Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận". Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. - Đó là lời Chúa
Cách đây ít lâu, khi có dịp về thăm họ đạo Phú Hiệp khi đến Cái Mơn tôi có ghé vào uống nước tại MV 4-B101
Cách đây ít lâu, khi có dịp về thăm họ đạo Phú Hiệp khi đến Cái Mơn tôi có ghé vào uống nước tại một quán cà phê gần nhà thờ. Khi mới vừa bước vào quán thì có một em bế đến hỏi "Thầy uống chi a?" Tôi thật lá bất ngờ. Vì ở một nơi rất xa, tôi vẫn chưa giới thiệu mình là thầy mà em bé đó đã biết. Tôi cứ suy tư mãi và có phần hãnh diện về mình và suy nghĩ trong đầu, mình thật là oai đến đây mà họ vẫn biết mình là thấy. Nhưng sau đó đến lúc trả tiền tôi liền mạnh dạn hỏi "Sao con biết thầy là thầy mà kêu thầy vậy?". Thì được em bé đó trả lời: "Dạ! Cô con dặn ai bỏ áo vào quần mà ghé quán này con đều phải xưng bằng thầy hết" Cuối cùng tôi mới hiểu vì quán này gần trường học nên các thầy ghé nhiều, em bé chỉ xưng hô như đã mặc định mà thôi. Thật là quê! Vì tôi cứ nghĩ là họ nhận ra mình làm cho mình huênh hoang tự đắc trong lòng. Khi đó tôi liền nhớ đến lời Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: "Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần". Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau: "Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường".
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã...Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "xin vâng" trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù đen tối. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Lạy Chúa, xin cho con biết mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "xin vâng" để xin Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời". Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.
Đa-vít - vị vua nổi tiếng trong Thánh Kinh Cựu Ước mà ít nhiều gì chúng ta đều được nghe nói về ông. MV 4-B102
Đa-vít - vị vua nổi tiếng trong Thánh Kinh Cựu Ước mà ít nhiều gì chúng ta đều được nghe nói về ông. Điểm son và điểm dễ nhất về hình ảnh của vị vua mà có người gán cho ông cái tên dễ thương nữa là vua thánh Đa-vít. Vì sao người ta lại gán cho ông cái tên này? Vì lẽ ông quá sức tội lỗi, ông đã muốn cưới bà Bát Sê-va bằng cách giết U-ri-gia chồng của bà nhưng sau khi ông nghe lời tuyên sấm của Nathan, ông đã thay đổi cuộc đời bằng cách ăn chay, cầu nguyện và xin Đức Chúa - Chúa của ông tha lỗi cho ông.
Bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe xong chúng ta cũng nghe Đức Chúa đã phán với Nathan vài điều để Nathan nói lại với vua Đavit "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền" (2 Sm 7, 8-11a)
Lời tuyên sấm này Đức Chúa muốn nói với Đavít rằng Ngài sẽ thiết lập cho Đavít một dòng dõi và dòng dõi ấy sẽ được vững bền với vương quyền của dòng dõi ấy. Đức Chúa còn cam kết thêm: Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi. (2 Sm 7, 8-11b)
Và chúng ta cũng nên nhìn lại thái độ, tâm tư của vị vua đặc biệt này qua trang sách Samuel: Vua Đa-vít vào ngồi chầu trước nhan ĐỨC CHÚA và thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng? Đa-vít còn nói được gì thêm với Ngài? Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng! Vì lời Ngài đã phán và theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm cho tôi tớ Ngài được biết. Vì thế, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. Dưới đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. Ngài đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng.
Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: "ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. Thật vậy, lạy ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. Giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. Vậy giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi." (2 Sm 7, 18-29)
Qua lời cầu nguyện đơn sơ trên đây của Đavit ta thấy Thiên Chúa quyền năng đã làm những điều kỳ diệu trên con người khiêm hạ của Đavit. Nếu Đavit không khiêm hạ, Đavit sẽ không nghe lời tuyên sấm của Nathan để quay đầu trở về với Thiên Chúa. Biết mình yếu đuối, biết mình tội lỗi nhưng Đavit đã quay đầu trở lại với Đức Chúa để rồi Đức Chúa đã tin tưởng, đã giao phó, đã thiết lập cho ông một dòng dõi mang tên ông.
Một lần kia ông đã tâm sự với Chúa:
Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm. (Tv 131, 1-3)
Hình ảnh của một người khiêm hạ trong Cựu Ước thật đẹp, thật dễ thương. Nhìn trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ thật dễ thương. Mẹ như là cùng đích, như lẽ sống của cuộc đời con để rồi khi con nép mình vào lòng Mẹ con sẽ cảm thấy không còn bận tâm, không còn lo lắng điều gì nữa.
Con người, vốn mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo nên đã đánh mất đi tình yêu, lòng mến, sự che chở, sự bao bọc, sự che chở của Thiên Chúa là Cha, là Chúa của mình. Sự kiêu ngạo ấy đã trải dài suốt lịch sử cứu độ, suốt hành trình về Đất Hứa.
Thời Tân Ước, tưởng người ta nhận thấy bài học chua xót, cay đắng từ sự kiêu ngạo để tỏ lòng khiêm hạ trước Thiên Chúa nhưng không. Chúng ta thấy người Do Thái vẫn cao ngạo, vẫn không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, tình thương xót bao la của Ngài trên cuộc đời của họ. Đức Trinh Nữ Maria, là người nữ Do Thái mới. Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ đã đến trần gian này với lòng khiêm hạ đến cực độ. Mẹ là hình ảnh đối lập với Eva xuẩn động ngày xưa. Eva đã đi tìm cho mình vị trí bằng Thiên Chúa để rồi phạm tội ăn trái cấm. Eva xưa đã cao ngạo trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Không chỉ một mình mình phạm tội mà Eva còn rủ chồng mình cùng chung số phận như vậy. Mẹ Maria hoàn toàn sống khiêm hạ, sống vâng theo Thánh Chúa trên cuộc đời Mẹ. Nếu như Mẹ cũng cao ngạo như những người Do Thái chắc có lẽ Mẹ cũng sẽ chẳng đón nhận được mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể trong lòng Mẹ.
Trang Tin mừng theo Thánh Luca mà chúng ta vừa nghe thuật lại thái độ, tâm tư, tấm lòng khiêm hạ của Mẹ. Quá choáng ngợp với ơn của Thiên Chúa qua miệng sứ thần, Mẹ với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."
Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria lặng lẽ thưa "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Mẹ Maria khiêm hạ để rồi Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm Nhập Thể vĩ đại cho Mẹ. Thiên Chúa vẫn thích hiện diện nơi những tâm hồn khiêm hạ. Chỉ có những ai khiêm hạ, những ai tin mới thấy được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các thánh tông đồ xưa là những người tạm gọi là đầu tiên tin Chúa và đã rao giảng mầu nhiệm ấy. Sau khi tin vào Chúa thì các môn ra đi loan báo Tin mừng như Đức Maria vậy. Sau khi đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể nơi cung lòng của mình, Mẹ đã đi loan báo Tin mừng ấy, không chỉ loan báo mà Mẹ còn hành động cụ thể bằng cách chia sẻ niềm vui cho bà chị họ. Các môn đệ cũng loan báo Tin mừng bằng cách hy sinh cả mạng sống của mình. Ra di trong hân hoan, ra đi trong hạnh phúc vì có Chúa ở cùng.
Trong niềm hân hoan ấy, Thánh Phaolô tông đồ đã gửi tâm thư của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: "Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa". (Rm 16, 25-27)
Hôm nay, qua các lời ngôn sứ từ Nathan loan báo cho Đavit về dòng dõi mà Thiên Chúa thiết lập trên ông đến lời sứ thần loan báo mầu nhiệm Nhập Thể nơi Đức Trinh Nữ chúng ta thấy điểm chung hay nói đúng hơn điểm son nơi hai nhân vật điển hình ấy chính là sự khiêm hạ. Biến cố Emmanuel Nhập Thể mà chúng ta sẽ mừng trong vài ngày nữa cũng chỉ tỏ lộ nơi những con người nghèo, những con người nhỏ bé như những mục đồng nghèo ở cái làng Belem năm nao.
Đứng trước một Thiên Chúa toàn năng, danh Người là Thánh, chắc có lẽ tâm tình hay nhất mà chúng ta phải có đó chính là tâm tình khiêm hạ.
Xin Chúa cho chúng ta mặc lấy tâm tình khiêm hạ của vua Thánh Đavit cũng như tấm lòng khiêm cung nơi Đức Trinh Nữ Maria để quyền năng, tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ nơi cuộc đời mỗi người chúng ta như Chúa đã từng biểu lộ nơi vua thánh Đavit và Đức Trinh Nữ Maria.
Trên đời này, chữ tín rất quan trọng; có chữ tín người ta mới dễ dàng thành công trong công ăn MV 4-B103
Trên đời này, chữ tín rất quan trọng; có chữ tín người ta mới dễ dàng thành công trong công ăn việc làm. Chúng ta thử nhìn ra giữa chợ, phố xá: vì chữ tín, người ta dám cho nhau vay, cho mượn hàng trăm triệu đồng không cần thế chấp, giấy tờ. Điều đó đủ minh chứng chữ tín vô cùng quan trọng...
Trong kho tàng văn học Pháp, có một câu chuyện ngụ ngôn: Một em nhỏ tính tình không tốt, em lại thích gạt gẫm người khác...Một hôm, em từ bìa làng chạy vào, vừa chạy vừa la thất thanh: chó sói, chó sói...cứu tôi, cứu tôi! Người trong làng nghe la chạy ra, vừa chạy tay cầm theo gậy hèo để tiếp cứu; nhưng khi đến nơi mới biết bị em bé gạt. Họ tiu nghỉu bỏ ra về. Không lâu sau đó, một hôm em bé trở về làng, cũng la thất thanh và kêu cứu như thế. Lần này dân làng vì nhớ chuyện củ, nghĩ rằng lại bị em bé ngổ nghịch gạt nữa, nên không ra tiếp. Em bé bị chó sói cắn thật, đến mất mạng... Hôm nay, Hội thánh lại nói đến việc Thiên Chúa là Đấng trung tín hết lòng, đã hứa và đã thực hiện... Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, đã hứa từ ngàn xưa trong Cựu Ước: Qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta biết Adam và Evà đã phạm tội, do đó đã đem lại hậu quả tai hại là hết mọi người đều phải chết. Dù vậy lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa không đành bỏ mặc con người phải chết đời đời, Người đã hứa sẽ tìm cách cứu vớt lại lỗi lầm đó, qua các Tổ phụ, các Tiên tri:
Trong vườn địa đàng, sau khi con rắn cám dổ Ông bà phạm tội, Chúa đã chúc dữ cho con rắn và phán: "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người Nữ. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân Người..." (Stk 3, 15).
Thiên Chúa sai Isaia nói cùng vua Achaz rằng: "chính Chúa ban cho các ngươi một dấu lạ. Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel."(Is 7, 14).
Ở chỗ khác, trong sách Mikêa: "Chúa phán thế này: phần ngươi, hởi Bêlem Epphrata, ngươi nhỏ nhất trong phần đất Giuda, nhưng từ nơi ngươi, sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel, Người có từ đời đời..."(Mic 5, 1)
Dân tộc Israel, (Do thái) được coi là dân riêng Thiên Chúa tuyển chọn, để Người thực hiện Lời Hứa này; chính họ hiểu rõ Lời Hứa đó hơn ai hết, và họ luôn trông ngóng ngày giờ Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa, một thời gian rất dài, từ Adam Evà cho đến khi Đấng Cứu thế giáng sinh. Kinh thánh kể là lối 2000 năm, nhưng thực tế lịch sử cho ta biết còn dài hơn nhiều....
b/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, khi đến thời đến lúc, Người sẽ thực hiện lời Người đã hứa:
Bài TM hôm nay tường thuật lại biến cố giáng sinh; Lời Thiên Chúa hứa qua chính Con Một của Ngài: "Nầy đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai. Bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu David, Tổ phụ Người, Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Nguời sẽ vô tận." (Lc 1, 31-32)
Chính thánh Phaolô quả quyết: "khi xưa vì một người duy nhất đã sa ngã (Adam củ trong vườn địa đàng) mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, nay nhờ một người duy nhất (Adam mới: Đức Giêsu Kitô) đã thực hiện lẻ công chính, mà mọi người được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống (Roma 5, 18).
Câu chuyện: Có một giai thoại hài kể lại: người ta nói rằng: người Mỹ là người nói trước làm sau, nghĩa là nói là làm, rất uy tín. Người Nhật còn dữ dội hơn; họ làm trước nói sau, nên không bao giờ mất uy tín. Còn người VN chúng ta, thì sao biết không? Thưa: nói một đàng làm một nẻo. Xin lỗi anh chị em, nói câu này không biết có bị chưởi bới và bị kết án như Đức Tổng Kiệt không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta, điều này ta thật dễ hiểu. Nhưng nói Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn giữ lờiNgười đã hứa, nhất là với con người chúng ta, điều này xem ra không dễ hiểu tí nào. Vì do tội nguyên tổ, con người chúng ta hay thay lòng đổi dạ, ít khi trung tín với nhau. Vậy mà qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa tỏ ra vô cùng trung tín. Trong mùa giáng sinh này, xin cho mọi người kitô hữu hiểu được điều đó, để sẳn sàng đáp lại tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. ----------------------------------
Có một chàng thư sinh nghèo nhưng lại có căn bệnh sĩ diện, nên đi đến đâu anh cũng muốn chứng MV 4-B104
Có một chàng thư sinh nghèo nhưng lại có căn bệnh sĩ diện, nên đi đến đâu anh cũng muốn chứng tỏ mình là một người phong lưu, hào phóng với mọi người. Có những lúc phải vay nợ vì sự hào phóng nầy. Mọi người đều rất ngưỡng mộ anh vì tưởng anh là một công tử nhà giàu, nên mới hào phóng như thế. Tiếng đồn đến tai một tên trộm, hắn lần mò theo dấu chân chàng thư sinh nọ và đến nhà anh ta. Tên trộm vào nhà tìm mãi không được của gì đáng giá, nó mới tìm cách khống chế gia chủ, sau một lúc dùng biện pháp mạnh tra hỏi, mới biết trong nhà không có gì, tên trộm vừa bỏ đi vừa nói: hôm nay là ngày không tốt, đến trộm nhà một người còn nghèo hơn cả mình. Chàng thư sinh nọ nghe thế, máu sỉ diện trổi dậy, anh cố tìm hết trong nhà còn được mấy đồng lẽ, chạy theo, cố nài nỉ đưa cho tên trộm và bảo: hôm nay trong nhà hết tiền, còn mấy đồng anh xài đở, đừng nói cho mọi người biết việc hôm nay. Thật là một căn bệnh không thuốc chữa. Chàng thư sinh không biết mình đang cần gì và mình đang thiếu những gì. Anh ta chỉ sống bằng cái vỏ bọc bên ngoài, lâu ngày quen dần nên không còn biết mình là ai và đang cần gì hoặc đang thiếu những gì. Căn bệnh sĩ diện làm cho anh chỉ biết cho mà không dám nhận, nên khi trở về với con người thật thì anh không còn gì. Làm sao cho được cái mà mình không có.
Hôm nay một lần nữa, chúng ta vừa được chứng kiến lại giây phút lịch sử của tình yêu thương, giây phút mang niềm hy vọng, mang sự sống đến cho con người.
Mẹ Maria nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, Mẹ cũng đang trông chờ ơn cứu rỗi, trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người. Mẹ cũng có những dự tính, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ biết những gì mình đang có và mình phải cho đi những gì. Đó chỉ là những giới hạn nhỏ bé của con người. Quan trọng hơn Mẹ còn biết mình đang thiếu thốn những gì và cần những gì. Trong tâm tình biết cho và nhận, Mẹ đã nhận lời đề nghị của Thiên Chúa với tâm tình của một người tôi tớ, nhận với tất cả sự vâng phục, nhận vì Mẹ nhìn thấy đây là điều thiết phải chấp nhận. Mẹ còn chấp nhận vì thấy mình còn đang thiếu và cả nhân loại cũng đang thiếu và cần đến sự chấp nhận của Mẹ. Trong khi nhận, Mẹ đã biết cho đi những gì là riêng tư của mình. Mẹ đã cho đi tuổi thanh xuân của một thiếu nữ, cho đi những ước muốn, cho đi những toan tính, cho đi cả sự bình an mà Mẹ đã chuẩn bị cho mình. Mẹ đã biết cho và nhận vì Mẹ biết mình đang cần gì và còn đang thiếu những gì. Chính vì Mẹ đã biết cho và nhận một cách quãng đại như thế, nên hồng ân cứu rỗi mới được ban xuống cho loài người.
Nhân loại ngày hôm nay đã nhận biết bao hồng ân, nhưng vì là con người: nhân vô thập toàn nên họ cũng còn thiếu thốn rất nhiều. Vậy mà rất nhiều người không biết mình đang có gì và đang cần gì, chính vì thế họ không biết mình phải cho những gì vì cần phải nhận những gì để cho đời sống mình được phong phú hơn.
Mỗi người trong chúng ta không thoát khỏi cái thường tình của con người. Hiện tại rất nhiều người mang lấy căn bệnh của chàng thư sinh nghèo; con người trống rỗng, không có gì hết, nhưng lại không muốn cho ai biết sự nghèo nàn trong cuộc sống. Chúng ta đang nghèo tình yêu thương, nghèo về sự quảng đại, nghèo về lòng tha thứ, nghèo về hồng ân Chúa. Vậy mà bao nhiêu lời khuyên và lời kêu mời quay trở về với Chúa để được đong đầy, chúng ta không thể thực hiện được. Chúng ta đang mang căn bệnh sỉ diện của tự ái, của lười biếng, của sự ích kỷ hiềm khích, nên không thể lắng nghe và hành động được.
Chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và noi gương Mẹ để biết cho đi con người yếu hèn của mình và xin Chúa cho được ơn can đảm biết chấp nhận những gì xảy đến trong đời sống hằng ngày. Đó là chúng ta biết nhận cùng với sự vâng phục như Mẹ. Nếu chúng ta biết cho đi những định kiến, những nóng vội, những phán đoán không cần thiết, để biết bình tỉnh chấp nhận Thánh ý Chúa trong những nghịch cảnh, trong những người không làm cho mình vui, hay trong những lúc ưu sầu phiền não. Những lúc đó, chúng ta đang đi theo những bước chân của Mẹ rất thánh, là biết cho đi và biết chấp nhận. Như thế thì hồng ân Chúa đang đến với mỗi người và nhờ đó lan toả ra cho nhiều người.
Xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người, để biết đón nhận hồng ân Chúa cho xứng đáng.
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm Phụng vụ. MV 4-B105
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa vọng năm Phụng vụ. Nếu như hai Chúa nhật trước Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt nổi bật là Gioan Tẩy Giả, thì Chúa nhật thứ này chúng ta được giới thiệu một khuôn mặt nổi bật hơn. Khuôn mặt ấy chính là Đức Maria – một mẫu gương sống động về niềm tin và hy vọng.
Có lẽ, đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay rất quen thuộc với từng người tín hữu chúng ta. Bởi vì, đây là một trong những biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đức Maria đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa qua lời của thiên sứ Gariel. Lời mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ con người. Lời mời gọi làm mẹ Con Thiên Chúa làm người.
Đức Maria đã đáp lời thiên sứ: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1, 38). Với lời thưa này, Mẹ không đáp trả một cách bộp chộp nhưng hoàn toàn có suy nghĩ chín chắn. Bằng chứng là Mẹ đã có đối thoại với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc 1, 34). Sau khi nhận ra đây là thánh ý Thiên Chúa, Đức Maria đã hoàn toàn xin vâng theo ý Chúa.
Mặc dù trước mắt Mẹ sẽ phải trả giá trước dư luận: "chưa chồng mà có chửa". Mẹ tin tưởng và hy vọng Thiên Chúa sẽ có cách làm cho Mẹ đủ sức vượt qua khó khăn thử thách này. Hơn thế nữa Mẹ tin tưởng và hy vọng qua người con Mẹ sinh ra sẽ đem đến cho nhân loại một bầu khí mới. Và đúng vậy, những gì Mẹ tin tưởng và hy vọng đã hoàn toàn trở nên sự thật. Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại một sức sống mới. Một sức sống không một ai ở trần gian này có thể làm được.
Chúng ta còn nhớ trong năm vừa qua Đức Thánh Cha Beneđicto 16 đã ra Thông điệp Niềm hy vọng Kitô giáo. Trong thông điệp này ngài kêu mời các con cái mình hãy sống tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Có tin tưởng và hy vọng vào Chúa đời sống hiện tại của chúng ta mới có thể thay đổi. Đời sống thay đổi theo những gì Chúa khuyên dạy.
Mỗi người chúng ta hãy tiếp tục sống những ngày còn lại của mùa vọng trong niềm tin và hy vọng vào Chúa như gương Đức Maria. Để rồi Lễ Giáng Sinh sắp tới thật sự là một Đại lễ theo đúng nghĩa của nó.
Trước ngày lễ Giáng Sinh, ta được nghe ba cuộc truyền tin: một cho thánh Giuse, một cho ông Dacaria MV 4-B106
Trước ngày lễ Giáng Sinh, ta được nghe ba cuộc truyền tin: một cho thánh Giuse, một cho ông Dacaria và một cho Đức Maria. Thánh Giuse, người công chính, đã nhanh chóng “đọc” được ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa và cũng mau mắn vâng lời. Đặt tên cho em bé là nói lên quyền làm cha của em. Con Trẻ tên là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ; và Ngài còn được gọi là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Để cứu chuộc con người, Con Thiên Chúa đã đến trần gian, mặc lấy thân xác và sống giữa, sống với con người. Thiên Chúa đã đích thân đến với con người bằng một cung cách thật gần gũi và bình thường.
Chúa Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trần gian do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cha mẹ của Người: Đức Maria một cô thôn nữ đơn sơ, nhỏ bé, bình dị đã thành hôn với ông Giuse thuộc dòng tộc Đavít (18.20b). Ông là người công chính, luôn mau mắn vâng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa (c. 19.24).
Sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể là để “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (c. 21b). Con Thiên Chúa làm người, đi vào lịch sử loài người, Ngài không chọn một gia đình cao sang quyền quí làm nơi xuất thân nhưng là một mái ấm gia đình đơn nghèo đạm bạc để làm nên trang sử gia đình thánh và viết lên trang sử đời Người. Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Với sứ mạng Thiên sai, Ngài đến để rao giảng Tin mừng tình thương cứu độ. Ngài gần gũi, quan tâm, săn sóc những người nghèo khổ, lầm than vất vưởng, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Và điều quan trọng là Người đến để cứu vớt, giải phóng con người khỏi nô lệ, xích xiềng tội lỗi, cho họ được tự do và làm con Thiên Chúa, được chung hưởng hạnh phúc nước trời.
Xét về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi Đavid, hậu duệ của vua Đavid. Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: "Này đây đã tới ngày Ta gây cho Đavid một mầm giống công chính, mầm giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước". Hoặc ở một chỗ khác: "Chúa sẽ tạo lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại của Người sẽ vững chắc đến muôn đời. Ngôi báu của Người sẽ vững bền mãi mãi".
Trước sự kiện Maria tuy đã thành hôn nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giuse đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý trái cho Maria, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác, ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Maria về nhà làm vợ và nhắm mắt thừa nhận bào thai Maria đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào toàn danh dự cho Maria, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt người đời.
Giuse còn thể hiền đức công chính qua thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và cho biết ý Chúa muốn, Giuse đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Maria. Ba là“Cho đến khi bà sinh một con trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”: Đặt tên là xác nhận tư cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.
Tuy nhiên, hậu duệ của Đavid không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do Thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngài đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngài muốn để mặc cho nàng tự phân xử.
Cách ứng xử của thánh Giuse nói trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Maria một tình yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giuse là một người công chính, xứng đáng là cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria, đồng thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay.
Ðang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ, mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang.
Cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này, thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mỗi người chúng ta do yêu thương hay giận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị Vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hướng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa Giêsu ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giuse.
Mạc khải ơn cứu độ là công việc của Thiên Chúa, nhưng để thực hiện ơn cứu độ ấy thì cần đến sự cộng tác của con người. Chỉ khi ta sẵn sàng dẹp bỏ chương trình, sở thích cá nhân, để mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, ta mới có thể cộng tác với chương trình của Ngài. Như Đức Maria khiêm tốn đón nhận lời truyền tin hay tựa như thánh Giuse lập tức thi hành điều được báo mộng, ta cũng hãy tìm mọi cách giúp cho Chúa Giêsu nhập thể và sống giữa môi trường của ta.
ĐÓN NHẬN VÀ CỘNG TÁC
VỚI THIÊN CHÚA TRONG KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ CỦA NGƯỜI! [2 Sm 7,1-5.8b-12.14a-16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nhiều người lo ngại rằng Lễ Giáng Sinh và Tết (dương lịch và nguyên đán) năm nay không vui bằng các năm trước vì đồng bào ta còn chịu những hậu quả của các trận mưa lũ, lụt lội và bão tàn phá tan hoang nhiều thôn làng, thị trấn, thị xã của Việt Nam và dịch bệnh corona virus quái ác làm bao người mất việc làm, mất thu nhập mất cuộc sống an bình (chưa kể trên thế giới đã có rất nhiều người chết).
Nhưng với các Kitô hữu chúng ta thì Lễ Chúa Giáng Sinh vẫn nguyên vẹn ý nghĩa và hoàn cảnh càng khó khăn thì ý nghĩa của Lễ ấy càng sâu sắc hơn. Điều quan trọng đối với chúng ta là hiểu biết ý nghĩa cốt yếu của Lễ Chúa Giáng Sinh và sống ý nghĩa ấy một cách tích cực. Ý nghĩa của Lễ Chúa Giáng Sinh là Thiên Chúa mạc khải KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ của Người để mời chúng ta đón nhấn và hợp tác. Thiên Chúa là Đấng Em-ma-nu-en, là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, ở cùng loài người, thì chúng ta được mời sống mật thiết với Thiên Chúa và cộng tác đắc lực với Người.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
(1) Trong Bài đọc 1: 2 Sm 7,1-5.8b-12.14a.16: "Nước Đavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt Chúa" Khi ấy vua Đavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?" Nathan trả lời với vua rằng: "Điều vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua". Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: 'Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?'
"Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị khuấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù, và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
(2) Trong bài đọc 2 (Rm 16, 25-27): "Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày" Anh em thân mến, kính chúc Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các Dân Ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin.
(3) Trong bài Tin Mừng (Lc 1,26-38): "Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai" Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong 3 Bài Sách đọc hôm nay chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng, vì yêu thương nhân loại, đã có kế hoạch cứu độ nhân loại và thực hiện kế hoạch ấy một cách hoàn hảo qua từng giai đoạn lịch sử.
- Ngay sau khi A-đam và E-va phạm tội, Thiên Chúa đã hé mở cho Tổ Tông loài người một tia hy vọng trong lời Người nói với con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3,16).
- Đến thời Vua Đa-vít là vị vua đã xây dựng đền thờ Giê-ru-sa-lem và vương quốc Ít-ra-en hùng mạnh, Thiên Chúa nhắc lại sự chăm lo và lời hứa của Người: “Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra -, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ vững bền mãi mãi." (2 Sm 7, 11-16).
- Và sau cùng, khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã sai sứ thần đến truyền tin và đề nghị với Đức Ma-ri-a, một thôn nữ Na-da-rét, đón nhận và cộng tác vào kế hoạch cứu độ ấy: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." (Lc 1,31-33). Và Đức Ma-ri-a đã ưng thuận thánh ý của Thiên Chúa: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." (Lc 1,38).
3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?) - Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm 2 phần:
(*) đón nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa với tâm tình biết ơn sâu sắc và
(**) tích cực cộng tác vào việc thực hiện kế hoạch ấy trong điều kiện và hoàn cảnh sống riêng của chúng ta ngày hôm nay. Mẹ Ma-ri-a là gương mẫu cho chúng ta trong việc đón nhận và cộng tác vào việc thực hiện kế hoạch diệu kỳ của Thiên Chúa.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn sống với Đấng ban ơn, như tạo vật sống với Đấng Tạo Hóa, như Vua Đa-vít và Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã và đang sống với Thiên Chúa.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa
(1) Tại sao Thiên Chúa muốn chúng ta đón nhận và cộng tác vào việc thực hiện kế hoạch cứu độ chúng sinh của Người? - Có ba lý do:
(a) Lợi ích của chính bản thân chúng ta: Thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Thiên Chúa không cần đến chúng ta khi dựng nên chúng ta; nhưng Thiên Chúa cần đến chúng ta khi cứu độ chúng ta”. Nói cách đơn giản là nếu chúng ta không muốn được Thiên Chúa cứu độ thì Người cũng đành chịu vì Thiên Chúa không thể ép buộc chúng ta nhận điều chúng ta không muốn. Muốn được cứu độ, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa.
(b) Lợi ích của tha nhân: Thiên Chúa có thể cứu vớt con người mà không cần sự hợp tác của con người nhưng Thiên Chúa đã không làm như thế. Người luôn muốn nhờ con người để cứu vớt con người.
(c) Vinh danh Thiên Chúa: Thiên Chúa là Tình Yêu nên không gì làm Chúa hài lòng cho bằng việc Tình Yêu của Thiên Chúa được bộc lộ và đón nhận một cách trân trọng và biết ơn.
(2) Chúng ta cộng tác với kế hoạch cứu độ chúng sinh của Thiên Chúa bằng cách nào? – Có ba cách:
(a) Cầu nguyện, hy sinh cho nhiều người được nghe giảng, đón nhận và sống theo Tin Mừng như chúng ta,
(b) Đóng góp trí tuệ, tài năng, của cải, thời giờ và các phương tiện sẵn có vào Công Cuộc Truyền Giáo của Giáo hội,
(c) Sống Sứ Mạng “Tiền Hô” và “Chứng Nhân” cho Chúa Giê-su Ki-tô – như Gio-an Tẩy Giả - trong môi trường sống của mình.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho các dân tộc chưa nhận biết Mầu Nhiệm và Kế Hoạch Cứu Độ nhân loại của Thiên Chúa, để họ sớm được nghe và đón nhận Tin Mừng.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho các vị trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ, để mọi Ki-tô hữu biết noi gương bắt chước Đức Ma-ri-a mà đón nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và cộng tác với Người trong kế hoạch cao trọng ấy.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho các tín hữu già trẻ lớn bé trong giáo xứ chúng ta để mọi người vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa và cảm nghiệm được quyền năng ấy trong đời sống cá nhân và cộng đoàn mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho những người bé nhỏ, nghèo khó, thiếu thốn, bệnh tật, tù tội... trong xã hội, để những người kém may mắn ấy cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương họ mà vững lòng tin cậy phó thác nơi Người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sàigòn ngày 15 tháng 12 năm 2020
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. ----------------------------------
Một vị vua biết yêu thương dân thì muốn biết đích xác về cuộc sống của thần dân mình. Những vị MV 4-B107
Một vị vua biết yêu thương dân thì muốn biết đích xác về cuộc sống của thần dân mình. Những vị vua đó thỉnh thoảng vi hành để nắm rõ thực trạng của dân chúng. Còn Thiên Chúa đối chúng ta thì sao? Chúa không chỉ đi thăm dân mà còn sống thân phận của người dân, trở nên như phàm nhân ngọai trừ tội lỗi để cứu dân mình khỏi khổ đau và quyền lực của bóng tối sự chết. Để thực hiện điều đó, Chúa đã chọn dân tộc Israel và sai các tiên tri dạy dỗ, hướng dẫn họ sống đạo đức để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Ngài đã sai Tổng lãnh Thiên thần Raphae đến một làng nhỏ miền Galilê và truyền tin cho Trinh nữ Maria biết ý định của Ngài.
Đức Maria đã vui mừng về ơn cứu độ của Chúa và đã nhận lời cưu mang Đấng Cứu Thế. Dù Mẹ có thể gặp khó khăn khi mang thai nhưng mẹ hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu. Ngay lúc Thánh Giuse định bỏ đi thì Thiên Thần Chúa can thiệp: báo mộng cho Giuse về ý định của Chúa: hãy rước Maria về nhà vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse hiểu ý Chúa và đón Đức Maria về nhà mình làm bạn mình và nhận Đức Giêsu làm con về mặt pháp lý.
Đâu ai ngờ được đường lối Chúa: vì yêu thương nhân loại đã không ngại xuống trần làm trẻ thơ và chịu những đắng cay của cuộc sống trần gian như chúng ta. Còn hơn thế nữa, Ngài đã chịu những khổ đau như những người đau khổ nhất: sinh nơi chuồng bò lừa, nằm trên máng cỏ! Đức Maria tin tưởng nơi chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Khi nhận vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã không đòi biết trước chương trình của Chúa nhưng chỉ hỏi để biết rõ ý Chúa muốn mình làm. Mẹ sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ: này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. Mẹ vâng phục rất là mau mắn. Việc thụ thai bởi quyền năng Chúa mà không qua kết hợp phái tính chưa từng xảy ra trên trần gian: một người nữ có con không do sự kết hợp phái tính, nhưng mẹ không thắc mắc thêm cũng không hỏi lại xem mình có nghe lầm không! Khác với Giacaria: chuyện có con trong lúc tuổi già đã từng xảy ra cho Abraham. Tuy cũng là một việc thụ thai kỳ lạ nhưng có thể dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, Mẹ đã chấp nhận thánh ý với lòng đơn sơ phó thác nơi quyền năng trong niềm tin vào Chúa. Mẹ tin rằng: đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được(St 18,14)
Noi gương Đức Maria, chúng ta vâng theo kế hoạch kỳ diệu của Chúa đối với mọi người chúng ta. Chúa không để chúng ta phải thiệt thòi nhưng luôn muốn ban ơn thật nhiều cho chúng ta. Chúng ta có dám nhận và và phát triển ơn Chúa ban đó để cuộc đời chúng ta nên tươi sáng và giống Chúa ngày một hơn không. Chúng ta tự hỏi xem Chúa muốn chúng ta ở địa vị nào trong xã hội, với ơn gọi và những bổn phận nào là xứng hợp với chính mình. Nếu Chúa muốn sai tôi làm công việc bác ái, giúp đỡ anh em tôi có vui lòng làm mà không đòi điều kiện không? Nếu Chúa muốn tôi sống nghèo giống Chúa Giêsu, tôi sẽ có thái độ nào. Nếu Chúa đặt chúng ta ở địa vị cao hơn, chúng ta có biết phục vụ Chúa và mọi người đúng mức không?
Lạy Mẹ Maria, chúng con quyết noi gương Mẹ luôn tin tưởng phó thác vào Chúa, cho dù con gặp gian truân xin Mẹ giúp con luôn giữ lòng trung tín mến yêu, cậy trông nơi quyền năng và sự xếp đặt của Chúa.
Hành trình chuẩn bị chờ đón Chúa đến sắp kết thúc với CN 4 MV. Thời gian chuẩn bị không còn MV 4-B108
Hành trình chuẩn bị chờ đón Chúa đến sắp kết thúc với CN 4 MV. Thời gian chuẩn bị không còn nhiều nữa. Ân huệ Thiên Chúa vẫn ban dư đầy. Còn chúng ta chuẩn bị đón rước Chúa như thế nào? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi mở cho chúng ta cách chuẩn bị đón rước Chúa.
Khi Vua Đavit đang yên ổn trong cửa ấm nhà êm. Ông nhớ đến Thiên Chúa. Ông muốn thể hiện lòng biết ơn của mình bằng việc xây một ngôi đền cho Thiên Chúa ngự. Ông tâm sự với tiên tri Nathan ước muốn của mình. Và ông nhận được sự tán thành của vị tiên tri. Nhưng đó không phải là điều Thiên Chúa muốn. Qua đó, Thiên Chúa nhắc Đavit về thân phận của ông, đồng thời muốn Đavit ý thức đời sống mình cần phải cậy dựa vào ai! Thiên Chúa hứa sẽ giữ gìn Đavit và dòng dõi ông cũng như vương quyền của Vua nếu Vua biết sống trong đường lối và sự tuân phục Thiên Chúa.
Và Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa ấy qua dòng thời gian mặc dầu không phải lúc nào con cháu Đavit cũng trung thành với Thiên Chúa. Chính Đấng Cứu Thế cũng được sinh ra trong chính dòng tộc Vua Đavit. Đấng Cứu Thế ấy đã xuống thế làm người, đã gặp gỡ con người nhờ sự vâng phục của một người phụ nữ.
Thời đức mẹ, ai ai cũng mong đợi Đấng Cứu Thế. Và mỗi người có một cách thế riêng của mình. Mẹ Maria cũng có chương trình riêng của Mẹ để cầu mong Đấng Cứu Thế. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với Mẹ - muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế - Mẹ đã sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng với một tâm hồn khiêm nhường: này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Hai tiếng "xin vâng" Mẹ đã dễ dàng thưa, nhưng để sống với tiếng xin vâng ấy, trước mặt Mẹ là một tương lại mù tối. Luật lệ xã hội thời ấy rất khắt khe, làm sao Mẹ có thể giải thích được với mọi người. Gia đình hai bên, hàng xóm và ngay cả người bạn đính hôn sẽ nghĩ gì về mình đây? Mình có đủ sức bảo vệ mạng sống của mình hay không? Còn bào thai kia là Đấng Cứu Thế nữa thì sao?
Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra trong đầu Mẹ nhưng tình yêu Thiên Chúa đã chiến thắng tất cả. Mẹ chấp nhận mọi nguy hiểm và mọi điều xấu nhất có thể xảy đến cho mình vì Mẹ yêu Chúa. Và chính tình yêu ấy Mẹ luôn được Chúa gìn giữ.
Với một tâm hồn khiêm nhường đơn sơ, Mẹ Maria hoàn toàn phó thác trọn vẹn vận mạng của mình trong tay Thiên Chúa. Với tiếng thưa xin vâng hoàn toàn trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và tự do, Mẹ đã đáp lại ơn Thiên Chúa kêu mời. Và Thiên Chúa đã làm đảo lộn lại tất cả những gì con người "toan tính" và mong đợi.
Đấng Cứu Thế giờ đây là một bào thai nhỏ bé nơi cung lòng của một người phụ nữ bình thường. Đấng Cứu Độ nhân loại lại được sinh ra trong cảnh nghèo hèn, đơn sơ. Mầu nhiệm cao cả đã được giấu kín từ ngàn xưa nay được biểu lộ nơi con người đơn sơ khiêm tốn. Theo Thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Roma thì: mầu nhiệm ấy đã được loan báo cho muôn dân, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Nhưng muôn dân chỉ có thể tin và vâng phục khi để tâm hồn mình khiêm nhường hoàn toàn thẳm sâu như tâm hồn Mẹ Maria.
Chờ đón Chúa nhưng Mẹ Maria đã hoàn toàn để tâm hồn mình thẳm sâu hầu ân huệ Thiên Chúa tuôn đổ xuống tràn đầy trên Mẹ. Và Thiên Chúa đã lo liệu cho Mẹ tất cả dù tương lai mịt mù đang chờ đón Mẹ. Cuộc sống của chúng ta cũng không tránh khỏi những khúc quanh mịt mù đen tối. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng hãy học nơi gương Đức Mẹ hôm nay mà biết phó thác trọn vẹn cho Chúa. Càng phó thác ta càng nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Đồng thời hãy biết vâng theo thánh ý Người như Vua Đavit xưa. Để chính sự vâng phục của chúng ta chương trình của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống hôm nay.
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV muà vọng, thời điểm gần hơn của Lể Chúa Giáng Sinh. MV 4-B109
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV muà vọng, thời điểm gần hơn của Lể Chúa Giáng Sinh. Thời điểm này Giáo Hội trình bày cho chúng ta một gương mặt quan trọng của biến cố Chúa Giáng Sinh. Đó chính là Đức Maria, một người nữ đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, để qua Người, Con Thiên Chúa được Nhập Thể và Nhập Thế.
Đức Maria là một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi người thiếu nữ khác nhưng là người đặc biệt hơn mọi thiếu nữ khác vì được "đầy ân sủng" và được "Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1, 28). Hơn nữa, Đức Maria là người được chọn làm Mẹ Đấng Messia ( Lc 1, 30 -33). Mặc dù được những ưu tiên như thế nhưng Mẹ Maria không tỏ ra kiêu căng, ngược lại, Đức Maria đã làm theo sáng kiến của Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn, Vâng Phục Ngài cách tuyệt đối.
Con người là một tạo vật được Thiên Chúa yêu thương , và vì yêu thương mà Ngài đã dựng nên. Ngài ước ao sẻ chia tình yêu thương nên đã tạo dựng con ngưởi, một lòai thụ tạo trên mọi loài thụ tạo. Nhưng khác với mọi thụ tạo khác, con người có lý trí, ý chí và con người còn có tự do, nó có thể ước muốn, đón nhận hay chối từ món quà của Thiên Chúa, có thể nói tiếng "xin vâng" hay "không xin vâng" với lời mời gọi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn muốn cho con người hạnh phúc và Ngài tôn trọng tự do của con ngươi. Vì được tự do và muốn làm theo ý mình nên người nữ đầu tiên tức là Bà Evà đã phạm tội, Bà đã đưa nhân lọai vào sự chết do bất tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Ngược lại, Đức Maria được coi là Bà Evà mới, dùng sự tự do của mình để hoàn toàn vâng phục và cộng tác với sáng kiến của Thiên Chúa, để Ngài thực hiện chương trình cứu độ trong cuộc đời mình.
Đọc lại bài Tin Mừng Lc 1, 26 - 38 này, ta được chứng kiến giây phút lịch sử của tình thương, giây phút tràn trề niềm hy vọng, giây phút mang lại sự sống mới, sự sống cứu độ đến cho con người.
Sống trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, như những người khác, Đức Maria đang trông chờ Đấng Cứu Thế. Mẹ nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, nỗi trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người của nhân loại của Đức Maria. Đức Maria cũng có những dự tính riêng tư, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ đã sẳn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Vì thế, khi được sứ thần đề nghị Mẹ cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa thì Mẹ chấp nhận ngay, Mẹ đã nhận lời với tâm tình của một người tôi tớ, đón nhận tất cả trong sự vâng phục.
Tiếng "Xin Vâng" của Đức Maria âm thầm lăng lẽ trong ngôi nhà nhỏ bé. Việc Chúa khởi đầu bao giờ cũng nhỏ bé, nơi những con người nhỏ bé. Tiếng "Xin Vâng" với lòng yêu mến và sự khiêm hạ của Đức Maria đã trổ sinh sự sống mới cho con người. Từ tiếng "Xin vâng" của Đức Maria mà Thiên Chúa làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ con người. Mẹ đã góp phần vào ơn cứu độ thế giới, qua việc hiến dâng bản thân mình, sẳn sàng phục vụ cho ý muốn của Thiên Chúa.
Càng nhìn về Đức Maria, càng cho ta thấy mẫu gươngvề sự cộng tác với Thiên Chúa. Cuộc sống có những điều xảy đến ngoài ý muốn của mình. Xin Chúa cho ta biết can đảm chấp nhận. Ngoài ra chúng ta biết cho đi những định kiến, nóng vội, những trái ý trong cuộc sống.... khi có những người không làm cho mình vui. Đó là lúc chúng ta đi theo bước chân của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vui lòng cộng tác với Thánh Ý Thiên Chúa, Mẹ là Đấng đồng công Cứu chuộc, là máng chuyển thông ơn cho nhân loại. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống đạo cho nên, biết thờ phượng Chúa cho phải Đạo, và sẳn sàng yêu thương, giúp đỡ cho tha nhân,.. để nhằm làm sáng danh Chúa. Amen.
Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, mọi loài hữu hình và vô hình. Mọi sự đều tốt đẹp và tồn tại MV 4-B110
Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, mọi loài hữu hình và vô hình. Mọi sự đều tốt đẹp và tồn tại trong tốt đẹp, chỉ với một điều kiện là: các thiên thần và loài người luôn biết thờ phượng, kính mến và vâng lời Thiên Chúa.
Ma quỷ và tổ tông loài người đã không vâng lời Thiên Chúa, không thờ phượng kính mến Chúa, nên đã gây ra một sự phản nghịch với Thiên Chúa, một sự hỗn độn giữa các loài, mất trật tự trong chính loài mình, và ngay cả trong chính bản thân mình.
Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế, để giao hoà mọi loài với nhau và giao hoà đất với trời, giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài chuộc lại sự bình an hạnh phúc ban đầu cho mọi loài.
Như vậy, để cứu chuộc nhân loại, Đấng Cứu Thế phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa cách triệt để. Cũng một thể ấy, người mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách trọn vẹn. Ngay cả người cha theo luật của Đấng Cứu Thế cũng phải vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối. Chúng ta có thể thấy rõ, Chúa Giêsu vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu có thể được...". Đức Maria thưa với thiên thần: "Nầy tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền". Thánh Giuse âm thầm chỗi dậy thi hành hết những gì Chúa muốn.
Để chuẩn bị đón nhận Chúa Cứu Thế, thánh Giuse và Đức Maria đều tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Trong những ngày chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, trong ngày Chúa nhật thứ tư mùa Vọng hôm nay, mỗi người chúng ta phải tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa. Nếu như chúng ta có vấp phải sự bất tuân luật Chúa, chúng ta phải thật lòng sám hối, và nhất quyết không phạm tội. Hơn nữa, chúng ta còn phải trang trí cho tâm lòng chúng ta những bông hoa đẹp là các việc lành, những dầu thơm của các nhân đức, những ánh sáng màu sắc của đức tin, và những nghĩa cử của lòng bác ái .v.v...
Trên tất cả mọi sự, thì đức vâng lời là làm đẹp lòng Thiên Chúa, là hơn mọi lễ vật. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con biết thưa xin vâng, và biết thi hành thánh ý Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng con xứng đáng đón mừng Chúa Hài Nhi giáng sinh ngự đến cứu chuộc chúng con. Amen.
Cách đây ít lâu, có một tờ báo có thuật lại chuyện về ông bầu của một đội bóng. Ông là một người MV 4-B111
Cách đây ít lâu, có một tờ báo có thuật lại chuyện về ông bầu của một đội bóng. Ông là một người rất nổi tiếng. Trong giới thể thao ai cũng biết đến tên của ông. Hôm đó ông cùng với vợ đi nghỉ xả hơi nơi một thành phố nhỏ. Buổi sáng trời mưa buồn, ông đưa vợ đi xem chiếu bóng tại một rạp hát trong thành phố. Lúc ấy, trong rạp hát đã có sáu người đến trước ông. Ông vừa bước chân vào thì tất cả đều đứng lên vỗ tay reo hò chào mừng. Ông vẫy tay chào và mỉm cười cùng họ cách khoái chí. Ngồi xuống, ông nói với bà vợ: "Mình ở xa cách đây cả ngàn cây số, mà ai cũng biết đến mình và kính trọng mình, đến nỗi vừa thấy mình bước chân vào rạp hát là họ đứng dậy chào và vỗ tay hoan hô. Chắc là họ đã ngưỡng mộ mình và đã biết mình qua màn ảnh Tivi.
Sau đó, có một người tiến đến bắt tay chào ông. Mặt mày hớn hở, ông nói: "Làm sao ông bạn có thể nhận diện được tôi?" Người kia trả lời: "Tôi đâu có biết ông là ai. Nhưng khi chúng tôi thấy ông và vợ ông bước vào rạp hát, chúng tôi đứng lên vỗ tay reo mừng, vì vài phút trước khi ông tới, người quản lý rạp hát nói với chúng tôi rằng sáng nay sẽ không chiếu phim, nếu không có thêm hai khán giả nữa". Bấy giờ, ông ấy mới tỉnh ngộ. Ông nói: "Tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Thì ra họ vừa đứng lên vỗ tay reo mừng, không phải reo mừng tôi, nhưng là reo mừng chính họ, vì họ đã có đủ điều kiện để được xem chiếu bóng". Thật là chua chát!
Thánh Augustinô xưa kia cũng đã dạy: "Kiêu ngạo sẽ biến đổi các thiên thần thành quỷ dữ. Còn khiêm nhường sẽ làm cho con người trở nên thiên thần". Ngài còn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nhân đức khiêm nhường như sau: "Nếu bạn hỏi tôi nhân đức nào là nhân đức quan trọng nhất, tôi sẽ nói là nhân đức khiêm nhường. Nếu bạn hỏi tiếp nhân đức nào là nhân đức thứ nhì, tôi sẽ nói là khiêm nhường. Nếu bạn hỏi nữa nhân đức nào là nhân đức thứ ba, tôi cũng sẽ trả lời là khiêm nhường".
Mẹ Maria đã sống khiêm nhường để luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, bà Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu những hậu quả đau đớn của tội nguyên tổ. Trong khi đó Mẹ Maria, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên: - Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ, nào là để xem lại, hỏi lại, hoặc là để cầu nguyện thêm cái đã...
Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã xứng đáng được đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, Mẹ Chúa Giêsu giáng sinh.
Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói "xin vâng" trong tin yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca "xin vâng" để xin Mẹ trợ giúp: "Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời". Để con cũng được giống như Mẹ, vui đón nhận tình yêu Giáng sinh trong an bình và hạnh phúc. Amen.
Thánh Agustinô đã nói: "Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý kiến của con, nhưng để thánh MV 4-B112
Thánh Agustinô đã nói: "Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý kiến của con, nhưng để thánh hoá và cứu độ con thì Chúa cần sự góp sức của con". Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa quyền năng: "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Dẫu vậy, Thiên Chúa không muốn hành động lấn át tự do của con người, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Tự do chính là tặng phẩm cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người. Khi ban tặng tự do cho con người, Thiên Chúa vẫn biết rằng: con người có thể lạm dụng tự do để làm việc chuyện xấu, nhưng Ngài vẫn ban cho con người tự do vì quá yêu thương họ. Tự do đi liền với trách nhiệm. Vì có tự do nên con người phải có trách nhiệm và chịu trách nhiệm, nhất là trách nhiệm về những việc liên quan đến phần rỗi đời đời của mình.
Con người thường dùng tự do để thực hiện những chọn lựa của mình và họ phải chịu trách nhiệm trong những chọn lựa ấy. Con người có thể dùng tự do để chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của đời mình, làm hạnh phúc của đời mình; nhưng con người cũng có thể dùng tự do của mình để khước từ Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy được rất rõ điều này trong cuộc sống. Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy được rằng: Càng biết dùng tự do của mình để chọn những điều tốt thì chúng ta càng được tự do, nhưng nếu chúng ta sử dụng tự do của mình để chọn những điều xấu thì chúng ta càng bị mất tự do.
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại cho chúng ta nghe biến cố "truyền tin". Thiên Thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến báo tin cho Đức Maria biết là Thiên Chúa muốn mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa chờ đợi sự tự do đáp trả của Đức Maria trong việc quan trọng này. Chúng ta thấy, Đức Maria cũng rất bối rối và đầy thắc mắc khi nghe lời báo tin của Sứ thần. Nhưng sau khi được nghe giải thích: Đấng Mẹ sẽ cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, là Con Thiên Chúa tối cao và sẽ trở thành Đấng Cứu độ muôn dân, Mẹ đã tự nguyện nói lên 2 tiếng "Xin vâng". Đức Maria đã đồng ý để cho Thiên Chúa hành động trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đã dùng sự tự do của mình để chọn Thiên Chúa, chọn chương trình của Thiên Chúa để làm theo và Mẹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Mẹ đã quên đi lời cầu nguyện mà mọi người thường dùng để thưa với Chúa là: "Xin ý Chúa được đổi lại", nhưng Mẹ đã học biết và thân thưa với Chúa lời cầu nguyện lớn nhất của trần gian là: "Xin ý Chúa được thực hiện" .
Chắc chúng ta cũng có suy nghĩ này là: được kêu gọi làm Mẹ Thiên Chúa thì còn gì bằng! Tội gì mà không chịu? Nhưng đó là cách nhìn trần thế và mang tính dụ lợi của con người. Quả thật là khi kết thúc cuộc đời trần thế, thì Mẹ Maria được vinh dự đón nhận triều thiên vinh quang với tước hiệu Nữ vương Thiên quốc. Nhưng để đạt được điều đó. Đức Maria đã trải qua một cuộc đời đầy những gian lao, đau khổ và nguy hiểm. Trước hết, Đức Maria đã phải hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Tin mừng cho chúng ta biết là trước khi được Sứ thần đến báo tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, thì Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse rồi. Đính hôn nhưng chưa chung sống. Như thế, nhận cưu mang Con Thiên Chúa, Mẹ có thể bị hiểu lầm từ nhiều phía: từ thánh Giuse và từ những người quen biết Mẹ, ngay cả Mẹ có thể bị ném đá cho đến chết. Vì đối với luật Do thái, một phụ nữ chưa có chồng chính thức mà mang thai thì sẽ bị ném đá cho đến chết. Như thế, chúng ta thấy nguy hiểm đang đe doạ Mẹ, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Thiên Chúa và chịu trách nhiệm cho những gì Mẹ đã chọn lựa. Một lần xin vâng là Mẹ xin được trọn vẹn thuộc về Chúa. Chọn lựa của Mẹ Maria là sự chọn lựa cao nhất và lớn lao nhất trong lịch sử của nhân loại.
Chọn lựa của Mẹ Maria làm cho chúng ta phải suy nghĩ về chọn lựa đối nghịch lại của bà Eva ngày xưa. Eva cũng dùng tự do của mình để chọn lựa, nhưng chọn lựa của bà Eva đã làm cho mọi sự bị xáo trộn và đảo ngược theo chiều hướng xấu. Mọi sự đang tốt đẹp trở nên xấu xa và tội lỗi. Hậu quả bi thương ấy không những ảnh hưởng cho riêng bà mà còn cho biết bao nhiêu con người khác. Chọn lựa của bà Eva ngày xưa xuất phát từ sự tham lam và kiêu căng. Bà Eva đã chọn làm theo ý riêng mình mà khinh thường mệnh lệnh của Chúa, khinh thường thánh ý của Chúa và cũng là khinh thường chính Thiên Chúa nữa. Ngược lại, Đức Maria đã chọn lựa làm theo ý Chúa để làm vinh danh Chúa và mang lại nhiều ích lợi cho con người. Hạnh phúc không phải là kết quả của những chọn lựa tham lam và kiêu căng theo ý con người, nhưng là chọn lựa và làm theo thánh ý của Thiên Chúa. Con người thường lầm tưởng là tiền tài, danh vọng, sức khoẻ sẽ mang lại hạnh phúc cho con người. Những điều ấy tuy có làm cho con người bớt đi phần nào những gánh nặng trong cuộc sống trần thế, nhưng đó chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người đâu. Chúng ta đừng lầm tưởng và mê muội như thế. Chọn lựa sai lầm trong cuộc sống sẽ đưa đến hậu quả tai hại biết là dường nào, và trách nhiệm nặng nề ấy chúng ta phải mang lấy.
Chuyện kể rằng: "Có một người nông dân nghèo, suốt đời vất vả ngược xuôi nhưng cũng không có đủ cơm ăn áo mặc cho đàng hoàng. Thình lình anh nghe người ta nói là ở trên ngọn núi cao cách nhà anh khoảng 200 dặm, có một vị pháp sư tài giỏi, có thể giúp anh thoát cảnh nghèo khổ. Thế là anh khăn gói lên đường. Vất vả tìm kiếm và cuối cùng anh cũng tìm được vị pháp sư ấy. Vị Pháp sư hỏi anh muốn gì? Anh trình bày với vị Pháp sư hoàn cảnh của mình và mong muốn được giúp đỡ. Vị Pháp sư bình thản trả lời: "tưởng gì chứ chuyện đó thì dễ thôi. Nhưng tôi cũng nói cho anh biết nó nguy hiểm lắm". Anh nông dân nghèo liền trả lời: "Không sao. Chỉ có cái nghèo mới nguy hiểm chứ ngoài ra không có gì nguy hiểm cả". Thế là anh năn nỉ cho bằng được điều anh mong ước. Cuối cùng vị Pháp sự cũng chìu ý anh. Vị Pháp sư căn dặn rằng: "Tôi sẽ dạy anh thuộc lòng câu thần chú này. Bất cứ khi nào anh đọc câu thần chú lên thì có một thằng quỷ xuất hiện và đợi lệnh anh. Nhưng anh nhớ là phải có việc cho nó làm, nếu không thì nó sẽ vặn cổ anh đó". Anh nông dân hí hửng ra về. Vừa đến nhà, anh liền đọc câu thần chú lên và một thằng quỷ xuất hiện. Anh ra lệnh nó dọn cho anh một bữa ăn thịnh soạn. Tưởng cũng phải mất 1 tiếng đồng hồ.
Ai ngờ chỉ 30 giây là xong ngay. Nó đứng chờ lệnh anh. Anh ra lệnh cho nó xây cho anh một căn nhà sang trọng cỡ nhà vua ở. Tưởng phải mất một vài tháng, nào ngờ chỉ 5 phút là xong. Anh ra lệnh tiếp cho nó đi tìm cho anh một người mỹ nữ về làm vợ. Tưởng mất vài ngày, nào ngờ cũng chỉ 3 phút là có ngay cho anh một cô giá tuyệt trần. Hốt hoảng anh không còn biết phải ra lệnh gì nữa. Nhưng thằng quỷ nói: "Nếu ông không có việc cho tôi làm là tôi sẽ vặn cổ ông đó". Sợ quá, anh bảo nó canh nhà cho anh đi công việc. Nó tuân lệnh và anh hối hả chạy đi tìm vị Pháp sư để xin được giúp đỡ. Gặp vị pháp sư anh liền trình bày vấn đề. Vị Pháp sư bình thả trả lời: "Tôi đã nói với anh rồi. Nó nguy hiểm lắm, thế mà anh không nghe". Anh năn nỉ vị Pháp sư thương giúp anh khỏi chết. Thế là vị Pháp sự dặên bảo anh về nhà bảo thằng quỷ ngồi đó vuốt đuôi con chó cho thẳng ra. Và thế là thằng quỷ phải làm công việc ấy cho đến thiên thu vì đuôi con chó được vuốt thẳng ra lại co vào mãi. Thế là anh thoát nạn.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: chọn lựa sai lầm trong cuộc sống này thật là nguy hiểm và chúng ta phải lãnh lấy trách nhiệm nặng nề là dường nào. Câu chuyện cũng cho chúng ta thấy: hạnh phúc không hệ tại ở việc có đầy đủ mọi thứ sang trọng ở trần gian nhưng là niềm vui được sống bình an trong những chọn lựa của mình, với những gì mình đang có trong tầm tay.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tận dụng tự do cũng như mọi khả năng của mình để chọn và làm theo ý Chúa như Đức Maria đã làm để chúng ta được hạnh phúc ngay ở trần gian này vì mình được tâm hồn bình an và nhất là ngày sau chúng ta được chia sẻ vinh quang với Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Amen.
Càng gần đến lễ Giáng sinh, lời cầu chúc mà chúng ta vẫn nghe ở đầu Thánh lễ "Chúa ở cùng MV 4-B113
Càng gần đến lễ Giáng sinh, lời cầu chúc mà chúng ta vẫn nghe ở đầu Thánh lễ "Chúa ở cùng anh chị em" càng thêm ý nghĩa. Đây chính là lời ngôn sứ Natan nói với vua Đavít trong bài đọc I hôm nay, và cũng là lời thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ trong bài Tin Mừng. Chúng ta hãy dọn tâm hồn cho xứng đáng để Chúa thực sự ở cùng chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà không lo chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng.
Đã bao dịp lễ Giáng sinh chúng ta chỉ lo cho bản thân và gia đình mình mà không quan tâm đến những người khác.
Đã bao dịp lễ Giáng sinh người công giáo chỉ biết mừng lễ với nhau mà không chia xẻ niềm vui cho anh em lương dân.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-11. 16 Sau khi vua Đavít đã chiến thắng mọi quân thù và đã yên vị trong Hoàng cung, ông muốn xây cho Chúa một ngôi nhà. Ông đem dự định ấy ra hỏi ngôn sứ Natan. Natan thỉnh ý Chúa xong, trở lại trả lời cho Vua Đavít: Thiên Chúa không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù có sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa. Ngược lại, Thiên Chúa muốn xây "nhà" cho Đavít, nghĩa là củng cố triều đại của ông cho bền vững đến muôn đời.
2. Đáp ca: Tv 88 Tv này ca ngợi Thiên Chúa đã trung thành giữ lời Ngài đã hứa với Đavít là sẽ cho "nhà" (triều đại) của ông bền vững muôn đời.
3. Tin Mừng: Lc 1, 26-38 Nếu nhìn lại lịch sử bằng cái nhìn của loài người thì xem ra Lời Thiên Chúa hứa với Đavít (một triều đại trường tồn) đã không được thực hiện, bởi vì từ khi nước Do thái bị đế quốc Babylon thôn tính thì không còn vua thuộc dòng dõi Đavít nữa. Nhưng Thiên Chúa có cách hành động vượt ngoài dự đoán của loài người: Đức Giêsu là dòng dõi Đavít chính là vị Vua sẽ làm cho triều đại Đavít vững bền mãi mãi. Qua biến cố truyền tin, Đức Giêsu bắt đầu nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria. Thiên sứ Gabriel đã nói cho Đức Mẹ biết về tương lai của hài nhi: "Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài... và triều đại Ngài sẽ vô tận".
4. Bài đọc II: Rm 16, 25-27 Thánh Phaolô suy gẫm về mầu nhiệm cứu độ: đó là điều được Thiên Chúa dấu kín từ đời đời nhưng nay nhờ Đức Giêsu mà được tỏ bày cho muôn dân. Thật đúng như lời ngôn sứ Natan đã nói với vua Đavít và thiên sứ Gabriel nói với Đức Mẹ: triều đại của Đức Giêsu mở rộng đến vô biên.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Loài người muốn xây nhà cho Chúa
Bài đọc I hôm nay thuật rằng vua Đavít muốn xây cho Chúa một ngôi nhà nhưng Ngài từ chối. Tin Mừng theo Thánh Luca cũng thuật rằng khi tới lúc Đức Giêsu sắp sinh ra, Thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong các quán trọ nên Đức Mẹ phải sinh Đức Giêsu trong hang đá.
Thiên Chúa không cần đến những ngôi nhà của loài người chúng ta!
Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn chính là một triều đại bền vững muôn đời, triều đại bắt đầu với Đavít và tiếp nối bởi những kẻ thực lòng kính mến tôn thờ Ngài. Ngôi nhà mà Thiên Chúa muốn là những tâm hồn như Đức Maria, luôn khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa.
Để chuẩn bị Lễ Giáng sinh, chúng ta cũng "cất nhà" cho Chúa. Đó là những hang đá, máng cỏ theo kiểu truyền thống; những mô hình cách điệu, những bức họa theo kiểu hiện đại; những trang trí lộng lẫy huy hoàng v. v. Nhưng chúng ta phải biết rằng Chúa không thích những ngôi nhà đó cho bằng những đền thờ được xây dựng trong chính tâm hồn chúng ta và tâm hồn những người chung quanh chúng ta.
* 2. Thiên Chúa xây nhà cho loài người
Vua Đavít có kế hoạch xây một Đền thờ huy hoàng cho Chúa bằng tất cả những vật liệu quý giá nhất mà ông có thể có được. Đức Maria cũng có một hướng sống mà Người cho là đẹp lòng Chúa nhất: "Tôi không biết đến người nam".
Thiên Chúa không từ chối ý tốt đó: Ngài nói với Đavít "Điều gì ngươi nghĩ trong lòng thì cứ thực hiện". Nhưng Ngài giúp vua Đavít và Đức Maria thực hiện theo một cách thức vượt ngoài dự tưởng của các ngài: Natan nói với Đavít "Thiên Chúa ở cùng bệ hạ"; Thiên sứ Gabriel cũng nói với Maria "Thiên Chúa ở cùng cô". Ngôi nhà mà Thiên Chúa cùng xây dựng với loài người chính là tâm hồn con người.
Nhưng do đâu mà tâm hồn vua Đavít được Chúa chọn làm nhà? Do lòng sám hối sâu xa về tội đã phạm. Và do đâu mà tâm hồn Đức Maria trở thành nhà của Chúa? Do lòng khiêm tốn và tuyệt đối tin tưởng vào Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự nơi tôi như lời thiên sứ truyền".
* 3. Đón nhận Chúa
Hai gương mặt nổi bật hôm nay là Vua Đavít và Đức Maria. Cả hai giống nhau ở điểm là muốn làm cho Chúa những gì tốt đẹp nhất, nhưng cuối cùng điều tốt đẹp ấy không phải là do hai vị làm cho Chúa mà là đón nhận việc Chúa làm cho mình.
Chuyện của hai vị gợi cho chúng ta một số ý tưởng:
Thiên Chúa quý chuộng thiện chí của con người. Vì thiện chí nên vua Đavít và Đức Maria được Thiên Chúa chọn.
Nhưng Thiên Chúa có chương trình của Ngài. Chương trình này vượt quá dự tính của con người.
Nhờ vâng lời, con người được tham dự vào chương trình của Thiên Chúa và thiện chí của con người được Thiên Chúa nâng lên đến tầm mức kết quả không ngờ. Chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Chúa bằng cách:
Trình bày cho Chúa những thiện chí của mình. Khiêm tốn thưa với Ngài "Này con là tôi tớ của Chúa"
Xin vâng theo kế hoạch của Ngài, cho dù có bất ngờ hay vượt quá dự tưởng của mình.
* 4. Chiếc đũa thần và Cô bé Lọ lem
Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về Cô bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng một cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên.
Chúng ta hãy đọc kỹ những mô tả của Thánh Luca về tình trạng "đã là", "đang là" và "sẽ là" của Maria:
- Tình trạng đã và đang là của Maria thì rất tầm thường: một thôn nữ sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến, mang một cái tên khá phổ biến là Maria (nguyên trong Tin Mừng thôi đã có ít là 3 người phụ nữ khác cũng mang tên Maria như thế). Lý lịch của nhân vật thứ nhất trong câu chuyện của Luca chỉ có thế, không như lý lịch của nhân vật thứ hai là Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là "thuộc dòng dõi Đavít".
- Nhưng tình trạng sẽ là của Maria thì khác hẳn: Maria "sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Đứa con đó "sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận". Cô thôn nữ tầm thường Maria sẽ là mẹ của Đấng Cứu Tinh thiên hạ.
Chiếc đũa thần chính là quyền năng của Thiên Chúa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được". Mà giây phút chiếc đũa thần vung lên chính là lúc Maria thốt lên lời Fiat. Trong Kinh Truyền tin, chúng ta vẫn đọc "Phút ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người". Trước tiếng Fiat, Maria là Cô Bé Lọ Lem, sau tiếng Fiat, Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Tiếng Fiat nhiệm mầu giống câu thần chú "Vừng ơi mở ra" vậy!
Nhưng Fiat là gì? Fiat không hẳn là "Xin vâng", vì "xin vâng" hàm ý là Maria sẽ đi làm theo ý Thiên Chúa, phần chủ động vẫn là phía con người. Mà nếu như để con người làm thì con người có làm được gì đáng kể đâu. Bàn tay yếu ớt của Cô Bé Lọ Lem làm sao nhặt lựa cho hết mấy thúng hạt đậu. Cô thôn nữ Maria làng Nadarét làm gì được để cứu độ cả thế giới loài người. Đúng hơn, Fiat là "Xin Chúa cứ làm cho tôi", chính Chúa làm chứ không phải Maria làm, phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm "Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả" (Đáp ca).
Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng Maria hoàn toàn thụ động, chỉ ở yên để Chúa làm, vậy thôi. Quả thật, phần cộng tác của Mẹ không nhỏ chút nào: Người muốn một tương lai êm ả, nhưng Chúa làm cho tương lai ấy hoàn toàn đổi hướng với biết bao xáo trộn. Thử tưởng tượng một thiếu nữ mang thai trước khi về nhà chồng. Biết bao rắc rối và khổ tâm đối. Biết bao khó xử đối với gia đình, với họ nhà chồng và nhất là với người chồng sắp cưới. Để Chúa làm có nghĩa là mình không làm chủ đời mình nữa nhưng giao trọn dòng đời cho Ngài định hướng, miễn sao mọi sự đi đúng chương trình của Ngài. Dù sao, Maria vẫn tin rằng Chúa sẽ hướng đời Mẹ đến chỗ tốt đẹp: "Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Đáp ca).
Chúng ta cũng là những cô bé lọ lem. Thiên Chúa có chiếc đũa thần kỳ diệu "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Làm thế nào để Thiên Chúa vung chiếc đũa thần ấy lên cho đời ta được biến đổi? Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ thưa lên lời Fiat: "Xin Chúa cứ làm cho con"
* 5. Xin vâng
Một linh mục nổi tiếng là thánh thiện và nhiệt thành có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:
Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.
Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích. Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kể từ đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.
Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quảng đường về, và tôi đoán ra được đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.
*
Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ: "Kính Mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc. 1, 28). Vâng, mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành, tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.
Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa" (Lc. 1, 3). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ" (Lc. 1, 35). Như vậy, việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.
Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bảo đảm tuyệt diệu: "Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được" (Lc. 1, 38).
Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác, liền thưa: "Xin hãy thể hiện nơi tôi theo như ngài nói" (Lc. 1, 38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế.
Với "Uy quyền Đấng Tối Cao", một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.
Lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay tất cả, nhưng là tiếng "xin vâng" liên lỉ trọn kiếp người. Từ tiếng "xin vâng" đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời "xin vâng" trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.
*
Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm mầu của Chúa. Nhất là xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 6. "Xin Chúa cứ làm nơi con"
"Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Câu này chẳng gây thắc mắc gì đối với những việc Thiên Chúa đã làm trong vũ trụ và trong lịch sử: Thiên Chúa đã làm ra trời đất muôn vật bao la vô vàn vô số; Thiên Chúa đã làm bao phép lạ từ xưa tới nay v. v.
Nhưng tôi có thể áp dụng câu này vào chính bản thân tôi không? Nói cách khác, Thiên Chúa có thể làm được bất cứ điều gì nơi bản thân tôi không?
Rất nhiều khuynh hướng xấu đã đâm rễ rất sâu trong con người tôi. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng tôi đã không bứng rễ chúng được. Thiên Chúa có bứng được không?
Tôi là một kẻ tội lỗi. Thiên Chúa có thể làm cho tôi thành một vị thánh không? Tôi là một người rất ít khả năng. Thiên Chúa có thể dùng tôi để thực hiện những dự định lớn lao của Ngài không?
Dù còn bối rối và chưa hiểu như Đức Maria ngày xưa, nhưng thôi, tôi hãy bắt chước Mẹ mà thưa lại "Xin hãy thể hiện nơi con".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lễ Giáng Sinh đã gần kề, hôm nay Hội thánh nêu bật Đức Maria là mẫu gương cho những người tiếp đón Đức Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Đức Maria đã rộng lòng đón tiếp Đức Giêsu xuống thế cứu độ loài người / Chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi thành phần trong Hội thánh biết noi gương Đức Maria / đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của mình.
2. Đức Maria đã tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa rồi sẵn sàng vâng theo / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo các quốc gia biết tìm hiểu chương trình cứu độ của Đức Giêsu / để dẹp bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ đói với đạo Chúa.
3. Đức Maria đã tin rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được / Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người là nạn nhân của chia rẽ, bất công, hận thù, nghèo đói không rơi vào thất vọng / nhưng tìm được hy vọng nơi Chúa là Đấng có thể làm được tất cả.
4. Đức Maria đã cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu nhập thể cứu độ / Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em trong cộng đoàn họ đạo chúng ta / biết cộng tác với Chúa Thánh Thần để Đức Giêsu luôn được chúng ta tiếp đón trong cuộc đời.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến với mỗi người chúng con, giúp chúng con biết đón nhận Đức Giêsu, để đem Đức Giêsu đến cho mọi người chung quanh chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô. . .
VI. Trong Thánh lễ
- Nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể 4, nhấn mạnh những chỗ sau:
. (Cuối đoạn 1): Hơn nữa nhiều lần Cha đã giao ước với loài người và dùng các ngôn sứ mà dạy cho biết đợi chờ ơn cứu độ.
. (Đầu đoạn 3): Lạy Cha chí thánh, Cha quá yêu thương thế gian, đến nỗi khi tới thời viên mãn, đã sai Con Một đến cứu độ chúng con...
- Trước kinh Lạy Cha: Bài đáp ca hôm nay chứa đựng một lời Chúa hứa cho vua Đavít: "Đavít sẽ thưa với Ta: Chúa là Cha tôi". Lời hứa này chúng ta đang được thừa hưởng: chúng ta trở thành con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Trong tâm tình vui sướng được làm con Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc Rước Lễ: Chúng ta hãy đón rước Chúa vào lòng với những tâm tình sốt sắng như Đức Mẹ ngày xưa. "Này con là tôi tớ Chúa. Xin hãy thực hiện nơi con điều Chúa muốn". "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian..."
VII. Giải tán
Chúa đã ở cùng anh chị em. Anh chị em hãy ra về và suốt tuần hãy nhớ ở cùng Chúa trong mọi nơi, mọi lúc và mọi việc anh chị em làm.
Vào thời mà ngay trước Đấng cứu thế giáng sinh, thì dân chúng đã chán ngấy phong hoá suy đồi MV 4-B114
Vào thời mà ngay trước Đấng cứu thế giáng sinh, thì dân chúng đã chán ngấy phong hoá suy đồi trong xã hội Pa-lét-tin. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự sống đời buông thả. Còn trên bình diện chính trị, thì đất nước của họ bị đế quốc La mã cai trị. Vì thế mà dân chúng mong đợi Đấng cứu thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng thời bấy giờ thì họ mong đợi vị cứu tinh đến giải thoát họ khỏi cảnh lầm than, đô hộ, chứ không hẳn là giải thoát họ khỏi tội lỗi. Còn phụ nữ Do thái nói chung thì mong được làm mẹ đấng cứu thế. Riêng trinh nữ Maria lại khác nữ giới thời bấy giờ, không nuôi tham vọng đó, mặc dầu có cơ hội vì đã đính hôn với ông Giuse.
Luật đính hôn của Do thái thời bấy giờ rất là nghiêm túc. Đã đính hôn có nghĩa là đã cưới hỏi theo pháp lý. Tuy nhiên trinh nữ Maria qua một sự thoả thuận kín đáo với ông Giuse, như một lời khấn, quyết giữ mình đồng trinh. Chẳng thế mà khi sứ thần Gáp-ri-en đến thỉnh nguyện trinh nữ chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế, thì trinh nữ tỏ mối quan tâm về lời hứa của mình: Điều đó xẩy đến thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Điều đó chứng tỏ trinh nữ yêu quí đức đồng trinh như thế nào! Chỉ khi sứ thần bảo đảm với trinh nữ rằng việc trinh nữ thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh linh thì trinh nữ mới chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Còn việc thánh Giuse từ bỏ Đức Maria ra đi cách kín đáo, khi nhận ra Bà đang mang thai, cũng chứng tỏ rằng hai Ông Bà không sống với nhau như vợ chồng.
Phúc âm hôm nay ghi lại trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đáp trả lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa. Trinh nữ Maria chấp nhận lời Chúa truyền, qua miệng sứ thần Gáp-ri-en để mang thai, mặc dù không hiểu sự việc xẩy ra như thế nào, vì trinh nữ đã khấn hứa giữ mình đồng trinh. Mặc dù không hiểu, nhưng trinh nữ đã tin tưởng vào quyền phép của Thiên Chúa, để chấp nhận theo thánh ý Chúa: Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói (Lc 1:38). Bằng việc chấp nhận thánh chỉ của Thiên Chúa, nên Con Một Thiên Chúa, đã được thụ thai cách huyền diệu trong lòng trinh nữ. Giả sử trinh nữ Maria không ưng thuận, thì điều gì sẽ xẩy ra cho nhân loại? Và đời ta sẽ ra sao bây giờ? Ôi, hồng phúc thay lời xin vâng muôn thuở!
Khi vua Đavít đã ổn định tình thế quân sự, chính trị và xà hội trong nước, mà nhà vua thì được ở nhà gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì lại ở trong lều vải (2 Sm 7:2), nên nhà vua có ý định xây nhà để giữ Hòm Bia Thiên Chúa. Hòm Bia được coi là biểu tượng của giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và nhà Ít-ra-en vì Người đã chọn họ làm dân riêng và ban giới luật cho họ. Vì thế Hòm Bia cũng được coi là biểu tượng của sự hiện diện của Giavê. Tuy nhiên Thiên Chúa lại có chương trình khác. Chương trình của Thiên Chúa nhắm tới thời gian mà một người trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en (Is 7:14). Chương trình đó được thực hiện khi trinh nữ Maria chấp nhận thụ thai Đấng Em-ma-nu-en (Mt 1:23). Vì thế mà trong Kinh cầu Đức Mẹ, Giáo hội coi trinh nữ Maria chính là Hòm Bia của Thiên Chúa như khi ta kêu cầu: Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy, vì trinh nữ đã cưu mang Ngôi hai Thiên Chúa trong lòng mình. Chương trình của Thiên Chúa đã được ghi lại trong thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn La mã: Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin và vâng phục Thiên Chúa ( Rm 16:26).
Thời bấy giờ, trinh nữ Maria cũng nóng lòng mong đợi Đấng cứu thế đến như dân Do Thái nói chung, như những phụ nữ Do thái riêng. Đặc biệt, trinh nữ mong đợi Đấng cứu thế sinh ra từ trong dạ mình. Vậy lòng mong đợi mà người tín hữu cần có là lòng mong đợi của trinh nữ Maria mang thai. Đàn ông và những người đàn bà không lập gia đình thì không có được kinh nghiệm mang thai. Để cho người ta có được ý niệm phần nào về việc mang thai, có một hãng xưởng kia chế tạo một túi bị với chiều kích theo đường cong của bụng mang thai, mà khi đeo vào bụng, thì người ta cũng đi đứng, nằm ngồi tựa hồ như người đàn bà mang thai. Mặc dù không có kinh nghiệm mang thai hay không đeo bị vào bụng, người ta cũng có thể tưởng tượng ra phần nào, trinh nữ Maria nóng lòng chờ đợi Con mình sinh ra như thế nào. Cũng đợi chờ chín tháng mười ngày như những người đàn bà mang thai khác.
Việc trinh nữ Maria mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa, tin tưởng vào lời Chúa, vâng theo thánh ý Chúa và cộng tác với ơn Chúa phải giúp ta làm sao để sửa soạn đón mừng Chúa đến. Việc trinh nữ thụ thai cách kỳ diệu mà không có sự cộng tác của người nam, phải giúp ta nảy sinh ra cảm giác lạ lùng và kính sợ. Không may sống trong thời đại kỹ thuật khoa học, con người đã mất đi cảm giác đó, nghĩa là mất đi cảm giác kính sợ, ngạc nhiên và lạ lùng trước những quyền lực siêu nhiên và cao vời. Để bù lại cảm giác mất mát đó, ta cần tiếp xúc với những gì Chúa đã làm trong đời sống cá nhân và trong thế giới loài người.
Như Mẹ Maria, ta cần ghi nhớ và suy niệm (Lc 2:19) những sự việc Chúa đã thực hiện trong đời sống ta. Đức tin của Đức Maria vào lời Chúa, phải có sức linh ứng, giúp ta mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và thực thi ý Chúa. Lời Chúa không phải là điều gì thuộc quá khứ, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại. Lời Chúa là lời hằng sống nên phải có sức biến đổi tâm hồn và tác động đời sống ta, vì Chúa là Đấng hằng sống và chân thật.
Lời cầu nguyện xin ơn biết mở rộng tâm hồn đón chờ Chúa đến:
Lạy Ngôi hai Thiên Chúa hằng sống. Đấng hiện hữu từ muôn thuở. Chọn nhập thể trong lòng một trinh nữ. Xin khơi dậy trong con một cảm giác ngạc nhiên lạ lùng. Một tâm hồn mong mỏi đợi chờ ngày Chúa Giáng sinh. Xin dạy con dọn cho Chúa một máng cỏ trong tâm hồn. Kết bằng việc cầu nguyện, sám hối, hi sinh và bác ái. Để sưởi ấm tâm hồn Chúa. Amen.
Câu truyện thứ hai của TM Lc trong phân đoạn gọi là “Tin Mừng về thời thơ ấu” (1,5–2,52) song MV 4-B115
Câu truyện thứ hai của TM Lc trong phân đoạn gọi là “Tin Mừng về thời thơ ấu” (1,5–2,52) song song với câu truyện thứ nhất: cũng như cuộc chào đời lạ lùng của Gioan được loan báo cho cha là Dacaria (1,5-25), cuộc chào đời lạ lùng của Đức Giêsu sẽ được loan báo cho mẹ Người là Đức Maria (1,26-38). Cũng giống như trong lời loan báo cuộc chào đời của Gioan, ở đây cũng có một cái khung gồm năm yếu tố thuộc về thể văn loan báo các cuộc chào đời trong Cựu Ước (xem các cuộc chào đời của Ítmaên, Isaác, Samson, Samuên):
a) thiên thần đi vào (1,28), b) Đức Maria bối rối (1,29), c) sứ điệp của trời cao (1,30-33), d) vấn nạn của Đức Maria (1,34bc), e) thiên thần trấn an và cho dấu chỉ: bà Êlisabét có thai (1,35b-37). 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Khung cảnh và các nhân vật (1,26-27); 2) Cuộc đối thoại giữa thiên thần Gabriel và Đức Maria (1,28-37):
a) Thiên thần truyền tin (cc. 28-33), b) Câu hỏi trung tâm (c. 34), c) Thiên thần giải thích (cc. 35-37); 3) Sự chấp thuận của Đức Maria (1,38). 3.- Vài điểm chú giải - Gáprien (26): Tác giả Lc nhận ra rằng “sứ thần của Chúa” là thiên thần thuộc lời sấm của sách Đanien ch. 9 về bảy mươi tuần; ngài đã đến với Đanien “vào lúc dâng lễ vật ban chiều” (Đn 9,21; x. 8,16). Cùng với Micaen (Đn 10,13; 12,1) và Raphaen (Tb 3,17), Gáprien là một trong ba thiên thần được nêu tên rõ ràng trong Cựu Ước. Tên Gabrý-’êl có nghĩa là “Thiên Chúa là anh hùng” hay “Thiên Chúa là chiến sĩ của tôi”.
- Nadarét (26): Nadarét không được nhắc đến cả trong Cựu Ước lẫn trong các tác phẩm của Phl. Gioxép hoặc các tác phẩm chú giải của các kinh sư. Ta biết đến thôn làng này nhờ một mảnh bản văn khắc bằng tiếng Hípri tìm ra năm 1962 ở Xêdarê bờ biển, trong đó liệt kê hai mươi bốn nhóm tư tế (x. 1,5) và các làng hoặc thành phố nơi các nhóm ấy cư trú. Nhóm thứ mười tám là nhóm Happozzez được ghi là cư trú tại Nsrt, “Nazareth”. Bản văn khắc này thuộc về cuối thế kỷ III hoặc đầu thế kỷ IV sau CG. Ở đây tên Hy Lạp được ghi là Nazareth, nhưng ở Lc 4,16, tên được ghi là Nazara (cũng như ở Mt 4,13).
- thành hôn (27): Thuật ngữ “thành hôn” hay “đính hôn” ở đây là dạng perfect participle passive emnêsteumenên của động từ mnêsteuô, “đính hôn”, “betroth”. Dạng ngữ pháp này có nghĩa là việc đính hôn đã xảy ra và vẫn còn tồn tại. Giáo sư Fitzmyer (chuyên về truyền thống Luca) đã dịch emnêsteumenên là “engaged to a man”; Bản dịch Đại kết (TOB) dịch là “accordée en mariage à un homme”; Bản dịch của École de Jérusalem (BJ) dịch là “fiancée à un homme”. Dường như toàn câu văn Luca lấy từ Bản LXX của Đnl 22,23 (parthenos memnêsteumenê andri, “khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông”; x. Mt 1,18). Ở bên Paléttina, việc kết hôn của người con gái diễn ra thành hai giai đoạn:
(1) Lễ “cam kết” (Hípri êrusin = La-tinh sponsalia), hay là việc trao đổi về hình thức sự ưng thuận kết hôn trước mặt những người chứng (x. Ml 2,14) và trả khoản môhar, “giá cô dâu” (một khoản tiền trả cho cha mẹ cô gái; x. St 34,12; Xh 22,16; 1 Sm 18,25);
(2) Chính lễ “thành hôn” (Hípri nissuin) hoặc là lễ “mang (rước)” cô gái về nhà chàng trai (x. Mt 1,18; 25,1-13).
Lễ cam kết đã cho chàng rể có những quyền pháp lý trên cô gái, và cô này đã có thể được gọi là “vợ” (Hy Lạp gynê, x. Mt 1,20.24) của anh. Việc cam kết chỉ bị phá hủy khi anh ta ly dị cô. Do đó bất cứ hành vi nào của cô vi phạm các quyền làm chồng của anh đều bị coi là ngoại tình. Sau lễ nghi cam kết, người con gái thường vẫn ở tại gia đình mình khoảng một năm trước khi được mang về nhà chồng.
Như vậy, vào lúc được truyền tin tại Nadarét, Maria đã cam kết thành hôn với Giuse rồi, có nghĩa là đã kết hôn đúng pháp lý với Giuse, đã thật sự là “vợ” của ông; cô chỉ chưa được rước về nhà Giuse thôi. Với lại, nếu đọc Lc 2,5, chúng ta thấy: Dù lúc đó Maria đã về chung sống với Giuse rồi, tác giả Luca vẫn gọi Maria là emnêsteumenê: Ở đây, Fitzmyer cứ dịch sát là “his fiancée”; TOB dịch thẳng ra là “épouse”; còn BJ cũng dịch là “sa fiancée”. Dù sao, dựa vào bản Luca Hy Lạp, có thể hiểu hứa hôn cũng là thành hôn. Bản Nova Vulgata đã dịch là desponsatam, “hứa hôn”, nhưng đến Lc 2,5, bản văn đã dịch và thêm từ ngữ uxor (vợ) để giải thích từ desponsata thành một câu như sau: “cum Maria desponsata sibi, uxore praegnante”, “cùng với Maria đã đính hôn với ông, vợ đang có thai”. Như thế Bản Nova Vulgata vừa giữ từ ngữ có nghĩa “đính hôn”, vừa giải thích theo nghĩa truyền thống Hípri: “đính hôn” đây có nghĩa là “vợ” về pháp lý.
- Giuse (27): Hầu chắc đây là dạng gọi tắt của tên Yôsýp-yah, “Ước gì Đức Chúa thêm cho” (các đứa con khác ngoài đứa con vừa chào đời) (x. Er 8,10; St 30,24).
- Maria (27): Đây là tên của chị ông Môsê (Hípri Miryam, Xh 15,20). Bản LXX thường viết là Mariam, cũng như Lc ở đây, nhưng cách đọc tốt hơn, là Maria, được chứng thực trong các bản văn ngoài Kinh Thánh (x. Lc 2,19). Miryam (và Mariam) là một tên Sêmít, có nguồn gốc Canaan, có liên hệ với danh từ mrym (Ugarít và Hípri) nghĩa là “độ cao, đỉnh cao”.
- Mừng vui lên (28): Chaire (đọc là khai-rê) là kiểu chào thông thường trong văn chương Hy Lạp và được cả người Sêmít dùng trong Tân Ước (x. Mt 26,49; 28,9). Nhưng theo nhiều nhà chú giải, kiểu chào Sêmít quen thuộc hơn, là eirênê (Lc 10,5; 24,36; Ga 20,19.21.26), dịch từ tiếng Hípri shalôm hay tiếng Aram shelâm. Dạng mệnh lệnh chaire (do động từ chairein), “Mừng vui lên” xuất hiện bốn lần trong Bản LXX (Xp 3,14; Ge 2,21; Dcr 9,9; Ac 4,21). Ba ví dụ đầu là một lời sấm ngỏ với Israel hoặc Giêrusalem để nói về cuộc tái thiết Dân Thiên Chúa: “Thiếu nữ Sion”, tức Dân Chúa, được mời gọi vui lên, vì được Đức Chúa đến viếng thăm. Rất có thể Lc đang quy chiếu về Xp 3,14-17, và như thế ám chỉ Đức Maria là “thiếu nữ Sion”, cũng với cùng một lý do: “Đức Chúa ở cùng bà”.
- Hỡi đấng đầy ân sủng (28): Công thức này chính là một tên riêng thiên thần đặt cho Đức Maria (x. Tl 6,12), trong tiếng Hy Lạp là kecharitômenê (pf. pass. ptc). Từ ngữ này cho thấy Đức Maria giống như một bình chứa sự sủng ái của Thiên Chúa; do đó nên dịch là “đấng [đã và vẫn còn đang] được [Thiên Chúa] sủng ái” (vì “được sủng ái” nên cũng “đầy ân sủng” như là kết quả của sự sủng ái: Bản Vg dịch là gratia plena). Câu này sẽ được giải thích bởi câu 30, “vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa” (NTT: “người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”). Xem thêm St 6,8; 18,3. Trong Tân Ước, từ charis trước tiên có nghĩa là lòng sủng ái của Thiên Chúa tỏ ra nơi hành vi thi ân giáng phúc nhưng-không.
- Đức Chúa ở cùng bà (28): Công thức này được dùng thường xuyên trong Cựu Ước, nhưng dưới dạng lời chào thì chỉ có hai lần (R 2,4; Tl 6,12). R 2,4 là một lời cầu chúc; Tl 6,12 là một tuyên bố. Do Lc 1,28 tương tự Tl 6,12, có thể hiểu đây là một tuyên bố.
- Người sẽ nên cao cả (32): x. St 16,12.
- Đấng Tối Cao (32): Có thể danh hiệu này liên hệ đến danh hiệu Hípri ‘Elyôn hoặc danh hiệu Aram ‘Illây, “Đấng Cao cả, Đấng được tôn dương”.
- tôi không biết đến việc vợ chồng (34): dịch sát là “vì tôi không biết một người nam (hoặc: một người chồng, HL. andra)”. Động từ ginôskein, “biết”, thường được dùng như một uyển ngữ để chỉ quan hệ vợ chồng (St 19,8; Tl 11,39; x. Mt 1,25).
- Thánh Thần (35): Sự song đối giữa “Thánh Thần” và “quyền năng Đấng Tối Cao” khiến ta hiểu là hai công thức này giải thích lẫn nhau: Thần Khí được hiểu theo nghĩa Cựu Ước là quyền lực sáng tạo và năng động của Thiên Chúa hiện diện nơi các con người.
- ngự xuống (35): eperchesthai. Câu văn có nghia là con trẻ sẽ sinh ra sẽ là một “quà tặng” của Thiên Chúa theo nghĩa viên mãn.
- sẽ rợp bóng (35): Động từ episkiazein được dùng trong Xh 40,35 cho đám mây vinh quang Thiên Chúa tràn đầy Lều Tạm trong sa mạc.
- không có gì là không thể làm được (37): Câu này nhắc đến St 18,14 (LXX) liên hệ đến Sara, vợ son sẻ của Abraham.
- xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói (38): Lc dùng thể opt. genoito, diễn tả một một nguyện ước có thể đạt được. Các điểm gặp nhau giữa Lc 1 và 2 Sm 7 (bản văn NTT): 2 Sm 7 Lc 1 c. 9: “một danh lớn” c. 32: “Ngài sẽ làm lớn” c. 13: “ngai vương quyền nó” c. 32: “ngai Đavít cha Ngài” c. 14: “nó sẽ là con Ta” c. 32: “Con Đấng Tối cao” c. 16: “nhà ngươi, vương quyền của ngươi” c. 33: “vua trên nhà Yacob cho đến đời đời” 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Khung cảnh và các nhân vật (26-27)
Tác giả Luca cho thấy vẫn là thiên thần Gabriel, đấng đã đến gặp ông Dacaria, loan báo cuộc chào đời của Đức Giêsu. Khung cảnh thời gian là “tháng thứ sáu” rõ ràng phản ánh bút pháp của Lc, vì nhằm nối kết truyện này với phần kết của truyện Gioan Tẩy Giả (1,24b-25). Dacaria đã được loan báo về cuộc chào đời và nhiệm vụ của con ông là Gioan. Nay đến lượt Đức Maria được loan báo về cuộc chào đời và định mệnh của con Mẹ là Đức Giêsu. Đức Maria được giới thiệu là “trinh nữ” hai lần, còn Giuse được gọi là vị hôn phu chứ không phải là chồng (như Mt 1,18-20) thuộc nhà Đavít. Nơi chốn là Nadarét; tác giả Luca đã gọi bằng tên Hy Lạp cao quý polis (thành phố), nhưng đây chỉ là một thôn làng nhỏ bé. Đây cũng là nơi Đức Giêsu sẽ sống mười hai năm đầu đời (2,39-40) và là thành chứng kiến tuổi trưởng thành của Đức Giêsu, vì tại đây Người sẽ quy phục Đức Maria và ông Giuse và sống trước nhan Thiên Chúa (2,51-52) để trở nên một người lớn. Đây là thành của Người, vì từ đây Người được gọi là “người Nadarét” (4,34; 18,37; 24,19).
* Cuộc đối thoại giữa thiên thần Gabriel và Đức Maria (28-37)
a) Thiên thần truyền tin (28-33)
Tin Mừng nói về Maria như là “trinh nữ làng Nadarét”. Nadarét là một thôn làng không quan trọng (x. phản ứng của Natanaen: Ga 1,46). Đây không phải là khung cảnh của Đền Thờ Giêrusalem, với các lễ dâng, với hương khói (x. 1,8-9) vào một ngày đại lễ. Maria là “trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse” (1,27).
Nếu đối chiếu câu truyện truyền tin cho Dacaria (1,5-20), chúng ta sẽ thấy nổi lên những điểm sau: thiên thần Gabriel là sứ giả loan báo những điều quan trọng và chính ngài liên kết hai bài tường thuật, bằng cách luôn luôn đưa độc giả về với Đấng sai phái; Gioan là lời hứa ban cho Dacaria và Êlisabét; “Con Đấng Tối Cao”, Đấng ngự trên “ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người”, Đấng trị vì mãi mãi trên nhà Giacóp, là nội dung sứ điệp ban cho Maria. Vị Tiền Hô trong Đền Thờ của Luật cũ; Đấng Mêsia tại Hòm Bia Giao ước. Một người đàn ông, một tư tế, có một gia phả rõ ràng (thuộc nhóm Avia), được mạc khải là sắp có một cuộc chào đời lạ lùng, do Thiên Chúa can thiệp; một người thiếu nữ, không hề nổi tiếng về dòng tộc, được báo cho biết là sẽ có con trong khi vẫn là trinh nữ.
Maria được Thiên Chúa kêu gọi và được làm cho có khả năng trở thành mẹ. Mẹ được tháp vào trong chuỗi những người đặc biệt được Thiên Chúa kêu gọi, đã nhận được từ nơi Thiên Chúa một nhiệm vụ đặc biệt nhằm đưa lại sự thiện hảo cho Dân Thiên Chúa. Trong lời chào của thiên thần “Mừng vui lên, hỡi Đấng được sủng ái, Thiên Chúa ở cùng bà” (1,28), khung cảnh của ơn gọi của Đức Maria được xác định, đó là: niềm vui, ân sủng và sự trợ giúp của Thiên Chúa. Lời đầu tiên của thiên thần thường được dịch ra thành một lời chào chung chung: “Kính chào bà!”. Khi xuất hiện trong bối cảnh là những bước khởi đầu của Đức Giêsu, vị sứ thần của Chúa luôn luôn đưa lại niềm vui lớn lao: cho Dacaria (1,14) và các mục đồng (2,10). Tất cả có đó để cho thấy rằng nét tiêu biểu của sứ điệp trung tâm và quan trọng hơn của ngài là niềm vui; do đó lời đầu tiên của ngài có nghĩa chính xác là Chaire, “Hãy vui lên!”. Điều đầu tiên Đức Maria nhận được từ thiên sứ của Thiên Chúa là: “Bà có mọi lý do để vui lên. Điều tôi có nhiệm vụ đến nói cho bà thì liên hệ đến bản tính thâm sâu nhất của bà. Hãy vui lên!”. Công thức này sẽ được nhắc lại dưới dạng phủ định và tiêu cực: “Xin đừng sợ”.
Đức Maria được mô tả là “Đấng đầy ân sủng/Đấng được sủng ái”, được chọn làm Mẹ của Đấng được chào là Đấng Cứu Độ, Đấng Kitô, Đức Chúa (2,11). Yếu tố này của mẫu tính của Đức Maria sẽ lại xuất hiện trong TM III (Lc 8,19-21; 11,27-28) và trong sách Cv (Cv 1,14). Đức Maria không trả lời ngay với niềm vui chan hòa. Mẹ bị đánh động, Mẹ suy nghĩ, xin một giải thích, rồi chấp nhận nhiệm vụ với niềm tin. Chỉ trong cuộc gặp gỡ với bà Êlisabét, niềm vui của Mẹ mới bung mở ra, trong bài thánh ca ngợi khen (1,46-55).
Câu nói thứ hai của thiên thần là “bà được sủng ái”, cho hiểu lý do của niềm vui này: “Bà được sủng ái, nghĩa là Thiên Chúa đã ban cho bà cách vĩnh viễn ân sủng của Người, sự sủng ái của Người, sự bằng lòng của Người. Tình yêu đầy nhân ái của Người được ngỏ với bà”. Thiên thần nói tiếp: “Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (1,30); câu này diễn tả ý nghĩa của cụm từ “bà đầy ân sủng”. Đặc điểm này nơi Đức Maria nổi bật đến nỗi thiên thần đã chào người không bằng tên riêng “Maria”, mà bằng “Bà-được-sủng-ái” như một tên riêng mới. Quan hệ của Thiên Chúa với Mẹ được diễn tả ra như thế. Nền tảng ơn gọi của Đức Maria và của mọi niềm vui được xác định như thế. Hầu như có thể nói “Maria” là tên Mẹ đã nhận được từ cha mẹ; còn “Bà-đầy-ân-sủng/được-sủng-ái” là tên đã được Thiên Chúa ban cho Mẹ.
Thiên thần lại nói: “Đức Chúa ở cùng bà”, câu này nhắm tới sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Đây không phải là một sự hiện diện tổng quát (và mơ hồ) của Thiên Chúa, nhưng là sự trợ giúp thực sự, hữu hiệu. Lời đảm bảo này chỉ được ban cho những vĩ nhân được kêu gọi trong lịch sử dân Thiên Chúa (Giacóp, Môsê, Giôsuê, Ghít-ôn, Đavít). Thiên Chúa không chỉ giới hạn vào việc kêu gọi, rồi bỏ mặc người ta, nhưng đồng hành với họ và làm cho họ có khả năng chu toàn nhiệm vụ. Người đảm bảo là Người hiện diện và trợ giúp họ thường xuyên. “Đức Chúa ở cùng bà” sẽ được chứng thực bằng cuộc chào đời của con trẻ.
Đức Maria đã phản ứng lại lời chào của thiên thần vừa trên bình diện cảm xúc vừa trên bình diện lý trí: Mẹ ngạc nhiên (“rất bối rối”) và suy nghĩ (“tự hỏi”). Mẹ mở ra với sứ điệp này và cố gắng hiểu sâu xa hơn. Thiên thần liền trình bày nhiệm vụ của Mẹ: “Này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Trên nền tảng là khả năng tự nhiên của Mẹ là phụ nữ, Đức Maria được gọi đưa lại sự sống cho Đức Giêsu, phải đón nhận cuộc sống con người của Đức Giêsu vào lòng. Đức Maria cũng phải cho Người một cái tên, rồi trước và hơn những người khác, phải dành hết thì giờ và trọn bản thân mà chăm sóc Người cả về thân xác lẫn tinh thần trong nhiều năm.
b) Câu hỏi trung tâm (34)
Khi hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (c. 34), Đức Maria xin thêm một giải thích nữa. Mẹ đón nhận các lời của thiên thần trọn vẹn, không đòi bổ sung cũng không góp vào những suy tư riêng. Mẹ tuyên bố về tình trạng của mình là không có khả năng chu toàn nhiệm vụ được ký thác (x. Gr 1,6tt). Câu hỏi với hàm ý là Đức Maria thiếu khả năng là một bản lề trong cuộc đối thoại của Mẹ với thiên thần, đã đưa đến một mạc khải rõ ràng hơn: thiên thần đã loan báo sự chào đời của Đấng Mêsia, bây giờ ngài phải loan báo về thể thức trinh khiết của cuộc chào đời ấy. Thiên thần cho biết sự trợ giúp quyền năng của Thiên Chúa: chính quyền lực tác sinh, sáng tạo của Thiên Chúa sẽ làm cho Đức Maria có khả năng phục vụ cuộc sống của Đức Giêsu.
c) Thiên thần giải thích (35-37)
Lời loan báo chính thức bắt đầu với lời chào của thiên thần Gabriel. Lời này gồm hai tuyên bố về đặc tính lạ thường của con trẻ Người sẽ cho chào đời và về sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong cuộc đời con trẻ.
Cũng như nỗi bất hạnh của bà Êlisabét đã được cất đi do sự can thiệp của Thiên Chúa nơi một người con trai sẽ trở thành “nhân viên” của Đức Chúa (YHWH), một ngôn sứ trước khi Người đến, thì tình trạng đồng trinh của Đức Maria sẽ được ảnh hưởng của Thiên Chúa tận dụng để Mẹ mang thai một người con trai, người này sẽ là thừa kế vua Đavít và là Con Thiên Chúa. Người sẽ là “Cao Cả” (một danh hiệu dành riêng cho Đức Chúa trong Bản LXX), sẽ được chào là Con Đấng Tối Cao, và sẽ ngự trên ngai vàng Đavít để trị vì tới muôn đời. Đây là tầng ý nghĩa thứ nhất (cc. 32-33). Ở tầng ý nghĩa thứ hai (c. 35), Người được xác định là Đấng Thánh, Con Thiên Chúa. Nếu sự thành thai của Gioan đòi hỏi một phép lạ, sự thành thai của Đức Giêsu, được trình bày song song, cần có một phép lạ lớn hơn, đó là sự thụ thai do một trinh nữ.
Sự thành thai Đức Giêsu xảy đến do Chúa Thánh Thần xuống trên Đức Maria và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Mẹ (1,35); kết quả là Đức Giêsu sẽ là Con Thiên Chúa. Các động từ eperchesthai và episkiazein đều có nghĩa bóng, diễn tả sự can thiệp huyền bí của Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa đưa tới kết quả là vai trò của Đức Giêsu trong dòng tộc Đavít và tư cách Con Thiên Chúa của Người.
Trong cả hai tuyên bố cho Đức Maria, Đức Giêsu được xác định là thuộc dòng dõi Đavít và vai trò của Người là Đấng Mêsia theo lời sấm của Nathan trong 2 Sm 7 (so sánh 2 Sm 7,9.13-14.16 với Lc 1,32-33). Tuy nhiên, bởi vì không có chỗ nào trong nền văn chương Do Thái tiền Kitô giáo ghi rằng Đấng Mêsia được mong đợi có tên “Con Thiên Chúa” cách minh nhiên, chúng ta hiểu rằng danh hiệu “Con Thiên Chúa” không được hiểu theo nghĩa thiên sai. Như vậy, nếu Đức Giêsu là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít (x. cc. 32-33), Người không chỉ là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa thiên sai; không chỉ là Đấng Mêsia nhà Đavít, Người còn là Con Thiên Chúa nữa.
Ở tầng thứ hai, một cấu trúc song song được vận dụng để nói rằng Đức Maria sẽ thụ thai nhờ can thiệp của Thiên Chúa, và do đó, con của người sẽ là Con Thiên Chúa: “Thánh Thần” đến trên người và “quyền năng Đấng Tối Cao” rợp bóng trên người là những công thức song song để nói về can thiệp của Thiên Chúa.
* Sự chấp thuận của Đức Maria (38)
Đối với Lc, Đức Maria là kiểu mẫu cho người tín hữu, được loan báo là có phúc. Và bởi vì Mẹ đã được sủng ái, Mẹ sẽ được tuyên bố là có phúc bởi mọi thế hệ (1,48). Trong Cv 1,14, Đức Maria ngồi giữa các tín hữu để chờ đợi Thánh Thần mà Đức Giêsu đã hứa. Một điểm quan trọng hơn nữa, đó là Đức Maria là “nữ tỳ của Chúa” (1,38). Ở đây tác giả Lc báo trước cách ngài sẽ mô tả Đức Maria trong Tin Mừng, đặc biệt ở 8,19-21: Mẹ sẽ là người “nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. Còn ở 1,38, Đức Maria tỏ ra như là người cộng tác với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Khi cho thiên thần gọi Đức Maria là “đầy ân sủng”, Thiên Chúa đã cho Maria biết đâu là tương quan của Người với Maria. Nay tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa”, Đức Maria diễn tả đâu là tương quan của Mẹ với Thiên Chúa. Mẹ nhìn nhận mình được gọi phục vụ Thiên Chúa. Mẹ muốn lắng nghe Chúa và đi theo ý muốn của Chúa. Trong toàn bộ Kinh Thánh, không có một phụ nữ nào, ngoại trừ Đức Maria, được gọi là “nữ tỳ của Chúa”.
+ Kết luận
Đức Maria được ký thác một nhiệm vụ đặc biệt. Hẳn là chúng ta phải nhìn nhận ơn gọi của Mẹ là một ơn gọi đặc biệt và vui mừng với Mẹ. Nhưng xuyên qua nhiệm vụ của Mẹ, chúng ta có thể ghi nhận các đặc tính tổng quát của mọi ơn gọi phát xuất từ Thiên Chúa. Ơn gọi đến từ lòng nhân từ và sủng ái của Thiên Chúa và có kèm theo sự trợ giúp hữu hiệu của Người. Con người phải dấn thân trọn vẹn và tận dụng hết thì giờ để phục vụ Đức Giêsu. Khi đó, ơn gọi sẽ đưa lại niềm vui, niềm vui phát xuất từ việc phục vụ ấy.
Nhưng điểm còn quan trọng hơn nữa, đó là giáo huấn của tác giả Lc về Đức Giêsu: Người là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa. Danh hiệu này, không phải là Đức Giêsu sẽ chinh phục được, nhưng thuộc về Người theo quyền ngay khi Người đến trần gian.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Để có thể thực sự hiểu Đức Maria đầy ân sủng và Thiên Chúa bày tỏ lòng thương yêu Mẹ có nghĩa là gì, ta cần phải trước tiên hiểu Thiên Chúa là ai. Đọc Tv 8, chúng ta nhận ra sự ngỡ ngàng kinh ngạc của tác giả khi đứng trước công trình của Thiên Chúa và sự cao cả uy hùng của Người được bày tỏ ra trong đó: “Con người là ai mà Chúa cần nhớ đến, Phàm nhân là gì mà Chúa phải chăm lo?”. Mỗi ơn gọi có đặc điểm là người được gọi càng lúc càng để cho tiếng gọi nắm bắt lấy mình sâu xa hơn. Họ mở cả bản thân ra với tiếng gọi và tìm cách hiểu hết ý nghĩa của nó.
2. Sứ mạng của Đức Maria nối dài và kết thúc sứ mạng của Israel. Mẹ là “thiếu nữ Sion” sẽ mang Đấng Mêsia trong lòng. Mẹ là “nữ tỳ của Chúa” để đảm nhận và làm trọn ơn gọi của dân Thiên Chúa, là tôi tớ của Thiên Chúa, cũng như ơn gọi của những tôi tớ trứ danh của Thiên Chúa trong Cựu Ước (Abraham, Giacóp, Môsê, Đavít, Salômôn, Isaia và Người Tôi Tớ của Đức Chúa ở Is 40–55).
3. Khi nghe loan báo Gioan Tẩy Giả sẽ chào đời, ông Dacaria đã yêu cầu một dấu chỉ chứng tỏ sứ điệp đáng tin. Còn Đức Maria thì tin ngay sứ điệp, không đòi hỏi dấu chỉ. Câu hỏi của Mẹ không phải là dấu chứng tỏ một sự hoài nghi, nhưng là một lời xin ánh sáng để soi sáng đức tin của Mẹ. Chính những giải thích sau đó của thiên thần Gabriel xác nhận điều này. Thánh Anselmô đã nói: Tin là lý trí đi tìm sự hiểu biết. Nhưng rồi thiên thần đã cho một dấu chỉ: Bà Êlisabét có thai được 6 tháng rồi.
4. Là nữ tỳ của Chúa, Đức Maria gắn bó với chương trình của Thiên Chúa và diễn tả ao ước được thấy chương trình đó được thể hiện. Mẹ đón nhận ơn gọi của mình không mù quáng cũng không theo cách chẳng đặng đừng, nhưng với ý thức sáng suốt về nhiệm vụ của mình và tự do quyết định đi theo ý muốn của Thiên Chúa. “Trong các công trình của Người, Thiên Chúa luôn muốn sử dụng các dụng cụ… Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta có ý chí tự do, muốn rằng chúng ta phục vụ Người cách tự do trong tư cách là những dụng cụ, bằng việc ý chí của ta ưng thuận ý muốn của Người, giống như cách của Mẹ rất thánh khi Mẹ nói: «Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói»” (Thánh Maximilianô Kolbe)
5. Lời đầu tiên được ngỏ với Maria trong Tân Ước là một lời mời gọi vui tươi: “Mừng vui lên!”. Một lời chào như thế được liên kết với biến cố Đấng Cứu Thế ngự đến. Với Maria là người đầu tiên được loan báo một niềm vui sau đó sẽ được loan báo cho toàn dân; Mẹ tham dự vào đó theo một cách thức và trong một mức độ phi thường. Nơi Mẹ, niềm vui của Israel cũ được tập trung và được viên mãn; nơi Mẹ, niềm hạnh phúc thời đại thiên sai dứt khoát nổ tung ra. Niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria đặc biệt là niềm vui của “phần dư tồn” Israel (Is 10,20t), là những người nghèo đang chờ đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa và trải nghiệm lòng trung thành của Người (Đức Gioan-Phaolô II).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm ----------------------------------
6 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !”
35 Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
SUY NIỆM
1- Sứ điệp nguyên thuỷ :
Khi mời gọi “đọc” 2 Sm 7, 1-5.8b-12.14a.16 và Rm 16, 25-27 qua lăng kính Lc 1, 26-38, Phụng vụ Lời MV 4-B116
(1) Khi mời gọi “đọc” 2 Sm 7, 1-5.8b-12.14a.16 và Rm 16, 25-27 qua lăng kính Lc 1, 26-38, Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng B hôm nay mặc khải cho chúng ta thấy rằng dù là Đấng Chí Ái, Toàn Tri và Toàn Năng, vì thế, Ngài có thể tự mình làm tất cả mọi sự không cần ai giúp sức, nhưng trong tình yêu đối với con người, Thiên Chúa đã muốn con người được cộng tác với Ngài, như những “đối tác tự do”, trong các công trình và kế hoạch của Ngài, đặc biệt, các công trình Nhập Thể, Mặc Khải và Cứu Độ, như được phản ảnh, trước tiên, trong 2 Sm 7, 1-5.8b-12.14a.16 : ở đây, cho thấy để chuẩn bị cho việc nhập thể của Con và là Ngôi Lời của Ngài, Thiên Chúa đã chọn lựa cả một Dân tộc [Dân Israel], rồi một Dòng tộc [Dòng tộc Giuđa], rồi một Nhà [Nhà Đavít]…
(2) Thứ đến, trong Lc 1, 26-38 : ở đây, cho thấy để thực hiện kế hoạch tình yêu nhập thể, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Con của mình một người Mẹ [Đức Maria] thực sự, và thậm chí cả một người “cha trần thế” [Thánh Giuse], tức là Ngài cần có sự cộng tác của con người; như những “đối tác tự do”, đã hẳn, Đức Maria và Thánh Giuse có quyền từ chối lời mời gọi cộng tác của Thiên Chúa, hoặc vì không muốn, hoặc vì không biết, không hiểu [“Việc ấy sẽ xãy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?” (Lc 1, 34)], nhưng trên thực tế, cả Đức Maria, cả Thánh Giuse, do hoàn toàn tin yêu và phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, Đấng mà các ngài tin là chí ái, toàn tri và toàn năng, vì thế, dù không hiểu gì lắm, các ngài vẫn tin và vâng theo thánh ý của Thiên Chúa [“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Ngài thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38)]… Tin là như vậy !
(3) Sau cùng, trong Rm 16, 25-27 : ở đây, cho thấy Đức Giêsu-Kitô, Con và Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người chính là Hình Ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, và là “Tin Mừng mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh…và mầu nhiệm nầy được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa.” (Rm 16, 25-26)…
2- Sứ điệp cho ngày hôm nay :
(1) Mọi vương quyền dựa trên bạo lực và sức mạnh phàm nhân đều sẽ có ngày sụp đổ [kể cả vương triều của Đavít], chi vương quyền dựa trên tình yêu và tự do mới vững bền thiên thu [“Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Ngài mọi vinh quang đến muôn thưở muôn đời, nhờ Đức Giêsu-Kitô.” (Rm 16, 27; 2 Sm 7, 16)…
(2) Triều đại của Đức Giêsu-Kitô, Con Đấng Tối Cao “sẽ vô cùng vô tận”, vì thế, chính Ngài là Đấng đáng cho con người đặt trọn vẹn niềm tin, niềm hy vọng và lòng mến của mình, mà không sợ gì phải hối tiếc…
(3) “Xin hãy đến! Lạy Đức Giêsu-Kitô!” (Kh 22, 20)…
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, “Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, Phàm nhân là gì, MV 4-B117
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, “Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, Phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,5). Vâng, chúng con chỉ như hạt bụi nhỏ bé trong vũ trụ bao la, là loài thụ tạo xúc phạm, vô ơn với Đấng tạo dựng mình, thế mà Chúa vẫn giữ trọn tình yêu trung tín/ và thể hiện yêu thương đến lạ lùng khi nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết xúc động trước tình yêu diệu vời của Chúa.
LỜI CHÚA (đứng) Lc 1,26-38.
SỨ ĐIỆP (ngồi)
Vua Đavid muốn dựng một Thánh Điện cho Chúa. Chúa ban cho ông ân huệ cao vời vạn bội/ là hứa cho dòng dõi ông một vương triều vững bền mãi mãi[1]. Lời hứa ấy được thực hiện khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong lòng Trinh Nữ Maria.[2] Đức Kitô “đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Đavid” để chúng ta được đầy tràn ân sủng cứu độ và bình an.[3] Mầu nhiệm Nhập Thể ăn sâu vào đời sống đạo đức của các Kitô hữu qua Kinh Truyền Tin, Kinh Kính Mừng, qua ngắm Thứ Nhất Mùa Vui, để nhào nắn cuộc đời chúng ta theo tình yêu tự hủy của Chúa Giêsu và theo lòng tin của Mẹ Maria.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, khi Mẹ Maria được loan báo sẽ sinh hạ “Con Đấng Tối Cao” bởi quyền năng Thánh Thần, dù không hiểu thấu mầu nhiệm, nhưng tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa/ nên Mẹ đã thưa “vâng” với Thiên Chúa. Một “sự vâng phục của đức tin” (Rm 1,5). Với lời thưa “vâng”, Mẹ đã chấp nhận ý định của Thiên Chúa, tự hiến hoàn toàn bản thân cho công trình cứu độ. Mẹ hoàn toàn phó thác đời mình cho Thiên Chúa, để Chúa dẫn vào tương lai mà Chúa chọn cho Mẹ. Suốt cuộc đời, dù trải qua những tăm tối và thử thách lớn lao như dưới chân thập giá, đức tin của Mẹ không hề lay chuyển. Mẹ để Thiên Chúa trọn quyền thực hiện chương trình cứu độ của Ngài qua Mẹ và đưa đời Mẹ đến sự thành toàn như Chúa muốn.
Cùng với tiếng “xin vâng” của Mẹ Maria là tiếng thưa “vâng” của chính Chúa đối với Chúa Cha, tuy thầm lặng nhưng chứa đựng một tình yêu khôn tả đối với Thiên Chúa và nhân loại. Với lời thưa “vâng”, Chúa đã tự hủy mình ra không, để đến và ở giữa chúng con. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa đã thực hiện một “bước vạn dặm của tình yêu bao la, của lòng thương xót vô bờ khi từ trên cao, Chúa đã hạ cố làm người nghèo khổ, không nơi gối đầu, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của chúng con. Đó là điều vượt trên mọi lý luận của con người/ mà chúng con không bao giờ hiểu thấu”[4]. “Mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa cao cả biết bao! Chính tình yêu là động lực của mầu nhiệm ấy, tình yêu là ân sủng, là lòng quảng đại, là ước muốn trở nên gần gũi, không do dự hiến thân và hy sinh vì những thụ tạo mà Chúa yêu thương... Đó là điều mà Chúa đã làm cho chúng con… Lý do thúc đẩy Chúa trở nên nghèo: ‘… là để chúng con trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Chúa’”[5].
Xin tình yêu Nhập Thể của Chúa chạm đến chúng con, cho chúng con niềm xúc động chân thành/ và thôi thúc chúng con dám phó trọn cuộc đời cho Chúa, để Chúa dẫn dắt đến thành toàn theo ý định nhiệm mầu của Chúa.
Thinh lặng 7 giây hoặc đứng hát một bài thích hợp.
Lạy Chúa Giêsu, khi lãnh Bí tích Rửa Tội, chúng con thay đổi hữu thể từ tình trạng tội lỗi sang công chính, từ bất tuân sang vâng phục. Sự vâng phục Thiên Chúa đã trở nên yếu tố cấu tạo đời sống mới của chúng con. Trên Thập giá, Chúa đã kéo chúng con lên với Chúa (x. Ga 12,32), tháp nhập sự vâng phục của chúng con vào tiếng “vâng” của Chúa, nhờ đó, chúng con được công chính hóa, được tràn đầy ân sủng để trung thành đi trọn con đường “xin vâng” mà bước vào Nước Chúa và đạt tới sự viên mãn của tình yêu cứu độ.[6] Nhờ tháp nhập vào sự vâng phục của Chúa, chúng con ngày càng trở nên giống Chúa, để Chúa đến và ở lại trong chúng con, để cuộc đời chúng con thành một “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Đây là hồng ân tuyệt đối lớn lao vì khi sống theo ý Chúa, cuộc đời chúng con có một cùng đích cao cả và vĩnh cửu để đi tới, không lạc lối giữa trần gian tăm tối, không bị bao rủ rê trần gian dẫn đến hủy diệt và sự chết.
Hiểu được như vậy, xin cho chúng con từ nay luôn biết hân hoan sống trọn lề luật và thánh ý Chúa, biết chu toàn bổn phận hằng ngày Chúa trao, biết chấp nhận khổ đau và gian nan để trung thành với Chúa. Ước gì từ nay, chúng con có thể “đáp trả lại tiếng Chúa qua những chọn lựa thường nhật, ngay cả khi chúng con phải trả giá cao!” [7] Xin cho chúng con biết sống trung thành với những gợi hứng của Thánh Thần là con đường ngắn nhất để nên thánh như Thánh nữ Faustina - vị tông đồ của lòng thương xót - đã dạy[8].
NHD: Giờ đây, chúng ta thinh lặng giây lát để cầu nguyện riêng với Chúa (nếu được, nên dành từ 2 đến 5 phút thinh lặng).
Sau phút thinh lặng, mời quỳ, hát và đọc Lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng…
---------------------------------- [1] x. 2Sm 7,1-5.8b-11.16 (Bài đọc I). [2] x. Lc 1,36-38 (Tin Mừng). [3] x. Rm 1,1-7 (Bài đọc II). [4] x. Nguyễn Ngọc Thế, Phúc thật Tám Mối, NXB Tôn giáo 2015, tr. 359. [5] ĐGH Phanxicô, Sứ điệp Mùa Chay 2014. [6] x. R. Cantalamessa, Đời sống mới trong Chúa Kitô, NXB Tôn Giáo 2012, tr. 211. [7] ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa Nhật V Phục Sinh, 02/5/2010. [8] x. Jacques Philippe, Tiếng gọi để sống, NXB Hồng Đức 2015, tr. 116
Thánh Augustinô đã khẳng định: Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến MV 4-B118
Thánh Augustinô đã khẳng định: Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Thật vậy, để thực hiện chương trình cứu độ, suốt dọc theo chiều dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn luôn mời gọi sự cộng tác của con người: Ngài mời gọi sự cộng tác của các tổ phụ; Ngài mời gọi sự cộng tác của các thủ lĩnh; Ngài mời gọi sự cộng tác của các ngôn sứ…Ngài mời gọi sự cộng tác chung của cả dân tộc Do Thái; Ngài mời gọi sự cộng tác riêng của từng người…Đặc biệt, để thực hiện lời hứa ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Ngài đã sai sứ thần đến để mời gọi sự cộng tác của một Trinh nữ tại làng quê Nazarét. Trinh Nữ ấy tên là Maria. Cuộc đối thoại giữa Sứ thần và Trinh nữ được Thánh Luca tường thuật lại trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Lc 1, 26-38).
Cuộc đối thoại bắt đầu bằng lời chào của sứ thần Gabriel: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”(Lc 1, 28). Đây là một lời chào đặc biệt, bởi vì sứ thần đã không chào bằng tên thật của Maria, nhưng bằng một tên mới đó là tên: “Đấng đầy ân sủng”. Sứ thần còn thêm rằng:“Đức Chúa ở cùng bà”. Chính vì lời chào đặc biệt nầy mà Trinh Nữ cảm thấy “bối rối”. Hiểu được sự bối rối của Trinh nữ, sứ thần giải thích rằng: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” (Lc 1,30-33). Trinh nữ hiểu rõ lời giải thích của sứ thần, nhưng vì Trinh nữ đã khấn giữ mình đồng trinh, Ngài quý trọng đức Đồng trinh hơn chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Vì thế, Trinh nữ mới hỏi sứ thần rằng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1,34). Thắc mắc của Trinh nữ cũng là thắc mắc của nhiều người qua mọi thời đại.
Nhưng thắc mắc đó đã được Sứ thần giải thích một cách rõ ràng rằng: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1,35-37). Như vậy, việc Đức Mẹ thụ thai và sinh con là việc của Chúa Thánh Thần chứ không phải việc của con người. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không làm được. Cho nên, Đức Mẹ sinh con mà vẫn đồng trinh. Khi hiểu được lời giải thích của sứ thần, Đức Maria đã sẵn sàng thưa xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38).
Cuộc đối thoại giữa Sứ thần và Trinh nữ chấp dứt. Sứ thần đã làm tròn sứ mạng Truyền Tin của mình. Khi thưa “xin vâng”, Đức Maria đã chấp nhận cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại. Biến cố này hết sức quan trọng vì làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria và làm cho lịch sử cứu độ bước sang một trang sử mới. Đối với Đức Maria, từ một thiếu nữ bình thường đã trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Đi liền với thiên chức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa còn ban cho Mẹ ơn Vô Nhiễm thai, ơn đồng trinh trọn đời và được đưa lên trời cả hồn lẫn xác. Đối với lịch sử cứu độ: tiếng thưa “Xin vâng” của Đức Maria làm cho lời hứa của Thiên Chúa ngày xưa được ứng nghiệm, Đấng Cứu Thế đã thực sự xuống thế làm người.
Nhưng tiếng “xin vâng” của Đức Maria không chỉ thể hiện qua lời nói trong chốc lát mà phải “trả giá” cả cuộc đời của Mẹ. Thật vậy, từ khi thưa tiếng “Xin vâng”, Đức Maria bắt đầu bước vào hành trình hy sinh đau khổ: mang thai, bị Giuse hiểu nhầm, sinh con trong hang đá nghèo hèn, đưa con trốn sang Aicập, lạc mất con trong đền thánh, thấy con vác thập giá, chứng kiến con bị đóng đinh, chết trên thập giá và bị người ta tháo đinh để táng trong hang đá…Những đau khổ đó là những lời thưa xin vâng của Mẹ trong cuộc sống. Những đau khổ đó cũng là sự cộng tác của Mẹ với Chúa Giêsu trong việc cứu độ nhân loại. Cho nên, Đức Maria còn được gọi là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc.
Để nuôi dưỡng Đức Giêsu và bảo vệ Đức Maria, Thiên Chúa còn mời gọi sự cộng tác của Thánh Giuse. Cho nên, Thánh Giuse trở thành bạn thanh sạch của Đức Maria và Cha nuôi của Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai, Ngài mời gọi sự cộng tác với Ngài bằng việc tuyển chọn và huấn luyện một số người mà chúng ta gọi là Tông đồ. Ngoài các tông đồ còn có các môn đệ và một số phụ nữ khác…Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo hội để Giáo hội tiếp tục thi hành sứ vụ Cứu thế của Ngài. Trong Giáo hội có đầy đủ mọi thành phần: Giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân. Tất cả được mời gọi cộng tác với nhau và cộng tác vơi Chúa để cứu độ thế giới mãi cho đến tận thế.
Với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Tùy vào khả năng và địa vị, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài.
Thứ nhất, là người kitô hữu, mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa trong việc chu toàn bổn phận khi lãnh nhận bí tích Rửa tội là “từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin”. Từ bỏ ma quỷ là từ bỏ cuộc sống trái với luật Chúa và luật Hội thánh. Tuyên xưng đức tin không chỉ trên môi miệng mà cần phải thể hiện bằng chính cuộc sống của mình. Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gcb 2,17).
Thứ hai, là thành viên của gia đình, chúng ta cộng tác với Thiên Chúa bằng cách chu toàn bổn phận làm chồng làm vợ, làm cha làm mẹ và làm con cái. Tất cả các thành viên trong gia đình đều được mời gọi nên thánh. Người làm chồng, làm cha có thể noi gương Thánh Giuse. Người làm vợ, làm mẹ có thể noi gương Đức Maria. Người làm con có thể noi gương Đức Giêsu. Nhìn vào lịch sử Giáo hội còn biết bao gia đình đáng cho chúng ta noi gương và học tập. Chúng ta có thể noi gương đời sống thánh thiện của gia đình ông Louis Martin và bà Zélie Guérin, thân mẫu của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Hai ông bà có chín người con. Bốn người chết trong thời thơ ấu, trong khi năm cô con gái còn lại lần lượt vào Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng. Cả Louis và Zélie được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI phong chân phước ngày 19 tháng 10 năm 2008, và được Đức Thánh Cha Phanxicô phong hiển thánh vào ngày 18 tháng 10 năm 2015.
Thứ ba, là người con của giáo xứ, mỗi người chúng ta được mời gọi dùng khả năng của mình để xây dựng, bảo vệ và phát triển giáo xứ: Có những người được mời gọi làm thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ; có những người được mời gọi làm thành viên của các ban đoàn; có những người được mời gọi làm thành viên trong các Hội đoàn hay một tổ chức khác; cũng có những người chỉ làm một giáo dân bình thường nhưng luôn hoàn thành các nhiệm vụ được giao…Tùy khả năng và hoàn cảnh, tất cả được mời gọi để xây dựng, bảo vệ và phát triển giáo xứ.
Ngoài ra, nếu những ai giữ những chức vụ khác trong đạo ngoài đời đều được mời gọi cộng tác với nhau và cộng tác với ơn Chúa để chu toàn nhiệm vụ của mình để làm sáng danh Chúa. Khi chúng ta thực hiện tốt bổn phận người kitô hữu và bổn phận của đấng bậc mình là chúng ta đang cộng tác với Chúa để cứu độ chúng ta và cứu độ thế giới.
Lạy Chúa, nhờ tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại được đón nhận Đấng Cứu Thế. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin cho mọi người chúng con luôn biết thưa xin vâng trong cuộc sống đức tin để Chúa cũng đến với chúng con và qua chúng con Chúa đến với mọi người. Amen.
Trong bài hát “Xin Vâng”, Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm viết rằng: “Mẹ ơi! Ðời con dõi bước theo MV 4-B119
Trong bài hát “Xin Vâng”, Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm viết rằng: “Mẹ ơi! Ðời con dõi bước theo Mẹ, lòng con quyết noi gương Mẹ, xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Mẹ ơi! Ðường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Xin vâng. Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Hôm qua hôm nay và ngày mai. Xin vâng, Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng. Hôm nay tương lai và suốt đời”. Tại sao phải chúng ta phải xin Mẹ dạy cho mình hai tiếng xin vâng? Chúng ta cũng thường thưa xin vâng hằng ngày đối với cha, mẹ, thầy cô, với Linh mục và với Chúa với Đức Mẹ mà. Thế thì lời thưa xin vâng của Đức Mẹ thưa với Chúa hôm nay có khác với lời thưa xin vâng của chúng ta không, khác nhau chỗ nào?
Nếu hôm nay Chúa hiện ra và bảo mỗi người trong quí ông bà anh chị em đây rằng: “Này con, con làm kỹ sư nhé!”. Anh chị em liền thưa: “Xin vâng”. Và “Này con, con hãy làm linh mục!” Anh em liền thưa: “Xin vâng.” Rồi, “Này con, con làm bà Soeur nhé!”, Chị em không một chút do dự thưa: “Xin vâng”. Rồi, Chúa cũng bảo: “Này con, con hãy đi đến vùng đang có bệnh dịch hay có chiến tranh xảy ra để chữa trị bao vết thương cho Ta!” Anh chị em do dự trả lời: “Từ từ để con coi nghĩ lại đã!”. Như vậy, rõ ràng hai tiếng “xin vâng” ấy là vâng có điều kiện và nhất là có lợi thuộc về tôi nhiều hơn. Hai tiếng “xin vâng” của Mẹ hôm nay thì khác. Qua hai tiếng ấy, Mẹ đặt mối quan hệ của mình và Thiên Chúa trong mối quan hệ thấp cao: Mẹ chỉ là nữ tỳ, còn Thiên Chúa là Đấng Tối Cao. Vì vậy, Mẹ xin vâng không điều kiện, không mặc cả, không tìm tư lợi cho mình. Cho nên, Mẹ sẵn sàng trao toàn thân để Chúa có thể làm bất cứ điều gì nếu Chúa muốn dù có đau thương Mẹ vẫn một lòng trung tín với Chúa.
Lời thưa của Đức Mẹ: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Một lời xin vâng quyết liệt, đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã gặp không ít khó khăn và đau khổ. Trước hết là trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Rồi trong lúc bụng mang dạ chửa, Đức Mẹ cùng với Thánh Giuse lặn lội gieo neo đi xuống Bêlem để đăng ký hộ khẩu và rồi sinh con trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông. Rồi, Mẹ phải lặn lội đem con trốn sang Ai-cập. Và rồi Mẹ theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa, nhìn Con yêu chết đau đớn. Mẹ đã đứng vững và trầm lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa trong đau khổ. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình. Từng giây từng phút và trong từng biến cố suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy ngang qua thập giá. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu bằng lời xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất. Như vậy, lời thưa xin vâng của Mẹ đồng thời cũng là hành động dâng hiến, phó thác, tin tưởng và trung tín với Chúa, cho Chúa, vì Chúa và tha nhân không một tính toán, không một vụ lợi và không một lời oán trách khi gặp khó khăn, đau khổ hay thử thách. Cho nên, Thánh Nữ Têrêsa Calcutta nói: “Nếu có gì thuộc về tôi, tôi sẽ có toàn quyền sử dụng nhưng tôi thuộc về Chúa, nên Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn”.
Lời “xin vâng” của Mẹ Maria vẫn được lặp lại trong đời sống Kitô hữu mỗi ngày. “Xin vâng” với ý thức là hiến toàn thân cho Chúa qua việc sám hối ăn năn tội và sống Lời Chúa, đồng thời hiệp thông với Ngài mọi biến cố trong cuộc sống ngang qua thập giá của Chúa Kitô. Vậy chúng ta học gương Mẹ, thưa xin vâng với Chúa qua việc sám hối, hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức trong Mùa Vọng này để được Chúa Giêsu giáng sinh nơi cung lòng chúng ta.
Vì vậy, hôm nay Mẹ dạy ta hai tiếng xin vâng cũng là dạy hãy can đảm thi hành lời mời gọi của Tin Mừng đó là: “xin vâng” thực thi ý Chúa khi gia đình hạnh thịnh vượng cũng như lúc gian nan khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ để cùng với Chúa ta xây dựng gia đình bình an hạnh phúc và tiếp tục công trình cứu độ của Thiên Chúa. Đặc biệt trong năm đời sống gia đình, nhất là các gia đình trẻ, anh chị em hãy thưa “xin vâng” trước những đòi hỏi của cuộc sống gia đình: hy sinh, tha thứ, từ bỏ những tính hư tật xấu để giữ tâm hồn trong sạch và sống công chính nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc vững bền, hoà thuận và yêu thương nhau như gia đình Đức Mẹ. Là tu sĩ, giáo sĩ hãy thưa “xin vâng” với Chúa trước những bổn phận và trách nhiệm phải cúi xuống để rửa chân cho chị anh em qua việc yêu thương chăm sóc những người tội lỗi, nghèo khổ, bệnh nhân hay người khuyết tật. Cho nên, trong Tông thư gửi tất cả Các người Tận hiến nhân dịp Năm Đời sống thánh hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo hội: ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời. Cả một nhân loại đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước tương lai, những người già lão bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời tâm linh... Anh chị em đừng khép lại trong chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm cẩn trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ. Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của họ và loan báo Tin mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi trao ban sự sống, tìm thấy hy vọng khi trao ban hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương” (phần II, số 4).
Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết noi gương bắt chước Mẹ nói lời “xin vâng” trong suốt cuộc lữ hành trần thế này. Xin Mẹ cho con biết mở lòng và cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen.
Một tin vui đã được loan báo âm thầm trong một làng vô danh Na-da-rét: “Bà sẽ sinh một bé MV 4-B120
Một tin vui đã được loan báo âm thầm trong một làng vô danh Na-da-rét: “Bà sẽ sinh một bé trai và đặt tên là Giê-su” (nghĩa là cứu thế).
Không ai biết, không ai hay, chỉ có một cô con gái “đầy ơn phước” lãnh nhận Tin Vui này. Nhưng hôm nay, tin vui đó đã lan tràn ra khắp thế giới, hơn hai mươi thế kỷ. Hôm nay, tất cả chúng ta cùng với Maria, đón nhận tin vui đó. Chúng ta đón nhận như thế nào?
Giáo Hội đang vui mừng. Chúng ta hãy nhảy mừng vì Giê-su, Đấng Cứu Thế sẽ đến. Giáo Hội vui mừng, nhưng quanh ta, thế giới vẫn dửng dưng hững hờ xem đó như một tin rao vặt, chẳng ích lợi gì cho ai, có chăng là một dịp tốt để những người kinh doanh có thêm một nguồn lợi khi bán những sao đèn giáng sinh…
Mặc cho người đời “thương mại hóa” Tin Vui đó, chúng ta, “những người nghèo của Thiên Chúa”, những người tin vào tình yêu, sẽ thắp lên trong tâm hồn chúng ta ngọn đèn hy vọng.
Chúa đến không ai hay…
Cả một lịch sử dài, cả một đoàn ngôn sứ đã chuẩn bị và đợi trông ngày trọng đại và thánh thiện này.
Người Do thái cũng nóng lòng đợi trông, nhưng họ đợi trông một Đấng Cứu Thế theo ý họ, một Đấng Cứu Thế oai hùng, sẽ đến đánh đông dẹp bắc, đưa dân Do Thái vào vinh quang trần thế, bá chủ hoàn cầu.
Họ chạy theo một ảo ảnh. Và Thiên Chúa không thỏa mãn ước mơ trần thế đó.
Ngài đến không ai hay: “Tư tưởng của Ta không như tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không giống đường lối các ngươi”.
Đường lối của các ngươi? Là cởi đầu thiên hạ… Thiên Chúa không như thế. Ngài xuống thế làm người, Ngài đến không ai hay, vì người ta đón Chúa trước cổng đền vua với lộng cờ đầy đủ. Nhưng Chúa lại đến trong một hang đá nghèo nàn, đáng thương.
Vậy đâu là đường lối của Chúa?
Người đến để cứu vớt, và để yêu thương.
Chúng ta đang chờ đón Thiên Chúa khiêm hạ và đầy tình thương.
Đấng đang đến, Đấng chúng ta đang đợi chờ là Con của Tình Yêu: “Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Người cho thế gian”.
Bao nhiêu đó đủ cho chúng ta vui chưa?
Cuộc sống này là gì? Một cuộc chạy đua gian khổ. Nhiều người không biết mình đang đi đâu. Thời gian cứ trôi không ngừng. Mọi thành công thất bại của chúng ta tàn lụi thê thảm như những lá khô trên đường.
Chúng ta cần bám vào cái gì vững chắc.
Chỉ có Thiên Chúa thường hằng bất biến mới vững chắc. Chúng ta chỉ bám vào Ngài thôi, không có nơi nào khác. Chúng ta được yêu thương tràn đầy và tình thương này không phai nhạt theo ngày tháng. Chúa Cha diễn tả tình thương của Ngài bằng một món quà vô giá: “Một người Con đã được ban cho chúng ta”.
Hôm nay, chúng ta nhớ lại cuộc trao đổi giữa trời và đất.
“Bà sẽ sinh một bé trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Thiên Chúa cao cả phải cần đến một người để cứu mọi người!
Maria có hiểu được những lời đó không? Chúng ta có thể nghĩ rằng Maria đã hiểu đầy đủ, vì ngài đã được nuôi dưỡng từ nhỏ bằng Kinh Thánh. Con Đấng Tối Cao có nghĩa gì? Chắc Maria không thể hiểu khác được. Các thanh nữ thời bấy giờ vẫn mơ ước được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Maria đã hiểu nhưng nàng không vội nhận lời. Nàng không nuôi mộng làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nàng là một cô gái vui tươi nhưng trầm lặng. Nàng hỏi lại: “Làm sao có thể như thế được, vì tôi không có chồng?”
Nàng quí chuộng sự trinh khiết hơn làm mẹ Đấng Tối Cao?
Không, không thể như thế.
Nàng không hiểu làm sao Thiên Chúa có thể làm một việc cao cả như thế, làm sao nàng có thể sinh ra một em bé khi nàng không có chồng?
Một sự khôn ngoan lạ thường nơi một thiếu nữ quê mùa dốt nát, trong một trí óc non nớt của một thanh nữ vừa đến tuổi cặp kê!
Nàng đã được đính hôn với một thanh niên nghèo tên Giu-se, sao nàng lại có thể nói: “Tôi không có chồng?”
Thiên Chúa đã tiên liệu tất cả từng chi tiết. Đứa Con Thần Linh của Chúa sẽ đến trần gian… không lẽ là một đứa trẻ không cha? Hơn nữa Kinh Thánh từ xa xưa đã tiên báo, Đấng Cứu Thế sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít. Giuse sẽ đóng vai trò là cha của Đấng sẽ đến và thuộc dòng Đa-vít. Thật là tuyệt diệu! Tất cả đã sẵn sàng cho một Thiên Chúa nhập thể. Thánh vịnh bảo: “Hãy chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa” Đây phải chăng là một kỳ công?
Trước mặt thế gian, Giuse là chồng của Maria, trước mặt Thiên Chúa, người là tôi tớ. Người bạn hiền mà ông sẽ nhận về nhà, là “nữ tỳ khiêm hạ của Thiên Chúa” thì ngài chính là người bảo trợ trung thành. Ngài biết đứa trẻ là ai và Maria là ai. Chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nhờ sự vâng phục của con người. Thiên Chúa có thể làm mọi sự mà không cần đến ai, nhưng Chúa muốn sự tham dự tự do và chân thành của con người. Chúa tạo nên chúng ta không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng muốn cứu chuộc chúng ta, Ngài chờ chúng ta ưng thuận. Sự tôn trọng của Thiên Chúa đối với tạo vật của Ngài. Như thế, con người được mời gọi vào tạ ơn và tôn thờ.
“Làm thế nào có thể như thế được vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Bà”. Mọi sự đều được giải quyết. Thánh Thần sẽ can thiệp, Quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì con người không thể làm. Đây không phải là việc của con người mà là của Thiên Chúa toàn năng. Đứng trước quyền năng của Thiên Chúa, con người chỉ có quyền khuất phục. Sứ thần còn cho một bằng chứng: “Kìa bà Ê-li-sa-bet, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng còn cưu mang một người con trai… đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Maria không còn có thể hồ nghi hay thắc mắc gì cả: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói”.
Sự vâng phục của Maria đã khởi đầu cho một thế giới mới, thế giới của ân sủng. Trẻ nhỏ được báo tin là Con Đấng Tối Cao. Người sẽ nhận lãnh ngôi báu Đa-vít, tổ phụ Người và triều đại Người sẽ vô cùng tận. Sự vĩnh cửu đã tràn vào thời gian, ngập tràn thế giới. Sự hư vô sẽ mặc lấy vĩnh cửu. Hết rồi, những ngày u tối… Ánh sáng thần linh đã đến trong ngục tối của tội lỗi. Chúng ta có thể ngẩng đầu lên và tin cậy. Hy vọng có thể nở tràn như vườn hoa muôn sắc. Mùa xuân của nhân loại đã khởi đầu. Maria, người nữ quê mùa đã trở nên cung điện của Vua Cả trời đất. Linh thiêng biết bao giây phút “xin vâng”!
Niềm vui trào dâng từ nơi môi miệng của “nữ tỳ Thiên Chúa”! Sự Cao Cả vô song đã kết hợp với sự nhỏ hèn tro bụi của trần gian. Đấng mà trời đất không thể chứa nổi đã trở nên con cái loài người.
Ôi nhiệm mầu của yêu thương!
Hãy vui mừng lên, hỡi Giê-ru-sa-lem! Vì Thiên Chúa đã đoái nhìn đến “phận hèn tớ nữ” - tớ nữ không chỉ là Maria, mà là những tâm hồn biết xin vâng. Trong tiếng xin vâng của Maria tàng ẩn tiếng xin vâng của cả nhân loại thành tâm là chúng ta, những người đã được diễm phúc nhận lấy niềm tin.
Đấng đã đến trong lòng trinh nữ Maria, hôm nay cũng sẽ đến trong mỗi người nhờ tấm bánh thần linh, bánh từ trời xuống, bánh ban sự sống đời đời. Chúng ta hãy thưa với Ngài tiếng “xin vâng” của chúng ta, để cuộc sống đầy cơ cực lo toan này, trở thành lời ca ngợi không ngừng Đấng đã thân hành đến với chúng ta, và mang ơn cứu độ cho chúng ta. Hãy vui mừng và tạ ơn vì tình thương tuyệt vời của Chúa.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng nhấn mạnh sự đối đáp tương ứng giữa Bài Đọc MV 4-B121
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng nhấn mạnh sự đối đáp tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin Mừng. Bài Đọc I đưa ra một điều khó hiểu, bản văn Tin Mừng đem đến một câu trả lời.
2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16 Bài Đọc I thuật lại chuyện vua Đa-vít có ý định xây dựng một Đền Thờ ở thành đô Giê-ru-sa-lem làm nơi đặt Hòm Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Ngôn sứ Na-than khuyên vua hoãn lại kế hoạch nầy vì chính Thiên Chúa sẽ xây cho vua một “nhà”.
Rm 16: 25-27 Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho muôn dân mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Ngài, đó là sai phái Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô, đến ở giữa loài người.
Lc 1: 26-38 Tin Mừng tường thuật biến cố Truyền Tin, trong đó “nhà” mà Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Hòm Bia thánh, Đền Thờ tuyệt mỹ vô song được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16)
Vào khoảng năm 1220-1200 trước Công Nguyên, dân Do thái vào Đất Hứa, tức xứ Ca-na-an, và sống theo từng chi tộc rải rác khắp xứ dưới thời các Thủ Lãnh hay còn gọi là Quan Án. Tuy nhiên, mối đe dọa xâm lăng thường hằng của dân Phi-li-tin đòi hỏi một cơ cấu chính trị và quân sự vững mạnh hơn cơ cấu các “Thủ Lãnh”. Chính vì hoàn cảnh đòi buộc, họ buộc phải quyết định chọn một vị vua trần thế, sau một thời gian dài ngần ngại, bởi vì chỉ có Đức Chúa là vua duy nhất của dân tộc họ.
1. Vua Đa-vít muốn xây dựng cho Thiên Chúa một nhà:
Sau khi trở thành vua của toàn thể dân Ít-ra-en, vua Đa-vít lập chiến công nầy đến chiến công khác, đoạn bắt đầu thôn tính các các cứ điểm của dân Ca-na-an kể cả thành Giê-ru-sa-lem vào năm 1000 trước Công Nguyên. Vua nghĩ đến việc thiết lập thành Giê-ru-sa-lem làm thủ đô. Ông định cư ở đó và truyền dời Hòm Bia thánh về thành đô. Thực tế, vấn đề được đặt ra là tại sao không xây dựng một nơi xứng đáng và bền vững cho thánh tích đặc biệt nầy, biểu tượng sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Ngài? Cơ hội thật thuận tiện, lãnh thổ được chinh phục này không thuộc vào bất cứ một chi tộc nào. Vì thế, việc thiết lập ở đây thành một nơi phụng tự chung cho toàn dân Ít-ra-en có thể củng cố sự hiệp nhất cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện tôn giáo.
2. Câu trả lời của ngôn sứ Na-than.
Với tư cách là vị cố vấn của vua, ngôn sứ Na-than không thấy bất kỳ trở ngại nào đối với thiện ý của vua Đa-vít, vị vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc, hơn nữa, Thiên Chúa cho thấy Ngài luôn luôn che chở bảo vệ vua. Vì thế, ngôn sứ Na-than trả lời một cách tích cực: “Các điều ngài đang dự tính, xin ngài cứ thực hiện, vì có Chúa ở với ngài”. Ở đây ông đóng vai trò của một người tôi trung của vua.
Nhưng khi ngôn sứ Na-than được Thần Khí linh hứng, mọi chuyện hoàn toàn khác. Ông đến yết kiến vua và báo cho vua biết rằng Thiên Chúa đảo lộn vai trò: chính không phải vua Đa-vít xây nhà cho Đức Chúa; nhưng hoàn toàn ngược lại, chính Đức Chúa sẽ xây “nhà” cho vua và sẽ làm cho “nhà của vua” được muôn năm bền vững. Đây là kiểu chơi chữ trên một từ với hai nghĩa:“nhà” vừa có nghĩa “nơi để ở” vừa có nghĩa “dòng tộc”, tức là “vương triều” đối với vua. Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà vị cố vấn của vua Đa-vít thực hiện chức năng của một vị ngôn sứ. Ông không nói với vua ý kiến của riêng mình, nhưng truyền đạt cho vua đúng như Lời Chúa phán với ông, cho dù Lời ấy đi ngược lại với thành tâm thiện chí của vua đi nữa.
Dù đã chuẩn bị vật liệu rồi, vua Đa-vít không tiến hành công việc xây cất. Chính con của vua là vua Sa-lô-môn, sẽ hiện thực giấc mơ của vua cha và sẽ cho xây một đền thờ nguy nga tráng lệ.
3. Tầm quan trọng của sấm ngôn.
Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than là một trong những sấm ngôn Cựu Ước quan trọng bậc nhất loan báo Đấng Mê-si-a. Quả thật, các lời hứa dần dần được vén mở. Lời hứa đầu tiên là lời loan báo mầu nhiệm về mối thù giữa dòng dõi của người nữ và tên cám dỗ (St 3: 15). Tiếp đó, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập giao ước với ông Nô-ê và các con của ông, trong số họ, ông Sêm là “người được Thiên Chúa chúc phúc” (St 9: 26). Quả thật, chính từ dòng dõi của ông Sêm mà tổ phụ Áp-ra-ham sinh ra. Với vị tổ phụ nầy, Thiên Chúa đã chọn một dân dành riêng cho Ngài giữa muôn dân tộc khác. Với tổ phụ Gia-cóp, mặc khải ghi nhận một điểm mới, chính từ chi tộc Giu-đa mà vua Mê-si-a sẽ xuất hiện: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa…cho đến khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49: 10). Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than xác định rõ hơn: “vị vua nầy sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít”.
Trong nhiều thế kỷ, mọi niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a sẽ được kết tinh ở nơi tử hệ Đa-vít này. Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa hứa ban được phác họa như một vị vua lý tưởng: trong triều đại của Ngài, nền hòa bình và công lý sẽ ngự trị. Chỉ sau khi nền quân chủ không còn nữa, dung mạo Đấng Mêsia sẽ mang lấy những sắc thái khác, đặc biệt là “Người Tôi Trung”.
Chính ở nơi sấm ngôn nầy mà sứ thần Gáp-ri-en quy chiếu đến khi loan tin cho Đức Ma-ri-a: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai…Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cũng chính ở nơi sấm ngôn nầy mà trong hoạt cảnh truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần quy chiếu đến khi gọi thánh nhân là “con cháu vua Đa-vít” (Mt 1: 20) và yêu cầu thánh nhân đón nhận Đức Ma-ri-a và Con Trẻ để qua ông mà Con Trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít. Và cũng chính ở nơi sấm ngôn ầy mà trong hoạt cảnh Đức Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, đám đông dân chúng quy chiếu đến khi tung hô Ngài là “Con vua Đa-vít” (Mt 21: 9).
BÀI ĐỌC II (Rm 16: 25-27)
Chính ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 mà thánh Phao-lô viết bức thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân dự tính đến Rô-ma, vì thế, ngài viết thư gởi các tín hữu Rô-ma nầy để chuẩn bị cuộc hành trình sắp tới của ngài. Nhưng những biến cố bất ngờ xảy đến không cho phép thánh nhân thực hiện dự định của mình. Bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào mùa xuân năm 58, đoạn bị chuyển đến giam ở Xê-da-rê, tiếp đó bị điệu đến Rô-ma. Trong khi bị giam cầm ở Rô-ma, ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Giáo Đoàn Rô-ma nầy mà ngài đã mong ước biết bao.
Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý.
1. Mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời:
Đoạn trích nầy là một bài thánh thi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí đã “mặc khải mầu nhiệm tự ngàn xưa vốn được giữ kín, nhưng nay đã được bộc lộ nhờ Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô mượn chữ “mầu nhiệm” ở nơi văn chương Do thái, đặc biệt văn chương khải huyền, cũng như sách Khôn Ngoan. Trái lại, các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ sử dụng thuật ngữ nầy một lần duy nhất, trong khi Tin Mừng Gioan thì không bao giờ.
Chữ “mầu nhiệm” nầy mang dấu ấn kinh nghiệm cá nhân của thánh nhân. Nhờ ơn thần khải trên đường Đa-mát, thánh nhân đã ngộ được ý nghĩa Kinh Thánh. Chương trình của Thiên Chúa qua các sấm ngôn mà trước đó thánh nhân đã không thể nào hiểu được thì nay được sáng tỏ. Cuộc Giáng Trần của Đức Giê-su, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã vén mở mầu nhiệm ẩn kín ngàn đời của Thiên Chúa. Trong ánh sáng nầy, việc đọc lại Kinh Thánh có sức thuyết phục đối với mọi dân mọi nước.
2. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô:
Bài thánh thi bắt đầu với lời “tôn vinh” và kết thúc với lời “chúc tụng” Thiên Chúa. Chúng ta lưu ý rằng thánh nhân chấm dứt bài thánh thi nầy với biểu thức “nhờ Đức Giê-su Ki-tô”, nghĩa là, Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất của chúng ta. Thần học Ki-tô giáo vẫn luôn luôn trung thành với viễn cảnh nầy. Phụng vụ thường kết thúc các kinh nguyện theo cùng biểu thức nầy. Sau cùng, bài thánh thi hoàn tất với lời tuyên xưng “A-men” theo cùng cung cách kinh nguyện Do thái.
Như vậy, bản văn nầy chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Giáng Sinh sâu xa hơn. Dù mầu nhiệm Cứu Độ vẫn còn ẩn kín ở nơi Hài Nhi Máng Cỏ, tuy nhiên chính ở nơi Con Trẻ nầy mà mầu nhiệm sẽ dần dần được hé lộ.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38).
Hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ thể thức song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: thời Cựu Ước và thời Tân Ước, với hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: tư tế Da-ka-ri-a ở thành đô Giê-ru-sa-lem và cô thôn nữ Ma-ri-a tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét xa xôi hẻo lánh, nhất là với hai hài nhi của họ: Gioan tẩy giả và Đức Giê-su.
1. Khung cảnh truyền tin.
Với câu mở đầu: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” làm nhịp cầu nối kết hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thuộc miền Giu-đê, được xem là thành đô của dân Do-thái, để thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả của làng quê Na-da-rét nhỏ bé và khiêm hạ thuộc miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì đôi vợ chồng tư tế tuổi đã cao, biểu tượng những truyền thống Ít-ra-en xưa và trung tín, giờ đây chúng ta gặp cô Ma-ri-a, một thiếu nữ trẻ trung, đã đính hôn với chàng Giu-se và hướng đến đời sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ka-ri-a nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiện hơn, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
2. Lời chào của sứ thần:
Sứ thần vào nhà và chào Đức Ma-ri-a: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.
“Hãy vui lên” là cách thức chào hỏi của người Hy lạp, tuy nhiên, “Hãy vui lên” cũng là lời mời gọi ngân vang niềm vui của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9) hay: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on…Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” (Xp3: 14-15). Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy, lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời cho Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ đến thời đại Mê-si-a và chuẩn bị lòng Mẹ trong tư thế sẵn sàng đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa sủng ái không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài, nhưng những suy tư thần học còn thấy ở đây nhiều đặc sủng mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội”, nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tổ tông truyền, vì Đức Giê-su nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; “ơn trọn đời đồng trinh”, nghĩa là Mẹ hoàn toàn trinh khiết sau khi sinh con, vì Con của Mẹ cũng là Con của Thiên Chúa; “ơn hồn xác lên trời”, nghĩa là sau khi chết, thân xác của Mẹ không bị hư hoại trong nấm mồ, nhưng được lên trời cả hồn lẫn xác, vì không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta, cho bằng Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với Con.
“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12) khi ông e ngại đón nhận sứ mạng giải phóng dân Ngài. Một cách tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập đi lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ trong cung lòng thanh khiết của Mẹ.
3. Sứ điệp về Đức Giê-su.
Cũng như ông Da-ca-ri-a, nghe những lời chào ấy, Đức Ma-ri-a bối rối. Vì thế, sứ thần trấn an Mẹ: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Đoạn, sứ thần xác định mặc khải của mình: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” . A. Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô):
Tên của Hài Nhi là “Giê-su”, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua Con Trẻ của Đức Ma-ri-a. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” hay “Con Thiên Chúa”. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xảy ra chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Ma-ri-a là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Thiên Chúa” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị cho mặc khải tiếp theo sau.
B. Con Thiên Chúa.
Một vấn đề Đức Ma-ri-a đã thẳng thắng nêu lên: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?” Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào tính hiệu quả của Lời Chúa, nhưng muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ kinh thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Ma-ri-a chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải của mình: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Sứ thần muốn Mẹ nhớ lại vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: “Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” ban sự sống cho vũ trụ lúc còn nguyên sơ (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình Tạo Dựng mới mà Đức Ma-ri-a được mời gọi dự phần vào.
Để Đức Ma-ri-a có thể thấu hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là diễn ngữ Kinh Thánh, như xưa kia, trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Thật ý nghĩa biết bao, cũng chính thánh Lu-ca sử dụng diễn ngữ nầy để mô tả biến cố Biến Hình: “Bổng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9: 34). Do đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ hơn mặc khải của mình:“Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng là chân tính thần linh của Hài Nhi, Con của Đức Ma-ri-a.
4. Sứ điệp về Đức Ma-ri-a.
Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự ý đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần kết thúc mặc khải của mình trong cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, khi ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà lão Sa-ra, có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).
Đây là một trong những chủ đề chạy xuyên suốt sách Tin Mừng và sách Công Vụ, cả hai đều là tác phẩm của thánh Lu-ca. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà cụ Ê-li-sa-bét hiếm muộn và tuổi đã cao, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng một cách thức như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Ma-ri-a, Mẹ của Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.
Với diễn ngữ Kinh Thánh “Phủ bóng trên bà” nhắc lại Hòm Bia Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài, Đức Ma-ri-a được vinh quang rạng ngời của Ngài bao phủ, và Thánh Thần thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ đối với Thiên Chúa. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Hài Nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.
Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ Tình Yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “tớ nữ của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện kế hoạch yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Bài Đọc I nói cho chúng ta biết vua Đa-vít muốn xây một nhà nguy nga tráng lệ để làm chỗ xứng đáng cho Hòm Bia thánh, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nhưng gặp phải sự từ chối của Thiên Chúa. Việc chối từ nầy mặc lấy ý nghĩa viên mãn của nó trong hoạt cảnh Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến ở với loài người là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần. Cung lòng của Đức Trinh Nữ là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ tuyệt mỹ vô song, là nơi cực thánh mà Thiên Chúa nhập thể chọn để sống ở giữa chúng ta.
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài MV 4-B122
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Là niềm vui cho những ai biết mở lòng đón nhận Ngài. Là hạnh phúc cho những ai thành tâm thiện chí tìm kiếm Ngài.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm. Một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không đánh mất cơ hội có thể nói ngàn năm có một. Lời thưa xin vâng lúc này là lời thưa đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa này đã vẽ lên một trang sử mới trong cuộc đời cô và lịch sử của nhân lọai cũng bước sang một trang sử mới. Thời đại công nguyên đã bắt đầu. Thời đại hồng ân mà Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng đáng tiếc là ngày Thiên Chúa đến trần gian lần thứ nhất nhiều người đã đánh mất cơ hội triều bái người. Nơi máng cỏ Belem năm xưa chỉ có Thánh Giuse, Đức Maria và các mục đồng. Những người trí thức và các thầy Lê-vi vẫn loay hoay với mớ kiến thức giáo lý của mình. Vẫn cố gắng dùng trí khôn con người để hiểu chương trình Thiên Chúa. Nhưng đường lối của Thiên Chúa vượt xa trí hiểu con người nên họ đã không thể nhận ra Con Thiên Chúa lại sinh ra trong cảnh cơ hàn.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời tới từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Ngài. Hãy quảng đại để chấp nhận Ngài. Hãy dấn thân và phục vụ Ngài nơi những anh em bất hạnh lầm than.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà còn ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.
Có một người rất đạo đức và thánh thiện. Ông ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong cuộc đời MV 4-B123 FB
Có một người rất đạo đức và thánh thiện. Ông ao ước được tiếp đón Chúa một lần trong cuộc đời. Và rồi, Thiên Chúa đã nhìn đến lòng thành của ông, Ngài đã nói cùng ông qua giấc chiêm bao: "Ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ngươi". Ông quá đỗi vui mừng. Ông đã bắt đầu một ngày mới tràn đầy niềm vui và phấn khởi. Ông chuẩn bị phòng ốc thật sạch sẽ. Ông chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn để tiếp đón Chúa. Sau đó, ông ra đến tận cổng để chờ đón Chúa. Và khi ánh bình minh ló rạng, ông hồi hộp chờ đón Chúa, nhưng không thấy Chúa, ông chỉ thấy một ông lão ăn xin, rách rưới, tả tơi. Người ăn xin đến van xin ông chút cơm bánh lót dạ, nhưng ông đã xua đuổi người ăn xin, vì ông đang chờ vị thượng khách. Và rồi, tiếp sau là một người lữ hành, lỡ bước đang cần sự trợ giúp của ông, nhưng ông vẫn từ chối. Cho đến khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi, ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu, bệnh tật đến van xin lòng tốt của ông, thế nhưng, ông vẫn từ chối giúp đỡ. Ông thất vọng, vì cả ngày chờ đợi mà không thấy Chúa đến. Ông thầm trách Chúa đã không giữ lời hứa với ông. Thế nhưng, Chúa lại nhỏ nhẹ trách ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần, nhưng đều bị ngươi khước từ".
***
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh là người đầu tiên đón Chúa đến viếng thăm. Người thiếu nữ ây tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phương thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.
Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về MV 4-B124
Câu chuyện được thánh Luca kể trong đoạn Tin Mừng này có phần giống chuyện cổ tích về chiếc đũa thần và Cô bé Lọ Lem. Cô Bé Lọ Lem Cinderella nghèo nàn xấu xí bỗng dưng trở thành nàng công chúa cực kỳ xinh đẹp chỉ bằng cái phất nhẹ chiếc đũa thần của một Bà tiên.
Chúng ta hãy đọc kỹ những mô tả của Thánh Luca về tình trạng "đã là", "đang là" và "sẽ là" của Maria:
- Tình trạng đã và đang là của Maria thì rất tầm thường: một thôn nữ sinh sống ở làng Nadarét vô danh rất ít người biết đến, (làng vô danh thì người cũng tiểu tốt); mang một cái tên khá phổ biến là Maria (chứ chẳng công tằng tôn nữ gì cả). Có sách vở ca tụng Mẹ, nên tôn tên Maria có nghĩa là công chúa. Thực ra nhiều người mang tên này lắm. (Nguyên trong Tin Mừng thôi đã có ít là 3 người phụ nữ khác cũng mang tên Maria như thế : Maria Cleopas, Maria Magdala, và Maria em Matta)
Lý lịch của nhân vật thứ nhất trong câu chuyện của Luca chỉ có thế, không như lý lịch của nhân vật thứ hai là Giuse dù sao cũng còn được ghi kèm là "thuộc dòng dõi vua Đavít".
- Nhưng tình trạng sẽ là của Maria thì khác hẳn: Maria "sẽ thụ thai sinh hạ một con trai và đặt tên là "Giêsu". Đứa con đó "sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận".
Cô thôn nữ tầm thường Maria sẽ là mẹ của Đấng Cứu Tinh thiên hạ. Chiếc đũa thần chính là quyền năng của Thiên Chúa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Mà giây phút chiếc đũa thần vung lên chính là lúc Maria thốt lên lời Fiat.
Trong Kinh Truyền Tin, chúng ta vẫn đọc "Phút ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người".
Trước tiếng Fiat, Maria là Cô Bé Lọ Lem,
sau tiếng Fiat, Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế.
Tiếng Fiat nhiệm mầu giống câu thần chú "Vừng ơi mở ra" trong “Alibaba và 40 tên cướp” vậy!
Nhưng Fiat là gì? Fiat không hẳn là "Xin vâng", vì " xin vâng" hàm ý là “Maria sẽ làm” theo ý Thiên Chúa, phần chủ động vẫn là phía con người.
Mà nếu như để con người làm thì con người có làm được gì đáng kể đâu. Bàn tay yếu ớt của Cô Bé Lọ Lem làm sao nhặt lựa cho hết mấy thúng hạt đậu trắng đen lẫn lộn (giống chuyện Tấm Cám của ta). Cô thôn nữ Maria làng Nadarét làm gì được để cứu độ cả thế giới loài người.
Đúng hơn, Fiat là "Xin Chúa cứ làm nơi tôi", chính Chúa làm chứ không phải Maria làm. Phần của Maria chỉ là để cho Chúa làm, bằng chiếc đũa thần quyền năng của Ngài. Và khi chiếc đũa thần ấy vung lên, Maria cảm nghiệm "Chúa đã làm cho tôi bao điều cao cả" (Đáp ca).
Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng Maria hoàn toàn thụ động, cứ ở yên để Chúa làm, vậy thôi.
Quả thật, phần cộng tác của Mẹ không nhỏ chút nào:
- Maria muốn một tương lai êm ả, nhưng “Chúa làm” cho tương lai ấy hoàn toàn đổi hướng với biết bao xáo trộn.
Thử tưởng tượng một thiếu nữ mang thai trước khi về nhà chồng. Biết bao rắc rối và khổ tâm đối với cha mẹ mình. Biết bao khó xử đối với gia đình, với họ nhà chồng và nhất là với người chồng sắp cưới.
- Và để “Chúa làm,” có nghĩa là mình không làm chủ đời mình nữa nhưng giao trọn dòng đời cho Chúa định hướng, miễn sao mọi sự đi đúng chương trình của Ngài.
Dù sao, Maria vẫn tin rằng Chúa sẽ hướng đời Mẹ đến chỗ tốt đẹp:
"Phận nữ tì hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Đáp ca).
Chúng ta cũng là những cô bé lọ lem. Thiên Chúa có chiếc đũa thần kỳ diệu "không có gì mà Thiên Chúa không làm được". Làm thế nào để Thiên Chúa vung chiếc đũa thần ấy lên cho đời ta được biến đổi? Chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ thưa lên lời Fiat: " Xin Chúa cứ làm nơi con"
Những ai đã đọc Tam Quốc Chí, hẳn phải biết Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang mà ai cũng mến chuộng. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say quá nên làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: “Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép và kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy mà chẳng một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ lại đánh rơi chiếc dép lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: “Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần là nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, chúng ta lại nhớ đến Đức Mẹ.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Maria sẽ là Mẹ Thiên Chúa.
Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm cung. Càng khiêm cung càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm cung thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Đũa thần sẽ vảy trên chúng ta để biến ta từ cô bé lọ lem thành công chúa Nước Trời, từ chàng trai sọ dừa thành hoàng tử thiên quốc, khi chúng ta khiêm tốn xin vâng, “xin để Chúa làm” như Maria xưa.
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, trước lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, tác giả Tin Mừng Luca MV 4-B125
Bước vào Chúa nhật thứ IV Mùa Vọng, trước lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, tác giả Tin Mừng Luca đưa chúng ta về với biến cố truyền tin diễn ra nơi khung cảnh miền quê Nagiarét. Khởi đầu câu chuyện vĩ đại đã tồn tại trong lịch sử loài người bằng câu: “Khi ấy...”. “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27). Đây không phải là câu chuyện do con người tạo ra trong trí tưởng tượng, nhưng là câu chuyện được thêu dệt bởi chính Thiên Chúa và sự cộng tác của con người xảy ra trong không gian và thời gian, đã hoàn tất cách đây 2017 năm. Bằng cung kể bình dân, dễ tiếp cận, Luca giới thiệu cho chúng ta một số nhân vật theo thời gian, không gian và chủ đề, dẫn chúng ta đến đỉnh cao của câu chuyện là điểm: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận ” (Lc 1, 31-33). Với lời loan báo trên cho chúng ta biết Noel đã gần kề.
Đức Maria, người thôn nữ khiêm hạ miền Nagiarét nghe những lời trên của Sứ Thần Gabriel đã không khỏi kinh ngạc. Maria còn đồng trinh mà nay Thiên Chúa lại muốn Maria làm mẹ, nên hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam!” (Lc 1,34). Trong sự đơn sơ, Maria không hoài nghi quyền năng của Thiên Chúa nhưng muốn hiểu ý định của Chúa hơn, hầu sống trọn ý Chúa. Băn khoăn của Maria được Sứ Thần giải thích, việc giữ mình khiết trinh với việc mang thai Đấng Cứu Thế không có gì là mâu thuẫn, lý do: “Không có việc gì mà Chúa không làm được”. Hiểu được ý Chúa, Maria đã mở lòng mình ra, sẵn sàng cộng tác vào công trình của Thiên Chúa và cất tiếng “xin vâng”. Lập tức “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Thiên Chúa trông chờ tiếng “xin vâng” từ nơi Đức Maria để thực hiện công trình của Chúa. Tiếng “xin vâng” bao hàm cả tình mẫu tử lẫn sự đồng trinh. Mẹ vừa muốn vinh quang Thiên Chúa hiện thực nơi mình vừa muốn Người Con sẽ sinh ra hoàn toàn là quà tặng ân sủng.
Câu chuyện bình dân ấy thực tế nhất đối với Thiên Chúa và nhân loại chúng ta. Chân phước Phao lô VI viết năm 1974 rằng: “Đức Maria là câu trả lời mà Thiên Chúa ban trong mầu nhiệm nhập thể làm người; đó cũng là câu hỏi mà con người tự đặt ra về Thiên Chúa và về chính mình”.
Khi thưa “xin vâng”, lời thưa của Mẹ đã thay đổi cả lịch sử nhân loại. Thánh Bernarđô kêu lên: “Ôi lạy Mẹ, Mẹ là đấng cứu chuộc chúng con. Vì khi Mẹ thưa xin vâng, lập tức chúng con được giải thoát. Toàn thể địa cầu trông đợi lời xin vâng của Mẹ. Lời ấy sinh ra Ngôi Lời Hằng Hữu. Thiên Chúa muốn nghe Mẹ tự do trả lời, Mẹ “đầy ân sủng”, khi Mẹ thưa: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền!” (Lc 1, 38). Từ ấy Mẹ hoàn toàn kết hiệp với công trình của Con Mẹ, hôm nay vai trò Trung Gian của Mẹ khởi đầu. Kể từ đó Mẹ trở nên Mẹ của tất cả những ai hiệp nhất trong Đức Kitô (Gal 3,28). Lời “xin vâng” của Mẹ là lời cứu độ.
Thánh Augustinô viết: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3, 4). Thật là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48).
Hôm nay chúng ta không thể quên khuôn mặt đặc biệt của thánh Giuse, vì cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều đã sống một cách thật mãnh liệt duy nhất thời gian chờ đợi và chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh với niềm vui thiêng thánh.
Thánh sử Luca trình bày Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria như là vị hôn thê của “một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít” (Lc 1,27). Nhờ và qua thánh nhân, Trẻ Giêsu được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavít”.
Thánh Giuse là mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19); trong sự hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, thánh Giuse tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, trong những ngày trước lễ Giáng Sinh, thật là thích hợp hơn bao giờ hết, để thiết lập một cuộc đối thoại thiêng liêng với Thánh Giuse, với Mẹ Maria, xin các ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm cao cả Ðức Tin này. Nhờ lời “xin vâng ” của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại.
Xin Mẹ giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thưa “xin vâng ” với Chúa như Mẹ để chúng ta được cứu. Amen.
Gioan cất tiếng hô vang: Bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, uốn đường Để Ngôi Hai, Chúa thiên cung Giáng trần cứu độ, yêu thương nhân loài
Thánh Gioan Tiền hô luôn gắn liền với Mùa Vọng như một “định mệnh”. Ông là người “mở đường” cho Chúa đến, là nhân vật quan trọng trong công cuộc Cứu độ của Thiên Chúa, nhưng ông lại rất khiêm nhường, không nhận mình là ngôn sứ hoặc là gì khác, chỉ tự nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:23) và “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu” (Ga 1:27).
Thánh Gioan Tiền hô là một thanh niên trẻ nhưng nhìn rất “bụi” trong trang phục áo da thú, hẳn là nhìn ông rất khắc khổ vì ông ăn chay trường: Hàng ngày chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Có thể coi Thánh Gioan Tiền hô là Mặt Trăng, còn Chúa Giêsu là Mặt Trời, nhưng không hề “đối kháng” theo ý câu “như mặt trời và mặt trăng” khi chúng ta nói về 2 người đối lập. Mặt trăng sáng nhờ mặt trời, “mặt trăng” Gioan Tiền hô sáng nhờ “mặt trời công chính” Giêsu. Chúng ta là những ngôi sao bé nhỏ trong vòm trời yêu thương nên chắc chắn cũng chỉ sáng nhờ Mặt Trời Giêsu.
Thánh Gioan Tiền hô có “nét” độc đáo và khác người, ước muốn của ông cũng chẳng giống ai: Ông muốn Chúa phải LỚN lên, còn ông phải NHỎ lại. Đó là “chất riêng” của ông, không lẫn với ai. Ông quá khiêm nhường. Có lẽ đây là điều rất khó đối với chúng ta, vì chúng ta thường muốn mình nổi trội hơn người khác, ngay cả khi chúng ta làm những việc mà chúng ta gọi là “làm việc tông đồ”, làm việc bác ái hoặc làm từ thiện. Dù không nói ra, nhưng động thái của chúng ta chứng tỏ chúng ta “ngụ ý rằng “trước khi sáng Danh Chúa thì phải sáng danh con”.
Có lần Lm. Vinh sơn Ngô Minh Tân (Gx Bình Lợi, hạt Gia Định) nói trong một thánh lễ chiều (mùa Vọng, 2011): “Chúng tôi vẫn được dạy rằng linh mục luôn phải coi chừng vì có thể chính mình che choán hết Thiên Chúa!”. Con người dễ ảo tưởng và kiêu sa lắm, dễ suy luận chủ quan theo ý mình, vì thế mà lúc nào cũng phải “tỉnh thức” và phải dám “luôn luôn lắng nghe” để có thể “luôn luôn thấu hiểu”. Cương vị nào cũng khả dĩ có cách kiêu ngạo đặc thù. Mặc dù “con người chỉ là cây sậy có lý trí” nhưng “cái TÔI đáng ghét” kia vẫn sẵn sàng trỗi dậy bất kỳ lúc nào!
Người ta nói: “A-xít làm cháy tiền, tiền làm cháy tim phụ nữ, phụ nữ làm cháy tim đàn ông”. Một cách nói “độc đáo” thật. Còn Thánh Phaolô nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Tiền bạc có hệ lụy với quyền lợi, quyền lợi có hệ lụy với con người, vì thế mà tiền bạc có ma lực khiến người ta mê muội và kiêu ngạo. Có lẽ vì vậy mà người Pháp có câu: “Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu” (L’argent est un servant bon, mais un maitre mal).
Thánh Gioan Tiền hô là người có cuộc sống thoát ly tiền bạc, vật chất. Tài sản của ông chỉ có bộ áo da thú khoác trên mình. Ông sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, không lệ thuộc vật chất. Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20).
Con người có nhiều thứ giằng co trong mình, đôi khi cảm thấy mình như bất lực với chính mình. Chua biết rõ mười mươi, vì thế Ngài đã động viên: “Đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa” (Ga 14:1), và Ngài còn hứa rõ ràng và quyết liệt: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Đấng Thiên Sai, xin cho chúng con can đảm noi gương sống của Thánh Gioan Tiền hô. Xin Ngôi Hai mau đến cứu chúng con thoát khỏi ngục-tù-tội-lỗi. Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Kitô. Amen.
Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời.…”. Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội MV 4-B127
“Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi…”. Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, nay được biểu lộ (x. Rm 16,25-26): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.
Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thuỷ chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.
Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người (x.2Tm 2,12-13). Có khi, có thời, Người dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng người lại kéo ta lên, ủi an, vổ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, lòng Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương (x.Gr 31,16-20).
Lời hứa ban ơn cứu độ từ thưở tổ tiên loài người phản bội đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33).
Thiên Chúa không hề bỏ ta: một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quảng thời gian an bình, hạnh phúc thật vắn vỏi so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ (x. Tv 90,10). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.
Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? (Rm 7,19-24).
Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta.” (Rm 5,5-6).
Không một ai là không có thể được cứu thoát: Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Lc 1,37; Mt 19,26). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi (x. 1Tm 2,3-4). Dù chỉ một con đi thất lạc, Chúa cũng bỏ chính mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta?
Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 13,32).
Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình.”(x.2Tm 2,12-13). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoản sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này!
Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng bất cứ cách nào Ngài muốn, theo sự khôn ngoan thượng MV 4-B128
Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng bất cứ cách nào Ngài muốn, theo sự khôn ngoan thượng trí của Ngài. Nhưng trong công cuộc cứu độ này, Ngài không muốn hành động một mình mà muốn có sự cộng tác của con người. Chính vì vậy mà Ngài đã sai sứ thần Gabriel đến hỏi ý kiến Đức Maria trong việc làm Mẹ Đấng Cứu thế. Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài không áp đặt mà chỉ đề nghị. Ngài muốn sự đáp trả sáng suốt và tự nguyện của con người. Sau khi Đức Maria đã thưa Xin Vâng, Ngôi Hai Thiên Chúa lập tức đầu thai trong lòng Trinh nữ Maria và Maria đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria để trở nên dụng cụ cho Thiên Chúa. Ngày xưa Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, ngày nay Chúa vẫn còn muốn nhập thể nơi chúng ta, vì vậy chúng ta phải trở nên dụng cụ ngoan ngoãn để Chúa nhập thể nơi ta, để ban ân sủng cho ta và ta sẽ đem ban phát cho nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2 Sm 7,1.8b-11-16.
Sau khi chiến thắng được mọi quân thù, chiếm lĩnh được thành Giêrusalem, yên vị trong hoàng cung rồi, vua Đavít nhờ tiên tri Nathan thỉnh ý Chúa về việc xây cho Chúa một ngôi nhà để làm nơi cho “Khám Giao ước” trú ngụ.
Thiên Chúa đã nhờ Nathan thông báo cho Đavít biết là Ngài không cần ở trong những ngôi nhà vật chất cho dù sang trọng và vững chắc bao nhiêu đi nữa. Đáp lại tấm lòng thơm thảo của vua, Thiên Chúa muốn xây cho ông một ngôi nhà, nghĩa là sẽ làm cho triều đại ông bền vững và vinh quang muôn đời.
+ Bài đọc 2: Rm 16,25-27.
Đây là đoạn thư cuối cùng gửi cho tín hữu Rôma, trong đó thánh Phaolô dâng lời ca tụng Thiên Chúa về ơn cứu độ và nhất là đã mạc khải mầu nhiệm này, đã được giấu kín từ đời đời mà nay đã nhờ Đức Giêsu mà tỏ bầy cho muôn dân.
Thánh Phaolô còn ca tụng Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí đã sắp đặt để muôn dân được hưởng ơn cứu độ:”Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Kitô”.
+ Bài Tin mừng: Lc 1,26-38.
Thiên Chúa có thể hành động bằng mọi cách để đạt tới mục đích. Trong việc Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã muốn cho con người cộng tác: Ngài đã chọn Đức Maria để đầu thai Con Một Thiên Chúa. Tuy Thiên Chúa là Đấng vô cùng thượng trí, có thể làm mọi sự theo ý của mình, nhưng thay vì đặt Đức Maria trước một quyết định độc đoán, Chúa đã gợi cho Mẹ biết trước điều Ngài đang chờ đợi nơi Mẹ.
Qua cuộc đối thoại diễn ra giữa Đức Maria và sứ thần thiên quốc, chúng ta được biết Đức Maria đã hoàn toàn hiến thân để thi hành thánh ý Chúa. Mặc dù đã trông thấy trước những khó khăn trong việc thực hiện này, nhưng Đức Maria đã dấn thân và tự nguyện chấp nhận đề nghị này trong tiếng “Xin Vâng”. Qua tiếng Xin Vâng này, Ngôi Hai đã nhập thể trong lòng Đức Maria và chờ ngày giáng sinh.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xin vâng theo thánh ý Chúa.
I. ĐỨC MARIA ĐƯỢC THIÊN CHÚA CHỌN.
1. Con người Đức Maria.
Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và vĩ đại, nhiều khi đã dùng những phương tiện nhỏ bé, yếu đuối, hèn mọn mà làm những việc vĩ đại. Công cuộc cứu chuộc loài người là một công cuộc hết sức lớn lao mà Thiên Chúa đã dùng một phương tiện nhỏ bé thấp hèn để thực hiện, đó là Trinh Nữ Maria.
Đây là một Trinh nữ khiêm tốn, bình dân, sống trong một làng nghèo nàn xứ Galilêa gọi là Nazareth với khoảng 20 nóc nhà và 150 nhân danh. Xét theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét theo tài năng, thông minh, học vấn, sắc đẹp, địa vị xã hội... chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria nhiều. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, Maria là người “đầy ơn phúc”, được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu thế để cộng tác với Ngài trong công cuộc lớn lao vô tiền khoáng hậu này.
Thiên Chúa chọn Maria không vì lý do nào khác ngoài ý muốn riêng và theo sự tự do của Ngài (x.Rm 9,12) và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, trong khi có những người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Saul (x.1Sm 9,17 ; 13, 13,40), hay tông đồ Giuđa (Mt 26,47-50)
2. Đức Maria được hỏi ý kiến.
Thánh Augustinô viết:”Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta”. Thiên Chúa chủ động về phía Ngài, nhưng khi cứu độ, Ngài cần đến sự cộng tác của ta. Trong công cuộc cứu độ này, Thiên Chúa muốn Maria cộng tác. Đó là lời mời gọi mà sứ thần đã trao gửi nơi Maria theo chương trình của Thiên Chúa, Mẹ phải tạo điều kiện cho Ngài làm người trong thân phận của Con Ngài.
Ngài không áp đặt điều gì: Ngài chỉ đề nghị. Chính vì thế, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabriel đến hỏi ý kiến Maria về việc làm Mẹ Chúa Cứu thế mà vẫn còn đồng trinh: “Maria sẽ thụ thai một con trai và đặt tên là Giêsu”. Đứa con đó “sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu vua Đavít, tôi tớ Người. Ngài sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
Maria thấy mình tầm thường mà được Thiên Chúa ban cho vinh dự ấy, làm Mẹ Con Thiên Chúa mà vẫn còn đồng trinh. Làm Mẹ mà vẫn còn đồng trinh! Điều ấy làm cho Maria thắc mắc. Nhưng sứ thần đã trấn an Maria:”Không có điều gì mà Thiên Chúa không làm được”. Tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, Maria đã khiêm tốn thưa với sứ thần:”Này tôi là tôi tá Chúa, xin vâng như lời thiên thần truyền”. Maria đã đáp trả bằng lời mời gọi của Thiên Chúa một cách quyết đáp và khiêm tốn. Sau tiếng “Xin Vâng” này, Maria đã trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế.
II. TIẾNG XIN VÂNG CỦA CHÚNG TA.
1. Xin Vâng nơi Mẹ và nơi ta.
Từ khi thưa “Xin Vâng”, Đức Maria đã hoàn toàn tận hiến đời mình để thực hiện thánh ý Chúa. Nơi Đức Maria cũng như nơi chúng ta, một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Chúa, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Thiên Chúa. Đó chính là tinh thần tự hủy (kenosis)mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.
Theo gương Đức Maria, khi được Thiên Chúa chọn, ta hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài. Nếu Thiên Chúa chọn ta là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo thánh ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là công cụ của Ngài dùng mà thôi.
Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người xử dụng. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người xử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có khi gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của mình.
Người được chọn thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi – phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ.
Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn:”Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi ; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính ; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang”(Rm 8,30)…
Cách thức “làm cho nên công chính “ của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ:
”Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn”(Dt 2,10),
“Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ”(1Tm 3,10),
“Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội”(1Pr 1,7).
Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao:”Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta”(Rm 8,18).
2. Chúa mời gọi ta cộng tác với Ngài.
Thiên Chúa không chỉ thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài nơi chúng ta và cho chúng ta, mà còn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài, tham gia vào việc thực hiện kế hoạch yêu thương và cứu độ của Ngài, nơi chúng ta và nơi những người có liên hệ với chúng ta nữa. Đó chính là niềm vinh hạnh và cũng là trách nhiệm nặng nề nơi chúng ta. Vậy mỗi lần chúng ta làm bất cứ việc gì đó để kế hoạch yêu thương và cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi tâm hồn và cuộc sống của mình là chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Cũng thế, mỗi lần chúng ta làm một việc gì đó giúp người khác hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa hoặc giúp người khác yêu thương phục vụ tha nhân là chúng ta cộng tác với Ngài trong việc thực hiện kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài. Công việc ấy thật bề bộn và cấp bách ; vì một đàng chung quanh chúng ta còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa đón nhận Tin Mừng, chưa đón nhận bí tích Thánh tẩy ; đàng khác, nơi những người đã biết và đón nhận Chúa cũng còn rất nhiều người chưa hiểu biết cho sâu sắc, chưa biết sống gắn bó mật thiết với Chúa. Đó là cánh đồng truyền giáo mênh mông đang chờ đợi chúng ta.
Ngày nay Chúa vẫn còn muốn đầu thai trong lòng Đức Maria và chúng ta. Dĩ nhiên Ngài không còn đầu thai nữa như xưa ở trong lòng trinh nữ Maria, nhưng Ngài vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua Bí tích Thánh Thể đã làm cho chúng ta trở nên cao qúi trong việc cộng tác với Ngài.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp, Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến những biến cố xẩy ra hằng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho nước Ngài được lan rộng ; và như vậy, Thiên Chúa lại nhập thể ở giữa chúng ta.
3. Hãy trở nên dụng cụ của Chúa.
Khi nói đến dụng cụ là nói đến một đồ vật để con người xử dụng theo ý mình. Dụng cụ chỉ biết phục tùng theo ý muốn người xử dụng. Không bao giờ dụng cụ có thể nói với người xử dụng tại sao lại dùng vào việc nọ việc kia, mà chỉ biết hoàn toàn vâng theo người xử dụng, có khi người xử dụng phế thải cả dụng cụ, thì chính dụng cụ ấy cũng không có quyền phản đối.
Chúng ta là dụng cụ của Chúa, một thứ dụng cụ bất toàn hoặc vô dụng, cũng như người đầy tớ nghèo hèn (x. Lc 17,7-10) không thể tự mình làm được việc gì như Chúa phán:”Sine me nihil potestis facere”: Không có Thầy các con không thể làm gì được, nhưng sẽ trở nên hữu dụng dưới bàn tay khôn khéo của Chúa.
Chúng ta cũng có thể tìm được hình ảnh này ngay trong văn chương bình dân của nước ta, trong ca dao tục ngữ, một hình ảnh rất quen thuộc đối với người dân quê:
Ai làm cho cải tôi ngồng, Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê. Chồng chê thì mặc chồng chê, Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ. (Ca dao)
Ở miền quê, ai mà không biết ăn dưa cải chua? Đây là món ăn quen thuộc trong bữa ăn của người bình dân, một món ăn hợp với khẩu vị, nhất là khi ăn với thịt mỡ. Món dưa cải chua ngon là phải có màu vàng, dòn và thơm. Nhưng một khi dưa bị “khú” thì không ăn được nữa. Dưa khú có màu đen xám, không chua và nhạt, đôi khi có hương vị ung ủng. Người ta không ăn dưa khú, chỉ còn cách bỏ đi. Tuy thế, người dân quê lại biết biến “dưa khú” đó thành một món ăn khác, ăn vào vẫn ngon miệng, đó là nấu với cá trê. Vì thế, người ta mới mách bảo kinh nghiệm cho người khác trong việc nấu ăn:”dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ”.
Chúng ta hãy trở nên dụng cụ ngoan ngoãn của Chúa để lúc nào cũng chỉ biết “Xin Vâng”. Theo gương Mẹ Maria, trước khi nói lời Xin Vâng, Mẹ đã trải qua một hành trình đức tin. Xin Vâng không có nghĩa là thấy rõ con đường trước mặt mà Chúa muốn mình đi. Xin Vâng là mềm mại, buông mình cho Thiên Chúa dẫn đi, yên tâm không phải mình làm chủ tương lai, nhưng vì tương lai của mình nằm trong tay Chúa. Xin Vâng không phải vì mọi sự đều sáng sủa và trơn tru, nhưng Xin Vâng ngay giữa đêm tối gập ghềnh, là chấp nhận để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ.
Truyện: Thánh Gioan Vianney.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không có đủ khả năng để tiến tới chức Linh mục. Ngày kia, thừa lệnh Giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học, đã đến khảo sát Vianney, tội nghiệp Vianney đã không thưa được câu nào. Không giữ được bình tĩnh, vị giáo sư đã đập bàn quát lớn:
- Vianney, anh dốt như lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội sẽ làm được gì?
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:
- Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng có một cái hàm của một con lừa, để đánh bại được ba ngàn quân Philitinh, vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được gì sao (Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr 42).
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Thiên Chúa tự do chọn lựa mỗi người vào chương trình của Ngài. Ngài chọn chúng ta không vì tài năng, đức độ của chúng ta, Ngài quyền năng đến độ có thể biến đổi những con người hèn mọn thành những bậc siêu phàm. Điều quan trọng là chính sự đáp trả quảng đại của chúng ta đối với chương trình của Ngài. Thiên Chúa luôn làm được phép lạ, nếu con người biết cộng tác với Ngài, ngay cả bằng với sự dốt nát, ngu dại của mình.
Ngày xưa Thiên Chúa đã nhập thể nơi cung lòng Trinh nữ Maria, ngày nay Thiên Chúa vẫn còn muốn nhập thể nơi chúng ta, hãy trở nên dụng cụ ngoan ngoãn cho Chúa nhập thể. Ngài dùng Lời Thánh kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người sống như Chúa: và như vậy, Ngài đang muốn nhập thể để tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xẩy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn.
Điều cần hơn hết là chúng ta phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thế với Ngài. Ta hãy sẵn sàng đem tinh thần Phúc âm vào thế giới để đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa, này con đây, với tất cả những yếu hèn, khiếm khuyết của con, nhưng con tin rằng trong bàn tay nhào nặn của Chúa, tất cả đều có giá trị. Xin cho con luôn biết cởi mở đón nhận ơn Chúa, và phó thác cho chương trình của Chúa, như Mẹ Maria đã thưa lời “Xin Vâng”, đáp trả lại tình yêu của Chúa và phó thác hoàn toàn cho chương trình của Ngài. Amen.
Đức Maria hỏi "Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...". Thiên sứ đáp "Đối với Thiên Chúa, không MV 4-B129
1. Đức Maria hỏi "Việc ấy xảy ra cách nào được, vì...". Thiên sứ đáp "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2. Mặc dù " Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được", nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Maria hợp tác. Và Đức Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: "Xin cứ làm cho tôi...".
3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con. - Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)
4. " Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: Mừng vui lên hỡi đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng cô. Nghe lời chào ấy, Maria rất bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì" (Lc 1,28-29)
Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.
Lạy Chúa. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata).
Nếu cần phải chuẩn bị một món quà để trao ban cho người mà mình thương mến hay tặng cho MV 4-B130
Nếu cần phải chuẩn bị một món quà để trao ban cho người mà mình thương mến hay tặng cho một vị khách đặc biệt nào đó, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng sẽ phải cân nhắc, suy tính, lựa chọn để có quyết định nên trao tặng món quà mà thực sự có ý nghĩa và giá trị, không những thế món quà này còn phải làm cho người nhận cảm thấy vui, hạnh phúc và được trân quý. Thiên Chúa hôm nay cũng đang trao tặng cho nhân loại một món quà vô giá, Ngài đang mong muốn mỗi một người chúng ta đều có thể đón nhận được quà tặng này, nên Ngài đã và đang chuẩn bị một cách chu đáo. Thật vậy, trước cung cách, hành động trao ban của Thiên Chúa, chúng ta chỉ biết tri ân cảm tạ, hân hoan vui sướng và khiêm tốn mở lòng để đón nhận.
Tin mừng theo Thánh Luca hôm nay đã diễn tả và minh chứng cho chúng ta biết cách thức chuẩn bị quà tặng có một không hai của Thiên Chúa; đồng thời, Lời Chúa cũng soi sáng và mời gọi chúng ta hãy noi theo mẫu gương, cung cách đón nhận quà tặng của Mẹ Maria. Vì qua thái độ, hành động đón nhận tuyệt vời này, chính Mẹ cũng sẽ là Người trao ban quà tặng cao quý này cho chúng ta.
Cách thức chuẩn bị quà tặng của Chúa: Ngài đã sai Thiên thần đến để truyền tin, báo cho Maria biết rằng, Mẹ là người đã được Thiên Chúa sủng ái, tuyển chọn để cho Con Thiên Chúa được mặc lấy xác phàm, được giáng sinh để yêu thương và cứu độ nhân loại. “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ.” Maria là Người tuyệt hảo mà Thiên Chúa chọn, là Đấng đầy tràn ơn phước, không phải chỉ từ giây phút truyền tin này, nhưng ngay từ ban đầu, khi được làm người, Maria đã được Chúa thánh hiến, ban ơn chúc phúc với cách thức đặc biệt, không một vết nhơ và tỳ ố. Sự tuyển chọn và chuẩn bị này của Thiên Chúa quả là cả một hành trình trong công cuộc thực hiện lời hứa ban ơn cứu độ. Đứng trước ơn ban cao quý đó, Maria đã làm gì?
Thật tuyệt vời, với mẫu gương, cung cách đón nhận quà tặng của Mẹ Maria: Khi Thiên thần thưa với Mẹ “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu.” Đức Maria với bản tính con người, Mẹ cũng “bối rối” trước sự chuẩn bị của Thiên Chúa khi muốn ban tặng ơn cao quý riêng này cho Mẹ; hay đúng hơn Maria đã băn khoăn vì biết sức của bản thân mình, tôi không thể làm được. “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?” Maria đã ý thức được về chính con người cũng như hoàn cảnh thực tại của mình, vì mình là người nữ đã đính hôn với Giuse; không những thế Mẹ biết rằng cùng với việc chấp nhận, biết bao nhiêu hệ lụy, khó khăn và thử thách khi Mẹ sẽ mang thai và hạ sinh Chúa Giêsu. Do đó, chúng ta mới thấy được điều cao đẹp, trân quý nơi cung cách mà Mẹ đón nhận quà tặng ơn phúc này từ Chúa.
Đứng trước sự chuẩn bị và can thiệp này của Thiên Chúa, nếu là chúng ta, thì chuyện gì sẽ xảy ra: tôi sẽ rất hoang mang, lo sợ, tôi phải điều tra, tìm hiểu cho thật kỹ càng về lý do và nguyên nhân? hay là tôi nên rút lui, thoái thác khi thấy khó khăn và thử thách này ngoài sức của tôi? Thưa ACE, dẫu có băn khoăn, dẫu biết được giới hạn của sức mình là không thể, nhưng sau khi được Thiên sứ giải thích: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa… vì không có việc gì mà Chúa không làm được.” Maria đã khiêm tốn đón nhận món quà mà Thiên Chúa ký gởi, trao tặng với lòng tin, hơn thế nữa, Mẹ đã chấp nhận nhận ơn gọi, sứ vụ này trong ân sủng mà Thiên Chúa đã thương ủy thác cho mình nên Mẹ đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Đây thực sự là một cung cách đón nhận với lòng tin tưởng tuyệt đối, một thái độ khiêm tốn và vâng phục theo ý Chúa, vì Mẹ đã tin rằng, một khi việc Chúa muốn làm, thì mọi sự đều là tốt lành và ơn thánh.
Tiếng xin vâng của Mẹ Maria cũng chính là lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy noi gương Mẹ để đáp trả và sống xứng hợp hơn với ơn thánh mà Chúa đang chuẩn bị để trao ban cho chúng ta. Nhưng thưa ACE, khi chúng ta thưa xin vâng và sống theo ý Chúa như Mẹ, liệu chúng ta có bị đánh mất đi sự tự do hay chúng ta có đủ sức để thực hiện chăng, vì chúng ta chỉ là những con người yếu đuối, tội lỗi chứ không phải tinh tuyền, tràn đầy phúc đức như Maria. Chúa luôn tôn trọng sự tự do của mỗi người, trước quà tặng ơn ban cao quý này của Chúa, chúng ta sẽ đáp trả ra sao để chúng ta được trở nên người được Chúa chúc phúc là tùy thuộc vào cung cách đáp trả, thái độ đón nhận của chúng ta.
Xin Mẹ Maria cầu cùng Chúa giúp chúng con luôn biết khôn ngoan, khiêm tốn, trong việc lựa chọn và quyết định để hoàn toàn xin vâng như Mẹ, hầu đón nhận được quà tặng ơn phúc của Chúa. Amen.
Mỗi khi Giáng Sinh về, từng giáo xứ, nhà nhà bắt đầu dành thời giờ làm hang đá. Dù hang đá MV 4-B131
Mỗi khi Giáng Sinh về, từng giáo xứ, nhà nhà bắt đầu dành thời giờ làm hang đá. Dù hang đá có hoành tráng hay đơn sơ, có lấp lánh ánh đèn bừng sáng hay chỉ lung linh huyền ảo, có to lớn hay nhỏ bé đi chăng nữa, thì không thể thiếu bộ tượng Thánh Gia Thất: Chúa Giê-su Hài Đồng nằm giang tay, Mẹ Maria và Thánh Cả Giu-se cung kính bái quỳ bên Con Chúa. Ngoài ra, đâu đó nơi hang đá có một dòng chữ “Em-ma-nu-el - Thiên Chúa ở cùng chúng ta” nữa!
Chắc hẳn, trong mỗi chúng ta đều nghe đến và hiểu dòng chữ này, đặc biệt khi chờ trông, dọn lòng đón Chúa Hài Nhi giáng trần cứu chuộc nhân loại. Danh xưng “Em-ma-nu-el - Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không những xuất hiện trong Tân Ước mà đã được nhắc tới trong Cựu Ước khi nói đến một vị Thiên Chúa có tính nhân vị, hằng hữu và luôn ở cùng với Dân của Ngài. Tuy nhiên, danh xưng này được cảm nhận rõ rệt, cụ thể qua Con Một Thiên Chúa được sinh hạ bởi một người phụ nữ vẹn tuyền khiết trinh Ma-ri-a tại Bê-lem, quê hương Vua Đa-vít mà đã được tiên tri loan báo từ lâu “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-el” (Is 7, 14). Và lời tiên tri phán xưa đã được ứng nghiệm hầu hoàn tất Lời Chúa và chương trình Cứu độ của Ngài “…người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1, 22-23)
Nói như Thánh Phao-lô Tông Đồ, Thiên Chúa là người nhất quán, tín trung, thực hiện lời hứa cứu độ của Ngài. Thiên Chúa sống đúng với danh xưng “Em-ma-nu-en - Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ngài chẳng bao giờ bỏ quên chúng ta; Ngài chẳng loại chúng ta ra khỏi ý định cứu độ của Ngài; và như lời xác tín gửi cho giáo đoàn Rô-ma “…theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày…” (x. Rm 16, 25-26)
Thật vậy, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” trong mọi biến cố cuộc đời: vui mừng hay buồn tủi, thành công hay thất bại, tín thác hay nghi ngờ, thịnh vượng hay suy vong, hạnh phúc hay bất hạnh, mở lòng đón nhận hay khép kín cô độc, lúc mạnh khoẻ hay bệnh tật, khi thuận lợi hay bất lợi, những lúc được hẫu thuận hay bị chống đối…Về phần chúng ta, dường như chúng ta chưa cảm nhận sâu xa về điều này; hoặc vì nhiều nỗi lo toan cuộc sống, bôn ba công việc, kiếm kế sinh nhai, lo hoà nhập vào xã hội, hay đang đi tìm chỗ đứng trong xã hội, mà làm cho đôi mắt đức tin chúng ta trở nên mờ căm trước sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta!
Trong tinh thần Mùa Vọng - dịp thuận lơi, khoảnh khắc vô giá cho mỗi người chúng ta nhìn lại bản thân, hết lòng ăn năn, sám hối, dọn lòng đón mừng Chúa Hài Đồng sinh lại nơi tâm hồn, nơi gia đình, nơi cộng đoàn, giáo xứ, xã hội và cả thế giới đầy những sự bất an này. Hơn nữa, đây cũng là thời cơ vắn vỏi cho mỗi người chúng ta đến với Chúa, sống cùng với Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con người chúng ta thường chỉ nhận ra sự cần thiết của việc chạy đến với Chúa mỗi khi gặp khó khăn, gian nan, hay gặp những nỗi buồn chán, mà quên trở về bên Chúa nép vào lòng Ngài những lúc vui tươi, thành công hay hạnh phúc! Chúng ta không quên noi theo gương Mẹ Ma-ri-a sẵn sàng đáp lời “xin vâng” với Chúa, ngay cả thời khắc sợ hãi, hay đứng trước nguy cơ rủi ro, khi chưa hiểu thấu chương trình và ý định của Ngài, “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (x. Lc 1, 38)
Hơn nữa, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và Ngài cũng ở cùng với anh chị em chúng ta nữa. Vì thế, mỗi khi chúng ta sống trong sự hiện diện của Chúa, sống kết hiệp với Chúa mọi giây phút, thì chúng ta cũng được mời gọi sống với anh chị em trong gia đình, lối xóm, cộng đoàn giáo xứ nữa. Thiết nghĩ, chẳng ai sống kết hợp với Chúa mọi lúc mà lại xa lánh tha nhân, anh chị em mình mà chính nơi họ “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” đang hiện diện cả! Hình ảnh “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” được bộc lộ cụ thể, rõ nét nơi mọi hành vi, lời nói, cử chỉ, tư tưởng của chúng ta; đặc biệt, trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta chọn cho mình một quyết tâm mà bấy lâu nay chúng ta chưa thực hiện được. Có thể chúng ta chọn tha thứ cho ai đó vì Giáng Sinh là mùa để thứ tha; hoặc chúng ta làm hoà với một ai đó vì Giáng Sinh là thời gian để giao hoà; và trên hết Giáng Sinh là Mùa hồng ân, nơi đó “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” tỏ hiện nơi xác phàm, ngõ hầu cứu độ chúng ta.
Giờ đây, chúng ta cùng lắng đọng ít phút trước Chúa Tình Yêu và thầm thỉ nguyện rằng:
Em-ma-nu-el, Thiên Chúa ở cùng chúng ta Xin thương ân ban luôn được bên Chúa Em-ma-nu-el, Thiên Chúa ở cùng chúng ta Ra đi chia san, phó dâng trọn đời. Amen!
Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm B
- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho thấy sự tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin MV 4-B132
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng cho thấy sự tương ứng giữa Bài Đọc I và bản văn Tin Mừng. Bài Đọc I đưa ra một điều khó hiểu, bản văn Tin Mừng đem đến một câu trả lời.
2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16 Bài Đọc I thuật lại chuyện vua Đa-vít có ý định xây “nhà” cho Thiên Chúa tại thành đô Giê-ru-sa-lem làm nơi đặt Hòm Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Ngôn sứ Na-than khuyên vua hoãn lại kế hoạch nầy vì chính Thiên Chúa sẽ xây “nhà” cho vua.
Rm 16: 25-27 Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho muôn dân mầu nhiệm ẩn kín từ ngàn xưa của Ngài, đó là sai phái Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô, đến ở giữa loài người.
Lc 1: 26-38 Tin Mừng tường thuật biến cố Truyền Tin, trong đó “nhà” mà Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ là Hòm Bia thánh, Đền Thờ tuyệt mỹ vô song được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (2Sm 7: 1-5, 8-12, 14, 16)
Vào khoảng năm 1220-1200 trước Công Nguyên, dân Do thái vào Đất Hứa, tức xứ Ca-na-an, và sống theo từng chi tộc rải rác khắp xứ dưới thời các Thủ Lãnh. Tuy nhiên, mối đe dọa xâm lăng thường hằng của dân Phi-li-tin đòi hỏi một cơ cấu chính trị và quân sự vững mạnh hơn cơ cấu các “Thủ Lãnh”. Chính vì hoàn cảnh, họ buộc phải quyết định chọn một vị vua trần thế, sau một thời gian dài ngần ngại, bởi vì chỉ có Đức Chúa là Vua duy nhất của dân tộc họ.
1.Vua Đa-vít muốn xây nhà cho Thiên Chúa:
Khi đã trở thành vua của toàn thể dân Ít-ra-en, vua Đa-vít lập chiến công nầy đến chiến công khác, đoạn bắt đầu thôn tính các các cứ điểm của dân Ca-na-an kể cả thành Giê-ru-sa-lem vào năm 1000 trước Công Nguyên. Vua nghĩ đến việc thiết lập thành Giê-ru-sa-lem làm thủ đô. Ông định cư ở đó và truyền dời Hòm Bia thánh về thành đô. Vấn đề được đặt ra là tại sao không xây dựng một nơi xứng đáng và bền vững cho thánh tích đặc biệt nầy, biểu tượng sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Ngài? Cơ hội thật thuận tiện, thành Giê-ru-sa-lem được chinh phục này không thuộc vào bất cứ một chi tộc nào. Vì thế, việc thiết lập ở đây một nơi phụng tự chung cho toàn dân Ít-ra-en có thể củng cố sự hiệp nhất cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện tôn giáo.
2.Câu trả lời của ngôn sứ Na-than.
Với tư cách là vị cố vấn của vua, ngôn sứ Na-than không thấy bất kỳ trở ngại nào đối với thiện ý của vua Đa-vít, vị vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc, hơn nữa, Thiên Chúa cho thấy Ngài luôn luôn che chở bảo vệ vua. Vì thế, ngôn sứ Na-than trả lời một cách tích cực: “Các điều ngài đang dự tính, xin ngài cứ thực hiện, vì có Chúa ở với ngài”. Ở đây, ông đóng vai trò người tôi trung của vua.
Nhưng khi ngôn sứ Na-than được Thần Khí linh hứng, mọi chuyện hoàn toàn khác. Ông đến yết kiến vua và báo cho vua biết rằng không phải vua Đa-vít xây nhà cho Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ xây “nhà” cho vua và sẽ làm cho “nhà của vua” được muôn năm bền vững. Đây là kiểu chơi chữ trên một từ hai nghĩa:“nhà” vừa có nghĩa “nơi để ở” vừa có nghĩa “dòng tộc”, tức là “vương triều” đối với vua. Ở đây, ông Na-than thực hiện chức năng ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông không nói với vua ý kiến của riêng mình, nhưng truyền đạt cho vua đúng như Lời Thiên Chúa phán với ông, dù lời ấy đi ngược với ý muốn của vua đi nữa.
Dù đã chuẩn bị vật liệu rồi, vua Đa-vít không tiến hành công việc xây cất. Chính con của vua là vua Sa-lô-môn, sẽ hiện thực giấc mơ của vua cha và sẽ cho xây một đền thờ nguy nga tráng lệ.
3.Tầm quan trọng của sấm ngôn.
Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than là một trong những sấm ngôn Cựu Ước quan trọng bậc nhất loan báo Đấng Mê-si-a. Quả thật, các lời hứa dần dần được vén mở. Lời hứa đầu tiên là lời loan báo về mối thù giữa dòng dõi của người nữ và tên cám dỗ (St 3: 15). Tiếp đó, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa lập giao ước với ông Nô-ê và các con của ông, trong số họ, ông Sêm là “người được Thiên Chúa chúc phúc” (St 9: 26). Quả thật, chính từ dòng dõi của ông Sêm mà tổ phụ Áp-ra-ham sinh ra. Với vị tổ phụ nầy, Thiên Chúa đã chọn một dân dành riêng cho Ngài giữa muôn dân tộc khác. Với tổ phụ Gia-cóp, mặc khải ghi nhận một điểm mới, chính từ chi tộc Giu-đa mà vua Mê-si-a sẽ xuất hiện:
“Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho đến khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49: 10). Sấm ngôn của ngôn sứ Na-than xác định rõ hơn: “vị vua nầy sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít”. Trong nhiều thế kỷ, mọi niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a sẽ được kết tinh ở nơi hậu duệ vua Đa-vít này. Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa hứa ban được phác họa như một vị vua lý tưởng: trong triều đại của Ngài, nền hòa bình và công lý sẽ ngự trị. Chỉ sau khi nền quân chủ không còn nữa, Đấng Mê-si-a sẽ mang lấy những dung mạo khác, đặc biệt là “Người Tôi Trung”.
Chính ở nơi sấm ngôn của ngôn sứ Na-than nầy mà sứ thần Gáp-ri-en quy chiếu đến khi loan tin cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a: “Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai… Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cũng chính ở nơi sấm ngôn nầy mà trong hoạt cảnh truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần quy chiếu đến khi gọi thánh nhân là “con cháu vua Đa-vít” (Mt 1: 20) và yêu cầu thánh nhân đón nhận Đức Ma-ri-a và Con Trẻ để qua ông mà Con Trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít. Và cũng chính ở nơi sấm ngôn ầy mà trong hoạt cảnh Đức Giê-su tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, đám đông dân chúng tung hô Ngài là “Con vua Đa-vít” (Mt 21: 9).
BÀI ĐỌC II (Rm 16: 25-27)
Chính ở Cô-rin-tô vào mùa đông năm 57-58 mà thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân dự tính đến Rô-ma, vì thế, ngài viết thư gởi các tín hữu Rô-ma nầy để chuẩn bị cho cuộc hành trình sắp tới của ngài. Nhưng những biến cố bất ngờ xảy đến không cho phép thánh nhân thực hiện dự định của mình. Bị bắt ở Giê-ru-sa-lem vào mùa xuân năm 58, đoạn bị chuyển đến giam ở Xê-da-rê, tiếp đó bị áp giải đến Rô-ma. Trong khi bị giam cầm ở Rô-ma, ngài sẽ có dịp tiếp xúc với Giáo Đoàn Rô-ma nầy mà ngài đã mong ước biết bao.
Thư gởi tín hữu Rô-ma là bức thư dài nhất của thánh Phao-lô và quan trọng nhất về phương diện đạo lý.
1.Mầu nhiệm được giữ kín từ ngàn xưa:
Đoạn trích nầy là một bài Vinh Tụng ngợi khen Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí đã “mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa”, nhưng nay đã được biểu lộ nhờ Con của Ngài, Đức Giê-su Ki-tô. Thánh Phao-lô mượn chữ “mầu nhiệm” từ văn chương Do thái, đặc biệt văn chương khải huyền, cũng như Khôn Ngoan. Chữ “mầu nhiệm” nầy mang dấu ấn kinh nghiệm cá nhân của thánh nhân. Nhờ ơn thần khải trên đường Đa-mát, thánh nhân đã ngộ được ý nghĩa Kinh Thánh. Chương trình của Thiên Chúa qua các sấm ngôn mà trước đó thánh nhân đã không thể nào hiểu được thì nay được sáng tỏ. Cuộc Giáng Trần của Đức Giê-su, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã vén mở mầu nhiệm Thiên Chúa vốn được giữ kín từ ngàn xưa. Trong ánh sáng nầy, việc đọc lại Kinh Thánh có sức thuyết phục đối với mọi dân nước.
2.Nhờ Đức Giê-su Ki-tô:
Bài Vinh Tụng bắt đầu với lời “tôn vinh” và kết thúc với lời “chúc tụng” Thiên Chúa. Chúng ta lưu ý rằng thánh nhân chấm dứt bài thánh thi nầy với biểu thức “nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Thần học Ki-tô giáo vẫn luôn trung thành với viễn cảnh nầy. Phụng vụ thường kết thúc các kinh nguyện theo cùng biểu thức nầy. Sau cùng, bài Vinh Tụng hoàn tất với lời tuyên xưng “A-men” theo cùng cách thức kinh nguyện Do thái.
Như vậy, bản văn nầy chuẩn bị cho chúng ta hiểu mầu nhiệm Giáng Sinh sâu xa hơn. Dù mầu nhiệm Cứu Độ vẫn còn ẩn kín ở nơi Hài Nhi Máng Cỏ, tuy nhiên chính ở nơi Con Trẻ nầy mà mầu nhiệm sẽ dần dần được hiển lộ.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38).
Trong sách Tin Mừng Lu-ca, hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” (1: 5-25) và hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi. Nhờ hình thức song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: thời Cựu Ước và thời Tân Ước, với hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: tư tế Da-ca-ri-a tại thành đô Giê-ru-sa-lem và cô thôn nữ Ma-ri-a tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét xa xôi hẻo lánh, nhất là với hai hài nhi của họ: Gioan tiền hô và Đức Giê-su.
1.Khung cảnh truyền tin (1: 26-27):
Với câu mở đầu: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” nối kết hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thuộc thành đô của dân Do-thái, để thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả của làng quê Na-da-rét nhỏ bé và khiêm hạ thuộc miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì đôi vợ chồng tư tế tuổi đã cao, biểu tượng những truyền thống Ít-ra-en xưa và trung tín, giờ đây chúng ta gặp cô Ma-ri-a, một thiếu nữ trẻ trung, đính hôn với chàng Giu-se và hướng đến đời sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin với ông Da-ca-ri-a đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiện hơn, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài. Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
2.Lời chào của sứ thần (1: 28):
Sứ thần vào nhà và chào Đức Ma-ri-a: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.
“Hãy vui lên” là lời mời gọi ngân vang niềm vui mà các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9)
hay:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dội đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi …
Đức Vua của Ít-ra-en, đang ngự giữa người, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).
Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy, lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ đến thời Mê-si-a và chuẩn bị cho Mẹ tâm thế sẵn sàng đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa sủng ái không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài, nhưng những suy tư thần học còn thấy ở đây nhiều đặc sủng mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ: “Ơn vô nhiễm nguyên tội”, nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tổ tông truyền, vì Đức Giê-su nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. “Ơn trọn đời đồng trinh”, nghĩa là Mẹ hoàn toàn trinh khiết trước và sau khi sinh con, vì Con của Mẹ cũng là Con của Thiên Chúa. “Ơn hồn xác lên trời”, nghĩa là sau khi chết, thân xác của Mẹ không bị hư hoại trong nấm mồ, nhưng được lên trời cả hồn lẫn xác, vì không ai có mối quan hệ mật thiết với Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta, cho bằng Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với Con.
“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy, thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước, được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12) khi ông ngần ngại đón nhận sứ mạng giải phóng dân Ngài. Một cách tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập đi lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ trong cung lòng thanh khiết của Mẹ.
3.Sứ điệp về Đức Giê-su (1: 29-35).
Sứ điệp sứ thần gởi đến Đức Trinh Nữ Ma-ri-a về Đức Giê-su được ngắt nhịp hai lần bởi hai câu hỏi của Mẹ (1, 29 và 34), nhờ đó sứ thần loan báo chân tính của Đức Giê-su, Con của Mẹ. Về câu hỏi thứ nhất, sứ thần mặc khải nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su, Ngài là Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô) thuộc dòng dõi vua Đa-vít (1: 29-33). Về câu hỏi thứ hai, sứ thần mặc khải nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su, Ngài đích thật là Con Thiên Chúa (1: 34-35).
A.Đức Giê-su là “Đấng Mê-si-a” (1: 29-33):
Cũng như ông Da-ca-ri-a, khi nghe những lời chào ấy, Đức Ma-ri-a bối rối và hỏi xem lời chào ấy có ý nghĩa gì. Vì thế, sứ thần trấn an Mẹ: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Đoạn, sứ thần xác định mặc khải của mình: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.
Tên của Hài Nhi là “Giê-su”, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua Con Trẻ của Đức Ma-ri-a. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”. Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được nhắc đến chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi vua Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Ma-ri-a là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị cho mặc khải còn sâu xa hơn tiếp theo sau.
B.Đức Giê-su đích thật là “Con Thiên Chúa” (1: 34-35).
Đức Ma-ri-a thẳng thắn nêu lên vấn nạn: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?”. Lời thắc mắc nầy cho thấy Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền tin cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào tính hiệu quả của Lời Chúa, nhưng muốn niềm tin của mình được soi sáng “vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải sâu xa hơn: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Sứ thần nhắc cho Mẹ nhớ lại vai trò của Thánh Thần theo Kinh Thánh: “Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” ban sự sống cho vũ trụ còn nguyên sơ (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình Tạo Dựng mới mà Đức Ma-ri-a được mời gọi dự phần vào.
Để giúp Đức Ma-ri-a có thể hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là diễn ngữ Kinh Thánh, như xưa kia trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Từ đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ hơn mặc khải của mình: “Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng là nguồn gốc thần linh của Hài Nhi, Con Trẻ này đích thật là Con Thiên Chúa.
4.Sứ điệp về Đức Ma-ri-a (1: 36-38).
Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự ý đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần kết thúc mặc khải của mình trong cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, ông rất đỗi kinh ngạc vì vợ ông, bà Sa-ra vốn đã hiếm muộn nay tuổi đã cao, có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).
Trong hoạt cảnh truyền tin cho ông Da-ca-ri-a trước đó, dù bà Ê-li-sa-bét hiếm muộn và tuổi đã cao, không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng một cách thức như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Trong hoạt cảnh truyền tin cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa vì Đức Giê-su, Con của Mẹ, không đơn giản là Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng cũng là Con Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần thực hiện công trình sáng tạo mới nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.
Với diễn ngữ Kinh Thánh “Phủ bóng trên bà”, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là Hòm Bia Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa ngự ở giữa dân Ngài. Nơi cung lòng của Mẹ, Thánh Thần thổi hơi sự sống, sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả “xin vâng” tròn đầy của Mẹ đối với Thiên Chúa. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà Hài Nhi Giê-su được thụ thai trong cung lòng Mẹ.
Không có gì có thể ngăn cản kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể bị ép buộc được, vì thế đòi hỏi sự ưng thuận từ phía Đức Ma-ri-a. Thiên Chúa trao gởi cho Mẹ Tình Yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “tớ nữ của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với tiếng “Xin Vâng” tròn đầy. Vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài cho nhân loại.
Tiếng “xin vâng” của Đức Ma-ria tỏa sáng nhân cách tuyệt vời của Mẹ. Tiếng xin vâng của Mẹ không là khởi điểm, nhưng là kết quả của một cuộc đối thoại chân thành, thẳng thắn của Mẹ. Những gì Mẹ không hiểu, Mẹ hỏi cho ra lẽ cho đến khi chạm đến mầu nhiệm của Thiên Chúa, lúc đó Mẹ cất tiếng xin vâng tràn đầy lòng tin, chan chứa lòng mến và hy vọng.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Bài Đọc I nói cho chúng ta biết vua Đa-vít muốn xây một nhà nguy nga tráng lệ để làm chỗ xứng đáng cho Hòm Bia thánh, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nhưng gặp phải sự từ chối của Thiên Chúa. Việc chối từ nầy mặc lấy ý nghĩa viên mãn của nó trong hoạt cảnh Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến ở với loài người là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần. Cung lòng của Đức Trinh Nữ là Nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ tuyệt mỹ vô song, là nơi cực thánh mà Con Thiên Chúa nhập thể chọn để sống ở giữa chúng ta.
Chú giải của Fiches Dominicalaes VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Trong gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét.
So sánh giữa việc truyền tin cho Dacaria và cho Đức Maria, ta thấy rõ địa vị của Đức Giêsu cao MV 4-B133
So sánh giữa việc truyền tin cho Dacaria và cho Đức Maria, ta thấy rõ địa vị của Đức Giêsu cao trọng hơn Gioan Tẩy giả rất nhiều.
Phải, sự việc không diễn ra trong sự huy hoàng của Đền thờ Giêrusalem, nơi sứ thần Gabriel hiện ra với Dacaria, nhưng một cách khiêm tốn “trong một thành xứ Galilê”, trong một gian nhà khiêm tốn ở Nagiarét, “khung cảnh tuyệt vời, trong đó mầu nhiệm cao siêu nhất lại sát cánh với sự nghèo khó trần trụi nhất” (J.Potin: “Đức Giêsu, chuyện có thật”, Centurion, tr. 92). Sứ thần Thiên Chúa Gabriel dời gót đến gặp Đức Maria và “vào trong nhà Mẹ”.
Trái với tôn ti thứ bậc thời đó, Đức Maria được nêu tên đầu tiên như người nhận sứ điệp của Thiên Chúa. Thánh sử đã hai lần nhấn mạnh người thiếu nữ này là một trinh nữ? Còn Giuse, người đã đính hôn với Maria, được nói đến tên vì Đức Maria và được đề cập đến vì là “một người thuộc dòng tộc Đavid”. Chính nhờ ngài, Đức Giêsu mới thuộc dòng tộc Đavid một cách hợp pháp.
Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Maria bắt đầu với lời mời gọi hãy vui lên, một tên mới và một lời chào.
Lời mời gọi hãy vui lên: “Hãy vui lên, chứ không phải “ Kính chào bà” theo cách dịch trước đây. Ngày xưa, các ngôn sứ đã hô vang lời kêu gọi đó ở Giêrusalem (Soph.3,14; Joel 2,21; Zach. 9,9), mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đến hay vì Người hiện diện: “Hãy vui lên, hỡi con gái Sion vì Chúa ở vòi ngươi!”.
Tương lai loan báo cho Giêrusalem trở nên hiện tại cho Maria: Chúa ở “cùng bà” để ở cùng dân bà.
– Một tên mới: trong Kinh Thánh, những người lãnh nhận một sứ vụ thường được Chúa ban cho một tên mới. Danh hiệu này là: “Đấng đầy ơn sủng”, “Đấng đẹp lòng Thiên Chúa”, tất cả có nghĩa là Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với Đức Maria.
– Một lời chào: “Chúa ở cùng bà” Trong Kinh Thánh, lời chào này không chỉ được thốt lên ở đây, nhưng sứ điệp đi liền theo sẽ đem đến cho lời chào của sứ thần một ý nghĩa độc đáo. Đức Maria rất “bối rối” trước lời chào này, và Mẹ tự hỏi lời đó có nghĩa gì. Vì thế sứ thần tiếp tục nói rõ hơn điều ẩn ý trong câu đầu tiên.
2) Đấng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” hoàn tất lời đã hứa.
Tiếp sau đó là sứ điệp về con trẻ sắp sinh gồm hai phần tách biệt nhau bởi câu hỏi của Đức Maria.
Phần một lấy trong Cựu ước nói về Đấng Mêsia nhà Đavid, phần này mạc khải chức năng của Đấng Mêsia: “Ngài sẽ nên cao trọng… Ngài sẽ cai trị…”. Việc Ngài sinh ra làm trọn hai lời tiên tri quan trọng:
Lời thứ nhất của Isaia 7,14 “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và ngài sẽ đặt tên cho con trẻ là Emmanuel”. H. Cousin lưu ý: “ Câu này trong văn bản bằng tiếng Do thái hàm ý chính người mẹ đã đặt tên cho con trẻ là: “Giêsu ” (” Tin Mừng Luca”, Centurion tr. 28).
Lời thứ hai là sấm ngôn của Nathan (bài đọc I), Thiên Chúa tuyên bố cùng Đavid: “Đối với Ta, nó sẽ là Con… ngai vàng nó sẽ bền vững mãi mãi”. Sứ thần báo cho Đức Maria biết con trẻ sắp sinh ra vừa là con vua Đavid (“Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu David tổ phụ ngài), vừa là con Đấng Tối cao”.
Câu hỏi của Đức Maria: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”: Câu hỏi này sẽ đưa đến câu trả lời tâm điểm của sứ điệp.
– Phần hai làm rõ việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh, chứng tỏ một nền Kitô học sâu xa hơn là nhũng gì đã diễn giải cho đến bây giờ. Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà “: một cách nói thường được dùng trong Cựu ước, để chỉ ý nghĩa sự khởi xướng của Thiên Chúa, và Luca lập lại trong Công Vụ Tông đồ để loan báo lễ “Ngũ Tuần” (Cv 1,8: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em”).
“Quyền năng Đấng Tối cao sẽ bao trùm bà”: Lời này chỉ về Thánh Thần, Đấng sáng tạo bay là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu của vũ trụ (Gn 1,2).
Những gì Thánh Linh, Hơi Thở sáng tạo làm từ lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài sẽ lại làm trong lòng Đức Maria: đó là sự thụ thai mà vẫn còn đồng trinh.
“Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. H.Cousin diễn giải: Đức Giêsu không chỉ là Con Đấng tối cao, Đấng ban cho người vương triều Đavid, người được tuyên bố là Con Thiên Chúa, vì Người được tạo dựng bởi quyền năng vô cùng của Thiên Chúa trong hành động của Thánh Thần. Ngài là thánh, được Thiên Chúa chọn riêng. Nền Kitô học này thiên lập một sự khác biệt căn bản giữa hai người con được thụ thai lạ lùng: Gioan, vị tiền hô và Đức Giêsu. Đấng Messia thuộc dòng Đavid. Hơn nữa, khi Thánh Thần ngự xuống trên Gioan biến ông thành ngôn sứ ngay từ lòng mẹ, một ngôn sứ đặc biệt nhất trong các ngôn sứ, cũng chính Thánh Thần ấy đã làm cho Đức Giêsu trở thành một hữu thể hoàn toàn mới nhờ dây liên kết giữa người và Thiên Chúa” (Sđd).
Cuộc đối thoại kết thúc bằng lời “xin vâng” của Đức Maria, Đấng luôn sẵn sàng vâng lời sứ thần dạy. Cha Benoit kết luận: Chính Đức Maria là người đầu tiên đã hiểu lời tiên tri xưa, nay được thể hiện cách cụ thể và lạ lùng trong lòng ngài. Từ Đức Mẹ mà cộng đoàn trên khởi, tức Hội Thánh đã nhận được mầu nhiệm này, rồi Hội Thánh đã truyền lại cho các tín hữu… “.
Bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này (2 Sam 7,1-16) cho thấy Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavid đã muốn xây dựng cho ngài, nhưng trái lại đã hứa cho ông một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavid. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên “hòm bia Thiên Chúa”, “đền vàng”, tại đây Con Thiên Chúa đến ở với loài người. Phải chăng đó là mạc khải của mầu nhiệm “được giữ kín từ muôn thuở nhưng nay được bày tỏ ra” mà bài đọc 2 hôm nay đã đề cập đến (Rm 16, 25-27)? (Xem “Assemblée du Seigneur”, số 8, trang 49-50).
BÀI ĐỌC THÊM
1).“Đức Giêsu là ân huệ nhưng không đặc biệt của Thiên Chúa”. (L.Monloubou trong: Tin Mừng Luca, Salvator trang 57-58).
Người ta không được nhìn bài Tin Mừng này như một bài mẫu Đức Giêsu tuy cao sang, nhưng là phụ thuộc. Thực ra trang Tin Mừng này nói về chuyện khác. Nó dẫn ta đến chiêm ngường Mầu nhiệm Thiên Chúa: Thiên Chúa hiện diện như là người bạn đồng hành: Người “ở với” Maria như một người đối thoại thân tình. Người sai sứ giả người… Người nói”. Đức Maria ngạc nhiên: “Làm sao chuyện ấy… Sứ giả trả lời… khi ấy Đức Maria nói… Lời người.. “. Người là Thiên Chúa bình an: “đùng sợ”. Thiên Chúa của ân huệ nhưng không: ” Ngài đẹp lòng… ơn cứu rỗi… đầy ơn sủng”.
Đây là một mạc khải cao trọng về mầu nhiệm Thiên Chúa mà sứ thần có sứ mạng loan báo. Bởi vậy, trang Tin Mừng này quảng diễn những suy tư của thánh sử về Thiên Chúa qua việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Chính thánh sử nói lên đức tin của ngài qua việc tuyên xưng này: tin vào Thiên Chúa là Chúa, Chúa Trời, Đấng quyền năng…; tin vào Người Con là Đức Giêsu, Đấng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao, Con vua Đavid, Con Thiên Chúa…; tin vào Thánh Linh: Chúa Thánh Linh, Quyền năng của Đấng Tối cao…
Trọng tâm chính là Đấng đóng vai trò then chốt trong tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại. Bởi vì Người là “Con vua David, do mẹ Người “đã đính hôn với một người thuộc nhà David” nên “Người được Đức Maria đặt tên là Giêsu, nhưng cũng chính Người còn được gọi là “Con Đấng Tối cao”, thậm chí là “Con Thiên Chúa”. Hai cách xưng hô sau làm mọi người kinh ngạc, nhất là khi so sánh với những cách xưng hô trước. Những xưng hô ấy có ý nghĩa gì?
Chúng nói lên sự hiện diện: Thiên Chúa đang ở đây, Thần Khí Ngài “đến”, phù hợp “bóng” trên Maria, “bóng” nhắc lại bóng mây trong Cựu ước chỉ sự hiện diện đầy uy quyền của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 40,34-38, 1 R 8,10).
Chúng cũng nói lên một hồng ân cao cả vượt hơn hẳn những hồng ân xưa nay Thiên Chúa vẫn ban (…). Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại cách nhưng không. Hồng ân mà họ không hề mơ tới, đừng nói chi là ao ước.
2). “Ngày nay trình bày đức tin là đón nhận Đấng “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mgr. Cl. Dagens trong: “Trình bày đức tin trong xã hội hiện tại”, Kỳ họp HĐGM Pháp tại Lộ Đức 1994, Cerf, tr. 45-46).
Trước hết, tin vào Đức Giêsu Kitô không phải là sự hiểu biết cao siêu dành riêng cho tầng lớp ưu tú những người đã được khai tâm. Niềm tin này được trình bày cho tất cả mọi người, cách riêng những người nghèo hèn, nhỏ bé thực sự, những người nghèo hèn, nhỏ bé, những người đau ốm hoặc những người bị loại trừ là những người có thể sống như Đức Kitô một cách sâu xa bằng lời cầu nguyện và bằng của lễ là chính bản thân họ.
Đàng khác, kinh nghiệm đức tin này không nhằm vươn tới Thiên Chúa để chiếm hữu hay điều khiển Ngài. Hành vi đầu tiên của đức tin là đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa và Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mặc xác phàm và ở giữa chúng ta.
Thái độ cởi mở chính yếu này đối với Mạc khải và ân sủng Chúa đánh dấu hành trình thiêng liêng thâm sâu của Kitô hữu.
Là giáo dân hay tu sĩ cũng vậy, các tín hữu đều muốn nói lên điều này, đó là làm thế nào đức tin đã giúp họ có thái độ cởi mở với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện hay lắng nghe Lời Chúa. Và ngày nay, những anh chị em nào đã trải qua thử thách về sự cô độc và cuộc sống bất định cũng thích nói đến tự do của con cái Thiên Chúa, tự do chúng ta luôn có thể đạt được một khi đã vượt qua sa mạc.
Hình ảnh của kinh nghiệm thiêng liêng trong đức tin Kitô giáo là: tiến vào giao ước, vào cuộc đối thoại, và vào mọi tương quan mà chính Thiên Chúa là người khởi xướng.
"Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
I. DẨN VÀO PHỤNG VỤ
Câu chuyện Truyền Tin cho Đức Maria trong Tin Mừng Lu-ca được đọc trong nhiều lễ kính MV 4-B134
Câu chuyện Truyền Tin cho Đức Maria trong Tin Mừng Lu-ca được đọc trong nhiều lễ kính Đức Maria và trong Thánh Lễ Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B. Trong các ngày lễ kính Đức Maria, chúng ta có thể suy niệm bài Phúc âm về vai trò, ơn gọi và sự đáp trả của Đức Maria. Còn trong Thánh Lễ Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm B hôm nay, chúng ta nên suy niệm về kế hoach cứu độ của Thiên Chúa vì Mùa Vọng là thời gian chờ đợi Chúa Giêsu Kitô là Chúa Cứu Thề đến với dân Israel và nhân loại.
Chúa Cứu Thế đến trần gian đã được Thiên Chúa Cha lập trình từ ngày tạo thiên lập địa và biến cố Truyền Tin là khởi đầu của việc thực hiện Kế Hoạch kỳ diệu ấy. Trong kế họach vĩ đại ấy Đức Maria có vai trò vô cùng quan trọng vì ngài đã được chọn làm Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Đức Maria đã nói lời XIN VÂNG (FIAT) theo Thánh Ý Thiên Chúa. Các Kitô hữu chúng ta cũng được mời đón nhận kế họach của Thiên Chúa và cộng tác vào kế họach ấy bằng lời XIN VÂNG để kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng ta và nơi loài người ngày nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA 1,26-38: Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽbao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
III. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LU-CA 1,26-38:
3.1 Đức Maria được chọn làm Mẹ Chúa Cứu Thế: Lịch sử dân Do thái không chỉ in đậm dấu ấn của mối tương quan sứt mẻ của dân Israel với Thiên Chúa, nhưmg cũng in đặm dấu ấn của tình yêu thương của Thiên Chúa đối với dân tộc Do-thái là dân riêng của Thiên Chúa. Nỏi bật nhất là việc Thiên Chúa mặc khải và thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại tội lỗi bằng mầu nhiệm nhập thể làm người của Con Một Thiên Chúa là Chúa Giêsu Nagiaret. Để người con ấy được sinh ra trong thế giới loàai người, Thiên Chúa cần một phụ nữ đồng ý làm Mẹ người con ấy. Và Đức Maria, một thiếu nữ Nagiarét đã được Thiên Chúa chọn và chuẩn bị.
3.2 Đức Maria chấp nhận cộng tác với Thiên Chúa trong kế hoạch Cứu Độ của Người: Sau khi nghe sứ thần
- cúi chào ["Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ"]
- trấn an: ["Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa.]
- loan báo sự việc hay kế hoach của Thiên Chúa: ["Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"]
- và giải đáp thắc mắc: ["Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽbao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa]
Đức Maria đã đáp lại: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".
Và suốt cả cuộc đời Đức Maria đã gắn bó mật thiềt với Con của Người là Chúa Giêsu Kitô và với cộng đoàn các môn đệ của Con của Người.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG LUCA 1,26-38:
4.1 Mỗi Kitô hữu có vai trò của mình trong kế họach cứu độ của Thiên Chúa vì Thiên Chúa muốn mọi người được cứu, trước hết là những kẻ tin và đón nhận Chúa Giêsu Kitô Con Một của Thiên Chúa, kế đến là những người khác, những người chưa biết chưa tin chưa đón nhận mạc khải của Thánh Kinh. Bằng cách tin và loan báo lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô, Chúa Cứu Độ duy nhất, mà mỗi Kitô hữu sẽ được cứu và có thể cứu những người khác. Đó là cách mỗi Kitô hữu cộng tác vào kế họach cứu độ của Thiên Chúa.
4.2 Mỗi Kitô hữu chúng ta hãy thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa về hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa dành cho mình. Hồng ân ấy là nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hồng ân ấy là ơn được cộng tác với Thiên Chúa trong kế hoạch cứu độ nhân loại của Ngườt. Thể hiện lòng biết ơn bằng một đời sống yêu thương bác ái, hy sinh, cống hiến và phục vụ, để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô.
4.3 Mỗi Kitô hữu chúng ta hãy nói lời cám ơn với Đức Maria và quyết tâm noi gương bắt chước Người nói lời XIN VÂNG với Thánh Ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
V. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN [VỚI LỜI CHÚA TRONG LUCA 1,26-38:
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì chúng con đã được sống gần hết Mùa Vọng này rồi. Chúng con xin dâng lên Cha lời cầu xin tha thiết của chúng con.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN:
1.- «Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho hết mọi người trên thế giới này được nghe nói về tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người và về kế họach cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện khi sai sứ thần truyền tin cho Đức Maria.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy tiếp nối sứ mạng của Đức Maria là đón nhận Chúa Giêsu Con Thiên Chúa và đem Người đến cho nhân loại ngày nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi người đón nhận Chúa Giêsu Kitô trong lịch sử và trong cuộc sống của mình.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả các Kitô hữu, nhất là các anh chị em tân tòng, biết nói lời XIN VÂNG với Thánh Ý Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban cho chúng con thời gian quý báu của Mùa Vọng Năm B này.
Chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa về kế họach cứu độ nhân loạai của Người.
Xin Cha ban Thánh Thần và sức mạnh của Ngài cho chúng con để chúng con noi gương Đức Maria mà đón nhận và tích cực hợp tác với kế họach cứu độ của Thiên Chúa trong thời hiện đại của chúng con.
Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, là Đấng đã đến đang đến và sẽ đến để mọj người được làm con Cha. Amen.
Sàigòn ngày 18 tháng 12 năm 2020 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Bài Tin Mừng hôm nay thật quen thuộc với chúng ta. Ai cũng biết chuyện thiên sứ Gabriel đến truyền MV 4-B135
Bài Tin Mừng hôm nay thật quen thuộc với chúng ta. Ai cũng biết chuyện thiên sứ Gabriel đến truyền tin cho Đức Mẹ. Khi đọc bài này vào những ngày gần lễ Giáng sinh, chúng ta nhớ lại chuyện xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm. Tại làng quê Nadarét nhỏ bé ở vùng Galilê, Con Thiên Chúa đã bắt đầu làm người trong lòng mẹ khi Mẹ Maria thưa xin vâng với những lời thiên sứ nói. Nhưng nhân vật chính trong bài này không hẳn là Maria, mà là Thiên Chúa, Đấng đã sai thiên sứ đến với Mẹ. Từ đây ta có thể nhận ra đôi nét về khuôn mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng tôn trọng tự do con người, dù con người chỉ là thụ tạo vô thường, còn Ngài là Đấng Tạo hóa siêu việt, vô phương đạt thấu. Để cứu độ nhân loại đang trầm luân trong tội, Thiên Chúa muốn sai Con của Ngài đến làm người như ta, chia sẻ trọn vẹn phận người của ta. Ngài cần một phụ nữ chấp nhận làm mẹ của Con Ngài. Từ lâu Thiên Chúa đã chuẩn bị Maria cho chức vụ đó, đã ban cho Mẹ muôn ơn chẳng ai sánh bằng. Bà là “Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà, Bà được đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,28.30). Vậy mà giờ đây Ngài vẫn thấy cần hỏi ý Maria, và chờ nơi Mẹ một câu trả lời dứt khoát. Con Thiên Chúa không thể có chỗ trong cung lòng Maria, nếu Mẹ không tự do ưng thuận và mở lòng đón nhận. Thiên Chúa khiêm hạ đã đến gặp Maria qua trung gian Gabriel, Ngài cần con người cộng tác để cứu con người. Thiên Chúa toàn năng cần Cô Maria bé nhỏ. Thiên Chúa hứa với vua Đavít sẽ ban cho dân Do-thái một vị vua có vương quyền và ngai vàng tồn tại mãi mãi. Và Ngài đã trung tín giữ lời (2 Sm 7,12-17). Gabriel cho thấy Đức Giêsu chính là vị vua này (Lc 1,31-33). Nhưng Thiên Chúa không chỉ ban điều Ngài đã hứa. Ngài là Đấng quảng đại ban nhiều hơn điều đã hứa, vì Đức Giêsu không chỉ là một vị vua Mêsia cho dân Do-thái, Ngài còn là Đấng Cứu độ cho cả nhân loại. Thiên Chúa là Đấng bất ngờ và mãi mãi bất ngờ. Ngài chọn Maria làm mẹ cho Con của Ngài, Nhưng Ngài lại muốn người Con ấy được sinh bởi một trinh nữ. Ngài cần một trinh nữ, nhưng đây là một trinh nữ đã đính hôn. Khi thiên sứ loan tin cho Mẹ về kế hoạch của Thiên Chúa thì Mẹ biết rằng đời mình không như cũ nữa. Những dự tính của Mẹ về hôn nhân sẽ bị đảo lộn. Mẹ sẽ sinh một người con, nhưng không phải con của Giuse, mà là Con Đấng Tối Cao, Con Thiên Chúa. Chắc Mẹ không thể hiểu hết, hiểu ngay, mọi chuyện. Mẹ không thể hiểu hết lời giải thích của thiên sứ về việc mình sẽ thụ thai nhờ “được Thánh Thần ngự xuống, và được quyền năng Đấng Tối Cao tỏa bóng” (Lc 1,35). Chắc Mẹ cũng không ngờ giây phút Mẹ xin vâng là giây phút cả Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện: Thiên Chúa Cha và Thánh Thần cùng với Con Thiên Chúa. Mái nhà Nadarét là nơi Thiên Chúa Ba Ngôi đang bắt đầu một chương trình cứu độ lớn lao với sự cộng tác không thể thiếu của một cô thiếu nữ. Mỗi lần đứng trước máng cỏ, tôi cần nhớ mình đang đứng trước Thiên Chúa Ba Ngôi. Cả Ba cùng hiện diện và hoạt động trong mầu nhiệm Nhập Thể, “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.” Ngày xưa Thiên Chúa dùng Gabriel để báo tin cho Maria. Ngày nay Thiên Chúa dùng ai để loan báo tin vui cho thế giới?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Xin đừng mỉm cười mà nói rằng Chúa đã ở bên chúng con rồi. Có cả triệu người chưa biết Chúa. Nhưng biết Chúa thì được gì? Chúa đến để làm gì nếu đời sống con cái của Chúa cứ tiếp tục y như cũ ? Xin hoán cải chúng con. Xin lay chuyển chúng con. Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt của chúng con, trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con. Ước gì sứ điệp đó lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại, và đòi buộc chúng con, làm chúng con không yên. Bởi lẽ chỉ như thế, sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa, thứ bình an khác hẳn, đó là Bình An của Chúa. Helder Camara
Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin MV 4-B136
Cách đây gần chín tháng, chúng ta đã nghe đọc bài Tin Mừng này vào lễ sứ thần Gabrien Truyền Tin cho Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta nghe đọc lại bài này trong bầu khí rộn ràng của những ngày gần đại lễ Giáng Sinh. Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời gian Đức Mẹ mang thai. Luca chỉ nói về chuyện Mẹ đi thăm bà chị họ hiếm muộn (Lc 1, 39-45). Còn Mátthêu nói về chuyện thánh Giuse nằm mộng và được sứ thần mời đón nhận Maria làm vợ và thai nhi Giêsu làm con của mình (Mt 1, 18-24). Nhưng thời gian mang thai là một thời gian khá dài và quan trọng, nhất là đối với người mẹ trẻ sinh con so. Các bà mẹ mang thai thấy mình như mang một mầu nhiệm, mầu nhiệm sự sống đang lớn lên mỗi ngày trong lòng dạ mình. Dần dần mỗi chuyển động của thai nhi và cả nhịp tim cũng được người mẹ cảm nhận. Thai nhi trở thành người trọn vẹn nhờ được dưỡng nuôi trong cái nôi êm ấm của lòng mẹ. Con Thiên Chúa làm người cũng trải qua một tiến trình như thế. Ngài không từ trời hiện xuống bất ngờ trong quyền năng, nhưng Ngài đã là một thai nhi yếu đuối trong lòng Đức Trinh Nữ. “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã tạo cho con một thân thể… Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (x. Dt 10, 5-7). Con Thiên Chúa đã cất lên tiếng Xin Vâng đối với kế hoạch của Cha. Tiếng Xin Vâng khiến Ngài chấp nhận hủy mình ra không, để “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7). Khi trở thành một thai nhi sống nhờ lòng mẹ, Con Thiên Chúa như cất giấu đi vinh quang chói ngời của thần tính. Ngài vui lòng đồng hành với mọi con người trên mặt đất để Ngài thực sự là anh em của họ. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin xảy ra cho tôi như lời sứ thần nói” (c. 38). Ngay sau tiếng Xin Vâng này, Đức Maria được Thánh Thần ngự xuống, và Con Thiên Chúa bắt đầu tiến trình làm người ở đời (c. 35). Ngài từ từ có trái tim, khuôn mặt, vân tay riêng… Đấng Cứu Độ sung sướng trở nên một sinh linh nhỏ bé, để nói cho nhân loại biết về sự cao quý của một thai nhi. Đức Maria trở thành Hòm Bia Thiên Chúa, nơi Ngôi Hai hiện diện. Chúng ta ít khi nghĩ đến thời gian Mẹ Maria mang thai. Thời gian cưu mang chẳng bao giờ nhẹ nhàng hay dễ dàng. Để có thể sinh ra Đức Giêsu cho môi trường ta đang sống, cũng cần thời gian thai nghén lâu dài và vất vả. Chúng ta phải mang Ngài trong lòng mình, kiên nhẫn và chăm chút để Ngài lớn lên, trước khi sinh Ngài cho thế giới. “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ tôi” (Mc 3, 35).
Cầu Nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng. Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc. Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng. Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng. Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ. Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình ; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.
Chúng ta đang tiến dần tới Mùa Giáng Sinh. Lời Chúa của Chúa nhật thứ bốn Mùa Vọng giới thiệu MV 4-B137
Chúng ta đang tiến dần tới Mùa Giáng Sinh. Lời Chúa của Chúa nhật thứ bốn Mùa Vọng giới thiệu với chúng ta một nhân vật quan trọng mà Thiên Chúa đã mời gọi cộng tác để thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, đó là Đức Trinh nữ Maria, quê ở Nagiarét. Với Đức Trinh nữ Maria, lời hứa ban Đấng Thiên sai không còn mơ hồ xa xôi hay mênh mang bàng bạc, nhưng đã quy về một con người cụ thể. Từ trời cao, Chúa sai Thiên Sứ của Ngài xuống gặp gỡ và ngỏ lời với một thôn nữ khiêm hạ. “Đức Chúa ở cùng Bà”, đây vừa là lời chào, vừa là lời khẳng định một chân lý sâu xa: Thiên Chúa hiện diện trong tâm hồn những người công chính và Ngài ban cho họ được ân sủng dồi dào. Thiên Chúa hiện diện giữa Dân Người. Đó là giáo huấn từ thời Cựu ước. Sự hiện diện của Chúa làm cho dân Do Thái trở thành dân riêng của Ngài và đây cũng là điểm làm nên sự khác biệt giữa dân được tuyển lựa và các dân tộc khác. Sự hiện diện của Chúa không lệ thuộc vào không gian và thời gian. Bài sách thánh thứ nhất kể lại suy tư của vua Đavít. Vì lòng tôn kính dành cho Chúa, ông muốn xây cho Ngài một ngôi nhà. Ông nghĩ thật là bất kính nếu ông ở lầu son gác tía, trong khi Chúa lại ngự nơi lều tạm.
Nếu xây lâu đài là ý định của các bậc quân vương, thì ý của Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Chúa đã mời gọi vua Đavít nhìn lại lịch sử đã qua, để thấy Chúa luôn hiện diện giữa thăng trầm của đời ông cũng như trong lịch sử dân tộc. Ngài luôn bênh vực và giúp ông chiến thắng trong các cuộc giao tranh, củng cố ngai vàng của ông và tạo cho ông nổi danh giữa thiên hạ. Chúa muốn ông nhận ra sự hiện diện của Ngài suốt bề dày lịch sử, từ thời xa xưa. Ngài không có nhu cầu nhà ở, không cần một lầu son gác tía. Điều Ngài muốn nơi con người, đó là hãy trung tín với Ngài mọi nơi mọi lúc. Nếu bền chí đi theo giáo huấn của Ngài, Đavít sẽ được Chúa chúc lành. Ngài sẽ cho ông dòng giống trường tồn. Qua lối chơi chữ rất tài tình, ngôn sứ Nathan đã diễn tả ân sủng của Chúa qua hình thức “nhà” mà Ngài sẽ xây cho Đavít, để đối lại với “nhà” mà ông muốn xây cho Chúa. “Nhà” mà Chúa sẽ ban cho Đavít là vương quốc vững bền, khôn ngoan lỗi lạc và phú quý giàu sang. Những điều này là bằng chứng cho sự hiện diện và ơn chúc lành của Chúa.
“Đức Chúa ở với ngài!”. Đó là lời khẳng định và là lời chúc phúc của ngôn sứ Nathan với vua Đavít. Đó cũng là lời Sứ thần Gabrien nói với Trinh nữ Maria. Tuy vậy, nếu sự hiện diện của Chúa giữa Dân Ngài từ trước tới nay chỉ thể hiện qua sự quan phòng che chở, thì nay Thiên Chúa lại hiện diện một cách thức hoàn toàn mới mẻ. Sứ thần Gabrien đã giải thích điều đó: “Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Vâng, từ nay Thiên Chúa không còn ở chốn cao xanh xa vời vợi, nhưng Ngài đã hạ cố ghé thăm và ở lại với loài người. Ngôi Lời linh thiêng đã trở thành con người bằng xương bằng thịt để cư ngụ giữa chúng ta. Sau này, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai thấy Thày là thấy Chúa Cha”. Tác giả thư Do Thái cũng khẳng định: “Người là phản ánh vinh quang, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3). Như thế, qua Chúa Giêsu, con người được gặp gỡ Thiên Chúa, tâm sự với Ngài. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa một cách mới mẻ, gần gũi.
Chúa Giêsu đã đến trần gian. Thiên Chúa hiện diện giữa nhân loại. Đó là một trong những nội dung quan trọng của sứ điệp Giáng Sinh. Từ nay, chấm dứt những nghi lễ của Cựu ước, vì Chúa Giêsu là Thượng Tế vĩnh cửu. Người đã hiến dâng chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho con người. Thánh Phaolô diễn giải điều này, để khẳng định, những ai tin vào Chúa Giêsu, thì không phải tuân thủ những ràng buộc của luật tế tự Cựu ước (Bài đọc II).
Nếu trong ngày truyền tin, Sứ thần đã chào kính Đức Maria: “Đức Chúa ở cùng Bà”, thì hôm nay, chúng ta cũng chào nhau trong phụng vụ: “Chúa ở cùng anh chị em”. Vâng, Chúa đang ở cùng chúng ta. Hãy xác tín vào sự hiện diện của Ngài. Hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài ban ơn trợ lực cho chúng ta trên bước đường đời. Thế giới hôm nay đang vắng bóng tình thương. Thay vào đó là sự hận thù ghen ghét và bạo lực giết chóc. Cùng với Đức Trinh nữ Maria, chúng ta hãy khiêm tốn thưa với Chúa lời xin vâng, qua đó chúng ta đón nhận và cộng tác với Ngài, để “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Thiên Chúa ở cùng là chủ đề căn bản được nhắc thường xuyên như điệp khúc trong mạc khải, cũng MV 4-B138
Thiên Chúa ở cùng là chủ đề căn bản được nhắc thường xuyên như điệp khúc trong mạc khải, cũng như trong phụng vụ.
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta là ân huệ lớn lao nhất, hơn tất cả những gì lòng người dám ước mơ. Chúa ở cùng, sẽ đảm bảo cho kẻ ở trong Ngài mọi phúc lành thiêng liên trên trời trong Đức Kitô.
Trên tất cả, lời hứa dành cho các tổ phụ và cho người được tuyển chọn, là được Thiên Chúa ở cùng.
Abraham và Đức Maria hằng được Thiên Chúa ở cùng. Các ngài đã trở nên dấu chỉ ơn cứu độ và niềm hy vọng lớn lao cho dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.
Chúa nhật IV Mùa Vọng diễn tả những hồng ân được ban tặng thế gian trong ngày Con Thiên Chúa, Đấng Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta ngự đến.
Các bài sách thánh, tuyên đọc hôm nay, quảng diễn ơn phúc lành thiên hình vạn trạng được thực hiện trong Chúa Giê-su, nhằm công chính hóa và lôi kéo chúng ta đến cùng Thiên Chúa, bởi lòng thương dân Người.
Bài đọc I, trích sách Samuel quyển thứ II, nói về nguyện vọng của vua Đavid khi được ban tặng vô số hồng ân, ông đã muốn và đề đạt xây nhà cho Chúa ngự.
Thành ý của David là cảm thức chung của những kẻ thụ ơn. Họ làm thế, vừa để tỏ lòng tri ân, vừa để cầu mong ân huệ được luôn tiếp tục duy trì. Hành động tạ ơn kiểu này cũng chỉ nằm trong khuôn khổ của một sự công bằng giao hoán “có ăn có trả”, vẫn có “mùi” vị kỷ, tham lam.
Áp dụng vào trường hợp của David, vì được bình an tư bề, khỏi mọi quân thù xâm lấn, được sống trong lầu son gác tía, vua muốn xây nhà dâng kính Chúa.
Xét về phương diện tự nhiên, ý muốn của David là điều tốt, nên làm, nhưng đối với Chúa, dâng cho Ngài một thiện hảo vật chất không thôi chưa đủ, mà còn phải là sự gắn bó mật thiết trong tình con thảo theo mô hình của tình phụ/tử thần linh, làm nền tảng cho một đời tạ ơn mới đủ, vì, Chúa chỉ muốn lòng nhân từ, chứ không cần hy lễ (cf. Mt 12, 7).
Chúa dạy David và chúng ta bài học sâu sắc: trước hết và trên tất cả là sự “vâng phục”. Chỉ trong sự vâng phục tuyệt đối và trọn vẹn, mới trở thành con yêu dấu, con đẹp lòng Cha mọi đàng.
Sống vâng phục và thực hiện ý Cha, nghiễm nhiên, nhân loại được ở trong chính ngôi nhà do Chúa thiết lập “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23).
Chúa nói với David: ngươi mà xây nhà cho Ta sao? Chính Ta xây nhà cho ngươi, bằng việc cất nhắc ngươi từ nơi phân thổ, từ hàng lê thứ, lên bậc khanh tướng công hầu, lên hàng vua chúa thế gian. Ngươi phải ý thức, tuân giữ lời Ta, thì triều đại ngươi mới vững bền mãi mãi.
Thật và rất thật, đơn thành lắng nghe, thực thi ý Chúa là yếu tố nền tảng, để Đấng Emmanuel ngự đến và những thiện hảo vật chất lòng thành dâng kính mới trở thành hương thơm của lời ngợi khen đáng được chấp nhận.
Lời hứa Đấng Emmanuel được thực hiện khi thời gian tới hồi viên mãn: Thiên Chúa sai “Con Ngài” sinh bởi một người phụ nữ, sống dưới chế độ lề luật, để cứu những kẻ đang bị kiểm soát bởi lề luật.
Thánh Luca, trong bài Tin Mừng, loan báo thời khắc Con Thiên Chúa nhập thể làm người diễn ra trong một cuộc đối thoại hài hòa, tự do.
Đức Maria, vốn là người đầy tràn ân sủng, luôn được Chúa ở cùng, đã triệt để lắng nghe, thực thi ý Chúa, đã cung cấp cho Ngôi Lời tất cả những yếu tố làm nên nhân tính Giê-su. Sự dâng hiến này, trở thành hương thơm của lời ngợi khen tạ ơn đích thực và vĩnh viễn: “Từ nay, muôn đời sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1, 48).
Đây là cuộc đối thoại của lòng thương xót vô biên, của sự trung tín vững bền Thiên Chúa, nhằm thực hiện lời hứa cứu chuộc thuở ban sơ với nguyên tổ sa ngã. Nội dung cuộc đối thoại: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi” (cf. Kinh tin kính).
Mục đích cuộc đối thoại: mời gọi Đức Maria cộng tác vào công trình cứu độ.
Kết quả cuộc đối thoại: cả đất trời hân hoan, vui sướng với lời thưa “Xin vâng” khiêm hạ, đầy lòng tín thác cậy trông, Mẹ đã vĩnh viễn đưa Chúa vào trần gian, thực hiện lời hứa cứu độ.
“... Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng, Mẹ trở nên Thánh Mẫu tuyệt vời. Nhờ Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đến với nhân loại. Huyền nhiệm quá muôn đời tiếng xin vâng. Mẹ thưa xin vâng, xin vâng trọn thánh ý Chúa Cha. Mẹ thưa xin vâng, với Tin Mừng của Con chí thánh. Mẹ thưa xin vâng với tác động của Chúa Thánh Linh. Con muốn theo Mẹ, sống xin vâng với trái tin thảo hiền” (Trầm Hương FMSR).
Vâng, Mẹ ơi, con tạ ơn và ngàn lời tri ân Mẹ, đã tặng ban Giê-su cho con và cho cả nhân loại!
Xin Mẹ thương chỉ cho con được thấy Chúa Giê-su, Người Con phúc đức do lòng Mẹ sinh ra!
Vâng phục đức tin là con đường duy nhất Mẹ đã đi để được ở lại thường hằng trong nhà Cha, cũng là con đường Mẹ chỉ cho chúng ta đến gặp Giê-su “Mẹ là dấu chỉ và là niềm hy vọng cho dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian” (cf. Vat. II, LG. số 68).
Vâng phục đức tin là sẵn lòng để cho quyền năng Chúa thực hiện trong mọi biến cố cuộc đời, nhiều lúc cảm thấy bế tắc, tăm tối và khó hiểu.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, gọi đó là thánh ý nhiệm mầu vốn được giữ kín. Những đau khổ bế tắc, tăm tối cuộc đời, chỉ có thể được cắt nghĩa trọn vẹn trong mầu nhiệm thập giá.
Sự khôn ngoan của thập giá từng làm chúng ta choáng váng, lại là cách tuyệt hảo nhằm cứu những kẻ có lòng tin.
Ước gì niềm vui Chúa đến, nâng đỡ đức tin, củng cố đức cậy, gia tăng đức mến, để chúng ta luôn đơn thành lắng nghe và thực hành Lời Chúa, trở nên xứng đáng ở lại trong nhà Chúa muôn đời! Amen.
Vị trí của Đức Maria thật là lớn lao và duy nhất trong tương quan với Thiên Chúa và loài người MV 4-B139
Vị trí của Đức Maria thật là lớn lao và duy nhất trong tương quan với Thiên Chúa và loài người chúng ta: Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, trong đó có chúng ta, và Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Tuy nhiên, tất cả những ơn huệ lớn lao của Mẹ đã bắt đầu bằng một biến cố thật hạn hẹp, thật nhỏ bé, thật khiêm tốn, thật âm thầm và kín ẩn, đó là biến cố Truyền Tin. Nhỏ bé và âm thầm, nhưng đó chính là một kinh nghiệm thiêng liêng làm thay đổi cuộc đời của Đức Maria, và của lịch sử cứu độ. Và kinh nghiệm thiêng liêng này là một cuộc đối thoại, đối thoại giữa Đức Maria và sứ thần Gabriel.
Trước hết, chúng ta cần chú ý đến nơi chốn xẩy ra biến cố Truyền Tin, đó là nhà của Đức Maria: “Sứ thần vào nhà trinh nữ” (Lc 1, 28). Khi cầu ngyện với Lời Chúa, chúng ta được mời gọi hình dung ra nơi chốn, ở đó diễn ra biến cố mà bản văn Tin Mừng thuật lại: nhà, vườn, sa mạc, đồi Calvê… Việc “đặt khung cảnh” khi bước vào giờ cầu nguyện như thế có hai mục đích:
Khi cầu nguyện, chúng ta được mời gọi dấn thân cả con người của chúng ta, bên trong cũng như bên ngoài. Thế mà, bên trong của chúng ta, có nhiều thứ, trong đó có trí tưởng tượng. Dùng trí tưởng tượng để hình dung ra một nơi chốn khi cầu nguyện, đó là giúp chúng ta cầu nguyện với cả con người, đồng thời giúp định hướng cho trí tưởng tượng, vốn hay dẫn chúng ta đi lang lang, ra khỏi việc cầu nguyện. Hơn nữa, nơi chốn mà chúng ta hình dung ra, không phải là bất cứ nơi nào, đó là một nơi chốn của đời thường, nhưng đồng thời cũng là nơi “thánh”, nghĩa là nơi được Chúa viếng thăm.
Vì thế, một nơi chốn cụ thể còn có một ý nghĩa thiêng liêng: Thiên Chúa đến gặp gỡ con người không phải ở trên trời cao hay ở một nơi xa vời, nhưng tại một nơi chốn cụ thể và rất đời thường, chẳng hạn nhà của Đức Maria; và đối với chúng ta cũng vậy, đó có thể là một nơi nào đó trong cuộc đời của chúng ta: trường học, nơi hành hương, nhà tĩnh tâm, trong vườn của Nhà Dòng, trong căn phòng nhỏ bé, hay nơi nhà nguyện… Vậy đâu là nơi chốn, ở đó chúng ta được Thiên Chúa viếng thăm, đã làm thay đổi cuộc đời chúng ta, như trường hợp của Đức Mẹ?
Trình thuật Truyền Tin có thể được gói gọn trong tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ; và chúng ta thường hiểu tiếng “Xin Vâng” là câu trả lời tức khắc của Mẹ khi nghe lời đề nghị của Thiên Chúa, qua trung gian của sứ thần Gabrien. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt lời “Xin Vâng” của Mẹ vào trong diễn tiến của trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra rằng, tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là điểm tới của cả một cuộc trao đổi khá dài, và nhất là đầy biến động trong tâm hồn.
Trước hết, chúng ta hãy tự hỏi Đức Maria là ai, theo lời kể của thánh sử Luca về mầu nhiệm Truyền Tin? Mẹ là một thiếu nữ Israel, ngụ tại Galilê, làng Nazarét. Mẹ là một thiếu nữ đã đính hôn, như bao thiếu nữ khác khi đến tuổi trưởng thành. Một cách chính xác, Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi Đavít. Như thế, lúc ban đầu, Mẹ là một cô gái như bao cô gái khác (và cũng tương tự như thế, đối với phái nam). Và có lẽ chúng ta cũng đã như vậy trước khi bước vào hành trình ơn gọi, ơn gọi gia đình hay dâng hiến: một cô gái với thân phận bình thường, và với ước mơ về đời mình cũng thật bình thường. Nhưng Mẹ lại không được vậy, vì, có thể nói, Chúa đến làm xáo trộn cuộc đời của Mẹ.
Ở đây chúng ta có thể nhìn lại hành trình ơn gọi của mình và tự hỏi: đâu là những dấu chỉ, những cách thức Chúa dùng để làm xáo trộn cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta không thể sống như những cô gái (hay một người) bình thường? Và trong trình thuật Truyền Tin, Chúa không đến trực tiếp, nhưng qua trung gian sứ thần Gabriel; vậy đâu là những người “trung gian” của Chúa trong cuộc đời và nhất là hành trình ơn gọi của chúng ta?
Lắng nghe Sứ thần Gabrien và Đức Maria
Cuộc đối thoại giữa Sứ Thần và Đức Maria được “đóng khung”, nghĩa là khởi đầu và kết thúc, bởi chuyển động vào và ra của sứ thần: “Sứ Thần vào nhà trinh nữ” (c. 28), và sau đó, “Rồi Sứ Thần từ biệt ra đi” (c. 38). Cuộc đối thoại có thể chia làm ba bước. Chúng ta hãy lắng nghe từng bước, nhưng không quên nhìn ngắm và quan sát cung cách đối thoại của Đức Mẹ, vốn diễn tả những tâm tình nội tâm, chẳng hạn sự bối rối lúc ban đầu.
Bước thứ nhất (c. 28-29)
Sứ Thần ngỏ lời với Đức Maria: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Lời chào của sứ thần dành cho Đức Maria trở thành lời chào của chúng ta, vì Kinh Kính Mừng hằng ngày của chúng ta, của cả Giáo Hội bắt đầu bằng lời chào này: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”. Nhưng ở ngọn nguồn, lời chào này làm cho Đức Maria rất bối rối.
Chúng ta hãy hình dung ra Đức Maria đang trong trạng thái bối rối và tự hỏi tại sao? Chúng ta có kinh nghiệm tương tự như vậy bao giờ chưa? Chúng ta có bối rối như Mẹ không? Nếu chưa, nghĩa là chưa có kinh nghiệm về tình yêu nhưng không Thiên Chúa dành cho chúng ta từ thủa đời đời, thì Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, bởi vì tất cả những gì Mẹ nhận được là để chia sẻ. Ơn huệ lớn nhất mà Mẹ nhận được là Đức Giê-su, và Mẹ đã chia sẻ hết cho chúng ta và Mẹ vẫn chia sẻ mỗi ngày.
Và Đức Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào. Không phải vì Mẹ không hiểu điều sứ thần muốn công bố, là ân sủng Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhưng không, nhưng Mẹ không hiểu ý nghĩa của ân sủng: qua ân sủng Thiên Chúa ban cho Mẹ tràn đầy, Chúa muốn nói gì với Mẹ, Chúa muốn mời gọi Mẹ thực hiện điều gì? Vì thế, ngay sau đó, sứ thần mặc khải điều Thiên Chúa mời gọi Mẹ thực hiện: “Này đây, bà sẽ thụ thai…”. Có lẽ chúng ta cũng vậy, khi Chúa đến ngỏ lời với chúng ta, một lúc nào đó trong quá khứ và nhất là trong những biến cố quan trọng của hành trình ơn gọi; chúng ta cũng bối rối và tự hỏi: tại sao Chúa lại chọn con, tại sao Chúa ưu ái với con cách nhưng không như vậy? Chúa mời gọi con làm gì?
Bước thứ hai (c. 30-34)
Sứ thần xác chuẩn ơn huệ nhưng không Chúa ban cho Mẹ: “Bà được đẹp lòng Thiên Chúa”, và sau đó, loan báo sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ: “Này đây bà sẽ thụ thai…”. Như thế, ơn huệ luôn đi đôi với sứ mạng; và đó chính là cung cách hành xử của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, trong lịch sử Hội Dòng và trong hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta.
Sứ mạng thụ thai, hạ sinh con trai, vốn là “Con Đấng Tối Cao”, là sứ mạng quá lớn, lớn hơn tất cả những gì Mẹ có và Mẹ là. Vì thế, Mẹ không thể không nêu câu hỏi, và câu hỏi của Mẹ chất chứa một ngăn trở, cũng rất lớn: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Chính ở nhịp thứ hai này của cuộc đối thoại, mà chúng ta cảm nhận được Đức Mẹ thật sống động, thật mạnh mẽ và cũng thật lý sự nữa. Vì thế, Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa.
Còn có một điều bất ngờ lớn lao nữa, mà chắc chắn lúc này, Mẹ chưa hình dung ra hết được, bởi vì Mẹ sẽ phải khám phá ra từ từ, đó là cách Đức Giê-su trở nên cao cả, trở nên Con Đấng Tối cao, và nhất là cách Ngài thừa kế ngai vàng vua Đa-vít. Biến cố Đức Giêsu giáng sinh trong máng cỏ, việc dâng Hài Nhi cho Đức Chúa trong Đền Thờ và nhất là lời tiên tri của ông cụ Simeon: “một lưỡi gươn sẽ đâm thâu tâm hồn bà”, sẽ hướng Mẹ tới con đường Thập Giá của Con Mẹ.
Sứ mạng Chúa muốn trao cho chúng ta, khi mời gọi chúng ta đi Đức Ki-tô trong đời sống dâng hiến, luôn luôn vượt qua khả năng của chúng ta. Như khi Đức Giê-su mời gọi: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi”. Hay như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 8-9). Mẹ thật gần gũi với chúng ta, vì can đảm đặt câu hỏi, nêu ra khó khăn và trở ngại đối với lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được Chúa ban ơn huệ để thi hành sứ mạng, chúng ta hãy ca đảm, giống như Mẹ, dãi bày cho Chúa nghe những khó khăn và trở ngại của chúng ta: “việc ấy xẩy ra thế nào được?”
Bước thứ ba (c. 35-37)
Sứ thần rất coi trọng ngăn trở mà Đức Mẹ nêu ra; vì thế, để thuyết phục, ngài đã không dựa vào điều gì khác, ngoài quyền năng riêng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để suy niệm từng lời của sứ thần. Vì lời của sứ thần rất thuyết phục, thuyết phục đến độ, Đức Maria đã thốt ra lời “Xin Vâng” liều lĩnh, hướng đến rất nhiều thách đố, nguy nan và những điều bất ngờ. Trước hết, theo lời của Sứ Thần, Người Con Mẹ sẽ cưu mang và sinh ra, là hoàn toàn do quyền năng của Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, …”. Làm phát sinh sự sống, ở nơi mà loài người không thể làm gì được, đó chính là quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.
Sứ thần Gabrien đến gặp Đức Maria, vào thời điểm bà Elizabeth có thai được sáu tháng; vì thế, trong lời đối thoại với Đức Mẹ, sứ thần long trọng nêu ra trường hợp bà Elizabet để thuyết phục Đức Mẹ. Sự kiện bà Elizabet với cung lòng vừa hiếm muộn và vừa già cỗi nhưng lại mang thai, có ý nghĩa đặc biệt trong lời xin vâng của Mẹ và trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa:
Trường hợp bà Elizabet nhắc nhớ Lịch sử cứu độ; và lời xin vâng của Mẹ đặt trên nền tảng hành động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.
Lời xin vâng của Mẹ làm cho lịch sử cứu độ được hoàn tất: hoàn tất bao gồm hai chiều kích: liên tục nhưng mới mẻ.
Người con bà Elizabet sinh ra sẽ gắn bó đến cùng với Người Con Mẹ Maria sinh ra.
Như thế, Thiên Chúa có khả năng làm phát sinh sự sống ở nơi mà con người không còn hi vọng gì và không thể làm gì được nữa, bởi vì hai ông bà vừa hiềm muốn và vừa lớn tuổi. Và tuyệt tác này lại nhắc nhớ những tuyệt tác tương tự khác trong lịch sử cứu độ, đó là trường hợp các phu nhân hiếm muộn của các tổ phụ, mà vẫn cứ sinh con được, và tiêu biểu nhất là bà Sara, vợ của tổ phụ Abraham. Với Đức Maria, đó cũng là một tuyệt tác, nhưng là một tuyệt tác còn lớn hơn và là duy nhất: Mẹ sinh con không phải từ cung lòng già cỗi hay hiếm muộn, nhưng là từ cung lòng trinh nguyên. Các Giáo Phụ nhìn ra đây là hình ảnh diễn tả công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi vì lúc khởi đầu, Thiên Chúa cũng làm phát sinh sự sống từ mặt đất trinh nguyên. Đó là vì, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. Và đây đã là Tin Mừng cho loài người của chúng ta rồi: đó là Thiên Chúa có thể làm phát sinh sự sống, và làm phát sinh sự sống viên mãn là Đức Kitô, ở nơi mà con người không còn hi vọng gì, ở nơi là tuyệt đối không thể đối với con người. Như thế mầu nhiệm Vượt Qua đã được loan báo ở đây rồi, nơi biến cố truyền tin, bởi vì Thiên Chúa sẽ làm trào vọt sự sống từ sự chết, trong mầu nghiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Chúng ta được mời gọi nhận ra hành động của Thiên Chúa trong lịch sử của Hội Dòng, của Tu Hội, của giáo xứ chúng ta, trong gia đình, trong cuộc đời và trong hành trình ơn gọi của chúng ta, để chúng ta có thể đi theo Đức Ki-tô và phục vụ cho sứ mạng của Ngài, không phải bằng sức lực và khả năng của chúng ta, nhưng quyền năng và sức mạnh của Chúa.
Và biến cố Truyền Tin cũng bày tỏ cho chúng ta yếu tính của đời tu: đó là để cho Thiên Chúa làm phát sinh sự sống thần linh của Người, theo hình ảnh của Đức Ki-tô, ở nơi không thể, là thân xác trinh nguyên của chúng ta, theo cách thức mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria. “Trinh nguyên”, tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng. “Trinh nguyên”, tiên vàn theo nghĩa thiêng liêng (bởi vì trinh nguyên thể lý tuyệt đối là không thể và chỉ là vẻ bề ngoài), nghĩa là một con tim khát khao dành trọn cho một mình Chúa và tình yêu của Người.
Lắng nghe lời “Xin vâng” của Đức Maria (c. 38)
Trong bản văn Hi-lạp của trình thuật Truyền Tin, thật ra không có từ “xin vâng”, hay từ “vâng” trong bản dịch Tiếng Việt ở đây, nhưng chỉ có câu trả lời của Đức Mẹ: “Tôi đây là nữ từ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” hay dịch sát hơn: “Tôi đây là nữ tì của Chúa, hãy xảy ra cho tôi theo như lời Sứ Thần”. Ngoài ra, “Xin Vâng” còn được đọc theo tiếng La-tinh là “Fiat”; nhưng thực ra, “Fiat” có nghĩa là “ước gì xẩy ra”, hoặc “hãy xẩy ra”, cho tôi theo như lời của ngài. Vì thế, chúng ta vẫn cứ tiếp tục nói Đức Mẹ thưa “Xin Vâng”, nhưng phải hiểu tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là cả một câu trả lời khá dài và đầy ý nghĩa.
Thật vậy, trong lời “Xin Vâng”, Mẹ tự xưng mình là “nữ tì”. Chúng ta thường nghĩ ra nhiều tước hiệu cao vời dành cho Đức Maria; nhưng Mẹ lại thích tự xưng mình, trong biến cố Truyền Tin và trong bài ca bất hủ Magnificat, là “Nữ Tì của Chúa” (Lc 1, 38), là “Phận nữ tì hèn mọn”. Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế đó. Không ở đầu ngoài lời nói này của Mẹ, chúng ta cảm thấy thật gần gũi với Mẹ. Vì chúng ta cũng như Mẹ, là nữ tì, là tôi tớ của Thiên Chúa. Sau đó, Mẹ nói “Hãy xảy ra cho tôi theo như lời của Sứ Thần nói”. Chúng ta hãy cảm nếm lòng tín thác tuyệt đối Mẹ dành cho Chúa qua lời nói này, bởi vì qua lời này, Mẹ cam kết từ bỏ quyền làm chủ đời mình; và đó chính là ý nghĩa tận cùng của mọi ơn gọi, và nhất là của ơn gọi dâng hiến.
Chúng ta được mời gọi đặt lời “xin vâng” của chúng ta, khi đón nhận Đức Ki-tô vào cuộc đời chúng ta và sống theo ơn gọi Chúa ban, trong lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Cũng giống như Đức Mẹ, tiếng xin vâng ban đầu của chúng ta cần phải làm mới lại suốt đời, nhất là ở những khúc quanh quan trọng và trong thời gian tĩnh tâm, hay ở những lúc khó khăn thử thách lớn nhỏ trong hành trình ơn gọi. Trong những giai đoạn khó khăn thử thách lớn, có khi chúng ta được mời gọi thưa “xin vâng” mỗi ngày, bằng cách nhận lời “Xin Vâng” của Mẹ làm của mình, và lời “Xin Vâng” này có nghĩa là: “Con là nữ tì của Chúa, xin xảy ra cho con theo như Lời của Ngài.”
* * *
Xin Đức Mẹ đồng hành và phù hộ chúng ta với tình yêu hiền mẫu, để chúng ta cũng sống đến cùng lời “xin vâng” của chúng ta, giống như Mẹ.
Chúng ta đã từng nghe đi nghe lại đoạn Tin Mừng này của thánh Luca không biết bao nhiêu lần MV 4-B140
Chúng ta đã từng nghe đi nghe lại đoạn Tin Mừng này của thánh Luca không biết bao nhiêu lần trong một năm. Có người đã thuộc lòng và nhiều người xem như quen thuộc và khi nghe lại cảm thấy như không có gì mới, và không chú ý cho lắm. Biết rồi! Nhưng với cái nhìn đức tin, chúng ta sẽ không thôi khám phá nhiều vẻ đẹp và hồng ân tàng ẩn trong đó.
Thánh Luca đã phác họa ra một bức tranh sống động và tuyệt đẹp, mang nhiều nội dung phong phú, trong đó ngôn ngữ và hình ảnh Cựu Ước được sử dụng để cho chúng ta thấy chương trình kỳ diệu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Chúng ta không thể khám phá hết những gì tàng ẩn trong đoạn văn ngắn này, nhưng nhờ đó, trong mùa vọng này, chúng ta đón tiếp Chúa đến trong mầu nhiệm giáng sinh với những tâm tình của Mẹ Maria.
Mẹ Maria lúc ấy mới độ mười bốn tuổi. Một cô gái quê mùa, mù chữ (vì con gái thời bấy giờ không được đến trường). Nhưng biết Kinh Thánh rất rành, vì Maria luôn chăm chú nghe đọc Kinh Thánh và nhớ những gì đã nghe.
Maria vừa được đính hôn với một người tên là Giuse. Đính hôn tức là chắc chắn sẽ lập gia đình. Chỉ chờ ngày được lên xe hoa.
“Thiên thần vào nhà trinh nữ”. Chúng ta tưởng rằng thiên thần ăn mặc chỉnh tề đi vào nhà của Maria. Đây là câu chuyện do thánh Luca dàn dựng để lồng khung mầu nhiệm mà ngài muốn trình bày mà thôi. Không thể nào có vấn đề thiên thần bước vào nhà của Maria, vì theo tục lệ Do Thái, thanh niên không được phép vào nhà một trinh nữ. Vậy thiên thần vào nhà như thế nào? Theo nhiều chuyên viên, Maria có lẽ đã được thị kiến mà thôi.
Thiên thần chào Maria bằng những lời làm cho Maria bối rối: “Mừng vui lên, hỡi người đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Tại sao lại bối rối? Vì lời chào này không chỉ là một lời chào thông thường. Maria nghĩ rằng có điều gì quan trọng sắp xảy đến. Thiên thần trấn an Maria: “Xin đừng sợ”. Tại sao lại sợ?
Thiên Chúa đột nhập vào thế gian luôn gây sợ hãi. Môsê trước bụi gai giữa đám lửa hỏa hào, cũng sợ hãi. Tiên tri Isaia trong Đền thờ khi Chúa đến ngỏ lời với ông. Ông đã kinh hãi sấp mình xuống đất và tưởng mình đã chết. Ở đây Thiên Chúa đến rất âm thầm và nhẹ nhàng, thế nhưng cũng gây sợ hãi.
Maria ý thức thân phận nhỏ hèn của mình. Ngài cảm thấy như chạm phải một cái gì đó vượt xa tầm hiểu biết của mình. Làm sao không run sợ?
Lời chào của thiên thần cũng làm cho Maria ngạc nhiên: “Đầy ơn phước”. Chúng ta thường hiểu như được tràn đầy ơn Chúa, nhưng ở đây có thể hiểu là đầy duyên dáng và đẹp lòng Thiên Chúa, như trong Cựu Ước, hoàng hậu Ette đầy duyên dáng yêu kiều được vua Assuêrô sủng ái. Maria đầy ơn phước vì đã được Thiên Chúa sủng ái và đã chọn Mẹ từ muôn thuở, đã gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ nguyên tội, hoàn toàn trong sáng, xứng đáng làm Đền thờ cho Chúa Con. Thiên thần cũng nói rõ: “Bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và đây, Chúa muốn như thế này: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên nó là Giêsu”. Maria càng ngạc nhiên hơn vì điều này đi ngược lại với ý muốn của nàng: “Việc ấy xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”?
Maria từ chối tình yêu và hạnh phúc trần gian, vì thế, Chúa ban cho mẹ hạnh phúc làm mẹ Con Thiên Chúa. Mẹ hoàn toàn là của Chúa. Mẹ xứng đáng với vai trò Chúa muốn và Chúa đã nhờ Mẹ lãnh nhận hồng ân tuyệt hảo là Ngôi Hai, Mẹ đi vào kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ Mẹ, Chúa thực hiện chương trình cứu độ nhân loại của Ngài. Người con Mẹ sẽ sinh ra là Con Đấng Tối Cao, là người sẽ kế nghiệp tổ tiên Đavít, và triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận.
“Bà sẽ đặt tên là Giêsu”. Tại sao Mẹ lại đặt tên cho con? Chính người cha mới làm công việc đó, là quyền của người cha. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu không là con của một người trần thế, mà là Con Thiên Chúa. Và điều đó, chính thiên thần đã xác nhận: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc nhập thể của Chúa Giêsu là vai trò quyết định. Thánh Luca nhấn mạnh đến điều này. Chúng ta nhớ đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc sáng tạo vũ trụ. Sách Sáng thế nói: “Thánh Thần bay là trên mặt nước và ban sự sống cho mọi sinh vật. Trong việc nhập thể, Chúa Thánh Thần cũng làm nảy sinh một sự sống mới trong cung lòng Mẹ Maria. Chúa Giêsu đến trong trần gian mà không cần có sự can thiệp của người nam, là Ađam mới, thoát thai từ bàn tay sáng tạo của Chúa Thánh Thần. Vì “không có gì mà Thiên Chúa không làm được”. Để Maria xác tín hơn, thiên thần đã đưa ra một bằng chứng cụ thể: “Bà Êlisabet… tuy đã già mà cũng đang mang thai một người con trai, và nay đã có thai được sáu tháng”. Tất cả là do quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã làm những việc kỳ diệu bằng những phương tiện thấp kém nhất. Ngài đã xuống thấp, thật thấp đến nỗi chúng ta không thấy Ngài. Thi sĩ Marie Noel đã có một ý tưởng ngộ nghĩnh: “Vì con người không thể leo lên tận trời cao, Thiên Chúa xuống thấp.
Thiên Chúa, Đấng ngự nơi ánh sáng siêu phàm đã đến trần gian, trong xác thịt. Ngài mượn lấy con đường của mọi con người và đã chọn cung lòng một người phàm để nối kết lại cuộc đối thoại với con người. Ngài là Đấng không lệ thuộc vào thời gian đã chọn lấy sự nhỏ hẹp của thời gian, chỉ vì Ngài là Tình Yêu.
Maria vừa là nguồn cội vừa là chứng nhân của sự hiển linh yêu thương của Ngôi Lời. Mẹ là điểm kết tụ của bao lời hứa được khởi đầu thực hiện. Mẹ đón nhận cho chúng ta vầng hồng của mùa cứu chuộc đang khởi đầu. Từ gốc Giêsê đã mọc lên chồi non, sẽ trở nên cho nhân loại suối nguồn hạnh phúc bất biến, lâu bền và sung mãn. Nếu không có Mẹ, chúng ta sẽ như thế nào?
Sau khi biết mình được bảo đảm trong vòng tay của Thiên Chúa toàn năng, Maria không do dự đáp trả: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”. Câu trả lời kết thúc một giai đoạn dài và mở đầu một giai đoạn mới. Dự định cứu độ của Thiên Chúa không chỉ là lời hứa nữa mà là thực hiện.
Maria chấp nhận thân phận của mình. Nàng chỉ là nữ tỳ mà thôi. Chúng ta không hiểu từ nữ tỳ theo người Do Thái thời bấy giờ. Nữ tỳ là con người thuộc trọn quyền của chủ. Sống chết trong tay chủ mình. Không còn quyền là mình nữa mà hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Maria nói lên tiếng nữ tỳ đó với tất cả tâm hồn ngây thơ nhưng sáng suốt của nàng. Nàng biết mình nói gì. Nàng thuộc Kinh Thánh quá nhiều. Nàng đã nghe biết về những kỳ công Thiên Chúa đã làm trong lịch sử. Nàng hoàn toàn phó thác. Nàng trao trọn tuổi xuân của nàng cho Thiên Chúa. Nàng chỉ muốn là nữ tỳ thôi. Nàng không nghĩ đến tương lai. Tương lai của nàng nằm trong tay Đấng Toàn Năng: “Xin Chúa thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói”. Tiếng “xin vâng” của chúng ta không diễn tả đủ ý nghĩa của lời trên đây. Lời nói của Maria cho thấy nàng là sự sẵn lòng vô điều kiện và hoàn toàn để cho Chúa hoạt động. Nàng chỉ biết đón nhận trong thân phận nhỏ bé của mình những gì Chúa muốn mà thôi.
Nhờ sự khiêm nhường và sẵn lòng đó, Thiên Chúa đã thực hiện kỳ công mà từ muôn thuở Chúa đã định là cho Ngôi Lời nhập thể. Chúng ta không thể hiểu được tầm quan trọng của mầu nhiệm thâm sâu này: “Ngôi Lời đã nhập thể và ở giữa chúng ta”. Ngài đã trở nên nhỏ hèn như chúng ta. Ngài có thể dễ bị thương tích. Nơi đây câu nói của thánh Gioan mang đúng ý nghĩa của nó: “Thiên Chúa là tình Yêu”. Nơi đây chúng ta mới hiểu được tình yêu là thế nào là tự hủy mình, mang thân nô lệ, là cho không và cho hết. Vô điều kiện. Chúng ta chỉ cần tin, sấp mình thờ lạy và tạ ơn.
Qua biến cố truyền tin này, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy rằng chính Chúa can thiệp vào cuộc sống chúng ta. Chính Chúa đích thân đến với chúng ta. Chúng ta hãy đón tiếp Ngài như Mẹ Maria, trong khiêm tốn, phó thác và vâng phục. Hãy đón tiếp Ngài với những tâm tình yêu thương nồng ấm. Trong những ngày này, gần ngày con sắp ra đời, Mẹ Maria đã nghĩ gì? Phải chăng Mẹ luôn tưởng nhớ đến đứa con yêu trong dạ và Mẹ yêu thương như thế nào? Chúng ta có nghĩ đến Chúa, đến tình thương khiến Ngài xuống trong xác phàm cho chúng ta không? Chúng ta có đón tiếp Ngài với tất cả tình yêu như Mẹ không?
Hãy dọn cho Ngài, không phải một máng cỏ nghèo hèn tả tơi, mà một cung điện rực rỡ tình yêu, rực rỡ những cố gắng hy sinh, rực rỡ những bông hoa bác ái chân thành.
Hôm nay, Chúa đang đến với chúng ta qua tấm bánh nhỏ, một nhập thể gần như hằng ngày. Chúng ta đón tiếp Ngài với tâm tình nào? Ngài làm thân bé nhỏ để được yêu thương hơn. Chúng ta có thực sự yêu mến Ngài không? Chúng ta có làm cho Ngài được yêu thương hơn không? Lạy Chúa, xin hãy đến.
Thật là bất ngờ khi phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm những tôi MV 4-B141
Thật là bất ngờ khi phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm những tôi tớ nhưng là những ‘tôi tớ đáng ao ước’. Chính miệng Thiên Chúa gọi Đavít là tôi tớ; Mẹ Maria cũng xưng mình là tôi tớ của Người, “Này tôi là tôi tớ Chúa”.
Bài đọc Samuel nói đến trăn trở của Đavít. Khi đã bằng yên tư bề, vua nghĩ đến việc xây cho Thiên Chúa một ngôi nhà vì hòm bia của Người đang ở trong lều bạt; Chúa phán với Nathan, “Hãy đi nói với Đavít tôi tớ Ta rằng, ‘Chúa phán, có phải ngươi sẽ xây cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?’”; “Chính Ta sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta”. Và Đavít, người ‘tôi tớ đáng ao ước’ ấy sẽ ngợi khen danh Chúa mãi mãi như lời Thánh Vịnh đáp ca tỏ bày, “Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời”. Thế nhưng, trở thành “tôi tớ Chúa” nghĩa là gì? Từ ngữ ‘tôi tớ’ có nghĩa là ‘đầy tớ’, ‘giúp việc’, ‘người hầu’. Mẹ Maria tự nhận mình là một đầy tớ, người giúp việc và cụ thể là một nữ tỳ, một người hầu gái của Thiên Chúa. Trong suốt lịch sử, một số ‘hầu gái’ là nô lệ, họ không có bất kỳ một quyền nào; họ là tài sản của chủ sở hữu, và được yêu cầu làm những gì chủ họ yêu cầu; chủ có thể bán, trao đổi họ cho người khác. Trong các thời đại và các nền văn hoá khác, hầu gái là một ‘người giúp việc’ mà họ tự chọn cho mình nhiều hơn, họ được hưởng một số quyền nhất định. Và dẫu sao, tất cả các hầu gái đều thuộc hạng thấp kém, chuyên phục vụ cấp trên.
Tuy thế, Mẹ Maria là một kiểu thức hầu gái ‘hoàn toàn mới’, ‘hoàn toàn khác’ so với quan niệm về người hầu gái của mọi thời. Tại sao như thế? Vì Đấng mời gọi Mẹ phục vụ là một Đấng hoàn toàn khác, đó là Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Và như thế, chắc chắn Mẹ là một người ‘hầu gái vượt trội’, một ‘tôi tớ thượng lưu’, cao hơn mọi tôi tớ thuộc mọi tầng lớp; Đấng Mẹ phục vụ là Đấng toàn thánh, toàn năng, hoàn hảo, Vua các vua, Chúa các chúa; Đấng dành một tình yêu hoàn hảo và thánh thiện cho Mẹ; Đấng giữ gìn Mẹ trong ân sủng, dẫn dắt Mẹ theo những cách thức của Thánh Thần để tôn tạo Mẹ, nâng cao phẩm giá của Mẹ và biến đổi người nữ tỳ của Người vốn đã được bảo bọc trong ân sủng càng được chìm đắm trong đó, ngày càng sâu thẳm hơn. Vì thế, những ai khôn ngoan, sẽ không chỉ chọn cho mình làm người phục vụ Đấng bề trên này mà còn tự do, tự nguyện và xin cho được trở thành nô lệ, tôi tớ, một ‘tôi tớ đáng ao ước’ hạ mình càng sâu càng tốt trước một cấp trên như vậy. Noi gương Mẹ Maria, chúng ta không nên do dự để hạ mình trong chiều kích sâu sắc nhất của hình thức tôi tớ và nô lệ này!
Vì thế, sự phục vụ, sự tòng thuộc của Mẹ Maria vào Đấng Mẹ phó dâng đời mình thật là mới mẻ, mới ở chỗ nó là hình thức làm tôi tớ triệt để nhất, tận căn nhất; đồng thời, nó cũng được tự do chọn lựa nhất. Tác động hỗ tương đối với Mẹ từ Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh là Mẹ luôn hướng mọi suy nghĩ và hành động, mọi đam mê và ước muốn cùng những gì nhỏ nhất trong cuộc sống Mẹ đến vinh quang, viên mãn và thánh thiện của đời sống làm tôi Chúa.
Charles Simeon, nhà giảng thuyết vĩ đại người Anh ở thế kỷ 19, sống trong hy vọng cho đến phút cuối. Những ngày sau cùng, ông hớn hở thấy thời gian trôi thật nhanh; ông chia sẻ, “Tôi tìm thấy một niềm an ủi vô bờ khi sắp về bên Chúa”. Các bạn ông hỏi tại sao? Ông trả lời, “Vì thoạt đầu, Chúa đã tạo dựng trời đất”. Bạn bè ông càng thắc mắc, tại sao suy nghĩ đó có thể mang cho ông niềm vui đến thế khi ông đang đối mặt với cái chết. Với sự tự tin của một người sắp được gặp Chúa của mình, ông nói, “Tại sao ư? Nếu từ hư vô, Thiên Chúa có thể làm nên tất cả sự kỳ diệu của thế giới này, thì Ngài vẫn có thể tạo ra một điều gì đó kỳ diệu hơn từ tôi, một tôi tớ của Ngài!”.
Anh Chị em,
Charles Simeon, Đavít, những tôi tớ của Chúa, những ‘tôi tớ đáng ao ước’; và Đức Mẹ, một kiểu mẫu tôi tớ càng cho chúng ta ao ước hơn. Lời “xin vâng” của Mẹ chứa đựng tiếng “xin vâng” của toàn bộ lịch sử cứu độ; nó khởi đầu cho lời “xin vâng” của một Thiên Chúa làm người nơi hang đá Bêlem cho đến lời “xin vâng” của Ngài để cứu chuộc cả nhân loại trên Núi Sọ. Cũng thế, chính sự tùy thuộc vào Thiên Chúa, như một tôi tớ thuộc trọn về Người, những lời “xin vâng” mỗi ngày của chúng ta trong cuộc sống, như Con Thiên Chúa, cũng có thể cứu độ cả thế giới loài người.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, ‘tôi tớ đáng ao ước’, xin cầu cho con được trở nên một tôi tớ của Chúa như Mẹ, trở nên một công cụ cứu rỗi của Chúa bằng việc không chối từ “xin vâng” mỗi ngày trước Thiên Chúa; và như thế, con sẽ cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu trong các tâm hồn”, Amen.
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”.
Kính thưa Anh Chị em,
Hôm nay, Chúa Nhật Gaudete, Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật mừng vui giữa một mùa tím chờ MV 4-B142
Hôm nay, Chúa Nhật Gaudete, Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật mừng vui giữa một mùa tím chờ mong; một lần nữa, Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Gioan Tiền Hô. Tin Mừng mở đầu thế này, “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”, và nếu hiểu được tầm quan trọng của câu đầu tiên này, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa cao cả của một sứ vụ gắn liền với một trọng trách nơi một con người ‘ắp đầy niềm vui’ một khi họ ý thức rằng, họ đang được Chúa sai đi.
Một mặt, Gioan Tiền Hô là một thành viên bình thường của loài người như chúng ta, Gioan có một tên gọi như mỗi người có một tên gọi; mặt khác, Gioan còn có một sứ mệnh vượt quá chính con người Gioan như mỗi chúng ta cảm nhận một sứ mệnh vượt quá chính con người mình. Thánh Kinh nhiều lần chứng thực, Thiên Chúa ‘đã sai’ những con người; Thiên Chúa mặc khải chính bản thân Người cho một ai đó và sai người ấy đi, để rao truyền cho những người khác sự thật về bản thân Người. Isaia trong bài đọc hôm nay là một điển hình, “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó”. Hơn thế nữa, ai thật sự biết Thiên Chúa, người ấy sẽ ‘ắp đầy niềm vui’, họ cảm thấy được thôi thúc phải truyền đạt Đấng mình nhận biết cho người khác, “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi”; niềm vui đó trào tràn nơi Đức Mẹ, cũng là một con người được sai đi, bộc lộ trong Magnificat, Thánh Vịnh đáp ca, “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”.
Để luôn ‘ắp đầy niềm vui’, người được sai biết mình không phải là ai như Gioan biết mình không phải là ai, “Tôi không phải là Đấng Kitô”, “Không phải là Êlia”, cũng “Không phải là một tiên tri”. Sự hiểu biết trung thực về bản thân là bước thiết yếu trên con đường nên thánh. Mặc dầu đang thu hút sự chú ý của nhiều người nhưng Gioan không say sưa với vị thế của một người nổi tiếng, không nắm bắt quyền lực, không tìm cách trở thành một người không phải là mình; đúng hơn, Gioan đang chuẩn bị lòng người cho Đấng đến sau ông. Ma quỷ sẽ làm mọi cách để người được sai mải mê nhìn vào bản thân và tài năng mình, hầu tìm cách đánh lạc hướng đôi mắt người môn đệ khỏi Thiên Chúa và kế hoạch của Người. Gioan đã cho chúng ta một tấm gương ngời sáng của sự hiểu biết về bản thân trước mưu chước của ma quỷ. Một khi hoàn toàn tập trung vào Chúa, chúng ta cảm thấy buộc phải loại bỏ mọi sự trùng lặp phù phiếm hay lòng tự trọng được thổi phồng; từ đó, bắt đầu sống trong sự thật, đánh giá đúng tất cả quà tặng Chúa ban và sử dụng chúng cho vương quốc Người; và đó là bí quyết giữ cho lòng mình ‘ắp đầy niềm vui’.
Bí quyết thứ hai, biết mình là ai, “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường Chúa đi”, thế thôi! Lòng Gioan không có một phân chia nào giữa điều Chúa muốn và điều Gioan muốn; Gioan chỉ biết, Chúa đưa Gioan vào thế giới để tạo nên một sự khác biệt; điều này cho thấy căn rễ sự nhiệt thành nơi Gioan vốn đã mang lại cho lời Gioan rao giảng một sức mạnh. Đơn giản, Gioan được trao một sứ mệnh, trái tim Gioan dành cho sứ mệnh, và lòng Gioan ‘ắp đầy niềm vui’.
Mọi học sinh đều biết câu chuyện ‘quả táo rơi’ và Isaac Newton, cha đẻ định luật hấp dẫn vốn đã tạo ra một cuộc cách mạng nghiên cứu thiên văn thế kỷ 16; nhưng mấy ai biết, nếu không có Edmund Halley, thế giới không bao giờ có các nguyên lý của Newton. Chính Halley, một người bạn, nhưng cũng là nguồn trợ lực vĩ đại không thể thiếu của Newton; các nhà sử học gọi Halley là một trong những tấm gương vị tha nhất trong biên niên sử khoa học. Khi Newton gặt hái những phần thưởng thì Halley như một bóng mờ; về sau, Halley đã sử dụng các nguyên lý để dự đoán ‘quỹ đạo và sự trở lại’ của sao chổi, sau này mang tên ông; chỉ sau khi chết, Halley mới nhận được sự thán phục. Phải chăng, bởi sao chổi chỉ quay trở lại sau mỗi 76 năm, một ‘năng diễn’ hiếm hoi ‘đủ cho một đời người’, nhưng Halley vẫn là một nhà khoa học tận tụy, một người lòng ‘ắp đầy niềm vui’, không quan tâm ai được tín nhiệm, miễn sao các nguyên lý được nhận thức.
Anh Chị em,
Gioan Tiền Hô là một Edmund Halley, một sao chổi Halley, “Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại”. Thế nhưng, Gioan không phải là duy nhất; trong mọi đấng bậc, Chúa cũng đã kêu gọi, đã sai mỗi người chúng ta đi hoàn thành một sứ mệnh. Nếu trái tim chúng ta gắn bó thiết tha với kế hoạch của Người, chắc chắn chúng ta cũng tạo nên một sự khác biệt, lòng chúng ta cũng ‘ắp đầy niềm vui’ một khi mỗi người luôn ý thức rằng, “Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin giúp con nhận ra sự vĩ đại của con, cùng lúc, nhận thức sự hư vô của mình; từ đó, con sẵn sàng cởi bỏ những sân si ích kỷ và trở nên một công cụ trung thành cho tình yêu Chúa, và như vậy, lòng con cũng sẽ ‘ắp đầy niềm vui’ hôm nay và ngày sau trên trời”, Amen.
Qua các phương tiện truyền thông đây đó, ta thấy nơi các bản làng ở khu vực Tây Bắc Việt Nam MV 4-B143
Qua các phương tiện truyền thông đây đó, ta thấy nơi các bản làng ở khu vực Tây Bắc Việt Nam, xuất hiện những hình ảnh thật cảm động, đó là những gương cố gắng của các em học sinh nơi đây khi hằng ngày phải lội suối hay đu cáp treo chênh vênh để đến trường học cho được “cái chữ, cái nghĩa”.
Trước thực trạng ấy, có lẽ không gì quý giá đối với các em cho bằng có được một cây cầu nối liền đôi bờ. Tuy nhiên, cây cầu đó phải đảm bảo, vững chắc, nếu không sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng nếu chẳng may bị sập hay bị nước cuốn trôi khi mọi người đang tham gia giao thông!
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội muốn giới thiệu với chúng ta một cây cầu rất vững chắc, đẹp đẽ và an toàn, đó là Mẹ Maria.
Mẹ Maria, cây cầu của Thiên Chúa và của con người
Kể từ lúc Evà phạm tội chống lại Thiên Chúa qua hành vi bứt Trái Cấm để ăn, thì Evà cũng như dòng dõi của Bà đã đi vào ngõ cụt để lãnh hậu quả, đó là đau khổ và chết chóc. Vì thế, giữa con người và Thiên Chúa có một khoảng cách xa vời vợi!
Nhưng, Thiên Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương, nên Người đã không bỏ mặc con người ở bên kia của sự chết, nhưng đã tìm mọi cách để đưa con người đến nguồn sự sống.
Tuy nhiên, Người không muốn đơn phương thực hiện ý định này. Vì thế, Người đã tuyển chọn Đức Maria giữa bao người phụ nữ. Khi quyết định chọn Mẹ để cộng tác, Thiên Chúa cũng đã chuẩn bị cho Mẹ những đức tính cần thiết, nhằm giúp Mẹ xứng đáng trong vị trí làm Mẹ Con Thiên Chúa, trở thành cây cầu bắc nhịp cho Đấng Cứu Thế đến với nhân loại trong thân phận con người nơi cung lòng của Mẹ, để Ngài trở nên trung gian duy nhất nối liền giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người.
Sau khi biết ý định của Thiên Chúa muốn mình trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ đã cúi mình đón nhận: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”.
Cây cầu vững chắc nhờ đức khiêm nhường nơi Mẹ
Thật là kỳ lạ đến độ khó hiểu khi Thiên Chúa luôn luôn biểu dương uy quyền ngay trong sự yếu đuối của con người! Chẳng hạn như việc quyết định cứu chuộc nhân loại, Người đã để Con của mình đến trần gian trong thân phận con người với đầy đủ những yếu tố và giới hạn của một phận người!
Rồi khi lựa chọn một người phụ nữ để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không chọn những cô công chúa, giàu có, sang trọng, uy quyền, mà lại chọn một người nữ thôn quê bình dị với cuộc đời âm thầm gần như tuyệt đối!
Tuy nhiên, khi lựa chọn như thế, Thiên Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng: tự thân con người chẳng là gì nếu không phải do tình thương của Người. Những ơn ban của Thiên Chúa cho con người hoàn toàn nhưng không do lòng thương xót của Người. Phần con người chỉ cần biết đón nhận trong đức tin và lòng mến khi được đức khiêm nhường làm nền tảng, thì Thiên Chúa sẽ thực thi cách nhiệm mầu và phi thường để làm nên những chuyện lớn lao.
Nhìn vào toàn bộ cuộc đời của Mẹ Maria, chúng ta thấy nơi Mẹ luôn luôn tỏa sáng nhân đức khiêm nhường. Mẹ khiêm nhường khi sống ẩn dật trong một gia đình ở làng quê vô danh tiểu tốt. Khiêm nhường trong tâm thế của người nỹ tỳ khi cúi đầu đón nhận lời thiên sứ Gabriel loan báo tin Mẹ mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Khiêm nhường để thay ý mình bằng ý Chúa. Khiêm nhường để phó thác, cậy trông và trung thành với Con Chí Ái từ làng quê Nazareth đến đồi Canvê cũng như ngay trong căn phòng Tiệc Ly khi cùng cầu nguyện với các môn đệ để xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong Giáo Hội.
Như vậy, Mẹ Maria được ví như một cây cầu vững chắc, bởi vì Mẹ được chính Thiên Chúa là người đứng ra xây dựng. Mẹ là cây cầu đẹp đẽ vì những chất tố nơi Mẹ được Thiên Chúa trực tiếp tuyển lựa. Mẹ là cây cầu an toàn vì Thiên Chúa đã xây dựng bằng chính chất liệu khiêm nhường.
Mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên những cây cầu
Như Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận ý Thiên Chúa để trở nên cây cầu bắc nhịp cho Ngôi Hai Thiên Chúa đến với nhân loại. Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng được mời gọi trở thành những cây cầu nối liền giữa người với người, giữa người với Thiên Chúa.
Ngày nay, số người chưa tin Chúa trên thế giới chiếm đa số. Mặt khác, ngay trong lòng Giáo Hội, nhiều người tin Chúa nhưng tin nửa vời rất nhiều, tin trong giấy tờ, chứ thực ra niềm tin chưa bén rễ sâu để dẫn tới thái độ sống đạo thực thụ.…
Việc nhiều người chưa tin Chúa có nhiều lý do: có thể họ chưa được nghe nói về Chúa; có thể họ đã có một tôn giáo hay tín ngưỡng trước đó; cũng có thể họ là người chủ chương vô thần? Còn những người tin Chúa nhưng tin nửa vời, tin không sâu sắc: có thể do họ đi tìm Chúa với những ý niệm thực dụng; muốn lôi kéo Thiên Chúa phải theo ý mình dù đó là điều trái khuấy…! Khi không được như ý, họ có thể thờ ơ, dửng dưng hoặc có thể đánh đổi niềm tin…!
Trước thực trạng ấy, nhiều khi chúng ta phải đấm ngực ăn năn rằng: sự ù lỳ, đó kỵ hay ích kỷ đã làm cho chúng ta thu mình lại trong những vỏ bọc an toàn của luật lệ, của không gian xứ đạo, hay môi trường an toàn…, để lựa chọn sự an thân, nên không dám vượt ra khỏi trung tâm để đến với những anh chị em bên lề…. Mặt khác, nhiều khi chúng ta có khái niệm chỉ truyền giáo cho những ai cần và tìm đến chúng ta, còn việc đi đến với họ để giới thiệu Chúa cho những người chưa biết thì chỉ là chuyện cưỡi ngựa xem hoa, nếu không muốn nói là không có khái niệm ấy ở trong đầu! Bên cạnh đó, hình ảnh mặt mày cau có, tính tình gắt bẳn, ăn trên ngồi trước, gian dối, hai mặt, khẩu phật tâm xà…, đã làm cho hình ảnh trung thực của Đức Kitô không thể lộ hiện trong cuộc đời và hành vi của chúng ta! Hơn nữa, sự sợ hãi do sức khỏe, chất lượng cuộc sống, khí hậu hay do những kẻ chống đối…, cũng là những rào cản lớn khiến chúng ta chùn chân bước…!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tiếp nối vai trò của Mẹ Maria, đó là: bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh chúng ta.
Những nhịp cầu mà chúng ta cần phải bắc, đó là: bước ra khỏi những gì là đảm bảo để đến với anh chị em mình bằng sự hiện diện sống động qua khuôn mặt dễ thương, lời nói chân tình cũng như cung cách sống đầy vui tươi, thân thiện và xót thương của mình.
Luôn biết noi gương Mẹ Maria để sẵn sàng từ bỏ những ý riêng, định kiến đã có từ lâu, để thay vào đó là thánh ý Chúa. Luôn vững tin vào Chúa như Mẹ để trước những thử thách đau thương do sứ vụ mang lại, chúng ta kiên tâm vì luôn luôn có Chúa đồng hành.
Muốn làm được điều đó, trên hết mọi sự, chúng ta phải có đức khiêm nhường như Mẹ Maria. Có thế, mỗi người mới thực sự xứng đáng trở thành cây đầu đẹp đẽ, bền vững và an toàn cho những ai muốn đi trên nó để gặp được Thiên Chúa là tình yêu. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ để chúng con biết làm vinh danh Chúa khi trở thành những cây cầu dẫn đưa anh chị em chúng con về với Chúa. Amen.
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Cho dù từ ngàn đời con người đã phạm tội chống lại Trời MV 4-B144
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Cho dù từ ngàn đời con người đã phạm tội chống lại Trời, nhưng Trời vẫn thương và tìm mọi cách để cứu lấy dòng giống loài người. Trước khi chúng ta nhận biết Thiên Chúa thì chính Ngài đã biết chúng ta. Trước khi chúng ta khấn cầu Thiên Chúa thì Ngài đã tìm cách để giúp đỡ chúng ta. Điều mà Thiên Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta là sự nhìn nhận thân phận của mình mà chạy đến cùng Người.
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta từ trước
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Samuel kể chuyện thánh vương Đavit. Vua Đavit thấy Hòm Bia Thiên Chúa phải để ở lều tạm thì không đành lòng. Vua lên kế hoạch xây cho Thiên Chúa một ngôi đền. Nhưng Vua đâu có ngờ, chính Thiên Chúa đang chuẩn bị cho vua một ngôi đền, một triều đại vững bền qua muôn thế hệ.
Qua miệng ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa đã nhắc lại cho vua Đavit: Chính Thiên Chúa đã cất nhắc nhà vua lên từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng; chính Thiên Chúa hằng luôn bên cạnh để bảo vệ nhà vua; chính Thiên Chúa đang chuẩn bị triều đại vương quyền cho nhà vua. Chính Thiên Chúa đã yêu thương, nâng đỡ và chuẩn bị cho vua Đavit trước khi nhà vua biết nghĩ đến Ngài.
Qua thư gửi tín hữu Roma, thánh Phaolô nhắc lại cho chúng ta chân lý ngàn đời ấy: “mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày”. Thánh nhân đã khẳng định lại cho chúng ta rằng: việc Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người là để “thông báo cho muôn dân biết” điều đã có từ đời đời để cho chúng ta tin mà vâng phục Thiên Chúa.
Câu chuyện càng trở nên sáng tỏ hơn với nhân vật Maria trong bài Tin Mừng. Đức Trinh Nữ Maria là một con người bé nhỏ nơi miền quê hẻo lánh. Nhưng Thiên Chúa đã tuyển chọn Maria và chuẩn bị từ trước cho công cuộc cứu chuộc loài người của Ngài.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào con đường của Ngài
“Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời thiên sứ chào trinh nữ Maria đã khẳng định rõ nét tình thương yêu của Thiên Chúa dành cho Maria. Chính Thiên Chúa đã đổ tràn ân sủng trên con người Maria; chính Thiên Chúa ở cùng Maria; chính Thiên Chúa đang đồng hành cùng Maria; chính Thiên Chúa đang mời gọi Maria bước vào huyền nhiệm của ơn cứu độ.
Thiên Chúa đã mời gọi Maria đón nhận tình thương của Ngài thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa mời gọi Maria không phải vì Maria xứng đáng với ơn cao trọng đó, nhưng vì Thiên Chúa muốn. Và nếu phải cần một sự tương xứng thì chính ơn Chúa đến để thánh hoá Maria nên xứng đáng.
Maria đã suy xét mọi sự với tất cả sự khôn ngoan của con người có trách nhiệm. Maria đã cân nhắc điều mà thiên sứ loan tin: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến người nam”. Thế nhưng, điều khôn ngoan vĩ đại nơi con người chỉ là trò trẻ nhỏ trước nhan Thiên Chúa. Đường lối của Thiên Chúa cao vời và vượt xa những gì con người có thể suy xét. Chính bởi thế, khi được thiên sứ cho biết đó là công trình của Thiên Chúa thì Maria đã ý thức được thân phận của mình mà thân thưa cùng Chúa:“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần truyền”.
Con người cần phải chấp nhận chính mình để biết cậy dựa vào Thiên Chúa
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”. Maria đã ý thức được thân phận của mình đầy yếu đuối, dòn mỏng và dễ sa ngã. Maria thấy mình chẳng đáng là gì trước nhan Thiên Chúa. Maria chỉ dám nhìn nhận mình là nữ tỳ của Chúa. Chính khi Maria nhìn nhận thân phận, vị thế của mình là lúc Thiên Chúa có cơ hội để thực hiện công trình cao cả của Ngài; chính khi Maria nhìn nhận sự trống rỗng của mình là lúc Thiên Chúa đổ tràn ân sủng trên Maria; chính khi Maria từ bỏ tất cả là lúc Thiên Chúa ban cho Maria mọi sự.
Nhân loại ngày nay đang gào thét đòi quyền tự do cho cái tôi của mình. Chính khi chủ nghĩa cá nhân lên ngôi là lúc con người rơi vào cô đơn và lạc lõng. Khi con người hét lên “Thiên Chúa đã chết”; hay khi con người la lên “tôi phải làm chủ chính tôi, chẳng có Chúa nào hết”; hoặc khi con người tự hào “bàn tay ta làm nên tất cả”… là lúc con người đang lặp lại sự điên khùng của nguyên tội Adong và Eva. Họ đang dám kiêu căng ngạo mạn với Trời. Thái độ kiêu ngạo ấy chỉ đẩy bản thân bạn xa dần Thiên Chúa. Còn Thiên Chúa thì vẫn ở đó kêu gào bạn hãy trở lại với Ngài. Thiên Chúa vẫn giang tay trên thập giá để đón chờ sự trở lại của bạn.
Điều Thiên Chúa mong mỏi là bạn nhìn nhận thân phận thật của kiếp người. Chỉ khi nào bạn thốt lên: sao tôi yếu đuối thế này! sao tôi dễ đổ vỡ thế này! sao tôi tội lỗi thế này! sao tôi không thể làm được điều tôi mong muốn thế này!… Lạy Chúa, xin cứu lấy con! thì lúc đó Thiên Chúa mới có thể đi vào trong tâm hồn bạn để nâng bạn lên.
Vâng, Thiên Chúa hằng ở bên chúng ta, hằng yêu thương và tìm mọi cách để cứu lấy chúng ta. Mùa Vọng là mùa mong chờ Chúa đến. Nhưng Chúa chỉ có thế đến được trong tâm hồn bạn, trong gia đình bạn khi bạn biết nhìn nhận thân phận của mình, biết trở về khi lầm lạc, biết chạy đến với Chúa xin Người kéo bạn lên. Lạy Chúa, chúng con là kẻ yếu hèn. Xin Ngài hãy đến và thánh hoá chúng con.
Mùa Vọng đã bước vào giai đoạn cuối. Như vậy, nỗi mong chờ của chúng ta sắp được mãn nguyện MV 4-B145
Mùa Vọng đã bước vào giai đoạn cuối. Như vậy, nỗi mong chờ của chúng ta sắp được mãn nguyện, nhưng không vì thế mà lơ là bổn phận. Trong những ngày cuối của mùa Vọng, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về “cái lưỡi”.
Chuyện kể rằng chủ nhân sai gia nhân ra chợ mua thứ gì ngon nhất, gia nhân đi và mua về “cái lưỡi”. Hôm sau ông lại sai gia nhân ra chợ mua món gì dở nhất, gia nhân đi và lại mua về “cái lưỡi”. Chủ nhân “mắt chữ O và miệng chữ A”, gia nhân điềm nhiên giải thích: “Tốt hay xấu cũng do cái lưỡi mà ra”. Quả thật, lưỡi không xương nhiều điều lắt léo!
Người ta nói được nhờ cái lưỡi, có người dùng cái lưỡi để nói những “lời hay, ý đẹp”, khuyến khích, khuyên bảo, cầu nguyện, hòa giải,… Nhưng có người lại dùng cái lưỡi để chỉ trích, gây chia rẽ, phỉ báng, nguyền rủa, trách móc, chê bôi, chửi rủa,… Tốt hay xấu cũng từ cái lưỡi, và chính cái lưỡi tạo nên nhiều rắc rối, do đó mà ca dao Việt Nam có câu nhắc nhở:
Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Sách Huấn ca khuyên: “Hãy nghe dạy bảo về lời ăn tiếng nói, vì ai tuân giữ, không bị bắt lỗi bao giờ. Chính do môi miệng mà tội nhân bị bắt bẻ, cũng do đó, đứa lăng mạ và kẻ tự cao phải vấp phạm” (Hc 23:7-8), và dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đẩy dục vọng xa khỏi con, xin chớ để thói ăn chơi trụy lạc thống trị con, đừng để con đắm chìm trong những dục vọng trơ trẽn” (Hc 23:5-6).
Người khôn dùng cái lưỡi theo cách khác, người dại dùng cái lưỡi theo cách khác. Người khôn ít nói, vì:
Chim khôn chưa bắt đã bay Người khôn chưa nói đã cay lòng rồi
Dư luận có thể tốt, cũng có thể xấu, thường thì xấu nhiều hơn, người ta thường “đổ dầu vào lửa”, cho nên đôi khi phải can đảm “đạp dư luận” mà sống. Cứ nghe và xét mình, đừng vội tin và đừng hoảng sợ. Miệng lưỡi thế gian mà:
Chỉ đâu mà buộc ngang trời Tay đâu mà bụm miệng người thế gian
Đáp ca tuần IV mùa Vọng là Tv 88: “Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời”. Ca ngợi thì phải dùng miệng, nghĩa là cũng liên quan “cái lưỡi”. Chúng ta không chỉ dùng miệng lưỡi để ăn uống, giúp duy trì sự sống, và để đối thoại với nhau hàng ngày, chúng ta còn phải dùng miệng lưỡi để xưng tụng Thiên Chúa: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 88, 2). Vâng, “tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 88, 3). Giao ước đó đã được thề hứa với thánh vương Đavít, và sẽ bền vững đến ngàn đời, qua muôn thế hệ” (x. Tv 88, 4-5).
Chúng ta còn phải dùng cái lưỡi để nói về Chúa, rao truyền Ơn Cứu Độ, quảng bá Lời Chúa, làm vinh danh Thiên Chúa (x. Rm 16:25-27). Trách nhiệm của chúng ta là phải khôn khéo dùng miệng lưỡi. Có những điều không nên nói hoặc không được nói, nhưng có những điều phải nói, không nói không được, không nói là có lỗi.
Về cách dùng miệng lưỡi, chúng ta hãy học tập Đức Maria: “Xin vâng”. Trình thuật Lc 1:26-38 kể rằng khi sứ thần Gáprien tuân lệnh Thiên Chúa đến truyền tin: “Mừng vui lên, hỡi người đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe vậy, thôn nữ Maria đã bối rối và chẳng hiểu “ất giáp” gì ráo trọi. Sứ thần trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”. Đức Maria càng rối hơn, vừa hoảng hốt vừa e thẹn nói: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Nghe sứ thần giải thích đó là quyền năng Chúa Thánh Thần và chứng minh người chị họ Êlisabét, bị mang tiếng là hiếm hoi, già rồi mà cũng đang cưu mang một nam nhi được sáu tháng. Đặc biệt sứ thần nói rằng đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được. Thế là thôn nữ Maria an tâm, phấn khởi và tin tưởng nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Đức Mẹ là thôn nữ nhưng kiều diễm, nét đẹp dịu dàng ấy hẳn khiến bao chàng trai “lé mắt”. Dù là mỹ nhân nhưng thùy mị, đoan trang, sống giản dị, luôn khiêm nhường, đặc biệt là tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhờ lời “xin vâng” của Đức Mẹ, nhẹ nhàng mà quyết liệt, chúng ta mới có niềm hy vọng nhận lãnh Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa trao ban. Đức Mẹ đã sử dụng cái lưỡi thật khôn khéo! Xin cảm ơn Đức Mẹ.
Có những người trở thành vĩ nhân nhờ cái lưỡi, họ đã khôn ngoan dùng cái lưỡi để nói vì nền hòa bình thế giới. Đó là một Mohandas Gandhi (Ấn giáo), một Martin Luther King (Tin Lành), một Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta (Công giáo) và một Đức Đạt Lai Lạt Ma (Karmapa Lama, Phật giáo).
Xin mượn lời của Homer W. Grimes để tâm sự với Chúa: “Làm sao con có thể cho Ngài ít hơn những gì con có khi Ngài đã cho con tất cả? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, Đấng đã từ bỏ ngai vàng trên trời để chịu chết trên đồi Canvê? Con có thể dâng tặng cho Ngài những gì, thưa Thầy, Đấng đã ban tất cả cho con, không chỉ một phần hay một nửa trái tim con? Con sẽ dâng tặng Ngài tất cả!”.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện, xin dạy chúng con biết cẩn thận từng lời nói, biết sử dụng cái lưỡi cho đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con luôn ngưỡng vọng Ngôi Hai giáng trần, chúng con khao khát Ơn Cứu Độ, xin tuôn tràn Mưa Giêsu gội mát mảnh đất tâm hồn khô cằn của chúng con. Xin giúp chúng con can đảm bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, để tạo nên con đường thẳng tắp và phẳng phiu cho Vương Nhi Giêsu đến với chúng con. Xin ân thương tha thứ mọi tội lỗi, xin tha thứ cả những lúc chúng con không tích cực làm điều tốt. Chúng con cầu xin nhân Danh Vương Nhi Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Gioan cất tiếng hô vang: Bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, uốn đường Để Ngôi Hai, Chúa thiên cung Giáng trần cứu độ, yêu thương nhân loài
Thánh Gioan Tiền hô luôn gắn liền với Mùa Vọng như một “định mệnh”. Ông là người “mở đường MV 4-B146
Thánh Gioan Tiền hô luôn gắn liền với Mùa Vọng như một “định mệnh”. Ông là người “mở đường” cho Chúa đến, là nhân vật quan trọng trong công cuộc Cứu độ của Thiên Chúa, nhưng ông lại rất khiêm nhường, không nhận mình là ngôn sứ hoặc là gì khác, chỉ tự nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:23) và “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu” (Ga 1:27).
Thánh Gioan Tiền hô là một thanh niên trẻ nhưng nhìn rất “bụi” trong trang phục áo da thú, hẳn là nhìn ông rất khắc khổ vì ông ăn chay trường: Hàng ngày chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Có thể coi Thánh Gioan Tiền hô là Mặt Trăng, còn Chúa Giêsu là Mặt Trời, nhưng không hề “đối kháng” theo ý câu “như mặt trời và mặt trăng” khi chúng ta nói về 2 người đối lập. Mặt trăng sáng nhờ mặt trời, “mặt trăng” Gioan Tiền hô sáng nhờ “mặt trời công chính” Giêsu. Chúng ta là những ngôi sao bé nhỏ trong vòm trời yêu thương nên chắc chắn cũng chỉ sáng nhờ Mặt Trời Giêsu.
Thánh Gioan Tiền hô có “nét” độc đáo và khác người, ước muốn của ông cũng chẳng giống ai: Ông muốn Chúa phải LỚN lên, còn ông phải NHỎ lại. Đó là “chất riêng” của ông, không lẫn với ai. Ông quá khiêm nhường. Có lẽ đây là điều rất khó đối với chúng ta, vì chúng ta thường muốn mình nổi trội hơn người khác, ngay cả khi chúng ta làm những việc mà chúng ta gọi là “làm việc tông đồ”, làm việc bác ái hoặc làm từ thiện. Dù không nói ra, nhưng động thái của chúng ta chứng tỏ chúng ta “ngụ ý rằng “trước khi sáng Danh Chúa thì phải sáng danh con”.
Có lần Lm. Vinh sơn Ngô Minh Tân (Gx Bình Lợi, hạt Gia Định) nói trong một thánh lễ chiều (mùa Vọng, 2011): “Chúng tôi vẫn được dạy rằng linh mục luôn phải coi chừng vì có thể chính mình che choán hết Thiên Chúa!”. Con người dễ ảo tưởng và kiêu sa lắm, dễ suy luận chủ quan theo ý mình, vì thế mà lúc nào cũng phải “tỉnh thức” và phải dám “luôn luôn lắng nghe” để có thể “luôn luôn thấu hiểu”. Cương vị nào cũng khả dĩ có cách kiêu ngạo đặc thù. Mặc dù “con người chỉ là cây sậy có lý trí” nhưng “cái TÔI đáng ghét” kia vẫn sẵn sàng trỗi dậy bất kỳ lúc nào!
Người ta nói: “A-xít làm cháy tiền, tiền làm cháy tim phụ nữ, phụ nữ làm cháy tim đàn ông”. Một cách nói “độc đáo” thật. Còn Thánh Phaolô nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Tiền bạc có hệ lụy với quyền lợi, quyền lợi có hệ lụy với con người, vì thế mà tiền bạc có ma lực khiến người ta mê muội và kiêu ngạo. Có lẽ vì vậy mà người Pháp có câu: “Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu” (L’argent est un servant bon, mais un maitre mal).
Thánh Gioan Tiền hô là người có cuộc sống thoát ly tiền bạc, vật chất. Tài sản của ông chỉ có bộ áo da thú khoác trên mình. Ông sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, không lệ thuộc vật chất. Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20).
Con người có nhiều thứ giằng co trong mình, đôi khi cảm thấy mình như bất lực với chính mình. Chua biết rõ mười mươi, vì thế Ngài đã động viên: “Đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa” (Ga 14:1), và Ngài còn hứa rõ ràng và quyết liệt: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Đấng Thiên Sai, xin cho chúng con can đảm noi gương sống của Thánh Gioan Tiền hô. Xin Ngôi Hai mau đến cứu chúng con thoát khỏi ngục-tù-tội-lỗi. Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Kitô. Amen.
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV muà vọng, thời điểm gần hơn của Lễ Chúa Giáng Sinh MV 4-B147
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV muà vọng, thời điểm gần hơn của Lễ Chúa Giáng Sinh. Thời điểm này Giáo Hội trình bày cho chúng ta một gương mặt quan trọng của biến cố Chúa Giáng Sinh. Đó chính là Đức Maria, một người nữ đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, để qua Người, Con Thiên Chúa được Nhập Thể và Nhập Thế.
Đức Maria là một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi người thiếu nữ khác nhưng là người đặc biệt hơn mọi thiếu nữ khác vì được "đầy ân sủng" và được "Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1, 28). Hơn nữa, Đức Maria là người được chọn làm Mẹ Đấng Messia (Lc 1, 30 -33). Mặc dù được những ưu tiên như thế nhưng Mẹ Maria không tỏ ra kiêu căng, ngược lại, Đức Maria đã làm theo sáng kiến của Thiên Chúa trong tâm tình khiêm tốn, Vâng Phục Ngài cách tuyệt đối.
Con người là một tạo vật được Thiên Chúa yêu thương, và vì yêu thương mà Ngài đã dựng nên. Ngài ước ao sẻ chia tình yêu thương nên đã tạo dựng con ngưởi, một lòai thụ tạo trên mọi loài thụ tạo. Nhưng khác với mọi thụ tạo khác, con người có lý trí, ý chí và con người còn có tự do, nó có thể ước muốn, đón nhận hay chối từ món quà của Thiên Chúa, có thể nói tiếng "xin vâng" hay "không xin vâng" với lời mời gọi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn muốn cho con người hạnh phúc và Ngài tôn trọng tự do của con ngươi. Vì được tự do và muốn làm theo ý mình nên người nữ đầu tiên tức là Bà Evà đã phạm tội, Bà đã đưa nhân lọai vào sự chết do bất tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Ngược lại, Đức Maria được coi là Bà Evà mới, dùng sự tự do của mình để hoàn toàn vâng phục và cộng tác với sáng kiến của Thiên Chúa, để Ngài thực hiện chương trình cứu độ trong cuộc đời mình.
Đọc lại bài Tin Mừng Lc 1, 26 - 38 này, ta được chứng kiến giây phút lịch sử của tình thương, giây phút tràn trề niềm hy vọng, giây phút mang lại sự sống mới, sự sống cứu độ đến cho con người.
Sống trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, như những người khác, Đức Maria đang trông chờ Đấng Cứu Thế. Mẹ nhìn thấy sự lầm than khốn khổ của con người, nỗi trông chờ Đấng mang ân sủng đến cho con người của nhân loại của Đức Maria. Đức Maria cũng có những dự tính riêng tư, có cách sống cho riêng mình để hiến dâng cho Thiên Chúa những gì cần thiết. Mẹ đã sẳn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Vì thế, khi được sứ thần đề nghị Mẹ cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa thì Mẹ chấp nhận ngay, Mẹ đã nhận lời với tâm tình của một người tôi tớ, đón nhận tất cả trong sự vâng phục.
Tiếng "Xin Vâng" của Đức Maria âm thầm lăng lẽ trong ngôi nhà nhỏ bé. Việc Chúa khởi đầu bao giờ cũng nhỏ bé, nơi những con người nhỏ bé. Tiếng "Xin Vâng" với lòng yêu mến và sự khiêm hạ của Đức Maria đã trổ sinh sự sống mới cho con người. Từ tiếng "Xin vâng" của Đức Maria mà Thiên Chúa làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ con người. Mẹ đã góp phần vào ơn cứu độ thế giới, qua việc hiến dâng bản thân mình, sẳn sàng phục vụ cho ý muốn của Thiên Chúa.
Càng nhìn về Đức Maria, càng cho ta thấy mẫu gươngvề sự cộng tác với Thiên Chúa. Cuộc sống có những điều xảy đến ngoài ý muốn của mình. Xin Chúa cho ta biết can đảm chấp nhận. Ngoài ra chúng ta biết cho đi những định kiến, nóng vội, những trái ý trong cuộc sống.... khi có những người không làm cho mình vui. Đó là lúc chúng ta đi theo bước chân của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vui lòng cộng tác với Thánh Ý Thiên Chúa, Mẹ là Đấng đồng công Cứu chuộc, là máng chuyển thông ơn cho nhân loại. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống đạo cho nên, biết thờ phượng Chúa cho phải Đạo, và sẳn sàng yêu thương, giúp đỡ cho tha nhân,.. để nhằm làm sáng danh Chúa. Amen.
Lc 1: 26-38: Trong lúc loài người chúng ta phải chịu nhận lấy số mệnh như một cái may cái rủi, tốt ai nấy nhờ, xấu ai nấy chịu, thì Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người mẹ được tuyển chọn và điểm tô từ muôn đời, giữa muôn người phụ nữ.
Họa sĩ Whistler vẽ một bức chân dung của mẹ ông. Các bạn ông ai cũng cho là tuyệt đẹp. Họa MV 4-B148
Họa sĩ Whistler vẽ một bức chân dung của mẹ ông. Các bạn ông ai cũng cho là tuyệt đẹp. Họa sĩ đáp:"Các bạn đều biết rõ, ai lại không muốn cho mẹ mình được đẹp hơn hết !"
Thật vậy, nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người xinh đẹp và đạo đức như ý tôi muốn.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa toàn năng, lúc muốn giáng sinh làm người, đương nhiên Ngài sẽ tuyển chọn một người mẹ lý tưởng và điểm tô người mẹ ấy xinh đẹp và thánh thiện hơn các người phụ nữ khác, vì là Mẹ Thiên Chúa. Trong lúc loài người chúng ta phải chịu nhận lấy số mệnh như một cái may cái rủi, tốt ai nấy nhờ, xấu ai nấy chịu, thì Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người mẹ được tuyển chọn và điểm tô từ muôn đời, giữa muôn người phụ nữ.
Đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử: Một người con chọn một người mẹ. Mà không phải chọn như một nhà độc tài, yêu cầu kẻ khác làm theo ý mình vô điều kiện. Thiên Chúa còn chọn cả ý muốn của người mẹ ấy. Ngài còn muốn lệ thuộc quyền tự do, sự ưng thuận của người mẹ ấy nữa. Vậy sau khi đã tuyển chọn và điểm tô một Trinh Nữ xinh đẹp thánh thiện, Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến trong khuê phòng tĩnh mịch của Trinh Nữ Maria, ngỏ lời cùng Trinh Nữ: "Mừng vui lên, hỡi Người-Đầy-Ơn-Phúc ! Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ". Thiên Chúa Tình yêu chỉ muốn được đáp trả bằng tình yêu. Đức Maria đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa bằng hai tiếng "Xin Vâng" để cộng tác vào kế hoạch tình yêu của Ngài: cứu chuộc nhân loại.
Thưa anh chị em,
Hai công trình kiệt tác vĩ đại nhất Thiên Chúa đã thực hiện vì yêu thương nhân loại, đó là tạo dựng loài người và cứu chuộc loài người, hay là công trình tạo dựng thứ hai. Trước khi tạo dựng loài người, Thiên Chúa đã xây dựng và điểm tô một nơi gọi là Vườn Địa Đàng. Nhưng hai Ông Bà nguyên tổ đã đạp đổ chương trình tốt đẹp này và hạnh phúc loài người cũng tan vỡ theo. Chính trong lúc ấy, Thiên Chúa dự định một công trình tạo dựng thứ hai: cứu chuộc loài người. Để thực hiện công trình mới này, Thiên Chúa cũng muốn điểm tô một Vườn Địa Đàng mới. Trong Vườn Địa Đàng mới này sẽ không bao giờ có mụn cỏ dại, không bao giờ có vết con rắn bò qua, không bao giờ có bóng cây biết lành biết dữ. Vườn Địa Đàng mới này là cung lòng Trinh Nữ Maria, nơi Con Thiên Chúa sung sướng đến nghỉ ngơi chín tháng mười ngày. Vườn Địa Đàng mới này là công trình của Thiên Chúa Nhập Thể. Như trong Vườn Địa Đàng Ađam-Evà, trong Vườn Địa Đàng Maria cũng diễn ra một hôn lễ long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa một Thiên Chúa với nhân loại. Và từ đó tình yêu đã bắt lại nhịp cầu giữa Trời và Đất, khai mạc một Thời Đại Mới.
Và cũng từ lúc nói lên lời ưng thuận: "Xin Vâng", Đức Maria đã trở thành một Evà Mới. Evà xưa đã chối bỏ kế hoạch tình yêu của Chúa để theo kế hoạch đen tối của ma quỉ và đem tội lỗi cùng với cái chết vào trần gian cho con cái loài người. Còn Evà Mới - Đức Maria - đã luôn coi mình là nữ tỳ, là người tôi tớ, nên đã trở thành người diễm phúc, xứng đáng làm Mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người và làm Mẹ của cả loài người chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi cộng tác với Ngài trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Như Đức Maria, chính lòng tin vào Lời Chúa và sự vâng theo ý Chúa trong cuộc đời chúng ta là sự đóng góp tích cực với Chúa trong chương trình cứu độ chúng ta và toàn thế giới. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do của chúng ta. Thánh Augustinô đã nói: "Thiên Chúa khi tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta, nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta." Ngài xin chúng ta cộng tác. Đó là lời mời gọi Sứ Thần Gabriel đã trao gởi với Đức Maria theo kế hoạch của Thiên Chúa. Mẹ phải tạo điều kiện cho Thiên Chúa làm người trong thân phận người con của Mẹ. Như thế, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi đáp trả cho Thiên Chúa, để Ngài có thể tháp nhập và thể hiện mầu nhiệm tình yêu của Ngài trong đời sống con người chúng ta.
Thiên Chúa đòi hỏi một đáp trả tự do. Ngài không áp đặt điều gì. Ngài chỉ đề nghị. Để thực hiện một công trình yêu thương, cần phải có một nhiệt tình yêu thương thuần túy. Công trình cứu độ là một công trình yêu thương tuyệt vời, không thể nào là công việc thuê mướn được. Tiếng "Xin Vâng" của Đức Maria đã bộc phát cách đơn thành từ trái tim của Mẹ. Đó có phải là cách đáp trả mà ta đang chuẩn bị để thưa lại với Thiên Chúa không ?
Từ lời thưa "Xin Vâng", Đức Thánh Trinh Nữ đã hoàn toàn tận hiến mình để thực hiện thánh ý Chúa. Lời thưa "Xin Vâng" mà Thiên Chúa chờ đợi nơi các kitô hữu chúng ta phải là lời "Xin Vâng" trọn vẹn, tuyệt đối, một lời thưa "Vâng" dứt khoát, một tiếng "Vâng" bất chấp mọi lý luận, đi ngược lại mọi thứ khôn ngoan loài người. Noi gương Đức Maria, Mẹ chúng ta, chúng ta đừng sợ hãi và hoàn toàn dấn thân vào cuộc "mạo hiểm tình yêu cao cả nhất".
Xin Đức Maria giúp chúng ta mở rộng lòng đón nhận Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa luôn hiện diện trong con người và cuộc đời chúng ta. Rồi cũng theo gương Đức Maria, xin cho chúng ta nhận ra trách nhiệm đem Chúa đến cho anh em đồng loại, mở đường cho Thiên Chúa đi vào xã hội loài người.
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối, mong manh. Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu, nếu có lúc con mệt mõi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên rằng: Sao Cha bỏ con ? Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lc 1: 26-38: Trong lúc loài người chúng ta phải chịu nhận lấy số mệnh như một cái may cái rủi, tốt ai nấy nhờ, xấu ai nấy chịu, thì Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người mẹ được tuyển chọn và điểm tô từ muôn đời, giữa muôn người phụ nữ.
Trình thuật truyền tin là một trong những trình thuật gây xúc động nhất trong Tin mừng, một trang MV 4-B149
viết tuyệt diệu. Ngạc nhiên và sung sướng biết bao ! Một vì Thiên Chúa lại hạ mình sinh làm con một trinh nữ nhỏ bé vô danh tiểu tốt để mang ơn cứu độ cho nhân loại. Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ của Ngài, nhưng lại mời gọi sự cộng tác của con người. Đức Maria chính là người thay mặt cho cả nhân loại để xin vâng theo ý Chúa, cộng tác tích cực vào công trình của Chúa.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Lc 1,26-38
1. Một mạc khải về Chúa Giêsu: Mục đích đầu của bản văn này, cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là ai ? Một loạt các tước hiệu của Chúa Giêsu được đưa ra trong bản văn này: Tên con trẻ là Giêsu ; Con Đấng Tối Cao ; Kế vị Đavít tổ phụ cai trị đời đời trong nhà Giacóp ; Đấng Thánh của Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa. Có thể nói, đây là bản văn qui tụ tất cả những tước hiệu nói lên bản tính Thiên Sai, sứ vụ và cuộc đời của Chúa Giêsu. Người là Con Thiên Chúa nghĩa là Thiên Chúa thật và cũng là con Đức Maria, tức là cũng là con người thật. Người đến để thực hiện các lời tiên tri đã loan báo về lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Đăc biệt, lời Chúa hứa với Đavít: "Này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai" nay đã ứng nghiệm nơi Người. Đức Giêsu là con Đấng Tối Cao, Đấng trao ban cho Ngài ngai vàng Đavít (Con là con Ta). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài được sinh ra do quyền năng Thiên Chúa và tác động của Thánh Thần. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nguồn gốc của Người từ Thánh Thần. Ngài là Đấng Thánh dành riêng cho chương trình của Thiên Chúa.
2. Một trình bày về Đức Maria:
a. Lời chào của Sứ Thần: "Kính chào trinh nữ tràn đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng trinh nữ" không chỉ là lời chào mà còn là lời xác nhận có Thiên Chúa hỗ trợ Đức Maria. Không phải là một lời chào thuần tuý nhưng là lời mời gọi hãy vui mừng lên vì Đức Maria được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn vào công trình của Người. Đức Maria là đối tượng đặc biệt được Chúa ưu ái. Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn để thi hành sứ vụ: thụ thai, sinh hạ con trai, đặt tên là Giêsu. Qua đó, Thiên Chúa khởi sự thực hiện lời của Người trên nhà Đavít. Việc sinh hạ Đức Giêsu sẽ ứng nghiệm những lời Kinh thánh Is 7,14: Trinh nữ thụ thai ; 2Sm 7,14-16: triều đại Đavít vô cùng vô tận.
b. "Việc ấy xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam": Câu hỏi này của Đức Maria minh nhiên nói lên việc Ngài còn đồng trinh. Trước đó, Mẹ có khấn giữ đồng trinh hay không là điều nhiều học giả kinh thánh và thần học tranh cãi, nhưng điều đó không quan trọng. Chắc chắn một điều là từ biến cố này Đức Maria khấn giữ đồng trinh và mãi mãi là Mẹ Đồng Trinh. Đấy mới là điều quan trọng. Câu hỏi của Đức Maria sẽ dẫn tới câu trả của sứ thần là tâm điểm của sứ điệp Tin mừng.
c. "Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ": Câu này gợi nhớ hình ảnh Thần Khí sáng tạo của Thiên Chúa bay là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu vũ trụ (St 1,2). Khi nói điều này, rõ ràng sứ thần muốn nói Thánh Thần đóng vai trò nguyên lý sáng tạo và phát sinh sự sống trong cung lòng Maria. Đây hoàn toàn không giống như hình ảnh của phối ngẫu của các thần minh trong các chuyện thần thoại. Điều Thánh Thần đã làm lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài cũng làm trong cung lòng Đức Maria: thụ thai mà vẫn trinh tiết.
d. "Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền": Lời Fiat, xin vâng của Đức Maria kết thúc cuộc đối thoại. Đức Maria sẵn sàng vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tận hiến trọn vẹn cho chương trình của Thiên Chúa. Với sự ưng thuận này, Thiên Chúa thực hiện chương trình nhập thể.
II. CHIÊM NGƯỠNG CHÚA GIÊSU:
Trình thuật truyền tin giúp cho chúng ta khám phá sâu xa ý nghĩa của Mầu nhiệm Nhập thể. Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Người vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng vì yêu thương nhân loại đã vâng lời Chúa Cha, chấp nhận thân phận làm người như chúng ta chỉ trừ tội lỗi. Người đến làm người để hiện diện, đồng hành và chia sẻ kiếp người lầm than với nhân loại đang rên xiết trong khổ lụy, tội lỗi và sự chết. Người đến để nối kết đất và trời, để nối kết mọi người với nhau bằng chính công trình cứu độ ban sự sống mà Chúa Cha sai Người thực hiện. Sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa lịch sử nhân loại trong thân phận một con người nói lên tất cả sự gần gũi yêu thương mà Thiên Chúa dành cho nhân loại.
III. SỐNG VÀ CHIA SẺ TIN MỪNG
1. Đức Giêsu, Thiên Chúa ở trong lịch sử nhân loại: Ngài là Lời sáng tạo của Thiên Chúa, Ngài hiện diẹn trong muôn thụ tạo, trong con người, đỉnh cao của sáng tạo. Vì yêu, Ngài không muốn cứu độ con người từ trên cao, nhưng đã hạ mình xuống làm người ở giữa chúng ta. Vì yêu, Ngài không muốn rời xa chúng ta, nên đã lấy chính máu thịt Ngài làm lương thực để ở trong chính bản thân con người yếu đuối. Vì yêu, Ngài đã hiến mình làm giá cứu chuộc chúng ta để hiệp nhất chúng ta nên một với Ngài. Ngài nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài bắt đầu một cuộc sáng tạo mới. Một lịch sử thánh mới. Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh thể để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
2. Đức Giêsu, Thiên Chúa đang ở trong chúng ta: Ngài đang ở nơi mỗi người: Đức Maria đón Ngài vào cung lòng mình, cưu mang Ngài. Còn chúng ta hôm nay cũng đón Ngài vào trong cung lòng chúng ta khi tham dự Bí tích Thánh thể. Vậy chúng ta đã chuẩn bị đón Ngài như thế nào ? Mỗi lần tham dự thánh lễ có thực sự là đi đón Chúa không ? Ngài đang ở trong gia đình chúng ta. Ngày xưa, Đức Mẹ và Thánh Cả đã cùng Ngài lập nên Thánh gia gương mẫu cho mọi gia đình ; ngày hôm nay, gia đình chúng ta cũng là gia đình có Đức Giêsu cư ngụ. Gia đình chúng ta đã và đang sống như thế nào ? Có Thiên Chúa thực sự hiện diện không ? Ngài đang ở trong xã hội hôm nay: Đức Giêsu đã đi vào lòng nhân thế qua Đức Maria, ngày hôm nay qua chúng ta, qua giáo xứ, qua Giáo hội Ngài cũng đang đi vào lòng xã hội. Chúng ta có đưa Ngài đến với con người, với xã hội, với môi trường mình đang sống không ?…
IV. LỜI CẦU CHUNG
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha nhân lành luôn yêu thương chúng ta. Ngài đã sai Đức Giêsu Kitô, Con Một Ngài, đến đồng hành cùng chúng ta. Tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài, chúng ta cùng tha thiết dâng lời nguyện xin.
1. Giáo hội, nhiệm thể của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin cho Giáo hội luôn là hiện thân thực sự của Người giữa thế giới bằng nỗ lực đem Tin mừng tình yêu đến cho muôn dân nước.
2. Ngày nay, biết bao nơi, bao người trên thế giới còn đang sống trong chiến tranh, nghèo đói và tối tăm của tội lỗi. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những nơi, những anh chị em ấy luôn được Chúa hiện diện nâng đỡ phù trì. 3. Chúng ta cùng cầu xin cho cộng đoàn, cho gia đình chúng ta luôn là nơi cư ngụ có tình bác ái của Chúa Giêsu. Xin Chúa luôn ở cùng chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
Lời kết: Lạy Cha chí ái, chúng con cảm tạ Cha đã yêu thương hiện diện giữa chúng con nơi Đức Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Cha. Xin cho chúng con luôn ý thức sự hiện diện đầy tình yêu của Người, để biết tin tưởng và hy vọng trên hành trình nên thánh luôn gắn bó mật thiết với Người. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Đâu là ý nghĩa thần học sâu xa (thần học Thánh kinh) của lời chào thiên sứ: “Vui lên, hỡi Đầy MV 4-B150
1. Đâu là ý nghĩa thần học sâu xa (thần học Thánh kinh) của lời chào thiên sứ: “Vui lên, hỡi Đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà”?
2. Tại sao Maria xao xuyến khi nghe lời thiên sứ?
3. Tước hiệu “con Đấng Tối Cao” tự nó có khẳng định tử hệ thần linh của Chúa Giêsu theo nghĩa một tử hệ tự bản tính không?
4. Làm sao giải thích câu 34?
5. Từ ngữ “Con Thiên Chúa” nơi c.35 có cùng ý nghĩa với từ ngữ “Con Đấng Tối Cao” của câu 32 không? 6. Đâu là giáo huấn chính yếu của trình thuật này?
1. Trình thuật này cho ta một thí dụ tuyệt hảo về cách thức Tin mừng nói với ta và về cách thức ta phải đọc Tin mừng. Người ta sẽ lầm to nếu chỉ mong tìm ở đây một bản tường thuật trung thực về cuộc đối thoại giữa Đức Maria và thiên sứ Gabriel, hay xem đây như một bài khảo cứu tâm lý về tâm hồn của Đức Trinh nữ. Không trong trang sách tuyệt diệu này, qua cuộc đối thoại ghi lại giữa mẹ Chúa Giêsu và vị sứ giả từ thiên giới, Luca muốn đưa ra cho ta một giáo huấn thần học. Trước khi tìm hiểu đâu là dữ kiện truyền thống ông đã nhận và đâu là bộ áo văn chương ông khoác lên đó, ta cần phân tích cơ cấu bản văn để tìm xem giáo thuyết ông muốn đưa ra. Như thường thấy nơi văn sĩ tế nhị này, hình thức thích ứng cách tuyệt diệu với nội dung: phân biệt cái này thì sẽ thấu triệt cái kia.
Sau một câu mào đầu ngắn xác định khung cảnh và các nhân vật (cc.6-27) là đến cuộc đối thoại; cuộc đối thoại này chiếm phần cốt yếu của trình thuật và phân làm hai giai đoạn (cc 28-33 và 35-37) với câu hỏi trung tâm ở c.34. Sau cùng một kết luận ngắn kết thúc câu chuyện (c.38).
2. Hai câu đầu tiên cung cấp ngay cho ta một chi tiết đáng lưu ý, chi tiết về thời gian liên kết khởi điểm thời thơ ấu của Chúa Giêsu với điều vừa được nói về thời thơ ấu của Gioan Tẩy giả. Êlidabét, mang thai, đã ẩn mình từ năm tháng (c. 24); chính lúc ấy, tháng thứ 6 theo cách tính này, Chúa Giêsu sắp được cưu mang; vì thế Maria, khi tới nhà Êlidabét sau ngày được truyền tin, sẽ ở lại đó “ba tháng” (c.56) cho đến lúc Gioan Tẩy Giả chào đời. Dữ kiện về nơi chốn, thành Nadarét xứ Galilê, chỉ một ngôi làng nhỏ bấy giờ hãy còn vô danh và hầu như bị khinh miệt (Ga 1,40), ngôi làng mà những cuộc đào bới gần đây cho thấy đã xuất hiện từ thời quân chủ Israel.
Sau mấy ghi chú đó, đến mục giới thiệu các nhân vật: Maria, người mà tình trạng đồng trinh được nhấn mạnh đến hai lần, và Giuse, hôn phu hơn là chồng của bà (x. Mt 1, 18.20), một kẻ thuộc nhà Đavít. Bản văn không bảo Maria thuộc dòng dõi Đavít, song cũng chẳng phủ nhận, và có cả một truyền thống giáo phụ bênh vực cho ý kiến này. Vẫn biết một vài tác giả có khuynh hướng cho rằng bà thuộc dòng dõi Lêvi vì có “họ hàng” với Êlidabét (cc.36 và 5), nhưng có thể đấy chỉ là họ hàng do giao ước giữa hai chi tộc, và người ta sẽ thấy Dt 7, 13 bảo Chúa Giêsu không thuộc dòng dõi tư tế. Ngoài ra trong Tân ước chả có chỗ nào minh nhiên quả quyết Đavít là tổ tiên Maria cả. Vả lại điều này cũng chẳng cần thiết để cho Chúa Giêsu trở thành con Đavít” đích thực: vì chỉ cần có Giuse làm cha pháp lý là Chúa Giêsu đã xứng tước vị ấy rồi (Mt 1,1.16.20).
3. Sau phần nhập đề là đến cuộc đối thoại mà chúng ta cần học cẩn thận. Màn đối thoại này mở đầu bằng lời chào của thiên sứ (c.2) Thật ra, ở đây bảo là “kính chào” thì không đúng hẳn. Vẫn biết Chaire là công thức chào hỏi thông thường của người Hy lạp, công thức mà Matthcô (26,49; 28,9) và chính Luca, khi có dịp (Cv 15,23; 23-20) vẫn dùng. Song Luca cũng biết tới cách chào của người Do thái là chúc bình an” (Lc 10,5; 24,36) và đáng lẽ ông phải dùng cách đó ở đây, trong cái văn mạch đầy tính cách sêmita của hai chương dầu
Tin mừng này. Nếu vẫn dùng chaire, chắc hẳn là vì ông hiểu chữ này theo nguyên nghĩa của nó: “Hãy vui lên”; việc suy đoán này dựa vào nhiều đoạn trong bản LXX mà chắc hẳn Luca chịu ảnh hưởng, những đoạn trong đó từ ngữ chaire xuất hiện nơi những lời kêu gọi hãy vui lên vì Đấng Messia tới. Trong Xp 3, l4; Ge 2,21; Der 9,9, “thiếu nữ Sion”, nghĩa là Giêrusalem, được mời gọi hãy hoan hỷ vì được Thiên Chúa đến thăm hay ở với: Giavê là vua Israel ở giữa người (Xp 3,15); các ngươi sẽ biết là Ta, Ta ở giữa Israel (Ge 2,27); vua ngươi đang đến cùng ngươi (Der 9,9; x. Mt 21,5). Nếu nhớ lại rằng Luca rất thích cảm hứng từ bản LXX, nhất là trong Tin mừng về thời thơ ấu, và nếu quan sát văn mạch trực tiếp của mệnh lệnh chaire ở đây, ta sẽ chẳng còn nghi ngờ gì nữa; Maria được mời gọi hãy vui nỗi vui như Giêrusalem ngày xưa. Với cùng một lý do y hệt: Chúa ở cùng bà. Trong cả hai trường hợp, đều có vấn đề Thiên Chúa viếng thăm, cuộc viếng thăm được đoan hứa lừ ngàn xưa và bây giờ đang thực hiện. Hay đúng hơn, cái xưa kia đối với Giêrusalem chỉ là một tương lai sắp đến, thì nay trở thành hiện tại tức thời cho Maria; cái tin vui đã loan báo cho tuyển dân, cho “Nhóm còn lại” trung tín, từ nay tập trung trên con người của bà. Bà có bổn phận mừng vui vì Chúa ở “với bà” để ở với dân Chúa. Bà sắp đón nhận cuộc viếng thăm thiên sai vì lợi ích của nhà Israel; chính do chỗ đó làm bà trở nên đối tượng của một lòng sùng ái đặc biệt: Kecharitômennê.
Phân từ kecharitômenê này đã được người Latinh dịch ra là “gratia plena” (đầy ơn phúc), và kiểu dịch này, cũng như lối dịch chairè ra Ave, đã đưa đến nhiều suy diễn có tính cách Thần học hơn là chú giải thuần túy. Ở đây người ta đã nghĩ tới ơn thánh hóa và lý luận rằng Maria đã được ân sủng tràn đầy hơn bất cứ thụ tạo nào khác và chỉ thua có Chúa Kitô. Những tư tưởng như vậy không hẳn sai lầm, song thuộc về suy nghĩ hơn là bản ngữ. Trong Tân ước, hạn từ charis, căn ngữ của phân từ trên, không chỉ ơn thánh hóa cho bằng chỉ lòng ưu ái của Thiên Chúa trong chính hành vi thi ân nhưng không của Ngài; nó trực tiếp diễn tả cử chỉ của cái sáng kiến đoái nhìn đến một thụ tạo với lý do duy nhất là yêu thương; cử chỉ ấy chọn lựa thụ tạo và làm cho nó thành đối tượng của lòng mình ưu ái. (Dĩ nhiên một sự ân cần như vậy của Thiên Chúa bao giờ cũng đổ tràn đầy ân huệ xuống cho kẻ được Ngài mến thương. Song đó là một hậu quả, và từ ngữ vẫn muốn nhấn mạnh đến lòng ưu ái nhưng không của Thiên Chúa hơn là đến các hiệu quả mà lòng ưu ái đó phát sinh nơi thụ tạo, đến đặc ân ban cho hơn là đến sự toàn hảo phát sinh trong tâm hồn Maria nhờ đặc ân đó). Sự thể là như vậy đối với Maria khi bà được chọn để đón nhận cuộc viếng thăm thiên sai. Bà là đối tượng của một lòng ưu ái đặc biệt, của một đặc ân trường tồn (động từ ở thì parfait), và người ta đã đề nghị dịch chữ kecharitô mcnê ra là “Người được biệt đãi” (privilégiée) (Audet).
Hãy vui lên, hỡi người được biệt đãi, Chúa ở cùng bà! Có lẽ đấy là cách dịch đúng nhất lời đầu tiên của thiên sứ. Đây không phải là một lời chào tôn kính nhằm gây chú ý đến những công trạng của Maria, song là một lời kêu gọi vui tươi nhằm loan báo tấm lòng ưu ái nhân hậu của Thiên Chúa và hé cho thấy Ngài sắp đến viếng thăm, cuộc thăm viếng đã được các ngôn sứ loan báo từ bao thuở. Một lời như vậy chẳng có vẻ gì là một câu mở đề tầm thường hay một kiểu chào hỏi lịch sự đơn sơ. Trái lại, nó sống động lạ lùng, và hàm chứa một cách phong phú những gì sẽ nói tiếp theo. Đối với người Do thái, âm vang ấy của một lời mời gọi thân mật gợi lên cả một khung trời hy vọng, một thế giới đầy mầu nhiệm. Chúa Giêsu phải đến với thuộc dân của người, ở với dân Người; Kinh Thánh há chẳng tiên báo sự xuất hiện của một con trẻ huyền bí mang tên là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Emmanuel: Is 7,14; x. Mt 1,23) đó sao? Luca hẳn phải nghĩ đến tất cả những điều này khi ghi lại lời thiên sứ và ông muốn chúng ta cũng nghĩ như vậy lúc liền đó cho thấy, qua thái độ của Maria, lời thiên sứ thật đáng suy nghĩ!
Người ta sẽ hiểu sai thái độ của Maria diễn tả trong c. 29 nếu chỉ xem đó như là một phản ứng tâm lý. Phải chăng Maria bối rối khiêm nhường vì thiên sứ thốt lên một lời khen tặng? Hay là bối rối e thẹn vì sự có mặt của một thanh niên đến trong nhà mình! hoặc bà sợ hãi vì quang cảnh sáng chói của cuộc hiện ra! tất cả chỉ là thêm thắt vào bản văn chứ chẳng phải chú giải đích thực. Vả lại theo Luca đã nói rõ: Maria xao xuyến “vì câu nói” và bà tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
“Nghĩa là ở đây có mầu nhiệm! Các lời thiên sứ thốt lên có một ý nghĩa ẩn tàng phải khám phá ra; Maria biết vậy và đến lượt độc giả cũng phải hiểu như thế. Cho nên, một khi đánh thức được chú ý, thiên sứ mới tiếp tục cất giọng để nói lại rõ ràng hơn điều mà câu đầu tiên còn che dấu.
Thật vậy, câu 30-31 trưng ứng lạ lùng với câu 28, từng vế một. Thiên sứ đã nói: Hãy vui lên. Bây giờ ngài bảo: Đừng sợ hãi. Ngài đã gán cho Maria tước hiệu “người được biệt đãi, lần này lại gọi trinh nữ bằng tên riêng, (‘Maria”, và xác nhận quyền được tước hiệu đó của bà: Bà đã đặc sủng nơi Thiên Chúa, nghĩa là bà là đối tượng của lòng ưu ái thần linh.
Sau cùng, thiên sứ đã loan báo: Chúa ở cùng bà; lần này, ngài giải thích: Thiên Chúa sẽ hiện diện qua việc bà hạ sinh một con trẻ, đấng Messia tương lai. Trước khi khai triển điểm này kỹ càng ở cc.32-33, thiên sứ loan báo việc hạ sinh hằng một công thức rập mẫu đã từng được dùng trước đó trong Kinh Thánh, chỗ nói về Israel (St 16, 11), Isaac (St 7,19), Samson (Tl 13,5-7) và nhất là về Emmanuel (Is 7,14). Đứa trẻ sẽ được gọi là Giêsu vì đấy là tên lịch sử của Người, nhưng chắc chắn thiên sứ lẫn Luca đều nghĩ đến Emmanuel, đứa con của một trinh nữ, như đoạn tiếp sẽ chứng minh.
Các tước hiệu thiên sai gán cho đứa trẻ lời hứa được phát biểu rõ ràng ở cc.32-33. hình dung từ “lớn”. Từng áp dụng cho Gioan Tẩy giả (c.15.), có vẻ hơi mơ hồ, song từ ngữ “Con Đấng Tối Cao” lại nói nhiều hơn, không phải là nó diễn tả ngay ở đây một tử hệ thần linh của Chúa Giêsu theo nghĩa mạnh của đức tin Kitô giáo. Trong Cựu ước, con Thiên Chúa” hay “Con Đấng Tối Cao” là một kiểu nói ám dụ chỉ người nào được sống thân tính đặc biệt với Thiên Chúa, như thiên thần (Tv 29, 1; G 1,6), Tuyển dân (Kn 18, 13; Hs 11, … người Do thái đạo đức (Gv 4,10; Kn 2, 13) và nhất là Đấng Messia (2 Sm 7, 14; Tv 2,7; 89,27). Cách dùng này vẫn tiếp tục trong Tân ước và chính thánh Luca sẽ viết: hãy mến yêu địch thù … và các ngươi sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Ngài nhân lành với những kẻ vô ơn, độc ác” (6,35). Ở đây, theo văn mạch, tước hiệu chỉ có tính cách thiên sai, tuy rằng nó chuẩn bị cho câu tiếp mạnh hơn (c.35) trong đó tiếng “con Thiên Chúa” sẽ mang một ý nghĩa khác. Thật vậy, nhất rằng gì kế liền cho đến hết c.33 đều rõ ràng nói lên đặc đính của tước vị thiên sai của hài nhi sắp chào đời: thừa hưởng ngai báu Đavít, cai trị mãi mãi lên nhà Giacóp, toàn là những từ ngữ cổ điển của lời hứa về Đấng thiên sai nhà Đavít, lời hứa đã được Natan loan báo cho Đavít (2Sm7,12tt) rồi được Isaia lấy lại khi nói về Emmanuel (Is 9,5-6).
Như vậy, phần đầu của màn đối thoại cho ta biết Maria sắp đích thân đón nhận cuộc thăm viếng thiên sai mà các ngôn sứ từng loan báo, đón thận thằng cách trở thành mẹ Đấng Messia. Cho đến đây, tư tưởng vẫn còn nằm trong chiều hướng các lời hứa đã được cựu ước rõ ràng phát biểu; yếu tố mới chỉ nằm ở chỗ: điều xưa kia được chờ đợi như một tương lai còn xa hoặc gần đến thì nay được thực hiện một cách tức thời và cụ thể. Nhưng phương thức thực hiện, tức thụ thai đồng trinh, một yếu tố mới nâng việc sinh hạ này lên một bình diện khác và gắn một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ cho tước hiệu Conn Thiên Chúa” của Hài nhi sắp chào đời. Đây là điều mà phần hai của màn đối thoại sắp dạy chúng ta.
4. Phần này được mở đầu bằng câu hỏi thời danh (c.34): “Điều ấy sẽ làm sao được, vì tôi không hề biết đến người nam!”. Trước khi giải thích bản văn này, cần xác định hai điểm. Một là “biết” ở đây chắc chắn phải hiểu theo nghĩa Kinh thánh: có liên hệ tính dục; nếu hiểu theo nghĩa thông thường mà cho rằng Maria muốn nói mình chẳng hề quen biết một ai, tức là bảo bà khờ khạo đến tráo trở, bởi vì bà đã đính hôn với Giuse kia mà. Điểm hai liên hệ đến sự đồng trinh của Maria. Tự nó, phân từ emnesteuménê (c.27) không đủ để chứng minh sự đồng trinh, vì nó có thể có nghĩa “đã thành hôn”; và, đàng khác, nếu hiểu theo nghĩa thông thường là “đã đính hôn”, thì nó vẫn hàm súc một tình trạng mà, theo phong tục Do thái, dĩ nhiên không khuyến khích song chẳng tuyệt đối loại trừ các tương giao phu phụ. Để đánh tan mọi nghi ngờ, Luca đã hai lần dùng chữ parthenos, “trinh nữ” trong c.27. Và dàn cảnh bắt buộc phải vậy, vì chính từ ngữ ấy sẽ đem lại ý nghĩa cho câu hỏi của Maria và lời đáp của thiên sứ.
Thời thánh Augustin, khoa chú giải công giáo thường có thói quen giải thích câu hỏi của Maria như nói lên một lời khấn hay một ý định giữ mình đồng trinh mà có thế bà đã ôm ấp từ lâu do đó bà thấy điều này xem ra không thể phù hợp được với việc sinh con mà thiên sứ loan báo. Tuy nhiên, lối giải thích như vậy không hiển nhiên lắm và gần đây bị một số lớn các nhà chú giải công giáo phủ nhận (Landersdorlèr, Haugg, Auer, Audet, Schmaus, Schmid, J.B. Bauer, Jones, Jellouschek, Gewiess v.v …) trong lúc cũng có một số khác muốn trung thành với lập trường được gọi là “cổ truyền” này (Holzmeisler, Brodmann, Craber, del Paramo, Laurentin, Galot, Villanueva, Zerwich v.v …).
Những kẻ phủ nhận có lời khấn nhận xét rằng các giáo phụ đã không hoàn toàn nhất trí với nhau vì, ngoại trừ Grêgôriô thành Nysse và Augustin, thì cho đến thế kỷ thứ V, chẳng có ai biết đến một lời khấn như thế cả, ngay cả thánh Ambrôsiô.và Hiêrônimô. Ngoài ra họ còn cho rằng từ ngữ của bản văn không tự nhiên nói lên một lời khấn hứa, vì để diễn tả tư tưởng “tôi không muốn biết” hoặc “sẽ không hề biết người nam”, thì động từ hiện tại ginôskô xem ra chẳng đủ. Động từ này chỉ diễn tả cách đơn sơ tình trạng hiện thời của Maria: bà không có những tương giao vợ chồng, theo thói tục không thường của thời kỳ đính hôn tại Israel, và do đấy ngạc nhiên vì tưởng phải mang thai lập tức. Vả lại sự phản kháng của Maria như lối giải thích cổ điển giả thiết, làm ta ngạc nhiên không ít: một lời khấn riêng tư thì có thứ gì trước ý định thần linh thiên sứ đangloan báo? Rồi ta cũng tự hỏi nếu Maria đã quyết định không hưởng dụng hôn nhân thì bà đính hôn với Giuse làm gì?
Nhưng nhất là chính nguyên tắc khấn hứa đồng trinh Maria mới đáng bàn cãi. Tại Israel, hôn nhân rất được trọng vọng, đến nỗi đó là bậc sống thông thường mọi người phải theo, nhất là nữ giới. Người ta có kể ra trường hợp một giáo sĩ Do thái sống độc thân song là để trách cứ; còn về nhóm Esseni, thì luật độc thân của họ là một ngoại lệ, thúc đẩy bởi một ảnh hưởng xa lạ với Do thái giáo, và chỉ liên hệ nam giới mà thôi. Chính Kitô giáo mới nhìn thay trong sự đồng trinh một bậc sống cao hơn hôn nhân, nhưng đó là theo giảng dạy của Chúa Giêsu (Mt 19, l2), theo gương Người cũng như gương Maria, kẻ được Thiên Chúa chọn làm mẹ mà vẫn còn đồng trinh. Tóm lại, e rằng người ta sẽ vấp phải một lỗi lầm về thời gian khi tưởng tượng Đức Trinh Nữ Maria tận hiến cho Chúa theo kiểu một trinh nữ Kitô giáo thế kỷ IV và nên nhớ chính các Ngụy thư đã làm ta quen nghĩ rằng Maria đã tận hiến cho Thiêu Chúa và sống trong đền thờ ngay còn thơ ngây, cùng hình dung Giuse như một cụ già được các tư tế chọn để hảo vệ sự đồng trinh của người vợ trẻ. Các hình ảnh ngụy tạo đó cần phải đánh đổ. Không những vì các ngụy thư đề ra hình ảnh ấy thiếu thẩm quyền chính lục, mà còn vì chúng rõ ràng mang dấu vết lạc giáo Encratisme chuyên bài bác hôn nhân. Khổ thay, bao ảnh tượng đã phổ biến rộng rãi những huyền thoại này). Thành thử nếu được đặt lại trong môi trường và thời gian, thì việc Maria nghĩ trí hôn nhân như mọi phụ nữ khác ở Israel chẳng có gì lạ lùng; sở dĩ bà đã đính hôn với Giuse, chắc hẳn là vì hy vọng có con với ông, theo như luật chung thời đó. Cho rằng một ý định như vậy làm phai mờ ít nhiều sự trong sạch và thánh thiện của Maria, thì có lẽ phải phủ nhận sự thánh thiện của hôn nhân, một công trình của Đấng Tạo hóa mà Kinh Thánh không ngừng tán dương ca tụng.
Nhóm theo quan niệm “truyền thống” cũng chẳng thiếu lý để bác bỏ lập luận trên, và phải công nhận câu trả lời của họ cũng nặng ký lắm. Cho dù là chỉ bắt nguồn từ thế kỷ thứ V song một lập trường hằng được liên tục thừa nhận trong Hội Thánh như thế vẫn đáng cho ta lưu tâm. Chắc chắc đồng trinh không phải là lý tưởng thông thường của người phụ nữ Do thái. Nhưng Maria là trường hợp đặc biệt, và Thiên Chúa cụ thể đã chuẩn bị cho chương trình của Ngài về Maria hằng cách sớm thúc đẩy bà đi theo một ơn gọi đặc biệt. Đàng khác, không nên đánh giá thấp bao tấm gương tiết dục vì lý do tôn giáo đầy dẫy trong Thánh Kinh và đạo lão thái; chúng cho thấy người ta vẫn kính trọng đức trinh khiết, và bằng chúng hùng hồn của lòng kính trọng ấy là luật độc thân của tu sĩ Esseni. Thành thật Maria đã có thể khấn giữ mình đồng trinh, và vấn nạn ở c. 34 đủ nói lên ý định đó. Đấy cũng là lời giải thích đơn giản nhất của Maria, vì theo giả thuyết đối nghịch, phải giả thiết là việc thụ thai đã gần kề, điều mà bản văn không hắc ám chỉ. Còn việc Maria cam kết thành hôn, ta có thể giải thích là vì bà ưu tư bảo vệ sự đồng trinh của mình; chắc hẳn bà đã giả thiết là việc thụ thai đã gần kề, điều mà bản văn không hề ám chỉ. Còn việc Maria cam kết thành hôn, ta có thể giải thích là vì bà ưu tư bảo vệ sự đồng trinh của mình; chắc hẳn bà đã phó thác cho Thiên Chúa lo việc thúc đẩy Giuse cũng có những tâm tình như mình vậy.
Ta thấy đó, cuộc tranh luận giữa hai lập trường vẫn còn sôi nổi và bên nào cũng ăn miếng trả miếng. Lập luận của họ đều đáng tôn trọng. Dầu sao hầu hết (ngoại trừ Munoz. Iglesias, Benoit, Gewiess v.v…) đều mắc phải khuyết điểm này là quá chú trọng đến tâm lý của Maria, trong lúc đáng lẽ phải nhớ rằng Luca đã biên soạn bản văn này với tư cách một nhà thần học. Ý hướng của ông, nếu có thể phanh phun ra, rất quan trọng cho việc chú giải. Vì thế mà, khi đứng trên quan điểm thần học, ta thấy rõ c.34, đối với Luca, đóng vai trò chuyển tiếp trong cuộc đối thoại. Thiên sứ đã loan báo việc hạ sinh Đấng Messia; bây giờ phải loan báo phương thức đồng trinh của việc sinh hạ ấy. Vấn nạn của Maria, cũng là thắc mắc của độc giả, chuẩn bị cho giai đoạn mại này. Việc Luca đã có giả thiết hay không rằng Maria khấn hứa đồng trinh trước lúc truyền tin, người ta có thể bàn cãi; nhưng điều chắc là ông đã muốn minh nhiên dạy rằng: Maria còn đồng trinh, và chính bà nói lên điều đó khi được Thiên Chúa mời gọi làm mẹ Đấng Messia. Trước đấy đã khấn hay không, chẳng thành vấn đề, nhưng chắc chắn là từ lúc này, bà khấn hứa đồng trinh. Bà sẽ mãi mãi là Mẹ Đồng trinh. Và đó mới là điều quan trọng hơn cả.
5. Lời đáp trả của thiên sứ mang lại giải pháp cho vấn đề đặt ra và vì lý do đó, câu 35 là vấn đề then chốt của tất cả màn đối thoại, là cao điểm của bản trần thuật có tính cách thần học của Luca. Vì thế cần phải cân nhắc từng hạn từ một.
Việc can thiệp của Thánh Thần được diễn tả bằng một Mệnh đề mà các vế đối xứng với nhau từng chữ: “Thánh Thần” với “Quyền năng Đấng Tối Cao”, “đến trên” với “phủ bóng trên” (hai động từ Hy lạp khởi đầu với phụ ngữ epi), sau cùng “trên cô” ở cả hai trường hợp. Thánh Thần đến trên” Trinh nữ là một kiểu nói thường gặp trong Cựu ước, y nguyên hay thay đổi đôi chút (x. 1 Sm 16. 13; Is 32, 15 …), nhưng tự nó không cho thấy rõ cách thức hành động của Thánh Thần thế nào. Chính Luca cũng dùng lại công thức nào khi nói về việc Hiện xuống mà Chúa Giêsu loan báo với những từ ngữ như sau (Cv 1,8): “Các con sẽ chịu lấy quyền lực Thánh Thần đến trên các con”.
Nhưng động từ thứ hai, episkiasei, ít dùng hơn và giầu ý nghĩa hơn nhiều. Người ta gặp nó trong nhiều bản văn Cựu ước với nhiều hình ảnh khác nhau. Trong Xuất hành 40,35(29) nó đùng để nói về Cột mây phủ bóng trên Lều tạm biểu hiệu vinh quang thần linh chiếu tỏa nơi Thiên Chúa ngự (x. Ds 9, 18-22). Trong Tv 9,4; 148,8 nó được sử dụng để diễn tả hình ảnh Thiên Chúa như chim phủ cánh trên những ai Ngài che chở (x. thêm Tv 17.8; 36,8. 57,2; 63,8). Hai đề tài ấy hòa hợp nhau trong Xh 25,20; 1 St 28,18 nơi là cử chỉ của các Kêrubim lấy cánh che phủ Hòm giao ước được diễn tả bằng động từ tương tự (stt) skiazein, chim gương cánh che phủ có thể là để bảo vệ bầy con thoát khỏi đôi mắt hay móng vuốt của kẻ thù, song cũng có thể là để ấp trứng cho sự sống nở ra, và hình ảnh nào gợi lên hình ảnh Thần khí tác tạo vật chất lúc khởi nguyên vũ trụ (St 1,2) để làm phát sinh sự sống dưới các dạng thức mà Ngôi lời đặt định cho.
Trong số các hình ảnh khác nhau đó, hình ảnh áp dụng đúng nhất nào bản văn chúng ta phải là hình ảnh được xác định theo văn mạch. Lời thiên sứ chắc chắn không chỉ loan báo cho Trinh nữ một sự giúp đỡ bảo vệ. Hình ảnh thích hợp nhất cho văn mạch là hình ảnh con chim thần linh dùng cánh bao phủ để tạo thành sự sống. Và đó là chính vấn đề đang đề cập: một hài nhi sắp được cưu mang mặc dù người mẹ vẫn còn trinh tiết. Khi nói đến Thần khí như một Quyền năng sắp phủ bóng trên Maria, thiên sứ rõ ràng muốn bảo Thần khí ấy sắp đóng vai trò nguyên lý sáng tạo và phát sinh sự sống trong cung lòng bà. Đây chẳng có vẻ gì là một hình ảnh chướng ta gai mắt hay giống với các cuộc phối ngẫu cùng thần minh trong thần thoại lương dân cả; hết thảy đều vô cùng tế nhị và hoàn toàn nằm trong chiều hướng thanh cao của Kinh Thánh. Điều Thánh Thần, hơi thở sáng tạo, đã làm từ lúc khởi nguyên vũ trụ Ngài cũng sẽ thực hiện trong cung lòng Maria, bằng cách làm cho bà thụ thai mà vẫn trinh tiết.
Bởi thế trẻ thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Nhiều nhà chú giải đã ngạc nhiên trước một kết luận như vậy, là phải cùng họ công nhận rằng câu đó không đưa lại cho tước hiệu “Con Thiên Chúa” cái định tín thường thấy về Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể trong một bản tính nhân loại. Vì lời của thiên sứ chẳng ám chỉ gì đến Ngôi Lời cả. Ta sẽ lầm lẫn nếu bảo rằng có ám chỉ trong tiếng Pneuna (Thần khí) và Dunamis (Quyền năng) như truyền thống cho tới thế kỷ thứ IV đã bảo, hoặc ít nhất trong tiếng Dunamis, như người ta vẫn nót từ thế kỷ IV cho đến thời Trung cổ. Hai hạn từ trường được Luca cặp đôi và hầu như đồng nghĩa này chắc chắn chỉ Thánh Thần chứ không chỉ Ngôi Lời. Nhưng Luca không đưa ra ở đây một phát hiệu rõ ràng về mầu nhiệm Nhập thể nhất của 1,14 (“và Ngôi Lời đã thành xác phàm”) chẳng phải là một lý do đủ để bóp méo câu kết luận và làm sai nghĩa bản văn, thế mà người ta sẽ làm như vậy khi cho tiếng “thánh” đóng vai trò thuộc từ chính (attribut pnncillal) và coi “Con Thiên Chúa” chỉ là một tiếng đồng cách (apposition) không dính dáng gì với những gì đi trước. Thật ra nếu chân thành khảo sát bản văn, ta phải nhận rằng danh xưng Con Thiên Chúa ấy được Luca coi là cốt yếu và là đích điểm của tất cả ý hướng thần học của ông. Ong đã nói trong phần đầu màn đối thoại rằng Hài nhi sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” theo nghĩa thiên sai; bây giờ trong phần hai, ông dạy: tước hiệu “Con Thiên Chúa” ấy mặc một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ và cao trổi hơn do việc thụ thai đồng trinh: được cưu mang trực tiếp do tác động của Thánh Thần chứ không do sự can thiệp của một người cha, Chúa Giêsu sẽ là Con Thiên Chúa theo một danh nghĩa đặc biệt là độc nhất. Có thể đó không phải là một lời phát biểu đầy đủ về cái mà đức tin Kitô giáo, thời Luca viết sách, đã đặt vào trong tước hiệu Con Thiên Chúa. Tuy nhiên câu ấy vẫn là lời biện minh chính đáng cho tước hiệu này.
Ngoài ra cũng được phép tự hỏi xem Luca có muốn liên kết trường hợp Chúa Giêsu và trường hợp Adam, như ông đã công khai làm khi viết gia phả (3,23-28) không. Như Adam, Chúa Giêsu chỉ có thiên Chúa là Cha, và mặc dầu cả hai hoàn toàn khác nhau về bản tính, vẫn có một sự tương đồng về tầm vóc, điểm tương đồng mà một môn đồ của Phaolô không thể không chú ý: như Adam xưa, Adam mới là Một thủ lãnh dòng tộc; với Người, chuỗi dây các thế hệ nhân loại bị cắt lìa và bắt đầu một giai đoạn mới. Được Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp như Adam, nên Chúa Giêsu cũng xứng đáng được gọi là Con thiên Chúa theo một nghĩa đặc biệt; tuy nhiên, vì những lý do không được bày tỏ nơi đây, Người vẫn là con một cách siêu việt hơn nhiều.
6. Phần cuối của màn đối thoại, ta chỉ cần nói phớt. Một dấu hiệu được ban cho Maria (cc. 36-37), vì trước tiên đó là quy ước của văn loại Truyền tin trong Thánh Kinh (x. Tl 6,36-40 hay Is 7, 10- 16), sau nữa là để chuẩn bị cho cuộc thăm viếng và móc nối các tiết chuyện. Ta cũng đừng quên rằng, nếu đức tin của Maria không cần sự xác nhận đó, thì đức tin của độc giả vẫn rất cần, những độc giả mà Luca chằng bao giờ quên.
Tiếng “Fiat” của trinh nữ kết thúc quang cảnh. Ta không nên quá đáng lấy tiếng xin vâng này làm cao điểm của câu chuyện, như thể người ta hồi hộp đợi chờ việc ưng thuận mà trước đó không mấy bảo đảm, cũng như đừng giảm thiếu sự tự do và công trạng của Maria khi chấp nhận lời truyền. Sự cao cả của Maria là, dù chưa hiểu được tất cả sự thâm sâu của mầu nhiệm được loan báo, vẫn quảng đại chấp nhận các đòi hỏi của công trình mà Thiên Chúa vừa khởi sự nỗi mình, dù các đòi hỏi ấy ra sao chăng nữa.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bà đã đắc sủng nơi Thiên Chúa": Kiểu nói này là một đặc ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng Noê đã được nghĩa trước mắt Giavê".
"Này bà sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai...": Câu này song song với St 16,11: thiên thần của Giavê phán (với Agar): Này, ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con ngươi sẽ gọi lên nó là Ismael, vì Giavê đã nghe thấu nỗi khốn cùng của ngươi". x. Tl 13,3-5
"Bởi thế hài nhi sẽ là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”: Trong Hy ngữ, cấu trúc của câu này khá tối tăm; B.J đã cố gắng làm sáng tỏ bằng cách thêm vào chữ "hài nhi" không có trong nguyên bản. Theo mặt chữ thì bản văn như thế này: "bởi thế thụ thai thánh" (I’engendré saint) sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Tuy vậy. tĩnh từ "thánh" khó có thể làm hình dung từ (épithète) cho tiếng "thụ sinh" vì nó không có quán từ (article), như văn phạm Hy lạp đòi hỏi (le saint engendré viết theo văn phạm Hy lạp thì phải là I’engendré le saint: hai quán từ). Nên có lẽ phải coi "thánh" như một thuộc từ (attribut) và bấy giờ câu nói trở thành: "thụ sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Nhưng vẫn còn khó khăn là “Con Thiên Chúa" chẳng phải là sự nới rộng của ý tưởng thánh"! thật là lưỡng nan!
"Với Thiên Chúa, nào có gì lại là không có thể": Trong St 18,14, câu này giải thích việc cưu mang lạ lùng Isaac. "Tôi là tôi tá Chúa": x. R 3,9; làm 25,41. Ở đây nói đến đức tin (c.45) và tình yêu mến hơn là lòng khiêm nhượng, vì theo Thánh Kinh, được làm tôi tớ Chúa là một vinh dự lớn lao vô cùng.
KẾT LUẬN
Trong khi sự tiền hữu đời đời của Chúa Giêsu được Phaolô và Gioan long trọng giảng dạy, thì tử hệ thần linh từ lúc mới sinh của Người lại là giáo huấn đặc biệt của Luca, rõ ràng là trong bản văn hôm nay. Khi tập trung ngay từ đầu đời Chúa Kitô những đề tài liên quan tới các cuộc thần hiện sẽ đánh dấu từng chặng cuộc sống công khai và việc khải hoàn sau cùng của Người (so sánh c.35 với phép rửa Chúa Giêsu. Cuộc biến hình và việc phục sinh), ông muốn dạy ta rằng tước hiệu Con Thiên Chúa không phải Chúa Giêsu chiếm được sau này, nhưng đã đương phiên thuộc về Người ngay từ khi người
đến trong thế gian. Cùng với việc thụ thai đồng trinh là hệ luận, đó có lẽ là giáo huấn chính yếu của trình thuật truyền tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Sứ mạng của Maria nối dài và hoàn tất sứ mạng Israel. Maria là "thiếu nữ Sion" mà từ cung lòng, Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện. Bà là nữ tỳ của Chúa", kẻ gồm tóm và làm cho đẹp hơn ơn gọi của dân Israel, tôi tớ Thiên Chúa, lẫn ơn gọi của các đại tôi tớ Ngài trong Cựu tước như Abraham. Giacóp, Môisen, Đavít, Salomon, Isaia và người Tôi tớ bí ẩn của Gioan trong Is 40-45.
2) Thiên Chúa đã có thể đặt Maria trước một sự việc đã rồi và sai thiên sứ báo tin rằng bà đã thụ thai bởi Thánh Thần. Nhưng Ngài đã muốn cần đến sự tự do đồng ý của Maria trong công trình cứu chuộc: không những vì lòng tôn trọng nhân vị của Maria, mà còn để làm cho bà trở nên kẻ hợp tác với Ngài hầu cứu lỗi nhân loại qua sự chấp thuận ý thức và tình nguyện.
3) Dacaria, khi được loan báo Gioan Tẩy giả sẽ sinh ra, đã xin một dấu chỉ để có thể tin vào tính cách xác thực của sứ điệp. Còn Maria tin ngay sứ điệp, chẳng xin dấu chỉ gì. Vấn nạn của bà không phải là một nghi ngờ nhưng là một lời xin soi sáng để tin hơn. Ta cũng thế, đức tin của ta phải hoàn toàn và tức khắc, nhưng cũng phải tìm cách soi tỏ ngần nào có thể bằng sự khiêm tốn cầu xin ánh sáng, bằng việc học hỏi hay ít nhất bằng đối thoại với linh mục. Ở dưới đất này, đức tin luôn có một phần tăm tối, đức tin của Maria cũng như đức tin của ta, nhưng càng vùng chãi và càng có tính cách nhân loại chừng nào thì nó càng sáng tỏ chứng ấy.
4) Thiên sứ cho Maria một lời giải thích. Nhưng rồi mầu nhiệm vẫn còn, "vì đường lối của thiên Chúa không phải là đường lối của ta". Tuy nhiên lời giải thích của thiên sứ sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của Maria, vì bà "ghi nhớ những điều ấy trong lòng để suy niệm" (2,19). Ta cũng vậy, những giáo huấn của Hội thánh qua bài giảng Chúa nhật và các lớp giáo lý không miễn cho ta hành vi đức tin. Song chúng sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của ta.
5) Vì lòng thương, Thiên Chúa vẫn cho Maria một dấu chỉ (việc bà Êlidabét son sẻ mà thụ thai) để xác nhận lời của thiên sứ và giúp lòng tin của bà dễ dàng hơn. Maria không cần dấu chỉ này vì bà đã tin lời thiên sứ, nhưng đây là một ân huệ thêm vào. Ta cũng vậy đôi khi Thiên Chúa gởi cho ta một dấu chỉ rất rõ về sự hiện diện hoặc ý muốn của Ngài (thí dụ ơn được an ủi thiêng liêng, hoàn cảnh quan phòng biến đổi cả hướng đi cuộc đời...). Những dấu chỉ đó chẳng phải là tối cần cho đức tin, ta không nên chờ đợi chúng trước khi tín thác vào Chúa hoàn toàn. Nếu Ngài cho dấu chỉ chỉ vì lòng thương, ta hãy cảm tạ và khiêm tốn như Maria.
6) Khi lần hạt, ta lặp lại những lời thiên sứ đã ngỏ với Maria.
7) Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một nữ tỳ đúng nghĩa. Bà không biết ý muốn ấy sẽ dẫn đưa bà đến đâu. Nhưng bà đã thưa vâng trong tin tưởng, yêu mến. Ta cũng vậy, phải sẵn sàng mền mỏng, phó thác cho đường lối Chúa Quan phòng. Ta không rõ ý muốn ấy sẽ mượn ngõ quanh co nào, nhưng ta biết chắc rằng đích điểm sẽ là sự thân mật với Thiên Chúa ngan bây giờ và chiếm hữu Ngài hoàn toàn trong vĩnh cứu. Ta phải phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa với thái độ sẵn sàng, tin tưởng của Maria! Chừng đó ta sẽ có niềm vui thấy Thiên Chúa làm "những điều lớn lao" qua các tôi tớ hèn hạ của Ngài.
8) Thiên Chúa có thể làm cho cung lòng một trinh nữ sinh con, cũng như có sức hoán cải một tội nhân nên thánh: chẳng có gì mà Ngài không làm được.