kiếm và phản ảnh, thậm chí còn có cả những câu hỏi nguyền rủa đức tin. Nhưng ánh sáng của Thiên Chúa có tầm chiếu xa hơn và mạnh mẽ hơn bất kỳ sự tối tăm nào mà con người tạo ra, và đó là thông điệp của hy vọng. Israel sẽ phục hôì tinh thần từ thảm họa và trở thành đèn hiệu của ánh sáng cho những người khác. Trong một kiểu dáng tương tự, chúng ta không bao giờ ghi chép cho việc tính toán – chúng ta không thể phục hồi những khó khăn của riêng mình nếu chúng ta không mở cửa đón nhận Thiên Chúa. Niềm xúc động sâu sắc cùng những nỗi đau tâm hồn cũng như những oán hờn mà chúng ta chịu đựng có thể trở thành cội nguồn của sự khôn ngoan, thiêng liêng thánh thiện. Trong lúc của riêng mình, chúng ta có thể xác tín rằng ánh sáng của Thiên Chúa sẽ được biểu hiện bằng những phương cách thích hợp đối với hoàn cảnh của chúng ta.
Nhưng ánh sáng của Thiên Chúa không phải là gì mới mẻ vì nó đã được biểu trưng trong một hoạch định tiềm ẩn mà đã – đang và sẽ được mở ra cho mọi thời đại, bao hàm và hiệp nhất cho mọi dân tộc trên trái đất.Ánh sáng này được tỏa sáng tràn đầy trong sự nhập thế, tử nạn, và phục sinh của Chúa Jesus. Đã có một cuộc đấu tranh dai dẳng để biểu hiện một cách đầy đủ những sự việc liên quan của kế hoạch tuyệt diệu ấy. Cuộc chiến giằng co trong trái tim và ký ức con người còn tiếp tục: một Thiên Chúa cụ thể, một giới hạn và kiểm tra một cách cẩn thận, hoặc một Thyiên Chúa toàn năng và hằng hữu, người mà vượt qua mọi rào cản và những mối bất hòa.và kế hoạch của Thiên Chúa tiếp tục mở ra. Nhưng ánh sáng cũng phải được phân phát, và cách duy nhất chúng ta nhận lãnh ánh sáng của Thiên Chúa để được tinh khôi và mở cửa đón nhận.
Ba nhà thông thái không phải là những vị vua, nhưng có thể là những thầy tế lễ ngừơi Ba-Tư (Iran ngày nay), và những thánh nhân, họ đã đọc được những việc làm của Thiên Chúa thông qua những vì sao, vì rằng những vì sao là mối tư duy liên kết với lĩnh vực con người. Sự ra đời của những nhân vật vĩ đại luôn luôn đựoc báo trứơc bởi những dấu hiệu trên bầu trời. Rõ ràng là họ tin rằng nhân vật tinh thần vĩ đại này, người mà họ tìm kiếm sẽ là người nào đó của một sự kiện phổ quát. Niềm mong mỏi ánh sáng cùa họ và lối vào của họ tới sự tác động tâm hồn đã thôi thúc để bắt đầu bằng sự bình yên của quê hương và hệ thống đúc tin của mình, và đồng thời để đi đến bất cứ nơi đâu mà ánh sáng dẫn dắt họ.
Nhưng những gì xuất hiện như ánh sáng và niềm vui để tạo ra sự sợ hãi và giận dữ cho người khác. Những nhà thông thái có lẽ đã hoàn toàn không hiểu Jesus và những gì Ngài sẽ làm. Nhưng họ nhận ra sự hiện diện và những việc làm của Thiên Chúa đã vựợt qua những trở lực. Họ đã từ bỏ sự sợ hãi, hân hoan trứoc sự hiện diện của ánh sáng mầu nhiệm với một cung cách ngạc nhiên và duy nhất như thế. Mặt khác, Herod đã sợ hãi vì ông đã thấy rõ rằng Chúa Jesus đến có nghĩa thế giới sẽ thay đổi to lớn, bắt đầu bằng việc đòi hỏi quyền lực của con người. Điều mong muốn duy nhất của ông ta là phá tan ánh sáng trước khi nó có thể, thậm chí đã khởi phát.
Hôm nay chúng ta đang ở đâu? Chúng ta không thể không không thừa nhận rằng những việc làm của Thiên Chúa đã hoàn thành hoặc ngày lễ HiểnLinh ABCđó chỉ là một vài biền cố trong quá khứ xa xôi. Đó là quá trình phát triển thiêng liêng không ngừng. Thiên Chúa không tự bộc lộ với chúng ta sự thay đổi và sự thử thách bao giờ. Giữa lúc khiếp sợ ghê gớm và tuyệt vọng, chúng ta cần thiết thứ ánh sáng đó. Nhưng nó có thể dến với chúng ta một cách bất ngờ và ở những nơi chúng ta không mong đợi. Nó sẽ kêu gọi những cái mai một trong quá khứ và còn tồn tại trong ta.Chúng ta đừng bỏ lại những vấn đề tới thế giới của nhũng Herod, hoặc một thiểu số herod, chúng ta có thể mang theo tùy khả năng của chúng ta. Chúng ta có trí tuệ và trái tim đủ để dung nạp, đáp ứng và làm theo không? Vì sao trong câu chuyện nay là dấu hiệu của sự hiện diện và hướng dẫn của Thiên Chúa muôn đời. Nó luôn luôn hiện hữu chỉ cần chúng ta biết nơi và cách tìm kiếm nó.
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon, Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng: HiểnLinh ABC143
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon, Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ. Nhưng cậu bé da màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở nhà đây rồi lại có thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa Giêsu là Chúa của hết mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người kia mà. Nhất là Mẹ của những đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa tay chỉ tượng Đức Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng thì làm sao có đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy Giacôbê trắng một mình từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ, tiến về phía nhà thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu biến tượng Chúa Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da của bạn Giacôbê đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên thích thú, vừa vui vẻ sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn Giacôbê đen không ngớt nở nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu trên Thiên đàng.
Một câu chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng lại mang một ý nghĩa cho người lớn chúng ta trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay: Chúa Giêsu giáng trần không riêng cho một ai, một dân tộc nào, nhưng là cho hết mọi người, mọi dân tộc: da trắng, da đen, da đỏ, da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ tìm đến hang đá Bêlem người ta cũng thấy có một vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển Linh là Lễ Thiên Chúa đến với mọi người. Với biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh làm người trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá đổ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp… Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa làm bừng sáng lên mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho người ta đến với Chúa.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời ca của các thiên thần hoặc ánh sao của ngôi sao lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Chính mỗi người chúng ta được mời gọi đóng vai “nhà đạo sĩ” để chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu rồi loan truyền về Ngài cho anh em khác. Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và hành động như Đức Giêsu. Cha mẹ là “nhà đạo sĩ” thích hợp nhất để trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái mình. Các thầy, cô giáo là những người cộng tác với “các nhà đạo sĩ”. Các nhà truyền giáo: giáo dân, tu sĩ, linh mục, là những “nhà đạo sĩ” đi đây đó để giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác.
Mới đây, cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề: “Đức Giêsu Kitô trong hội họa” tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa bế mạc, quả là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Đã có hàng vạn lượt người đến xem, kể cả người ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều bạn đã ghi lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng hạn: “Tôi là một con chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa, tôi đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với những cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu” (Tường Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn sinh viên khác đã viết: “Con không biết gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong thế giới này, và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn tất cả những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người cho con lòng tin”. (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96 trang 87) v.v… Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi khám phá ra gương mặt đích thực của Đức Giêsu, chúng ta hãy đem Chúa ra giới thiệu cho mọi người. Còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua dân Do Thái sinh ra ở đâu?” Cũng chính là câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?” vậy thì, hỡi các kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Đức Giêsu Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch: con đường yêu thương. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý, nguồn tình yêu và sự sống.
Như ánh sao dẫn đường ba đạo sĩ lên đường đến với Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy từ bỏ những lời nói trống rỗng, những công thức, những khuôn mẫu có sẵn và tìm Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, để từ đó chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em đồng bào bằng chính cuộc sống của chúng ta.
Sau kỳ Đại Hội cuối năm 2006 ở Bangkok, Thái Lan, có lẽ các Giáo Hội Á Châu đang suy nghĩ: HiểnLinh ABC144
Sau Đại Hội cuối năm 2006 ở Bangkok, Thái Lan, có lẽ các Giáo Hội Á Châu đang suy nghĩ, tìm kiếm và đi sâu vào các tôn giáo và văn hóa địa phương để tìm cách đối thoại và học hỏi. Nhờ đó sẽ rộ lên một phong trào nhập thể văn hóa. Ánh sáng sẽ lóe lên trong đêm trường Á châu chăng ? Những cuộc trao đổi rất hữu ích, vì trong các tôn giáo đó có những hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Phải chăng đó là một cuộc tìm kiếm ngược chiều với các đạo sĩ hôm xưa ? Ngày xưa, các đạo sĩ đã từ nơi xa đến tìm Vua vũ trụ mới sinh tại Bêlem. Nhờ ánh sáng thiên nhiên, các ông đã tìm đến tận đỉnh cao của mọi ước vọng, đó là Đấng Cứu Độ muôn dân. Các ông xuất hiện như những con người thiện chí và ngay thẳng. Đó là những con người sẵn sàng lên đường tìm kiếm.
Khi không còn tìm thấy sự trợ giúp nơi thiên nhiên, họ đã tìm đến gõ cửa nhà vua. Cánh cửa đã mở ra. Những trang sách vội vàng xác định phương hướng. Nhưng lòng người vẫn khép kín trước những tin tức bổ ích từ những pho sách. Khi không có thiện chí, dù gần gũi nhất, người ta vẫn không muốn gặp gỡ. Đúng là “gần nhà xa ngõ.” Ngay cả khi đầy đủ phương tiện nhất, người ta vẫn ngần ngại lên đường. Óc phán đoán bị tê liệt. Những sai lầm, ngu đần, cố chấp, tàn bạo từ đó mọc lên. Theo thánh Thomas, khi muốn phạt một xã hội nào, Thiên Chúa để bọn người ngu dốt cai trị xã hội đó. Có lẽ điều đó đúng cả ngoài đời lẫn trong đạo.
Những thực thể xã hội và tôn giáo do các nhà chiêm tinh hôm nay lãnh đạo chắc chắn rất hạnh phúc. Họ là những nhà lãnh đạo tài ba, những tư tế được kính trọng, các nhà thiên văn và bói toán đại tài. Nhưng đặc biệt họ là những bậc khôn ngoan và can đảm khi bỏ lại tất cả để đi tìm Ấu Chúa nơi một chân trời vô định. Giống như ông Abraham, họ không biết mình đi đâu. Theo tiêu chuẩn tự nhiên, ai cũng đánh giá họ là những người dại dột khi lên đường phiêu lưu như thế.
Chính sự hiện diện của họ cũng nói lên ơn cứu độ mang một chiều kích phổ quát. Chúa có thể tìm thấy thân hữu nơi những con người bất ngờ. Sau này, có ai ngờ Chúa tuyển mộ các môn đệ nơi những ngư dân thất học ? Tin Mừng dành cho người nghèo ? Những người ngoại trở thành những tấm gương bác ái ? Như thế, phải chăng Chúa đã tự đồng hóa với những người kém may mắn cả về của cải vật chất lẫn tinh thần ? Phải chăng có thể tìm thấy Chúa nơi cả người nghèo và ngoại giáo ? Nhiều khi không biết chúng ta đem Chúa đến cho dân ngoại hay ngược lại ? Thật khó biết được sự thật !
Sự thật hôm nay được phơi bày qua những lễ vật các nhà chiêm tinh kính dâng Ấu Chúa. Trong xã hội Do thái, nhất là trong hoàng cung, thiếu gì những thứ như vàng, nhũ hương và mộc dược ? Nhưng những đó vẫn nằm bất động trong một xó góc vắng tanh. Khi xuất đầu lộ diện, các báu vật đó cũng chỉ dùng để tăng thêm vẻ kiêu hãnh của con người. Trái lại, những thứ báu vật đó đã mang một ý nghĩa rất lớn trong tay các chiêm tinh gia khi họ cung kính “dâng tiến” mà “thờ lạy.”(Mt 2:11) Thiên Chúa làm người. Họ đã hy sinh đúng chỗ và trở thành khôn ngoan tuyệt vời.
Dù có cả một đoàn cố vấn khôn ngoan và tài giỏi vây quanh, vua Hêrôđê cũng không thể tìm được con đường khôn ngoan như thế. Dù cả lực lượng quân sự hùng hậu, ông cũng không thể thi thố được sức mạnh. Bằng chứng, ông không tìm nổi các chiêm tinh gia và giết chết Ấu Chúa để thực thi ý đồ tàn bạo và thâm độc. Đúng là, “mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.” Kinh thánh cũng dạy: “Chúa đối xử tốt lành với những người thiện hảo. Nhưng với kẻ gian hùng, Chúa lại dùng mưu.” Chỉ cần một ánh sao và một chút báo mộng, Chúa đã vô hiệu hóa những mưu đồ thâm độc và sức mạnh nhà vua.
Ngay từ thời thơ ấu, Chúa Giêsu đã mạc khải Nước Trời là gia nghiệp chung cho mọi người. Lời hứa cứu độ không dành riêng cho dân tộc nào. Như vậy, không có biên giới nào trong Nước Chúa. Không có nam nữ, giàu nghèo, giỏi dốt, sang hèn. Người tốt không chỉ có trong hàng ngũ những người có đạo hay có địa vị. Ở bất cứ đạo nào hay địa vị nào cũng có thể kiếm thấy các thân hữu của Chúa.
Từ lúc còn ẵm ngửa, Chúa đã trở thành điểm quy tụ muôn dân. Chúa mời gọi những người từ xa đến. Xa cả về không gian lẫn văn hóa, tôn giáo. Các nhà chiêm tinh là những tâm hồn chân thực và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi tận thâm tâm. Các ông đi tìm Ấu Chúa để thờ lạy, chứ không đi tìm người tài vào làm việc trong cung. Bởi thế, họ đã đích thân đi tìm Chúa. Họ đi tìm sự thật, chứ không tìm địa vị hay thế lực như vua Hêrôđê. Tìm tình thương, hòa bình, họ đã an nghỉ nơi Chúa. Thiên Chúa đến nơi đây để chạm tới mút cùng trái đất và vũ trụ. Mọi người đều có thể tới, kể cả những kẻ xa Chúa nhất vì tội lỗi.
Ơn cứu độ dành cho mọi người, chứ không cho nhiều người. Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính. Mặt trời phải có khả năng chiếu sáng khắp nơi và tất cả. Không phải vì một số nơi bị che khuất, mà có thể nói mặt trời chỉ chiếu sáng cho nhiều nơi hay nhiều người ! Thực tế, có những nơi tưởng xa khuất và tăm tối như Đông Phương, vẫn có Mặt Trời Công Chính chiếu soi và mời gọi các nhà chiêm tinh lên đường.
Lạy Chúa, xin cho Mặt Trời Công Chính chiếu soi vào tận cõi lòng và dân tộc chúng con. Dù tội lỗi đã làm chúng con xa lạ, xin Chúa cũng hãy kêu gọi và thúc đẩy chúng con tìm đến với Chúa. Amen.
Với lễ Giáng sinh, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để chúng ta: HiểnLinh ABC145
Với lễ Giáng sinh, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để chúng ta có thể gặp gỡ Ngài. Gặp gỡ Ngài không phải chỉ ở trong đền thờ nguy nga, mà còn gặp gỡ Ngài nơi những con người bình thường. Ngài đó, một Hài nhi bé nhỏ, nằm trong máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem. Đồng thời, không phải chỉ có một hạng người nào đó mới có quyền được gặp gỡ Ngài, mà ngay cả những kẻ tầm thường như những trẻ mục đồng cũng có thể gặp gỡ Ngài.
Để niềm vui của Chúa Giêsu được trọn vẹn, lễ Hiển Linh hôm nay đã gợi lên cho chúng ta một xác tín mới: Thiên Chúa không phải chỉ đến với dân Do Thái, mà còn đến với cả những người từ phương Đông, nghĩa là những người không thuộc về dân riêng của Chúa, những người vẫn bị liệt vào hàng dân ngoại.
Xác tín này đã được thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bức thư gởi tín hữu Ephêsô: Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Với lễ Hiển Liên, Thiên Chúa đã đến với tất cả mọi người, Ngài phá đổ những hàng rào tạo nên sự kỳ thị: Kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị màu da, kỳ thị tiếng nói. Thực sự thì đó chỉ là những hàng rào do chính con người dựng lên để bảo vệ những quyền lợi cho riêng mình.
Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của tất cả, và điều Ngài ước mơ vẫn là tập hợp muôn dân nước dưới ánh sáng của Ngài. Ngài đã đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có tiến tới để gặp gỡ Ngài hay không? Bàn tay Ngài đã giơ ra, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có nắm lấy để được cứu vớt hay không, bởi vì như lời thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài đòi chúng ta phải ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự thực đã cho chúng ta thấy: Ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Ngài đã đến nhưng không phải tất cả mọi người đều tới gặp gỡ Ngài. Một Hêrôđê cũng đã ngỏ ý muốn đến triều bái Ngài nhưng với một âm mưu thâm độc, ông muốn giết hại Ngài để được ngồi mãi mãi trên chiếc ngai vàng của ông. Các luật sĩ và tư tế thì lại thoả mãn với những hiểu biết của mình, để rồi chẳng biết lên đường tìm gặp Ngài? Còn dân thành Giêrusalem thì lại ngại đổi thay và chuyển biến.
Để đến với Chúa, chúng ta cần phải lên đường như ba nhà đạo sĩ phương Đông, không phải trong tối tăm mò mẫm, bởi vì chúng ta luôn có ánh sao lạ, đó là Tin Mừng, thập giá và sự phục sinh của Ngài soi đường dẫn lối.
Lễ Giáng sinh và lễ Hiển Linh chính là một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con người và con người nhận biết Ngài nơi hài nhi Giêsu.
Như các nhà đạo sĩ phương Đông, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi lên đường đến với hài nhi Giêsu. Lên đường ở đây có nghĩa là từ bỏ những bảo đảm để tiến tới phía trước. Ngài đến trong những cái bất ngờ của những sự kiện diễn ra trong cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên chúng ta có sẵn sàng lên đường, đi theo ánh sao là Tin Mừng của Chúa hay không?
Hôm nay, HiểnLinh ABCtrên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. HiểnLinh ABClà những người: HiểnLinh ABC146
Hôm nay, HiểnLinh ABCtrên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. HiểnLinh ABClà những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa. Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như HiểnLinh ABCkhông?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
Đây là một thị trấn cách Giêrusalem mười cây số về phía nam. Thời xưa nó còn được gọi là Eprát: HiểnLinh ABC147
Đây là một thị trấn cách Giêrusalem mười cây số về phía nam. Thời xưa nó còn được gọi là Êprát hoặc Éprata. Tên “Bêlem” có nghĩa là “nhà bánh”. Bêlem nằm ở một vùng quê mầu mỡ nên tên đó rất xứng hợp, nó đứng trên ngọn đồi đá vôi cao hơn, có hai đỉnh hai bên, ở giữa lõm xuống như yên ngựa. Từ vị trí đó Bêlem trông như một thị trấn đặt giữa một đại hí trường do những núi đồi tạo dáng.
Bêlem có một lịch sử lâu đời, đó là nơi Giacóp chôn cất Rakhen, vợ ông, và dựng một bia tưởng niệm bên mộ (St 48,7; 35,20). Đó cũng là nơi Rút đã sống và gặp Bôô (R 1,22) và từ Bêlem, Rút có thể thấy vùng đất Môáp, quê hương mình, ở bên kia sông Giođan. Nhưng trên hết, Bêlem là nhà và thành của Đavít (1Sm 16,1; 17,12; 20,6), chính Đavít đã thèm khát được uống nước tại giếng của Bêlem khi ông còn lưu lạc trốn tránh trên các núi (2Sm 23,14.15)
Trong những ngày sau đó, ta đọc thấy Rơkhápam xây đắp thành lũy cho Bêlem (2Sb 11,6). Nhưng trong sử của Israel và trong tâm trí của dân chúng, Bêlem là thành của vua Đavít. Chính từ dòng dõi nhà Đavít mà Thiên Chúa ban Đấng Cứu Độ uy hùng đến với dân Ngài như tiên tri Mikha đã nói: “Hỡi Bêlem, Éprata, ngươi nhỏ nhất trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện cho ta một Đấng cai trị trong Israel, gốc tích của Ngài là bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng” (Mk 5,1).
Tại Bêlem, thành Đavít, người Do Thái đã trông đợi dòng dõi vua Đavít sinh ra và cũng tại đó họ trông đợi Đấng được xức dầu của Thiên Chúa đến trong thế gian, và thật, Đấng đó đã đến.
Bức tranh của chuồng bò và máng cỏ, nơi Chúa Giêsu hạ sinh là bức tranh được ghi khắc sâu đậm trong tâm trí chúng ta, dù có thể bức tranh không hoàn toàn chính xác. Justin Martyr, một trong các giáo phụ đầu tiên sống khoảng năm 150 SCN, xuất thân từ một vùng gần Bêlem cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã sinh ra trong một hang đá gần làng Bêlem (Justin Martyr: Đối thoại với Trypho 78, 304) và điều này có thể đúng. Nhà cửa ở Bêlem được cất ở trên dốc núi đá vôi, họ cũng thường làm chuồng bò nơi hang đá đẽo lõm vào trong ở phía dưới căn nhà. Rất có thể Chúa Giêsu đã giáng sinh trong chuồng bò như vậy.
Ngày nay ở Bêlem vẫn còn một hang đá như thế và được xem là nơi Chúa Giêsu giáng sinh. Tại đó Giáo Hội đã xây “Thánh Đường Chúa Giáng Sinh”. Từ lâu hang đá đó được kể là nơi Chúa Giêsu giáng sinh, vì thế vào đời hoàng đế Rôma Hadrian trị vì, ông ta cố ý làm mất tính cách thiêng liêng của nơi đó bằng cách dựng nên một miếu thờ thần ngoại Adonis trên đó. Khi cả đế quốc Rôma tin theo Kitô giáo vào đầu thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantin đã xây cất một đền thờ. Bên dưới bàn thờ chính có một đền thờ lớn vẫn còn đến ngày nay. H. V. Morton tả lại chuyến đi thăm thánh đường Chúa Giáng Sinh tại Bêlem. Ông đến một bức tường lớn, ở đó có một cửa rất thấp, đến nỗi một người lùn cũng phải khom lưng mới vào được. Bên kia bức tường là đền thờ. Bên dưới bàn thờ chính có một hang đá. Khi khách hành hương viếng nơi thánh vào hang đá sẽ thấy một cái động nhỏ, tối, dài 14 thước và ngang 4 thước được thắp sáng bởi 53 ngọn đèn bằng bạc và trên nền có một ngôi sao, chung quanh ngôi sao có bảng đề bằng tiếng Latinh “Đây là nơi Chúa Giêsu sinh bởi trinh nữ Maria”. Khi Chúa vinh hiển nhập thế, Ngài sinh ra trong một hang đá, nơi người ta dùng làm nơi nghỉ cho đàn gia súc. Hang đá ấy nay được ở trong thánh đường Chúa Giáng Sinh tại Bêlem. Có thể đúng là hang đá đó, cũng có thể không, không ai biết chắc. Nhưng có một điều lý thú trong biểu tượng này là thánh đường xây trên hang đá có một cái cửa rất thấp đến nỗi ai muốn vào phải cúi khom người xuống. Bất cứ ai muốn đến cùng Hài Nhi Giêsu đều phải quỳ gối khiêm cung.
LÒNG TÔN SÙNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến tỏ lòng tôn kính Ngài. Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng về quyền hành hoặc uy tín và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như người Lêvi đối với dân Israel vậy. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên. Họ cũng là những thầy bói và người giải mộng. Về sau, chữ Magi càng ngày càng mang nghĩa thấp kém hơn và trở thành chữ thầy bói, phù thủy và lang băm, như Êlyma, thuật sĩ (Cv 13,6.8), Simon người được mệnh danh là thuật sĩ (Cv 8,9-11). Nhưng các Magi không như vậy, họ là những bậc thánh, cũng là những nhà hiền triết đi tìm chân lý.
Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của tầng trời dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc đặc biệt nào đó.
Chúng ta không biết các Magi này đã thấy ngôi sao sáng nào, có nhiều ý kiến về việc này. Chừng mười một năm trước Công nguyên, sao chổi Halley xuất hiện sáng rực trên các tầng trời. Đến khoảng năm 7 trước Công nguyên, Mộc Tinh và Thổ Tinh xáp lại tạo nên ánh sáng chói lọi. Năm 5 tới năm 2 trước Công nguyên, cũng có những hiện tượng thiên văn kỳ lạ. Trong những năm này vào ngày đầu tiên của tháng Mesori Ai Cập, ngôi sao Sirius gọi là Thiên Lang (sao chó) hiện ra, sáng chói rực rỡ lạ thường lúc mặt trời mọc. Ngày nay tên Mesori có nghĩa là “sự ra đời của một vương tử”. Đối với các nhà chiêm tinh xưa, một ngôi sao như thế chắc hàm ý sự ra đời của một đại vương. Chúng ta không biết các Magi đã thấy ngôi sao nào, nhưng họ chuyên xem sao nên ánh sáng lạ xuất hiện trên trời báo cho họ biết một vị vua đã đến thế gian.
Đối với chúng ta, dường như việc những người này từ phương Đông lên đường đi tìm vua là một việc khác thường. Nhưng thật lạ lùng ngay lúc Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới bấy giờ cũng có sự ngưỡng vọng kỳ lạ về một vị vua sẽ đến. Ngay các sử gia Rôma cũng biết rõ điều này, sau đó không lâu, nhằm thời hoàng đế Vespasian, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới” (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng nói đến niềm tin đó: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những Cuộc Chiến Tranh của người Do Thái 6,5). Sau đó không lâu, chúng ta thấy Tiridates, vua xứ Ácmêni, đi thăm hoàng đế Nêrô tại Rôma có đem Magi theo (Suetonius, Đời sống Nêrô 13,1). Chúng ta thấy các Magi tại Athène dâng lễ vật cho nhà hiền triết Plato (Seneca, Các Thư Tín 58,31).
Hầu như cùng lúc Chúa Giêsu giáng sinh, chúng ta thấy hoàng đế Augustus của đế quốc Rôma được chúc tụng như là vị cứu tinh của thế giới, và thi hào Virgil của Rôma, sáng tác Bài Hát Đối Thứ Tư, được mệnh danh là bài hát đối về Đấng Cứu Thế, ca tụng thời hoàng kim sắp đến. Chúng ta không nên nghĩ rằng câu chuyện các Magi tìm đến máng cỏ chỉ là một huyền thoại dễ thương, nhưng chính đó là một biến cố đã xảy ra trong thế giới cổ. Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang tha thiết trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.
NHÀ VUA XẢO QUYỆT (Mt 2, 3-9)
Vua Hêrôđê nghe tin các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến và họ đang tìm kiếm một con trẻ mới sinh ra làm vua người Do Thái. Vua nào mà chẳng lo lắng khi nghe báo cáo có một hài nhi sinh ra để chiếm ngôi mình. Nhưng Hêrôđê lại còn lo lắng gấp bội.
Hêrôđê nửa là Do Thái, nửa là Êđôm, trong huyết quản của nhà vua có dòng máu Êđôm. Vua là một lợi khí đắc lực cho người Rôma trong những cuộc chiến tranh và nội chiến ở Palestin, được người Rôma tin dùng. Hêrôđê được chỉ định làm tổng đốc năm 47 TCN. Năm 40 TCN, Hêrôđê được phong làm vua và cai trị đến năm 4 TCN. Ông nắm quyền khá lâu và được gọi là Hêrôđê đại đế và rất xứng đáng với danh hiệu ấy. Ông là người duy nhất ở Palestin đã thành công trong việc trị an và đem lại trật tự cho một xứ hỗn loạn. Ông là nhà kiến trúc đại tài, chính ông đã xây đền thờ Giêrusalem. Có thể ông cũng là một người rộng lượng. Trong thời khó khăn, ông miễn thuế cho dân và trong cơn đói kém năm 25 TCN, ông đã cho nấu chảy cái đĩa vàng lớn của mình để mua ngũ cốc phát cho dân đói khổ. Nhưng Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander Aristobulus cũng bị ông sát hại.
Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ cay đắng và cong quẹo của Hêrôđê được thấy rõ hơn trong những chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, bịa đặt tội trạng và hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung. Ông nói cách tàn nhẫn rằng vì ông biết khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết. Rõ ràng một người như thế sẽ cảm thấy thế nào khi hay tin một hài nhi sinh ra để làm vua. Ông bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao dao động, vì Giêrusalem thừa biết những bước mà Hêrôđê sẽ thực hiện để chận đứng câu chuyện và loại trừ hài nhi ấy. Giêrusalem biết rõ Hêrôđê và Giêrusalem rùng mình chờ đợi phản ứng không tránh được của Hêrôđê.
Hêrôđê triệu tập các thầy cả thượng phẩm và các Kinh sư. Các Kinh sư là những người thông thạo về kinh điển và luật. Các thầy cả gồm hai hạng người. Một là những thầy cựu thượng phẩm. Chức thầy cả thượng phẩm được giới hạn trong một vài gia đình. Hai là dòng tư tế quý phái, thành viên của những gia đình tuyển lựa này được gọi là các thầy cả thượng phẩm. Hêrôđê triệu tập giới quý tộc tôn giáo cùng các học giả thời bấy giờ mà hỏi họ theo lời Kinh Thánh Đấng được xức dầu của Thiên Chúa phải sinh tại đâu. Họ trưng dẫn Mk 5,1 cho vua. Hêrôđê cho vời các nhà chiêm tinh đến, nhờ họ đi điều tra kỹ lưỡng về con trẻ mới sinh ra và nói rằng ông cũng muốn đến để tôn kính Hài Nhi, nhưng thật sự ước ao duy nhất của lòng ông là thủ tiêu ngay Hài Nhi đó.
Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ chung cho cả nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt lịch sử, ba thái độ đó là:
(1) Phản ứng của vua Hêrôđê: ganh ghét và thù địch. Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào đời sống của kinh đô, vào quyền thế và ảnh hưởng của mình. Bởi vậy, thôi thúc đầu tiên trong ông là giết Ngài. Ngày nay cũng vậy vẫn còn nhiều người vui mừng tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu. Kitô hữu là người không làm theo ý mình nhưng phó dâng đời sống để làm điều Chúa Giêsu ưa thích.
(2) Phản ứng của các tư tế và các Kinh sư: hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa. Câu hỏi đau thương qua đấng ngôn sứ vẫn còn được nhắc lại “Hỡi mọi người đi qua, há chẳng lấy làm quan hệ sao?” (Ac 1,12)
(3) Phản ứng của các nhà chiêm tinh: Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng vật cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì chắc phải đắm chìm trong sự kinh ngạc, kính mến và ca ngợi Ngài.
LỄ VẬT DÂNG CHÚA GIÊSU (Mt 2, 10-12)
Theo ánh sao, các nhà chiêm tinh lại tìm được đường đến Bêlem.
Có một huyền thoại dễ thương kể lại khi ngôi sao ấy đã hoàn thành chức năng dẫn đường, thì rơi xuống một cái giếng tại Bêlem, ngôi sao vẫn còn đó và đôi khi những người có lòng trong sạch vẫn còn thấy nó.
Những huyền thoại về sau cũng thường rất bận tâm về các nhà chiêm tinh. Truyền thuyết phương Đông đầu tiên nói có 12 vị. Nhưng ngày nay hầu như ba vị là truyền thuyết phổ thông nhất. Tân Ước không nói rõ có ba vị, nhưng ý đó hẳn là do ba lễ vật của họ. Các huyền thoại về sau tôn họ là những vị vua, lại còn xưng danh họ là Gaspar, Melchior và Balthasar. Huyền thoại về sau nữa mô tả hình dạng cá nhân và phân biệt lễ vật của mỗi người dâng lên cho chính Chúa Giêsu. Melchior là ông già tóc hoa râm, có bộ râu dài là người đã dâng vàng. Gaspar còn trẻ không râu, mặt đỏ đã dâng nhũ hương. Balthasar da đen, mới để râu, là người đã dâng mộc dược. Ngay từ những ngày đầu người ta đã thấy mỗi lễ vật các nhà chiêm tinh dâng lên đều tương ứng với đặc điểm của Chúa Giêsu và công việc của Ngài.
(1) Vàng là lễ vật dâng cho vua. Seneca cho chúng ta biết chẳng ai được vào chầu vua mà không có lễ vật. Vàng, vua của mọi kim loại xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Chúa Giêsu là Đấng “Sinh ra để làm Vua”. Nhưng Ngài không cai trị bằng vũ lực, mà bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập giá.
Chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu là Vua. Chúng ta không thể gặp Ngài bằng vai ngang hàng, nhưng phải gặp Ngài với thái độ vâng phục trọn vẹn. Nelson, vị đô đốc lừng danh bao giờ cũng đãi ngộ kẻ thù chiến bại của mình cách nhân từ và lễ độ. Sau một trận thủy chiến đắc thắng, vị đô đốc bại trận được đưa lên soái hạm của Nelson, vào sàn lái của tàu Nelson. Biết Nelson nổi tiếng về phép lịch sự, suy nghĩ có thể lợi dụng điều đó, vị đô đốc bại trận tiến ngang qua sàn lái, bàn tay chìa ra như tiến lên bắt tay với người ngang hàng. Nhưng tay Nelson vẫn giữ ở bên mình. Ông bảo: “Ngài hãy nạp gươm trước, sau đó hãy đưa tay”. Trước khi kết thân với Chúa Giêsu, chúng ta phải quy phục Ngài.
(2) Nhũ hương là lễ vật cho thầy tế lễ. Trong việc thờ phượng nơi đền thờ và trong việc dâng lễ vật, người ta thường xông một hương liệu là nhũ hương có mùi thơm dịu. Chức vụ của thầy tế lễ là mở đường cho loài người đến với Thiên Chúa. Tiếng Latinh, chữ thầy tế lễ là ‘pontifex’ có nghĩa ‘người bắc cầu’. Thầy tế lễ là người bắc cầu giữa loài người và Thiên Chúa, đó là điều Chúa Giêsu làm, Ngài làm cho loài người có thể đến được với Thiên Chúa.
(3) Mộc dược là lễ vật cho người phải chết. Mộc dược là hương liệu để xông xác người chết. Holman Hunt có một bức tranh nổi tiếng về Chúa Giêsu. Bức tranh mô tả Chúa Giêsu tại trước cửa xưởng thợ mộc ở Nagiarét, Ngài vẫn còn thanh niên. Nắng chiều còn trên hiên cửa, thanh niên Giêsu đứng đó, duỗi tay và vươn vai vì tứ chi mệt mỏi sau một ngày lao động. Người đứng đó với cánh tay giơ ra, phía sau, mặt trời sắp lặn in bóng Ngài trên tường. Bóng đó là hình thập giá. Đằng sau, bà Maria đang đứng, đôi mắt hiện rõ nét lo âu về thảm kịch sẽ xảy đến cho con mình khi bà thấy bóng thập giá. Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để sống cho loài người và cuối cùng để chết cho loài người. Ngài đến để ban cho loài người sự sống và sự chết của Ngài.
Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là Vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết Ngài là Chúa Cứu Thế cao cả của loài người.
Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Lm. PX. Vũ Phan Long, ofm
I. NGỬ CẢNH
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không: HiểnLinh ABC148
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối với nhau. Đề tài “sự hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc tới đều đặn (x. 2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến của chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các bản văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một đăc điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng ta lại có thể phân biệt ra hai khối:
- 2,1-12: Truyện kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất; nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề tài quan trọng của TM Mt: người Do-thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do-thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà người Do-thái bỏ trống trong lòng Dân Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Ít-ra-en chân chính của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả Tin Mừng cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể TM Mt.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Ít-ra-en, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
II. BỐ CỤC
Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một câu Mở và một câu Kết: Mở (c.: Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh. Phần 1 (cc. 2-8): Tại đền vua Hêrôđê. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia. Phần 2 (cc. 9-11): Tại nhà của Hài Nhi. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia. Kết (c. 12): Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương.
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Bêlem (Bêthlehem) (1), có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x. 1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42.
- Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tr CG). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa hy-lạp, nên ông bị người Do-thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
- Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy-lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tr CG), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tr CG), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các ki-tô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 sau CG), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ VI (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tr CG.
- mấy nhà chiêm tinh (Hl. magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do-thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do-thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (tk V), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (tk 8). Sang tk XIV, ông Gaspar được coi là một người da đen...
- chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do- thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
- xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mt muốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.
- chúng tôi đến bái lạy (Hl. proskyneô): Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là thái độ con người tùng phục Thiên Chúa.
- Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy-lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs (Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!
- mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).
- Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.
- hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
- lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh (1)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả đã giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật sẽ được đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2, “vương quyền của Đấng Mêsia”, đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu “vua” gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài này.
* Tại đền vua Hêrôđê (2-8)
Chủ đề lại được nêu lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà chiêm tinh văn, chứ không phải là “vua”. Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh chim bay. Họ cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do-thái như thế, trên đất Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một nhân vật quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các ngài biết rằng một đàng, Ds 24,17 khẳng định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp, một đàng có một truyền thống song song, dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy-lạp LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc. Các nhà chiêm tinh này biết rằng dân Do-thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon, đã có nhiều người Do-thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn giáo và các niềm chờ mong Do-thái.
Khi tác giả Mátthêu kể câu truyện Các nhà chiêm tinh, ngài muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tính nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị này tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng các vị lại được gửi đi đến một nơi khác. Nhưng bây giờ các vị biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ Lãnh và Mục tử của dân Israel. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến cho, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã kiên trì theo đuổi mục tiêu, các vị tiếp tục cuộc hành trình.
Sự việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu sấm Mk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2. Một vài điểm không thật (vua Hêrôđê phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết, vậy mà không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể Thượng hội đồng Do-thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn xao”…) khiến nhiều tác giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do-thái loại trừ Đức Giêsu và dân ngoại đón tiếp Người.
* Tại nhà của Hài Nhi (9-11)
Chủ đề được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn trông đợi, dù tước “vua” không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề “vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ (“Vua dân Do-thái”: c. 2; “vì sao của Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3; “Hêrôđê”: cc. 7.12; “bái lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ lạy”: c. 11; “lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến”: c. 11[1] liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh) (x. “phủ phục”: những người được Đức Giêsu chữa lành: Mt 8,2; 9,18; 15,25; môn đệ Người: 14,33; 28,9.17). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị cái gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin. Các lễ vật quí giá (vàng, ngũ hương và mộc dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
* Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương (12)
Chủ đề được khóa lại với tên “Hêrôđê”, vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và với việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh truyện này với những gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một vị vua cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với truyện. Nhưng “đúng” không nhất thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các truyện trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải thích các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cộng đoàn.
2. Có những điểm “khôi hài” trong bài: Sự khôn ngoan của dân ngoại mà người Do-thái vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô. Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thànhtrung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
Lm. PX. Vũ Phan Long, ofm ------------------------------------------------------- [1] Chúng tôi ghi nhận theo bản văn Hy-lạp.
3. Có hai chuyển động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do-thái và dân Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị “đã đi lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về lối ứng xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh, nhưng họ không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
4. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
5. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6. Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải thích cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên thế giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ chính là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ “đồng nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
Một trong những trại tù binh lớn nhất mà người Nhật thiết lập cuối thế chiến thứ hai là trại tù: HiểnLinh ABC149
Một trong những trại tù binh lớn nhất mà người Nhật thiết lập cuối thế chiến thứ hai là trại tù bên bờ sông Quế (Kwei river) thuộc tỉnh Kanchanaburi của Thái Lan. Nơi đây đã có tới 12 ngàn tù binh bị chết vì bệnh tật và bị đối xử tàn bạo trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa.
Kẻ Thù Số Một
Đám tù nhân bị cưỡng bức lao động dưới cơn nóng có khi lên tới 490C. Đầu trần, chân đất họ vác từng thúng đất đá trên vai, để xây dựng cho xong toàn bộ tuyến đường sắt đã được chỉ định. Đúng là cảnh màn trời chiếu đất theo nghĩa đen, vì họ nằm ngủ trên đất không chăn chiếu. Nhưng kẻ thù số một không phải là cai tù hoặc bọn lính gác, cũng không phải là cuộc sống gian khổ, mà là chính bản thân họ. Theo lời kể lại của tác giả Ngô Văn Đông (Ernest Gordon) trong cuốn "Ngang qua thung lũng sông Quế" thì vì quá sợ, đám tù binh nói trên mắc chứng hoang tưởng. Họ cư xử với nhau theo luật rừng, lại còn trộm cắp của nhau, ngờ vực và chỉ điểm lẫn nhau. Họ trở nên trò cười đối với bọn lính gác. Bởi lẽ trước kia họ là binh hùng tướng mạnh mà nay trở nên hèn nhát và phá hoại nhau!
Điều Không Thể Xảy Ra Đã Xảy Ra
Thế rồi một điều xem ra không thể xảy ra đã xảy ra. Số là có hai người trong đám tù nhân đứng ra tổ chức cho các bạn tù thành những nhóm học hỏi Kinh Thánh. Điều lạ lùng là đám tù nhân qua đó khám phá ra Chúa Giêsu hiện đang sống động giữa họ. Người hiểu rõ hoàn cảnh của họ. Chính Người cùng chung số phận với họ để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Người đã từng chịu đói khát, từng bị phản bội, từng nếm những lằn roi quất trên lưng và cuối cùng bị người ta giết chết. Chính vì Người luôn kết hợp với Cha trong kế hoạch cứu nhân độ thế nên Thiên Chúa đã siêu tôn và đặt Người làm Chúa của mọi người và mọi sự. Thế là tất cả những điều liên quan tới Chúa Giêsu, về con người của Người, về những gì Người nói, những việc Người làm đều tràn đầy ý nghĩa và trở nên sống động đối với chính họ. Đám tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nữa. Họ không còn chỉ điểm, không còn phá hoại lẫn nhau nữa. Họ biểu lộ việc hoán cải tự thâm sâu như thấy rõ qua những lời cầu nguyện tự phát. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn là cho chính mình. Họ chỉ ước mong để đỡ bị gò bó hầu tự do chia sẻ cho nhau nhiều hơn trong cuộc sống. Dần dà, cả trại được biến đổi đến nỗi không chỉ đám lính Nhật canh gác phải lấy làm lạ mà chính các tù binh cũng hết sức ngạc nhiên!
Khác Biệt Giữa Sự Chết Và Sự Sống
Một đêm nọ, sau cuộc họp với nhóm học hỏi Kinh Thánh, tác giả Ngô Văn Đông khập khiễng bước về căn trại của ông. Đang lúc lần mò trong bóng đêm, ông bỗng nghe có tiếng người ca hát. Ông nhận thấy có người đang dùng một mảnh gỗ gõ vào một chiếc lon thiếc để giữ nhịp. Tiếng mảnh gỗ gõ vào lon thiếc cùng với tiếng hát khiến cho bóng đêm tự nhiên trở nên có sự sống. Điều khác biệt giữa tiếng hát vui tươi lúc đó và cái lặng thinh chết chóc của những tháng trước đó giống hệt điều khác biệt giữa sự sống và sự chết, giữa một đám người chia rẽ phá hoại nhau và một lớp người có Chúa Giêsu Phục Sinh linh hoạt ở giữa họ.
Nhưng thử hỏi trong dịp lễ kính Chúa Hiển Linh sau No-en, mà đề cập tới Chúa Phục Sinh sợ có quá sớm chăng? Chúa Hiển Linh là gì? Người bày tỏ bản thân Người cho ta như thế nào ở giữa xã hội ta đang sống?
Một Mầu Nhiệm Duy Nhất
Thực ra, chỉ vào khoảng 375, hai lễ lớn là Sinh Nhật trong Giáo Hội Roma và Hiển Linh trong Giáo Hội Đông Phương mới xuất hiện trong nền phụng tự Kitô giáo. Trước đó, các Kitô hữu chỉ cử hành một mầu nhiệm duy nhất là sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, mỗi tuần vào ngày Chúa Nhật và mỗi năm vào mùa Phục Sinh. Nhưng điểm phát xuất của cả hai lễ Giáng Sinh và Hiển Linh cũng là việc nhìn nhận Chúa Giêsu là nguồn bất diệt của một mùa xuân phong phú. Roma cử hành lễ sinh nhật của Chúa vào ngày 25 tháng 12. Đó là ngày Xuân Phân của Tây Phương, nên được chọn để mừng biến cố sinh ra của Đấng là Ánh Sáng thế gian. Hôm đó dân ngoại thờ thần mặt trời mà họ tin là "Mặt trời bất diệt" vượt lên từ bóng tối của mùa Đông. Còn người Kitô chọn ngày đó để mừng Chúa giáng trần, nào chẳng phải là để nhìn nhận Người mới là Mặt Trời bất diệt duy nhất đó sao? (x Lc 1,78). Riêng ở Ai Cập, dân ngoại mừng lễ Xuân Phân vào ngày 6 tháng 1.
Nhiều nghi lễ ngoại giáo được tổ chức vào ngày đó. Cho nên để tránh cho người Công Giáo khỏi vướng mắc vào dịp đó, Giáo Hội Đông Phương ở đây chọn ngày 6 tháng 1 làm lễ mừng Chúa Hiển Linh. Điều đặc biệt là người Ai Cập sống lệ thuộc nhiều vào sông Nil phì nhiêu, tựa như dân Việt ta lệ thuộc nhiều vào hai con sông Hồng Hà và Cửu Long. Cho nên điều dễ hiểu là người Công Giáo Ai Cập chọn mừng Chúa tỏ thần tính của Người bên bờ sông Giođan thay vì mừng Người sinh ra trong cảnh cơ hàn của Bêlem lạnh lẽo. Họ chọn cảnh "Đức Giêsu vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người." (Mt 3,16-17). Lễ Hiển Linh mà người Ai Cập mừng đã mau chóng được tất cả Giáo Hội Đông Phương mừng theo.
Nhưng trang Tin Mừng Mátthêu 2,1-12, kể lại việc các đạo sĩ từ phương Đông xa xôi tới thờ lạy Hài Nhi Giêsu sinh ra tại Bêlem, không thể không lôi cuốn niềm ngưỡng mộ của người Kitô mà đa số có gốc dân ngoại. Các đạo sĩ này quả thực là tổ phụ của họ, đã trở nên hoa trái đầu mùa của dân ngoại khi Tin Mừng được loan báo. Các đạo sĩ ấy đại diện toàn thể dân ngoại trong việc tôn vinh Con bà Maria, cũng là Con của Thiên Chúa.
Sau này khi lễ Chúa Hiển Linh được cử hành rộng rãi ở xứ Galia của Pháp Quốc sau này, người ta còn mô tả việc Chúa Hiển Linh qua việc Người khiêm nhường chịu phép rửa của Gioan, và qua việc Người tỏ mình ra tại Cana với điều nhấn mạnh là "Chúa tỏ vinh quang của Người ra, và các môn đệ tin vào Người" (Ga 2,11)
Như vậy việc Thiên Chúa tỏ thần tính của Người ra nơi Đức Giêsu bao gồm biết bao là biến cố và mầu nhiệm trong đời Người. Các biến cố hay đúng hơn, các mầu nhiệm của đời Người, được mừng kính dọc theo năm phụng vụ thực ra chỉ là "những phương diện khác nhau của mầu nhiệm phục sinh duy nhất của Người" (Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1171).
Thánh Linh Thực Hiện Mầu Nhiệm Duy Nhất của Chúa Giêsu
"Phụng vụ Kitô giáo không chỉ nhắc nhở những biến cố cứu độ, nhưng còn hiện thực hoá những biến cố đó. Do đó mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô được cử hành nhưng không lặp lại, tuy chúng ta lặp lại nhiều lần cuộc cử hành. Mỗi lần cử hành phụng vụ, Thánh Linh lại đổ ơn chan hoà. Ngài hiện thực hoá mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô." (Ibid., sô 1104).
Câu chuyện nói trên của tác giả Ngô Văn Đông gợi ý cho ta thấy chút nào đó về việc Thiên Chúa tỏ thần tính của Người trong một hoàn cảnh hết sức bi đát. Đó là hoàn cảnh của những tù nhân vì quá sợ hãi nên mắc bệnh hoang tưởng. Họ chỉ điểm lẫn nhau và trở nên những kẻ thù của nhau! Chính trong hoàn cảnh cùng cực đó Lời Chúa được cử hành nơi những nhóm học hỏi Kinh thánh. Và điều lạ lùng là chính Chúa Giêsu với mầu nhiệm Phụx Sinh duy nhất của Người, hiện diện một cách vô hình, nhưng tác động một cách hữu hình qua việc Người biến đổi những con người cụ thể.
• Trước hết, Người ban cho các nhóm tù nhân học hỏi Kinh Thánh ánh sáng đức tin để trí hiểu của họ thấy được Người đang sống động ở giữa họ. Họ phần nào giống như các đạo sĩ được ban cho ơn "thấy vì sao của Đức Vua dân Do Thái xuất hiện bên phương Đông nên đến bái lạy Người" (c.2 và 9).
Chúa Giêsu Tự Hiến Để Cứu Họ
• Người ban cho họ chính bản thân Người tự hiến để cứu họ khỏi cảnh lầm than mà họ đang phải gánh chịu một cách vô vọng. Do đó đám tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nữa. Ở đây các tù nhân phần nào giống như các đạo sĩ được báo mộng (c.12) để khỏi trở về con đường cũ họ vẫn theo. Tức là các tù nhân không còn trở về với nếp sống ngờ vực và phá hoại lẫn nhau nữa.
Nhất là các tù nhân được ban cho ơn đáp lại tình yêu Chúa ban một cách quảng đại. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn là cho chính mình. Họ ước mong được tự do chia sẻ cho nhau nhiều hơn trong cuộc sống. Họ phần nào noi gương các đạo sĩ đã quảng đại dâng Hài Nhi Giêsu những lễ vật quý báu họ mang theo (c.11)
Một số câu hỏi gợi ý Bạn thấy qua việc học hỏi và chia sẻ Kinh Thánh, những nhóm tù nhân trong câu chuyện của tác giả Ngô Văn Đông, được thay đổi về phương diện nào mà bạn cho là đáng kể nhất?
Bạn nghĩ tại sao các tù nhân trong câu chuyện của tác giả Ngô Văn Đông, thấy Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh của họ? Chính bạn có kinh nghiệm nào về việc Chúa Giêsu gần guĩ trong hoàn cảnh sống của bạn?
Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong: HiểnLinh ABC150
Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết hài nhi Giêsu. Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác; họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn người khác về phương diện nào đó.
Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân tộc Do Thái.
Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu, ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa.
Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh phúc hơn khi trở thành Kitô hữu.
Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính mình: “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở thành phản chứng.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của Đức giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình. Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho những người làm hại họ.
Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại sao? Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không? Tại sao? Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu Kitô?