Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 201-250 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Giờ Suy Niệm Ban Sáng với Chủ Đề của Đại Hội Giới Trẻ 2005: "Chúng tôi đến thờ lạy Người." (Mt 2,2)
Đức Ông Dr. Heiner Koch – TGP Kưln (được truyền thanh qua đài Radio WDR - Đức quốc)
Kính thưa quý thính giả,
xin gởi đến Quý Vị lời chào ban sáng!
Khi HiểnLinh ABCsau một cuộc hành trình dài đến nơi hang đá Bêlem, chắc chắn họ đã trải qua một cuộc: HiểnLinh ABC201
Khi HiểnLinh ABCsau một cuộc hành trình dài đến nơi hang đá Bêlem, chắc chắn họ đã trải qua một cuộc hành hương gian truân. Sự hăng hái lúc khởi sự lên đường mà họ đã phải bám giữ đến cùng cho suốt đoạn đường dài và không được chán nản bỏ cuộc, chẳng hạn trong lúc bị lạc mất hướng đi. Ta có thể phỏng đoán mà không sợ sai rằng: họ sẽ chẳng bao giờ tìm đến được Hài Nhi nơi máng cỏ nếu như họ ra đi một mình. Đối với họ thì gần như là điều kiện sống còn là họ hợp thành một cộng đồng cùng đi với nhau. Nhóm đồng hành này là một ân huệ sâu xa, một quà tặng của Thiên Chúa ban cho họ.
Họ đồng hành với nhau đi đến Bêlem, cùng nhau họ đã tìm thấy Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Trong giây phút này Hội thánh đã trở thành hiện thực đối với họ: “Nơi đâu có hai hoặc ba người họp lại nhân danh Ta thì ta ở giữa họ” (Mt 18,20). Nơi hang đá Bêlem HiểnLinh ABCđã cảm nhận được một cách sống động thế nào là Hội Thánh: Sự kết hiệp của Chúa với nhân loại chúng ta.
Đó là một lời chứng sâu xa của kinh thánh nói rằng HiểnLinh ABCkhi bước vào hang đá đã nhìn ra Hài Nhi và Maria Mẹ Người: Mẹ Người cũng là mẹ của tất cả các anh chị em Kitô hữu. Qua đó Mẹ là Mẹ giáo hội. Chúng ta có quyền xác tín rằng, Mẹ đã cưu mang con của Mẹ thế nào thì Mẹ cũng sẽ nâng đỡ Hội Thánh Người, qua đó nâng đỡ chúng ta là anh chị em của Người. Từ niềm tin sâu xa này là chúng ta được nâng đỡ trong Hội Thánh của Người, chúng ta sẽ múc được nghị lực để nâng đỡ và đôi khi cũng để chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta trở thành những người khuân vác lẫn cho nhau và giúp nhau để cùng đến với Chúa Kitô, cùng đích của cuộc sống chúng ta.
Hình ảnh đó gợi lên cho chúng ta: điều tốt đẹp trong Hội Thánh là không chỉ có riêng nhóm Ba Vua, mà phải kể thêm những con lạc đà đã ra công chuyên chở các ngài nữa. Không có sự bền bỉ chịu đựng của các con vật này chắc chắn HiểnLinh ABCkhông thể tới đích được bằng sức lực riêng của họ. Thật phấn khởi khi chúng ta thấy được nhiều người trong Hội Thánh đang sát cánh bên chúng ta để nâng đỡ các gánh nặng cũng như chịu đựng với chúng ta nữa. Vậy thì nhiệm vụ nào chúng ta có thể đảm nhiệm để nâng đỡ và giúp đỡ những người khác cùng đạt được đến đích của cuộc sống, nghĩa là tìm được Chúa Giêsu.
Từ những kinh nghiệm về Thiên Chúa và về Giáo Hội, HiểnLinh ABCđã tìm được sức mạnh cho cuộc hành trình, đồng thời họ cũng biến đổi thành những người mới với kinh nghiệm đức tin và cuộc sống mà họ đang trên con đường trở về lại quê hương của mình. Từ mẫu gương của HiểnLinh ABCchúng ta nhận ra rằng, ý nghiã về Hội Thánh không thể trở thành những thành viên chỉ “đóng khung riêng” cho chính mình. Một chiếc thuyền và chiếc thuyền Hội Thánh nằm thật an toàn trong một bến cảng, nhưng nếu vậy thì con thuyền không được người thợ đóng lên với mục đích đó. Như thế con thuyền cũng như Hội Thánh không thể chỉ dùng riêng cho chính mình mà phải để phục vụ và chuyên chở nhân loại đến với Thiên Chúa.
Với kinh nghiệm về Thiên Chúa trong Hội Thánh chúng ta cần phải làm lay động được người Kitô hữu để lên đường và để họ đi đến những ai chưa biết về hang đá Bêlem và chưa đến thờ lạy Thiên Chúa. Hội Thánh chúng ta cũng phải sẵn sàng lên đường để luôn luôn tự đổi mới. Nếu chúng ta luôn là một cộng đoàn sẵn sàng lên đường thì sẽ có sự can đảm dám đi tới những người khác để làm chứng trong lời nói cũng như hành động cho Tin Mừng yêu thương của Thiên Chúa.
Trên con đường của HiểnLinh ABCđến từ phương đông chúng ta thấy con đường của Hội Thánh trước mắt: cùng nhau trở thành con đường hành hương của cuộc đời, cùng nâng đỡ cho nhau, biết sửa lỗi của mình, tự mình đến với Đức Kitô và tiếp theo hợp cùng cộng đoàn Hội Thánh đến thờ lạy Ngài và sau đó trên đường trở về đến với tha nhân như là một nhân chứng của đức tin. Tất cả những điều này là tâm nguyện của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vào tháng 8 năm 2005 của Giáo Hội Công Giáo Đức. Những người Công Giáo tại Đức đang chuẩn bị cho biến cố quan trọng này.
Những thành quả tổ chức và tài chính đang thực hiện với niềm hy vọng chúng ta sẽ đón tiếp Đức Giáo Hoàng vào ngày kết thúc, 21.8.2005 với hàng trăm ngàn Bạn Trẻ trong thánh lễ bế mạc. Quan trọng hơn hết từ bây giờ chúng ta cần chuẩn bị về tâm linh để trở thành những người chủ nhà tốt cho lễ hội niềm tin. Tôi hy vọng chúng ta sẽ như HiểnLinh ABCcảm nghiệm được: khi cho đi thì nhận lại được nhiều hơn. Các Ngài đã mang những quà tặng đến hang đá Belem và trở về với niệm hạnh phúc thật sâu đậm trong tâm hồn. Giáo Hội Đức hy vọng sẽ tìm được chổ trú ngụ tốt cho hằng trăm ngàn Bạn Trẻ trong những ngày Đại Hội. Chúng ta cũng hy vọng tại Đức qua các Bạn Trẻ sẽ làm cho Giáo Hội sống động lại và mạnh mẽ thêm. Một kinh nghiệm như thế là điều ước mong nhất của người Công Giáo và Hội Thánh tại Đức quốc. Amen.
(chuyển ngữ: Công Tráng & Lm. Paul Tuấn) Mục Vụ Công Giáo Việt Nam miền Đông Bắc Đức www.DHGT-2005.net
Từ nhà tù Rô-ma, thánh Phao-lô viết thư thăm giáo đoàn Ê-phê-xô mà ngài đã đưa họ trở lại: HiểnLinh ABC202
Từ nhà tù Rô-ma, thánh Phao-lô viết thư thăm giáo đoàn Ê-phê-xô mà ngài đã đưa họ trở lại với Chúa khoảng năm 53-56, nhắc nhở họ về "kế hoạch ân sủng Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài", tức là sứ vụ Tông đồ Dân ngoại. Làm Tông đồ Dân ngoại, Phao-lô phải "am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô" và có bổn phận đặc biệt rao giảng mầu nhiệm ấy cho những anh chị em không phải là Do-thái.
Trong thư Ê-phê-xô và thư Cô-lô-xê, mầu nhiệm Đức Ki-tô, hoặc được gọi tắt là Mầu nhiệm, là chủ đề được Phao-lô trình bày cặn kẽ, đó chính là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đức Ki-tô là Đầu để mọi sự quy về một mối (recapitulation), là Nguyên lý để Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc chúng ta.
Xuất xứ của mầu nhiệm này dĩ nhiên là từ ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta và thánh Phao-lô còn mạnh dạn gọi ý định ấy là việc Thiên Chúa "tiền định" (xem 1:5.9.11). Vậy trong kế hoạch cứu độ này, có hai điều Thiên Chúa đã hoạch định từ trước muôn đời (= tiền định): "cho chúng ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô" (1:5.11.13); và trao cho các Tông đồ sứ vụ rao giảng Tin Mừng ấy cho người Do-thái cũng như cho Dân ngoại.
Thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh đến một chiều kích vô cùng quan trọng của Mầu nhiệm Đức Ki-tô đã từng là nguyên nhân gây chia rẽ hoặc hiểu lầm giữa Ki-tô hữu gốc Do-thái và gốc Dân ngoại. Trước đây chưa hề thấy sự kiện Dân ngoại và dân Do-thái chung sống huynh đệ trong một cộng đoàn, làm thành một thân thể. Nhưng từ nay, Đức Ki-tô sẽ là Đấng để "trong Người, cả anh em nữa (= Dân ngoại) cũng được xây dựng cùng với những người khác (= Do-thái) làm thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí" (2:22). Mầu nhiệm này không một ai trước đây, kể cả các thiên thần (3:10), biết được ý định của Thiên Chúa muốn kêu gọi mọi người và hòa giải dân Do-thái với Dân ngoại. Giờ đây, mầu nhiệm đã được mặc khải cho các Tông đồ và ngôn sứ nhờ Thánh Thần, để các ngài là những "người phục vụ Tin Mừng" sẽ đem công bố cho mọi người. Như thế rõ ràng thánh Phao-lô muốn đề cập tới tính cách phổ quát của Mầu nhiệm Đức Ki-tô. Mầu nhiệm Đức Ki-tô, hay kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho dân Do-thái, mà là cho cả Dân ngoại nữa.
Chính vì ý nghĩa ấy nên đoạn thư Ê-phê-xô đã được đưa vào Phụng vụ Lời Chúa lễ Hiển Linh để nói lên việc Chúa tỏ ơn cứu độ của Người cho muôn dân. Trong Thánh lễ, chúng ta mừng sự kiện những người Dân ngoại đầu tiên (Ba Vua) đã đến bái phục dưới chân Đức Ki-tô. Họ là những người đầu tiên của cả lớp người từ muôn dân nước qua các thế hệ đã, đang và sẽ đến tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Ki-tô là Giáo Hội. Chúng ta được làm những phần tử của đoàn người ấy, và cũng giống như các Ki-tô hữu giáo đoàn Ê-phê-xô, chúng ta nghe lời huấn dụ của thánh Phao-lô là hãy nhìn nhận và trân trọng hồng ân cao vời ấy. Vậy chúng ta cứ "mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa", nhất là "đừng nản chí" (3:12-13).
Nếu ý tưởng của thánh Phao-lô là muốn trình bày phổ quát tính của ơn cứu độ, thì chắc chắn đoạn thư cũng gián tiếp mời gọi chúng ta hãy nhìn theo viễn tượng ấy mà cầu nguyện và tích cực hành động cho việc hiệp nhất Ki-tô hữu và truyền bá Tin Mừng cho những anh chị em chưa được hồng ân biết Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Suy niệm về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, tôi nhận ra được những khía cạnh quan trọng nào của kế hoạch ấy? Tình yêu cứu rỗi của Chúa? Tính cách phổ quát? Đức Ki-tô vừa là môi trường, vừa là sự thể hiện ơn cứu chuộc? Vai trò của Giáo Hội?
Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc rao giảng mầu nhiệm Đức Ki-tô cho người khác?
Nói về căn tính đích thực của chúng ta, thánh Phao-lô viết: "Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta" (2:10). Vậy tôi đã sống đúng như "tác phẩm của Thiên Chúa" hoặc như tạo vật "được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su" chưa? Nếu chưa thì còn thiếu sót ở những gì?
Cái nhìn của tôi về những người không Công giáo như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm hát một bài thích hợp, hoặc cầu nguyện kinh sau đây:
Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, Nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giê-su, Cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. [dựa theo lời của thánh Tê-rê-xa] (Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
Câu chuyện ba vị đạo sỹ từ phương đông trong bài Tin Mừng đưa chúng ta trở lại với bối cảnh tôn: HiểnLinh ABC203
Câu chuyện ba vị đạo sỹ từ phương đông trong bài Tin Mừng đưa chúng ta trở lại với bối cảnh tôn giáo và văn hóa Á Châu. Từ những thời đại cổ xưa trên châu lục này đã hình thành khoa chiêm tinh nắm vai trò quan trọng trong hoạch định các đường lối chính sách của cả một dân tộc, cho đến những hành động quyết định của mỗi cá nhân. Được hình thành trong truyền thống văn hóa ấy, Kinh Thánh đã phải xử dụng những hình ảnh văn chương hoặc lối diễn tả của thời đại và xã hội mình để chuyển tải những chân lý mặc khải. Theo đó ngay từ sách Dân Số, rồi tiên tri Isaia, hình ảnh Ngôi Sao đã được xử dụng để nói về Đấng Thiên Sai thuộc nhà Giuđa và giòng dõi Đavid, và Thánh Matthêô ở đây có dụng ý muốn chứng thực Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà Sách Luật và các tiên tri đã nói tới. Như vậy, các vị đạo sỹ từ phương Đông là tiêu biểu cho những tinh hoa của văn minh nhân loại ở thời điểm ấy, ít nữa là theo quan niệm các độc giả Tin Mừng Matthêô lúc bấy giờ, đã nhận ra được dấu chỉ của thời đại Cứu Độ.
Đây là những vấn đề Tin Mừng đặt ra một cách hết sức nghiêm túc cho những ai tham dự vào sứ mạng loan báo Tin Mừng Nhập Thể và Cứu Độ của Đức Kitô: Vấn đề Hội Nhập Văn Hóa, một vấn đề được Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á trình bày như là vấn đề cấp bách và cần thiết. Tuy nhiên, cũng như Tin Mừng cho thấy cho dù đã được Ngôi Sao dẫn lối chỉ đường, với sự tích lũy mọi khôn ngoan thời đại, ba vị đạo sỹ cũng chỉ có thể đến được với Đức Kitô sau khi đã được giải thích tường tận của Kinh Thánh, thì việc Hội Nhập Văn Hóa trong công cuộc loan báo Tin Mừng cũng phải được Lời Chúa thấp nhập và chiếu soi mới có thể phục vụ Tin Mừng Cứu Độ.
Dù thuộc về nền văn hóa nào, thì phẩm giá và địa vị của mỗi con người vẫn chỉ là một, cách hành xử và diễn tả tuy thật khác biệt giữa các nền văn hóa, nhưng mục đích cuối cùng theo đuổi cũng chỉ là một. Chính ở điểm này mà câu chuyện 3 vị đạo sỹ hôm nay muốn chúng ta cùng suy nghĩ và thấu đạt: Đức Giêsu Kitô là câu trả lời cho mọi khát vọng tìm kiếm của hết mọi con người, dù họ thuộc về một nền văn hóa hay địa lý nào. Và Người đã ở đó trong cuộc sống và trong mỗi khát vọng sâu xa và chính trực của mỗi con người. 3 vị đạo sỹ đã thấy Người trong ngôi sao lạ, đã thấy Người trong những giải thích Kinh Thánh, đã thấy người nơi "Hài Nhi ở". Và vì vậy khi thấy Hài Nhi họ đã sấp mình thờ lạy Người. Họ đã thấy vì họ đã chờ đợi và đã kiếm tìm với một tâm hồn quảng đại và khiêm tốn. Nhưng còn Hêrôđê, có tất cả mọi phương tiện trong tay để biết đích xác Đức Giêsu Đấng Thiên Sai Cứu Thế, ông đã chẳng thấy Người, chỉ vì ông không chờ đợi Người, càng chẳng muốn tìm kiếm Người, ông chỉ muốn tiêu diệt Người. Điều này đặt nỗ lực loan báo Tin Mừng Nhập Thể phải khơi dậy được nơi lòng người khát vọng chờ đợi và tìm kiếm Người. Khát vọng ấy, tìm kiếm ấy là hành trình ra khỏi bản thân, gia đình, xã hội và mọi bảo đảm cuộc sống, để khiêm tốn phó thác cho sự dẫn dắt nhiệm mầu. Đấy là tinh hoa của truyền thống các dân tộc Châu Á. Đáng tiếc thay, xu hướng tâm linh ấy đang bị chối bỏ bởi chính những con dân Châu Á ngày nay. Trên khắp lục địa này, cơn cám dỗ bám trụ vào của cải vật chất hàng hóa, cơn cám dỗ chỉ muốn khẳng định phẩm giá và ơn gọi của mình bằng những tài sản kếch xù đang là nguyên nhân của những tệ nạn tham nhũng, chiếm đoạt tài sản cộng đồng, một tệ nạn đang đẩy mọi dân tộc Á Châu vào sự nô thuộc và nghèo đói. Đã có nhiều công cuộc thậm chí ngay của một số Kitô hữu, tự gán cho mình là cách mạng, là giải phóng, nhưng kết cục cũng chỉ là để bảo vệ quyền lợi giai cấp thống trị. Châu Lục này vẫn còn và phải nói là cần hơn bao giờ hết câu trả lời của Đức Giêsu Kitô, câu trả lời mà thánh Phaolô đã gói ghém trong lời đơn giản này "trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế... cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa".
Biến cố 3 vị đạo sỹ từ phương đông đến cho thấy Đức Giêsu quả thật đã cho mỗi người đạt tới khát vọng sâu xa của họ dù họ là ai, Ngài chính là câu trả lời duy nhất thỏa đáng cho mọi tâm hồn, và bằng mọi cách thức Ngài đả cống hiến cho mỗi con người ân sủng và vinh quang. Là người Kitô hữu, chúng ta không thể thờ ơ lãnh đạm với tâm nguyện của Ngài.
Hai cha con làm hang đá. Hữu xếp mấy bao xi-măng thành hình những khối đá. Cha xếp những khối: HiểnLinh ABC204
Hai cha con làm hang đá. Hữu xếp mấy bao xi-măng thành hình những khối đá. Cha xếp những khối đá vào…. Hữu ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng đặt vào hang đá. “Con bò to to nầy, mầy nằm bên Chúa nhé, thở mạnh đi cho Chúa ấm. Trời lạnh lắm” Hữu nói. Mẹ nhìn cha con làm hang đá lấy làm vui. Mẹ nói: “Phải có sao lạ nữa chứ anh”. Hữu hỏi ngay: “Sao phải có vậy Mẹ? Sao gọi là Sao Lạ?”. Mẹ trả lời: “Phải có ngôi sao lạ, để dẫn đường người ta tới Belem mà thờ lạy Chúa, chứ con. Ai mà biết Chúa sinh ở chỗ tồi tàn đó”. Hữu: “À, thì ra!”.
Suy nghĩ và giải thích đơn sơ của người Mẹ, hẳn là không sai lạc giáo lý nếu cần dạy cho con. Vì quả thật, những đạo sĩ, theo Tin Mừng, hẳn cũng đã tìm đến Belem nhờ ánh sao lạ dẫn đường.
"Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". (Mt 2, 2).
Hai cha con làm ngôi sao lạ. Thấy mẹ không nói gì về sao “lạ”, người cha trò chuyện với mẹ con: “Con có biết những ông sao ở đâu không?” - “ở trên trời, ban đêm mới thấy”.
“Ồ! đúng rồi. Địa chỉ của ông sao chắc chắn là ở “tít trên cao”. Bầu trời đêm đông càng dễ thấy có rất nhiều ông sao. Ông sao nào cũng ở “tít trên cao”. Ông sao nào cũng sáng. Nhưng sáng tít trên cao!
Vậy mà, hôm Chúa sinh ra đời ở cánh đồng Belem, có một ông sao bỗng nhã hứng bất thần chiếu rọi xuống rất thấp, xuống cả một vùng thôn dã nghèo xác xơ, rét cùng cực, tuyết trắng mênh mông. Ông sao ấy chiếu dọi vào hang đá Belem tồi tàn. Nơi hang đá ấy, không có điện đèn chớp nháy hay ánh sáng của kinh thành hoa lệ đằng xa kia chiếu tới đâu. Nhưng ánh sáng của ông sao lạ làm rực lên ánh hào quang của Hài Nhi, con Thiên Chúa ra đời. Vâng, từ thuở tạo thiên lập địa, nay mới thấy có một ông sao như thế, không chỉ sáng tít trên cao, mà sáng từ tít trên cao sáng xuống cùng dưới thấp.
Mẹ hỏi: “Vậy thì mấy ông sao cũng có cá tính sao?”. Không, thiết tưởng, ông sao nào cũng là loài thụ tạo vô tri vô giác, cá tính gì! Nhưng ông sao này đang được điều khiển bởi quyền năng của Thiên Chúa trên cao. Ông đang làm điều Thiên Chúa muốn. Thế mới gọi ông là ngôi sao lạ!
Lạ, là vì ông sao này khác những ông sao khác. Ông chưa có tên trong danh mục các ông sao đã qua viễn vọng kính của các nhà chiêm tinh. Và ông cũng không làm việc thường ngày như những ông sao kia. Lạ, là vì ông không làm điều ông thích làm, thường làm, nhưng ông đang làm việc của Thiên Chúa bảo ông phải làm! Điều đó, Chúa hiểu rõ ông hơn ai hết. Lạ, là vì ông không ở tít trên cao. Lạ, là vì ông xuống rất thấp. Lạ, là vì ông dẫn người ta đến với Chúa”.
Vâng, ông sao lạ nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha, kế hoạch giới thiệu Chúa Con cho nhân loại, giới thiệu Đấng Cứu Thế ban ân sủng cho nhân loại.
Hài Nhi Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Ông Sao Lạ kia xuất hiện, rồi biến đi, nhường chỗ cho hào quang Chúa Hài Nhi Giêsu đang hiển linh như nguồn ánh sáng mới cho nhân loại, Chúa Giêsu tỏ mình và tỏ tình Chúa Cha cho nhân loại.
Nếu ánh sáng đầu tiên cực kỳ huyền diệu của ngày sáng tạo vũ trụ đã bị bóng tối tội lỗi bao trùm, thì hôm nay ánh sáng mới đã đến, ánh sáng cứu độ. Ánh sáng từ trời cao xuất hiện từ Gia-cóp, vương quyền của Thiên Chúa đã đâm chồi từ Israel. Ánh sáng mới ấy là Hài Nhi Giêsu. Ánh sáng tít trên cao chấp nhận xuống cùng dưới thấp để xua tan bóng đêm tội lỗi. Thiết nghĩ, không thể đặt giả thuyết rằng nếu ông sao kia không chịu chiếu sáng xuống một miền Belem thấp kém, không tên tuổi, liệu có ai đã biết đến Tin Mừng cả thể cho nhân loại: Đấng Cứu Tinh đã ra đời. Vì rằng, ngay trong chương trình của Thiên Chúa, ánh sao kia cũng đã được nhắc đến cách long trọng, và nhắc đến cả sứ vụ được giao phó. “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en”(Ds 24, 17). Ánh sao ấy chính là Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Mỗi tín hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Chúa Giêsu nói: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5, 14-16)
Thánh Phaolô nhận ra vai trò của chính mình và của mỗi tín hữu, trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi đã tiếp nhận ánh sáng cứu rỗi của Thiên Chúa, cũng phải làm ông sao lạ dẫn đường thiên hạ đến với Chúa. Ngài nói: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô” (Eph 3,2-3). Hoặc, một nơi khác, ngài nói rõ hơn: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao” (Philip 2,14-15).
“Kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa ủy thác” cho mỗi người, hẳn là giới thiệu ơn cứu rỗi cho con người, dẫn đường cho con người đến với Chúa. Mỗi người là một ông sao lạ. Ông sao lạ không ở tít trên cao, nhưng ông sao lạ xuống cùng dưới thấp….
Theo dõi những bản tin Giáo Hội Việt Nam Mùa Giáng Sinh năm nay, chúng ta thật vui mừng, vì có những ông sao ở tít trên cao xuống đến tận vùng sâu vùng xa chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng Giáng Sinh đến cho người bần cùng giá lạnh. Niềm vui vô biên của người H’mong, Tây Bắc được ông sao dung dăng dung dẻ với bầy trẻ sơn cước. Nỗi sung sướng của người Mường Cắt, Hòa Bình thấy Chúa đến gần hơn. Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Tây Nguyên, miệt vườn châu thổ… đâu đâu cũng có ánh sáng của những ông sao lạ không còn sáng tít trên cao, nhưng rất gần, sáng rất thấp. Vâng, có những ông sao xuống miền xuôi, cũng có ông sao lên mạn ngược, ông đến với biển, ông về với rừng, ông xuống với người kinh, ông lên người Dân Tộc…
Làm thân ông sao lạ lại là một niềm vui cho mình cho đời. Ấy vậy, cũng có những ông sao lạ không chỉ xuống thấp mà còn chạy lao xao khắp thành phố Sài Gòn. Có ông xoẹt qua nhà cô bé xa quê bán bắp nướng, khoai luộc, ông gửi một món quà, một nụ cười, một niềm vui, không quên lời chúc giáng sinh và niềm hy vọng an bình Chúa Giêsu mến tặng. Rồi tranh thủ xoẹt qua khu ổ chuột còn gần chục người nghèo đang đánh bài tiến lên ăn kẹo giết nỗi sầu đời cho đêm mau qua ngày mau tới. Có ông sao lạ đua xe cho kịp giờ để gửi một phần bánh giáng sinh nho nhỏ cho ông bà bán vé số dưới gầm cầu Sài gòn, sợ ông bà ngủ sớm, ngủ đói! … Nhờ những ông sao lạ, người mù bỗng thấy, người điếc bỗng nghe, người què quặt tật nguyền bỗng quên mình tật nguyền què quặt. Mùa Giáng Sinh đầy những ánh sao báo tin mừng của những ông sao lạ. Mùa Giáng Sinh rộn ràng yêu thương và niềm vui.
Đêm 19-12, tôi được Cha Hữu An mời tham dự đêm “Rộn ràng Noel” ở GX Kim Ngọc. Trên sân khấu, các ngôi sao ca nhạc Công Giáo đang rộn ràng những ca khúc Noel “hát cho vui đời và hát cho đời vui” của GM. Ns Thông Vi Vu. Ngồi ghế trước, ngoái lại đằng sau, người xem đông quá, tôi bỏ ghế, làm một vòng về phía khán giả. Đông đến tận ngoài đường quốc lộ. Già trẻ trai gái không thiếu. Nhưng đa số là lương dân. Họ đơn giản lắm. Tôi chào một cụ ông:
-“Chào cụ, có vui không”.
-“Vui lắm chú à. Lễ Noel hay thật. Tui không nghĩ là ông thượng tọa đạo Chúa có thể xuống hát chơi vui vẻ với mọi người như thế đâu. Chưa bao giờ tui thấy”.
-“Ông thích không?”
-“Có chứ. Tui thích nhất là ông thượng tọa Chúa hát với lũ nhỏ cái gì mà tít trên cao, tít trên cao”
-“À, tít trên cao, có ông sao sáng đẹp biết bao, ngọt ngào, ông loan báo mùa Noel nay đã về đây…”
-“Đúng rồi, đúng rồi, có gì mà đôi má, xinh quá nữa đó”
-“Dạ, Ôi xinh quá là xinh đôi má. Đỏ hây hây tựa cánh hoa đào. Ôi thương quá là thương hang đá. Chúa từ trời sinh ra”
-“Tự hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi cứ nghĩ là mấy ông thượng tọa Chúa ở xa lắm chứ. Dễ gì mà gặp được mấy ổng. Không dè, gần gũi quá”….
Gặp mấy anh chị thanh niên đang chăm chú vào màn chiếu trước nhà thờ: “Nhạc Chúa hay hơn nhạc đời rồi anh, êm đềm trữ tình lắm. Nhạc trẻ hay, dân ca hay, múa cũng hay. Nhưng khúc đồng dao ông Cha hát với đám con nít, hay ể! Chúa xuống gần hơn trước rồi”
…..
Địa chỉ của ông sao đã chuyển từ tít trên cao, xuống cùng dưới thấp.
Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta một lần nữa xác nhận Chúa Giêsu là ánh sáng mới, ánh sáng cứu độ, đã từ trời xuống; đồng thời cũng nhắc nhớ mỗi người làm một ông sao. Một ông sao lạ, không ở tít trên cao, nhưng xuống cùng mọi người để chia sẻ niềm vui cứu độ.
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì mùa Giáng Sinh Năm Thánh Hai Ngàn Mười của Giáo Hội Việt Nam, Chúa đã đến gần hơn với bao tâm hồn dân Việt. Xin giúp mỗi chúng con tiếp tục làm ánh sao chịu thương chịu khó sà thấp đời mình xuống, để đem ánh sáng Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ bần hàn, bạn chí thiết của Hài Đồng Giêsu, Con Chúa. A men.
Trong cuốn "Những chuyện hay về Giáng Sinh - Les Contes de Noel" có thuật chuyện như sau: Theo: HiểnLinh ABC205
Trong cuốn "Những chuyện hay về Giáng Sinh - Les Contes de Noel" có thuật chuyện như sau: Theo Thánh Kinh, sau khi Chúa Giêsu Giáng Sinh, chỉ có HiểnLinh ABCđến thờ lạy và bái kiến Người. Nhưng theo tục truyền, có một ông vua thứ tư, khi thấy ánh sao cũng vội vã lên đường, đem theo nhiều của cải và 3 hạt ngọc quí để dâng tiến Chúa Hài Nhi.
Khi đi đàng, ngài gặp nhiều kẻ nghèo đói xin xỏ, ngài bỏ hết cả của cải đem phân phát cho người nghèo. Sau một tuần lễ, mọi của cải đã hết. Đến lúc lên đường, ngài gặp một ông già ăn xin đói khổ, rách rưới, ốm o gần chết bên lề đường tuyết lạnh. Ngài động lòng thương lấy ra một viên ngọc cho ông an ủi lúc tuổi già và trộm nghĩ: Còn hai viên ngọc nữa dâng Chúa cũng được.
Đến xế chiều ngày hôm sau, ngài lại gặp một đám cháy nhà. Người nhà khóc lóc om xòm vì mất của, nhà tan, bơ vơ không chốn nghỉ, các con đói khổ. Động lòng thương, ngài lấy ra viên ngọc thứ hai làm phúc cho qua cơn hoạn nạn. Thế là chỉ còn một viện, nhất định giữ để dâng kính Chúa.
Đến gần tới thành Jerusalem, ngài gặp một toán lính đang săn đuổi một cô gái. Cô lo sợ van xin chúng cũng không tha. Trong lúc khẩn cấp, ngài lại lấy nốt viên ngọc để chuộc cô gái và xin tụi lính tha cho cô. Và thế là hết chẳng còn gì dâng cho Chúa nữa.
Chiều tối mới tới hang Belem, nhìn vào thấy HiểnLinh ABCđang sửa soạn lễ vật dâng tiến Chúa. Ngài buồn bã ngậm ngùi và mắc cỡ không dám vào trong, bèn qùi xuống hang tối ngoài cửa, chắp tay kính thờ Chúa cách xa xa. Lòng thầm nguyện: "Lạy Chúa, con đã ráp tâm đến dâng Chúa 3 viên ngọc quí, nhưng vì cảnh khốn cùng trên đường, con đã đem cho hết họ rồi, nay con chả còn gì để dâng cho Chúa nữa. Con thật xấu hổ. Xin Chúa tha thứ cho con". Rồi ngài khóc lóc vì buồn.
Đức Mẹ nghe có tiếng động ngoài cửa, chạy ra coi, thấy vậy thì dắt ngài vào. Vào trong hang rồi ngài cũng không dám đứng ngang hàng ba vua, chỉ đứng đàng sau thập thò. Chúa giơ tay nhận lễ vật của ba vua, nhưng lại trườn người ra nắm tay và mìm cười với vị vua thứ tư, tỏ ý hài lòng.
Của lễ: Vàng, Nhũ hương, Mộc dược thật quí, nhưng của lễ do lòng bác ái từ thiện còn quí hơn. Khi đến hang đá với HiểnLinh ABChôm nay, Chúng ta dâng Chúa lễ vật gì? Vàng, Nhũ hương hay Mộc dược? Dâng ba lời khuyên Phúc Âm: Đức Khiết Tịnh, Đức Vâng Lời, Đức Khó Nghèo và tinh thần bác ái? Dâng Đô la hay Chi phiếu, Của cải vật chất đời này hay tấm lòng bác ái vị tha của ông vua thứ tư mà Chúa ứ thích hơn cả? “Của lễ toàn thiêu, của lễ hiến dâng, Chúa chẳng ưng. Thì lạy Chúa với tấm lòng tan nát khiêm cung”.
Theo tiếng Hy Lạp thì chữ Epiphany có nghĩa là tỏ mình ra. Việc Chúa giáng trần là một biến cố quan trọng, bắt đầu một trang sử cứu độ, Ngài đã tỏ mình ra cho các người chăn chiên, đặc biệt Ngài tỏ mình cho ba nhà đạo sỹ từ Đông Phương mà người ta gọi là dân ngoại, những người có lòng thành thực đi tìm kiếm Chúa nhờ việc nghiên cứu các lời loan báo về Đấng Cứu Thế của các nhà Tiên Tri, nhờ việc sẵn sàng tìm kiếm sự thật đã được loan báo qua sách Thánh, mà các nhà Đạo Sỹ đã được ngôi sao lạ dẫn đường chỉ lối cho được gặp Thiên Chúa, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. (Hiển Linh 2.1.2005).
Cha Kard Rahner, một nhà thần học lỗi lạc, đã đưa ra một nhận xét có vẻ mâu thuẫn và ngược: HiểnLinh ABC206
Cha Kard Rahner, một nhà thần học lỗi lạc, đã đưa ra một nhận xét có vẻ mâu thuẫn và ngược đời. Ngài nói rằng: “Có những kitô hữu ‘ngoại đạo’, trái lại có những người bên lương mà lại ‘có đạo’.
Để dễ dàng đánh giá đúng nhận định trên, chúng ta hãy đưa sự kiện Chúa sinh ra tại Bêlem để phân tích và tìm hiểu. Khi Chúa sinh ra tại Bêlem, tại sao dân thành Giê ru sa lem cùng với vua Hêrode là những người có đạo lại không nhận biết, không tìm được Chúa Hài nhi ở kề bên mình? Trái lại ba nhà đạo sĩ là những kẻ ngoại giáo , ở tít mãi xa xôi, lại nhận ra và tìm thấy Chúa !
Sở dĩ có hậu quả trái ngược nà là do niềm tin vì khi có một đức tin sống động con người dễ dàng nhận ra và tìm thấy Chúa trong đời mình, trái lại khi có một đức tin ‘chết’ thì không thể nhận biết Chúa được.
Đối với người Do thái bấy giờ là dân Chúa tuyển chọn lâu đời, đáng lẽ ra họ phải đặt trọng tâm vào niềm tin ở Thiên Chúa và Lời Người là ChúaGiêsu, song Chúa đã không gặp được một niềm tin sống động nơi họ nên họ đã không tìm thấy Chúa. Có thể nói đức tin của họ là một đức tin chết, nghĩa là một đức tin chỉ dựa vào những hình thức lễ nghi bên ngoài hơn là thấm nhuầm vào nội tâm, chi dựa vào luật lệ để tìm sự cầu an cho bản thân hơn là cố gắng hy sinh mọi sự để phục vụ Chúa và tha nhân.
Trái lại niềm tin của các nhà đạo sĩ, tuy gọi là ngoại đạo, nhưng lại là một niềm tin ‘sống’ và nhờ niềm tin này mà họ đã tìm thấy Chúa. Để gọi là một niềm tin ‘sống’ phải có những đặc tính sau đây:
+Phải có thái độ và tinh thần căn bản là sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể dẫn đưa Chúa. Giữa trăm ngàn công việc với bao biến cố trong cuộc sống, chúng ta có thể thao thức nhận ra những dấu hiệu mời gọi của Chúa để nhận ra Ngài không ? Dấu hiệu mời gọi của Chúa thì không thiếu mà chỉ tại chúng ta thiếu một tâm hồn nhạy bén tìm được ý Chúa mà thôi.
+Khi đã nhận ra được dấu hiệu của chúa rồi thì điều kiện kế tiếp là phải lên đường tìm kiếm, nghĩa là ta phải ra khỏi tình trạng an vui tọa hưởng của mình. Nói rõ hơn, muốn sống đúng đức tin đòi hỏi , muốn gặp được Chúa đích thực , ta phải từ bỏ tình trạng sống yên thân, cầu an, phải ra sức dẹp bỏ những rào cản ích kỷ, kiêu căng, ươn lười.
+Thao thức tìm kiếm, hy sinh từ bỏ mọi sự để tìm Chúa chưa đủ. Vì việc tìm Chúa và nhận ra Ngài không phải làm một lần mà là suốt đời, không phải dễ dàng, nhưng sẽ gặp nhiều trở ngại khó khăn. Do đó, phải có một lòng trung kiên bền đỗ tới cùng, luôn hy vọng mà không bao giờ chán nản, luôn tin tưởng và cậy trông.
Niềm tin là ơn cứu sống cho con người khi niềm tin đó thôi thúc con người ra sức tìm gặp được Chúa trong cuộc sống. Không có thứ niềm tin luôn đóng băng vì nó biến con người thành vô dụng và đồ phế thải. Đúng như lời Chúa nói: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy...”
Vốn là một loài thụ tạo hạng ưu của Thiên Chúa, tiền thân là một thiên thần, nên ma quỷ khôngL HiểnLinh ABC207
Vốn là một loài thụ tạo hạng ưu của Thiên Chúa, tiền thân là một thiên thần, nên ma quỷ không những biết Thiên Chúa mà còn biết cả chương trình của Ngài từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế.
Nhưng vì không tuân phục Thiên Chúa, vì cách ly Thiên Chúa, không chấp nhận sự can thiệp của Thiên Chúa, nên nó cứ mãi chống lại Thiên Chúa bằng đủ mọi cách, từ lộ liễu trắng trợn đến tinh vi xảo quyệt:
Ma quỷ gây rối loạn trong lòng con người ta với những tham vọng bất chính, mà chủ quan cho là chính đáng, mong lôi kéo con người ta cách ly Thiên Chúa Sự Sống và tự gieo mình xu ống vực thẳm của sự chết ngàn thu;
Ma quỷ gây nhiễu nhương trong lòng xã hội với việc gieo vãi sự gian dối, bất công do những con “virút” bòn rút một cách tinh vi của người thành của mình, của chung làm của riêng, từ đó, trổ sinh mầm ghen ghét hận thù, chiến tranh, tàn sát…
Ma quỷ vẫn âm thầm hoặc ngang nhiên cuốn hút những ái tử của Thiên Chúa nhạt phai dần lòng yêu mến Chúa, mất dần cảm thức về tội bội phản Thiên Chúa, quấy nhiễu sự duy nhất, tính thánh thiện, Công Giáo, tông truyền ngay trong Giáo Hội Chúa.
Thế thì ma quỷ vốn có trí thức của ma quỷ, là trí thức chủ quan, kiêu ngạo, không chấp nhận sự soi dẫn của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, trí thức của ma quỷ là trí thức chống lại Thiên Chúa mà không bao giờ có được lòng sám hối ăn năn. Nó cũng khống chế những ai đã làm tôi cho nó, không cho trở về với Thiên Chúa. Hoặc mỗi lần con người muốn tỉnh ngộ, thì nó lại tiếp tục mê hoặc con người ta bằng mưu kế xảo quyệt tinh vi hơn. Sống trong tình trạng này thì rõ là “bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân” ( Is 60, 2a ).
Thiên Chúa đã giáng sinh làm người để ban Ơn Cứu Độ cho con người thoát khỏi vòng ám muội của ma quỷ, thoát khỏi sự hiểu biết làm hỏng đời mình trong sự chết ngàn thu.
Chắc chắn, người đón nhận Thiên Chúa Giáng Sinh, đón nhận Ơn Cứu Độ phải là những con người đơn sơ, khiêm nhượng trong lòng, nhận ra sự hiểu biết ngu muội của mình và đặt sự hiểu biết hay tri thức của mình dưới sự hướng dẫn đầy quang minh của Chúa Thánh Thần.
Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta mẫu người khiêm nhượng ấy. Những “magi”, gọi là “vua”, “đạo sĩ”, “chiêm tinh gia” hay “những nhà thông thái” do cách chuyển ngữ thì thiết nghĩ không quan trọng bằng việc họ là những người trí thức, vị vọng hơn người, nhưng lại có lòng khiêm nhượng chấp nhận theo ánh sao của Thiên Chúa mà tìm gặp được Thiên Chúa, thờ lạy Thiên Chúa giáng sinh trong thân phận một hài nhi nghèo hèn.
Hơn thế nữa họ đã dâng cho Thiên Chúa những gì là quý nhất, tốt nhất của họ: vàng, nhũ hương và mộc dược. Họ vẫn là những người hiểu biết, là trí thức, là vị vọng hơn người đấy chứ, nhưng họ còn hơn người gấp bội lần vì thái độ khiêm tốn của họ biết đặt mình dưới sự soi dẫn của Thiên Chúa. Thờ lạy Chúa, họ không mất danh tiếng, không bị giảm uy tín, mà ngược lại, ngàn đời sau ca tụng họ vì thái độ khiêm nhường, vì lòng khát khao tìm kiếm Thiên Chúa. Thánh Matthêu trình bày từng chi tiết đáng kính trọng của họ: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” ( Mt 2, 11 ).
Họ còn đáng được ca tụng hơn nữa, vì thực ra họ chưa hề được biết về những mạc khải ơn Cứu Độ, họ là “dân ngoại”, và lần này, khi nhận được mạc khải, họ bằng lòng hạ mình xuống ngay để đến thờ lạy Chúa và Thiên Chúa bày tỏ lòng yêu cho họ.
Quả đúng như lời Ngôn Sứ Isaia “Ðứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” ( Is 60, 1 – 3 ).
Và lời Thánh Vịnh 71: “Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa” (x. c. 11b).
Cùng với xác nhận của Thánh Phaolô: “Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô” ( Ep 3, 6 ).
“Những người thông thái” này của Dân Ngoại khác hẳn với những người mang danh là trí thức trong Dân Thiên Chúa: các thượng tế, các kinh sư, là những người đã từng nghe biết, học biết Thánh Kinh, giải thích về Thiên Chúa, về Ơn Cứu Độ của Ngài, được Hêrôđê mời đến và được yêu cầu giải thích điềm lạ theo mạc khải. Sự hiểu biết này chỉ để dẫn con người ta đến những học vị, chức danh, tên tuổi trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, mà không dẫn con người ta đến Thiên Chúa vì họ không khiêm tốn đặt sự hiểu biết của mình dưới sự soi dẫn của Thánh Thần Thiên Chúa. Chính vì thế, ma quỷ đã cuốn họ vào trong kế hoạch của Hêrôđê. Hay nói khác đi, họ là một phần tay sai của thế lực chống lại Thiên Chúa.
Có lẽ không phải là quá đáng khi bảo các thượng tế, kinh sư đã làm tay sai cho ma quỷ, chúng ta hãy chú ý đọc lại một vài chi tiết trong bản văn Tin Mừng hôm nay: Hêrôđê bối rối vì Đức Vua dân Do Thái mới sinh. Ông triệu tập các thượng tế, kinh sư điều tra. Rõ là các ông này quá biết nơi Vua Do Thái sinh: Bêlem, đất Giuđa. Các ông còn lấy Kinh Thánh ra minh chứng… Nhưng tiếc là, các ông ấy vẫn trụ một chỗ, không buồn tìm đến thờ lạy Chúa, lại giúp cho thế lực chống lại Thiên Chúa thực hiện ý đồ tru diệt Hài Nhi.
Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người. Tin Mừng đã đến với nhân loại. Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho mọi người, mọi dân tộc. Ánh sáng quang minh đã đến soi chiếu vào bóng tối mê muội. Đức Khiêm Nhường của Thiên Chúa nơi Hài Nhi mới sinh cũng mời gọi mọi người hãy khiêm nhường tự hạ để gặp gỡ Thiên Chúa, và chỉ có lòng khiêm nhường thẳm sâu mới có thể thờ lạy Chúa, Đấng là nguồn mọi sự khôn ngoan, thượng trí, hiểu biết, và trí thức nhân loại.
Trong khi nhân loại, và cả chúng ta nữa, đang trên đà tự mãn về những hiểu biết của mình về khoa học, về thần học, về Kinh Thánh và về Thiên Chúa, thì Tin Mừng hôm nay muốn nhắc nhở chúng ta hãy cảnh giác âm mưu của ma quỷ đưa đẩy trí thức chúng ta lên cao và phủ nhận Thiên Chúa, nhưng hãy khiêm nhường đặt những tri thức hiểu biết của chúng ta dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Có như vậy, may ra chúng ta mới có thể khiêm nhường từ bỏ được cái Tôi chủ quan vô bổ, mà tuyên nhận Thiên Chúa và thờ lạy Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Hài Nhi, xin cho chúng con nhận ra Ngài là Thiên Chúa vô cùng thượng trí trong thân phận bé nhỏ nghèo hèn, biết thờ lạy Ngài, phụng sự Ngài cùng với Hội Thánh, trong tinh thần khiêm cung của chúng con. Amen.
Giáo hội hân hoan mừng lễ Chúa Hiển Linh cũng chính là mừng kính sức mạnh và năng quyền: HiểnLinh ABC208
Giáo hội hân hoan mừng lễ Chúa Hiển Linh cũng chính là mừng kính sức mạnh và năng quyền của Thiên Chúa tỏ mình ra trong lòng nhân loại. Một hài nhi bé nhỏ, một Thiên Chúa làm người trong nếp sống nghèo, có thể nói cùng cực của kiếp nghèo. Nhưng không phải thế mà Thiên Chúa không hiện diện. Ở trong cái bé nhỏ, thấp hèn ấy nhân loại hồ nghi, không dám đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Vậy mà, sự thật Ngài vẫn là Thiên Chúa, một Thiên Chúa của người nghèo, Thiên Chúa nghèo.
Nếu nghèo đói là một cái tội mà ai ai cũng khiếp sợ và muốn trốn tránh, thì Thiên Chúa lại xuất hiện làm chủ sự nghèo. Ngài sống nghèo hầu dạy con người học cách chấp nhận cuộc sống. Sự thật nghèo không phải là bất hạnh, nhưng chính là phương tiện Thiên Chúa huấn luyện con người thêm tinh thần quả cảm, kiên cường trước những khó khăn trong cuộc sống. Đau khổ không phải là cái tội, nghèo đói càng không phải, nhưng chính là cơ hội giúp con người thánh hóa, biến nên phần ích đời mình. Chỉ khi nào con người phạm tội, sống xa rời Thiên Chúa, đánh mất ơn nghĩa với Ngài đó mới tội.
Nếu đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa, con người sẽ không ngừng ca tụng tôn vinh quyền uy Ngài. Quyền uy ấy hôm nay đã biểu lộ cho muôn người được thấy, để mà nhân loại đặt niềm tin tưởng phó thác.
Sự kiện ba nhà chiêm tinh được sao lạ dẫn đường từ Phương Đông tìm đến tận Bêlem để bái lạy Hài nhi mới sinh: “Đức Vua Do Thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện ở Phương Đông nên chúng tôi đến bái lạy Người” ( Mt 2, 2 ). Người ngoài đã nhận biết uy quyền của Thiên Chúa nhưng chính người nhà lại không. Ân sủng Thiên Chúa đổ trên nhân loại là như nhau, nhưng có kẻ nhận ra, người đón nhận, kẻ lại không, người từ khước.
Khi được tin báo, thay vì vui mừng vì Đấng Cứu Thể sắp trị vì, vua Hêrôđê lại lo âu, khiếp sở vì chiếc ghế địa vị của mình bị lung lay. Cũng vậy, một tâm hồn có sự hiện diện của Thiên Chúa bao giờ cũng trống trải, bằng phẳng kh ông chút gợn sóng của ghen tương, thù hận. Tâm hồn không có Chúa, sẽ bị mây mù của tham vọng, tiền tài che khuất. Chẳng phải ngày nay thế giới không nhận biết sự hiện diện của Đấng Thần Linh mà đúng hơn họ lo sợ sự hiển linh của Ngài. Thiên Chúa hiển linh, con người như mất đi tham vọng của mình. Đó là điều nhân loại không bao giờ muốn.
Hành trình các nhà chiêm tinh đi tìm ngôi sao lạ hôm nay, cũng chính là hành trình tâm linh nhân loại. Có nhiều con đường Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng nhưng không phải ai cũng bỏ mình bước ra, bước ra khỏi những não trạng cũ kỹ, những căn nhà ích kỉ khép kín, những tường vôi cũ kỹ, những thói quen, sở thích vốn dĩ của mình để đón nhận Thiên Chúa. Để đến với con người, Thiên Chúa đã phải bỏ mình, từ bỏ ngai vàng thiên quốc đến với trần gian. Muốn đến với Thiên Chúa, con người cũng phải từ bỏ chính mình mới có thể sống cho Ngài và tha nhân.
Đừng sợ theo Thiên Chúa là đánh mất bản thân, nhưng hãy tin tưởng phó thác vào tình yêu quan phòng. Khi đã tìm thấy điểm tựa thực sự từ Thiên Chúa, con người sẽ dâng hiến trọn vẹn cho Ngài. Các nhà chiêm tinh hôm nay, khi tìm thấy Chúa, đã dâng tiến Ngài vàng, nhũ hương và mộc dược ( x. Mt 2, 11 ). Đó là những lễ vật quí giá nhất mà họ có được.
Còn mỗi người chúng ta thì sao ? Khi nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta đã có thái độ sống như thế nào ? Thiên Chúa không cần đến những lễ vật vô tri vô giác ấy nhưng Ngài cần đến chính tấm lòng, tâm hồn của ta. Những lời kinh nguyện, những việc làm phúc đức, những hành vi thờ phượng… tất cả chẳng phải là điều Thiên Chúa cần hay sao ?
Lạy Chúa, chọn vào đời bằng cuộc sống nghèo, gia đình nghèo, Ngài đã dạy cho nhân loại bài học làm người từ cuộc sống. Ngày nay có biết bao gia cảnh đói nghèo, bệnh tật, khốn khổ trên thế giới, nhưng được mấy người vui lòng đón nhận kiếp nghèo ? Ai cũng sợ nghèo, chỉ mình Thiên Chúa không sợ, Ngài chỉ sợ tấm lòng con người nghèo nàn đến độ không còn nhận biết sự hiện diện uy linh của Ngài. Thế giới đang nghèo tình thương, nghèo lòng nhân mà giàu ích kỉ, ghen tuông, thù hận. Nhân loại đã không chết đói nhưng chết vì thiếu tình người.
Xin Ngài hiển linh trong cuộc đời con, giúp con nhận biết sự hiện diện của Ngài qua từng biến cố cuộc sống. Chớ gì con luôn can đảm giang rộng đôi tay đón nhận cuộc sống như là một quà tặng của Thiên Chúa, bởi chính Ngài đã tác tạo, chính Ngài là sao sáng soi dẫn đời con.
Đức Tin là một khái niệm cơ bản và quan trọng trong Công Giáo. Tuy nhiên việc hiểu biết: HiểnLinh ABC209
Đức Tin là một khái niệm cơ bản và quan trọng trong Công Giáo. Tuy nhiên việc hiểu biết Đức Tin mà mình đang chọn lựa và việc tìm kiếm để đón nhận một niềm tin mới, thực tế có vài điều cần suy nghĩ. Bài Tin Mừng trong Lễ Hiển Linh giúp cho ta một vài ý nhỏ sau.
Đức Tin dựa vào lý trí
Có dịp được nói chuyện với một bạn trẻ chuẩn bị đón nhận Bí Tích Rửa Tội cùng với Bí Tích Hôn Phối, tôi bảo “hiện tại điều gì làm em hạnh phúc nhất ?” – “Em có một gia đình yêu thương, nhất là bố”, bạn trẻ trả lời rất nhanh. Tôi trao đổi tiếp “Bí Tích Rửa Tội có giúp cho em thêm hạnh phúc không ?” Bạn trẻ suy nghĩ kỹ rồi nói: “Em không rõ”. Tôi nói, sau khi nhận Bí Tích ấy, em sẽ có thêm một người Cha ẩn dấu, luôn luôn chăm sóc và bao bọc em. Anh bạn trẻ nhăn trán, trầm tư một lúc rồi lắc đầu bảo: “Khó hiểu và khó nuốt hơn tôn giáo của em”. Tôi chia sẻ với suy nghĩ ấy. Do nguồn gốc hai đấng sáng lập của hai tôn giáo khác nhau, nên độ “khó” là khác nhau. Một đấng từ Trời, đấng kia thì không. Đấng từ Trời thì nằm ngoài sự hiểu biết, mà con người tự thân vươn tới.
Mẩu đối thoại trên mô tả một cách tiếp cận phổ biến của người ngoài Công Giáo khi đến với niềm tin Công Giáo. Một cách tiếp cận Đức Tin bằng cách dùng sức mạnh của lí trí. Trong khi truyền thống Đức Tin Công Giáo lại đến từ trãi nghiệm.
Cách tiếp cận Đức Tin dựa trên trí tuệ không phải là cách truyền thống của Công Giáo, nhưng thực tế, cách tiếp cận này vẫn có thể đạt tới đích nếu thỏa hai yếu tố sau:
- Con người chủ động đi tìm chân lý trong sự cởi mở.
- Được Thiên Chúa ban Ánh Sáng đặc biệt.
Câu chuyện về hình ảnh các nhà chiêm tinh trong Tin Mừng Matthêu 2, 1 – 12 là điển hình cách tiếp cận này. Với vốn kiến thức về thiên văn, các ông có thể phát hiện vua dân Do Thái qua dấu chỉ của một ngôi sao. Quan trọng hơn, ba vị đã biết hành động quyết liệt sau khi phát hiện. Leo lên lạc đà và ra đi, mặc dù đích đến là vô định, nhiều bất trắc trên con đường dài vùng sa mạc. Nhưng sau đó, các vị được tiếp tục dẫn dắt bởi ngôi sao dẫn đường tới nơi Hài Nhi sinh ra và được báo mộng để chọn lối khác để về nhà – nghĩa là được nhận ánh sáng đặc biệt. Chính ánh sáng đặc biệt này giúp họ chuyển từ nhận biết một vua Do Thái đến vị Vua cả Trời Đất. Và đây cũng là một con đường mẫu mực để các bậc trí thức tìm gặp Thiên Chúa
Liên quan giữa lý trí và Đức Tin, Chúa Giêsu nói: “Con xưng tụng Cha, vì Cha đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” ( Mt 11, 25 ). Như vậy, khiêm hạ là điều kiện cần để nhận được sự thông tri từ Đấng Tối Cao.
Đức Tin mặc cả
Trước khi đứa cháu bước vào phòng thi đại học cách đây hai năm, tôi dặn: “Con nhớ cầu xin Mẹ Maria giúp làm bài tốt”. Nó quay lại cười rồi bắt bí: “Nếu con xin mà Mẹ Maria không giúp thì sao ?” Sau khi thi, trên đường về, nó bảo: “Ngày mai bác lại chở cháu đi nữa nhé, bác chở… hên lắm”.
Mẩu truyện trên mô tả một dạng Đức Tin khá phổ biến trong giới trẻ Công Giáo ngày nay, tạm gọi là Đức Tin mặc cả. Đức Tin dạng này yêu cầu được nhận trước khi tin. Trong khi truyền thống Đức Tin Công Giáo lại có thứ tự ngược lại. Phải có niềm tin trước, hồng phúc sẽ đến. Niềm tin là nguyên nhân, ân phúc là kết quả.
Trước khi được thụ hưởng một hồng ân, con người thường phải trải qua một thử thách khi được mời gọi bởi lời hứa. Hồng ân càng lớn lao thử thách càng khó khăn. Điển hình của sự thử thách về lòng tin là Abraham được lệnh hiến tế đứa con trai duy nhất của mình trong Cựu Ước. Sau khi vượt qua cuộc kiểm định, Thiên Chúa hứa ban cho dòng dõi ông “nên đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển ( St 22, 17 ). Trong Tân Ước, đó là hình ảnh của đàn bà Canaan có con gái nhỏ bị quỷ ám được Chúa thử thách 3 lần, trước khi nhận được phép lạ ( Mt 15, 21 ). Thánh Don Bosco khuyên: Hãy tin tưởng Mẹ Maria, bạn sẽ thấy phép lạ là gì.
Thực tế, một số ít người lại được nhận trước khi khi tin, nhưng lúc đó ân phúc đã khác đi. Trong ( Ga 20, 9 ) Chúa Giêsu bảo với Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !"
Trong quy luật thử thách và vinh quang, thì thử thách thường tới trước, không chỉ đúng cho niềm tin Công Giáo mà còn đúng cho cả đời thường. Chúng ta rất dễ tìm các ví dụ trong cuộc sống thường nhật, để minh họa cho ý trên.
Lạy Chúa, Đức Tin là một ân sủng mà chúng con nhận được nhưng-không, xin Thần Khí hãy soi sáng cho chúng con biết phương thức đem ân sủng này trao lại cho những anh em khác một cách hiệu quả, liên lỉ và khiêm cung.
“Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” ( Lc 2, 2 )
Trước Chúa Giêsu sinh ra trên dưới 800 năm Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Đứng lên, bừng sáng: HiểnLinh ABC210
Trước Chúa Giêsu sinh ra trên dưới 800 năm Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh Quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa… Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha; tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” ( Is 60, 1 – 6 ). Chữ “ngươi” trên được gán cho đền thờ Giêrusalem, nói cách khác là dân tộc Do Thái, dân riêng của Chúa.
Lời tiên báo trên đã được ứng nghiệm qua sự kiện ba nhà Đạo Sĩ từ phương Đông theo ánh sao dẫn đường đến thờ lạy và dâng quà tặng cho Hài Nhi Giêsu nơi hang đá Bêlem ( x. Mt 2, 1 – 12 ). Họ đại diện cho tầng lớp quý tộc, tri thức và những người chưa biết đến Kinh Thánh, nhất là chưa một chút khái niệm về sự quan phòng và hiện diện của một Vị Thiên Chúa, điều này nói lên tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng nhưng-không cho hết tất cả con người nhân loại không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, màu da, không phân định biên giới…
Tình thương và sự tỏ mình của Thiên Chúa không chỉ dừng lại vào thời Hài Nhi Giêsu giáng trần, hoặc nơi bản văn Tin Mừng, nhưng Ngài vẫn đang biểu lộ tình thương, tỏ mình cho anh em lương dân vào thời đại ta đang sống qua nhiều cách và nhiều hình thức khác nhau, câu chuyện dưới đây là một điển hình.
“Đạo gì mà cứ đến Noel là đem chó ra đập đầu để nhậu; đạo gì mà kỳ cục khi cha mẹ chết không cúng quải gì hết trơn !” Đây là suy nghĩ và cũng là lời từ chối khéo của một cô gái khi được người yêu là người Công Giáo ngỏ lời cầu hôn và mời gọi theo đạo của mình. Đôi bạn trẻ đã chia tay với lý do duy nhất là khác và bất đồng tôn giáo.
Sau khi chia tay với người yêu đầu đời cô gái với tên gọi: H. 25 tuổi, quê ở Hậu Giang, một lần nữa, trái tim rung lên những nhịp đập của tình yêu khi cô gặp một chàng trai lớn hơn mình ít tuổi, sinh ra và lớn lên nơi đất Sài Thành. Chàng trai này sinh trưởng trong một gia đình Công Giáo, cha mẹ rất đạo đức và thánh thiện, thật là trớ trêu ! Sau những lần hẹn hò, tâm sự, chàng ngỏ lời cầu hôn với điều kiện H. phải theo học lớp Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân theo truyền thống gia đình và theo Giáo Luật của Giáo Hội Công Giáo, sững sờ, do dự và sau khi hỏi ý kiến của mẹ là một Phật Tử, cuối cùng H. chấp nhận lời cầu hôn và cùng với người yêu theo học Giáo Lý tại một nhà thờ, thuộc Tổng Giáo Phận Sàigòn.
Tưởng chừng mọi việc êm ả, nào ai có ngờ ! Vào một buổi sáng, H. nhận được hung tin người yêu mình bị Công An bắt vì lý do theo bè bạn thực hiện chuyện phi pháp ( vì lý do tế nhị nên người viết không tiện tường thuật chi tiết ). Trời đất như sụp đổ, H. hoàn toàn mất phương hướng. Rơi vào hoàn cảnh này, gia đình chàng trai không biết phải khuyên cô con dâu tương lai như thế nào, ai cũng thầm nghĩ, rồi đây chuyện hôn nhân sẽ khó thành và nhất là chuyện học Giáo Lý và theo đạo của H. không đi tới đâu. Quả là nghiệt ngã !
Thế nhưng, chuyện tưởng như trong cổ tích đã trở thành hiện thực giữa thời đại hôm nay. Sau những giây phút bàng hoàng, thầm trách đời, trách người, H. quyết định tiếp tục thực hiện việc học Giáo Lý, điều mà gia đình chàng trai không dám nghĩ tới, hơn thế nữa H. còn tâm sự với chúng tôi:
Khi biết được người yêu của em theo bè bạn đi vào con đường xấu, em đã cố khuyên và khóc rất nhiều nhưng không kết quả, những ngày đầu cùng với anh ấy đi học Giáo Lý, em chẳng hiểu và cũng chẳng để tâm, nhưng qua những lời cha chia sẻ trong giờ học, với những tiếp thu còn hạn hẹp, em xin Chúa hoán cải người yêu của em. H. nói tiếp… Tất cả mọi việc Chúa làm đều đúng, chỉ có con người thực hiện công việc là sai phải không anh ? Em nghĩ Chúa đã nghe lời em cầu xin qua những biến cố xảy đến, may ra anh ấy mới có thể trở thành người tốt. Thế nên em quyết định tiếp tục theo học Giáo Lý và chờ đợi người yêu của em, em cũng chưa biết số phận anh ấy hiện tại và tương lai sẽ ra sao, nhưng em tin Chúa có cách của Chúa.
Sau một thời gian đơn phương theo học lớp Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân, ngày 21.12.2011 vừa qua, cô H. đã được cha Sở Họ Đạo giúp cho lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Rước Lễ cùng với trên dưới 30 thành viên cả nam lẫn nữ, đủ mọi lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ. Quả là tình thương và ý Chúa nhiệm mầu !
Vâng ! Thánh Gioan đã xác tín: “Thiên Chúa là tình yêu” ( Ga 4, 8 ), khởi đi từ tình yêu, Ngài đã chấp nhận bước xuống cõi trần mang lấy thân phận yếu hèn, “đồng cam cộng khổ” với con người nhân loại. Có thể nói: “Thiên Chúa làm người, để cho con người nhận biết Thiên Chúa”, Ngài không đóng khung Ngôi Vị của một vị Thiên Chúa đầy quyền năng, nhưng khai mở cho toàn nhân loại được biết tình thương và ý định của Ngài, cho dù họ là ai, đã tin, chưa tin như lời của Thánh Phaolô: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” ( Ep 3, 6 ). Thế nhưng, không phải ai cũng cảm và nhận ra điều ấy trong đời sống của mình.
Ngày xưa, những Thượng Tế, Kinh Sư là những người am hiểu và thuộc lòng Kinh Thánh, họ thường xuyên đọc, giảng dạy Kinh Thánh cho mọi người thuộc dân tộc Do Thái, một dân tộc mà Chúa chọn làm dân riêng của Ngài, chính nhờ sự am hiểu và thuộc Kinh Thánh đã giúp họ giải đáp mau lẹ những thắc mắc của ba nhà Đạo Sĩ và vua Hêrôđê, giúp cho ba nhà Đạo Sĩ có thêm động lực tiến bước đi tìm Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng, chính họ lại không nhận và không cất bước theo ba nhà Đạo Sĩ để đến bái thờ Cứu Chúa, Đấng đã được các ngôn sứ tiên báo trong Kinh Thánh.
Vì sao thế ? Xin thưa, vì tính cao ngạo của họ, hệ quả của tính cao ngạo và việc không đến và không tiếp cận với hài Nhi Giêsu đã đưa đẩy họ trở thành công cụ cho quyền lực sự dữ. Hành động áp bức, khinh rẻ những người nghèo khổ, cô thân, cô thế, ăn chặn những đồng tiền của các bà góa… đặc biệt là việc chống đối, lên án và đóng đinh Đức Giêsu của các Kinh sư, Thượng Tế đã nói lên tất cả.
Riêng với ba nhà Đạo Sĩ, các ông đã biết vận dụng sự khôn ngoan, tri thức để nhận ra dấu chỉ và lời mời gọi của Thiên Chúa qua ánh sao, các ông thầm nghĩ rằng: tuy mình giàu sang, phú quý, tài ba lỗi lạc đó nhưng sao sánh với Hài Nhi mới sinh ra nơi Bê lem kia, qua dấu chỉ của ánh sao Hài Nhi kia mới là Người cao trọng, đầy uy quyền hơn hẳn các ông về mọi mặt, vì thế các ông đã rời bỏ quê hương, rời bỏ “chăm ấm nệm êm”, bỏ lại chiếc ghế quyền lực để lên đường bái kiến và không quên mang theo những món quà quý giá nơi xứ sở của mình để làm quà tặng.
Trải qua bao gian khó vì đường xa vạn dặm, trải qua những giây phút hụt hẫng, bối rối, hoang mang vì ánh sao dẫn đường bỗng dưng biến mất, các ông không thoái lui, cuối cùng, sự khát khao, mong ước của các ôn đã được toại nguyện. Sau khi diện kiến, thờ lạy, dâng quà cho Vua Cả trời đất qua dung mạo bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu, tấm lòng của các ông đã được Thiên Chúa đón nhận, Ngài đã soi sáng giúp các ông nhận ra được cái dã tâm, sự xảo trá của quyền lực sự dữ nơi vua Hêrôđê như Tin Mừng đã trình thuật: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” ( Mt 2, 12 ).
Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã tỏ lộ cho ta tình thương và sự hiện diện của Ngài qua mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa như lời Thánh Phaolô giới thiệu: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người” ( Ep 3, 5 ), kế đến mời gọi ta học nơi ba nhà Đạo Sĩ biết vận dụng sự khôn ngoan, khả năng, tri thức nhận ra dấu chỉ và lời mời gọi của Thiên Chúa qua các biến cố vui buồn của cuộc sống, qua những người chung quanh, rời bỏ nhưng đam mê, lợi danh, kiến tạo cho mình những món quà như: Đức Tin mạnh tựa vàng qua tôi luyện, Đức Cậy tựa mộc dược tinh tuyền, Đức Mến tựa nhũ hương thơm ngát để lên đường thờ lạy và dâng tặng Chúa Hài Nhi.
Ngày xưa Thiên Chúa đã dùng ánh sao để dẫn lối cho ba nhà Đạo Sĩ đến chiêm ngắm, thờ lạy và dâng quà lên Hài Nhi Giêsu, giữa thời đại hôm nay khi nhân loại đang sống trong cảnh tối tăm của đói nghèo, hận thù, chia rẻ và loại trừ, còn đó những cuộc chiến tranh giành bá chủ thế giới, tài nguyên thiên nhiên, khủng bố và áp bức lan tràn, sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, nạn phá thai lan tràn, luân thường và đạo lý bị coi nhẹ… Ta được mời gọi trở thành những ánh sao của bác ái – yêu thương, thứ tha – đồng cảm, hiến thân – phục vụ, ngõ hầu giúp mọi người nhận ra dấu chỉ tình thương và sự hiện diện của Thiên Chúa giữa thế giới hôm nay như lời nhắc nhở của Thánh Phaolô: “Giữa một thế hệ gian tà, sa đọa, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” ( Pl 2, 15 ).
Làm sao tôi có thể trở thành ánh sáng của những vì sao như lòng Chúa mong ước, khi tôi không tiếp cận với Đấng là ánh sáng như lời giới thiệu của Thánh Gioan: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” ( Ga 1, 9 ). Nhờ nguồn ánh sáng của Thiên Chúa ngang qua Đức Kitô, tin chắc một điều ta sẽ trở thành muối, men ướp mặn cho đời, trở thành những vì sao dẫn lối cho anh em nhận biết Thiên Chúa, đặc biệt là những anh em lương dân; nhờ sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô qua bí tích Thánh Thể và Tin Mừng ta sẽ được ơn soi sáng để nhận ra cái giã tâm, xảo trá của ma quỷ, qua những cám dỗ rất ngọt ngào và tinh vi nơi cuộc sống thường nhật như lời Đức Kitô đã hứa: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái… nếu anh em ở lại trong Thầy và Lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” ( Ga 15, 5 – 7 ).
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng ánh sao để dẫn đường chỉ lối cho ba nhà Đạo Sĩ tiếp cận ơn cứu độ, xin giúp con biết nhận ra dấu chỉ tình thương và sự hiện diện của Chúa nơi đời sống con qua những vui, buồn, thất bại cũng như thành công nhất là nhận ra sự hiện diện nơi những người anh em chung quanh. Xin Chúa thánh hóa, biến đổi và ban ơn trợ giúp, để nhờ ơn Chúa mọi công việc từ lời nói cho đến hành động của con trở thành bài ca cảm tạ, tôn vinh và chúc tụng Chúa, nhất là mọi người sẽ nhận ra Chúa nơi đời sống của con. Amen.
Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có những nhân vật (người ta nói là ba nhưng: HiểnLinh ABC211
Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có những nhân vật (người ta nói là ba nhưng Tin Mừng không khẳng định điều này) không biết chính xác đến từ đâu (thánh Matthêu viết rằng từ phương Đông; nhưng phương Đông lớn lắm!). Người ta không biết tên của họ (dù họ mang tên Mechior, Balthasar và Gaspar, theo một truyền thống rất cổ xưa mãi từ thế kỷ thứ 5, nhưng đó không phải là một điều chắc chắn mang tính khoa học). Và có ngôi sao! Ngôi sao mà người ta đã nói và viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các vị hiền sĩ của chúng ta (có lẽ là những nhà chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là vua) và nó đã dừng đúng chỗ, đúng lúc: Trên ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi Giêsu! Lại có vàng, nhũ hương và mộc dược nữa…
Hai sứ điệp.
Lễ Hiển linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên chúng ta đừng để mình quá bị chi phối bởi những chi tiết dù có quan trọng đi nữa. Ta hãy quan tâm tới điều chính yếu: hãy chú ý đến sứ điệp, sứ điệp này gồm hai điều:
Một là, lễ hiển linh nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu không đến trong thế gian vì một số người mà thôi (những người thân cận với Ngài), rằng Ngài không nhập thế duy chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do Thái), nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế và vì tất cả mọi người sống trên quả đất này. Thậm chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng không thể bị quên lãng. Không ai, thực sự không người nào bị loại trừ khỏi những bận tâm của Chúa Giêsu. Ngài sinh ra cho hết thảy mọi người. Tất cả mọi người, đàn ông đàn bà, lớn bé, giàu nghèo ở khắp mọi nơi chốn và mọi thời đại đều được mời gọi đến lãnh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để soi sáng và cứu vớt toàn thể nhân loại. Những bản văn Thánh Kinh được công bố hôm nay khẳng định rõ ràng điều đó (x. Ep 3,6: “Mầu nhiệm này là những kẻ ngoại giáo được thông phần cùng một di sản, cùng một thân thể…” Is 60,3-4: “Chư dân sẽ bước đi hướng về ánh sáng của Ngài… hết thảy họ đều tụ họp lại…”).
Điều thứ hai của sứ điệp dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu đã bị những kẻ thuộc về Ngài không biết đến, thậm chí còn ruồng bỏ, nhưng lại được những kẻ xa lạ, các hiền sĩ, tìm kiếm, khám phá, đón nhận và tôn thờ. Không có chỗ cho Ngài nơi những kẻ thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ, ngày Ngài chào đời! Không có những người trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh, chỉ có các mục đồng thôi! Còn Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông muốn giết Đấng đến để cứu ông!
Hai áp dụng cụ thể.
Ta có thể rút ra từ sứ điệp trên đây hai áp dụng cụ thể.
Trước hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ cũng có thể sống bên cạnh Chúa Kitô mà không quan tâm đến Ngài, và cũng có thể biết tên của Ngài mà không thực sự biết chính Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn hiệu Kitô nhưng kỳ thực ta không phải là Kitô hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng định Chúa Kitô hiện diện trên thế giới, nhưng ta không rút ra được từ đó một kết luận thực tiễn nào cả cho những ứng xử của cá nhân mình và cho cách điều khiển xã hội.
Sau đó ta phải tự nhủ –đây là áp dụng cụ thể thứ hai- rằng ta luôn luôn phải để cho một ngôi sao hướng dẫn mình, phải luôn luôn lên đường tìm kiếm Chúa Kitô, luôn luôn cố gắng hiểu rõ Ngài hơn… vì nơi chúng ta bao giờ cũng còn lại một cái gì ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến tất cả những ngẫu tượng mà ít nhiều chúng ta còn tôn thờ hoặc để cho mình bị chúng thôi miên mà không hay biết. Những ngẫu tượng này là; tham tiền bạc, cá nhân chủ nghĩa thúc đẩy chúng ta quên đi số phận của kẻ khác. Ta cũng có thể gọi là ngẫu tượng óc tiêu thụ quá đáng rất thường điều khiển chúng ta và nhất là cái nhìn hoàn toàn duy vật của chúng ta về cuộc sống.
Tìm ngôi sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu và Mẹ Ngài, từ bỏ xứ sở, đi đến một nơi xa lạ, dám sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong đó ta dấn thân hoàn toàn và vì đó ta cho đi cái tốt nhất nơi mình, đấy là những gì các hiền sĩ đã làm. Còn chúng ta, quá thường sống như người ngoại đạo trong một đất nước còn mang tên Kitô, chúng ta có can đảm lên đường tìm kiếm Chúa Kitô không? Chúng ta có biết đi theo ngôi sao của các hiền sĩ còn đang chiếu sáng cho những kẻ đói khát Thiên Chúa không?
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền: HiểnLinh ABC212
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của HiểnLinh ABCtừ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.
Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên Chúa.
Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Về tên của HiểnLinh ABClà: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng với HiểnLinh ABCbên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của HiểnLinh ABCtrên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và: HiểnLinh ABC213
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chổ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách, tù đầy...
Cậu bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân vương.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về thái độ của những nhân HiểnLinh ABC214
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về thái độ của những nhân vật liên hệ.
Trước hết là các thượng tế và kinh sư. Khi được hỏi Đức Kitô sinh ra ở đâu, thì họ đã trả lời vanh vách: Tại Bêlem, miền đất Giuđa, vì trong sách tiên tri có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời. Sự hiểu biết của họ thật chính xác, nhưng mới chỉ là một sự hiểu biết hoàn toàn theo sách vở, cho nên đã không đủ mạnh để thúc đẩy họ đi vào hành động. Không một ai trong hõ đã nghĩ tới chuyện đến Bêlem xem lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm như thế nào?
Tiếp đến là thái độ của dân thành Giêrusalem. Trước nguồn tin một vị vua của họ mới chào đời, Đấng họ trông chờ và tin rằng sẽ đến để giải thoát họ, thay vì vui mững và chuẩn bị nhập cuộc, thì họ lại hoảng hốt như chính Hêrôđê, kẻ thống trị họ đã hoảng hốt. Họ đã quen với cuộc sống mà họ biết là sẽ phải chấm dứt, để bước sang một cuộc sống mới, nhưng khi thời cơ đến, họ lại e ngại, sợ hãi vì phải dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, bởi vì con đường giải thoát thực sự là một cuộc dấn thân và chỉ dành cho những ai biết chỗi dậy và lên đường.
Cuối cùng, chính các nhà đạo sĩ từ một phương trời xa lạ, không phải chỉ xa lạ về mặt địa dư, mà còn xa lạ cả về mặt tôn giáo và tín ngưỡng, lại gặp được Chúa, mà họ gọi là Vua dân Do Thái mới sinh ra, không phải tại Belem mà thôi, mà còn cả trong một thứ lòng tin nào đó. Ba nhà đạo sĩ được ngôi sao dẫn đến nơi Hài Nhi Giêsu ở, họ đã quì lạy Ngài và tiến dâng Ngài lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện thánh Matthêu kể lại và chúng ta vừa nghe, đã không chấm dứt với ba nhà đạo sĩ, với các thượng tế và kinh sư, với Hêrôđê và dân thành Giêrusalem, mà còn được tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bởi vì người hôm qua là đạo sĩ, nghĩa là người ngoại đạo, thì hôm nay rất có thể đã trở thành những thượng tế, những kinh sư, những người thành Giêrusalem, nghĩa là những người trong nhà. Đồng thời cũng rất có thể xảy ra trường hợp những người trong nhà đã đánh mất khả năng nhận ra Đấng Cứu Thế và tiếp nhận Ngài, cũng như đã đánh mất khả năng nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Ngài trong thế giời hôm nay.
Đúng thế, trong thế giới hôm nay cũng như hôm qua và mãi mãi về sau, không biết có bao nhiêu người bị xếp vào phía bên tả trong ngày phán xét, chỉ vì đã không cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm. Họ đã không nhận ra Thiên Chúa nơi những người anh em cùng khổ.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta hay chưa? Và như ba nhà đạo sĩ, chúng ta có biết dâng lên Chúa lễ vật là những sự trợ giúp chúng ta dành cho những người anh em bất hạnh hay chưa?
Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài HiểnLinh ABC215
Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”
Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của những người hiện diện.
Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)
* * *
Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.
Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.
“Hãy đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia 60,1) Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)
Phải tỏa sáng cách nào?
Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.
Như giọt sương mai
Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.
Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương mai. Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin Mừng Chúa Kitô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì Ánh Sáng Tin Mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời sáng trên những giọt sương mai.
Lạy Chúa Giêsu, Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì “gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng”.
Đoạn Tin Mừng đề cập đến các vị đạo sĩ gắn kết với đoạn trước bằng cái tên “Giêsu”. Ngoài ra: HiểnLinh ABC216
Đoạn Tin Mừng đề cập đến các vị đạo sĩ gắn kết với đoạn trước bằng cái tên “Giêsu”. Ngoài ra, Mt 1,23 đã loan báo rằng trinh nữ “sẽ sinh hạ”; còn ở 2,2 các đạo sĩ vấn hỏi: vua dân Do Thái “đã sinh hạ” ở đâu. Tuy sự thể đã quá hiển nhiên như vậy rồi, truyền thống kể lại ở đoạn Mt 2,1-12 lại chắc chắn có trước thời Matthêu; ví dụ: như việc không đề cập gì đến sự hiện diện của Giuse (x. c.11) mặc dù ở Mt 1,18-25 lại nói nhiều đến Giuse.
Ý nghĩa phong phú của đoạn này nằm ở chỗ chứa đựng rất nhiều câu ám chỉ. Trước hết ta nên dựa vào bố cục của đoạn văn, căn cứ vai trò của ngôi sao lạ mà chia nó thành hai phần để phác họa rõ nét hơn sự đối kháng giữa thái độ của các đạo sĩ với thái độ của Hêrôđê.
Trong phần đầu (1-8) tấn tuồng được hình thành:
Câu 1-2: các đạo sĩ quan sát thấy một ngôi sao loan báo sự ra đời của vua dân Do Thái và họ phải đến kính viếng. Văn bản chỉ nói rằng ngôi sao đã chỉ đường cho họ, thế thôi. Họ đi đến Giêrusalem, trung tâm của thế giới Do Thái, và hỏi ra vị vua này ở đâu?
Câu 3-6: Ở Giêrusalem, Hêrôđê vua dân Do Thái và toàn thể công nghị (thượng tế và luật sĩ) tập thể đại diện cho dân Do Thái đặc trách việc chú giải Kinh Thánh, đã nghiên cứu những lời tiên báo về Đấng Mêsia. Hơn cả ngôi sao, Kinh Thánh mới là cuốn chỉ nam dẫn đường cho các đạo sĩ.
Câu 7-8: Giới chức Do Thái giải thích rất chính xác các lời tiên tri nhưng không hề ra tay hành động. Còn bản thân Hêrôđê lúc nào cũng e ngại một đối thủ xuất hiện nên đã ghi nhớ điều mặc khải này như đoạn sau sẽ cho thấy.
Phần hai (9-12) tấn tuồng được diễn:
Câu 9-11: Các đạo sĩ lại được ngôi sao hướng dẫn đến tận chỗ ở của Đấng Mêsia sau khi họ được Kinh Thánh soi rọi.
Câu 12: Mưu mô giết chóc của Hêrôđê bị thất bại bởi vì Thiên Chúa lại ra tay can thiệp một lần nữa “các đạo sĩ trở về xứ qua một lối khác”.
Ngoài ra bản văn còn cho ta những chìa khóa khác nếu ta nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân vật (các đạo sĩ, Hêrôđê), dấu hiệu ngôi sao và câu trích dẫn (c.6)
1. Các đạo sĩ: Vừa là những bậc thông thái lại là những nhà thuật sĩ, các “đạo sĩ” Đông Phương hành nghề bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Trước đó, Môsê đã từng đụng độ họ ở cung điện vua Pharaon, sau này các tông đồ cũng đôi lần gặp phải các nhân vật nhóm này (x. Cv 8,9; 13,8). Kinh Thánh không yêu thích gì họ. Và chỉ có dân ngoại mới làm đạo sĩ bởi vì ở xứ Israel, “phù thủy” là nghề bị cấm chỉ.
Các vị đạo sĩ trong Mt 2 đến từ Đông Phương bởi vì các thuật sĩ Đông Phương nổi tiếng hơn, nhất là các người Chaldé xứ Babylone. Matthêu không nói rõ họ thuộc dân xứ nào. Những lễ vật họ mang theo gợi ta đoán là xứ Ả Rập. Cũng có thể là xứ Ba Tư. Theo hai tác giả La tinh, khoảng năm 66 có các đạo sĩ Ba Tư tuân theo các ngôi sao chỉ đường, đã đến Rôma để triều yết hoàng đế Neron, khi trở về họ chắc rồi cũng “đi theo lối khác”. Tuy nhiên, Matthêu không dẫn dắt các đạo sĩ đến với Neron mà là đến với Chúa Giêsu và cũng rất mỉa mai khi xảy ra sự thể là: đang khi giới hữu trách Do Thái hằng được Kinh Thánh soi sáng lại không biết cách làm thì các đạo sĩ ngoại giáo chỉ dựa vào hiểu biết khoa học chứ không phải do Kinh Thánh soi sáng hoặc do tuân giữ Kinh Thánh lại làm được: đó là bài học truyền giáo đầu tiên của tác giả Tin Mừng.
Giáo Hội Đông Phương cho rằng có ba vị đạo sĩ (dựa vào số món quà đem theo) và gọi họ là ba vua. Sự tôn vinh này khá phổ biến trong Cựu Ước. Thực vậy, theo Thánh Vịnh 72, 10-15 thì các kẻ cầm đầu các dân nước đến dâng hiến châu báu xứ sở lên cho Đấng Mêsia. Nhưng Matthêu không gọi họ là vua: họ là những dân ngoại khiêm hạ nhất đã đến với Đức Kitô.
2. Ngôi sao lạ: Chắc chắn tác giả Tin Mừng sẽ giật mình khi biết rằng hậu thế mình đã ra công cất sức truy tìm những giả thuyết để xác định cho được tinh vân nào hoặc sao chổi nào có lẽ đã xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Ngôi sao của Matthêu không phải là vì tinh tú mọc trên bầu trời, mà là ở trong Kinh Thánh (Theo Ds 24,17 thì sẽ có ngày “ngôi sao nhà Giacóp” sẽ mọc lên. Và dân Do Thái ở thế kỷ I đã áp dụng lời tiên tri này cho Đấng Mêsia. Hình ảnh tượng trưng đó rất phù hợp với câu chuyện về các đạo sĩ ở đây). Bởi vì lời tiên báo trong Ds 24 cho dân Israel không phải do một tiên tri Israel nói ra mà bởi Balaam, một kẻ ngoại mà truyền thống vẫn coi ông ta như là kẻ giải mộng, nghĩa là một “đạo sĩ”.
3. Hêrôđê: Khi Chúa Giêsu ra đời, triều đại Hêrôđê đại đế (năm 37-4 trước Công nguyên) đã chấm dứt. Ta biết rằng Denys bé nhỏ, một tu sĩ sống vào thế kỷ VII đã sai lầm khi xây dựng bộ lịch ngày nay. Đúng ra, Chúa Giêsu ra đời vào năm thứ bảy hoặc thứ sáu “trước khi Chúa Giêsu Kitô ra đời”. Bấy giờ, Hêrôđê rất sợ kẻ chiếm ngôi đến độ y đã ra lệnh xử giảo ngay cả một số con cái mình: các kẻ đương thời đã khôi hài với nhau rằng: thà rằng làm con heo (hus theo tiếng Hy Lạp) của Hêrôđê hơn là làm con đẻ (huios) của y. Tóm lại, những gì ở đây Matthêu gán cho nhân vật Hêrôđê đều cảm hứng từ thực tế. Nhưng một phần thì đoạn kể về các thuật sĩ mang tính biểu tượng và mặt khác lúc bấy giờ người ta lại không hề biết sự ra đời của Chúa Giêsu nhưng cuộc tàn sát ở Bêlem chắc chắn có để lại dấu ấn trong lịch sử Do Thái, đều là những sự kiện thực tế. Hình tượng nhân vật Hêrôđê được truyền thống Tin Mừng xét theo hai cách:
a) Đàng sau lời sứ thần báo tin cho Giuse đúng là một việc khả thi, giống như lời báo tin của Thiên Chúa cho người cha tương lai của Môsê vậy. Nhưng lại có truyền thuyết Do Thái cổ xưa khác, cũng thuật lại một giấc mộng làm Pharaon lo lắng và được các thuật sĩ cắt nghĩa như sau: một Hài Nhi sẽ sinh ra nơi dân Hy Bá Lai, nó sẽ triệt hạ xứ Ai Cập. Chính vì vậy mà Pharaon đã ra sắc chỉ tàn sát mọi con trai đầu lòng của người Hy Bá Lai (x. Xh 1,15). Chịu ảnh hưởng của truyền thống này, ở đây Chúa Giêsu xuất hiện như một Môsê mới và Hêrôđê đóng vai vị vua tàn ác nhưng chỉ chuốc lấy thất bại.
b) Mặt khác, trong đoạn tường thuật này, Hêrôđê được bao quanh bởi “toàn thể Giêrusalem” (c.3) và các quan chức Do Thái giáo (tư tế, luật sĩ: c.4). Như thế cuộc khổ nạn và những kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu đã được dựng lên ở đây rồi vậy.
4. Lời tiên tri của Mikha (c.6): Đáp lại câu hỏi ở c.2 “Vua dân Do Thái sinh hạ ở đâu?”. Dựa vào lời nói của các tư tế và luật sĩ (thực ra là của Matthêu), bằng cách trưng ra “bố trí” sẵn những câu trích dẫn Cựu Ước. Matthêu đã trích Mk 5,1-3 và phối kết với 2Sm 5,2 “Ngươi sẽ là mục tử chăn dắt Israel dân Ta” đó chính là lời hứa đối với Đavít. Ta cũng cần nói thêm rằng tiên tri Mikha nối kết với câu Is 7,14 đã được trích ra ở trên. Như thế, lời tiên báo được sắp xếp lại như vậy có ý nghĩa gì?
a) Trung thành với Mikha, và ít lạc quan về tương lai của Giêrusalem, Matthêu đã tôn vinh làng Bêlem đơn hèn, vì đó chính là ngôi làng của Đấng sẽ trở nên Mêsia cho những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25-30).
b) Nhận chân giá trị của thành vua Đavít và lời hứa ban cho vị vua này (2Sm 5,2) nối kết tầm quan trọng của tổ phụ Đavít của Chúa Giêsu như đã nhấn mạnh trong Mt 1.
c) Nếu Chúa Giêsu phải là “mục tử dân Israel” (một tước hiệu gán cho chính Thiên Chúa x. Tv 80,2) và nếu Giêrusalem đã khước từ Đấng chăn dắt mình, vậy thì lời tiên tri làm sao nên trọn được? Đó chính là toàn bộ thảm kịch của sứ vụ Đức Kitô.
Toàn bộ nét biểu trưng đoạn đã biến Tin Mừng về ba vị đạo sĩ thành một Tin Mừng thu nhỏ lại: vua Đavít mới, Môsê mới ngày kia sẽ rao giảng trên núi, Người mục tử bị chê bỏ (cf. Mt 26,31) bởi những kẻ kêu gào phải giết Ngài đi, rồi chế nhạo “Vua dân Do Thái” trên đồi Calvariô (cf. Mt 27,37) để rồi đến một ngày vang dội lệnh truyền khẩn thiết này “hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân”.
Câu hỏi cốt lõi của đoạn này là: Ở ĐÂU? Những chuỗi kế đến sẽ liệt kê (Mt 28,19) thêm Ai Cập, Rama, Galilê, Nagiarét trong số nhiều địa điểm có ý nghĩa của cuộc sống đời Đấng Mêsia.
BỊ DÂN NGƯỜI TỪ CHỐI KHI MỚI SINH RA, ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC DÂN NGOẠI TIN NHẬN LÀ VUA KHẮP THIÊN HẠ VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh...
Luca đã thuật lại việc các mục đồng đến viếng thăm hang đá, bài tường thuật ấy ăn nhịp với: HiểnLinh ABC217
Luca đã thuật lại việc các mục đồng đến viếng thăm hang đá, bài tường thuật ấy ăn nhịp với quan điểm lựa chọn người nghèo của ông. Về phần Matthêu, ông này kể lại chuyến thăm viếng của các vị Đạo sĩ, bởi ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, họ đại diện cho những vùng đất xa xôi mà Đấng Phục Sinh sẽ sai các môn đệ đến, trong lần gặp gỡ cuối cùng ở Galilê: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành Môn đệ... " (Mt 28,19).
Bên dưới cái bề ngoài có vẻ ngây ngô trẻ con kia, đoạn Tin Mừng về các vị Đạo sĩ rất quen thuộc này thực ra đã được hình thành một cách tài tình, bằng một thứ nghệ thuật ngôn ngữ biểu tượng hoàn hảo, và chứa đầy những ẩn dụ của Cựu Ước mà nó hoàn tất: dưới ánh sáng của Phục sinh, tác giả Tin Mừng đã tìm về nguồn gốc lai lịch của Đức Giêsu, cho chúng ta khám phá thấy dưới dạng còn mới tiềm ẩn, những gì rồi đây sẽ hiện tỏ trọn vẹn trong cuộc đởi và biến cố vượt qua của Người.
A. Marchadour lưu ý chúng ta: "Tác giả Kinh Thánh, không cố bận tâm về tính xác thực lịch sử như chúng ta ngày nay, là những kẻ đầu óc mang nặng chủ nghĩa thực nghiệm. Nên nhớ tất cả những trình thuật về thời thơ ấu của Chúa đều được biên soạn từ các dữ kiện xảy ra về sau, được đưa vào muộn màng sau này. Phải đọc lại quá khứ dưới ánh sáng của hiện tại, tầm quan trọng của Kinh Thánh như là những "Lời tiên tri”, vẻ huy hoàng của biên cố vượt qua, tất cả đều tỏ cho thấy căn tính đích thực của Đức Giêsu. Tất cả cho phép chúng ta hiểu rằng các trình thuật thơ ấu đều đã được viết lại và tính xác thực lịch sử không phải là bận tâm hàng đầu của tác giả Kinh Thánh" (Les dossiers de la Bible, số 44, tr.5).
2. Một tường thuật sử dụng ý nghĩa biểu tượng của những đối lập:
Người đọc dễ dàng nhận ra được ngay hai phía đối lập nhau:
1. Phía thứ nhất có khung cảnh là đền thờ Giêrusalem, nơi triều đình của Hêrôđê.
Các Đạo sĩ có thể là những nhà chiêm tinh xứ Babylon, chuyên tìm đọc những bí ẩn của những vì sao - đã lên đường đi Giêrusalem, trái tim của thế giới Do Thái, để đến bái lạy "Đức Vua dân Do Thái”, bởi thấy sao của Người xuất hiện loan báo (c.1 và 2).
- Tuy nhiên, để gặp được Đấng họ tìm kiếm, ngôi sao lạ kia không đủ. Các ông cần đến sự trợ giúp của dân Do Thái và Kinh Thánh của họ.
Khi được các vị đạo sĩ đến hỏi, Hêrôđê và thành phần lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem quay sang tra cứu các lời sấm liên can đến Đấng Mêsia (c.3 và 6).
Để trả lời cho các vị khách phương xa này, nhóm cầm quyền Do Thái đã chú giải một cách chính xác lời các Ngôn Sứ, nhưng vẫn ở lại trong thành Giêrusalem (c.7 và 8).
2. Phía thứ hai ở tại Bêlem, nơi Đức Vua Giêsu đang chờ đón các vị đạo sĩ.
- Được Kinh Thánh chỉ dẫn lại, các vị đạo sĩ tìm thấy lại ngôi sao lạ. Lần này, nó đưa các ông đến với Đấng Mêsia ở Bêlem (c.9 và 10).
- Đến nơi họ gặp được Chúa Giêsu và sấp mình bái lạy Người, rồi dâng tiến Người những bảo vật quý giá nhất của xứ sở mình, đó là "vàng, nhũ hương và mộc dược" (c.11).
Hêrôđê thì chỉ nuôi những ý đồ giết người, nhưng không thành do sự can thiệp của Thiên Chúa: "được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên các vị đạo sĩ đã đi lối khác mà về xứ mình" (c. 12).
Nếu phân tích kỹ hơn, người ta sẽ phát hiện thấy một bộ ba những cặp đối lập nhau - một lời báo trước về khổ nạn – làm thành cái khung của câu chuyện:
1. Giêrusalem, trung tâm chính trị và tôn giáo, đã khước từ Đấng đến để hoàn tất những lời hứa, đối chọi với Bêlem, nơi hạ sinh của Con Vua Đavid các ngôn sứ từng loan báo.
2. Các đầu mục dân lsrael (các thượng tế và kinh sư hợp thành thượng Hội Đồng, cơ quan thẩm quyền đại diện cho Do Thái giáo) là những kẻ tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh, nhưng lại tỏ ra bất lực không thể ra đi, rời bỏ khỏi nơi ở của mình là Giêrusalem, họ đối chọi với các vị đạo sĩ ngoại giáo đã biết tìm kiếm, lên đường và sau cùng đã tìm thấy. Trong lúc phía bên kia “bối rối, xôn xao" thì phía bên này "mừng rỡ vô cùng”.
3. Hêrôđê, kẻ được tác giả gọi là "vua”, và là kẻ chỉ nơm nớp cho ngai báu của mình, đối chọi với Hài Nhi Bêlem, Đấng thật sự là vua: - Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia 60 (bài đọc I), loan báo ngày mà dân ngoại lũ lượt tiến về Giêrusalem, mang theo vô vàn châu báu để triều cống. Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Mica 5,1 nói đến Bêlem như là nơi sinh của Đấng Mêsia: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa. Chính tự nơi người sẽ xuất hiện cho Ta, Vị có mệnh thống lĩnh Israel”.
Nơi Người đã ứng nghiệm lời tiên tri của Balaam, một người ngoại giáo, trong sách Dân Số 24, báo trước sẽ có một ngày xuất hiện "một ngôi sao mọc lên từ Giacob”.
Như thế, qua nét tinh tế của bố cục và lối viết của mình, câu chuyện đã công bố cho thấy căn tính nhiệm mầu của Đức Giêsu, loan báo sứ mạng của Người, báo trước việc Người sẽ bị những đầu mục của dân Người chối từ, cũng như sự kiện dân ngoại sẽ tìm đến với Hội Thánh. Tắt một lời, nói theo kiểu của Claude Tassin, chúng ta đang có ở đây một thứ "Tin Mừng ở dạng thu nhỏ”.
Được đặt lại trong toàn bộ Tin Mừng của Matthêu, ý nghĩa của đoạn văn sẽ trở nên sáng tỏ. Francois Brossier tóm tắt như sau: "Những kẻ đáng ra phải đón nhận Đấng Mêsia do Thiên Chúa gởi đến, lại không nhận biết người, bởi đầu óc chúng đã ra cằn cỗi. Đang khi đó, chính những dân ngoại lại đón nhận và tôn thờ Người. Sự chối từ nơi phần lớn dân Israel và thái độ đón nhận nơi dân ngoại, một chủ đề sẽ bàng bạc trong khắp cả Tin Mừng, đó là điều đang được minh nhiên công bố ở đây" (Le Monde de La Bible, số 85, trang 18).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chúng ta có để mình được Phúc Âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo?”
(T.Sintas, trong "Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie", Médiaspaul, tr.27).
"Nơi chúng ta, là Giáo Hội, hôm nay, được ký thác một ánh sáng có khả năng soi dẫn đường đi nước bước cho tất cả những ai đi tìm Đức Giêsu. Điều đó chẳng do bởi nhân đức thánh thiện của chúng ta, cũng chẳng do bởi đời sống tốt lành hay đức tin cá nhân của chúng ta. Tất cả chỉ vì đó là sứ mạng chúng ta đã nhận lãnh từ nơi Đức Kitô. Những gì chúng ta phải loan báo không có cơ sở chân lý từ chính bản thân chúng ta, nhưng duy nhất từ Đấng đã giao phó sứ mạng ấy cho chúng ta. Sức mạnh của việc Phúc âm hoá đến từ Thiên Chúa. Đừng chờ đến khi nào nên thánh rồi mới thi hành nhiệm vụ. Một cách đơn sơ, khiêm tốn, chúng ta hãy để mình được phúc âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo".
2. Bạn có biết rõ câu chuyện về Balaam và con lừa của ông ta chưa?
(H.Denis, trong "100 mots pour dire la soi", Desclée de Brouwer, tr. 71-72).
"Không có hang đá nào mà lại không có ngôi sao. Chẳng có lễ Hiển Linh nào mà lại thiếu vắng vì sao lạ ấy... Nhưng sự thực mà nói, bạn có biết rõ hay không câu chuyện về Balaam? Người ta không biết đích xác nó xảy ra khi nào (sách Dân Số, ch. 22- 24), nếu không phải là vào khoảng giai đoạn cuối cuộc xâm nhập của Israel vào Đất Hứa, không xa thành Giêricô bao nhiêu. Những người dân xứ Moab kinh hoàng trước sức tiến của Israel. Họ tìm đến với một người tên Balaam nào đó, có lẽ là một thầy bói, để nhờ ông ta trù ẻo cho Israel (vào thời đó, người ta còn tin vào hiệu năng hầu như ma thuật của những lời trù ẻo).
Được Thiên Chúa can ngăn trong giấc mộng, lúc đầu Balaam từ chối, rồi sau đó lại quyết định lên đường và cưỡi con lừa cái của mình. Thiên Chúa liền nổi giận và hiện ra cho con lừa dưới dạng một Thần sứ với gươm tuốt trần cầm tay. Con lừa tránh sang một bên đường và phóng xuống ruộng. Balaam đánh đập và hành tội con vật. Nó lại chui vào một khúc đường trũng và hẹp, vô phương tới lui hay nhúc nhích bên này bên kia. Con lừa đáng thương quỵ xuống dưới làn roi tới tấp. Lúc ấy, Thiên Chúa cho nó mở miệng nói: nó trách móc Balaam đã đối xử với nó sao quá tàn nhẫn. Phút chốc, Balaam nhìn ra được vị thần sứ với lưỡi gươm trần, ông quì xuống sấp mặt bái lạy. Sau đó, ông được tiếp tục ra đi, nhưng với một điều kiện: chỉ được phép nói trước mặt các thù địch của Israel điều Thần sứ bảo nói! Thế là cái ông Balaam của chúng ta xổ ra một tràng những lời chúc phúc cho Israel: “Làm sao tôi sẽ trù ẻo kẻ Thiên Chúa không cho trù ẻo? Ai nào đếm được số đông của Giacob và Israel? Một ngôi sao mọc lên từ Giacob và một vương tướng xuất từ Israel sẽ đập tan Moab lẫn Eđom? Câu chuyện là như thế, trong đó có nói đến một con lừa biết nói, y như trong chuyện ngụ ngôn của La Fontaine.
Đó cũng còn là lời loan báo trong trời đất về ánh huy hoàng của Đấng Mêsia: "Một ngôi sao mọc lên từ Giacob”. Rồi đây chẳng bao lâu. các nhà đạo sĩ sẽ công bố cái âm hưởng vang vọng khắp địa cầu của cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu. Từ nay, trong Người, toàn thể nhân loại, đã được chúc phúc.
Tôi muốn nghĩ rằng ngôi sao của Noel bắt đầu từ chuyện một con lừa cái bị kiệt sức và quỵ ngã, là kẻ đầu tiên nhận thức được tầm mức lớn lao của biến cố. Đúng thế, nhân loại vừa được sinh ra dưới một ngôi sao tốt, ngôi sao của Đức Giêsu.
Biến cố Chúa Giáng sinh là biến cố trọng đại cho vũ trụ, cho muôn dân muôn nước. Thiên Chúa đã cho: HiểnLinh ABC218
Biến cố Chúa Giáng sinh là biến cố trọng đại cho vũ trụ, cho muôn dân muôn nước. Thiên Chúa đã cho các mục đồng chứng kiến biến cố này. Đồng thời Ngài cũng cho lương dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ như những tâm hồn chân thành tìm kiếm Thiên Chúa được chứng kiến tận mắt biến cố lớn lao này.
Lễ Hiển Linh được gọi là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng dân tộc Do Thái mà còn cho muôn dân khác nữa. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Isaia đã mở ra cả một viễn tượng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng qui về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa. (x Is 60, 1 - 6)
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Đức Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là ba vua, do đó lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là các đạo sĩ. Họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đới với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại đội của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin "Vua người Do Thái mới sinh", Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng "dân ngoại" lại hăm hở đến với "Vua người Do Thái", cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Lễ Hiễn Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta" (Ga 1, 18; 6, 46). Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định là chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: "Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô", thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chính cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngừng đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?". Thế nên, chúng ta có trách nhiệm trả lời cho họ. Trả lời một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta, qua cách sống của mình. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài cách sống đức tin của mình, lòng quảng đại, sự tha thứ, tinh thần quan tâm, chia sẻ trong tình yêu thương của Chúa Kitô. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
Thiên Chúa là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu. Trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, có nhiều mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Có nhiều người đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân không gia đình thăm viếng, chăm sóc. Những con người đó đang sống đức tin của mình cách công khai, họ chính là những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho mọi người được thấy Thiên Chúa tình thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống quảng đại, vị tha, quan tâm giúp đỡ đến nhu cầu của tha nhân. Xin cho chúng con trở nên những ánh sao chiếu toả đức tin, tình thương, lòng nhân hậu của Chúa cho mọi người. Amen.
HĂNG-RI VĂNG ĐAI-KƠ (Henry Van Dyke) có thuật lại câu chuyện nhan đề: "CÒN MỘT NHÀ ĐẠO SĨ KHÁC NỮA", kể về nhân vật thứ tư là người lẽ ra đã cùng ba nhà đạo sĩ đi tìm Vua dân Do thái mới sinh. Nhân vật này tên là Ar-ta-ban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Ar-ta-ban có mang theo một túi đựng những viên kim cương để dâng tặng cho vị ấu vương. Thế nhưng trên đường đến điểm hẹn, Ar-ta-ban đã phải dừng chân để giúp đỡ một người nghèo đói nằm bên vệ đường. Do đó khi đến nơi thì ông không còn thấy ba vị kia đâu. Dù vậy, ông vẫn kiên trì tiếp tục cuộc hành trình đi tìm Vua Cứu Thế. Trên đường tìm kiến, mỗi lần gặp một người khốn khổ, ông lại bán đi một viên kim cương để giúp đỡ. Sau nhiều năm, Ar-ta-ban đã dần dần trở thành một lão già ốm yếu, thế mà ông vẫn chưa gặp được Vua Do thái như lòng hằng mong ước.
Rồi 33 năm sau, khi đang trọ trong thành Giê-ru-sa-lem, Ar-ta-ban thấy cả thành xôn xao náo động vì cái tin nhà cầm quyền đang đem một tội nhân đi hành hình thập giá. Ar-ta-ban tò mò hoà theo dòng người đi xem. Khi nhìn thấy tội nhân đang vác cây thập tự bị té ngã nhiều lần, linh tính cho biết đó chính là vị Vua Cứu Thế mà ông hằng tìm kiếm. Ong liền đi theo Người trên đường thương khó. Rồi khi tội nhân bị đóng đinh và bị treo trên thập giá, Ông muốn đến gần ôm lấy vị Vua kia, nhưng không thể được vì bị bọn lính canh ngăn cản. Bỗng chốc Ar-ta-ban thấy vị Vua mở mắt ra nhìn ông và ông nghe thấy có tiếng thì thầm bên tai rằng: "Này Ar-ta-ban, con đừng buồn nữa. Ta cám ơn con vì bao năm qua đã nhiều lần con tặng quà cho Ta. Nhiều lần Ta đói con đã cho bánh ăn, Ta khát con đã cho nước uống, Ta rách rưới con đã cho đồ mặc, Ta là khách lạ con đã đón ta vào nhà ở trọ...".
Nghe những lời ấy, Ar-ta-ban cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui. Ông hiểu rằng: Các món quà xưa nay ông đã chia sẻ cho người nghèo là ông đã dâng tặng cho chính Vua Giê-su Cứu Thế. Món quà đó không nhất thiết phải là tiền bạc vật chất, nhưng còn là tình người, là sự thông cảm với những ai đang bị đau khổ, là thái độ khiêm tốn sẵn sàng phục vụ tha nhân vô vụ lợi.
3. SUY NIỆM:
1) Ngôi sao lạ dẫn đường: Khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, trên bầu trời xuất hiện một ngôi sao lạ. Có lẽ nhiều người Do thái đã nhìn thấy ngôi sao lạ kia, nhưng chỉ mấy nhà chiêm tinh gia hay đạo sĩ ngoại giáo mới nhận ra đó là dấu chỉ của vị Vua Thiên Sai. Rồi các ngài mau mắn đem lễ vật lên đường tìm kiếm ấu vương mới sinh. Các ngài không nề quản gian nan vất vả, không ngại đường xa vô định, không sợ hy sinh sức khỏe, thời giờ và tiền bạc, không nản chí thất vọng khi gặp các trở ngại dọc đường. Chính vì đầy thiện chí như vậy nên cuối cùng các ngài đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đã dâng tiến cho Người các lễ vật tượng trưng cho lòng thành, và đã nhận được ơn đổi mới.
2) Thái độ dửng dưng của vua chúa và các đầu mục dân Do Thái: Đang khi ấy vua Hê-rô-đê vì lo cho ngai vàng của mình, nên đã tìm cách sát hại Hài Nhi Cứu thế. Còn các thượng tế và kinh sư thì lại dửng dưng. Các ông đã dựa vào Thánh kinh để chỉ đường cho các đạo sĩ đến Bê-lem gặp Vua Thiên Sai mới sinh, nhưng chính các ông lại không dấn thân đi tìm người. Về sau cũng bọn người này đã mượn tay Tổng Trấn Rô-ma để lên án tử hình cho Đấng Thiên Sai và giết Người trên cây thập giá.
3) Ánh sao lạ giữa đời thường: Mỗi Ki-tô hữu phải là một ánh sao lạ: Chúng ta phải dùng lời nói, việc làm và cách ứng xử nhân ái làm dấu chỉ giúp bạn bè và anh em lương dân chung quanh nhận biết Chúa. Một nụ cười vui vẻ, một ánh mắt thân thiện, một lời khen đúng lúc, một việc phục vụ khiêm hạ của chúng ta cũng có thể phát quang giống như ánh sao lạ trên trời như lời thánh Phao-lô dạy: "Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15b). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể là những vì sao sáng thực sự khi chúng ta biết làm cho mình lu mờ đi để Chúa Giê-su lớn lên (để cho ngôi Sao Mai là Đức Ki-tô mọc lên trong lòng chúng ta (x. Kh 2,28).
4.THẢO LUẬN: 1-Tại sao dân ngoại từ phương trời xa đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đang khi các nhà kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở gần Bê-lem lại không gặp được Người?
2- Trong môi trường sống và làm việc hiện tại, bạn cần phải làm gì để chiếu ánh sáng lạ để anh em lương dân nhận biết và tin theo Đức Giê-su?
5.NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời mặt trăng, và các lọai ánh sáng phát xuất từ các nguồn năng lượng khác nhau trên mặt đất. Tạ ơn Chúa đã gọi chúng con là "Ánh sáng cho trần gian". Đây là một niềm vinh dự nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề cho chúng con. Xin cho ánh sáng của chúng con có sức đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng ra khỏi những người chúng con tiếp xúc. Xin cho chúng con biết duy trì được ngọn lửa tin yêu mà Chúa đã thắp sáng trong lòng chúng con, và biết sẵn sàng vâng theo những soi dẫn của Lời Chúa qua từng phút giây cuộc sống.
- LẠY CHÚA. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn đang tiếp diễn trên thế gian và ngay trong lòng mỗi người chúng con. Ước chi chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối tội ác, mà còn biết làm cho ngọn đèn đức tin của chúng con luôn cháy sáng đức ái, để cả trái đất này đều được ngập tràn ánh sáng tìn yêu của Chúa, nhờ đó sẽ giúp mọi người nhận biết tin yêu Chúa và được chia hạnh phúc Nước Trời với chúng con.
Có những chuyến đi mang tính lịch sử lâu dài, được trân trọng nhắc đến như chuyến lên mặt trăng: HiểnLinh ABC220
Có những chuyến đi mang tính lịch sử lâu dài, được trân trọng nhắc đến như chuyến lên mặt trăng đầu tiên vào thập niên sáu mươi của các phi hành gia Hoa Kì. Xa hơn nữa, lần ngược về quá khứ, là những cuộc hải hành của các nhà thám hiểm đi tìm đất mới. Những chuyến đi lừng danh đó nhiều khi được cả quốc tế biết đến nhưng bản chất của nó vẫn mang tính cách quốc gia. Mang tính cách quốc gia vì nó được chính quyền các quốc gia đó ủy thác trọng trách trong việc làm nên lịch sứ cho quốc gia họ. Hầu như lịch sử thế giới không phân biệt chuyến đi mang tính cách cá nhân, tự chi phí cho chuyến đi riêng của mình nhưng trân trọng ghi lại mọi chuyến đi làm lên lịch sử. Sau khi làm lên lịch sử, trang sử đó được gấp lại và chỉ mở ra khi cần tham khảo.
Tôn giáo hoàn toàn khác biệt với ghi nhận của lịch sử của nhân loại. Những chuyến đi xem ra tầm thường, hoàn toàn có tính cá nhân, riêng tư hay tình gia đình lại được để cập đến trong lịch sử ơn cứu độ. Đức trinh nữ Maria đi thăm người bà con thân thuộc là Elizabeth được ghi dấu trong lịch sử ơn cứu độ. Đây là chuyến đi hoàn toàn có tính cách cá nhân, gia đình lại trở thành mẫu mực cho việc thăm viếng, mang tin vui tới cho người mình thăm. Chuyến đi đền thờ cầu nguyện và con trẻ Jesu bị lạc mất ba ngày cũng ghi đậm nét trong lịch sử cứu độ và được công bố hàng năm trong lịch phụng vụ. Chuyến đi này hoàn toàn có tính cách gia đình, một gia đình thời đó vô danh, không mấy ai để í đến. Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông cũng là chuyến đi có tính cách cá nhân, cá biệt cũng được nhắc đến đầy đủ chi tiết. Vì thế những chuyến đi mang tính cách đức tin có chiều dài lịch sử dài hơn, chiều sâu sâu hơn là những chuyến đi mang tính cách khám phá đất mới hay tìm hiểu về khoa học. Chuyến đi vì đức tin có thể không được quảng bá rầm rộ trên báo chí hoặc truyền thông trong đại chúng nhưng những chuyến đi đó thường mang tính cách quốc tế nhiều hơn là tính cách quốc gia vì ở đâu có người chung niềm tin, ở đó những chuyến đi đó được mừng kính hàng năm để ghi nhớ dấu ấn đức tin của con người tin vào Thiên Chúa.
Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông còn mang một í nghĩa quan trọng hơn đó là một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Lòng họ ao ước bỏ công việc riêng, ra đi tìm hiểu rõ sự thật. Sự thật đó là ngày sinh của Đấng Cứu Thế. Với đại chúng mừng Giáng Sinh là mừng ngày Chúa sinh ra. Với ba vị đạo sĩ Phương Đông mừng Giáng Sinh khởi đẩu từ lúc gặp Chúa trong máng cỏ. Nói rõ hơn mừng Giáng Sinh là mừng ngày nhận biết Chúa tỏ mình ra cho con người. Theo í nghĩa đó thời điểm mừng Giáng Sinh khác nhau và kéo dài nhiều ngày sau ngày Chúa Giáng trần. Chúa tỏ mình ra cho nhiều nhóm khác nhau, đầu tiên là các mục đồng, sau đó là đến các vị đạo sỉ rồi ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia thất, lễ Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa, lễ Chúa tỏ mình ra trong đền thờ và chấm dứt vào ngày lễ Chúa nhận phép rửa. Vì sau ngày này không còn đọc kinh Tiền Tụng Giáng Sinh nữa. Với các nhà làm thương mại Giáng Sinh chấm dứt khi không còn người trao đổi hàng hoá, quà cáp Giáng Sinh ế ẩm. Với Giáo Hội Giáng Sinh kéo dài theo í nghĩa
Con Người xuống thế làm người và ở giữa chúng ta.
Bất cứ khi nào Chúa tỏ mình ra thì í nghĩa Chúa Giáng Sinh lại sống lại trong cá nhân đó. Đừng mừng giáng Sinh theo tinh thần xem bắn pháo bông. Cần nhiều tuần tổ chức cho ngày đó nhưng pháo bừng sáng rồi tắt lịm trong năm mười giây. Chúng ta nói là mùa Giáng Sinh vậy mùa thường kéo dài vài ba tuần mới đúng í nghĩa của mùa.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại. Ngày nay trên thế giới, nhiều nước đã: HiểnLinh ABC221
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại. Ngày nay trên thế giới, nhiều nước đã mừng lễ Hiển Linh lớn hơn cả lễ Chúa Giáng Sinh. Bởi vì, lễ Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tự tỏ mình ra cho những dân ngoại giáo nghĩa là lễ Của Chư Dân.
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay, chúng ta hiểu rõ hơn về ba nhà Đạo sĩ từ Phương Đông đi tìm gặp Hài Nhi theo sự chỉ dẫn của Ngôi Sao lạ. Tuy nhiên, Tin Mừng của thánh Matthêu cho cho chúng ta đối chiếu giữa: Hêrôđê và Hài Nhi Giêsu. Đồng thời đối chiếu giữa các Thượng tế, Kinh sư và Ba nhà Đạo sĩ. Thực tế mà nói, Hêrôđê là một vị vua đầy quyền lực, giầu có và được sự che chở, nâng đỡ của Đế Quốc La Mã. Ông luôn sợ bị Đế Quốc La Mã bỏ rơi. Mặc dầu đầy uy quyền, nhiều người run sợ trước quyền lực của Ông nhưng Hêrôđê tự mình cũng đang run sợ trước một con người: Hài Nhi Giêsu. Hêrôđê dù chưa biết con trẻ này là ai nhưng khi nghe các nhà Đạo sĩ báo tin, Ông mất ăn mất ngủ vì sọ vương quyền của Ông bị lung lay.Nên, Ông và cả thành Giêrusalem xôn xao. Và rồi ý định điên rồ của Ông được nhen nhóm, Ông ra lệnh tru diệt tất cả các con trai đầu lòng của người Do Thái ở Bê Lem và các vùng phụ cận, Làm như thế, Ông an tâm vì tưởng đã tiêu diệt được Chúa Giêsu.
Ông đã hành động khát máu, điên rồ. Chính tại Giêrusalem, nơi đã sát hại các ngôn sứ thì cũng tại Giêrusalem mấy chục năm sau, họ cũng treo Chúa Giêsu trên Thập giá. Vâng, các Thượng tế và các Kinh sư theo lệnh của Hêrôđê đang lật hết sách này tới sách kia, lịc sử này tới lịch sử khác để biện minh cho chính họ vì tại Bêlem đã đản sinh Đấng Cứu Thế mà họ không hay không biết. Té ra Chúa đang hiện diện trước họ nhưng họ không thể nhân ra Ngài vì Ngài quá khó nghèo, không hào nhoáng, không ở nơi cung điện vua, lầu son gác tiếc, nên họ không thể nhìn ra Ngài vì họ không có đức tin, không có đôi mắt tinh tường vv...Đối lập vớ họ, ba nhà Đạo sĩ hay nói kiểu nôm na từ xưa là ba Vua, những người ở phương xa, là khách thập phương, họ cứ đi theo ánh sao, trên đường đi họ đã gặp biết bao gian truân, bao nhiêu khó khăn, họ cứ kiên trì, bền chí vững lòng tiến về phía trước. Cuối cùng họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu. Với tấm lòng cung kính mến yêu, họ đã phủ phục thờ lạy Hài Đồng Giêsu. Với lòng tôn kính họ đã nhận ra thần tính của Hài Đồng Giêsu và rồi, họ đã dâng cho Chúa Hài Nhi Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược là những sản vật quí của nước họ. Ba sản vật này vàng để tôn vinh Chúa là vua. Nhũ hương để khẳng định Chúa là Thiên Chúa và Mộc dược để loan báo cái chết và phục sinh của Chúa.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra với loài người, tự giới thiệu với loài người. Chúa Giêsu đã rao giảng Tin Mừng, loan báo Tin Mừng là chính Ngài thời Ngài sống, ngày nay chúng ta cũng phải tiếp tục rao giảng, tiếp tục loan báo cho mọi người biết Tin Mừng là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã mặc xác phàm, hạ sinh làm người và sống giữa chúng ta. Đức Giêsu đã đi vào lịch sử, đã cứu độ không chỉ người Do Thái vào thời Ngài sinh ra nhưng Ngài cứu độ mọi người, mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại.
Chúa Giêsu đã đến trần gian ban an bình cho con người. Ngài đã thiết lập Nước Trời tại trần gian, Ngài đã thiết lập một thế giới mới, một thế giới trong đó mọi đau khổ, mọi buồn phiền không còn nữa, thế giới mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: sói sống chung với chiên, sư tử sống chung với nai, với cheo, với mang vv...Thế giới mà trẻ nhỏ thọc vào hang rắn độc cũng không sợ rắn độc cắn vv...Đó là viễn tượng của một thế giới hoàn toàn hòa bình. Thế giới trong đó những người nghèo sẽ được quan tâm giúp đỡ, những người đau khổ sẽ tìm thấy những người bạn chân tình, yêu thương. Đây là Tin Mừng mà tất cả chúng ta phải loan truyền cho thế giới. Đó là sứ điệp của lễ Hiển Linh mà chúng ta phải loan báo, rao giảng.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn chỉ đường dẫn lối chúng ta bằng những ánh sao. Những ngôi sao chỉ đường không phải ở trên trời cao. Nhưng là những ánh sao Chúa gieo vào lòng con người. Mọi Kitô hữu phải trung thành đi theo những ánh sáng đó trong cuộc hành trình đức tin đầy cam go thử thách, đầy mạo hiểm như ba nhà Đạo sĩ xưa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung thành với đức tin ngày chúng con lãnh nhận bí tích rửa tội. Xin cho ngôi sao lạ đã dẫn đường ba nhà Đạo sĩ đến Bêlem để gặp Hài Đồng Giêsu, luôn xuất hiện trên đường chúng con đi để dẫn đường chỉ lối cho chúng con đến gặp Chúa.Xin cho chúng con biết thắp lên những ngọn lửa sáng để chiếu sáng mọi người. Xin cho ngọn lửa đức tin chúng con luôn bừng sáng để nhiều người nhận ra Chúa nơi chúng con. Amen.
Có phải quý vị rất vui khi nhận thiệp Giáng sinh phải không? Đôi khi, một cánh thiệp Giáng sinh là: HiểnLinh ABC222
Có phải quý vị rất vui khi nhận thiệp Giáng sinh phải không? Đôi khi, một cánh thiệp Giáng sinh là thời gian duy nhất chúng ta nghe ngóng tin từ bạn bè và những người quen. Nếu quý vị giống như tôi, khi mùa Giáng sinh qua đi, quý vị sẽ bỏ hết những tấm thiệp vào thùng rác. Nhưng chí ít là chúng ta cũng đọc qua những lời cầu chúc, những thông điệp bên trong cánh thiệp và liếc qua quang cảnh Chúa giáng thế ở mặt trước những tấm thiệp.
Những hình ảnh trình bày thật đáng yêu này có vẻ như bình an và trật tự - không giống như cuộc sống chúng ta. Có chuồng bò, trẻ thơ, đôi vợ chồng trẻ, mục đồng, gia súc và các Đạo sỹ (Làm thế nào mà những "vị khách quý phái" kia lại đến nơi nhanh thế nhỉ?) Mỗi nhân vật đóng một vai trò trong toàn bối cảnh này, cứ như thể được một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp sắp xếp bố cục ở xưởng chụp ảnh vậy. Nhưng chúng ta hãy cứ để việc trình bày hình ảnh cho những nghệ sỹ, những người có thông điệp riêng của mình để bày tỏ.
Ngay cả một người bình thường đọc bài Tin mừng ngày hôm nay cũng nhận ra rằng thánh Matthêu không vẽ một bức tranh bình dị và trật tự trong trình thuật của ngài. Nhưng đó chẳng có gì là không đúng cả. Ngài có vẻ như muốn dựng lên cảnh tượng như thế để phá vỡ những suy nghĩ thoải mái và sự bình lặng của chúng ta, để có thể kéo chúng ta ra khỏi sự mộng tưởng và giúp chúng ta lắng nghe tin mừng. Cuối cùng thì, việc sinh ra được cho là đã diễn ra nơi chuồng bò lừa (hay hang đá), làm sao có thể thoải mái tiện nghi cho đức Maria được? Như chúng ta đã nói với nhau (vào đêm Giáng sinh) rằng mục đồng là những người bị tôn giáo và xã hội xem thường. Tuy nhiên, họ vẫn có vai trò trong câu chuyện này.
Hôm nay chúng ta có những Đạo sỹ, những người này cũng không thích hợp trong một tấm thiệp thánh. Trong tranh vẽ, các Đạo sỹ thường mặc những trang phục của vua chúa, mang những món quà quý giá cùng với đoàn tùy tùng xứng với bậc đế vương. Nhưng những vị khách này lại hoàn toàn ngược lại, chẳng giống vua chúa tí nào. Những vị Đạo sỹ trông giống những nhà chiêm tinh hơn, giống như những mục tử vi quý vị thường đọc thấy ở những trang cuối trong một số tờ báo. Họ nhìn sao và đưa ra những dự đoán. Chúng ta sẽ thấy buồn cười về những bản đối chiếu hiện đại của họ, khi đọc to những lá tử vi ngày nay. Nhưng không mấy ai trong chúng ta, những người siêng năng đi lễ lại rất xem trọng những thứ này. Vì thế, những ai ưa thích cách trình bày của thiệp Giáng sinh sẽ thấy câu chuyện này quả là lộn xộn.
Theo lòng đạo đức thời Chúa Giêsu, người Dothái trung thành, các Đạo sỹ thuộc tầng lớp thấp kém trong nấc thang tôn giáo và xã hội, cũng như những mục đồng. Những người nhiệt thành được nói cho biết là nên tránh gặp những Đạo sỹ, vì họ bị xem là những người thờ ngẫu tượng. Họ có vẻ cũng không sáng sủa gì cho mấy! Điều gì đã khiến những Đạo sỹ này đến với vị vua Hêrôđê đói khát quyền lực này để hỏi về nơi mà vị vua mới đã sinh ra? (Vua dân Dothái mới sinh ở đâu?) Phải chăng họ không hề biết rằng vua Hêrôđê tẩy trừ bất cứ ai đe dọa đến ngai vàng của ông sao? Hêrôđê giả bộ quan tâm và nói với các vị Đạo sỹ: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đó là những gì mà Hêrôđê hoàn toàn không có ý định thực hiện - bái lạy. Thay vì vậy, ông ta đã tàn sát những bé trai mới sinh ở Bêlem để loại trừ bất kỳ nguy cơ cạnh tranh nào đến ngai vàng của ông ta.
Nếu một người Dothái giáo trở lại đạo Công giáo nói về bản trình thuật này, họ có thể sẽ cố gắng kiểm chứng lại câu chuyện. Tại sao không? Có thể họ nghe thấy âm vang của tin mừng trong câu truyện, và thay vì đưa nó ra khỏi truyền thống, thì họ sẽ quyết định để câu truyện này trong truyền thống vì câu chuyện này phản ánh chính tin mừng mà họ ôm ấp.
Từ "Hiển Linh" nguyên nghĩa tiếng Hilạp là "biểu lộ, khải hiện" hay "tiền hiện". Trong bài tin mừng hôm nay, hiển linh không duy ám chỉ đức Giêsu là ai mà còn cho thấy trước sứ điệp tin mừng. Nếu như các mục đồng và những dấu chỉ huyền diệu từ Phương Đông được chào đón trong buổi đầu câu chuyện cuộc đời của đức Giêsu, thì ai còn có thể bị loại trừ ra bên ngoài? Giáo hội tiên khởi đã có tất cả mọi "lớp người" trong cộng đoàn chứ không giống với Giáo hội chúng ta ngày nay. Liệu có ai dám loại trừ một người nào hay một nhóm nào ra khỏi cộng đồng, nếu như các mục đồng và những nhà Đạo sỹ đã được ghi danh ngay đầu câu chuyện về đức Giêsu?
Hãy nhìn quanh cộng đoàn phụng vụ hôm nay. Ai đang ở trong? Có ai bị loại ra ngoài, hay bị đối xử như hạng hai trong chúng ta không? Có thể là một cuộc "tỏ lộ" cho chúng ta nếu chúng ta ngồi xuống bên cạnh người kém nổi bật hay những thành viên nhỏ bé của cộng đoàn và lắng nghe cảm nghiệm của họ như thế nào về việc là một thành viên của xứ đạo chúng ta. Liệu họ có thấy đó là một "chính sách mở cửa", hay họ bị loại trừ? Hiển linh là một đại lễ của Giáo hội và đó cũng là một đại lễ về căn tính của chính Giáo hội. Vậy đâu là "tỏ lộ" về xứ đạo của chúng mà đại lễ hôm nay cho thấy và thúc bách chúng ta thực hiện?
Câu chuyện của các Đạo sỹ là bản tường thuật về một hành trình. Có những người đang thắc mắc, tìm kiếm thêm trong cuộc đời họ. Nếu họ mãn nguyện với những sự việc vốn dĩ như thế, những Đạo sỹ sẽ không lên đường. Nhưng, như chúng ta đã biết, họ lên đường với ánh sao trong đêm tối. mọi sự biến chuyển trong đời họ, vì Thiên Chúa đã cho họ thấy một ánh sáng. Họ không nhất thiết phải theo ánh sáng đó. Họ có quyền chọn ở yên đó và mãn nguyện với địa vị của họ. Vẫn luôn như thế, Thiên Chúa đi bước trước. Lúc nào Chúa cũng làm vậy. Sự ngạc nhiên mà trình thuật hài nhi này muốn tỏ ra là Thiên Chúa không muốn chọn chỉ một vài người và những người công chính mới nhận ra ánh sang mà Ngài đã nhóm lên giữa đêm đen. Có lẽ, đó là cách mà chúng ta thường làm. Nhưng, vòng tay Chúa rộng hơn vòng tay của chúng ta rất nhiều, và Thiên Chúa ôm toàn thể vũ trụ vào lòng. Vì thế, các mục đồng được hướng dẫn tới nơi Hài nhi Giêsu, cả các Đạo sỹ và chúng ta nữa.
Như các Đạo sỹ, chúng ta cũng là những người đang trên cuộc hành trình. Đó là nguyên do chúng ta tự họp nơi đây đề làm việc thờ phượng. Nếu có thời gian, mỗi người chúng ta có thể kể về câu chuyện đức tin của riêng mình. Tường thuật về hành trình của chúng ta. Chúng ta có thể không nhớ được ngày ấy, nhưng Thiên Chúa đã khởi sự nơi cha mẹ chúng ta, nơi cha mẹ đỡ đầu đã đưa chúng ta đến giếng rửa tội. Vì họ, chúng ta bắt đầu hành trình đến với đức Kitô. Những người khác trong chúng ta, đến với đức tin khi đã trưởng thành, được vẽ lên bởi ánh sáng đã chiếu vào bóng tối của chúng ta nhờ những chứng tá và mẫu gương của một số người đặc biệt trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta nhìn thấy ánh sáng chiếu qua họ, chúng ta đứng lên và biến cuộc đời mình thành nguồn nước trao ban sự sống. Chúng ta không thỏa mãn những gì chúng ta là và quyết định lần theo "ánh sao" xuất hiện cho chúng ta. Như những Đạo sỹ, chúng ta khởi đầu cuộc hành trình dẫn chúng ta đến với đức Kitô.
Đây là cuộc hành trình mà nhiều người cần thực hiện. Như trẻ nhỏ học cách khởi đầu đức tin của mình từ cha mẹ và các lớp giáo lý; hay như người lớn, học qua suốt thời gian dự tòng. Họ biết cách trả lời câu hỏi căn bản về đức tin của mình và có thể là những người mộ đạo. Thế nhưng, ở cấp độ đó chỉ như một thái độ tôn giáo chứ không phải là tương quan đức tin thực sự. Họ biết về Thiên Chúa nhưng không thể được nói cho biết Chúa - không phải một Thiên Chúa yêu thương và đại lượng mà đức Giêsu đến để mạc khải cho chúng ta biết. Họ còn phải trải qua một hành trình dài để khám phá ra một Thiên Chúa dịu dàng và hay động lòng trắc ẩn, được bộc lộ cho chúng ta qua đức Giêsu. Mặc khải chưa dừng lại, nó vẫn đang dần hé mở. Chúng ta, giống như các vị Đạo sỹ, có sẵn lòng tiếp tục hành trình hôm nay không, hay chúng ta bị mắc kẹt nơi cuộc sống đức tin của chúng ta?
Quý vị đã bao giờ nghe người ta nói rằng, họ khát khao có được một đức tin như họ có thời còn nhỏ? Vâng, chúng ta là những người lớn và không còn nữa môi trường an toàn và ấm áp mà mỗi chúng ta có thời còn nhỏ. Nhưng, chúng ta phải đối diện với hàng đống những vấn đề và thử thách - vài người trong chúng ta phải đối diện với những vấn đề quá lớn. Thế nhưng, chúng ta vẫn được ánh sáng Chúa soi dẫn luôn và chúng ta vẫn sẵn lòng tiến lên trên cuộc hành trình của mình theo bất cứ nẻo đường nào Chúa muốn gọi chúng ta theo. Trên hết, như những nhà Đạo sỹ, chúng ta đang tìm kiếm và tin tưởng vào ánh sáng chúng ta đã nhìn thấy là đức Kitô. Amen.
Lm. Jude Siciliano, OP Lm Hoàng Vinh,OP chuyển ngữ
Những người đã đọc trước tiên bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe xong, là những Kitô hữu người Do-thái: HiểnLinh ABC223
Những người đã đọc trước tiên bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe xong, là những Kitô hữu người Do-thái. Dù đã trở lại Kitô giáo, tâm tình và cách suy tư của họ vẫn còn bị ảnh hưởng nặng quan điểm của Do-thái giáo. Vì thế đối với những tín hữu này, là cả một điều vô cùng lạ lùng và bỡ ngỡ, khi nghe đọc: Các nhà Phù thủy (Magie) từ phương đông xa xôi đã đến để thờ lạy « vua Do-thái ». Ðối với họ, những người Phù thủy là những kẻ ngoại đạo, họ không được phép liên hệ, vì những người đó - cũng tương tự như những Chiêm tinh gia - thực hành những điều bị tôn giáo họ cấm đoán, như bói toán, bùa chú. Những Phù thủy là những người xa lạ, là những kẻ dạy những điều mê tin dị đoan nhảm nhí, vâng, là những kẻ thù nghịch với đức tin.
Thế nhưng bây giờ, chính những người đó đã đến Giê-ru-sa-lem và nói: « Một ngôi sao lạ đã dẫn đường chúng tôi đến đây ! Vị tân vương của người Do-thái mới sinh ra ở đâu ? » Họ đã làm đảo lộn và làm điên đầu những người bảo vệ đức tin và gìn giữ trật tự tôn giáo tại Do-thái. Nhưng chính những người này, dù thông thạo Kinh Thánh và theo lẽ thường là phải biết được cách rõ ràng biến cố đã xảy ra, cũng chỉ có thể nói được tên của nơi chốn có thể xảy ra biến cố, chứ nhiều hơn cũng đành bó tay. Còn bạo vương Hê-rô-đê thì chỉ nhìn thấy trước mắt một sự đe dọa nguy hiểm cho vương quyền của y. Vì thế, với mánh khóe xảo quyệt, y đã tìm cách lợi dụng sự hiểu biết của ba vị đạo sĩ ngoại giáo để thi hành thâm ý ích kỷ và độc ác của y. Qua đó, chúng ta thấy rằng, trong khi những người ngoại giáo - được hướng dẫn bởi một ngôi sao - đã tìm gặp được điều Kinh Thánh mặc khải, còn những người « tín hữu » lại không hề hay biết gì cả.
Ðúng vậy, về phương diện thần học, điều làm cho chúng ta phải ngạc nhiên trong đoạn văn này là: Những người ngoại giáo đã được kêu mời đến cùng Ðức Kitô. Và qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ, họ đã nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa và đã quì gối tôn thờ. Còn những gì họ mang đến để kính dâng lên như lễ vật của mình, đã nói lên ý nghĩ và sự đánh giá của họ về Hài Nhi: Họ mang đến vàng. Vàng là một thứ kim loại quý hiếm. Nó sáng bóng như mặt trời. Ðó là một thứ kim loại dành để các vị vua khắc ấn hình ảnh của mình trên đó. Vậy, họ mang vàng đến như lễ vật dâng lên vị Ấu Chúa, Ðấng sẽ in đậm hình ảnh mình trên cả vũ trụ.
Món quà thứ hai là nhũ hương. Ðó là một loại hương liệu quý. Khi những hạt nhũ hương được đốt cháy, thì tỏa ra một làn khói trắng bốc thẳng lên cao với một mùi thơm dịu dàng. Mùi hương thơm bay tỏa ra và làm cho cả một vùng không khí thơm ngào ngạt. làn khói là tượng trưng cho sự hiện diện đầy huyền nhiệm của Thiên Chúa. Làn khói cuộn tròn, lan ra chung quanh và bốc lên cao, như muốn nối kết phía dưới thấp với phía trên cao, nối kết đất với trời.
Còn món quà thứ ba là mộc dược, một thứ rễ cây đắng, một vị thuốc chữa bệnh. Món quà muốn biểu hiệu cho sứ mệnh của Hài Nhi trong máng cỏ: Người sẽ hàn gắn và chữa lành mọi bệnh tật tâm linh và cả bệnh tật thể xác của con người, cũng như mang lại cho họ sự cứu rỗi !
Với những lễ vật đó, ba người ngoại giáo muốn bày tỏ lòng tôn kính và sự xác tín của họ: Ðức Kitô là Vua và là Ðấng Cứu Thế cho tất cả mọi người và mọi dân nước. Ðó là điều được đề cập tới ở đây, trong phần đầu của Tin Mừng theo thánh Má-thêu. Và tiếp đến trong phần cuối của bản Tin Mừng lại được thánh sử kết thúc bằng câu: « Các con hãy làm cho tất cả mọi người trở thành môn đệ của Thầy và hãy rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ! »
Bởi vì, Thiên Chúa là Vua, một Ðức Vua đầy tình phụ tử; Còn Chúa Con thuộc về Thiên Chúa và là Thiên Chúa; Người tác động trong cuộc sống chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Ðó chính là sứ điệp của ngày lễ hôm nay. Hay nói cách khác, ngày lễ Hiển Linh phải là một sứ điệp vui mừng cho chúng ta, vì nó bày tỏ cho chúng ta một sự thật là tất cả chúng ta - không phân biệt màu da, chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo - đều có thể trở thành môn đệ Ðức Kitô. Bởi vậy, chớ gì những người còn ở « ngoài cuộc », chưa nhập vào đoàn môn đệ Ðức Kitô - dù do họ là người ngoại giáo hay do họ đi lạc đường - hãy biết nỗ lực tìm kiếm một cách nghiêm chỉnh con đường dẫn đến cùng Ðức Kitô, Ðấng duy nhất có thể ban cho con người sự cứu rỗi sau cùng. Và sự nỗ lực đó không chỉ họ, những người còn « đứng ngoài », phải có, nhưng cả chúng ta nữa, những người vẫn nghĩ mình đã « ở trong cuộc » rồi, cũng phải luôn luôn cố gắng không ngừng.
Những điều chúng ta vừa nói trên có thể giúp chúng ta đi tới ba suy tư:
Chúng ta cần phải giữ cho tư tưởng của mình được khoan dung và cởi mở; không đoán xét những người lạ mặt hoặc coi khinh họ hoặc kết án những con đường họ đi là lệch lạc; bởi lẽ, rất có thể là họ đã được một ngôi sao lạ dẫn đường, còn chúng ta lại không nhìn thấy được ngôi sao đó hoặc nhìn thấy, nhưng lại không nhận ra được.
Chúng ta được cảnh tỉnh: Những người có quyền bính và trách nhiệm xưa kia đã bị sai lầm. Mặc dù họ đã biết chính xác được địa danh, nơi Vị Tân Vương được sinh ra, và chẳng những họ không muốn đi đến kính viếng và thờ lạy Người, nhưng họ còn bày tỏ thái độ thù nghịch chống lại Vị Tân Vương mới sinh ra nữa. Khi trong một cộng đoàn đức tin mà Ðức Kitô không còn được nghiêm chỉnh tìm kiếm, thì cộng đoàn đó sẽ trở thành trò hề cho thiên hạ và là một cản trở cho Tin Mừng. Chúng ta cần phải nghiêm chỉnh. Vì chỉ khi chúng ta nghiêm chỉnh tìm hiểu điều Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, bấy giờ chúng ta mới trở thành những vị đạo sĩ, những người « khôn ngoan », biết tìm kiếm Ðức Kitô.
Và điều thức ba được nói cho chúng ta, đó là: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải mang lễ vật đến dâng lên Người. Vì qua các lễ vật đó, chúng ta có thể nói lên Ðức Kitô có ý nghĩa gì đối với chúng ta, một cách rõ rệt hơn là bằng lời nói suông.
Nhưng chúng ta cần phải mang theo những lễ vật nào ?
Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng, có hai lễ vật chúng ta cần mang theo để dâng lên Ðức Kitô:
Lễ vật thứ nhất là: Thời giờ ! Vâng, thời giờ là một lễ vật quan trọng nhất. Chúng ta hãy dùng thời giờ để đi tìm kiếm Ðức Chúa và để qui hướng cuộc sống mình theo gương sống của Người.
Lễ vật thứ hai đối với tôi cũng quan trọng tương tự, đó là: Chúng ta cần phải thật lòng quan tâm tới những người phải sống một cuộc sống tương tự như Ðức Giêsu, tức những người nghèo hèn, những người phải hằng ngày chân lấm tay bùn, những người bị coi là loại người « vô tích sự » trong con mắt người đời!
Ðó chính là bài học thực tế nhất chúng ta có thể rút tỉa ra được từ đại lễ Chúa Hiển Linh hôm nay ! Amen
Lễ Hiển Linh là lễ Anh Sáng. Mầu nhiệm Anh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng: HiểnLinh ABC224
1/ Lễ Hiển Linh là lễ Anh Sáng. Mầu nhiệm Anh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng dẫn các Đạo Sĩ từ Đông Phương đến thờ lạy Chúa Hài Nhi: " Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người".(Mt 2.31)
Ngôi sao Đông Phương hướng dẫn các Đạo Sĩ đến thờ lạy Chúa, đó là biểu tượng nói lên Hài Nhi Giêsu chính là Anh Sáng đã đến thế gian, như lời Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã tiên báo:"Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem ! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi."(Is 60.1) Nhưng Chúa Giêsu còn là Anh Sáng soi chiếu cho hết mọi dân tộc như lời cụ Simêon đã nói về hài nhi Giêsu "là Anh Sáng soi đường cho dân ngoaị, là vinh quang của Israel dân Người ".(Lc 12.32 )
2/ Nhưng thử hỏi: Chúa Giêsu là Anh Sáng đã đến thế gian, vậy tất cả những người thời bấy giờ có tiếp nhận Ngài không? Ta chỉ thấy ngoài Mẹ Maria, Thánh Giuse, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ là những người đại diện cho dân tộc Israel và cho các dân trên mọi nước tiếp nhận Đức Giêsu. Còn hầu hết thì còn chưa tiếp nhận Ngài hay không nhìn nhận Chúa Cứu Thế là Anh Sáng. Vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:" Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng đón nhận",(Ga 1. 11) vì " người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ xấu xa". (Ga3.19) Một khi con người khước từ Đức Giêsu thì con người sẽ chìm đắm trong đêm tối. Vì Chúa nói:"Ta là ánh sáng trần gian, để bất cứ ai tin vào Ta, thì không ở lại trong bóng tối."(Ga12.46)
3/ Khi con người đang sống trong một Thế giới đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển: phát triển trí tuệ; phát triển kinh tế; phát triển mối tương quan đại đồng giữa các quốc gia với nhau; phát triển những lối sống văn minh hiện đại.....
Vậy nhìn vào thế giới hiện tại hôm nay, ai dám nghĩ rằng đó là một thế giới hoàn hảo ? Chắc hẳn là không. Vì sau những vẻ hào nhoáng của Thế giới mau qua này, thì lại xuất hiện mảng bóng đêm tăm tối đang lan tràn vào thế giới như: sự thù hận và tìm cách hạ bệ lẫn nhau giữa người với người mỗi ngày thêm gia tăng; sự chia rẽ trong hôn nhân được báo động tới mức trầm trọng; nạn phá thai càng ngày càng nghiêm trọng và khủng khiếp; mại dâm ma tuý bị coi như đó là chuyện bình thường, tệ nạn này đang lan tràn đến những miền quê và nông thôn; đời sống công bằng và bác ái càng ngày càng mất dần trong cộng đoàn, xem đồng tiền, xem của cải hơn là phẩm giá của một con người. Nói chung, Thế giới hôm nay đang đạt tới tầm vóc của sự phát triển, thì đời sống tâm linh và nhân bản của rất nhiều người cũng bị rơi vào tình trạng đen tối và bị huỷ hoại. Một khi sự sống của con người đang bị chết dần bởi hành vi đen tối của họ, thì đó cũng là lúc vinh quang của Thiên Chúa đang bị mọi người chà đạp và loại trừ ra khỏi đời sống họ. Vì "Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống".(Irênê) Mà một khi đánh mất vinh quang của Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình, thì cuộc sống của con người sẽ là bộ xương khô, cuộc sống sẽ giả tạo. Sống giả tạo thì đời sống làm gì có ý nghiã, làm sao họ có thể đạt được mục đích cuối cùng của kiếp người.
4/ Vì thế, trong khung cảnh của ngày lễ Hiển Linh, lễ Anh Sáng, là người Công Giáo chúng ta hãy ý thức lại sứ mạng của mình. Sứ mạng của chúng ta là phải trở nên" Anh sánh cho trần gian",(Mt 5.14) và Anh Sáng của chúng ta phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp của chúng ta làm, mà tôn vinh Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời.(x,Mt 5.16) Vậy việc làm tốt đẹp của chúng ta đó là việc gì? Trước hết, chúng ta "hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thịên".(Mt 5.48) Sống hoàn thiện như Thiên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải trở nên sứ giả gieo rắc"nền văn minh tình thương", "nền văn minh sự sống "trong môi trường chúng ta đang sống. Đây là lời mời gọi mang tính tổng quát, nhưng khi chúng ta khám phá và sống một trong những điều tổng quát này, thì đời sống chúng ta sẽ trở thành ngọn đèn soi sáng cho những ai đang lần bước trong đêm tối.
Xin Mẹ Maria là Ngôi Sao Mai, giúp cho đời sống chúng con cũng trở thành ánh sao sáng trong việc sống đạo hôm nay. Amen.
Anh sao lung linh luôn là nguồn cảm hứng của các nhà thi sĩ, vì từ nó đã phát sinh nhiều tác phẩm: HiểnLinh ABC225
Anh sao lung linh luôn là nguồn cảm hứng của các nhà thi sĩ, vì từ nó đã phát sinh nhiều tác phẩm hay. Cả các nhà thiên văn cũng thích tìm hiểu về ánh sao lạ để khám phá sự ký bí của thiên nhiên. Còn các nhà chiêm tinh nhìn ánh sao để biết vận mệnh của mỗi con người. Vì thế họ thường nhìn ngắm bầu trời dõi theo muôn ngàn ánh sao đang thi nhau khoe ánh sáng. Nhưng một ngày nọ có một ánh sao lạ xuất hiện đã làm sáo trộn cả phương đông. Ba vị chiêm tinh rủ nhau lên đường tìm kiếm, và dân thành Giêrusalem cũng xôn xao bàn tán về ngôi sao lạ, nhưng họ không đi tìm. Mặc dù họ biết ngôi sao này là một điềm báo về Đấng Cứu Độ mà họ đang mong chờ.
Sự xuất hiện của ngôi sao lạ đã làm cho Hêrôđê sợ hãi và tìm cách thủ tiêu, còn những vị lãnh đạo Do Thái lại dửng dưng với niềm mong đợi của họ. Chỉ có ba vị chiêm tinh đại diện dân ngoại là hăm hở lao mình vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Sau khi tìm thấy vị quân vương sinh ra trong cảnh cơ hàn nhưng các vị vẫn vui mừng. Đây là niềm vui khi được vào nhà Chúa của các dân ngoại. Ba nhà thiên văn phục mình xuống để yết bái Ngài. Sự thờ kính của HiểnLinh ABChoàn tất các sấm ngôn phổ quát của tiên tri Isaia: " Từng đàn lạc đà sẽ chở đến Giêrusalem của cải của muôn dân..." (Is.60,5-6) cũng như Tv.72,10: " Từ Tarsis đến hải đảo xa xăm".
Các vị mà ta thường gọi là ba vua, ba nhà đạo sĩ, thì tự nguồn gốc là tư tế của nước Ba Tư. Tuy nhiên về sau gọi tên gọi ấy được dành để ca tụng các bậc thông thái bên phương đông chuyên về thiên văn học. Kinh thánh thường không để ý đến họ. Còn các vị mà thánh sử Mathêu nói tới có lẽ là những nhà thiên văn học Babylon, ngụ bên kia sông Giodan, có sự hiểu biết về Do Thái giáo và nghe nói về niềm hi vọng về Đấng Thiên Sai. Họ bị ảnh hưởng TV.72,10 và Is.49,7 về sau người ta cho rằng ba vị ấy là HiểnLinh ABCở bên phương đông. Họ là những người ngoại giáo lại đi tìm vua Do Thái mới sinh ra quả là lạ lùng. Thế nên câu chuyện trên đây có mục đích làm nổi bật vương quyền của Đấng Messia. Hàng vương giả sẽ về triều cống, cả những vua Ả Rập, Saba, cũng đều tới dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng.
Sự vui mừng của vua được đặc biệt đề cao. Đó là niềm vui của dân ngoại đã tìm thấy nơi đức Kitô ơn cứu độ mà họ đang mò mẫm trong hi vọng. Trái ngược với niềm vui ấy là sự lo âu hoang mang của dân thành Giêrusalem; Người Do Thái đã từ chối ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến, trong đó có Hêrôđê, con của ông và dân cư Giêrusalem đại diện cho dân do Thái. Còn các vị chiêm tinh phương đông đại diện cho dân ngoại thì lại tiếp nhận.. Họ chiếm lấy vị trí mà người Do Thái bỏ đi trong lòng dân Thiên Chúa. Vì từ chối không chịu tin vào Đấng Cứu Thế. Họ sẽ trở thành dân Israel ở thời cuối cùng, được kêu gọi thông phần vào hạnh phúc của thời đại sẽ đến.
Ba nhà thiên văn nhận ra Chúa Giêsu vì nhận ra quyền uy tối thượng của Thiên Chúa nơi Ngài. Họ dâng cho Ngài vàng, nhũ hương và mộc dược. Ba phẩm vật dành cho vinh quang một vị vua. Về sau truyền thống Giáo Hội đã cắt nghĩa: vàng là biểu tượng cho quyền vua, nhũ hương tượng trưng cho thần tính, mộc dược tiên báo cái chết của Chúa Giêsu. Thật ra câu chuyện này dường như không có tính cách lịch sử theo nghĩa đen. Thánh sử không chỉ đơn thuần kể lại sự kiện lịch sử, nhưng đúng hơn, dùng các câu chuyện để giải thích biến cố, để soi sáng, để nêu bật tầm quan trọng của nó đối với lịch sử cứu độ, qua các bản văn cựu ước cũng giúp như qua cách thức kể chuyện khá tự do của thánh Mathêu.
Trong cuộc đời chúng ta, có biết bao lần ánh sao xuất hiện qua ơn Chúa Thánh Thần nhưng chúng ta có lo tìm kiếm ánh sao đó không? Những lời khuyên, lời động viên, một hành động đẹp của tha nhân là những ánh sao, nhưng chúng ta có quyết tâm theo ánh sao đó không? Đồng thời chúng ta có trở thành ánh sao cho người khác không?
Lạy Chúa, cuộc đời chúng con chỉ có ý nghĩa khi chính chúng con là ánh sao dẫn lộ cho kẻ khác tìm về với Chúa, xin cho chúng con ý thức được điều đó để trong cuộc sống, chúng con cố gắng thực hiện bác ái, phục vụ tha nhân nêu gương sáng cho mọi người xung quanh.
Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Cụ thể ở đây là Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài: HiểnLinh ABC226
Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Cụ thể ở đây là Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái, qua các đạo sĩ phương Đông mà trước kia chúng ta quen gọi là ba vua. Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho loài người thì thường Chúa dùng những hình ảnh khả giác, tức là những hình ảnh mà giác quan con người có thể nhận biết được. Chẳng hạn: lửa trong bụi gai đối với ông Mô-sê; cột mây cột lửa đối với dân Do Thái...Có khi Chúa lấy hình người nam như trường hợp với ông Áp-ra-ham, hay chỉ có tiếng nói như trường hợp với Xa-mu-en v.v...
Ở đây Chúa tỏ mình ra cho các đạo sĩ phương Đông xa xôi chưa biết Chúa, Chúa dùng ngôi sao. Một hiện tương phù hợp với khuynh hướng và sự hiểu biết của họ. Người ta đã bàn tán quá nhiều về ngôi sao lạ mà các đạo sĩ phương Đông đã thấy và người ta tìm cách đồng hóa với ngôi sao nọ ngôi sao kia. Có người cho đó là một ngôi sao bình thường, tự nhiên xuất hiện, tạm biến đi, rồi lại xuất hiện, như sao chổi chẳng hạn, mấy chục năm xuất hiện một lần. Ông Kép-lơ, một nhà thiên văn nổi tiếng, sống ở thế kỷ VII, cho rằng: ngôi sao đó là hiện tượng do Mộc Tinh và Thổ Tinh giao nhau ở đường hoàng đạo, chòm Song Ngư. Hiện tượng này ông Kép-lơ tính đã xảy ra vào năm thứ sáu trước công nguyên, vào đúng thời kỳ Chúa Giêsu giáng sinh, và ông quả quyết đó chính là ngôi sao đã dẫn đường cho ba đạo sĩ.
Có người lại cho rằng: đây là một loại sao Nô-va, nghĩa là sao bị vỡ ra và cháy sáng trong một khoảng thời gian. Các nhà thiên văn tính ra trên giải ngân hà, một năm có 30 ngôi sao băng như vây...Tất cả những ý kiến trên chỉ là giả thuyết mà thôi, vì không hợp với hoàn cảnh của ngôi sao trong Tin Mừng, bởi vì bất cứ ngôi sao nào trong thiên nhiên cũng không thể phù hợp với ngôi sao trong Tin Mừng. Chỉ có những người không biết Tin Mừng hay không biết thiên văn mới tìm cách giải thích như thế. Không một ngôi sao nào có thể làm được như ngôi sao lạ trong Tin Mừng: xuất hiện, đi trước dẫn đường, vụt biến mất, rồi lại xuất hiện dẫn đường cho các đạo sĩ, và sau cùng dừng lại ngay nơi có Chúa Giêsu trú ngụ.
Ngôi sao này là một dấu hiệu lạ lùng, bất ngờ Chúa dùng để tỏ mình ra cho các đạo sĩ, khiến họ phải lên đường phiêu lưu, tìm một "Đấng nào đó" mà họ đoán rằng phải quan trọng lắm. Với một dấu hiệu không rõ rệt, không chắc chắn, không đầy đủ là ngôi sao lạ, thế mà các đạo sĩ đã nhất định ra đi tìm "vua mới". Đúng là "trên vạn nẻo đường" biết bắt đầu đi về đâu ? Thực là "đáy biển mò kim", và thực là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Nhưng bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi khó khăn, các ông kiên quyết dõi theo ánh sao thực hiện lòng tin của mình. Sau cùng, các ông đã tìm đến nơi. Các ông không gặp thấy một cung điện nguy nga, không gặp thấy một trẻ sơ sinh nằm trong nhung lụa, mà chỉ thấy một hài nhi đơn sơ, bình thường như mọi hài nhi khác. Các ông đi tìm vua Do Thái mà lại chỉ gặp một hài nhi nghèo. Nhưng không vì thế mà các ông thất vọng. Ngược lại, các ông vẫn tin. Và lòng tin đó được biểu lộ cụ thể bằng việc phủ phục xuống một cách khiêm tốn để thờ lạy và dâng lễ vật.
Câu chuyện các đạo sĩ này vẫn luôn luôn hợp thời và có giá trị cho mọi người. Bởi vì cuộc đời của chúng ta ở trần gian luôn phải đi tìm kiếm Chúa và sống vai trò "ngôi sao dẫn lối" cho người khác. Mặc dầu đã được gia nhập cộng đồng Giáo Hội, chúng ta vẫn phải đi tìm kiếm Chúa, tìm kiếm suốt đời, vì chúng ta chưa hoàn toàn nhận được Chúa cho trọn, chúng ta vẫn còn có thể lạc mất và xa lìa Chúa. Chúng ta hãy theo tinh thần thiện chí của các đạo sĩ mà chịu khó tìm hiểu. Chúng ta có thể tìm hiểu Chúa trong tạo vật thiên nhiên, trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời, trong những người sống chung quanh, và ngay trong chính lòng mình. Tất cả đều là dấu chỉ của Chúa. Đời là cuốn Kinh Thánh ấy, mỗi ngày chúng ta viết lên một hàng chữ, mỗi tuần một trang, mỗi tháng một đoạn, mỗi năm một cuốn, và hết đời là chép xong toàn bộ.
Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta bên kẻ khác chỉ có ý nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc đời chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.
Người ta nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ty mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang... Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy: HiểnLinh ABC227
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người
Thánh sử Mát-thêu là người duy nhất đã viết về biến cố "Khi đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đa, thời vua Hê-ro-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến, và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người".
Nghe tin ấy, vua Hê-ro-đê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Không lạ gì mà Vua Hê-ro-đê "bối rối" khi được tin "vị vua dân Do Thái mới sinh ra". Ông đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng. Vị vua mới sinh ra lại không thuộc dòng dõi của Ông. Làm sao mà Ông có thể ăn ngon ngủ yên được trước tin động trời này.
Không những triều đình "bối rối", mà cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Dân chúng xôn xao vì đây là tin mừng lớn lao. Đã từ lâu, dân tộc họ, đất nước họ nằm dưới ách thống trị của đế quốc Rôma. Nay tin "vị vua dân Do Thái mới sinh ra" đem đến cho cả thành một niềm hy vọng mới.
Trước biến cố "vị vua dân Do Thái mới sinh ra", thánh sử Mát-thêu đã phác họa lại ba thái độ và ba phản ứng khác nhau:
1. Thái độ và phản ứng của Vua Hê-ro-đê: Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân ta sẽ ra đời".
Sau đó Hê-ro-đê tiếp tục bí mật điều tra các nhà chiêm tinh về "giờ ngôi sao xuất hiện" và dặn dò kỹ lưỡng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lậy Người". Ai trong chúng ta cũng hiểu ý thâm độc của Vua. Vì sau khi các nhà chiêm tinh "được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-ro-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình". Bấy giờ vua Hê-ro-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (Mt 2, 16-17).
2. Thái độ và phản ứng của dân thành Giêrusalem, tượng trưng cho thái độ của toàn dân Do Thái: Thoạt đầu, "cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao". Các thượng tế và kinh sư khi được nhà vua Hê-ro-đê triệu vời đến để hỏi về nơi sinh của "vị vua dân Do Thái mới sinh ra", họ đã lục lọi kinh thánh và đã trả lời nhà vua một cách dễ dàng, khi họ tham chiếu lời tiên báo của Ngôn sứ Mikêa 5,1. Nhưng sau đó không thấy có một thượng tế, một kinh sư nào, hoặc một người dân thành Giê-ru-sa-lem lên đường đi tìm "vị vua dân Do Thái mới sinh ra". Họ "chỉ đường" cho Hê-ro-đê tìm giết để loại trừ đối thủ của ngai vàng của ông. Họ "chỉ đường" cho các nhà chiêm tinh biết đường tìm đến "vua mới sinh". Còn họ đứng ngoài cuộc.
Như chúng ta đều biết: Thánh sử Mát-Thêu viết Tin Mừng Chúa Giêsu bằng tiếng A-ram (tiếng Do thái cổ) và nhắm vào các độc giả là những cộng đoàn Kitô giáo gốc Do Thái giáo trở lại đạo và đồng bào Do Thái nói chung, để họ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia (Đấng Cứu Thế) mà dân tộc từng trông đợi. Như vậy chủ tâm viết đoạn Tin Mừng này, Thánh sử Mát-thêu muốn nêu bật tư tưởng chính yếu: Tin mừng cứu độ đã được loan báo cho dân Ítraen trước nhất, nhưng họ đã không tiếp nhận. Nay Tin mừng này được loan báo cho toàn thể lương dân. Dân Do Thái hằng mong đợi Đấng Cứu Thế đến, nhưng khi Ngai đến, họ không thèm đón nhận người. Họ thông thạo kinh thánh, họ biết nơi sinh của Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả các thượng tế và kinh sư, những người đứng đầu lãnh đạo dân, và toàn thể Giê-ru-sa-lem, không ai bận tâm đến biến cố này...Sau một ít phút "xôn xao", họ lại tiếp tục với những mối bận tâm khác, với những đam mê và mong đợi khác. Hai ngàn năm sau, họ vẫn đến gục đầu bên bức tường than khóc và vẫn còn chờ mong một đấng Cứu Thế khác.
3. "Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người".
Ngược lại với hai thái độ trên, là thái độ của những nhà chiêm tinh:
- Họ tỉnh thức theo dõi các biến chuyển trong vũ trụ. Nhận ra dấu chỉ của Đấng Cứu Thế qua việc xuất hiện vì sao lạ.
- Họ lên đường theo sự hướng dẫn của "ánh sao" và quyết tâm tìm kiếm cho bằng được "Vị Vua mới sinh", dù bị thử thách, lạc mất ánh sao tại Giê-ru-sa-lem.
- Họ tin nhận "Vị Vua mới sinh" là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi, mặc dù khung cảnh bên ngoài khác với lòng họ tưởng: "Vị Vua mới sinh" thật nghèo hèn, sinh ra không ở cung điện vua, Mẹ ngài là một người đàn bà nhà quê, nhưng "Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Bà Maria, liền sấp mình thờ lậy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến".
Theo vết chân của mấy nhà chiêm tinh xưa, chúng ta hãy biết tỉnh thức để khám phá ra những dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống, qua các biến cố thường ngày. Hãy kiên tâm theo sự hướng dẫn của "ánh sao" chỉ đường. Hãy tin nhận "sấp mình thờ lậy" Đấng Cứu Thế mới sinh ra.
Lễ Chúa Hiển Linh xưa vẫn được gọi là Lễ Ba Vua, hay Lễ Chúa tỏ mình cho muôn dân. Hôm nay, tất cả Giáo Hội Chính Thống mừng Lễ này như đại lễ Giáng Sinh. Tất cả chúng ta cùng hiệp thông trong niềm tin vào Chúa Cứu Thế với hàng mấy trăm triệu anh chị em tín hữu Chính Thống giáo và cùng nguyện cầu xin Chúa là ánh sáng muôn dân, là ngôi sao dẫn đường cho tất cả muôn dân tìm về nguồn cứu độ chân thật.
Năm 2000, năm bản lề giữa hai thiên niên kỷ, được đánh dấu bởi cuộc Toàn xá của Giáo Hội Công: HiểnLinh ABC228
Năm 2000, năm bản lề giữa hai thiên niên kỷ, được đánh dấu bởi cuộc Toàn xá của Giáo Hội Công giáo toàn cầu. Riêng tại Việt Nam, nó còn được đánh dấu bằng việc đứng lên của các tôn giáo để ôn hòa đòi lại cho mình tự do trong sinh hoạt và độc lập trong tổ chức. Những lời kêu gọi khẩn thiết của các vị lãnh đạo tinh thần như thầy Thích Quảng Độ bên Phật giáo, cụ Lê Quang Liêm bên Hòa Hảo, cha Chân Tín và cha Nguyễn Văn Lý bên Công giáo v.v..., tất cả đã như một ánh sao soi đường cho lắm tâm hồn chìm đắm trong u tối của thái độ ù lì, nhẫn nhục, cam chịu, quen với việc "xin" quyền lực thế tục vô thần ban cho cái mà họ không có như việc tuyển sinh, huấn luyện, tấn phong, bổ nhiệm các chức sắc của đạo. Những lời kêu gọi đó cũng như một tiếng chuông cảnh tỉnh những kẻ độc tài chỉ muốn biến các tổ chức tôn giáo thành công cụ cho mình bằng những biện pháp hành chánh nghiệt ngã, thậm chí bằng bạo lực. Cho tới lúc này đây, những tiếng nói can đảm này đang bị coi là một sự đe dọa bởi quyền lực cũng như đang gặp phải sự thờ ơ nơi lắm con người lẽ ra phải biết mình cần được giải phóng để chu toàn sứ mệnh tôn giáo của mình cách đích thực. Phải chăng sự kiện trong bài Tin Mừng lễ Hiển Linh hôm nay lại được tái diễn?
Một chuyên gia Thánh Kinh đã viết rằng: "Trình thuật các Nhà Chiêm tinh xuất hiện như một hợp tuyển nhỏ gồm nhiều bản văn Thánh Kinh làm nên cho chúng ta một suy niệm tuyệt tác về Lời Thiên Chúa. Trong đó, ta dễ dàng nhận ra các nhân vật và biến cố lịch sử cổ xưa của Israen. Thi ca, lịch sử, thần học, bút chiến và hộ giáo góp phần biến câu chuyện này thành một bản văn phong phú và quan trọng của giáo lý sơ thủy, có chủ đích chính yếu là kêu gọi lương dân đến với đức tin".
Trình thuật được viết theo một thể văn hết sức đặc biệt mà ta không nên coi là lịch sử thuần túy, để hiểu nó đến từng chi tiết mặt chữ. Nó vừa dựa trên một số dữ kiện lịch sử đương thời (nhân vật Hêrôđê với tính khí đa nghi và tàn ác chẳng hạn), vừa báo trước nhiều chủ đề tương lai trong Tin Mừng Mátthêu (tuyển dân từ khước Đức Giêsu đang lúc lương dân lại đón nhận Người) theo kiểu khúc dạo đầu của một cuốn phim hay một bản nhạc.
1. Hướng dẫn viên của vũ trụ và của lý trí
Mở màn sân khấu, ta thấy các chiêm tinh gia (hay còn gọi là đạo sĩ) bước vào. Họ hợp thành thế giới Đông phương, thế giới ngoại lai xa lạ đối với chính Kinh Thánh. Chẳng những tượng trưng cho cả một khu vực văn hóa và chủng tộc, họ còn hiện thân cho nỗi chờ mong Đấng Mêsia của nhân loại, tọa độ đích thật của cuộc sống con người. Quả thế, mọi con đường mà không dẫn đến nhà thờ, mọi hành vi mà không quy về việc tạ ơn, mọi thực tại mà không trở thành Thánh Thể thì hỏi còn đâu ý nghĩa? Nữ hoàng Sơ-va vốn đã đi tìm khôn ngoan tại Giêrusalem từ Salomon và các chiêm tinh gia Mêđi hay Lưỡng Hà tiến về Thành thánh tìm một ông vua-cứu thế, cả hai bên đều là hiện thân cho nỗi khắc khoải muôn thuở của con người vốn chỉ có thể tìm thấy an bình trong Thiên Chúa.
Và chính vũ trụ với ngôn ngữ im lặng của nó (Tv 19) là hướng dẫn viên thứ nhất trong cuộc kiếm tìm này. Quả thế, ngôi sao đã chiếm chỗ lớn biết bao trong suy tư của các chiêm tinh gia đoán điềm giải mộng. Thường hiện diện như dấu chỉ huyền thoại tiên báo cuộc đản sinh của các vĩ nhân, vua chúa, thần linh trong thế giới cổ từ đông sang tây (hoàng đế Alịchsơn, Augustô của La-Hy hay thần Agni của Ấn giáo...), hướng dẫn viên sáng ngời đó có một ý nghĩa xác định trong Thánh Kinh.
Khi viết trang này, Mátthêu đã hiểu rõ nó và ngầm sử dụng một bản văn Kinh Thánh thời danh được Do thái giáo coi như chìa khóa giải mã bí mật Đấng Mêsia. Bilơam, một thầy bói aram hay ammônít gì đó, được vua Balác mời đến để nguyền rủa Israen, đã chỉ có thể thốt lên những lời chúc phúc và buột miệng: "Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên: một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israen" (Ds 24,17). Một bản văn Do thái giáo thời danh (bản 70) đã dịch câu đó thành: "Một vì vua xuất hiện từ Giacóp, một đấng Mêsia trỗi dậy từ Israen". Ngôi sao do đó ngày càng trở thành biểu tượng của vua mêsia, nên sách Khải huyền sẽ gọi Đức Kitô như "Sao Mai" là vì vậy (Kh 2,28; 22,16). Thật thế, ánh sáng là hậu cảnh trong mọi cuộc xuất hiện của đấng Mêsia, như Isaia đã hát trong thánh thi tuyệt diệu về Đấng Emmanuen của mình: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (9,1). Ánh sáng tiêu diệt bóng tối, biểu tượng của hư vô (x. St 1,2) lẫn chết chóc, và ban khởi đầu cho một cuộc sáng tạo mới.
2. Hướng dẫn viên của mạc khải
Bên cạnh hướng dẫn viên của vũ trụ và của "lý trí" là ngôi sao, một hướng dẫn viên được xếp vào loại "những công trình của Thiên Chúa" (Rm 1,20), có một hướng dẫn viên thứ hai, mang tính thần học và biệt loại hơn, đó là Kinh Thánh, được chứng nhận trong trường hợp chúng ta bởi đoạn văn thời danh của Mikha 5, được Mátthêu biên soạn lại: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israen dân Ta sẽ ra đời". Chính Israen là người thụ thác sự hướng dẫn sáng tỏ hơn này của ngôi sao; tuy nhiên, vì đóng kín trong thái độ dửng dưng và đần độn, Israen đã không biết đọc hiểu ý nghĩa sâu xa của nó. Nên vị mục tử/lãnh tụ được sai đến với đoàn chiên lạc của nhà Israen sẽ chỉ được khám phá bởi những những ngoại, "đến từ Đông phương" và được cho ngồi vào bàn tiệc trong niềm vui hiệp thông với Thiên Chúa. Thật thế, Mátthêu nêu bật niềm vui lớn lao ("họ mừng rỡ vô cùng") các đạo sĩ có khi đón nhận mạc khải dành cho họ. Trái lại, ở hậu cảnh, dần dần nổi rõ biểu tượng của sự từ chối, được hiện thân trong một ông vua khác, Hêrôđê, và "cả thành Giêrusalem cùng với ông" (c. 3). Israen chủng tộc chẳng còn là "Israen thật của Thiên Chúa"; việc thuộc một cộng đoàn nhờ huyết thống và truyền thống, việc ghi vào sổ một giáo hội không đủ để được cứu rỗi.
Giờ đây mọi chú ý đều hướng về những "tín hữu mới và thật", các đạo sĩ. Họ đi vào cung điện khiêm tốn của vị vua mới sinh "nhà", (c. 11), thấy ở giữa là Đức Kitô và mẹ của Người. Họ sấp mình thờ lạy Người trong cử chỉ tôn thờ của phụng vụ Kitô giáo chứ không chỉ trong cử chỉ sùng bái kiểu đông phương. Các lễ vật của họ, điển hình của miền Lưỡi liềm phì nhiêu, phản ảnh lối đọc lại của Kitô giáo đối với bài ca vĩ đại làm nên bài đọc thứ nhất hôm nay: "Lạc đà từng đàn che rợp đất..., tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,6). Hoặc là lối đọc lại thánh vịnh đáp ca 72,10: "Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Sơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng...".
"Sau đó họ đã về xứ mình" (c.12): cuộc phiêu lưu của những tín hữu ngoại giáo đầu tiên này chấm dứt, nhưng câu chuyện của họ là một biểu hiệu đối với tất cả những ai, qua các thế kỷ, nhờ sự hướng dẫn của lý trí và lời Thiên Chúa, đi tìm Thiên Chúa với tấm lòng đơn sơ. Những ngoại và những người nghèo (các mục tử) là những công dân ưu đãi của Vương quốc được Đức Giêsu thiết lập tại Bêlem.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đấng Messia không còn là: HiểnLinh ABC229
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đấng Messia không còn là của riêng người Do thái nữa, nhưng Ngài tỏ mình ra cho mọi dân tộc.
Ngôi sao dẫn đường.
Do thái thuộc đông phương; và theo văn hóa và khoa chiêm tinh của người đông phương thì mỗi vị vua sinh ra đêù có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba nhà đạo sĩ có lẽ là những nhà chiêm tinh học, nên đã nhận ra ngôi sao chiếu mệnh của vua người Do thái mới sinh ra.
Ngôi sao chiếu mệnh nầy không như những ngôi sao chiếu mệnh của các vị vua khác, vì nó còn là ngôi sao đi trước ba nhà đạo sĩ, dẫn đường cho họ đến với Chúa. Thiên Chúa đã dùng các thiên thần để báo cho các mục đồng biết Chúa đã đến trong thế gian. Nay Thiên Chúa dùng một tinh thể làm dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Giêsu và dẫn ba nhà đạo sĩ đến với Chúa. Xưa trong sa mạc, Thiên Chúa cũng đã dùng cột mây và cột lửa để nói với dân về sự hiện diện của người giữa dân. Thiên Chúa có thể dùng thiên thần, con người(các mục đồng) hay một vật(ngôi sao) để làm dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa.
Ngày nay, ai là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa ? Ngôi sao đó trước hết la Giáo Hội("chúng con là ánh sáng thế gian"), là một vị thánh, là một linh mục, là một kitô hữu gương mẫu...Và ngôi sao soi sáng và dẫn đường cách đặc biệt là Phúc Âm.
Với lời dạy của Chúa Giêsu: "Chúng con là ánh sáng thế gian...ngọn đèn phải để trên đế, để soi sáng cho mọi người trong nhà", mỗi người kitô hữu phải là một ngọn đèn, nghĩa là một ngôi sao dẫn đường cho kẻ khác. Cha mẹ là ngôi sao dẫn đường cho con cái, những người có trách nhiệm phải là ngôi sao dẫn đường cho những người mình chịu trách nhiệm; linh mục tu sĩ phải là ngôi sao dẫn đường cho dân Chúa; và mỗi người kitô hữu phải là ngôi sao dẫn đường cho những ai chưa biết Chúa.
Tính phổ quát của vì vua mới.
Sự hiện diện của các mục đồng, của ngôi sao và của ba nhà đạo sĩ nói lên rằng: Đấng Messia mới sinh ra không còn là của riêng của những kẻ tử tế, Biệt Phái và Kinh sư nữa, nhưng trước hết Ngài là của những kẻ thấp hèn tội lỗi hay bị khinh chê, như các mục đồng, vì họ là những người đầu tiên được vinh dự đến với Chúa. Ngài không còn là của riêng của dân Do thái mà thôi, nhưng còn là vua của những kẻ ngoại giáo, xa xôi mà ba nhà đạo sĩ là ba đại diện; sự hiện diện của ngôi sao cũng nói lên rằng, Ngài còn là vua của cả vũ trụ nữa. Ngôi sao cũng phải phục vụ Chúa.
Vua Herôđê bối rối
"Nghe nói thế,vua Herôđê bối rối, và tất cả Giêru- salem cùng với nhà vua": Chúa sinh ra, các thiên thần ca hát, các mục đồng vui mừng, ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến thờ lạy, còn vua Herôđê và cả Giêrusalem thì bối rối. Hêrôđê bối rối lo lắng vì sợ mất ngôi vua của mình. Các giáo trưởng và luật sĩ bối rối vì vị vua nầy đến mà không thông báo gì cho họ lại tỏ mình ra cho dân ngoại. Họ thấy chỗ đứng của mình bị lung lay. Thế là họ tìm cách tiêu diệt Ngài.
Họ không hiểu rằng vị vua nầy đâu có thèm gì ngôi báu một khi đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Họ không hiểu rằng vị vua nầy, đâu phải để cai trị nhưng để cứu vớt.
Ngày nay cũng thế, người kitô hữu phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là của riêng người công giáo mà là Thiên Chuá của mọi người, và Giáo Hội không chỉ là của riêng người có đạo mà là Giáo Hội của mọi dân tộc, của kẻ lành cũng như người bất lương. Vì Con Thiên Chúa đến để cứu vớt chứ không phải để lên án hay cai trị. Chúa sinh ra trong ngheo khó và sau nầy bị khinh chê và bắt bớ. Nên phải bỏ đi cái mơ ước hảo huyền một Giáo Hội giàu sang và quyền thế trước mặt người đời. Phải bỏ đi cái quan niệm một thứ đạo phô trương. Đừng lặp lại cái lỗi lầm của người Do thái, mơ ước một vị vua quyền thế và cao sang. Nếu không thì Chúa sẽ làm cho chúng ta thất vọng vì ngài không hề đáp ứng những mơ ước hảo huyền của ta. Và rồi chúng ta cũng sẽ bối rối như Herôđê, các Biệt Phái và kinh sư xưa trước sự hiện diện khiêm tốn của Chúa.
Đi tìm Chúa hôm nay.
Chúng ta đã thấy, một những ngôi sao dẫn đường cho chúng ta hôm nay đến với Chúa làLời Chúa.Chính nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống. Phúc Âm sẽ vẽ lên cho chúng ta gương mặt đích thực của Chúa Kitô chứ không phải khuôn mặt theo những mơ ước trần tục của chúng ta. Phúc Am sẽ là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Vị vua thứ tư.
Chuyện kể rằng, khi HiểnLinh ABCGaspar, Melchior, Balthazar và đoàn tùy tùng vừa đi khỏi làng Bêlem, thì vị vua thứ tư hớt ha hớt hải chạy đến. Ông cũng đã thấy ngôi sao, ông dắt vào lưng ba viên ngọc quí, gia sản quí nhất của ông và vội vã lên đường cho kịp Nhưng ông đến trễ, HiểnLinh ABCkia đã về mất rồi!...Ông đến trễ và nhất là đến với hai bàn tay không... ông không còn các viên ngọc quí nào nữa...
Ông từ từ nhẹ tay mở cửa chuồng bò, nơi có Con Thiên Chúa, Mẹ người và người cha nuôi của Người. Trời tối, Giuse đang trở mớ rơm để qua đêm, bé Giêsu nằm trên tay Mẹ.
Rón rén, vị vua thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới chân bé Giêsu và Mẹ Người và bắt đầu nói qua giòng nước mắt:
- Lạy Chúa, con đến để dâng lên ngài lễ vật như ba vị vừa rồi, dâng cho Chúa ba viên ngọc to như trứng bồ câu, ba viên ngọc thứ thiệt. Nhưng giờ đây không còn nữa...Con thấy ba vị kia đi trước con trên lưng lạc đà, con định tiến lên đi với họ. Nhưng rồi rượu ngọn, tiếng chim họa mi hót làm con say mê. Đêm đó con ở lại trong một quán trọ. Khi con bước vào, con thấy một cụ già lên cơn sốt rét, nằm co quắp bên lò sưởi. Không ai biết ông ta là ai. Túi tiền ông rổng tuếch. Ông không có tiền trả tiền thuốc và những thứ cần thiết. Ngày mai, ông sẽ bị đuổi ra ngoài. Lạy Chúa, đó là một cụ già, rất già, nước da sậm và có bộ râu trắng. Ông làm con nhớ đến cha con. Lạy Chúa, xin tha cho con, con lấy một viên ngọc trong túi và đưa cho chủ quán để ông lo tìm thầy chạy thuốc và nếu ông ấy chết, thì có một cỗ quan tài che xác ông.
Ngày hôm sau, con ra đi, dục con lừa của con chạy cho kịp ba vị kia vì lạc đà họ đi chậm. Con đường con đi qua vắng vẻ, có nhiều bụi rậm. Bổng con nghe tiếng kêu cứu từ một bụi rậm. Con nhảy xuống lừa và thấy mấy chú lính đang bắt nạt một thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con thấy mình không đủ sức đọ lại với họ. Hơn nữa con đã già rồi. Lạy Chúa, xin tha cho con lần nầy nữa. Con đưa tay vào túi lấy một viên ngọc thứ hai và chuộc lại người thiếu phụ. Cô ta hôn tay con rồi chạy như bay vào miền núi như một con sóc.
Giờ đây chỉ còn lại có một viên nữa thôi, nhưng con nghĩ, có còn hơn không. Lúc đó đã quá trưa, và con nghĩ mình có thể đến Bêlem trước lúc trời tối. Nhưng kìa lính Hêrôđê đang hung hăng đốt cháy một làng gần Bêlem. Con chạy tới và và hỏi thăm thì con biết lính tráng đang thi hành lênh của vua: giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống. Ngoài một căn nhà đốt cháy, một tên lính to khỏe, đang nắm trong tay một em bé trần truồng, đưa đi đưa lại. Đứa bé hết sức dãy dụa và khóc thét lên vì sợ. Người mẹ thì đang quì lạy và khóc ngất. Anh lính nói với mẹ nó "Bây giờ tao sẽ cho nó vào lửa và nó sẽ cháy như một con heo sữa quay!" Mẹ nó la lên thảm thiết...
Lạy Chúa, xin tha cho con ! Không chịu nổi, con lấy viên ngọc cuối cùng trao cho tên lính để nó trao em bé cho mẹ nó. Mẹ nó ôm chặt lấy con, áp cứng vào lòng, không một tiếng cám ơn, chạy trốn như một con chó tìm được miếng xương. Lạy Chúa thế là con đến đây với hai bàn tay không. Xin Chúa tha cho con, xin tha cho con...
Nói xong ông sấp mặt sát đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng bò. Rồi ông ngước đầu lên, thấy Giuse đã trở rơm xong, Chuá vẫn nằm trong tay Đức Mẹ. Từ từ, Chúa quay về phía ông, gương mặt Ngài rạng rỡ. Chúa chìa đôi tay tí hon cho đôi tay trống không của vị vua thứ tư, bé Giêsu và Mẹ đều mỉm cười...
(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem (2) và hỏi: “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. (3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng tế, các Kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở dâu. (5) Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách Ngôn sứ có chép rằng: (6) “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. (7) Bấy giờ Vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. (9) Nghe Nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp Vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình”.
2.Ý CHÍNH:
Qua ánh sao lạ, Thiên Chúa đã soi sáng cho các đạo sĩ tìm đến thờ lạy Con Chúa mới giáng sinh: HiểnLinh ABC230
Qua ánh sao lạ, Thiên Chúa đã soi sáng cho các đạo sĩ tìm đến thờ lạy Con Chúa mới giáng sinh, đang khi chính dân Do thái lại thờ ơ, thậm chí còn thù ghét và tìm cách hãm hại tiêu diệt Người.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1-2: +Bê-lem: Một thị trấn nhỏ bé nằm cách thủ đô Giê-ru-sa-lem khoảng 7 cây số về phía Nam. Thị trấn này tuy nhỏ bé nhưng rất danh tiếng, vì là quê hương của vua Đa-vít. Bê-lem còn được Ngôn sứ Mi-kha tuyên sấm là nơi mà Đấng Cứu Thế sẽ ra đời (x. Mk 5,1). +Mấy nhà chiêm tinh: Là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người. Dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi, nên người ta đóan các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là: Men-ki-o (Melchior), Ban-thơ-da (Balthezar) và Gát-pa (Gaspar), đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu (da trắng), châu Á (da vàng) và châu Phi (da đen).
-C 11-12: +Vàng, nhũ hương và mộc dược: Các giáo phụ đã giải thích: Vàng ám chỉ tước vị Vua; Nhũ hương chỉ chức vụ Thượng tế; Mộc dược chỉ con đường cứu thế của Đấng Thiên Sai chọn là sẽ bị giết chết trên thập giá và được mai táng trong mồ. Tuy nhiên, ngày nay có người lại giải thích về ý nghĩa của ba lễ vật được các đạo sĩ dâng lên Hài Nhi Cứu Thế như sau: Vàng tượng trưng đức Tin vào Thiên tính của Đấng Thiên Sai; Nhũ hương tượng trưng đức Cậy là lời cầu nguyện như hương trầm bay lên để tôn vinh Chúa; Mộc dược tượng trưng cho đức Mến là những hy sinh và quyết tâm từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. 4.CÂU HỎI: 1-Bạn biết gì về thành Bê-lem? 2-Chiêm tinh gia là hạng người thế nào? 3-Các ngài từ đâu đến và gồm bao nhiêu vị? 4-Ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược được dâng cho hài nhi Cứu Thế có ý nghĩa ra sao? II.SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô dạy các tín hữu: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15b).
2. CÂU CHUYỆN: MÓN QUÀ CỦA AR-TA-BAN.
HĂNG-RI VĂNG ĐAI-KƠ (Henry Van Dyke) có thuật lại câu chuyện nhan đề: “CÒN MỘT NHÀ ĐẠO SĨ KHÁC NỮA”, kể về nhân vật thứ tư là người lẽ ra đã cùng ba nhà đạo sĩ đi tìm Vua dân Do thái mới sinh. Nhân vật này tên là Ar-ta-ban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Ar-ta-ban có mang theo một túi đựng những viên kim cương để dâng tặng cho vị ấu vương. Thế nhưng trên đường đến điểm hẹn, Ar-ta-ban đã phải dừng chân để giúp đỡ một người nghèo đói nằm bên vệ đường. Do đó khi đến nơi thì ông không còn thấy ba vị kia đâu. Dù vậy, ông vẫn kiên trì tiếp tục cuộc hành trình đi tìm Vua Cứu Thế. Trên đường tìm kiến, mỗi lần gặp một người khốn khổ, ông lại bán đi một viên kim cương để giúp đỡ. Sau nhiều năm, Ar-ta-ban đã dần dần trở thành một lão già ốm yếu, thế mà ông vẫn chưa gặp được Vua Do thái như lòng hằng mong ước.
Rồi 33 năm sau, khi đang trọ trong thành Giê-ru-sa-lem, Ar-ta-ban thấy cả thành xôn xao náo động vì cái tin nhà cầm quyền đang đem một tội nhân đi hành hình thập giá. Ar-ta-ban tò mò hoà theo dòng người đi xem. Khi nhìn thấy tội nhân đang vác cây thập tự bị té ngã nhiều lần, linh tính cho biết đó chính là vị Vua Cứu Thế mà ông hằng tìm kiếm. Ong liền đi theo Người trên đường thương khó. Rồi khi tội nhân bị đóng đinh và bị treo trên thập giá, Ông muốn đến gần ôm lấy vị Vua kia, nhưng không thể được vì bị bọn lính canh ngăn cản. Bỗng chốc Ar-ta-ban thấy vị Vua mở mắt ra nhìn ông và ông nghe thấy có tiếng thì thầm bên tai rằng: “Này Ar-ta-ban, con đừng buồn nữa. Ta cám ơn con vì bao năm qua đã nhiều lần con tặng quà cho Ta. Nhiều lần Ta đói con đã cho bánh ăn, Ta khát con đã cho nước uống, Ta rách rưới con đã cho đồ mặc, Ta là khách lạ con đã đón ta vào nhà ở trọ…”.
Nghe những lời ấy, Ar-ta-ban cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui. Ông hiểu rằng: Các món quà xưa nay ông đã chia sẻ cho người nghèo là ông đã dâng tặng cho chính Vua Giê-su Cứu Thế. Món quà đó không nhất thiết phải là tiền bạc vật chất, nhưng còn là tình người, là sự thông cảm với những ai đang bị đau khổ, là thái độ khiêm tốn sẵn sàng phục vụ tha nhân vô vụ lợi.
3. SUY NIỆM:
1) Ngôi sao lạ dẫn đường: Khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, trên bầu trời xuất hiện một ngôi sao lạ. Có lẽ nhiều người Do thái đã nhìn thấy ngôi sao lạ kia, nhưng chỉ mấy nhà chiêm tinh gia hay đạo sĩ ngoại giáo mới nhận ra đó là dấu chỉ của vị Vua Thiên Sai. Rồi các ngài mau mắn đem lễ vật lên đường tìm kiếm ấu vương mới sinh. Các ngài không nề quản gian nan vất vả, không ngại đường xa vô định, không sợ hy sinh sức khỏe, thời giờ và tiền bạc, không nản chí thất vọng khi gặp các trở ngại dọc đường. Chính vì đầy thiện chí như vậy nên cuối cùng các ngài đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đã dâng tiến cho Người các lễ vật tượng trưng cho lòng thành, và đã nhận được ơn đổi mới.
2) Thái độ dửng dưng của vua chúa và các đầu mục dân Do Thái: Đang khi ấy vua Hê-rô-đê vì lo cho ngai vàng của mình, nên đã tìm cách sát hại Hài Nhi Cứu thế. Còn các thượng tế và kinh sư thì lại dửng dưng. Các ông đã dựa vào Thánh kinh để chỉ đường cho các đạo sĩ đến Bê-lem gặp Vua Thiên Sai mới sinh, nhưng chính các ông lại không dấn thân đi tìm người. Về sau cũng bọn người này đã mượn tay Tổng Trấn Rô-ma để lên án tử hình cho Đấng Thiên Sai và giết Người trên cây thập giá.
3) Ánh sao lạ giữa đời thường: Mỗi Ki-tô hữu phải là một ánh sao lạ: Chúng ta phải dùng lời nói, việc làm và cách ứng xử nhân ái làm dấu chỉ giúp bạn bè và anh em lương dân chung quanh nhận biết Chúa. Một nụ cười vui vẻ, một ánh mắt thân thiện, một lời khen đúng lúc, một việc phục vụ khiêm hạ của chúng ta cũng có thể phát quang giống như ánh sao lạ trên trời như lời thánh Phao-lô dạy: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15b). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể là những vì sao sáng thực sự khi chúng ta biết làm cho mình lu mờ đi để Chúa Giê-su lớn lên (để cho ngôi Sao Mai là Đức Ki-tô mọc lên trong lòng chúng ta (x. Kh 2,28).
4.THẢO LUẬN:
1-Tại sao dân ngoại từ phương trời xa đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đang khi các nhà kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở gần Bê-lem lại không gặp được Người?
2- Trong môi trường sống và làm việc hiện tại, bạn cần phải làm gì để chiếu ánh sáng lạ để anh em lương dân nhận biết và tin theo Đức Giê-su?
5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời mặt trăng, và các lọai ánh sáng phát xuất từ các nguồn năng lượng khác nhau trên mặt đất. Tạ ơn Chúa đã gọi chúng con là “Ánh sáng cho trần gian”. Đây là một niềm vinh dự nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề cho chúng con. Xin cho ánh sáng của chúng con có sức đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng ra khỏi những người chúng con tiếp xúc. Xin cho chúng con biết duy trì được ngọn lửa tin yêu mà Chúa đã thắp sáng trong lòng chúng con, và biết sẵn sàng vâng theo những soi dẫn của Lời Chúa qua từng phút giây cuộc sống.
-LẠY CHÚA. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn đang tiếp diễn trên thế gian và ngay trong lòng mỗi người chúng con. Ước chi chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối tội ác, mà còn biết làm cho ngọn đèn đức tin của chúng con luôn cháy sáng đức ái, để cả trái đất này đều được ngập tràn ánh sáng tìn yêu của Chúa, nhờ đó sẽ giúp mọi người nhận biết tin yêu Chúa và được chia hạnh phúc Nước Trời với chúng con.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 2:1-12)
Nếu chỉ là việc Chúa Giê-su sinh ra cho người Do-thái và thu hẹp trong lịch sử Do-thái thôi, thì: HiểnLinh ABC231
Nếu chỉ là việc Chúa Giê-su sinh ra cho người Do-thái và thu hẹp trong lịch sử Do-thái thôi, thì quả thực “kế hoạch ân sủng” của Thiên Chúa chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng ta! Cũng thế, lễ Hiển Linh không khác gì hơn những lần Thiên Chúa hiện ra với dân Do-thái như đã được tường thuật trong Cựu Ước! Nhưng trái lại, thực sự là một Tin Mừng vĩ đại khi thánh Phao-lô Tông Đồ cho chúng ta biết rằng: “Kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em” (Ê-phê-xô 3:2). Chìa khóa để chúng ta xác tín được mối “liên quan” này chính là biến cố Hiển Linh, hoặc là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại.
Bạn và chúng tôi, chúng ta không phải là người Do-thái, nhưng thuộc thành phần “dân ngoại”! Tuy nhiên vì Thiên Chúa yêu thương thế gian, trong đó có chúng ta nữa, nên Người đã ban Con Một của Người cho hết mọi người, cả người Do-thái lẫn chúng ta, như Người đã hứa: “Để bất cứ ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gio-an 3:16) . Khi ban Hài Nhi Giê-su cho nhân loại, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch ân sủng, tức lời hứa cứu độ trần gian, và Người minh nhiên nói với chúng ta rằng kế hoạch này liên quan tới chúng ta nữa. Để minh chứng kế hoạch cứu độ của Người liên quan đến cả những người không phải là Do-thái, Thiên Chúa đã tỏ Con Một của Người cho những nhà chiêm tinh là những người đại diện cho “dân ngoại” và cho chúng ta. Chúng ta cùng được diễm phúc như những nhà chiêm tinh, là “đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông và đến bái lạy Người”. Cùng với họ, chúng ta cũng có những lúc không nhìn thấy ngôi sao là sự hiện diện của Chúa Giê-su nữa, nên cần phải hỏi han qua giáo lý, suy niệm Kinh Thánh và sự giúp đỡ của người khác. Nếu những kẻ thù của Chúa Giê-su, thí dụ như vua Hê-rốt, đã truy cứu về nguồn gốc của Người với ý định tiêu diệt hoặc chối bỏ Người, thì tại sao trong Năm Đức Tin này chúng ta lại không học hỏi qua sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo hoặc qua văn kiện Công Đồng Vatican II để hiểu biết về Người hơn và yêu mến Người hơn?
Sau khi rời cung điện vua Hê-rốt, các nhà chiêm tinh được “ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Ngôi sao nói lên mối “liên quan” giữa chúng ta với kế hoạch ân sủng là chính mầu nhiệm Chúa Ki-tô có thể được hiểu như là lòng yêu mến chúng ta dành cho Người. Chỉ có tình yêu đáp lại kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa mới có thể đưa chúng ta đến tận nơi Chúa ở. Ngôi sao tình yêu ấy sẽ làm cho chúng ta “mừng rỡ vô cùng”. Mừng rỡ vì được thấy không những Hài Nhi mà cả thân mẫu là Mẹ Ma-ri-a. Mừng rỡ đến nỗi sẵn sàng sấp mình thờ lạy. Mừng rỡ vô cùng nên không tiếc bất cứ gì để tiến dâng Chúa, miễn là biểu lộ được niềm tin yêu của chúng ta vào Chúa Giê-su. Thánh Phê-rô Kim Ngôn dạy: những nhà chiêm tinh “dâng tặng phẩm đầy ý nghĩa nhiệm mầu để tuyên xưng mình tin chứ không tranh luận”. Cũng vậy, trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy: “Dâng hương để nhận Người là Chúa, dâng vàng để nhận Người là Vua, và dâng mộc dược để loan báo Người sẽ chết” (Bài giảng của thánh Phê-rô Kim Ngôn, Giờ Kinh sách, vọng Hiển Linh).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Mục đích của việc Thiên Chúa tỏ ra ơn cứu độ của Hài Nhi Giê-su cho các nhà chiêm tinh phương Đông là để cho chúng ta, những người không phải Do-thái, thấy rõ ơn cứu độ liên quan mật thiết với chúng ta. Điều quan trọng không phải chúng ta phải là người Do-thái, nhưng là chúng ta có nhận biết con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su Ki-tô hay không. Ngôi sao Hiển Linh vẫn chiếu sáng. Chúa Ki-tô, “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”, vẫn hiện diện và cư ngụ giữa chúng ta. Nếu chúng ta biết đến với Chúa Giê-su, thì lời của thánh Phê-rô Kim Ngôn sẽ là lời nói về chúng ta: “Chính vì vậy mà dân ngoại là những kẻ đến sau cùng lại thành người đến trước hết, vì nhờ đức tin của các nhà chiêm tinh bấy giờ mà niềm tin của lương dân được khai mở”. Phải, niềm tin của chúng ta đã được khai mở rồi. Nhưng chúng ta hãy sống niềm tin ấy đi!
Hôm nay, chúa nhật lễ Hiển Linh (vẫn quen gọi là lễ Ba Vua), hay là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân HiểnLinh ABC232
Hôm nay, chúa nhật lễ Hiển Linh (vẫn quen gọi là lễ Ba Vua), hay là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà đại diện là ba nhà Chiêm tinh đến từ phương đông, theo dấu ngôi sao lạ, để "sấp mình thờ lạy" Người, đồng thời "lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến" lên.
Cử hành lễ Hiển Linh là cử hành việc Thiên Chúa đến với dân ngoại. Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho những ai biết tìm kiếm và đón nhận Người.
Đời sống chúng ta là một hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa. Đã là hành trình thì chắc chắn sẽ có những khó khăn, vất vả, nhưng cũng có những lúc bình an, hạnh phúc. Trên hành trình này, Chúa sẽ là niềm vui, niềm hy vọng, vì vinh quang Chúa xóa tan mây mù, bóng tối và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, làm cho "mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng" (Is 60,4). Trên hành trình này, Thiên Chúa đã dùng Thần Khí của Người để cho chúng ta được "thừa hưởng gia nghiệp, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3,6). Như thế, hành trình này sẽ là hành trình của niềm vui và hy vọng.
Đời sống chúng ta là một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa vốn là Đấng "ẩn giấu", tức là Người chỉ tỏ hiện rõ ràng cho những ai thành tâm tìm kiếm Người. Các Kinh sư và cả thành Giêrusalem đã không nhận ra Vị Cứu tinh vừa xuất hiện tại Belem, vì họ có não trạng hẹp hòi, thiếu quảng đại. Còn ba nhà Chiêm tinh đã khám phá nơi hài nhi bé nhỏ chính là Đấng Thiên Chúa gởi đến, vì họ thành tâm tìm kiếm. Trong lịch sử Giáo hội, một Phanxicô đã nhận ra Chúa hiện diện nơi các tạo vật (Trường ca tạo vật), Mẹ Têrêsa Calcutta đã nhận ra Chúa nơi những mảnh đời rách nát "họ đã sống không ra người, cần cho họ chết cho ra người"... Tận điểm của hành trình tìm kiếm là gặp gỡ. Ba nhà Chiêm tinh đã đến Belem, đã gặp được ĐấngCứu thế, đã quì xuống thờ lạy Người. Đời sống kitô hữu là một hành trình gặp gỡ Thiên Chúa qua công việc mỗi ngày. Sống đức tin thực sự là sống đức ái thực sự. Đức ái thực sự là phục vụ vô vị lợi. Sự phục vụ vô vị lợi dẫn đến những cuộc gặp gỡ. Chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa nơi con người. Thiên Chúa hiện diện nơi từng biến cố, từng sự kiện, từng con người...
Như thế, đời sống kitô hữu là đời sống đi tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Người trong hoàn cảnh, môi trường hiện tại. Đời sống đó là một hành trình tràn đầy niềm vui và hy vọng, vì có Thiên Chúa đồng hành.
Lạy Chúa, Xin cho lòng con bình an đón nhận ngày vừa sáng lên. Xin giúp con luôn tựa nương vào ý Ngài. Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài trong mỗi giờ phút của ngày hôm nay. Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con. Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay với một tâm hồn thanh thản. Xin Chúa hướng dẫn tư tưởng và tâm tình của con trong mọi lời nói và hành động. Xin dạy con biết cương quyết và khôn ngoan khi hành động, mà không khiêu khích người khác hoặc làm cho họ buồn tủi. Xin cho con sức mạnh để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay. Xin Chúa định hướng ý chí con. Xin dạy con cầu nguyện. Xin Chúa cầu nguyện trong con. Amen.
Trình thuật Mt 2, 1 – 12 là một câu chuyện được viết theo thể văn midrash haggada nhằm giải thích: HiểnLinh ABC233
Trình thuật Mt 2, 1 – 12 là một câu chuyện được viết theo thể văn midrash haggada nhằm giải thích các chân lý giúp khám phá mạc khải của Thiên Chúa, từ đó đưa người ta đến việc ca tụng Thiên Chúa và xây dựng cộng đoàn. Các chi tiết trong trình thuật có thể mang tính giai thoại, nhưng chân lý mà trình thuật muốn xác quyết là chân lý cứu độ đích thực.
1. Hài Nhi Giêsu là Vua Mêsia a. Hài Nhi Giêsu là Đấng Mêsia mà Israel đang mong đợi từ bao đời
Được sinh ra ở Bêlem, Đức Giêsu đã làm cho ứng nghiệm sấm ngôn cổ xưa: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời” ( c. 6 ). Bản văn ngôn sứ được tác giả Mátthêu trích dẫn ở đây, thực ra, là sự trộn lẫn Mk 5, 2 với 2Sm 5, 2. Hài Nhi Giêsu, như thế, là Đấng Mêsia nhà Đavít. Người là Thủ Lãnh và Mục Tử của Dân Israel. Như mục tử chăm lo cho đoàn chiên mình, Người sẽ dẫn họ trên đường ngay nẻo chính và sẽ chăm sóc họ.
b. Hài Nhi Giêsu là Đức Chúa và là Quân Vương của muôn dân
Các nhà chiêm tinh tìm đến Giêrusalem nhưng không hỏi về một nhân vật tôn giáo, mà là hỏi về “Đức Vua dân Do Thái” và tìm bái lạy Người. Qua các nhà chiêm tinh này, dân ngoại đã nhìn nhận Đức Giêsu là Quân Vương phổ quát, cho dù Người mới chỉ là một hài nhi vừa chào đời. Những sấm ngôn về vương quyền phổ quát của Đấng Mêsia thời cánh chung, như thế, đã được ứng nghiệm ( x. Is 49, 22; Tv 72, 10 – 15; Is 60, 6… ). Dân Thiên Chúa mà vị vua mới sinh sẽ là mục tử chăn dắt, bây giờ bao gồm cả những nhà chiêm tinh hôm nay đến Bêlem để bày tỏ lòng tôn kính với Người như với vị vua của chính họ. “Bái lạy” ( tiếng Hy Lạp: proskyneô ) là hành động mà người ta thực hiện trước mặt nhà vua hoặc trước mặt Đức Chúa. Bằng hành vi bái lạy này, các nhà chiêm tinh đã nhìn nhận Hài Nhi Giêsu là Chúa Tể, là Đức Vua và là Mục Tử của muôn dân.
2. Những thái độ của con người đối với Đức Giêsu
Đối diện với Đức Giêsu Kitô – Vua Mêsia, bài Tin Mừng khắc hoạ cho chúng ta ba thái độ khác nhau: các nhà chiêm tinh nhận biết Đức Vua Mêsia trong hân hoan và thờ lạy; các thượng tế và kinh sư thì thờ ơ, lãnh đạm, không quan tâm; vua Hêrôđê lại điên cuồng chống phá và bách hại.
Ba thái độ nói trên, thực ra, không chỉ liên quan đến Hài Nhi Giêsu, mà đó cũng chính là những thái độ của người ta đối với hoạt động công khai của Đức Giêsu cũng như đối với lời rao giảng của Hội Thánh sau này về Đức Giêsu và về Tin Mừng. Hoặc được nhận biết trong vui mừng, hoặc bị thờ ơ coi thường, hoặc bị chống đối điên cuồng, đó chính là những tình cảnh mà Đức Giêsu và Hội Thánh của Người phải đối diện luôn luôn.
3. Những chặng đường của cuộc tìm gặp Đức Giêsu
Con đường tìm gặp Đấng Mêsia của các nhà chiêm tinh cũng chính là con đường của nhân loại hôm nay, tức là của chính chúng ta.
a. Sự thúc đẩy đầu tiên từ thực tế
Các nhà chiêm tinh ( magoi ) ở đây là những hiền nhân Đông Phương, thông thạo chiêm tinh và thiên văn. Tại Đông Phương cổ thời, chiêm tinh và thiên văn là những chuyên môn có từ lâu đời và được trọng dụng. Các nhà chiêm tinh tin rằng có một sự liên hệ chặt chẽ giữa những gì xảy ra trên bầu trời với những gì diễn ra trong thế giới con người. Như thế, trong việc nghiên cứu các hiện tượng thiên văn của mình, họ vẫn đau đáu một mối bận tâm về chuyện của thế giới và lịch sử nhân loại, tức là về số phận của nhân loại. Bỏ qua yếu tố mê tín dị đoan, ta có thể thấy các nhà chiêm tinh ở đây có một tâm trạng ưu thời mẫn thế. Rõ ràng, họ tìm gặp Đức Giêsu bắt đầu từ một tâm thế đặc biệt ưu tư về lịch sử, về hướng đi của lịch sử, về số phận của nhân loại… Trong lãnh vực chuyên môn của mình, các nhà chiêm tinh đã nhận ra được một thông tin cho biết Đấng Mêsia của người Do Thái đã được sinh ra, và họ được thúc đẩy lên đường tìm kiếm Người.
Như thế, nhờ ưu thời mẫn thế và chuyên tâm nghiên cứu, các nhà chiêm tinh đã nhận được một sự thúc đẩy từ bên trong. Và chắc chắn đó phải là sự thúc đẩy rất mạnh mẽ: những gì diễn ra sau này cho chúng ta thấy rõ như thế.
Và họ đã lên đường. Trong một nỗ lực tìm kiếm mơ hồ và mò mẫm.
b. Một chỉ dẫn rõ ràng nhờ Kinh Thánh
Sau một cuộc hành trình dài, các nhà chiêm tinh đến Giêrusalem, và ở đó họ nhận được một chỉ dẫn rõ ràng, nhờ lời Kinh Thánh do các chuyên viên Kinh Thánh nói cho họ nghe.
Thiên Chúa đã có thể đưa các nhà chiêm tinh đi thẳng đến Bêlem, nhưng Người lại đã dẫn các ông đến Giêrusalem. Tại sao ? Có lẽ vì Người muốn tỏ ra trung thành với lời Người đã hứa ( rằng ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người, nhưng là qua trung gian người Do Thái, x. Rm 9, 10.11 ), và có lẽ vì Người muốn chúng ta gặp được mạc khải của Người trong Kinh Thánh, tức là trong Lời Chúa. Học hỏi và suy niệm Lời Chúa, do vậy, là bước vô cùng quan trọng để tìm gặp Đức Giêsu.
c. Một ánh sáng mới do Thiên Chúa ban
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” ( c. 2 ). “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại” ( c. 9b ). Ngôi sao ấy biểu trưng cho ánh sáng, ân sủng và tác động của Thiên Chúa trong tâm trí con người và hướng dẫn họ tìm đến Đức Kitô.
Chúng ta có thể thấy ngôi sao dẫn đường trong Giáo Lý và trong các Bí Tích của Hội Thánh, trong các dấu chỉ thời đại, trong các lời khuyên dạy tốt lành… Nói cách khác, trong cuộc đời của chúng ta, có những ân sủng Thiên Chúa ban để hướng chúng ta tìm gặp Đức Giêsu. Vấn đề là chúng ta có để cho ân sủng đó dẫn mình đến nơi hay không.
d. Một lòng tin mạnh mẽ, đơn sơ và thuần khiết
“Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” ( c. 11 ). Sau một hành trình dài và vất vả, điều mà các nhà chiêm tinh được nhìn thấy lại hết sức đơn giản: một trẻ sơ sinh không có chút gì là huy hoàng hay quyền lực. Hài Nhi ấy không cất lời nói với họ điều gì, cũng chẳng có gì để ban thưởng cho họ sau tất cả những gì họ đã trải qua. Họ không thấy Người huy hoàng oai phong, cũng chẳng được trải nghiệm quyền uy của Người. Họ chỉ nhận biết Người bằng lòng tin mà thôi. Vì thế, đó hẳn nhiên phải là một lòng tin hết sức mạnh mẽ, hết sức đơn sơ và rất mực thuần khiết. Thực ra, lòng tin ấy chính là yếu tố không thể thiếu được để người ta dần dần đi đến chỗ hoàn toàn nhận biết Đức Giêsu và quyền năng của Người.
Tuy không thấy uy quyền hay vinh quang của Hài Nhi Giêsu, nhưng các nhà chiêm tinh đã sấp mình bái lạy Người, tức là nhìn nhận Người là Chúa Tể, là Đức Vua và là Mục Tử của muôn dân. Lòng tin đã đưa họ đến một sự hiểu biết khác hẳn về thực tại đơn sơ mà họ đang thấy trước mắt. “Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”. Truyền thống Giáo Phụ giải thích: dâng vàng là có ý tuyên xưng Hài Nhi Giêsu là Vua, dâng nhũ hương là có ý tế nhận Người là Thiên Chúa và dâng mộc dược là có ý diễn tả nhân tính để chịu đau khổ của Người.
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu tỏ mình ra cho muôn dân. Dấu lạ đầu tiên đó chính: HiểnLinh ABC234
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu tỏ mình ra cho muôn dân. Dấu lạ đầu tiên đó chính là ngôi sao xuất hiện từ phương Đông. Nhờ ánh sao lạ, mà các nhà chiêm tinh đã tìm đến Bêlem để thờ lạy Thiên Chúa: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” ( Mt 2, 2 ).
Nhận được tin vui, nhưng Vua Hêrôđê lại bối rối, cả thành Giêrusalem xôn xao, lo lắng. Và lời giải đáp đã được phơi bày, khi họ tìm thấy lời ngôn sứ trong Sách Thánh: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta, sẽ ra đời” ( Mt 2, 6 ).
Lời giải đáp đã được tìm thấy, nhà vua liền bí mật mời các nhà chiêm tinh đến, giả vờ ngon ngọt, thành thật với các ông để truy tìm thêm thông tin về Đấng Cứu Thế: “Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” ( Mt 2, 8 ). Nhưng sự thật, vua đang tìm cách để truy diệt Ngài.
Nhận được sự hảo đáp của nhà vua, các nhà đạo sĩ lên đường. Chính ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở. Khi tìm thấy Chúa, họ vô cùng mừng rỡ, “… liền sấp mình bái lạy Người, rổi mở bào tráp lấy vàng, nhủ hương và mộc dược mà dâng tiến” ( Mt 2, 11 ).
Thiên Chúa luôn tỏ mình ra trong thế giới qua hơi thở, không khí, nhịp đập trái tim của con người… Thế nhưng, điều quan trọng là làm thế nào để nhân loại có thể nhận ra dấu lạ về sự hiện diện thiêng liêng của Ngài. Các nhà chiêm tinh đã nhận ra Chúa nhờ ánh sao lạ, nó thuộc vào phạm trù mà các ông nghiên cứu, tìm hiểu.
Còn mỗi người chúng ta, bất kỳ ai cũng có thể nhận ra sự hiện diện của một Đấng thiêng liêng nào đó trong vũ trụ này, nhờ trật tự vạn vật biến chuyển trong thế giới. Nếu như không có bàn tay của một Đấng uy quyền nào đó, thì làm sao có không khí, hơi thở… cho con người sinh sống.
Hơn nữa, ở tận đáy lòng của nhân loại, Thiên Chúa luôn phú bẩm cho mỗi người có một lý trí, ý chí, tự do và tiếng lương tâm, dạy bảo họ biết làm lành lánh dữ, nhận biết và phân biệt điều thiện, điều ác. Vậy mà không hiểu tại sao nhân loại vẫn không thể tin nhận Thiên Chúa ?
Muốn gặp được Hài Nhi, các nhà hiền sĩ phải bước ra, phải lên đường, phải tìm kiếm. Đó cũng chính là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa trong cuộc đời tín hữu Kitô. Muốn gặp được Chúa, gặp tha nhân thì cần phải bỏ mình, cần phải từ bỏ căn nhà tiện nghi với những lối sống, nếp nghĩ cũng như nhãn quan ích kỉ, thiên kiến của mình để hòa mình với mọi người.
Khi đã gặp được Chúa, giả như một ai đó thực sự gặp được Người, chắc chắn họ phải là một con người vô cùng hạnh phúc. Họ hạnh phúc vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, vì biết mình được Thiên Chúa ở cùng, vì biết mình được Thiên Chúa làm gia nghiệp. Cho nên, các nhà chiêm tinh đã tiến dâng cho Hài Nhi tất cả những gì họ có, tất cả những gì là tài sản quý giá nhất của họ: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Cùng sống trong hơi thở của Thiên Chúa, cùng được bảo bọc trong tình thương cứu độ của Ngài, nhưng thái độ đón nhận Đấng Cứu Thế mỗi người lại khác nhau. Người thì vui mừng, hạnh phúc đến trào nước mắt, kẻ thì lấn bấn lương tri vì lo lắng, hoảng sợ… Tất cả đều hệ tại lòng tham của nhân loại, khi đặt vị thế Đấng Thần Linh nơi nào trong cung lòng họ. Nếu Thiên Chúa là tột đỉnh của mọi mục đích, hẳn con người sẽ phải vui mừng với triều đại của Ngài, nhưng nếu sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, lại là một nỗi băn khoăn, lo lắng về địa vị, quyền lực thì chẳng phải là oan nghiệt hay sao ?
Lạy Chúa, Ngài đến trần gian này là để cho con người được hạnh phúc. Thế nhưng, sự xuất hiện của Ngài lại mang đến sự bất an cho những thế lực không thuộc về ai, và oan nghiệt bắt đầu từ đó xảy ra. Ngài muốn con xuất hiện trên dương trần này, cũng là muốn con được hạnh phúc, được làm người và sống con người như Ngài đã sống. Vậy mà, đã bao lần con quên mất sứ mệnh của mình, cứ mải miết lao vào vòng oan nghiệt của tranh chấp danh vọng, bạc tiền…
Ngày qua ngày trôi đi, con mải miết lần bước vào những con đường tăm tối vì hận thù, ích kỉ. Con đã bỏ quên ánh sao chân lý, con đã quên mất đường về nhà Cha. Có một thời con từng ngồi trên chiếc xích đu chờ đợi… ngôi sao may mắn rớt xuống đời mình. Cho đến tận bây giờ con mới hiểu, chỉ có một ngôi sao là Đức Kitô, chỉ có Ngài mới là ngôi sao duy nhất mang lại cho con ánh sáng cứu độ, hạnh phúc vĩnh cửu. Xin giúp con tìm gặp Hài Nhi, con muốn được gặp Ngài, với tấm lòng nghèo nàn, tội lỗi và nhơ nhuốc. Con muốn tiến dâng cho Ngài tất cả, trọn vẹn linh hồn, thân xác. Xin Ngài hãy làm chủ, hãy đón nhận tấm thân con…
“Hỡi các bạn người đi tìm Chúa, Ngước mắt lên thẳng ngó trời cao, Kìa xem điềm lạ ánh sao, Hào quang rộng tỏa khắp bầu không trung”. ( Thánh Thi giờ kinh Phụng Vụ Lễ Hiển Linh )
Hình ảnh Giáng Sinh đầu tiên còn dấu vết trong những hang toại đạo, nơi giáo hữu thời sơ khai ẩn: HiểnLinh ABC235
“Hình ảnh Giáng Sinh đầu tiên còn dấu vết trong những hang toại đạo, nơi giáo hữu thời sơ khai ẩn núp để tránh sự bách hại của bạo chúa, chính là hình ảnh các vị Vua Phương Đông mãi sau này mới thấy bóng dáng những người mục đồng, nhưng hình ảnh của họ không được phổ biến lắm nơi các nghệ sĩ tạo hình thời bấy giờ.
Những thế kỷ đầu tiên sau Chúa Giáng Sinh đã dệt nên những lớp truyền kỳ bao quanh câu chuyện thuật lại trong Tin Mừng theo Thánh Matthêu về các vị Đạo Sĩ này. Ban đầu, các nghệ sĩ đã mô tả họ là những nhà chiêm tinh, đầu đội mũ nhọn theo kiểu người Phrysian, và không giới hạn ở số ba vị mà thôi, vì Phúc Âm không nói rõ là bao nhiêu. Có những nghệ sĩ đã tăng số lên tới 12 vị. Tuy nhiên, vì sách Tin Mừng có nêu ra ba lễ vật họ mang theo, nên sau này con số được ổn định chỉ còn ba vị, và trong một bức họa tiết bằng kiếng mầu ở Ravenna ( nước Ý ) vào thế kỷ thứ 6, lần đầu tiên ta được biết tên ba ngài là Gaspar, Melchior và Balthazar”. ( Xem tranh HiểnLinh ABCtại Ravenna )
Cũng trong khoảng thời gian đó, các nghệ sĩ quay qua mô tả họ là Vua, có lẽ dựa theo Thánh Vịnh 72 đề cập đến việc các vua chúa Ả Rập mang lễ vật dâng tiến Chúa. Một thí dụ điển hình là bức họa tạc trên đá tại Nhà Thờ Chính Tòa Autun ( nước Pháp ) mô tả ba vị đang nằm ngủ trên giường, đắp chung một tấm mền rộng, trên đầu đội vương miện. Một thiên thần đánh thức họ, tay chỉ lên ngôi sao. Một trong ba vị hai mắt mở lớn tỏ vẻ ngạc nhiên, vị thứ hai nửa thức nửa ngủ, còn vị thứ ba đang ngủ say sưa. Bức khắc họa đó dường như muốn gợi lên ba giai đoạn thức tỉnh về tâm linh, là một đề tài rất phổ biến ở thời kỳ Trung Cổ.
Chỉ bắt đầu từ thế kỷ 12, các vị Vua hoặc Đạo Sĩ kia mới có cá tính riêng biệt, được mô tả là tượng trưng cho ba giai đoạn của đời người, hoặc tượng trưng cho các chủng tộc và các đại lục trên thế giới. Có một truyện truyền kỳ lý thú vào thời kỳ này kể lại rằng ba vị, sau một thời gian dài chia tay, lại gặp nhau năm 54 trong một Thánh Lễ Giáng Sinh cử hành tại Armenia, ông nào cũng đều trên 100 tuổi, và cả ba đều qua đời rất bình yên chỉ sau đó vài hôm. Thi thể ba ngài được đưa tới mai táng ở Milan ( Ý ).
Nhưng năm 1164, thành phố này bị tàn phá vì nạn cướp bóc, Nhà Thờ Chính Tòa Cologne ( Đức ) xin được thu thập di thể của ba vị đem về lưu giữ trong một mồ thánh rất lộng lẫy. Khoảng cuối thời Trung Cổ, theo một cuốn sách nguyện ở Cologne cho biết, thì Thánh Tôma lúc còn ở Ấn độ đã phong ba vị làm Giám Mục. Vậy là mũ mão của họ lại một phen nữa làm nhức đầu các nhà nghệ sĩ.
Đó là những chuyện truyền kỳ và chuyện nghệ thuật. Còn các nhà văn tôn giáo thì lại miêu tả các vị đó dưới những cái nhìn khác nhau. Thánh Bêđa ( c. 672-737 ) là một trong những người đã gán ý nghĩa cho các lễ vật ba ông mang theo để dâng lên Chúa: vàng chỉ vương quyền, nhũ hương chỉ thiên tính, còn mộc dược là một lời tiên báo về cuộc khổ nạn của Chúa”. ( Một ý nghĩa của Lễ Hiển Linh cho thời đại chúng ta – Phụng Nghi 1.2.2010 – Nhận định của Michael Paul Gallagher ).
Lễ Hiển Linh cử hành việc Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, đại diện bởi ba nhà Đạo Sĩ ( hoặc ba Vua, hoặc ba nhà Chiêm Tinh, ba Hiền Sĩ… ), những nhân vật huyền bí đến từ Phương Đông ( Mt 2, 1 – 12 ). Việc các đạo sĩ tôn thờ Hài Nhi Giêsu trọn lời tiên tri trong Kinh Thánh: “Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên… Lạc đà dần dần che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha; dân Sơva hết thảy kéo lại, mang vàng với trầm hương, và cất cao lời ca tụng Đức Chúa” ( Isaia 60, 3 – 6 ).
Trình thuật HiểnLinh ABCkhông chỉ đơn thuần là câu chuyện truyền kỳ cho trẻ em, nhưng mời gọi mọi người hãy là ánh sao cho lương dân.
“Bao ánh mắt ngắm nhìn vì sao lạ. Nhưng chẳng ai tâm ý ngước nhìn xa. Chỉ “Ba Vua” dâng Chúa lời hoan ca. Tìm gặp được Ấu Vương nơi hang đá”. ( Cho con biết tìm Ngài – Trúc Nguyễn )
Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã dùng Ngôn Sứ Isaia phán dậy dân Người: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất.” ( Is 49, 6 ). Tin Mừng theo Thánh Mátthêu nói về Chúa Giêsu sinh ra là cho tất cả mọi người, không chỉ những người Do Thái mà thôi. Mátthêu chứng tỏ thị kiến của Isaia về Chúa Kitô đã thực hiện và Chúa đến không phải chỉ dành cho một số người mà là tất cả mọi người.
Bêlem nằm ở phương đông của Athènes và Roma, là các trung tâm văn minh Âu Châu cổ đại, nhất là đế quốc La Mã thời bấy giờ được coi là trung tâm của thế giới, vậy mà ánh sáng xuất hiện từ thành phố xa lạ nhỏ bé ở Palestine, từ Phương Đông xa xôi mà không phải là Phương Tây. Từ sau khi nguyên tổ bất phục tùng Thiên Chúa, Ngài không bỏ mặc con người. Suốt thời Cựu Ước, Ngài tỏ mình qua mặc khải, giao ước, đến các Ngôn Sứ, nhiều lần ra tay cứu độ dù dân bội phản… Giờ đây Ngài hiển linh qua chính Con Một của Ngài, Đấng Emmanuel giáng sinh làm người.
Từ Giêrusalem đến Bêlem, người Do Thái bao đời nghiền ngẫm cầu mong Đấng Thiên Sai, nhưng khi Chúa đến thì lại thờ ơ lãnh đạm, hoài nghi. Hêrôđê uyên bác, đầy đủ quyền hành, phương tiện, hoàn cảnh, nhưng lòng kiêu căng ganh tỵ. Chỉ những người thấp bé, nghèo hèn, thiện chí và những Hiền Sĩ Phương Đông có khát vọng kiếm tìm, can đảm ra đi, từ bỏ dấn thân đến thờ lạy nhờ ánh sao dẫn đường đã gặp Chúa.
Như Thánh Gioan đã viết:
“Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng đón nhận” ( Ga 1, 11 ), “Người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ xấu xa” ( Ga 3, 19 ).
Thánh Têrêsa Thánh Giá để lại bút tích tuyệt vời về Mầu Nhiệm Giáng Sinh:
“Những kẻ đang quỳ gối xung quanh máng cỏ là những gương mặt ánh sáng: em bé vô tội dịu hiền, người chăn chiên đầy tin tưởng, hiền sĩ khiêm tốn, Stêphanô người môn đệ nhiệt tình, và Gioan Tông Đồ tình yêu, tất cả những ai đã theo tiếng gọi của Chúa. Họ bị chống đối bởi đêm tối sự cố chấp và sự đui mù không thể hiểu được: những kinh sư, những kẻ thật sự biết khi nào và nơi nào Đấng Cứu Độ thế gian được sinh ra, nhưng họ không rút ra câu kết: Chúng ta hãy đi tới Bêlem”.
Và như kinh nguyện Magnificat:
“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” ( Lc 1, 51 – 53 )
Câu truyện Ba Nhà Hiền Sĩ từ hai ngàn năm trước mang nhiều yếu tố truyền kỳ và nghệ thuật cổ xưa mà Tin Mừng theo Thánh Matthêu đã trình thuật, nhưng lại vẫn hiện thực trong xã hội hôm nay. Một bên là yêu thương quên mình, khiêm tốn như Chúa và những người thiện tâm, một bên là uy quyền, ích kỷ, ganh tỵ, hẹp hòi… Mỗi người chúng ta vẫn mang tư tưởng, lòng hẹp hòi vô cảm như Hêrôđê xưa, Tin Mừng mời gọi chúng ta hãy mở ra tấm lòng thiện chí, hướng lên ngôi sao ở bên ngoài dinh Hêrôđê. Cuộc hiển linh không chỉ khép lại với các nhà Đạo Sĩ cách nay hai ngàn năm, nhưng vẫn hàng năm, hàng ngày, qua từng biến cố trong đời sống, mời gọi chúng ta sống lại Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Mầu Nhiệm Hiển Linh để gặp Chúa và mang Ngài đến những người chưa tin.
Chính Đức Giêsu cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ…” ( Mt 5, 14 ), và Thánh Phaolô tiếp tục kêu mời chúng ta: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” ( Pl 2, 15 ).
Ngày lễ Hiển Linh, tín hữu Chúa Kitô cùng nhìn lại sứ mạng của mình, hãy là những vì sao, hãy trở nên ánh sáng cho trần gian. Cuộc đời ta đang sống không có gì là tình cờ, biến cố buồn vui trong cuộc đời đều mang một dấu chỉ, sứ mạng làm vinh danh Thiên Chúa, hay làm phai mờ hình ảnh Ngài. Các Hiền Sĩ đến với Chúa bằng lễ vật riêng mình, mỗi người chúng ta đều có một quà tặng riêng cho người khác, cuộc sống Chúa ban để cho đi.
Suốt hai ngàn năm từ khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, ánh sao vĩ đại xuất hiện sáng soi nhân loại, mang sứ điệp tình thương bình an xuống trái đất. Ngôi sao ấy đã hóa thân trong biết bao vị đại Thánh để làm vinh danh Thiên Chúa, hay đã hòa vào với những phận người nghèo hèn có tấm lòng khiêm hạ chân thành…
Những ngôi sao Bêlem mới đã lan rộng mời gọi công bố Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Bạn và tôi chúng ta đã tìm được ánh sao Bêlem, chúng ta có đủ can đảm như các nhà Hiền Sĩ bỏ tất cả để theo Chúa và trung thành với ánh sao ta đã tìm thấy ? Chúng ta đã khước từ Lời mời gọi của Chúa trong đời nhiều lần, như Hêrôđê đóng cửa tâm hồn mình, cấm cản Ngài ngự trị, và cũng không có ơn Thánh Chúa để đến với tha nhân là những phận người nghèo hèn, cô đơn, bị khinh dể.
Trong thời đại chúng ta, ánh sáng đó ta cảm nghiệm được qua tiếng kêu gào của những người bị áp bức thiếu thốn công bằng lẫn tình thương, trong những bất công của lịch sử đang kêu đòi công lý.
“Chúa không xa nhưng gần trong gang tấc. Ngài ở trong kẻ khốn khó bên đường. Ngài ở trong kẻ liệt giường đau ngất. Hay trong hồn những kẻ đang vấn vương. Con không gặp vì con xa người khó. Mãi bạn bè với những kẻ giàu sang. Con không muốn nắm tay người bị nạn. Chỉ muốn đời thoải mái bớt rủi ro ! ( Cho con biết tìm Ngài – Trúc Nguyễn )
Trong thế giới hôm nay, Hêrôđê vẫn sống trong tôi, trong bạn, trong lối sống thụ hưởng vô cảm, cá nhân chủ nghĩa, trong các nhà độc tài, trong những người phản chứng Kitô hữu… Chúng ta vẫn đã và đang giết Chúa nhiều lần !
Ngày tôi về Việt Nam, kỷ niệm quê hương yêu dấu gia đình đã sống lại trong chúng tôi những ngày hạnh phúc. Rồi chúng tôi đã trở lại Hoa kỳ với nhiều tiếc nuối, và buồn thật nhiều vì sự phân cách giầu nghèo rõ rệt, xã hội bất ổn, khó khăn rất nhiều cho những tầng lớp lao động nghèo ở Việt Nam. Có một kỷ niệm buồn ở quê nhà mãi theo tôi, xin nêu lên đây như một thao thức.
Hôm ấy, nhà mẹ tôi bị tắc ống máng vì lá cây và bụi bặm đóng đã lâu, suốt cả ngày sau cơn mưa, đến chiều nước vẫn rỉ rả chảy nhỏ giọt từ ống máng xuống đường, mẹ tôi than ngắn thở dài vì cậu em rể mãi vẫn chưa đến giúp thông máng mái nhà, mẹ tôi sợ người hàng xóm gần đó lại nói những lời đụng chạm đến Đạo. Bà hàng xóm có hai con lấy chồng Công Giáo không mấy thiện cảm với Đạo, mỗi khi có chuyện xích mích láng giềng với người Công Giáo, bà thường dùng ngôn ngữ mỉa mai: “Họ bảo họ mến Chúa yêu người mà họ như thế… vậy mà cũng tự hào có Đạo… lúc nào cũng rước xách, kinh quyển linh đình…” Mẹ tôi sợ chảy nước ra đường mà trời không mưa thì bà ta lại chửi đụng chạm đến Đạo mình ngay.
Tôi nghe mẹ kể buồn lắm, ngày xưa khi còn ở Việt Nam, cha xứ cũ ( nay đã qua đời ) nhiều lần đem vài gia đình Phật Giáo trong xứ ra để làm gương, quả thật những gia đình cha nêu đều rất gương mẫu, chẳng bao giờ làm phiền lòng hàng xóm, con cái ngoan ngoãn, học hành tốt đẹp. Câu chuyện về hàng xóm của mẹ tôi là điều chúng ta nên suy nghĩ trong một Giáo Xứ toàn tòng Công Giáo, số gia đình Phật Giáo chỉ đếm trên đầu ngón tay. Suốt mấy chục năm trong một vùng gốc di cư sầm uất về mọi sinh hoạt Phụng Vụ, lễ nghi tôn giáo, Nhà Thờ xây dựng hoành tráng, đoàn thể thi đua nở rộ… nhưng cái nhìn về Chúa và người giáo hữu dưới mắt lương dân thật buồn !
Với riêng tôi, một cựu giáo lý viên nghĩ ngợi nhiều qua câu chuyện mẹ kể, được sống trong Giáo Xứ cũ nhiều năm, không thể phủ nhận mọi đóng góp tích cực của Giáo Dân cho Nhà Chúa, cộng tác với cha xứ, nhưng chẳng hiểu sao vẫn không mang lại thiện cảm đến với những người khác chung quanh.
Mỗi người hãy cố gắng là một ánh sao nhỏ bé trong gia đình, xóm đạo, công việc, giao tiếp với tha nhân bằng chính con tim của mình chứ không hệ tại ở những hình thức bên ngoài. Máng Cỏ Bêlem của Chúa ngày xưa thật khác xa những kiểu hang đá tràn ngập ánh điện chói chang, hình thức rườm rà xa xỉ, nếu Chúa Giêsu có dịp đi dạo quanh các Máng Cỏ Bêlem ngày nay, chắc Ngài không thể nhận ra và cũng không thể hình dung nổi nơi sinh ra của Ngài đã biến chất đến mức quá đáng như vậy !
Kỷ niệm về Máng Cỏ Bêlem nên tôn trọng ý nghĩa đích thực của Mầu Nhiệm Giáng Sinh, chúng ta đừng để óc kinh doanh thương mại lôi kéo chúng ta vào hình thức bên ngoài mà quên đi tinh thần sâu xa của ngày Lễ. Ước mong những xa xỉ, tốn kém không cần thiết của Đại Lễ Giáng Sinh trong mọi Xứ Đạo, mọi gia đình, nơi mỗi người được nhường chỗ cho những chia sẻ chân tình với người nghèo, đó mới chính là nghĩa cử yêu thương Thiên Chúa mong muốn.
Đức Miriam (tiếng Do-thái của tên gọi Maria) đúng là sư phụ của những nhà chụp hình: chiêm: HiểnLinh ABC236
Đức Miriam (tiếng Do-thái của tên gọi Maria) đúng là sư phụ của những nhà chụp hình: chiêm ngắm, nhìn kỹ những chuyện xẩy ra mà suy đi niệm lại để kinh ngạc thấy được và chụp bắt được Thần Chúa: Hãy chụp bắt lấy Thần Chúa = Catch the Spirit.
Giữa bao trái ngược của cuộc sống không thể hiểu được, như việc sinh con trong một chuồng bò tàn tệ như thế, Kinh Thánh nói rõ: “Còn bà Maria thì hằng ghi chụp tất cả những điều ấy, và suy niệm trong lòng.” (Lc 2:19)
Trong những “bi thảm” như thế mà Đức Maria vẫn ghi chụp được những tấm hình kỳ lạ, ghi dấu nơi Chúa vẫn đang hiện diện tuôn đổ thánh ân, đang chuyển ban từng hộc hồng ân kết trái.
CHỤP ĐƯỢC MỘT DẤU CHỈ
Hồi còn sống, triết gia Kim Định có lần kể chuyện về thời còn làm quản lý tại học viện Lê Bảo Tịnh ở Gia Định xưa kia. Học viện này có khoảng gần hai trăm đại chủng sinh triết học và thần học. Một hôm có một người Phật Giáo nhà giầu ở ngay trước chủng viện cho người khệ nệ bưng đến một con heo quay và nói rõ lý do: "Một nhà có tới hai trăm thanh niên mà tui hổng thấy oánh lộn chửi thề gì bao giờ, chỉ biết học hành và chơi thể thao. Tui thấy ham quá nên đưa cho một con heo quay ăn chơi."
Ông này đâu phân biệt được đám thanh niên với các thầy đang sửa soạn làm linh mục. Chỉ thấy được những nét lạ chả bao giờ thấy thì lấy làm thích thú mà diễn tả lòng thành của mình thôi. Đúng là ông ta nhìn thấy dấu chỉ, một điều gì ông chưa kịp đặt tên.
THỜI ĐIỂM HỌC CHỤP HÌNH
Bài học căn bản nhất về nghệ thuật chụp hình là tập nhìn. Phải thấy cái gì đã rồi mới chụp được. Cảnh vật đang muốn nói một điều gì, diễn ra bằng những đường nét và ngôn ngữ riêng biệt. Đây là nét an bình của một cảnh đồng quê. Kia là nét đơn sơ hồn nhiên trong ánh mắt và vẻ kinh ngạc nơi nụ cười của một đứa bé v.v.
Một tấm hình ăn khách thì có hồn, có thần. Mà người chụp cũng phải có thần, chụp bắt được thần. Đối với nhà nghệ sĩ đích danh thì thấy được cảnh nào cũng đẹp, cũng có hồn cả. Vincent van Gogh đã từng vẽ những bức tranh xem ra rất tầm thường mà người ta đã mua với giá mấy chục triệu tiền Mỹ, vì ông đã diễn được cái thần, cái hồn của sự vật.
Năm 1987 xảy một hiện tượng lạ lùng trong ngành hội họa. Những bức tranh của họa sĩ van Gogh vẽ vào cuối thế kỷ 19 được mua với một giá khủng khiếp: bức Hoa Hướng Dương được bán với giá 41 triệu đô la vào tháng ba; đến tháng sáu thì bức Cầu ở Trinquetaille giá 20 triệu. Và tháng 11 thì một bức Hoa Cầu Vồng (Irises) được bán với giá 49 triệu.
Bộ những người dám bỏ một số tiền dễ sợ như vậy để mua những bức tranh này điên cả sao? Hay họ muốn làm ra vẻ phách lối ta đây quá dư tiền phải đi học làm sang? Nhìn những bức tranh trên thì nhiều người cũng thấy thường thôi. Có gì đặc sắc đâu. Ai chả vẽ được. Nhưng một số người đã khám phá ra đường hướng của van Gogh, gọi là đường hướng biểu hiện. Cái nhìn và cái thấy của van Gogh nằm ở điểm là cuộc đời giầu có lắm, sức sống sung mãn đã nằm sẵn trong vạn vật, chứ đâu phải những hăm hở kiếm tìm mệt nhọc của loài người như hiện nay. Chỉ cần dừng chân ngắm nhìn: một cọng cỏ, một bông hoa, một cái cầu, một cái ghế, ngôi nhà đang ở, xem ra tầm thường và nhàm chán, bỗng khám phá ra những lạ lùng. Vì một cành lá cũng đang biểu hiện sức sống của cả vũ trụ. Mà vũ trụ thì giàu có, tại sao lại cứ phải sống nghèo nàn ăn mày ăn xin những đồ viện trợ phế thải cuộc đời.
Khám phá ra được như vậy thì cuộc sống trở nên sung túc biết bao. Ngay ở vườn đàng sau và ngay trong nhà mình đã có nhiều triệu rồi, cả một kho tàng quí giá đang chờ được khám phá. Người mua bức tranh Hoa Hướng Dương hay Hoa Cầu Vồng của van Gogh chỉ muốn nói lên sứ điệp đó cho con người mệt mỏi hôm nay: bạn đang quá giàu có rồi. Chỉ cần bừng mở con mắt: nguồn phú túc đang hiển hiện trước mặt mà Chúa Trời Đất đã bày biện ra.
KHÁM PHÁ RA KHO TÀNG GIẦU CÓ
Cũng chính trong tâm tình đó mà thi hào Tagore đã cảm nhận thành dòng thơ tuyệt tác đã được phổ nhạc:
Chính Chúa là bầu trời và cũng là tổ ấm. Chúa ấp ủ đời con bằng màu sắc âm thanh Bằng hương hoa ngào ngạt, bằng tình yêu của Người.
Đúng rồi. Bầu trời, mầu sắc, âm thanh, hương hoa, tất cả đều là dấu chỉ cho thấy Chúa hiện diện. Chụp hình hay hội họa là thu ghi được nét thần này. Cuối hè 1888, họa sĩ Vincent van Gogh thuê một căn gác của ngôi nhà màu vàng ở một góc đường thành phố Arles, miền Nam nước Pháp. Rồi ông đã vẽ ngôi nhà đó thành một tác phẩm nổi tiếng mang tên là “Ngôi Nhà của Vincent ở Arles”. Có lẽ hơn bất cứ ai, “ông đã sống với nghệ thuật, vì ông đã dành hầu hết thời gian sau này để vẽ những hình ảnh về chính đời sống của ông, những gì ưa thích, bạn bè, phong cảnh nơi sinh sống, căn phòng, ngôi nhà, cái ghế đặc biệt. Đối với van Gogh, sống và nghệ thuật quả thực là một.”
Và chính Vincent van Gogh đã tâm sự với người em trai tên là Theo:
“Anh giàu như Croesus, không phải bằng tiền, mà vì anh dồn cả tâm hồn và tìm thấy trong công việc những hứng khởi và nghĩa sống. Anh tin mãnh liệt vào nghệ thuật. Niềm tin này như dòng nước mạnh đẩy con người vào bến, dù mình cũng phải cố gắng một chút. Thật có phúc mà tìm được công việc như vậy. Mặc dù những khó khăn khá lớn và những ngày đen xám trong đời anh, anh vẫn không cho là xui xẻo.”
Nghệ sĩ là người giầu có theo đúng nghĩa, vì khám phá ra được kho tàng giàu có trong thửa vườn vũ trụ. Nhà văn Mỹ là Ralph Waldo Emerson nhìn cây cỏ vạn vật thiên nhiên với một con mắt hồn nhiên trong sáng, và đã khám phá ra vẻ đẹp kỳ lạ.
Đừng bao giờ bỏ mất dịp Nhìn ngắm mọi vẻ đẹp trong cuộc sống. Vì vẻ đẹp là chữ viết do chính tay Chúa Trời, Vì vẻ đẹp chính là Chúa hiện ra. Hãy đón nhận vẻ đẹp qua từng nét mặt tươi, qua từng khung trời rộng qua từng bông hoa thắm. Và hãy cảm ơn Người, Vì mỗi vẻ đẹp là một chén hồng ân.
Mẹ Têrêsa thấy được vẻ đẹp quí trọng ngay cả nơi một nụ cười: "Chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy hết được một nụ cười quí giá chừng nào. Chiêm niệm là nhìn thấy được mặt Chúa trong mọi sự, mọi người, mọi nơi, mọi lúc, và nhìn thấy được tay Chúa trong mọi chuyện xảy ra."
TIN VUI GỬI NHÀ ẢNH MỘT NĂM SUNG MÃN (Lễ Mẹ Thiên Chúa và Hiển Linh) Thấy được Thần Chúa trong mọi sự là mục đích của linh thao. Mọi chuyện, mọi cảnh vật, mọi người, đều là những "ngôi sao" dẫn đường, đều là những dấu chỉ cho thấy Chúa vẫn đang hiển linh hiện diện, như Tin Vui tuần này: "Khi Đức Giêsu giáng sinh tại Bê-lem thuộc xứ Giu-đê, vào thời đại vua Hêrốt trị vì, có mấy vị hiền sĩ từ Đông phương tới Giêrusalem nói rằng: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người." (Mt 2:2)
Đức Miriam (tiếng Do-thái của tên gọi Maria) đúng là sư phụ của những nhà chụp hình: chiêm ngắm, nhìn kỹ những chuyện xẩy ra mà suy đi niệm lại để kinh ngạc thấy được và chụp bắt được Thần Chúa: Hãy chụp bắt lấy Thần Chúa = Catch the Spirit.
Giữa bao trái ngược của cuộc sống không thể hiểu được, như việc sinh con trong một chuồng bò tàn tệ như thế, Kinh Thánh nói rõ: “Còn bà Maria thì hằng ghi chụp tất cả những điều ấy, và suy niệm trong lòng.” (Lc 2:19)
Và đoạn khác, giữa những khủng hoảng gia đình trong chuyện lạc mất con: "Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng." (Lc 2:51).
Trong những “bi thảm” như thế mà Đức Maria vẫn ghi chụp được những tấm hình kỳ lạ, ghi dấu nơi Chúa vẫn đang hiện diện tuôn đổ thánh ân, đang chuyển ban từng hộc hồng ân kết trái.
Ngay ngày đầu năm, Đạo Chúa mừng lễ kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, là tôn sư thao luyện của mỗi người trong suốt cả năm, phụng vụ mở đầu Lời Chúa trong sách Dân Số: “Xin Chúa chúc lành và ban bình an cho anh em.”
Chúa vẫn tiếp tục chuyển ban kho tàng sung túc giầu có mỗi ngày mỗi phút giây trong suốt năm nay. Vậy thì tại sao mình lại cứ tiếp tục sống nghèo khổ tội nghiệp như thế?! Mình chỉ cần theo bước của tôn sư Miriam, chiêm ngắm niệm chú mỗi chuyện xảy ra, để bỗng nhìn thấy được mà mở tâm ra đón nhận, mà chụp bắt. Như thế, nhà ảnh đích thực đúng là một người giầu có sống sung mãn với tròn ý nghĩa.
PHÚT TỊNH TÂM
Như vậy, mỗi người đều có thể là một nhà ảnh, chụp bắt lại được nhịp điệu an bình của Thần Khí, tìm lại được nét thắm tươi hứng khởi của cuộc sống, nét giầu có nơi bàn tiệc vũ trụ. Mọi sự đang là những ngôi sao dẫn đường chỉ lối. Nhà ảnh thấy được dáng nét Chúa hiện hình qua mọi người, mọi sự, mọi biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống. Con mắt bừng mở thấy Chúa hiển hiện ngay trước mặt. Chỉ cần lấy máy ảnh ra mà chụp.
Người đây mừng quá chụp đi Mỗi hình mỗi nét trọn ghi dáng Thần. Mời vào Tin Vui Thời Điểm trên Mạng Lưới Dũng Lạc: dunglac.org Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
Vua dân Do Thái mới sinh ra ở đâu?” Chỉ có một câu hỏi, mà khám phá ra vô số điều hay. Khám phá thứ: HiểnLinh ABC237
“Vua dân Do Thái mới sinh ra ở đâu?” Chỉ có một câu hỏi, mà khám phá ra vô số điều hay.
Khám phá thứ nhất: Con người luôn đi tìm Chúa.
Câu hỏi đó được phát ra từ miệng ba người ngoại giáo. Sau khi đã nhìn thấy một ngôi sao lạ trên bầu trời, thế là các ông lên đường. Lên đường là ra khỏi chỗ ấm êm của mình, để đi vào một vùng đất lạ phiêu lưu. Đường đi nào mà chả đầy vất vả. Đường càng dài, càng lắm chông gai. Ba người ngoại giáo ấy, đã tất tả lên đường. Phải lên đường tìm kiếm: Đấng Cứu Thế đã đến trần gian. Tính tự nhiên, sẽ nhiều lắm ngại ngần, nhưng nỗi khát vọng tìm chân lý, cứ sục sôi trong lòng mãnh liệt, khiến các ông không thể ngồi yên. Câu hỏi của ba ông, khiến ta nhận ra được rằng: Con người luôn khao khát đi tìm Đấng tạo dựng nên mình. Một nỗi nhớ day dứt khôn nguôi, luôn tiềm ẩn trong đáy lòng mỗi người, dành cho Đấng Tạo Hóa. Chính vì thế, ta hiểu được sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về lệnh lên đường của Chúa Giêsu trước khi về trời: “Anh em hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”. Và như thế, việc rao giảng Tin Mừng trở thành một nhu cầu, một đòi hỏi vô cùng cấp bách.
Khám phá thứ hai: Những người trí thức thực thụ, đa số là những người sẽ gặp được Chúa.
Cả bao nhiêu triệu lương dân, thế mà chỉ có ba người, mà lại là những người trí thức, lên đường tìm Chúa. Thế mới thấy, người ta có thể tìm thấy Thiên Chúa qua trí óc, nếu người ta biết kiên trì tìm hiểu, trong đối tượng khoa học nghiên cứu của mình đến nơi, đến chốn, và bằng một thái độ chân thành. Đúng như giáo lý đã dạy: “Nhìn trời đất và trật tự lạ lùng trong vũ trụ, liền biết có Đức Chúa trời”. Và cũng theo cuộc điều tra gần đây của báo Paris March, thì 85% các nhà khoa học trên thế giới, đều là những người có niềm tin vào Thượng Đế.
Khám phá thứ ba: Vua Hêrôđê là người lơ là phần rỗi.
Là vua của cả một dân tộc, được Chúa chọn và giáo dục lâu dài. Hơn thế nữa, nói một cách khác, ông là vua của một dân tộc toàn tòng. Ấy vậy mà, ngày giáng thế của Ngôi Hai, Đấng Cứu Thế, thì ông lại không hề biết. Khi nghe các nhà khoa học chiêm tinh hỏi, ông mới ngã ngửa. Ông vội vã vời các luật sĩ hỏi xem trong Sách Thánh, thì Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu. Đúng thật, những người chỉ loay hoay với những chuyện trai gái như ông, chẳng bao giờ dành thời gian cho việc đọc Kinh Thánh, để tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa, và phần rỗi cho linh hồn mình.
Gợi ý suy niệm:
1- Nhìn những biến cố trong cuộc sống, bạn có biết cách đọc ra ý muốn của Thiên Chúa không?
2- Bạn có là người lười đọc Kinh Thánh như Hêrôđê không?
Giật thót mình, đờ đẫn hẳn ra, khuôn mặt Hêrode sượng sùng. Khi Hêrode nghe ba nhà chiêm tinh: HiểnLinh ABC238
Giật thót mình, đờ đẫn hẳn ra, khuôn mặt Hêrode sượng sùng. Khi Hêrode nghe ba nhà chiêm tinh đặt câu hỏi với mình:
“Vua dân Do Thái mới sinh ở đâu?”. Biết trả lời sao? Có biết đâu mà trả lời. Người ta không thể nói điều người ta không biết. Không biết mà trả lời, là trả lời bừa. Cái chân lý quan trọng đến thế mà sao mình không biết! Nhất nữa mình lại là vua.
1- Vua dân Do Thái đã sinh ra rồi sao?
Với người Do Thái, thì vị vua này, chính là Đấng Cứu Độ, mà toàn dân tộc đã mấy ngàn năm đợi chờ. Ngài đã sinh ra rồi, Ngài đã giáng trần rồi mà mình không hề mảy may biết gì. Hóa ra mình chính là kẻ vô cùng u mê. Hơn nữa, mình là kẻ có đạo. Mình vẫn thường tự hào về điều ấy cơ mà. Có đạo mà chẳng biết gì về đạo, thì quả thật là đáng buồn, nhất là với những chân lý cốt lõi trong đạo. Chúa Giêsu chính là vua của một dân tộc mới. là Đấng cứu thoát con người. Gần hơn, là Đấng cứu thoát chính bản thân mình. Liên hệ chặt chẽ đến thế, mà sao mình lại mù lòa chẳng hề biết đến. Mình tệ quá phải không nào? Có bằng đâu với những người lương dân. Trước mặt mình, những người lương dân đang đứng đây, họ lại biết cái chân lý ấy; Vị Cứu Thế vừa giáng sinh. Họ chỉ không biết nơi Ngài sinh ra thôi.
2- Nghe tin ấy, cả thành Giêrusalem đều xôn xao.
Ngã ngửa ra cả với nhau. Ê chề đến thế mà còn dám nói to, không sợ xấu hổ. Như thế, bảo rằng: “những người bên lương đang truyền giáo cho những người có đạo”, có lẽ cũng không ngoa đâu nhỉ! Một sự thật được phơi bày, lòng những người có đạo tối tăm quá rồi, khô cứng quá rồi. Vì thế Chúa chán. Tâm hồn họ đã ở lì trong những nẻo đường bất hảo. Cho nên mắt họ trở nên lờ đờ. Mắt hẳn sự tinh nhanh, bén nhậy để có thể nhận ra những dấu chỉ cứu độ mà Chúa đang tỏ hiện. Chúa đang quay lưng về phía họ, và hướng mặt về những người ngoại giáo.
3- Và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi.
Rõ thực, cái sự thật bẽ bàng đã bị phanh phui. Những người Do Thái, mà Herode là đại diện, giờ thì chỉ còn là những cái xác không hồn. Nói rằng họ sống mà chừng như đã chết, cũng không có gì là quá đáng. Nghe tin báo, mà họ vẫn không đứng dậy để đi TÌM KIẾM. Chờ người khác kiếm giùm, quá tệ! Ơn cứu độ là công việc của mỗi người, không ai lo cho mình được đâu. Mà như Chúa bảo: “Ai tìm thì sẽ thấy”. Ba nhà chiêm tinh người ngoại giáo ấy đã tìm và họ đã gặp. Không đi tìm thì làm sao gặp được. Cho nên, những người có đạo hãy xôn xao lên, để thúc giục nhau, tìm Chúa mỗi ngày, và trong những biến cố, là những dấu chỉ, xảy ra giữa cuộc đời.
Gợi ý suy niệm
1- Nếu có người hỏi: Bạn sẽ trả lời sao về Chúa Giêsu? 2- Đã có bao giờ, bạn quyết tâm đi tìm Chúa chưa? Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng: HiểnLinh ABC239
Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ !
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình."
Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.
Tôi rất thích việc cho và nhận quà; luôn luôn chúng đem lại nhiều điều vui thú lẫn hồi hộp khi mở: HiểnLinh ABC240
"Tôi rất thích việc cho và nhận quà; luôn luôn chúng đem lại nhiều điều vui thú lẫn hồi hộp khi mở gói quà ra. Một ngày kia, cháu trai Justin của tôi gởi cho tôi 6 đô và 30 xen...
Nhưng dù đã suy nghĩ nát óc tôi vẫn không tìm được lý do của món quà này. Tôi tiếp tục suy nghĩ trong vài ngày nữa và sau cùng phải gọi cho Justin để biết nguyên nhân của món tiền đã nhận được: "Cháu gởi cho bà 6 đô và 30 xen ấy để làm gì vậy ?" Và Justin đáp rằng tôi đã luôn lo lắng, quan tâm đến nó, vì thế nó muốn dành tặng ngược lại cho tôi tất cả những gì nó có.
Đặt máy xuống, tôi đã bật khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc và ấm áp. Tôi biết rằng trước đây và cả sau này, chẳng bao giờ tôi nhận được món quà chứa đựng tình yêu tinh khiết và ngây thơ như thế" ( Trích Hạt Giống Tâm Hồn ).
Cũng về quà tặng thắm tình, Chúa Nhật hôm nay Lễ Hiển Linh, Tin Mừng thuật chuyện ba vị đạo sĩ đến bái lạy, kính dâng lên Hài Nhi Giêsu các phẩm vật vàng, nhũ hương và mộc dược. Những tặng phẩm này đầy ý nghĩa, phản ảnh vương quyền, thần tính và nhân tính của Chúa Giêsu.
Quà tặng còn diễn tả lòng tôn kính, lòng hiếu đễ, sự biết ơn, sự quan tâm, lòng ưu ái, yêu thương. Thiên Chúa Tình Yêu đã thương con người quá đỗi, mới ban tặng chính Con Ngài, để loài người được cứu rỗi. Tuy thế, Quà Tặng của Thiên Chúa được đóng gói qua những lớp bọc thật bình dị, khiêm hạ, khó nghèo và vâng phục, không phải dễ dàng nhận ra, nếu không thành tâm.
Qua dấu chỉ
Ba đạo sĩ Gaspar, Melchior và Balthazar là những nhà chiêm tinh thông thái thuộc dân ngoại. Với nhiệt tâm và tri thức uyên bác, ba vị khám phá dấu chỉ đặc biệt, đó là ánh sao lạ sáng chói xuất hiện bên phương Đông, loan báo Đức Vua Do Thái mới giáng sinh. Vượt qua biết bao chông gai, trở ngại, vất vả, hiểm nguy, ba vị chắc hẳn đều nung nấu một tình yêu thật nồng nàn, thật sốt sắng và bền vững với Đức Giêsu.
Ước chi Giáo Hội, các Đấng Chủ chăn, cùng toàn thể Kitô hữu đều trở nên dấu chỉ, trở nên ánh sáng cho muôn dân, muôn nơi, muôn thời, để cho mọi người tìm đến Chúa Cứu Thế. Những chứng nhân Đức Kitô đích thực, thật gần gũi và thật có sức thuyết phục, để mọi người tìm được ánh sáng cứu độ. “Ánh sáng của các con phải ngời lên trước mặt người ta, để khi thấy những việc tốt lành của các con, họ tôn vinh Cha các con ở trên trời” ( Mt 5, 16 ).
Qua Lời Chúa
Dù đã dựa vào phương tiện phù hợp, tài năng nổi trội, tri thức sắc sảo, lòng mến nhiệt thành, dấn thân can đảm, ba vị đạo sĩ vẫn chưa thể tìm thấy Hài Nhi Giêsu, đang ẩn cư cùng Thánh Gia, nơi xóm lao động nghèo khó, tầm thường, xoàng xĩnh, tăm tối. Các vị bế tắc khi chỉ dựa vào sức mình, dựa vào khả năng còn hạn hẹp của mình. Các vị vẫn cứ loay hoay, bất lực mò mẫm trong đêm đen, một khi ánh sao vụt tắt giữa chừng hành trình.
Ba đạo sĩ đã gián tiếp phải cậy nhờ đến Thánh Kinh, qua các vị thượng tế, kinh sư thành Giêrusalem. Theo lệnh Hêrôđê, họ liền tổ chức hội thảo, điều nghiên và truy cứu Thánh Kinh, mới biết chính xác địa danh Bêlem. Qua Lời Chúa, ánh sao lại tiếp tục tái hiện rực rỡ, chỉ đường cho ba đạo sĩ đến với Hài Đồng Giêsu.
Lời Chúa muôn đời là ngọn đèn soi dẫn cho những ai, muốn tìm đến Chúa. Hành trình tìm Chúa của ba đạo sĩ đã nhờ Lời Chúa mặc khải, mới có thể hạnh ngộ Chúa Giêsu Hài Đồng.
Mặc dù khi ấy, Hài Nhi Giêsu chẳng nói gì, chẳng ban huấn từ, chẳng có tuyên ngôn, lẫn thông điệp, hay đơn giản chào hỏi đáp lại, ba đạo sĩ vẫn cảm thấy quá sung sướng, tràn đầy niềm vui nhận được quà tặng đáp trả. Bởi chưng được vinh hạnh hội ngộ với Chúa, đã là niềm hạnh phúc vô biên, niềm bình an tuyệt đối.
Qua cầu nguyện
Măc dầu đã được Lời Chúa dẫn dắt, chỉ đường bảo lối hành trình đến với Chúa, ba đạo sĩ còn được báo mộng, để tránh cạm bẫy thế gian, tránh hiểm nguy của ác nhân, tránh được cám dỗ chết người của ma thiêng quỷ dữ. Thánh Cả Giuse cũng đã ba lần được báo mộng vào những lúc cấp bách nhất. Báo mộng là một cách nói bóng bẩy, điển hình, cụ thể hóa về tâm hồn trầm ngâm, suy tư và cầu nguyện.
Hai Tông Đồ hành trình về Emmau cũng đang đắm mình suy gẫm, cầu nguyện về cuộc tử nạn kinh hoàng của Chúa Giêsu, đã bất ngờ được hạnh ngộ với Người. Cầu nguyện chính là sống kết hợp, gần gũi tâm tình với Chúa, để dâng lên những khó khăn, vất vả, niềm vui, nỗi buồn, cơn lo, nỗi sợ, cùng lắng nghe lời Người an ủi, khuyên nhủ, chỉ dạy.
Khi yêu nhau, người ta luôn tìm đến nhau để gần gũi chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn. Cũng thế, yêu mến Chúa thì cũng năng tìm đến Người tâm sự. Người sẽ bồi dưỡng cho lữ khách trên đường hy vọng, sẽ che chở, bảo vệ khỏi những cạm bẫy thế gian, vượt thoát khỏi mọi gian nan, thử thách.
Trong cuộc đời, mỗi khi gặp khó khăn, trở ngại, thách đố, tôi lại thường tìm người che chở, đỡ đần, chỉ vẽ giải quyết. Tôi lân la tìm đến, nhờ cậy người có quyền, người có tiền để mà chạy chọt lo lót. Nào có nhớ đến cầu nguyện hay Lời Chúa? Đức Tin của tôi như thế đâu có hành động, thì chắc đang ngấp ngoái, sắp chết, như lời Thánh Giacôbê Tông đồ đã cảnh báo.
“Trên đường hy vọng, con cần có một địa bàn để chỉ đường cho con trong những lúc tối tăm gian nan nhất, đó là Đức Tin, địa bàn Hội Thánh trao cho con từ ngày chịu phép Thánh Tẩy” ( Đường Hy Vọng, số 271 ).
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chúng con noi gương ba đạo sĩ dâng lên Người quà tặng. Nhưng món quà chúng con không quý giá, chẳng ý nghĩa, mà rất tầm thường, nhỏ bé, rẻ tiền và bất xứng. Đó là tâm hồn chúng con không còn trinh nguyên lành lặn, đã nhem nhuốc vì tội lỗi, đam mê, đã rách nát vì tham lam, gian dối, đã chấp vá vì phản bội, bất trung, bất tín, bất hiếu. Kính xin Người đừng từ chối, mà nhận lấy tấm chân tình của chúng con.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp chúng con, biết luôn chạy đến với Chúa Giêsu hằng ngày, để được ban thêm sức mạnh, hồng ân và ơn cứu độ. Amen.
Trên YouTube, có gần 2 tỉ lượt vào xem ca khúc “Gangnam Style” của ca sĩ Psy, người Hàn Quốc: HiểnLinh ABC241
Trên YouTube, có gần 2 tỉ lượt vào xem ca khúc “Gangnam Style” của ca sĩ Psy, người Hàn Quốc. Với điệu nhảy phi ngựa và giai điệu vui nhộn, Psy trở nên nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Tên thật của anh ta là Park Jae-Sang ( Psy ), anh được yêu mến như một rapper đa tính cách với nhiều video và lối diễn độc đáo. Nhờ ca khúc “Gangnam Style” mà Psy được Bộ Văn Hóa Hàn Quốc trao tặng huân chương Okgwan vì anh đã đưa văn hóa Hàn giới thiệu đến với bạn bè quốc tế. Psy trở thành ngôi sao âm nhạc thế giới và là thần tượng của giới trẻ.
Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực. Ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá… đủ các loại sao !
Cách đây hơn 2.000 năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” ( Mt 2, 1 – 2 ). Các nhà chiêm tinh Đông Phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu Tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu Tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn Sứ Mikha đã loan báo: “Phần ngươi, hỡi Bêlem Ephratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” ( Mk 5, 1 ). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở Phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” ( Ds 24, 17 ). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất Phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia.
Một ngôi sao lạ ở Phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao. Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do Thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Vua phái các vị ấy đi và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cùng đến bái lạy Người”. Họ ra đi. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở Phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện Phúc Âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do Thái đi trong hoang địa về Đất Hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do Thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng Vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh. “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ Phương Đông Phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacóp trong Nước Trời” ( Mt 8, 11 ).
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa. Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí Tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nỗ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong Đức Tin, bền đổ trong Lòng Mến.
Hôm nay, không có ngôi sao Đông Phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” ( Pl 2, 15 ).
Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Gioan giải thích: “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” ( 1Ga 4, 12 ). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” ( 1Ga 4, 18 ). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa Tình Yêu. Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.
Thời nay, Mẹ Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao, là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” ( Mt 5, 14 ). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa.
Ngôi sao Đông Phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” ( Lc 11, 28 ), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành ( x. Verbum Domini, số 124 ).
Chính Chúa Giêsu là ngôi sao mai dẫn chúng ta đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa Đức Mến. Người Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá Đức Tin Cậy Mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Bức Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp diễn tả sâu sắc vai trò làm Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria trong sứ: HiểnLinh ABC242
Bức Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp diễn tả sâu sắc vai trò làm Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria trong sứ mạng sinh ra Đấng Cứu Thế, đồng thời cũng diễn tả trọn vẹn vai trò làm Mẹ của Hội Thánh trong sứ mạng giới thiệu Đức Kitô Giêsu cho nhân loại. Tác giả bức Linh Ảnh đã chia sẻ những suy nghĩ này qua hình ảnh ngôi sao sáng tám cánh dài màu vàng kim trên khăn choàng đầu của Mẹ, cạnh đó là thập giá của Chúa Giêsu cũng dưới dạng ngôi sao màu vàng kim như sau:
Ánh sao và thập giá màu vàng kim hợp, với hào quang quanh đầu của Chúa Giêsu, nổi bật trên nền áo xanh đậm của Mẹ, là một bản phối màu nói lên ý nghĩa của sứ mạng Mẹ đảm nhận, Mẹ làm nền để Chúa Giêsu được tôn vinh ( màu vàng, màu tôn vinh ).
Ánh sao gợi cho chúng ta nhớ đến trình thuật Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, ánh sao năm ấy đã dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đại diện cho các dân tộc xa xăm tìm đến với Con Thiên Chúa làm người.
Khi Ðức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Ðông đến Giêrusalem, và hỏi: "Ðức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Ðông, nên chúng tôi đến bái lạy Người"… Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện…
…Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Ðông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” ( Mt 2, 1 – 12 ).
Đức Maria là ánh sao dẫn đường cho muôn dân tộc tìm đến với Chúa Giêsu, mà là Chúa Giêsu chịu đóng đinh ( thập giá dạng ánh sao màu vàng kim ) để nhận được ơn Cứu Độ.
Chính Chúa Giêsu là ánh sáng soi đường cho nhân loại
Ðức Giêsu lại nói với người Do Thái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" ( Ga 8, 12 ).
"Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người" ( Ga 1, 9 ).
Ánh sáng ấy được ủy thác cho Đức Mẹ cùng các môn đệ, để tiếp tục soi sáng thế gian: “Ánh Sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” ( Mt 5, 16 ).
"Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" ( Pl 2, 15 ).
Đức Maria trong vai trò làm Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ được nhận lãnh vô vàn những ân huệ lớn lao để đảm nhận sứ mạng cao cả này, đồng thời Mẹ được ủy thác làm Mẹ của Hội Thánh để tiếp tục công trình Cứu Độ của Chúa Cha dành cho nhân loại.
Trong bối cảnh Tân Phúc Âm Hóa hiện nay, Mẹ Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp là hình ảnh trung thực về một nhiệt tình mới, một phong cách mới, một diễn tả mới của Hội Thánh. Xin được đặt những cố gắng của mỗi người chúng con trong Hội Thánh, với nỗ lực loan báo Tin Mừng, dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp.
Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ: Thái độ Thành Tâm Thiện: HiểnLinh ABC243
Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ: Thái độ Thành Tâm Thiện
Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.
“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).
Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…
“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt.2,2).
Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.
“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).
Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.
Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.
Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.
“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.
… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.
Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.
Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.
Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).
Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.
Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa, Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:
-“Vì sao Thánh Giá” tỏa sáng muôn nơi, khắp mọi phương trời, dẫn đưa con người, về miền đất hứa: -“Thế giới đệ huynh anh em một nhà, Thiên Chúa là Cha.” Amen.
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến: HiểnLinh ABC244
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ tới Giêrusalem, và rồi lại hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại sao lại như thế?
Như chúng ta đã biết Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi vì ở đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con mình là Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng một đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô, ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm trời người ta mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân, tưởng đó là chặng đường chót. Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn trong thành cũng chẳng thấy ai bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang.
Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem. Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao lạ đã hướng dẫn ba vị khách phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại biến mất trên nền trời thủ đô Giêrusalem?
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều nhận thấy: Tôn giáo nào cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ phượng, nào là nhà thờ, nào là chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt, nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.
Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn nhà nhỏ bé ở Nadarét với biến cố truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống và hành động của Đức Kitô tại Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine. Tin Mừng ấy đã được hoàn thành trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và trong sự phục sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian. Điều đó muốn nói lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là những kẻ đau yếu, bậnh tật khổ đau.
Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như cũng đang biến dần và những người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng về những Bêlem mới, đó là những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như các người chăn chiên thuở trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám bước theo, để rồi cuối cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên: HiểnLinh ABC245
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề.
1.- Ngữ cảnh
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối với nhau. Đề tài “sự hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc tới đều đặn (x. 2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến của chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các bản văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một đăc điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng ta lại có thể phân biệt ra hai khối, nhưng khối thứ nhất được liên kết với khối thứ hai bằng nhiều từ móc, và nếu không có khối thứ nhất, thì không thể hiểu được khối thứ hai:
- 2,1-12: Truyện kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất; nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề tài quan trọng của TM Mt: người Do Thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà người Do Thái bỏ trống trong lòng dân Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel chân chính của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả Tin Mừng cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể Tin Mừng Matthêu.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một đoạn Mở:
1) Mở (cc. 1-2): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh.
2) Phần 1 (cc. 3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc. 9b-12): Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
3.- Vài điểm chú giải
- Bêlem (Bêthlehem) miền Giuđê (1): Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x.1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42. Tác giả nói rằng Bêlem thuộc miền Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có một Bêlem thuộc Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn lặp lại (c. 5; x. c. 6) nhằm nêu bật chủ đề của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất thân từ miền Giuđê, và cũng tại Giuđê mà Người sẽ bị giết.
- Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
- Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy Lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tCN), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tCN), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các Kitô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 CN), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ vi (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tCN.
- mấy nhà chiêm tinh (HL. magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do Thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (thế kỷ v), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (thế kỷ viii). Sang thế kỷ xiv, ông Gaspar được coi là một người da đen…
- chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
- xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mtmuốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.
- Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do Thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).
- Các thượng tế (archiereis, 4): Archiereis đây là các thành viên của các gia đình mà vào lúc quy định nào đó, vua Hêrôđê có thể chọn ra người mà bổ nhiệm làm thượng tế.
- kinh sư trong dân (4): dịch sát grammateis tou laou là “các kinh sư của dân chúng”: một kiểu nói phóng đại.
- Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy Lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs(Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!
- mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).
- Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.
- hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
- sấp mình thờ lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” (proskyneô) được tác giả Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mt hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; x. 20,20) và bởi các môn đệ (14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa), đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
- lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh (1-2)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả đã giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật sẽ được đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2, “vương quyền của Đấng Mêsia”, đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu “vua” gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài này.
Chủ đề lại được nêu lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà chiêm tinh văn, chứ không phải là “vua”. Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh chim bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do Thái như thế, trên đất Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một nhân vật quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các vị biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp, đàng khác, có một truyền thống song song, dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy Lạp LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc. Các vị biết rằng dân Do Thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon, đã có nhiều người Do Thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn giáo và các niềm chờ mong Do Thái.
Khi kể câu truyện Các nhà chiêm tinh, tác giả Mátthêu không quan tâm đến cuộc hành trình của các vị ấy; ngài chỉ chú ý đến cuộc đối đầu của các vị ấy với vua Hêrôđê. Ngài cũng muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị ấy tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng lại được gửi đi đến một nơi khác. Nhưng bây giờ các vị ấy đã biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ Lãnh và Mục tử của dânIsrael. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Chúng ta lưu ý là các nhà chiêm tinh hỏi nơi sinh của “vua dân Do Thái”, chứ không phải là “vua Israel”. Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến chiếu cố, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã kiên trì theo đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc hành trình.
Hai phần sau đây tương ứng với hai “chương trình xung đột” (cũng có trong cc. 13-23) tác giả muốn tường thuật: sự đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và Giêrusalem; một bên là chiến lược của vua Hêrôđê tại Giêrusalem, bên kia là chiến lược của Thiên Chúa; vua Hêrôđê không những đối lập với Đức Giêsu, mà cũng đối lập với các nhà chiêm tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị vua được nêu bật bởi ngôi sao: ngôi sao không được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng dẫn đường cho các nhà chiêm tinh sau khi họ rời Giêsusalem.
* Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái (3-9a)
Sự việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu sấmMk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2. Bây giờ vua Hêrôđê và “cả thành Giêrusalem” được đặt trong thế đối lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối rối dao động của họ là một bằng chứng cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng của hoàn cảnh. Vua Hêrôđê và toàn dân Giêrusalem thuộc nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một vài điểm không thật (vua Hêrôđê và dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là dân chúng hẳn phải vui mừng khi biết Đấng Mêsia vừa chào đời thì mới hợp lý – Nhà vua phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết, vậy mà không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể Thượng Hội Đồng Do Thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn xao”…) khiến nhiều tác giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu và Dân ngoại đón tiếp Người. Đối với tác giả Mt, Giêrusalem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân Giêrusalem là những người sẽ nói về cuối quyển Tin Mừng, “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (27,25). Sự bối rối của vua Hêrôđê và dân Giêrusalem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó (x. 27,11.29.37.42). Ở đây, vua Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã hiểu “Vua dân Do Thái” chính là “Đấng Kitô [Mêsia]”.
Câu trả lời về “Đức Vua dân Do Thái” là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên môi các kinh sư, chứ không dùng công thức về hoàn tất Lời Chúa. Câu này cung cấp một nền móng Cựu Ước cho khởi đầu cuộc đời của Đức Giêsu về mặt lịch sử và tiểu sử. Nhưng đây không phải là điều ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý hơn, đó là dùng hai lần từ “Giuđa” và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2) vào với từ móc laos (“dân chúng”) để khẳng định quan điểm chống Do Thái của ngài: các kinh sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn đề về vị mục tử thiên sai vẫn từng mong đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng họ không rút ra các hệ luận; vì vậy họ gián tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế là vua Hêrôđê “hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện”. Câu 7 này đưa chúng ta đến với câu 16 được viết tương tự. Độc giả có linh cảm một chuyện chẳng lành sắp xảy ra, khi thấy nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu trả lời chính là sự tàn bạo bí hiểm của nhà vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho độc giả nhận ra nhà vua là một kẻ đạo đức giả. Đồng thời, nền tảng của c. 12 được cung cấp: vua Hêrôđê muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông; nhưng ý định xấu xa của ông sẽ bị Thiên Chúa can thiệp tiêu hủy.
* Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem (9-12)
Các nhà chiêm tinh ra đi ngay ban đêm, không phải vì đó là thói tục của Đông phương, nhưng để tác giả lại có cơ hội nói về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại nhận ra Thiên Chúa ra tay hướng dẫn toàn thể biến cố, và được mời gọi chia sẻ niềm vui chan hòa các nhà chiêm tinh đang trải nghiệm.
Chủ đề của bài Tin Mừng được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn trông đợi, dù tước “vua” không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề “vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ (“Vua dân Do Thái”: c. 2; “vì sao của Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3; “Hêrôđê”: cc. 7.12; “bái lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ lạy”: c. 11; “lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến”: c. 11)[1] liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô) trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng ta nhớ Đức Giêsu đã được giới thiệu là “con cháu vua Đavít” (1,1), “Con Thiên Chúa” (x. 1,21; 2,15) và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse để nêu bật địa vị đặc biệt của bà Maria theo chiều hướng của Mt 1,18-25. Các lễ vật quý giá (vàng, nhũ hương và mộc dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
Chủ đề được khóa lại với tên “Hêrôđê”, vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và với việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh truyện này với những gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một vị vua cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với truyện. Nhưng “đúng” không nhất thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các truyện trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải thích các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
2. Có những điểm “khôi hài” trong bài: Sự khôn ngoan của Dân ngoại mà người Do Thái vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô. Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thành trung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
3. Có hai chuyển động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do Thái và dân Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị “đã đi lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về lối ứng xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh, nhưng họ không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
4. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
5. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6. Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải thích cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên thế giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ chính là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ “đồng nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
Ngày nay gọi là Lễ Hiển Linh, ngày xưa gọi là lễ Ba Vua. Thực ra không chỉ có 3 người mà nhiều: HiểnLinh ABC246
Ngày nay gọi là Lễ Hiển Linh, ngày xưa gọi là lễ Ba Vua. Thực ra không chỉ có 3 người mà nhiều người, họ không phải là những quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, họ từ Đông phương xa lắc xa lơ đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến Bêlem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể, làm người để chia ngọt sẻ bùi với thân phận con người của chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Chúa dùng để tỏ mình ra cho muôn dân.
TÌM CHÚA
Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con từ mấy ngàn năm trước và nay đã hiện thực đúng lời hứa đó: Ngôi Hai làm người.
Chúng ta là những người nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được Đức Giêsu đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, được thừa nhận là con của Thiên Chúa, vì thế Ngôn Sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” ( Is 60, 1-2 ).
Thật hạnh phúc biết bao! Chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” ( Is 60, 4 ). Thế nên chúng ta không thể không vui cười hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui như ngày hội và vui như tết.
Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Bêlem kia lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” ( Tv 72, 6 ). Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” ( Lc 5, 32 ), Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất” ( Lc 19, 9 ), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” ( Ga 10, 10 ). Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu ! Tại sao ? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” ( Is 55, 8 ).
Thế nhưng triều đại của Vua Nghèo lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” ( Tv 72, 7 ), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” ( Tv 72, 11 ). Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn theo sát đồng bào, Ngài luôn tận tụy với đám dân nghèo, Ngài cương quyết bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật. Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” ( Tv 72, 12-13 ).
Các nhà hiền triết từ Đông Phương thấy Ánh Sao Lạ, họ biết có một “dị nhân” vừa xuất hiện, thế là họ không quản ngại đường xa hiểm trở, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm cho ra “dị nhân” kia. Và ánh sao dẫn đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh bốc mùi hôi tanh.
Thấy vậy, nếu là chúng ta, chưa chắc đã bước vào, thậm chí có thể kéo nhau quay về cho nhanh, thậm chí có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu ! Các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”, nhưng họ vẫn không hề thất vọng và tin thật rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ can đảm bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện thật “chăm phần chăm”. Không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo.
Ngày nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Chứ nếu tận mắt chứng kiến thì chắc chúng ta không thể và không dám tin Em Bé có tên là Giêsu kia lại chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Vậy là chúng ta may mắn. Thánh Phaolô viết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” ( Ep 3, 2-3 ). Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” ( Ep 3, 5 ). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” ( Ep 3, 5-6 ).
Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động”. Đó là…
VÀO ĐỜI
Chúa Giêsu là Thiên Vương, tất nhiên Đức Maria là Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse là Phụ Vương – dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ trọ, Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang”, may còn có cái hang để chui vào. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Chồng không hề than thở, chỉ âm thầm hành động. Vợ sinh xong, được Mẹ tròn Con vuông là mừng húm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé thăm. Cũng đỡ tủi thân và được an ủi phần nào nơi đất khách quê người. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim “khổ” kéo dài nhiều tập…
Thời đó là lúc vua Hêrôđê trị vì, thấy mấy nhà chiêm tinh vào hỏi thăm: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” ( Mt 2, 1-2 ). Nghe vậy, vua Hêrôđê tá hỏa, xay xẩm mặt mày, cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra đời” ( Mt 2, 6 ). Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” ( Mt 2, 8 ).
Nghe nhà vua nói thế, họ an tâm ra đi mà không hề biết vua Hêrôđê “khẩu Phật, tâm xà”, mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình thôi! Các đạo sĩ tiếp tục đi theo ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, dẫn đường họ đến tận nơi. Ngôi sao dừng lại, “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” ( Mt 2, 11 ). Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
Sau khi “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh “ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương các đạo sĩ là miệt mài tìm Chúa và can đảm hành động. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con thực hiện mọi sự theo đúng Tôn Ý Ngài trong từng nhịp thở. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin nguyện giúp cầu thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Tám ngày sau Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Giáo Hội mời gọi con cái mình cử: HiểnLinh ABC247
Tám ngày sau Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Giáo Hội mời gọi con cái mình cử hành Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Đức Maria đã được các Giáo Phụ ca ngợi, đặc biệt là Thánh Ambrosio thành Milano ( thế kỷ IV ) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia ( + 110 ) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”, tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể”. Như Thánh Grégoire de Nazianze ( 330 – 390 ) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Khi giáo chủ Constantinople là Nestorio công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì Công Đồng Chung Êphêsô ( 431 ) đã đuợc triệu tập và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Đó là danh xưng cao trọng nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công Đồng Vaticanô II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau: Không có gì lạ, nếu các Giáo Phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một thọ tạo mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nadarét được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phước” ( Lc 1, 28 ). ( GH. 59 ).
Thánh Phaolô viết: “Khi đã đến lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử… mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa” ( Gl 4, 4-7 ). Như thế, chúng ta dưỡng tử của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô nhờ ơn Thiên Chúa. Lại nữa, Hội Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, Đức Maria đã là Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Đầu của Thân Thể, thì Mẹ cũng là Mẹ của Thân Thể, Mẹ Hội Thánh, Hội Thánh được cấu thành bởi những con người chúng ta, nên Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” ( GH. 62 ).
Ngày 21.11.1964, Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố Đức Maria Là Mẹ Hội Thánh: “Để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Hội Thánh, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”. Và việc Đức Phaolô VI đã “công bố” và “truyền” làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa.
Đó là những lý do Giáo Hội thúc dục con cái mình cầu nguyện với Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc.
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình ( Is 9, 5 ) sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Chúng ta mượn lời sách Dân Số mà cầu chúc cho nhau: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” ( x. Ds 6, 26 ). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Vì tình yêu Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại ( Ga 3, 16 ). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria.
Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Mẹ bồng Hài Nhi Giêsu, con nhìn mẹ và mẹ nhìn con âu yếm. Đức Maria trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, và là Mẹ chúng ta, luôn đồng hành để dẫn chúng ta về với Thiên Chúa. Bước theo Mẹ trong cuộc sống của lòng tin bằng thái độ tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Ngài, chúng ta sẽ được Mẹ dìu đưa đến với Chúa, đến Nước Trời. Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Giêsu, cưu mang Người bằng cách lắng nghe và sống theo Lời Người, để thực sự trở nên người có phúc, người thân của Chúa như Mẹ.
Mừng Lễ Mẹ hôm nay, với trọn niềm tin tưởng, mến yêu, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ thế giới này, đất nước ta, gia đình ta. Hãy để Mẹ hiện diện để yêu thương, chăm sóc và dẫn dắt chúng ta sống theo ý Chúa. Hãy hết lòng yêu Mẹ bằng tình con thảo hiếu !
Nhờ Mẹ cầu bầu, xin cho cuộc đời mỗi nguời chúng ta được đổ đầy bình an của Chúa trong năm mới này, để chúng ta cũng trở nên những người xây đắp an bình cho gia đình, cho mọi người bằng đời sống tin yêu phó thác vào Chúa và quên mình phục vụ tha nhân như Mẹ. Ước gì chúng ta không chỉ thành khẩn thưa lên với Mẹ bằng lời, mà bằng trọn cả con tim và cuộc sống chúng ta: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.”
Một đứa trẻ ra đời là thành công của ba mẹ, vì đã đón nhận sự hiện diện của con cái trong gia: HiểnLinh ABC248
Một đứa trẻ ra đời là thành công của ba mẹ, vì đã đón nhận sự hiện diện của con cái trong gia đình của mình. Và sự xuất hiện của một miệng ăn là dấu hiệu của sự lao nhọc vất vả. Những gia đình có nền kinh tế ổn định thì không có gì để nói, nhưng những gia đình khó khăn chật vật, thì đây là một vấn nạn nan giải, đau đầu không kém.
Gia đình thánh gia chắc chắn không phải là một gia đình giàu có. Vì Tin Mừng hôm nay ghi rõ Mẹ Maria đã sinh con trong máng cỏ, vì không tìm được nhà trọ: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” ( Lc 2, 7 ).
Nếu có ai đó nói rằng gia đình tôi khổ, thì ở đây có thể khẳng định không ai nghèo khổ bằng gia đình thánh gia. Nhiều em bé ra đời nhưng có mấy bé phải sinh nơi chuồng lừa và đặt nơi máng cỏ như Hài Nhi Giêsu. Ngày nay, cũng có rất nhiều em bé phải sinh ra trong những nơi không an toàn nhưng không phải vì gia cảnh khó nghèo mà hơn cả là vì cha mẹ bỏ rơi chúng. Còn đáng thương hơn, có biết bao nhiêu nghìn em bé bị phá bỏ ngay cả khi chưa hình thành đầy đủ trong lòng mẹ nữa kìa.
Như vậy nghèo đói vẫn không phải là nguyên nhân chính khiến người ta từ chối mầm sống, quan trọng hơn cả chính là thái độ sống ích kỉ, hưởng thụ đã khiến nhân loại từ chối mầm sống và hủy diệt nó.
Biết rằng cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ thiếu vắng những giây phút phải lao nhọc vất vả, khổ cực nhưng noi gương thánh gia luôn luôn tin tưởng phó thác tuyệt đối vào tình thương, quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa giàu nghèo có là chi. Tài năng giỏi giang cũng ý nghĩa gì. Ngài chỉ cần tình yêu và lòng mến đối với Thiên Chúa mà thôi. Những cái đó đều do Ngài tác tạo nên thì Ngài cần gì phải lệ thuộc vào chúng.
Do vậy, dù nghèo dù đói, dù ốm đau, bệnh tật… cho dù chúng ta là gì đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương ta. Ngài yêu ta không phải vì những cái ta đang có, mà là vì chúng ta là con của Ngài. Đơn giản có thế thôi.
Có lẽ vì nhân loại hiểu sai ý định Thiên Chúa. Có lẽ vì chúng ta nhầm lẫn mục đích của Ngài. Thế nên qua bao nhiêu ngàn năm qua rồi, con người vẫn cứ mãi lầm lũi đi vào chốn diệt vong, tranh giành chèm giết lẫn nhau chỉ vì đồng tiền tấm áo. Rồi vì thú vui nhục dục, người ta chỉ còn biết sống cho thỏa mãn đam mê mà bỏ rơi trách nhiệm đối với con cái.
Con số phá thai trên thế giới ngày càng báo động. Nhưng một điều may mắn là ai cũng hiểu rằng không phải quá nghèo khổ mà phá, nhưng sâu xa hơn vẫn là sự hưởng thụ ích kỉ. Nếu như gia đình thánh gia ngày trước cũng đầy toan tính hơn thiệt thì ngày nay làm sao nhân loại có được niềm vui cứu độ. Chính nhờ sự vâng phục, lòng can đảm của các ngài mà chúng ta hoan hỉ đón nhận ơn giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” ( Lc 1, 14 ).
Lạy Chúa, cảm ơn Ngài đã làm người vì yêu con. Cảm ơn Ngài đã chọn cảnh nghèo mà giáng thế, nếu không con sẽ cảm thấy lạc lõng bơ vơ biết chừng nào khi thế giới con số nghèo đói không phải ít. Mỗi khi trong đời sống lao đao, vất vả, con tìm được niềm bình an trong Chúa vì biết rằng đã có Ngài cùng đồng hành sẻ chia. Là Con Một Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Con Đấng Tối Cao mà Ngài lại chịu sinh ra trong cảnh cơ hàn, khiến con vô cùng cảm phục và xúc động. Con có nghèo vậy hay nghèo nữa vẫn không thể như Chúa. Trong khi con là kẻ nghèo tự bản chất, còn Ngài là Đấng giàu sang phú quí, tác tạo nên cả trái đất vũ trụ mà lại cam chịu trở nên nhưng không, tay trắng làm người để đồng hành, sẻ chia kiếp người với con người. Xin giúp con đừng buồn nếu đang là kẻ nghèo khó và can đảm đón nhận cảnh nghèo nếu có phải vì vinh danh Cha. Xin giúp con hiểu rằng bản chất con đã là tay trắng, vào đời dẫu có trắng tay thì Thiên Chúa vẫn luôn mãi yêu con, như thế thì còn sự giàu có nào sánh tày nữa đây.
Rất nhiều người đã tới nhà thờ trong đêm Giáng sinh, nhưng thử hỏi có mấy ai đã thực sự gặp HiểnLinh ABC249
Rất nhiều người đã tới nhà thờ trong đêm Giáng sinh, nhưng thử hỏi có mấy ai đã thực sự gặp gỡ Chúa như ba nhà đạo sĩ phương đông?
Chúa Giêsu không phải là người khó tính, đến như các trẻ mục đồng, thuộc hàng khố rách áo ôm, cũng có được một chỗ đứng bên máng cỏ. Nhưng rõ ràng là qua đoạn Tin Mừng chúng ta thấy được rằng sự kiện Chúa ra đời đã thực sự khuấy động khá nhiều người từ vua Hêrôđê, các thượng tế và luật sĩ, đến quần chúng nhân danh thành Giêrusalem và cả những nhà đạo sĩ xa xôi.
Tuy nhiên những người đã để cho sự kiện Chúa ra đời khuấy động tới cùng lại chỉ có ba nhà đạo sĩ vốn bị liệt vào hạng những kẻ ngoại, những người ở ngoài. Hêrôđê quả có đi tìm Chúa, nhưng là để thủ tiêu Ngài chứ không phải để gặp Người. Các thượng tế và các luật sĩ thuộc giới đền thờ, là những người có đầy đủ các điều kiện tạm gọi là khách quan rát thuận lợi để gặp Chúa. Họ là những nhà thông hiểu thần học và Thánh Kinh. Kẻ khác còn phải nhờ đến họ để biết được Người sinh ra ở đâu. Nhưng theo Tin Mừng thì xem ra họ không rời đền thờ nổi. Trong khi đó Chúa lại sinh ra nơi máng cỏ Bêlem. Làm sao họ có thể gặp được Người? Còn những người dân khác của kinh thành Giêrusalem thì lại hoảng hốt, thay vì vui mừng trước cái tin Đấng mình mong đợi đã sinh ra.
Và cuối cùng chỉ còn lại ba nhà đạo sĩ đã đến được bên máng cỏ cùng với những trẻ mục đồng. Các nhà đạo sĩ tới được với Chúa là vì các ông đã nhận ra dấu lạ, hay cái mới trong lúc các ông làm công việc thường ngày của mình. Các ông đã tìm hiểu ý nghĩa của cái mới và chân thành theo dõi, cho dù phải thực hiện một cuộc hành trình ngàn dặm với bao nhiêu là vất vả.
Ai gõ thì sẽ mở cho, ai tìm thì sẽ gặp. Đến nhà thờ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải có cả một cuộc hành trình tìm kiếm Chúa. Ngài mời gọi bằng những dấu chỉ của thời đại. Phải tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ ấy, hay đúng hơn, để biết được giữa muôn vàn sự kiện của cuộc sống thường ngày, giữa muôn vàn vì sao lấp lánh trên bầu trời, sự kiện nào có giá trị của một ánh sao lạ, dẫn chúng ta đến với ơn cứu rỗi.
Chúa đến cho tất cả mọi người, thế nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy không phải tất cả mọi người đều đã được gặp Ngài.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính HiểnLinh ABC250
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang... Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê đâm ra hoảng hốt vì sợ rằng ngai vàng của mình có nguy cơ lung lay nếu có vị vua thứ hai xuất hiện.
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bêlem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 'Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bêlem là phần đất nhỏ nhất của miền Giuđa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Ngài, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không thể ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Ngài. Đó là ánh sáng của Lời Chúa. "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Tv 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu?
Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong gia đình chúng ta. Thật là điều bất ngờ!
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt hẵn phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái... trong gia đình. Những gì chúng ta làm cho cha cho mẹ cho anh chị em cho con cái trong gia đình là làm cho chính Chúa."
Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định với chúng ta như thế: "Tất cả những gì anh em làm cho một người trong những anh em hèn mọn nhất của Ta đây là làm cho chính Ta." (Mt 25, 40)
Chính những lời dạy nầy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bêlem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ Ngài và dâng lễ vật cho Ngài.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta.
Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Nếu chúng ta vui lòng trao dâng, thì đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ nói với từng người trong chúng ta: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa" vì các con đã cho Ta tấm áo, cho Ta bát cơm, cho Ta sách vở để học hành, đã đào tạo Ta nên con người có phẩm chất cao đẹp... (xem Mt 25. 34).