Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 301-350 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội, Bí Tích Hiệp Nhất toàn thể gia đình nhân HiểnLinh ABC301
Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội, Bí Tích Hiệp Nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Độ của mình.
Is 60: 1-6
Ngôn sứ I-sai-a loan báo hình ảnh vinh quang của Giê-ru-sa-lem mới, tiên trưng Giáo Hội: “Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
Ep 3: 2-3a, 5-6
Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ, đó là muôn dân muôn nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một dân tộc duy nhất là Giáo Hội, trở nên một thân thể duy nhất là Nhiệm Thể Đức Giê-su Ki tô.
Mt 2: 1-12
Từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Mặc Khải: Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên trưng Giáo Hội, được soi lối chỉ đường đến thờ lạy Chúa Hài Nhi, Đấng Cứu Độ trần gian.
BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)
Các ngôn sứ Cựu Ước đều đã công bố sứ mạng phổ quát của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Các ngài đã mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en vượt qua chủ nghĩa quốc gia và nhấn mạnh một trong những yêu sách mà ơn gọi của họ đòi hỏi: phải là ánh sáng cho muôn dân muôn nước.
Bản văn Cựu Ước được chọn để mừng lễ Hiển Linh trích từ tác phẩm của một trong số các ngôn sứ nầy. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, nghĩa là sau cuộc hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.
Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (60: 1-2).
Ông loan báo sứ điệp đầy tin tưởng và lạc quan để an ủi cộng đoàn đang chán chường và thất vọng.
Cuộc trở về quê cha đất tổ đã đem lại một tinh thần phấn chấn cho những người hồi hương; nhưng rồi sớm vỡ mộng. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bần cùng và thưa thớt người, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt gần năm mươi năm trôi qua. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt… Cuối cùng, những nổ lực tái thiết Đền Thánh bị dang dỡ.
Chính vào lúc ấy, một sấm ngôn vang lên để an ủi những ai mất can đảm. Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng cách cho họ được trở về quê cha đất tổ:
“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi, vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,vinh quang Người xuất hiện trên ngươi”
Những kẻ áp bức đã bị nghiền nát. Thành thánh Giê-ru-sa-lem được ví như “ánh sáng bừng lên”. Đức Chúa được sánh ví như “bình minh chiếu tỏa”. Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vị ngôn sứ đưa ra hai thị kiến chứa chan hy vọng.
Cuộc tụ họp vĩ đại (60: 3-4).
“Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
Đưa mắt về tứ phía mà xem, tất cả đều tụ họp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông”.
Những con trai con gái nầy là những “cộng đồng Do thái hải ngoại” (họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam). Thế nên, một truyền thống rất sống động muốn rằng sự thống nhất của toàn thể dân Ít-ra-en phải là công trình của Đấng Thiên Sai. Như vậy, sấm ngôn bao hàm hậu cảnh Thiên Sai.
Thế nhưng những con trai con gái từ phương xa này cũng là muôn dân nước sẽ tiến đến Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình vì uy danh Đức Chúa trên thành quyến rủ họ.
Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (60: 5-6).
Thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất: chư dân sẽ đề xuất sự phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh:
“Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.
Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà của người Ma-đi-an và Ê-pha; tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa”.
Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sơ-va là những dân miền Á-rập. Tên Sơ-va gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sơ-va đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng tặng cho vua nhiều quà tặng quý giá.
Thành đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn lầm than, nhưng sống trong cảnh phú túc thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại vùng đứng lên từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân đến tán dương ca tụng Thiên Chúa của dân mình.
Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra loan báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tin, tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en. Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân muôn nước đồng thừa tự với người Do thái, dân của Lời Hứa (Bài Đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc sum họp bao la chung quanh Thiên Chúa đích thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: thành đô Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc mà bản phác thảo của nó trên trần thế nầy là Giáo Hội.
BÀI ĐỌC II (Ep 3: 2-3, 5-6)
Thánh Phao-lô viết thư nầy có lẽ trong khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Thánh nhân ngỏ lời với tín hữu Ê-phê-xô, đúng hơn với các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á, mà thánh nhân muốn thư của mình được chuyển đến.
Những cộng đoàn nầy đa số là những Ki tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc nhở họ ơn gọi tông đồ dân ngoại của mình. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ không còn một dân tộc đặc quyền đặc lợi nữa vì muôn dân được chấp nhận đồng thừa hưởng cùng một ơn cứu độ như dân Do thái.
Mầu nhiệm của Đức Ki tô:
Sứ điệp trọng tâm của bức thư nầy là “mầu nhiệm của Đức Ki tô”. Qua từ “mầu nhiệm” nầy, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.
Đối với thánh nhân, các thầy thông luật đã học hỏi Kinh Thánh dù thành tâm mấy đi nữa cũng không thể nào biết được mầu nhiệm: “nhờ rao giảng Tin Mừng và được liên kết với Đức Giê-su Ki tô, các dân ngoại cũng được đồng thừa tự với người Do thái”. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu nầy chỉ nhờ ơn soi sáng của Đức Giê-su trên đường Đa-mát.
Dân thánh:
Từ trong chốn lao tù của mình, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô không quên liên kết sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của mình với tất cả các tông đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua cách diễn tả “các thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô khiêm tốn tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.
Vị Tông Đồ của dân ngoại:
Thánh nhân đã hiến dâng mọi sức lực của mình cho ơn gọi của mình. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã nhiệt thành thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt biển băng ngàn không quản ngại gian nguy. Chương 13 tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, người Do thái sinh lòng ghen tức…trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa.
Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong hoạt cảnh “Các Nhà Chiêm Tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.
TIN MỪNG (Mt 2: 1-12)
Thánh Mát-thêu là vị thánh ký duy nhất tường thuật biến cố “các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Ông đã giữ lại chuyện tích nầy vì nó xác minh một trong những chủ đề của sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho dân ngoại gia nhập Giao Ước, bởi vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến cho họ. Thật lạ lùng trong khi dân ngoại đáp trả lời mời gọi, thì con cái của Lời Hứa lại quay lưng với Giao Ước.
Thánh Lu-ca trình bày cho chúng ta các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó. Trong khi đó, thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta các nhà chiêm tinh từ phương xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người giàu có, thông thái. Những người đầu tiên là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi những người thứ hai đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.
Lên đường theo ánh sáng tự nhiên.
Trong chuyện tích Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho nó thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh nầy như Thánh Vịnh đã nói với chúng ta:
“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm nầy kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,mà tiếng vang đã vang dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới khắp chân trời góc biển” (Tv 19: 2-5).
Nếu chỉ suy nghĩ một cách sâu xa biến bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy chúng ta lên đường đấy chứ.
Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem.
Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì “vua dân Do thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu có chủ ý dùng tước hiệu nầy: đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người nầy là Giê-su, vua dân Do thái” (Mt 27: 37).
Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem làm cho vua Hê-rô-đê và triều thần của vua bối rối. Điều nầy xem ra cũng dễ hiểu thôi vì vua cùng triều thần của vua nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Tại sao dân thành Giê-ru-sa-lem không vui mừng nhỉ? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân nầy đã lỗi hẹn gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Ở nơi nỗi xao xuyến của dân thành Giê-ru-sa-lem, thánh ký báo trước việc dân nầy sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do thái chống đối cộng đoàn Ki-tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng nầy có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét nầy.
“Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do thái giáo và các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh, vì thế họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ nầy đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do thái vừa mới sinh nầy xem ra là hình ảnh tham dự trước một cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.
Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi một chút. Trong khi ngôn sứ Mi-kha viết:
“Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en ” (Mk 5: 1),
còn lời trích dẫn của bản văn Mát-thêu thì viết:
“Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
Rõ ràng trong bản văn của mình, thánh Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng còn sửa đổi và thêm “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…” (2Sm 5: 2).
Vua Hê-rô-đê bí mật triệu tập các nhà chiêm tinh và dò hỏi tường tận ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua có mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.
Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật nầy sát với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa nầy: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo cho đến điên cuồng khát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông ra lệnh hành hình nhiều người Pha-ri-sêu trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua nầy, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù mất đi nhân tính của mình đi nữa.
Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash” ? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình …Toàn dân kinh hải…một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua…một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”. Đây là lời chú giải Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu đã được gợi hứng từ phương thức nầy? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.
Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa.
Chắc chắn cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ nầy. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng nầy rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao dẫn lối đưa đường các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?
Gặp gỡ Ngôi Lời Thiên Chúa làm người.
Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…” Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đã đến gặp gỡ chính Đấng mà Tin Mừng Gioan tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước quy về và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.
Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều nầy thật lạ lùng, vì cho đến lúc nầy thánh Mát-thêu rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài”?
Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các tặng vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường nầy là một vị vua vừa mới giáng sinh. Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật nầy: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi nầy là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi nầy là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những vật liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi nầy sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa nầy, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là vua, Thiên Chúa và cũng là Đấng Cứu Thế.
Các nhà chiêm tinh đến từ xa thời lạy Hài Nhi, thế là các sấm ngôn về Đấng Cứu Thế trần gian được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su nầy (Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17).
Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của câu chuyện nầy, nhưng không ai có thể chối cãi đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.
Lễ hôm nay là lễ “Hiển linh” mà ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua. “Hiển linh” là biểu lộ thần tính. Điều HiểnLinh ABC302
Lễ hôm nay là lễ “Hiển linh” mà ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua. “Hiển linh” là biểu lộ thần tính. Điều mà Giáo hội kính nhớ và vui mừng cử hành là việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến và tỏ mình ra cho nhân loại.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia tiên báo là ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên Israel và các dân tộc sẽ hướng về ánh sáng ấy mà cất bước. Lời sấm ấy đã được ứng nghiệm, vì Con Thiên Chúa đã giáng thế, sinh ra tại Bêlem, các đạo sĩ đã đại diện cho các dân ngoại mà tìm đến và thờ lạy Ngài.
Bài Tin mừng kể lại cho chúng ta sự kiện các đạo sĩ Đông phương tới Bêlem để tìm kiếm và thờ lạy Chúa Cứu thế. Thánh Matthêu nêu ra cho chúng ta những thái độ khác nhau của từng hạng người trước việc Chúa Cứu thế tỏ mình ra : kẻ chấp nhận, người từ chối. Việc Chứa Cứu thế tỏ mình ra cho các đạo sĩ nói lên lòng thương yêu đặc biệt của Thiên Chúa đối với dân ngoại.
Chúng ta cũng là dân ngoại đã được Thiên Chúa tỏ mình ra, nhưng vẫn còn phải tiếp tục tìm gặp Ngài qua Thánh Kinh, qua Giáo hội và qua các biến cố trong đời sống thường ngày. Để đáp lại tình thương ấy, chúng ta phải cố gắng trở thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời (bài đọc 2) để soi dẫn cho những ai chưa biết Chúa tìm đến gặp Ngài, qua cuộc sống tràn đầy tình thương và phục vụ của chúng ta trong thế giới hôm nay.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 60,1-6.
Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải thoát đã mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó, dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ lại được rạng rỡ, sẽ trở thành ánh sáng thu hút muôn dân vì được ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó, và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy cùng với vàng bạc, đá quí, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.
Trong thực tế, dân Chúa đã được giải thoát, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn trong Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mơ của tiên tri Isaia còn hướng về thời cánh chung, khi mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (x. Kh 21,9-27).
+ Bài đọc 2 : Ep 3,2-3a.5-6.
Dân Do thái luôn hãnh diện là dân riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thoát chỉ được dành riêng cho họ, còn dân ngoại thì bị đẩy ra ngoài. Nhưng thánh Phaolô, cũng là người Do thái, không nghĩ nghư vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho ngài biết : Ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó là : trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ lời Thiên Chúa hứa.
+ Bài Tin mừng : Mt 2,1-12.
Các đạo sĩ Đông phương, là những nhà chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các vị biết có Đấng Cứu thế đã ra đời, và các vị đã lên đường triều bái Chúa Hài nhi.
Có người cho rằng đây không phải là ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi tình cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi Giáng sinh, tiên tri Mikea đã viết trong Cựu ước :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến sau khi các đạo sĩ tới, cũng xác nhận như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO của Chúa bên phương Đông, nên đến thờ lậy (Mt 2,2).
Nếu tiên tri Mikea không được Thiên Chúa mạc khải làm sao ông ấy biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm ? Nếu đó chỉ là “ngôi sao chổi” tự nhiên, thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước Do thái. Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ đến Giêrusalem thì nó lại “biến” mất ? Tại sao nó lại tái xuất hiện và “đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra mới dừng lại” ? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu thế ? Vì vậy, phải gọi là “Aùnh sao Belem”.
Vì thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức Do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lễ của ánh sáng và quà tặng
HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO LẠ.
Ý nghĩa ngôi sao lạ.
Theo quan niệm của người Đông phương. Sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ đến một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn chiêm tinh học với các khoa tử vi.
Hôm nay Giáo hội kể lại biến cố ba nhà thông thái đến triều bái Chúa Hài nhi . Magi có nghĩa là những nhà khoa học kinh nghiệm (Nature Scientist), họ là những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn. Họ đến từ phương Đông, dĩ nhiên họ không phải là người Do thái. Và chỉ hỏi có hai câu : Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người.
Có nhiều người cho rằng có lẽ các khoa học gia này đã nhìn thấy sao chổi và đi theo. Nhưng năm 1603, nhà toán kiêm thiên văn Johannes Képler giải thích theo tài liệu cho thấy vào năm Chúa Giáng sinh có một hiện tượng bất bình thường xẩy ra giữa các vì sao. Ôâng nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng : bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng quay sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ tìm ra Chúa Hài nhi ? Nhưng điểm muốn nhấn mạnh ở đây, là tại sao các nhà thông thái biết chắc chắn là vua Do thái đã sinh ra. (Chúng ta biết rằng các nhà khoa học không bao giờ hấp tấp kết luận một cách hồ đồ). Phải chăng các ngài đã được Thiên Chúa mạc khải ? Đúng thế ! Ngôi sao trên bầu trời Belem đã dẫn các đạo sĩ Đông phương trải qua một cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông đến nơi Con Trẻ mà các ông muốn tìm kiếm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mạc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là Vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ý nghĩa ngày lễ.
Như vậy, lễ Hiển linh là một ngày lễ cách mạng. Đức Kitô được mạc khải như là Đấng Cứu độ, không phải là của một nhóm người được chọn, nhưng của tất cả mọi dân tộc. Đức Giêsu đã bẻ gẫy rào cản lớn tồn tại giữa dân Do thái và dân ngoại. Trên thực tế, sứ điệp của Đức Giêsu, người Anh Cả của toàn thể vũ trụ, đã vượt qua tất cả những rào cản của bộ tộc, họ hàng. Lễ Hiển linh là một ngày lễ đẹp, bởi vì ngày lễ này đưa mọi người lại với nhau.”Bấy giờ, tất cả mọi người đều được chia sẻ cũng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.
HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG.
Đức Giêsu và ánh sáng.
Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là ánh sáng:”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân loại, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Chúa ở trần gian để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.
Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Chúa Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu xa hơn nếu như không hề có Chúa Giêsu, thì
– 61% trả lời rằng : thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
– 47% nói rằng : sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại nơi thế giới này. (16 % thì nói ngược lại, và 26% thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu).
– 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn, và 58% thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu. 59% thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi và 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu. (Báo Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, tr 53).
Chúng ta và ánh sáng thế gian.
Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng, cho nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14) Và nếu đã là ánh sáng thì phải tỏa ra như Chúa dạy:”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,1516).
Ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đốm sáng trong đêm tối và nếu như đốm sáng chiếu soi thì có thể làm cho bầu trời tối tăm trở nên sáng rực. Cuộc sống gương mẫu của chúng ta chỉ rất nhỏ, rất mờ nhạt trong cộng đoàn, nhưng nó cũng làm cho cộng đoàn trở nên chứng tá lớn cho xã hội chưa nhận biết Chúa.
Truyện : Ánh sáng ở vận động trường.
Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước 100.000 người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa kỳ. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và ønói:”Bây giờ xin các bạn đừng sợ ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dầy đặc. Ôâng John Keller nói tiếp:”Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên : Đã thấy”. Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên : “Đã thấy”.
Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích :”Aùnh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tối tăm của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh :”Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông Keller kết luận:”Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”(Lẽ sống, 143)
Các đạo sĩ phương Đông đã nhờ ngôi sao lạ của “Vua dân Do thái sinh ra” tức Hài Nhi Giêsu, mà đến được Be lem và gặp được Hài nhi Giêsu cùng Mẹ Người là Bà Maria. Cũng thế, 86 triệu người Việât nam nói riêng và hàng trăm triệu người châu Á nói chung sẽ chỉ nhận ra Đức Giêsu là Cứu Chúa nếu mỗi người công giáo Việt nam là một SAO dẫn đường chỉ lối cho họ.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là con người thời nay trông chờ (và tin tưởng) các chứng nhân hơn là các thầy dạy, vì có nhiều thầy dạy lại dạy một đàng mà sống một nẻo, thậm chí sống ngược lại những điều họ giảng dạy, chẳng khác gì các Biệt phái và Pharisêu thời Chúa Giêsu. Trong cụ thể, chỉ khi người Kitô hữu sống tinh thần Bát phúc, sống yêu thương, trách nhiệm, công bình, thanh liêm, hy sinh, phục vụ tha nhân và ích chung thì mới thành SAO trên bầu trời và trong cộng đồng con người được.
Mỗi người là một ánh sao.
Thánh Gioan tông đồ nói:”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Aùnh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Chúa Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối. Chúng ta phải làm sao cho thế gian nhận được Chúa Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế, trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô tông đồ đã khuyên:”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao chúng ta, các Kitô hữu là những ngôi sao ? Thánh Phaolô tông đồ giải thích:”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác hơn, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta làm cho người khác nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời đêm tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Carolô).
Trong đời sống xã hội hôm nay có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá, thôi thì loạn cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !
Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng, chỉ làm theo nhiệm vụ của mình. Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là vì sao chiếu sáng trên vòm trời thế kỷ 20.
Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành SAO MAI được chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày) vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt : sao mai và sao hôm.
Aùnh sáng của SAO NAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất:”Đẹp như ánh sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi sao mai đã được dùng để chỉ Đức trinh nữ Maria : Stella matutina (Đức Bà như Ngôi Sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã hoan hô Ngài bằng danh từ ấy : Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửa thiên đàng (Hoàng Diệp).
Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển linh, nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân loại thế kỷ này. Chúa vẫn cần những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời thế hệ này. Những ngôi sao ấy là chính chúng ta.
HIỂN LINH VÀ QUÀ TẶNG.
Những nỗ lực của các đạo sĩ không bị từ chối. Thánh Matthêu cho biết sau khi rời khỏi Giêrusalem thì bấy giờ “ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại”. Và sau khi đã gặp thấy Hài Nhi và thân mẫu là Maria, “họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Mt 2,11).
Các Giáo phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài nhi theo nghĩa tượng trưng : Vàng chỉ Hài nhi là Vua; nhũ hương chỉ thần tính, và mộc dược chỉ nhân tính. Có người lại giải thích ý nghĩa ba lễ vật đó như sau : Vàng ám chỉ đức tin, thể hiện qua thái độ phục bái suy tôn, nhũ hương ám chỉ đức cậy, thể hiện qua tâm tình cầu nguyện sốt sắng; mộc dược ám chỉ đức mến, thể hiện qua những hy sinh khiêm nhường phục vụ tha nhân.
Truyện : Món quà của Artaban.
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện, nhan đề The Other Wise Man (còn một nhà đạo sĩ khác nữa), kề về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Aáu Vương. Thế nhưng trên đường đến gặp ba vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc Artaban đã trở nên già nua và nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay, câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính cho ông biết đây chính là Vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt , Artaban cảm thấy trái tim như tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artaban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:”Này Artaban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ ta. Khi ta đói ông đã cho ta ăn, ta khát, ông đã cho ta uống, ta trần trụi ông đã mặc áo cho, ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 50-51).
Như thế, lễ Hiển linh nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị Vua trên các Vua. Và câu chuyện “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của các đạo sĩ, bởi vì món quà của chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, nhũ hương và mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artaban:”Hãy đến đây, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…(x. Mt 25,34-35).
Lễ Hiển linh thách thức tâm hồn chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta, nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Đức Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú hơn.
HIỂN LINH VÀ TÌM KIẾM. Đối với các nhà bác học Đông phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh thánh:”Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel”(Ds 24,17). Vì vậy, khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Giacóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình, cho thế giới u minh.
Ba nhà bác học đã đến từ quốc gia xa xôi, để thần phục Hài nhi Giêsu trong khi các đại giáo trưởng, các luật sĩ Do thái (Mt 2,4) họ có không phải chỉ một ngôi sao đêm lấp lánh trên nền trời, mà họ có cả một thư viện, đầy sách vở. Họ có Thánh kinh mà họ mang trên ngực, chít trên đầu. Họ am hiểu các tiên tri về Chúa Cứu thế. Họ biết nhưng họ không thấy, hay không muốn thấy. Chúa sinh ra cách đó có 8 cây số, các thiên thần ca hát trên không trung, các mục đồng lao nhao rủ nhau đi thờ lạy. Nói chung, cả dân tộc Do thái và nhân loại không nhìn thấy ngôi sao và cũng không để tâm nghiên cứu tìm hiểu.
Ngày nay cũng như cách nay hơn 2000 năm, mọi người phải cố gắng tìm ra Chúa. Phải cố gắng tìm gặp Chúa qua các biến cố của đời sống hôm nay. Hơn nữa, suốt đời sống đạo của chúng ta là một cuộc tìm kiếm Chúa không ngừng. Do đó, những ai tự mãn cho rằng mình đã gặp được Chúa qua cái nhãn hiệu công giáo bên ngoài, qua việc lãnh nhận các phép bí tích như một cái máy không hồn, qua việc học hỏi giáo lý sơ sài, để rồi không chịu khó nhờ vào các biến cố thực tế của đời sống để gặp Chúa, yêu Chúa qua anh em thì mãi mãi họ chẳng những không tìm thấy Ngài mà còn mất Ngài nữa.
Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta bên kẻ khác chỉ có nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc sống của chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.
Sách Tin mừng nói:”Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, dâng lễ vật, họ nhận được mộâng báo đừng trở lại với Hêrođê, họ đi qua đường khác, trở về xứ sở mình”(Mt 2,12). Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, đã được soi sáng, đã không trở về với Hêrôđê, tượng trưng cho dục vọng, tham ô, tội lỗi, mà đã qua đường khác, nghĩa là đã thay đổi nếp sống và trở về làm tông đồ. Làm chứng tá, rao giảng Tin mừng khắp nơi, không phải ở Đông phương mà ở cả Tây phương. Tục truyền rằng HiểnLinh ABCđã qua giảng đạo tận Tây Đức và hiện nay có mộ ba vị ấy ở thành Cologne, trên bờ sông Rhin ở Tây Đức.
Đó cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta cũng là dân ngoại, nhưng được Chúa hiển linh, được ngôi sao của Chúa hướng dẫn thì nay chúng ta cũng phải trở nên ngôi sao hướng dẫn kẻ khác đến với Chúa, bằng lời nói, bằng việc làm, và cả cuộc sống chúng ta.
Trong công đồng Vatican II, có một vị Hồng y da đen Phi châu đã nói với các nghị phụ khi bàn đến lòng đạo đức sa sút ở các nước Tây phương rằng, một ngày nào đó, Chúa sẽ dùng chúng tôi để rao giảng Tin mừng lại cho các nước Tây phương. Đó không phải là sự kiêu hãnh, mà là một bổn phận sau khi đã được ơn hiển linh, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2:”Nhờ Tin mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một bản thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô”(Ep 3,6) (Hồng Phúc).
Người ta nói : có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ti mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang…Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.
Trong ngày lễ Hiển linh, chúng ta cảm đội ơn Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại vì chúng ta một thời cũng là dân ngoại. Cái thái độ và mục đích của các đạo sĩ trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa khiến ta cần tìm hiểu và học hỏi. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Người chứ không giả hình như vua Hêrôđê. Hêrôđê khi nghe Đấng Cứu thế mới sinh thì bối rối sợ hãi vì sợ mất ngai vàng. Còn các nhà thông thái thì nhửng nhưng vì họ cậy họ có sẵn kho tàng Kinh thánh. Họ cho rằng nếu Chúa Cứu thế xuất hiện thì tự nhiên họ phải biết chứ không cần đi tìm kiếm. Cái thái độ tự mãn đó làm họ mù quáng không nhận ra ngôi sao lạ để đi tìm Chúa.
HiểnLinh ABCđã được hân hạnh đến triều bái Chúa Hài nhi, dâng lễ vật cho Ngài. Chúng ta cũng lưu ý rằng lúc HiểnLinh ABCđang thờ lạy và dâng lễ vật thì có Mẹ Maria ở đó. Chắc Mẹ Maria đã nhận lấy những lễ vật ấy và nói vài lời cảm ơn các ông thay cho Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Mẹ những tâm tình của chúng ta trong ngày lễ hôm nay :
“Lạy Mẹ, cuộc đời của con cũng là cuộc hành trình đi tìm Chúa. Aùnh sáng Chúa vẫn luôn dẫn lối chỉ đường cho con. Đó chính là những lời của Chúa trong Thánh Kinh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy của Giáo hội như một ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa, vì họ đã nỗ lực tìm kiếm. Con cũng muốn noi gương các vị đạo sĩ, luôn quên mình bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Con quyết tâm mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khó bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ làm ! Xin Mẹ thương giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con ra mù tối đến nỗi không gặp được Chúa như Hêrôđê và các luật sĩ xưa. Nhưng con chân thành chạy đến với Mẹ. Xin Mẹ thương giúp đỡ con”(Đan Vinh).
Bài Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết rằng khi Chúa Giêsu giáng sinh trong hang đá Belem HiểnLinh ABC303
Bài Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết rằng khi Chúa Giêsu giáng sinh trong hang đá Belem thì có một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.
Hẳn là đã có nhiều nguời thấy ánh sao lạ, nhưng tại sao chỉ có mấy đạo sĩ đã nhận ra đó là “tín hiệu” loan báo Chúa Cứu thế giáng sinh.
Con trẻ sinh ở Bêlem hẳn nhiều ngườt đã thấy hoặc đã biết, nhưng chỉ có mấy đạo sĩ nhận ra rằng trẻ sơ sinh đó chính là Con Thiên Chúa làm nguời. Bởi thế họ quỳ xuống dâng lễ vật và thờ lạy. Tại sao thế?
KẺ THẤY NGƯỜI KHÔNG
Đứng trước cùng một sự kiện mà có kẻ thấy người không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được sự khác biệt đó?
Nguyên nhân gây ra khác biệt là do một bên nhìn bằng con mắt thường một bên nhìn bằng đức tin. Bên nhìn bằng con mắt thường thì chỉ thấy những việc thông thường, còn bên nhìn bằng con mắt đức tin thì nhờ đức tin mà khám phá ra được thực chất và ý nghĩa ở bên trong.
Một buổi trưa hè nóng bức, thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giơ thấy được.
Sự vật thay đổi diện mạo và ý nghĩa tùy theo cách nhìn và mức độ quan sát của mỗi người. Cùng một giọt máu nếu nhìn bằng mắt thường thì chỉ thấy màu đỏ, còn quan sát bằng kính hiển vi thì có thể đếm được hồng cầu và bạch cầu. Đức tin cũng giống như một thứ kính hiển vi. Nó giúp cho người ta thấy rõ hơn, lớn hơn, thật hơn. Bởi thế đức tin là một sự khám phá, một cái nhìn tinh tế theo chiều sâu, một thứ ánh sáng cực mạnh dọi vào sự vật giúp ta nhìn thấy tận bên trong. Chính vì các đạo sĩ có lòng tin nên đã nhận ra Con Thiên Chúa trong khi những người khác chỉ thấy một trẻ thơ.
KINH NGHIỆM NỘI GIỚI
Như vậy thì đức tin có phải là cái gì hoàn toàn chủ quan không? Người tin có phải chỉ là một người bị ám ảnh bởi một đối tượng do chính mình tưởng tượng ra?
Đức tin thật ra không hoàn toàn khách quan mà cũng không hoàn toàn chủ quan.
Không hoàn toàn khách quan vì những điều người tín hữu tin không thế cân, đong, đo, đếm được. Không thế chứng minh bằng lý luận như một bài toán hay một định luật khoa học, không thế viết thành công thức đưa vào máy điện toán để kiểm chứng. Tin là một xác tín cá nhân chỉ chắc chắn cho chính người tin.
Nhưng đức tin cũng không hoàn toàn chủ quan vì không phải chỉ có một người tin nhưng hằng bao nhiêu tỷ người thuộc các thế hệ cùng tạin. Và những người tin này đều lành mạnh, tỉnh táo, sáng suốt, trong đó có biết bao nhiêu nhà bác học hàng đầu của thế giới. Ở thế kỷ XIX, trong số 432 nhà bác học lớn đã có tới 357 Kitô hữu.
Thực ra đức tin là một thứ kinh nghiệm nội giới độc đáo có tính riêng tư. Kinh nghiệm này, mình thấy rõ, thấy thật, mình cảm nghiệm được, nhưng hầu như không thế truyền đạt giải thích cho người khác, chỉ mình mình biết. Trong lãnh vực tôn giáo, mỗi người phải cảm nghiệm cho mình bằng tâm hồn. Tự chúng, những thực tại tôn giáo không thế chứng minh được, lý lẽ nào cũng chỉ là gợi ý có tính thuyết phục tương đối. Vì thế mới cần đến chứng tá đời sống. Chính đời sống sẽ biện minh cho những gì không thế giải trình bằng lý luận.
Đức tin cũng giống như cảm hứng và cái nhìn của nghệ sĩ. Nghệ sĩ hơn người ở chỗ cảm thấy cái đẹp, nhìn thấy cái đẹp, nhận diện được cái đẹp ở những nơi, vào những lúc mà người thường chẳng thấy gì cả. Không thể nói người nghệ sĩ bịa đặt ra một cái gì thực ra không có, nhưng phải nhìn nhận rằng tâm hồn không có tính nghệ sĩ là tâm hồn thiếu nhạy bén. Người có đức tin giống nghệ sĩ ở chỗ tâm hồn cởi mở, nhạy cảm nên nắm bắt, lĩnh hội được cái vô hình. Tâm hồn người tín hữu bắt trúng tần số.
Toliver một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa có lần gặp hai viên chức cao cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành. Một trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện. Khi qua cơn nguy biến, đứa bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói:
– Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải không ba?
LÒNG THÀNH VÀ ƠN THÁNH
Bởi đâu người có đức tin lại có một cái nhìn thấu suốt như vậy? Có điều kiện nào để con người có thể có được một đức tin trong sáng như thế hay không?
Thưa có. Đó là sự thành tâm thiện chí, sự ngay thật khiêm tốn trong tâm hồn. Thiếu những điều kiện đó đức tin khó có thể nảy sinh.
Tuy nhiên dầu có tất cả những điều đó cũng vẫn chưa đủ. Còn cần có tác động của Thiên Chúa trong tâm hồn. Nguồn mạch chính của đức tin là ơn Chúa. Đức tin trước hết là một hồng ân.
Chúng ta tin. Nhưng chính Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể tin. Chính Ngài mở lòng mở trí chúng ta để chúng ta thấy và hiểu. Đức tin là một cuộc hiển linh: Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta được thấy Ngài. Chính Ngài rọi ánh sáng vào lòng chúng ta và rọi ánh sáng trên mọi sự để chúng ta có thể thấy. Lời thánh vịnh 39 thật có ý nghĩa: “Trong ánh sáng của Chúa chúng con nhìn thấy ánh sáng”. Mọi ánh sáng đều bắt ngưồn từ nơi Thiên Chúa.
Như vậy người tín hữu là người đã nhận được ánh sáng của Thiên Chúa và nhìn thấy mọi sự trong và nhờ ánh sáng của Thiên Chúa.
Cũng như các đạo sĩ, người tín hữu đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí, đã bắt được ánh sáng của Thiên Chúa, đã được đưa vào thế giới mới của Ngài. Phải gọi ơn này là gì? Gọi là ơn trời biển thì cũng chưa nói được gì về cái phúc của mình. Hãy tri ân và đừng bao giờ coi thường phúc đó. Trái lại hãy sống trọn niềm tin của mình, thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống giống như các đạo sĩ. Sau khi khám phá ra Chúa, cuộc đời họ đã biến đổi hoàn toàn và cuộc sống của có thật nhiều niềm vui.
Có một cậu bé muốn đi gặp Chúa Giêsu. Để chuẩn bị cho cuộc hành trình, cậu bỏ vào giỏ mấy chiếc bánh và hai chai sữa tươi. Và cậu bé lên đường, lòng vui tươi hớn hở. Mới đi được mấy dãy phố, cậu chợt thấy một bà cụ già đang ngồi trên một chiếc ghế đá ở công viên. Cậu thấy mỏi chân nên quyết định ngồi nghỉ một chút bên cạnh bà lão. Cậu lấy một chai sữa tươi ra, định uống cho đỡ khát.
Nhưng nhìn sang, thấy bà cụ run lập cập, có lẽ vì đói quá chăng. Cậu liền lấy bánh lẫn sữa ra mời bà. Bà cụ nhận tất cả với một nụ cười cảm động và biết ơn. Ôi nụ cười mới đẹp làm sao? Thế là hai bà cháu mải mê ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ với nhau mãi.
Buổi chiều, khi cậu bé trở về nhà, bà mẹ thấy con rất vui liền hỏi:
– Hôm nay con có chuyện gì mà vui thế?
Cậu hớn hớ khoe:
– Mẹ có ngờ được không? Hôm nay con đã cùng ngồi ăn trưa với Chúa Giêsu. Người có nụ cười thật đễ thương mẹ ạ!
Trong khi đó, bà lão cũng chậm rãi trở về nhà, lòng chan chứa một niềm bình an. Cậu con trai lớn của bà hỏi thăm ngay từ cửa:
– Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ có vẻ vui thế nhỉ?
Bà cụ móm mém trả lời:
– Này, con có ngờ được không? Hôm nay mẹ đã cùng được ngồi ăn trưa với đức Giêsu. Người trẻ hơn mẹ tưởng nhiều con ạ!
Xin chúc các bạn một năm mới tràn đầy hồng ân và luôn được gặp Chúa trong cuộc đời. Amen. ---------------- (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
Tháng 8 năm 2005 tại Cologne, là ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 20, với chủ đề “Chúng tôi đến HiểnLinh ABC304
Tháng 8 năm 2005 tại Cologne, là ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 20, với chủ đề “Chúng tôi đến Bái lạy Người “ (Mt 2, 2). Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II muốn nhắn gửi các Bạn trẻ từ khắp các châu lục thể hiện lại trên Bình diện tinh thần hành trình của các vị đạo sĩ, để gặp gỡ Đấng Mêsia của mọi dân tộc.
Thật vậy, ánh sáng của Chúa Kitô đã khai mở tâm trí các đạo sĩ. Thánh sử thuật lại : “Họ ra đi” (Mt 2, 9), can đảm dấn Bước theo những Bước đi lạ lẫm, thực hiện một cuộc hành trình dài và khó khăn. Họ đã không ngần ngại Bỏ hết mọi sự để lần theo ngôi sao mà họ đã thấy mọc lên ở phương Đông (Mt 2, 2). Noi gương các đạo sĩ, người trẻ chúng con sẵn sàng thực hiện cuộc “hành trình” đến Cologne từ mọi miền trên thế giới. Điều quan trọng đối với chúng con không chỉ là Bận tâm đến việc tổ chức Bên ngoài cho ngày GTTG, nhưng trước hết phải chăm lo cho việc chuẩn Bị thiêng liêng, trong Bầu khí đức tin và lắng nghe Lời Chúa (Sứ điệp nhân ngày GTTG lần thứ 20, số 1).
Chủ đề trên cũng chính là Lời Chúa muốn nói với chúng ta
Gặp gỡ Chúa qua những Biến cố lịch sứ dân tộc
Năm 538 trước Công Nguyên, dân Do Thái lưu đày Bắt đầu trở về quê hương, có người ra đi, nhưng cũng có kẻ còn ở lại, nên Tiên tri Isaia loan Báo niềm hy vọng một ngày nào đó, dân Chúa sẽ gặp lại nhau trên quê hương. Ngày đó Gierusalem là trung tâm, và là thành Thánh sẽ chiếu sáng khắp mặt đất (Is 60, 1-6). Những tiên Báo của vị ngôn sứ trong thời lưu đày đã trở thành hiện thực và rõ nét khi Chúa Giêsu xuống thế làm người. Ngài đến và hiện diện cùng với dân tọc Israel. Trong Đức Giêsu Kitô, ánh sáng muôn đời, tất cả các dân tộc đều được mời gọi hợp thành một Hội Thánh duy nhất, làm thành một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô. Để những ai ra sức kiếm tìm gặp Ngài sẽ đón nhận được ơn cứu độ (Eph 3, 2-6 ).
Chúng ta được sinh ra có tính xã hội, sống trong một gia đình, một dân tộc. Bình thường chẳng ai muốn tách mình ra khỏi đám đông, để sống lẻ loi “như một hòn đảo”. Chính vì thế lịch sử con người luôn gắn liền lịch sử dân tộc. Hoàn cảnh xã hội làm ảnh hưởng đến hoàn cảnh của một cá nhân. Chúa Giêsu cũng đã sống trong những nghịch cảnh của cuộc đời. Điều mà chúng ta dễ thấy nhất là Thiên Chúa thường làm đảo lộn những suy nghĩ, tính toán của con người. Những gì mà con người tưởng là khôn ngoan, thông suốt, thực ra chỉ là tối tăm, mê muội. Hêrôđê là người gian manh, xảo quyệt, đã gài Bẫy, lừa dối các đạo sĩ, nói là cùng đến “thờ lạy Chúa”, nhưng thực ra là để tìm cách giết Người. Những mưu mánh ấy Bị thất Bại vì các đạo sĩ “ra về Bằng con đường khác“. Vì sợ mất ngai Vua, nên Herôđê đã tính toán kỹ lưỡng, để sát hại Chúa Giêsu, làm cho Bao nhiêu trẻ thơ Bị chết oan. Cuối cùng, khi Chúa Giêsu làm ”Vua”, thì Hêrôđê chẳng còn gì để mất nữa, ông đã chết.
Dù thế nào đi chăng nữa, chương trình của Thiên Chúa không thể Bị “Bẻ gãy“ Bởi sức mạnh của con người. Trái lại vẫn luôn được thực hiện để chúng ta được sống trong niềm tin tưởng và cậy trông.
Gặp gỡ Chúa qua những dấu chỉ
Người xưa thường xem những vĩ nhân khi sinh ra thì gắn liền với một ngôi sao. Các đạo sĩ đã liên kết lời trong sách Dân số: ”Một ngôi sao mọc lên từ Giacop, một Vương trượng xuất hiện từ Israel“ (Ds 24, 17) nên khi thấy “ngôi sao lạ”, họ đã không ngần ngại, dù gặp Biết Bao thử thách cam go, có lúc tưởng chừng như vô vọng. Nhưng với lòng tin, sự nhẫn nại kiên trì, họ đã đạt được mục đích, gặp được Chúa Giêsu “Đấng Cứu Thế”, “Vua Bình an”.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta trải dài những Biến cố lớn nhỏ, mỗi một Biến cố là những “ngôi sao“ trong Bầu trời của kiếp người. Có “ngôi sao” trong màn đêm tăm tối của Bơ vơ, lạc lõng, làm ta dễ cảm nhận được cảnh đơn hèn trong máng cỏ Belem năm xưa. Có “ngôi sao“ nhìn mãi mà chẳng thấy trên Bầu trời của tâm hồn chán chường, thất vọng, đau khổ, sẽ làm ta nhận ra ánh mắt yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Một ông già nổi tiếng là hiểu rộng. Ông học hành rất ít nhưng lại có kiến thức uyên Bác. Nhiều người tới thăm ông và Bàn luận với ông nhiều vấn đề cao xa. Trong số đó, có một giáo sư nổi tiếng, cũng ngạc nhiên và hỏi ông:
– Ông lấy những hiểu Biết đó ở đâu ra vậy ? Tôi không thấy cuốn sách nào viết những điều như thế.
Ông già đáp :
– Hàng ngày tôi đọc Ba cuốn sách mà Bất cứ ai cũng có thể đọc. Cuốn thứ nhất là những việc Chúa làm quanh tôi. Cuốn thứ hai là lương tâm của tôi. Cuốn thứ Ba là Kinh Thánh.
Đúng như ông già nói, những điều kỳ diệu luôn có sẵn quanh ta, ai cũng có thể nhìn, ai cũng có thể nghe và nói về những điều kỳ lạ đó. Đó chính là những “ngôi sao” dẫn đường cho chúng ta. Nếu không thấy và không nghe, là tại ta không cố gắng suy nghĩ, tìm tòi. Chúa Giêsu nhiều lần đã phàn nàn về các môn đệ : “ Sao các con tối dạ thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe…”
Gặp gỡ Chúa sẽ đem lại một sức sống mới
Các đạo sĩ gặp gỡ Chúa không chỉ Bằng ánh mắt, mà Bằng cả con người. Khi họ dâng Chúa vàng, họ đã “thờ lạy Người“ cách đích thực, họ tuyên xưng Chúa là Chúa tể khi dâng nhũ hương, và khi dâng mộc dược, họ hiểu rằng Chúa Giêsu sẽ đổ máu mình ra để hoà giải nhân loại với Chúa Cha. Hơn thế nữa, không chỉ là những giây phút hạnh phúc Bên máng cỏ cùng với Đức Mẹ và Thánh Giuse, mà còn là từ nay họ trở nên một con người mới, một cuộc sống mới với “con đường mới“.
Khi được Báo mộng “đừng trở lại với Hêrôđê nữa, tìm đường khác mà về”, họ hiểu rằng, cuộc sống trần thế lắm những gian nguy và hiểm độc, con đường tìm và sống với Đức Kitô luôn đầy dẫy những cam go thử thách ở phía trước, cuộc đời con người như những con thuyền luôn Bơi ngược dòng, muốn tiến lên cần phải trả một giá thật đắt, cần phãi được đánh đổi Bằng những hy sinh và tự huỷ.
Bài học của các đạo sĩ vẫn hằng nhắc nhở mỗi người chúng ta trong cuộc sống từng ngày. Thiên Chúa luôn hiện diện, và muốn cho mọi người, không phân Biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, ai cũng có thể đến gặp Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Cũng như các đạo sĩ, con đường còn đầy chông gai, thử thách.
Tất cả những khó khăn, những nghiệt ngã trên đường tới “hang lừa nhỏ Bé Belem” hôm nay chính là gia đình, giáo xứ, xã hội, trong mỗi hoàn cảnh sống. Dù ở nơi đâu, dù thời gian nào, chúng ta vẫn phải hăng say dấn thân trên một hành trình, hành trình để tìm gặp Chúa, “gặp để thờ lạy, chứ không để giết“, Bởi có khi, ta đã “giết Chúa” nơi tha nhân, nơi những người nghèo… Hãy Bước đi với những Bước chân tình yêu, và làm chứng cho tình yêu. Làm sao mỗi người là một “ánh sao” toả sáng Tin Mừng của Chúa trong Bầu trời thế giới hôm nay.
Lễ hiển linh là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa thường tỏ mình HiểnLinh ABC305
Lễ hiển linh là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa thường tỏ mình qua bão tố ầm vang hoặc sấm chớp chói lòa, nhưng đến thời Tân ước, Thiên Chúa lại tỏ mình dưới dạng một hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ.
Khi giáng sinh làm người, đầu tiên Ngài tỏ mình cho các chú mục đồng ở Belem, rồi tỏ mình ra cho cụ già Simêon, cho bà Anna trong đền thờ, và Chúa còn tiếp tục tỏ mình ra dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta thấy, đối với các chú mục đồng, những người ít học, thì Chúa sai các thiên thần đến báo tin, để họ nhận biết Đấng cứu độ. Còn đối với các nhà trí thức, thì Chúa dùng ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối. Nhờ ơn Chúa soi dẫn, các nhà đạo sĩ ở Phương đông đã cất công lên đường tìm kiếm vị Vua mới sinh. Mặc dù Chúa tỏ mình ra với nhiều hình thức như thế, ấy thế mà có những người lại không gặp được Chúa.
Chẳng hạn như: các đại giáo trưởng, các luật sĩ ở Giêrusalem, những người này họ am tường về Thánh Kinh. Họ trả lời cho vua Hêrôđê, cho Ba đạo sĩ rõ ràng Đấng Cứu Thế sinh tại Bê-lem. Nhưng họ không lên đường, họ chỉ biết Chúa trên lý thuyết, trong sách vở mà không hành động, thành ra họ không gặp được Chúa.
Vua Hê-rô-đê, bạo vương này khi hay tin Hài Nhi Giêsu sẽ là thủ lãnh dân Do thái, ông lo sợ lung lay đến ngai vàng của mình, nên ông muốn tìm Chúa không phải để triều bái, nhưng là để sát hại. Vì thế, ông không gặp được Chúa.
Cho nên, không phải cứ có đạo là gặp được Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải nỗ lực học hỏi Thánh kinh, suy niệm Lời Chúa mỗi ngày.
Cũng như ba nhà đạo sĩ năm xưa, khi ngôi sao lịm tắt, các ông đã vào Giêrusalem hỏi thăm. Nhờ lời Kinh thánh chỉ điểm, các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng gặp được vua người Do thái mới sinh.
Có thể nói, Ba đạo sĩ là những người gương mẫu trong việc đi tìm kiếm Chúa, bởi các Ngài có tâm hồn thiện chí. Là những tâm hồn thiện chí, luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm Chúa. Ba đạo sĩ không tìm kiếm Chúa sinh ra không khách sạn giàu sang, nhưng tìm gặp Chúa nơi cánh đồng Belem, sinh ra trong hang bò lừa nghèo khó. Ba đạo sĩ không đi tìm Chúa ở thành Giêrusalem nguy nga tráng lệ, nhưng họ tìm thấy Chúa nằm trong máng cỏ thiếu thốn mọi tiện nghi.
Anh chị em thân mến,
Ba đạo sĩ không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Ngày nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy là những ánh sao, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Ngài.
Nếu nhân loại hôm nay còn đi trong bóng tối của gian dối, hận thù, thiếu vắng tình thương, Thì chúng ta hãy là ánh sao sáng trong đời sống công bình, chiếu sáng đức thương yêu và toả ánh sáng ấm áp tình người.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, bình an và hy vọng.
Qua những làn ánh sáng tình thương, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên Chúa là ánh sáng chân thật. Ba đạo sĩ sau khi được gặp Hài nhi Giêsu, họ được mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, mà qua đường mới trở về xứ sở mình.
Ước mong sao cuộc đời chúng ta sau khi đã biết, đã tin, đã gặp được Chúa rồi, thì cần phải từ bỏ đường xưa lối cũ, mà đi vào con đường mới. Con đường mới được trải bằng tâm tình khiêm tốn, yêu thương. Con đường mới của hi sinh phục vụ. Và con đường mới siêng năng đi tham dự thánh lễ và tham gia các việc đạo đức.
Ngày xưa, Ba đạo sĩ khi gặp được Chúa, họ đã sụp lạy và dâng tiến lễ vật: Vàng, Nhủ Hương và mộc Dược. Thái độ sụp lạy đó, là thái độ của đức tin. Họ tuyên xưng rằng: Hài nhi bé nhỏ nằm đó, không phải là người bình thường, mà là Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta.
Hôm nay đến với Chúa, chúng ta có mang lễ vật gì mừng sinh nhật Chúa không?. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta dâng cho Ngài những lễ vật nặng giá trị vật chất, nhưng Chúa muốn chúng ta dâng cho Ngài tấm lòng Vàng nồng nàn tình mến, những hương kinh nguyện cầu thiết tha, và mộc dược của những hi sinh đau khổ…. Từng ngày. Cùng với đức tin của Ba đạo sĩ năm xưa, giờ đây kính mời anh chị em cùng đứng lên tuyên xưng đức tin. Amen.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Belem, những người đầu tiên được đón tiếp Chúa là Đức Maria, Thánh HiểnLinh ABC306
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Belem, những người đầu tiên được đón tiếp Chúa là Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng chăn chiên. Họ đều là những người Do Thái. Tuy thế, ơn Cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại không chỉ dành cho người Do Thái, mà được dành cho tất cả nhân loại trên thế giới. Cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông đã nói lên điều đó. Chính vì vậy mà lễ này được gọi là lễ Hiển Linh, tức là Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân. Đây vừa là nỗ lực tìm kiếm của các đạo sĩ, vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa gửi đến các ông để các ông đến tôn nhận vương quyền của Đấng Cứu thế. Ngôi sao lạ chính là biểu tượng của lời mời gọi đó.
Nếu trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa thường hiển linh qua bão tố ầm vang hoặc sấm chớp chói lòa, thì đến thời mà tác giả thư Do Thái gọi là “thời sau hết” này, Thiên Chúa lại tỏ mình dưới dạng một hài nhi thơ bé mới sinh, con của một gia đình nghèo nàn không tìm được quán trọ. Qua Hài Nhi Giêsu ở hang đá Belem, Thiên Chúa đã hạ cố thân hành đến gặp gỡ con người. Được thôi thúc bởi ơn trên, các nhà đạo sĩ đã cất công lên đường để tìm kiếm vị Vua mới sinh. Nhờ ánh sao chỉ đường, họ đã vượt đường xa dặm thẳm để đến với Belem để thờ lạy Hài Nhi mới sinh. Cũng nhờ ánh sao, các ông đã “nhìn thấy” nơi Hài Nhi này là Đấng Cứu độ. Cuộc gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu đã làm họ thỏa mãn và quên hết mệt mỏi của chặng đường dài.
Cuộc tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ phần nào phác họa đời sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ tin là một cuộc lên đường tìm kiếm liên lỉ, là một chuỗi liên tục những khám phá và những bất ngờ. Những ai nỗ lực tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Ngài. Đức tin trước hết đòi chúng ta phải biết chấp nhận những hy sinh. Các nhà đạo sĩ là những người trí thức uyên thâm. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương lên đường vì nhận ra thông điệp của ngôi sao lạ. Trong đời sống đức tin, muốn được gặp Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lối sống không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Khi các nhà đạo sĩ không còn nhìn thấy ngôi sao, họ không nản lòng, nhưng kiên trì tìm hiểu để thấy hướng đi cho mình. Mục đích được gặp vị Vua mới sinh đã cho các ông quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Các ông nêu gương cho chúng ta về sự kiên nhẫn và hy vọng. Quả thế, trong hành trình tìm kiếm Chúa, có những lúc chúng ta cảm thấy nản chí vì những thử thách gian nan. Sự kiên trì và cậy trông chắc chắn sẽ giúp ta tìm thấy Chúa và gặp gỡ Ngài.
Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta trong Kinh Thánh. Nội dung Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người. Muốn tìm kiếm Chúa, ta phải chuyên tâm học hỏi và suy niệm Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Khi các nhà đạo sĩ cảm thấy đứng trước ngõ cụt của hành trình tìm kiếm vị Vua mới sinh, các ông đã vào Giêrusalem. Ở đây, các chuyên gia đã khảo cứu Kinh Thánh và tìm được lời giải đáp. Nhờ hướng dẫn trong lời ngôn sứ Mika (x. Mk 5,1), các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng đạt được điều nguyện ước của mình. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta trên bước đường đời. Chuyên tâm suy niệm và sống Lời Chúa sẽ giúp ta sống thánh thiện trọn lành.
Thiên Chúa là Chúa của muôn loài. Ơn Cứu độ nhờ Đức Giêsu được ban cho hết mọi người, không có ai bị loại trừ. Mọi người đều được quyền đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu. Mọi người đều có quyền được tiếp nhận vào gia đình của Thiên Chúa. Nơi người Do Thái xưa kia cũng như nơi số đông người Kitô hữu hôm nay, vẫn tồn tại một quan niệm lệch lạc về giá trị của ơn Cứu độ. Họ nghĩ rằng ơn Cứu độ chỉ dành cho những người ưu tuyển. Vì thế mà họ coi thường những người không cùng tôn giáo với mình. Qua việc Đức Giêsu tỏ mình cho ba nhà đạo sĩ, Thiên Chúa khẳng định tính chất hoàn vũ của ơn Cứu độ. Điều này được diễn tả trong Bài đọc I. Ngôn sứ Isaia được chiêm ngưỡng ngày huy hoàng của Giêrusalem. Ngày ấy, người khắp nơi sẽ tuôn về Thánh Đô. Các dân tộc, các nền văn hóa đều quy hướng về Chúa, các sản phẩm tượng trưng cho sự phong phú đang dạng của các dân tộc đều được dâng cho Chúa. Điều mà ngôn sứ Isaia thấy, phần nào đã được thực hiện trong thời đại của Giáo Hội hôm nay.
Quả vậy, từ mọi dân tộc, mọi nền văn hóa, danh Thiên Chúa được tôn vinh ca ngợi. Việc lễ Giáng Sinh được cử hành long trọng trên toàn thế giới đã cho thấy sự huy hoàng mà ngôn sứ Isaia đã thị kiến: “Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi (Giêrusalem)… chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi…”. Khắp nơi trên toàn thế giới, các Kitô hữu trong những lễ nghi phụng vụ đều dâng lên Chúa những sản phẩm quý giá của địa phương, để tôn nhận Ngài làm Đấng Sáng Tạo và Chúa tể muôn loài. Việc tôn thờ và dâng tiến của lễ được ba nhà đạo sĩ thực hiện năm xưa, như một nghi lễ mở màn để dẫn tới phụng vụ thánh của ngày hôm nay trên toàn thế giới. Trong Mùa Giáng Sinh, giống như các đạo sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy vị Vua mới sinh và dâng cho Người tấm lòng đơn sơ chân thành của chúng ta. Hãy tôn nhận Người là Chúa của chúng ta, để rồi việc gặp gỡ Chúa trở nên mối ưu tiên hàng đầu, và như thế, những bận rộn lo toan cuộc đời trần thế không làm chúng ta nản chí và ngã lòng.
Sau khi gặp gỡ và thờ lạy Chúa Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã “đi lối khác mà về xứ mình”. “Đi lối khác” là kết quả của cuộc gặp gỡ với vị Vua mới sinh. “Đi lối khác” cũng là để tránh gặp Hêrôđê đang manh tâm tìm cách xuyên tạc và phủ nhận sự thật. Người tín hữu, sau khi mừng lễ Giáng Sinh cũng cần đi theo ngã rẽ mới, đoạn tuyệt với lối sống cũ còn đầy khuyết điểm, gian tham và ích kỷ. Đó chính là một cuộc lên đường mới để sống đức tin, đồng thời loan báo Đức Giêsu cho mọi người của thời đại chúng ta.
Hôm nay, chúng ta long trọng cử hành lễ Hiển Linh. Từ cổ xưa, lễ này được gọi là “lễ Ánh Sáng” HiểnLinh ABC307
Hôm nay, chúng ta long trọng cử hành lễ Hiển Linh. Từ cổ xưa, lễ này được gọi là “lễ Ánh Sáng” hay “Lễ Ba Vua;” nay gọi là lễ Hiển Linh trong tiếng Hy Lạp là Epifania, có nghĩa là sự tỏ mình, sự bày tỏ vinh quang. Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại nhờ Con Chúa làm người. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và là Ánh Sáng cho muôn dân.
Chúng ta bám sát trình thuật của thánh Mátthêu (2,1-12) về Ba Đạo Sỹ đến Bêlem triều yết Hài Nhi Giêsu, qua đó, chúng ta tìm thấy chỉ dẫn thực hành cho đời sống chúng ta.
Trong trình thuật này, yếu tố lịch sử được hòa trộn với những yếu tố thần học và biểu tượng. Hay nói cách khác, tác giả Tin Mừng không chỉ muốn trình bày những sự kiện lịch sử đã xảy ra, nhưng còn muốn gửi gắm những sứ điệp, những giáo huấn qua những nhân vật liên quan để người đọc noi theo, hoặc để xa tránh. Theo đó, có ba phản ứng khác nhau nổi lên trước thông tin về Hài Nhi Giêsu sinh ra: đó là phản ứng của các Đạo Sỹ, phản ứng của Hêrôđê và phản ứng của các thượng tế và luật sỹ. Chúng ta hãy bắt đầu từ những phản ứng tiêu cực, là những phản ứng mà chúng ta cần xa tránh.
1- Thái độ của Hêrôđê
Trước hết, đó là thái độ của Hêrôđê. Khi hay tin về việc con vua Đavít vừa mới sinh ra, ông ta “liền rất bối rối.” Bởi vì, ông là bạo Chúa, đầy thủ đoạn, độc ác và độc tài, ông không muốn ai có thể chiếm đoạt vương quyền của mình. Nên ông đã triệu tập công nghị với các thượng tế và luật sỹ không phải để biết chân lý nhưng để nắm tình hình. Hêrôđê cũng bí mật vời các nhà chiêm tính đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện và phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2,7-9). Thực ra ông muốn biết không phải để đến thờ lạy Đấng Cứu Thế, nhưng để bày mưu tính kế giết hại Người. Giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của mình, Hêrôđê đã đương nhiên chọn ý mình. Nên ông đã thẳng tay làm những gì ông muốn và dẹp bỏ mọi nguy cơ đe dọa đến vương quyền của mình. Vì thế, sau khi không thấy các Đạo Sỹ trở lại trình báo, ông nổi cơn thịnh nộ và sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi các nhà chiêm tinh (x. Mt 2,16).
Khi làm như thế có lẽ Hêrôđê nghĩ rằng ông đang chu toàn bổn phận của mình đối với thiện ích chung là bảo vệ quốc gia trong trật tự và bình an.
Hêrôđê là đại diện cho những kẻ độc tài, độc ác trên trần gian, những kẻ chỉ biết lo bảo vệ chính mình và bằng mọi giá để cũng cố quyền lực, hay lợi ích nhóm, bất chấp đạo đức, nhân phẩm và sự sống của người khác. Từ cái nhìn này, thế giới hôm nay và xã hội chúng ta đang sống cũng đầy dẫy những tên Hêrôđê như thế. Họ nhân danh thiện ích chung, nhân danh tổ quốc, và nhiều khi, còn nhân danh Thiên Chúa, để lên án và giết chết những người vô tội. Chúng ta hãy nghĩ đến biết bao thai nhi bị giết khi chưa được chào đời; những người bị bắt và phải ở tù vì đã dám lên tiếng chống lại bất công xã hội và đấu tranh cho sự thật và công lý. Chúng ta hãy nghĩ đến những kitô hữu, những linh mục, những nữ tu trên thế giới đang bị bách hại và giết chết vì dám đến truyền giáo ở những nước Hồi Giáo. Họ là những nạn nhân của Hêrôđê thời nay. Thái độ của Hêrôđê là thái độ chúng ta cần tránh.
2- Thái độ của các thượng tế và luật sỹ
Giờ đây chúng ta chuyển sang thái độ của các thượng tế và luật sỹ. Họ là những người thông thạo Kinh Thánh, nắm vững lề luật và hiểu biết các lời ngôn sứ về Đấng Cứu Thế mà Ítraen từ lâu trông đợi. Khi được Hêrôđê và các Đạo Sỹ hỏi về Đấng Messia sinh ra ở đâu, họ nhanh chóng đưa ra câu trả lời rất đúng. Họ biết rõ Đấng Messia đã sinh ra ở đâu; họ cũng có thể nói với người khác; nhưng họ không thay đổi. Họ không lên đường. Họ hành động như những bảng chỉ đường: chỉ đường để đi nhưng lại nằm bất động bên đường. Họ không chạy tới Bêlêm, để thờ lại Đấng Messia. Họ chỉ thích bám víu vào sự ổn định và an toàn trong đền thờ, tại Giêrusalem, bởi vì ở đó họ được dân chúng kính trọng, được hưởng bổng lộc từ bàn thờ… Nhưng thật nghịch lý, họ đang xa cách Thiên Chúa, không được ơn cứu độ.
Nên thái độ của của những thượng tế và luật sỹ khiến chúng ta một cách nghiêm túc xét mình lại. Bởi lẽ, rất nhiều lần, chúng ta biết rõ những điều Chúa muốn chúng ta làm, những điều cần thiết để theo Chúa và nếu cần, chúng ta có thể nói rất hay, giải thích rất rõ cho người khác, nhưng chúng ta lại thiếu sự can đảm và tính triệt để sống và thực hành một cách nghiệm túc.
Cũng như các thượng tế và luật sỹ, chúng ta thích bám víu vào cơ cấu ổn định và an toàn của truyền thống, văn hóa và thói quen, nhưng ngại thay đổi, không muốn ra đi và ra ngoài để gặp gỡ người khác, đặc biệt là chúng ta thường ngại lên đường để tìm kiếm Chúa và truyền giáo cho nhưng người xung quanh.
3- Thái độ của các Đạo Sỹ
Cuối cùng chúng ta hãy đến với những nhân vật chính của thánh lễ, đó là Ba Đạo Sỹ. Họ là những những nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông, chính xác là ở Ba Tư. Họ vốn là lớp người tri thức của thời đại, thường thuộc hành tư tế và làm cố vấn cho các vua. Họ đã dùng sự hiểu biết và nhạy bén của mình để tìm hiểu về những dấu lạ loan báo Đấng Cứu Thế đã xuất hiện. Họ lên đường theo ánh sao dẫn đường để tìm kiếm, chiêm bái Người. Hành trình của họ rất dài với những khó khăn và trắc trở, họ đi bằng lạc đà chứ không phải bằng máy bay như ngày hôm nay. Họ không có GPS để dẫn đường, chỉ lần theo ánh sao và nhiều lúc lạc đường, phải hỏi người này người kia… Nhưng bất chấp mọi khó khăn và nguy hiểm, cuối cùng họ đã đến tại nơi Hài Nhi ở. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến Người.
Các Giáo Phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài Nhi theo nghĩa tượng trưng: Vàng chỉ Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ Thiên Chúa; mộc dược chỉ nhân tính hay cái chết của Người. Ngày nay, có một giải thích khác, Vàng tượng trưng cho Đức Tin; nhũ hương tượng trưng cho Đức Cậy, mộc dược tượng trưng cho Đức Mến của Ba Đạo Sỹ và của mỗi người dâng Chúa.
Như thế, các Đạo Sỹ dạy cho chúng ta những bài học không phải bằng lời nói nhưng bằng việc làm, không phải bằng lý thuyết nhưng gương sống. Họ không nấn ná, chần chừ. Họ đã lên đường. Họ bỏ lại đằng sau sự an toàn của môi trường thân quen, nơi họ được nhiều người biết đến và được kính trọng. Khi “họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” Đây là lời minh chứng về sự thay đổi đời sống sau khi họ đã gặp Chúa Giêsu, khi họ thay đổi con đường cũ họ đi.
Cuộc gặp gỡ nào với Chúa Kitô đều mang lại sự thay đổi, một sự thay đổi thói quen và lối sống. Bởi thế, trong những ngày Giáng Sinh này, chúng ta được mời gọi hãy đến gặp gỡ Chúa qua bí tích Giải Tội và Thánh Thể, để chúng ta cũng được thay đổi và biến đổi đời sống của mình nên tốt hơn, thánh thiện hơn. Amen!
Lễ Hiển Linh là ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, cho mọi người.Dõi theo ánh sao lạ dẫn HiểnLinh ABC308
Lễ Hiển Linh là ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, cho mọi người.Dõi theo ánh sao lạ dẫn đường,ba nhà Đạo sĩ đã tới được Bêlem để cung chiêm Hài Đồng Giêsu. Họ mang theo các phẩm vật địa phương như Vàng,Nhũ hương và Mộc dược. Vàng, Nhũ hương và Mộc dược là những tặng phẩm quý giá các nhà Đạo sĩ đã dâng cho Chúa Giêsu. Gặp được Hài Đồng Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, họ đã không trở về đường cũ, họ đã không gặp Hêrôđê nữa vì ông Vua độc ác này đang âm mưu giết Chúa Giêsu.Ba nhà Đạo sĩ đã đi đường khác để trở về quê hương của mình.
Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay cho hay, ánh sao lạ chính là người dẫn đường lặng lẽ, âm thầm, nhẹ nhàng đưa từng chặng, từng bước đường, từng bước chân của ba nhà Đạo sĩ tới gặp Chúa Giêsu nơi Hang đá Bêlem. Ba nhà Đạo sĩ cứ dõi theo ánh sao khi ẩn khi hiện, khi tỏ, khi mờ. Ánh sao lạ này không thu hút ba nhà Đạo sĩ bằng những tiếng gọi, tiếng khua vang, tiếng to, tiếng nhỏ, nhưng cái lạ lùng là ngôi sao dẫn đường chỉ âm thầm, im lặng chiếu sáng bước đi, rọi soi những chặng đường để ba nhà Đạo sĩ có thể tới ngay Hang đá máng cỏ Bêlem để gặp Hài Nhi Giêsu. Cuộc hành trình của ba nhà Đạo sĩ có lắm truân chuyên, có nhiều thử thách bởi ngôi sao dẫn đường có lúc khuất đi, nên ba nhà Đạo sĩ đành dò hỏi những người ở trong thành, những người giỏi chiêm tinh đến nỗi khi nghe có một Hài Nhi Giêsu sinh ra ở Bêlem, Vua Hêrôđê hốt hoảng theo như trình thuật kể lại: Vua cho triệu tập những nhà chiêm tinh, những người gỏi giải điềm báo để hỏi cặn kẽ nơi sinh Đấng Cứu Thế Giêsu. Hêrôđê là con cáo già, manh tâm, ác độc, Ông sợ mất ngôi, soán vị, nên giả vờ nói với ba nhà Đạo sĩ: ” Khi tìm được Hài Đồng Giêsu, thì trở về báo cho Trẫm biết để Trẫm cũng đến triều bái Giêsu…”
Ba nhà Đạo sĩ khi tới Hang đá, họ đã gặp Hài Đồng Giêsu được đặt trong máng cỏ, Mẹ Maria và thánh Giuse im lặng, bái quỳ…Tất cả đều im lặng, sự im lặng thánh nói lên sự linh thiêng, diệu kỳ của Hang đá Máng cỏ và sự thánh thiêng của mầu nhiệm Giáng Sinh. Gặp được Hài Đồng Giêsu, ba nhà Đạo sĩ đã nhận ra Ngài. Họ không thắc mắc, không lớn tiếng trò chuyện, hỏi han, nhưng họ nhận ra ngay đây là Đấng Cứu Thế, Vị Cứu Tinh Giêsu mà ánh sao lạ đã soi sáng, đưa họ tới đây, do đó, ba nhà Đạo sĩ đã tiến dâng Hài Đồng Giêsu những phẩm vật quí giá của quê hương họ: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược. Rồi được mộng báo họ đi lối khác mà về quê hương, đất nước họ.
Vâng, trong cuộc sống, Chúa vẫn gửi cho chúng ta những ánh sao lạ dẫn đường để chúng ta gặp được Chúa. Những biến cố, những sự việc, những điều xảy ra chung quanh,trong xã hội, trong khu xóm của chúng ta, đó là những dấu chỉ giúp ta gặp được Chúa. Đứng trước ánh nắng mặt trời với những tia nắng vàng, những cơn gió thoảng nhẹ, ánh hoàng hôn.Mặt trăng chiếu sáng, những ngôi sao, những vì tinh tú trên cao, tất cả làm chúng ta suy nghĩ, giúp chúng ta hiểu ai đã dựng nên chúng và nhờ đó chúng ta nhận ra Chúa, tin Chúa và tôn vinh Chúa. Trong kiếp sống con người, tiếng khóc của trẻ thơ, tiếng cười đùa của thnh niên nam nữ. những nụ cười nở hoa của con người giúp chúng ta nhận ra sự kỳ diệu của Thiên Chúa và chúng ta tin vào Ngài, vào quyền năng tuyệt đối và lòng thương xót của Ngài. Mọi Kitô đều được mời gọi dùng gương sáng của minh trong cách sống, nết ở, trong lời nói, cử chỉ, thái độ và việc làm của họ để làm chứng cho nhiều người biết Chúa, người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thánh những ngọn đuốc sáng, những ngôi sao lạ dẫn đường cho nhiều người tìm gặp Chúa. Thực tế, ngày nay nhiều chỗ, nhiều nơi trên thế giới, con người sống đố kỵ, hận thù, ghen ghét, đang bị bao phủ bởi những lớp mây mù do chiến tranh, thù hận, người Kitô hữu được mời gọi trở nên những ngọn hải đăng chiếu soi dẫn đường cho những con tàu, những người đang lầm lạc, sống trong u tối được trở về và tìm gặp được Chúa, tin Chúa và đi theo Ngài …Đối xử tốt, biết sống bác ái vị tha là những thái độ, cử chỉ tốt giúp nhiều người nhận ra Chúa và tin vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu để chúng con cũng biết san sẻ tình thương đến cho nhiều người.Xin giúp chúng con trở nên những ánh sao qua những hành động cụ thể, qua việc làm bác ái, qua nụ cười, lòng quảng đại, sự cảm thông đối xử với người khác nhờ đó nhiều người sẽ nhận ra Chúa và tin theo Chúa.Amen.
Gợi ý để chia sẻ:
1. Tại sao ba nhà Đạo sĩ lại đi tìm Chúa ? 2. Ba nhà Đạo sĩ đã mang theo những tặng phẩm gì để tiến dâng Hài Đồng Giêsu ? 3. Hêrôđê là ai ? 4. Tới Bêlem và vào Hang đá, ba nhà Đạo sĩ đã gặp những ai ? 5. Tại sao ba nhà Đạo sĩ lại không trở về đường cũ ?
Cuộc sống người ta vẫn gọi là chốn ba đào. Cuộc sống chẳng mấy khi bình yên. Con người luôn HiểnLinh ABC309
Cuộc sống người ta vẫn gọi là chốn ba đào. Cuộc sống chẳng mấy khi bình yên. Con người luôn phải tất bật vì cơm áo gạo tiền, vì công danh sự nghiệp, vì bổn phận với gia đình và xã hội. Có nhiều người cảm thấy cuộc sống mệt mỏi quá! Cuộc sống sao cứ đưa đến cho ta biết bao khó khăn thử thách! Những lúc ấy chúng ta cảm thấy mình đơn độc. Chúng ta cảm thấy mọi người bỏ mình để lại khó khăn cho một mình ta. Chính lúc ấy ta cũng cảm thấy Chúa cũng bỏ rơi. Làm sao có thể đến với Chúa, tin vào Chúa khi cuộc đời cứ trăm bề khổ đau?
Vâng, có bao giờ bạn cảm thấy như Chúa bỏ rơi bạn không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc bạn rất cần đến Ngài. Giữa những lúc túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bạn kêu cầu: Lạy Chúa, xin đừng để chuyện này xảy đến cho con. Nhưng chuyện vẫn xảy ra. Dường như lúc nào bạn cũng đứng về phe thua bại. Bạn hãy nghe câu chuyện sau đây:
Một người nằm mộng thấy mỗi lần mình đồng hành với Chúa đều thấy để lại trên bãi cát dấu chân của Chúa và của mình song hành nhau. Nhưng mỗi lần gặp bão tố, thì thấy chỉ có một dấu chân mà thôi.
Người ấy hỏi Chúa rằng:
Thưa Chúa! Tại sao lúc cuộc đời của con bình yên, thoải mái, êm đềm, con thấy hằn lên trên bãi cát dấu chân của Chúa và của con song song với nhau. Nhưng trong những lúc đời con gặp khó khăn, sóng to gió lớn dập vùi, đau khổ tối tăm, thì con chỉ thấy có một dấu chân của con hằn lên bãi cát mà thôi? Phải chăng đó là những lúc Ngài bỏ rơi con, để con một mình giữa trần gian giông tố? Phải chăng đó là lúc Ngài không còn quan tâm đến con và phó mặc con cho số phận cuộc đời?
Nhưng Chúa nhẹ nhàng trả lời rằng:
– Con ơi! Những dấu chân độc hành con thấy trên bãi cát trắng đó không phải là của con đâu! Đó là dấu chân của ta, ta bước đi một mình, còn con thì ta đã bồng ẵm vào lòng của ta.
Niềm tin vào Chúa mời gọi chúng ta hãy vững tin vì Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta chẳng lìa con, chẳng bỏ con bao giờ” (Dt 13,5).
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: “Chúa hằng hữu bênh vực tôi, tôi còn sợ loài người làm chi tôi nữa” (Tv 118,6).
Hôm nay lễ HiểnLinh ABCcho chúng ta nhìn lại hành trình đến với Chúa của Ba Vua. Đó là hành trình vượt ngàn gian khổ. Gian khổ về địa lý đồi núi, hiểm trở xa cách ngàn trùng. Gian khổ vì bế tắc đôi khi không biết mình đi đâu? Hỏi đường thì gặp các Vua Chúa quan quyền thâm độc nguy hiểm. Giữa những bơ vơ cuộc đời họ lại được ánh sáo dẫn dắt đưa đường. Dù là ánh sao lẻ loi nhưng cũng cho họ niềm tin và nghị lực.
Ánh sao đó định hướng cho HiểnLinh ABCtìm gặp vị quân vương mới sinh. Ánh sao đó cho HiểnLinh ABCniềm tin để bước đi. Khi có niềm tin và hy vọng gặp được Chúa thì mọi lo âu, ưu phiền hay gian khổ cũng sẽ qua. Vì cuối hành trình ta luôn gặp được Đấng mà ta tôn thờ.
Vâng thưa anh chị em, con đường đến với Chúa, tìm gặp Chúa luôn gặp khó khăn nhưng không có đường cùng nhất là còn có Chúa đồng hành. Chúa sẽ cho ta những ánh sao là những ân nhân, những phương tiện để giúp chúng ta vượt qua. Hãy tin tưởng và bước đi theo ánh sao là tiếng nói của con tim yêu mến Chúa trên hết mọi sự, của lương tâm ngay thẳng, của lòng trung kiên với Chúa.
Hành trình cuộc đời nào cũng có khó khăn. Con đường nào cũng có gian khổ. Hãy tin rằng cuối chân trời ta luôn có Chúa. Hãy tin tưởng vào sự dắt dắt của Chúa mà mạnh dạn bước đi. Hãy phó thác đường đời trong tay Chúa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ và phù giúp đời ta.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa mà bước đi theo thánh ý Thiên Chúa. Ước gì cuộc đời ta luôn có ánh sao dẫn dắt để ta đi theo con đường của Chúa, con đường của tin yêu và hy vọng. Amen.
Chúng ta không xa lạ về những ngôi sao. Trong những chương trình truyền hình, ngôi sao được HiểnLinh ABC310
Chúng ta không xa lạ về những ngôi sao. Trong những chương trình truyền hình, ngôi sao được đặt trong sự hy vọng cho những người chơi có cơ hội dành phần thắng. Còn ngôi sao chúng ta thấy trong ngày Noel cũng mang lại cho chúng ta hy vọng, nhưng tuyệt vời hơn là ngôi sao ấy là ánh sao dẫn đường. Ánh sao cứu độ.
Khi đêm về, nhìn lên bầu trời, chúng ta dễ bắt gặp nhiều ngôi sao nhỏ lấp lánh trên bầu trời. Nhìn lên ngôi sao và bước đi, chúng ta có cảm giác là ngôi sao ấy đang đi song song với chúng ta. Nếu chúng ta dừng lại, ngôi sao cũng dừng lại. Thế nhưng, các nhà chiêm tinh xưa kia lại được ngôi sao dẫn đường. Họ đi tìm Đức Vua Do thái mới sinh. Làm sao họ biết ngôi sao ấy sẽ cho họ biết? Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rằng, các nhà chiêm tinh hay nhìn ngôi sao để lập số tử vi của những trẻ mới sinh. Từ ngôi sao đã cuốn hút, mặc khải và thúc đẩy họ lên đường đến Giêrusalem. Các nhà chiêm tinh đã gặp vua Hêrôđê để biết rõ về Hài Nhi nên đã tiến vào mà hỏi “Đức vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu?” Nhà vua nghe vậy hết sức bối rối. Bởi ngoài mình ra còn ai có thể là vua nữa, phần khác vì vua sợ mất vương quyền. Nhà vua liền triệu tập các thượng tế, kinh sư trong dân lại mà hỏi cho rõ. Họ đã trả lời “Tại Bêlem, miền đất Giuđê”. (Mt 2, 5). Bây giờ màn đêm bao phủ, tâm hồn nhà vua tràn ngập sự ích kỷ, lòng ghen ghét. Vua đã bí mật vời các nhà chiêm tinh đến với thái độ khẩn cầu. (x. Mt 2, 28). Các nhà chiêm tinh không chút nghi ngờ, họ vội vã lên đường theo hướng ngôi sao.
Thiên Chúa đã soi sáng bên trong và chắp nối hoàn cảnh bên ngoài để dẫn họ đi tìm Vua dân Do thái. Đường xa đầy những gian nan, lạnh lẽo nhưng các ông vẫn ấm áp trong lòng. Họ đã vượt qua những gian nan vất vả và cuối cùng họ cũng tìm thấy ngôi sao. Họ bước vào và nhìn thấy một hài nhi cùng với cha mẹ người. Lòng các ông đầy phấn khởi. Các ông lấy vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến. Họ nhìn nhận Hài Nhi Giêsu là một nhân vật siêu phàm và là một Thiên Chúa cao cả. Còn chúng ta thì sao? Các nhà chiêm tinh đi tìm Chúa theo ánh sao dẫn đường. Chúng ta cũng có rất nhiều dấu chỉ đường. Nếu ai trong chúng ta say mê tìm hiểu Lời Chúa và để Lời Ngài đánh động, chúng ta sẽ tìm thấy Ánh Sáng. Một khi chúng ta bước đi trong giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta sẽ không sợ lạc đường. Các nhà chiêm tinh gặp gỡ Chúa thì liền bái lạy. Khi đến với Chúa trong Thánh lễ, chúng ta đã dâng Chúa những gì, có tâm tình và thái độ nào?
Đừng chần chừ nữa! Chúng ta hãy đến gặp gỡ Chúa nhiều hơn, lắng nghe và yêu mến Chúa mỗi ngày.
Lạy Chúa! Có lẽ còn có rất nhiều người chưa gặp được Chúa hay đã gặp gỡ Chúa nhưng chưa hết lòng ở lại với Chúa. Lạy Chúa! Trong ngày lễ Hiển linh này, chúng con xin Chúa hãy tiếp tục tỏ mình ra, để chúng con được gặp gỡ và ở lại với Chúa. Nhờ đó, cuộc sống của chúng con sẽ trở nên chứng nhân và lời rao giảng Tin Mừng của Chúa cho mọi người.
Bình minh chưa ló rạng, tiếng chim cũng chưa ríu rít trên cành, ta đã bừng tỉnh để dâng ngày cho HiểnLinh ABC311
Bình minh chưa ló rạng, tiếng chim cũng chưa ríu rít trên cành, ta đã bừng tỉnh để dâng ngày cho Chúa. Chúa đã cho ta có thêm một ngày để sống, để hát lên bài ca tạ ơn Người.
Ngày xưa, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đi đến Giêrusalem để tìm vua dân Do thái mới sinh. Các ngài đi theo ánh sao trên trời và tìm đến với vua Hêrôđê để biết rõ về Đức Vua dân Do thái đã sinh ra hiện ở đâu. Các ông mang tin đến khiến cho “vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao.” (Mt 2, 3). Nhà vua như ngồi trên đống lửa. Nghe tin dữ, “Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu” (Mt 2, 4).
Được nhà vua phái đi Bêlem, các nhà chiêm tinh lại lặn lội đường xa để tìm gặp cho kỳ được Đức Vua dân Do thái mới sinh. Lòng khát khao gặp được Đức Vua đã giúp các nhà chiêm tinh vượt qua nhiều khó khăn và trở ngại để tiếp tục lên đường. Đã bao giờ ta nóng lòng tìm đến với Đức Vua của mình chưa? Đấng hằng ngày vẫn hiến mình vì ta, nuôi sống ta bằng chính Máu Thịt của Người. Lòng ta có rộn rã và mừng vui khi được đến và ở lại bên Đức Vua hay ta lo lắng hết chuyện này đến chuyện nọ mà thờ ơ với Đấng hằng ở cùng ta? Khi trông thấy ngôi sao của Đức Vua lại xuất hiện, các nhà chiêm tinh vô cùng mừng rỡ và bước vào nhà. Lòng các ông bây giờ no thỏa biết bao. Sau bao nhiêu vất vả, nhọc công tìm kiếm, các ông cũng được chiêm ngắm Hài Nhi với thân mẫu là Mẹ Maria. Các ông sấp mình thờ lạy Người. Những lễ vật quý giá được các ông dâng tiến cho Đức Vua là vàng, nhũ hương và mộc dược. (x. Mt 2, 10-11). Nhưng lễ vật đẹp lòng Đức Vua hơn hết đó chính là tấm lòng thành kính và mến yêu của các ông dành cho Người. Khi đến với Đức Vua của mình, có lẽ ta không phải vượt qua dặm đường dài nhiều gian lao vất vả như các nhà chiêm tinh, ta cũng không phải mò mẫm tìm đường như các ngài, nhưng thiết nghĩ con đường đến với Chúa ngay chính trong tâm hồn ta cũng không thiếu những gian lao vất vả. Đó là những khi ta tự cho mình đã tốt lành thánh thiện, đã gặp gỡ Chúa đủ rồi, đọc được bấy nhiêu kinh nguyện là đã sốt sắng. Tâm hồn ta sinh ra tự kiêu và tự mãn. Làm sao Chúa Hài Nhi có thể ngự trong một tâm hồn đầy yếu đuối như thế, bất xứng như thế? Ta có thấy bóng dáng của một Hêrôđê trong mình với một lòng mong muốn giả tạo được gặp Hài Nhi mà đến bái lạy Người? Quả là ta đã sai lầm rồi. Ta đến bên Đức Vua và xin Người thánh hóa tâm hồn và thanh luyện lòng khát khao của ta để mỗi ngày, ta lại đến bên Người mà thợ lạy với lòng sám hối. “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng kinh chê.” (Tv 51, 19).
Lạy Chúa! Chúa muốn con là ánh sao khi con làm gương sáng cho một người bên cạnh nhận thấy tình thương của Chúa. Đó là khi con tươi nở nụ cười, con chia sẻ những gì con có cho người chị em của con hay bất cứ ai con gặp gỡ. Một nụ cười chân thành có thể làm ấm trái tim ai đó và một lời động viên an ủi sẽ nâng đỡ họ biết bao. Chúa muốn con kiên trì tìm kiếm và gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Xin cho con biết khiêm tốn nhìn nhận những yếu đuối nơi con và luôn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn con. Amen.
Mùa Giáng Sinh năm nay, từ thành thị đến thôn quê, từ nhà thờ đến đường phố, siêu thị, nhà HiểnLinh ABC312
Mùa Giáng Sinh năm nay, từ thành thị đến thôn quê, từ nhà thờ đến đường phố, siêu thị, nhà hàng…, các hang đá, các loại ánh sáng được trang hoàng lung linh, rực rỡ. Lễ Chúa Giáng sinh còn được gọi là lễ của Ánh sáng, không phải vì đường phố ngập tràn ánh sáng lung linh huyền ảo, mà vì đêm mừng Chúa Giáng Sinh chính là đêm Vị thần Ánh Sáng ra đời. Cuộc Giáng sinh của Chúa Giêsu như là ánh sáng từ trời xuất hiện trong đêm tối của trần gian. Nhân loại đang lần bước trong tối tăm được ánh sáng Chúa chiếu soi và dẫn đường. Con người sống trong tối tăm của buồn chán tuyệt vọng được ánh sáng niềm vui và hy vọng chiếu tỏa.
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Hiển Linh, tức là Chúa tỏ mình ra, chiếu ánh sáng đức tin và ơn cứu độ đến cho nhân loại, đặc biệt là những người thành tâm thiện chí. Tiên tri Isaia đã diễn tả niềm vui và hi vọng qua những lời lẽ thật phấn khởi hân hoan: Đứng lên, bừng sáng lên, Giêrusalem hỡi, vì ánh sáng của ngươi đã đến. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, mây mù phủ lấp chư dân sẽ được vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Vị tiên tri tiên báo những lời hân hoan hy vọng này trong hoàn cảnh dân Israel đang sống trong cảnh tối tăm, đau khổ vì bị lưu đầy. Có lúc họ đã hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng, vì nghĩ rằng: Thiên Chúa đã quên chúng ta rồi, Ngài đã ngoảnh mặt làm ngơ trước cảnh tối tăm cùng cực của dân Người. Tiên tri cho thấy Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trên dân Người và Ngài còn chiếu ánh sáng ơn cứu độ đến với dân ngoại là những kẻ đang lầm đường lạc lối, chưa nhận biết Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ dùng ánh sáng để dẫn đưa họ gia nhập vào đoàn dân của Người.
Viễn tượng tiên tri Isaia tiên báo về một thời ngập tràn ánh sáng đã được ứng nghiệm qua câu chuyện Chúa Giáng sinh. Các mục đồng là những người Do Thái đầu tiên đón nhận được ánh sáng niềm vui hy vọng, kế đến là các đạo sĩ từ phương Đông, là những người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý, họ đã gặp được Chúa Hài Nhi. Thánh Matthew thuật lại: Có ba nhà đạo sĩ từ phương Đông tìm đến Giêrusalem và hỏi: Đức vua dân Do Thái mới sinh ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người. Hành trình đi tìm ánh sáng chân lý của các đạo sĩ thật vất vả. Với một niềm tin đơn thành của những nhà chiêm tinh, cho rằng ngôi sao lạ xuất hiện báo hiệu một vị Minh Vương ra đời, thế là họ lên đường. Các đạo sĩ đã phải trải qua một hành trình rất dài và rất nhiều khó khăn. Các ông chấp nhận từ bỏ cuộc sống êm ấm, yên ổn tại quê nhà để lên đường với bao khó khăn, nguy hiểm do con người và thiên nhiên gây ra trên hành trình dài. Tuy nhiên, do lòng khao khát tìm kiến ánh sáng chân lý, mong muốn gặp được vị Minh Vương mới sinh, các ông đã chấp nhận tất cả rủi ro xảy ra.
Hành trình của các đạo sĩ có những lúc hết sức thuận lợi và phấn khởi khi được ngôi sao lạ dẫn đường. Có những lúc các ông rơi vào tăm tối mịt mù vì ngôi sao đã biến mất, các ông như bị lạc đường, dò dẫm trong tăm tối. Các đạo sĩ vẫn không chán nản, không bỏ cuộc, các ông đã dùng hết khả năng và sự khôn ngoan tự nhiên để dò hỏi về Vua người Do Thái mới sinh, kể cả việc liều mình vào hỏi thông tin từ vua Hêrôđê. Có lẽ lúc này, các đạo sĩ vẫn mường tượng đến một vị hoàng tử được sinh ra trong cung điện với đầy gấm vóc lụa là, giàu sang.
Vua Herođe đã triệu tập các thượng tế và luật sĩ đến để điều tra về nơi Hài Nhi được sinh ra. Họ trả lời, Kinh Thánh đã cho biết: Tại Belem, xứ Giudea. Các đạo sĩ dựa vào lời Kinh Thánh này để tiếp tục hành trình tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Họ cảm thấy phấn khởi vì lời hướng dẫn của Kinh thánh qua các ngôn sứ. Điều đó chứng tỏ rằng, chỉ có Kinh Thánh là bảng chỉ đường đáng tin nhất, giúp người thành tâm thiện chí tìm gặp Chúa cứu thế. Thiên Chúa có thể dùng những dấu chỉ tự nhiên trong vũ trụ để giúp những người thiện chí có một khởi đầu tin vào chân lý, nhưng để có thể nhận biết Thiên Chúa một cách rõ ràng và chính xác, thì cần phải dựa vào Kinh Thánh. Vì Kinh Thánh chính là Lời Chúa nói và hướng dẫn con người đi theo con đường chân lý.
Các đạo sĩ đã đến nơi, họ gặp được Hài Nhi và thân mẫu Người là bà Maria. Họ sấp mình thờ lậy Người. Họ dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Khát khao tìm kiếm ánh sáng chân lý của các đạo sĩ và sự hy sinh vất vả của các ông đã được đền bù, họ được gặp Vua người Do Thái. Mặc dù hình ảnh trước mắt họ hoàn toàn khác với những điều họ hình dung trước dây. Trước mặt họ chỉ là một Hài Nhi bé nhỏ trong tay một người mẹ, một nơi ở đơn sơ tồi tàn, thế nhưng, con mắt đức tin của họ đã được khai sáng. Các ông đã tin và đã mở kho tàng của mình ra để dâng tặng Hài Nhi: Vàng, tượng trưng cho phẩm vị của bậc quân vương; Nhũ hương, thể hiện lòng kính trọng đối với thần linh, nhìn nhận Hài Nhi là Thần Linh và Mộc dược là hương liệu quý dùng để chữa trị vết thương, ướp tẩm – các vị đạo sĩ nhìn nhận Hài Nhi cũng là một con người trọn vẹn. Với một niềm tin sâu xa như thế, các đạo sĩ đã sấp mình thờ lậy Hài Nhi Giêsu như thờ lậy chính Thiên Chúa.
Câu cuối cùng trong đoạn tin Mừng Mathew cho thấy kết quả của hành trình tìm kiếm Chúa Hài Nhi của các đạo sĩ và cũng là hoa trái của việc được gặp gỡ Thiên Chúa: Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình. Herođê tượng trưng cho con người cũ, con người gian ác và cũng là tượng trưng cho quyền lực của bóng tối và mờ ám. Herôđê với tâm địa gian ác, đã giả bộ để lôi kéo các đạo sĩ quay lại với ông sau khi gặp Hài Nhi. Nhưng câu chuyên cho thấy: Khi các đạo sĩ gặp được Hài Nhi Giêsu là ánh sáng, họ đã tin, họ được quét sạch khỏi tối tăm mê muội và đã trở nên con cái của ánh sáng. Các đạo sĩ được sứ thần của Chúa hướng dẫn để không quay lại với thế lực tối tăm của Herôđê nữa. Trái lại, họ bước vào một hành trình mới, một con đường mới, để trở về xứ sở mình, đem theo niềm vui, hy vọng và ánh sáng cho xứ sở mình.
Thưa quý OBACE, đa số chúng ta không phải vất vả tìm kiếm ánh sáng đức tin như các đạo sĩ. Trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội, tâm hồn và cuộc đời chúng ta đã được thắp sáng bởi ánh sáng từ Chúa Kitô Phục Sinh, được mời gọi trở nên con cái của ánh sáng. Tuy nhiên, vì không phải vất vả tìm kiếm, nên nhiều người đã không biết trân trọng, gìn giữ ánh sáng đức tin cho cuộc đời mình. Họ để mình rơi trở lại trong bóng tối của ù lỳ, lười biếng và tội lỗi, để cho ánh sáng đức tin trở thành yếu ớt, vàng vọt, không đủ sức tỏa sáng để dẫn đường cho mình và cho người khác.
Nhiều người, đặc biệt các bạn trẻ, đang để mình bị chói mắt, choáng ngợp, mù lòa, bởi các thứ ánh sáng của khoa học, công nghệ và lối sống hào nhoáng giả tạo của xã hội hôm nay, khiến họ bị lạc đường; bên ngoài có vẻ sáng nhưng trong lòng lại đầy tăm tối. Các loại bóng tối của ăn chơi, hưởng thụ, đèn mờ và các quan điểm, trào lưu tư tưởng, sách báo… đang làm nhiều người lạc đường, mất phương hướng. Hãy tìm về với ánh sáng thật là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài; hãy để cho ánh sáng tình yêu của Chúa xua tan bóng tối hận thù, dửng dưng và để cho Tin Mừng của Chúa như ngôi sao dẫn đường đưa ta tới gặp được Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta được mời gọi liên tục bước vào hành trình tìm kiếm và tái khám phá đức tin của mình theo sự dẫn dắt của ánh sáng Tin Mừng. Xin Chúa giúp ta dám chấp nhận những khó khăn thử thách, vượt thắng những cám dỗ hấp dẫn ngọt ngào trên hành trình theo Chúa. Xin thương biến đổi chúng ta mỗi ngày nên con cái ánh sáng, giúp ta dám sống, dám làm chứng cho chân lý và sự thật, dám sống một cuộc sống khác với dòng chảy của xã hội hưởng thụ, gian dối và tối tăm vì thiếu tình yêu ngày nay. Amen.
Tối hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn HiểnLinh ABC313
Tối hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”
Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ những chiếc bật lửa của những người hiện diện.
Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)
Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa hài nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Ki-tô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.
Lời Chúa trong sách tiên tri I-sai-a được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.
“Hãy đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân ; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (I-sai-a 60,1)
Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng:
“Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)
Phải tỏa sáng cách nào?
Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: Đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.
Như giọt sương mai
Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.
Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương mai.
Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin mừng Chúa Ki-tô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì ánh sáng Tin mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời sáng trên những giọt sương mai.
Lạy Chúa Giê-su, Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì “gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng.”
Ba nhà đạo sĩ từ phương xa tìm đến gặp Chúa Giêsu Hài Nhi. Họ là những người khôn ngoan. Thấy HiểnLinh ABC314
Ba nhà đạo sĩ từ phương xa tìm đến gặp Chúa Giêsu Hài Nhi. Họ là những người khôn ngoan. Thấy ngôi sao lạ, họ đã đi tìm kiếm. Chúng ta có thể nói, mọi người đều có thể nhìn thấy ngôi sao nhưng không phải mọi người đều hiểu được ý nghĩa. Muốn nhìn thấy sao, người ta phải ngước nhìn lên trời.
Ba nhà đạo sĩ không chỉ thấy ngôi sao lạ mà còn thấy ẩn ý nơi ngôi sao. Họ nhìn thấu qua dấu chỉ để đi tìm về nguồn Chân Thiện Mỹ. Họ không quản ngại đường xá xa xôi cách trở, không ngại khó khăn và gian nan. Họ đã rời quê hương xứ sở để đi tìm theo dấu lạ. Họ đã dõi theo hướng sao lạ trong lòng tràn đầy niềm hy vọng tìm về nguồn chân lý.
Đôi lúc lạc hướng, họ đã dừng lại hỏi thăm. Tìm hiểu qua những lời loan báo trong Kinh Thánh, họ biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại Belem. Họ đã tiếp tục lên đường tìm kiếm. Họ đã gặp được Ngài và đã bái phục tôn thờ Ngài. Họ đã nhận được phần thưởng lớn lao là gặp được chính Đấng mà thiên hạ bao năm đợi trông. Họ đã tiến dâng Chúa Hài Nhi các phẩm vật là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Tìm sẽ gặp. Các đạo sĩ tìm và đã gặp Chúa. Họ đã trở về trong hân hoan theo con đường khác. Sau khi gặp được Đấng Cứu Thế, cuộc đời của họ đã thay đổi. Họ không màng thế sự trần gian nhưng trở về lòng tràn đầy hy vọng.
Trái lại, có những người ngồi nhà đợi tin: như Hêrôđê, như các thầy tư tế và các nhà nghiên cứu Thánh Kinh, họ cậy dựa vào sách vở, vào uy quyền, vào khả năng chuyên môn và không muốn dấn thân tìm kiếm, họ đã không gặp được Chúa.
Muốn tìm gặp Chúa, chúng ta phải có thái độ khiêm nhường phó thác, tìm kiếm và học hỏi. Chúa vẫn hiện diện đó nhưng chúng ta không thấy và không gặp được Ngài. Bởi vì chúng ta không ngước mắt nhìn lên mà chỉ cúi xuống tìm kiếm những nhu cầu vật chất và quanh quẩn trong ước muốn tầm thường của con người.
Xin cho chúng con biết khao khát và tìm kiếm nguồn Chân Thiện Mỹ, chính Chúa là nguồn gốc và trung gian của cả vạn vật. Chúa là khởi điểm và cùng đích của tất cả mọi sự. Có Chúa là có tất cả.
Sau khi giải thích cho tín hữu Êphêxô mầu nhiệm về sự hòa giải giữa người Do thái và người ngoại HiểnLinh ABC315
Sau khi giải thích cho tín hữu Êphêxô mầu nhiệm về sự hòa giải giữa người Do thái và người ngoại, giữa loài người với Thiên Chúa, thánh Phaolô đã viết: “ Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ, và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với ngưới Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.”( Ep 3: 5-6) Mầu nhiệm ấy đã được minh chứng qua đoạn Tin Mừng hôm nay nói về các nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến bái lạy Đức Giêsu Hài Nhi.
Những nhà chiêm tinh cũng như những nhà bác học hay khoa học, nhìn thấy những vì “sao lạ” qua vũ trụ, nơi sự hiện diện của con người; và qua đó, có người nhận ra và tin có Đấng Sáng Tạo, nhưng cũng có người vẫn cố tình phủ nhận Đấng ấy. Trong cuộc sống mỗi ngày, nếu có một chút ngạc nhiên đối với thiên nhiên, đối với con người, người ta sẽ khám phá ra những vì sao mặc khải.
Trước hết, cuộc hành trình của ba nhà chiêm là một cuộc hành trình đức tin. Với một niềm khao khát Vị Cứu Tinh, khi nhận ra ngôi sao báo hiệu Đấng Cứu Thế đã ra đời, ba vị đã mau mắn lên đường đi tìm để bái lạy, bất kể khó khăn gian khổ thế nào.
Chẳng cần biết dựa vào kiến thức chuyên môn nào mà ba nhà chiêm tinh đã nhận ra ngôi sao xuất hiện bên phương Đông là ngôi sao báo cho họ biết : Đức Vua dân Do thái mới sinh ra. Vua Do thái mới sinh ra thì có gì quan trọng đối với dân ngoại, một dân sống thù nghịch với dân Do thái! Thế mà họ đã mau mắn lên đường tìm đến Vua Do Thái mới sinh còn đỏ hỏn cùng với những lễ vật qúy giá để thờ lạy. Không biết họ có phải là những người mù quáng, bốc đồng hay không nhỉ! Không. Họ là những người đang khát vọng có một Đấng Cứu Tinh đến để giải thoát họ khỏi cuộc sống vô vọng. Đó là niềm khát vọng vô tận khi con người chưa tìm được một lẽ sống cho cuộc đời mình. Họ đã mau mắn lên đường, bất chấp những khó khăn trước mắt. Chính niềm tin và hy vọng đã thôi thúc họ lên đường. Họ đã xóa tan mặc cảm ngăn cách. Họ quyết chí lên đường để tìm đến Vị Vua có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc cho họ.
Là vua thì phải ở chốn cao sang. Không ai khác có thể chỉ cho họ ngoài vua Hêrôđê: “ Đức Vua Dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã hay!
Nghe tin ấy, dân chúng cả thành Giêrusalem xôn xao, vua Hêrôđê thì bối rối. Ai cũng biết ông bối rối vì sao. Thế là ông triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho ra Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Cũng không khó khăn gì lắm. Chỉ việc lật giở Kinh thánh ra thì họ đã biết ngay là “tại Bê lem, miền Giuđê” Và ngôi sao lại xuất hiện đưa ba vị chiêm tinh đến tận nơi Hài Nhi mới sinh ra. Thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, họ “ liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.” Rồi được báo mộng, ba vị không trở lại gặp vua Hêrôđê, nhưng “ đã đi lối khác mà về nhà mình.” Còn tôi, một người Kitô hữu, đã có ánh sao Tin Mừng dẫn đường, nhưng tôi đã theo hay để lạc mất ánh sao?
Thiên Chúa đã mặc khải về Ngài cho dân Do Thái qua Kinh Thánh, nhưng Ngài lại mặc khải cho dân ngoại qua thiên nhiên. Một nghịch lý là dân Do thái có Kinh Thánh lại không nhận ra Đấng Mêsia, trong khi đó qua thiên nhiên và qua sự giúp đỡ của Kinh Thánh, dân ngoại đã nhận ra Đấng ấy.
Giống như ba nhà chiêm tinh, chúng ta cũng đang đi trong cuộc hành trình đức tin. Khởi đầu cuộc hành trình bằng bí tích Rửa Tội để trở thành con cái Thiên Chúa, chúng ta đón nhận ánh sao đức tin. Nhưng ngôi sao ban đầu ấy có thể bị lu mờ hay bị biến mất vì những đám mây dục vọng tội lỗi, đám mây của gian nan thử thách che khuất. Ba nhà chiêm tinh cũng đã lạc mất ánh sao, nhưng họ không nản lòng bỏ cuộc. Họ vẫn vững niềm tin. Mỗi người Kitô hữu phải bước theo ánh sao bằng cách suy niệm, học hỏi và thực hành Tin Mừng; đồng thời phải trở thành ánh sao để chiếu ánh sáng Tin Mừng cho người khác. Đừng để lạc mất Ánh Sao để trở thành ánh sao.
Lần tỏ mình đầu tiên của Hài nhi Giê-su không chỉ giới hạn nơi hang đá Bê-lem (qua nhạc ca HiểnLinh ABC316
Lần tỏ mình đầu tiên của Hài nhi Giê-su không chỉ giới hạn nơi hang đá Bê-lem (qua nhạc ca tưng bừng cũng như lời loan báo mầu nhiệm Giáng Sinh của các thiên thần, quy tụ mục đồng và chiên lừa tới thở hơi ấm và triều bái Người), mà còn – qua vì Sao Tinh Yêu diệu kỳ – soi đường dẫn lối 3 nhà đạo sĩ từ phương Đông đem vàng hương mộc dược tới bái kiến nữa. Đó là chưa kể ngay khi mới hình thành bào thai trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria, Đức Giê-su Thiên Chúa đã tỏ mình ra khiến một bào thai mới được 6 tháng (Gio-an Tiền Hô) đã nhảy lên mừng rỡ trong bụng người chị họ Ê-li-za-bet, đồng thời với lời chúc mừng của người chị họ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 2, 42-45).
Nhiều người cho rằng Chúa chỉ tỏ mình ra cho 3 nhà đạo sĩ, còn đối với dân Do Thái (cụ thể là dân thành Giê-ru-sa-lem) và nhất là vua-sát-thủ-Hêrôđê thì không có được vinh dự đó. Thực ra, Chúa đã tỏ mình ra cho tất cả mọi người, nhưng vấn đề đặt ra là khi thấy dấu chỉ hiển linh đó, thì con người có tin hay không và đón nhận như thế nào mà thôi. Dân Do Thái mặc dù có bị giao động hoang mang, nhưng đã cứng lòng không tin từ lần tỏ mình đầu tiên cho đến biết bao nhiêu lần khác trong suốt 33 năm Ngôi Lời làm người, để cuối cùng đóng đinh treo Người trên thập giá cho đến chết. Còn Hê-rô-đê thì sao? Khác với nhiều người cho rằng Hê-rô-đê không tin, riêng kẻ viết bài này nghĩ rằng ông ta đã tin lời ba vị đạo sĩ, nên mới “Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.” (Mt 2, 3-4). Nếu không tin thì có cần như thế không?
Bình thường, khi nghe hỏi “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?”, ai cũng nghĩ rằng đó là chuyện hoang đường, vì đối với xã hội loài người, làm gì có người mới sinh ra đã là vua? Nhưng Hê-rô-đê thì lại tin rằng thực sự đã có một ông vua mới sinh, và vì mới sinh đã là vua nên tất nhiên phải là một vị vua quyền lực thượng đẳng có thể làm cho Hê-rô-đê trắng tay. Vậy phải bằng mọi cách trừ khử ngay lập tức từ trong trứng nước kẻ đã dám đe doạ ngai vàng của mình sụp đổ. Tất yếu cơn thịnh nộ của hung thần sát thủ sẽ vô cùng khủng khiếp, hàng loạt hài nhi đã bị tru diệt thẳng tay. Thế đấy! Từ vua quan đến sĩ thứ của một dân được coi là “hàng nội 100%” đã đón tiếp Đức Vua Hoà Bình như vậy đó.
Và có lẽ cũng vì thế, nên vì tình yêu bao la không phân biệt nội hay ngoại, Thiên Chúa đã dùng vì Sao Tình Yêu để “tỏ mình cho dân ngoại”. Ba vị đạo sĩ bằng sụ hiểu biết của mình, đã được chiêm ngắm vì Sao đó, và với tâm đia ngay thẳng bộc trực, đã vô tình chọc giận hung thần Hê-rô-đê; nhưng mặt khác lại chứng tỏ cho thiên hạ (kể cả Hê-rô-đê) biết thực sự đã có một vị Con Trời và là Ông Trời thật, giáng trần. Ngày xưa vẫn gọi vua là Thiên tử (con Trời), mà vị Vua ấy sinh tại Do Thái nên mới gọi là Vua Do Thái, chớ thực ra vị Vua ấy không phải là Vua Do Thái theo cách hiểu hạn hẹp của Hê-rô-đê (nói chung là của loài người). Người là Vua, mà còn là Vua trên hết các vua trần gian nữa, bởi “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36).
Con người luôn có niềm tin, có tin thì mới sống được. Chính vì thế, nên cần phải xét xem niềm tin đó được thể hiện như thế nào. Tin có một vị vua mới sinh sẽ làm mất ngôi vị độc tôn của mình như Hê-rô-đê để rồi trở thành kẻ sát nhân máu lạnh khủng khiếp; tin rằng vì vua ấy sẽ làm đảo lộn sinh hoạt xã hội như dân Do Thái để rồi hoang mang lo sợ và cách này cách khác tiếp tay cho hung thần Hê-rô-đê giết chết đối tượng mà mình đã tin; hay nên tin rằng đó là vị Vua Công Chính, là Cứu Chúa sinh ra để cứu độ nhân loại như 3 vị đạo sĩ phương Đông? Đặt giả thử nếu 3 vị đạo sĩ cũng bán tín bán nghi như dân Do Thái, thì ánh sao lạ có lôi cuốn được hay không? Chắc chắn đó phải là 3 chiêm tinh gia (biết ngắm sao, biết xem sao) đã tìm hiểu, đã biết và đã tin, và chỉ có như thế thì mới cất công mang vàng, nhũ hương, mộc dược lặn lội từ phương Đông tới để được triều bái Người.
Tỏ mình ra cho một dân (dân “nội” đàng hoàng) đã luôn miệng huênh hoang kêu “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” để phô trương niềm tin của mình, nhưng thực chất thì chỉ là “thùng rỗng kêu to” mà thôi. Đừng trách chi tầng lớp bình dân của dân nội (Do Thái), mà ngay cả đến hàng ngũ trí thức, lãnh đạo chỉ chuyên “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” như đám thượng tế, kinh sư cũng cách này cách khác cố tình không nhận ra dấu chỉ tỏ mình của Con Thiên Chúa. Hoá cho nên Thiên Chúa đã dùng ngôi sao Tình Yêu Bê-lem để “tỏ mình ra cho dân ngoại”. Vương quốc của Vương Nhi Giê-su không bó gọn trong phạm vi Do Thái, mà là “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3, 6). Như vậy thì ngôi sao Bê-lem đã báo Tin Mừng về mầu nhiệm Tinh Yêu được thực hiện khi “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại” và đó chính là dấu chỉ mầu nhiệm Giáo hội trong tương lai.
Cách đây hơn 20 thế kỷ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tỏ mình ra và được đón tiếp bằng nhiều cung cách: 3 nhà đạo sĩ, các mục đồng tới tung hô triều bái, thậm chí đến cả động vật như chiên lừa cũng tới để thở hơi ấm cho Vương Nhi Giê-su; nhưng vua quan sĩ thứ của Do Thái thì lại hoang mang lo sợ cho địa vị của mình mà lùng giết Hài Nhi. Tưởng chừng như thế thì không còn lý do gì để Thiên Chúa tỏ mình ra nữa, nhưng không, hoàn toàn không, Thiên Chúa vì tình yêu, vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều hình thức, nhiều dấu chỉ. Chúa đã tỏ mình ra với loài người, với thế giới qua vẻ đẹp của vũ trụ, qua những khám phá, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, qua rất nhiều phép lạ cứu chữa những bệnh nhân, kể cả những người tội lỗi. Không những thế, Người còn tỏ mình ra qua những cử chỉ, những thái độ thành tâm thiện chí của con người, những tấm lòng bác ái, những tổ chức từ thiện trên khắp mặt đất.
Chúa vẫn đi tìm con người hơn là con người đi tìm Chúa. Và con người ngày nay đã đón tiếp vị Cứu Chúa như thế nào so với thời điểm tỏ mình ra đầu tiên của Người? Cũng có đủ trạng thái không thua gì ngày xưa: Tuy Giáo hội của Chúa đã lan toả khắp năm châu bốn biển, nhưng tỉ lệ những người tin vẫn là thiểu số so với dân số thế giới; vẫn còn nhiều những dân ngoại (kể cả dân nội “marque déposée” – nhãn hiệu trình toà – đàng hoàng) hoang mang lo sợ, nhưng lại thờ ơ trước những dấu chỉ, những biến cố mình chứng sự hiện diện của Chúa trên trần gian; rồi cũng còn nhiều lắm những sát-thủ-Hêrôđê-thời-đại cách này cách khác lùng giết Hài nhi Giê-su, đóng đinh Cứu Chúa trên thập ác: Hủy diệt trứng tinh trùng, chiến tranh, khủng bố… giết hại những con người giống với Thiên Chúa (St 1, 26-27) thì khác nào lùng giết chính Thiên Chúa.
Ôi! Lạy Chúa Hài Đồng! Như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 5 thế kỷ trước khi Chúa tỏ mình ra tại Bê-lem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi.” (Is 60, 1); chúng con biết chắc chắn rằng “ánh sáng của chúng con đã đến rồi” không chỉ bằng vì Sao Tình Yêu Bê-lem, mà bằng chính Ngôi Lời nhập thể và nhập thế làm người cứu chuộc chúng con thoát vòng tội lỗi để có thể chiến thắng sự chết. Không chỉ cách đây hơn 2000 năm, mà hàng ngày, hàng giờ, Chúa vẫn luôn tỏ mình ra ngay tại cung lòng chúng con, trong gia đình, khu xóm, giáo xứ cũng như trên đất nước chúng con, Ánh Sáng vẫn luôn chiếu toả chúng con. Thật đáng tiếc là chúng con vẫn chưa thực sự cảm nghiệm và thực hành Lời Chúa dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5, 15-16), để được như ngôi Sao Bê-lem hiển linh Tình Yêu của Chúa.
Ôi! Lạy Chúa! Con ước ao được là một vì sao thật nhỏ bé (nhưng là bản sao trung thực nhất của Sao Tình Yêu Bê-lem) ở ngay trong gia đình con, để dẫn đường chỉ lối cho con cháu của con biết tìm về chính lộ: nơi đang sáng tỏ mầu nhiệm Giáng Sinh trong mầu nhiệm Giáo hội. Và nếu con còn một chút sức lực nào đó, xin cho con được làm một vì sao bé nhỏ trong khu xóm, trong giáo xứ của con nữa. Xin Chúa thương ban Thần Khí cho con để con có thể làm tròn trách vụ một vì sao Ki-tô hữu trong thời buổi nhiễu nhương, vàng thau lẫn lộn này. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Lễ Giáng Sinh được xem như ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ ban riêng cho dân Do Thái, nhưng qua HiểnLinh ABC317
Lễ Giáng Sinh được xem như ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ ban riêng cho dân Do Thái, nhưng qua biến cố Hiển Linh, mới thấy Thiên Chúa không chỉ thương riêng dân Ngài chọn, mà còn hướng dẫn muôn dân đến với Ngài,nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ. Vì thế Hội Thánh Đông Phương mừng lễ Hiển Linh lớn hơn lễ Giáng Sinh.
Tuy lễ Hiễn Linh nhấn mạnh ơn cứu độ phổ quát : Thiên Chúa muốn cứu độ cả loài người. Nhưng không phải ai cũng đi tìm Chúa như ba đạo sĩ. Ba đạo sĩ có người hiểu đó là tượng trưng cho ba người con của ông Noe là Sem, Kham và Giaphet, thủy tổ của loài người sau trận lụt Hồng Thủy (x St 5,32). Do đó thánh Phaolô nói : “Các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (x Bài đọc II : Ep 3,6). Nhưng bất cứ ai muốn tìm gặp Thiên Chúa Cứu Độ, thì dựa vào các Bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay ta tìm thấy bảy điểm giáo lý phải đem ra thực hành :
1/ PHẢI TỪ BỎ HẤP LỰC TRẦN THẾ.
Ba người đi tìm Vua Do Thái mới sinh : Họ là vua ? (Tv 72/71,10) ; hay họ là đạo sĩ? (Mt 2,1). Điều ấy khó ai xác định, nhưng chúng ta biết chắc chắn họ thuộc giai cấp qúy tộc, đại gia, vì họ dâng cho Hài Nhi những báu vật : vàng, mộc dược, nhũ hương (x Mt 2,11: Tin Mừng), khác với các chú mục đồng nghèo nàn, chúng đến gặp Chúa với hai bàn tay trắng, chỉ đưa chiên cừu đến phà hơi ấm cho Hài Nhi (x Lc 2,16). Ba vị này đã ra đi khỏi xứ sở là chấp nhận gác bỏ công việc thường ngày, bỏ nhà cửa, bỏ cha mẹ, vợ con. Nói tắt là bung ra khỏi pháo đài tiện nghi ấm cúng của cuộc sống, để băng mình theo tiếng gọi của lương tri khao khát chân lý. Đúng với giáo lý Đức Giêsu đòi hỏi : “Ai muốn theo Thầy, không được yêu cha mẹ, vợ con, cả mạng sống mình hơn Thầy, và phải từ bỏ của cải, vác thập gía hằng ngày mà theo Thầy !” (Lc 14,25t).
Vậy mỗi ngày ta phải biết từ bỏ những việc không cần thiết, để có đủ giờ chu toàn việc quan trọng, thực hành thời khóa biểu lao động mỗi ngày, giống Đức Giêsu : Ưu tiên cho việc dự Lễ, cầu nguyện, rồi mới sinh hoạt Lời Chúa, sau đó mới bắt tay vào công việc phục vụ những nhu cầu thân xác của đồng loại (x Lc 4,31-44).
2/ TIẾN VỀ GIÊRUSALEM LÀ GIA NHẬP HỘI THÁNH ĐỂ ĐƯỢC DỰ TIỆC THÁNH THỂ.
Ba đạo sĩ theo ánh sao của Hài Nhi tiến về Giêrusalem đồng nghĩa tiến vào Nhà Thờ (Hội Thánh), để dự tiệc Thánh Thể. Đó là một chủ đích Thần học của Tin Mừng Nhất Lãm, đến nỗi ba tác giả Mt, Mc và Lc cho thấy cả Vị sùng đạo như Đức Giêsu, suốt ba năm hoạt động cũng chỉ có một lộ trình tiến thẳng về Giêrusalem, và hiến tế đời mình ở đó, để rồi từ Giêrusalem ánh sáng cứu độ lan tỏa, bao trùm khắp địa cầu, làm cho muôn dân tộc nhìn thấy ơn cứu độ,vì ơn giải thoát khơi nguồn từ Do Thái (x Ga 4,22), cho muôn dân tìm đến Chúa, như lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh sáng bình minh của ngươi mà tiến bước” (x Bài đọc I : Is 60,3).
Người Kitô hữu hôm nay, dù đã được đưa vào Hội Thánh, họ vẫn còn trên đường tiến tới Giêrusalem tuyệt hảo ở trên trời, là Nhà đích thực của Thiên Chúa,của những người công chính, được Chiên Con tập họp về (x Kh 21). Thánh Luca ghi nhận : “Chúa Giêsu Phục Sinh chỉ hiện ra cho những người đã từ Galilê lên Giêrusalem với Ngài, đây là những người trở nên chứng nhân của Ngài trước mặt toàn dân’’ (Cv 13,31).
Vậy tôi muốn gặp Chúa Giêsu Phục Sinh để được sự sống dồi dào, tôi phải đi chung tuyến đường truyền giáo với Hội Thánh, nhờ mỗi ngày tiến vào Nhà Thờ hiệp dâng Thánh Lễ, để được Chúa Giêsu ở cùng, Ngài mới giúp tôi làm được những việc như Ngài mà còn làm được những việc lớn lao hơn thế nữa (x Ga 14,12).
3/ ĐI THEO SAO CỦA NGÀI.
“Sao của Ngài” theo truyền thống Kinh Thánh, trong văn hóa Hy-La, ám chỉ đến bậc vĩ nhân,như ngôi sao sinh nhật của ông Abraham,ngôi sao hộ mệnh của hoàng đế Alexandre, của hoàng đế Augusto. Nhưng ngôi sao của Hài Nhi còn trổi vượt hơn nữa, vì là dấu nhận ra Đấng Mêsia (x Ds 24,17), dấu chỉ nhận biết Thiên Chúa (x Is 14,13). Ngôi sao của Ngài xuất hiện bên trời Đông. Ngôi sao ấy lại chẳng phải là Mặt Trời Công Chính sao? Thật đầy ý nghĩa khi người Kitô hữu mỗi sáng bắt đầu đi vào ngày mới, trong gìơ Kinh Sáng, họ cất lời cầu : “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Đavid, Người đã cho xuất hiện, Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta. Ngài sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm.” (Lc 1, 68-69.71.74-75.78).
4/ KIÊN NHẪN TRONG THỬ THÁCH.
Đi trong Đức Tin là hành trình thử thách! Ba vị đạo sĩ đang hứng khởi tiến về Giêrusalem theo ánh sao, thình lình ngôi sao vụt tắt, họ bối rối…, nhưng không chùn bước quay về, họ kiên nhẫn đi dò hỏi, họ không dò la ngoài đường, giữa chợ, trong quán, mà đi thẳng vào đền vua, là tìm đến người khôn ngoan xin ý kiến (x Tb 4,18).Tuy khôn ngoan như vua, thì lãnh vực Đức Tin, lãnh vực tôn giáo phải tìm đến hỏi người chuyên môn về tôn giáo. Đó là lý do vua triệu tập các thượng tế và ký lục, để có câu trả lời : “Vua người Do Thái mới sinh ở đâu ?” Nhưng các vị này cũng bó tay, trừ khi họ mở Sách Thánh cho biết rằng : “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì có lời chép : phần ngươi hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi Vị Lãnh Tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” ! (Mk 5,1 = Mt 2,5-6 : Tin Mừng)
Đời người Kitô hữu nào mà chẳng có lúc gặp thử thách về Đức Tin! Hãy bắt chước các đạo sĩ, tìm đến người khôn ngoan mà bàn hỏi. Nhưng chẳng ai cho ta lời khôn ngoan, chẳng ai soi sáng hướng dẫn ta đi đúng đường, nếu lời ấy không bắt nguồn từ Kinh Thánh.
5/ MUỐN GẶP CHÚA, HÃY TIẾP ĐÓN KẺ BÉ MỌN.
Ba đạo sĩ hỏi : “Vua Do Thái mới sinh ở đâu ?” (x Mt 2,2 : Tin Mừng). Nhưng họ đâu có đi tìm vua Do Thái như nhiều người lầm tưởng, bằng chứng là Hêrôđê, vua Do Thái đang hiện diện trước mặt, mà họ không tỏ một cử chỉ thần phục nào và chẳng dâng gì cho vua. Thế nhưng, khi gặp Hài Nhi khó nghèo, họ đã phục mình triều bái Ngài và dâng cho Ngài những báu vật (x Mt 2,11 : Tin Mừng).
Như thế đi tìm vua Do Thái chính là tìm Chúa của muôn dân (cử chỉ bái phục chỉ dành riêng cho Thiên Chúa), nhưng Chúa lại cho ta gặp người bé mọn nghèo hèn!
Vì thế, trong ngày cánh chung,Chúa xét xử nghiêm khắc kẻ khước từ nhu cầu của kẻ bé mọn là chối từ chính Chúa Giêsu (x Mt 25,31-46).
Vậy ta phải đầu tư mọi khả năng đang có làm cho đồng loại gia nhập Hội Thánh để được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể là Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12). Vì thuật ngữ “Kẻ bé nhỏ” ám chỉ người Công Giáo (x 1 Ga 2,1.12.14.18.28).
6/ THIÊN CHÚA CẦN GÌ NƠI TA ?
Xưa người ngoại không biết ý Chúa, nên họ dâng cho Ngài vàng, nhũ hương và mộc dược ; còn ta đã hiểu ý Chúa nói : “Dương gian muôn vật hết thảy đều là của Ta ” (Tv 51/50,8). Vậy, Ngài cần gì nơi ta? Vì “Chúa Giêsu vừa là Tư Tế, vừa là Ngôn Sứ, vừa là Vương Đế“, nên thánh Giám mục Chrysologo nói :
a-Tư tế cầu nguyện cần có hương : Chúa Giêsu muốn ta lòng cậy vững vàng được thể hiện bằng việc cầu nguyện không ngừng (x Lc 18,1). Đó mới chính là hương thơm dâng lên trước nhan Chúa : Tư tế nào mà lại không cần có hương để dâng ; còn Tư Tế Giêsu lại cần ta có hương lòng tin yêu, cậy trông nơi Ngài. Vì thế thánh Tông Đồ nói : “Chúng tôi là hương thơm của Đức Kitô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những kẻ bị hư mất.” (2Cr 2,15).
b- Ngôn sứ nào cũng bị giết, cần mộc dược để ướp xác : Chúa Giêsu thèm ta lòng mến phục vụ tha nhân, như Ngài đã hiến cả mạng sống vì yêu ta (x Ga 15,13), để trở nên men muối cho đồng loại (x Mt 5,13t). Đó mới chính là mộc dược “ướp” tha nhân khỏi hư thối, cũng chính là ướp chi thể của Đức Giêsu khi bị trù dập : Vì số mệnh ngôn sứ của Đức Giêsu đâu có an toàn hơn số mệnh các ngôn sứ khác đã bị sát hại! Đúng như lời Đức Giêsu đã nói trong dụ ngôn vườn nho : Chủ vườn nho sai các đầy tớ đến, nhưng các tá điền đánh người này, giết người kia, cuối cùng chủ vườn nho sai con một đến, chúng cũng giết và lôi ra khỏi thành ! (x Mt 21,34-39)
c- Vua nào cũng muốn được giàu có : Cần vàng bạc châu báu : Vua trần thế cần vàng bạc châu báu ; còn Vua Giêsu cần tấm lòng vàng của ta thể hiện bằng việc lành (x Gc 2,14).
7/ CHỨNG NHÂN CỦA THIÊN CHÚA.
a- Mỗi năm dự Lễ Hiển Linh, đời sống ta phải được canh tân vươn lên thiện hảo.
Ba đạo sĩ khi đã được gặp Chúa, họ được mộng báo : “Đừng trở lại với Hêrôđê, nhưng hãy qua đường khác mà về quê mình” (x Mt 2,12).
“Đừng trở lại với Hêrôđê” : Vua Hêrôđê rất qủy quyệt, gian ác, đời ông luôn luôn bị ám ảnh mất vương quyền do đế quốc Roma trao. Vì nghi ngờ cả những người trong gia đình âm mưu tiếm ngôi vua, nên ông đã không ngần ngại giết luôn ba người con trai, mẹ vợ và cả vợ ông !? Vậy đừng trở lại với Hêrôđê, nghĩa là khi ta đã được biết Chúa, thì đừng trở lại con đường gian ác, mưu mô, quỷ quyệt để tìm danh lợi cho mình. Nhưng
“Đi đường khác mà về quê” : Quê thật của người Ktô hữu là Nước Trời. Do đó, kẻ sau khi đã được gặp Chúa,hãy đi đường khác, là đường tìm ý Thiên Chúa để thông hiệp với Ngài, đường công bình, bác ái để hiệp thông với tha nhân, như vậy ta mới về tới Quê thật là Nước Trời, và ta còn trở nên dấu chỉ cho lương dân đi tìm chân lý, như lời thánh Phaolô nhắc nhở : “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, ANH EM PHẢI CHIẾU SÁNG NHƯ NHỮNG VÌ SAO TRÊN VÒM TRỜI,LÀ LÀM SÁNG TỎ LỜI BAN SỰ SỐNG! ” (Pl 2,15-16a) .
Thế thì mỗi năm dự lễ Hiển Linh, ta phải xin Chúa giúp ta tấn công chừa một thói xấu làm ray rứt lòng ta nhất, ít là thêm lòng sám hối, thể hiện bằng gia tăng việc lành (x Mt 3,8).
b- Ta không được thua ba đạo sĩ ngoại giáo
Qua biến cố Hiển Linh, ta thấy một thảm kịch : Trong số những kẻ tự hào là dân Chúa chọn, tự hào là người thông suốt Lời Chúa, như tư tế và ký lục, lại tỏ ra thờ ơ lãnh đạm trước lời dân ngoại (ba đạo sĩ) đến loan báo Tin Mừng: “Vua Do Thái mới sinh hiện ở đâu?” (Mt 2,2 : Tin Mừng).Người Do Thái có đạo mở Thánh Kinh lại chỉ cho cáo già Hêrôđê tìm giết Hài Nhi ! Còn dân ngoại (ba đạo sĩ) đến “Bêlem” thờ lạy Hài Nhi. Chính những kẻ ôm Sách Thánh lại không ai tung cửa chạy đến cùng Ngài ! Điều quan trọng không phải biết Thánh Kinh để chỉ cho người khác, mà còn phải liều mạng lên đường theo điều đã biết, đã tin, để tìm đến nguồn sống, vượt qua kiến thức bên ngoài, ngõ hầu nhìn thấy giá trị bên trong. Nếu không ta làm thầy dạy cho người khác, mà cuối cùng chính ta lại bị Chúa thải loại (x 1Cr 9,27). Thánh Phaolô còn nói : “Bạn tự hào có Kinh Thánh để dạy người nào, mà bạn lại làm nhục Thiên Chúa” (Rm 2,23).
Dĩ nhiên, đi tìm Chúa vẫn chỉ là tìm thấy Ngài qua dấu chỉ ! Thực vậy, ba đạo sĩ đi tìm vua lại gặp Hài Nhi nghèo khó nằm trong máng cỏ (x Lc 2,7), đó là dấu chỉ Vua trời đất vốn dĩ là Đấng giàu sang, nhưng vì chúng ta Ngài đã trở nên nghèo, cho chúng ta được giàu có (2Cr 8,9). Bởi đó “con người được Thiên Chúa chúc phúc, không phải chỉ khi nào họ gặp thấy Ngài, mà được phúc ngay khi họ đi tìm Ngài” (Kierkegaad).
Con đường Đức Tin bao giờ cũng nhiều trắc trở, nên ta phải nắm chắc ba điều sau đây :
Tìm dấu chỉ ngay trong sinh hoạt cuộc sống : mục đồng qua tiếng hát, đạo sĩ qua dấu ánh sao, tư tế qua Kinh Thánh.
Xem dấu chỉ ấy liên hệ với đời sống Đạo như thế nào ? Ví dụ : Ta là học sinh, học văn hóa vất vả, thì phải học Lời Chúa cũng không kém vất vả ; ta mải miết tìm kiếm của nuôi thân xác thì cũng phải gia công tìm kiếm của nuôi linh hồn nơi tiệc Thánh Thể ; là tài xế, qua việc đón đưa khách, ta còn nhiệm vụ đưa họ gặp Thiên Chúa qua cách sống của ta ; ta là phu quét rác, thì hãy lo dọn tâm hồn mình sạch tội nhờ lãnh Bí tích Giao Hòa.
Và thể hiện Lời Thánh Kinh trong cách ta phục vụ tha nhân, tiến tới liên kết mọi người nhờ, với, trong Đức Giêsu mới làm vinh hiển Thiên Chúa (x Rm 11,36).
Truyện kể.
Vị đạo sĩ thứ tư rất giàu có, thấy ba vị đạo sĩ lên đường đi tìm Chúa, ông cũng bỏ vào túi hành trang của mình nhiều báu vật. Khi ông đang đi chung đường với ba đạo sĩ kia, ông gặp một bệnh nhân nghèo, ông đưa người ấy vào nhà thương chăm sóc, ông trả tiền cho người chăm sóc người bệnh, rồi ông lại tiếp tục lên đường. Nhưng ông đã bị lạc mất ba đạo sĩ bạn, có lẽ vì họ không thể chờ ông lâu như thế. Vậy là vị đạo sĩ này phải đi lang thang một mình, trên đường đi, ông đến một cộng đoàn, không ai dạy giáo lý, nên dừng lại ở đó lâu ngày để dạy đạo, cả lương dân cũng tuốn đến học.
Cứ bận rộn như thế, mãi 33 năm sau ông mới tới được Giêrusalem, nhưng chẳng biết Vua Do Thái, Vua vũ trụ ở đâu, ông chỉ thấy đám đông đang nghe một người đang thuyết giảng ở quảng trường Giêrusalem. Người ta động viên ông đến gặp người giảng (ông Phêrô). Thế là vị đạo sĩ được ông Phêrô dẫn vào Nhà Thờ, và dạy cho ông biết tấm bánh tuy nhỏ bé tầm thường, nhưng đó chính là Vị Vua mà ông đang tìm kiếm suốt mấy chục năm qua, ông liền quỳ xuống sụp lạy tin nhận Ngài là Đấng cứu độ muôn dân.
Đang lúc ấy, những người đã thụ ơn ông trong 33 năm qua, họ tìm gặp ông để tỏ lòng biết ơn. Nhưng ông bảo họ : “Hãy quỳ xuống tạ ơn Chúa của các bạn, qua tấm bánh tầm thường này, chính Ngài đã đưa tôi đến để giúp các bạn !” Và mọi người đều quỳ thờ lạy Chúa. Đó là 3.000 người được ông Phêrô ban Bí tích Thánh Tẩy cho (x Cv 2,41).
Vậy :
Ông Phêrô nhờ Lời Chúa đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho đạo sĩ thứ tư.
Còn ông đạo sĩ thứ tư tận tình giúp đỡ đồng loại, ông đã trở thành ánh sáng dẫn đường cho “muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài” (Tv 72/71,11 : Đáp ca). Vì chính ông đã nói : “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở phương Đông, nên chúng tôi đến triều bái Ngài” (Mt 2,2 : Tung Hô Tin Mừng).
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 nói: “Chẳng cần lý thuyết nhiều,nếu đời sống các Kitô hữu đủ sắc nét diễn tả người Công Giáo trong Chúa Giêsu, thì sẽ không còn dân ngoại nữa”.
” Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12):
(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, (2) và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.(4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: (6) ‘Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”
(7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở Phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12):
Có nhiều hướng suy niệm Lời Chúa của Lễ Hiển Linh hay Ba Vua: – Chúng ta có thể suy niệm HiểnLinh ABC318
Chú thích: Có nhiều hướng suy niệm Lời Chúa của Lễ Hiển Linh hay Ba Vua:
– Chúng ta có thể suy niệm theo cách ”truyền thống” là suy niệm về việc Chúa Giê-su Ki-tô Thiên Chúa làm người tỏ mình ra cho dân ngoại mà HiểnLinh ABCđến từ Phương Đông là ba nhân vật biểu trưng. Hướng suy niệm này giáo dân đã rất quen.
Chúng ta cũng có thể suy niệm theo cách ”cách tân” là suy niệm về cách thể hiện quyền bính của Vua Giê-su Ki-tô. Cách suy niệm này rất mới, mang tính cách mạng, nhưng rất phù hợp với truyền thống Thánh Kinh. Tôi dề nghị cách suy niệm thứ hai này vì ngày nay trong Đạo và nhất là ngoài đời nhiều người có quyền (chức) không hiểu ý nghĩa thâm sâu của quyền bính nên đã phạm phải những tội ác tầy trời.
2.1 Chúa Giê-su Ki-tô là Vua dân Do-thái và là Vua muôn dân:
Văn hào George W. Truett đã viết một câu bất hủ về Chúa Ki-tô như sau: “Christ was born in the first century, yet he belongs to all centuries. He was born a Jew, yet He belongs to all races. He was born in Bethlehem, yet He belongs to all countries.”
(Tạm dịch: “Đức Ki-tô sinh ra vào thế kỷ thứ nhất, nhưng Người thuộc mọi thế kỷ. Đức Ki-tô sinh ra là một người Do-thái, nhưng Người thuộc mọi chủng tộc. Đức Ki-tô sinh ra ở Bê-lem, nhưng Người thuộc mọi quốc gia”).
Chúng ta có thề thêm một ý nữa vào câu nói trên: “Đức Ki-tô là vua dân Do-thái nhưng cũng là vua của muôn dân.”
Cả Thánh Kinh Cựu Ước (nhất là Sách các Ngôn Sứ) lẫn Thánh Kinh Tân Ước (nhất là 4 Phúc âm) đều nói về Đức Giê-su Ki-tô là vua dân Do-thái và vua muôn dân.
2.2 Đức Giê-su là Vua không ngai, không đền đài, không quyền lực, không binh lính bảo vệ, không người hầu kẻ hạ như vua Hê-rô-đê và các vua khác: Đức Giê-su vua dân Do-thái nhưng không sinh ra trong đền đài, không ngai vàng ở Giê-ru-sa-lem, không có kẻ hầu ngưởi hạ như vua Hê-rô-đê, không binh lính bao quanh, không quyền lực. Ngài sinh ra trong máng cỏ bò lừa vùng Bê-lem. Bên cạnh Ngài là cha mẹ và những con vật. Thượng khách của ngài là những người chăn chiên và HiểnLinh ABCđến từ Phương Đông. Mặc dù thế, nhưng vua Hê-rô-đê lại rất sợ Ngài nên tìm cách giết hại Ngài.
Sau này Vua Giê-su thể hiện vương quyền của Ngài một cách không ai ngờ”
* trước tòa Phi-la-tô: Vua Giê-su hai tay bị trói, đầu đội mạo gai, mình mặc áo đỏ;
* trên thập giá: Vua Giê-su tay chân bị đóng đinh vào cây gỗ, không mảnh vải che thân.
2.3 Đức Giê-su là Vua không có vàng bạc châu báu như các vua trần thế: Đức Giê-su là vua dân Do-thái và vua muôn dân nhưng không có vàng bạc châu báu trong kho. Thậm chí Ngài không có cả cái nhà để ở. Ngài đúng là vua ”vô gia cư” (homeless). Ngài nhận vàng, nhũ hương và mộc dược của HiểnLinh ABCđến từ Ph: ương Đông, vì quả thật Ngài là vua và sau này Ngài sẽ được xức dầu và mai táng trong mồ.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12):
3.1 Trong truyền thống Thánh Kinh Do-thái và Ki-tô giáo, vua là người phục vụ dân và lo cho hạnh phúc của dân
Đọc lịch sử Ít-ra-en, chúng ta thấy Thiên Chúa đã cương quyết chống lại đề nghị của dân Do-thái muốn Ngài cho phép họ lập vua như các dân xung quanh. Ý của Thiên Chúa là dân Chúa không có vua nào khác ngoài Thiên Chúa. Có thể nói Thiên Chúa đã miễn cưỡng chiều theo ý muốn của dân Ít-ra-en là có vua cai trị họ. Nhưng Thiên Chúa đã cảnh cáo họ về những cách mà các vua Ít-ra-en sẽ bóc lột dân, bắt dân phải phục vụ mình như thế nào.
3.2 Tiếp nối truyền thống ấy của Thánh Kinh Cựu Ước, Vua Giê-su Ki-tô đã khai mở một cung cách lãnh đạo mới: ”Lãnh đạo tôi tá (servant leadership)”
a) Vua Giê-su đã khai mở một phong cách lãnh đạo mới: ”lãnh đạo tôi tớ”. Lãnh đạo tôi tớ là hy sinh từ bỏ bản thân và quyền lợi riêng để lo cho tha nhân và xã hội. Từ bỏ càng nhiều thì càng giống Vua Giê-su Ki-tô. Hình ảnh biểu trưng của phong cách lãnh đạo này là hình ảnh Đức Giê-su (quỳ hay cúi xuống) rửa chân cho các tông đồ. Tiếc là rất nhiều người có quyền chức không hề biết đến hoặc xem thường phong cách lãnh đạo này của Vua Giê-su!
b) Quả thế rất nhiều người vì say mê chức quyền và địa vị mà sống vô đạo đức: Những vụ án tham nhũng và gian lận hàng ngàn tỷ đồng của một số cán bộ Nhà Nước Việt Nam trong mấy năm qua cho chúng ta thấy ”quyền” gắn liền với ”tiền” như thế nào và tác hại ra sao trên đời sống kinh tế của đất nước và đời sống đạo đức của xã hội. Đúng đồng tiền (mammon) là ”đầy tớ” hữu dụng nhưng lại là ”ông chủ” tàn ác.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12): Lạy Vua Giê-su Ki-tô, Ngài là Vị Vua không ngai vàng, không quyền lực; nhưng Ngài ngự trị tâm hồn của tất cả những con người thành tâm thiện chí. Ngài cai trị thế giới và loài người bằng tình thương và công lý. Ngài chinh phục mọi người bằng lối sống tự hạ và khiêm nhu. Ngài lôi kéo chúng con bằng cách phục vụ hy sinh quên mình, tự hạ và tự hủy. Chúng con chúc tụng ngợi khen và tạ ơn Ngài.
Xin Vua Giê-su ban cho chúng con tinh thần và lối sống của Ngài, để chúng con phục vụ tha nhân và xã hội và đem nhiều người về với Vua của Tình Thương. Amen.
Kinh Thánh kể lại rằng: Khi các nhà đạo sĩ gặp Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ Belem, họ liền HiểnLinh ABC319
Kinh Thánh kể lại rằng: Khi các nhà đạo sĩ gặp Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ Belem, họ liền dâng tiến lễ vật cho Chúa Hài Nhi: vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua. Nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa. Và mộc dược để chỉ cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này. Đối với ta, thì những lễ vật ấy có ý nghĩa gì?
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của ta. Một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt, như lời Chúa đã nói: “Con hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực con” (Mc 12,30). Thánh Phaolô còn nhấn mạnh về sự trung kiên của ta đối với Chúa: “Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng mến Đức Kitô? Dù bắt bớ, dù tù đày, dù đòn vọt, dù đói khát, cũng không thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Chúa” (Rm 8,35). Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của ta. Thực vậy, ta có thể lừa dối kẻ khác, chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay thường thích hóa trang, thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Ta phải là thứ vàng tinh ròng, chứ không phải là thứ vàng mã.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của ta đối với Thiên Chúa. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể. Qua hình ảnh nhũ hương, ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt của ta vào bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin có tính cách giáo điều hay lý thuyết, nhưng là một niềm tin sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa. Ngài đang thực sự ở giữa chúng ta, và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn ta qua Bí tích Thánh Thể. Ngài cũng đang giảng dạy ta qua lời Ngài trong Sách Thánh. Nhũ hương còn tượng trưng cho tâm tình cầu nguyện của ta, như lời Thánh vịnh: “Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên trước tôn nhan Chúa” (Tv 141,2).
Sau cùng là mộc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng của ta vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ đang được tái diễn, qua lễ dâng trên bàn thờ. Thánh Phaolô nói: “Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em hãy loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến” (1Cr 11,26). Chính vì thế, Ngài khuyên nhủ chúng ta: “Anh em hãy mang lấy dấu tích của Đức Kitô nơi thân xác anh em” (Gl 6,17). Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình của mỗi người, như lời Chúa phán: “Ai muốn theo, Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23). Hơn nữa, mộc dược còn nói lên những hy sinh vất vả trong cuộc sống của mỗi người. Ai cũng có đau khổ thể xác và tâm hồn.
Ước gì ta hãy chấp nhận những khổ đau trong đời sống, vì lòng yêu mến Chúa; và hãy dâng lên Chúa những đau khổ ấy, như một lễ vật nhỏ mọn và chân thành. Bấy giờ đau khổ của ta sẽ góp phần vào đau khổ của Đức Kitô, tựa như những giọt máu ta đổ ra, hòa nhập với dòng Máu Thánh của Chúa, làm nên ơn cứu độ cho ta, và góp phần làm chứng cho Chúa. Giờ đây mỗi người hãy suy nghĩ và tự hỏi: Ta đã dâng những gì, để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi? Ta không có vàng, nhũ hương và mộc dược. Nhưng ta có thân xác và tâm hồn này. Ta có biết bao hi sinh vất vả trong đời sống. Ta có những nỗi đau thầm kín và tâm tư lặng trầm. Đó là những lễ vật quý báu, mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì ta hãy mau mắn và quảng đại dâng hết cho Chúa trong niềm vui dâng hiến. Lạy Chúa! Mọi sự nơi con đều là của Chúa. Con xin dâng tất cả cho Chúa. Xin Chúa vui lòng chấp nhận, và thánh hóa của lễ con dâng, sao cho đẹp lòng Chúa.
Tin mừng ngày lễ Hiển Linh ghi lại biến cố ba đạo sĩ đi tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới sinh nơi hang HiểnLinh ABC320
Tin mừng ngày lễ Hiển Linh ghi lại biến cố ba đạo sĩ đi tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới sinh nơi hang đá Bêlem và trình bày Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà đại diện là ba đạo sĩ bên phương Đông. Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người không phân biệt lương giáo. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là những anh em lương dân đến bái lạy, tin nhận Đức Giêsu là Đấng Messia (đại diện là 3 vua). Còn dân Do Thái đã từ chối không tin nhận Ngài: Vua Hêrôđê mưu tính giết Ngài, dân thành Giêrusalem thì bối rối, hoảng hốt, lo sợ!
Ba nhà đạo sĩ trong cuộc hành trình đi tìm Chúa với biết bao nhiêu vất vả, cực khổ, khó khăn: băng qua đồi, leo qua núi, vượt qua sa mạc với khí hậu vô cùng khắc nghiệt ngày nóng cháy da, đêm lạnh buốt thấu xương… Ánh sao dẫn lối cũng biến mất. Các ngài không thất vọng bỏ cuộc, không nản chí sờn lòng, quyết đi tìm, hỏi han, thăm dò. Điều đáng chú ý không phải là những kinh sư, luật sĩ, thượng tế đã trả lời cho sự tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ: “Vua dân Do Thái mới sinh ra, hiện đang ở đâu?”. Nhưng chính là sự chỉ dẫn của Thánh kinh: ”Nơi Bêlem, thuộc đất Giuđa sẽ xuất hiện vị cứu tinh, Đấng chăn dắt Israel”.
Qua sự chỉ dẫn của Thánh kinh, họ tiếp tục lên đường nhắm thẳng hướng Bêlem và họ đã thành công: “Họ đã gặp thấy Hài Nhi và Mẹ Maria, Mẹ Người. Họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược”.
Bằng hành vi bái lạy với lòng tôn kính và dâng lễ vật cho Chúa Hài Nhi, các nhà đạo sĩ đã tin nhận Hài Nhi Giêsu là Đấng Messia, là vua và là mục tử của muôn dân.
Tin mừng cũng cho thấy thái độ khác nhau của con người đối diện Chúa Giêsu, Đấng Messia:
– Ba nhà đạo sĩ nhìn nhận Đức Giêsu là vua Messia trong tâm tình hân hoan và thờ lạy: “Họ bái thờ Người”.
– Các thượng tế và luật sĩ thì thờ ơ, lãnh đạm, bối rối không quan tâm.
– Vua Hêrôđê lo sợ về ngai vàng của mình khi các đạo sĩ hỏi: “Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu?”. Vì ham quyền, ham danh vọng, địa vị mà Hêrôđê đã điên cuồng chống phá, bách hại, tìm giết Hài Nhi.
Cuộc hành trình đi tìm gặp Chúa Giêsu Hài Nhi của ba nhà đạo sĩ cũng là cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu hôm nay. Cuộc lữ hành trần gian là hành trình đi tìm gặp Chúa, gặp Đấng Messia để được ơn cứu độ. Cũng như xưa, cuộc hành trình của ba nhà đạo sĩ được khởi sự từ sự thúc đẩy thực tế là ánh sao lạ, được chỉ dẫn bởi Thánh kinh và một đức tin mạnh mẽ, đơn sơ, chân thành. Cuộc hành trình ấy cũng là con đường tìm đến với Đức Kitô, đấng cứu độ duy nhất của nhân loại hôm nay, của người Kitô hữu chúng ta:
“Lời Người là ánh sáng đời con Lời người làm chúa chan hy vọng Là đường để con hằng dõi bước Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai”
Với niềm tin vững mạnh và sự chỉ dẫn của Lời Chúa, chúng ta mới có thể tìm gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao HiểnLinh ABC321
Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2). Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.
Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Chuyện đang công khai, Hêrôđê chuyển thành bí mật: “bí mật vời các nhà chiêm tinh, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi phái các vị ấy đi, căn dặn: xin đi dò hỏi tường tận… khi tìm thấy xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy người”. Tất cả những động từ trên đây cho thấy cáo già Hêrôđê đang tìm cách biến các nhà chiêm tinh thành gián điệp phục vụ cho âm mưu đen tối của ông.
Các đạo sĩ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi đường khác mà về xứ mình”.
Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” (Mt 8,11). Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Hôm nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” . Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi : “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Gioan giải thích : “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18).
Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy. “Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố… Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.” (ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt).
Thời nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Ngôi sao Đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc,11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. (x.Verbum Domini, số 124).
Chính Chúa Giêsu là Ngôi Sao Mai dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng Ngôi Sao Mai, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Phúc Âm giữa lòng trần thế. Loan báo Phúc Âm là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.
Ánh sáng không bao giờ hòa chung với bóng tối, bất cứ nơi nào xuất hiện cái này thì không thể HiểnLinh ABC322
Ánh sáng không bao giờ hòa chung với bóng tối, bất cứ nơi nào xuất hiện cái này thì không thể có cái kia – và ngược lại. Ánh sáng xuất hiện thì bóng tối phải tan biến vì ánh sáng mạnh hơn bóng tối: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5).
Sự sáng là Thiên Chúa, bởi vì Ngài là ánh sáng chiếu soi trần gian tăm tối (x. Ga 1:9; Ga 8:12; Ga 9:5; Ga 12:46; 1 Ga 1:5), đối lập với bóng tối là ma quỷ. Từ xưa, sách Tôbia đã cho biết: “Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất; từ viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi. Và dân cư tận chân trời góc biển sẽ tới hát mừng danh thánh Chúa, tay bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời. Muôn thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ, và tên ngươi, thành được Chúa chọn, sẽ lưu truyền hậu thế đến ngàn năm” (Tb 13:13).
Ôi, Miền Ánh Sáng đó thật kỳ diệu. Đó chính là Miền Ánh Sáng của Đức Tin sáng ngời, của Hồng Ân chan chứa, của Yêu Thương diệu kỳ, của Lòng Thương Xót bao la, của Hòa Bình trường tồn, của Công Lý nghiêm minh, của Chân Lý tuyệt đối, của Tự Do đích thực, của Hạnh Phúc miên viễn , của Sự Sống vĩnh cửu,…
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã vui mừng mời gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60:1-2). Bình minh xua tan bóng đêm, ánh sáng tiêu diệt bóng tối. Ánh Sáng đó là Ánh Sáng Đức Kitô vĩnh viễn – hôm qua cũng như hôm nay, và đến mãi đời đời.
Con Thiên Chúa nhập thể hóa thành một Hài Nhi, mặc xác phàm để nên giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi, nhưng chính Con Người đó chính là Ánh Sáng, là Ngôi Lời, là Thiên Chúa tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình. Nhờ đó, “chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”, đồng thời “đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60:3-4).
Trong cuộc sống đời thường, chắc hẳn người mù mà được thấy ánh sáng thì hạnh phúc lắm, kinh nghiệm cho chúng ta nhận thấy rằng chỉ bị đau mắt mà khỏi thì chúng ta cũng đã vui mừng lắm rồi. Vì chúng ta không bị mù nên không thể cảm nhận trọn vẹn niềm vui sướng của người-mù-được-sáng-mắt, nhưng về tâm linh thì chúng ta đã từng bị mù về đức tin, nhưng nay diễm phúc được thấy Ánh Sáng Đức Tin. Niềm vui quá lớn lao! Ngôn sứ Isaia diễn tả: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (Is 60:5-6).
Thánh Vịnh gia đã đại diện chúng ta mà cầu xin khi khiêm cung kính cẩn thân thưa: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:1-2). Ai chân thành xin thì sẽ được, và chắc chắn Thiên Chúa sẽ không bao giờ khước từ, bởi vì Ngài luôn muốn chúng ta được hạnh phúc ngay từ đời này.
Đó là sự thật minh nhiên, Chúa Giêsu là Vua Công Lý, Ngài đến để thi hành Thánh Luật của Đức Chúa một cách triệt để: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8). Bất cứ kẻ nào lạm dụng quyền thế và ỷ vào chức tước sẽ bị Ngài nghiêm trị.
Dù gần hay xa, thành phố hay miền quê, khắp nơi đều được hưởng bình an đích thực. Niềm vui được thể hiện: Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả về triều cống; cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật; mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự. Khắp nơi đều rộn rã tiếng reo vui, vì từ nay mọi người được sống trong Ánh Sáng Đức Tin, được phục hồi cả nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được Thiên Chúa đòi lại công lý: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn, từng giọt máu họ, Người đều coi là quý” (Tv 72:12-13).
Ý thức về trách nhiệm được giao, Thánh Phaolô bày tỏ: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây” (Ep 3:2-3). Kế hoạch cứu độ của Chúa đã được khởi đầu thực hiện từ khi Đấng Emmanuel đến ở cùng và chia sẻ gian lao với phàm nhân chúng ta.
Thánh Phaolô là người dày kinh nghiệm “xương máu” về tình trạng mù-được-sáng-mắt (cả nghĩa đen và nghĩa bóng), và rất hạnh phúc khi được cứu độ, ông giải thích minh bạch: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).
Đúng là trên cả tuyệt vời, bởi vì chúng ta đang là KHÔNG mà thành CÓ, đang là TỘI NHÂN mà thành CON CÁI, lại được CHIA SẺ và THỪA KẾ mọi thứ. Thực sự đó là niềm vui quá lớn lao, niềm hạnh phúc khôn tả mà phàm ngôn không thể diễn tả!
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng miền Bêlem nhỏ bé mà quan trọng, miền Bêlem tối tăm mà chợt thành Miền Ánh Sáng, miền Bêlem tầm thường mà bỗng thành Ngai Tòa của Chúa Tể Càn Khôn. Sự thể quá đỗi lạ lùng!
Tiếp theo sau sự kiện Con Chúa giáng sinh, Thánh sử Mát-thêu cho biết: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy chiêm tinh gia từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2). Họ là dân ngoại nhưng lại mau mắn nhận biết “sự lạ” và theo hướng dẫn của Ánh Sáng Đức Tin bằng cách đi theo hướng Ngôi Sao Lạ.
Khi nghe các đạo sĩ báo tin về một Tân Vương, vua Hê-rô-đê đã lúng túng như gà mắc tóc và hốt hoảng, tin này lan ra khiến cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Vốn tâm độc, bạo vương Hê-rô-đê liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ thành thật trả lời y như những gì họ đã biết: “Tại Bêlem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2:5-6).
Và rồi ông ta bí mật cho mời các chiêm tinh gia đến và hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Ra cái vẻ chân thành, ông ta phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8). Đúng là con cáo già, miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm. Vô cùng hèn nhát!
Bạo vương Hê-rô-đê mưu mô thâm độc vì sợ người khác “chạm” đến ngai vàng đầy quyền lực của mình. Ngày nay cũng không thiếu những con người hèn nhát và bỉ ổi như “con cáo già” Hê-rô-đê, đó là những người tham quyền cố vị, tìm mọi cách “cố thủ” để bảo vệ “chiếc ghế” chứ chưa hẳn vì có ý tốt là phục vụ đồng bào và tha nhân. Hê-rô-đê ngày nay đa dạng, độc ác và nguy hiểm hơn Hê-rô-đê ngày xưa – đời hay đạo cũng đều có loại virus ác ôn đó. Và họ rất tinh vi nên không dễ nhận ra. Hãy cố gắng cảnh giác cao độ để có thể nhận biết chân tướng của “bọn cáo già” mà tránh cho xa!
Tuy nhiên, các chiêm tinh gia là dân hiểu biết nên không dễ mắc lừa. Mới đầu, họ nghe nhà vua nói thế, họ cũng tưởng nhà vua thật lòng nên ra đi tìm kiếm điều họ muốn biết tỏ tường. Và lạ thay, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở rồi mới dừng lại. Vừa ra khỏi triều đình, họ trông thấy ngôi sao nên mừng rỡ vô cùng. Khi đến nơi cần đến, họ thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria và Chú Giuse, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi mà họ tin chắc là Tân Vương. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến. Ôi chao, các ông này thành kính quá, con mắt đức tin của họ “sáng” quá, thế nên họ mới nhận ra Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng Thật và là Thiên Chúa Thật.
Cuối cùng, Thánh Mát-thêu cho biết rõ ràng rằng họ được báo mộng và cùng nhau KHÔNG trở lại gặp “con cáo già” Hê-rô-đê nữa, họ tìm đường khác để trở về quê quán (x. Mt 2:12). Thánh Mát-thêu tường thuật đơn giản và ngắn gọn, nhưng vẫn chứng tỏ sự khôn ngoan và sự mau mắn của mấy chiêm tinh gia khi họ tuân theo gợi ý khôn ngoan của Thiên Chúa.
Các chiêm tinh gia là dân trí thức và dùng sự thông hiểu của mình để nhận biết Thiên Chúa là ai. Ngày nay, nhiều người trí thức mà vẫn không nhận biết Thiên Chúa, thậm chí có người còn dùng lý luận khoa học của mình mà tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Các chiêm tinh gia là những con người can đảm, không hèn nhát, dám bất tuân vua quan trần thế để thi hành ý Chúa. Còn chúng ta thì sao?
Hèn nhát như ác vương Hê-rô-đê là tồi tệ. Kinh Thánh nói: “Khốn thay những tâm hồn HÈN NHÁT, những bàn tay rã rời, và người tội lỗi lập lờ nước đôi” (Hc 2:12). Can đảm và cương trực là điều không dễ, phải thực sự dấn thân vì người khác. Thật đáng khâm phục bản lĩnh của cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, được chứng tỏ qua lời nói của ông: “Tôi TIẾN thì THEO tôi, tôi LÙI thì BẮN tôi, tôi CHẾT thì NỐI CHÍ tôi”. Về phương diện đức tin, chúng ta cũng phải cương quyết như vậy, nghĩa là phải luôn hành động theo hướng dẫn của đức tin chân chính. Mặc dù đức tin có trước lý trí nhưng vẫn cần có lý trí để phân định mà không bị lệch lạc.
Lạy Thiên Chúa công bình và nhân hậu, xin giúp con duy trì tầm nhìn của con mắt đức tin để có thể nhận biết Ngài hiện hữu qua các biến cố của cuộc đời, nhìn thấy Ngài nơi tha nhân, nhất là nơi những con người hèn mọn nhất. Xin giúp con can đảm loại bỏ mọi ý nghĩ xấu xa để con có thể can đảm chống lại cái ác và được gặp Chúa qua Ánh Sáng Đức Tin. Con cầu xin nhân danh Vương Nhi Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
+ Thưởng thức HIểNLINH ABCHÀNH KHÚC: https://www.youtube.com/watch?v=7JPkFAQ7AYQ
Tin mừng hôm nay cho ta thấy có hai sự chỉ dẫn giúp ba vua- đại diện cho dân ngoại- tìm đến HiểnLinh ABC323
Tin mừng hôm nay cho ta thấy có hai sự chỉ dẫn giúp ba vua- đại diện cho dân ngoại- tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Đấng Cứu Độ muôn dân. Đó là ánh sao (dấu chỉ tự nhiên) và Lời Chúa (dấu chỉ siêu nhiên).
Ánh sao, dấu chỉ tự nhiên
Vào đêm Chúa Giáng Sinh bầu trời Belem lấp lánh ánh sao lạ và rộn ràng thiên thần ca hát. Nhưng chẳng có ai hay ai biết. Chỉ có mấy mục đồng nhận được sứ điệp của thiên thần. Chỉ có mấy nhà đạo sĩ- ba vua- ngoại giáo nhận ra ánh sao lạ.
Khi nhận ra ánh sao lạ báo hiệu Đấng Cứu Thế ra đời, các đạo sĩ vui mừng lên đường tìm kiếm. Dõi theo ánh sao, các đạo sĩ tìm đến Giêrusalem, trung tâm chính trị, văn hoá và tôn giáo của Israel, dân riêng Thiên Chúa.
Đến Giêrusalem, ánh sao biến mất, khiến các đạo sĩ phải hỏi thăm tin tức về nơi chốn vị “Vua dân Dothái vừa mới sinh.”
Kinh Thánh, Lời Chúa, mạc khải siêu nhiên
Nhận được câu hỏi của các đạo sĩ về nơi chốn vị “Vua dân Dothái vừa mới sinh”, vua quan và dân chúng kinh thành Giêrusalem bối rối xôn xao. Nhờ vào Thánh Kinh họ đã đưa ra câu trả lời cho HiểnLinh ABCvề nơi chốn của vị Vua mừa mới giáng sinh, đó là Belem.
Nhờ sự chỉ dẫn của Kinh Thánh – Lời Chúa, các đạo sĩ biết được chính xác nơi chốn Hài Nhi Giêsu giáng sinh, họ lại tiếp tục lên đường tìm kiếm Ngài. Ra khỏi thành Giêrusalem, các đạo sĩ lại nhận thấy ánh sao lạ tiếp tục chiếu sáng và soi dẫn họ tìm đến gặp Hài Nhi Giêsu.
Gặp được Vua dân Dothái mới sinh chính là Hài Nhi Giêsu mà họ đang kiếm tìm, các đạo sĩ liền qùi gối thờ lạy, dâng lễ vật để tỏ lòng thành kính
Sống Tin mừng
Từ những điểm trên, ta nhận thấy vai trò của mạc khải tự nhiên trong việc giúp con người tìm kiếm Thiên Chúa như Thánh vịnh 18 viết: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm…”
Quả thật, khi nhìn ngắm trời đất muôn loài muôn vật, con người có thể nhận ra Thiên Chúa là tác giả.
Dấu chỉ tự nhiên trong trời đất cần thiết để thúc đẩy con người hăng say kiếm tìm, khám phá chân lý. Tuy nhiên tự nó không đủ để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa hằng sống, cần phải có sự trợ giúp của mặc khải siêu nhiên là Lời Thiên Chúa, được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, thì con người mới chắc chắn tìm gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại.
Để giúp cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ và những chân lý mạc khải siêu nhiên, Thiên Chúa đã chọn gọi dân Israel là dân riêng. Nói khác đi, dân Israel như là một khí cụ Thiên Chúa dùng để đón nhận và trao ban Đấng Cứu Độ cho muôn dân. Vì thế muôn dân muôn nước sẽ phải đến với dân Israel như lời tiên tri Isaia loan báo (Is 60,1- 6).
Ngày nay vai trò của dân Isarael đã bị Giáo Hội thế chỗ. Giáo Hội là dân Israel mới, được Đức Giêsu tuyển chọn và thành lập trên nền tảng 12 thánh Tông đồ theo thánh ý Chúa Cha với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Cũng như và còn hơn dân Israel xưa, Giáo Hội có vai trò đón nhận, gìn giữ, trình bày, giải thích kho tàng mạc khải siêu nhiên cách nguyên tuyền và đúng đắn cho nhân loại, để chỉ cho nhân loại con đường chắc chắn dẫn đưa tới Thiên Chúa và sự sống đời đời. Vì thế:
– Chúng ta phải luôn vâng lời Giáo Hội và góp sức mình vào việc xây dựng và phát triển Giáo Hội ngay tại địa phương, môi trường sống của mình, để Giáo Hội, giáo xứ giáo họ chúng ta như là ‘ánh sao’ và là một địa chỉ đáng tin cậy, giúp người ta tìm đến với Chúa. Đừng bao giờ coi thường và chống phá Giáo Hội, gây gương mù gương xấu, làm cho người ngoại giáo không còn coi Giáo Hôi, giáo xứ giáo họ là địa chỉ đáng tin cậy giúp họ tìm đến với Chúa nữa.
– “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” (T. Giê-rô-ni-mô). Cho nên chúng ta phải năng đọc và suy gẫm Thánh Kinh, tích cực học hỏi sâu rộng về giáo lý đức tin và văn hoá trong đời sống hàng ngày, để đời chúng ta “luôn chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời và sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta” như là dân Israel xưa đã trả lời cho ba nhà đạo sĩ.
Kinh không thuộc, giáo lý không biết, Lời Chúa không đọc không học, thì làm sao trả lời cho bất cứ ai tra hỏi chúng ta về lẽ đạo! Không trả lời được về lẽ Đạo, không dẫn đưa người khác đến với Chúa, thì đời chúng ta lúc ấy thay vì chiếu sáng lại trở nên tối tăm! Thay vì làm sáng danh Chúa lại làm ô danh Chúa!
Lạy Chúa, hôm nay Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Nhờ ánh sao lạ và nhờ ánh sáng Lời Chúa, ba vua, đại diện cho dân ngoại tìm đến với Chúa là nguồn cội sự sống và bến bờ hạnh phúc.
Xin cho mỗi người chúng con, gia đình chúng con, giáo xứ chúng con như là một ánh sao dẫn đưa người lương dân tìm đến với Chúa.
Xin cho mỗi người chúng con nhất là các bạn trẻ tích cực học hỏi sâu rộng về giáo lý đức tin và văn hoá, để chúng con sẵn sàng trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của chúng con cũng như sẵn sàng hướng dẫn cho ai khao khát tìm kiếm Chúa. Amen.
Lạy Chúa, Lại một Mùa Giáng sinh đã qua đi. Mới hôm nào đây, con nôn nao mong ngày Lễ HiểnLinh ABC324
Lạy Chúa, Lại một Mùa Giáng sinh đã qua đi. Mới hôm nào đây, con nôn nao mong ngày Lễ Noel chóng đến. Vậy mà hôm nay, ngày Lễ đã qua đi được hai tuần.
Thóang một cái, một năm đã trôi qua. Năm 2018 đã bước qua những ngày đầu tiên, con đã thêm một tuổi mới. Lớn lên thêm hay đang già đi? Mùa Giáng Sinh đi qua để lại nơi con điều gì? Phải chăng chỉ là một niềm vui qua những buổi gặp gỡ, chúc mừng nhau; những buổi liên hoan gọi là Mừng lễ những ngày trước đó, hay những tấm thiệp, gói quà xinh xinh, chiếc bánh kem con nhận được từ bạn bè, người thân, những tấm hình sinh động gửi qua Messenger của chiếc điện thoại di động kèm âm thanh của những bài Thánh ca, cả những bộ quần áo đẹp chưng diện được nhiều người khen?
Lạy Chúa, Nếu chỉ mừng ngày kỷ niệm Chúa đến như một dịp lễ hội, con đâu khác những người ở kinh thành Bê Lem xưa cũng đèn đuốc, ăn uống thả dàn đón người người về quê cũ đăng ký nhân khẩu, kiểm tra dân số. Chúa đến ở giữa dân Người, nhưng họ chẳng nhận ra; thậm chí từ chối, xua đuổi để mải mê vui chơi, ăn uống, làm giàu.
Nếu con chỉ mừng lễ Giáng sinh như một ngày lễ lớn trong năm, con cũng đâu khác gì những người Luật sĩ, Thượng tế thông biết lề luật, Kinh Thánh, thuộc lòng các sách Tiên tri, biết Đức Giêsu sẽ sinh ra tại BêLem, nhưng họ lại dửng dưng. Rồi sau đó khi biết Người đã sinh ra, từ thông tin của các nhà Đạo sĩ, bèn họp nhau tìm cách bách hại, tìm giết Chúa, do lo sợ bị mất quyền lợi, địa vị, chức quyền.
Ánh sao năm xưa đã chỉ đường cho những ba vị đạo sĩ mang tiếng là dân ngọai tìm gặp Chúa. Chúa đã tỏ mình ra với những con người khiêm tốn, biết từ bỏ những tiện nghi, thỏai mái trong cuộc sống, chấp nhận gian khó và mạnh dạn lên đường theo ánh sao lạ, theo những chỉ dẫn của Thánh Kinh, biết dò dẫm, tìm hiểu và cuối cùng tìm được đến Người để thờ lạy, tôn vinh, tin nhận. Và chính qua những con người biết dâng trọn niềm phó thác, biết dâng Chúa tất cả những gì quí báu nhất của bản thân, họ đã được Chúa tỏ mình ra. Và qua họ, ánh sáng và Tin Mừng đến được với muôn dân muôn nước .
Phần con, con có biết noi gương các vị đạo sĩ, tìm theo những dấu chỉ trong đời sống để nhận ra Chúa trong cuộc đời hôm nay? Chúa không ở đâu xa, Người đang ở bên con. Chúa hiện diện nơi những người bất hạnh, khốn khó, yếu đau, bệnh tật; những người lang thang, cơ nhỡ đang cần đến con. Con có sẵn sàng đón tiếp, gần gũi, giúp đỡ họ? Làm được những điều ấy là con đón tiếp Chúa.
Xin cho mắt con mở ra, chân con bước tới, tay con giang rộng với những người đang cần đến con. Con biết góp phần mình để xóa bớt đi những khổ đau, nhọc nhằn của anh em mình, tức là con mãi sống niềm vui Giáng sinh mà các Thiên sứ đã loan báo: “Vinh Danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho lòai người Chúa thương “. AMEN.
Rất nhiều bậc cha mẹ nghèo, có con học giỏi, không ít những người thành đạt, đơn giản vì họ HiểnLinh ABC325
Rất nhiều bậc cha mẹ nghèo, có con học giỏi, không ít những người thành đạt, đơn giản vì họ sống quyết tâm: có chí thì nên. Giá trị cuộc sống được cân đo bằng tiền tài địa vị, bằng tình yêu thương, hay sự an vui tâm hồn, cũng do quan niệm và ý thức của mỗi người. Có chí làm quan, có gan làm giầu, không phải là khái niệm mới mẻ ; chờ thời, chờ sung rụng, có thể chẳng mấy ai mặn mà với ý tưởng hên xui như thế nữa. Hành trình tìm kiếm của ba đạo sĩ sẽ bị xem là “ngớ ngẩn”, nếu như họ lên đường vì “danh, lợi, thú”, triều thần Hêrôđê sẽ mãi bị thiên hạ “cười chê”, nếu họ chỉ quan tâm đến địa vị, bổng lộc trần thế. Thật bất ngờ khi các đạo sĩ từ phương xa tìm đến “Belem” có ý bái thờ Vị Vua mới sinh, quả là bối rối khi triều thần Hêrôđê nghe được câu hỏi: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu ?”, đúng là trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông.
Nếu bầu trời đêm tối không mưa, chúng ta không khó khăn gì để nhìn thấy ánh sao lấp lánh, nhưng đâu là “sao lạ”, dễ gì chúng ta đã có kinh nghiệm, điều này cũng khó như mấy ai đủ khôn ngoan để phân biệt thật giả ? Các mục đồng năm xưa dõi theo ánh quang mà tìm đến Belem nhờ các thiên thần ; sau đó các đạo sĩ tới bái thờ Hài nhi Giêsu nhờ “sao lạ”, nhờ triều thần Hêrôđê mách lối chỉ rõ vị trí “Belem”. Chúng ta hôm nay tới hang đá tại nhà thờ giáo xứ, tất cả xuất phát do niềm tin, do thao thức kiếm tìm ơn cứu độ như lời thiên thần loan báo: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Bằng mắt thường, các đạo sĩ đã gặp Hài nhi Giêsu sau hành trình thao thức tìm kiếm, rồi bằng mắt tâm hồn, họ đã nhận ra Hài nhi Giêsu chính là Thiên Chúa, và họ bái thờ Ngài.
Xã hội phong phú bởi có nhiều tâm hồn nghệ thuật, họ phân biệt được “sao lạ và sao không lạ”, tính toán được chính xác ngày giờ “Ngôi Lời” hạ sinh tại Belem và chỉ dẫn người khác. Xã hội cũng đầy những người có đầu óc làm kinh tế, họ luôn nhạy bén tranh thủ dù điều kiện hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi, để mang lại thu nhập tốt nhất. Trong khi các đạo sĩ thao thức dõi theo ánh sao lạ, tìm đến bái thờ “Vua dân Do-thái” mới sinh, thì triều thần Hêrôđê lại suy nghĩ tìm cách củng cố địa vị, dụng kế tìm mưu, nhằm loại bỏ danh tính “Hài nhi Giêsu” khỏi vương quyền trần thế. Ngày hôm nay có thể không ai ganh tỵ với sự nhạy bén của ba đạo sĩ, ngày hôm nay chẳng ai lên án sự cứng lòng của triều thần Hêrôđê ; có chăng, hãy kịch liệt phản đối, vì sao Chúa vẫn không ngừng tỏ vinh quang Chúa cho nhân loại chúng ta ?
Xã hội vẫn nói đến một ý tưởng vui vui đầy lạc quan: vô duyên đối diện thấy duyên liền, nhưng là đối diện với ai ? với người có duyên, người tài đức, hay đối diện với Hài nhi Giêsu ? Thực ra thì từ chối tình yêu, không tìm kiếm, không tiếp nhận Ngôi Lời làm người thì Thiên Chúa vẫn đến, Thiên Chúa vẫn tỏ ánh quang của Ngài cho khắp muôn dân thiên hạ. Hiện tại chúng ta đang cần quyền lực, cần tiền của vật chất, hay cần tình yêu thương như các mục đồng, như các đạo sĩ, Thiên Chúa thấu biết và Ngài sẽ thôi thúc, lay động, từng tâm hồn chúng ta đến với ơn bình an của Ngài. Cuộc tìm kiếm, hay thao thức đầu tư cho niềm an vui hạnh phúc, bao giờ cũng cần sự quyết tâm của chí khí. Hài nhi Giêsu, Đức Maria, Thánh Giuse, ở hang đá Belem năm xưa chỉ thinh lặng không nói gì, ấy thế mà các đạo sĩ vẫn bày tỏ lòng thành tâm thiện chí với lễ vật vàng, mộc dược và nhũ hương để dâng kính Chúa.
Cũng như các đạo sĩ năm xưa phát hiện “sao lạ”, họ đã mau chóng lên đường tìm kiếm, nếu không “sao lạ” đã trở nên chuyện tình cờ rồi tan biến thôi. Người kitô hữu hôm nay, được soi sáng để biết trách nhiệm và bổn phận đối với Hội thánh, với gia đình, nhưng chúng ta thiếu quyết tâm, không bày tỏ lòng thành, việc hiểu biết bổn phận cũng sẽ vô nghĩa mà thôi. Muốn xem bằng mắt, bắt bằng tay về dấu chỉ “sao lạ” thế nào, các đạo sĩ không thể ung dung ngồi ở nhà quan sát, ngắm nhìn, họ phải có thao thức lên đường tìm kiếm. Người Kitô hữu chúng ta muốn gặp Hài nhi Giêsu bằng mắt thường, chỉ cần qua Bí tích rửa tội và đến hang đá với ánh đèn nhấp nháy tại nhà thờ giáo xứ. Nếu muốn gặp Chúa bằng mắt tâm hồn, chúng ta cần bỏ tính ích kỷ mà cùng với anh chị em lên đường, cùng thực hành niềm tin của mình là muốn được gặp niềm vui ơn cứu độ.
Ngày hôm nay, ngôi sao lạ không xuất hiện dẫn lối chỉ đường như năm xưa, nhưng bằng ơn thiêng liêng, ánh quang của hang đá Belem vẫn không ngừng dẫn dắt mỗi tâm hồn đến với Hài nhi Giêsu. Tuy cách thế có khác xưa, Thiên Chúa vẫn cần đến lòng thành và sự quyết tâm của chúng ta. Tất cả những ai đang giầu nghèo, tài giỏi, hay đức độ, Hài nhi Giêsu sẽ rất vui, khi chúng ta đang mặc lấy tinh thần khiêm tốn kiếm tìm như các đạo sĩ, đều đáng gọi là người khôn ngoan của thời đại. Ngày hôm nay, dù đạo gốc, đạo mới, già hay trẻ, ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ còn đến với từng tâm hồn, từng gia đình, như Ngài hằng chiếu toả niềm vui ơn cứu độ của Ngài cho các đạo sĩ năm xưa. Amen.
Cuộc đời của mỗi Kitô hữu là một cuộc hành trình đi tìm Chúa. Chúng ta lên đường hằng ngày bằng HiểnLinh ABC326
Cuộc đời của mỗi Kitô hữu là một cuộc hành trình đi tìm Chúa. Chúng ta lên đường hằng ngày bằng chính sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban và cuộc đời mà chúng ta vẫn đang sống. Thế nhưng trong sự sống và cuộc đời này chúng ta có tìm gặp được Thiên Chúa không? Chắc chắn có những người tìm gặp như ba nhà đạo sĩ trong đoạn Tin Mừng hôm nay, và chắc chắn cũng có những không tìm gặp như Hêrôđê
Có nhiều lý do để chúng ta không tìm gặp được Thiên Chúa. Lý do thứ nhất là vì chúng ta không chịu lên đường. Lý do thứ hai là vì chúng ta không dõi theo ánh sao yêu thương mà dõi theo một ánh sao nào đó. Lý do thứ ba là vì sau khi đã lên đường, đã tìm gặp Chúa rồi, chúng ta không đi theo con đường khác theo lời của Chúa mà vẫn trở về con đường cũ nên tình yêu thương không lưu lại trong đời sống chúng ta.
Sau khi đã biết được những lý do khiến chúng ta không thể tìm gặp được tình yêu thương là chính Chúa, chúng ta hãy một lần nữa lên đường nhưng biết khắc phục những cản trở mà chúng ta vừa tìm hiểu.
Trước hết muốn tìm gặp Chúa thì đòi hỏi chúng ta phải lên đường. Vua Hêrôđê và những người cầm quyền trong dân biết rõ vua dân Do Thái sinh ra “Tại Bê lem, miền Giuđa” nhờ dựa vào Thánh kinh, nhưng họ không lên đường nên không gặp. Ngược lại, những nhà đạo sĩ không biết “Đức vua dân Do Thái, mới sinh hiện ở đâu?” vì họ là những người ngoại đạo, thế nhưng họ đã lên đường dõi theo ánh sao lạ để đi tìm và họ đã gặp. Lên đường chính là đời sống đạo của chúng ta. Có những người nói rằng: “Đạo hả, tôi một bụng nè!” nhưng chẳng thấy họ đến nhà thờ, chẳng thấy họ giữ đạo và sống đạo. Như vậy dù cho đạo ngập lút đầu họ đi nữa chứ không cần một bụng, họ vẫn không thể gặp Chúa, vì họ chưa lên đường. Ngược lại có những người hiểu biết về đạo, về Chúa ít lắm, nhưng họ vẫn cố gắng để giữ đạo cho đàng hoàng, vẫn nỗ lực để sống tốt hơn mỗi ngày… thì chắc chắn họ sẽ được gặp vì họ đã lên đường.
Kế đến, cuộc hành trình của chúng ta phải dõi theo ánh sao. Muốn tìm gặp Chúa thì chúng ta phải để cho ánh sáng của Chúa soi dẫn và đi trong chân lý của Chúa. Muốn tìm Chúa mà chúng ta cứ để cho những thế lực khác ngoài Chúa soi dẫn thì làm sao gặp Chúa được. Điều này tôi nói một cách thẳng thừng chính là tình trạng mê tín dị đoan mà nhiều gia đình và nhiều người vẫn còn đang mắc phải. Khi mê tín dị đoan có nghĩa là chúng ta đang dõi theo một ánh sao khác chứ không phải ánh sao chân lý của Chúa. Nếu chúng ta cứ mãi ở trong tình trạng như vậy thì không bao giờ gặp được Chúa; không phải vì Chúa không cho gặp, mà tại vì chúng ta đã đi theo ánh sao khác. Khi chứng kiến những tình trạng mê tín dị đoan, nhiều người rất đau lòng. Đau lòng vì Chúa đã bị phản bội, nhưng càng đau lòng hơn nữa khi con người đã bán rẻ linh hồn của mình.
Có nhiều người khi được nhắc nhở, động viên, khích lệ, hoặc là có dịp gì đó chẳng hạn như lễ Giáng Sinh, Tết, lễ Phục Sinh… họ đi xưng tội rước lễ, và đời sống của họ thay đổi rất rõ ràng. Thế nhưng được vài tuần, hoặc vài tháng là họ lại trở về với con đường cũ. Họ đã gặp Chúa nhưng không lưu lại với Chúa được. Chúng ta nhớ rằng những nhà đạo sĩ sau khi đã thờ lạy Chúa, được thiên thần báo mộng “họ đã đi lối khác mà về xứ mình”, vì nếu họ trở về đường cũ thì chắc chắn họ sẽ chết. Chúng ta cũng vậy, sau khi đã gặp Chúa, chúng ta phải đi con đường khác, có nghĩa là biết từ bỏ con đường cũ, con đường xấu xa tệ hại của mình. Để từ bỏ con đường cũ, đòi hỏi chúng ta phải can đảm, bởi vì thường thì chúng ta quen với con đường cũ, quen đến mức nhắm mắt cũng đi tới nữa mà! Xưng tội bài bạc, cá độ, đá gà… nhưng bỏ được vài tuần thôi chúng ta lại trở về với con đường cũ vì nó quen và hấp dẫn quá. Muốn bỏ được con đường cũ, đòi hỏi chúng ta phải có con đường mới, có nghĩa là thay vì những công việc bất chính mình phải có những công việc ngay chính. Thay vì để cho những đam mê xấu lôi kéo mình, hãy để cho những công việc tốt lành hấp dẫn chúng ta…
Các gia đình, nhất là các gia đình trẻ phải suy niệm đoạn Tin Mừng này thật nhiều để làm nền tảng cho đời sống gia đình của chúng ta. Kết hôn chỉ là khởi đầu cho một hành trình dài, các bạn đã lên đường, hãy tiếp tục lên đường cùng với người bạn đời, và sau này cùng với con cái chúng ta. Hãy để cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn đời sống đức tin của chúng ta. Phải tuyệt đối không tin vào những hình thức bói toán, mê tín dị đoan, vì nó chính là những ánh sao “quái thai, dị hợm”. Cố gắng từ bỏ những sai trái có nguy cơ giết chết đời sống gia đình như bài bạc, rượu chè, đam mê hút sách…
Tóm lại, lễ Hiển Linh hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lại hành trình theo Chúa của mình. Tôi có lên đường mỗi ngày bằng cách sống đạo tích cực chưa? Tôi có dõi theo ánh sao của Chúa hay dõi theo ánh sao nào khác bằng hình thức mê tín dị đoan hay không? Tôi có đi con đường khác khi trở về với Chúa hay tôi vẫn thích trở về với con đường cũ? Xin ơn Chúa giúp để cuộc hành trình của chúng ta tìm gặp được chính Chúa là tình yêu và lưu lại với Ngài mỗi ngày một sâu sắc hơn.
Khi đến thủ đô Giêrusalem, ba Đạo Sĩ dừng lại tại đền vua Hêrôđê để tìm Hài Nhi vì ngỡ rằng, HiểnLinh ABC327
Khi đến thủ đô Giêrusalem, ba Đạo Sĩ dừng lại tại đền vua Hêrôđê để tìm Hài Nhi vì ngỡ rằng, Thiên Chúa làm người phải sinh ra ở nơi sang trọng, đài cát. Nhưng không, Thiên Chúa làm người mà Hêrôđê sợ Người tranh giành ngôi vua của mình, chẳng màn chi đến vinh hoa trần thế, chẳng thèm một chút bã phù phiếm thế gian.
Còn Hêrôđê, kẻ rắp tâm thủ tiêu Hài Nhi làm sao có thể gặp được Đấng Thiên Chúa làm người? Bởi lòng ông đầy thủ đoạn, độc ác, tranh giành, say sưa trong vinh quang trần thế, vì thế, đến muôn đời, Hêrôđê không bao giờ gặp được Đấng mà lẽ ra mình phải tôn thờ, phải thần phục.
Cả những thượng tế, kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở, nhưng không tin Thiên Chúa hiện diện giữa cõi đời. Còn các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Tất cả họ cùng chung những điểm giống nhau, đó là: Hiểu biết về luật Chúa, về Kinh Thánh, gìn giữ đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa, được dân chúng kính trọng, được hưởng lợi lộc từ tôn giáo… nhưng thật trớ trêu, thật nghịc lý: Tất cả họ đều xa cách Thiên Chúa, giuột mất ơn cứu độ.
Cũng vậy, cuộc sống quanh ta hôm nay cũng đầy dẫy những người được coi là xuất chúng, uyên thâm, nhiều nhà khoa học tài giỏi, nhiều người vô thần lãnh nhiều chức tước trong chính trị, nhiều triết gia lý luận sắc bén, nhiều người thành đạt trong nhung lụa, nhiều người đỗ đạt hết bằng cấp này đến bằng cấp khác… nhưng có ai trong họ đã nhìn thấy ánh sáng từ trời cao chiếu soi cõi lòng con người!
Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của tất cả mọi người đơn sơ, tâm thành, hướng thiện mà thôi. Ba Đạo Sĩ đã cúi mình bước vào hang đá để kính thờ Hài Nhi, không ngai vàng, không quyền lực, nghèo đến nỗi phải sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ… Nhưng họ có tình yêu, có lòng sốt mến, có sự chân thành. Họ đã gặp Đấng là Thiên Chúa của lòng họ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được mang lấy tinh thần và lẽ sống của các Đạo Sĩ, đó là từ tâm, rộng lượng, biết sống vì Chúa, vì anh chị em…, để chúng con có thể gặp Chúa trong cuộc đời, trong cõi lòng mình, và qua từng anh chị em, từng biến cố của cuộc đời chúng con, suốt mọi ngày của đời chúng con. Amen.
Theo dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người. Ngài tỏ mình ra nhằm mục HiểnLinh ABC328
Theo dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người. Ngài tỏ mình ra nhằm mục đích cho con người biết ý định của Ngài, là muốn cho con người được tham dự vào sự sống đời đời của Ngài.
Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng lời nói: Ngài nói với ông Mô-sê, nói với các tiên tri. Sau đó, Mô-sê và các tiên tri nói lại với dân chúng. Chẳng hạn, Ngài nói với Mô-sê về ý định của Ngài là muốn đưa dân Is-ra-en thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập để về Đất Hứa. Mô-sê đi nói điều đó cho dân chúng biết (x. Xh 6,1-13).
Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng hành động: Chẳng hạn, Ngài cho nước Biển đỏ dựng đứng như bức tường thành để dân Is-ra-en đi qua (x. Xh 14, 15-31) hay cho mưa diêm sinh và lửa từ trời thiêu đốt thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra vì tội lỗi của họ (x. St 19,1-29)…
Ngài còn tỏ mình ta theo từng giai đoạn khác nhau của lịch sử cứu độ: Vào năm 1850 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Áp-ra-ham và thử lòng trung thành của ông qua việc đòi ông hiến tế đứa con duy nhất là I-xa-ác. Ông Áp-ra-ham đã vâng nghe và làm đúng như lời Thiên Chúa, nhưng được Thiên thần can ngăn. Thấy được lòng trung thành của ông, nên Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông một dân tộc, một dòng dõi đông đúc như sao trên trời và như cát ngoài bãi biển (x. St 22,1-19); vào năm 1250 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Mô-sê qua bụi cây bốc cháy và cho ông biết Ngài là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, tổ phụ người Do Thái và ý định của Ngài là đưa dân Ít-ra-en ra khỏi ách thống trị nô lệ Ai-cập (x. Xh 3, 1-22); vào năm 1000 (TCN), qua Na-than, Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít rằng Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi của ông (x. 2Sm 7,11-16); từ năm 721 (TCN), Thiên Chúa tiếp tục nói với dân chúng qua các tiên tri như I-sai-a, A-mốt, Hô-sê, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en…; Cuối cùng, Thiên Chúa tỏ mình ra cách trọn vẹn nơi Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, ngày lễ Giáng sinh là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Do Thái. Chính các Thiên thần báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.” (Lc 2,11). Còn ngày lễ Hiển linh mà chúng ta mừng kính hôm nay gọi là ngày lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại qua ngôi sao dẫn đường. Rồi, ông Si-mê-on nhận ra trẻ Hài nhi là Đấng Cứu Thế nhờ Thánh Thần linh hứng (x. 2,22-28). Bà An-na cũng được ơn nói tiên tri về Hài Nhi cho mọi người (x. Lc 2,36-38).
Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giê-su cũng tỏ mình ra cho các môn đệ và dân chúng bằng lời nói và các phép lạ Ngài làm. Ngài cho biết: Ngài là ai? Thiên Chúa là Đấng nào? Thiên Chúa có mấy ngôi? Nhiệm vụ của từng Ngôi như thế nào? Ngài còn mạc khải cho biết nhiều điều liên quan đến Thiên Chúa, đến thế giới thiêng liêng, đến số phận đời đời của con người và vũ trụ này. Sau ba năm đời sống công khai, Ngài đã chịu chết, sống lại và lên trời. Đến ngày tận cùng của thế giới, Ngài lại ngự đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Như vậy, nếu không có những lần Thiên Chúa tỏ mình ra, nếu không có Đức Giêsu mặc khải thì con người sẽ không biết Thiên Chúa là ai, ý định của Ngài như thế nào. Cũng vậy, các mục đồng sẽ không biết Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế nếu không được các Thiên thần loan báo. Các đạo sỹ cũng không biết Đức Giê-su nếu không có ngôi sao dẫn đường chỉ lối. Các tông đồ sẽ không biết về Thiên Chúa và các phẩm tính của Ngài nếu Đức Giê-su không mạc khải cho họ. Mỗi người kitô hữu chúng ta sẽ không biết Đức Giê-su Ki-tô nếu Giáo hội, cha mẹ, thầy cô giáo lý viên…không dạy dỗ chúng ta. Những người ngoại giáo sẽ không biết về Đức Giê-su Ki-tô nếu người kitô hữu không nói cho họ biết.
Vì thế, ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn muốn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại qua trung gian các kitô hữu. Ngài tỏ mình ra qua lời nói và hành động của chúng ta. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng lời nói như Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã làm. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng việc làm bác ái yêu thương như Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta đã làm. Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ I-sai-a mời gọi chúng ta “Hãy tỏa sáng ra” (Is 60,1). Chúng ta hãy “tỏa sáng” giáo huấn của Đức Giê-su cho hết thảy mọi người: hãy tỏa sáng tình thương tới những nơi có oán ghét hận thù; hãy tỏa sáng sự thứ tha tới những nơi có khinh khi nhục mạ; hãy tỏa sáng sự hòa giải tới những nơi đang có mâu thuẫn bất đồng; hãy tỏa sáng chân lý tới những nơi có giả dối sai lầm; hãy tỏa sáng đức tin tới những nơi đang có hoàn nghi ngờ vực; hãy tỏa sáng niềm hy vọng tới những nơi đang có nản chí sờn lòng; hãy đem ánh sáng vào những nơi đang có bóng tối mây mù; hãy tỏa sáng niềm an vui vào những nơi đang có u sầu buồn bã.
Làm được như vậy, mọi người sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng nào hay ít nữa là họ biết chúng ta là con cái của Ngài. Câu chuyện sau đây làm chứng cho chúng ta thấy điều đó: Một buổi tối lạnh lẽo trong kỳ nghỉ lễ, có một cậu bé độ sáu bảy tuổi đứng bên ngoài một tủ kính bầy hàng của một cửa hiệu. Cậu bé không có giầy, quần áo thì rách rưới bẩn thỉu.
Một phụ nữ đi ngang qua và chợt nhìn thấy cậu bé. Bà đọc thấy được một niềm mong ước trong đôi mắt xanh xao của em. Bà cầm tay em dắt vào cửa hiệu, rồi mua cho em một đôi giầy mới, một bộ đồ mới ấm áp.
Sau đó, cả hai đi ra khỏi cửa hiệu và người phụ nữ nói với cậu bé: “Bây giờ về nhà, chúc cháu hưởng một kỳ lễ vui vẻ.” Cậu bé ngước nhìn bà và hỏi: “Bà có phải là Thượng Đế không ?” Người phụ nữ mỉm cười và trả lời:“Không phải đâu cháu, ta chỉ là một trong những người con của Ngài mà thôi.” Bấy giờ cậu bé mới reo lên:“Cháu biết là thế nào bà cũng phải có họ với Thượng Đế mà.” (Bài viết có sử dụng dữ liệu trên Internet).
Ước mong rằng lời nói và việc làm của chúng ta giúp người khác nhận ra Thiên Chúa. Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, vì yêu thương nhân loại chúng con nên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng con nhận biết Chúa. Xin cho chúng con luôn tin yêu Chúa. Xin cho chúng con biết dùng lời nói và việc làm để giới thiệu về Chúa cho anh chị em mình. Amen.
“Họ vào nhà thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Lc 2,11)
Họ đây là Các nhà chiêm tinh. Họ từ Phương Đông đến Giê-ru-sa-lem để tìm kiếm Hài Nhi mới HiểnLinh ABC329
Họ đây là Các nhà chiêm tinh. Họ từ Phương Đông đến Giê-ru-sa-lem để tìm kiếm Hài Nhi mới sinh. Người mà họ đã thấy Ngôi Sao xuất hiện trên trời Đông. Sau khi hỏi han và được Ngôi Sao lạ dẫn đường, họ đã tới Bê-lem và thấy Hài Nhi. Họ sấp mình thờ lạy Người và dâng vàng, nhũ hương và mộc dược.
Ba của lễ dâng này có ý nghĩa gì đây ? Họ dâng VÀNG, có ý Hài Nhi là Vua. NHŨ HƯƠNG, có ý Hài Nhi là Chúa. MỘC DƯỢC, có ý Hài Nhi sẽ chết và sẽ được ướp xác. Quả thật, Đức Giê-su, dù là VUA, dù là CHÚA, nhưng để cứu độ con người, Ngài đã bị giết trên thập giá, được ướp xác và mai táng trong mộ.
Không chỉ dừng ở đó, Đức Giê-su đã sống lại sau ba ngày trong mộ, rồi lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Chính lúc đó, Đức Giê-su được tôn phong là Vua vũ trụ và là Chúa muôn loài. Bây giờ Đức Giê-su không cần đến vàng, nhũ hương và mộc dược nữa. Vậy thì ta sẽ dâng Chúa gì đây?
Ta sẽ dâng lên Chúa những gì quí như Vàng, những gì thơm như Hương và những gì để ướp thân xác và linh hồn của ta.
Những gì quí như Vàng ? Đó là sự sống; sự sống thân xác và sự sống linh hồn của ta. Đó là sự sống đời này và sự sống đời đời của ta. Tại sao Sự Sống lại quí như Vàng ? Trên đời này, có gì quí hơn sự sống của ta. Bởi đó ta phải lo lắng và gìn giữ sự sống của ta. Ta chỉ sống có một lần trên đời này và sẽ được sống mãi mãi ở đời sau.
Ta phải lo lắng và giữ gìn sự sống thân xác của ta bằng cách chú ý đến việc ăn uống, ngủ nghỉ và làm việc của ta. Ta phải ăn gì và uống gì; ta phải ngủ nghỉ và làm việc thế nào để thân xác ta mạnh khỏe, cường tráng. Ta phải ăn uống những gì bổ dưỡng và tốt cho cơ thể của ta. Ta phải ngủ nghỉ đúng giờ và đủ giờ; ta phải làm việc điều độ, đừng quá sức, kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe.
Về sự sống linh hồn, ta phải lo cầu nguyện; nghe và sống Lời Chúa; tham dự thánh lễ và rước lễ. Những việc đó bồi bổ linh hồn ta khỏe mạnh, ta sẽ có một đời sống nội tâm sâu sắc; một tinh thần vững mạnh, một đức tin vững bền, một đức mến nồng nàn và một niềm cậy trông vững chắc.
Một điều quí nữa, đó là thời gian. Người ta nói: “Thời gian là vàng” mà. Đó là thời gian mà ta được sống trên trần gian này. Có giỏi lắm thì ta sống khoảng 100 năm. Tính ra ta sẽ được sống 36.500 ngày hay 876.000 tiếng đồng hồ. Ta phải dùng thời gian đó để làm việc, lấy tiền nuôi thân xác ta; Ta phải dùng thời giờ đó để cầu nguyện và làm những việc lành phúc đức để nuôi dưỡng linh hồn ta và ta dùng thời gian đó để chuẩn bị cho đời sau của ta. Sở dĩ thời gian nói quí là vì một khi đã qua, nó không bao giờ trở lại.
Nó chạy theo đường thẳng, không có số de; dù cho một ngày, một tuần, một tháng, một năm có quay trở lại, nhưng nó chạy theo đường thẳng chứ không theo đường vòng. Càng ngày thân xác ta càng tiến gần đến đất và linh hồn ta tiến gần đến trời. Bởi đó mà ta phải quí từng giờ, từng phút, từng ngày ta còn được sống và đừng lãng phí thời gian Chúa ban. Ta hãy dâng Sự sống và thời gian đó của ta lên Chúa. Đó là Vàng của ta đó.
Nhũ hương của ta là gì? Đó là những lời cầu nguyện; những hy sinh trong cuộc sống; những khó khăn, những bệnh tật; những thất bại; những vất vả; những sầu đau. Rồi những việc lành phúc đức, những niềm vui, những hạnh phúc, những thành công. Ta hãy dâng lên Chúa những của lễ đó mỗi ngày hay mỗi khi ta tham dự thánh lễ.
Một mùi hương không thể thiếu nữa, đó là “Hương thơm của Tin Mừng”, nghĩa là mỗi khi ta nghe và sống Tin Mừng. Việc sống Tin Mừng này giúp ta tỏa hương thơm thánh thiện, giúp ta nên thánh nên thiện, qua việc sống yêu thương, công bằng, khó nghèo, vâng phục, đơn sơ, khiêm nhường. Đây có lẽ là của lễ Chúa ưa thích nhất.
Mộc dược của ta là gì? Như ta đã biết mộc dược là để ướp xác và giữ gìn xác sau khi chết còn nguyện vẹn không hư hoại hay hôi thối. Bây giờ ta không cần ướp xác làm chi, vì ta mà chết thì sau đó người ta đem chôn hay hỏa táng rồi, không giữ lâu làm gì. Nhưng những gì mà ướp xác, ướp hồn ta bây giờ để thân xác ta thơm tho và linh hồn ta trong sạch mới là quan trọng. Để thân xác ta thơm tho, ta phải tắm rửa, vệ sinh. Để linh hồn ta trong sạch thì ta cần Lời Chúa và ơn Chúa, cũng như sự cố gắng của chính mình, để ta có một cái tâm thiện, một con người đạo đức, khiêm nhu, nhiệt thành, siêng năng, tốt lành, thánh thiện.
Đó là Vàng, Nhũ hương và Mộc dược của ta, ta hãy dâng lên Chúa Hài Nhi, chắc Chúa sẽ hài lòng về những của lễ đó và của lễ đó sẽ là hành trang giúp ta từ đất tiến về trời cách an toàn, bình an và hạnh phúc.
(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem (2) và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. (3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu? (5) Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: (6) “Phần ngươi hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa. Vì ngươi là nơi Vị Lãnh Tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. (7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin qúi ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho Trẫm, để Trẫm cũng đến bái lạy Người”. (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Ý CHÍNH: NHỜ ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG, DÂN NGOẠI ĐÃ TÌM THẤY CHÚA.
Khi Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem, có mấy đạo sĩ từ phương Đông đã theo ngôi sao lạ đi HiểnLinh ABC330
Khi Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem, có mấy đạo sĩ từ phương Đông đã theo ngôi sao lạ đi tìm Đấng Cứu Thế. Nhờ ánh sao dẫn đường và sau khi vượt qua nhiều trở ngại, cuối cùng các ông đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế. Các ông đã biểu lộ đức tin bằng thái độ sụp lạy và tiến dâng lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Sau đó, các ông vâng lời thiên thần để theo con đường khác trở về quê hương.
CHÚ THÍCH:
– C 1-2: +Vua Hê-rô-đê: Đây là Hê-rô-đê Đại Vương, một con người đa nghi, độc ác và tham quyền cố vị, băng hà vào năm 4 sau Công Nguyên (x. Mt 2,15). Phân biệt với Hê-rô-đê An-ti-pa hay Hê-rô-đê Con, kế vị vua cha cai trị xứ Ga-li-lê. Hê-rô-đê Con cũng độc ác không kém vua cha. Chính ông đã ra lệnh chém đầu Gio-an Tẩy Giả và có lần đã xét xử Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn của Người. +Mấy nhà chiêm tinh: Cũng gọi là đạo sĩ, đến từ phương Đông (x. Ds 23-24). Đây là những nhà thông thái, am tường khoa chiêm tinh. Dựa vào 3 lễ vật họ dâng mà người ta quả quyết có 3 vị. Truyền thuyết dân gian còn kể tên 3 vị ấy: Melchior da trắng ; Gaspar da vàng ; Balthaza da đen để nói lên rằng: Ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, màu da hay tiếng nói, không chỉ riêng cho dân Do Thái.
– C 5-6: +Họ trả lời: “Tại Bê-lem.”..: Có một sự đối nghịch về thái độ đối với Đấng Cứu Thế giữa dân Do Thái và lương dân: Các thượng tế và kinh sư là những người dựa vào Kinh Thánh biết rõ nơi sinh của Hài Nhi Cứu Thế là Bê-lem, nhưng lại thờ ơ. Đang khi dân ngoại vất vả đi tìm Người. +Thành Bê-lem: Là một thị trấn nhỏ thuộc miền núi xứ Giu-đê, cách Giê-ru-sa-lem 10 cây số về phía Nam. Bê-lem này là quê hương của vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1 tt).
– C 7-8: +Hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện: Vì Hê-rô-đê muốn biết đích xác tuổi của Hài Nhi Cứu Thế và đã ra lệnh cho quân lính giết các trẻ nam tại Bê-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống.
– C 9-10: +Ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ: Đây là một ngôi sao có những đặc tính khác thường như: Lúc ẩn lúc hiện, lúc đi trước dẫn đường và lúc thì dừng lại… do Thiên Chúa ban, để trợ giúp các nhà chiêm tinh đi tìm Hài Nhi Cứu Thế.
CÂU HỎI: 1- Phân biệt Hê-rô-đê Đại Vương khác với vua Hê-ro-đê An-ti-pa thế nào trong sự đối xử với Đức Giê-su và về sự gian ác quỷ quyệt? 2- Các nhà chiêm tin trong Tin Mừng có phải là vua không? Vì sao người ta gọi là 3 vua và theo truyền thuyết thì tên ba vị là gì và mang ý nghĩa như thế nào? 3- Các thượng tế và kinh sư Do thái dựa vào đâu mà nói nơi sinh của Đấng Cứu Thế là Bê-lem? So sanh giữa thái độ của các nhà thông thái của dân Do thái và của các đạo sĩ ngoại giáo trước việc Đấng Cứu Thế ra đời như thế nào? 4- Hê-rô-đê hỏi về ngày giờ ngôi sao lạ xuất hiện để làm gì? 5- Các đạo sĩ biều lộ đức tin thế nào khi gặp Hài Nhi Cứu Thế? 6- Ý nghĩa tượng trưng của ba lễ vật các đạo sĩ dâng là gì? Các giáo phụ giải thích ba lễ vật như thế nào? II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ LỚN LAO CỦA MỘT CÂY NẾN NHỎ:
Vào một đêm mưa bão, ngọn đèn hải đăng đột nhiên bị mất điện tắt ngúm. Người phụ trách vội vã đốt một cây nến nhỏ và đi theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt cây đèn lồng lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng: “Ông đem tôi đi đâu vậy?” Ông ta trả lời: “Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để ngươi chiếu ánh sáng giúp cho tàu bè từ ngoài khơi biết con đường cập bến an toàn”. Cây nến lại nói: “Nhưng tôi chỉ là một cây nến bé nhỏ thế này, mà tàu bè lại ở tít ngoài khơi kia, thì hoa tiêu làm sao nhìn thấy ánh sáng yếu ớt của tôi được?”. Người phụ trách trả lời: “Lúc này ta chỉ cần ngọn nến nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta định liệu!”. Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa vào cây đèn lồng. Sau một giây lát, ánh sáng từ cây đèn lồng đã rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể sử dụng thay cho đèn pha điện. Ánh sáng của đèn lồng có sức chiếu xa đến tận ngoài khơi, để nhờ nó mà tàu bè có thể định hướng để cập bến an toàn.
2) GẶP CHÚA QUA THA NHÂN:
Noi gương các vị đạo sĩ trong Tin Mừng, một cậu bé kia cũng muốn tìm gặp Chúa. Một hôm cậu thức dậy sớm lén vào trong nhà bếp lấy một số bánh nướng mẹ cậu mới làm cho vào chiếc túi xách và mang theo một chai nước để ăn uống trong cuộc hành trình tìm Chúa.
Sau khi đã rời khỏi nhà được một tiếng đồng hồ, đi ngang qua một công viên thì thấy một bà lão đang ngồi một mình trên một chiếc ghế. Bà đang chăm chú nhìn các chú chim bồ câu bay nhảy trên cành cây gần đó. Cậu bé liền đến ngồi cạnh bà lão để nghỉ chân. Cậu mở túi xách lấy ra một chiếc bánh nướng ăn trước mặt bà lão. Nghĩ rằng bà đang đói nên cậu đã lấy một chiếc bánh ra mời. Bà lão nở nụ cười thật tươi với cậu. Nụ cười đáng yêu đến nỗi cậu bé lại muốn nhìn thấy một lần nữa nên tiếp tục mời bà ăn thêm. Khi chiếc bánh cuối cùng đã hết, cậu lấy bình nước mang theo rót ra nắp bình mời bà uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà khiến cậu cảm nhận được sự dịu dàng ấm áp. Họ ngồi bên nhau nhiều giờ, cùng nhau ăn uống nhưng không nói lời nào với nhau.
Mãi đến khi trời tối cậu bé mới đứng dậy quay về nhà. Nhưng đi được vài bước, cậu liền quay lại ôm bà để từ biệt và cũng cám ơn về món quà cậu nhận được là nụ cười dịu dàng ấm áp của bà.
Khi cậu bé về đến nhà, mẹ cậu rất ngạc nhiên khi thấy nét mặt vui tươi rạng rỡ của cậu liền hỏi:
– Con có gì mà vui vẻ vậy?
Cậu bé đáp:
– Hôm nay con đã gặp Chúa và đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười rất đẹp!
Trong khi đó bà lão cũng quay về ngôi nhà ở gần công viên. Đứa con trai nhận ra nét hân hoan trên gương mặt mẹ liền hỏi:
– Hôm nay mẹ có chuyện gì mà vui vẻ vậy?
Bà lão đáp:
– Trưa hôm nay mẹ đã được Chúa đến thăm tại công viên. Mẹ đã ngồi ăn bánh với Chúa bên mấy chú chim câu rất dễ thương. Con biết không, Chúa trẻ hơn mẹ nghĩ rất nhiều !
3) HÃY PHỤC VỤ CHÚA CÁCH CỤ THỂ:
Ngày lễ Giáng Sinh một bé gái cùng đi với mẹ đến viếng hang đá. Bà mẹ đã giải thích cho con về việc ba nhà Đạo sĩ đã tiến dâng Chúa Hài Nhi ba lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược. Bấy giờ cô bé liền chăm chú nhìn Hài Nhi Giê-su đang phải nằm trong máng cỏ và quay sang hỏi mẹ: “Mẹ ơi, tại sao các Đạo sĩ lại không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái nôi để nằm hả mẹ ?”
Với một tấm lòng yêu thương và một sự quan tâm thực sự, cô bé đã cảm nhận được điều Hài Nhi Giê-su đang cần chính là một chiếc nôi để nằm thay vì nằm trong máng ăn của chiên cừu. Mỗi người chúng ta đều cần cơm ăn áo mặc hằng ngày và một ngôi nhà để trú ngụ. Ngày nay Chúa Giê-su vẫn luôn hiện thân nơi người nghèo và đang chờ được chúng ta quan tâm trợ giúp như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
4) YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ CHÍNH LÀ ÁNH SÁNG GIÚP THA NHÂN TIN YÊU CHÚA:
Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. Ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối khiến họ lo âu sợ hãi vì nghe nói đoạn đường này thường xảy ra cướp bóc. Do biết sửa xe hơi, nên người ấy đã dừng xe và tự nguyện đến giúp. Do xe bị hư nặng không thể khởi động được, nên ông ta phải chui vào gầm xe tháo ráp từng bộ phận. Đến khi trời tối mịt xe mới nổ máy lại được. Mọi người trong gia đình đều vui mừng ra mặt. Ông bố muốn trả tiền công hậu hĩ cho người sửa xe, nhưng ông kia đã từ chối vì ông chỉ giúp vì tình người. Ông bố liền xin địa chỉ để sẽ đến nhà thăm khi về lại thành phố. Rồi khi lên thăm, cả gia đình mới biết địa chỉ đó là tòa giám mục, và người giúp sửa xe hôm trước không ai khác hơn là chính đức giám mục của giáo phận. Mọi người trong gia đình đều cảm phục về lòng nhiệt tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi của vị giám mục và đã tình nguyện xin theo đạo công giáo.
SUY NIỆM:
Lễ Hiển Linh hôm nay cũng được gọi là lễ Ba Vua. Đây là một đại lễ được Giáo hội Công giáo Đông phương và các Giáo hội Chính thống mừng rất long trọng, vì hôm nay Thiên Chúa vô cùng lớn lao đã tỏ mình cho chư dân qua hình hài một trẻ thơ Giê-su yếu đuối nghèo khó. Tin mừng Mát-thêu thuật lại câu chuyện như sau: có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Ðông quan sát các vì sao trên trời đã phát hiện một ngôi sao lạ. Ngôi sao này chính là dấu cho biết Ðấng Thiên Sai của dân Do thái đã ra đời. Các đạo sĩ lập tức mang theo lễ vật lên đường tìm kiếm Hài Nhi Cứu Thế theo ánh sao dẫn đường. Sau nhiều ngày và vượt qua nhiều khó khăn dọc đường, cuối cùng các đạo sĩ đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế Giê-su tại Be-lem. Các ngài đã bái lạy và tiến dâng Hài Nhi 3 lễ vật mang theo từ quê hương là vàng, nhũ hương và mộc dược. Rồi vâng lời sứ thần mộng báo “Đừng trở lại với vua Hê-rô-đê tàn ác”, các ngài đã theo lối khác để trở về quê hương mình (x. Mt 2,12).
1) HAI CÁCH ĐỂ GẶP ĐƯỢC CHÚA:
– Gặp Chúa qua thiên nhiên: Các đạo sĩ do quan sát bầu trời nhìn thấy ánh sao lạ và nhận ra đó là dấu hiệu cho biết Đấng Cứu Thế đã ra đời.
– Gặp Chúa trong Thánh Kinh: Các kinh sư Do thái thì nhận biết Đấng Cứu Thế qua Sách Thánh.
– Hai cách bổ túc cho nhau: Ánh sao dẫn đường đột nhiên biến mất khi đến thủ đô Giê-ru-sa-lem khiến các ông mất phương hướng. Tuy vậy, các ông đã không nản lòng quay về mà tìm đến hoàng cung hỏi thăm: “Đức Vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe vậy, vua Hê-rô-đê bối rối và dân chúng thì xôn xao. Bấy giờ nhà vua liền mời các kinh sư hiểu biết Kinh thánh đến để biết về nơi sinh của Đấng Cứu Thế, rồi chỉ đường cho các đạo sĩ hãy đến thành Be-lem. Nhờ ánh sáng Lời Chúa và ánh sao dẫn lối, cuối cùng các đạo sĩ đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế Giê-su.
– Qua đó cho thấy: Vũ trụ thiên nhiên tuy giúp người ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng để gặp được Chúa Cứu Thế và nhận được ơn cứu độ của Người, thì đòi người ta còn phải năng học sống Lời Chúa trong Thánh Kinh và tìm hiểu giáo lý của Hội Thánh Công giáo.
– Một vấn nạn được đặt ra: Tại sao vua Hê-rô-đê và các kinh sư Do thái hiểu biết Thánh Kinh, có thể dạy các đạo sĩ về nơi Đấng Cứu Thế sinh ra là Be-lem, nhưng chính họ lại không gặp Chúa và không nhận được ơn cứu độ của Người? Thưa chính là do thiếu đức tin: vua Hê-rô-đê muốn tìm kiếm Đấng Thiên Sai không phải để tin nhận Người mà chỉ nhằm để tiêu diệt Người. Còn các Kinh sư Do-Thái tuy biết Chúa nhưng lại không thiết tha đi tìm nên đã không gặp được Người. Để gặp được Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Người thì điều quan trọng là phải năng suy niêm Lời Chúa và còn phải quyết tâm thực hành theo Lời Chúa dạy trong cuộc sống hằng ngày nữa.
2) LÀM GÌ ĐỂ GIÚP THA NHÂN NHẬN BIẾT CHÚA?:
– Phải tránh thái độ gian ác của vua Hê-rô-đê: Vua Hê-rô-đê đã muốn tìm kiếm Chúa Cứu Thế để giết hại do sợ bị mất ngai vàng. Ông muốn bảo vệ địa vị quyền hành của mình bằng mọi giá, kể cả sẵn sàng ra tay giết tất cả các trẻ em vô tội tại Be-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống. Do đó, các đạo sĩ sau khi gặp Đấng Cứu Thế Giê-su, đã được thiên thần mộng báo đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê, nên đã đi theo con đường khác mà về xứ mình.
– Phải noi gương bền chí của các đạo sĩ: Các đạo sĩ đã luôn thao thức đi tìm Chúa, kiên trì vượt qua các trở ngại dọc đường. Chẳng hạn: Khi đến Giê-ru-sa-lem thì ngôi sao lạ biến mất, các ngài đã không chán nản quay về, nhưng đã tiếp tục dò hỏi về Hài Nhi Cứu Thế trong đền vua Hê-rô-đê, và đi theo ánh sao tới thành Bê-lem. Khi gặp được Hài nhi Cứu Thế, các ngài đã sấp mình thờ lạy rồi dâng tiến ba lễ vật quý là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thật đúng như lời Chúa dạy: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
– Phải chiếu sáng đức tin bằng việc thực thi đức cậy và đức mến: Ý thức đức tin là ơn Chúa ban, nên mỗi tín hữu cần năng cầu xin Chúa cho anh chị em lương dân quen biết được sớm nhận biết tin theo Chúa. Mỗi người chúng ta cũng phải tích cực góp phần làm cho Nước Chúa mau trị đến, bằng cách cải tạo môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Nhất là cần chiếu ánh sáng đức tin qua lời nói và cách ứng xử vị tha quên mình phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật như lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16), và lời thánh Phao-lô: “Giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).
THẢO LUẬN: Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê như sau: “Giữa một thế hệ gian tà, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.”.. (Pl 2,14-15). Trong những ngày này, mỗi tín hữu chúng ta cần tỏa sáng bằng những việc cụ thể nào?
LỜI CẦU:
– Lạy Chúa GiÊ-su, cuộc đời chúng con nhiều lúc cũng gặp phải bế tắc giống như các đạo sĩ xưa khi ngôi sao dẫn đường biến mất: Trong những giờ phút thử thách ấy, xin cho chúng con biết noi gương các đạo sĩ: Không nản lòng, nhưng luôn kiên trì tìm ý Chúa qua các chủ chăn trong Hội Thánh. Chúng con tin rằng: Chúa sẽ ban ơn soi sáng, giúp chúng con nhận biết con đường phải đi.
– LẠY CHÚA. Khi đến với Chúa con không biết phải dâng lên Chúa món quà gì. Vì món quà con thích thì Chúa lại không ưa ; Còn những món qùa Chúa chờ mong thì con lại chỉ muốn giữ riêng cho mình. Xin cho con biết quảng đại cho đi mà không cần tính toán. Con xin dâng lên Chúa mọi khả năng, thời giờ, của cải và mọi thứ thuộc về con. Con cũng xin dâng lên Chúa tấm lòng sám hối khiêm cung về những lỗi lầm con đã phạm. Xin Chúa vui nhận, thánh hóa và ban ơn cứu độ cho con.
Câu chuyện của ba nhà đạo sĩ trong bài Tin mừng lễ Chúa hiển linh hôm nay rất phong phú và HiểnLinh ABC331
Câu chuyện của ba nhà đạo sĩ trong bài Tin mừng lễ Chúa hiển linh hôm nay rất phong phú và có nhiều ý nghĩa. Nhưng có 2 bài học đặc biệt, quan trọng và quí giá. Những bài học này được thánh Mát-thêu lập đi lập lại nhiều lần trong Tin mừng của ngài.
Bài học quí giá thứ nhất là Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi hay ơn cứu độ được ban phát cho mọi người. Người Do thái, là dân được Thiên Chúa thương chọn làm dân riêng, tin rằng họ độc quyền chiếm giữ ơn cứu độ. Nhưng Ba đạo sĩ là những người đại diện cho mọi người được Thiên Chúa kêu gọi nhận biết Ngài qua Chúa Giê-su. Tin mừng của thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy bài học này được chú ý đến khi Chúa Giê-su không ngại hay từ chối chữa lành đứa con của viên đại đội trưởng của dân ngoại. Chính Chúa còn xác nhận và ngưỡng mộ lòng tin của ông: “Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương Đông và phương Tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong Nước Trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt. 8, 8-17) Trong một đoạn Tin mừng khác, Chúa cũng đã cứu đứa con gái của người đàn bà xứ Ca-na-an ngoại đạo vì đức tin mạnh mẽ và khiêm tốn của bà. (Mt. 15, 21-28). Nhưng ơn cứu độ được ban cho muôn người được minh chứng rõ ràng trong đoạn Tin mừng nói về thời điểm trước Chúa về trời, Người nói với các môn đệ: “Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy các con.” (Mt. 28, 19)
Cuộc thăm viếng và gặp gỡ Hài Nhi Chúa Giê-su của ba nhà đạo sĩ cho chúng ta biết Thiên Chúa đã mở cánh cửa ơn cứu độ cho muôn người, nhưng bài học quan trọng đặc biệt thứ hai là: không phải tất cả mọi người được cứu rỗi, được vào Nước Thiên Chúa. Nếu đặt câu hỏi: phải làm sao và sống như thế nào để được cứu rỗi? Câu trả lời là phải có niềm xác tín vào Chúa, phải có niềm tin. Thế thì chúng ta có thể hỏi: Đức tin là gì? Chúng ta chỉ có thể nhận được câu trả lời trừu tượng mà thôi, nhưng nếu chúng ta nhìn vào cuộc hành trình của ba nhà đạo sĩ thì chúng ta biết rõ được muốn có niềm xác tín vào Chúa thì phải có thái độ và hành động nào.
Thái độ thứ nhất là nếu muốn có một niềm xác tín thì phải có lòng khao khát và tìm kiếm. Thời Chúa Giê-su giáng sinh, mọi người xa gần đều lãnh đạm, thờ ơ, chỉ mải miết với công việc của mình, thì chỉ có các đạo sĩ có lòng khao khát và chờ đợi Đấng Cứu Thế. Chúng ta thấy thái độ của các đạo sĩ trái ngược hẳn với thái độ của Hê-rô-đê. Ông mải mê theo đuổi sự giàu sang và quyền lực. Đấng Cứu Thế sinh ra không xa mấy, nhưng ông chẳng hay biết gì. Kinh thánh đã tiên bào về Đấng Cứu Thế, nhưng ông thờ ơ, lạnh nhạt với Lời Chúa. Bài học quí giá là không khao khát thì không bao giờ được đáp ứng, không tìm thì không bao giờ thấy.
Thứ hai là phải lên đường thực hiện của tìm kiếm. Chúng ta thấy khao khát chưa đủ. Khao khát mà ngồi nyên để chờ thì không phải là khao khát thật. Muốn đến nhà thờ để cùng thờ phượng Chúa, mà cứ ngồi nhà thì không phải là khao khát. Các đạo sĩ không ngồi chờ thụ động, không ngồi chờ Chúa đến. Thấy ánh sao lạ, họ quyết tâm lên đường ngay để thực hiện cuộc tìm kiếm. Trái lại, chúng ta thấy các giáo trưởng và luật sĩ biết Lời Kinh thánh nói rõ địa điểm Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và địa điểm đó lại gần, nhưng họ lờ đi, đâu lên đường. Như vậy, đức tin không phải là một tư tưởng, mơ ước, nhận thức suông, mà là hành động, là thực hiện.
Thái độ thứ ba là khi gặp thử thách, khó khăn không bỏ cuộc, không mất đức tin. Chúng ta thấy trong suốt hành trình các đạo sĩ đã gặp không biết bao nhiêu khó khăn, trở ngại và nguy hiểm. Nhưng thử thánh lớn nhất đối với họ là khi ngôi sao dẫn đường biến mất. Dầu vậy, họ đã không nản lòng, cứ kiên nhẫn tiếp tục lên đường, và lòng kiên trì đã đưa họ tới đích. Như vậy lòng xác tín đòi hỏi sự trung thành và kiên nhẫn.
Thái độ thứ tư của đức tin là nhận ra Chúa qua tấm màn che lấp Người. Các đạo sĩ cứ nghĩ rằng ngôi sao sẽ dẫn họ tới cung điện vua chúa nguy nga đồ sộ, hay tới khu nhà giàu sang, nhưng lại dẫn họ tới máng cỏ nghèo nàn nơi đồng cỏ vắng vẻ. Và khi tới bên máng cỏ, các đạo sĩ chỉ thấy một trẻ sơ sinh nghèo khó quấn trong khăn. Họ tưởng sẽ gặp được một vị hoàng tử nằm trên giường vàng nệm bạc, nhưng chỉ thấy một hài nhi nằm trong máng cỏ trong một hang bò lừa cô đơn giá rét mùa đông. Họ tưởng sẽ gặp một ông hoàng bà chúa bên cạnh hoàng tử mới sinh ra, như chỉ thấy hai ông bà Maria và Giuse nhà quê trong hoàn cảnh đơn sơ, bơ vơ và nghèo khó. Nhưng họ đã được Thánh Thần soi sáng nên đã nhận ra đó chính là Con Thiên Chúa, và đã quì xuống thờ lạy, rồi sau đó quảng đại dâng cho Người những lễ vật quí báu cho các bậc vua chúa. Đây chính là thực chất của đức tin. Tin không phải là nhìn thấy bằng con mắt thể xác, như bằng đôi mắt tâm hồn.
Và thái độ cuối cùng phải có là cuộc sống mới. Sau khi ở Be-lem về các đạo sĩ đã sống một cuộc đời mới. Cuộc đời họ đã chuyển sang một hướng khác. Cuộc gặp gỡ Hài nhi Giê-su ở Be-lem đã đánh dấu một cuộc chuyển hướng vừa bất ngờ vừa cương quyết trong cuộc đời của họ. Nếu không có cuộc đổi đời theo sau cuộc gặp gỡ với Chúa, thì tin chỉ là một thái độ hờ hững bên ngoài, chứ không phải là một niềm xác tín đưa tới phó thách và dấn thân. Những thái độ trên không thể thiếu nơi người có và sống đức tin, nơi người Ki-tô hữu.
Câu truyện Ba đạo sĩ đi tìm và gặp được Hài Nhi Giê-su sau khi đã vượt qua một cuộc hành trình xa xôi với rất nhiều khó khăn, cực nhọc, nguy hiểm và trở ngại. Họ đã phải đương đầu với cả vị vua độc ác, gian dối và những đại giáo trưởng và luật sĩ Do thái, những người biết câu trả lời và vị trí, nhưng không có ý muốn đi tìm kiếm Chúa. Câu truyện này cho chúng ta những bài học quan trọng và quí giá về đức tin trong đời sống Ki-tô hữu. Thật vậy, ơn cứu độ và Nước Thiên Chúa được ban cho mọi người, nhưng không phải tất cả mọi người đều được cứu rỗi, chỉ những ai khao khát và thành tâm tìm kiếm thì mới gặp mà thôi. Xin Chúa ban cho mọi người chúng ta một niềm xác tín vào Người.
Người Công Giáo Việt Nam thường gọi ngày lễ hôm nay là lễ “BA VUA”; vì Phụng vụ lễ HiểnLinh ABC332
Người Công Giáo Việt Nam thường gọi ngày lễ hôm nay là lễ “BA VUA”; vì Phụng vụ lễ nầy chọn đọc trích đoạn Tin Mừng Matthêô về câu chuyện “ba đạo sĩ phương đông theo ánh sao lạ tìm đến chiêm bái Hài Nhi ở Bêlem”. (Mt 2,1-12).
Ngày nay Phụng vụ dùng từ Hiển Linh theo đúng nghĩa của từ Epyphaneia của Hy Lạp (Sự tỏ hiện). Chính vì thế, trong truyền thống xa xưa của Hội Thánh, hôm nay Phụng vụ kính nhớ 3 mầu nhiệm về “sự tỏ hiện hay hiển linh” của Ngôi Hai Thiên Chúa : Hiển Linh qua “vì sao lạ dẫn đường HiểnLinh ABCPhương đông đến thờ lạy”, Hiển linh qua biến cố chịu phép rửa bên dòng sông Gio-đan và hiển linh qua phép lạ hóanước thành rượu tại tiệc cưới Cana.
Qua những “dấu chỉ đầy ấn tượng” của Lời Chúa đó, ý nghĩa đầu tiên của sứ điệp Hiển Linh chính là “ảnh hưởng bao trùm của công cuộc cứu độ”; hay nói cách khác, việc Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa đi vào trần gian, Thiên Chúa “đến cắm lều ở giữa nhân loại” không phải là chuyên riêng tư của một gia đình bé nhỏ : Giu-se, Ma-ri-a và Hài Nhi Giê-su ; nhưng là công cuộc cứu độ có liên quan đến toàn thể nhân loại, ảnh hưởng trên toàn bộ lịch sử loài người và cả vũ trụ, trải dài trên mọi chiều kích không gian và thời gian.
Viễn tượng nầy, Thiên Chúa đã mặc khải qua cái nhìn và cảm nhận của sứ ngôn I-sa-i-a mà chúng ta vừa nghe công bố trong Bài đọc 1 : vị sứ ngôn đã thoáng thấy vẽ huy hoàng tráng lệ và tràn ngập ánh sáng của một “Giêrusalem” đầy mộng ước mà công trình cứu độ của Thiên Chúa sẽ chính thức được khai mào trong đêm “rực sáng ở Bê-Lem” và sẽ viên thành với một “Giêrusalem mới” trong vương quốc Thiên Chúa.:
“Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra, hỡi Giêrusalem ! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân ; nhưng trên mình ngươi, Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi …”.
Đó phải chăng là một “Tin Mừng vĩ đại cho toàn dân” (Lc 2,10) mà các thiên sứ đã báo cho các mục đồng thành Bê-lem trong đêm Ngôi Hai giáng thế, cũng là Tin Mừng được Đức Kitô ra lệnh cho cho các môn sinh “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16,15), và cũng là Tin Mừng mà theo nhận định của Thánh Phaolô trong thư Êphêsô (Bđ 2) nhờ đó “các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần với lới hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô” (Ep 3,6), một “dân ngoại” được minh họa đầy ấn tượng qua ba nhà đạo sĩ phương đông với những lễ vật cũng mang đầy nội dung Cứu độ : vàng (vương đế), nhũ hương (tư tế), mộc dược (khổ nạn hay mầu nhiệm Vượt Qua).
Nếu đem sứ điệp đầy hy vọng của mầu nhiệm Hiển Linh nầy soi chiếu vào thế giới hôm nay chúng ta sẽ thấy gì ? Thấy còn hơn hai phần ba nhân loại chưa nhận biết Chúa Kitô (khoảng trên 2 tỷ người thuộc Kitô giáo trên tổng sổ gần 7 tỷ người), còn chiến tranh loạn lạc khắp nơi, còn mê tín dị đoan, bóng tối lầm lạc bao phủ nhiều dân tộc, nhiều gia đình…
Như vậy “cuộc Hiển Linh” của Thiên Chúa vẫn còn đang ở phía trước, vẫn là một “gọi mời” để nhân loại cất bước lên đường tìm kiếm “ánh sao lạ Bê Lem” như ba nhà đạo sĩ thuở nào; và nhất là để những ai đã một lần “tìm thấy ánh sao Bêlem”, phải “tìm đường khác trở về xứ sở mình”, quê hương mình, loan Tin Mừng Cứu Độ và giới thiệu Chúa Giêsu cho anh chị em mình.
Và như thế, Giáng Sinh, Hiển Linh không là câu chuyện cổ tích để mỗi năm chúng ta đọc lại một lần, diễn lại như một “đoạn phim của quá khứ”, mà là một khởi đầu mới, như cách cảm nhận của một bài thơ:
Khi ngôi sao trên bầu trời biến mất Khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà Khi các mục đồng và đoàn súc vật đã trở về Thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu: Để tìm lại những gì đã mất Để hàn gắn những gì đã gãy đổ Để người đói được ăn no Để tù nhân được giải phóng Để các nước xây dựng lại Để đem an bình cho mọi người Và để hòa nhạc bằng trái tim.
Và để trả lời cho những ai còn đang trăn trở “đến bao giờ Chúa mới lại hiển linh?”, thì chút nữa đây thôi, Chúa Giêsu sẽ “hiển linh” cho mỗi người chúng ta cách trầm lắng, khiêm lạ, giản đơn qua “Tấm Bánh, Ly Rượu” là chính Máu Thịt của Ngài được trao ban qua bàn Tiệc Thánh Thể.
Mầu nhiệm vĩ đại nầy được “hiển linh” cách âm thầm, khiêm tốn quá thể, mà chắc chắn, những con người đang mang trong cõi lòng những tham vọng hận thù trần tục như bạo vương Hêrôđê, mang não trạng kiêu căng và giả hình như các nhà luật sĩ và biệt phái ở Giêrusalem 2000 năm trước…sẽ không bao giờ nhận ra, hiểu thấu và gặp gỡ !
Vâng, chỉ có những ai “khao khát mới được toại lòng” và chỉ những ai “trong sạch trong lòng mới được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,6.8), chẳng khác nào, như ba nhà đạo sĩ khi xưa, chỉ khi ra khỏi cái “đô thành Giêrusalem trần tục của Hêrôđê”, mới tìm lại được “ngôi sao ở phương Đông, để rồi, đi trước họ dẫn tới chỗ Hài Nhi” !
Hồi còn nhỏ thì, cứ đến lễ Giáng Sinh thì cũng vui rồi! Nhưng mà tụi con thích ngày đó lắm! HiểnLinh ABC333
Hồi còn nhỏ thì, cứ đến lễ Giáng Sinh thì cũng vui rồi! Nhưng mà tụi con thích ngày đó lắm!
Bởi vì cái ngày mà lễ hiển linh đó, thì cha xứ mới trưng ra ba cái tượng gọi là 3 đạo sĩ còn gọi là Ba Vua. Và cái lễ đó: Lễ Hiển Linh còn gọi là lễ Ba Vua.
Rồi có một cái hang đá ở bên chỗ nhà thờ có tượng Thánh Giêronimô ở bên Jerusalem. Khi mà mọi người tham quan tới thì thấy có một cái hang đá rất đẹp, nhìn rất sống động. Con chiên thì người ta giống như là chích formon vào, và còn nguyên đai nguyên kiện nó luôn và rất là thích. Và Đức Mẹ, thánh Giuse cũng thích lắm, bởi vì họ làm cho sống động
Nhưng có lẽ sống động hơn là hình ảnh của Ba Vua. Nhiều khi chúng ta quen quá rồi, chúng ta nhớ lại cái câu chuyện mà HiểnLinh ABCnhư là một cái câu chuyện cổ tích, và chúng ta đi tìm kiếm.
Cũng giống như con hồi nhỏ, là mình đi xem HiểnLinh ABChơn là mình muốn tìm hiểu được cái bài học ở bên dưới, mà Thánh Mátthêu muốn gói ghém vào cái hình ảnh của Ba vua, đôi khi chỉ về cái bề ngoài mình nhìn cái vóc dáng bề ngoài của 3 vua, rồi đôi khi mình chú tâm quá đến vàng, nhũ hương, Mộc dược. Người ta đi tìm ý nghĩa thần học hơi sâu, nhưng mà hôm nay con xin gợi đến cái hình ảnh và hành trình đức tin của con người đi tìm Thiên Chúa và ý nghĩa của đời sống qua cái hình ảnh của Ba Vua.
Thì chúng ta thấy người ta hay tin vào ánh sao lắm! Nhớ là trong cái truyện Tam Quốc Chí, ai mà đọc thì nhớ. Khi mà Khổng Minh Gia Cát Lượng chết, thì nhà vua thấy có một ngôi sao từ trên trời rơi xuống và cho rằng là Gia Cát Lượng chết là cái ngôi sao rớt thôi.
Và vì tin vào ngôi sao các nhà chiêm tinh hay nhìn lên trời và có ba nhà đạo sĩ hay nhìn lên trời và họ đọc được một cái ý nghĩa.
Đó là thấy một cái ngôi sao lạ và họ cứ đi theo cái ngôi sao lạ đó dẫn đường.
Thôi thì họ đi tìm và cứ đi theo cái cách dẫn đường của ngôi sao lạ đó.
Nhưng mà rồi đi đến Giêrusalem thì bỗng nhiên cái ngôi sao lạ đó biến mất. Và rồi mà sao tìm được ý nghĩa nữa? Thì chỉ còn cách duy nhất là đi vào triều đình nhà vua hỏi, thì may ra biết rằng trên đất nước mình có chuyện gì lạ.
Khi mà nhà vua nghe các nhà đạo sĩ hỏi về cái ý nghĩa của cái ngôi sao mà ba nhà đạo sĩ thấy biến mất đó, thì nhà vua nhờ đến những người thông thái, những người giỏi. Và họ lấy sách thánh ra mà họ đọc. Và họ dựa vào sách thánh mà họ đọc: có một Đấng Cứu Thế sinh ra Bêlem.
Và như thế 3 đạo sĩ với cái lòng thao thức của mình tiếp tục cái hành trình đi lên Bêlem, để mà đi tìm cái sự lạ: Như mà cái ngôi sao dẫn đường.
Và rồi có cái hay rằng là, khi mà bước ra khỏi cái triều đình của vua Hêrôđê thì thấy được tiếp tục cái ngôi sao. Và ngôi sao đó tiếp tục dẫn 3 nhà đạo sĩ đi đến Bêlem . Và khi đi đến Bêlem thì 3 đạo sĩ gặp được Chúa Giêsu và các ông đã bái thờ Người và các ông đã đưa ra những tặng phẩm quý hiếm của mình để dâng cho Chúa Giêsu.
Ngôi sao không phải là đỉnh cao, cùng đích mà họ tìm kiếm, nhưng Hài Đồng Giêsu là cùng đích mà ba nhà đạo sĩ đó tìm kiếm.
Hành trình đức tin của chúng ta nếu chúng ta nhìn thấy chắc có lẽ cũng giống như hành trình của ba nhà đạo sĩ.
Khi mà chúng ta có trí khôn, chúng ta nhìn lên bầu trời vũ trụ mênh mông bao la và kỳ diệu, chúng ta nhìn thấy những kỳ công của Thiên Chúa thì chúng ta khám phá ra có một bàn tay của Đấng Tạo hóa vô hình đã dựng nên vũ trụ này. Và người ta vẫn nói rằng là:
Đức tin hỗ trợ cho khoa học và khoa học hỗ trợ cho đức tin, hai cái không có chống nhau.
Nhưng mà đức tin thì hỗ trợ cho khoa học, để mà qua cái khoa học để chứng minh được bàn tay của Thiên Chúa rất tuyệt vời, để sáng tạo nên vũ trụ này.
Và người Việt Nam của chúng ta tự hào là có ông Trịnh Xuân Thuận là 1 nhà thiên văn học. Ông đã dịch sách rất là nhiều, và chúng ta đọc được cuốn sách của ông về vũ trụ này.
Thì có một cái điều rất là hay lắm! Ông là nhà thiên văn học ông suy nghĩ về vũ trụ, ông suy nghĩ về vũ trụ, ông đi tìm kiếm vũ trụ, ông nghiên cứu về vũ trụ. Nhưng mà bên dưới cái sự tìm kiếm về vũ trụ về cái tác động, cái sự lạ về vũ trụ thì Trịnh Xuân Thuận lại suy tư về nguồn gốc của vũ trụ.
Và ý nghĩa của cuộc sống làm người, và ông trở về với câu hỏi như một triết gia. Tại sao lại có một cái gì đó thay vì hư vô? Tại sao có một cái vũ trụ đẹp tuyệt vời như thế này?
Và không phải một mình Trịnh Xuân Thuận mà rất nhiều người thấy rằng xuyên qua cái vũ trụ đẹp này thì nhiều người tin và xác tín rằng có một bàn tay của Thiên Chúa. Và rồi trong cái vũ trụ đó, chúng ta lại tìm coi THIÊN Chúa muốn nói gì trong vũ trụ.
Và để đi tìm cái đó thì lại đi dựa vào Thánh Kinh và chính Thánh Kinh đã nói cho chúng ta biết về ý nghĩa sâu xa mà Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ này và chỉ có nơi CHÚA Giêsu chúng ta mới có trọn vẹn về chân lý, về con người.
Bởi vì con người được sinh ra từ Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài và Thánh Augustinô đã cầu nguyện rằng: «Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Xin cho con biết con.
Thao thức của Augustinô cũng là thao thức của mỗi người chúng ta. Chúng ta xin cho chúng ta được biết Chúa và chúng ta biết chúng ta.
Và qua cái hành trình đi tìm ngôi sao lạ, cũng như tìm Chúa Giêsu đây, chúng ta bắt gặp hai khuôn mặt tương phản.
Ba nhà đạo sĩ thì từ nơi xa xôi cất bước lên đường vất vả, cực khổ để mà đi tìm. Và cuối cùng đã gặp Chúa, và dâng tất cả những gì quý báu lên Thiên Chúa.
Còn ngược lại Herôđê, ông không cất công đi tìm, ông chỉ tìm bằng cái quyền lực của ông. Và dùng cái quyền lực của ông, để ăn chắc với hài nhi dưới 2 tuổi trở xuống. Ông giết cho sạch! Bởi vì ông sợ hài nhi, một trong những hài nhi đó là vua dân Do Thái, để loại trừ ngai vàng của ông.
Và chúng ta thấy, hai thái độ tương phản một bên thì thao thức, một bên thì đi tìm.
Dẫu rằng, gặp tất cả cái khó khăn, vất vả của cuộc đời: cái ăn, cái ngủ, cái mặc và thậm chí cả tính mạng.
Còn một bên thì cái ngai vua của mình và sợ người ta đánh mất cái Ngai vua của mình và giết.
Trong khi đó thì chúng ta thấy, người ngoại giáo đi tìm để tôn thờ Chúa. Và những người có truyền thống tôn giáo cũng đi tìm, nhưng tìm để mà giết.
Và liệu rằng ngày hôm nay sau 2017 năm, Chúa Giêsu sinh ra làm người đó! Liệu rằng còn có cái sự tương phản đó trong cuộc đời của chúng ta hay không?
Có đó chứ! Có những anh chị em ngoại giáo, vì lòng thành đi tìm CHÚA rất tuyệt vời.
Ở trong ca Đoàn con quen thì có một cái cô kia, cô lập gia đình có hai đứa con. Thì hôn nhân của cô không trọn vẹn và rồi cô càng ngày càng khám phá ra Chúa. Và mỗi Chúa nhật đi nhà thờ, cô nghe cha giảng, dự thánh lễ cô thấy tâm mình bình an lắm!
Rồi Có một lần ngồi tòa giải tội có một cô kia vào tòa Xưng Tội thì ấp a ấp úng thì ra là: cô không có đạo. Cô nghe người ta nói là đi vào xưng tội, thì cô tha thiết đi xưng tội và đi tìm học giáo lý. Và sau đó có thì con hướng dẫn cho cô, để cô đi học giáo lý.
Những người ngoại giáo thì một hai đi tìm Chúa. Bởi vì họ thấy nơi Chúa có một cái chân lý, còn những người có đạo gốc, không chừng là gốc cây đó! thì không còn thao thức đi tìm Chúa nữa.
Thật sự ra mà nói thì, không phải là đến độ như Hêrôđê là giết Chúa. Nhưng mà nhiều người có đạo và đạo gốc đã tìm đủ mọi cách để gạt Chúa ra khỏi bên lề của đời mình:
– Chúa ơi, Chúa đi chỗ khác đi! Để con làm ăn. Chúa đến với đời con, Chúa phá đám con quá!
– Con đang tự do mà! Con đang tự do buôn gian bán lận, ăn nói bất chấp, vu khống, nói hành nói xấu.
– Con làm đủ mọi chuyện hết! mà bây giờ mà nếu Chúa vào trong đời con, thì con không làm ăn gì được hết! Thôi thì Chúa đi chỗ khác chơi dùm con nhờ!
Và ngày hôm nay nhìn lại cuộc đời của chúng ta hành trình 3 đạo sĩ có phải là hành trình của mỗi người chúng ta thao thức, tha thiết để mà lên đường tìm Chúa hay không?
Ngày hôm nay mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta soi mình và cuộc đời của ba đạo sĩ, để ta lại xin Chúa ban ơn cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết tìm Chúa trong mọi hoàn hoàn cảnh cuộc đời. Để rồi có khi nào đó chẳng may, chúng ta có một chút cái men Hêrôđê độc ác trong người của chúng ta, thì xin Chúa cho chúng ta biết loại trừ cái men Hêrôđê đó!
Cái men Hêrôđê độc ác : loại trừ Thiên Chúa, loại trừ anh chị em đó, ra khỏi cuộc đời của chúng ta. Để rồi lòng thành chúng ta, chúng ta chỉ biết đi tìm Chúa và tôn thờ, chỉ vì: Chúa là Đấng duy nhất cứu độ trần gian và là Đấng duy nhất cứu độ cuộc đời của chúng ta, chỉ có Chúa thôi.
Xin cho chúng ta ngày mỗi ngày, nói như Augustinô trong cuộc đời chúng ta: «Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Và xin cho con biết con. Để con được gặp gỡ Chúa, và con tìm được chính con Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Các đạo sĩ là ai? Chắc các ông thuộc hàng vương giả của các miền Tarsi, Saba và Sêba ở phương HiểnLinh ABC334
Các đạo sĩ là ai? Chắc các ông thuộc hàng vương giả của các miền Tarsi, Saba và Sêba ở phương Đông (Tv. 72, 10), vì các ông dám vào cung điện hỏi thẳng vua Hêrôđê: “Vua người Do thái sinh ra ở đâu?”. Nhưng các ông không phải là thứ hôn quân như Hêrôđê, mà là các bậc anh quân yêu nước thương dân như các vua Nghiêu, vua Thuấn. Có thể các ông là các nhà bác học như Thales, Pythago, Hypocrate đã lập ra các trường tu, vừa tập luyện đạo đức vừa nghiên cứu khoa học, thiên văn, y học. Nhưng hơn hết, các nhà đạo sĩ này là những người dầy công đi tìm chân lý.
Khi các ông chiêm ngắm các hành tinh vĩ đại vận chuyển lạ lùng trong vũ trụ và nghiên cứu muôn vật sinh sống kỳ diệu, các ông nhận ra rằng: phải có Đấng toàn năng vô cùng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật này.
Thêm vào đó các ông sưu tầm kinh điển cổ kim đông tây, các ông đã hiểu hết các thần tượng được tôn thờ ở Ba tư, Ả rập, Ai cập, La mã, Hy lạp, các ông nhận thấy thần nào cũng đầy tính mê nết xấu như loài người.
Nhưng tìm đến Kinh thánh của Do thái, các ông thấy đầy những sự lạ lùng tốt đẹp: từ Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật trong sách Sáng Thế, đến những việc Ngài tỏ cho lãnh tụ Môsê: Ta là Đấng Tự Hữu, Đấng Hằng sống đầy lòng thương xót đã giải phóng dân Do thái thoát ách thống khổ nô lệ Aicập. Các ông càng phấn khởi khi đọc sách tiên tri Isaia cho các ông biết Thiên Chúa sắp đến tỏ mình ra cho mọi xác phàm, các dân ngồi trong bóng tối sự chết sẽ nhìn thấy ánh sáng muôn thuở của Ngài “Ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là cố vấn kỳ diệu, vua muôn thuở, Cha đời đời và là Hoàng tử thái bình vô tận”. Ngài thật là Đấng muôn dân đang trông đợi (Is. 7, 14 ; 9, 1-6 ; 40, 5. 10).
Sau bao nhiêu năm tháng sưu tầm học hỏi hòa nhịp với tâm tư suy nghĩ và cầu nguyện trông cậy, đột nhiên các ông thấy trên không trung xuất hiện một ngôi sao lạ đang từ từ tiến đến các ông. Các ông reo lên: “Thôi đúng rồi, một ngôi sao lạ mọc lên từ nhà Gia cóp, một vương trượng xuất hiện từ Israel” (Ds. 24, 17). Thế là các ông sung sướng hối hả lên đường theo ánh sao hướng dẫn. Các ông bỏ nhà, bỏ nước, bỏ mọi tiện nghi sang trọng, dấn thân đến miền xa lạ. Dù đường xa chông gai núi non hiểm trở, vực thẳm cheo leo, rừng hoang sa mạc, dù nóng bức thiêu đốt, dù phong ba bão táp, dù sương tuyết lạnh lùng, dù nguy hiểm tính mạng, không làm cho các ông sờn lòng nản chí, ánh sao là hy vọng vô tận của các ông rồi. Suốt cuộc lữ hành tìm Chúa, các ông luôn luôn nhìn lên ánh sao cầu nguyện để được can đảm, mạnh sức thắng vượt mọi gian khổ.
Khi tới Giêrusalem, ánh sao biến mất, các ông tưởng đã gặp được Đấng Cứu thế. Nhưng chưa, các ông phải đi tìm Ngài mọi nơi, mọi người, từ dân quê mùa đến hàng trí thức, từ kẻ tốt lành đến kẻ gian ác như Hêrôđê. Làm thế, Thiên Chúa muốn dẫn dắt các ông bằng mọi phương tiện đều có thể giúp các ông đến với Chúa, miễn là các ông vững tin Ngài. Nhờ đó, Ngài càng gia tăng sự vui mừng cho các ông. Chính trong lúc các ông băn khoăn, bối rối nhất, Thiên Chúa đã cho các ông được ơn gặp Hài Nhi Giêsu, Đấng cứu độ các ông. Các ông phục xuống kính bái Ngài: Một Hài Nhi thanh tú tuyệt vời như thuở con người mới được tạo dựng. Các ông cảm thấy gần gũi Ngài quá, lòng các ông ấm áp, trí các ông sáng suốt, ánh sáng thánh thiêng của dung nhan Ngài đang truyền sang toàn thân các ông, lửa yêu mến của Ngài đang cháy lên trong con tim rạo rực của các ông. Các ông dâng lên Ngài trọn vẹn hồn xác và toàn thể dân tộc các ông. Các ông ra về lòng chan chứa hân hoan trong âm vang du dương của muôn tiếng hát thiên thần:
“Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
Bình An dưới thế cho người thiện tâm”
Những con người thiện tâm như HiểnLinh ABCđang đi khắp thế giới loan báo Tin mừng bình an cho muôn dân. Tin mừng bình an của Hài nhi Giáng Sinh đã đến với chúng ta. Tâm hồn chúng ta có trong sạch, có thiện tâm và sáng lên để đón mừng bình an của Chúa Cứu thế chưa?
Lạy Chúa, các đạo sĩ dù là dân ngoại, đã dầy công tìm Chúa và gặp được Chúa nơi hang đá và trong vinh quang muôn đời. Xin cho chúng con thành tâm thiện chí ra sức tìm Chúa trong cầu nguyện, trong lời Chúa, trong hy sinh và bác ái với mọi người, vì Chúa đã phán: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ cửa sẽ mở cho”.
Xin mở cửa cho chúng con được gặp Chúa trong bình an và chan chứa tin yêu.
Các đạo sĩ là ai? Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây HiểnLinh ABC335
Các đạo sĩ là ai?
Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây. Phương Tây tìm Chúa để chiếm hữu Chúa như họ chiếm hữu vùng đất mới sau bao nhiêu cuộc mạo hiểm. Họ chiếm hữu để thỏa mãn lòng tham giàu có, danh vọng. Người Do thái cũng như người phương Tây. Họ cầu mong Đấng Cứu Thế đến để thỏa mãn nguyện vọng bá chủ thiên hạ, làm cho dân Israel chiến thắng vinh quang, cho “Giêrusalem bừng sáng lên, cho nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, cho của cải muôn dân nước sẽ đến với ngươi, cho lạc đà từng đàn che rợp đất từ Madian, Êpha, Saba, hết thảy kéo đến mang theo vàng với trầm hương đổ vào nước ngươi” (Is. 60, 1-6).
Người phương Đông tìm Chúa, không để chiếm hữu Ngài, Ngài là Đấng tối cao, chí linh, chí thánh, vô biên. Họ kính Ngài ngự chốn rất cao xa. “Kính nhi viễn chi”. Họ biết mình thân phận thụ tạo hèn mọn, không dám gần Ngài. Dù là kẻ phàm trần được Ngài cho làm vua, mệnh danh là thiên tử. Họ cũng không dám ngẩng mặt nhìn dung nhan ông vua của họ. Huống chi là Thượng Đế chí tôn. Vậy họ tìm Chúa làm gì? Họ tìm Chúa, thực ra là để tìm thiên mệnh, là thánh ý Chúa. Qua tri thiên mệnh, qua các hiện tượng của trời đất, các tinh tú, thời tiết, qua các tâm hồn thánh nhân, qua cuộc sống của hiền nhân quân tử, và nhất là qua lương tâm trong sáng của lòng họ: “Tri tâm tắc tri thiên” (Mạnh Tử. Tận tâm. Thượng 1). Cho nên, không biết thiên mệnh không đáng làm quân tử: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử” (Luận Ngữ xx. 3). Không biết thánh ý Chúa, không thể làm con Chúa.
Biết thánh ý Chúa là điều quan trọng nhất của người phương Đông để biết phép tắc của trời và sống đúng theo ý trời:
“Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” – Trời có đạo lý rõ ràng, các loài phải thấy rõ mà theo (Kinh Thư. Thái hệ hạ 2).
Khổng Tử sở dĩ trở thành “vạn thế sư biểu” và “Thánh chi thời” là nhờ ông lo tìm biết ý trời mãi tới năm mươi tuổi mới thấu được thiên mệnh, đến sáu mươi tuổi mới thuận theo được ý trời và tới bảy mươi tuổi tâm tưởng hoàn toàn không trái phép trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (LN. II, 4).
Chính Hài Nhi Giêsu khi đến thế gian đã thưa với Chúa Cha rằng: “Này con xin đến để làm theo tôn ý Cha”. Lúc lên mười hai tuổi, Người cũng đã thưa với thân mẫu trần gian rằng: “Tại sao tìm con, con phải lo làm việc của Cha con đó” (Lc. 2, 49).
Tri thiên mệnh, làm theo ý Chúa Cha đó là lễ vật lòng thành hoàn hảo nhất mà HiểnLinh ABCđem đến dâng tiến Chúa Giáng Sinh qua ba lễ vật hữu hình: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Vàng là kim loại óng ánh, rực rỡ, tinh ròng để trang sức cho trần gian, các ông dâng lên Ngài, làm ngai vàng cho Ngài ngự trị, tôn vinh Ngài làm vua trên hết các vua. Các vua còn muốn nó thay cho lòng mến nồng nhiệt, bền vững nhất gói ghém trọn vẹn cả tâm tư, trí khôn, ý chí, sức lực của chính các ông và muôn dân mà các ông là đại biểu cho họ hôm nay và mãi mãi.
Nhũ hương: một thứ nhựa cây tầm thường, không mùi vị, nhưng khi đốt vào lửa hồng, nó tỏa hương thơm ngào ngạt, bay lên những làn khói trắng nhẹ nhàng. Các ông muốn nó thay cho mọi của cải trần gian từ nay chỉ được dùng tiến dâng tế lễ Ngài, không bao giờ để nó làm tôi đòi cho các thần tượng bất chính. Mọi sự do Ngài dựng nên, trao ban cho loài người, thì phải dùng để tôn thờ Thiên Chúa. Các ông còn ước ao những làn hương thơm đó ôm ấp những lời nguyện hèn mọn của các ông và của hết mọi người ở khắp nơi, bay tỏa lên trước tôn nhan Thiên Chúa, xin Ngài làm cho bao nhiêu nỗi âu lo, buồn phiền cay đắng, nhọc nhằn, khốn cực của nhân loại được trở nên dịu dàng, thơm tho, ngọt ngào trong lửa kính mến Ngài.
Mộc dược là nước lấy từ thứ cây có vị đắng và thơm, để tắm gội, thanh tẩy và ướp xác khi khâm liệm. HiểnLinh ABCdâng lễ vật này lên Hài Nhi đang nằm trong nơi hôi thối, để cảm tạ Ngài đã hy sinh giáng trần, thí mạng sống lấy máu thịt Ngài ướp lấy mạng sống của các ông và của cả nhân dân thế giới khỏi dòi bọ tội lỗi phá hủy, các ông dâng mộc dược còn tượng trưng sự hy sinh hãm mình của chính các ông đã ra sức thanh tẩy đầu óc mê tín dị đoan của các tà thần dân ngoại. Những cố gắng từ bỏ lối sống ham danh trục lợi, ăn chơi tội lỗi. Đặc biệt các ông dâng lên Ngài lòng biết ơn sâu xa của các ông mà Ngài đã ban cho các ông biết hy sinh lớn lao cho công cuộc nghiên cứu khoa học, tìm tới chân lý, nhất là Ngài đã dạy các ông biết thực thi bác ái, cứu giúp đồng bào.
Đã từ lâu, Chúa Hài Nhi hằng mong chờ lễ vật lòng thành của tôi. Tôi đã có một chút lòng mến óng ánh như vàng, một chút kinh nguyện nồng nàn thâm trầm như hương thơm ngọt ngào, một chút hy sinh cay đắng như mộc dược dâng lên Ngài chưa?
Lạy Chúa, Người là tình yêu, Người yêu con vô bờ, chẳng cần chi thiên phúc, sống thân phận bần cùng đồng hàng với con hèn, cho con được đồng phận thiên phúc của Người. Lạy Chúa, con đền ơn trời biển làm sao? Xin cho con biết hiến dâng cho Người: một con tim nồng ấm dạt dào thương mến như Người, một khối óc cởi mở đón nhận chân lý hằng sống của Người, một thân xác lành mạnh luôn luôn biết phụng sự các chi thể của Người.
Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hài Nhi GiêSu đã tỏ mình ra cho các mục đồng, đại HiểnLinh ABC336
Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hài Nhi GiêSu đã tỏ mình ra cho các mục đồng, đại diện cho dân Israel, dân riêng của Thiên Chúa. Người còn tỏ mình ra cho Các Đạo Sĩ Phương Đông, đại diện cho lương dân, qua ánh sao lạ. Các Đạo Sĩ này là những người thành tâm, thiện chí, họ khao khát đi tìm ý nghĩa của ánh sao lạ ấy.... Khi đã gặp được Hài Nhi, họ dâng lễ vật cho Ngài. Trước đó bảy thế kỷ, Isaia đã hé mở cho dân Chúa thấy ý ng hĩa lớn lao ngang qua sự xuất hiện vinh quang của Thiên Chúa “Hãy bừng lên, hãy tỏa sáng ra hỡi Giêrusalem. Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân”. Điều Isaia loan báo, đã không chỉ làm nức lòng những trái tim héo úa, làm phấn khởi những ngón tay rã rời. Khơi lên niềm hy vọng lón lao cho dân, mở ra con đường trở về cho dân ngoại. Chính trong bối cảnh đó, Thiên Chúa đã nhìn đến con người, và Ngài đã sai Con của Ngài sinh bởi người nữ. Ngài đang tỏa sáng trên dân Ngài, nhưng không phải chỉ riêng cho người Do Thái mà là cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
Thật vậy, hôm nay bằng ánh sao lạ, Ngài đã chỉ cho các đạo Sĩ của Phương Đông, trông lên trời cao và tìm đến để thờ lạy vị Vua Cứu Tinh vừa mới giáng sinh. Vượt lên trên mọi tính toán, mọi khó khăn, mọi nguy hiểm, mọi vất vả, các đạo sĩ đã vội vã lên đường. Bằng tấm lòng chân thành khát khao tìm chân lý và ánh sáng, các đạo sĩ đã chấp nhận dấn thân vào cuộc phiêu lưu, mang trong mình hành trang là niềm tin để bước theo ánh sao lạ. Tuy nhiên, cũng không thiếu giây phút mà ngay cả một chút ánh sáng của niềm tin cũng vụt tắt để nhường lại cho những mò mẫm của đêm tối tăm. Cho dù găp phải hoàn cảnh bất lợi như thế, ba đạo sĩ không thất vọng, không chán nản bỏ cuộc, trái lại bằng tất cả sự nổ lực, các ngài đã tìm đấn với Vua Hêrôdê, để khơi thêm ánh sáng cho niềm tin đã sắp tắt lịm. Quả thật, Thiên Chúa không để cho những kẻ tìm kiếm Ngài phải hổ ngươi thất vọng. Đáp lại tấm lòng của họ, Thiên Chúa đã tỏ mình, hiển linh trước mặt họ trong thân phận của một Hài Nhi, hiền hòa trong trắng nằm trong máng cỏ. Sự kiên trì, chân thành tìm kiếm của họ nay đã được toại nguyện. Với tất cả sự thành kính, họ đã dâng lên Hài Nhi Giêsu: Vàng, Nhũ hương, Mộc Dược..tượng trưng cho lòng tin, cậy, mến yêu của mình. Đáp lại lòng thành kính và những lễ vật của họ, Ngài đã ban tặng họ niềm vui, sự an bình,..và mở ra cho họ con đường mới, một lối đi của tình thương và hạnh phúc, không còn âm mưu và nguy hiểm.
Còn Hêrôđê và Giêrusalem khi nghe biết về ánh sao lạ mà các nhà đạo sĩ cho biết thì đâm ra lo lắng, hoang mang, bối rối,...Họ chỉ lo cho cuộc sống trước mắt, cơm áo gạo tiền.Danh vọng và quyền uy đã chiếm hết trong cuộc sống của họ. Sự ảnh hưởng, quyền lợi ích kỷ...đã làm cho mắt họ không còn nhìn thấy ánh sao lạ, lòng họ không còn trong sáng đủ để khám phá ra tiếng Chúa đang hối thúc, và không còn sự khát khao đi tìm kiếm chân lý...Cuộc sống của họ đang “ngon cơm ngọt canh” mà bổng dưng Vị Vua mới lại xuất hiện...Có thể Ngài sẽ phá vỡ nồi cơm hay chăng? Và Ngài sẽ làm họ mất ảnh hưởng, cùng đi theo là mất luôn những quyền lợi trần thế...Do đó, họ phải hoảng sợ và lo lắng.
Khi đặt mình trước bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy mình đang được Chúa tỏ mình ra qua các dấu chỉ và các biến cố xảy đến hằng ngày. Vậy ta lấy mắt đức tin để nhìn ra các ánh sao mà Chúa đang gởi đến: Lời Chúa, Giáo Huấn của Giáo Hội, các Bí Tích, qua lương tâm, qua các biến cố trong cuộc sống, để giống như các đạo sĩ, ta quảng đại dấn thân, quên mình không ngại khó, kiên trì và nhẫn nại đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Ngôi sao đã vụt tắt khi các đạo sĩ dừng chân tại Giêrusalem. Trong cuộc sống, tiền bạc, quyền lực khôn ngoan, … không phải là chỗ dựa vững chắc để ta tìm gặp Con Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy giúp ta dứt mình ra khỏi những níu kéo của tiển bạc vật chất, mà ngược lại ta phải bám chắc vào Lời Chúa để làm hành trang tìm kiếm Chúa cho cuộc đời mình.
Gặp được Chúa, Các đạo sĩ đã được đổi mới. Mỗi lần gặp Chúa, phải được đánh dấu bằng cuộc đổi mới. Nếu ta thành tâm thiện chí, khao khát muốn gặp Chúa, thì Chúa sẽ có cách tỏ mình ra, Ngài sẽ thánh hóa, thăng tiến và biến đổi con người chúng ta nên tốt hơn, thánh thiện hơn.
Xin cho chúng ta biết lấy đức tin để nhìn ra ánh sao Lời Chúa, dâng lên Chúa tấm lòng yêu mến chân thành, những nổ lực, hy sinh,...từ bỏ con đường cũ để theo ánh sáng Chúa, ta đến với Chúa để đón nhận niềm vui, bình an và hạnh phúc của Chúa.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh. Qua dấu chỉ ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, Thiên HiểnLinh ABC337
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh. Qua dấu chỉ ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, đặc biệt là cho những ai thành tâm tìm kiếm Chúa.
Ngày xưa, người ta thường cho rằng, việc giáng sinh của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng việc xuất hiện những ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán định mệnh của con người. Ba nhà đạo sĩ mà Tin mừng vừa tường thuật cho chúng ta nghe là những người rất thành thạo về khoa chiêm tinh, nhìn thấy ngôi sao lạ, họ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu thế, Vua dân Do thái nên họ đã quyết lòng đi tìm gặp Đấng Quân vương mà họ khao khát mong chờ.
Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh rất tế nhị nhưng cũng rất thời sự trong cuộc sống của con người. Đó là sự tồn tại của hai hạng người đối nghịch nhau trong cách sống. Hạng người thứ nhất là hạng người xem ra rất trí thức, thông biết nhiều điều, nhưng biết chỉ để cho biết chứ không dẫn đến hành động. Đó là trường hợp của những đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân Do thái. Những người này biết rõ nơi Đức Giêsu sẽ sinh ra, nhưng họ không tha thiết gì trong việc tìm gặp Đấng cứu thế, Đấng thủ lãnh chăn nuôi dân Israel dù sau khi họ nghe những nhà đạo sĩ từ Phương Đông đến nói cho họ biết điềm lạ ấy. Hạng người thứ hai là những người khao khát chân lý, say sưa kiếm tìm và quyết tâm đạt đến chân lý. Đó là trường hợp của ba nhà đạo sĩ mà chúng ta được nghe nói đến trong đoạn Tin mừng hôm nay. Các ông hăng hái lên đường khi đã thấy điềm lạ là ánh sao lớn xuất hiện. Với ánh sao này, các đạo sĩ nhận ra có một vĩ nhân, một Quân vương mới vừa ra đời. Thái độ tích cực tìm kiếm sự khôn ngoan và chân lý của ba nhà đạo sĩ hoàn toàn đối lập với thái độ của các đại giáo trưởng và những luật sĩ trong dân Israel.
Nếu biết chỉ để cho biết, chỉ để tỏ ra cho người ta thấy mình uyên bác mà thôi thì quả thật đáng chê trách và đáng tội nghiệp cho họ. “Cái biết” thật sự phải dẫn đến cách sống và lối sống phù hợp với sự thật thì mới làm trổ sinh hoa trái được. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo rằng: “Ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành thì ví như người ngu xây nhà mình trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt 7, 26-27). Trong cuộc sống chúng ta cũng thấy có nhiều người rất uyên thông nhiều vấn đề, đặc biệt là đối với tôn giáo, nhưng họ lại là những người vô thần hoặc trở thành những người đả kích các tôn giáo. Cái biết của những con người kiêu căng, muốn dạy đời cho thiên hạ nhưng không biết dùng cái biết đó để kiếm tìm chân lý và sự thật. Rốt cuộc, họ chỉ là những con người kiêu căng đáng thương.
Chuyện kể rằng, có một sinh viên đang theo học tại một trường Đại học nổi tiếng bên Pháp. Một hôm, anh bước lên chiếc xe buýt và bắt gặp một ông cụ già đang ngồi lần chuỗi ở một dãy ghế dưới cùng của chiếc xe. Anh bước tới và làm quen với ông cụ ấy. Anh ta khuyên ông cụ thôi đừng làm những trò nhảm nhí ấy nữa. Sống trong thời đại văn minh rồi mà còn tin dị đoan như thế thì lạc hậu vô cùng. Anh ta lần lượt giới thiệu hết tác phẩm nổi tiếng này đến các sách bách khoa khác cho ông lão để ông mở mang trí thức và mở rộng tầm nhìn của mình ra thế giới. Gần đến tạm xe, anh ta xin địa chỉ của ông lão để có dịp anh ta sẽ gửi sách cho ông hoặc giới thiệu những quyển sách hay cho ông lão tìm mua. Ông lão khiêm tốn lấy tấm danh thiếp của mình ra trao cho chàng sinh viên, anh ta vô cùng hốt hoảng và xấu hổ bước đi, vì tấm danh thiếp ấy ghi “Pasteur, Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp”. Như thế, đức tin, sự khiêm tốn, cách sống cao thượng... không là kết quả của những hiểu biết trên sách vở hay qua những phương tiện truyền thông.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho chúng ta trong cuộc sống qua nhiều dấu chỉ khác nhau: qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống, qua những thay đổi của đất trời, qua những biến chuyển của thời gian và lịch sử... nhưng chúng ta đã có thái độ nào trước những dấu chỉ ấy? Chúng ta chỉ nhìn ngắm những dấu chỉ ấy để bàn luận và đùa cợt hay để suy gẫm và thay đổi cách sống? Hoa trái của đời sống đức tin tuỳ thuộc vào việc tích cực sống theo thánh ý của Thiên Chúa được biểu lộ qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc đời chúng ta.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy được sự thật này: những chân lý mà Thiên Chúa mặc khải cho con người thường được những người bị coi là thấp cổ bé miệng và nghèo khổ đón nhận hơn là những người giàu có và trí thức trong xã hội. Quả thật, những ai tự phụ, kiêu căng thì không thể đến gần Thiên Chúa và tiếp cận với Thiên Chúa được. Họ không còn sự khát khao Thiên Chúa nữa những lòng họ đã đầy ắp những dự định, tính toán tham lam trong lòng mình rối. Thời đại nào cũng có những con người như thế. Vì thế, Chúa Giêsu đã có lần cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải những mầu nhiệm Nước trời cho những người bé mọn nhưng lại giấu không cho những người thông thái và khôn ngoan được biết. Hay nói đúng hơn là những người tự hào mình là khôn ngoan đã không đón nhận những mầu nhiệm Nước trời mà Đức Giêsu đã mặc khải cho họ. Họ chỉ tìm cách chống lại và đả phá những gì Đức Giêsu rao giảng. Chân thành và khiêm hạ trước Thiên Chúa luôn là thái độ cần thiết và khôn ngoan đối với con người. Những ai tự hạ mình trước Thiên Chúa sẽ được Ngài nâng dậy và được Ngài cho hiểu biết sự thật và được Sự thật giải thoát cho khỏi những mê lầm trong cuộc sống thế trần này.
Mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta hãy noi gương các nhà Đạo sĩ biết hăng hái lên đường tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa để được Thiên Chúa cho gặp Ngài và được Ngài đong đầy tâm hồn chúng ta tình yêu Chúa để chúng ta được sống hạnh phúc với Chúa mãi mãi trong vinh quang Nước trời mai sau.
Nguyện Chúa trời dủ thương và chúc phúc, Xin tỏa ánh ánh rạng ngời trên chúng con Cho cả HiểnLinh ABC338
Nguyện Chúa trời dủ thương và chúc phúc, Xin tỏa ánh rạng ngời trên chúng con Cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa Và muôn nước biết ơn cứu độ của người. (Tv 66, 1-4)
Lời cầu xin của dân Do thái trong thánh vịnh 66 đã được Thiên Chúa Yavê nhậm lời. Vào thời viên mãn, Ngài đã tỏ mình ra không những cho những người Do thái mà thôi mà còn cho muôn dân được biết ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô.
1. Chúa Giêsu tỏ mình cho dân Israel: Thiên Chúa yêu thương dân Israel và luôn luôn tỏ mình ra cho họ trước. Đầu tiên, Chúa tỏ mình cho những người nghèo, những người chăn chiên đang mong được đổi đời, được cứu độ: Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Sứ thần Chúa hiện đến bên họ báo tin vui: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô và là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (x. Lc 2, 9-12). Những người chăn chiên này được Chúa chọn làm đại diện cho dân Israel đón mừng Đấng Cứu Thế ngự đến.
Chúa đã để ngôi sao biến đi trong một khoảng thời gian để các nhà đạo sĩ đến gặp vua Hêrôđê, gián tiếp loan tin Chúa cứu thế ra đời: vua Do thái hiện sinh ra ở đâu. Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người. Vua Hêrôđê và tất cả Giêrusalem đều bối rối về thông tin này. Vua mình ngự đến mà mình không biết, không lo đón tiếp, còn những người ngoại lại nhận biết. Giải thích sao bây giờ! Vua triệu tập tất cả đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân để hỏi cho biết nơi Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu: xứ Bêlem, đất Giuđa như lời tiên tri đã chép. Như vậy, Chúa đã gián tiếp tỏ mình ra cho dân Israel khi mới sinh ra. Ai có lòng tìm kiếm sẽ gặp được Người. Tuy nhiên, có điều đáng buồn là ai cũng lo công ăn việc làm hoặc coi trọng việc vui chơi giải trí hơn nên không tìm đến làng Bêlem để tìm gặp Chúa! Chỉ có Hêrôđê là muốn tìm gặp Chúa nhưng không phải để tỏ lòng kính tôn mà để giết hại Đấng Cứu Thế cho ngai vàng trần gian mình được vững!
2. Chúa tỏ mình cho dân ngoại: Chúa Giêsu xuống thế làm người không chỉ để cứu độ dân Israel mà còn cứu chuộc muôn dân nữa. Vì thế, Chúa đã tỏ mình qua một dấu chỉ là ngôi sao lạ trên bầu trời khiến những người ngọai biết tìm hiểu về ơn cứu độ và những dấu hiệu của trời đất có thể nhận biết và tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng và sự hăng hái tìm Chúa của họ đáng cho con cái Chúa phải giựt mình về sự thờ ơ của mình.
Chúa đã thưởng công khó nhọc và lòng chân thành tìm Chúa của ba nhà đạo sĩ, họ đã gặp được Đấng Cứu Thế trong hình dạng một em bé mới sinh. Họ tin, quỳ gối xuống thờ lạy Người rồi dâng tiến những lễ vật quý giá tượng trưng cho lòng thành kính của họ: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian đã tỏ mình ra cho những người Do thái cũng như dân ngoại và hôm nay đang tỏ mình qua Giáo hội của Ngài. Giáo hội là Bí tích ơn cứu độ muôn dân còn chúng ta là thành phần của Giáo Hội, là con cái Chúa. Chúng ta có bổn phận giúp người khác tìm đến Chúa bằng gương sáng và đời sống nhiệt thành với đạo Chúa, tốt với mọi người để Chúa được tỏ mình ra cho mọi người qua chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta hãy thiết tha cầu xin cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến trong lòng mọi người.
Có một anh mù đến nhà cậu bạn chơi. Khi trời tối, anh muốn về nhà, người bạn liền thắp một chiếc HiểnLinh ABC339
Có một anh mù đến nhà cậu bạn chơi. Khi trời tối, anh muốn về nhà, người bạn liền thắp một chiếc đèn lồng, đưa cho anh rồi bảo: “Ngoài trời tối rồi, anh cầm cái đèn này đi cho sáng nhé”.
Anh mù nghe vậy tức giận nói: “Sao cậu lại nói vậy. Rõ ràng ai cũng biết tôi bị mù. Tôi cầm đèn lồng để soi đường không phải để người đời cười nhạo sao?”.
Người bạn nhẹ nhàng giải thích: “Anh hiểu lầm ý của tôi. Vì tôi nghĩ giờ này rất nhiều người cũng đi trên đường. Anh cầm đèn lồng, người khác có thể nhìn thấy anh, vì vậy sẽ không thể đụng vào anh được”.
Anh mù nghĩ một lát rồi nói: “Ừ, cậu nói có lý. Cảm ơn nhé! Tôi về đây”.
Hóa ra thắp đèn sáng không hẳn cho mình mà còn cho người khác. Ở đâu đó trong một góc khuất có ánh đèn sáng sẽ làm cho khách bộ hành an tâm. Ở đâu đó có ngọn hải đăng sẽ làm cho người đi biển biết hướng về bình an.
Nếu hiểu rằng mỗi người là một ánh sao thì cuộc đời chúng ta cũng cần được thắp lên để mang lại bình an hạnh phúc cho tha nhân. Ở tuổi thiếu niên chúng ta vẫn hát với nhau về một niềm mơ ước rằng:
"Đếm ánh sao đêm tôi gọi người, Hồng xanh xanh hồng xanh xám xanh. Ngôi sao xanh chính là anh đó, Ngôi sao vàng đó của chị đây. Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen."
Chúng ta mơ ước mình là một ánh sao. Ánh sao thì có đủ màu. Ánh sao thì luôn tỏa sáng. Không bao giờ có ánh sao đen. Nếu ý thức mình là những vì sao trên trời, chúng ta phải sống cuộc sống của những vì sao: thoải mái trong một không gian mênh mông và chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh tùy theo sức sáng mình có. Đất đáthì sống cuộc đời chật hẹp, tăm tối, kèn cựa nhau, nhưng những vì sao thì sống thanh thoát, vừa thi đua tỏa sáng vừa tôn trọng sự sáng của nhau.
Hành trình HiểnLinh ABCđến gặp hài nhi Giê-su cũng cần một ánh sao dẫn lối. Tuy hành trình cũng có lúc bế tắc vì không có ánh sao nhưng với sự kiên nhẫn họ đã vượt qua. Họ từng lần mò trong thành phố nhưng chỉ gặp những người chỉ đường đầy toan tính, vụ lợi. Họ thất vọng vì giữa thủ đô lại thiếu một ánh sao thanh thoát tô thêm vẻ đẹp cho bầu trời. Nhưng họ không bỏ cuộc. Họ tiếp tục lần mò trong bóng đêm của thế giới đầy tội ác. Và rồi sự kiên trì đã được đền đáp. Ánh sao lại xuất hiện dẫn họ đến triều bái Hài Nhi mới giáng sinh nơi hang đá Belem.
Cuộc đời hôm nay vẫn có những người đang đi tìm chân lý, tìm lẽ sống. Có rất nhiều người đang mong mỏi có một ánh sao dẫn lối đưa đường cho họ. Họ cần nơi người tín hữu hãy sống thanh thoát như những vì sao không bon chen ngụp lặn trong bóng tối tham lam, ghen ghét, lừa đảo. Họ cần người tín hữu tỏa sáng giữa bầu trời ích kỷ này một ánh sáng bác ái vị tha.
Vâng giữa một thế giới mà bóng tối của thù hận, ghen ghét, tham lam, lừa đảo và hưởng thụ thì rất cần một ánh sao sáng giúp con người biết nhìn nhận nhau là anh em để rồi biết sống kính trọng và yêu thương nhau hơn. Giữa một thế giới đang khao khát gương sáng cũng đòi hỏi người ky-tô hữu hãy tỏa sáng phúc âm để mang tình yêu và hy vọng cho nhân gian.
Ước gì từng người chúng ta hãy trở thành ánh sao sáng để xóa tan bóng đêm của tội lỗi. Xin đừng vì ích kỷ và đam mê mà dập tắt ánh sáng tình thương nơi họa ảnh Thiên Chúa là con người chúng ta. Amen.
Tình cờ tôi được nghe hai cô gái nói chuyện. Cô A: Hình như bạn và anh ấy đã chia tay? Cô B: Chúng HiểnLinh ABC340
Tình cờ tôi được nghe hai cô gái nói chuyện
Cô A: Hình như bạn và anh ấy đã chia tay? Cô B: Chúng mình không hợp nên chia tay rồi Cô A: Thế cái thai trong bụng của bạn thì sao? Cô B: Mình bỏ rồi...
“Mình bỏ rồi” sao nghe dễ dàng thế! Yêu nhau có thai - không cưới - rồi bỏ. Hóa ra thai nhi chỉ là một vật bên ngoài tình yêu. Còn yêu nhau thì giữ nếu chia tay thì bỏ. Hóa ra sự sống thai nhi chẳng có giá trị gì khi họ không còn yêu nhau. Xem thường giá trị sự sống người ta cũng lạnh lùng vứt bỏ nếu không thấy có lợi cho bản thân của họ. Cho dù thai nhi vô tội nhưng để trả thù người yêu, để che dấu người đời, để tránh nghèo đói... người ta vẫn đang tâm vứt bỏ các thai nhi.
Tại Bình Lâm có nghĩa trang Thai Nhi mà chúng tôi đặt tên là “Vườn Thánh Thai Nhi”. Vườn thánh được thành lập ngày 04.03.2011 tới nay đã chôn cất gần 3000 thai nhi. Đây là một làng quê rất yên bình gồm những con người nông dân hiền hòa chất phác sao bỗng dưng lại ác độc đến lạ thường. Mỗi ngày trung bình có 10 bà mẹ giết hại các thai nhi. Nhìn các thai nhi có khi chỉ là một giọt máu bọc trong khăn cũng khiến chúng ta đau lòng. Sao lại nhẫn tâm thế. Các thai nhi là giọt máu của họ cơ mà? Sao lại cạn tình đến vứt bỏ giọt máu đào của mình!
Có đôi lần tôi hỏi một vài bà mẹ: Tại sao lại bỏ con. Người thì bảo tại nhà đông con quá rồi. Người thì bảo tại nhà nghèo. Kẻ thì bảo tại chồng không thương. Hóa ra chỉ vì trẻ nhỏ này sinh ra không có lợi cho mình nên cam tâm dứt bỏ.
Chúa Giê-su cũng từng là tâm điểm để người ta chống đối, gạt bỏ. Họ là những Hê-rô-đê sợ mất ngai vàng. Họ là những biệt phái luật sĩ sợ bị phơi bày ra ánh sáng việc làm giả hình của họ. Họ là những người dân quê thiếu hiểu biết lại hùa theo đám đông để kết án Chúa.
Hoàn cảnh của Chúa Giê-su cũng giống như hoàn cảnh của các thai nhi hôm nay. Người đời có muôn ngàn lý do để gạt bỏ quyền sống của các thai nhi vô tội! Người đời cũng có muôn vàn cách để loại trừ một mầm sống thật thánh thiện trong sáng như các vì sao trên trời.
Thế nhưng, giữa một không gian đầy sự dữ ấy vẫn còn có những con người lặng lẽ đi tìm hài nhi Giê-su. Họ là các đạo sĩ từ phương đông. Họ nhìn thấy hài nhi không phải là một gánh nặng mà là một quân vương. Họ đến để triều bái hài nhi.
Ở Mỹ người ta nói: “Mỗi một trẻ nhỏ đều có thể là một tổng thống Hoa Kỳ”. Nếu ở đời người ta đều nhìn trẻ nhỏ với một tương lai tốt như thế có lẽ sẽ không còn những nghĩa trang thai nhi đông đảo như hôm nay. Nếu con người biết nhìn các thai nhi với cái nhìn tích cực thì sẽ bớt đi những tội ác giã man mà con người hôm nay đang hành động trên sự sống của các thai nhi.
Chúa hiển linh trong thân phận một hài nhi. Ngài muốn mời gọi con người hãy tôn trọng sự sống, hãy bảo vệ sự sống. Ngài muốn nhắc nhở rằng chính Ngài vẫn đang hiển linh nơi những hài nhi nhỏ bé đang hiện diện trước mặt chúng ta. Ước gì chúng ta biết nhìn các thai nhi như các vì sao trên trời luôn chiếu sáng, luôn mang lại lợi ích cho cuộc sống để nhờ đó chúng ta yêu quý sự sống, bảo vệ sự sống và đón nhận sự sống như món quá Chúa ban. Xin đừng nhìn các thai nhi là gánh nặng để rồi tẩy chay hay vứt bỏ. Amen.
"Vua Người Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người"
Gọi là "ngôi sao của Người", bởi ấy là một ngôi sao lạ, không giống như những ngôi sao thường HiểnLinh ABC341
Gọi là "ngôi sao của Người", bởi ấy là một ngôi sao lạ, không giống như những ngôi sao thường thấy. Ngôi sao lạ xuất hiện, theo các nhà thông thái ấy, là dấu chỉ một điềm lạ xảy đến: một con người vĩ đại xuất hiện trên dương trần. Ngôi sao lạ, lạ đến nỗi các chiêm tinh gia chỉ còn biết theo ánh sáng của ngôi sao ấy mà bước đi, vì xác tín rằng ấy là Ngôi Sao Cứu Thế, Ngôi sao của "Vua Người Do Thái mới sinh ra". Họ đã không đặt viễn vọng kính để nghiên cứu, cũng không theo ánh sáng của ngôi sao để tìm đến chính ngôi sao, mà chiêm ngưỡng, ca tụng, tôn vinh ngôi sao đẹp lạ lùng diễm lệ ấy; ngược lại họ theo ánh sáng của ngôi sao mà tìm đến thờ kính Con Thiên Chúa Giáng Trần. Họ đã không thể làm khác hơn, vì "ngôi sao ấy luôn đi trước họ, dẫn đường cho họ, và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở" (Mt. 2,9).
Và còn hơn thế nữa, cách nào đó, họ đã trình diện cõi riêng mình với Thiên Chúa khi dâng những lễ vật dành cho Vua Chúa với hết lòng thành kính. Vàng, nhủ hương, mộc dược những lễ phẩm tự nó đã quí giá, đối với các bậc quân vương, càng quí giá đối với hàng lê thứ, nhưng ở đây, cái quí giá hơn chính là lòng tin tưởng và phó thác vào một hài nhi khó nghèo dưới mức bình thường của nhân loại mà họ xác tín là Đấng Cứu Thế. Ánh sáng của vì sao nên huyền vi diệu kỳ, chắc chắn không phải là ánh sáng bình thường mà là ánh sáng của Thần Linh Thiên Chúa. Ngôi sao đã chấp nhận làm một công cụ để Thiên Chúa giới thiệu Con Một của mình cho muôn dân. Như vậy, công việc của một ngôi sao, đến đây có thể nói là hoàn tất sứ mệnh, một sứ mệnh thật cao cả: đưa dẫn con người đến gặp gỡ con Thiên Chúa, để tôn vinh, chúc tụng và dâng lên Thiên Chúa những lễ phẩm với lòng tín thác.
Nhưng không ai ca tụng ngôi sao, chỉ nghe thấy ngôi sao cùng muôn tinh tú xôn xao ca tụng Con Thiên Chúa. Cũng không thấy ngôi sao yêu cầu ai ca tụng mình, vì ngôi sao tự biết mình đã chứa chan hạnh phúc khi nhận được ánh sáng từ Thần Linh Thiên Chúa để phát sáng cho đời nhận ra vinh quang Con Thiên Chúa, đễ dẫn lối cho đời đến với Đấng Cứu Thế của họ.
Chúa Kitô: Ánh sáng mới
Chúa Giêsu bé thơ trong máng bò lừa rơm cỏ úa chính là ánh sáng mới chiếu soi gian trần như tiên tri Isaia đã tiên báo: " Ánh sáng mới đã bừng lên cho dân đang lầm lũi tối tăm trong đêm dài. Mặt trời công minh đã chiếu sáng khắp nơi " (Is 9,1). Đức Kitô không chỉ là một ngôi sao xuất hiện ở phương Đông không bao giờ tắt lặn, nhưng còn là ánh sáng muôn đời cho nhân loại.
Ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa trong chương trình cứu rỗi nhân loại: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Ánh sáng ban ngày soi chiếu vào cõi lầm lạc của con người đi trong bóng đêm, ánh sáng công minh chính trực soi chiếu vào hố thẳm bất công và gian tà, ánh sáng ban sự sống- sống chân chính đàng hoàng trong kiếp sống của con người được yêu thương cứu rỗi, được gọi Thiên Chúa là Cha; ánh sáng ấy, thánh Phao lô đã khuyên giáo đoàn Roma tiếp nhận: "Dừng chân ngay thôi con đường mê muội. Xóa bất công xây bình an trong lòng. Hãy mặc lấy khí giới ban sự sống. Sống công minh như giữa ban ngày" (x. Rm 13,11-14)
Ánh sáng của "Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm"- Ánh sáng của Lời Hứa Cứu Độ của Thiên Chúa Cha trong thượng uyển năm xửa năm xưa, từ thủa con người tự đánh mất ơn mất ơn làm nghĩa tử-Ánh sáng của Lời Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc mà dân Thiên Chúa hằng mõi mong đợi chờ trong tin tưởng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv 118,105). Ánh sáng mạc khải mầu nhiệm cứu chuộc muôn dân: "trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với Người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" ( Eph 3,6).
Đức Giêsu, chính là ánh sáng mới, là ngôi sao mới, chiếu soi con đường mới đưa dẫn nhân loại về với Thiên Chúa Cha. Ngài cũng như ngôi sao phương Đông năm nào không hề có tham vọng đưa nhân loại quy về mình, nhưng là về với Cha, đấng đã sai Con Một Người xuống thế. Tất cả vì danh Cha, tất cả cho Cha, tất cả để "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". "Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời". (Mt 5, 16)
Và vì Cha biết và tin tưởng Con mình tất cả cho Cha, nên Cha đã thông ban vinh quang của Cha cho con để mọi người khi quy hướng về Ánh sáng của Con, thì được xem thấy Cha của Con và Cha của chính mình.
Các con là ánh sáng thế gian
Mỗi tín hữu phải trở thành một chứng nhân Đức Kitô, một ngôi sao dẫn đường cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa. Đời sống chứng nhân, ơn gọi tiên tri cho đời, trước tiên là một ơn nhưng không qua bí tích rửa tội. Đã có biết bao Kitô hữu đã trở nên ánh sáng cho muôn dân qua cách sống đạo của mình. Họ chiếu sáng tinh thần Phúc Âm, không chỉ bằng lời, mà bằng cả cuộc sống Đức Tin, Đức Cậy Trông, và Đức Ái Kitô giáo trong cuộc đời họ. Trong mọi hoàn cảnh, họ chấp nhận và kiên trì chu tất sứ mệnh làm ánh sáng Tin Mừng cho đời, cả khi họ giàu sang, hay nghèo khó, bình an mạnh khỏe hay bệnh hoạn tật nguyền....trên cánh đồng, nơi xưởng việc, trong bệnh viện, kể cả nơi lao tù... Tinh thần của Chúa Kitô ngời sáng và họ đã trở nên ngôi sao mang ánh sáng của Tin mừng cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa, để tin nhận, ca tụng, và phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Nhưng một thực tế đáng buồn: vẫn còn nhiều người đang bước đi trong bóng tối lầm lạc, bóng tối của gian tham, của bất công, của ngẫu tượng xác thịt đểhưởng thụ trần gian... Tại sao?
Tôi vẫn nghĩ chúng ta chưa hiểu thấu mầu nhiệm của ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ, chưa thẩm thấu trọn vẹn được ý nghĩa ánh sáng Chúa Kitô, khi ta vẫn là "những ngôi sao chiếu sáng cho thiên hạ thấy đường tìm về mình, tìm về cái tôi của ngôi sao vô nghĩa". Biết bao việc làm tưởng là để vinh danh Chúa, để người ta tung hô ca tụng Chúa, thì lại tiềm ẩn một âm mưu tranh giành vinh quang của Thiên Chúa, để cho mình được vinh quang, được tung hô. Ngay đến việc nhỏ của một vai trò bé bé trong giáo xứ: Hội đồng, bà mẹ, Legio, ca đoàn... cũng đòi phải được tung hô thì còn gì cho vinh quang Thiên Chúa. Và nếu không được tung hô thì bất mãn đòi bỏ việc, thì còn gì là việc của Thiên Chúa. Bệnh "ngôi sao" trên sân cỏ, trên sân khấu, trên thương trường, trên chính trường, trên thông tin mạng, nếu không loại trừ ai, thì trên lĩnh vực công tác tông đồ cho Thiên Chúa cũng y hệt như vậy- không loại trừ đấng bậc nào trong giáo hội. Vì thế, bệnh "ngôi sao chứng nhân cho Chúa Kitô" trở thành con virus làm tê liệt hệ thống miễn nhiễm những trào lưu nhân loại, những chước cám dỗ của satan, của thế lực chống lại Thiên Chúa. Ai cũng có thể tìm cho mình một mối lợi hư ảo, và nhường lại phần thiệt hại cho Thiên Chúa, để người tìm đến Thiên Chúa thì lưa thưa ít ỏi mà tìm đến mình thì dồn dập xôn xao. Lời ca tụng và lễ phẩm dành cho Thiên Chúa thì không thấy mà lại thấy vô vàn ở các ngôi sao. Có lẽ phải nhắc nhở nhau rằng: Đi trong bóng tối âm u gian ác của cõi lòng mình mà vẫn giảng rao về ánh sáng Thiên Chúa là công việc của ma quỷ, là mưu chước hiện đại nhất của satan. Vì nơi satan, và các thế lực của nó, không có, không chấp nhận ánh sáng của Đức Kitô, của Thiên Chúa, nhưng chúng vẫn biết về ánh sáng ấy, và vẫn có thể tiếp thị cách hiện đại.
Lễ Hiển Linh, là cơ hội cho mỗi Kitô hữu, nhìn lại đời sống chứng nhân của mình. Hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian, nhưng chiếu sáng không phải để thế gian tìm về mình, nhưng là để thế gian tìm về Thiên Chúa, như Đức Kitô, ánh sáng mới cho nhân loại, soi cho nhân loại tìm được lối về với Cha thật trên trời. Tất cả vì "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". Bạn và tôi, như ngôi sao kia, đang làm việc của mình phải làm là chiếu sáng, chứ không làm việc của mình thích làm là chiếu sáng cho vinh quang mình.
Qua Lời Tổng Nguyện của ngày lễ hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa HiểnLinh ABC342
Qua Lời Tổng Nguyện của ngày lễ hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã dùng ngôi sao chỉ đường, mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng ta, nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, chúng ta đã nhận biết Chúa rồi, xin Chúa rủ lòng thương đưa chúng ta về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển.
Bài đọc một của giờ Kinh Sách đã cho thấy: Giêrusalem là nơi quy tụ toàn thể các nước. Chính sự hiện diện của Thiên Chúa lôi kéo các nước vào Thành Thánh. Đối với Hội Thánh ngày nay, chính khi làm cho mọi người nhận thấy sự hiện diện của Thiên Chúa, Hội Thánh mới hoàn thành ơn gọi của mình. Dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Hội Thánh lôi kéo tất cả mọi người để hình thành một dân mới, do đó, ngôn sứ Isaia đã kêu gọi: Bừng sáng lên, Giêrusalem hỡi, bừng sáng lên, vì ánh sáng của ngươi đã đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Lêô Cả đã cho thấy: Chúa làm cho khắp cả hoàn cầu nhận biết ơn cứu độ của Người. Hôm nay quả là ngày tươi sáng, ngày xuất hiện Đấng cứu độ trần gian, Đấng Cứu Độ các ngôn sứ thuở xưa báo trước, và các thiên sứ thờ lạy Đấng Cứu Độ. Thấy ngôi sao của Người xuất hiện, các hiền sĩ rất đỗi mừng vui, và đem lễ phẩm đến triều bái Người. Hôn may là ngày được Thiên Chúa thánh hiến, ánh sáng cứu độ đã chiếu toả trên chúng ta, muôn dân hỡi, mau đến thờ lạy Chúa.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia đã cho thấy: Vinh quang của Đức Chúa chiếu toả trên Giêrusalem, nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.
Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 71, vịnh gia đã cho thấy mọi dân mọi nước đều quy phục Thiên Chúa: Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài. Từ Tácsít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ảrập, Xơva, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã nói: Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Dothái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
Thiên Chúa là Chúa Tể, mọi dân mọi nước phải quy phục Người: Lời Ca Nhập Lễ của ngày lễ hôm nay: Này Chúa Tể càn khôn ngự đến, tay nắm trọn vương quyền, thế lực và vinh quang; Câu Tung Hô Tin Mừng: Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Ca Hiệp Lễ: Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Phương Đông, và chúng tôi mang của lễ đến bái thờ Người.
Khi chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, chúng ta thường cầu nguyện cho họ sớm được hưởng nhan thánh Chúa. Hưởng nhan thánh Chúa, xem thấy mặt Đức Chúa Trời, gặp Chúa – Vua Tình Yêu, là những cụm từ diễn tả tình trạng được “hưởng ơn cứu độ”. Ơn cứu độ là ơn phổ quát, Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người; Ơn cứu độ là ơn nhưng không, nhưng, chúng ta phải tìm kiếm và phải mong muốn được hưởng, được thấy, được gặp; Chúng ta phải lên đường như các nhà chiêm tinh để: đến bái lạy Đấng Cứu Độ của chúng ta, Ước gì chúng ta cũng biết mang của lễ đến bài thờ Chúa, như các vị đạo sĩ: Của lễ của chúng ta là “tấm lòng vàng”: một tấm lòng tan nát giày vò, Chúa sẽ chẳng kinh chê; Của lễ của chúng ta là “hương kinh cầu nguyện”: tỏa lan như hương trầm thơm bay trước tôn nhan Chúa; Của lễ của chúng ta là “dược chất yêu thương”: băng bó những thương tổn, hàn gắn những đổ vỡ, và chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của nhân loại ngày nay. Ước gì được như thế!
Nhà văn hào George W. Truett đã viết một câu bất hủ về Chúa Giê-su Ki-tô như sau: “Christ was HiểnLinh ABC343
Nhà văn hào George W. Truett đã viết một câu bất hủ về Chúa Giê-su Ki-tô như sau: “Christ was born in the first century, yet he belongs to all centuries. He was born a Jew, yet He belongs to all races. He was born in Bethlehem, yet He belongs to all countries.” (tạm dịch: Đức Ki-tô sinh ra vào thế kỷ thứ nhất, nhưng Người thuộc mọi thế kỷ. Đức Ki-tô sinh ra là một người Do-thái, nhưng Người thuộc mọi chủng tộc. Đức Ki-tô sinh ra ở Bê-lem, nhưng Người thuộc mọi quốc gia). Câu nói trên khá phù hợp với ý nghĩa của Lễ Hiển Linh hôm nay.
Thật vậy, Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Mừng Lễ Hiển Linh là chúng ta mừng sự kiện Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại được biểu trưng bởi ba nhà thiên văn hay chiêm tinh Phương Đông lặn lội theo ánh sao đến xứ Giu-đê tìm Thiên Chúa mới giáng sinh. (Vì thế Lễ được gọi là Lễ Ba Vua).
Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, vì từ trước tới giờ, người Do-thái quan niệm rằng: Thiên Chúa là Thiên Chúa riêng của họ. Thật ra Thiên Chúa là Chúa của muôn dân, muôn loài, của người Do-thái cũng như của các dân khác. Nói cách khác Ơn Cứu độ Thiên Chúa ban cho nhân loại là Ơn Cứu độ phổ quát nghĩa là dành cho hết mọi dân, mọi nước và mọi người, không phân biệt mầu da, chủng tộc, giai tầng xã hội. Chúng ta hãy mở rộng tâm trí để hiểu và sống ý nghĩa của Lễ Hiển Linh.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Is 60,1-6): “Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi” Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Ep 3,2-3a.5-6): "Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa" Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Mt 2,1-12): "Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua" Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
* Thiên Chúa mà ngôn sứ I-sai-a công bố là một Đấng Thiên Chúa đem niềm hân hoan và ánh sáng chan hòa, đem giầu sang và vinh quang đến cho thành Giê-ru-sa-lem, thủ đô của Ít-ra-en. Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa thành một con người và con người này đã được biến đổi hoàn toàn, thậm chí trở thành điểm tập trung của muôn dân muôn nước, nhờ sự kiện Thiên Chúa đến trần gian, trong nhà Gia-cóp.
* Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô giới thiệu với tín hữu Ê-phê-xô và mọi người là một Đấng Thiên Chúa đã giao phó cho Phao-lô sứ mạng rao giảng Kế hoạch hay Nhiệm cục Cứu độ của Người: đó là dân ngoại cùng được thừa kế như/với người Do Thái để cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban là Ơn Cứu độ trong/nơi/nhờ Chúa Ki-tô Giê-su. Nói cách khác Phao-lô được giao sứ mạng loan truyền một bí mật xưa rày vẫn được giấu kín của Thiên Chúa. Đó là, vì yêu thương, Thiên Chúa sẽ cứu độ hết mọi người, không phân biệt mầu da, sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc hay địa vị xã hội, có đạo hay lương dân.
- Thiên Chúa mà Thánh Mát-thêu muốn thế giới nhận ra là Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và làm một trẻ sơ sinh được bọc tã nằm trong máng cỏ; nhưng lại là Đấng thu hút và đón tiếp hết mọi người, từ kẻ chăn chiên nghèo hèn (theo con mắt phàm trần) đến hạng quan quyền vua chúa (cũng theo con mắt phàm trần) như ba nhà thiên văn từ Phương Đông. Thái độ và cử chỉ (sấp mình thờ lạy) cũng như lễ vật (vàng, nhũ hương, mộc dược) mà ba nhà thiên văn Phương Đông dâng tiến Hài Nhi Giê-su, mạc khải cho chúng ta thấy chân dung đích thực của Trẻ Sơ Sinh: Người là Vua, là Chúa và là Đấng sẽ tự hiến thành Lễ Vật toàn thiêu cứu độ muôn dân muôn nước.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?) Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa:
- một là chúng ta hãy nhìn nhận, đón rước Hài Nhi Giê-su với tư cách Người là Vua, là Chúa, là Đấng Cứu Chuộc hết mọi người trong nhân loại, không phân biệt nguồn gốc, địa vị xã hội.
- hai là, cũng như Thánh Phao-lô, chúng ta được Thiên Chúa giao một sứ mạng cao cả là làm cho người ta biết kế hoạch của Thiên Chúa là Ngôi Lời đến trần gian để cứu chuộc hết mọi người, giáo cũng như lương, để mọi người, mọi dân, mọi nước làm thành một Thân Thể, một Gia Đình, một Cộng Đồng duy nhất. Vì thế chúng ta có sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng và rao giảng Tin Mừng cho những người chung quanh.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Chúa là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sống với Chúa là Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta nơi Chúa Giê-su Hài Nhi. Sống một cách mật thiết, biết ơn và vâng phục.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là chúng ta thực hiện hai việc cơ bản sau:
- Một là cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng, nhìn nhận và đón rước Hài Nhi Giê-su là Vua, là Chúa, là Đấng Cứu độ nhân loại.
- Hai là đặc biệt quan tâm đến những người sống chung quanh ta mà chưa nhận biết Thiên Chúa và Chương Trình Cứu độ của Người để chúng ta ra sức giúp họ nhận biết Chúa và chấp nhận Kế hoạch và Ơn Cứu độ Phổ quát của Người.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Mầu Nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các dân tộc chưa nhận biết Mầu Nhiệm và Kế Hoạch Cứu Độ nhân loại của Thiên Chúa, để họ sớm được nghe và đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để quy tụ muôn dân muôn nước thành một gia đình, gia đình của Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho các vị lãnh đạo trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, để mọi Ki-tô hữu siêng năng tìm Thiên Chúa và suy phục Người cũng như chu toàn sứ mạng làm ngôi sao dẫn đường cho những ai chân thành tìm kiếm Thiên Chúa và giúp họ gặp được Chúa và tôn vinh Người như ba nhà thiên văn Phương Đông xưa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở Phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho các tín hữu già trẻ lớn bé trong giáo xứ chúng ta để mọi người vững bước dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu: cho những người bé nhỏ, nghèo khó, thiếu thốn, bệnh tật, tù tội... trong xã hội, để những người ấy biết dâng cho Hài Nhi Giê-su tất cả những gì họ có, tất cả những gì họ phải chịu trong cuộc đời.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Tin mừng Mt 2:1-12: Hôm nay, ở Bêlem xuất hiện những nhân vật lạ. Họ từ xa đến và đang phủ phục bái thờ một Hài Nhi đơn sơ nhỏ bé và nghèo nàn; rồi họ lấy lễ vật để dâng lên Ngài như dâng lên một vị vua uy quyền đáng tôn kính. Họ là ai? Họ đã thấy gì?...
Hôm nay, ở Bêlem xuất hiện những nhân vật lạ. Họ từ xa đến và đang phủ phục bái thờ một Hài HiểnLinh ABC344
Hôm nay, ở Bêlem xuất hiện những nhân vật lạ. Họ từ xa đến và đang phủ phục bái thờ một Hài Nhi đơn sơ nhỏ bé và nghèo nàn; rồi họ lấy lễ vật để dâng lên Ngài như dâng lên một vị vua uy quyền đáng tôn kính. Họ là ai? Họ đã thấy gì?
Thánh sử Mátthêu giới thiệu cho chúng ta biết đây là những nhà chiêm tinh từ phương Đông tới. Họ là những người có khả năng quan sát các vì sao và đọc ra từ đó các dấu chỉ thời đại. Hôm nay, họ theo ánh sao lạ đến Giêrusalem và làm rung động cả thành cùng với nhà vua vì thông tin này: “Vua người Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người.”
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao…” Ngôi sao chỉ xuất hiện trên bầu trời đêm. Màn đêm làm cho cảnh vật ra tăm tối, tĩnh lặng và gây sợ hãi cho nhiều người. Tuy nhiên, bầu trời đêm lại chứa ẩn nơi nó những dấu chỉ về thời tiết, về sự thay đổi của thời cuộc và của con người. Những nhà chiêm tinh đã ngắm nhìn trời đêm và nhận ra một ngôi sao lạ chỉ cho biết: một Ấu Vương vĩ đại mới chào đời!
Các Nhà Chiêm Tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
Giống như các người chăn chiên ngoài đồng, khi các nhà chiêm tinh “vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người”, họ không chỉ bái lạy một Thiên Chúa giáng trần, mà vì ‘thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng’ vì biết rằng ơn cứu độ của mình và của toàn nhân loại đang được thực hiện cách trọn vẹn và dứt khoát, trong hình hài của Hài Nhi nhỏ bé.
Các Nhà Chiêm Tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các Nhà Chiêm Tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba Nhà Chiêm Tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng.
Có thể có nhiều nhà chiêm tinh đã nhận ra vì sao lạ và đọc được ý nghĩa của nó, nhưng chỉ một số ít trong họ đã lên đường tìm kiếm Hài Nhi; và trong số họ, chỉ còn lại vài người kiên trì đến cùng để gặp được Ngài. Hành trình tìm kiếm vị Ấu Chúa mới chào đời là một hành trình đầy thử thách và tăm tối. Với lòng khao khát được bái kiến Người, các ông đã dò dẫm theo ánh sao chỉ đường. Nếu vào ban ngày thì làm gì có ánh sao? Muốn thấy ánh sao, các ông phải đợi khi trời tối. Nếu gặp đêm đông giông bão, trời đất cũng mịt mờ, làm sao mà nhận ra ánh sao chỉ đường? Tuy vậy, khi ánh sao biến mất, các ông đã dò la để có bằng được câu trả lời: vị Ấu Chúa chào đời ở Belem, đất Giuđa, theo lời các ngôn sứ đã loan báo.
“Các ông vào nhà và thấy hài nhi và Mẹ Người…” Có gì bảo đảm hài nhi này là Ấu Vương các ông đang tìm kiếm? Đây chỉ là một hài nhi nghèo khó, đơn sơ, bên cạnh bà mẹ trẻ giản dị không trang sức, không vương quyền… Nhờ ánh sao đức tin soi dẫn, các ông đã nhận ra Hài Nhi chính là vị vua các ông đang tìm kiến, nên đã vui mừng thờ lạy, rồi mở tráp lấy lễ vật dâng tiến Người như dâng tiến một vị vua uy quyền.
Các đạo sĩ cũng được gọi là ba vua, xưa đã đi tìm kiếm Đấng Cứu Thế, cũng chính là hình ảnh của nhân loại ngày nay thao thức đi tìm kiếm Chúa. Các vị đạo sĩ mới chỉ biết Chúa cách mơ hồ nhờ sự nghiên cứu các sự thay đổi tinh tú trên bầu trời rồi đối chiếu với Sách Thánh của dân Do thái, các ngài đã nhận biết Đấng Cứu Thế đã ra đời, và đã khăn gói lên đường đi tìm kiếm Chúa.
Sứ điệp thật rõ ràng: Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian cho tất cả mọi người, kể cả những người ở ngòai đức tín ki tô hữu. Từ “Hiển linh” có nghĩa là tỏ hiện. Do đó, lễ nầy loan báo cho chúng ta rằng Thiên Chúa tỏ hiện cho tất cả mọi người. Đêm giáng sinh, tin mừng được loan báo cho các mục tử, và ngang qua họ, cho tất cả những người nghèo. Hôm nay, đến lượt những người ở ngoài được hưởng diễm phúc ấy. Không một chướng ngại nào, dù là màu da, văn hóa hoặc cả nguồn gốc tôn giáo có thể làm thất bại chương trình của Thiên Chúa. Người tỏ hiện cho tất cả mọi người và từng người miễn là họ tìm kiếm Người.
Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các Nhà Chiêm Tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
Với mỗi người chúng ta hôm nay: Mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta là nhận biết tin thờ biết ơn Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật, và tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su Ki-tô, để nhận được ơn giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong Nước Trời do Chúa Giê-su thiết lập là Hội Thánh hôm nay, hầu sau này sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trên Nước Trời vĩnh hằng, như lời Chúa Giê-su đã cầu nguyên với Thiên Chúa: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Trong Sứ Điệp Hòa Bình thế giới đầu năm nay 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Trên thế HiểnLinh ABC345
Trong Sứ Điệp Hòa Bình thế giới đầu năm nay 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Trên thế giới ngày nay đến hơn 250 triệu người di dân, trong đó 22,5 triệu người là những người tị nạn, họ là những người nam và người nữ, trẻ em, thanh thiếu niên và những người già cả đang tìm kiếm một nơi để sống trong hoà bình. Để tìm được nơi ấy, nhiều người trong số họ sẵn sàng liều mạng dấn thân vào một hành trình mà đa phần vừa lâu dài vừa đầy nguy hiểm; họ sẵn sàng chịu đựng nhọc nhằn gian khổ, đối mặt với những hàng rào kẽm gai và những bức tường được dựng lên để ngăn không cho họ đến”. Tại sao có tình trạng này xảy ra? Đức Giáo Hoàng trả lời vì con người này nay đánh mất lương tâm trong sáng mà ngay từ đầu Thiên Chúa đặt để nơi con người. Một trong những sự trong sáng đó là tình huynh đệ, tình người.
Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Ba Vua. HiểnLinh ABCcũng là các nhà chiêm tinh tìm đến bái thờ Chúa Giêsu mới sinh, Vua Trời xuống thế, nhờ thấy một vị sao sáng chiếu sáng trên bầu trời ở Phương Đông. Điều đáng chú ý ở đây là sự nhiệt tình, tích cực và kiên trì của HiểnLinh ABCtìm cho được Chúa dù ánh sao lúc ẩn lúc hiện. Khi ánh sao sáng, họ đi theo ánh sao dẫn đường. Khi ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường nhưng họ vẫn hy vọng, không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Cho nên, khi không có ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han, đến tận vua nước này hỏi. Vua Hêrôđê không biết, triệu tập các thượng tế và kinh sư hỏi họ cũng không biết nhưng mở Thánh Kinh họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê". Thế là các đạo sĩ tìm thấy Chúa Giêsu.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa? Mỗi người Chúa dựng nên đều có lương tâm. Lương tâm giống như là tấm bản chỉ đường, là ánh sao trong đêm tối để con người phân biệt được ranh giới giữa thiện và ác. Lương tâm chính là đền thờ Chúa ngự và ở đó Chúa tỏ mình cho chúng ta để ta đi đến Thiên đàng bình an và hạnh phúc. Vâng, quả thế, con người ngay đầu đã có tâm thiện, “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chính lương tâm thiện này được Thiên Chúa đặt để vào trong lòng con người khi Ngài dựng nên họ. Vì vậy, con người có giá trị cao hơn mọi loài thụ tạo khác, và hơn nữa giá trị đó được đánh đổi bằng cái chết của Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người (Ep 1,3-7). Cho nên, Chúa Giêsu hằng mong muốn chúng ta rằng: “Anh em phải có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì Thiên Chúa sẽ thứ tha, anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Quả thật, người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình” (Lc 6,36-38.44), và “Hễ ‘có’ thì nói có; ‘không’ thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Trong cuộc sống, lương tâm của chúng ta bị điều kiện hóa bởi xã hội, có nghĩa rằng vì cuộc sống cơm áo gạo tiền cho nên tôi phải mua gian bán lận, ở trường ai ai gian lận trong học tập thi cử nên tôi cũng làm được hay là vì xã hội cho phá thai, bạo lực gia đình nên tôi làm theo mà lương tâm không thấy cắn rứt, đáng nguyền rủa và không cảm thấy đau lòng và xót xa khi tôi đã đánh hay đã giết người, người đó đâu ai xa lạ chính vợ con của mình, máu mủ của mình. Vì lương tâm bị điều kiện hóa nên lương tâm của chúng ta không còn chỗ cho Chúa ngự, tiếng nói của Chúa không còn vang dội trong thâm tâm của mình nữa, tại sao? Vì lương tâm của chúng ta đầy ắp điều xấu, hay chai lì với tội lỗi, đến nỗi không biết rằng chúng ta đang sống phần “con” mà mất phần “người”, chẳng màng chi tới việc tốt, hay chẳng cần nghe tiếng nói lương tâm, nói của Chúa hãy làm lành lánh dữ. Chính lúc ấy, ánh sao trong lương tâm không sáng lên, bị chai lì đi bởi vì nó bị bóng đêm tội lỗi che phủ.
Khi ánh sao lịm tắt, các đạo sĩ nhờ Thánh Kinh tìm đến Chúa Giêsu. Cũng vậy, Khi lương tâm của chúng ta lịm tắt thì hãy mở Thánh kinh, mở Lời Chúa ra mà đọc và sống Lời Ngài để ánh sao lương tâm ta bừng sáng lên các nhân đức thánh thiện. Cho nên người Kitô hữu không chỉ có lương tâm thiện mà có giáo huấn Tin Mừng giúp ta sống đời người thiện hảo, trong sáng và chân thật nhờ Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ làm nên sự sống, tâm hồn và mọi sự tốt đẹp cho chúng ta.
Vì vậy, là cha mẹ, là những người lớn phải có trách nhiệm với con cái, phải huấn luyện lương tâm con cái theo tinh thần Kitô giáo: (1) đừng dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt; (2) hãy làm cho người khác đều ta muốn người khác làm cho ta; (3) đừng xúc phạm đến thể xác và tinh thần người khác; (4) đừng làm gương mù gương xấu cho người khác. Như vậy, chỉ với lương tâm này, chúng ta mới sống đúng với phẩm giá con người và phẩm giá một người kitô hữu, xứng đáng là con cái Thiên Chúa, con cái của Sự Sáng. Cho nên, trong sứ điệp Hòa Bình thế giới năm nay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Vì tự bản chất, con người là hữu thể có tương quan, được an bài là phải đi tìm sự tròn đầy qua các tương quan liên vị, được gợi hứng bởi sự công bằng và tình yêu, nên việc nhân phẩm, tự do và tính tự trị được thừa nhận và tôn trọng, công bằng và tình yêu. Vì vậy, hãy để ánh sáng Lời Chúa vào lương tâm, chúng ta có thể xem tất cả mọi người “không còn là những nô lệ, di dân, kẻ thù… nhưng là anh chị em với nhau” (số 1).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, các đạo sĩ nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn đã bước vào hang đá và thấy Hài Nhi, Đức Mẹ và Thánh Giuse, họ liền sấp mình thờ lạy Ngài. Chúng ta cũng hãy bắt chước các đạo sĩ: siêng năng học hỏi Thánh Kinh và sống Lời Chúa dạy để lương tâm chúng ta thật sự bừng lên ánh sáng: Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương; của niềm vui an bình, của can trường bất khuất hay của tha thứ sẻ chia... để “Trong Đức Ki-tô Giêsu và nhờ Tin Mừng của Ngài, anh chị em chưa biết CHÚA cùng thừa kế gia nghiệp với chúng ta, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6) như trong bài đọc 1 rằng: “Mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi”. Alleluia!
Tin mừng Mt 2:1-12: Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân HiểnLinh ABC346
Tin mừng Mt 2:1-12: Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện...
Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi: “Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu”
Và được kết quả như sau:
- 61% cho rằng thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu. - 47% nói rằng sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại trên thế giới này. - 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn. - 58% cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu. - 59% cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi - 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu. - 26% cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu.[1] Tại sao lại có những kết quả trái ngược như thế?
Trở lại lịch sử, chúng ta thấy: Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ của nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử. Ba thái độ đó là:
1. Con người và phản ứng của Hêrôđê
Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy liền bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Marianne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander và Aristobulus cũng bị ông sát hại luôn. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ của Hêrôđê còn được thấy rõ hơn trong những việc chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, vu khống rồi hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung, vì ông biết rằng khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết.
Chính vì ganh ghét và thù địch, Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình, nên đã quyết tâm tiêu diệt Hài Nhi. Ngày nay cũng vậy, vẫn còn nhiều người quyết tâm tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu và luôn tìm cách loại trừ Ngài.
2. Phản ứng của các tư tế và các Kinh Sư
Họ hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật lệ, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng của mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa, không đáng quan tâm.
3. Con người và phản ứng của các nhà đạo sĩ
Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng quyền hành và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như các thầy Lêvi đối với dân Israel. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên.
Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng phẩm cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì họ sẽ đắm chìm trong sự kinh ngạc, yêu mến và ca tụng Ngài.[2]
Quả thế, các đạo sĩ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết đến lời tiên, không biết đến lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận ra. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho được.
Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.[3]
Nhìn vào các đạo sĩ, nếu chúng ta khao khát và quyết tâm tìm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa trong cuộc đời chúng ta. Amen. ---------------------- [1] Báo Công Giáo và dân tộc, số 1487-1488, trg. 53 [2] William Barclay [3] TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Lễ Hiển Linh
Lễ Hiển Linh có thể gọi là lễ của ánh sáng, ngày kính nhớ việc Chúa cho dân ngoại nhìn thấy ánh HiểnLinh ABC347
Lễ Hiển Linh có thể gọi là lễ của ánh sáng, ngày kính nhớ việc Chúa cho dân ngoại nhìn thấy ánh sáng vinh quang của Ngài, và kêu gọi họ hiệp thông với Ngài. Thánh Mat-thêu viết sách Tin Mừng của ngài cho những giáo dân người Do Thái mới theo đạo, để chứng minh cho họ biết rằng, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mà họ đang đợi trông. Vì thế, ngài nhắc đến những biến cố lịch sử của Cựu Ước và các tiên tri. Chúng ta không thể nói đến tất cả những biến cố lịch sử đó, nhưng chỉ căn cứ vào trình thuật của Thánh Sử để suy nghĩ về biến cố trọng đại này, để hiểu những gì Chúa muốn nói với chúng ta.
Trình thuật cho thấy ba nhà đạo sĩ mà chúng ta quen gọi là Ba Vua, cũng là những nhà chiêm tinh, là những người xem đường vận chuyển của ngôi sao tinh tú để đoán vận mạng của thế giới. Chúng ta cũng không thể biết ba đạo sĩ này là những người nào, có phải là vua không hay chỉ là những nhà khoa học thời bấy giờ, điều đó không quan trọng. Họ thuộc những sắc tộc khác nhau, cùng nhìn thấy một ngôi sao lạ đặc biệt hơn những ngôi sao họ thường thấy, và theo quan niệm thời bấy giờ, họ cho rằng, ngôi sao ấy là điềm báo cho biết một vị vua thật vĩ đại vừa mới ra đời.
Họ đã lên đường tìm kiếm vị vua lạ thường ấy. Đây là một chuyến đi mạo hiểm, lâu dài và không kém gian khổ. Nhưng họ vẫn ra đi, bất chấp mọi trở ngại có thể xảy ra.
Đi từ ba phương trời khác nhau, họ đã gặp nhau và cùng đi với nhau. Nhưng khi đến Giê-ru-sa-lem, vì sao biến mất. Họ tưởng rằng đã đến nơi. Hỏi thăm, không ai biết. Có lẽ có ai gợi ý và chỉ dẫn họ đến với vua Hê-rô-đê.
Họ nói: “Đức vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương đông nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe nói thế, Hê-rô-đê bối rối. Có lẽ ông đã tự hỏi: ông vua nào? Hê-rô-đê là người Do Thái, nên ông biết Thánh Kinh; ông sực nhớ rằng: đúng thế, Đấng Cứu Thế phải đến, và Ngài đến rồi chăng? Ông cho mời các thầy thông luật và các tiến sĩ đến và hỏi riêng họ xem Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu? Họ nói: “Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ tại Bê-lem như lời Kinh Thánh đã viết”.
Hê-rô-đê bối rối, lo âu. Dân Giê-ru-sa-lem xôn xao. Giờ đây họ mới nghe nói đến Đấng Cứu Thế mà họ và cha ông họ đã trông đợi từ lâu, hôm nay đã đến. Nghe một tin trọng đại như thế, họ xôn xao rồi thôi, không mấy người nghĩ đến. Hê-rô-đê, ngược lại, ông chú ý đặt biệt đến ông vua mới sinh này và cặn kẽ hỏi thăm các nhà đạo sĩ đến ngày tháng ngôi sao đã mọc lên và bảo họ đến Bê-lem, điều tra cẩn thận về Hài Nhi và khi về sẽ cho ông hay. Ông sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh…, nhưng với cây dao găm…
Thánh Mat-thêu muốn cho chúng ta thấy sự vô tình của dân thành Giê-ru-sa-lem và thiện chí của những đạo sĩ.
Hê-rô-đê run sợ vì nghĩ rằng ngai vàng của ông sẽ bị đe dọa. Lịch sử đã cho thấy, vào cuối đời ông, vì sợ mất ngôi nên ông đã dìm triều đình trong biển máu.Thế gian là như thế. Không vua nào mà không sợ mất ngôi, và họ không ngại giết tất cả những ai có thể đe dọa ngai vàng.
Vua Giêsu không như thế. Ngài là Vua Tình Yêu, Ngài dám bỏ tất cả vinh quang thần linh của Ngài để đến cứu vớt chúng ta.
Cha Karl Rahner nói: “Lễ Giáng Sinh là lễ Thiên Chúa đến tìm con người, lễ Hiển Linh là lễ con người đi tìm Thiên Chúa”.
Chúng ta có tìm Chúa không?
Chúng ta đã có Chúa rồi thì phải, chúng ta không cần phải tìm kiếm gì nữa. Làm như Thiên Chúa là một kho tàng, chúng ta đã nắm trong tay rồi, cất kỹ ở đâu đó và chúng ta không phải tìm kiếm gì thêm.
Chúng ta giống như dân Do Thái, tự mãn vì họ đã có Lề Luật, Giao Ước, và xem như được bảo đảm về mọi mặt (như thánh Phao-lô đã nói với giáo đoàn Rô-ma). Nhưng họ không giữ được hồng ân đã ban cho họ.
Những người ở xa, không được biết Chúa lại ra công tìm kiếm và họ đã tìm thấy.
Chúng ta đã lãnh nhận đức tin như một hồng ân nhưng không.
“Đừng để muối lạt đi”. Đừng để ánh sáng trong tâm hồn chúng ta lụi tắt. Hãy nuôi ngọn lửa đức tin bằng sự trung thành, bằng cố gắng tìm kiếm.
Đức tin không phải là một bảo vật chúng ta có sẵn mà là một sự sống cần được nuôi dưỡng để lớn lên và trưởng thành. Phải luôn tỉnh thức để vâng theo những thúc bách của Chúa Thánh Thần, vì con người xác thịt của chúng ta nặng nề, ngại cố gắng, chỉ mong sống nhàn hạ dễ dàng.
Các Thượng tế Do thái và Pha-ri-sêu, là những người nằm lòng Kinh Thánh, vẫn không hay biết “giờ Chúa đến viếng thăm họ”. Họ đinh ninh rằng, họ là “con cái Ab-ra-ham, là dân thánh” của Chúa, họ không cần phải cố gắng hơn.
Con đường tìm Chúa không dễ. Ba nhà đạo sĩ cũng trãi qua nhiều thử thách, mất phương hướng khi ngôi sao biến mất, nhưng họ không dừng lại hoặc bỏ cuộc; trái lại, họ vẫn tiếp tục nghe theo tiếng thúc bách trong lòng. Và vì vậy, họ đã được ân thưởng. Những đạo sĩ này chính là của đầu mùa của dân ngoại đã tìm được ánh sáng.
Phải, Chúa Giêsu chính là Ánh Sáng thật, không lụi tàn theo thời gian. Ngài là Ánh Sáng ban sự sống. Giáo Hội đã chọn hai bài đọc Cựu Ước trong sách tiên tri I-sa-i-a để đọc trong lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh, cho chúng ta thấy rõ hồng ân Chúa ban cho chúng ta trong mùa Giáng Sinh, qua người Con Một.
Trong lễ Giáng Sinh, Giáo Hội nói lên niềm vui Chúa ban: “Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỉ, đã tăng thêm nỗi vui mừng”. Tiên tri cho thấy thời thiên sai sẽ có hòa bình và tự do: không còn ách nô lệ, không còn chiến tranh, vì “một trẻ thơ đã chào đời để cứu chúng ta, một người Con đã được ban tặng cho chúng ta”. Trong lễ Hiển Linh, lời tiên tri nói đến vẻ huy hoàng rực rỡ của Giê-ru-sa-lem: “Giê-ru-sa-lem rực sáng lên “vì vinh quang của Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Chư dân sẽ đi về ánh sáng của ngươi. Mọi nguồn giàu sang phú túc sẽ tuôn tràn đến ngươi. Vàng với trầm hương sẽ được đem đến cho ngươi, và muôn dân sẽ ca tụng Chúa”. Giê-ru-sa-lem trần gian không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”, nhưng Giê-ru-sa-lem mới sẽ thành nơi quy tụ của muôn dân. Giáo Hội chính là Giê-ru-sa-lem mới đó.
Điều này chứng tỏ ý định cứu độ của Chúa, không dành riêng cho một dân tộc hay cho một số người nào, mà cho tất cả mọi người không trừ ai. Thiên Chúa mời gọi mọi người vào niềm vui cứu độ của Ngài. Chúa sử dụng tất cả mọi tạo vật để chuyển tải sứ điệp của Người.
Đối với các đạo sĩ, Chúa dùng ngôi sao. Còn chúng ta? Chúng ta có thấy trên nền trời tâm hồn một ngôi sao nào không? Chúng ta có tìm kiếm không? Chúng ta có chú ý đến vì sao đang chiếu sáng trên đỉnh núi kia không? Đó là ngôi sao của Tình Yêu giáng thế. Hay chúng ta chỉ chú ý đến những vì sao trần thế: ngôi sao bóng đá, ngôi sao màn bạc, ngôi sao nhạc rock?...
Cầu xin cho một ngày nào đó, chúng ta nhận thấy có một vì sao nhỏ, nhưng khiến chúng ta quên hết mọi sự, để lại mọi sự sau lưng và lên đường tìm kiếm đó là em bé Bê-lem. “Em bé này rồi sẽ ra sao, vì tay Chúa đã đặt trên em?” Ngài là Ánh sáng chiếu soi trong đêm tối của trần gian, Ngài là Tình Yêu.
Tình yêu ư?
Đúng thế, bản thể Ngài là Tình Yêu. Em bé này sẽ tan xương nát thịt thôi, vì tình yêu là như thế. Vận mạng của em là như thế, không thể khác được. Thiên Chúa Tình Yêu đã trở thành em bé Tình Yêu. Nhiều người sẽ yêu em, nhưng cũng có nhiều người sẽ giết em, vì họ không thể là tình yêu.
Em bé Bê-lem đang mời gọi chúng ta, không chỉ chúng ta mà hết mọi người. Đến lượt chúng ta, hãy trở nên những vì sao nhỏ, nhỏ thôi, nhưng là những vì sao hướng dẫn mọi người quanh ta về với Thiên Chúa Tình Yêu. Muốn thế, chúng ta hãy yêu thương. Ánh sáng của tình yêu mới đủ sức chinh phục con người. Chúng ta không thể được cứu rỗi linh hồn một mình, vì Chúa không chỉ cứu chúng ta mà thôi. Ngài muốn muôn dân phải được dự vào bữa tiệc yêu thương của Ngài, và chúng ta chính là những người có nhiệm vụ đem mọi người vào bàn tiệc Vua Trời.
Em bé Bê-lem vẫn có mặt nơi đây, nơi bàn thờ này. Ngài đến vì chúng ta và cho chúng ta. Ngài là của ăn để chúng ta lớn lên và trưởng thành trong niềm tin, nhờ đó chúng ta đủ năng lực trở nên những người mời gọi những anh em khác vào ca tụng Chúa với chúng ta.
Hiển linh là sự tỏ ra một cách linh thiêng. Lễ Hiển Linh nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân HiểnLinh ABC348
Hiển linh là sự tỏ ra một cách linh thiêng. Lễ Hiển Linh nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, đê cho người ta thấy Người nơi máng cỏ;
Hiển linh là sự tỏ ra một cách linh thiêng. Lễ Hiển Linh nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, đê cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người hiển linh cho ông Simêon và bà Anna nơi đền thờ; Người đã hiển linh sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan và trong suốt cuộc sống dương thế Người cũng luôn tỏ mình ra cho mọi người. Nhưng phụng vụ hôm nay nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra cho muôn dân. Và khi nói đến muôn dân, thì cũng gợi nên cho chúng ta hình ảnh những người dân ngoại và những người không thuộc dân ngoại. Chính vì thế, bài Tin Mừng hôm nay, không chỉ tập trung làm nổi bật lên thái độ của các nhà chiêm tinh được coi là dân ngoại, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật lên thái độ của vua Hêrôđê và các thượng tế và kinh sư trong dân.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về một cuộc hành trình của những người khao khát chân lý, khao khát Thiên Chúa. Các nhà chiêm tinh, họ là những người khao khát chân lý. Họ đã sử dụng hết khả năng của mình để đi tìm chân lý. Họ đã từ bỏ một đời sống an toàn và tiện nghi để dân thân vào một hành trình xa sôi với tất cả những thiêu thốn, hiểm nguy và đầy bất trắc. Mục đích duy nhất là để tìm kiếm vị Vua, tìm kiếm chân lý cho cuộc sống của mình.
Họ là những người tri thức, họ đã dùng sự hiểu biết của mình để đi tìm chân lý. Chính tri thức đã cho họ biết có một vị vua cao cả mới xuất hiện. Chính tri thức đã dẫn đưa họ đi tìm chân lý, đi tìm vị vua cao cả của cuộc sống của họ. Nhưng dù hiểu biết của họ có thâm sâu thề nào đi chăng nữa thì ngôi sao lạ cũng chỉ dẫn họ tới Belem. Vì khi tới Belem họ không còn nhìn thấy ngôi sao dẫn đường nữa.
Khi không còn thấy ngôi sao, hiểu biết của họ trở nên mất phương hướng. Lúc này họ phải cần nhờ đến Lời Chúa, nhờ đến Kinh Thánh để dẫn đường. Họ đến gặp vua Hêrôđê để rồi những thượng tế và kinh sư trong dân (những người hiểu biết về Kinh Thánh) cho họ biết: theo Kinh Thánh, nơi mà vị vua cao cả sẽ sinh ra là tại Belem, miền Giuđê. Và khi đã để mình được hướng dẫn bởi Lời Chúa, bởi Kinh Thánh thì tri thức, hiểu biết của họ lại càng làm cho họ xác tín hơn vào vị vua cao cả của cuộc đời của họ. Chính vì thế khi ra khỏi cung điện của Hêrôđê, thì ngôi sao lại xuất hiện và dẫn đưa họ đến tận nơi Hài Nhi mới dừng lại. Cũng chính vì thế mà, họ tin Hài Nhi mới sinh đang nằm trong máng cỏ, bé bỏng đơn sơ, không vinh quang, không uy quyền là vị vua của chân lý, là vị vua cao cả của cuộc đời họ. Và họ liền sấp mình thờ lạy Người, rồi mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược dâng tiến vị vua cao cả của cuộc đời họ. Hành trình của các nhà chiêm tinh cũng là hành trình đức tin của mỗi người chúng ta.
Kính thưa ÔBACE, tri thức, sự hiểu biết là cần thiết cho hành trình đức tin của chúng ta. Thế nhưng điều quan trọng là, chúng ta có dùng tri thức, dùng sự hiểu biết để hướng dẫn và củng cố đức tin của mình như là các nhà chiêm tinh; hay chúng ta dùng tri thức, hiểu biết của mình để củng cố quyền lợi ích kỷ cá nhân, để loại trừ người khác. Sau khi được các thượng tế và kinh sư cung cấp một số dữ kiện về Hài Nhi, Hêrôđê cũng có những hiểu biết về Hài Nhi, thế nhưng ông dùng hiểu biết đó, để lên kế hoạch cho việc bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân mà ông nghĩ sẽ bị đe dọa bởi Hài Nhi.
Kính thưa ÔBACE, nếu như ngày xưa, Hêrôđê dùng hiểu biết bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân và bách hại Hài Nhi Giêsu; thì ngày nay, việc dùng hiểu biết của mình để củng cố và bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân, cũng xẩy ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Thật vậy, bất cứ khi nào chúng ta dùng kiến thức, dùng hiểu biết của mình để lừa lọc, gian dối, để đàn áp những người thấp cổ bé họng là chúng ta đang loại trừ các giá trị của Tin Mừng, là chúng ta đang loại trừ và bách hại Hài Nhi Giêsu. Đây là kinh nghiệm mà ít nhiều mỗi người chúng ta đều cảm nhận được.
Thật vậy, dù tri thức và sự hiểu biết của chúng ta có tới đâu đi chăng nữa, nhưng nếu không để mình được hướng dẫn bởi Lời Chúa, bởi Kinh Thánh, thì tri thức, sự hiểu biết đó cũng không thể nào dẫn ta đến gặp gỡ Thiên Chúa Hài là Chân lý tuyệt đối được.
Các thượng tế và kinh sư là những người hiểu biết Kinh Thánh. Họ là những chuyên gia về thần học thời bấy giờ. Họ có thể trích dẫn và giải thích đúng Kinh Thánh. Thế nhưng Kinh Thánh đối với họ chỉ như là một tài liệu cổ, một văn tự chết. Vì thế, họ có thể biết nơi Chúa Giáng sinh nhưng họ không cảm thấy mình đang được mời gọi lên đường. Theo thánh Âutinh thì họ là “những cột cây số” chỉ đúng đường, nhưng lại không di chuyển. Vì thế, hiểu biết của họ cũng chẳng đem lại lợi ích gì cho họ, có chăng chỉ là cung cấp thêm cho Hêrôđê những dữ kiện để thi hành tội ác bách hại các hài nhi.
Kính thưa ÔBACE, nếu không cẩn thận, chúng ta rất có thể sống như các thượng tế và kinh sư. Chúng ta thuộc giáo lý, hiểu biết Kinh Thánh, nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực hành, chẳng muốn sống theo lời Chúa dạy. Và thậm chí sống ngược với Lời Chúa và giáo huấn của Hội thánh. Một đời sống như vậy không những làm cho đức tin của mình suy giảm, nhưng rất có thể nó biến thành công cụ để bách hại đức tin nơi người khác. Thực tế cho thấy, có nhiều người chống đối Giáo hội, mất niềm tin vào Hội Thánh chỉ vì chứng kiến những đời sống bê tha, ích kỷ và gian dối của người kitô hữu, những người được cho là đạo đức thánh thiện. Và đây cũng là kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta ít nhiều cảm nhận được.
Kính thưa OBACE, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người, để con người có thể đến và kín múc nơi Ngài sự sống mới. Thế nhưng việc nhận ra và đến với Ngài là cả một hành trình. Hành trình này đòi hỏi con người phải biết nỗ lức với hết khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, xin Chúa cho mỗi chúng ta biết can đảm và khiêm tốn nhìn lại hành trình đức tin của mình, để rồi thành thật nhận ra mình đang ở vị trí nào, đang mang khuôn mặt nào (Hêrôđê, ba nhà chiêm tinh, hay các thượng tế và kinh sư) trên hành trình đức tin. Khi đã nhận ra vị trí, nhận ra khuôn mặt thật của mình trên hành trình đức tin, thì xin Chúa cũng cho chúng ta biết can đảm theo bước chân của ba nhà chiêm tinh, biết tận dụng khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa, để rồi cũng như ba nhà chiêm tinh, chúng ta cũng nhận ra sự hiện diện âm thâm của Thiên Chúa Quyền năng và Tinh yêu nơi những con người bất hạnh đang cần ta giúp đỡ, nơi những con người bé bỏng đơn sơ, không vinh quang, không uy quyền. Amen.
Lễ Giáng Sinh đã đem lại cho chúng ta niềm vui mừng khôn xiết, bởi vì qua biến cố Đức Giêsu Nhập HiểnLinh ABC349
Lễ Giáng Sinh đã đem lại cho chúng ta niềm vui mừng khôn xiết, bởi vì qua biến cố Đức Giêsu Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã tự hạ để cho con người được nâng lên, tức là Thiên Chúa đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Vì thế, niềm vui của chúng ta chính là được giao hòa, liên đới và ngay cả đụng chạm tới Thiên Chúa qua Người Con Chí Ái của Người, điều mà trước đó không ai dám nghĩ tới.
Tuy nhiên, niềm vui ấy không chỉ dành riêng cho chúng ta, mà là cho hết mọi người, mọi nơi và mọi thời.
Mặc khải này được thể hiện rõ trong phụng vụ lễ Hiển Linh hôm nay.
1. Ơn cứu độ phổ quát
Khi nói đến lễ Hiển Linh, chúng ta hiểu ngay ý nghĩa thần học của nó, đó là lễ Chúa Tỏ Mình. Vì thế, phụng vụ ngày nay hướng chiều về tên gọi Hiển Linh hơn là HiểnLinh ABCnhư trước kia.
Khi Thiên Chúa mặc khải cho các Đạo Sĩ qua ánh sao lạ và dẫn đường đến kính viếng Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa muốn cho mọi người đi vào mối tương quan cứu độ, chứ không chỉ dành riêng cho một nhóm người hay một dân tộc nào, mà là cho muôn dân. Việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ đã phá tan não trạng độc tôn đặc lợi của dân tộc Dothái. Biến cố này cũng loan báo cho mọi người thấy rằng: ơn cứu độ không bị giới hạn bởi chủng tộc, màu da, sắc áo, hay tiếng nói…. Không! Thiên Chúa đã vượt lên trên tất cả, để lòng thương xót và ơn cứu độ của Ngài đến với muôn người.
Khi hiểu Lễ Hiển Linh là Lễ Chúa Tỏ Mình ra cho dân ngoại, sẽ giúp cho chúng ta hiểu rằng: tất cả những ai khao khát và sẵn sàng mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin Mừng cứu độ, thì họ cũng được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô (x. Ep 3,6).
Chính sự khao khát ơn cứu độ đến da riết, nên khi Ánh Sao của Thiên Chúa xuất hiện trên bầu trời, các nhà Đạo Sĩ ngày đêm miệt mài nghiên cứu và đã tìm ra chân lý, đó là sự xuất hiện của Vị Vua người Israel mới sinh. Khi đã xác quyết như vậy, các ngài đã để lại sau lưng danh vọng, quyền bính, giàu sang và đã lên đường với tinh thần hy sinh…, để mong cho được gặp Hài Nhi Giêsu.
Như vậy, ta có thể nhận định: Ánh Sao của Thiên Chúa đã có một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn của các Đạo Sĩ. Nói cách khác, Ánh Sao của Chúa đã tương hợp được với tâm hồn của các ngài. Vì thế, các ngài đã không ngần ngại lên đường để diện kiến Đấng là nguồn Ánh Sáng, là Chúa các chúa, Vua các vua.
Sự lựa chọn này đã đi ngược hoàn toàn với lối sống và lựa chọn của vua Hêrôđê.
Lẽ ra vua Hêrôđê phải là người am hiểu và mau mắn đón nhận Tin Mừng cứu độ này trước hết, bởi vì một phần do trách nhiệm, một phần do khoảng cách địa lý quá gần gũi, hơn nữa, ông là người Dothái, nên những điều đã nói về Đức Giêsu được tiên báo trong Kinh Thánh, ông cũng nắm trong lòng bàn tay!
Tuy nhiên, khác với các Đạo Sĩ, Hêrôđê đã khước từ Ánh Sáng, chối bỏ Ánh Sáng và chuộng cho mình bóng tối của sự ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…. Vì thế, thật đúng với lời nhận định của thánh Gioan trong Tin Mừng thứ 4, ngài viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Quả thật, từ vua Hêrôđê đến các vị lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, không phải họ không biết Đức Giêsu hay không khao khát kiếm tìm Ngài. Tuy nhiên, động lực và mục đích của họ hoàn toàn khác nhau. Điều này đã thấy rõ trong Kinh Thánh!
Còn chúng ta ngày hôm nay đi tìm Chúa như thế nào?
2. Chúng ta đi tìm Chúa với mục đích gì?
Có lẽ trong cộng đoàn đang hiện diện nơi đây, không ai lại không một lần hay có khi rất rất nhều lần lên đường đi tìm Chúa! Tuy nhiên, cũng biết bao lần chúng ta đi tìm mà không gặp, gõ mà không thấy, nên chẳng lạ gì khi vẫn còn đó biết bao nhiêu người cứ “lơ lơ lửng lửng”; “chân không đạp đất, đầu không đội trời…!”.
Tại sao vậy? Thưa đơn giản, đó là chúng ta đi tìm Chúa theo kiểu gặp chăng hay chớ, gặp cũng được, không gặp cũng chẳng sao, tìm cho có, tìm theo phong trào hay hiệu ứng đám đông.
Hoặc đôi khi chúng ta đi tìm Chúa với một tâm hồn ngổn ngang, đủ mọi thứ, nào là: ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo và thực dụng…. Vì thế, việc không gặp được Chúa là chuyện bình thường, bởi lẽ Người không ở những nơi đó.
Chúng ta cũng có thể đã đi tìm Chúa với một tâm hồn trống rỗng, hoang vu, không định hướng và cũng chẳng ý thức. Vì thế, những dấu chỉ và biến cố vẫn thường xảy ra, nhưng nó đến rồi lại đi mà chẳng hề đọng lại nơi tâm hồn chúng ta là mấy nếu không muốn nói như “nước đổ đầu vịt” hay “nước đổ lá khoai!”. Vì thế, chúng ta đã bỏ lỡ biết bao cơ hội yêu thương mà Thiên Chúa vẫn hằng ngày dành cho ta. Như vậy, muốn gặp được Chúa, chúng ta phải có tâm tình như ba nhà Đạo Sĩ, đó là:
Trước tiên, nhạy bén với các dấu chỉ và cần có một đức tin mạnh mẽ khi đã khám phá ra ý định của Thiên Chúa và mau mắn thi hành.
Thứ đến: cần có một tâm hồn khao khát cháy bỏng để mong sao cho được gặp Chúa. Phải chấp nhận một cuộc lên đường và sẵn sàng để lại biết bao kế hoạch, dự phóng…, chấp nhận hy sinh và khó khăn.
Cuối cùng, đến với Thiên Chúa bằng một tâm hồn khiêm nhường như các Đạo Sĩ. Các ngài lên đường để đi tìm Hài Nhi mới sinh, gặp được rồi, họ đã phủ phục tôn thờ trong sự khiêm tốn cũng như thể hiện lòng mến qua việc dâng tiến Hài Nhi những báu vật.
Trên đây chính là những con đường tâm linh của các Đạo Sĩ được hòa quyện vào với con đường vật lý trên hành trình đi tìm Chúa. Thấy được sự khao khát và mong mỏi ơn cứu độ, nên Thiên Chúa đã ân thưởng các ngài và đã cho các ngài được toại nguyện.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Bài học được rút ra từ sứ điệp Lời Chúa hôm nay rất phong phú. Tuy nhiên, hình ảnh ngôi sao lạ dẫn đường đóng vai trò rất quan trọng trong hành trình đi tìm Chúa của các Đạo Sĩ. Nhờ ánh sao dẫn lối soi đường mà các Đạo Sĩ đã gặp được Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ.
Vì thế, thiết nghĩ hơn bao giờ hết, mỗi người chúng ta cũng hãy trở thành ánh sao soi đường cho người khác đến gặp Thiên Chúa để họ cũng được cứu độ.
Thật vậy:
Nếu là vợ chồng, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của sự thủy chung, yêu thương, để đẩy lui bóng tối của sự thất tín và bội ước quên thề.
Nếu là cha mẹ, chúng ta được mời gọi trở thành ánh sao gương mẫu, trách nhiệm trong việc giáo dục nhân bản cũng như đời sống đạo đức, thiêng liêng, để đẩy lùi bóng đêm của sự vô trách nhiệm, và gương mù gương xấu.
Nếu là con cái, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sao của sự vâng phục, chu toàn bổn phận với gia đình, bố mẹ và người trên…, để đẩy lùi bóng đêm của sự lêu lổng, ăn chơi, trác táng.
Với hàng xóm láng giềng, chúng ta được mời gọi trở thành ánh sao của sự liên đới, cảm thông, bác ái và yêu thương, để đẩy lui bóng đêm của sự dửng dưng, vô cảm.
Như vậy, một khi mọi người trong gia đình đều ý thức về đời sống chứng tá qua việc nêu gương sáng cho những người xung quanh, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó, người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Và một cách gián tiếp, chúng ta cũng sẽ trở thành ánh sao soi sáng và dẫn đưa nhiều người khác về với Chúa ngang qua đời sống đạo hạnh của mỗi người.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ để mặc khải ơn cứu độ cho muôn dân. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương các Đạo Sĩ, đó là luôn nhạy bén với ơn Chúa và sẵn sàng từ bỏ mọi sự để lên đường tìm gặp Chúa. Amen.
c.1) Thượng Viện La-Mã phong cho Hêrôđê làm Vua dân Do-thái vào năm 40 trước công nguyên HiểnLinh ABC350
(c.1) Thượng Viện La-Mã phong cho Hêrôđê làm Vua dân Do-thái vào năm 40 trước công nguyên. Ông ta là một chính trị gia nhiều mưu mô, tàn nhẫn ngay cả với gia đình, và nổi tiếng về xây cất nhiều công trình đồ sộ. Khi các chiêm tinh gia tìm hỏi "Vua dân Do Thái" là tước hiệu của chính ông, ông sợ có kẻ cướp ngai vàng. (c.1 và 11) Tiếng "nhà chiêm tinh" không lột hết ý nghiã. Các vị này còn biết giải thích giấc mộng và làm tư tế trong đền thờ xứ Ba-tư. Các món quà của họ có vẻ là sản phẩm của Ả-rập. Vì có 3 món quà, nên tục truyền thành 3 chiêm tinh gia. Họ được đặt tên là Caspar, Balthasar, và Melchior, và Caspar trở thành da đen. Các ngài đại diện cho toàn thể dân ngoại từ khắp nơi.
(c.5) Bêlem là một thành nhỏ quãng 5 dặm về phía nam của Giêrusalem, và là quê của vua Đa-vít. Dấu Chúa sanh ở đây chỉ rằng Ngài là dòng vương giả.
(c.11). Ý nghĩa các tặng vật:
- Vàng: kim loại quý trong triều đình. Chúa là vua. - Nhũ hương: thường dùng trong việc tế tự. Khói hương bay lên như những lời khấn nguyện. Chúa Giêsu là Chúa. - Mộc dược: để tẩm liệm xác chết. Chúa là người, đấng chịu chết để cứu thiên hạ.
Một Điểm Chính
Các nhà chiêm tinh từ khắp thế giới dến bái lạy Chúa, còn Hêrôđê chỉ kiếm cớ bái lạy để tìm giết Chúa. Chuyện các nhà chiêm tinh ngoại giáo ở đầu Phúc Âm liên quan trực tiếp tới cảnh kết thúc của Phúc Âm này, khi các môn đệ bái lạy Chúa và Chúa sai các ngài "làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (28:17-20).
Suy Niệm
* Tôi nhận ra Chúa bằng dấu nàỏ Tôi cảm thấy sao khi nhận ra các dấu ấỵ Rồi tôi làm gì? * Tôi đã tìm và đã thấy Chúa chưa? Ngài ra sao? Ngài nói gì? * Tôi tặng Chúa lễ vật gì? Chúa phản ứng ra sao?
Chi Tiết Hay
* Bêlem, nơi Chúa sinh ra là một thôn làng nhỏ cách Giê-ru-sa-lem 6 dặm về phía nam.
* Israel thời ấy bị đế quốc Rô-ma đô hộ. Hêrôđê được Rô-ma bổ nhiệm cai trị xứ Pa-lét-tin. Ông nổi tiếng là người tàn bạo.
* Dân chúng thời đó tin rằng mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh.
* Ba nhà đạo sĩ đến từ vùng Tiểu Á. Họ là những người thông thái. Sở trường của họ là nghiên cứu về khoa chiêm tinh và được xem là cố vấn của nhà vua về đời và đạo. Họ theo ánh sao đi tìm sự xuất hiện của một Đấng Cứu Thế.
* Ý nghĩa của lễ vật:
1. Vàng - Thời xưa, vàng có tính cách quý báu và cao sang, chỉ dành cho vua chúa. Vàng có ý nói hài đồng Giêsu là Vua.
2. Nhũ Hương - Trầm hương chỉ dùng trong việc tế lễ. Hơn thế nửa, trầm hương ở đây nói lên sự ca ngợi và thờ lạy. Trầm hương có ý nói Chúa hài đồng là Thiên Chúa.
3. Mộc Dược - Mộc dược dùng để chữa lành người bệnh và tẩm liệm thi thể người chết thời đó. Mộc dược nói lên nhân tính của hài nhi và cái chết sau này của Chúa Giêsu.
Một Điểm Chính
Sự viếng thăm của ba nhà chiêm tinh được coi là cách Thiên Chúa dùng để tỏ mình ra cho nhân loại. Chúa mời gọi mọi người, cả Do thái lẫn người ngoại giáo, cùng đến nhận lãnh ơn cứu độ.
Suy Niệm
1. Tôi nghĩ gì về ba nhà chiêm tinh gia? Điều gì ở họ làm tôi xúc động nhất? 2. Tôi có lễ vật gì tặng Chúa Hài Đồng nếu Ngài sinh ra ngày hôm nay? 3. Chúa sinh ra nơi máng cỏ và tỏ mình ra với ba nhà chiêm tinh thông thái và nhiều mục đồng dốt nát. Là một Kitô hữu, tôi đã "tỏ mình" ra như thế nào với mọi người chung quanh tôi? Tôi có khinh bỉ những ai không bằng tôi (địa vị, học thức, tài chánh, kiến thức...)?
4. Sau khi gặp Chúa rồi, ba nhà chiêm tinh trở về bằng lối khác. "Gặp Chúa" qua đức tin, tôi đã chọn con đường nào trong cuộc sống hằng ngày?
5. Chúa đã kêu gọi ba nhà chiêm tinh bằng một dấu hiệu quen thuộc với họ trong ngành của họ, một ngôi sao. Trong đời sống và việc làm thường nhật, để hiểu Thánh Ý Chúa, tôi đã nhận ra dấu hiệu nào?
6. Ba nhà chiêm tinh nhận thấy Chúa qua hình ảnh một hài nhi nằm trong máng cỏ. Lối sống của tôi đã thể hiện hình ảnh nào để cho mọi người thấy được Chúa ở trong tôi?