Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 151-200 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội, Bí Tích Hiệp Nhất toàn thể gia: HiểnLinh ABC151
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội, Bí Tích Hiệp Nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Thế của mình.
Is 60: 1-6
Ngôn sứ I-sai-a loan báo hình ảnh vinh quang của Giê-ru-sa-lem mới, tiên trưng Giáo Hội: “Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”. Ep 3: 2-6
Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ, đó là muôn dân muôn nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một dân tộc duy nhất là Giáo Hội, trở nên một thân thể duy nhất là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Giê-su Ki tô.
Mt 2: 1-12
Được soi lối chỉ đường: từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên trưng Giáo Hội, đến thờ lạy Đấng Cứu Thế. BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)
Các ngôn sứ Cựu Ước vĩ đại đều đã công bố chiều kích hoàn vũ của sứ mạng Giê-ru-sa-lem. Họ đã mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en ở bên kia chủ nghĩa quốc gia và nhấn mạnh một trong những yêu sách ơn gọi của họ: ánh sáng cho muôn dân muôn nước.
Bản văn được chọn để cử hành lễ Hiển Linh được trích từ tác phẩm của một trong số các ngôn sứ nầy. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, nghĩa là sau cuộc hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.
1. Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (6: 1-2).
Ông loan báo một sứ điệp đầy tin tưởng và lạc quan để an ủi một cộng đoàn chán chường và thất vọng.
Cuộc trở về quê cha đất tổ đã đem lại một tinh thần phấn chấn cho những người hồi hương; nhưng rồi sớm vỡ mộng. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bần cùng và thưa thớt người, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt ngót bốn mươi năm trường. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt… Cuối cùng, những nổ lực tái thiết Đền Thánh phải dang dỡ. Chính vào lúc ấy, một sấm ngôn vang lên để an ủi những ai mất can đảm: “Vùng lên! Bừng sáng lên ! Giê-ru-sa-lem hỡi!”. Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng cách cho phép họ được trở về quê cha đất tổ: “Vì ánh sáng của ngươi đến rồi, vinh quang Chúa trên ngươi chiếu tỏa”. Những kẻ áp bức bị nghiền nát: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân”. Cuộc hồi hương nầy được ví như bình minh. Thiên Chúa được sánh ví như vầng kim ô chói lọi: “Còn trên ngươi, Chúa lại chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi”. Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vị ngôn sứ đưa ra hai thị kiến chứa chan hy vọng.
2. Cuộc tụ họp vĩ đại (6: 3-4).
“Đưa mắt về tứ phía mà xem: ai nấy đều tụ họp, kéo đến với ngươi, con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Những con trai con gái nầy là những “cộng đồng Do thái hải ngoại” (họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam). Thế nên, một truyền thống rất sống động muốn rằng sự thống nhất của toàn thể dân Ít-ra-en phải là công trình của Đấng Mê-si-a. Như vậy, sấm ngôn bao hàm hậu cảnh mê-si-a.
Thế nhưng những đứa con đến từ xa cũng là những đứa con của muôn dân muôn nước, họ sẽ chọn Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình vì uy danh Thiên Chúa của nó quyến rủ họ: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
3. Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (6: 5-6).
Thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất: chư dân sẽ đề xuất sự phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh: “Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà của người Ma-đi-an và Ê-pha; hết thảy từ Sa-ba kéo đến, mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Chúa”. Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sa-ba là những dân miền Á-rập. Tên Sa-ba gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sa-ba đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng tặng cho vua nhiều quà tặng quý giá.
Thành đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn lầm than vất vã nhưng sống trong cảnh phú túc thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại vùng đứng lên từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân đến tán dương ca tụng Thiên Chúa của dân mình.
Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra loan báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tin, tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân muôn nước đồng thừa tự với người Do thái, dân của Lời Hứa (bài đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc sum họp bao la chung quanh Thiên Chúa đích thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: thành đô Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc mà bản phác thảo của nó trên trần thế nầy là Giáo Hội.
BÀI ĐỌC II Ep 3: 2-3, 5-6
Thánh Phao-lô viết bức thư nầy có lẽ trong khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu Ê-phê-sô, chính xác hơn với các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á, mà thánh nhân muốn bức thư của mình được chuyển đến.
Những cộng đoàn nầy đa số là những Ki tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc nhở họ ơn gọi tông đồ dân ngoại của mình. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ không còn một dân tộc dặc quyền đặc lợi nữa vì muôn dân được chấp nhận đồng hưởng cùng một ơn cứu độ như dân Do thái.
1. Mầu nhiệm của Đức Ki tô:
Trọng tâm sứ điệp của bức thư nầy là “mầu nhiệm của Đức Ki tô”,. Qua từ “mầu nhiệm” nầy, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.
Đối với thánh nhân, các thầy thông luật đã học hỏi Kinh Thánh dù thành tâm mấy đi nữa cũng không thể nào biết được mầu nhiệm: “nhờ rao giảng Tin Mừng và được liên kết với Đức Giê-su Ki tô, các dân ngoại cũng được đồng thừa tự với người Do thái”. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu nầy chỉ nhờ ơn soi sáng của Đức Giê-su trên đường Đa-mát.
2. Dân thánh:
Từ trong chốn lao tù của mình, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô không quên liên kết sứ vụ Tông Đồ cho lương dân của mình với tất cả các tông đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua cách diễn tả “các thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.
3. Vị Tông Đồ của dân ngoại:
Thánh nhân đã hiến dâng mọi sức lực của mình cho ơn gọi của mình. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã nhiệt thành thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt biển băng ngàn không quản ngại gian nguy. Chương 13 tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a, người Do thái sinh lòng ghen tức…trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa. Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong hoạt cảnh “Các Nhà Chiêm Tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.
TIN MỪNG Mt 2: 1-12
Thánh Mát-thêu là vị thánh ký duy nhất tường thuật biến cố “các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Ông đã giữ lại giai thoại nầy vì nó xác minh một trong những chủ đề của sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và Giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho dân ngoại gia nhập Giao Ước, bởi vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến cho họ. Thật lạ lùng trong khi dân ngoại đáp trả lời mời gọi, thì con cái của Lời Hứa lại quay lưng với Giao Ước.
Thánh Lu-ca trình bày cho chúng ta các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó. Trong khi đó, thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta các nhà chiêm tinh từ phương xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người giàu có, thông thái. Những người đầu tiên là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi những người thứ hai đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.
1. Lên đường theo ánh sáng tự nhiên.
Chuyện tích của Mát-thêu rất phức tạp và phân tích nó đòi hỏi biết bao công sức. Hai loại yếu tố được đan quyện vào nhau ở đây: những yếu tố nầy thuộc những dữ kiện lịch sử, những yếu tố khác do cách thức trình bày những sự kiện. Phương thức nầy được gợi hứng bởi cách giải thích kinh thánh của các kinh sư Do thái được gọi là “midrash”. Đây là văn thể đang thịnh hành trong những môi trường Do thái vào thời Chúa Ki tô và vào thời Giáo Hội tiên khởi.
“Midrash” là phương thức chuyện kể cốt yếu là quy tụ chung quanh một hạt nhân lịch sử những mảnh ghép của những câu trích dẫn Kinh Thánh, phóng đại vài chi tiết và hể có dịp nêu bật khía cạnh kỳ diệu của chúng, để nhấn mạnh tính cách quan phòng của chúng.
Chắc chắn phải có một “biến cố thực” ở nơi nền tảng của câu chuyện Tin Mừng. Rõ ràng thánh Mát-thêu múc lấy những dữ kiện của mình ở nơi những kỷ niệm và truyền thống Bê-lem, trong khi thánh Lu-ca tham chiếu nhiều hơn đến những kỷ niệm và truyền thống Na-da-rét.
Mặt khác, những thủ bản Biển Chết đã củng cố chuyện tích Tin Mừng. Trong số những thủ bản được khám phá, người ta gặp thấy số tử vi của vị vua mê-si-a được chờ mong. Như vậy vào thời Đức Ki tô chào đời, người ta bận lòng muốn biết Đấng Mê-si-a sinh ra dưới vị sao hộ mệnh nào, và trong vài môi trường Do thái, người ta tra cứu bầu trời để khám phá vị sao nầy xuất hiện, vì Đấng Mê-si-a chào đời khi vị sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện. Quả thật, các chiêm tinh nói: “Chúng tôi đã thấy vị sao của Người xuất hiện”.
Trong chuyện tích Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho nó thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh nầy. Thánh vịnh không nói với chúng ta: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo kỳ công Người. Ngày nầy mách bảo cho ngày tới, đêm nầy truyền tụng với đêm kia. Không bằng ngôn ngữ ầm vang mà tiếng vang đã vang dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới khắp chân trời góc biển” sao (Tv 19: 2-5) ? Nếu chỉ suy nghĩ một cách sâu xa biến bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy chúng ta lên đường đấy chứ.
2. Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem.
Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì chính “vua dân Do thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu có chủ ý dùng tước hiệu nầy: đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người nầy là Giê-su, vua dân Do thái” (Mt 27: 37).
Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem làm cho vua Hê-rô-đê và triều thần của vua bối rối. Điều nầy xem ra cũng dể hiểu thôi vì vua cùng triều thần của vua nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Tại sao dân thành Giê-ru-sa-lem không vui mừng nhỉ? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân nầy đã lỗi hẹn với cuộc gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Ở nơi nỗi xao xuyến của dân thành Giê-ru-sa-lem, thánh ký báo trước việc dân nầy sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do thái chống đối cộng đoàn Ki tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng nầy có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét nầy.
“Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do thái giáo. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh, vì thế họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ nầy đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do thái vừa mới sinh nầy xem ra là hình ảnh tham dự trước của một cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.
Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi một chút. Ngôn sứ Mi-kha viết: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en …” (Mk 5: 1), trong khi lời trích dẫn của bản văn Mát-thêu: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. Rõ ràng trong bản văn của mình, Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng còn sửa đổi và thêm vào bản văn của 2Sm 5: 2: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…”.
Vua Hê-rô-đê bí mật triệu tập các nhà chiêm tinh và dò hỏi tường tận ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua có mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.
Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật nầy sát với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa nầy: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo cho đến điên cuồng khát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông ra lệnh hành hình nhiều người biệt phái trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua nầy, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù mất đi tính người đi nữa.
Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash” ? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình …Toàn dân kinh hải…một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua…một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”
Đây là lời chú giải Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu đã được gợi hứng từ phương thức nầy? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.
3. Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa.
Chắc chắn cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ nầy. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng nầy rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao dẫn bước các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?
4. Gặp gỡ Ngôi Lời Thiên Chúa làm người.
Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…” Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đã đến gặp gỡ chính Đấng mà thánh Gioan tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước quy về và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.
Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều nầy thật lạ lùng, vì cho đến lúc nầy thánh ký rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì chứ? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài” ?
Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các tặng vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường nầy là một vị vua vừa mới giáng sinh.
Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật nầy: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi nầy là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi nầy là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những vật liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi nầy sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa nầy, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là vua, Thiên Chúa và cũng là Đấng Cứu Thế.
Các nhà chiêm tinh đến từ xa thời lạy Hài Nhi, thế là các sấm ngôn về đấng Cứu Thế trần gian được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su nầy (Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17). Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của câu chuyện nầy, nhưng không ai có thể chối cải đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.
Con Thiên Chúa nhập thể, nhập thế giáng sinh làm người qua cung lòng của Đức Trinh Nữ: HiểnLinh ABC152
Con Thiên Chúa nhập thể, nhập thế giáng sinh làm người qua cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, đã tỏ mình ra cho các nhà đạo sĩ phương Đông, những người được dân Israen xếp vào hàng dân ngoại. Mà quả thật các nhà đạo sĩ này chưa biết Chúa, là những con người ở ngoài theo cách đánh giá của những người Israen xưa. Do đó, lễ Hiển Linh một cách nào đó được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, phụng vụ ngày lễ hôm nay lại cho chúng ta hiểu hơn về cái bi đát của chương trình cứu độ của Thiên Chúa, điều mà thánh sử Gioan đã tóm tắt trong chương đầu Tin Mừng của Ngài:” Ngài đã đến nơi nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận, không đón tiếp Ngài”.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, đặc biệt ngôn sứ Isaia đã tiên báo Đấng Cứu Thế đến trần gian này với lời lẽ đầy vui tươi, hạnh phúc và tưng bừng. Giêrusalem bừng sáng và là trung tâm của ánh sáng, thu hút, lôi kéo muôn dân về Giêrusalem với muôn vàn lễ vật để kính tiến Đấng cứu tinh khi Ngài ngự đến, khi Ngài xuất hiện.Nhưng cái nghịch lý và thật trớ trêu thay lời ngôn sứ Isaia loan báo đã không xẩy ra đúng như người ta cảm nhận, mà khi ánh sáng chiếu trên Giêrusalem thì chỉ có những người ngoại nhận ra và tìm tới để bái chào Hài Nhi Giêsu, còn dân trong thành Giêrusalem thì lại thờ ơ lãnh đạm.
Với một ánh sao soi đường, một ánh sao sáng khác với những ánh mắt hỏa châu vụt lên để con người tìm kiếm giết chóc, hận thù, để con người sống chiến tranh, chia rẽ. Một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời đầy sao sáng, có gì khác lạ đối với nhiều người, có gì khác lạ với những người được coi là có đạo, ngoan đạo lúc đó ? Tuy nhiên, tất cả cuộc hành trình rất diệu kỳ, rất lạ lùng đều được các nhà đạo sĩ khởi đi từ ngôi sao lạ ấy. Ba nhà đạo sĩ phương Đông đêm ấy đã nhìn lên trời, họ đã nhìn thấy và nhận ra ánh sáng, ngôi của Hài Nhi Giêsu. Họ đã đem theo những sản phẩm của địa phương là Vàng, Hương, Mộc dược, rồi nong nả dõi theo và đi theo ngôi lạ để tìm gặp Hài Nhi Giêsu. Đêm ấy, chắc chắn đã có nhiều người, đã có muôn người cũng đã ngước mắt nhìn lên trời nhưng họ không thể nào nhận ra ngôi sao lạ giữa muôn vàn ngôi sao khác và vì thế, họ đã chẳng nhận ra Đấng cứu tinh đã tới giữa gian trần này để đem ơn cứu độ và hạnh phúc cho con người.
Muôn thời và mọi thời, ngày nay biết mấy người đã nhận ra những dấu chỉ tình thương của Chúa qua những biến cố, những sự kiện, những vụ việc xẩy ra trên thế giới, trong xã hội, nơi gia đình vv…Và như thế, con người đâu có nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa, nhận ra con người đầy nhân ái của Đấng cứu tinh Giêsu.
Ba nhà đạo sĩ đã nhận ra ánh sao lạ và họ đã ra đi tới nơi họ chưa thể biết được. Trong cuộc hành trình ấy, Tin Mừng cho biết họ đã gặp biết bao thử thách, cam go, cạm bẫy. Ngôi sao lúc hiện lúc ẩn, họ đã phải hỏi những người không quen biết. Và họ đã gặp biết bao khó khăn. Một Hêrôđê nham hiểm nấp dưới bóng ân cần và lời nhẹ nhàng, dụ dỗ đường mật. Cuối cùng, ba nhà đạo sĩ cũng đã tới nơi hang đá Bêlem va gặp Hai nhi Giêsu bé nhỏ, yếu ớt, mong manh. Họ đã sụp xuống thờ lạy Vua Tình Yêu và dâng cho Chúa Hài Nhi những sản phẩm địa phương thật quí giá. Vâng, những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó, các kinh sư, tư tế, luật sĩ đã tự cho mình là thông hiểu lề luật, hiểu thấu đáo Kinh thánh nhưng thực tế họ đã đặt họ ra ngoài lề vì chính sự thông hiểu của họ đã tố cáo họ, đã lên án họ.Những kẻ bị coi là ở ngoài, là vô đạo lại nhìn thấy và nhận ra Chúa trong dấu chỉ của một ánh ngôi, một ngôi sao.
Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại là lễ Giáng Sinh của dân ngoại. Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay là Kitô hữu chúng ta có dám mạnh dạn nhận ra Chúa và nong nả chóng vánh lên đường tìm gặp chúa như ba nhà đạo sĩ phương Đông hay chúng ta tự đặt mình vào nhóm những thương tế, kinh sư, tư tế mà nhắm mắt làm ngơ trước sự thực hiển nhiên là Đấng cứu thế đã đang hiện diện nơi họ ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mau mắn nhận ra Chúa và chóng vánh đi tìm gặp Chúa để thờ lạy và cung kính bái chào. Amen.
Từ ngàn xưa, Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Do: HiểnLinh ABC153
Từ ngàn xưa, Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Do Thái như là trưởng tử trong gia đình của Thiên Chúa. Do Thái được yêu thương, được nâng niu, được chiều chuộng một cách hết sức đặc biệt. Trong ý định ngàn xưa, Thiên Chúa muốn Do Thái được vẻ vang, được vinh quang. Vinh quang dành cho dân riêng - dân được chọn ấy – hôm nay được nhắc nơi ngôn sứ Iasia:
Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa. (Is 60, 1-60)
Thế nhưng, vì bội nghĩa vong ân, nhiều lần nhiều lúc Thiên Chúa đã oán phạt dân riêng mà Ngài đã chọn. Phạt thì phạt, giận thì giận nhưng Thiên Chúa không đành cắt đứt nghĩa tình của Ngài. Và rồi, bằng nhiều hình thức, nhiều cách, Thiên Chúa đã tỏ lộ tình yêu ấy.
Trong cuộc sống thường nhật, cái gì mà lộ ra trước mắt người ta mà người ta không mất công để tìm kiếm thì những thứ ấy dường như không có giá trị và người ta cũng không trân trọng. Với những gì mà người ta cất công tìm kiếm, khi có được thì thái độ, tâm tình của họ khác hẳn. Họ sẽ hết sức vui mừng, mất ăn mất ngủ với những gì mà họ có được sau những ngày dài vất vả.
Đơn giản nhất là sau khi miệt mài lao động, sau khi miệt mài vất vả thì người thợ lặn mới có thể tìm ra được viên ngọc quý. Ngọc quý nằm sâu tít dưới đáy biển chứ không nằm lộ thiên để người ta nhặt về làm của riêng cho mình.
Thiên Chúa cũng vậy, Thiên Chúa có đó, Thiên Chúa đã mạc khải về Ngài nhưng chỉ những ai thành tâm tìm kiếm mới được gặp Ngài.
Có những lúc Thiên Chúa xuất hiện chỗ này hoặc chỗ khác, có những lúc Thiên Chúa ẩn mình. Có những lúc Thiên Chúa nói trực tiếp, có những lúc Thiên Chúa nói gián tiếp. Có những lúc người ta cảm giác như Thiên Chúa đi đâu đâu rồi nhưng thực sự Thiên Chúa vẫn có đó trong thế gian này.
Việc Con Thiên Chúa cất tiếng khóc chào đời để cứu độ nhân loại cũng vậy, đâu phải một ngày một bữa mà Giêsu xuống thế gian. Một chặng đường dài của lịch sử, Con Một Thiên Chúa đã được tiên báo qua miệng của các ngôn sứ, qua những người trung gian của Thiên Chúa.
Trở về với cái bối cảnh Bêlem ngày nào, chúng ta sẽ thấy rõ chuyện này. Đấng Mêsia được loan báo trong Cựu Ước. Sự xuất hiện của Đấng Mêsia đã làm đảo lộn cả thế giới và rồi mỗi người một cách nghĩ, mỗi người một cách kiếm tìm. Chỉ biết là Mêsia đến nhưng không biết đến ngày nào và đến ở nơi đâu. Các ngôn sứ hình như có nói về cái mảnh đất nhỏ bé Bêlem nhưng mấy người chịu tin vì Bêlem là cái chi chi để mà Mêsia đến.
Bêlem ngày nào đó cách đây hơn hai ngàn năm được cái vinh hạnh là đón Đấng Cứu Thế trần gian cất tiếng khóc chào đời. Phải nói rằng Bêlem chẳng là gì cả so với những vùng đất tên tuổi. Bêlem nhỏ bé đến độ chẳng ai thèm để ý đến, thèm ngó ngàng đến ấy vậy mà lần này Bêlem được nổi tiếng.
Cũng để thoả mãn trí tò mò, để an tâm hơn với cái lời đồn đại vua dân Do Thái sẽ xuất hiện thì vua dân Do Thái hỏi các thượng tế và kinh sư. Tưởng các thượng tế và kinh sư không biết chuyện này nhưng các thượng tế và kinh sư trả lời một cách mau mắn câu hỏi của nhà vua về chuyện Đấng Cứu Độ trần gian cất tiếng khóc chào đời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." Trả lời quá nhanh với câu hỏi hóc búa ! Cũng đúng thôi vì những kinh sư và thượng tế là những người nghiên cứu rất kỹ về Đấng Mêsia và ngong ngóng Đấng Mêsia ngự đến.
Vốn dĩ kém lòng tin cộng với sự lo lắng về ngai vàng của mình Hêrôđê bí mật mời các nhà chiêm tinh đến hỏi cho ăn chắc. Ông không thể tin được Mêsia đến ngay cái thời của ông và sợ nhất là vua dân Do Thái chào đời ấy sẽ làm cho ông mất ngai thế là ông làm ra cái vẻ tốt bụng, ông đã mời các nhà chiêm tinh đến để hỏi và còn làm bộ làm tịch nếu như gặp “Người” thì chỉ cho vua biết để vua “bái lạy”.
Sau khi rời khỏi dinh thự Hêrôđê thì ánh chỉ đường cho những nhà chiêm tinh lại xuất hiện để chỉ đường cho các ông. Nhờ ánh sao soi đường các ông đã đến được nơi cần đến. Các ông đã gặp Hài Nhi và thân mẫu của Hài Nhi. Kèm theo lời chào, lời thăm hỏi đó là lễ vật dâng lên Hài Nhi.
Một lần nữa, các nhà chiêm tinh được báo cho biết con đường để đi về sau khi gặp Hài Nhi. Các nhà chiêm tinh phải đi về bằng con đường khác chứ không được đi về bằng cái con đường cũ mà các ông đã đi.
Các nhà chiêm tinh, Thánh Kinh không nhắc đến là người nào, dân tộc nào nhưng có lẽ họ là dân ngoại. Họ không theo tôn giáo nhưng họ say mê nghiên cứu vũ trụ, họ nghiên cứu về cuộc đời. Căn cứ vào những gì được báo mộng, căn cứ vào những diễn tiến trong cuộc đời và họ đi tìm Đấng Cứu Độ trần gian. Khởi đầu chắc có lẽ cũng do tò mò, do muốn tìm hiểu sự thật xem có đúng với những gì được tiên báo không nhưng mọi việc diễn ra trước mắt của các ông không có gì có thể chối cãi được. Hài Nhi Giêsu và Mẹ Ngài sờ sờ bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Thấy vậy và ắt hẳn các ông đã tin.
Mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Các nay không còn ở trong sách vở, ở trong lý thuyết, ở trong những điều tiên báo nữa mà là sự thật. Sự thật về Ngôi Hai đã được mạc khải nhờ Tin Mừng. Sự thật ấy, việc mạc khải ấy đòi hỏi sự cộng tác, sự tìm tòi của con người. Phần Thiên Chúa, Thiên Chúa từ ngàn xưa đã có và hiện tại cũng đang có. Phần con người, con người phải mất công đi tìm để đáp lại tiếng của Ngài.
Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Êphêsô mới nhắc nhớ chúng ta điều ấy: “Anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô thế nào. Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”. Ep 3, 2-3a5.6
Qua mọi thời, Thiên Chúa vẫn dùng Thần Khí và các thánh Tông Đồ và các ngôn sứ để mạc khải về Ngài. Chúng ta được may mắn hơn dân Do Thái ngày xưa là ngày nay chúng ta được mạc khải quá rõ ràng về Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện ra bằng cách này hay cách khác, bằng ánh sao này hay ánh sao khác trong cuộc đời chúng ta là những biến cố trong cuộc đời chúng ta. Chuyện quan trọng là chúng ta có nhận ra ánh sao soi đường ấy hay không mà thôi.
Giữa biết bao nhiêu con người thời của Hêrôđê, thời của các thượng tế và kinh sư, thời của các nhà chiêm tinh và của biết bao nhiêu người Do Thái thì chỉ có những nhà chiêm tinh đã được nhận thấy Thiên Chúa một cách nhãn tiền. Ơn phúc ấy đòi hỏi sự góp công, sự tìm tòi và nhờ ơn Chúa.
Chúng ta xin ơn Chúa cho chúng ta cũng biết bắt chước như các nhà chiêm tinh để chúng ta có một lòng say mê tìm kiếm Thiên Chúa như họ. Và, trong cái hành trình tìm kiếm Thiên Chúa ấy có những lúc khó khăn là bị mất dấu do mất ánh sao lạ hay là sự đe doạ của những Hêrôđê thời đại nhưng nếu vững tâm và vững tin thì sẽ được gặp.
Và khi gặp Ánh Sao Soi Đường, khi có Ánh Sao Soi Đường trong cuộc đời của ta, ta cũng nên chăng bắt chước những nhà chiêm tinh là chia sẻ Ánh Sao mà chúng ta bắt gặp trong cuộc đời của anh chị em đồng loại chung quanh ta. Thiên Chúa vẫn muốn, vẫn mời gọi mỗi người chúng ta hãy là một ánh sao nho nhỏ để cho người khác được xem thấy. Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta chỉ cho mọi người thấy Ánh Sao Soi Đường đích thực chính là Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Ánh Sao Soi Đường chỉ đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta luôn đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta không bao giờ phải lạc bước giữa cuộc đời đầy phong ba bão táp này và cũng nguyện xin Ánh Sao Soi Đường ban ơn cho chúng ta để chúng ta được chiêm ngắm vinh quang mà Thiên Chúa hứa cho những ai Ngài yêu thương, Ngài ân thưởng.
Nơi mỗi người ít nhiều cũng có những tâm tình tôn giáo. Tuy nhiên, không phải ai cũng đón: HiểnLinh ABC154
Nơi mỗi người ít nhiều cũng có những tâm tình tôn giáo. Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận Thiên Chúa là Đấng tối cao trong lòng họ.
Phần mình, người tín hữu cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa qua thiên nhiên diệu kỳ, qua dòng lịch sử nhân loại và tôn giáo, và nhất là qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.
I. QUA THIÊN NHIÊN
Thánh Mátthêu đề cập đến ánh sáng của Thiên Chúa đã bừng lên qua hiện tượng ánh sao. “Chúng tôi thấy ngôi sao của Người xuất hiện” (Mt 2, 2).
Theo ánh sao chỉ dẫn, các nhà chiêm tinh đã lên đường tìm kiếm Đức Vua của dân Do Thái. Rất có thể, ba nhà chiêm tinh chưa hình dung ra ngôi vị Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giê-su. Có chăng, họ mới mường tượng về một vị vua mới ra đời và họ phải đến triều bái theo nghi thức ngoại giao. Nhưng dù sao, sự hiện diện của ba nhà chiêm tinh bên máng cỏ Bê-lem cũng đủ nói lên phép ứng cử ngay lành và thiện chí khát khao kiếm tìm chân lý và sự thật nơi các ngài.
Thiên Chúa đã dùng hiện tượng thiên nhiên (ánh sao), đã dùng ngôn ngữ, cách sử thế của con người (vị vua) để từng bước tiệm tiến mạc khải về Người cho nhân loại.
Đời người được tiếp xúc với môi trường thiên nhiên: ánh bình tỏa rạng báo hiệu một ngày mới, mặt trời lên chiếu sáng và mang lại hơi ấm, ánh trăng soi tạo cảnh sắc cho đêm, ngọn gió mát thổi đến mang lại hơi thở cho sự sống làm thanh thỏa lòng người, hạt mưa rơi làm phát sinh mầm sống mới…Tất cả những hiện tượng thiên nhiên ấy như đang nhắc nhở cho con người ý thức về bàn tay quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.
Tiếc rằng, đang hưởng thụ hồng ân Chúa qua thiên nhiên nhưng không ít người lại tỏ ra vô ơn phủ nhận Thiên Chúa. Xem ra, những gì hưởng thụ miễn phí thì người lại không biết trân trọng nguồn gốc.
Mong sao, mỗi hiện tượng thiên nhiên đều là một câu hỏi để người ta tìm về cội nguồn sự sống. Xa hơn nữa, họ tìm về Đấng Tạo Hóa. Về điều này, người tín hữu phải nêu gương trước tiên với những khắc khoải gặp gỡ Ngôi Lời Nhập Thể. Lịch sử là những ghi nhận diễn biến tôn giáo nơi con người.
II. LỊCH SỬ
Kể từ ngày thảm họa tội lỗi làm mất đi vẻ đẹp nguyên tuyền Thiên Chúa ban cho con người, dân Chúa rơi vào cảnh lầm than “bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân” (Is 60, 2).
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn dõi theo con người và không để họ rơi vào vô vọng. Khi tình thương đã đến đỉnh điểm, Thiên Chúa cho bừng lên ánh sáng, vinh quang của Người “như bình minh chiếu tỏa” (Is 60, 1) chiếu soi lòng người.
Ngày ấy, để gặp gỡ Thiên Chúa, dân Chúa đi về phía ánh sáng, vua chúa trần gian phải hướng về ánh bình minh (x Is 60, 3). Từ muôn nơi, con trai, con gái của Thiên Chúa quy tụ loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa, cùng làm nên một cộng đoàn dân thánh: mặt mày rạng rỡ, lòng dạ hớn hở tưng bừng…
Ánh sáng bừng lên, bình mình đã ló dạng, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử loài người nhưng trong thực tế rất nhiều người vẫn còn thơ ơ lãnh đạm, thậm chí khước từ Người. Ước mong sao, người tín hữu cảm nhận được ánh sáng chúa đang chiếu soi tâm hồn của họ, cảm nhận được ánh bình minh của Chúa đang là những tia sáng hy vọng hướng dẫn cuộc đời họ, trở nên dấu chứng niềm tin cho nhân loại.
III. NGÔI LỜI NHẬP THỂ
Lịch sử cứu độ là cả một lịch sử khát khao Đấng Cứu Thế. Vậy mà Cứu Thế đã đến nhà mình nhưng người nhà không đón nhận (x.Ga 1,10-14). Sao thế?
- Sự cực đoan nơi con người: Khi nghe các nhà chiêm tinh nói về vị vua dân Do Thái ra đời, vua Hê-rô-đê đã cho triệu tập các kinh sư và các thượng tế để trao đổi. Về lý thuyết, tất cả họ đều biết rất rõ Vị Lãnh Tụ chăn dắt It-ra-en sẽ ra đời tại Bê-lem. Trong lòng tin, thì Vị Lãnh Tụ này không khớp kinh nghiệm của họ nên họ khó chấp nhận một sự tương phản. Bê-lem nhỏ bé không thể sánh với Giê-ru-sa-lem. Bê-lem không thể là nơi sinh ra của một vị vua được.
Sự tự phụ nơi con người: Về kiến thức tôn giáo, những kinh sư và những thượng tế là những người thông thái, là những bậc thầy trong dân Do Thái, nhưng về lòng tin thì xem ra họ mới chỉ biết một mớ lý thuyết chứ chưa hề biết về Thiên Chúa nhập thể làm người. Thế mới hay, sự duy lý đã khóa chặt con người trước mạc khải của Thiên Chúa: người có đạo chưa chắc đã có Chúa; người có Chúa rồi sẽ có đạo..
- Lòng gian ác: Thông tin về một vị vua Do Thái ra đời đã làm cho vua Hê-rô-đê run sợ về sự an nguy ngai vàng của ông. Từ đó, mọi sự tiếp đón của ông đối với những nhà chiêm chiêm tinh chỉ là trò giả hình, gài bẫy, mưu đồ giết hại Hài Nhi Giê-su; bằng chứng là sau đó ông đã hạ lệnh giết sách các hài nhi từ hai tuổi trở xuống. Rõ ràng lòng dạ độc ác của con người đã ngăn lối họ đến với Thiên Chúa.
Chúa đã đi vào trần gian và mang tên Giê-su nhưng sự cực đoan, tự phụ và lòng gian ác đã khép kín tâm hồn người ta, ngăn bước họ đến với Chúa. Thánh Phao-lô kinh nghiệm Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải mầu nhiệm: “Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người DoThái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Chúa hứa” (Ep 3, 5).
Như thế, nhờ Chúa Thánh Thần Thiên Chúa đã tỏ mình nơi Đức Kitô. Trong Đức Kitô, muôn dân được hiệp nhất. Ước mong người tìn hữu mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, xin Người dẫn đến Chúa Giê-su. Nơi Chúa Giê-su, tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ bày.
KẾT
Thiên Chúa đã đến trần gian và từng buớc tiệm tiến tỏ mình cho nhân loại qua lịch sử, qua thiên nhiên, nhất là qua Ngôi Lời Nhập Thể.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng đã tôn trọng sự tự do nơi con người và con người đã sử dụng tự do để thuận theo hoặc khước từ Người.
Cách riêng người tín hữu sẽ chọn lựa đi về phía ánh sáng để thờ lạy Chúa là chân lý và sự thật. Tin vui cứu độ phải được loan báo cho toàn dân.
Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con người sẽ tương ứng với một: HiểnLinh ABC155
Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con người sẽ tương ứng với một ánh sao trên trời. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi cũng ví von: con người là một ánh sao, có ánh sao xanh, có ánh sao hồng nhưng không có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi dẫn, thế nên phải là ánh màu lung linh, không thể là ngôi sao đen chẳng có tác dụng gì với con người.
Hôm nay, HiểnLinh ABCcũng nhờ một ánh sao dẫn lối đưa đường đến triều bái Đấng cứu tinh nhân loại. Ánh sao đã dẫn họ đến hang Belem, nơi hài nhi, Con Vua Trời mới hạ sinh. Họ đã tin vào ánh sao để nhận ra thân phận vị cứu tinh nhân trần từ chính khung cảnh nghèo nàn của kiếp người. Họ đã tin vào ánh sao để có thể cúi mình thờ lạy một hài nhì yếu ớt con của một gia đình nghèo khó. Họ đã nhờ ánh sao để tìm thấy chân lý trong nghịch cảnh đời sống.
Vâng, Đấng cứu tinh mà họ mong gặp là một hài nhi được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy đáng lẽ phải được toàn dân Giê-ru-sa-lem đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ thờ ơ mà còn muốn loại trừ. Ngay cả những con người được coi là người quyền cao chức trọng vẫn không thể gặp được Ngài. Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo về truyền thống. Hê-rô-đê thì tìm kiếm nhưng không phải để triều bái mà là để tìm cách huỷ diệt.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Họ là đại diện cho những con người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao khát an bình. Họ đã nhận ra thân phận hài nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ lại là Vua Cả Trời Đất. Đấng phải đến trong thế gian để đem lại công lý và hoà bình cho trần gian.
Ánh sa từ trời cao hôm nay vẫn chiếu xuống nhân trần. Ánh sao hôm nay vẫn là ý Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là tiếng nói lương tâm mời gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối. Hãy từ bỏ lối sống đam mê lầm lạc của bóng tối tội lỗi để bước đi trong ánh sáng lề luật. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn sống chai lỳ trong bóng tối tội lỗi. Biết bao bạn trẻ vẫn lao mình trong những đam mê lầm lạc của xì-ke ma tuý và thác loạn. Biết bao người vì danh lợi thú trần gian mà đánh mất lương tri con người. Biết bao người vì đam mê bất chính mà sống thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân. Biết bao người vẫn tìm kiếm thú vui trần thế mà bán rẻ nhân cách, nhân phẩm của chính mình.
Sứ điệp của ngày lễ hiển linh còn là tiếng mời gọi con người hãy là ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử khoan dung nhân ái với nhau. Thế giới hôm nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghi kỵ, hiểu lầm. Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể thiếu ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng của niềm tin để mọi người tin tưởng lẫn nhau. Không có niềm tin gia đình sẽ không có thuận hoà, chỉ có đố kỵ và ghen tương. Gia đình cần có ánh sáng tình yêu và tha thứ để mọi người biết cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì đời sống của người ky-tô hữu chúng ta luôn toả sáng những hành vi bác ái, yêu thương, những nghĩa cử nhân ái bao dung để nâng đỡ những ai đang cô đơn, thất vọng, đang sống trong cảnh lầm than tìm được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Amen
Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua vì căn cứ vào ba của lễ qúy giá các “Đạo Sĩ dâng lên: HiểnLinh ABC156
Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua căn cứ vào ba của lễ qúy giá các ‘Đạo Sĩ’ dâng lên Chúa Hài Nhi: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược (Matthêu 2:11). Ba lễ vật này thời đó rất qúy giá, chỉ có trong các hoàng tộc; nên lúc đầu, người ta tưởng phái đoàn đến thờ lạy Chúa Hài Nhi gồm có HiểnLinh ABCvà gọi lễ này là Lễ Ba Vua. Sau này, khoa khảo cổ tiến bộ, người ta tìm hiểu kỹ hơn và nhận ra phái đoàn gồm có các nhà “Thông thái” hay “Đạo sĩ” hoặc “Chiêm tinh” dịch từ chữ ‘Magi’ (số nhiều của chữ ‘magus’) là danh từ của người Ba Tư thời đó để chỉ những người tài giỏi, thông thái được chọn vào hàng tư tế, hoặc cố vấn cho các triều vua (New American Bible dùng chữ ‘Magi’; có những bản dịch khác dùng chữ ‘Wise Men’ ‘những Nhà Thông Thái’).
Trong Thánh Lễ Hiển Linh, Bài Phúc Âm và 2 Bài Đọc đều giống nhau cho chu kỳ Năm A, B và C.
Theo bài Phúc Âm hôm nay (Matthêu 2:1-12), các ‘Đạo Sĩ’ đã được ơn soi sáng qua ngôi sao mới xuất hiện và nhận ra có một vị ‘Cứu Tinh’ mới sinh ra ở nước Do Thái, và họ lên đường theo ngôi sao sáng xuất hiện dẫn đường. Các vị này (Đại diện các dân tộc ngoài Do Thái) từ “Phương Đông” (tức là từ nước Ba Tư hay một nơi nào phía Đông nước Do Thái), tới nước Do Thái và tìm đến Belem để chiêm bái và tôn kính Chúa Hài Nhi mới sinh.
Bài Đọc I & Bài Đọc II trong Chúa Nhật này đều nói lên ý tưởng chính là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái và mời gọi mọi người đến cùng Chúa để được hưởng ơn cứu độ.
Bài Đọc I: Tiên Tri Isaia (60: 1- 6) đã báo trước việc ‘Vinh quang Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên các dân tộc và dẫn đưa mọi người tìm đến Ánh Sáng thật là Thiên Chúa chân thật, Đấng Cứu Độ trần gian.’ Bài Đọc II trích trong thơ Ephêsô (3: 2-3; 5-6): Thánh Phaolô nói đến việc các dân tộc ngoài Do Thái cũng được mời gọi để chung phần cứu rỗi của Thiên Chúa Nhập Thể để cứu chuộc nhân loại.
Căn cứ vào các tư tưởng chính của Thánh Lễ hôm nay, các Nhà Phụng Vụ ngày nay gọi lễ này là Lễ Hiển Linh để chỉ việc Thiên Chúa tỏ hiện vinh quang của Ngài cho các dân tộc đến tận cùng trái đất. (Trong tiếng Anh, Lễ này gọi là ‘The Epiphany’ gốc từ chữ Hy Lạp ‘Epiphaneia’có nghĩa là ‘sự tỏ hiện’).
Thánh lễ hôm nay hướng tâm trí chúng ta cùng với các ‘Đạo Sĩ’ đến để chiêm bái và thờ lạy Chúa Hài Nhi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo; đồng thời cũng dậy chúng ta bài học dấn thân và chia sẻ.
Bài học dấn thân: cũng như các mục đồng đã bỏ giấc ngủ ngon ban đêm để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa, các ‘Đạo Sĩ’ cũng bỏ cuộc sống êm ấm trong gia đình để lên đường chịu bao mệt nhọc vất vả để tìm đến thờ lạy Đấng Cứu Thế. Chúng ta cũng phải dám dấn thân chấp nhận mọi vất vả, khó nhọc hàng ngày để đến thờ lạy Chúa, để sống đức tin chân thật của chúng ta trong thế giới hôm nay.
Bài học chia sẻ: Xin Chúa cũng giúp chúng ta noi gương các ‘Đạo Sĩ’: biết sống khó nghèo để dành dụm những gì mình có để dâng lên Chúa, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh hoạn ở các nơi đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Tránh may sắm, trưng diện quá, ăn uống tiêu xài hoang phí, để tiết kiệm giúp đỡ những người thiếu thốn. Nhất là khi chúng ta được sống trong hoàn cảnh có công ăn việc làm vững chắc, nhà ở rộng rãi, cuộc sống phong phú, đầy đủ.
Hơn nữa, mỗi người tín hữu của Chúa cũng phải là những Ngôi Sao Sáng chỉ đường cho mọi người nhận ra con đường Sự Thật và Sự Sống, con đường đi đến với Chúa, bằng đời sống lương thiện, công bằng, hoà hợp yêu thương. Tránh xa những thói xấu của xã hội hôm nay, như tự do luyến ái, phá thai, li dị, gian lận trợ cấp, kết hôn giả, cờ bạc, nghiện ngập..vv… Đó là những thói xấu thế gian, những thói xấu biến chúng ta thành những ‘ngôi sao lạc’ dẫn đưa vào nơi tăm tối lầm lỗi.
Tất cả chúng ta đều chỉ là những con người mang nhiều tật xấu, tham lam, ham danh, ham lợi. Chúng ta hãy khiêm nhượng chiêm ngắm cảnh khó nghèo của Hang Đá Belem và cầu nguyện chung cho nhau, nâng đỡ lẫn nhau để chúng ta biết sống khó nghèo, khiêm tốn và ngay thẳng, xứng đáng con cái Chúa.
Xin Chúa ‘thắp sáng lên trong chúng ta’ ngọn lửa tình yêu để chúng ta nhận ra ‘con đường ngay thẳng’, ‘con đường công chính’ và dám dấn thân đến với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người trong gia đình chúng ta, nơi sở làm, nơi xưởng thợ; nói chung là cho mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày.
Kế hoạch của Thiên Chúa là muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu độ: HiểnLinh ABC157
Kế hoạch của Thiên Chúa là muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu độ ( x. 1Tm 2,3-4 ). Thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định về tính phổ quát của ơn cứu độ rằng: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” ( Eph 3,5-6 ). Như thế, ơn cứu độ không dành riêng cho một ai, cho một dân tộc nào. Họp mừng lễ Hiển linh hay là lễ Chúa tỏ mình cho muôn dân, Hội Thánh không gì hơn là muốn khẳng định với chúng ta rằng ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, mọi thời, mọi hoàn cảnh, đồng thời cảnh báo chúng tránh xa thái độ cao ngạo độc quyền chân lý, và mặt khác dạy ta cần tích cực sẻ chia cho tha nhân kho tàng ân sủng mình đã lãnh nhận theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Ơn cứu độ là dành cho mọi người. Ngôn sứ Isaia loan báo cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem và chư dân Đông Tây, sẽ tay bế tay bồng dìu nhau đến thờ lạy, ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa ( x. Is 60,3-5 ). Thiên Chúa là Đấng công bình và đầy tình lân ái. Người tỏ mình cho mỗi người mỗi cách khác nhau tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của họ. Chúa công bình vì Người tỏ mình cho tất cả mọi người, chẳng trừ một ai. Chúa lân ái nên Chúa tỏ mình bằng nhiều cách thế để mỗi người theo mỗi hoàn cảnh có thể gặp được Người.
Với những người chăn chiên cừu, vốn ít học nhưng đơn sơ chất phác, thì lời loan báo của vị Thiên Sứ cùng với tiếng hát của đoàn cơ binh Thiên Thần trong ánh sáng huy hoàng quả là một sứ điệp không gì bằng. Dòng lịch sử minh chứng cho ta sự thật này: Chúa Kitô, Mẹ Maria thường hiện ra với những người thôn quê, nghèo hèn nhiều hơn là với những người trí thức, học cao, hiểu rộng hay chốn thị thành. Với các nhà đạo sĩ Đông phương, thì sự xuất hiện một ánh sao lạ trên bầu trời hẳn là một lời mời gọi thiết thực với những “chuyên gia thiên văn”. Còn với các kinh sư, các Thượng tế Do thái giáo, thì thử hỏi có gì quan trọng cho bằng Thánh Kình. Chúng ta không quên việc họ thường mang Lời Chúa được ghi trên các dải vải đính ở tay áo. Thế thì một duyên cớ để họ đọc lại lời của Ngôn sứ Mikêa: “Phần người, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” ( Mk 5,1 ), quả là một lời mời gọi hay nói cách khác, là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách tuyệt vời cho họ. Rồi với Vua Hêrôđê, một vị vua trần thế vốn tham quyền cố vị, thì câu hỏi của các nhà đạo sĩ Đông phương: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu” đúng là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách đúng đối tượng.
Thiên Chúa luôn tỏ mình ra với mọi người theo cách thức Người chọn, phù hợp với từng người theo từng hoàn cảnh, số phận khác nhau của họ. Như thế, ta có thể nói là bất cứ ai cũng đều có thể tìm gặp chân lý, đều có thể tìm đến cội nguồn hạnh phúc vĩnh cửu theo khả năng, hoàn cảnh của mình. Giáo lý Công giáo khẳng định rằng ngoài phép rửa bằng nước còn có phép rửa bằng máu và bằng lòng mến. Thánh Công đồng Vatican II dạy chúng ta: “Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh cứu độ của Đức Kitô, tham dự bằng cách nào thì chỉ có Chúa biết mà thôi. ( MV số 20 ). Ơn cứu độ là dành cho muôn dân, vì thế chúng ta có thể rút ra một vài hệ luận như tất yếu sau:
Không được phép độc quyền chân lý: chân lý không thuộc riêng một ai, một tập thể nào. Khi ta độc quyền chân lý cách này cách khác là khi ta tự biến mình thành ngẫu tượng. Cần phải bỏ dần thái độ cao ngạo tự tôn của một thời quá khứ khi ta đồng hoá mọi niềm tin, tôn giáo khác ta đều là lầm lạc, là ma quỷ, bụt thần… Cần phải minh định rằng “không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Chúa Kitô” ( x.Ga 14,6 ). Tuy nhiên cũng cần cảnh giác thái độ tự tôn cho rằng “ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ”, một thái độ thiếu tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” ( x. Ga 3,8 ). Khi ta có thái độ độc quyền chân lý là lúc ta tưởng như mình đã nắm trọn vẹn chân lý và hữu ý hay vô tình ta đã rơi vào chước cám dỗ của Satan ngày xưa khi cám dỗ tổ tiên loài người: Cứ ăn trái cấm này đi thì hai ông bà sẽ nên như Thiên Chúa, biết được điều lành điều dữ ( x. St 3,5 ).
“Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” ( Ga 6,45 ). Thiên Chúa tỏ mình cho mỗi người mỗi cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên để nhận biết Thiên Chúa, phần phía con người cũng cần có sự đáp trả cân xứng. Một vài thái độ đáp trả cần có đó là:
Một tâm hồn biết lắng nghe: đây là thái độ khiêm nhu chân thành, luôn khao khát tìm về chân, thiện, mỹ. Người có tâm hồn biết lắng nghe là người có tấm lòng thành trước những những gì là chính đáng, là phải đạo. Các nhà đạo sĩ Đông phương và những người mục tử thôn dã lúc bấy giờ là những người có tấm lòng thành. Tấm lòng thành ở đây được hiểu như là sự hướng thượng và hướng thiện. Quân vương Hêrôđê chắc chắn không có tấm lòng thành. Các thượng tế, kinh sư ở thành Giêrusalem lúc bấy giờ thì ta không dám quả quyết nhưng chắc chắn họ thiếu động thái lên đường, ra đi.
Một động thái lên đường, ra đi: Khi đã nhận ra tiếng nói của chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu, thì cần phải lên đường, ra đi. Chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu đòi hỏi chúng phải ra đi khỏi cái vị thế hiện tại. Không một ai ở trần gian này có thể nắm được tình yêu vĩnh cửu hay chân lý toàn thiện. Tất thảy đều ở phía trước, chính vì thế cần phải lên đường, ra đi. Các thượng tế và kinh sư ở thành Giêrusalem năm nào dù đã nhận ra Ánh Sáng cứu độ nhưng vì họ đã không lên đường nên không thể gặp được Đấng Cứu Thế. Trái lại khi nhận được dấu chỉ mời gọi, các đạo sĩ Đông phương và các mục tử đã biết lên đường, ra đi. Ra đi là chấp nhận từ bỏ. Lên đường là chấp nhận hy sinh và gian khó. Có một cái khó mà không dễ gì vượt qua hay từ bỏ, đó là những tập tục hay truyền thống mang tính nhân loại. Chúng dễ nhận ra sự thật này nơi nhiều người biệt phái, luật sĩ, tu tế thời Chúa Giêsu, khi Người công khai rao giảng tin mừng.
Chân lý đã thực sự hoàn hảo và đầy đủ nơi Chúa Kitô, Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình ( x. Col 1,15; Dt 1,1-2 ). Nhưng chúng ta, dù là giáo dân hay giáo sĩ, dù là thần học gia hay “xứng với bậc tông đồ” thì cũng chỉ nhận biết chân lý kiểu như thấy trong tấm gương đồng. “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” ( 1 Cor 13,12 ). Ra khỏi tháp ngà tự mãn cho rằng đã nắm được trọn vẹn chân lý, ra khỏi tháp ngà độc quyền chân lý là cách thế tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Hiển linh, Chúa tỏ mình cho muôn dân cách thiết thực, hữu hiệu và khả tín. Không ngừng kiếm tìm và đón nhận chân lý là một thái độ khiêm nhu vừa có tính giải thoát và tính truyền giáo. Sự thật không chỉ giải thoát chúng ta, mà còn có sức cuốn hút những tâm hồn thiện chí. Và như thế sự thật sẽ làm cho chúng ta xích lại gần nhau, làm cho chúng ta nên một bằng cách thánh hiến chúng ta ( x. Ga 17,17 )
Mừng mầu nhiệm Chúa Hiển Linh, ước gì chúng ta mãi luôn nuôi dưỡng cái tấm lòng thành nơi chúng ta bằng thái độ khiêm nhu biết lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần. Lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần không chỉ trong Thánh Kinh, trong các cử hành Phụng vụ, trong lời dạy của Hội Thánh…mà còn trong các biến cố lịch sử, trong các nét đẹp thánh thiêng nơi các niềm tin, tôn giáo ngoài Công giáo, nơi các nghĩa cử cao đẹp của những người chưa tin hay chưa nhận biết Thiên Chúa. Lắng nghe không phải để đứng nhìn mà để can đảm lên đường tìm kiếm và đón nhận chân lý. Sự thật toàn vẹn luôn ở phía trước, vì có đó nhiều điều ngay các Tông đồ vẫn chưa thấu hiểu. Chính Thánh Thần là Đấng sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự thật toàn vẹn ( x. Ga 16,12-13 ). Người là Đấng đang mãi hoạt động cho đến ngày Đức Kitô lại đến trong vinh quang. Không ai có thể trao ban điều mình không có. Tích cực tìm kiếm và đón nhận chân lý là tiền đề tất yếu để ta chia sẻ cho tha nhân hồng ân cứu độ.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa ---------------------------------
Khi đọc tác phẩm Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân, nhiều người tỏ ra cảm phục trước ý: HiểnLinh ABC158
Khi đọc tác phẩm Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân, nhiều người tỏ ra cảm phục trước ý chí vượt khó diệu kỳ của thầy trò Đường Tăng. Quả vậy, để đến được núi Tây Thi thỉnh Kinh Phật, họ đã phải trãi qua một cuộc hành trình dài với bao nhiêu chông gai thử thách. Đường xa vạn dặm, lại thêm vô vàn cạm bẫy của đủ thứ yêu ma quỉ quái khiến cho cả 4 thầy trò nhiều phen muốn bỏ cuộc. Hành trình “Tây du” đó thực sự là một cuộc thử thách của cả lý trí (biểu tượng qua nhân vật Tôn Ngộ Không) lẫn con tim (biểu tượng qua nhân vật Tam Tạng).
Đọc lại trình thuật Tin mừng Mathêu, chúng ta thấy hành trình “Đông du” của ba nhà đạo sĩ cũng không kém phần gian truân. Nhưng đó cũng là một hành trình rất đẹp. Để có thể triều yết Đấng mà họ gọi là Đại Vương, Vua Dân Dothái, họ đã phải vượt qua một chặng đường dài thăm thẳm. Dĩ nhiên đây là một cuộc hành trình có thật, chứ không phải do tác giả hư cấu như hành trình của thầy trò Đường Tăng. Ở đây chúng ta thấy hành trình của các đạo sĩ quả là một hành trình của lý trí, của con tim và của đức tin.
Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của lý trí khám phá:
Là những nhà Thiên văn, các nhà đạo sĩ đã biết dùng những kiến thức của mình để khám phá những dấu chỉ của điềm trời, đặt biệt là ánh sao chiếu mệnh. Họ đã biết sử dụng chất xám để nghiên cứu các hiện tượng lạ trong thiên nhiên, trong vũ trụ. Và chỉ có họ mới phát hiện ra ánh sao lạ, bởi lý trí của họ đã được dùng đúng nơi đúng chổ, nhằm phục vụ cho chân lý, chứ không phải để phục vụ cho danh lợi thú đời này như Hêrôđê, như các Luật sĩ và Biệt phái. Đặc biệt là trong thời đại ngày hôm nay, rất nhiều người sử dụng lý trí của mình không đúng mục đích. Thậm chí còn sử dụng để phục vụ cho những ý đồ đen tối, thay vì để phục cho công lý, cho sự thật và đem lại lợi ích cho đồng loại. Các đạo tặc tìm kiếm những chiêu thức nhằm lường gạt và hãm hại người khác. Các gian thương tìm cách làm hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng; các tin tặc tạo ra các loại vi rút máy tính phá hoại các chương trình, các dữ liệu; các nhà khoa học vô lương tâm sáng chế ra các thứ vũ khí huỷ diệt hàng loạt…. Trong bối cảnh xã hội như thế, các nhà đạo sĩ là điểm son cho chúng ta noi theo trong việc sử dụng đúng đắn lý trí của mình.
Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của con tim khao khát:
Con tim khao khát tìm kiếm Chân Lý. Con tim thao thức dấn thân lên đường tìm gặp Sự Thật. Điều này không có nơi Hêrôđê và có rất ít nơi dân thành Giêrusalem và những người Luật sĩ, Biệt phái.
Vì khao khát tìm kiếm chân lý nên họ sẵn sàng bỏ lại tất cả: gia đình vợ con, quê hương xứ sở, nhà cửa sự nghiệp,… để lên đường theo ánh sao lạ. Vì khao khát kiếm tìm sự thật, nên họ bất chấp tất cả: đường xá hiểm nguy, núi rừng cách trở, thử thách đợi chờ. Thật đáng khâm phục. Họ ra đi mà không biết sẽ đi đến đâu. Họ ra đi mà không biết ngày nào trở lại, tựa như Abraham ngày xưa vậy. Chính tình yêu đối với vị “Chánh Vương” là động cơ thôi thúc họ thượng lộ khẩn trương. Đúng như lời quả quyết của thánh Phaolô sau này: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”.
Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của đức tin soi dẫn:
Khi thấy sao lạ xuất hiện, đức tin đã mách bảo cho các ông biết có Đại Vương, có Đấng Cứu Tinh xuất hiện. Khi ánh sao biến mất, đức tin đã chỉ lối cho các ông tìm đến với Giêrusalem – Kinh đô của Kinh Thánh để được tham vấn. Khi đối diện với một hài nhi nghèo hèn nằm trong máng cỏ, theo lý trí tự nhiên không ai dám mạnh dạn tuyên xưng đó là Con Thiên Chúa, nhưng đức tin đã soi sáng cho các ông nhận ra đó chính là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Và cũng chính đức tin đã biến đổi cuộc đời họ. Họ đã trở thành những vị tông đồ đích thực của Đấng Thiên Sai Giêsu. Theo khẩu truyền, ba nhà đạo sĩ đã đi giảng đạo tới tận trời Tây, và hiện nay một ngôi mộ được coi là của ba nhà đạo sĩ ấy, vốn rất được nhiều người kính viếng ở thành Phố Cologne, bên bờ sông Rhin, nước Đức.
Như vậy, rõ ràng hành trình của các đạo sĩ không chỉ là hành trình của lý trí khám phá, của con tim khao khát, mà còn là hành trình của đức tin soi dẫn. Vì nếu không có đức tin soi dẫn thì có lẽ họ đã lạc lối, và bỏ cuộc khi gặp thử thách. Nếu không có đức tin mách bảo thì có lẽ họ đã không nhận ra một trẻ thơ nghèo hèn là một bậc Đế Vương, là một vị Cứu Chúa. Và nếu không có đức tin soi sáng, chắc chắn họ không dại gì phải sụp lạy trước một hài nhi bé bỏng yếu ớt, càng không dại gì phải uổng phí những lễ vật quí báu của mình, nếu họ không tin nhận đó là Vị Cứu Tinh của họ. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, từ ngữ “sụp lạy” ám chỉ một sự qui phục chỉ dành cho Thiên Chúa.
Phần tôi thì sao ? Tôi đang sử dụng lý trí của mình, kiến thức của mình thế nào ? Con tim của tôi đã đặt đúng chổ chưa ? Tôi thường yêu mến, thường khao khát những gì ? Có phải là “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”; hay chỉ là tiền tài, danh vọng, sắc dục và những thú vui hưởng thụ đời này? Trong hành trình dương thế của tôi, đức tin đóng vai trò nào ? Tôi có coi trọng và biết cầu xin ơn đức tin mỗi ngày, nhất là trong những lúc gặp thử thách, gặp bế tắc trong cuộc sống hay không ?
Ước gì gương của ba nhà đạo sĩ luôn được chúng ta soi nhìn. Để trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta luôn đi đúng đường, đúng hướng và đạt tới cùng đích mà chúng ta mong ước. Đó là Nước Chúa, nơi Đức Kitô đang đợi chờ chúng ta. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long ---------------------------------
Tôn giáo nào thì cũng muốn cho vị thần linh mình tôn thờ được hiển trị. Đó là một tình cảm: HiểnLinh ABC159
Tôn giáo nào thì cũng muốn cho vị thần linh mình tôn thờ được hiển trị. Đó là một tình cảm tôn giáo đáng quí nhưng cũng thật đáng sợ, vì chính nó đã từng là nguyên nhân của biết bao cuộc bắt bớ hay triệt hạ phe đối nghịch. Lịch sử đã ghi nhận không ít cuộc chiến tranh tôn giáo. Hiển Linh là Chúa được biểu dương, là biểu lộ quyền năng của Ngài ra bên ngoài, vì hình như hình hài một hài nhi bé bỏng không xứng với Ngài? Có một thời tôi đã từng nghĩ như thế: Có thế chứ… phải là những vị vua tới thờ lạy ngài, tới cống tiến ngài những lễ vật đắt giá mới xứng; phải có những ánh sao lạ để cả thiên hạ phải trầm trồ! Và tôi lấy làm hả dạ. Tôi có tinh thần tôn giáo sốt sáng chẳng?
Thật ra câu chuyện về các nhà chiêm tinh (thường được dân có đạo nâng lên hàng vua chúa cho nó oai) đến bái lậy Hài Nhi Giê-su chỉ được Phúc Âm Mát-thêu ghi lại với chủ đích, như ông vẫn quen làm nhiều lần, là để khảng định: “thế là ứng nghiệm” việc Hài nhi ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê… việc ngài trở về từ Ai-cập… như những gì đã từng được các tiên tri loan báo. Dầu câu chuyện mang rất nhiều tính truyền thuyết, tôi nghĩ nó không chỉ đơn thuần là để nâng cao thứ tình cảm tôn giáo nói trên.
Hài Nhi mới sinh tại Bê-lem Hiển Linh, nhưng hiển linh điều gì? Đâu là vinh quang đích thực của ngài? Ba nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) là những con người có hiểu biết và chuyên tìm tòi những qui luật của trời đất. Các ông biết về một vị nào đó rất quan trọng mới xuất hiện và các ông đi tìn ngài. Theo lô-gic, nhân vật này chắc chắn phải là một vị vua và phải tìm thấy trong chốn cung điện. Và thế là họ tìm tới Giê-ru-sa-lem là kinh thành của vương triều Da-vit; nhưng ở đó họ chỉ gặp được Hê-rô-đê, con người của quyền lực và mưu mẹo. Chỉ có ‘ngôi sao’ mới có thể dẫn họ tới một nơi không ngờ: làng quê Bê-lem hẻo lánh, và tìm thấy một hài nhi với thân mẫu trong sự đơn sơ và nghèo hèn. Chúng ta tất cả đều biết ngôi sao đó chính là biểu tượng của niềm tin vào Tin mừng. Chỉ có Tin Mừng của đức Giê-su Ki-tô mới chỉ cho chúng ta tới gặp được một Thiên Chúa, không phải trong vinh quang của quyền uy và đầy công thẳng, mà là trong một diện mạo thơ nhi quá gần gũi: Thiên Chúa của lòng từ nhân và hay thương xót… cứu độ chứ không phải một Thiên Chúa luận phạt. Nếu ba nhà chiêm tinh phải từ bỏ lô-gic thông thái của họ (điều này không dễ mấy đâu) để có thể sấp mình bái lậy một hài nhi nghèo hèn, thì mọi người, kể cả tôi và bạn, (nhất là khi càng cho mình là thông minh chính trực) còn cần phải làm một cuộc cách mạng trong niềm tin để có thể bái lạy vinh quang Thiên Chúa trong sự hiền lành, từ nhân và hay thương xót.
Câu truyện còn cho tôi thấy có sự đối kháng thâm sâu giữa một bên là uy quyền thống trị và trừng phạt (điển hình là vua Hê-rô-đê) với bên kia là sự yếu đuối ẩn dật của một Hài Nhi bé bỏng nép mình bên lòng mẹ. Sự công thẳng có sức mạnh của nó và xem ra không thể đội trời chung với lòng trắc ẩn nhân ái. Uy quyển của bạo vương Hê-rô-đê không thể được chia sẻ với Tân Vương cứu độ mới sinh ra. Ở đâu có sự công thẳng ở đó không thể có chỗ cho lòng trắc ẩn thương xót, và ngược lại. Sự công thẳng nổi cộm như một quyền lực thống trị trong khi lòng nhân ái lại luôn tỏ ra quá yếu đuối ẩn dật. Chính vì thế mà khi đề cao lòng trắc ẩn thương xót thì nhiều người lại tỏ ra e dè sợ sệt. Họ lo sợ sự hợp lý đầy uy quyền của ‘lành thưởng dữ phạt’ sẽ bị phá đổ, và thế là họ rắp tâm ‘tiêu diệt’ lòng thương xót, ít là trong hiểu biết và suy nghĩ của họ. Thiên Chúa giáng trần đã chọn hình hài của một thơ nhi yếu đuối ẩn dật để biểu lộ lòng xót thương cứu độ loài người quả là điều thích hợp… có điều Ngài phải chịu sự toan tính tiêu diệt của bạo vương quyền uy thì cũng là tự nhiên thôi.
Lạy Hài Nhi đang ngủ yên trong vòng tay âm yếm của Mẹ, xin cho con dặt cược toàn bộ cuộc sống con trên sự nhỏ bé, yếu đuối của lòng thương xót Chúa. Chính những lúc tâm hồn con lo sợ cuống quýt trước quyền lực ghê gớm của sự công thẳng Chúa, xin đưa con vào vòng tay hiền mẫu để con cũng có được giấc ngủ của an bình trong tin tưởng phó thác vào lòng thương xót. Xin che chở để con không bao giờ bị sự công thẳng Chúa nhấn chìm trong lo âu sợ hãi. Amen .
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB ---------------------------------
Hôm nay là lễ “Hiển linh” mà ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua. “Hiển linh” là biểu lộ thần tính: HiểnLinh ABC160
Hôm nay là lễ “Hiển linh” mà ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua. “Hiển linh” là biểu lộ thần tính. Điều mà Giáo hội kính nhớ và vui mừng cử hành là việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến và tỏ mình ra cho nhân loại.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia tiên báo là ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên Israel và các dân tộc sẽ hướng về ánh sáng ấy mà cất bước. Lời sấm ấy đã được ứng nghiệm, vì Con Thiên Chúa đã giáng thế, sinh ra tại Bêlem, các đạo sĩ đã đại diện cho các dân ngoại mà tìm đến và thờ lạy Ngài.
Bài Tin mừng kể lại cho chúng ta sự kiện các đạo sĩ Đông phương tới Bêlem để tìm kiếm và thờ lạy Chúa Cứu thế. Thánh Matthêu nêu ra cho chúng ta những thái độ khác nhau của từng hạng người trước việc Chúa Cứu thế tỏ mình ra: kẻ chấp nhận, người từ chối. Việc Chứa Cứu thế tỏ mình ra cho các đạo sĩ nói lên lòng thương yêu đặc biệt của Thiên Chúa đối với dân ngoại.
Chúng ta cũng là dân ngoại đã được Thiên Chúa tỏ mình ra, nhưng vẫn còn phải tiếp tục tìm gặp Ngài qua Thánh Kinh, qua Giáo hội và qua các biến cố trong đời sống thường ngày. Để đáp lại tình thương ấy, chúng ta phải cố gắng trở thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời (bài đọc 2) để soi dẫn cho những ai chưa biết Chúa tìm đến gặp Ngài, qua cuộc sống tràn đầy tình thương và phục vụ của chúng ta trong thế giới hôm nay.
I. HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO LẠ.
1. Ý nghĩa ngôi sao lạ.
Theo quan niệm của người Đông phương. Sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ đến một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn chiêm tinh học với các khoa tử vi.
Hôm nay Giáo hội kể lại biến cố ba nhà thông thái đến triều bái Chúa Hài nhi . Magi có nghĩa là những nhà khoa học kinh nghiệm (Nature Scientist), họ là những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn. Họ đến từ phương Đông, dĩ nhiên họ không phải là người Do thái. Và chỉ hỏi có hai câu: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người.
Có nhiều người cho rằng có lẽ các khoa học gia này đã nhìn thấy sao chổi và đi theo. Nhưng năm 1603, nhà toán kiêm thiên văn Johannes Képler giải thích theo tài liệu cho thấy vào năm Chúa Giáng sinh có một hiện tượng bất bình thường xẩy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng: bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng quay sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ tìm ra Chúa Hài nhi ? Nhưng điểm muốn nhấn mạnh ở đây, là tại sao các nhà thông thái biết chắc chắn là vua Do thái đã sinh ra. (Chúng ta biết rằng các nhà khoa học không bao giờ hấp tấp kết luận một cách hồ đồ). Phải chăng các ngài đã được Thiên Chúa mạc khải ? Đúng thế ! Ngôi sao trên bầu trời Belem đã dẫn các đạo sĩ Đông phương trải qua một cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông đến nơi Con Trẻ mà các ông muốn tìm kiếm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mạc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là Vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
2. Ý nghĩa ngày lễ.
Như vậy, lễ Hiển linh là một ngày lễ cách mạng. Đức Kitô được mạc khải như là Đấng Cứu độ, không phải là của một nhóm người được chọn, nhưng của tất cả mọi dân tộc. Đức Giêsu đã bẻ gẫy rào cản lớn tồn tại giữa dân Do thái và dân ngoại. Trên thực tế, sứ điệp của Đức Giêsu, người Anh Cả của toàn thể vũ trụ, đã vượt qua tất cả những rào cản của bộ tộc, họ hàng. Lễ Hiển linh là một ngày lễ đẹp, bởi vì ngày lễ này đưa mọi người lại với nhau.”Bấy giờ, tất cả mọi người đều được chia sẻ cũng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.
II. HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG.
1. Đức Giêsu và ánh sáng.
Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là ánh sáng:”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân loại, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Chúa ở trần gian để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.
Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Chúa Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu xa hơn nếu như không hề có Chúa Giêsu, thì
- 61% trả lời rằng: thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 47% nói rằng: sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại nơi thế giới này. (16 % thì nói ngược lại, và 26% thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu).
- 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn, và 58% thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu. 59% thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi và 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.
(Báo Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, tr 53).
2. Chúng ta và ánh sáng thế gian.
Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng, cho nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14) Và nếu đã là ánh sáng thì phải tỏa ra như Chúa dạy:”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,1516).
Ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đốm sáng trong đêm tối và nếu như đốm sáng chiếu soi thì có thể làm cho bầu trời tối tăm trở nên sáng rực. Cuộc sống gương mẫu của chúng ta chỉ rất nhỏ, rất mờ nhạt trong cộng đoàn, nhưng nó cũng làm cho cộng đoàn trở nên chứng tá lớn cho xã hội chưa nhận biết Chúa.
Truyện: Ánh sáng ở vận động trường.
Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước 100.000 người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa kỳ. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và ønói:”Bây giờ xin các bạn đừng sợ ! Tôitắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dầy đặc. Ôâng John Keller nói tiếp:”Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: Đã thấy”. Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy”. Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: ”Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tối tăm của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh:”Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng. Ông Keller kết luận:”Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”(Lẽ sống, 143)
Các đạo sĩ phương Đông đã nhờ ngôi sao lạ của “Vua dân Do thái sinh ra” tức Hài Nhi Giêsu, mà đến được Be lem và gặp được Hài nhi Giêsu cùng Mẹ Người là Bà Maria. Cũng thế, 86 triệu người Việt nam nói riêng và hàng trăm triệu người châu Á nói chung sẽ chỉ nhận ra Đức Giêsu là Cứu Chúa nếu mỗi người công giáo Việt nam là một SAO dẫn đường chỉ lối cho họ.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là con người thời nay trông chờ (và tin tưởng) các chứng nhân hơn là các thầy dạy, vì có nhiều thầy dạy lại dạy một đàng mà sống một nẻo, thậm chí sống ngược lại những điều họ giảng dạy, chẳng khác gì các Biệt phái và Pharisêu thời Chúa Giêsu. Trong cụ thể, chỉ khi người Kitô hữu sống tinh thần Bát phúc, sống yêu thương, trách nhiệm, công bình, thanh liêm, hy sinh, phục vụ tha nhân và ích chung thì mới thành SAO trên bầu trời và trong cộng đồng con người được.
3. Mỗi người là một ánh sao.
Thánh Gioan tông đồ nói:”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Chúa Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối. Chúng ta phải làm sao cho thế gian nhận được Chúa Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế, trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô tông đồ đã khuyên:”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao chúng ta, các Kitô hữu là những ngôi sao ? Thánh Phaolô tông đồ giải thích:”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác hơn, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta làm cho người khác nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời đêm tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Carolô).
Trong đời sống xã hội hôm nay có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá, thôi thì loạn cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !
rong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng, chỉ làm theo nhiệm vụ của mình. Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là vì sao chiếu sáng trên vòm trời thế kỷ 20.
Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành SAO MAI được chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày) vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt: sao mai và sao hôm.
Ánh sáng của SAO MAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất:”Đẹp như ánh sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi sao mai đã được dùng để chỉ Đức trinh nữ Maria: Stella matutina (Đức Bà như Ngôi Sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã hoan hô Ngài bằng danh từ ấy: Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửa thiên đàng (Hoàng Diệp).
Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển linh, nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân loại thế kỷ này. Chúa vẫn cần những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời thế hệ này. Những ngôi sao ấy là chính chúng ta.
III. HIỂN LINH VÀ QUÀ TẶNG.
Những nỗ lực của các đạo sĩ không bị từ chối. Thánh Matthêu cho biết sau khi rời khỏi Giêrusalem thì bấy giờ “ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại”. Và sau khi đã gặp thấy Hài Nhi và thân mẫu là Maria, “họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Mt 2,11).
Các Giáo phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài nhi theo nghĩa tượng trưng: Vàng chỉ Hài nhi là Vua; nhũ hương chỉ thần tính, và mộc dược chỉ nhân tính. Có người lại giải thích ý nghĩa ba lễ vật đó như sau: Vàng ám chỉ đức tin, thể hiện qua thái độ phục bái suy tôn, nhũ hương ám chỉ đức cậy, thể hiện qua tâm tình cầu nguyện sốt sắng; mộc dược ám chỉ đức mến, thể hiện qua những hy sinh khiêm nhường phục vụ tha nhân.
Truyện: Món quà của Artaban.
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện, nhan đề The Other Wise Man (còn một nhà đạo sĩ khác nữa), kề về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Ấu Vương. Thế nhưng trên đường đến gặp ba vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc Artaban đã trở nên già nua và nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay, câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính cho ông biết đây chính là Vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt , Artaban cảm thấy trái tim như tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artaban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:”Này Artaban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ ta. Khi ta đói ông đã cho ta ăn, ta khát, ông đã cho ta uống, ta trần trụi ông đã mặc áo cho, ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 50-51).
Như thế, lễ Hiển linh nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị Vua trên các Vua. Và câu chuyện “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của các đạo sĩ, bởi vì món quà của chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, nhũ hương và mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artaban:”Hãy đến đây, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…(x. Mt 25,34-35).
Lễ Hiển linh thách thức tâm hồn chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta, nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Đức Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú hơn.
IV. HIỂN LINH VÀ TÌM KIẾM.
Đối với các nhà bác học Đông phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh thánh:”Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel”(Ds 24,17). Vì vậy, khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Giacóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình, cho thế giới u minh.
Ba nhà bác học đã đến từ quốc gia xa xôi, để thần phục Hài nhi Giêsu trong khi các đại giáo trưởng, các luật sĩ Do thái (Mt 2,4) họ có không phải chỉ một ngôi sao đêm lấp lánh trên nền trời, mà họ có cả một thư viện, đầy sách vở. Họ có Thánh kinh mà họ mang trên ngực, chít trên đầu. Họ am hiểu các tiên tri về Chúa Cứu thế. Họ biết nhưng họ không thấy, hay không muốn thấy. Chúa sinh ra cách đó có 8 cây số, các thiên thần ca hát trên không trung, các mục đồng lao nhao rủ nhau đi thờ lạy. Nói chung, cả dân tộc Do thái và nhân loại không nhìn thấy ngôi sao và cũng không để tâm nghiên cứu tìm hiểu.
Ngày nay cũng như cách nay hơn 2000 năm, mọi người phải cố gắng tìm ra Chúa. Phải cố gắng tìm gặp Chúa qua các biến cố của đời sống hôm nay. Hơn nữa, suốt đời sống đạo của chúng ta là một cuộc tìm kiếm Chúa không ngừng. Do đó, những ai tự mãn cho rằng mình đã gặp được Chúa qua cái nhãn hiệu công giáo bên ngoài, qua việc lãnh nhận các phép bí tích như một cái máy không hồn, qua việc học hỏi giáo lý sơ sài, để rồi không chịu khó nhờ vào các biến cố thực tế của đời sống để gặp Chúa, yêu Chúa qua anh em thì mãi mãi họ chẳng những không tìm thấy Ngài mà còn mất Ngài nữa.
Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta bên kẻ khác chỉ có nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc sống của chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.
Sách Tin mừng nói:”Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, dâng lễ vật, họ nhận được mộâng báo đừng trở lại với Hêrođê, họ đi qua đường khác, trở về xứ sở mình”(Mt 2,12). Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, đã được soi sáng, đã không trở về với Hêrôđê, tượng trưng cho dục vọng, tham ô, tội lỗi, mà đã qua đường khác, nghĩa là đã thay đổi nếp sống và trở về làm tông đồ. Làm chứng tá, rao giảng Tin mừng khắp nơi, không phải ở Đông phương mà ở cả Tây phương. Tục truyền rằng HiểnLinh ABCđã qua giảng đạo tận Tây Đức và hiện nay có mộ ba vị ấy ở thành Cologne, trên bờ sông Rhin ở Tây Đức.
Đó cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta cũng là dân ngoại, nhưng được Chúa hiển linh, được ngôi sao của Chúa hướng dẫn thì nay chúng ta cũng phải trở nên ngôi sao hướng dẫn kẻ khác đến với Chúa, bằng lời nói, bằng việc làm, và cả cuộc sống chúng ta.
Trong công đồng Vatican II, có một vị Hồng y da đen Phi châu đã nói với các nghị phụ khi bàn đến lòng đạo đức sa sút ở các nước Tây phương rằng, một ngày nào đó, Chúa sẽ dùng chúng tôi để rao giảng Tin mừng lại cho các nước Tây phương. Đó không phải là sự kiêu hãnh, mà là một bổn phận sau khi đã được ơn hiển linh, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2:”Nhờ Tin mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một bản thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô”(Ep 3,6) (Hồng Phúc).
Người ta nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ti mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang…Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.
Trong ngày lễ Hiển linh, chúng ta cảm đội ơn Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại vì chúng ta một thời cũng là dân ngoại. Cái thái độ và mục đích của các đạo sĩ trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa khiến ta cần tìm hiểu và học hỏi. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Người chứ không giả hình như vua Hêrôđê. Hêrôđê khi nghe Đấng Cứu thế mới sinh thì bối rối sợ hãi vì sợ mất ngai vàng. Còn các nhà thông thái thì nhửng nhưng vì họ cậy họ có sẵn kho tàng Kinh thánh. Họ cho rằng nếu Chúa Cứu thế xuất hiện thì tự nhiên họ phải biết chứ không cần đi tìm kiếm. Cái thái độ tự mãn đó làm họ mù quáng không nhận ra ngôi sao lạ để đi tìm Chúa.
HiểnLinh ABCđã được hân hạnh đến triều bái Chúa Hài nhi, dâng lễ vật cho Ngài. Chúng ta cũng lưu ý rằng lúc HiểnLinh ABCđang thờ lạy và dâng lễ vật thì có Mẹ Maria ở đó. Chắc Mẹ Maria đã nhận lấy những lễ vật ấy và nói vài lời cảm ơn các ông thay cho Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Mẹ những tâm tình của chúng ta trong ngày lễ hôm nay:
“Lạy Mẹ, cuộc đời của con cũng là cuộc hành trình đi tìm Chúa. Ánh sáng Chúa vẫn luôn dẫn lối chỉ đường cho con. Đó chính là những lời của Chúa trong Thánh Kinh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy của Giáo hội như một ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa, vì họ đã nỗ lực tìm kiếm. Con cũng muốn noi gương các vị đạo sĩ, luôn quên mình bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Con quyết tâm mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khó bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ làm ! Xin Mẹ thương giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con ra mù tối đến nỗi không gặp được Chúa như Hêrôđê và các luật sĩ xưa. Nhưng con chân thành chạy đến với Mẹ. Xin Mẹ thương giúp đỡ con”(Đan Vinh).
Lm. Giuse Đinh lập Liễm ---------------------------------
1 Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, 2 và hỏi: "Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." 3 Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 6 Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời".
7 Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
SUY NIỆM
Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ. Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà Giacóp: HiểnLinh ABC161
Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ. Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà Giacóp (x.Ds 24,17). Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia là chờ đợi một vì sao xuất hiện. Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ cho dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7). Nhưng không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ. Theo các sử gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu, cả dân ngoại cũng tin rằng Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê. Phải chăng đó là lý do khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập xa xôi đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương, khi họ thấy trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau trước sự hạ sinh của Vua dân Do Thái. Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay. Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh của vị Vua mới để âm mưu loại trừ một đối thủ. Các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem lại có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia, nhưng họ chẳng buồn cất bước tới Bêlem. Còn các nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại, đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng quân vương. Dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với cả lòng thành.
Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo. Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa? Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng riêng. Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh sáng. Chúng ta phải tìm hiểu xem đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con người. Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương; ánh sáng của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao. "Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15). Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao, ánh sao nói được điều gì đó với người đang chờ đợi, ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường, ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa để Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp nhau.
GỢI Ý CHIA SẺ
• Những người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ nào, điều kiện nào?
• Ở môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ ánh sáng đó không?
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất. Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
SUY NIỆM:
Lễ Hiển linh ngày nay không còn long trọng như ngày trước. Nó không còn là cao điểm có nhiều: HiểnLinh ABC162
Lễ Hiển linh ngày nay không còn long trọng như ngày trước. Nó không còn là cao điểm có nhiều Chúa Nhật theo sau làm thành một mùa phụng vụ Hiển linh nữa. Nay, Hiển linh chỉ còn là lễ sau hết của mùa Giáng sinh. Và như thế cũng dễ hiểu. Vì Hiển linh là gì, nếu chẳng phải là việc Đấng Linh thiêng tỏ hiện ra? Thế mà còn việc tỏ hiện nào rõ rệt hơn chính Đấng Linh thiêng mặc lấy xác thịt sinh ra làm người? Giáng sinh là Hiển linh vậy.
Tuy nhiên, lễ Hiển linh hôm nay cũng có một đối tượng rõ rệt. Nó nói đến việc Thiên Chúa Giáng sinh làm người tỏ mình ra cho dân ngoại, cũng như Người đã tỏ mình ra cho dân Dothái khi gọi mục đồng đến thờ lạy và khi để cho ông Simêon và bà Anna nhìn thấy Người nơi Đền thờ. Lễ Hiển linh nằm trong mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ bản tính thần linh của Người ra cho mắt phàm của loài người chúng ta được nhìn thấy Người. Nhưng những kẻ được nhìn thấy Người hôm nay không phải là dân Dothái nữa, mà là các dân ngoại. Và điều này được cả ba bài đọc Kinh Thánh của Phụng vụ Thánh lễ hôm nay đồng thanh nói lên.
1. Isaia Đã Tiên Báo Mầu Nhiệm Này
Bài sách của ông ngày nay được thẩm định như một bản văn khởi hứng vào mùa thu năm 520. Dân Dothái mới được phép hồi hương. Đoàn người đạo đức về trước đã lập lại được bàn thờ ở Giêrusalem và đang xây dựng lại cả ngôi thánh đường ngày trước. Ai ai cũng phấn khởi. Dịp lễ Trại càng nô nức hơn nữa. Có lẽ chính bối cảnh đó đã khởi hứng cho tác giả của đoạn tiên tri hôm nay.
Ông nhìn vào các tường thành đang mọc lên và ông thốt ra lời phấn khởi: hãy vùng đứng, hỡi Giêrusalem; vì ánh sáng của Thiên Chúa cứu độ đã tỏa xuống trên ngươi. Hết rồi các thời ngươi bị nhục nhã tiêu điều trong cảnh lưu đày.
Ngược lại, kìa xem các dân tộc đang tối tăm trong gió bụi. Bàn tay Thiên Chúa đang đè nặng trên họ. Còn ngươi, bây giờ bình an đang xây lại giao ước với Thiên Chúa tín thành... Người mà vùng lên trong chiều hướng này thì rõ ràng các Lời Thiên Chúa cùng tổ phụ chúng ta sẽ thực hiện. Mọi dân đang đi trong tối tăm lầm lạc sẽ nhìn thấy ánh sáng chiếu trên ngươi mà tuôn đến. Họ đem theo cả con cháu ngươi đã phân tán trong thời lưu lạc trở về. Họ mang nhiều thổ sản đến dâng lễ cho Thiên Chúa.
Như vậy tác giả đã căn cứ vào thực tại để nói lên niềm tin vào tương lai theo như lời Chúa hứa. Lời của ông đúng thật là lời tiên tri, theo nghĩa tiên báo về thời sau hết, khi mọi Lời Hứa được thực hiện. Do đó nó vượt xa hơn cả thời thiên sai nữa, nếu ta hiểu thời này là lúc Chúa Cứu thế sinh ra trong xác thịt. Nó nói về thời cánh chung, khi mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền thật có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (21,9-27).
Nhưng không thể có Giêrusalem trên trời trước khi có Giêrusalem dưới đất. Không phải Giêrusalem "hình bóng" nơi dân Dothái mà là Giêrusalem "chân thật" là Hội Thánh chúng ta. Do đó, lời tiên tri hôm nay cũng đưa về Hội Thánh đang trên đường lữ thứ trần gian, Hội Thánh mà Công đồng Vatican 2 đã tuyên xưng là "ánh sáng muôn dân". Và trong thực tế, Hội Thánh này đang quy tụ muôn dân muôn nước, mà trước đây là dân ngoại. Hội Thánh đã được ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi ngay từ hôm Thánh Thần hiện xuống. Các dân tộc bắt đầu đến với Hội Thánh ngay từ hôm đó. Sự hiện diện của Hội Thánh ở giữa thế giới nói lên rằng lời tiên tri Isaia đang được thực hiện.
Và như thế là nhờ ở ánh sáng của Thiên Chúa cứu độ đang tỏa trên Hội Thánh như mây sáng phủ trên Lều Giao ước trên đường đi giữa sa mạc. Vì nếu không có "Chúa ở với Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế", Hội Thánh không thể quy tụ được muôn dân nước như vậy. Chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa giáng trần làm người đã đem ánh sáng mới vào thế gian và đặt nơi Hội Thánh. Chính Người sau khi tử nạn và phục sinh đã tuôn đổ Thánh Thần xuống dưới hình lưỡi lửa để Hội Thánh trở thành ánh sáng muôn dân. Và như thế lời Isaia nói về Giêrusalem ở thời cánh chung cũng như trong giai đoạn lữ thứ trần gian, cuối cùng phải căn cứ vào việc Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh trong xác thịt để tỏ vinh quang Thần tính cho thiên hạ được thấy. Phụng vụ có lý để đọc bài tiên tri này trong ngày lễ hôm nay. Và chúng ta được khuyến khích nhìn vào con trẻ thành Bêlem như là cứu tinh các dân tộc, vì Người thật là ánh sáng chiếu trong Hội Thánh.
2. Thánh Mátthêu Nhìn Thấy Mầu Nhiệm
Người diễn tả mầu nhiệm trong bài Tin Mừng hôm nay. Bề ngoài người như muốn thuật truyện, nhưng thật ra người đã mượn truyện để nói lên niềm tin Đức Giêsu là ánh sáng muôn dân và là nhà của Người là Hội Thánh sẽ tập họp muôn nước. Chính vì vậy mà câu truyện người kể có nhiều thiếu sót về văn chương khiến hậu thế đã tìm cách bổ sung bằng nhiều ý kiến khác thường.
Người ta muốn xác định có những vị vua từ Batư tới mang theo các lễ vật để dâng Chúa. Vì có vàng, hương và mộc dược nên hãy quy định họ là phái đoàn 3 người cho tiện. Đàng khác, con số 3 này lại nhắc nhở tới 3 người con Noe là tổ phụ của tất cả loài người sau nạn lụt. Họ có thể đã từ Batư tới bởi vì năm 614 khi quân đội nước này đến tàn phá thánh địa họ đã kính trọng đền thờ ở Bêlem vì trong đó có họa những người mặc y phục Batư đến thờ lạy Hài nhi. Nhưng nếu như vậy thì không nên coi họ là vua cho dù danh từ hợp với những câu thánh vịnh (72,10) nói rằng: "Vua Chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật; Vua Chúa Sêba và Saba sẽ đem triều cống lại chầu". Ở Batư không có nhiều vua cùng một lúc, nhưng lại có nhiều đạo sĩ, cũng là những nhà hiền triết thông thạo Kinh Thánh Batư và thường được các hoàng đế Batư thỉnh vấn. Nabuchodonosor khi đến Giêrusalem (Yr 39,3-13) cũng đem theo một vị đạo sĩ như thế để bàn hỏi.
Nhưng tất cả những yếu tố đó không quan trọng đối với thánh Matthêu. Người chú trọng giới thiệu Đức Giêsu là Cứu thế, Đấng mà ở thời thánh Matthêu, người Dothái không chịu công nhận đang khi các dân ngoại gia nhập Hội Thánh. Thế nên vai trò chính trong câu truyện là những con người đến từ phương Đông và các tư tế ở Giêrusalem. Dân ngoại nhờ đường lối tự nhiên đã khởi sự tìm ra Chúa; trong khi dân Dothái có sách Thánh mà không biết đến Người. Nói đúng hơn, dân ngoại cũng phải nhờ người Dothái công bố sách Thánh thì mới thành công trong việc đi theo đường lối tự nhiên, bởi vì ơn cứu độ bởi dân Dothái mà đến. Nhưng dân này đọc sách Thánh mà không hiểu, đang khi chỉ một vài chỉ dẫn của Thánh Kinh đã giúp được dân ngoại lên đường gặp Chúa.
Ở đây nói cho đúng không phải là lời sách Isaia mà là lời tiên tri Mikê, cũng đồng thời với Isaia. Mikê thấy dân Chúa đang hoảng hốt trước sức mạnh xâm chiếm của ngoại bang (Assyria), ông được lệnh an ủi và củng cố dân... Không có gì phải sợ tên "Gôliát" ấy, vì Chúa sẽ cho xuất hiện một Đavít mới từ Bêlem, làng nhỏ xíu của đất Yuđa. Như vậy thì Bêlem đâu có nhỏ nữa; nên thánh Matthêu mới đổi lại câu và viết: Bêlem hẳn không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Giuđa. Thánh Matthêu nghĩ đến Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem, Người sẽ làm lớn vì sẽ chăn dắt Israel Dân Chúa.
Các đạo sĩ sẽ nhận ra Người khi nghe lời Kinh Thánh mà tiếp tục cuộc hành trình đã khởi sự từ phương Đông. Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường. Chính nó đã khiến họ biết có một vị cứu tinh hay cứu thế đã ra đời, vì người xưa vẫn quan niệm đời những nhân vật xuất chúng thường gắn liền với một vì sao. Chúa cho họ thấy một sao lạ hiện ra ở trên trời. Họ đinh ninh ngay rằng đó là ngôi sao của một vị cứu tinh mới. Chúa dùng đường lối tự nhiên, phù hợp với họ, để đưa họ lên đường cứu rỗi. Họ đến Giêrusalem. Điều này làm chứng nỗi chờ mong vị cứu thế ở trong dân Chúa đã được những dân tộc chung quanh nghe biết. Họ hỏi vua Hêrôđê. Nhưng nơi dân Chúa, muốn biết chân lý phải đọc Thánh Kinh Lời Chúa sẵn đó, nhưng phải thi hành, có đi đến Bêlem mới gặp; chứ không cố gắng như các luật sĩ ở lại Giêrusalem thì chẳng bao giờ nhìn thấy ánh sáng cứu độ đã tỏa xuống trên Giêrusalem mới là Hài nhi thành Bêlem và Hội Thánh mới mẻ của Người.
Như vậy, thánh Matthêu đã có nhiều ẩn ý khi viết bài Tin Mừng hôm nay. Đó là Tin Mừng cho lương dân và đúng hơn cho Hội Thánh của Chúa Giêsu. Ngược lại nó gây lo lắng buồn phiền cho Giêrusalem cũ, là những người Dothái không đón nhận Chúa Giêsu. Đúng như Gioan viết trong chương mở đầu sách Tin Mừng thứ tư: "Người đã đến trong nhà Người mà gia nhân của Người đã không tiếp nhận. Còn ai tiếp nhận thì Người đã ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa... Và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Người". Điều này cũng là ý của bài thơ Phaolô hôm nay. Theo người: mầu nhiệm trong các thế hệ trước chưa hề thông tri cho con cái loài người, thì nay đã được mạc khải ra: ấy là dân ngoại cũng là kẻ thừa tự, là thân mình, và đồng hưởng lời hứa trong Đức Giêsu Kitô nhờ Tin Mừng.
Nhưng không thể Phụng vụ hôm nay chỉ nói lên mầu nhiệm đó để Hội Thánh tạ ơn và để chúng ta biết mình đã được Chúa thương kêu gọi từ dân ngoại vào hưởng gia nghiệp Dân Chúa. Bài sách Isaia đã căn cứ vào thực tại nhưng muốn người ta nhìn xa hơn cho đến tận cùng lịch sử. Phụng vụ hôm nay cũng khuyên chúng ta hướng mắt về thời cánh chung mà vùng lên, bừng sáng lên để lôi cuốn, chỉ đường cho các dân tộc xây dựng ngày mai tươi sáng. Ý tưởng của bài thư Phaolô cũng vậy. Thánh Tông đồ viết ra để thúc đẩy chúng ta nhiệt tình với công cuộc truyền giáo. Và bài Tin Mừng rõ ràng khuyến khích mọi người lên đường tìm Chúa theo gương các đạo sĩ.
Chúng ta sẽ thành thật tham dự mầu nhiệm Hiển linh này, nếu sau khi thờ lạy Chúa trong Phụng vụ chúng ta cũng vươn lên, bừng sáng, tức là có nếp sống tốt đẹp hơn, để soi sáng cho người khác biết Chúa; chúng ta cũng phải lên đường với tha nhân, nêu lên với họ những câu nói về Chúa. Có khi chính chúng ta sẽ thấy phải rở lại sách Thánh; và lần này đọc lên chúng ta sẽ hiểu rõ thời điềm, tức là đọc thấy ý Chúa nơi mọi sự việc xảy đến hằng ngày. Có thể có nhiều ánh sao đang chờ đợi dẫn đưa chúng ta đến gặp Chúa và đưa người ta đến với Người. Và như vậy, năm nay cũng có một lễ Hiển linh cho chúng ta.
Hôm nay Giáo hội mừng kính việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại( Mt 2, 1-12). Ngay: HiểnLinh ABC163
Hôm nay Giáo hội mừng kính việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại( Mt 2, 1-12). Ngay từ giây phút đầu tiên hạ sinh tin vui Thiên Chúa hạ sinh đã được loan báo cho các mục đồng và họ đã đến chiêm bái Người. Hôm nay thì đến lượt ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến kính thờ. Dấu chỉ ánh sao mà ba nhà đạo sĩ dõi theo để tìm ra Ấu Chúa có khó tìm lắm không ? Nếu không thì tại sao lại chỉ có ba đạo sĩ nơi xa xôi này?
Tin Mừng theo Thánh Mathêu ghi lại việc ba đạo sĩ nhìn thấy ánh sao của vua Do Thái xuất hiện bên phương Đông và các ông đã theo ánh sao đất Do Thái, đến hoàng cung để hỏi về dấu chỉ ánh sao. Nghe tin ấy vua Hêrôđê và dân Giêrusalem đều xôn xao và họ cũng tìm ra được lời giải đáp là ở Bêlem. Nhưng không vì thế mà họ đi tìm Chúa. Chỉ có ba đạo sĩ ra đi và họ đã được toại nguyện là nhận ra Ấu Chúa ( x Mt 2, 1-12). Qua đoạn Tin Mừng này cho tôi hai suy nghĩ về việc muốn gặp được Chúa.
Muốn gặp được Chúa phải có tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn. Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa làm người không chọn cho mình nơi hoàng cung, lầu các....mà chọn cho mình một người Mẹ là một thôn nữ bình thường ở làng Nagiareth, chọn cho mình một người cha cũng bình thường, chọn cho mình sống trong một gia đình bình thường.... tới lúc hạ sinh Người không tỏ lộ mình ra cho những bậc vua chúa, quan quyền nhưng Người chọn các mục đồng để tỏ lộ Người đã giáng sinh, và hôm nay là các đạo sĩ. Tại sao Chúa lại chọn thế? Theo tôi vì các mục đồng là những người đơn sơ khi nghe Thiên Thần loan tin thì đã mau mắn đến bái thờ, các đạo sĩ khi thấy ánh sao lạ thì đã dõi theo ánh sao mà đến chiêm bái Hài Nhi. Đời sống người Kitô hữu chúng ta tuy mang danh là Kitô hữu nhưng có nhiều lúc ta lạc mất Chúa do những ham muốn, những tự phụ, những tính toán, những cách đặt vấn đề của chúng ta. Chúa thì luôn hiện diện nhưng những thứ đó đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa khiến ta khó nhận ra. Chúa Giêsu đã từng nói “ai không nên như trẻ nhỏ thì chẳng được vào Nước Trời”. Thế nên muốn được gặp Chúa trước hết phải có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Có thấy mình thiếu thốn, có thấy mình cần Chúa thì Chúa mới có thể lấp đầy.
Muốn gặp Chúa phải kiên nhẫn đi tìm. Các đạo sĩ đã rất gian nan để tìm đến nước Do Thái, có những lúc lạc mất ánh sao nhưng không vì thế mà họ nản lòng. Họ dùng đủ mọi cách để tìm cho được Hài Nhi. Và Chúa đã không phụ lòng họ. Có lẽ ánh sao không chỉ là dấu chỉ cho ba nhà đạo sĩ mà thôi nhưng chỉ có ba đạo sĩ tìm ra Chúa. Bằng chứng là vua Hêrôđê và cả thành Giêrusalem xôn xao nhưng không ai đi tìm như ba đạo sĩ. Chúa Giêsu nói: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”. Ơn gọi của chúng ta là ơn gọi nên thánh, nên thánh là được ở bên Chúa, nên giống Chúa. Theo Chúa không phải một ngày một lúc nhưng đòi hỏi ta luôn nép mình luôn trong tình thương Chúa cho dù có lúc ta như lạc lối nhưng với sự kiên trì chắc chắn ta sẽ gặp được Ngài như ba đạo sĩ.
Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho ba đạo sĩ phương Đông, cho lương dân cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa không là độc quyền của dân tộc hay quốc gia nào nhưng là phổ quát cho mọi dân tộc, mọi người. Vì thế, ta có nhiệm vụ là làm sáng lên trong ta ơn cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em chưa nhận biết Chúa ( Ba đạo sĩ dù được ánh sao chỉ đường nhưng phải nhờ đến dân Do Thái và Thánh Kinh mới tìm ra được Vì Cứu Tinh ). Các đạo sĩ đã dâng vàng, nhũ hương và mộc dược cho Chúa Hài Đồng tượng trưng cho Vương Quyền, Thiên Tính và Khổ Nạn của Chúa Giêsu, nay chúng ta đến với Chúa ta có gì dâng Chúa, Chúa muốn đón nhận tất cả những ai đến với Chúa với tâm lòng thành thật khiêm tốn, cho dù có những vết thâm tím của những lần lưu lạc nhưng tin chắc rằng Chúa sẽ đón nhận, chữa lành và thêm sức cho ta vững bước về cùng Chúa.
Ngày nào đó bước lên chuyến xe khách thử hỏi hai người cùng đi tơí một địa điểm chắc chắn: HiểnLinh ABC164
Ngày nào đó bước lên chuyến xe khách thử hỏi hai người cùng đi tơí một địa điểm chắc chắn ta sẽ nghe được hai mục đích khác nhau. Cũng vậy, Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay sẽ cho thấy hai thái độ khác nhau của việc tìm kiếm Chúa Giêsu Hài Đồng.
Với các Hiền sĩ từ phương Đông, họ đi tìm trong thái độ thật lòng và khiêm tốn. Họ đã lặn lội từ phương xa theo ánh sao lạ dẫn đường. Vàng, nhũ hương và mộc dược là những lễ vật họ mang theo để dâng tiến Chúa Hài đồng. Vàng là thứ dành riêng cho vua. Nhũ hương chỉ đặc biệt một mình vị thượng tế sử dụng. Còn mộc dược là thứ để dành cho việc ướp xác. Những lễ vật này chứng tỏ các vị ấy phần nào đã công nhận thân thế và sự nghiệp thật của Hài nhi Giêsu. Hài nhi Giêsu chính là vị Vua Messia mà muôn dân đang trông đợi. Cũng chính Người sau này sẽ dùng cái chết của mình làm hy tế dâng lên Chúa Cha đền thay tội lỗi muôn dân.
Ngược với các Hiền sĩ là thái độ tò mò và ghen ghét của vua Hêrôđê. Vì sợ mất quyền ảnh hưởng nên vừa nghe các Hiền sĩ hỏi thăm, ông hết sức bối rối đến nỗi làm cho cả thành Giêrusalem xôn xao. Câu nói: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người" thật sự chỉ là ác ý. Trong tâm trí ông luôn bị ám ảnh đến sự mất ngôi. Vì thế, ông sẵn sàng làm mọi cách để tiêu diệt những ai có ảnh hưởng đến vị thế ấy. Bằng chứng rỏ ràng, sau đó ông đã ra lệnh giết tất cả trẻ em Do thái từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng lân cận. (Mt 2, 16)
Thật vậy, ông bà ta thường nói: “Dò sông dò biển dể dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người.” Cùng một biến cố Hài nhi Giêsu nhưng trước mắt ta đã thấy hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau. Từ đó đã đưa đến hai kết quả cũng khác nhau. Các Hiền sĩ đã được ngôi sao dẫn đường đi đến chiêm ngắm Hài nhi Giêsu. Còn Vua Hêrôđê không được ai chỉ đường đến Bêlem thì làm sao chiêm ngắm.
Biến cố Ngôi Hai nhập thể là sự thật. Đây cũng chính là một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Chỉ những ai biết để cho mình bé mọn trước Chúa thì sẽ được biết nhữnng điều cao cả (Mt 11, 25). Chỉ cần ta hết lòng dâng cho Người thì sẽ được Người ban thêm cho (Mt 25, 29). Hãy tha thiết nài xin Hài nhi Giêsu cho ta biết khao khát và thật lòng đi tìm chân lý trong cuộc sống. ---------------------------------
“Các đạo sĩ bước vào nhà, thấy Hài nhi và thân mẫu là Bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người, rồi mở tráp lấy vàng nhử hương và mộc dược mà dâng lên…” (Mt 2, 11)
Câu chuyện Phúc âm của ngày lễ Hiển linh hôm nay thật lạ lùng, lạ lùng không phải vì chỉ có: HiểnLinh ABC165
Câu chuyện Phúc âm của ngày lễ Hiển linh hôm nay thật lạ lùng, lạ lùng không phải vì chỉ có thánh Matthêu ghi lại, nhưng chính là vì nội dung của câu chuyện này. Ba nhà chiêm tinh từ đâu xa lắc bên xứ Á rập, Ba Tư, nơi người ta rất quan tâm về khoa chiêm tinh, đã nhận thấy sao lạ hiện ra; họ đã bỏ mọi sự để đi tìm vị vua của ánh sao lạ đó. Cuối cùng họ đã tìm gặp và họ đã thờ lạy, bỏ công bao lâu nay đi tìm kiếm… Câu chuyện lạ lùng y như câu chuyện thần tiên; vậy mà chính Kinh thánh ghi lại cho chúng ta cách chi tiết như vậy. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
Truyền thuyết cho ta biết ba nhà đạo sĩ có tên gọi là: Gaspar, Balthasar và Melchior. Nhờ ánh sao dẫn đường, ba đạo sĩ đã gặp Chúa và đã quỳ xuống thờ lạy Người. Sự việc này được coi như cuộc Hiển linh (tỏ mình ra) cho bất luận là ai, không phải chỉ một mình dân tộc Do thái.
Khi ba đạo sĩ vừa đến Giêrusalem, ngôi sao dẫn đường biến mất; họ đành phải đi hỏi thăm các thày thư ký, các thông luật, các thượng tế và cả Hêrôđê nữa. Lúc đó Phúc âm ghi, cả thành đều xôn xao. Vua Hêrôđê bối rối. Thái độ bối rối của ông vua này không phải vì không biết Vua dân do thái sinh ra ở đâu, nhưng đó chỉ là vì sợ chiếc ngai vàng của ông bị lung lay khi hay tin Vua dân do thái chào đời…. Khi các đạo sĩ được cho biết rồi, họ ra đi và đã gặp Vua mới sinh. Họ đã sụp lạy và dâng lên Người: vàng – nhủ hương và mộc dược… Ba món lễ vật này, chính là để tỏ lòng tôn kính. Vàng chỉ vương quyền của đức Kitô; nhủ hương chỉ thiên tính; mộc dược chỉ cuộc tử nạn sau này. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho ta hai ý suy niệm:
• Hình ảnh cuộc hành trình đi tìm Chúa Hài nhi của ba nhà đạo sĩ, cũng chính là hành trình cuộc đời mỗi người chúng ta, hôm nay. Thật vậy, việc tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm Thiên Chúa của con người ở mọi thời đại đều giống nhau. Khi xưa, ba nhà đạo sĩ đã không ngại bỏ nhà cữa, gia đình, nệm ấm chăn êm, lao đao vất vả, để đi đến chân trời vô định mà tìm kiếm Vua mới sinh. Công việc xem ra không chút hi vọng gì! Vậy mà cuối cùng họ đạt được ý nguyện. Hành trình đức tin chúng ta cũng tương tợ như thế. Trên đường đi, gặp khó khăn cản trở, đó là điều tất nhiên. Ba nhà đạo sĩ đầy quả cãm, kiên trung; chính vì thế họ đạt được thành công trọn vẹn, là gặp Đấng Cứu thế. Cuộc hành trình đức tin, cũng dài và cũng không êm ả như vậy. Vì thế nó đòi hỏi ta phải can đãm, kiên trì sống theo Lời Chúa, hiệp nhất với Ngài ngay trong cuộc sống ở đời này. Có như vậy mới đạt tới đích là gặp gở Đấng Cứu thế như ba nhà đạo sĩ …..
• danh từ: Hiển linh có nghĩa: Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, đại diện chính là ba nhà đạo sĩ. Lẻ ra người được Thiên Chúa tỏ mình ra trước tiên phải là dân tộc Do Thái, vì từ Cựu Ước, họ đã lãnh nhận lời hứa trở thành dân thánh của Chúa, và Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Tinh sinh ra từ dân tộc này. Điều này muốn nói lên: ơn cứu rổi là dành cho tất cả mọi người, không riêng dân tộc Do thái. Chính vì thế, Con Thiên Chúa giáng sinh hôm nay, là cho mọi người, không phân biệt ai cả. Tại sao các kinh sư, thượng tế lại không được đón nhận hồng ân này… Gợi ý suy niệm:
• Lễ Hiển Linh chính là để nói lên Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không phải chỉ dân tộc Do thái. Mừng lễ Hiển linh, ta có suy nghỉ nào đây? Ta có muốn TC tỏ mình ra cho chính ta không?
Các nhà chiêm tinh đã lặn lội vất vã ngày đêm, để tìm đến và thờ lạy Chúa Hài nhi. Khi nhận ra dấu chỉ Chúa mạc khải, họ sẵn sàng bỏ tất cả, gia đình, vợ con, quê hương để đi tìm Vua mới sinh. Còn ta thì sao? Ta có sẵn lòng bỏ tất cả để theo Vua Giêsu không? ---------------------------------
Các nhà chiêm tinh từ phương Đông phát hiện ngôi sao lạ và các ông nhận ra là có một vị Vua: HiểnLinh ABC166
Các nhà chiêm tinh từ phương Đông phát hiện ngôi sao lạ và các ông nhận ra là có một vị Vua mới sinh ra nên các ông vội vả mang lễ vật lên đường tìm kiếm để thờ lạy vị Vua mới sinh ấy. Hành trình của các nhà chiêm tinh thật vất vả, các ông phải lặn lội đường xa theo dấu ngôi sao lạ mà đi. Đến Giêrusalem thì ngôi sao lạ biến mất, các ông phải tìm hỏi khắp nơi làm xáo trộn cả thành Giêrusalem, làm cho Vua Hêrôđê vô cùng bối rối: “Nhà Vua liền triệu tập tất cả các Thượng tế và Kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu". Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđa, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Belem, miền Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-el dân Ta sẽ ra đời”. Các nhà chiêm tinh lại tiếp tục lên đường theo hướng Bêlem, miền Giuđa. Đến nơi, “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với Mẹ Người là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”.
Trong sách Giáo Lý Công giáo số 27 và 35 dạy: “Tận đáy lòng, con người khao khát tìm kiếm Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa, … vànhờ những năng lực của mình, con người có thể nhận biết sự hiện hữu của một Thiên Chúa …và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc …”. Và trong Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma dạy “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa thì thật là hiển nhiên trước mắt họ …”. Các nhà chiêm tinh nhờ vào sự hiểu biết của mình mà nhận ra Vị Vua mới sinh và mau mắn lên đường tìm gặp Ngài. Các nhà chiêm tinh đã dùng khả năng Chúa ban để đi tìm kiếm Ngài. Ngược lại, các Thượng tế và Kinh sư nhờ đọc sách Thánh mà biết được vị Vua sẽ sinh ra tại làng Bêlem nhưng không tìm kiếm Ngài, những điều các Thượng tế và Kinh sư biết được trong sách Thánh chẳng đem lại ích lợi gì cho các ông, vì các ông không tìm Chúa.
Thật trớ trêu thay, các nhà chiêm tinh không hiểu biết kinh thánh nhưng nhờ vào sự hiểu biết thiên văn mà nhận ra vị Vua xuất hiện, rồi đến với Ngài. Còn các Thượng tế và Kinh sư thì không. Đúng là “kẻ trước hết sẽ nên sau hết, kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết”.
Mỗi Kitô hữu chúng ta hãy xét mình lại, dù chúng ta đã đã được rửa tội, dù chúng ta đã lãnh nhận các Bí tích, nhưng chúng ta có chân thành tìm kiếm Chúa mỗi ngày trong cuộc sống không ? Chúng ta có có dùng khả năng Chúa ban để tìm Chúa như các nhà chiêm tinh không hay chúng ta lại an tâm vì mình đã được rửa tội, đã được nghe Lời Chúa và lãnh các bí tích rồi không cần tìm kiếm Chúa nữa như thế chúng ta giống các Thượng tế và Kinh sư xưa.
Các nhà chiêm tinh đã không quản ngại đường xa vất vả, không ngại tốn thời gian, không ngại tốn của cải, gặp khó khăn trở ngại họ không hề chùng bước thối lui, họ cố gắng vượt qua tất cả để gặp được Chúa hài nhi.
Chúng ta có được thái độ như thế không ? Đường xá xa xôi có làm chúng ta ngại đến nhà thờ tham dự thánh lễ không ? thời gian đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ có làm cho chúng ta ngán ngại không ? Những khó khăn, buồn phiền, thất mùa, thiên tai có làm cho chúng ta chậm bước chân đến với Chúa không ? Một chút thử thách đó có làm cho chúng ta “thay lòng đổi dạ” với Chúa không ? Chúng ta có tin vào quy luật “sau cơn mưa trời lại sáng” để luôn vững niềm tin vào Chúa không ?
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết hết lòng tìm Chúa trong mọi sự như lời Chúa dạy: “tiên vàn hãy tìm những sự trên trời còn mọi việc khác Chúa sẽ ban cho”.
Nhờ Ánh Sao dẫn đường, ba nhà đạo sĩ từ Phương đông đã đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có thể: HiểnLinh ABC167
Nhờ Ánh Sao dẫn đường, ba nhà đạo sĩ từ Phương đông đã đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có thể nói, họ là những con người khao khát chân lý và qui phục sự thật. Theo quan niệm vẫn có nơi nhiều nền văn hoá trên thế giới, mỗi khi có vị quân vương ra đời thì trên bầu trời xuất hiện một ánh sao lạ. Và người ta cũng thường nghĩ rằng, cuộc đời của một con người gắn liền với một vì sao nào đó!
Khi Chúa Giêsu giáng sinh, Ngài đã tỏ mình ra nhiều người, bằng nhiều cách thế khác nhau. Trước hết, Ngài tỏ mình ra cho những con người đơn sơ, nghèo khó như các mục đồng chăn chiên ngoài đồng; cho những con người thánh thiện và tốt lành như cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna. Hôm nay, với việc các nhà đạo sĩ từ Phương Đông tìm đến với Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói được rằng: Chúa đã tỏ mình ra với muôn dân, ngay cả với Dân ngoại. Nói cách khác, Chúa đã tỏ mình ra nơi mọi tâm hồn thành tâm thiện chí đi tìm Ngài bất luận họ là ai, thuộc dân tộc nào!
Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều này là: với việc Giáng sinh làm người của Chúa Giêsu, thì Ánh Sáng đã đến trần gian. Ánh sáng này đã xoá tan ranh giới phân biệt Do thái và Hy Lạp, tuyển dân và Dân ngoại. Nhưng cũng từ đây, một “ranh giới” mới xuất hiện, không phải Thiên Chúa muốn nhưng do con người tạo ra, đó là cuộc đối đầu giữa Ánh sáng và Bóng tối. Theo thánh Gioan tông đồ, vẫn có Ánh sáng thật và cũng có Bóng tối thật! Chúa Giêsu là Ánh sáng – Ánh sáng ban sự sống, xuất phát từ Chúa Cha và những ai tìm đến với Ngài với tâm hồn ngay chính cũng được Ánh sáng soi dẫn và sống trong Ánh sáng. Nhưng khi Ánh sáng xuất hiện thì Bóng tối cũng lộ diện rõ ràng, mà Hêrôđê chính là đại diện cho những con người sống trong Bóng tối. Bóng tối trong cuộc đời này xem ra rất mạnh thế. Bóng tối cũng vô cùng tinh xảo và khôn ngoan theo kiểu thế gian. Vua Hêrôđê căn dặn những nhà đạo sĩ rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Đó là những lời nghe có vẻ rất đạo đức và thánh thiện của vị bạo Chúa Hêrôđê, nhưng tận đáy lòng của vị vua này là muốn tiêu diệt Hài Nhi Giêsu vì ông lo sợ rằng: với việc ra đời của Chúa Hài Nhi thì ngai vàng của ông bị lung lay. Ông sợ Vua Giêsu sẽ cướp mất quyền làm vua của ông. Thật là một suy tính tiểu nhân và trẻ con vô cùng! Ông đâu biết rằng: “mọi quyền hành ở trần gian này đều do Chúa ban và thiết định”. Ông cũng đâu hiểu rằng: Chúa Giáng trần cũng là để cứu chuộc mọi người trong đó có ông nữa. Thật tội nghiệp cho ông, một vị vua sống trong bóng tối vì bị đam mê dục vọng lôi cuốn.
Trong con người chúng ta, hình như cũng có bóng dáng của ba nhà đạo sỹ mà cũng có bóng dáng của Hêrôđê ẩn hiện đâu đó. Có những lúc tâm hồn chúng ta bay bổng, tha thiết muốn đi tìm Chúa, muốn sống chết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Những lúc đó, chúng ta muốn sẵn sàng hiến dâng cho Chúa tất cả: “Đây tâm tư con, thân xác con, nguyện hiến dâng Ngài từ đây đến trót cuộc đời. . .!” Đó cũng là những khi chúng ta thấy Chúa luôn hiện diện bên cạnh mình, thấy mình được mọi người thương mến và quí trọng. . . Đời thật đáng sống làm sao! Yêu Chúa và yêu người dễ dàng làm sao!
Nhưng rồi có những lúc, chúng ta gặp phải những thất bại, những chống đối, những hiểu lầm; những lúc cuộc đời của ta không thuận buồm xuôi gió, thiếu trước hụt sau. . . Chúng ta cầu xin Chúa hoài mà Chúa vẫm im lặng, thì tự nhiên chúng ta cũng muốn buông xuôi tất cả. Những lúc đó, chúng ta dễ hành xử như những người không có niềm tin và hy vọng. Chúng ta rất dễ có những hành động như Hêrôđê là muốn phá đổ, muốn huỷ diệt tất cả vì mình không thấy hạnh phúc và mất bình an. Những lúc đó, ta dễ dàng nghĩ rằng: “Tha nhân là hoả ngục đối với tôi”. Tôi không còn muốn tin ai ngay cả Thiên Chúa! Thật nguy hiểm biết bao! Khi trong chúng ta, hình bóng của Hêrôđê làm chủ rồi thì Chúa phải ra đi! Bóng tối không muốn tiếp nhận Ánh sáng nữa. Nhưng người con cái của Chúa đích thực thì không nên sống như thế. Chúng ta phải kiên quyết xua trừ Bóng tối ra khỏi con người của chúng ta để Ánh Sáng là chính Chúa vào làm chủ trong ta. Bất cứ lúc nào, chúng ta biết nói lời yêu thương, tha thứ, nâng đỡ nhau thì khi đó trong ta Ánh sáng đã chiến thắng Bóng tối.
Có chuyện kể rằng: Đứng trước hung tin: Jacques, cậu con trai yêu quí vừa từ trần, nữ bá tước Littry vô cùng đau khổ và cảm thấy tiêu tan hết nghị lực; tuy nhiên, bà vẫn cố gắng lao mình vào công việc phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Eperny. Ngày nọ, một thương binh người Đức được cho đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch đã giết chết con trai bà bá tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận một cách vui vẻ. Đến khi lúc soạn đồ đạc, áo xống của người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, nữ bá tước Littry chỉ biết thốt lên: "Đúng đây là tên lính đã giết con trai mình!". Nhưng kìa, một mảnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống. Bà Littry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đập mạnh vào mắt bà: "...Mẹ yêu quý! con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu nguyện cho con..." Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc tên lính Đức cách tận tình. Trên mặt y, một giọt nước mắt của bà rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như hạt sương mai...!.
Nữ bá tước Littry đã để cho Ánh sáng xoá tan Bóng tối trong tâm hồn bà, để bà được tiến bước trong cuộc đời tràn ngập Ánh sáng của tinh yêu.
Các nhà đạo sỹ ngày xưa đã để cho Ánh sao lạ soi dẫn đường mình đi và họ đã đến được với Chúa nhờ lòng nhiệt huyết và đầy tin tưởng của họ. Ngày nay, chúng ta cũng có những Ánh sao soi đường để chúng ta đến được với Chúa. Ánh sao đó chính là Lời của Ngài. Nhưng thử hỏi, chúng ta có sẵn sàng để cho Lời Chúa dẫn đường mình đi không? Câu hỏi ấy đang chờ từng người chúng ta trả trời trước Chúa Gie6su Hài đồng trong Mùa Giáng Sinh này cũng như trong suốt cuộc đời chúng ta. ---------------------------------
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lại Người”.
Thừa kế là thừa hưởng một điều gì đó, chẳng hạn là gia sản. Thông thường, giữa người để lại gia: HiểnLinh ABC168
Thừa kế là thừa hưởng một điều gì đó, chẳng hạn là gia sản. Thông thường, giữa người để lại gia sản và người được thừa kế gia sản đều có quan hệ thân tộc hoặc một mối ràng buộc nào đó. Tuy nhiên, đôi khi có quan hệ nhưng chẳng được nhận một thứ gì. Điều này không bất thường so với như việc chẳng quen chẳng biết, chẳng có dây mơ rể má gì mà lại được nhận thừa kế mới là chuyện đáng nói. Ấy vậy, chuyện ngược đời đó lại trên lại đúng cho trường hợp của chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một gia sản tuyệt vời từ những người không hề quen biết. Đó là đức tin từ các tông đồ. Thực sự phải nói là từ Đức Kitô.
Chúng ta được thừa kế không do công trạng của mình mà do tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ việc thừa kế đó mà chúng ta trở nên có quan hệ huyết thống với các tông đồ và với cả Thiên Chúa nữa. “Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Eph 3, 6). Đây thật là một mầu nhịêm.
Trở lại lịch sử, Do thái là dân riêng của Chúa, là dân được Chúa tuyển chọn và lập giao ước. Có thể nói, mọi vinh quang danh dự Thiên Chúa đã dành hết cho dân tộc này. Nhưng trớ trêu thay, khi con Thiên Chúa làm người thì người Do thái là dân đầu tiên từ chối Thiên Chúa. Nên giờ đây, ơn cứu độ không còn chỉ cho dân Do thái nữa. Chúng ta thừa kế là như thế đó.
Khi ba đạo sĩ đến gặp Hêrôđê để hỏi thăm về nơi hạ sinh của Vua dân Do thái thì từ vua đến dân đều xôn xao, bối rối, cả thành Giêrusalem náo loạn lên. Hêrôđê bối rối không phải vì chợt tỉnh ra, thấy mình sao vô tâm để rồi tìm cách để đến bài thờ Vua cả trời đất. Một người độc ác như Hêrôđê nếu có bối rối thì tại vì hắn sợ ngai vàng của mình bị lung lai. Hắn sợ, bởi nếu đây là sự thật thì thời cuộc sẽ thay đổi, điều này đồng nghĩa hắn mất vương quyền. Còn chuyện dân chúng xôn xao thì cũng đáng để luận bàn lắm. Vì thật ra điều này đã được tiên tri Malakhia nói rồi: “Và người, Bêlem , đất thuộc Giuđa, hẳn ngươi không nhỏ bé trong hàng tướng lãnh Giuđa, vì bởi nơi ngươi sẽ xuất hiện vị thủ lãnh, Đấng chăn dắt Israel dân ta” (Mk 5,1-3). Nhưng tiếc thay khi điều đó xảy ra thì không có ai tỏ vẻ mừng vui. Cũng chẳng ai tha thiết đi tìm, đi kiếm mà thờ lạy chúc tụng vị thủ lãnh Israel đó. Ngoại trừ những mục đồng nghèo nàn, khốn khó.
Thế nên, cũng sẽ chẳng có dấu chỉ nào cho dân Israel mà điều này đựơc tỏ ra cho người ngoại giáo mãi bên Phương Đông. Căn cứ theo các lễ phẩm dâng Chúa Hài Đồng thì ba đạo sĩ này đến từ Babilon. Họ được gọi là những Magi – nhà hiền triết thông thạo thiên văn và nhiều sự khôn ngoan khác. Họ là dân ngoại nhưng với sự khao khát tìm chân lý, với lòng thành kính trước sự ra đời của một vị vương tử, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ.
Chúa nhật Chúa hiển linh giúp ta tra vấn lại lòng tin của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là dân thánh của Chúa nhờ phép rửa. Chúng ta giờ đây không là dân ngoại, nô lệ mà chúng ta con Cha trên trời, là “bạn hữu” của Đức Kitô. Thêm một lần mừng sinh nhật của Đức Giêsu là thêm một lần để ta vui mừng và hy vọng. Chúa giáng sinh không là lý do để chúng ta lo sợ. Đó là tâm trạng của người nô lệ. Họ sợ thời cuộc thay đổi sẽ ảnh hưởng đến sự bình yên của cuộc sống, họ sợ bị bấp bên, sợ liên luỵ trong cuộc đời.
Ngày xưa, lúc chưa có la bàn, các thủy thủ hay ngắm sao trời để định hướng đi. Vào thời CG:: HiểnLinh ABC169
Ngày xưa, lúc chưa có la bàn, các thủy thủ hay ngắm sao trời để định hướng đi. Vào thời CG, người ta cũng hay dựa vào việc chuyển động của các ngôi sao để dự đoán về chuyện đất trời liên quan đến sự sống của nhân loại. Các nhà chiêm tinh mà chúng ta quen gọi là HiểnLinh ABChôm nay cũng dựa vào điềm sao để tìm đến với Hài Nhi Giêsu.
Thực sự ra, ngôi sao chỉ đường cho HiểnLinh ABCđến yết kiến Ấu Chúa Giêsu ra sao? Một nhà khoa học nói rằng: vào khoảng năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng lạ thường xảy ra trên bầu trời. Đó là hai ngôi sao Jupiter và Saturn năm đó sáp lại gần nhau tạo ra sự cộng hưởng ánh sáng, khiến cho vầng trời đông có một luồng sáng khác thường và kéo dài suốt mấy tháng. Chúng ta không sống vào thời điểm đó nên không biết có phải đó là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho HiểnLinh ABCtìm ra Chúa Hài Nhi hay không. Nhưng có một điều chắc chắn là Chúa Giêsu đã đến trần gian. Ngài là ánh sáng Sự Thật chiếu soi cho nhân loại đang sống trong u tối. Ngài đến để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Và hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, tỏ mình ra cho HiểnLinh ABCđại diện cho muôn dân đến thờ lạy và dâng lễ vật quý giá lên Hài nhi Giêsu. Tuy nhiên, có một điều đáng tiếc là vua Hêrôđê đang coi sóc miền Giuđêa, trong đó có làng Bêlem lẽ ra phải thông báo cho dân chúng về việc Đấng Cứu Thế ra đời để mọi người cùng tháp tùng với HiểnLinh ABCđến chiêm bái Chúa. Đàng này, vua âm thầm giữ lấy tin tức này một mình và hơn nữa lại nuôi ý đồ mưu sát Đấng cứu thế.
So sánh việc làm của Hêrôđê và HiểnLinh ABCcho thấy loài người có hai thái độ khác nhau trước ơn cứu độ. Nhiều người vui mừng vì Chúa đã đến dạy cho mình điều hay lẽ phải để con người sống thanh cao, thánh thiện, xứng đáng trở nên con cái Chúa. Một số khá đông khác lại muốn khước từ chân lý, muốn sống trong bóng tối của sự giả trá, mê lầm. Họ muốn tạo lập một thế giới riêng, và bỏ qua tiếng nói của lương tâm, họ chỉ sống theo sở thích, chiều theo những dục vọng đam mê của bản năng.
Ánh sáng thật đã đến trần gian nhưng người đời chuộng tối tăm hơn sự sáng. Trong thời đại hôm nay, người ta cổ võ cho nền văn minh của bóng tối và họ cho đó là tự do: tự do làm điều xấu mà không ai dèm pha, rầy rà, người ta nhân danh quyền lợi của cha mẹ để tiêu diệt con cái mình từ trong trứng nước, sẵn sàng giết con ruột của mình lúc chưa kịp chào đời; người ta nhân danh tự do để quan hệ ngoài giá thú, trước hôn nhân... Và để lương tâm không cắn rứt khi làm những việc xấu đó họ đã lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng nhất là phim ảnh để làm lương tâm giảm nhạy bén về những tội này và tất cả mọi người cùng lầm lạc như họ. Có những người đang cố ý gieo rắc và cổ võ điều xấu, trong khi đa số loài người thì thờ ơ và không kiên quyết chống lại sự ác nên cũng gián tiếp làm cho sự ác lan tràn cách mau chóng.
Hêrôđê ngày xưa và thế gian ngày nay có xu hướng dập tắt ánh sáng chân lý để mọi người tiếp tục sống trong mù tối và đi vào con đường của sự chết. Đứng trước nền văn minh của bóng tối đó, Kitô hữu chúng ta hãy là những ngôi sao dẫn đường cho những ai thành tâm tìm chân lý được nhận biết Chúa và sống theo lời người để được ơn cứu độ. Mỗi người chúng ta hãy là những ánh sao ở tại nơi mình sống. Mỗi người hãy tỏ lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người, từ thân nhân trong gia đình mình đến những người xung quanh đang cần chúng ta giúp đỡ. Nếu chúng ta biết chân thành yêu thương, hiền hòa, bác ái, thì chúng ta thật sự là những ánh sao dẫn đưa mọi người tìm đến với Chúa để được ơn cứu độ.
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ Hiển Linh hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc: HiểnLinh ABC170
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ Hiển Linh hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, HiểnLinh ABCtrở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi HiểnLinh ABCvẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Theo truyền thống chúng ta vẫn gọi là lễ Ba Vua. Truyền thống nói rằng họ là những vị vua dựa trên ba của lễ đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộâc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này… Thế nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định: “Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”.
Vàng còn làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội. Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh vịnh đã viết: “Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa”.
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta. Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng là môc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ: “ Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Ngài trở lại”.
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời Chúa đã phán: “ Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa ?
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở lòng ra để đón nhận Chúa, đón nhận Chúa với lòng yêu mến chân thành và cũng biết dâng tiến Chúa những lễ vật của chúng con nói lên lòng yêu mến Chúa của mình. ---------------------------------
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho lương dân, đồng thời dạy ta về cuộc hành trình của: HiểnLinh ABC171
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho lương dân, đồng thời dạy ta về cuộc hành trình của đức tin.
Từ một nơi rất xa xăm
Các đạo sĩ đã lên đường từ một nơi rất xa xăm, có lẽ là từ Ba tư. Như tổ phụ Abraham, họ phải “từ bỏ” quê hương để đến nơi xa lạ. Họ đã phải rong ruổi trong sa mạc trên lưng lạc đà, phải chịu nắng nôi và khổ cực.
Tìm Chúa như “kho tàng dấu trong ruộng” đòi hỏi phải gian khổ và từ bỏ một cái gì đó. Quả thật, các đạo sĩ đã bất chấp tất cả và cuối cùng đã tìm thấy điều mình mong mỏi.
Từ một dấu chỉ leo lét
Các đạo sĩ đã lên đường dưới sự hướng dẫn của ngôi sao lạ. Ngôi sao ấy không luôn luôn sáng, nhưng có những khi vụt tắt trên nền trời để rồi lại xuất hiện.
Dấu chỉ về Chúa vừa đủ sáng đủ tối. Đó là một nét khác của hành trình đức tin của các đạo sĩ. Nó có cái gì đó hao hao giống với cuộc đời chúng ta, như khi phải đối diện với cảnh nghèo, bệnh tật, thất bại, đau khổ, hiểu lầm…Những lúc ấy, rất nhiều người đã nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Người.
Kinh thánh soi lối dẫn đường
Khi ngôi sao lạ vụt tắt trên nền trời, các đạo sĩ đã không bỏ cuộc, họ đã tìm đến kinh thành Giêrusalem để hỏi về nơi chốn Chúa sinh ra.
Trên con đường đức tin, Kinh Thánh luôn là ánh sáng dẫn đường, bởi vì Kinh Thánh nói về Chúa Giêsu. Không thể quan niệm một cuộc sống đạo loại trừ lời Chúa. Bởi vì đây là đường lối thông thường để Chúa nói với ta và hướng dẫn cuộc đời ta.
Cộng tác với ơn Chúa
Ngôi sao dẫn đường vụt tắt rồi lại xuất hiện với các đạo sĩ giúp họ hoàn tất cuộc hành trình.
Ơn Chúa chỉ đến nếu có sự nỗ lực cộng tác của con người. Không có hi sinh và nỗ lực, ta sẽ không gặp Chúa trong đời.
Một dấu chỉ nghịch thường
Ngôi sao lạ đã dẫn các đạo sĩ đến nơi Chúa sinh ra. Họ vào nhà và gặp thấy trong máng cỏ một hài nhi. Đức Chúa đó ư ?. Chẳng có dáng dấp của một ông vua trần gian oai phong lẫm liệt. Aáy thế mà đó là một dấu chỉ về Chúa: nghèo nàn, đói rách.
Đường lối của Chúa thật ngược đời, chẳng có gì giống suy nghĩ của chúng ta!.
Đức tin phải dẫn đến sự kính thờ
Gặp được Chúa rồi, các đạo sĩ đã phủ phục kính thờ Người.
Đức tin nhất thiết phải dẫn ta tới chỗ kính thờ Chúa bằng sự phủ phục, nghĩa là tin nhận Chúa hết lòng.
Dâng Chúa những lễ vật
Không những bái thờ, các đạo sĩ còn dâng Chúa những lễ vật quí giá xứng với một vị vua: vàng, nhũ hương và mộc dược.
“Chiên béo bò tơ” thì Chúa chẳng màng đâu. Chúng ta tin Chúa nhưng đã dâng cho Người những lễ vật nào ?.
Hành trình của các đạo sĩ chính là con đường đức tin của chúng ta hôm nay.
Mở đầu một năm mới, một thiên kỷ mới lời tiên tri "Cả ngươi nữa, hỡi Belem, đất Giuđa, không lẽ: HiểnLinh ABC172
Mở đầu một năm mới, một thiên kỷ mới lời tiên tri "Cả ngươi nữa, hỡi Belem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta", chắc chắn đem lại cho mỗi người mỗi gia đình, mỗi xã hội một niềm hy vọng lớn lao.
Một năm qua, hay 2000 năm qua con người đã cố gắng hết sức mình để làm cho cuộc sống có thêm nhiều tiện nghi, và những mối tương giao an bình... nhưng xem ra thế giới càng ngày càng trở nên khó thở hơn. Trên bình diện thế giới, không chỉ một miền Trung Đông, không chỉ một Kosovo, còn có những ngòi lửa ở Đông Timor, ở chân núi Everest... luôn luôn cướp đi sinh mạng của hằng chục ngàn con người. Trên bình diện một dân tộc, một quốc gia, ngay tại miền đất văn minh trù phú và tập trung mọi thành tựu nhất hoàn vũ này: đất nước Hoa Kỳ, sau cuộc bầu cử Tổng Thống vừa qua, cũng đã phơi bày một mâu thuẫn nội tại làm tê liệt mọi niềm hy vọng... Trên bình diện gia đình: hiện tượng ly dị, phá thai, ngừa thai đã đạp đổ mọi lẽ luân thường từng là thành trì bảo vệ hạnh phúc gia đình. Do đó gia đình trở thành ngôi nhà dù có rộng lớn và lộng lẫy vẫn chỉ là ngục tù mà con người thường trốn chạy. Trên bình diện cá nhân, hơn bao giờ hết, con người cảm nghiệm được sự bé nhỏ, mỏng dòn của mình, hầu như chỉ là một hạt cát giữa sa mạc. Hạt cát ấy dầu mang bao trí huệ, bao nhiêu quyền lực cũng bị đẩy lùi vào cõi vô danh. Tôi không có qúa bi quan.
Nhưng những gì lời tiên tri đã nói về con người, về tương lai của họ đã trở nên xác thực: có một con người đã đến từ 2000 năm qua trên mảnh đất Belem ấy, Người đã trả lại cho con người niềm hy vọng vĩnh hằng. Đại Năm Thánh 2000 với từng triệu, triệu người tìm về niềm hy vọng ấy trên những mảnh đất nhỏ bé và nghèo hèn: từ Roma, đến Palestine. Mùa Giáng Sinh 2000 nơi nào cũng chật cứng những con người. Nhà thờ của Giáo Xứ Bảo Lộc cũng không còn chỗ cho từng lớp lớp người tuôn đến. Con người có cảm giác chỉ còn có thể tìm thấy hy vọng của mình nơi Đức Giêsu Kitô.
Tuy nhiên sự thật về Con Người 2000 năm ấy lại luôn mới mẻ và khó nắm bắt không như lòng người chờ mong. Bởi vì sự thật ấy như Phaolô nói có liên quan một cách hữu cơ với sự kiện "dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần với lời hứa". Cái "tam đồng" này là cái luôn mới mẻ và khó nắm bắt trong sự thật về Con Người 2000 năm qua. Tính mới mẻ và khó nắm bắt lại càng thêm cường điệu khi nếu có 3 vị Đạo Sỹ từ phương đông đến, có nhũ hương, có mộc dược, có vàng nhưng lại chỉ là những khách lữ hành đơn độc, thì lại có cả một Herôđê với tập đoàn quyền lực đạo đời trợ giúp đã dẫm nát dưới gót chân sắt mọi hy vọng dù chỉ còn là măng sữa. Hơn thế nữa, trong cái tương giao "tam đồng" ấy, con người đã giăng mắc những cạm bẫy trên mọi ngõ ngách, mà nếu không có thần sứ mộng báo, thì ngay cả những con người thiện tâm nhất cũng phải sa chân. Thành ra, sự thật về Tin Mừng, sự thật của Hy Vọng vẫn còn là Sự Thật phải vất vả kiếm tìm.
Nhưng chúng ta không phải sợ. Bởi vì, những dấu chứng của Sự Thật ấy vẫn còn trên bầu trời đầy sao, vẫn còn nơi những con tim miệt mài nghiên cứu, vẫn còn nơi cuộc sống của các Tông Đồ, các tiên tri thời đại ... nhờ Thánh Thần.
Mọi người có thể cảm nghiệm được ý nghĩa đời mình khi sống với những chứng nhân như Gioan Phaolô II, những Gioan XXIII, những Têrêxa thành Calcutta, nơi các ngài rõ ràng cái "tam đồng" kia đã mặc lấy xác phàm, và một thế giới hạnh phúc vĩnh hằng trở nên sinh động và cảm nghiệm được.
Vấn đề của chúng ta, chính là như những chứng nhân ấy kể từ 3 vị Đạo Sỹ, và phải nói kể từ Abraham, muốn len chân vào thế giới "tam đồng" này, chúng ta phải vứt bỏ lại đàng sau tất cả con người cá nhân ích kỷ, lên đường với những dấu chỉ tuy rực sáng, nhưng rất mỏng manh, mà lòng bám chặt vào sự thôi thúc của Thánh Thần. Trong cái suy nghĩ như vậy, vấn đề Truyền Giáo, một vấn đề nổi bật của ngày lễ không giới hạn trong những phương tiện, phương pháp, kỹ thuật, nhưng là một cuộc sống chính mối tương giao trong ánh sáng "tam đồng" của Tin Mừng.
Một thế giới, hai bầu trời. Một ánh sao, hai cái nhìn. Ánh sao xưa đã thúc giục các chiêm tinh: HiểnLinh ABC173
Một thế giới, hai bầu trời. Một ánh sao, hai cái nhìn. Ánh sao xưa đã thúc giục các chiêm tinh cất bước lên đường từ những miền xa xôi, hẻo lánh. Cũng ánh sao đó đã đẩy bạo chúa Hêrôđê vào bóng tối lo sợ, phập phồng. Ánh sao xưa có còn chiếu ánh sáng vào bóng tối trần gian hôm nay không ?
DÕI THEO ÁNH SAO
Sau bao năm tháng chờ đợi, các chiêm tinh đã thấy rõ niềm hi vọng trong ánh sao lạ trên bầu trời Bêlem. Ánh sao đã dẫn các vị đến thật gần. Bỗng nhiên niềm hi vọng tắt ngúm theo ánh sao băng. Tưởng chừng tất cả hi vọng đều tiêu tan. Sợ chuyến du hành mất mục tiêu, các ông vội vào yết kiến vua Hêrôđê ở Giêrusalem. Tuy là những nhà hiền triết, các ông cũng đơn sơ hỏi cáo già Hêrôđê: “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiên bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2). Có lẽ quá mải miết trong ngành chuyên môn, các ông đã không hề hay biết về tình hình chính trị quanh triều đại Hêrôđê. Lúc đó không ai ưa thích nhà vua, vì ông bị coi là kẻ thoán nghịch ngai vua Đavít. Chung quanh ông rất nhiều kẻ thù. Biết đâu những chiêm tinh này không phải là dòng dõi Do Thái đến chào mừng ấu vương có sức qui tụ dân chúng thay đổi cán cân quyền lực Rôma?
Đứng ngồi không yên vì một tin động trời do các chiêm tinh mới tung ra, vua Hêrôđê vội “triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư” (Mt 2:4) để tra cứu Kinh thánh. Cuối cùng mới biết ấu vương sinh ra “tại Bêlem, miền Giuđe”(c.5), quê hương của Jessê, thân phụ Đavít, đúng như lời ngôn sứ Mikha (5:1,3) và 2 Samuel (5:2) đã loan báo. Sấm ngôn của Balaam (Ds 24:17) cũng đá động tới một vị quân vương xuất thân từ dòng họ Giacóp. Kết quả cuộc tra tầm Thánh kinh đó càng khoét sâu nỗi lo sợ của nhà vua. Dầu thế, ông ra vẻ bình tĩnh và thành tâm nói với các nhà chiêm tinh: “Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8).
Nhờ ánh sao, khi tìm thấy Hài Nhi, các nhà chiêm tinh “liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(c.10). Khác hẳn với cáo già Hêrôđê, các ông đã thể hiện rõ tấm lòng sùng mộ thành thực đối với vị Vua tương lai. Vàng để tôn nhận quyền vua. Nhũ hương dành riêng cho Thiên Chúa. Mộc dược đặc biệt dùng trong việc mai táng. Như thế tất cả những báu vật đó đều mang tính biểu tượng nói lên căn tính và sứ mệnh của Đức Kitô (x.The Application Study Bible:1991). Cùng một sự kiện, hai thái độ khác hẳn nhau. Kẻ ở xa hóa ra gần. Người ở gần lại hóa xa. Cả một truyền thống đạo đức và Kinh thánh cũng chẳng giúp gì cho kẻ gian manh, độc ác. Chân lý chỉ dành cho những tâm hồn chân thành, dù chẳng có phương tiện nào khác ngoài thiên nhiên.
Thiên Chúa giáng sinh cứu độ muôn dân. Ánh sao của Người đã chiếu khắp vùng trời, chứ không riêng cho người Do thái. Mặc dù tràn ngập ánh sao và có đủ bằng chứng Thánh kinh soi dẫn, họ vẫn không thể đến với Vua trời đất. Đam mê quyền lực và tiền bạc đã nhận chìm họ trong “bóng tối bao trùm mặt đất” (Is 60:2). Dù trong cảnh “mây mù phủ lấp chư dân”(c.2), các nhà chiêm tinh vẫn tìm được “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”(c.1). Họ đã nghe tiếng thúc giục từ bên trong nội tâm: “Đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi”(c.1). Khi đã đạt được tất cả mộng ước, họ đã “loan truyền lời ca tụng ĐỨC CHÚA”(c.6).
ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT
Như thế không ai còn có quyền tự hào là dân riêng Chúa nữa. Trong Đức Kitô không còn phân biệt lương giáo. Chính “lương tâm là một mạc khải của Thiên Chúa”(Danielou:1956), đang điều khiển cuộc sống con người. Nhưng nhất là “trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:6). Như thế “dân ngoại và Do thái hoàn toàn bình đẳng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa” (Faley:1994).
Nhiều tổ phụ trước Abraham đã là những “vị thánh lương dân” vì họ đã sống ngay chính trước Thiên Nhan, mặc dù không biết gì về Giao Ước Chúa ký kết với Abraham và Môsê (x.Dupuis:1997). “Thư Do thái chứng nhận có thể có đức tin cứu rỗi ngoài và cả trước hệ thống tôn giáo Do thái”(Dupuis:1997). Chính vì thế ơn cứu độ luôn mang chiều kích phổ quát. Nếu bị đóng khung trong một khuôn khổ văn hóa, tôn giáo, xã hội, chắc chắn ơn cứu độ không phát xuất từ Thiên Chúa.
Bởi thế muốn mang ơn cứu độ tới muôn dân, người môn đệ Chúa Kitô cũng phải có một tầm nhìn như Thiên Chúa, Đấng không hề biết đến bất cứ một thứ giới hạn nào. Hoạt động Thánh Linh bao trùm khắp vũ trụ. Chẳng lẽ trái đất nhỏ xíu không đủ cho ánh sáng Người lan tỏa khắp nơi sao ? Theo Công đồng Vatican II, “Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận nhũng gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo. Những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết đó cũng thường đem lại ánh sáng của Chân lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người”(NA 2).
Nếu đã công nhận trong các tôn giáo khác cũng có “những gì là chân thật và thánh thiện", Giáo hội phải tôn trọng các giá trị đó. Biết bao giá trị đích thực trong các tôn giáo như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Aán giáo v.v. Tới nay, “Giáo hội giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các truyền thống này và tìm cách đối thoại chân tình với những người theo những tôn giáo đó”(ĐGH Gioan Phaolô II:1999).
Nếu không được chuẩn bị trong nền văn hóa Việt Nam nhuần nhuyễn đạo lý Khổng Phật, thử hỏi dân tộc chúng ta có sẵn sàng đón nhận Tin Mừng như thế không ? Hạt giống Tin Mừng như được gieo vào miền đất màu mỡ, được cầy bừa kỹ càng từ cả ngàn năm trước. Những đức tính bẩm sinh của dân tộc như “tinh thần bao dung tôn giáo và sống chung hòa bình” (ĐGH Gioan Phaolô II:1999) rất cần thiết để đón nhận Tin Mừng vào lòng văn hóa dân tộc. Càng ngày đạo càng thấm sâu vào sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, xã hội v.v. Chẳng hạn các đóng góp của các văn nghệ sĩ, các giáo chức, các cán sự y tế, xã hội Công giáo đang lăn xả vào mọi ngành sinh hoạt để xây dựng quê hương. Thơ nhạc ngày càng thấm nhiễm tinh thần Tin Mừng. Không biết ai đã bắt đầu gọi ngày đầu tuần là Chúa Nhật. Có lẽ đó là một Kitô hữu thuộc lòng câu truyện tạo dựng trời đất trong Sáng Thế Ký. Nói gì chăng nữa, không ai có thể chối cãi vai trò Thiên Chúa giáo trong việc sáng lập chữ Quốc Ngữ.
Nếu không có tính phổ quát, làm sao Tin Mừng có thể thấm sâu vào văn hóa dân tộc đến thế ? Tin Mừng đang gieo niềm hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn mọi người đầu thế kỷ 21. Chúng ta đã là người của thế kỷ 21 với mộng ước mang Chúa Kitô đến cho quê hương. Không ai có thể thay thế được Người vì Người là vị Cứu Chúa độc nhất. Nơi Người “dân chúng tại Á Châu gặp được câu trả lời cho tất cả những vấn nạn sâu sắc nhất của họ, hi vọng của họ được hoàn thành, nhân phẩm của họ được nâng cao và sự ngã lòng của họ được vượt thắng” (ĐGH Gioan Phaolô II:1999).
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP ---------------------------------
Thánh sử Mát-thêu viết sách Tin Mừng cho Ki-tô hữu gốc Do-thái. Do đó, ngài sử dụng rất nhiều: HiểnLinh ABC174
Thánh sử Mát-thêu viết sách Tin Mừng cho Ki-tô hữu gốc Do-thái. Do đó, ngài sử dụng rất nhiều trích dẫn từ Cựu Ước là sách quen thuộc với người Do-thái để chứng minh Chúa Giê-su thực hiện những điều nói về Người. Bắt đầu từ chương hai, Tin Mừng Mát-thêu lưu tâm tới việc nhân loại đáp lại sứ vụ cứu thế và sứ điệp của Chúa Giê-su. Những câu truyện về vua Hê-rốt với các nhà chiêm tinh Đông phương, về cuộc hành trình của Chúa Giê-su từ Bê-lem qua Ai-cập trở về Na-da-rét, đều có những trích dẫn Kinh Thánh Cựu Ước đã được đan dệt dưới ngòi bút của Mát-thêu cốt để giúp suy tư và giải thích những biến cố hiện tại. Biến cố hiện tại ấy chính là “Chúa Giê-su, Đức Vua dân Do-thái mới sinh.” Tiếp nhận và chối bỏ là hai thái độ đã được Mát-thêu diễn tả qua hai nhóm người: ông vua vô đạo cùng với triều đình Giê-ru-sa-lem của ông, và những người chân thành tìm kiếm chân lý đã từ xa tới.
Những kẻ chối bỏ Chúa Giê-su và sứ điệp của Người
Hê-rốt, một người I-đu-mê xảo quyệt và tàn ác đã trở thành vua Ít-ra-en dưới sự giám sát của chính quyền Rô-ma, và cả thành Giê-ru-sa-lem đã xôn xao trước Tin Mừng “Đức Vua dân Do-thái mới sinh.” Hê-rốt là con người rất mực đa nghi. Khi đã nghi ngờ ai, ông ta tìm mọi thủ đoạn để tiêu diệt. Ông đã giết vợ là Mariamne và bà mẹ vợ Alexandra. Cậu con cả Antipater và hai em là Alexander và Aristobulus cũng bị ông bố ám sát. Ông tàn ác đến độ Augustus, hoàng đế Rô-ma, phải nói lên: Thà làm con heo của Hê-rốt còn hơn làm con của Hê-rốt. (Đây cũng là lối chơi chữ trào phúng, vì trong Hy-ngữ, hus là con heo và huios là đứa con trai). Năm 70 tuổi, biết mình gần đất xa trời, trước khi về hưu tại Giê-ri-khô, ông ra lệnh bắt giam tất cả những công dân ưu tú của Giê-ru-sa-lem và ông muốn là khi ông chết thì những người này cũng phải chết theo! Con người đa nghi như thế làm sao ngồi yên được trước tin vua dân Do-thái mới sinh ra. Ông không yên tâm thì cả Giê-ru-sa-lem cũng không thể yên ổn. Phải tìm cho ra tung tích ông vua mới sinh và phải diệt bỏ mối đe dọa ngai vàng của ông.
Ông triệu tập các thượng tế và kinh sư lại. Sử dụng vốn liếng thần học, họ trích dẫn sách ngôn sứ Mi-kha để cho ông biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở Bê-lem.
Như thế, trước tin mừng Đấng Ki-tô mới sinh ra, Hê-rốt phản ứng theo lòng thù hận, còn các thượng tế và kinh sư thì hoàn toàn dửng dưng, máy móc và nặng phần sách vở chữ nghĩa. Tóm lại các nhà lãnh đạo Do-thái, đạo cũng như đời, đã bắt đầu một âm mưu chống đối Chúa Giê-su và sứ vụ cứu thế của Người, đưa tới cuộc Thương khó mai sau.
Những người chân thành tìm gặp Đấng Cứu Thế
Các nhà chiêm tinh đến từ Đông phương đã được một vì sao nhiệm mầu hướng dẫn. Hành trình tâm hồn của họ đi từ việc truy cứu thiên nhiên tiến đến ngưỡng cửa đức tin. Nhờ kiến thức và Kinh Thánh của người Do-thái, nhất là nhờ chính Thiên Chúa dẫn dắt, họ đã đến được Bê-lem mà thờ lạy Chúa Giê-su (câu 10-11). Phản ứng của họ trước tin mừng Đấng Ki-tô mới sinh ra là phản ứng của thờ lạy, muốn để lại dưới chân Người tất cả những gì đối với họ là quý giá nhất.
Câu truyện sách Tin Mừng Mát-thêu kể lại về việc Ít-ra-en chối từ trong khi Dân ngoại tiếp nhận Đấng Cứu Thế mở đầu cho cuộc đời công khai của Đức Ki-tô cũng là một thách đố lựa chọn của mọi người mọi thời. Những Hê-rốt, thượng tế, kinh sư của thời đại hôm nay không hẳn chỉ là những người đối lập với Chúa Ki-tô, nhưng cũng có thể là chính ta nữa. Mặc dù đã được ơn lãnh nhận đức tin, ta vẫn phải tiếp tục con đường của những nhà chiêm tinh Đông phương mà xác tín được con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su.
Sứ điệp thánh Mát-thêu muốn gửi đến chúng ta: Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế Trở lại với cách trích dẫn và sắp xếp câu truyện, ta có thể nhận ra điều thánh Mát-thêu muốn ta xác tín. Sách Xuất Hành (chương 22-24) kể lại một biến cố ly kỳ. Ông Mô-sê lo lắng vì vua Ba-lác gian ác đã cho “mời ông Bi-lơ-am đến từ đồi núi phía đông” (Ds 23:7) để chúc dữ và nguyền rủa dân Chúa. Nhưng Bi-lơ-am đã từ chối không làm theo như vua Ba-lác muốn, thay vì nguyền rủa thì lại chúc lành cho dân Ít-ra-en và ông đã đọc sấm ngôn như sau: “Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc; tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên; một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24:17). Sau này, truyền thống Do-thái coi “vì sao” ấy là Đấng Ki-tô.
Câu truyện Cựu Ước này Mát-thêu muốn dùng để giải thích câu truyện Chúa Giê-su. Vua Hê-rốt đâu khác gì một thứ vua Ba-lác, muốn tìm cách ngăn cản quyền năng cứu chuộc của Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su là ông Mô-sê mới, Đấng sẽ cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Các nhà chiêm tinh Đông phương cũng giống như Bi-lơ-am, từ phương Đông tới làm chứng cho vương quyền bất diệt của Thiên Chúa nơi Đấng Ki-tô.
Suy nghĩ và cầu nguyện
Chúa luôn luôn muốn tỏ mình ra cho mọi người mọi thời và mọi nơi. Người dùng những dụng cụ là chính chúng ta. Vậy tôi đã làm dụng cụ để người khác được biết về Chúa như thế nào?
Những thượng tế và kinh sư đã dửng dưng khi trích dẫn Kinh Thánh nói về Đấng Ki-tô. Còn thánh Giê-rô-ni-mô thì nói: Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô. Tôi có cùng một thái độ như thế không? Kinh Thánh có thực sự giúp tôi lập một mối quan hệ mật thiết với Chúa Ki-tô không? Tôi sẽ có chương trình giúp mình nhờ Kinh Thánh mà biết Chúa Ki-tô?
Tôi có thể tìm hiểu thêm ý nghĩa những lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược không? Tôi có gì để dâng cho Chúa? Tại sao?
“Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến. Xin đừng mỉm cười mà nói rằngChúa đã ở bên chúng con rồi. Có cả triệu người chưa biết Chúa. Nhưng biết Chúa thì được cái gì? Chúa đến để làm gì nếu đời sống con cái của Chúa cứ tiếp tục y như cũ? Xin hoán cải chúng con. Xin lay chuyển chúng con. Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt của chúng con, trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con. Ước gì sứ điệp đó lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại, và đòi buộc chúng con, làm chúng con không yên. Bởi vì chỉ như thế, sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa, thứ bình an khác hẳn, đó là Bình An của Chúa.”
Bầu trời xem ra như vẫn có muôn vàn tinh tú đang lấp lánh và hình như vẫn có một ngôi sao lạ: HiểnLinh ABC175
Bầu trời xem ra như vẫn có muôn vàn tinh tú đang lấp lánh và hình như vẫn có một ngôi sao lạ đâu đó đang dẫn đường cho những kẻ thành tâm thiện chí đến Bêlem để thờ phượng, cung chiêm Hài Đồng Giêsu. Năm xưa cũng như nay, ba nhà đạo sĩ phương Đông vẫn dõi theo ánh sao để tìm gặp Đấng Cứu Thế Giêsu. Các mục đồng đêm Giáng Sinh chỉ đơn thuần đến thờ lạy Chúa, dâng cho Ngài đôi lễ vật đơn sơ. Những chú mụcđồng khó nghèo, rách rưới không có vàng, hương và mộc dược. Họ chỉ có tấm lòng và rồi người trước, kẻ sau, người giầu, người nghèo, kẻ sang, kẻ hèn đã tiếp bước tới thờ lạy Chúa Giêsu. Đó là hình ảnh của Hội Thánh chúa Kitô ở trần gian gồm mọi thành phần xã hội, gồm đủ mầu da, tiếng nói.
CHÚA TỎ MÌNH RA CHO MỌI NGƯỜI KHÔNG PHÂN BIỆT BẤT CỨ AI:
Việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại được thánh Matthêu tường thuật cách tỉ mỉ, chi tiết trong Tin Mừng của Ngài. Muốn hiểu việc Chúa được đón nhận ra sao, chúng ta phải đặt mình trong hoàn cảnh của Tin Mừng kể lại. Quả thực những Kitô hữu đầu tiên đều là những người Do thái cũ trở lại. Họ có cái nhìn khép kín về đạo, về ơn cứu độ. Họ cứ tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ được tặng ban cho người Do Thái và Chúa Giêsu cũng chỉ là món quà quí giá Thiên Chúa trao ban cho dân tộc Do Thái mà thôi. Họ chưa ra khỏi quan niệm khép kín, cục bộ để hiểu rằng ơn cứu độ được Chúa ban cho mọi người. Thánh Matthêu là một người Do Thái làm nghề thu thuế, một cái nghề bị xã hội Do Thái khinh miệt, cho là tội lỗi vì làm tay sai cho ngoại bang, bóc lột nhân dân, bóc lột người đồng hương. Bị khinh khi, loại trừ nhưng thánh Matthêu được Chúa chọn làm tông đồ. Chúa yêu thương Matthêu như ông Giakêu, như người phụ nữ ngoại tình, như người nữ bên bờ thành giếng Giacóp. Ơn cứu độ được ban cho mọi người, mọi dân tộc trên thế giới. Các mục đồng xưa là người Do Thái đang canh giữ đàn chiên ngoài đồng không, mông quạnh, đã nghe lời loan báo của các Thiên Thần,tới kính bái Ngôi Hai làm người và rồi dõi theo ánh sao lạ dẫn đường ba nhà đạo sĩ phương Đông cũng tới thờ lạy Hài Đồng Giêsu. Do đó, lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại và cho mọi người.
VẤN ĐỀ LÀ LÀM SAO NHẬN RA NGÔI SAO LẠ:
Tin Mừng của thánh Matthêu thuật lại câu chuyện ba vị đạo sĩ ngoại quốc từ phương Đông nhận ra ánh sao và dõi theo ánh sao lạ để tới Bêlem thờ lạy Chúa Hài Đồng Giêsu với những lễ vật quí giá: vàng, nhũ hương và mộc dược.Thánh Matthêu cũng muốn gợi lên cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Bầu trời lúc đó quả có nhiều sao và ngôi sao lạ vẫn có đó nhưng biết bao nhiêu người giờ đó, lúc đó nào đâu có nhận ra ánh sao lạ lùng, đặc biệt là những kinh sư, các biệt phái, các nhà thông luật nào đâu có nhận ra ánh sao khác thường.
Họ đóng kín cửa lòng, đóng kín con tim để không bao giờ có thể nhận ra dấu chỉ tìm kiếm Đức Giêsu. Hêrôđê lại càng rối mù khi nghe các nhà đạo sĩ thuật lại ánh sao lạ và rồi khi nghe những nhà chiêm tinh mách bảo vua về một ngôi sao lạ lùng, và nhất là khi thấy các nhà đạo sĩ không quay trở lại báo cáo cho ông về Hài Nhi Giêsu, vua Hêrôđê lại càng bối rối, lại càng ích kỷ, sợ mất ngôi, mất chức thay vì tìm kiếm ánh sao để đến gặp gỡ Giêsu, ông lại càng mù và mù hơn nữa để ra chiếu chỉ giết sạch các con trai đầu lòng của người Do thái ở Bêlem và các vùng phụ cận. Vâng, bầu trời ngày nay nhiều đêm cũng lấp lánh, dát đầy sao, nhưng thử đã mấy ai nhận ra những dấu chỉ để đến cung chiêm Giêsu hoặc nhận ra những chân lý mà Thiên Chúa muốn vén lộ, tỏ bầy ra cho chúng ta, hoặc ý Chúa phải thực hiện bằng tình yêu thương bác ái đối với những người chúng ta gặp gỡ mỗi ngày. Những ngôi sao lạ vẫn là chúng ta tìm ra sự có mặt của Thiên Chúa nơi mọi biến cố, nơi mọi người chúng ta đang gặp gỡ. Trình thuật của thánh Matthêu về ba nhà đạo sĩ và cuộc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu ngang qua ánh sao lạ vẫn còn cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Ba nhà đạo sĩ đã gặp được Chúa, họ không trở lại với Hêrôđê, không trở lại con đường cũ, con đường hận thù, con đường gây tội ác nữa. Ngày nay, được làm con Chúa, được đổi mới chúng ta đừng quay lại con đường cũ, con đường tội lỗi nữa mà chúng ta hãy thẳng tiến trong niềm tin để tiến bước.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã cho ánh sao lạ dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ tới tìm gặp Chúa, xin Chúa hãy mở lòng chúng con để chúng con luôn sẵn sàng nhận ra Chúa nơi mọi biến cố của cuộc đời
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là một kế hoạch được chuẩn bị, loan báo và thực hiện hoàn: HiểnLinh ABC176
Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là một kế hoạch được chuẩn bị, loan báo và thực hiện hoàn hảo. Phụng vụ của Giáo Hội trình bày kế hoạch ấy theo từng bước. Mùa Vọng giúp ta nhận ra Thiên Chúa chuẩn bị kế hoạch như thế nào. Đêm Giáng Sinh là khởi điểm của kế hoạch được thực hiện ngay trong lịch sử nhân loại. Rồi sứ thần đã loan báo trước hết cho người Do-thái: “Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Trong lễ Hiển Linh, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi ta suy ngắm việc Chúa loan báo ơn cứu độ cho dân ngoại.
Thiên Chúa tỏ mình ra “trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng”
Hiển Linh nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Thánh Phao-lô đã gọi việc Chúa tỏ mình ra cho ta là “kế hoạch ân sủng”, tức là kế hoạch để Thiên Chúa ban cho ta “mầu nhiệm Chúa Ki-tô”, hoặc nói theo thánh Gio-an là Thiên Chúa ban cho ta “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Ngôn từ khác nhau, nhưng tất cả đều nói về duy một Chúa Giê-su Ki-tô. Người vừa là nội dung vừa là hình thức của những gì Thiên Chúa muốn cho ta biết. Chúa Ki-tô là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa, như ta đọc trong lời mở đầu thư gửi tín hữu Do-thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:1-2).
Chính thánh Phao-lô đã ý thức ngài và các tông đồ khác đã được Thiên Chúa cho biết kế hoạch ân sủng và Người trao cho các ngài sứ mệnh phải rao giảng cho muôn dân về mầu nhiệm Đức Ki-tô. “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:6). Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa tỏ cho ta biết rằng Người muốn cho tất cả nhân loại, dân ngoại cùng với Do-thái, được “cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”, nghĩa là cùng được lãnh nhận ơn cứu độ.
Động lực khiến Thiên Chúa muốn cứu độ ta là vì Người yêu thương ta. Tình yêu ấy được biểu hiệu bằng một ngôi sao dẫn đưa các vị đạo sĩ từ phương Đông đến chiêm bái Tình Yêu bằng xương bằng thịt là Hài Nhi Giê-su. Nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa đối với ta, đó là mục tiêu cốt lõi của việc Hiển Linh. Cho nên các vị đạo sĩ trong nỗ lực nhận biết tình yêu của Chúa, “họ mừng rỡ vô cùng, vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người”. Tâm tình mừng rỡ ấy cũng phải là tâm tình của ta hôm nay. Thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng, đã chia sẻ: “Anh em thân mến, được biết các mầu nhiệm ân sủng này của Thiên Chúa, chúng ta hãy hân hoan mừng ngày khởi đầu của chúng ta, ngày Chúa bắt đầu kêu gọi các dân tộc. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa nhân hậu, vì theo lời thánh Phao-lô tông đồ, Người đã làm cho chúng ta nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Con yêu quý của Người” (Kinh Sách, lễ Hiển Linh).
Đón nhận và đáp trả tình yêu Thiên Chúa “trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng”
Chúa Giê-su là môi trường giao lưu giữa Thiên Chúa với ta. Trong Người, Thiên Chúa hiến mình cho ta thì trong Người, ta cũng phải mở lòng đón nhận Thiên Chúa như vậy. Cử chỉ dâng tiến của các vị đạo sĩ mang một ý nghĩa hết sức sống động. Những lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược không phô trương sự sang trọng giàu có của họ, nhưng là những biểu hiệu họ dùng để tôn vinh Hài Nhi Giê-su là Thiên Chúa thật làm người. Họ muốn dùng chút lễ mọn ấy để biểu dương sứ mệnh và chức phận của Chúa Ki-tô. Mở bảo tráp cũng giống như mở rộng hết tâm hồn, là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn (Mt 22:37).
Nhân loại vẫn thắc mắc: Làm sao tôi nhận biết Thiên Chúa? Thiên Chúa là ai? Thiên Chúa làm gì cho tôi? Thiên Chúa muốn tôi làm gì?... Bao nhiêu câu hỏi như thế, ta chỉ có thể trả lời với điệp khúc: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng. Chẳng vậy mà Chúa Giê-su đã khẳng định với tông đồ Phi-líp-phê: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9).
Chúa Ki-tô là mức đo lường tình yêu Thiên Chúa dành cho ta. Do đó, thánh Gio-an luôn hãnh diện lập đi lập lại cùng một tư tưởng thâm sâu này: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Sau lễ Hiển Linh và lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa, ta lại bước vào Mùa thường niên. Phụng vụ Lời Chúa sẽ cho ta cơ hội để nhìn xem những việc Chúa Giê-su làm, lắng nghe những lời Người giảng, học làm môn đệ Người và thay đổi lối sống của ta theo lối sống của Người. Cũng trong bài giảng lễ Hiển Linh, thánh giáo hoàng Lê-ô Cả đã nhắn nhủ ta: “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân. Chúng ta biết rõ rằng những điều nói trên đã được thực hiện khi một ngôi sao dẫn đường cho ba nhà chiêm tinh... Ngôi sao này khích lệ chúng ta noi theo gương vâng phục: tức là nỗ lực sống theo ơn thánh, ơn mời gọi mọi người đến với Đức Ki-tô”. Đến với Đức Ki-tô là lời gọi của ánh sao. Cũng như các nhà chiêm tinh đã theo ánh sao, ta sẽ cố gắng đáp lại lời gọi hãy đến với Đức Ki-tô để bước vào hành trình cứu độ Người muốn ta đồng hành tiến về quê hương vĩnh cửu.
Suy nghĩ và cầu nguyện
Trong Hài Nhi Giê-su, Thiên Chúa yêu thương nhân loại vô điều kiện. Đứng trước tình yêu ấy, tôi đã có những tâm tình nào? Tôi thực sự cảm nghiệm Chúa thương và muốn cứu độ tôi? Hay chỉ là một điệp khúc chữ nghĩa quá quen thuộc đến nỗi lập đi lập lại như vẹt mà không hề để ý đến ý nghĩa sâu xa và thực tế của nó? Lễ Hiển Linh có thực sự là cơ hội để tôi xác tín lại rằng Chúa thương tôi và muốn cứu tôi không?
Trước khi gặp được Hài Nhi, các nhà chiêm tinh đã gặp vua Hê-rô-đê. Sau khi gặp Hài Nhi, họ được báo mộng đừng trở lại gặp Hê-rô-đê nữa. Vậy Hê-rô-đê biểu tượng cho điều gì? Gặp gỡ với Chúa Giê-su, lối sống của tôi có còn “ngựa theo đường cũ” nữa hay không?
Tôi đã sẵn sàng lên đường làm môn đệ Chúa Giê-su chưa? Tôi có chương trình nào để nghe và sống Lời Chúa trong Mùa thường niên này?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ. Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống. Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất. Lạy Chúa Giê-su, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con. Xin làm cho con thật đầy ắp, để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn có chỗ trong con. Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi. Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 2) ---------------------------------
Mt 2,1-12: 1 Khi Đức Giêsu được sinh ra tại Bêlem, miền Giuđê trong thời vua Hêrôđê, có mấy nhà chiêm tinh từ phương đông đến Giêrusa-lem, 2 và hỏi: “Đức Vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu? Vì chúng tôi đã thấy vì sao của Người bên phương Đông, và chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe thế, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem với ông. 4 Triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư của dân lại, ông hỏi họ Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời ông: “Tại Bêlem trong miền Giuđê, vì đã được các ngôn sứ viết rằng: 6 “Phần ngươi, hỡi Bêlem, hỡi đất miền Giuđa, ngươi chẳng nhỏ bé nhất giữa các lãnh tụ của Giuđa; vì tự ngươi sẽ xuất phát một lãnh tụ chăn dắt Israel dân của Ta.” 7 Bấy giờ Hêrôđê bí mật gọi các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ họ về thời giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi và dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi và nầy ngôi sao họ đã thấy ở phương đông, đi trước họ đến khi nó dừng lại trên nơi Hài Nhi ở. 10 Khi trông thấy ngôi sao bên phương đông, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Khi đến nhà, họ thấy Hài Nhi với Maria, thân mẫu của Người, họ sấp mình thờ lạy Người. Rồi mở bảo tráp của họ, họ dâng Người lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược. 12 Sau đó được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, họ đã đi lối khác mà về xứ mình.
Đoạn 2:1-12 nằm trong trình thuật lớn về sự giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu (1:1-2:23): HiểnLinh ABC177
Đoạn 2:1-12 nằm trong trình thuật lớn về sự giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu (1:1-2:23). Trước đoạn nầy là câu chuyện giáng sinh (1:18-25) và sau đó là chuyện trốn chạy sang Ai cập (2:19-23). Đoạn 2:1-12 được đóng khung bởi sự kiện các nhà chiêm tinh tìm đến Giêrusalem (2:1) và các ông đi khỏi đó (2:12). Đoạn 2:1-12 có thể phân chia như sau: 1- Bối cảnh và câu hỏi nhập đề của các nhà chiêm tinh (2:1-2); 2- Gặp gỡ Hêrôđê tại Giêrusalem (2:3-9a); 3- Gặp gỡ Hài Nhi ở Bêthlehem (2:9b-12). Cách phân đoạn nầy dựa trên sự phân bố của chữ “sấp mình thờ lạy Người” (2:2.8.11).
Câu nhập đề về việc giáng sinh của Chúa Giêsu (2:1) liên kết đoạn nầy với đoạn trước, mặc dù Matthêô không mô tả chi tiết về việc ấy (x. 1:18-25; Lc 2:1-7). Sau khi giới thiệu tên “Giêsu”, Matthêô sẽ xác định ngay trong câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh là: “vua của người Do thái mới sinh”, để đối lại với “vua Hêrôđê” được nhắc qua như làm nền lịch sử cho sự xuất hiện của Người (2:1b). Matthêô còn ghi nhận cách đặc biệt là “Bêthlêhem trong miền Giuđa” (x. 2:1.5.6), để ám chỉ Hài Nhi mới sinh ra tại đó mới là vua thật của dân Israel, chứ không phải là Hêrôđê đang trị vì trên đó. Đối chọi với Bêthlêhem bé nhỏ (2:1.5.6.8) là Giêrusalem rộng lớn, nhưng đứng về phía Hêrôđê (2:1.3). Hành động bắt đầu với sự xuất hiện của ba nhà chiêm tinh và câu hỏi của các ông ấy (2:2b). “Magos” là những người khôn ngoan, chuyên nghiên cứu tinh tú, sự xuất hiện và vận động của các hành tinh để giải thích những chuyện ảnh hưởng trên thế giới con người. Ở đây, họ đã khám phá “vua dân Do thái mới sinh ra” nhờ nhận ra một vì sao đáng chú ý xuất hiện. Do đó, “magos” có thể dịch là nhà chiêm tinh, thay vì “ba vua” hay “đạo sĩ”.
Khung cảnh của đoạn 2:3-9a là tại Giêrusalem. Tất cả tập trung chú ý vào phản ứng và hành động của Hêrôđê khi ông đứng trước câu hỏi của các nhà chiêm tinh. Hành động của ông đi từ thái độ bối rối (2:3) đến âm mưu giết vị vua mới sinh (2:8), sẽ được trình bày trong đoạn kế tiếp (2: 13-18). “Cả thành Giêrusalem” cùng đứng về phía ông mà sợ hãi và chống lại Hài Nhi. Điều nầy cho thấy sự trầm trọng của vấn đề. Giêrusalem là nơi Người sẽ gặp phải sự chống đối (15:1) và là nơi mà “vua dân Do thái” phải chết (x. 16:21; 20:17). “Họp lại” là động từ thường dùng cho giới lãnh đạo Do thái: thượng tế, kỳ lão, các Pharisêô, luật sĩ. Họ thường họp nhau lại để bàn tính chuyện chống lại Chúa Giêsu (x. 22:34.41; 26:3.57; 27:62; 28:12). Còn dân chúng ở Giêrusalem thì sẽ tuyên bố chịu trách nhiệm việc đổ máu Người trên họ và trên con cháu của họ (27:25). Như thế, Matthêô cho một dấu hiệu tiên báo cuộc tử nạn của Người. Câu trích dẫn của Matthêô có những thay đổi đáng kể theo ý định của ông (x. Mic 5:1 và 2 Sam 5:2): - dùng “miền đất Giuđa” để liên kết Hài Nhi với tổ phụ Giuđa, từ đó dòng tộc Đavít phát sinh (1:1-2); - dùng thể phủ định “ngươi chẳng nhỏ bé nhất giữa các lãnh tụ của Giuđa” để khẳng định sự trổi vượt của thủ lãnh phát xuất từ đó, thay vì sự so sánh về kích thước và dân số; - liên kết với câu trích dẫn 2 Sam 5:2 để chỉ vị thủ lãnh xuất phát từ Bêthlêhem cũng là người chăn dắt dân Israel. Hêrôđê tính tuổi của Hài Nhi bằng cách cặn kẽ hỏi các nhà chiêm tinh về thời gian ngôi sao xuất hiện (2:7.16). Bởi đó, ông đã quyết định cho hạ sát trẻ con từ hai tuổi trở xuống (2:16). Đến lúc nầy, chân dung của Chúa Giêsu đã được xác định khá rõ ràng. Từ “Giêsu” được nêu lên cách khách quan ngay từ đầu (2:1), được xác định thêm là “vua dân Do thái” (2:2), rồi “Đức Kitô”. Tiếp theo đó là “thủ lãnh”, rồi là “mục tử của dân Israel” (2:6). Và hơn hết, chính sự sấp mình bái lạy của các nhà chiêm tinh cho biết Người chính là Chúa của mọi dân (2:11). Vậy, nhờ tra cứu Sách Thánh các nhà chiêm tinh đã được sáng tỏ về Đấng các ông đang tìm kiếm; trong khi Hêrôđê sợ hãi về sự thật nầy và âm mưu tiêu diệt nó.
Ánh sao lại xuất hiện và dẫn đường các nhà chiêm tinh trong phần thứ hai của hành trình tìm Hài Nhi (2:9b-12). Điều đáng chú ý là điểm đến tương ứng với điểm khởi hành: cùng một “ánh sao bên phương đông” (2:2.9b) dẫn đi và dẫn đến dừng lại trên nhà của Hài Nhi; tuy nhiên, điểm đến gặp Hài Nhi mới là điểm khởi đầu của các nhà chiêm tinh. Niềm vui lớn lao vô cùng của các nhà chiêm tinh được diễn tả trong cách nói theo từng chữ là “Họ vui mừng trong niềm vui lớn lao quá chừng”. Niềm vui nầy được nhắc đến nhiều trong những trình thuật giáng sinh (x. Lc 1:14. 44. 46; 2:10.14. 20); đồng thời đó cũng là niềm vui của những người tìm được kho tàng ẩn dấu (13:44) và ơn cứu độ (5:12; 25:21.23). Các nhà chiêm tinh đã đạt đến đích. Ba hành vi diễn ra liên tục: họ thấy, bái mình và dâng lễ vật (2:11). Sấp mình bái lạy Hài Nhi và dâng Người lễ vật (x. Is 60:6) là bày tỏ sự lệ thuộc và nhận biết Người là Chúa của họ (4:10; 14:33), cũng là Đấng Kitô (1:1; 2:5). Kết thúc, lần nữa Thiên Chúa hướng dẫn hành trình của họ về xứ sở của họ và âm mưu của Hêrôđê bị đổ vỡ.
Con Thiên Chúa sinh ra cho mọi người. Có người thành tâm đi tìm kiếm Người, mà cũng có người chối bỏ và tìm cách tiêu diệt Người. Tuy nhiên, vì Người là Vua, nên mọi người đều phải sấp mình bái lạy Người.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến ---------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 2:1-12)
Câu truyện HiểnLinh ABCđi tìm Chúa Hài Đồng để thờ lạy đã quá quen thuộc với chúng ta, quen: HiểnLinh ABC178
Câu truyện HiểnLinh ABCđi tìm Chúa Hài Đồng để thờ lạy đã quá quen thuộc với chúng ta, quen đến độ chúng ta không mấy để ý tới câu truyện ấy muốn nói với chúng ta điều gì nữa. Thực ra ý nghĩa câu truyện thật phong phú và dạy chúng ta nhiều bài học. Nhưng điều làm chúng ta ngạc nhiên nhất có lẽ là hành trình đến gặp Chúa của ba vị Đạo sĩ, bởi vì hành trình ấy nhiều khi rất giống với hoàn cảnh của chúng ta.
Thánh Mát-thêu thường kể truyện Chúa Giê-su với nhiều chi tiết tỉ mỉ. Những lời nói và hành vi của ba Đạo sĩ có thể giúp chúng ta nhận ra được cuộc hành trình đi tìm Chúa của họ. Cuộc hành trình của họ bắt đầu từ lúc nào và ra sao trước khi họ tới Giê-ru-sa-lem thì chúng ta không rõ. Nhưng tại Giê-ru-sa-lem, hành trình ấy đã diễn tiễn thế nào đều đã được thánh Mát-thêu ghi lại đầy đủ. Chúng ta có thể suy nghĩ về hành trình ấy như sau:
- Mục đích của hành trình: Khi lên đường, các Đạo sĩ đã có mục đích, nhưng đến Giê-ru-sa-lem họ mới tuyên bố. Vua người Do-thái mới sinh… và chúng tôi đến để triều bái Người. Thật kỳ lạ. Họ là những người Dân ngoại ở Đông-phương mà lại đến triều bái vua người Do-thái, hơn nữa lại là vị vua mới sinh ra! Rõ ràng đây là việc làm của Chúa Giê-su, Thiên Chúa giáng trần. Người muốn tỏ mình ra cho Dân ngoại, cũng như Người sẽ tỏ mình ra cho dân Do-thái khi chịu phép rửa của ông Gio-an tại sông Gio-đan và cho các môn đệ tại tiệc cưới Ca-na. Dĩ nhiên lúc nào Chúa cũng muốn tỏ mình ra cho chúng ta, qua tất cả những dấu chỉ to nhỏ trong cuộc sống hằng ngày. Do đó, đến gặp Chúa cũng là mục đích hành trình trần thế của chúng ta.
- Hành trình đòi hỏi nhiều cố gắng và tìm hiểu: Khó khăn trước khi họ tới Giê-ru-sa-lem là điều chắc chắn vì đường xa hiểm trở. Nhưng gần đến đích điểm, họ vẫn phải tìm tòi hỏi han. Theo lý giải bình thường, vua mới sinh phải là ở nơi đền vua, nên các Đạo sĩ đã tới gặp và hỏi vua Hê-rốt. Vua hỏi các vị lãnh đạo tôn giáo. Sau khi tra cứu Kinh Thánh họ cho nhà vua biết địa điểm vua mới sinh ra là Bê-lem. Được vua cho biết, các Đạo sĩ lên đương đi Bê-lem. Hành trình gặp gỡ Chúa của chúng ta đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu, qua cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, sống và làm chứng đức tin…
- Ngôi sao dẫn đường: Và kìa, ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài nhi ở. Không phải là ngôi sao đứng yên một chỗ và lấp lánh trên bầu trời đêm, nhưng là ngôi sao “biết đi”. Thật là sống động. Họ vui mừng với ngôi sao ấy. Ngôi sao đức tin của chúng ta cũng phải “biết đi” như thế, chứ không thể nằm bất động, như thánh Gia-cô-bê nói: Đức tin không biểu lộ bằng hành động là đức tin chết. Rồi chúng ta cũng vui mừng với đức tin của chúng ta nữa chứ!
- Họ đã quì gối xuống, sụp lạy Người: Quì gối và sụp lạy là hành vi biểu lộ đức tin và lòng thờ phượng Thiên Chúa. Trong đời ba Đạo sĩ, đây là lần đầu tiên họ biểu lộ hành vi thờ phượng đối với một Hài nhi kỳ lạ. Họ đã đạt mục đích của hành trình đức tin. Đức tin không biểu lộ bằng cái đầu suy nghĩ, nhưng bằng đầu gối quì xuống. Càng khiêm nhượng, đức tin càng mạnh. Gương của Mẹ Ma-ri-a cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Hành vi của các Đạo sĩ nhắc chúng ta hãy nhìn lại đức tin của chúng ta, mà nền móng là lòng khiêm nhượng đích thực.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Ba vị Đạo sĩ nhận được lời mộng báo “đừng trở lại với Hê-rốt”, họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình. Cũng như họ, chúng ta gặp gỡ Chúa rồi thì đừng trở lại với con đường tội lỗi, nhưng hãy đi con đường thánh thiện mà làm chứng cho Chúa trong đời sống thường ngày.
Chúa hiển linh là lễ ghi nhớ việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, được ba nhà đạo sĩ đại diện: HiểnLinh ABC179
Chúa hiển linh là lễ ghi nhớ việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, được ba nhà đạo sĩ đại diện. Hình ảnh HiểnLinh ABCtrên lưng lạc đà cùng nhau nhìn về hướng ánh sao phương đông đã trở thành một biểu tượng đầy thi vị trong tâm hồn tuổi thơ khi mùa Giáng sinh trở về.
Ngày xưa, Chúa tỏ mình ra cho Ba vua, nhưng thử hỏi:
Ngày nay, Chúa đã tỏ mình ra cho riêng tôi chưa?
Nói các khác tôi đã nhận ra Ngài trong tham dự vào trong cuộc đời sống đạo của tôi chưa?
Làm cách nào tôi cảm nhận được giây phút Ngài tỏ mình cho tôi? – giây phút lịch sử, xảy đến rất bất ngờ - khiến cho tôi thay đổi lối nhìn về Chúa, về đạo, về tôn giáo về trần gian.
Giây phút đổi mới cuộc đời – lột xác từ con người cũ mong manh, mang kiếp sâu bọ để biến thành con người mới lung linh rực rỡ như cánh bướm mùa xuân.
Chúng ta cùng nhau đọc lại Lời Chúa hướng dẫn:
Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.
Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến.
Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy." (Ga 14:21)
Ta thấy đó, điều kiện để Chúa tỏ mình ra rõ ràng là dành cho Ai có và giữ các điều răn của Thầy.
Vậy tôi có điều răn Chúa không?
Ồ, ai mà chẳng có. Mười điều răn Đức Chúa Trời, một cuốn Tân Ước, thậm chí cả cuốn Kinh Thánh trọn bộ Tân-Cựu Ước. Nhưng thường để chưng trong tủ kiếng – chứng tỏ mình là người có đạo nhưng cả năm không bao giờ đụng đến.
Siêng năng hơn, là thành viên trong một cộng đòan nào đó, chúng ta đọc Kinh Thánh mỗi ngày, chia sẻ Lời Chúa với nhau hang tuần, nhưng tiếc một nỗi, chúng ta chia sẻ Lời Chúa như những ông mù sờ voi – toàn là cắt nghĩa Lời Chúa, tòan là tưởng tưởng mình đang nói về một ông Chúa uy linh, cao sang trên chín tầng trời.
Thành thử ra sau hơn mười năm sinh hoạt trong cộng đòan, thậm chí chúng ta leo lên cấp bậc huynh trường cao cấp, thế mà đời sống tâm linh chúng ta vẫn còn trong trình độ mẫu giáo.
Lý do đơn giản như sau: chúng ta chỉ có các điều răn của Thầy, nhưng lại không giữ các điều răn ấy!!! Giống y như các kinh sư thời Hêrôđê, khi các nhà đạo sĩ hỏi Vua Do thái sinh ra ở đâu. Nhanh như cắt, với niềm tự hào ngút trời rằng mình có điều răn Chúa – lập tức, các thày giở Kinh Thánh ra, đọc vanh vách lời ngôn sứ Mikha 5:1
Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en. nhưng đáng tiếc là các thày lại không giữ - tức là không thực hiện bằng cách lên đường kiếm tìm. Các ông chỉ thích kiếm tìm trong sách vở, trong lý thuyết mà thôi.
Thế nào là Giữ điều răn của Chúa?
Giữ ở đây trước hết là gìn giữ. Tức là để Lời Chúa lắng đọng, thấm vào lòng mình như mảnh đất màu mỡ theo gương Đức Maria thủa xưa: Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.(Lc 2:19).
Không như những trường hợp hạt giống Lời Chúa rơi trên vệ đường, rớt vào bụi gai. Nghe xong, phấn khởi và quyết tâm theo kiểu hò lơ phong trào, căng biểu ngữ với những lời vang dội như tiếng kèn thúc quân ra trận trong hào khí ngợp trời: Ra khơi.
Nhưng ngay tuần sau đã đánh trống bỏ dùi. Đâu lại hoàn đấy. Mạnh ai nấy trở về với lối sống mòn muôn thủa của mình….
Chỉ có những ai tâm tâm niệm niệm – tức là niệm bằng tâm, Lời Chúa mới có thể từ từ thấm dần, thấm dần vào lòng mình theo tháng ngày …tới độ chín mùi, Lời Chúa sẽ biến thành sức sống mãnh liệt. Lúc đó chúng ta mới nhớ lại lời Đức Giêsu tuyên bố:
Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.(Ga 6: 63)
Khi nào Chúa mới chịu tỏ mình ra cho ta? – Chúa mới hiển linh trong ta?
Sau một thời gian – 6 thanhg1, 1, 2, 3 năm..Lời Chúa thấm vào trong ta, ta vẫn chưa nhận ra Ngài – Nhưng ta cứ miệt mài kiếm tìm qua người giờ phút gặp gỡ anh em, chia sẻ cho nhau những khám phá từ Lời Chúa, đặc biệt là những phút thinh lặng riêng tư để Ngắm nhìn Ngài trong tâm ta – một gương mặt vô hình tướng…
Trong giai đoạn này, những khám phá mới xảy ra hàng tuần. Chúng ta phấn khởi trao cho nhau những kinh nghiệm quý báu. Đó là một cuộc hành trình tâm linh thú vị giống như các nhà đạo sĩ thời xưa. Chắc hẳn các ông cũng đã thích chí khi bắt gặp ánh sao lạ, nhưng cũng có những lúc các ông hoang mang khi ánh sao biến mất. Chúng ta sẽ cũng có lúc chới với như lạc giữa khu rừng âm u mịt mù. Không biết con đường tìm kiếm chân lý này sẽ dẫn ta tới bờ bến nào?!!
Nhưng rồi Lời Chúa chắc chắn sẽ xuất hiện đúng lúc để khai mở cho chúng ta. Cho tới một lúc nào đó bất chợt ta nhận ra khuôn mặt đích thực của Ngài. Khuôn mắt này rất huyền nhiệm.
Có người nhìn thấy Ngài như ánh sáng bừng lên trong tâm họ.
Có người lại nhận ra Ngài là nguồn sống đích thực dồi dào, viên mãn mà kể từ đó họ sống nhờ nguồn sống mãnh liệt đó;
Có người khám phá ra khuôn mặt diễm lệ tình yêu của Chúa và họ bơi lội trong tình yêu nhiệm màu của Ngài.
Giây phút khai mở - mặc khải – hiển linh này - xảy ra rất nhẹ nhàng, nhưng lại như một trận sóng thần tàn phá tan tành quá khứ cuộc đời con người cũ.
Thay vào đó là con người mới, với quan niệm mới, với lối nhìn mới. Nhờ đó, ta nhận ra khuôn mặt đích thực của Ngài. Nói cách khác, đó cũng chính là lúc Ngài tỏ mình ra cho ta.
Lời Chúa trong Tin Mừng Gioan đã ứng nghiệm nơi chúng ta: Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.
Nói theo âm hưởng Giáng sinh, chúng ta có thể vui mừng cảm nhận một cách âm thầm nhưng rất đỗi xác tín:
Chúa đã hiển linh trong lòng ta. ---------------------------------
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những: HiểnLinh ABC180
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài. Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Tuy nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối. Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong. Những điều chúng ta thấy và hiểu biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay không?
Mt. 2, 1 - 12. Mt 1, 18-24: TC là Đấng trung tín, Người đang thực hiện lời đã hứa ....
Anh chị em thân mến,
Đọc qua bài Phúc âm ngày lễ hôm nay, có một văn sĩ cảm hứng, nên đã thêu dệt câu chuyện về việc: HiểnLinh ABC181
Đọc qua bài Phúc âm ngày lễ hôm nay, có một văn sĩ cảm hứng, nên đã thêu dệt câu chuyện về việc sinh ra của Đấng Cứu thế như sau: tôi xin nói lại, câu chuyện sau đây chỉ là sự thêu dệt và là ý tưởng của văn sĩ nọ thôi... Câu chuyện kể: Chúa Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ bò lừa, rất hôi tanh và lạnh giá vì không có lò sưởi. Chúa Nhi biết rõ như thế, nhất là biết cha mẹ của mình đã quá vất vả mới có được chổ ở này, vì họ nghèo quá! Chúa Nhi thông cảm cho họ lắm. Các mục đồng lại đến viếng thăm làm cho cha mẹ và cả Chúa Nhi rất vui... Mấy hôm sau lại có ba đạo sĩ đến thăm, dâng lên Chúa Nhi, vàng, nhũ hương và mộc dược. Chúa Nhi hiểu rõ lòng của họ, nên đã mĩm cười với họ khi họ tiến dâng lễ vật. Sau đó họ lui xuống để bò lừa dâng lên hơi ấm; trong lúc đó ba đạo sĩ nói nhỏ với nhau, nhưng Chúa Nhi nghe rõ lời họ nói: vua Hêrôđê dặn họ khi tìm thấy Vua mới sinh, phải trở về cho ông hay để ông cũng đến triều bái người. Chúa Nhi nhìn thấu ruột gan của Hêrôđê, biết ông đang tìm cách giết mình. Hơi tức giận, Chúa Nhi dùng quyền năng mình, biến nên một tấm lưới vô hình trong suốt, bao bọc xung máng cỏ nhà đang ở, để người ngoài nhìn vào không thấy gì, cũng không thấy ai....Sau khi ba nhà đạo sĩ đi rồi, Chúa Nhi dùng quyền năng của mình, làm cho nơi mình đang ở bay đi sang qua Ai cập; dù bay, nhưng mọi người vẫn thấy căn nhà như đứng yên tại chổ...Chỉ trong nháy mắt, đã tới bên Ai Cập...
a/. Câu chuyện trên đây chỉ là tưởng tượng, không có thật, và cũng đi ngược lại ý nghĩa mầu nhiệm giáng sinh. Thực ra văn sĩ không đồng ý với Chúa Hài Nhi, vì đã để cho vua Hêrôđê rượt đuổi, tìm giết mình. Nhưng điều này lại là cốt lỏi của mầu nhiệm giáng sinh, của bài học của khiêm hạ tột cùng của Đấng cứu thế. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Nhi sẵn sàng sinh ra trong cảnh nghèo nàn, vất vả, bị rượt đuổi như thế vì vâng lời Chúa Cha, nhất là để làm trọn chương trình cứu rỗi... Đó là phần Chúa Hài Nhi. Bên dưới đây chúng ta hãy bàn về các nhà đạo sĩ đông phương:
b/. Các đạo sĩ đông phương:
• Họ phấn đấu đi tìm chân lý và sự khôn ngoan: Các ông đã nhiều năm nghiên cứu, tìm kiếm ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, từ đó tìm ra ý nghĩa của biến cố. Thái độ của họ là cởi mở, sẵn sàng đi tìm chân lý, nên khi thấy ngôi sao lạ, các ông đã cảm nhận ra đó là dấu lạ từ Thiên Chúa.
• Họ đã lên đường tìm kiếm Chúa Hài nhi, trong đức tin: với niềm xác tín riêng tư, họ bạo dạng lên đường tìm Chúa. Chính đức tin đã thúc đẩy họ lên đường; họ tự mình dấn thân vào cuộc hành trình vất vả tìm kiếm và mong gặp chân lý. Có khi thiên hạ cho là điên khùng, nhưng họ bất chấp; họ bỏ ngoài tai...
• Họ đã hỏi thăm sự giúp đở của dân chúng: trên đường đi, có khi ánh sao biến mất, họ vẫn phải nhờ sự giúp đỡ của mọi người xung quanh... nhất là những người khôn ngoan như hỏi các kinh sư trong bài Phúc âm hôm nay...
• Họ chấp nhận điều Thiên Chúa dẫn họ tới, và tin vào đó: Họ đi tìm vị vua, vất vả biết bao nhiêu, vậy mà khi bước vào nhà, họ chỉ thấy một Hài nhi nhỏ bé với ông thợ mộc và Mẹ Nguời trong cảnh nghèo nàn. Chẳng có gì quý giá, chẳng có gì là dòng dỏi vua chúa cả! Làm sao tin? Thế mà các đạo sĩ đã tin; họ tin vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua những dấu hiệu rất tầm thường.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: đời sống của mỗi người kitô hữu cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, dù không vất vả như ba đạo sĩ, nhưng phần ta, ta có bền tâm đi tìm Chúa như họ không? Ta có để đức tin hướng dẫn ta trong hành trình tìm Chúa không? ---------------------------------
Trong khung cảnh của ngày lễ khánh thành nhà thờ, nhiều người cùng tiến bước lên đường: HiểnLinh ABC182
Trong khung cảnh của ngày lễ khánh thành nhà thờ, nhiều người cùng tiến bước lên đường, hướng về cùng một nơi, đó là nơi mà ngôi nhà thờ mới được hoàn thành. Những người này đã được báo tin qua những cánh thiệp mời, qua những lời tha thiết. Những người tới đây cùng hoà chung niềm vui của biết bao người, cùng tận hưởng niềm vui chung với sự chuẩn bị thật chu đáo, bằng công sức, của cải vật chất mà họ gọi là lễ vật. Còn những người không có mặt thì sao? Có phải không được biết gì hết không?
Có người không hay biết gì hết về ngày lễ hôm nay, nên họ không thể đến được. Có người biết rất rỏ ngày giờ và lý do của ngày lễ, nhưng họ không được mời trực tiếp, nên họ không thể hoà niềm vui chung. Nhưng cũng có những người biết rỏ và được báo tin, được mời gọi tha thiết, vậy mà giờ này họ cũng không có mặt để hoà cùng niềm vui với mọi người. Sự vắng mặt với đầy đủ lý do, có khi chính đáng, cũng có khi không chính đáng. Có những người cũng lên đường nhưng lại không đến nơi được. Có những người không cảm thấy vui cùng niềm vui với mọi người nên họ cũng không đến.
Những nhà đạo sĩ từ phương xa họ nhận được lời mời, họ vui mừng chuẩn bị hành trang lên đường, họ vui mừng vì lễ vật của họ đã được trao một nơi thật xứng đáng, họ càng vui mừng hơn khi họ đã hoà được niềm vui của mọi người và Thiên Chúa.
Những người Do Thái, những người kinh thành và cả Hêrôđê đã nhận được lời mời trước tiên. Họ lại tính toán hơn thiệt, họ không dám lên đường, vì họ sợ. Trước tiên họ sợ cực khổ cho bản thân; họ không muốn vất vã để đến với người khác, vì họ quen ở yên một chỗ để người khác đến với họ và cung phụng cho họ. Tiếp đến họ sợ mất đi danh vọng mà họ cố công để tìm kiếm được, nên giờ đây họ không muốn từ bỏ nó. Họ cũng sợ mất đi những của cải vật chất mà họ rất trân trọng, vì họ sợ phải tiến dâng lễ vật, họ không muốn từ bỏ. Họ còn sợ mất đi bản thân mình vì họ quá coi trọng bản thân và yêu quý nó. Nên họ tìm cách phá đi sự việc mà họ lo sợ. Nhưng họ đâu biết rằng: những gì là của Thiên Chúa thì con người không thể làm gì được. Chính vì thế họ luôn sống trong lo sợ, họ không thể có được niềm vui.
Niềm vui chỉ đến được với những tâm hồn thư thái, biết từ bỏ và cho đi, còn với những tâm hồn luôn tính toán và so đo thì khó mà tìm được niềm vui.
Trong cuộc sống đời người, chúng ta cũng mãi miết đi tìm, nhưng chúng ta có tìm được gì không? Giờ đây, mỗi người để một ít phút suy tư, nhìn lại quãng đời đã qua .... Chúng ta đã từng được mời gọi đến với Chúa, trở về với Chúa, mời gọi sống trong niềm vui của Ngài. Chúng ta càng biết rất rõ mình phải làm gì và chuẩn bị những gì.
Có nhiều lúc trong cuộc sống, chúng cũng cảm thấy hối hận về những việc mình làm cho người khác, hối hận về những bất công, về sự ích kỷ chỉ biết lo cho mình mà quên đi những lời kêu than của người chung quanh, không nhìn thấy nỗi đau xé lòng mà mình gây nên cho họ. Nhưng nỗi lo sợ lại nỗi lên: sợ mất danh dự, mất uy tín, mất thời giờ, tiền bạc .... nên đến giờ nầy, chúng ta vẫn không tìm được niềm vui trong Chúa. Con người của bao nhiêu năm vẫn không khá hơn mà trái lại, có khi giờ nầy, mình còn nham hiểm độc hại hơn trước. Đó có phải là chúng ta lập lại công việc mà ngày xưa vua Hêrôđê và những người kinh thành Jerusalem đã đối xử với Chúa Giêsu và các nhà đạo sĩ phương xa sao?
Nếu có lần trong cuộc sống, chúng ta biết nới rộng vòng tay yêu thương để ban phát cho những người kêu cầu đến. Đó là lúc chúng ta nhận ra được lời mời gọi và cất bước lên đường với những lễ vật trong tay. Nếu chúng ta nhận thấy được những lỗi lầm thiếu sót của mình mà sẵn sàng sữa đỗi cho tốt hơn, nếu chúng ta biết sống quảng đại, để biết thông cảm và tha thứ thì thật hạnh phúc cho chúng ta, vì khi đó chúng ta tìm găp được Chúa và dâng lên Ngài lễ vật mà chính bản thân đã chuẩn bị bằng cả cuộc đời.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sáng suốt để biết lắng nghe lời mời gọi và đáp lại cho xứng đáng. ---------------------------------
Tin mừng Mt 2:1-12 Với ý nghĩa Thánh Lễ hôm nay, ta thấy khởi điểm cho cuộc hành trình tìm kiếm là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường.
Lễ Hiển Linh theo truyền thống, được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín HiểnLinh ABC183
Lễ Hiển Linh theo truyền thống, được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự biểu lộ thần tính của Con Chúa cho Dân Ngoại. Các ngài là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người.
Và ta cũng như những nhà khảo cổ, nghiên cứu có thể dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi để đoán rằng các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là: Men-ki-o (Melchior), Ban-thơ-da (Balthezar) và Gát-pa (Gaspar), đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu (da trắng), châu Á (da vàng) và châu Phi (da đen).
Với ý nghĩa Thánh Lễ hôm nay, ta thấy khởi điểm cho cuộc hành trình tìm kiếm là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Hành trình của các đạo sĩ là một hành trình đi tìm ánh sáng đức tin. Để có thể gặp được Thiên Chúa, họ phải chấp nhận ra khỏi sự êm ấm của bản thân, từ bỏ những ràng buộc của công việc, gia đình để lên đường. Các ông đã phải trải qua hành trình rất xa và gian nan, có những lúc ánh sao như vụt tắt, nhưng các vị không chán nản thất vọng, trái lại, các ông đã tìm đến cung điện của Hêrôđê để hỏi về vị vua mới sinh hiện ở đâu.
Khi được chỉ cho biết tại Belem, đất Giuđa, các đạo sĩ lại tiếp tục lên đường, ngôi sao lại xuất hiện như để khuyến khích các ông. Các ông đã tìm đến nơi. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lậy người. Các đạo sĩ bước vào nhà, là ngôi nhà nơi Thánh Gia đang sống, nhưng ngôi nhà ấy còn là hình ảnh ngôi nhà Giáo hội, là nơi Thiên Chúa đang hiện diện. Các đạo sĩ là những người dân ngoại đã tìm được Chúa Giêsu, họ được mời gọi bước vào nhà của Chúa để ở nơi đây, họ cùng với mọi người tôn thờ Thiên Chúa, được chung hưởng tình yêu và hạnh phúc với Thiên Chúa.
Ba đạo sĩ từ Đông phương lên đường tìm kiếm dấu lạ, không phải vì mưu cầu vật chất, không có ý củng cố sức mạnh tinh thần, nhưng họ vẫn phải đối diện với nguy hiểm, lung lạc mục đích khám phá dấu lạ. Các vị Đạo sĩ nhờ được trang bị số kiến thức cần thiết để biết nhìn trời, nhìn sao, nhất là đủ khôn ngoan, để không bỏ lỡ cơ hội xem bằng mắt, bắt bằng tay dấu lạ Hài Nhi. Các mục đồng, các đạo sĩ, không thể tự biết tìm đến Belem, nếu không có dấu lạ chỉ đường, cả triều thần Hêrôđê và chúng ta hôm nay, đều cần đến sự tác động của dấu lạ mang tên Giêsu.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác. Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực: thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê Thị Thành… Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao: thánh Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta…
Và rồi ta cũng không quên ngôi sao sáng chói trong mọi thời đại: Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối.
Thiên Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta trong Kinh Thánh. Nội dung Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người. Muốn tìm kiếm Chúa, ta phải chuyên tâm học hỏi và suy niệm Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Khi các nhà đạo sĩ cảm thấy đứng trước ngõ cụt của hành trình tìm kiếm vị Vua mới sinh, các ông đã vào Giêrusalem. Ở đây, các chuyên gia đã khảo cứu Kinh Thánh và tìm được lời giải đáp. Nhờ hướng dẫn trong lời ngôn sứ Mika (Mk 5, 1), các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng đạt được điều nguyện ước của mình. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta trên bước đường đời. Chuyên tâm suy niệm và sống Lời Chúa sẽ giúp ta sống thánh thiện trọn lành.
Ngày hôm nay, việc gặp gỡ thờ lạy Giêsu không cần phải có kiến thức “thiên văn”, không cần phải hàng đêm nhìn lên bầu trời trông chờ “sao lạ”. Đúng hơn, “dấu lạ Giêsu” đang biến mọi đối tượng trở nên tình yêu của Ngài. Các mục đồng, các đạo sĩ phát hiện dấu lạ từ trời, họ đều nhanh chóng lên đường, và rồi họ thật vui mừng hạnh phúc khi gặp Hài Nhi. Mỗi chúng ta hôm nay, khi phát hiện Đức Giêsu là tình yêu bởi trời, nhất định phải khẩn trưởng gặp gỡ Ngài, nếu không niềm vui ơn cứu độ rồi cũng chỉ là chuyện tưởng tượng, chóng qua mà thôi.
Ngày hôm nay, người Kitô hữu được soi dẫn làm việc bổn phận đối với Chúa và Hội Thánh, nhưng nếu thiếu đi sự quyết tâm, chúng ta cũng chỉ là những luật sĩ biệt phái sống trong chờ đợi theo ý mình, lý thuyết mơ hồ. Gặp được niềm vui, thấy được con đường dẫn tới hạnh phúc là mừng, nhưng nếu không dấn thân để có Chúa để được biến đổi, để đức tin trở thành hành động, thì hoàn toàn vô ích, thất bại.
Muốn gặp Hài Nhi Giêsu, các đạo sĩ không thể ngồi nhà ung dung chờ đợi, các ngài đã lên đường, đã hành động bằng lý trí của người trưởng thành. Hành trình của các đạo sĩ có lúc sao ẩn, sao hiện, nhưng dấu lạ của tình thương không thay đổi, dù chặng đường gặp Hài Nhi của chúng ta hôm xưa và hôm nay có gian truân khác nhau. Thiên Chúa yêu thương loài người, các đạo sĩ đến Belem họ có vàng, mộc dược nhũ hương, các mục đồng đến Belem chỉ có tấm lòng, do đó bất cứ thành phần nào, đến gặp Chúa đều vui mừng hạnh phúc với tình yêu cứu độ.
Và rồi ta thấy chính Chúa Giêsu là Ngôi Sao Mai dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng Ngôi Sao Mai, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Tin Mừng giữa lòng trần thế. Loan báo Tin Mừng là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Tin Mừng chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.
Ngày hôm nay, trong đời sống đạo, nhiều khi thay vì chiếu sáng, chúng ta lại ưa chuộng bóng đêm khi mang trong mình sự ích kỷ như Hêrôđê! Sợ mất quyền, mất chức, sợ mất miếng cơm manh áo, hay sợ liên lụy, phiền hà cách này, cách khác, mà không dám nhìn nhận sự thật hay làm chứng và sống cho chân lý!
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Thiên Chúa yêu thương, Ngài muốn cho mọi dân tộc trên thế giới tin và đón nhận tình yêu của Ngài. Ngài dùng nhiều cách thế để đưa họ đến với Ngài và đưa tình yêu của Ngài đến với họ. Tuy nhiên, Ngài vẫn muốn dùng mỗi chúng ta là những người được hưởng tình yêu thương của Chúa, phải tiếp tục đem tình yêu ấy đến cho những anh em khác chưa nhận biết Chúa.
Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường. Đamg lúc lo âu sốt ruột, đột: HiểnLinh ABC184
Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường. Đamg lúc lo âu sốt ruột, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, con cáo vội vàng hỏi trong vui sướng:
• Chào anh bạn, xin hỏi đường về nhà tôi đi bằng cách nào ? • Anh không thấy đường sao ? • Thấy thì còn hỏi anh làm gì
Đối phương lần chần một chút rồi trả lời:
Được rồi, anh đi với tôi. Con cáo đi sau lưng anh bạn ấy, bảo sao nghe vậy. Đi không bao lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, đi mãi mà không ra khỏi đó, cuối cùng con cáo chịu không nổi phải thốt lên.
• Anh dẫn đường nhưng rốt cuộc anh dẫn như thế nào đấy chứ ? • Hồi lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: Xin lỗi bởi vì tôi cũng mù như anh vậy ( Hàn Lâm Tử)
Câu chuyện trên cho ta thấy con cáo mù rất muốn tìm đường về nhà, chắc chắn là nó rất lo lắng bối rối và sợ lắm. Khi gặp được người bạn dẫn đường thì cáo mừng lắm, nhưng cuối cùng thì cả hai đều bị đi vào ngõ cụt vì không có ai thấy ánh sáng thấy đường để mà đi. Trong cuốc sống rất có thể chúng ta đang là một con cáo mù, vì không biết mở mắt ra để đón lấy ánh sáng. Chúng ta không khác gì dân thành Giêrusalem xưa, trong cùng một cảnh ngộ mà các nhà đạo sĩ từ phương xa lại nhìn thấy ánh sáng để đi tìm Đấng Cứu Thế. Còn họ thì lo mãi mê yêu đời, sống cuộc sống hưởng thụ, vui chơi với tất cả tiện nghi, một cuộc sống không thiếu thốn sự gì. Ngày nay với nên khoa học tiên tiến, đưa con người đến ánh sáng hiện đại nhưng lại đẩy họ vào ánh sáng tội lỗi; biết những nơi ăn chơi thác loạn mà không bao giờ tìm tới nhà thờ, ham thích nhảy múa ca hát mà không bao giờ biết dùng lời kinh cầu nguyện dâng lên Chúa.
Các đại gia dám bỏ ra hàng triệu dollar để ăn chơi trác táng, mà không dám bỏ ra 500 đồng để làm việc bác ái... rất nhiều, còn rất nhiều việc làm của chúng ta đang ở trong bóng tối, ngôi sao sáng của Chúa vẫn đang sẵn sàng chiếu tỏa ánh sáng, chỉ cần chúng ta đừng vô tình, đừng dửng dưng nữa mà hãy quyết tâm bằng cả thiện chí đứng lên và bước ra khỏi đời sống tầm thường đó, cùng đi với các đạo sĩ theo ánh sao lạ dẫn đường tìm Đấng Cứu Thế.
Con cáo mù không về nhà được vì người bạn dẫn đường cũng bị mù. Nhiệm vụ truyền giáo là công việc của tất cả những người Kitô hữu, đó là dẫn mọi người "bị mù" tìm gặp ánh sáng Chúa Kitô. Con đường truyền giáo hoàn toàn không dễ như ta tưởng, nếu không khéo ta cũng giống như người bạn của con cáo mù, không những đưa bạn về không được mà cả mình cũng không thể về. Điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và trong tâm hồn những người thiện chí vì như Chúa Giêsu đã nói: "Các con là ánh sáng trần gian" ( Mt 5, 14). Khi nghe câu nói đó, tôi nhận ra ngay một điều là Thiên Chúa muốn gởi đến cho chúng ta một thông điệp truyền giáo và ngay lúc này chúng ta phải là muối là ánh sáng.
Ánh sáng Tin Mừng đã được rao giảng hơn 2000 năm, nhưng cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Đặc biệt là trong cánh đồng truyền giáo ở Việt Nam , còn rất nhiều người đang mò mẫm tìm đường đi. Do đó, chúng ta phải là ngôi sao dẫn đường cho anh chị em lương dân, ở giữa họ với một con tim cởi mở và yêu thương. Nhất là qua đời sống hàng ngày họ sẽ tìm gặp được Hài Nhi trong hành động của chúng ta.
Chúng ta cũng rất dễ rơi vào thái độ dửng dưng với lời kêu gọi của Giáo hội, cứ nghĩ nếu ta không làm thì vẫn còn người khác làm. Nếu ai cũng nghĩ như ta thì làm gì có các nhà truyền giáo, làm gì có hạt giống Tin Mừng nào được gieo ở Việt Nam và chúng ta vẫn là con cáo mù vẫn chưa tìm được đường về nhà. Nhưng ngược lại, nếu tất cả các tín hữu Việt Nam nghe theo lời mời gọi truyền giáo, và mau mắn đáp trả thì Hội Thánh Chúa đã có những bước tiến rất xa. Vậy ta hãy ý thức mình vẫn là một hạt cát quan trọng trong sa mạc truyền giáo của Chúa.
Lạy Chúa, Xin giúp con trở thành một ánh sao soi đường, dẫn lối cho những người xung quanh trên bước đường tìm gặp Chúa. ---------------------------------
Mùa Giáng sinh nào tôi cũng rảo qua các Nhà thờ để xem hang đá. Thôi thì đủ loại, đủ cỡ,: HiểnLinh ABC185
Mùa Giáng sinh nào tôi cũng rảo qua các Nhà thờ để xem hang đá. Thôi thì đủ loại, đủ cỡ, đủ hình dạng, màu sắc. Có cái rất hoành tráng, trang trí cầu kỳ, từ những vật dụng đắt tiền; nhưng cũng có cái làm từ phế liệu. Đặc biệt nhất là bộ tượng. Ngoài những bộ tượng theo truyền thống Do thái, còn có cả những bộ tượng người Tàu, người Mông Cổ, Ả rập, Châu Âu và cũng không thiếu những bộ tượng người Việt với trang phục khăn đóng - áo dài hay khăn rằn - áo bà ba rặt nam bộ. Nói chung, Tin Mừng đi đến dân tộc nào thì hang đá và các nhân vật trong hang đá mang hình ảnh dân tộc đó. Người thiết kế muốn diễn tả hình ảnh Thiên Chúa thật giống với người bản địa. Điều nầy chắc không làm Thiên Chúa phiền lòng bởi từ trời cao Ngài đã xuống trần chẳng phải là để cho gần con người sao?
Nhưng đáng buồn thay. Trong khi Thiên Chúa đang cố gắng rút ngắn khoảng cách cách giữa Ngài và con người, thì con người lại hững hờ không muốn đón nhận thiện ý đó. Dân tộc mà lẽ ra phải mở tiệc tưng bừng để đón Sinh Nhật Vua Trời thì lại lạnh lùng từ chối. Vua Hêrôđê tỏ ra quan tâm, ân cần với các nhà hiền sĩ Đông phương: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tần về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bài lại Người" (Mt 2,8). Hoàn toàn không phải vì ý tốt mà là muốn giết Chúa Giêsu để níu giữ ngai vàng sắp đổ của mình.
Vào lễ Hiển Linh năm nào ta cũng nghe câu chuyện ba nhà Đạo Sĩ đi theo ngôi sao tìm Chúa. Rồi sau đó dâng lễ vật lên Chúa Hài Đồng. Cảnh tượng thật xúc động! Càng xúc động hơn khi biết rằng cả ba nhà Đạo Sĩ đều là dân ngoại - một dân tộc không biết gì về Thiên Chúa lại được Thiên Chúa tỏ mình ra. Còn dân Do thái đã không hề biết chuyện gì đang xảy ra. "Nay mầu nhiệm được mạc khải là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp" (Ep 3,6).
Nói vậy, chẳng phải là Thiên Chúa thiên lệch, cho người nầy không cho người khác, nhưng bởi dân Do Thái thiếu lòng tin đó thôi. Hơn thế, chẳng đời nào Ngài lại bỏ đứa con mà Ngài đã từng cưu mang.
Ba nhà đạo sĩ vất vả lên đường tìm Chúa. Họ đã phải luôn miệng hỏi: "Đức Giêsu - Vua dân Do thái mới giáng sinh ở đâu?". Ngày nay, ta không còn vất vả nữa, vì Chúa đã được các nhà truyền giáo đem đến tận tay chúng ta rồi. Chúng ta chẳng còn phải nghi ngờ Đức Giêsu là ai, sinh ra ở đâu nữa. Nhưng liệu chúng ta có giống dân Do Thái xưa không? Thấy đó, nhưng không thể nào tin được? Ngày Rửa Tội ta được xếp vào hàng con cái Chúa. Ngày chịu phép Thêm Sức ta được mời gọi lên đường làm chứng, rao giảng Nước Chúa. Nhưng chính bản thân chúng ta cũng chưa một lần thể hiện được lòng tin của mình thì làm sao chúng ta có thể giới thiệu được một Đức Giêsu bé nhỏ, trần trụi, nghèo nàn đó cho trần gian? Hãy mạnh mẽ đi theo hướng khác mà trở về nhà mình, đừng ù lì trong những lề thói ấu trĩ, ích kỷ của chính mình nữa. Hãy đứng dậy lên đường giới thiệu Đức Kitô bằng đời sống yêu thương của mình.
Hơn 2000 năm qua, Đức Giêsu vẫn giáng sinh mỗi ngày trong trần gian. Ngài không chỉ giáng sinh nơi hang đá Bêlem thuộc xứ Palestine, trong dòng tộc Đavit nữa; mà Ngài hiện diện trong từng con người cụ thể trên khắp hành tinh nầy, trong tất cả mọi sắc tộc, trong mọi nền văn hóa. Ngài ở giữa chúng ta qua Bí tích Thánh thể. Ngài còn ở trong chính ngôi nhà tồi tàn, rách nát của một vùng quê nào đó. Ngài đang bị cầm tù, đang cô đơn trong những nhà dưỡng lão, những trại mồ côi, bệnh viện, trại tập trung. Ngài là em bé bị lạm dụng sức lao động, đang ngày đêm giơ tay cầu cứu sự giúp đỡ. Ngài là những công nhân cần có những đồng lương xứng hợp. Ngài là những nạn nhân của những cuộc xung đột, chạy đua vũ trang, hay của những chế độ độc tài, bất công, nghèo đói... Bạn không cần phải đi qua tận thánh địa xa xôi để mong gặp Chúa, mà bạn hãy đi ra khỏi lòng mình. Ra khỏi những ích kỷ, tư lợi, đam mê thấp hèn của chính bạn. Rồi bạn sẽ gặp Đức Kitô ngay thôi. Ngài đang hiện diện ngay trước mặt bạn đấy! ---------------------------------
Không biết từ lúc nào câu chuyện ba nhà đạo sĩ đã gắn liền với biến cố Thiên Chúa giáng: HiểnLinh ABC186
Không biết từ lúc nào câu chuyện ba nhà đạo sĩ đã gắn liền với biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người. Chúa đến làm người không dành riêng cho người Do Thái nhưng là cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc. Danh từ Hiển Linh trong Kinh Thánh mang ý nghĩa Thiên chúa tỏ mình ra cho loài người. Theo phụng vụ Giáo hội Đông phương, lễ Hiển linh là lễ Chúa mở đầu việc rao giảng công khai. Nhưng theo phụng vụ Giáo hội La mã, lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, khi ba nhà đạo sĩ tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu.
Hình ảnh ba nhà đạo sĩ trở nên rất quen thuộc. Họ là đại diện cho những tâm hồn thiện chí đi tìm sự thật, với một tinh thần khát khao cháy bỏng. Họ luôn nhạy cảm trước một dấu hiệu lạ kỳ, báo hiệu một vì vua đã sinh ra. Các đạo sĩ Đông phương thời ấy rất giỏi về triết học, y học và khoa học tự nhiên. Nhiều người còn gọi họ là những bậc thánh nhân.
Vào thời đó, mọi người tin tưởng ở khoa chiêm tinh. Họ tin rằng dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai vận mệnh của con người. Số mệnh một người được an bài bởi một ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, thông thường các ngôi sao xuất hiện theo một vị trí cố định. Chúng tượng trưng cho trật tự của vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện thì dường như Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự kiện đặc biệt sắp xảy ra.
Hài nhi Giêsu chính là vì vua tình yêu, là ánh vinh quang mà Thiên Chúa ban cho nhân loại đang khao khát mong chờ Đấng cứu độ. Họ khắc khoải trong sự đợi chờ thì Chúa Giêsu đã đến. Con người từ khắp nơi, từ những phương trời xa xôi nhất đã về tề tựu quanh Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên chinh phục thế giới của Hài Nhi Giêsu.
Chúa Giêsu là điểm đến sau cùng cho mọi nỗ lực tìm kiếm của nhân loại. Nhìn vào những lễ vật dâng lên vàng, nhũ hương, mộc dược, người ta nhận thấy mỗi lễ vật đều tương ứng với đặc điểm và sứ mệnh của Ngài. Ngài là vị vua thật, là thầy lế lễ vẹn toàn và là Đấng cứu độ cao cả mà loài người đợi trông.
Chúa Giêsu chính là vua thật
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá. Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).
Chúa Giêsu là tư tế.
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa. Anh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).
Chúa Giêsu là hy tế
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Eph13,1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.
Chúa Giêsu là vì vua chân thật, là thầy tế lễ vẹn toàn, là đấng cứu độ cao cả thế mà Ngài luôn bị con người chối từ thậm chí tỏ ra chống đối. Các Thượng tế, Kinh sư là những người tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh nhưng lại tỏ ra hững hờ, bất lực không muốn ra đi. Trong khi đó các đạo sĩ là những người ngoại giáo lại dám lên đường và họ đã gặp Đấng cứu độ. Vua Hêrôđê cũng chẳng khá hơn gì. Một vì vua đang nắm quyền nhưng lại nơm nớp lo sợ trước một Hài nhi Bêlem vừa mới sinh. Trình thuật Tin Mừng cho ta chứng kiến những hình ảnh đối lập nhau. Một bên là những người đói khát ơn cứu rỗi, họ đang hết tâm vận dụng toàn lực để tìm kiếm Thiên Chúa. Một bên thì đau đớn nghĩ rằng việc vua mới sinh sẽ làm đảo lộn cuộc đời của họ nên đem lòng thù nghịch Đấng Messia.
Vị Vua tình yêu đã giáng sinh, đã cho con người lần tìm ra chân lý. Biết bao lương dân giờ đã nhận biết Ngài, biết bao người tội lỗi đã trở về Thiên Chúa. Chúng ta thật hạnh phúc vì là thần dân của vị Vua đầy tình yêu này. Một vị vua không hề biết nói đến sự tiêu diệt. Một vị vua không ngồi trên ngai để cai trị nhưng luôn hiện diện trên thập giá để sẵn sàng chịu chết thay cho dân Ngài. Đó chính là Vua Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ nhân trần. Tình yêu của Ngài giờ đây trải rộng đến khắp muôn dân.
Hiện nay còn biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lủi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Giêsu là ai?". Hãy trả lời cho họ đi. Đức Giêsu chính là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đến phá đỗ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã dựng nên, nhất là những hàng rào kỳ thị: kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp, giàu nghèo....
Chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng mầu nhiệm tình yêu giữa lòng nhân loại. Mỗi người hãy là ánh sao dẫn đường để soi dẫn cho nhiều người biết khám phá gương mặt đích thực của Đức Giêsu trong đời sống thường ngày. ---------------------------------
Hằng năm cứ gần đến lễ Giáng sinh, đi ngang các Nhà thờ Công giáo hay vào các xóm đạo chúng: HiểnLinh ABC187
Hằng năm cứ gần đến lễ Giáng sinh, đi ngang các Nhà thờ Công giáo hay vào các xóm đạo chúng ta sẽ thấy người ta nô nức cùng nhau làm ngôi sao. Dường như thiếu ngôi sao thì lễ Giáng sinh không thành được. Cho nên bằng mọi cách người ta phải cố gắng làm theo khả năng của mình. Nơi nào khá thì làm ngôi sao đẹp và đắc tiền hơn. Hình ảnh ngôi sao trong mùa Giáng sinh phải chăng là nhắc tới ngôi sao lạ đã dẫn đường cho HiểnLinh ABCđến thờ lạy Hài nhi Giêsu.
HiểnLinh ABCnày được gọi là những nhà chiêm tinh. Họ đã nghiên cứu và thấy được có một ngôi sao lạ xuất hiện bên phương đông. Từ đó họ đã quyết định lên đường tìm Hài nhi Giêsu để thờ lạy cùng mang theo những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Người.
Điều đáng nói ba vị vua này lại là lương dân từ xa đến. Đang khi đó vua Hêrôđê là vua Do thái ở kế bên đó thì lại chẳng hay biết. Tại sao HiểnLinh ABCnày lại được thấy ngôi sao lạ còn vua Hêrôđê thì không. Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu đã thưa cùng Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn" (Mt 11, 25). Thật ra Chúa chẳng muốn giấu ai. Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được chiêm ngưỡng Con Mình. Tuy nhiên ở đây còn tùy vào sự đón nhận của con người. Ngôi sao thì có sẵn trên bầu trời nên chỉ có những ai thành tâm thiện chí và thật lòng khao khát thì mới được gặp Người.
Vua Hêrôđê chỉ vì tham quyền cố vị và tưởng rằng mình là nhất trên đời nên chẳng muốn đón nhận gì thêm. Hơn nữa, khi nghe biết có Hài nhi Giêsu sinh ra thì ông lại sợ mất quyền ảnh hưởng nên cũng căn dặn ba vua: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8). Đó chỉ là lời lẽ che đậy âm mưu bên trong. Bằng chứng sau đó ông đã ra lệnh: "giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh". (Mt 2, 16b)
Hằng ngày Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta rất nhiều ngôi sao lạ. Đó là tiếng nói của Chúa trong lương tâm.Tiếng nói lương tâm thúc đẩy ta làm lành lánh dữ. Đó là những lời nhắc nhở của người thân. Đặc biệt là lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội.
Mừng lễ Hiển linh năm nay, chúng ta hãy thành tâm xét mình trước Chúa về cách đón nhận những ngôi sao lạ mà Chúa đã gởi đến cho mình. Hãy xin Hài nhi Giêsu cho chúng ta thêm lòng tin và quảng đại đón nhận những ngôi sao lạ đó để chúng ta ngày càng được đến gần Chúa hơn. ---------------------------------
Giữa biển trần gian mịt mù sóng gió, những người có thiện chí vẫn khát mong tìm về bến bình: HiểnLinh ABC188
Giữa biển trần gian mịt mù sóng gió, những người có thiện chí vẫn khát mong tìm về bến bình an. Thật ra, bến đỗ cuộc đời toạ lạc nơi đâu? Có phải là nơi cái chết do bệnh tật và tuổi già? Những người không biết Chúa, không tin có đời sau vẫn nghĩ như vậy và họ cảm thấy cuộc đời là vô vị, là tuyệt vọng. Nếu chỉ có đời này thì người ta lao vào tìm kiếm những gì? Phải chăng là tiền bạc, địa vị và lạc thú chóng qua, để rồi khi chết thì ai cũng như ai!
Xem ra, không có mấy người phủ nhận hoàn toàn đời sau, chỉ là không muốn để thời giờ tìm hiểu cho cặn kẽ thôi. Nhiều người chủ trương sống tự tiện, buông thả theo thói đời và lấy sự hơn thua vật chất làm tiêu chuẩn cho cuộc đời mình.
Nói như vậy thì những người không biết Chúa có phải là lỗi của họ chăng? Có thể nhưng không hẳn là như vậy. Một phần do hoàn cảnh, một phần do thành kiến. Có người lý luận theo vòng lẩn quẩn: cha mẹ tôi theo Hồi giáo, tôi tuy thấy đạo Kitô giáo hay hay nhưng vì cha mẹ tôi không giữ đạo này nên tôi cũng vậy. Họ không có sự bứt phá, không muốn tìm hiểu thêm.
Thế nhưng, giới trẻ ngày nay rất thích khẳng định mình, muốn vượt qua ranh giới thuần phong mỹ tục. Họ cho rằng cha mẹ không hợp thời, họ không chấp nhận kiểu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó như ngày xưa, họ thích sống tự do với bạn bè, thích nhạc rap, nhạc hip- hop, thích sống thử... Những điều này làm các phụ huynh phải đau đầu, thấy mình bất lực khi con cái mình trở thành những con thiêu thân đi vào chỗ chết, đánh mất lễ nghĩa gia phong, đạo đức của cha ông.
Giới trẻ và loài người ngày nay muốn tìm cái mới lạ và tự do theo ý mình. Họ muốn tìm một cuộc sống riêng tư, theo ý riêng và họ nghĩ như vậy mới là hạnh phúc, sung sướng. Nhưng nhiều nhà đạo đức thấy rằng: nhiều người trong thế hệ này lầm lạc. Nếu như giới trẻ muốn tự do vì cần tìm hiểu nghiên cứu để phát minh những cái hay cái tốt thì đáng hoan nghênh. Nhưng vẫn có rất nhiều người chạy theo trào lưu phóng túng chỉ vì để cho giống bạn mình! Họ không biết tại sao. Họ cũng không cần biết đến mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Họ chỉ theo phong trào ai làm sao tôi làm vậy, không có lập trường của riêng mình, không có định hướng riêng.
Thật ra, giữa thế gian nhiều hỗn độn này, bao nhiêu bóng tối bủa vây, bóng tối của hận thù, chiến tranh xuất phát từ sự ích kỷ của con người, bong tối của đam mê tiền bạc hay dục vọng ươn hèn. Giữa thế gian đầy bong tối đó, người Kitô hữu hãy trở nên ánh sáng soi lối cho tha nhân. Tuy chúng ta không toả ánh sáng như mặt trời nhưng có thể là ngọn nến trong gia đình và làng xóm của mình, chúng ta hãy phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa qua những hành động yêu thương, vị tha, hy sinh, giúp cho đời bớt khổ, cho những ai thành tâm tìm Chúa được gặp thấy Ngài nhờ ánh sáng đức tin của chúng ta.
Ước chi thế nhân hôm nay năng biết hướng lòng lên cao để nhận ra ánh sao Chúa ban và tìm đến thờ lạy Con Thiên Chúa.
Ước chi đừng ai giống Hêrôđê chỉ biết đến bản thân mình, chỉ biết thu vén cho mình. Ông ở gần Bêlem mà không tìm hiểu về Chúa, chỉ muốn hiểu Kinh Thánh theo kiểu trần gian nên đã tàn sát các con trẻ ở Bêlem.
Ước chi chúng ta biết bắt chước HiểnLinh ABClên đường, ra khỏi sự ích kỷ và thành kiến của mình để nhận ra Chúa đang hiện diện trong Hội Thánh Công giáo, trong những người nghèo hèn bé mọn đang cần sự giúp đỡ. Ước chi toàn thể nhân loại trên thế giới này biết có đời sau, nhận ra sự chóng qua và bất toàn của đời này. Phải chi loài người thức tỉnh, nhận biết giới hạn của đời mình và tìm đến hạnh phúc chân thật mà Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
SỰ SÁNG là Chúa Giêsu Kitô đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng(x. Ga 3, 19). Xin Chúa cho chúng con đừng chạy theo thế gian nhưng biết chọn Chúa là nguồn hạnh phúc cho đời mình. ---------------------------------
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể lại chuyện ba nhà chiêm tinh bên Đông phương theo ngôi: HiểnLinh ABC189
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể lại chuyện ba nhà chiêm tinh bên Đông phương theo ngôi sao lạ tìm vua Do Thái mới sinh. Vị vua đó chính là Chúa Hài Đồng Giêsu. Vậy, nếu như trong lễ Giáng Sinh Chúa Hài Đồng tỏ mình ra cho các mục đồng, cho người Do Thái; thì hôm nay lễ Chúa Hiển Linh Chúa Hài Đồng tỏ mình ra cho những người lương dân, nghĩa là cho cả nhân loại biết chính Chúa Hài Đồng là vị cứu tinh của nhân loại và Ngài mời gọi mọi người đến với Ngài.
Thiên Chúa dùng Ngôi sao toả sáng trên bầu trời để dẫn đường cho HiểnLinh ABCtìm đến bái kiến Chúa Hài Đồng và dâng: vàng, nhủ hương, mộc dược. Nhờ ánh sáng của ngôi sao mà mọi người đã biết được Chúa Hài Đồng là ánh sáng đích thực của nhân loại. Nhờ Ngôi sao lạ mà chúng ta nhận ra có một "vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Nhờ Chúa Hiển linh mà chúng ta không ngủ trong sự lầm lạc của tội lỗi nữa.
Ngày nay, chúng ta nghe nhiều người sử dụng từ ngôi sao nói về những nhân vật nổi tiếng như ngôi sao ca nhạc, hoặc một diễn viên điện ảnh. Không những thế, mà người ta còn sử dụng từ siêu sao bóng đá như: Ronado, David Backham, Messi... Ở đây, còn hơn một siêu sao nữa. Đó chính là siêu sao Giêsu Hài đồng. Các ngôi sao cũng như siêu sao trần gian sớm nở chiều tàn; còn siêu sao Giêsu vẫn tồn tại mãi mãi theo năm tháng.
Ngày nay dễ thần tượng những ngôi sao, có những người bắt chước ngôi sao thần tượng của mình, nên ăn mặc giống hệt họ: nào cắt tóc ngắn, nhuộm tóc đỏ đen. Nhưng kết quả thường thì thần tượng bị sụp đổ và dẫn đến những hậu quả không tốt cho cuộc sống những người chạy theo những sao trần gian. Thường những sao trần gian dẫn người ta đến lầm lạc và đánh mất giá trị của con người. Các sao trần gian sống trong sự giàu sang hưởng thụ, đầy đủ tiện nghi, nhưng đầy tăm tối và tội lỗi, nhưng lại thu hút và lôi kéo người ta. Và ai cũng muôn mình thành sao hết.
Bên cạnh đó, Siêu sao Giêsu thì khác. Siêu sao Giêsu xuất hiện làm bừng lên giữa đêm tối, không phải một vì sao bình thường trên bầu trời mà là một vì sao sáng rất đặc biệt. Siêu sao đó không phải ở tận trên trời xanh nhưng là ở ngay bên chúng ta. Siêu sao này đem lại sự bình an cho những kẻ bị giam cầm, đem lại hạnh phúc cho người đau khổ, đem lại no ấm cho những người thiếu thốn. Siêu sao này mở mắt cho những người mù loà, sua trừ ma quỷ, chữa lành các bệnh tật. Đặc biệt, siêu sao này không chạy theo những danh - lợi - thú như các siêu sao ở trần gian. Siêu sao này không chạy theo tiền của. Trái lại siêu sao này hạ mình đến nỗi chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Siêu sao này qui tụ những con người hèn hạ, những người xem chừng bị xã hội gạt ra bên lề đường. Một nghịch lý từ một nơi rất tầm thường (chuồng bò) thì lại xuất hiện một con người rất phi thường, từ một nơi tối tăm lại chiếu toả ánh sáng cho muôn người.
Siêu sao Giêsu là siêu sao cho chúng ta phải thần tượng, phải bắt chước, chạy theo và nên giống Siêu sao Giêsu và chúng ta phải làm cho mọi người thấy được Siêu sao Giêsu trong cuộc sống hằng ngày của mình. Amen ---------------------------------
Ý của tác giả là gì? Trước là Ba Vua, nay là Hiển Linh? Bản văn rất khó hiểu vì là thể văn: HiểnLinh ABC190
Ý của tác giả là gì? Trước là Ba Vua, nay là Hiển Linh? Bản văn rất khó hiểu vì là thể văn "thần hiện" có nhiều chi tiết hoang đường khó giải thích.
Các bản văn về thời thơ ấu có muộn nhất trong các bản văn Phúc Âm Khi Đức Giêsu được tin chắc chắn và phổ biến là Đức Chúa và là Đấng Cuứ Thế "Messia" (Lc 2,36). Thì các lời Kinh Thánh đã được thực hiện. Mọi sự phải xảy ra theo như các lời Kinh Thánh đã tiên báo. Lấy những lời Kinh Thánh đã tiên báo mà viết lại về thời thơ ấu dệt thành những câu chuyện tường thuật theo cách riêng của mỗi tác giả như chúng ta thấy Luca khác Matthêu khác cộng với óc thần thoại và các chi tiết hoang đường để diển tả tính cách thần thánh của các sự việc. Gọi là thể văn "thần hiện". Thánh Âu Tinh cho là không nói sai mà là nhằm chuyển tải một ý tưởng thần học. Ý tưởng thần học thì rất thật. Cha Gomez: Phúc Âm là thần học. Đơn giản nhưng táo bạo vì là lần đầu tiên được nói lên. Trước kia vì bảo thủ và tôn sùng Kinh Thánh là của Chúa từ chấm từ phết nên cứ tin không nghi ngờ gì hết. Ngày nay Giáo Hội "để cho nói" và nhiều người dám nói và thử nói sau những nghiên cứu công phu của nhiều người và suốt thời gian chừng năm mươi năm.. Phải làm sao đi đến được ý của tác giả. Các vật liệu làm thành câu chuyện là miếng trầu làm đầu (giàu) câu chuyện. Cũng gọi là thể văn bình giải: giải thích Cựu Ước bằng Phúc Âm. Đúng hơn là để Đức Giêsu giải thích Cựu Ước.
Người ta đã phí nhiều công sức để tìm giải thích ngôi sao lạ là một sao chổi lệch quỹ đạo, vua hay đạo sĩ..v..v. Ngày nay: Đừng mất công vô ích. Đó chỉ là những chi tiết hoang đường (thần thoại) mà thể văn thần hiện thường dùng làm chất liệu.
Ba nhân vật chính làm thành bức tranh, đến từ phương đông mang lễ vật "vàng nhủ hương mộc dược" để cống bái là thực hiện Is.60,5: kho tàng bể khơi, nguồn phú túc của chư dân, những con lạc đà......họ sẽ loan truyền lời ca ngợi Chúa:
- Ba là con số của Thiên Chúa
- Phương đông: Văn hóa Á đông dùng chỉ người hiền "hiền triết".
- Ngôi sao lạ thực hiện Ds.24,17b: Một ngôi sao gốc từ Giacob mọc lên dẫn đầu, (cũng gọi là ngôi sao Giacob). Một vương trượng gốc từ Israel đứng lên: Vương trượng là vua. Vua chư hầu đến triều bái và triều cống Thiên Tử. Hài Nhi mới sinh là Thiên Tử, là vua Israel. Do thái gọi là Messia-Vua. Không biết ba vị ấy là nhân vật thế nào nhưng có lẽ ý của Matthêu muốn nói vua chư hầu đến triều cống Thiên Tử. Nên gọi là lễ Ba Vua.
- Bê lem vì Mk 5,1-3 đã tiên báo: Hởi Bêlem, đất Giuda....nơi ngươi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ sinh ra.
- Đức Giêsu là Đức Kitô thì mọi lời Kinh Thánh tiên bào về Messia đã được thực hiện nơi Đức Giêsu hay Đức Giêsu đã thực hiện những lời tiên báo ấy nơi bản thân Người. Phải hiểu và giải thích theo cách mà Đức Giêsu thực hiện. Nên nói Đức Giêsu làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng.
- Ba Vua: Vua chỉ vương trượng gốc từ Israel (Ds.24,17b).
- Lễ vật "vàng nhủ hương môc dược": quí nhất tượng trưng cho Is,60,5. Ý của Matthêu là Triều cống Thiên Tử, tuyên xưng Đức Giêsu là Messia- Vua người do thái mong đợi như đã tiên báo.
Ba Vua, sao lạ, lễ vật là ba chi tiết quan trọng nhất làm thành ngày lễ và có lý mà gọi là lễ Ba Vua. Các chi tiết khác là hoa lá râu ria trang điểm cho bài viết hấp dẫn.
Không giải thích cách nầy thì hoàn toàn bế tắc về những khác biệt giữa Mt và Lc và những sai lệch về lịch sử nếu cứ nói Kinh Thánh là Thiên Chúa mạc khải cứ tin không được nghị luận.. dù là chấm phết.
Phải nói là Phúc Âm không viết lịch sử. Chi tiết lịch sử được mượn tạm làm chất liệu nên không được quan tâm lắm tới tính chính xác. "Lịch sữ" có nghĩa là có xảy ra còn thời giờ và địa điểm thì lơ mơ thôi.
Quan tâm chủ yếu là thần học, là câu chuyện cứu độ. Phải đến càng gần ý của tác giả thì tốt.
Truớc Giáng Sinh Đức Maria và Giuse ở Nazarét hay Bêlem?
Lc: Nazaret để nói người là Nazareus (người của Nazaret). Không quan tâm tới dòng tộc Đavít. Sau bốn mươi ngày, dâng Đức Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy cho Đức Maria rồi thì trở về Nazaret. Không có trốn sang Ai cập. Luca bỏ qua nhiều chi tiết "do thái".
Mt: ở Bêlem. Trốn sang Ai Cập vì có lời Kinh Thánh "ta sẽ gọi con ta ra khỏi Ai Cập" (Để trốn sang Ai Cập thì phải bị đuổi giết). Sau khi ở Ai cập về vì sợ Archelao độc dữ mới về Nazaret. Bêlem: dòng tộc Đavít. Nazaret để người cũng được gọi là Nazareus. Matthêu kỹ lưỡng không bỏ sót chi tiết nào về do thái.
Những sai lệch về lịch sử thì giải thích thế nào? Luca sau bốn mươi ngày thì về Nazaret. Còn Matthêu thì khi đi Ai Cập Đức Giêsu đã hai tuổi. Hêrôdê chết năm 4 sau CN. Ít là bốn năm sau mới về Nazaret. Định về Bêlem nhưng sợ Archêlao mới lánh về Nazaret.
Kiểm tra dân số là vào năm thứ sáu sau Đức Giêsu thời Quirinô là thủ hiến Syria.
Lc chỉ muốn nói: Đức Giêsu là người Nazaret, ở Nazaret. Nhưng để có họ Davit thì có kiểm tra dân số dể lên Bêlem, sinh ra tại đó vì Giuse là dòng tộc Davít. Bêlem là thành của Đavít.
Còn Matthêu thì Đức Giêsu là Messia con vua Đavít (ở Bêlem), Ta gọi con ta ra khỏi Ai Cập (phải sang Ai cập rội trở về). Để là Nazareus thì về ở Nazarét.
Hêrôdê là tiểu vương của Galilê, miền bắc. Giêrusalem ở Giuda miền nam. Cho Hêrôdê ở Giêrusalem và tàn sát các anh hài vô tội là để thực hiện lòi Kinh Thánh: Gr 21,15: ở Rama...bà Rachel than khóc...vì con bà không còn nữa.(lịch sử đời không có ghi cuộc tàn sát nầy).
Hai bản gia phả cũng không giống nhau.
Luca thay vì HiểnLinh ABCthì có thiên thần bảo mục đồng và các chi tiết kèm theo là cách chứng minh riêng Đức Giêsu giáng sinh là "Đấng Cứu thế đã giáng sinh", là Đức Kitô, là Đức Chúa ví có các dạo binh thiên quốc hợp với các thiên thần ca tụng Thiên Chúa.
Rồi Simêon nói tiên tri, bà Anna nói tiên tri.
Tất cả nhằm chứng minh "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Luca không quan tâm Đức Kitô do thái, con Davít. Matthêu thì phải làm sao cho Đức Kitô là con Đavít do thái.
Đơn giản là mượn tạm những chi tiết lịch sử để phục vụ những muc đích thần học về cứu độ, mỗi vị theo cách của mình.
KẾT
Bài tường thuật là nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đức Kitô. Nhưng Matthêu thì là Đức Kitô-Vua do thái. Luca thì là Đức Kitô của muôn dân. Đức Kitô đã được tiên báo nay thực hiện, Mathêu thì đầy đủ mọi lời đã tiên báo còn Luca thì một ít.
Nghĩa 'áp dụng' của bài tường thuật là loan báo Đức Kitô cho muôn dân như ánh sáng muôn dân. Ngôi sao trên nền trời chung ai cũng thấy được. Nhưng thấy mà cất công tìm găp thờ lạy "tin" và dâng lễ vật quí nhất là suy phuc bằng tất cả cuộc đời chỉ có ba vị. Đó là "hành trình của đức tin" gian nan, phải vượt khó, đến nơi, gặp được Chúa mới được vui mừng. Có những tín hữu không được vui mừng vì chưa vượt khó, chưa gặp Chúa. Tín hữu mà chưa tin nên chưa có gì. Chúa ban nhiều trợ lực trên hành trình nhưng mỗi người phải cất công lên đường, quyết tâm vượt khó đi tìm Chúa, phải tới nơi, gặp được, tin mới có vui mừng.
Chúa Giêsu là ánh sáng muôn dân, ánh sáng mời gọi mọi người và chờ đợi đón tiếp niềm nở để trao cho niềm vui ơn cứu độ Người đã sắm sẳn qua sự Phục Sinh vinh quang, đang sống, dang hiện diện và đang hoạt động cứu dộ mọi người.
Thấy ngôi sao họ mừng rở vô cùng (c.10). Ngôi sao là cứu tinh, là DG. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh mà có thấy, có gặp và có vui mừng để rồi tiếp tục được vui mừng trong cuộc sống hằng ngày không. ---------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 2:1-12)
Câu hỏi của mấy nhà chiêm tinh “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” không phải: HiểnLinh ABC191
Câu hỏi của mấy nhà chiêm tinh “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?” không phải là câu hỏi bình thường, nhưng nó đã đòi mỗi người phải có một câu trả lời. Các nhà chiêm tinh thì lên đường từ nơi xa xôi để đến bái lạy Người. Vua Hê-rô-đê và dân Giê-ru-sa-lem thì bối rối xôn xao. Muốn gỡ rối, nhà vua đã tìm đủ cách để có thông tin chính xác về Hài Nhi. Ông ra lệnh cho các thượng tế và kinh sư tra cứu Kinh Thánh xem Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Ông còn xảo quyệt bí mật hỏi các nhà chiêm tinh về ngày giờ “ngôi sao” của Hài Nhi xuất hiện. Biết được là Người sinh tại Bê-lem, ông sai họ đi Bê-lem và vờ vịt xin họ sau khi kiếm được Hài Nhi thì cho ông biết, để ông “cũng đến bái lạy Người”. Quả là một âm mưu thâm độc nhằm giết hại Đấng Ki-tô!
Nhưng chính Đấng Ki-tô ấy lại là Đấng các nhà chiêm tinh và chúng ta đang cố gắng tìm đến. Hơn 700 năm trước Chúa giáng sinh, ngôn sứ Mi-kha đã nói về vai trò của Bê-lem: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. Thực ra Bê-lem là một trong những thành nhỏ nhất trong Ít-ra-en, nhưng nó nổi tiếng một thời vì là quê hương của vua Đa-vít. Có lẽ vì ở gần bên cạnh Giê-ru-sa-lem, nên Bê-lem trở nên lu mờ trước tầm quan trọng của thánh đô. Giờ đây Thiên Chúa phục hồi thế giá cho Bê-lem khi Người cho Con Một giáng trần tại nơi bị quên lãng này. Có khi nào chúng ta nghĩ những lời ngôn sứ Mi-kha nói về Giê-ru-sa-lem cũng là những lời ngài nói về mỗi người chúng ta không? Tại sao lại không, vì mỗi tâm hồn chúng ta sẽ là một Bê-lem để Chúa sinh ra và ở lại, để cho danh hiệu Em-ma-nu-en được thể hiện nơi chúng ta. Chúng ta mỗi người là một cá thể nhỏ nhất trong nhân loại. Nhưng mỗi người đều có một phẩm giá lớn lao để làm một Bê-lem cho Đấng cứu độ sinh ra trong chúng ta và chăn dắt chúng ta. Nhưng đâu là dấu hiệu cho thấy Chúa Giê-su sinh ra trong tâm hồn chúng ta? Ngôi sao dừng lại ở Bê-lem là dấu hiệu Hài Nhi đang ở đấy. Đèn chầu trong nhà thờ là dấu hiệu Chúa Giê-su hiện diện trong Thánh Thể.
Vậy thì Bê-lem của tâm hồn chúng ta cũng phải có một dấu hiệu, đó là một đức tin sống động biểu lộ qua việc làm hơn là lời nói. Hành vi của các nhà chiêm tinh “sấp mình thờ lạy” và “dâng tiến vàng, nhũ hương và mộc dược” là hành vi nhận biết con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su là Đấng cứu độ. Hành vi nhận biết ấy cũng mở ra cho họ một con đường mới, đi lối khác mà về xứ mình chứ không theo con đường gian ác của vua Hê-rô-đê. Đến lượt chúng ta cũng phải làm những gì họ đã làm để tiếp tục hành trình đức tin Ki-tô của chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Thực ra danh hiệu Ki-tô hữu đã nói lên vai trò của chúng ta là Bê-lem cho Chúa sinh xuống rồi. Tuy nhiên chúng ta thường lại thiếu vắng những tâm tình và lòng tin của các nhà chiêm tinh. Chúng ta nhiều khi không đi theo ngôi sao, tức là theo sự hướng dẫn của đức tin Ki-tô. Chúng ta lắm lúc không mừng rỡ vô cùng vì có Chúa trong tâm hồn. Chúng ta không sấp mình thờ lạy Chúa, trong khi lại chạy theo và tùng phục những thứ thuộc về thế gian. Chúng ta không dâng tiến Chúa tất cả bản thân chúng ta và sẵn sàng để cho con người và sứ mệnh Chúa Ki-tô hoàn toàn chiếm đoạt và biến đổi con người chúng ta.
Nhờ bí tích Rửa tội, Chúa đã phục hồi chúng ta thành một Bê-lem quan trọng giữa gia đình nhân loại rộng lớn. Chúng ta cứ sống những lời hứa rửa tội là sẽ xuất hiện một ngôi sao để dẫn đường cho những người chung quanh tìm gặp Chúa. Bê-lem chỉ thực sự là Bê-lem khi nó có một ngôi sao lấp lánh trên bầu trời của chúng ta!
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa to mình ra cho thế giới, cho con người, cho mọi người mà đai diện là ba: HiểnLinh ABC192
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa to mình ra cho thế giới, cho con người, cho mọi người mà đai diện là ba nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta. “ Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện “ ( Mt 2, 2 ). Ba nhà đạo sĩ cứ dõi theo ngôi sao lạ mà đi tìm gặp Hài Đồng Giêsu tại Hang đá Bêlem.
Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đã tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông. Đây là những người ngoại giáo, những người được coi là ở ngoài, những người không hề biết gì về đạo. Do đó, lễ Hiển Linh được coi là lễ Sinh Nhật của người ngoại đạo. Tuy nhiên, thánh Gioan trong đoạn khởi đầu Tin Mừng đã viết:” Ngài đã đến nơi nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài “. Đây là cái bi đát của chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Lời ngôn sứ Isaia từ 600 năm trước đã được thực hiện: “ Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước…Lạc đà từng đàn cho rợp đất lạc đà của người Mađian và Êpha, hết thảy từ Saba kéo đến, mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Chúa “ ( Is 60, 1-6 ). Ba nhà đạo sĩ đã trung thành đi theo ngôi sao lạ và họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu. Đêm hôm ấy, có lẽ cũng có vô số người nhìn lên bầu trời và đã thấy vô số các vì tinh tú, những ngôi sao lấp lánh trên trời, nhưng họ đã không thấy và nhận ra ngôi sao lạ để có thể đi tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh ra tại Bêlem.Ba nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng khi nhận ra ngôi sao lạ mà còn chuẩn bị lễ vật: vàng, hương và mộc dược là ba vật quí của miền phương Đông để triều bái, cung tiến Vua Giêsu.
Và trên đường đi đã có lúc ba nhà đạo sĩ đã không nhìn thấy ánh sao dẫn đường, họ đã hết lòng hỏi thăm người này người kia để tiếp tục tìm kiếm. Họ cũng đã gặp nhiều cạm bẫy của những con người lòng nham hiểm, xấu xa, một Hêrôđê giả bộ ân cần nhưng thâm sâu thì đầy ghen tỵ, ác hiểm. Ba nhà đạo sĩ đã một lòng, can đảm và hăng say vượt biết bao dặm trường, cuối cùng họ đã tới nơi gặp được Hài Nhi Giêsu đang nằm trong Hang đá Bêlem khó nghèo. Nhưng các Ông đã sấp mình, cung kính dâng lễ vật cho Hài Đồng Giêsu với tấm lòng thành, dạ hân hoan, toại nguyện.
Thái độ của các nhà đạo sĩ là thái độ của lòng tin đích thực. Trong khi ấy những Kinh sư, Thượng tế là những người thông hiểu Kinh Thánh, Lề Luật nhưng họ lại đóng lòng lại, không chịu mở mắt ra để nhìn, để thấy, họ cứ ngồi lì tại chỗ. Họ tự coi như những người có đạo nhưng thực tế họ lại đang ở ngoài. Còn những người bị coi là vô đạo, ở ngoài lại là những người đã tìm gặp được Chúa.
Đối với chúng ta, ngôi sao lạ là ý muốn của Thiên Chúa, là đức tin vào Chúa Kitô, là ánh sáng của Chúa Kitô soi chiếu vào cuộc đời chúng ta và dẫn đường cho chúng ta đi về Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều khi mắt chúng ta bị che khuất không nhìn ra ánh sáng của Chúa Kitô soi sáng, bởi những đà cản của ích kỷ, của tâm địa hẹp hòi, ích kỷ của chúng ta. Để có thể tìm gặp được Chúa Kitô, chúng ta phải liều mạng như các nhà đạo sĩ, ra khỏi con người của chúng ta là thích hưởng thụ, thích dễ dãi, sợ gian khổ vv…
Các nhà đạo sĩ đã gặp được Chúa Giêsu và Đức Mẹ . Họ đã bái chào và cung tiến cho Hài Đồng Giêsu lễ vật quí giá của địa phương họ. Họ đã thực sự gặp được Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Bởi vì, Chúa đến trần gian có cha có mẹ, Chúa đến gian trần trong một gia đình. Chúng ta không thể gặp Chúa Kitô khi tách rời Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Các nhà đạo sĩ dâng Chúa Giêsu: vàng, nhũ hương và mộc dược. Chúng ta cũng dâng Chúa Kitô tấm lòng vàng, hương thơm của lời cầu nguyện, mộc dược hy sinh để mưu ích cho các linh hồn.
Lễ Hiển Linh là lễ Giáng Sinh của người ngoại, nhưng cũng là lễ mà mọi người chúng ta phải ý thức vai trò, trách nhiệm của chúng ta là truyền giáo. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những nhà truyền giáo vì nhờ họ mà nhiều người và chính chúng ta mới nhận biết được Chúa, nhờ họ mà chúng ta mới có niềm vui hiển linh. Đó là Chúa đã tỏ mình cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho lục địa Á Châu của chúng ta bởi vì Chúa đã tỏ mình ra cho mọi người từ 2010 năm rồi nhưng dân tộc Á Châu vẫn còn rất ít người nhận ra Chúa như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết trong Tông Huấn:” Giáo Hội tại Á Châu:” Tham vọng duy nhất của Giáo Hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “ có sự sống và sống dồi dào”( Ga 10, 10 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin biến chúng con mỗi Kitô hữu trở nên một ngôi sao lạ dẫn đường cho nhiều người tìm và gặp Chúa Cứu Thế. Amen.
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về: HiểnLinh ABC193
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giê-su trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1:18).
Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60:1-6)
Qua cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a, Giê-ru-sa-lem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa” và trung tâm cứu độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giê-ru-sa-lem cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi Giê-ru-sa-lem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay đổi. Giê-ru-sa-lem đã được chọn làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giê-ru-sa-lem hãy đứng cao lên để toàn thế giới nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giê-ru-sa-lem sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một vương quốc mới.
Ngôn sứ I-sai-a sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại Giê-ru-sa-lem mới. Muôn dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để nhìn nhận “vinh quang của Thiên Chúa”.
Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (l Ga 4:9). Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giê-ru-sa-lem mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giê-su Ki-tô và thánh Phao-lô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Ki-tô.
Mầu nhiệm Đức Ki-tô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3:2-3a.5-6)
Thần học gia Phao-lô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh Phao-lô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Ki-tô. Do đó, thánh Phao-lô gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Ki-tô nên thánh Phao-lô gọi là “Mầu nhiệm Đức Ki-tô”.
Thánh Phao-lô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Ki-tô”? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Ki-tô khẳng định tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ cùng một bản thể nhân loại với Đức Ki-tô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho ta trong Đức Ki-tô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Ki-tô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Ki-tô Giê-su. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy “trong Đức Ki-tô Giê-su”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho thiên hạ” (Rm 8:3). Đức Ki-tô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức Ki-tô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8:29).
Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là “nhờ Tin Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ trước”, tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô” (Rm 10:14-17).
“Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người” (bài Tin Mừng – Mt 2:1-12)
“Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phao-lô đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giê-su trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giê-ru-sa-lem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự thật. Chúa Giê-su Ki-tô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.
Rõ ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Ki-tô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giê-ru-sa-lem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Ki-tô. Gặp được Đức Ki-tô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi lối khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây chính là con đường Đức Ki-tô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ mình” không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Ki-tô và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.
Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giê-su, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Ki-tô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ bỏ lối sống cũ để đi theo lối sống của Đức Ki-tô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa Hiển Linh).
• Is 60,1-6: (2) Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. (3) Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
• Ep 3,2-3a.5-6: (6) Mầu nhiệm Đức Kitô là: trong Đức Kitô, nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Dothái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
• TIN MỪNG: Mt 2,1-12
Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giêsu Hài Nhi
(1) Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, (2) và hỏi: «Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người». (3) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: «Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: (6) 'Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời». (7) Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: «Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người. » (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình. CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Các kinh sư Do Thái có tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập, còn các nhà chiêm: HiểnLinh ABC194
Các kinh sư Do Thái có tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập, còn các nhà chiêm tinh là dân ngoại, bị dân Do Thái coi là theo tà giáo. Nhưng trong bài Tin Mừng này, ai là người gặp được Đấng Cứu Thế Hài Nhi? Tại sao lại như vậy? Có phi lý không?
Có tôn giáo chân chính có phải là điều bảo đảm sẽ gặp Thiên Chúa, sẽ được vào Nước Trời không? Không có tôn giáo chân chính có phải là không thể gặp Thiên Chúa hay không thể vào Nước Trời không? Vấn đề chính yếu hệ tại điều gì? Suy tư gợi ý:
Một sự kiện xảy ra một cách oái oăm, nghịch lý
Điều đáng lưu ý trong bài Tin Mừng lễ Hiển Linh chính là việc Thiên Chúa mặc khải chân lý – ở đây là việc giáng sinh của Đấng Cứu Thế – một cách không chính thức cho dân ngoại, là những người không thuộc tôn giáo chính thống của Ngài, và họ đã đạt được chân lý hay đã gặp được Đấng Cứu Thế.
Trong bài Tin Mừng này, ta thấy có hai hạng người:
1. Dân Do Thái, cụ thể là giới lãnh đạo xã hội và tôn giáo, là dân được Thiên Chúa tuyển chọn và có tôn giáo chính thống của Thiên Chúa. Dân Do Thái đã được Thiên Chúa chính thức mặc khải việc Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra qua các ngôn sứ trước đó hàng mấy trăm năm, mặc khải này đã được ghi lại trong Kinh Thánh, và toàn dân đều mong đợi Đấng Cứu Thế đến. Có Thánh Kinh trong tay, giới lãnh đạo xã hội và tôn giáo của Do Thái biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại Bêlem.
2. Dân ngoại, mà đại diện là «mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông» (Mt 2,1). Họ không có tôn giáo chính thống của Thiên Chúa, cũng không có Kinh Thánh trong tay, vì thế họ không biết chính xác Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và sinh ra ở đâu. Nhưng Thiên Chúa cho họ biết Đấng Cứu Thế đã sinh ra nhờ một phương tiện khác, có thể là kiến thức khoa học hay tôn giáo riêng của họ.
Kết quả là những người có tôn giáo chính thống, có Kinh Thánh trong tay, biết được chính xác nơi sinh ra của Đấng Cứu Thế lại không gặp được Ngài vì họ không thèm đi tìm. Còn những người không có tôn giáo chính thống, chỉ biết được Ngài sinh ra một cách rất mơ hồ, lại gặp được Đấng Cứu Thế, vì họ đã quyết tâm tìm kiếm Ngài. Sự kiện này phải làm chúng ta suy nghĩ và rút ra bài học.
Biết xuông không đủ, phải biến cái biết thành cuộc sống
Sự kiện trên cho chúng ta thấy: việc có tôn giáo chính thống hay biết được những mặc khải chính thức của Thiên Chúa là một điều rất thuận lợi để đạt được chân lý hay để gặp được Thiên Chúa. Nhưng có đạt được chân lý hay có gặp được Thiên Chúa hay không còn tùy thuộc vào thiện chí và nỗ lực tìm kiếm của con người. Những người Do Thái – cụ thể nhất là giới lãnh đạo Do Thái giáo – tuy biết được chính xác Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại Bêlem, nhưng họ chỉ biết để mà biết, để rao truyền, để thông tin cho người khác, chứ không phải để sống hay để thực hiện điều mình biết. Nên cuối cùng những thuận lợi hay kiến thức ấy trở thành vô ích cho họ. Còn dân ngoại – mà các nhà chiêm tinh là một điển hình – tuy được Thiên Chúa mặc khải chân lý một cách mù mờ không chính xác, nhưng nếu họ có thiện chí, và nỗ lực tìm kiếm để đạt đến chân lý, để gặp Thiên Chúa, thì cuối cùng Ngài cũng giúp họ đạt được điều họ tìm kiếm. Đúng như lời của Đức Giêsu: «Ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở cho họ» (Mt 7,8). Vậy vấn đề quan trọng là ta có nỗ lực đi tìm hay thực hiện điều mình biết hay không.
Nếu các nhà chiêm tinh cũng có não trạng như giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, thì khi «thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông» (Mt 2,2), họ cũng sẽ chỉ coi đó như một kiến thức như bao kiến thức khác chẳng ảnh hưởng gì đến họ, và họ sẽ chẳng gặp được Đấng Cứu Thế. Nhưng trong thực tế họ đã quyết tâm lên đường tìm kiếm Ngài. Và Thiên Chúa đã giúp họ bằng cách cho ngôi sao dẫn đường đến nơi Đấng Cứu Thế sinh ra. Điều khiến họ hơn hẳn những người được chính thức mặc khải là việc dấn thân tìm kiếm. Kết quả cho thấy nỗ lực tìm kiếm chân lý hay Thiên Chúa có giá trị hơn việc biết được những mặc khải chính thức rất nhiều.
Đừng vội tự mãn về việc mình có tôn giáo chân chính
Vì thế, chúng ta đừng vội tự hào rằng tôn giáo của chúng ta là tôn giáo chân chính, và cứ thế mà an tâm vì chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho những chân lý bảo đảm nhất. Nếu chúng ta quyết tâm lợi dụng tôn giáo chính thống hay những mặc khải chính thức để tìm gặp Thiên Chúa, thì chúng ta có lợi thế hơn người ngoại giáo rất nhiều. Nhưng nếu chúng ta ỷ lại vào lợi thế đó để khỏi phải cố gắng sống đúng theo những mặc khải đó thì coi chừng chúng ta sẽ chẳng đạt được gì cả. Chuyện ngụ ngôn thỏ và rùa chạy đua là một bài học rất đích đáng cho những người có tôn giáo chính thống như chúng ta. Thỏ có nhiều thuận lợi để thắng cuộc hơn rùa rất nhiều, nhưng chính vì ỷ lại vào những thuận lợi đó mà thỏ đã thua cuộc. Cũng vậy, người đi bộ hay đi chiếc xe đạp cọc cạch mà quyết tâm tới đích thì vẫn bảo đảm sẽ tới đích hơn là người có chiếc xe hơi thật tốt thật nhanh nhưng lại không quyết tâm đi tới đích ấy.
Qua bài Tin Mừng về lễ Hiển Linh, ta thấy để gặp được Thiên Chúa, cần có hai yếu tố: về phía Thiên Chúa, ta cần phải được Thiên Chúa soi sáng, chỉ dẫn, mời gọi và giúp sức; về phía ta, chính ta phải đáp lại lời mời gọi và nỗ lực tìm kiếm Ngài. Thiếu một trong hai yếu tố đó, việc gặp Thiên Chúa không thể thành tựu được. Yếu tố về phía Thiên Chúa luôn là yếu tố khởi động: Ngài mời gọi ta trước, và Ngài để ta được hoàn toàn tự do trong việc đáp lại hay từ chối lời mời gọi của Ngài. Yếu tố về phía ta vẫn là yếu tố chủ động mang tính quyết định. Đối với các kinh sư Do Thái, qua Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Họ được mặc khải rõ ràng, được mời gọi một cách ưu tiên hơn và trân trọng hơn các nhà chiêm tinh rất nhiều, nhưng họ lại không chủ động đáp lại lời mời gọi ấy. Còn đối với các nhà chiêm tinh, Thiên Chúa đã cho họ thấy vì sao của Đấng Cứu Thế. Họ tuy được mặc khải rất ít, và không được ưu tiên mời gọi, nhưng lại chủ động đáp lại lời mời gọi và lên đường tìm kiếm. Thiên Chúa đã giúp họ tìm kiếm bằng ngôi sao dẫn đường, và họ đã tìm được Đấng Cứu Thế.
Từ đó, ta có thể kết luận: yếu tố quan trọng để gặp Chúa không nằm ở việc có tôn giáo chính thống cho bằng ở chính nỗ lực của con người có quyết tâm đáp lại lời mời gọi của Ngài và có tìm Ngài hay không. Người không có tôn giáo chân chính vẫn có thể gặp được Ngài nếu quyết tâm và nỗ lực tìm kiếm Ngài. Ngược lại, người có tôn giáo chân chính mà thiếu nỗ lực đó thì tôn giáo chân chính trở nên vô ích đối với họ. Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12).
Thánh Phaolô quảng diễn ý tưởng ấy rõ ràng hơn: «Phép cắt bì hẳn là có ích nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì» (Rm 2,25). Câu này cho thấy phép cắt bì hay rửa tội, dấu chứng của người có tôn giáo chân chính, sẽ trở nên vô ích nếu ta không tuân giữ luật của Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết tiếp: «Trái lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa lại chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật» (Rm 2,26-27). Lời này cho thấy người không được cắt bì hay rửa tội, nếu sống đúng thánh ý Thiên Chúa, tuân giữ luật Chúa được ghi khắc trong lương tâm họ (x. Rm 2,15) – nghĩa là yêu mến Thiên Chúa bằng đời sống yêu thương tha nhân, sống trọn tình trọn nghĩa – thì họ cũng được Thiên Chúa coi như đã được cắt bì hay rửa tội. Vì thế, điều quan trọng đối với chúng ta, người Kitô hữu, là phải làm theo thánh ý Thiên Chúa, giữ đúng luật mới và cũng là duy nhất của Đức Kitô là «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Không giữ luật của Ngài thì việc theo Chúa hay có tôn giáo chân chính của ta chẳng những trở nên vô ích, mà còn là lý do để Thiên Chúa kết án ta nữa. CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã mặc khải chân lý cho con qua Đức Giêsu. Đó là một thuận lợi đặc biệt cho con hơn những người ngoài Kitô giáo để sống đúng là con cái Cha và đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mà Cha dành cho con cái mình. Xin giúp con ý thức hồng ân cao cả ấy để con sống đúng là con cái hiếu thảo của Cha, sống đúng thánh ý Cha là sống có tình có nghĩa với Cha và với tất cả mọi người chung quanh con. Nếu không, tất cả những chân lý mà Cha mặc khải cho con đều trở nên vô ích và còn nên cớ cho con bị lên án trong ngày phán xét cuối cùng nữa.
Joan Nguyễn Chính Kết ---------------------------------
Giáo Hội suy gẫm việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại qua Đức Giê-su trong ba hoàn cảnh: HiểnLinh ABC195
Giáo Hội suy gẫm việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại qua Đức Giê-su trong ba hoàn cảnh đặc biệt: lễ Hiển Linh (Ba Vua), lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa và lễ Chúa Giê-su hiển dung (Biến hình) trên núi Ta-bô-rê. Đây cũng là ba thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế: Người đến trần gian, Người bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng và Người đi lên Giê-ru-sa-lem để lãnh nhận cuộc Thương khó và chịu chết chuộc tội cho nhân loại. Tuy là những thời điểm hiển linh khác nhau, nhưng nội dung của việc Thiên Chúa tỏ mình ra đều xoay quanh một điểm chính là tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa dành cho nhân loại. Vậy qua Hài Nhi Giê-su, Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Em-ma-nu-en), Thiên Chúa muốn nói với ta điều gì và mong đợi ta làm gì để đáp lại tình yêu của Người? Thiên Chúa tỏ ra tình yêu của Người cho nhân loại
Hiển Linh trong Cựu Ước diễn ra trong cảnh hùng vĩ của miền núi Xi-nai (Xh 19:16-25). “Ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi... Toàn dân trong trại đều run sợ... Đức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai.” Cuộc thần hiện được mô tả trong sách Xuất Hành cho ta hình ảnh của một Thiên Chúa đầy uy nghi nghiêm túc, tựa như các thần của dân ngoại. Chỉ trừ ông Mô-sê, mọi người Ít-ra-en đều sợ hãi và không được phép đến gần Đức Chúa kẻo phải ngã ra mà chết. Trong khung cảnh ấy, ta khó có thể tìm được nét yêu thương của một Thiên Chúa là Cha nhân từ.
Nhưng giờ đây trong khung cảnh nghèo nàn của hang đá Bê-lem, Thiên Chúa đã cất bỏ đi tất cả vẻ uy nghi cao cả của Người để hiện thân là một trẻ sơ sinh yếu đuối và tầm thường hơn cả những trẻ sơ sinh khác. Thánh Phao-lô đã gọi hành vi này của Thiên Chúa là “hóa không” (annihilation, self-emptying) hoặc “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” (Pl 2:6). Một cuộc “tự hủy” như thế ắt phải có lý do chính đáng. Thánh Gio-an nêu lên lý do ấy và lấy đó làm chủ đề cho tất cả những gì ngài viết trong sách Tin Mừng cũng như trong các thư của ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
So sánh giữa hai cách hiển linh ấy, ta thấy rõ hiển linh trong Cựu Ước nhằm giới thiệu một Đức Chúa uy quyền và đòi buộc dân tuyển chọn của Người phải hoàn toàn tôn thờ duy một mình Người mà thôi. Còn nội dung của hiển linh trong Tân Ước là để tỏ ra tình yêu của Thiên Chúa và bảo đảm của Thiên Chúa là hễ ai tin nhận tình yêu ấy thì sẽ được sống đời đời. Thật thích đáng khi Phụng vụ Lời Chúa từ sau lễ Giáng Sinh cho đến lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa đã sử dụng thư thứ nhất của thánh Gio-an Tông đồ để mời gọi ta tiếp tục chiêm niệm tình yêu Thiên Chúa làm người và cư ngụ giữa chúng ta, một cách hiển linh quá gần gũi đến nỗi ta không bao giờ tưởng tượng nổi. Thiên Chúa không đến trong sấm chớp mây mù khiến cho ta sợ hãi mà chết nữa, nhưng Người đến trong con người tầm thường trong cảnh đơn sơ nghèo nàn để ta dễ dàng tiếp nhận Người và ta được sống muôn đời. “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”
Đi cả một chuyến đi ngàn dặm, lặn lội và đối phó với bao hiểm nguy để cuối cùng làm một cử chỉ hết sức đơn sơ là sấp mình bái lạy và dâng tiến tất cả những gì mình có, mấy nhà chiêm tinh đã cho ta một mẫu mực để thực hiện cuộc hành trình đức tin của ta. Đường xa khiến ta ngại ngùng và nguy hiểm làm ta sợ hãi. Cũng thế, cuộc hành trình đức tin của ta không phải chỉ trong một ngày một tháng, nhưng là từ khi chào đời cho tới lúc nhắm mắt. Trong hành trình ấy, ta có những thăng trầm và nhất là phải luôn luôn đối phó với cám dỗ, yếu đuối con người và những quyến rũ của thế gian. Các nhà chiêm tinh thấy được ánh sao tức là họ đã nhìn nhận vương quyền của Chúa Giê-su. Ý thức vương quyền của Chúa Giê-su đã trở nên động lực thúc đẩy họ đi tìm gặp Người, soi sáng cho họ biết luôn gắn bó với thao thức được gặp Chúa và nâng đỡ họ chấp nhận mọi gian khó trong cuộc tìm kiếm này.
Đức tin đưa họ đến gặp Chúa Giê-su, nhưng đức tin còn đưa họ đi xa hơn nữa, đó là sấp mình bái lạy Người và mở bảo tráp dâng tiến Người tất cả những gì họ có. Sấp mình bái lạy là cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng duy nhất ta phải bái lạy hay phụng thờ, như Chúa Giê-su đã đối đáp với Xa-tan khi nó cám dỗ Người trong hoang địa. Ở điểm hẹn trên núi trước khi Chúa Giê-su phục sinh lên trời và sai các tông đồ đi giảng Tin Mừng, các tông đồ đã bái lạy Người để tuyên xưng Người là Đức Chúa. Như vậy, qua câu truyện các nhà chiêm tin sấp mình bái lạy Hài Nhi, rõ ràng thánh sử Mát-thêu đã nêu cao việc tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa như mục đích cuộc hành trình đức tin của ta rồi vậy.
Tiếp đến, cử chỉ mở bảo tráp và dâng tiến lễ vật cũng là điều ta cần phải làm trong cuộc hành trình đức tin của ta. Ta không cần biết số lượng lễ vật của các nhà chiêm tinh là bao nhiêu, nhưng ta biết chắc đó là tất cả những gì quý giá nhất và ý nghĩa nhất đối với họ. Bảo tráp của họ là để giữ gìn lễ vật và sẵn sàng được mở ra cho Chúa và cho mọi người. Tất cả chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích. Phương tiện để giúp họ sống và biểu lộ niềm tin vào Chúa Cứu Thế. Nhưng đó cũng là gương mẫu cho ta biết mở lòng đón nhận Chúa. Ta không thể khóa bảo tráp cho kỹ để khư khư giữ lấy những gì ta trân quý. Nhưng ta phải sử dụng tất cả những gì được chứa trong đó để tuyên xưng Đức Ki-tô và sứ mệnh của Người, Đấng là Vua, là Thiên Chúa và là người sống giữa nhân loại.
Suy nghĩ và cầu nguyện
Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại qua Hài Nhi Giê-su. Người đã chọn một cách thức tầm thường và dễ dàng để ta nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Người. Đối với tôi, đâu là dấu chỉ để tôi nhận ra sự hiện diện yêu thương của Chúa trong cuộc đời tôi? Nếu Hài Nhi Giê-su là “Em-ma-nu-en” thì Thiên Chúa có thực sự ở cùng tôi không? Nói khác đi, tôi có tiếp nhận Đấng Em-ma-nu-en không?
Ôn lại một vài thăng trầm đáng kể trong hành trình đức tin của tôi, tôi nhận ra được những ý nghĩa nào của những thăng trầm ấy?
Tôi đang trữ gì trong bảo tráp của tôi? Những gì là trở ngại để tôi không thể hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em? Cầu nguyện “Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng. Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. A-men.” - - Kinh dâng hiến của thánh I-nhã
Giờ Suy Niệm Ban Sáng với Chủ Đề của Đại Hội Giới Trẻ 2005:
"Chúng tôi đến thờ lạy Người." (Mt 2,2) Đức Ông Dr. Heiner Koch – TGP Kưln (được truyền thanh qua đài Radio WDR - Đức quốc)
Kính thưa quý thính giả,
xin gởi đến Quý Vị lời chào ban sáng!
Câu nói của HiểnLinh ABCtừ Phương Đông được tường thuật lại trong Phúc Âm Thánh Mátthêô đã là: HiểnLinh ABC196
Câu nói của HiểnLinh ABCtừ Phương Đông được tường thuật lại trong Phúc Âm Thánh Mátthêô đã là tiêu đề của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức vào tháng 8 năm 2005. Trong dịp này, hàng trăm ngàn Bạn Trẻ khắp nơi trên thế giới sẽ đổ dồn về thành phố Koeln tại Đức quốc. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã mời các Bạn Trẻ hãy như Ba Vua: ra đi để tìm thấy Chúa Kitô trong cuộc sống của chính mình. Vì, như HiểnLinh ABCkhi xưa, cho đến lúc các Ngài tìm thấy được Hài Nhi Thiên Chúa thì họ đã phải trải qua một chặng đường đầy gian nan. Qua bao nhiêu khốn khó, các Ngài đã cảm nhận được rằng, Chúa đã đến trong cuộc đời của mình; và rồi qua đó các Ngài mới thật sự cảm sống được với Tin Mừng Giáng Sinh: sự trông đợi Chúa đến đã hiển nhiên trở thành sự thật.
Kính thưa quý thính giả, trong tuần lễ này, tôi chân thành mời gọi quý vị nhìn lại chặng đường HiểnLinh ABCđã đi, để nhận thấy rằng, con đường ấy cũng chính là hành trình cuộc sống của chúng ta; nó có thể đưa nhân loại đến cuộc gặp gỡ trong dịp mừng lễ Giáng Sinh: đó là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với loài người. Điều đầu tiên HiểnLinh ABCthốt lên và cũng là câu hỏi: "Vua dân Do thái mới được sinh ra hiện ở đâu?" Điều này cho thấy rõ rằng, sự hiểu biết của các Ngài cũng còn rất nông cạn và không phải điều gì cũng thực hiện được. Các Ngài cũng không muốn nuôi trong mình ý tưởng này. Chính vì vậy mà sự hiếu kỳ đã thôi thúc các Ngài đi tìm, đi hỏi. Trong cuộc hành trình này, các Ngài đã khám phá ra được rất nhiều những vết tích của Thiên Chúa đã ghi lại trong cuộc đời mình. Cũng chính vì tầm nhìn của các Ngài được mở rộng, nên các Ngài mới có thể nhận ra ngôi sao dẫn các Ngài đến cùng Thiên Chúa.
Ai thắc mắc thì tầm nhìn cuộc sống của họ được mở rộng. Ai đặt những vấn đề về cuộc sống thì sẽ tiến bước xa hơn. Những thắc mắc ấy là một quá trình nội tâm, là một cuộc hành trình đi tìm đáp số cho những câu hỏi về ý nghĩa cũng như nền tảng, về tầm nhìn cũng như về những triển vọng, về mục tiêu cũng như về cùng đích của cuộc đời mình. HiểnLinh ABCđã là những con người vượt qua được vòng hạn hẹp cuộc cuộc sống thường nhật để thắc mắc nhìn về phương xa. Tấm lòng chân thành ấy, tấm lòng dành cho Thiên Chúa qua những thắc mắc và qua những cuộc tìm kiếm cũng là con đường mà Chúa Giêsu sau này sẽ đi. Con đường để tìm thấy Thiên Chúa. "Hãy tìm, các ngươi sẽ thấy!" (Mt 7,7).
Trong những lần Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đã qua, tôi đã cảm nhận được thật mãnh liệt lòng hăng say đi hỏi, đi tìm kiếm Thiên Chúa của các Bạn Trẻ. Có lẽ, kết thúc những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới những người lớn tuổi cũng xác thực được rằng: Những ngày này chúng ta đã gần gũi Thiên Chúa hơn qua chính những thắc mắc của chúng ta.
Những câu hỏi và thắc mắc về Thiên Chúa sẽ luôn là một cuộc hành trình liên lỉ trong cuộc sống. Luôn luôn chúng ta lại có dịp suy nghĩ về Thiên Chúa và rồi lại thắc mắc: Ngài muốn gì nơi chúng ta và con đường nào trong cuộc sống Ngài đưa chúng ta đi. Kể cả những người giàu lòng tin cũng vẫn cần cả cuộc đời để mỗi lúc càng tiến sâu hơn vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúng ta sẽ không bao giờ thấu hiểu được tất cả về Chúa vì Ngài luôn vượt hơn tất cả những suy nghĩ, những hiểu biết và những cảm nhận của con người chúng ta. Nếu không thì Ngài đâu phải là Thiên Chúa. Những ai liên lỉ cả cuộc đời đi tìm kiếm Thiên Chúa thì luôn luôn mở rộng cõi lòng để khám phá ra những điều thuộc về Thiên Chúa. Ai luôn mong mỏi kiếm tìm Thiên Chúa - thì cũng giống như HiểnLinh ABCxưa kia họ sẽ ngỡ ngàng khi gặp được Thiên Chúa trong một hoàn cảnh họ không thể ngờ được. Chúa Giêsu đã luôn kêu gọi các môn đệ "Hãy thức tỉnh" vì các con không biết ngày giờ nào Chúa muốn gặp các con. Ai muốn tìm hiểu về Chúa thì kẻ ấy cũng luôn thức tỉnh đón chờ, kẻ ấy luôn luôn sẵn sàng đón nhận những gì Ngài tác động trong cuộc sống của họ. Câu châm ngôn: "Ai không thắc mắc thì kẻ ấy là người đần độn" cũng có thể áp dụng được trong trường hợp này, cho những người không muốn tìm hiểu Thiên Chúa trong chính cuộc đời của mình. Amen.
(Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Dũng) Mục Vụ Công Giáo Việt Nam miền Đông Bắc Đức (www.DHGT-2005.net) ---------------------------------
Giờ Suy Niệm Ban Sáng với Chủ Đề của Đại Hội Giới Trẻ 2005:
"Chúng tôi đến thờ lạy Người." (Mt 2,2) Đức Ông Dr. Heiner Koch – TGP K Kưln (được truyền thanh qua đài Radio WDR - Đức quốc)
Kính thưa quý thính giả, xin gởi đến Quý Vị lời chào ban sáng!
Để thành công một dự định nào đó thì điều đáng quyết định thường là khởi điểm của công: HiểnLinh ABC197
Để thành công một dự định nào đó thì điều đáng quyết định thường là khởi điểm của công việc. Bắt đầu là điều không dễ cho mọi người, bởi vì vạn sự khởi đầu nan. Theo kinh nghiệm chúng ta cũng thừa biết rằng: cũng thật là khó nếu như cứ luôn bám lấy công việc. Và lắm khi chúng ta cũng cảm thức được rằng: định luật quán tính không chỉ là khía cạnh của vật lý nhưng ở nghĩa xa hơn, nó cũng nằm trong cơ thể, trong lý trí, trong tâm hồn và kể cả trong tâm linh của chúng ta nữa. Đã bao nhiêu lần, vì sự tiện nghi và mệt mỏi mà chúng ta đánh mất đi những nhiệt tình sôi động khi bắt đầu giải quyết một vấn đề hay khi ra tay thực hiện một công việc nào đó.
Vào thời điểm Giáo Hội Công Giáo Đức, và đặc biệt là Tổng Giáo Phận Koeln nhận tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Công Giáo Thế Giới vào tháng 8 năm 2005 thì có nhiều những băn khoăn thoạt đến, nào là: Làm sao chúng ta có thể thực hiện nổi? Làm sao lo được chỗ ăn, chỗ ở cho hàng triệu thanh thiếu niên khắp nơi đổ về? Những thánh lễ cho số lượng người khổng lồ như thế thì phải làm như thế nào? Ai có thể chi phí được những việc này; rồi còn vấn đề di chuyển? Những ân nhân tài trợ? Tất cả là những điều không thể nào làm được! Tất cả những vấn nạn nêu ra dễ là mối nguy cơ đưa đến sự việc là, chúng ta không còn can đảm, chẳng dám cùng với các Bạn Trẻ khắp nơi và cùng với Đức Thánh Cha cất bước thực hiện cuộc hành hương này.
Nhưng rồi, trước mắt chúng ta, HiểnLinh ABCxưa kia, những khách hành hương tiên khởi đến với Chúa vẫn còn đó; và đặc biệt là lộ trình của các Ngài đến máng cỏ Bêlem. Trong tuần lễ này tôi muốn cùng với quý Thính Giả liên tưởng đến hình ảnh này. Phúc Âm thánh Mátthêu tường thuật lại rằng, các Ngài đã trông thấy một ngôi sao lạ. Điều quan trọng là: các Ngài không chỉ đứng đó nhìn Ngôi sao lạ và các tinh tú trên bầu trời một cách ngỡ ngàng hay lấy làm ngạc nhiên, nhưng các Ngài đã khởi hành lên đường; các Ngài cất những bước đầu tiên, bắt đầu cho một cuộc hành trình thật là dài; mặc dù không biết sẽ mất bao nhiêu thời gian, có thể gặp những bất trắc nguy cơ trên đường đi; và mặc dù các Ngài cũng không biết mình có tìm ra được đích điểm của cuộc hành trình này hay không và Ngôi sao này sẽ dẫn mình đi về phương trời nào? Dù vậy, các Ngài vẫn can đảm cất bước vì, dù sao đi nữa, một cuộc hành trình dài đều được bắt đầu bởi những bước chân đầu tiên. Can đảm cất bước là điều đáng nói tới. Ai chấm dứt trước khi bắt đầu; ai ngần ngại không sẵn sàng đón nhận những điều mới mẻ vào trong cuộc sống của mình thì kẻ ấy gần như đã chết hơn là đang sống. "Cuộc sống không phải là một cảnh tĩnh vật trong bức tranh" họa sĩ Oskar Kokoschka, người Áo đã thốt lên như vậy.
HiểnLinh ABCPhương Đông xưa kia đã can đảm lên đường và vì các Ngài dám ra đi nên các Ngài mới thu lượm được kinh nghiệm: Ngôi Sao Thiên Chúa đã dẫn họ đến cùng đích. Nếu chúng ta không có can đảm để bắt đầu hay không tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa cho hành trình cuộc sống thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy được Hài Nhi Thiên Chúa trong máng cỏ và cũng không khám phá ra được Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Điều cần đến là lòng can đảm phút ban đầu và lòng lạc quan tin tưởng vào khởi điểm, không riêng gì cho những tổ chức thật vĩ đại như Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vào năm 2005 tại Koeln.
Luôn cất bước và ra đi là một cơ hội lớn và cũng là hồng ân đặc biệt. Điều này chúng ta có thể cảm nghiệm được qua những tai ương bất ngờ cũng như những lần thất bại trong quá khứ cuộc đời. Đôi lúc những gánh nặng lỗi lầm đã đè nén trên đôi vai, tưởng chừng làm cho chúng ta không thể nào bắt đầu được một điều gì mới cả. Nhưng rồi vì lòng khoan dung và tình yêu vô biên của Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được sống lại trong ân sủng của Ngài, và làm cho chúng ta được thêm lòng can đảm và nghị lực, để từ đó lại bắt đầu một hành trình mới. Ơn Chúa ban tặng cho chúng ta lòng can đảm để hân hoan cất bước ra đi và đem lại cho cuộc sống một sinh lực mới, bởi vì như văn hào Hermann Hesse đã nói: "bắt đầu nào cũng có một tiên ông ngự đó, đấng che chở, phù trì và giúp chúng ta sống."
Tôi xin cầu chúc Quý Vị thật nhiều can đảm và nghị lực để ngày hôm nay, trong công tác nào đó quan trọng, thì Quý Vị với ý thức mà hãy mạnh dạn bắt tay vào việc, hãy mạnh dạn lên đường. Amen.
(Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Dũng) Mục Vụ Công Giáo Việt Nam miền Đông Bắc Đức (www.DHGT-2005.net) ---------------------------------
Giờ Suy Niệm Ban Sáng với Chủ Đề của Đại Hội Giới Trẻ 2005: "Chúng tôi đến thờ lạy Người." (Mt 2,2) Đức Ông Dr. Heiner Koch – TGP Kưln (được truyền thanh qua đài Radio WDR - Đức quốc)
Kính thưa quý thính giả, xin gởi đến Quý Vị lời chào ban sáng!
Trong những cuộc tranh luận về tình hình chính trị nóng bỏng thì nghi vấn thường được đặt ra là: HiểnLinh ABC198
Trong những cuộc tranh luận về tình hình chính trị nóng bỏng thì nghi vấn thường được đặt ra là sự tín nhiệm: dựa vào những nghị luận của chính trị gia nào, của đảng phái nào để nền kinh tế có thể tín cẩn được. Những điều ngày hôm ngay được tán đồng, ca ngợi thì điều ấy hôm sau bỗng nhiên trở thành tờ giấy nháp bị vất bỏ đi. Những gì mà nhiều người thường chỉ trích các chính trị gia đã là những điều căn bản chung cho xã hội đương thời: sự bền vững trong nó có lẽ chính là những gì không chắc chắn. Mọi sự cứ thường xuyên thay đổi. Đó cũng là những áp lực đang đè nặng nhiều người và làm cho họ phải thích nghi với những thay đổi và phải luôn luôn "cập nhật hóa." Và rồi nhiều người đã săn đuổi, chạy đua với cuộc sống thường ngày, không riêng gì trong công việc nghề nghiệp. Sự lo sợ bị "ra rìa" luôn bám lấy họ. Những ai muốn sống ngày hôm nay của ngày mai thì họ cũng mau đạt được một ngày mai của ngày hôm trước ấy. Một họa sĩ đã nói: "Khi tôi vẽ một bức tranh thì bức tranh đã lập tức lỗi thời trước khi những màu sắc vẽ trên ấy khô đi." Dựa trên những điều kiện này thì những khuynh hướng như sự trung tín và lòng tin cậy không có "đương thời" chút nào cả. Nó đã dần mất đi trong những mối tương quan giữa con người. Tinh thần trách nhiệm và sự gắn bó bền bỉ - thí dụ như trong hôn nhân đối với nhiều người - nó đã quá cũ và nó không còn hợp thời nữa.
Mặc dù như thế, nhưng mỗi người đều sống từ lòng trung thành và sự tín nhiệm của người khác. Con cái chỉ có thể triển nở nếu như các em có thể tin tưởng vào bố mẹ. Nếu không có sự liên hệ bền bỉ với bố mẹ - từ đó con cái cảm nhận được sự đùm bọc yêu thương - thì cuộc sống của chúng thật cằn cỗi. Kể cả trong khía cạnh khoa học kỹ thuật cũng vậy, nó cần sống dựa vào việc làm đáng tin cậy của những nhà nghiên cứu. Nhiều những tiến bộ sẽ không thành công, nếu như những khoa học gia không có nhiều kiên nhẫn và sự bền bỉ trong những công trình khoa học mà họ đang khám phá; nó cũng không thành nếu như lòng nhiệt thành và sự phấn khởi của phút ban đầu không còn đó nữa.
Lòng trung thành và sự tín nhiệm đã là điều kiện tiên quyết để cuộc sống con người được phát triển. Điều này cũng nằm trong cuộc sống của chúng ta đối với Thiên Chúa. Có thể trong một lúc nào đó chúng ta dễ đặt trọn niềm tin của mình vào Thiên Chúa và không ngừng cảm nhận được sự gần gũi của Ngài bên mình; nhưng cũng có những lúc trong cuộc đời, mình cảm chừng như Chúa xa mình, hay mình hoài nghi về sự hiện hữu của Ngài hay là chúng ta không còn đặt niềm hy vọng vào Ngài được nữa. Tưởng chừng đó là những lúc Chúa không còn đỡ nâng chúng ta nữa. Những lúc đau khổ và buồn tủi chúng ta vẫn thốt lên câu hỏi: Chúa ở đâu rồi vậy Chúa?
Trong tuần lễ này, chúng ta được dịp cùng đồng hành với HiểnLinh ABCtừ Phương Đông trên chặng đường đến Bêlem. Ba Ngài cũng vậy, trên cuộc hành trình, các Ngài đã đánh mất Chúa trong tầm nhìn của mình. Các Ngài không còn biết đi tiếp như thế nào nữa, và con đường này sẽ dẫn họ về đâu. Các Ngài không còn thấy ngôi sao lạ dẫn đường, các Ngài không tìm đâu ra phương hướng để đi. Nhưng trong hoàn cảnh này, các Ngài quyết bám lấy cùng đích mà mình muốn đạt đến: các Ngài không bỏ cuộc, các Ngài cố gắng đi tìm cho bằng được vị Vua mới giáng sinh. Các Ngài đi hỏi, đi tìm khắp nơi. Các Ngài không thất vọng. Trong lúc này, lòng trung thành và lòng tin cậy của các Ngài đã là điều rất cần thiết vì rốt cuộc, chính điều này đã dẫn HiểnLinh ABCđến với Chúa Kitô. Nếu không có khả năng chịu đựng, không có lòng trung thành với Chúa, chính những lúc đi tìm Ngài, và nếu không có tinh thần trách nhiệm thì ngày hôm nay, chúng ta cũng sẽ không tìm thấy Thiên Chúa được.
Trong thời gian chuẩn bị cho những ngày Đại Hội Giới Trẻ 2005, một Bạn Trẻ tàn tật đã làm cho tôi nhận thấy rằng, thế nào là lòng trung thành. Vào dịp Lễ Lá vừa qua tại Rôma chúng tôi đón nhận cây Thánh Giá từ các bạn trẻ Canada và của Đức Thánh Cha, một dấu chỉ cho những ngày Đại Hội Giới Trẻ: Thánh Giá Đại Hội Giới Trẻ này, từ cuộc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần đầu tiên vào năm 1984, đã luôn cùng đồng hành cho những chuỗi ngày sau ấy. Chúng tôi đã đưa Thánh Giá Giới Trẻ về K#ln, và đã được rất nhiều các Bạn Trẻ tại Đức quốc hân hoan đón mừng. Trong một cuộc hành hương vào ban đêm, nhiều Bạn Trẻ đã vác Thánh Giá đi bộ đến nhà thờ chính tòa tại Altenberg. Trong số các bạn trẻ này thì có một người tàn tật, nhân vật mà tôi đã nêu ra. Tôi có cảm giác rằng, đoạn đường đi theo sau Thánh Giá thật vất vả, gian nan cho anh Bạn tật nguyền nên tôi đã ngỏ lời mời anh đi chung một đoạn đường bằng xe Buýt, nhưng anh ta đã trả lời: "Chúa Giêsu đã phải đi trót đoạn đường vác Thập Giá" rồi anh ta cùng vác Thánh Giá đến Altenberg. Có lẽ anh ta là người biết hơn nhiều người khác: thế nào là ý nghĩa của cuộc đời nếu như chúng ta với lòng trung thành và lạc quan tin tưởng mà cùng vác Thập Giá của mình với Đức Kitô. Amen.
(Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Dũng) Mục Vụ Công Giáo Việt Nam miền Đông Bắc Đức (www.DHGT-2005.net)
Giờ Suy Niệm Ban Sáng với Chủ Đề của Đại Hội Giới Trẻ 2005:
"Chúng tôi đến thờ lạy Người." (Mt 2,2) Đức Ông Dr. Heiner Koch – TGP Kưln (được truyền thanh qua đài Radio WDR - Đức quốc)
Kính thưa quý thính giả, xin gởi đến Quý Vị lời chào ban sáng!
Don’t worry, be happy!" (Đừng lo nghĩ gì, hãy vui lên!) - đây là một khẩu hiệu mà ngày nay: HiểnLinh ABC199
"Don’t worry, be happy!" (Đừng lo nghĩ gì, hãy vui lên!) - đây là một khẩu hiệu mà ngày nay chúng ta thường được nghe hát như những lời nhắn nhủ cho cuộc sống. Nhưng rồi khẩu hiệu này đối với nhiều người như một điều châm biếm diễu cợt. Làm sao họ có thể không lo lắng trong lúc họ đang thất nghiệp hoặc họ đang ngao ngán thất vọng về một người nào ấy; nếu như họ đang đau khổ vì bệnh hoạn hay tàn tật, nếu như họ không thành đạt được những giờ họ chờ đợi, hoặc lúc họ tưởng chừng như trọn niềm hạnh phúc của họ bị cướp mất đi qua cái chết của một người thân. Chính trong những giây phút ấy nhiều người mới cảm thức được rằng: chúng ta không thể tự tạo ra niềm hạnh phúc cho chính mình. Đương nhiên chúng ta có thể góp công, góp sức để người khác cũng như chúng ta có thể đi đến con đường hạnh phúc. Chúng ta cũng có thể làm hoàn toàn ngược lại những điều ấy, để rồi chính chúng ta hoặc người khác không có được hạnh phúc, hay là chúng ta luôn làm cản trở niềm hạnh phúc chung.
Nhưng rồi chúng ta vẫn không có thể tự tạo ra niềm hạnh phúc: chúng ta không mua nó được, cũng không lấy sức mà cưỡng ép nó; không đạt được qua những thành quả trên đường công danh và qua những cuộc giải phẩu thẩm mỹ, không đạt được qua những nhu cầu bổ sức và lo lắng cho sắc đẹp. Nó cũng không đạt được qua những xa xỉ phẩm, bằng thuốc thang hay qua những cuộc trị liệu. Niềm hạnh phúc đến với chúng ta, nhiều lúc như những chuyện bên lề. Nó chợt đến trong lúc chúng ta không cần đi tìm. Niềm hạnh phúc như một món quà ban tặng cho chúng ta và chúng ta chỉ có thể đón nhận mà thôi. Đôi lúc nó chợt đến với mình như những nụ hoa hé mở trên nhánh cây Barbara tưởng chừng như đã chết khô. Nhánh cây này nhiều người trong chúng ta vẫn thường cắm trong bình dịp lễ mừng Thánh Nữ Barbara đó.
Trong những ngày này, chúng ta được dịp cùng đồng hành với HiểnLinh ABCtừ Phương Đông trên cuộc hành trình về Bêlem của các Ngài. Các Ngài cũng cảm nhận được điều này. Sau một cuộc hành trình dài mất bao thời gian các Ngài đã mất hướng và không còn biết mọi sự sẽ như thế nào, sau khi cuộc sống của các Ngài bị u tối đi thì bỗng nhiên các Ngài lại khám phá ra được ngôi sao sáng "và các Ngài mừng rỡ vô cùng," như Thánh Mátthêu đã tường trình lại (Mt, 2, 10). Điều mà ngôi sao sáng tự dưng chiếu rọi trên đầu các Ngài để dẫn đường chỉ lối đã đem lại cho các Ngài tràn trề niềm vui.
Ngôi sao này đối với các Ngài có tác dụng bao gồm hơn mọi tinh tú trên vòm trời vì tất cả những khinh nghiệm sống được nằm gọn trong ngôi sao này: Thiên Chúa không để chúng ta phải bơ vơ, Ngài nâng tay che chở chúng ta, Ngài làm cho cuộc sống chúng ta trong sáng như sao vậy. Chúa cũng đi phía trước để hướng dẫn và đồng hành với chúng ta về đến cùng đích. Điều này cũng có nghĩa là: chúng ta không bơ vơ một mình, chúng ta không bị lọt vào tình huống vô phương cứu chữa, cũng không bị gục ngã dưới những sức mạnh của số phận hoặc thấy rằng mọi sự trở thành vô nghĩa. Qua ngôi sao này như là một dấu chỉ, các Ngài đã cảm nghiệm thật rõ rệt về những gì các Ngài đón nhận được trên con đường sống của mình: Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng ta, kể cả những lúc cuộc đời chúng ta tràn đầy u tối và những lúc mình tưởng chừng như không biết mình về đâu nữa. Chúng ta được ấp ủ yêu thương trong bàn tay Thiên Chúa.
Mặc dù chúng ta không nhìn thấy Chúa nhưng Chúa vẫn luôn nhìn thấy chúng ta. Mặc dù nhiều lúc chúng ta không còn biết đi về đâu nữa thì Ngài biết được con đường mình đi. Chính lúc HiểnLinh ABCnhận ra điều này thì trong tim họ được tràn đầy niềm vui, các Ngài cảm nhận được sâu xa niềm vui của sự hiện hữu Thiên Chúa.
Cùng với Ba Vua, hàng trăm ngàn các Bạn Trẻ khắp nơi trên thế giới cùng với chúng ta lên đường đến Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại thành phố K#ln vào tháng 8 năm 2005. Chặng đường này đã được bắt đầu từ Rôma vào dịp Chúa nhật Lễ Lá 2003, lúc mà Đức Thánh Cha trao cây Thánh Giá Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới cho các Bạn Trẻ người Đức. Buổi lễ này được cử hành sau những nghi thức Phụng Vụ Lễ Lá. Khoảng 100.000 tín hữu đang hiện diện tại công trường Thánh Phêrô và hàng triệu khán giả theo dõi qua truyền hình đã thấy, trong buổi lễ này, một anh Bạn Trẻ tàn tật trong nhóm người Đức đang ở phía trước, cạnh Đức Thánh Cha, anh ta đến trước Thánh Giá, đội đầu và vỗ tay trong niềm hân hoan. Sau này, anh ta mới nói với tôi như vầy: "Thế nào Chúa Giêsu cũng vui lắm, lúc mà con làm như vậy." Tôi cảm nhận được rằng, anh Bạn này thận chan hòa niềm vui khi ở kề bên Thánh Giá: Niềm vui, đó là một món quà qua sự hiện hữu của Thiên Chúa mà chúng ta chỉ có thể trong tâm tình cảm tạ mà đón nhận. Tất cả đều là những điều thật vĩ đại trong cuộc đời con người, kể luôn cả một ngày mới đang đón chờ chúng ta, đó là một Hồng Ân và luôn là Hồng Ân Thiên Chúa. Ai nhận thấy điều này trong cuộc đời của mình thì kẻ ấy là người luôn cảm tạ Thiên Chúa; và đây cũng có thể là một điều kiện tiên khởi để cuộc sống của mình được tràn đầy niềm vui hơn. Amen.
(Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Dũng)
Mục Vụ Công Giáo Việt Nam miền Đông Bắc Đức www.DHGT-2005.net ---------------------------------
Đức Ông Dr. Heiner Koch – TGP Kưln (được truyền thanh qua đài Radio WDR - Đức quốc) Suy Niệm 5:
Kính thưa quý thính giả, xin gởi đến Quý Vị lời chào ban sáng!
Ba nhà thông thái (Ba Vua) từ phương đông đã can đảm cất bước lên đường dù chưa biết sẽ đi: Bavua200
Ba nhà thông thái (Ba Vua) từ phương đông đã can đảm cất bước lên đường dù chưa biết sẽ đi về đâu. Họ phải dò hỏi và tìm kiếm cái đích mà họ muốn đến. Họ điều chỉnh lại những lúc bị lạc lối. Họ đã kiên trì luôn tin tưởng vào sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Với sự bền chí và phó thác vào Thiên Chúa họ đã đến đích và vô cùng ngạc nhiên khi gặp được vị Vua Do Thái mới sinh là một HÀI NHI yếu đuối trong một chuồng bò điêu tàn ở Bêlem. Nơi chuồng bò này, trước Hài Nhi này họ đã khám phá ra cho họ một cung cách mà qua đó họ được thoả mãn tất cả những khao khát kiếm tìm bấy lâu nay: cung cách thờ lạy - cho nhiều người thời nay là một thái độ sống đã bị chìm vào quên lãng và không còn được mấy ai chú ý.
Tại sao cung cách thờ lạy lại quan trọng cho cuộc sống của chúng ta như vậy và làm cách nào để chúng ta có được thái độ sống này? Triết gia Max Scheler đã viết: „Nguy khó dạy chung ta cầu nguyện nhưng không dạy chúng ta tâm tình thờ lạy.“ Nhưng có thật gian khó dẫn chúng ta đến việc cầu nguyện không? Chẳng phải gian khó đã dạy con người than trách nhiều hơn là cầu nguyện hay sao? Từ gian khó mà nảy sinh ra tâm tình thờ lạy thì lại càng là chuyện hiếm hoi hơn, đôi lúc những chuyện không may xảy ra làm ta „ngẹn lời“ và những chuyện không thể ngờ có thể làm chúng ta lao đao „ngã quỵ.“ Nhưng cầu nguyện và sự thờ lạy dẫn ta vượt qua được trạng thái không biết nói gì. Nó dẫn ta đến đối thoại với Chúa. Trong cầu nguyện và trong tâm tình thờ lạy con người nối lại mối tương quan với Ngài như một tương quan mật thiết. Trong cầu nguyện và trong thờ lạy con người tự nói nên: Con biết Ngài, lạy Chúa, Ngài luôn ở bên con, con đặt tin tưởng nơi Ngài, tất cả những gì con có được là nhờ Ngài ban. Trong tâm tình thờ lạy con người hạ mình cúi đầu xuống trước mặt Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa to lớn vô cùng và chúng ta thường phải chấp nhận là chúng ta không thể thấu hiểu Ngài - cách riêng trong những hoàn cảnh đau khổ, nguy khó. Có thể chính ngay trong những giây phút nguy khốn đó ý nghĩa của thờ lạy hiện rõ hơn: với lòng khiêm cung để Chúa lớn như chính là Ngài. Con người với tâm tình thờ lạy công nhận rằng mầu nhiệm của Thiên Chúa vượt xa vô cùng trên cả những suy nghĩ, hiểu biết và cảm nhận của con người. Nhưng đồng thời người đó xác tín rằng Thiên Chúa đấng to lớn vô cùng và thấu biết từng người, lo cho từng người và không để ai phải cô đơn trong những nước mắt của cuộc sống họ và trong cái chết. Người với tâm tình thờ lạy tin rằng chính trong những lúc nguy khó Ngài luôn ở bên ta và chia sẻ cuộc sống với ta.
Khi HiểnLinh ABCtìm thấy Thơ Nhi yếu đuối trong chuồng bò nghèo nàn, họ đã nhận ra Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Họ cũng nhìn ra Thiên Chúa Đấng toàn năng này có một trái tim cho chúng ta. Từ lòng yêu thương này Ngài đã sẵn sàng sống và chịu đau khổ với chúng ta, chia sẻ cuộc sống của Ngài với chúng ta, ngay cả trong những giờ phút thất vọng, chịu đau khổ và trong giờ chết. Trước đấng tối cao và nhân hậu, đấng mà họ đã gặp được nơi Thơ Nhi yếu đuối trong máng cỏ ở Bêlem, họ đã cung kính quỳ gối dâng lên Ngài của lễ và thờ lạy Ngài. Lúc này cuộc hành hương của họ đã đạt đến đích. Bây giờ họ đã gặp được vị Vua mới sinh, hài nhi trong máng cỏ, người muốn ban tặng cho cuộc sống của họ và của chúng ta niềm vui cùng sự sung mãn.
“Chúng tôi đến để thờ lạy Người“ (Mt 2,2). Những lời này của HiểnLinh ABCtừ phương đông là chủ đề của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2005 tại K#ln. Những ngày ở K#ln trong cốt tủy của nó phải trở thành những ngày đến thờ lạy Chúa. Hàng trăm ngàn bạn trẻ từ khắp thế giới sẽ lên đường đến K#ln. Mong rằng trong những ngày này họ được tiếp đón niềm nở trước hết là trên khắp nước Đức rồi đến vùng đồng bằng sông Rhein (chú thích: thành phố K#ln thơ mộng nằm hai bên bờ sông Rhein).
Mong rằng họ sẽ sống những giờ phút thật vui tươi trong cộng đồng giới trẻ thế giới. Hy vọng những ngày tại K#ln sẽ là những ngày đầy biến cố và nhiều kinh nghiệm phong phú cho những người khách trẻ của chúng ta. Hy vọng rằng chúng ta sẽ được sống qua những giờ phút vui tươi qua cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và giới trẻ.
Nhưng cần hơn hết những ngày của giới trẻ tại K#ln phải là những ngày của việc thờ lạy Chúa. Tôi xin quý vị cùng cầu nguyện để thật nhiều người trẻ - và biết đâu qua đánh động bởi giới trẻ cả những người lớn tuổi hơn trong xã hội chúng ta - cùng bắt đầu lại cuộc lên đường đến thờ lạy Chúa. Cha Alfred Delp, người bị Đức quốc xã giết, đã viết: „Bánh mì là cần thiết, sự tự do cần hơn, nhưng điều cần thiết nhất là lòng trung kiên không hề lay chuyển và tâm tình thờ lạy không đổi thay.“ Amen.
(chuyển ngữ: Công Tráng) Mục Vụ Công Giáo Việt Nam miền Đông Bắc Đức www.DHGT-2005.net