Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên ABC- Bài 1-50 Chúa lên trời là đi dọn chỗ cho chúng ta -------------------------------------- Năm A: Phúc Âm: Mt 28,16-20 Thầy đã được trao toan quyền trên tời dưới đất.
Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu Khi ấy, mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------------------- Năm B:
Phúc Âm: Mc 16, 15-20 "Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh". Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------------------------------------------- Năm C: Phúc Âm: Lc 24, 46-53: "Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Tại sao Chúa Giêsu lại được đưa về trời trong sự khải hoàn vinh quang? Lý do thứ nhất đó là: LênTrời ABC-1
Tại sao Chúa Giêsu lại được đưa về trời trong sự khải hoàn vinh quang ?
Lý do thứ nhất đó là vì bản tính nhân loại của Ngài kết hiệp mật thiết với bản tính Thiên Chúa, nên bản tính nhân loại ấy cũng phải được tham dự vào vinh quang bất diệt của Thiên Chúa.
Lý do thứ hai, đó là vì những hy sinh gian khổ Chúa Giêsu đã tự ý chấp nhận do lòng yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại. Với biến cố nhập thể, Ngài đã xuống thế làm người, trở nên giống chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã làm việc, đã đau khổ, đã phải chết để cứu chuộc chúng ta.
Ngài đã phải trải qua một số kiếp bẽ bàng nhất của thân phận con người. Nghèo túng tại máng cỏ Bêlem. Vất vương nơi đất khách quê người bên Ai cập. Lao động cực nhọc trong xưởng thợ Nagiarét. Mệt mỏi vì những cuộc hành trình truyền bá Tin mừng. Và sau cùng tủi nhục ê chề với cái chết trên thập giá, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã vinh thăng Ngài, tặng ban một danh hiệu, trổi vượt trên mọi danh hiệu. Để rồi kể từ nay, mọi thần thánh trên trời cũng như mọi người trần dưới đất, đều phải quì gối thờ lạy khi nghe danh thánh Đức Giêsu Kitô.
Dọc suốt cuộc sống trần gian, Ngài đã chu toàn bổn phận của một người đầy tớ trung thành. Chính vì thế, giờ đây Ngài xứng đáng được ân thưởng bội hậu.
Từ những điều vừa trình bày, vừa chia sẻ, chúng ta đi vào đời sống riêng tư của mỗi người chúng ta. Thực vậy, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Con người đầu đội trời và chân đạp đất.
Chúng ta sinh ra và cư ngụ trên mặt đất, nhưng lại không thuộc về mặt đất. Trái lại, chúng ta phải luôn hướng tới Nước trời, vì Nước trời mới chính là quê hương đích thật của chúng ta.
Thế nhưng làm sao chúng ta có thể đầu tư, có thể xây dựng cho mình một chỗ ở trên quê hương Nước trời ? Làm sao chúng ta có thể chiếm lấy được niềm hạnh phúc bất diệt ?
Tới đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một con đường, một giải pháp tuyệt vời, đó là hãy xử dụng cuộc sống trần gian này để xây đắp quê hương vĩnh cửu cho mình. Nói cách khác, hãy sống trọn vẹn những giây phút hiện tại.
Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi sự vì lòng yêu mến Chúa Cha. Nỗi băn khoăn số một của ngài đó là chu toàn thánh ý Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh dù khó khăn và bi đát nhất.
Với chúng ta cũng vậy, đau khổ và thử thách không thiếu vắng trong cuộc sống của mỗi người. Điều quan trọng là chúng ta hãy biết xin vâng, biết chu toàn bổn phận vì lòng yêu mến Chúa. Hãy nhìn ra thánh ý Chúa được gửi gấm qua những bổn phận của mình, để rồi ra sức thực thi, nhờ đó mà chúng ta sẽ chất đầy trên đôi tay chúng ta những công nghiệp sáng chói xứng đáng được Chúa ân thưởng bội hậu.
Có một thày dòng trong cơn hấp hôi đã nói:
- Xin hãy đem đến cho tôi chiếc chìa khóa mở cửa nước trời.
Các thày dòng khác nhìn nhau, người thì đem lại cho thày cuốn phúc âm, người thì dem lại cho thày cây thánh giá, người thì đem lại cho thày cuốn quy luật nhà dòng. Nhưng thày đều lắc đầu.
Sau cùng, một thày tinh ý đã đem lại cho thày chiếc kim khâu. Nhìn thấy chiếc kim khâu đôi mắt thày dòng hấp hối sáng lên, thày cầm nó trong tay và trút hơi thở cuối cùng.
Thày đã dùng chiếc kim khâu để chu toàn bổn phận của mình trong suốt mấy chục năm trời và giờ đây chiếc kim khâu nhỏ bé ấy đã trở nên như chiếc chìa khóa mở của nước trời cho thày.
Đời sống trần gian thì ngắn ngủi, nhưng nếu biết sử dụng, chúng ta có thể dùng nó để tạo cho mình một nơi cư ngụ vĩnh viễn ở trên trời.
---------------------------
LênTrời ABC-2: NTDY/218: CHỨNG NHÂN
Báo “Le Figaro” mới đăng tải cuộc phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi: LênTrời ABC-2 FB chuyện
Báo “Le Figaro” mới đăng tải cuộc phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
- Có lần ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó ?
Ông trả lời:
- Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ?
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho anh em”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh người đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống theo đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các Ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.
Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục sinh còn quá nhiều người chưa biết tới ! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”. ---------------------------
LênTrời ABC-3: ASTY/129: ĐỜI THƯỜNG
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu về trời, tức là mừng biến cố Chúa ngự về thiên đàng: LênTrời ABC-3
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu về trời, tức là mừng biến cố Chúa ngự về thiên đàng cùng với Thiên Chúa Cha, sau thời gian Ngài sinh sống với chúng ta ở trần gian này trong bản tính nhân loại của Ngài. Đối với những người chỉ có óc phê bình thực nghiệm thì đây là một biến cố hoang đường, một câu chuyện giả tưởng, một hình ảnh ngây ngô của một thời đại mà trái đất được coi là một mặt phẳng rộng lớn, giới hạn ở bốn chung quanh mà Thiên Chúa đã đặt trên nền tảng vững chắc giữa đại dương bao la, còn bầu trời là một vòm cao ngất, bên trên được cấu tạo bằng vật chất cứng như xi măng cốt sắt. Mặt trời, mặt trăng là những vật thể sáng di chuyển dưới vòm trời như đen soi sáng mặt đất, còn các vì sao chỉ là những cửa sổ của bầu trời sáng láng bên trên, qua các cửa sổ đó, các thiên thần có thể trông xem nhìn ngắm trần gian.
Vì óc phê bình thực nghiệm, một phi hành gia vô thần trong những năm đầu tiên con người thử nghiệm bay vào vũ trụ, sau khi bay quanh quỹ đạo của trái đất và trở về an toàn, anh ta đã tuyên bố như sau: “Tôi đã bay lên trời, nhưng tôi đã không gặp Chúa cũng không thấy thiên đàng đâu cả”.
Tạ ơn Chúa, Nước Trời không thuộc về vũ trụ vật chất này, chứ nếu Nước Trời chiếm một chỗ nào đó trong không gian này, có lẽ Thiên Chúa và các triều thần thánh của Người phải nghĩ đến chuyện di cư tị nạn, bởi vì con người với chương trình chiến tranh hành tinh chắc chắn sẽ đem đạn súng đến dày xéo quê hương của Đấng Tối cao.
Để diễn tả biến cố Chúa Giêsu về trời, các Phúc âm ghi lại rất đơn sơ. Như thế có nghĩa là một sự nâng cao lên cùng Thiên Chúa trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu để con người thấy rằng đó là mẫu mực để ngày kia sẽ về cùng Thiên Chúa như vậy.
Thật thế, với sự Nhập Thể Chúa Giêsu là gương mẫu là lý tưởng của đời sống con người, để từ nay Thiên Chúa Chúa yêu thương loài người điều Ngài quí mến nơi Con Một của Ngài. Chính nhờ đời sống của Chúa Giêsu nơi trần gian mà đời sống con người chúng ta được thánh hóa. Nhờ sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hy vọng được sống đời đời sau khi con người rời bỏ cuộc sống trần thế này. Nhờ sự lên trời của Chúa Giêsu, con người tìm thấy cửa thiên đàng mở rộng. Chính vì niềm tin đó mà Giáo Hội trong kinh Tiền tụng I của lễ Thăng Thiên tuyên xưng rằng: “Ngài lên trời không phải để lìa xa chúng ta là những kẻ yếu đuối nhưng vì là Đầu và là Thủ Lãnh của chúng ta, nên Người lên trước để chúng ta là những chi thể của Ngài vẫn một lòng tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.
Để theo Đức Kitô, Đấng đã về cùng Thiên Chúa Cha, chúng ta phải bắt đầu ngay từ bây giờ trong đời sống này là biến đổi con người chúng ta nên giống Chúa Giêsu. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự lên trời của mình không phải chỉ bằng cách đứng nhìn về trời như những người Galilêa xưa, mà phải bằng cách ôm lấy đời sống của mình như Chúa đã an bài cho đến hơi thở cuối cùng trong Chúa.
Người ta kể lại rằng, khi xưa có hai vị khách nọ đọc được trong thủ bản cổ một đoạn sách chép như sau: “Ở thế gian này có một nơi mà trời và đất gặp nhau”. Hai vị nghĩ rằng: Có lẽ chân trời là chỗ ở phía trước kia và nếu mình tìm gặp được thì chỉ cần gõ cửa là có thể vào được Nước Trời nhà của Thiên Chúa. Và ý tưởng đó đã thúc đẩy hai vị ra đi tìm cửa thiên đàng. Cuối cùng hai vị tìm được cánh cửa mình mong muốn ước ao đó. Vô cùng phấn khởi, hai vị gõ mạnh vào cửa, cánh cửa mở ra, hai vị bước vào và vô cùng bỡ ngỡ, hai vị nhận ra chính đây là nhà của mình. Sau những phút ngỡ ngàng, hai vị hiểu ra ngay rằng, nơi trời và đất gặp nhau chính là nơi mình đang sống, nơi đó tình thương Chúa bao trùm lấy cuộc đòi mình, ơn Chúa tuôn đổ dồi dào trên đời sống mình. Nơi đó sức thánh hóa và công nghiệp của Chúa Cứu Thế đang trào dâng trong lòng mình như nhựa cây cuồn cuộn trong thân cây để giúp mình càng ngày càng xứng đáng như công dân Nước Trời hơn.
Vậy mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay, chúng ta không cần nhìn đâu xa trên trời, không cần tìm một niềm tin xa xôi để khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính hằng ngày chúng ta chu toàn bổn phận Chúa trao phó cho mình đó là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, là nơi con người gặp Chúa và Chúa đang nắm tay hướng dẫn mình đi. Và Đức Kitô sống lại về trời không phải trở thành Đấng đứng ở ngoài trái đất, là cửa Nước Trời. Cho nên mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay không phải chúng ta giã biệt Ngài mà chính là chúng ta mừng Ngài là Đấng Cứu Thế đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc để con người trông vào đời sống của Ngài mà cố gắng rập khuôn đời sống của mình.
Vì thế, biến cố Chúa Giêsu về trời không phải là một kết thúc mà là bắt đầu một cuộc sống mới. Các tông đồ bắt đầu rao giảng khắp mọi nơi, và con người bắt đầu cải tà qui chánh trở về con đường Chúa Giêsu đã đi và dạy chúng ta cùng đi để hưởng nhờ ơn cứu chuộc. Hôm nay chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau biết sống cuộc sống hằng ngày của chúng ta theo thánh ý Chúa cách trọn vẹn.
------------------------------
LênTrời ABC-4: NMS/81: TÁI NGỘ Web
Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp: LênTrời ABC-4 FB
Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp ngay Diêm vương. Diêm vương ân cần bèn hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay ở hỏa ngục”. Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn” . Diêm vương bàn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người dịu dàng đi lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản… Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn nghệ với nhạc rập rình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát… Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui sướng hơn”. Thế là Diêm vương sai hai thằng quỉ ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có ăn nhậu, chả có văn nghệ gì ráo trọi, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang vui thích hành hạ các tội nhân. Ông ta nổi sùng, phẩn nộ quay lại hỏi Diêm vương: “Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở đâu ?”. Diêm vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà mày !”.
*****
Đời là thế đấy ! đúng là “sinh ư tử nghiệp”, “sống sao thác vậy”. Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi đó, nên đã bị Diêm vương cao tay hơn, dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta là vậy.
Nhưng nếu suy rộng ra thì đây cũng là một mẫu người tiêu biểu cho lối sống của nhiều người thời nay.
Hơn bao giờ hết, người thời nay với lối sống xô bồ, đua tốc độ với thời gian, lấy vật chất làm động lực sống, coi hưởng thụ khoái lạc làm mục tiêu hành động, nên đã sử dụng môn quảng cáo như là một tuyệt chiêu để tranh sống và sinh tồn ở đời. Do đó, người ta đua nhau tổ chức cuộc sống mình đặt trên cơ sở lấy ngắn thay cho dài hạn, lấy lợi trước mắt quên tác hại sâu xa, lấy bên ngoài quan trọng hơn bên trong, lấy xác hơn hồn. Tất cả những sai lầm nguy hiểm trên đương nhiên ai ai cũng thừa biết, nhưng người ta vẫn cứ sống, vẫn cứ coi thường.
*****
Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa lên trời. Và mỗi lần như thế chắc chắn Chúa vẫn kêu mời mỗi người chúng ta hãy nghĩ và đặt lại hướng đi cuộc đời của mình cho đúng.
Hay nói cách khác: Chúa muốn chúng ta, nhân cơ hội kỷ niệm biến cố Ngài về trời, sáng suốt nhận ra được đâu là mục đích chính của đời sống tại dương thế.
Thảm thương thay, không hiểu tại sao mọi người chúng ta hình như cứ mải mê cố tình, hoặc khờ khạo coi nhẹ sự sống đời đời.
Sở dĩ có tình trạng mê lầm mất phương hướng này,
Một phần do những đòi hỏi của bạn mang vẻ hợp pháp đã đánh lừa nhiều người khiến họ cứ tưởng mình sống không đến nỗi xấu xa lắm:
- nào là “có thực mới vực được đạo”, - nào là sống đạo cốt tại tâm, - nào là phải lo đủ thứ bổn phận trách nhiệm trong gia đình ngoài xã hội, - nào là phải liên tục đương đầu để giải quyết biết bao công việc khó khăn.
Tất cả những thứ đó có đủ mãnh lực mê hoặc, ru ngủ chúng ta, đến nỗi chúng ta cho việc lơ là phần thiêng đạo đức, bỏ bê việc lành, thông cảm với những yếu đuối sa ngã, khô khan nguội lạnh đôi chút, đều không có gì phải ân hận, nuối tiếc cả.
Phần khác là do ảnh hưởng bên ngoài đầu độc. Chẳng hạn, thời nay hầu như ai cũng lấy lợi nhuận, hưởng thụ làm mục tiêu sống, trong khi kẻ nào chủ trương ăn ngay ở lành, ăn chay đền tội, tích luỹ công đức, thì bị người ta cho là dại khờ.
Thêm vào đó, nhiều chủ thuyết cổ võ lối sống tự do phóng khoáng, phi đạo đức luân lý, đả kích tôn giáo, khiến đức tin của một số người bị lung lay, và hoài nghi những chân lý trong đạo.
Đặc biệt ma quỉ đâu chịu ngồi yên, chúng dùng mưu mô xảo quyệt, lợi dụng tối đa, mọi hoàn cảnh, để ra sức dụ dỗ con người nghi ngờ Chúa, quên đi đời sau.
Ngay cả những giây phút cùng nhau chia sẻ lời Chúa. Có những người tự bằng lòng với cuộc sống hiện tai của mình: Nghĩa là họ thỏa mãn những gì họ đang có, còn đạo đức chỉ là chuyện thứ yếu và đời đời lại quá xa vời, không cần quan tâm chi cho vội. Chính khi suy nghĩ như thế cũng đã dủ để minh chứng rằng nhiều người đang sống xa Nước trời.
Vậy, những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết, hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó, để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được, dù phải trả bất cứ giá nào.
Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn những trách nhiệm, những bổn phận mà Chúa giao phó cho mỗi người. Nhưng cũng nên nhớ: Đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều kiển, đến độ quên hết đời sau.
------------------------------
LênTrời ABC-5: CS/71: NƯỚC YÊU THƯƠNG
Khi xét xử thánh nữ Cecilia, lý hình đã nói với thánh nhân: Cô còn trẻ, lại xinh đẹp và giàu sang: LênTrời ABC-5
Khi xét xử thánh nữ Cecilia, lý hình đã nói với thánh nhân: Cô còn trẻ, lại xinh đẹp và giàu sang nữa. Nếu cô phải chết đi thì thật là uổng phí. Cô hãy xông hương tế thần, thì cô sẽ được sống. Thánh nữ đã trả lời: Các anh có muốn bỏ ra 100 đồng để đổi lấy một viên ngọc quí giá không ? Tôi hy sinh thân xác này và Thiên Chúa sẽ ban thưởng cho tôi Nước Thiên đàng. Chúng ta cũng có thể gặp những mẩu đối thoại và những tâm tình tương tự nơi các thánh tử đạo trong lịch sử Giáo Hội. Nước trời hay thiên đàng có một sự thu hút mãnh liệt và là một động lục thúc đảy rất mạnh khiến cho bao nhiêu người chấp nhận mọi gian lao và vượt qua mọi thử thách để vươn tới. Biến cố Chúa Giêsu về trời đã có một âm hưởng lớn lao trong cuộc đời họ. Nhưng Nước trời hay Thiên đàng có còn là một thực tại hấp dẫn đối với mỗi người chúng ta và với con người thời đại hôm nay không ? Phải thành thật thú nhận rằng: do ảnh hưởng của tinh thần thực nghiệm và lối sống thực dụng mà con người ngày nay và cả bản thân chúng ta không còn bén nhạy với những thực tại thiêng liêng nữa. Người ta chỉ tin những gì thấy được, nghe được, sờ mó được và kiểm chứng được. Người ta chỉ đánh giá cao những gì đem lại lợi ích vật chất và vui thú cho đời mình. Và đó là thiên đàng của họ.
Bên cạnh lý do kể trên, còn một lý do quan trọng khác làm cho con người ngày nay trở nên xa lạ với thiên đàng, đó là do cách hiểu và trình bày về thiên đàng như một thực tại xa rời với đời sống con người. Một nhà thần học đã nhận xét: Người Công giáo đã quá quen với hình ảnh một thiên đàng chỉ là những nghi lễ phụng vụ, suốt ngày ca hát, chúc tụng, tung hô Chúa. Quan niệm ấy đưa đến ý tưởng đạo chỉ là những cử hành phụng vụ, những nghi lễ trong nhà thờ, còn cuộc sống hằng ngày ở bên ngoài nhà thờ không có liên hệ gì. Chính vì những sai lầm nói trên mà chúng ta cần tìm lại với xác định của Chúa Giêsu về Nước trời. Ngài ví Nước trời như một tiệc cưới. Nói đến tiệc là nói đến nhiều người, đến cộng đoàn chứ không chỉ có một mình đơn độc. Nói đến tiệc còn là nói đến niềm vui. Không ai đang buồn nẫu ruột mà lại mở tiệc chiêu đãi. Như vậy, nói đến tiệc cưới là nói đến niềm vui, không phải chỉ của riêng đôi tân hôn, nhưng còn là niềm vui của cả cộng đoàn. Mà niềm vui của cộng đoàn trong bữa tiệc có được là do Tình yêu người ta dành cho nhau. Tình yêu là mối giây liên kết con người lại với nhau và là động lực đễ người ta chia sẻ cuộc đời cho nhau.
Và Nước trời là thế đó. Là nước của yêu thương, của niềm vui và bình an. Bởi vậy, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào mà hạt giống yêu thương được gieo trồng, thì Nước trời xuất hiện. Và tất cả những nỗ lực của con người gieo vãi, vun xới cho tình yêu sẽ không bao giờ bị lãng quên hay mất đi, nhưng còn tồn tại mãi đến cõi vĩnh hằng. Như vậy lệnh truyền của Chúa: Hãy làm chứng về Thày. Cũng có nghĩa là hãy xây đắp tình yêu trong cuộc đời và hãy gieo vãi tình yêu cho mọi người. ------------------------------
LênTrời ABC-6: Suy Niệm của Lm Trọng Hương
A. Hạt giống...
Những lời cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ:- Sai các ông đi loan Tin Mừng: “Anh em: LênTrời ABC-6
Những lời cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ:
- Sai các ông đi loan Tin Mừng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”
- Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
B. ... nẩy mầm.
1. Việc loan Tin Mừng nhằm 2 mục đích: thứ nhất là nhằm Rửa tội cho người ta trở thành kitô hữu ; thứ hai là phổ biến những giá trị của Tin Mừng. Có những người vì lý do gì đó mà không lãnh nhận bí tích Rửa tội được nên không trở thành kitô hữu. Nhưng nếu họ sống theo những giá trị Tin Mừng thì, nói theo từ ngữ của nhà thần học Karl Rahner, họ cũng là những “kitô hữu vô danh” (chrétien anonyme). Chúng ta phải cố gắng tạo thêm cả những “kitô hữu hữu danh” và những “kitô hữu vô danh”.
2. June là một cô bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha là một mục sư. Mẹ mỗi khi đi đâu, thường cho em theo.
Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền hỏi: “Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế ?"
"Chúa cho cháu đó ! ”Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi: “Thế ông có được Chúa cho gì không ? có được Chúa cứu không?"
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp: “Không, bé ạ !"
"Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ ! ”Nói xong, bé vội chạy theo mẹ.
Ít tuần sau, ông tìm đến nhà thờ và theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa. (Góp nhặt)
3. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”
Fritz Kreisler (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hoà nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.
Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đờn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý: “Xin đàn một lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm lặng” .Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự súc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi ông ấy phải kêu lên “Kreisler ơi ! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng thức âm thanh của nó”
Lạy Chúa, con cũng không có quyền giữ cho mình tất cả hồng ân Người đã ban tặng cho con. Tất cả đã được đón nhận thì tất cả cũng phải được sẻ chia. (Epphata)
4. Một bà kia nhìn thấy một bé gái gầy nhom và ăn mặc rách rưới. Bà cảm thấy bất nhẫn và kêu trách Chúa:
- Sao Chúa chẳng làm gì cả để giúp cho đứa bé khốn khổ ấy?
- Ta đã làm rồi đấy thôi. Chúa đáp.
- Nhưng Chúa làm gì đâu nào ?
- Ta đã tạo dựng nên con ở bên cạnh đứa bé ấy. (Mark Link, Vision 2000). ------------------------------
LênTrời ABC-7: BÀN GIAO NHIỆM VỤ - VIKINI
Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên: LênTrời ABC-7
1- Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ có một tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.
Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác xây chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường thành. Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày nay, nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu lên trời còn lại trên mặt đất.
Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc chắn hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu, Marcô, Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng đều nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người”. Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.
Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn Côrintô rằng: “Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó Người hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ” (I Cor. 15, 5-6).
Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người chứng kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt”.
Biến cố Chúa Giêsu lên trời, đáng lẽ ra phải là một ngày đại lễ, một cuộc rước khải hoàn vĩ đại nhất, vui mừng nhất, long trọng nhất, như lễ Quốc khánh của trời đất, cho nên Đáp ca trong Thánh lễ đã hô hào: “Hỡi muôn dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thượng đế, Thượng đế ngự lên giữa tiếng tưng bừng, trong tiếng kêu vang, hãy ca mừng, ca mừng vua ta” (Tv. 46).
2- Nhưng việc Chúa Giêsu lên trời, sách Tin mừng chỉ tường thuật rất đơn giản âm thầm, như một cuộc bàn giao nhiệm vụ. Trên trời thì: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” dưới đất thì Thầy đã trao cho anh em: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy”. Đây là một cuộc bàn giao nhiệm vụ vô cùng trọng đại và nặng nề. Để các ông được an tâm tin tưởng và mạnh mẽ thi hành trọng trách này. Đức Giêsu đã quả quyết với các ông: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Như vậy, anh em không phải đăm đăm nhìn trời mong chờ Thầy nữa, vì Thầy không lìa xa anh em mà là ở cùng anh em, không ở cùng anh em bằng thân xác 3 năm hay 30 năm như trước đây mà ở cùng anh em bằng tinh thần Thiên Chúa. Thầy lên trời như vậy là để anh em được sống hiệp thông, hiệp nhất với Thầy ở khắp mọi nơi, trong tinh thần và chân lý, trong tình yêu và quyền năng Thiên Chúa. Nhờ thế anh em đến được với muôn dân thực hiện nhiệm vụ làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy, như Thầy đã làm cho anh em vậy. Đó là con đường phép rửa, đó là con đường lên trời.
3- Đức Giêsu đã mở con đường phép rửa này khi đến sông Giođan và cùng với Gioan kêu gọi toàn dân chịu phép rửa hối cải. Đó là bước đầu của con đường lên trời.
Bước thứ hai là: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần” (Mt. 3, 11). Thánh thần đã lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu để chứng tỏ cho mọi người thấy: “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt. 3, 17-17). “Chính nhờ Thánh thần của Đức Kitô mà anh em được gọi Thiên Chúa là Cha” (Rm. 8, 15-16).
Ta muốn chứng tỏ làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì hãy nghe lời Người: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy”. Cho nên Thầy đã bảo anh em: “Dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Khi họ đã yêu mến giữ lời Thầy truyền, họ xứng đáng được rửa “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây là bước tột đỉnh lên trời, vì họ đã thực sự sống trong gia đình Thiên Chúa, là con Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Họ đã được thanh tẩy mọi tì ố để trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được “Thầy ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế”. Đó chính là lên trời, là Thiên đàng thực sự vì họ được Thiên Chúa ở cùng mãi mãi.
“Lạy Cha, ngày Đức Giêsu, Con Cha yêu dấu, lên trời đã mở cho chúng con thấy con đường lên trời. Xin Cha ở cùng chúng con luôn mãi để chúng con cùng với muôn dân được sức mạnh của Con Cha thúc đẩy, cùng nhau hăng hái tiến bước lên trời vinh quang của Cha. Amen. ------------------------------
LênTrời ABC-8: CHỨNG NHÂN NƯỚC TRỜI - Linh Mục Bùi Quang Tuấn CSsr
Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm: LênTrời ABC-8
Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: "Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ." Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, "Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất."
Thiên đàng sẽ chỉ là một con số "không", chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.
Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.
Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời "Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế" mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài.
Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.
Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.
Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: "Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời."
Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: "Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời."
Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: "Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp."
Ba câu nói của ba con người-- vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ-- đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.
Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: "Mái Ấm Gia Đình."
Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.
Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.
Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?
Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những "mái ấm":
"Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.
Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.
Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.
Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương...
Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.
Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.
Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.
Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc."
Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế--mái ấm gia đình--để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc. ------------------------------
LênTrời ABC-9: NIỀM HY VỌNG NƯỚC TRỜI Web
Có người kia nhặt được trứng đại bàng, đem về cho ấp chung với trứng gà. Đại bàng con nở: LênTrời ABC-9
Có người kia nhặt được trứng đại bàng, đem về cho ấp chung với trứng gà. Đại bàng con nở ra cùng với đàn gà con. Ngày ngày đại bàng con theo gà mẹ bới đất tìm sâu như một chú gà con thực thụ. Một hôm đang bới giun, đại bàng con kinh hãi khi thấy một con chim khổng lồ bay lượn trên không. Đôi cánh hùng vĩ giang rộng như cánh buồm. Đường bay lượn uy dũng mà đẹp đẽ. Nó hỏi các anh chị em gà: “Con chim gì mà ghê gớm thế nhỉ”? Gà mẹ trả lời: “Chim đại bàng đấy. Đại bàng thuộc về trời, còn chúng ta thuộc về đất. Đại bàng bay lượn trên mây, còn chúng ta chỉ biết bới đất tìm giun thôi”. Đại bàng con không hề biết nó thuộc dòng giống đại bàng. Suốt đời nó sống như loài gà, và sẽ chết như gà.
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Đức Giê-su lên trời là một bằng chứng cho niềm hi vọng của ta.
Việc Đức Giê-su lên trời bảo cho ta biết rằng: ngoài đất, còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp, còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua, còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Đức Giê-su về trời là niềm hi vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Đức Giê-su đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Đức Giê-su dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Đức Giê-su chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Đức Giê-su uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su loan Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hi vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hi vọng đó, người Ki-tô hữu chân đạp đất, nhưng lòng vẫn phải hướng về trời cao. Niềm hi vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất, nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hi vọng đó nâng cuộc sống con người lên, vì từ nay, ta hiểu rằng : định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hi vọng đó làm cho cuộc sống của có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo qui luật của vật chất, mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hi vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn, vì đó chính là sứ mạng Chúa trao phó. Niềm hi vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
Gợi ý chia sẻ
1- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
2- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
3- Đời sống là một bổn phận phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này? ------------------------------
LênTrời ABC-10: LỄ THĂNG THIÊN
“VÀ ĐÂY, THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ”.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Kết thúc mà lại khởi đầu
Phụng vụ bài đọc năm A về lễ Thăng Thiên mời gọi ta suy niệm những câu cuối cùng của Phúc: LênTrời ABC-10
Phụng vụ bài đọc năm A về lễ Thăng Thiên mời gọi ta suy niệm những câu cuối cùng của Phúc Âm thứ nhất. Đoạn văn kết thúc Phúc Âm Matthêu này đặc biệt gợi nhớ đến hai chương đầu của Phúc Âm.
- Thực vậy, khi viết “Phúc Âm về thời niên thiếu”, thánh Matthêu muốn mời gọi ta coi việc Đức Giêsu giáng sinh tại Belem, thành vua Đavít là ứng nghiệm lời tiên tri về một Đấng “Emmanuel": Đấng “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7), còn các Đạo sĩ đến từ phương Đông tiêu biểu cho những người tiên phong của Dân Ngoại đang đi đến niềm tin vào Đức Kitô: “Họ THẤY Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền SẤP MÌNH THỜ LẠY NGƯỜI”.
- Ở đoạn kết thúc, rõ ràng là thánh sử, đã lấy lại cũng những lời lẽ trên để thuật lại cuộc gặp gỡ lần cuối cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Người ở Galilê: “Khi THẤY Người, các ông SẤP MÌNH THỜ LẠY Người”. Rồi Đức Giêsu trao cho các ông sứ mệnh đến với “MUÔN DÂN” và long trọng tuyên bố rằng: “THẦY Ở CÙNG CÁC CON” mọi ngày cho đến tận thế”.
J. Radermakers chú giải: “Ở đây chúng ta thấy con người Đức Giêsu dầu mang dấu vết của một con người được sinh ra ở một thời điểm và sinh sống ở một nơi chốn nhất định, vẫn có cả một sự bao trùm lớn lao, trải rộng đến mọi chiều kích của toàn thể lịch sử nhân loại” ("Au fie de l'Evangile selon saint Mathieu, Viện Nghiên cứu Thần học, Bruxelles, 1974, trang 362).
2. Khi hồi kết thúc loan báo một khởi sự mới
Sau Phục sinh, Đức Giêsu hẹn gặp lại các môn đệ Người, không phải ở Giêrusalem, thủ đô và là thành thánh như trong Phúc Âm Luca, mà là ở “Galilê” miền đất vẫn bị mọi người nhìn bằng nửa con mắt, là “nơi qui tụ dân” là biểu tượng của thế giới ngoại giáo (Mt 4,12-23).
“Giáo Hội... phải rời bỏ Giêrusalem mà về mặt địa lý cho tới lúc ấy vẫn được coi là trung tâm đức tin, nơi có Thiên Chúa hiện diện, để đi tới miền vốn được coi là “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa ngay là một “Giáo Hội vì mọi người": đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội, điều mà không bao lâu sau Đức Giêsu sẽ nói rõ ràng” (Cahiers - Evangiles” số 9, trang 6).
Nơi Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đi tới, là một “ngọn núi” vốn là nơi rất thích hợp cho việc Chúa mạc khải. Một lần nữa ở dân cũng như trải dài suốt Phúc Âm của Ngài, thánh Matthêu đều trình bày Đức Giêsu như một Môsê mới ban Luật của Người cho dân tộc mới của Thiên Chúa.
Cl. Tassin chú giải: “Như trong một cuốn phim, người ta lần lượt thấy xuất hiện những ngọn núi: núi quỷ cám dỗ khi chỉ cho Đức Giêsu xem thấy các nước trần gian, núi Bát Phúc, nơi Thầy công bố hiến chương Nước Trời, và Núi Hiển Dung nơi vinh quang Con Người được tỏ hiện; nổi bật hơn cả vẫn là cảnh âm u tịch mịch của núi Nê-bô, nơi Môsê phải nói lời giã biệt trước khi dân tiến vào Đất Hứa” ("Phúc Âm thánh Matthêu, NXB. Centurion, trang 303).
- Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ liền “sấp mình thờ lạy Người” trong một cử chỉ vừa tôn kính theo đạo giáo, mà cũng có tính cách phụng thờ, y như các đạo sĩ đã làm khi thấy hài nhi với thân mẫu là bà Maria (2,2.8.11); cũng như các môn đệ đã bày tỏ khi ở trong thuyền lúc sóng to gió cả, và đó cũng là cử chỉ của người phụ nữ xứ Canaan vậy (15,25).
Nhưng lòng tôn thờ của các ông còn vương vấn “sự hoài nghi”, mối hoài nghi này, theo như J. Radermakers nhận xét chí lý, chính là người bạn đồng hành không thể tách biệt của một lòng tin đang lần bước”.
- Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ ("Đức Giêsu đến gần"), Đấng mà các ông sấp mình thờ lạy ấy, chính là Đức Chúa hiển vinh. Một khi đã được vinh thăng, được trao ban quyền tối cao xét xử toàn cầu ("Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất") thì giờ đây Người có lý khi sai các môn đệ của mình đi khắp thế giới để làm cho vương quyền ấy được thực hiện.
Những lời Người ban bố cho họ đánh dấu sự khai trương một giai đoạn mới trong sứ mệnh của Người, sứ mệnh mà từ này trở đi Người sẽ vẫn tiếp tục nhờ Giáo Hội.
+ “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Suốt thời gian thừa hành sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã phải tự ý giới hạn hoạt động của Người đối với “các chiên lạc của nhà Ít-ra-en”. Từ nay những biên giới ngăn cách do không gian và thời gian đều bị bãi bỏ vì Người có thể thực thi trọn vẹn sứ mệnh Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đúng như Matthêu đã loan báo, khi mượn lời sấm của Isaia 42,1-4: “Và môn dân sẽ đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (Mt 12,18-21). Dân ngoại có mặt ngay từ buổi đầu của Phúc Âm thì cuối cùng vẫn thấy mình là những con người được Tin Mừng nhắm tới. Đức Giêsu trao phó cho Giáo Hội Người sứ mệnh truyền giáo khắp hoàn cầu này.
Cl. Tassin còn muốn lưu ý ta rằng: “Điểm nhấn mạnh không ở tại động từ “Đi” hay ở tại sứ mệnh chinh phục địa lý, mà cốt ở việc mở ra cho hết mọi nhóm người không phân biệt một ai. Bởi lẽ Đức Giêsu đã được “trao toàn quyền” thì mọi người đều phải thần phục quyền bính của Người. Đối với Matthêu, truyền giáo là gì? Thưa là: những môn đệ làm cho những người khác trở thành môn đệ; là những người nam cũng như nữ cảm nghiệm sâu sắc rằng giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi chính cuộc đời của họ, họ chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, dạy bảo cho những người ấy tuân giữ mọi giới luật của Đức Giêsu mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một luật là tình yêu” (O.C., trang 304).
+ “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Truyền giáo không phải là tuyên truyền một ý thức hệ, dù là cao siêu tuyệt vời, mà là chủ trương không ngừng xây dựng một cộng đồng: cộng đồng của những con người nhờ chịu phép rửa mà muốn sống gắn bó mật thiết với nhau bởi cùng thuộc về một Thiên Chúa là “Cha, Con và Thánh Thần”.
+ “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Truyền giáo không thể chỉ thu gọn lại trong việc kêu gọi người ta trở lại rồi bỏ mặc đấy. Giáo Hội sẽ phải giúp đỡ những tân tòng ngày qua ngày sống hoà nhập với cuộc đời mới mà họ đã bước vào.
J. Radermakers đưa ra nhận xét sau: “Chính Phúc Âm nhìn toàn bộ là một giáo huấn về cuộc sống, được hiểu như dấu chỉ của bí tích trong phép rửa tội và được triển khai cách hài hoà trong cuộc sống đời thường; đời sống luân lý trong cộng đồng Kitô hữu chẳng qua là sống Tin Mừng bằng việc làm cụ thể” (O.C., trang 365).
+ “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đây là lời tuyên bố cuối cùng và cũng là điểm cao nhất của lời Chúa phán vì là lời hứa bảo đảm một sự hiện diện tích cực và hữu hiệu vô bờ bến. Cuối Phúc Âm của mình, thánh Matthêu mới cao rao rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.
J. Potin kết luận: “Đức Giêsu không xa lìa Giáo Hội của Người. Mặc dầu ta không trông thấy Người, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi mà Giáo Hội sẽ lan rộng tới, cho đến tận thế. Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu không biến mất lên trời. Nhưng lời nói cuối cùng của Người cũng là câu sau chót của Phúc Âm, hứa rằng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Vả lại trước đây há chăng Người đã chẳng tuyên bố: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Đấng Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê, Người đi theo các tông đồ của Người trên mọi nẻo đường trần gian” ("Jésus, l'histoire vraie” NXB Centurion, 1994, trang 516).
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở (Đức Cha L. Daloz, trong “Le Règne de Dieu s'est approché”).
“Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một màn khai mở: đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Phải suy niệm, và nhìn ngắm mới thấy rõ việc truyền giáo là con tim đang đập trong lồng ngực Giáo Hội có tác dụng kích thích Giáo Hội. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, và qua các ông, cho chung tất cả mọi môn đệ, Đức Giêsu thành người sống đương thời với chúng ta: Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế... Việc gặp gỡ Mười Một Tông đồ là điều có liên hệ chặt chẽ với mầu nhiệm Phục sinh. Trước khi đi vào cuộc khổ nạn Người đã báo trước: Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em. Sau khi Phục sinh, Người nói lại sứ điệp ấy với các phụ nữ đứng bên mồ và triệu tập các môn đệ: “Các bà hãy về báo cho anh em Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.
Vì nhờ mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô, sự phục sinh nhân loại mới có thể được thực hiện. Khi sai các môn đệ... Đức Giêsu phục sinh là cội nguồn của việc truyền giáo. Quyền năng Thiên Chúa đã cho Người sống lại trở nên quyền năng cứu độ cho mọi dân tộc. Chúng ta nhận biết quyền năng ấy, và chỉ có lòng tin mới tiếp nhận được thôi (cũng như 11 tông đồ) các ông gặp Đức Giêsu trên núi, là nơi vốn xảy ra những cuộc hiển linh của Chúa, như ở núi Sinai hay ở núi Hiển Dung. Thái độ của các tông đồ lúc ấy diễn tả lòng tin của ta: tôn thờ mà lại do dự: khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Cảnh tượng thật long trọng, giống như một cuộc hành lễ, chứ không còn là buổi gặp gỡ thân tình như những lần hiện ra trước đây. Là vì lần gặp gỡ này xác định nền tảng, hình thức và chân trời cho sứ mệnh truyền giáo vậy.
Nền tảng ấy là quyền hành mà Đức Giêsu nhận được: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Không phải là quyền của kẻ có sức mạnh trong tay và thống trị, mà là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng. Không phải là quyền chiếm đoạt như Tên Cám dỗ đã đề nghị cho Người. Nhưng là quyền của tình yêu không để bị khuất phục. Đó là sức mạnh của sự phục sinh được khơi nguồn trong Đức Giêsu và nhờ Người sức mạnh ấy làm thay đổi cả thế giới. Những nỗ lực truyền giáo, tinh thần can đảm để không ngừng thực thi sứ mệnh, tất cả đều nhờ sức mạnh ấy mà tìm được chỗ dựa bảo đảm. Sức mạnh này không phải do ta khôn ngoan, tài khéo, tận tuỵ mà có được... anh em hãy đi! Đó là một lệnh truyền. Từ buổi đầu cho đến nay, lệnh sai đi này vẫn vang lên không ngừng, vẫn luôn luôn gợi ra những sáng kiến mới lạ, những cuộc lên đường mới, một đà tiến mới tới miền xa xăm hay rất gần mà chúng ta đều mắt thấy tai nghe qua suốt dòng lịch sử.
Bởi lẽ chân trời truyền giáo là tất cả mọi quốc gia, và hạn kỳ là cho đến tận thế. Việc truyền giáo chẳng bao giờ cùng về mặt địa lý cũng như về lịch sử. Ta tham gia vào công việc này ngay ở nơi ta đang ở và thời đại ta đang sống. Mỗi người lãnh phần trách nhiệm của mình, nhưng mỗi người không phải chịu trách nhiệm về tất cả. Quan tâm thôi, không đủ; mà phải hành động. Mỗi người chúng ta được sai đến ở nơi mình đang ở; ta không thể chỉ là người hưởng ơn cứu độ, mà cũng còn là dụng cụ Chúa dùng để ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô đạt tới những kẻ khác, những người ta đang sống với, những người ta được sai đến với họ ở cận kề bên ta hay ở xa ta. Nhiệt tình do Đức Giêsu phục sinh ban cho vẫn có trong con tim của mọi cuộc đời Kitô hữu. Đời sống này trở nên suy nhược khi bóp nghẹt nhiệt tình này bằng lối sống vị kỷ, khép kín. Cần phải biết sống chia sẻ để khởi xơ cứng và chết. Cũng vậy, Giáo Hội không thể ở thể tĩnh. Giáo Hội được sai đi...
Hình thức việc truyền giáo cũng được chỉ rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Chúng ta nhận thấy có ba mặt: loan báo Tin Mừng để khơi dậy được những con người môn đệ, tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh bằng việc lãnh nhận phép Rửa và các bí tích, sống đời sống mới bằng cách thi hành các điều Chúa truyền. Truyền giáo là tất cả như thế đó. Không có ba yếu tố này, công việc ấy không đầy đủ, và chẳng một yếu tố nào trong ba làm nên được công chuyện bởi lẽ “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Quả thực, đây là một thách đố đặt ra cho Giáo Hội, vì rằng mọi dân tộc đều có quyền chia sẻ mầu nhiệm Phục sinh, đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu để được biến đổi và trở nên mới. Như thế các dân tộc ấy cũng hội nhập vào mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Qua việc truyền giáo của các tông đồ, Đức Giêsu vẫn theo đuổi công việc Người đã khởi sự trong mầu nhiệm Phục sinh của Người; Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Ta còn sợ hãi gì nữa, một khi có Đức Giêsu phục sinh đang ở cùng chúng ta.
2. “Là dịp để ta canh tân lại quyết định làm môn đệ trung thành của Đức Kitô” “Célébrer” (Nguyện san của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ Phụng vụ) số 258 trang 42.
“Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Emmanuel”, vẫn là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.Việc Người-lên-trời không hẳn là một sự lìa bỏ. Phải học hỏi để nhận ra điều này dầu không trông thấy Người như các môn đệ đã thấy xưa. Chúa lên trời nhắc nhở ta sống thân phận của một người tin và yêu: tin rằng Người vẫn đang có mặt, và thực hành yêu thương để làm cho Người được hiện diện. Lễ này phải là dịp để ta canh tân lại quyết định trở thành những môn đệ trung tín của Đức Kitô: những môn đệ vững tâm vì Người vẫn có mặt bên ta “mọi ngày”, những môn đệ sẵn sàng đáp lại tiếng gọi sai đi truyền giáo cho “muôn dân” của thời đại hôm nay”.
3. “Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” J. Rader-makers chú giải thêm cho bài viết ở trên.
Đức Giêsu Nagiarét xuất thân.
Từ miền Galilê của chư dân,
Đất thuộc Zabulon và Néptali
Người là ánh sáng bừng lên
Soi cho dân ngồi trong tăm tối;
Người là Quý Tử chí ái
Của Ngôi Thánh Phụ muôn đời quang vinh.
Để tha tội lỗi môn dân
Người đành hiến máu để làm Giao ước;
Người đã chỗi dậy ngày thứ ba
Làm cho muôn dân trở thành môn đệ.
Người là Emmanuel vẫn luôn có mặt,
Người còn đi trước các anh em
Đến những Galilê của mọi miền trái đất. ------------------------------
LênTrời ABC-11: LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
Anh chị em thân mến
Biến cố Chúa Giêsu về trời đã được ghi lại trong sách Tông đồ Công vụ một cách rất chi tiết: LênTrời ABC-11
Biến cố Chúa Giêsu về trời đã được ghi lại trong sách Tông đồ Công vụ một cách rất chi tiết và đầy đủ. Còn trong bài Tin Mừng hôm nay các tông đồ được giới thiệu như là những người được Chúa Giêsu trao phó cho nhiệm vụ gìn giữ giáo huấn của Chúa Giêsu và tiếp tục các sứ mệnh tông đồ mà Ngài uỷ thác cho.
Thật vậy, các tông đồ là những người đã được Chúa Giêsu tuyển chọn và dạy dỗ, họ là những chứng nhân tai nghe mắt thấy Chúa Giêsu Phục Sinh, được tẩy rửa trong Chúa Thánh Thần và lãnh nhận sức mạng tiếp tục rao giảng Tin Mừng cứu độ. Do đó, các tông đồ là những vị nòng cốt xây nền cho cộng đoàn mới của Chúa Giêsu là Giáo Hội, dân riêng mới của Thiên Chúa.
Tất cả sự phát triển sau này của Giáo Hội đều phải dựa trên quyền bính và tính chất xác thực của đoàn tông đồ dưới sự trợ lực của Chúa Thánh Thần. Các vị là những người chu toàn sứ mệnh đại đồng, đem Tin Mừng cứu độ tới cho mọi dân tộc và làm cho Tin Mừng cứu độ thấm nhập sâu rộng vào dòng lịch sử cho tới ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.
Để chuẩn bị cho các tông đồ đảm trách sức mạng trọng đại này, sau khi sống lại Chúa Giêsu qui tụ đoàn tông đồ bị tản mát lại và trong 40 ngày liên tiếp, Ngài đã hiện ra với các ông, để giúp các ông sống kinh nghiệm thực lại Phục Sinh, cũng như dạy dỗ họ hiểu biết bản chất nước Thiên Chúa.
Trong trình thuật Chúa lên trời của Tin Mừng thì cõi trời cao là nơi Thiên Chúa thánh thiện siêu việt ngự tới Vượt cao trên trái đất là nơi loài người tội lỗi sinh sống và xa cách vùng nằm dưới trái đất là âm ti, nơi sự dữ chết chóc và tối tăm chiếm hữu. Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được quan niệm như là đường dọc: Thiên Chúa từ trời xuống để đối thoại với con người, rồi sau khi kết thúc Ngài lại lên trời.
Qua kiểu diễn tả với các ý niệm không gian này, tác giả Tin Mừng muốn khẳng định và tuyên xưng lòng tin của Giáo Hội vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng đã khiến con người bước vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và chia sẻ thiên tính siêu việt của Ngài.
Tuy Chúa Giêsu Phục Sinh không hiện diện giữa chúng ta với thân xác phải tuân hành các luật lệ vật lý như trước nữa, nhưng Ngài hiện diện bằng sức mạnh trao ban sức sống của Thiên Chúa. Thân xác mờ đục in tằn dấu vết khổ đau của Người lôi tớ giờ đây đã được cất nhắc lên cao, được toả vinh quang trong Thiên Chúa. Chính vì thế thánh Gioan đã khẳng định: "Chúa Giêsu Kitô được cất nhắc lên cao là để tôn vinh ngay trong khi Ngài bị treo lên và chết trên Thập giá".
Đám mây là một hình ảnh biểu tượng và ám chỉ các tần Thiên Chúa tự tỏ hiện ra như trình thuật trong sách Xuất Hành. Biến cố Chúa về trời mời gọi tín hữu đừng biến lòng tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh thành việc chứng nhận một phép lạ cả thể, giống như phép lạ cho người chết sống lại. Nhưng phải nhận ra sự thật tuyệt diệu này qua Chúa Giêsu Kitô, Ngài là Chúa vinh quang của toàn vũ trụ, và Ngài đã cho con người từ nay được tháp nhập vào chính vinh quang của Thiên Chúa.
Câu các tông đồ hỏi liên quan đến việc thiết tập nước Israel phản ánh một thứ lòng tin nghèo nàn còn lệ thuộc vào ý niệm không gian, và việc biểu diễn ngoạn mục bề ngoài lòng tin đích thực là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là chứng tá can đảm và thái độ rộng mở đại đồng vượt ra ngoài mọi thứ biên giới của thế giới và tâm thức loài người.
Đây là ba nhân tố làm thành kinh nghiệm của Giáo Hội như trình thuật trong sách Tông đồ Công vụ. Chúng cụ thể hoá biến cố Phục Sinh và Lên Trời trong cuộc sống của người tín hữu, và biến chúng ta trở thành những người sống và đem Tin Mừng Phục Sinh hiện thực giữa lòng thế giới. Việc đem Tin Mừng Phục Sinh đó không phải theo kiểu cách tâm thức và các mong đợi của con người trần gian, nhưng theo tiết nhịp phương thức và kiểu cách trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Đây cũng là sức điệp mà thánh Matthêu nêu bật trong trình thuật cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Kitô Phục Sinh và biến cố này được nhắc lại trong bài Tin Mừng lễ Chúa Lên Trời hôm nay. Trình thuật này nhằm đúc kết Phúc âm, vừa diễn tả đích tới của nó.
Cho tới nay, Chúa Giêsu đã rao giảng và hoạt động để phổ biến Tin Mừng cứu độ, giờ đây Ngài trao cho các tông đồ và Giáo Hội nhiệm vụ tiếp tục sức mệnh của Ngài, bắt đầu lại Galilêa nơi Chúa Giêsu đã khai mào sứ mệnh ấy.
Cuộc gặp gỡ theo lược đồ của các trình thuật ơn gọi gồm việc giới thiệu Chúa Giêsu Kitô, sứ mệnh Ngài trao phó là lời Ngài hứa sẽ luôn luôn hiện diện trợ lực cho các môn đệ trong công tác truyền giáo.
Chúa Giêsu được giới thiệu như là Chúa của toàn thể vũ trụ, Ngài nắm trong tay mọi quyền bính. Chính Ngài trao cho các tông đồ sức mệnh rao giảng Tin Mừng, để biến mọi dân nước thành môn đệ của Ngài qua việc trao ban Bí tích Rửa Tội và giảng dạy toàn vẹn giáo lý Họ đã lãnh nhận, hầu đem mọi người về với Thiên Chúa.
Từ nay, Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ hiện diện và trợ lực họ khắp nơi trên thế giới này, chứ không phải chỉ hạn chế trong đất Palestine mà thôi. Như thế, lễ Chúa Giêsu Lên Trời cũng là biến cố tôn vinh vận mệnh cuối cùng của con người chúng ta. Nó là bài ca chúc tụng gia nghiệp kho làng vinh quang của Chúa và định hướng đi cho lịch sử loài người. Bởi vì nó giúp chúng ta ý thức được rằng, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh là trung tâm điểm lôi kéo và qui tụ vũ trụ cùng toàn thể nhân loại vào trong quỹ đạo của ơn cứu độ. Tư tưởng thần học này được thánh Phaolô nhắc lại trong bài thánh ca chương I gởi giáo đoàn Êphêsô, được nhắc lại nơi bài đọc II của Chúa Nhật lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay. Thánh Phaolô viết tá thư này khoảng năm 62-63 và mở đầu với bài thánh ca chúc tụng Chúa Kitô Phục Sinh, đồng thời cho tín hữu thấy chương trình cứu độ tuyệt vời mà Thiên Chúa đã đề nghị với nhân loại khi cho Chúa Kitô sống lại, tôn vinh Người làm chủ vũ trụ và đặt mọi sự dưới chân Chúa Giêsu Kitô.
Thiên Chúa Cha cũng tôn vinh con người, đồng thời năng lực thần thiêng của Chúa Kitô Phục Sinh lôi kéo Giáo Hội tới với Ngài. Giáo Hội là thân mình của Ngài, là sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới, giống như thân xác của Chúa Giêsu xưa kia khi Ngài, còn giảng dạy hoạt động và chữa lành bệnh tật Chúa con người trên mặt đất.
Trong bài thánh ca chúc tụng Chúa Kitô Phục Sinh, thánh Phaolô đã dùng các từ diễn tả sự hiểu biết và hiệp thông thân tình mà Thiên Chúa ban cho tín hữu. Chính Thiên Chúa sẽ trao ban cho chúng ta thần trí khôn ngoan và mạc khải, soi sáng tâm trí chúng ta, để chúng ta hiểu biết Ngài, nghĩa là bước vào liên hệ thân tình với Ngài và nếm hưởng mọi điều tuyệt hảo Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta. Chính niềm tin tưởng vào vận mệnh cao quí này khiến cho tín hữu phải lạc quan hy vọng, dấn thân biến đổi thế giới và đem mọi người đến với Chúa Kitô, để Chúa Kitô là tất cả trong mọi người. ------------------------------
LênTrời ABC-12: Suy Niệm của Quesson
Từ “Thăng Thiên" có thể mang một sắc thái xấu đối với các Kitô hữu, nếu chúng ta để cho trí: LênTrời ABC-12
Từ “Thăng Thiên" có thể mang một sắc thái xấu đối với các Kitô hữu, nếu chúng ta để cho trí tưởg tượng biểu thị một cách vật lý điều mà thực ra là một mầu nhiệm vô cùng của đức tin. Bản văn của Mátthêu khác với bản văn của Luca, không nói với chúng ta về sự thăng thiên (lên trời) nhưng về sự hiện diện mới thánh sử mời gọi chúng ta không nên cử hành ngày này như “sự ra đi của một người thân yêu mà người ta đưa ra phi trường trước khi phi cơ cất cánh”. Vậy chúng ta hãy quên đi mọi sự tưởng tượng của chúng ta và lắng nghe Đức Giêsu: Không nói về sự ra đi, Người nói về sự hiện diện khắp mọi nơi ! “Thầy ở cùng anh em mọi ngày...” Vậy chúng ta hãy lắng nghe trang cuối cùng của Tin Mừng Thánh Mátthêu. Đó là bảng tỏm tắt bài tường thuật tất cả các từ ngữ đều chuyện tái ý Đó. Chúng ta hãy suy niệm về tất cả các từ ấy
Mười một môn đệ.
Họ gồm có “mười một" và chỉ mười một thôi! Rất ít đối với một trách nhiệm tỏ lớn mười một chứ không phải mười hai, như chúng ta đã quen từ lúc bắt đầu Tin Mừng. Quả thực, đây là một Giáo Hội rất nghèo nàn.. một nhóm quá nhỏ, bị cắt cụt bởi vì một người trong số họ đã bỏ ngũ. Không phải chỉ hôm nay mới có những người bỏ rơi đồng đội.
"Mười một môn đệ".. Mátthêu gọi họ là “môn đệ" thay vì là "tông đồ” điều Đó là có dụng ý. Ở đây, họ không ở vị trí của những người được giao cho một quyền bính đặc biệt. Hoàn toàn đơn giản, môn đệ là điều kiện chung của mọi người đi theo Đức Giêsu, là bạn hữu của Người. Môn đệ ư? Bạn, tôi chúng ta...Bạn có phải là một môn đệ không? Bạn hãy nhớ rằng Giuđa đã làm lỡ một cuộc hẹn gặp .
Đi tới miền Galilê...
Nhấn mạnh trên địa điểm hẹn gặp này là điều có ý nghĩa đối với Mátthêu; thánh sử đã không ngần ngại cho địa điểm ấy là nơi xảy ra sự xuất hiện chính thức, để tôn cao giá trị của miền Galilê... và không nói đến những lần hiện ra ở Giêrusalem trong các tường thuật Tin Mừng khác.
Galilê! Nơi hẹn gặp đã được Đức Giêsu chỉ định sau bữa ăn cuối cùng: "Sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mátthêu 26,32). Ở ngôi mộ trống, thiên thần đã nhắc lại cuộc hẹn gặp: "Các bà hãy mau về nói với các môn đệ Người rằng Người đi Galilê trước các ông và ở Đó các ông sẽ được thấy Người” (Mátthêu 28,7). Galilê! Miền đất mà Mátthêu đã chú ý mang lại ý nghĩa tượng trưng ngay từ đầu sứ vụ của Đức Giêsu trong tỉnh Đó khi dẫn lời ngôn sứ: Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại... những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi! (Mátthêu 4,15 ; Isaia 8,23 - 9,l).
Galilê! Tỉnh xanh tươi và ngọt ngào: Xứ sở của sự sống! Galilê! Tỉnh của nhiều sắc dân trộn lẫn, xứ sở mà các người thanh khiết ở Giêrusalem khinh bỉ, xứ sở mở ra cho những xứ sở khác, cho những dân ngoại đây là miền đất của sự tiếp xúc, nơi hòa trộn niềm tin với sự vô tín.
Galilê! Miền đất cội rễ của con người Giêsu Nadarét: Người trở nên một thân thể với xứ sở này; người là một người Galilê; có giọng nói của người miền Bắc, "Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?" (Gioan l,46) đối với chúng ta, Đó là một lời mời gọi chớ nên mơ tưởng đến một chỗ nào khác: Ờ, phải chi tôi có một tổ ấm khác!
Phải chi tôi học trong một trường học khác! Phải chi các đồng nghiệp tôi thế này, thế khác; giáo xứ tôi thế nọ, thế kia! Đức Giêsu hẹn gặp bạn trong miền Galilê của chính bạn.
...Đến ngần núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, núi là nơi tượng trưng cho sự gặp gỡ với Thiên Chúa và cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Ở trên cao, người ta nhìn xa... xa hơn như khi ở trong cánh đồng! Ở trên cao, người ta hít thở khoáng đãng hơn.., trong lành hơn sự ô nhiễm của các thành phố! Ở trên cao, người ta cô quạnh hơn... và có nhiều khả năng hơn để lắng nghe tiếng nói của sự im lặng, thường bị nhận chìm bởi những mớ lộn xộn của sự nhiều lời trống rỗng! Núi Xi-nai nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa duy nhất lần đầu tiên. Núi các mối Phúc Thật (Mátthêu 5,1). Núi của sự biến hình (Mátthêu 17,1). Núi chữa bệnh (Mátthêu 15,29). Núi cầu nguyện (Mátthêu 14,23). Núi hóa bánh ra nhiều (Mátthêu 15,32) làm thế nào mà sự sống lại không được biểu lộ trên núi chứ? (Mátthêu 28,16).
Còn bạn? Phải chăng bạn có những cuộc hẹn gặp trên núi nơi mà Đức Giêsu ra lệnh cho bạn đến gặp Người?
Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.
Bái lạy. Hoài nghi. Hai từ này bề ngoài hoàn toàn đối lập nhau, nhưng Mátthêu tập họp chúng trong cùng một câu. Vâng, cũng trên nhọn núi ấy, có chỗ cho thực tại đáng sợ ấy: Sự hoài nghi bái lạy là sự chiến thắng trên hoài nghi. Đức tin là một hành động tự đo, rất khác với những điều hiển nhiên buộc phải chấp nhận của bình diện khoa học. Tin Mừng rất khiêm tốn, không có gì là bực dọc và hứng khởi vô lý mọi tường thuật các lần xuất hiện sau khi sống lại đều có một nét chung: Đức Giêsu sống lại không "hiển nhiên"... người ta ngần ngại thừa nhận điều Đó.
Bạn đang tìm kiếm và hoài nghi, vậy bạn hãy thử bái lạy, thờ phụng Người.
Đức Giêsu đến gần, nói với các ông.
Tôi chiêm ngắm hành động này trong nội tâm trong một trường hợp duy nhất khác, Mátthêu ghi nhận động tác tiếp cận ấy mà Đức Giêsu đã thực hiện. Đó là lúc Người biến hình. Khoảng cách của Thiên Chúa đối với con người rất lớn đến nỗi: Thiên Chúa cần phải đến với chúng ta một cách chủ quan, chúng ta không có khả năng tin tưởng. Sự khởi xướng thuộc về Thiên Chúa. Còn phần chúng ta, chúng ta có tự do đáp lại hành động tiếp cận của Người bằng sự thờ lạy.
Trong tường thuật Phục Sinh của Mátthêu, chúng ta nhận thấy sự kín đáo tột độ: Không có chi tiết cụ thể nào...Đức Giêsu chỉ đến gần và nói! Toàn bộ Tin Mừng của Mátthêu có đặc tính nhấn mạnh trên những bài giảng văn Đức Giêsu: Đức Kitô của Mátthêu là một Đức Kitô thuyết giảng năm bài giảng lớn đã tạo thành nhịp điệu sự tường thuật của Mátthêu. Vậy, đây là lời tôn vinh và kết luận: những lời sau cùng của Người.
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất..."
Công thức này khẳng định sự bình đẳng của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Thật vậy, trong toàn bộ Cựu ước, chỉ Thiên Chúa mới là "Chúa của trời đất"... vũ trụ hữu hình và vô hình.
Công thức này, không mô tả sự Thăng Thiên bằng những từ ngữ cụ thể nhưng đòi hỏi phải có sự việc Đức Giêsu lên trời từ nay thống trị toàn thể vũ trụ. Dĩ nhiên, vấn đề không phải là tìm kiếm Đức Giêsu giữa những vì tinh tú, trong "bầu trời đầy sao".
Công thức nêu lên ý niệm về toàn thể: Không có gì nằm ngoài quyền của Thiên Chúa. Từ nay, Đức Giêsu sống lại là Chúa Thượng của mọi tạo vật!.
Khi đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu, Người nói "này là mình Thầy, này là máu Thầy", Người chỉ mang lại cho chúng ta “dấu chỉ" về hiệu quả của quyền chủ tể của người trên mọi phần của vũ trụ... và do Đó trên mỗi người chúng ta và chúng ta thật sự trở thành nhiệm thể của Người.
Và Thánh Phaolô trong bài đọc I của ngày hôm nay, cũng khẳng định quyền chủ tể ấy: Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức kitô chỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được không những trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô!" (Êphêxô 1,20-23). Phải, chúng ta là thân thể Đức Kitô! Vì thế mà Phaolô phải nói rằng "Thiên Chúa đã cho chúng ta cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời (Êphêxô 2,5-6).
Phụng vụ của chúng ta không chỉ cử hành các kỷ niệm của quá khứ các lễ mừng trọn năm: Phụng vụ làm cho chúng ta tham dự trước những điều kỳ diệu của thời Thế Mạt, Phaolô biết rất rõ ràng những người mà ngài viết cho họ chưa ngự trị trên cõi trời. Bị bầm giập bởi thử thách, họ biết mình phải chết tuy nhiên sự "thăng thiên của chính họ đã được tham dự trước, trong Đức tin vào Đức Kitô".
Điều Đó chẳng phải cho chúng ta tất cả cách sống và cách cử hành phụng vụ sao?
"Vậy anh em hãy đi và làm cho MUÔN dân trở thành môn đệ..."
Sau TOÀN quyền mà Đức Giêsu đã được trao ban, giờ đây toàn thể trường hoạt động của Đức Kitô qua thân thể Người tức là các môn đệ được nêu lên trước kia trên núi cám dỗ, Đức Giêsu đã từ chối nhận của xa tan "tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy" (Mátthêu 4,8-10). Giờ đây, lúc có vẻ sắp ra đi, Đức Giêsu táo bạo ấy đã nhắm đến toàn thể vũ trụ trong cuộc chinh phục một cách hòa bình, qua mười một con người ấy muôn dân, mọi quốc gia mọi con người? Đức Giêsu đang " nhìn từ tầm nhìn cao cả nhất.
Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần..."
Một công việc vĩ đại, nhấn chìm nhân loại vào một không gian mới: Ba Ngôi Thiên Chúa... Ba Ngôi là tình yêu liên ngôi vị tinh tuyền và trong suốt nhất mà chỉ Ba Ngôi mới có.. để cho dù nhiều tất cả chỉ là một. Đó cũng chính là giấc mơ của mọi tình yêu.
“Dạy bảo họ tuân giữ MỌI điều Thầy đã truyền cho anh em..”
Vậy thì, đấy là toàn bộ hành động của con người phải được đặt dưới quyền chủ tể của Đấng Phục Sinh trước hết, làm môn đệ của Đức Giêsu không phải là một thái độ trí thức việc dạy giáo lý cũng vậy, trước tiên không phải là truyền thông những khái niệm, nhưng là tập luyện một cách sống bao gồm mọi khía cạnh của đời sống.
“Và đây Thầy ở cùng anh em MỌI ngày cho đến tận thế”
Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh, không chỉ tràn ngập mọi nơi trên trần thế mà còn bao trùm toàn bộ thời gian! Sứ thần khi truyền tin cho Thánh Giuse lúc Tin Mừng bắt đầu đã nói: "Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mátthêu 1,23). Mọi Tin Mừng của Mátthêu do Đó đều bao hàm trong tư tưởng ấy.
Một lời mời gọi phi thường: Nếu Thiên Chúa hiện diện mọi ngày, mọi lúc...nếu chúng ta có thể nói rằng chính chúng ta cũng hiện diện và ở cùng Thiên Chúa? Thi hào Tagore nói rằng "ước gì đời sống của con như một cây sáo trúc, để Ngài có thể làm đầy bằng âm nhạc".
Mỗi ngày hôm nay, mỗi giây phút của đời tôi có thể trở nên rực sáng bởi tình bầu bạn ấy của Đức Giêsu! Ôi, Lạy Chúa Giêsu... ------------------------------
LênTrời ABC-13: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”
Dữ kiện Thăng Thiên theo sách Công vụ là một dứt điểm gắn liền với một khởi điểm. Đây là: LênTrời ABC-13
Dữ kiện Thăng Thiên theo sách Công vụ là một dứt điểm gắn liền với một khởi điểm. Đây là dứt điểm thời gian Chúa Giêsu ở với các Môn đệ và khởi điểm thời gian của Giáo hội lan tràn khắp thế giới.
Sau nhiều thử thách các Môn đệ đã tin rằng Thầy đã chết nhưng nay Thầy vẫn còn sống và đã chọn họ làm nhân chứng cho Ngài. Nhưng nay Ngài không còn hiện diện trong thân xác hữu hình giữa không gian và thờí gian nữa. Ngài sẽ ra đi về Nhà Cha như lời Ngài đã phán trước.
Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ trong thời gian bao lâu? Luca cho biết là trong 40 ngày (các sách ngụy thư nói đến 50 ngày hay 18 tháng), một thời gian khả dĩ cần thiết để Chúa kiện toàn việc dạy dỗ các Tông đồ.
Và hôm nay, Chúa quyết định ra đi vĩnh viễn trong một cuộc hiển linh đầy quyền năng, một cuộc Thăng Thiên về nhà Cha trên trời.
Theo Matthêô, sự kiện xảy ra trên một quả núi. Đối với tác giả Phúc âm thứ nhất, mọi biến cố quan trọng đều xảy ra trên núi, từ bài gìảng tám mối Phúc Thật (5,l) đến việc Biến Hình (l7,l).Núi là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, để tôn vinh và thờ lạy.
“Khi ấy, mười môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Ngài, các ông thờ lạy”. Đây là cử chỉ mà Matthêô hay nói đến như một sự tôn vinh Thiên Chúa, như khi ba nhà đạo sĩ gặp Hài Nhi (2,l l), như cử chỉ của người phong cùi (8,2), của các Môn đệ trên thuyền (14,33). Hôm nay các ông phục lạy cách kính cẩn hơn nữa vì Ngài huy hoàng trong ánh sáng Phục Sinh, vì nơi Ngài “mọi quyền năng điên trời dưới đất được giao phó”.
Ngài tiến lại gần họ và phán: “Môi quyền nàng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Các con hãy đi giảng dạy muôn dân. Hôm nay, Chúa ra đi nhưng cũng là ngày các môn đệ lên đường, họ nhận được bài sai của Ngài đi chinh phục thế giới. Chinh phục bằng Lời giảng dạy, chinh phục bảng phép rửa tội nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Nghĩ là họ phải làm sống lại cái ơn gọi mà một ngày kia đã vang vọng lên, làm cho họ từ bỏ mọi sự để phấn khởi theo Ngài. Đạo Chúa không phải là một thứ triết lý, một ý thức hệ, một mớ nghi lễ. Đạo thánh là một sức sống mãnh liệt. Người tín hữu phải sống lại cái sức mạnh mãnh liệt một ngày kia đã thu hút các Tông khiến các ông bỏ tất cả ra đi rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng trái đất
Hôm nay, trên đồi Thăng thiên, các môn đệ phấn khởi nhìn lên trời, theo hút Ngài ra đi, nhưng bên tai còn nghe vang vọng Lời Chúa hứa kết thúc Phúc âm: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Rồi họ xuống núi trở về xây dựng Giáo hội. Sứ mạng ấy Chúa cũng trao cho mỗi người chúng ra. Mỗi người chúng ta không phải chỉ là một phần cử Giáo hội mà mỗi người chúng ra là Giáo hội.
Đức cố Giám mục Nguyễn Kim Điền kể rằng, khi đã chiếm gioáo phận Ngài và ra nhiều luật khắc khe về việc học và dạy Giáo lý, nhưng các trẻ em vẫn lén lút đi vào các nhà của các Sơ để theo học. Một em đi ra thì theo dõi hạch sách. Tên cán bộ nói: “Rồi đây sẽ không còn nhà thờ nhà thánh, không còn Giáo Hội nữa”. Em bé hiên ngang trả lời: “Tôi còn thì Giáo Hội còn, Giáo Hội là tôi!”
Xin Chúa cho con can đảm và sốt sắng rao giảng Tin Mừng như Lời Chúa dạy: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”, bằng lời nói, bằng vịac làm, bằng đau khổ, để làm chứng nhân của Chúa. ------------------------------
LênTrời ABC-14: QUÊ HƯƠNG THẬT
Mầu nhiệm Chúa về trời nhắc nhớ chúng ta: điều quan trọng nhất nhất trong cuộc đời là phải biết hướng: LênTrời ABC-14
Mầu nhiệm Chúa về trời nhắc nhớ chúng ta: điều quan trọng nhất trong cuộc đời là phải biết hướng tâm trí về cõi trời là quê hương thật của ta, phải biết chiến đấu với tội lỗi, sẵn sàng chịu gian khổ, và luôn luôn cầu xin Chúa, để sau cuộc sống chóng qua trần gian, chúng ta được Chúa thương đưa về quê trời vĩnh cửu.
Trong lúc Thánh Tôma Thiện (tử đạo ngày 21.9.1838,18 tuổi) bị giam. Quan tỏ ra khoan nhượng khuyến dụ chú nhiều lần: Nào là tuổi xuân xanh tương lai có nhiều triển vọng, nào là sẽ thăng quan tiến chức nếu bỏ đạo. Hơn thế nữa, quan còn muốn nhận chú làm con rẩ mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới hỏi. Nhưng chú Thiện đã từ chối: “Tôi chỉ mong sống hạnh phúc bất diệt trên trời, chớ không màng đến chức quyền danh vọng trấn gian”.
Trong số những người bị bắt, nhiều người tỏ vẻ hối tiếc cho chú đã bỏ lỡ “Cơ hội ngàn vàng”. Chàng trai có vóc dáng thư sinh nhưng chí khí thật kiên cường ấy, làm quan phải bỡ ngỡ. Từ bỡ ngỡ đến tức giận, vì dàm xúc phạm đến sự bao dung và lòng ưu ái của mình, thế là ông truyền đánh đòn người chiến sĩ trẻ tuổi. Bốn mươi roi đòn quất trên thân hình gầy yếu, máu chảy ướt đẫm áo quần, nhưng chú vẫn gan dạ mỉm cười.
Thấy chú Thiện can đảm hơn người, quan truyền đóng gông xiềng, giam chú vào ngục. Trong ngục thất, Tôma Thiện không có bà con thân thích nào đến thăm nuôi. Giáo hữu Di Loan cùng bị bắt, lúc đầu còn chia sẻ cho chú đôi chút lương thực, nhưng rồi lương thực cũng cạn. Nhiều người đã nghe, quan dụ dỗ để được sớm trở về với gia đình, tuy vậy quan vẫn chưa tha cho họ ngay. Vì người muốn chú Thiện chối đạo quan dùng những kẻ đã quá khóa dụ dỗ và áp đảo chú, nhưng chú vẫn một mực trung thành với Chúa Kitô.
Chú Thiện tiếp tục bị thẩm vấn và bị đánh đòn hai lần nữa, nhưng chú luôn luôn phấn khởi vui tươi. Mỗi lần roi quất xuống, chú lại cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thêm sức cho con chịu đau khổ vì Chúa”. Chú còn bị phơi nắng và bị kìm kẹp, nhưng chú vẫn không siêu lòng, chứng tỏ một nghị lực phi thường, một đức tin mạnh mẽ vào cuộc sống vĩnh cửu, vào quê hương thật là nước trời.
Quan Trấn Quảng trị nghe nói chú Thiện là chủng sinh của cha Kim, dạy phải tra hỏi cặn kẽ để biết vị thừa sai sống ở đâu. Quan khuyên chú chối đạo, nếu không sẽ bị chết. Chú Thiện trả lời: “Tôi quê ở Trung Quán, tỉnh Quảng Bình, đến tìm thầy học đạo. Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chớ không bỏ đạo”.
Ngày 18 tháng 7, quan truyền giam chú Thiện chung với cha Jaccard Phan, hai cha con gặp nhau hết sức vui sướng. Chú Thiện được cha an ủi, khích lệ và ban Bí tích hòa giải. Riêng cha Phan thì sung sướng hãnh diện có một người con tinh thần thật dũng cảm. Hai cha con cùng nhau cầu nguyện, nâng đỡ và trợ giúp lẫn nhau và quyết trí trung thành với đạo đến cùng.
Trước tinh thần bất khuất của hai sứ giả Tin Mừng, quan lập án xử trảm cả hai, và gửi vế kinh đô. Gần một tháng sau vua Minh Mạng với châu phê và đổi thành Xử Giảo. Có lúc nóng lòng chờ đợi, chú Thiện thưa với cha Phan: “Thưa họ để cha con ta sống lâu mãi, sao không sớm cho cha con ta tử đạo, để được kết hiệp cùng Chúa luôn mãi”. Chú cũng viết thư về gia đình vĩnh biệt cha mẹ, họ hàng, và khuyên mọi người trung thành giữ vững đức tin.
Sáng ngày 21.9.1838, hai môn đệ Chúa Kitô cùng được dẫn ra pháp trường ở làng Nhan Biểu, gần thị trấn Quảng Trị. Khi đi qua một quán ăn, viên cai đội cho hai vị dừng chân, ăn uống theo thói quen dành cho tử tội. Cha Phan không dùng gì cả, chú Thiên thưa với cha:
“Con cũng không ăn, để về dự tiệc đồng bàn với Chúa trên trời phải không cha?”
Tại pháp trường, theo lời yêu cầu của cha Phan muốn thấy trước mắt sự trung thành của người môn sinh quý mến, lý hình xử chủng sinh Tôma Thiện trước, rồi đến lượt giáo sĩ Jaccard Phan.
Khi nghe báo giờ hành quyết đã tới: Thánh Đaminh khản (tử đạo ngày 13.1.1859, 79 tuổi) cùng bị án xử giảo với con trai mình là Thánh Thìn, vui vẻ nói:
“Cha con chúng tôi hôm nay được vào Thiên Đàng”.
Cụ đã bị bắt và giải vể Nam định, vì tội chứa chấp đạo trưởng.
Tại Nam Định cụ đã gặp ông Tả và đã gặp con trai cụ là ông Thìn trong những lần ra tòa, và sau này được giam chung với nhau. Hai cha con vui mừng, khuyến khích nhau, chịu khó vì Chúa Kitô. Các tù nhân xứ Quần Cống hẹn với nhau quyết tâm trung thành với đức tin, dù phải hy sinh mạng sống. Riêng cú Án Khảm, mỗi lần thay cả nhóm, đối đáp với quan, và lựa lời giải thích Giáo lý trong đạo.
Sau bốn tháng rưỡi bi giam, một hôm quan báo cho biết là ba người đã bị án xử giảo (án bị xiết cổ). Ông Cai Thìn hỏi lại, các ông bị kết án vì tội gì? Quan cho hay là chống lại nhà vua. Ông Thìn cực lực phản đối. Cuối cùng theo đề nghị của ông, bản án được viết thêm bốn chữ “Bất khẳng quá khóa” (không chịu bỏ đạo). Các ông vui mừng, vì được chết vì danh Chúa Kitô. Trong những ngày còn lại, các ông chuẩn bị sốt sắng đón chờ ngày lãnh nhận hồng phúc tử đạo.
Ngày 13 tháng 1 năm 1859, ngoài ba vị Án Khảm, Cai Tạ, và Cai Thìn còn có 7 giáo hữu khác cũng thuộc xứ Quần Cống được đưa ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Trên đường đi, các vị lớn tiếng đọc kinh: Tin, cậy, mến và nhiều lần đọc kinh ăn năn tội chung với nhau, rồi lớn tiếng kêu tên Chúa Giêsu. Lính xô các vị té xuống, rồi trói tay chân từng người vào cọc đã chôn sẵn. Tại nơi mỗi vị bị xiết cổ, có hai người lính, cầm hai đầu dây thừng tròng vào cổ, và kéo thật mạnh cho tới khi tắt thở. Các tín hữu xứ Quần Cống đưa thi thể anh hùng tử đạo về quê mình và tổ chức lễ an táng trọng thể. ------------------------------
LênTrời ABC-15: GẶP GỠ CUỐI CÙNG
Theo lời Chúa căn dặn, các môn đệ tụ họp tại hòn núi được chỉ định. Trong lần gặp gỡ cuối cùng: LênTrời ABC-15
Theo lời Chúa căn dặn, các môn đệ tụ họp tại hòn núi được chỉ định. Trong lần gặp gỡ cuối cùng này, Chúa phán với các môn đệ về ba điều:
1. Ngài bảo đảm cho họ về quyền năng của Ngài: Mấy câu đầu mô tả quang cảnh tuyệt đẹp khi mười một Tông đồ đến nơi đã hẹn trước, họ thấy Chúa Giêsu thì thờ lạy Ngài, như khi các đạo sĩ Đông phương gặp Ngài trong quán trọ (Mt 2,11). Vài người nghi ngờ ở đây không phải là các tông đồ nếu chưa gặp Chúa sống lại, chẳng bao lâu về sau, sự nghi ngờ này tiêu tan vào ngày lễ Ngũ Tuần.
"Tất cả uy quyền trên trời dưới đất này đều trao vào tay Ta": đây là lời tuyên ngôn của Vua các vua, Chúa các chúa. Từ khi sinh ra, ngài đã được tôn xưng là Vua của Do thái . Trước mặt Philatô, Ngài vẫn tự nhận là vua, vua của muôn dân muôn nước...
Mỗi người đều có uy quyền riêng: uy quyền trong một gia đình, một xã, một huyện, một tỉnh, một nước, hết thảy đều có giới hạn và thời hạn. Song uy quyền của Chúa Giêsu bao gồm trời đất, không giới hạn và không thời hạn, vì Ngài tự hữu và hằng hữu. Cả nhân loại sẽ phải trình diện với Ngài để chịu xét xử, từ hành động, ngôn ngữ cho đến tư tưởng (Ga 5,27 ; Kh 20, 11-15). Chắc chắn không có điều gì vượt khỏi quyền năng của Đấng đã chết và chiến thắng sự chết. Giờ đây họ là bầy tôi của một vị chủ có quyền bính khắp cả trên trời dưới đất.
2. Ngài trao cho họ một sứ mạng: sứ mạng này gồm ba phần a) Rao truyền Tin Mừng cho muôn dân: "Vậy, hãy đi dìu dắt muôn dân làm môn đệ Ta". "Vậy" là vì tất cả uy quyền trên trời dưới đất đã được trao cho Ta nên hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đệ Ta. Ta có quyền trên muôn dân, muôn dân thuộc về Ta, nên Tin Mừng của Ta phải truyền đến họ. Không những truyền đến mà còn thuyết phục họ trở nên môn đệ Ta.
Mới nghe mệnh lệnh này, thiết tưởng các tông đồ phải ngạc nhiên và run sợ. Vì họ là những người đơn sơ, chất phác, nghèo nàn, vô học, chưa hề ra khỏi biên giới xứ mình, bây giờ phải đi khắp nơi, nói cho mọi người về những điều họ được thấy, được nghe, và kinh nghiệm. Nhưng họ có thể lấy lại bình tĩnh, vì họ không phải làm việc một mình mà làm việc với Đấng có cả uy quyền trời đất.
Trong thực tế, ngay trong đời các Tông đồ, Tin Mừng đã truyền đến các nước Á châu như Syri, Galat, Êphêsô..., các nước Âu châu như Rôma, Athen, Côrintô... và Phi châu như Êthiôpi. Ngày nay, Tin Mừng đã đến Mỹ châu, Úc châu, Đại dương châu, tức là cùng tột trái đất !
b) Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: nhân danh Cha là Đấng Tạo hóa, nhân danh Con là Đấng Cứu chuộc, nhân danh Thánh Thần là Đấng Thánh Hoá. Ai đã nghe Tin Mừng, bằng lòng sám hối ăn năn, tin theo Chúa, thì mới được chịu phép rửa chính thức gia nhập Giáo Hội. Khi chịu phép rửa, ta kể mình cùng chết với Chúa về tội lỗi, cùng chôn với Ngài trong phần mộ nước rửa, và cùng sống lại với Ngài khi lên khỏi nước, để sống một đời sống mới. Từ đó, ta không còn sống cho mình nữa, mà sống cho Thiên Chúa (Rm 6,1-11 ; Col 2, 12). Thánh Phaolô thuật lại kinh nghiệm của chính mình: "Tôi đã bị đóng đinh vào thập giá với Chúa Cứu Thế . Hiện nay tôi sống mà không còn phải là tôi sống nữa, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi. Những ngày còn sống trong thể xác, tôi sống do niềm tin vào Con Thiên Chúa , Ngài đã yêu thương tôi và hiến mạng sống Ngài vì tôi". "Riêng tôi không dám khoe khoang điều gì ngoài cây thập giá của Chúa Giêsu . Nhờ cây thập giá ấy, tôi xem như thế gian đã bị đóng đinh, và thế gian coi tôi như đã chết" (Gl 2,20 ; 6,14).
Người tin Chúa kể Chúa Giêsu như mình đã chết về tội lỗi như người điếc chết về âm thanh, như người mù chết về màu sắc. Âm thanh và màu sắc vẫn còn đó, song người điếc và mù đã chết về các đối tượng ấy, vì cơ quan tiếp xúc với âm thanh và màu sắc đã hư, đã chết. Tội lỗi vẫn còn ở khắp nơi, nhưng chúng ta kể như mình đã chết với nó. Khi nào chúng ta chấp nhận và tin như vậy, Thiên Chúa sẽ thực hiện điều đó cho chúng ta. Còn sống cho Thiên Chúa thì Phaolô dậy: "Do tình yêu thương của Chúa Giêsu cảm thúc, chúng tôi nghĩ rằng Chúa đã chết cho mọi người nên mọi người phải coi đời cũ mình đã chết. Vì ngài đã chết cho chúng ta, nên chúng ta không sống vị kỷ, nhưng sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta" (2Cr 5,14-15).
Để thực hiện hai điều trên Phaolô bảo: "Chớ để... chớ chiều... chớ nộp mình cho tội lỗi như là đồ dùng về sự gian ác, nhưng hãy phó và dâng chi thể mình cho Thiên Chúa như đồ dùng về sự công chính" (Rm 6,12-13).
c) Hãy dạy họ giữ mọi điều Ta đã truyền: Từ khi Chúa bắt đầu thi hành chức vụ cho tới ngày Ngài về trời, dầu Chúa đã dạy chung cho dân chúng và riêng cho các Tông đồ, nhưng phần riêng cho các tông đồ nhiều nhất. Giờ đây, họ phải dạy lại cho các tín hữu. Vì vậy, các Tông đồ đã giảng dạy, đã viết sách Tin Mừng, các thơ tín, là truyền lại mạng lệnh của Chúa cho nhân loại nói chung và cho Hội Thánh nói riêng. Trải qua các thời đại, kẻ trước người sau, không ngừng dạy dỗ để mọi người tuân nghe lời Chúa. Chúa phán: "Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta thì giống như người khôn ngoan" (Mt 7,24). Khi có người nói: "Phúc cho dạ đã cưu mang Ngài và vú đã cho Ngài bú" thì Chúa đáp: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" (Lc 11,27).
3. Lời hứa trọng đại: Ngài hứa luôn ở với họ: Chúa luôn ở với Hội Thánh , không khi nào bỏ Hội Thánh mà Ngài đã mua bằng chính máu của Ngài. Hội Thánh là cơ nghiệp của Ngài, là nhà của Ngài, là tuyển dân của Ngài, là bầy chiên của Ngài, là hiền thê của Ngài, là thân thể của Ngài. Ngài dùng nhiều hình ảnh như thế để phô bày giá trị của Hội Thánh . Ngài bảo vệ Hội Thánh mà không ai có thể tiêu diệt được (Mt 16,18). Ngài chăm sóc Hội Thánh như mục tử với bầy chiên, không ai có thể cướp họ khỏi tay Ngài (Ga 10, 27-30). Ngài chăm sóc từng sợi tóc trên đầu họ (Mt 10,30). Ngài biết hết tất cả mọi nhu cầu của chúng ta nê đã dự liệu tất cả.
Công Đồng Vaticanô II minh giải:
- Người hiện diện giữa chúng ta trong thân thể Ngài là Hội Thánh ... mà mọi người vào qua phép Thánh Tẩy (GH 14).
- Trong các cộng đoàn địa phương: “Giáo Hội Chúa Kitô thực sự hiện diện trong mọi đoàn thể tín hữu địa phương hợp pháp” (GH 26).
- " Qua các Giám mục được các linh mục trợ giúp. Chúa Kitô Linh Mục Thượng Phẩm hiện diện giữa các tín hữu". Thực vậy, ngự bên hữu Chúa Cha, Người vẫn hiện diện giữa cộng đoàn các linh mục của Người, nhất là qua sự phục vụ quí báu của các Ngài: Chúa Kitô rao giảng lời Thiên Chúa cho các dân nước và ban phát các bí tích đức tin cho tín hữu (GH 21).
- Trong Thánh Thể: " Phép Thánh Thể chính là Chúa Kitô, Người là màu nhiệm Phục sinh của chúng ta, Người là Bánh Hằng Sống ban sự sống cho nhân loại" (LM 5).
- Chúa Kitô hiện diện trong Hội Thánh , nhất là trong các hoạt động phụng vụ, trong cử hành thánh lễ, trong con người của thừa tác viên, trong lời của Người, trong cầu khẩn và hát thánh vịnh...như chính Chúa đã hứa:"Đâu có hai,ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa họ"(Mt 18, 20); (PV 7).
- Hiện diện với thế gian qua các gia đình kitô hữu: "Gia đình kitô hữu sẽ biểu lộ trước mặt mọi người sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu , và bản chất đích thực của Giáo Hội qua tình yêu, qua sự quảng đại chấp nhận sinh con cái, qua hiệp nhất và trung tín của hai vợ chồng cũng như qua hiệp tác thân ái của mọi thành phần trong gia đình" (MV 48). ------------------------------
LênTrời ABC-16: BÍ TÍCH RỬA TỘI BẰNG CHỨNG TÌNH YÊU
Thánh Lu-y IX của nước Pháp, sinh năm 1215 và lên ngôi vua ở ở tuổi 11, dưới quyền nhiếp chánh: LênTrời ABC-16
Thánh Lu-y IX của nước Pháp, sinh năm 1215 và lên ngôi vua ở tuổi 11, dưới quyền nhiếp chánh của Thân mẫu. Trong 40 năm, Ngài là một vị cầm quyền đầy nghị lực và rất thận trọng. Ngài sống cầu nguyện, hy sinh và hãm mình đến nỗi Volteire, một nhà tư tưởng tự do lỗi lạc cũng đã nhận định: “Ngài kết hợp các đức tính của một vị vua với các đức tính của một vị anh hùng và của một con người”.
Ông vua giống Chúa Kitô này thường ký tên “Louis de Poissy”, nghĩa là Lu-y của Poissy. Poissy là thành phố mà Ngài đã lãnh bí tích Rửa tội. Một ngày kia, Ngài đã lưu ý quan cận thần: “Ở Poissy, Ta đã lãnh nhận vinh dự cao cả nhất trong đời sống”. Quan cận thần thưa cùng Đức Vua: “Tâu bệ hạ, Ngài đã lầm lẫn, chắc là Ngài ám chỉ thành Rheims”. Nhà vua nhấn mạnh: “Ta không lầm. Đúng là ở Rheims ta đã được phong vương trên trần thế, nhưng ta được làm Kitô hữu ở Poissy, và ở đó, ta có quyền lên ngôi trên trời”.
Mọi người chúng ta đều có thể nói như thế. Vì tất cả chúng ta đã được rửa tội. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy rằng: Mười giới răn là bằng chứng tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Hôm nay chúng ta muốn suy nghĩ một bằng chứng khác nữa về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta – Bí tích Rửa tội. Vào ngày Thăng Thiên, Chúa Kitô đã ngự bên Chúa Cha trên trời. Chúng ta cố gắng sống bí tích Rửa tội, thì cũng sẽ được theo Ngài lên trời, vì bí tích Rửa tội ban cho chúng ta quyền lên trời. Bí tích này còn ban cho chúng ta nhiều phúc lành khác nữa.
Trong bí tích Rửa tội, Thiên Chúa tha thứ mọi xúc phạm đến Ngài và tha cả hình phạt vì tội. Thật là yêu thương biết bao.
Bí tích rửa tội cho chúng ta được chia sẻ đời sống Thiên Chúa. Cha mẹ cho chúng ta đời sống tự nhiên. Thiên Chúa cho chúng ta sự sống siêu nhiên, chính đời sống của Ngài. Chúng ta gọi đó là ơn thánh hóa. Còn bằng chứng nào cao cả hơn nữa về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta ?
Bí tích Rửa tội còn ban cho chúng ta một số khả năng tinh thần – khả năng tin tưởng, khả năng trông cậy và khả năng yêu mến. Chúng ta gọi đó là nhân đức tin cậy mến.
Bí tích Rửa tội làm cho mỗi người chúng ta nên một tông đồ – là Linh mục, tôi nói cho người khác về Chúa Kitô. Công việc ấy đã không bắt đầu từ ngày tôi chịu chức. Tôi trở nên tông đồ ngày tôi lãnh bí tích Rửa tội. Tất cả các Kitô hữu được rửa tội đều là tông đồ.
Hôm nay chúng ta vui sướng vì Chúa Kitô theo phương diện thể xác – trở về nhà cha trên trời. Chúng ta là những người đã được rửa tội, cũng có thể trong vui mừng và hy vọng, mong đợi ngày lên trời, giây phút hạnh phúc khi chúng ta sẽ được ở trong nhà Thiên Chúa.
Vua thánh Lu-y đã nhận thức rõ điều này. Đó là lý do Ngài nhấn mạnh rằng: nơi Ngài, lãnh nhận bí tích rửa tội còn quan trọng hơn được phong vương. Đó là lý do chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. Bạn hãy chú ý cầu nguyện với những lời kết thúc Kinh tin Kính: “Tôi tuyên xưng có một phép rửa để tha tội... và sự sống đời sau”.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn. ------------------------------
LênTrời ABC-17: CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI
Sợi chỉ đỏ / GỢI Ý GIẢNG
1. Thăng thiên nhưng không phải là lên trời!
Hôm nay Đức Giêsu "thăng thiên". Xét theo nghĩa chữ, thì "thăng thiên" chính là "lên trời". Thế: LênTrời ABC-17
Hôm nay Đức Giêsu "thăng thiên". Xét theo nghĩa chữ, thì "thăng thiên" chính là "lên trời". Thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế"? Nói vậy nghĩa là Chúa vẫn còn ở với chúng ta chứ đâu có "lên trời"?
Chúng ta phải lưu ý đến cách viết của tác giả Mát thêu. Ngài đã dùng từ không theo sát nghĩa đen, nhưng theo nghĩa mà người bình dân quen hiểu. Theo đó, cái gì cao thì gọi là "trời", cái gì thấp thì gọi là "đất", tình trạng tiến khá hơn thì nói là "lên”, lùi tệ hơn thì nói là "xuống". Như thế, "thăng thiên” hay "lên trời" không chỉ một chuyển động trong không gian, mà chỉ một tình trạng tốt hơn trước. Ngày xưa, Đức Giêsu nhập thể thì được diễn tả là "giáng trần” hay “xuống đất”. Hôm nay Ngài trở về tình trạng vinh quang với Chúa Cha thì diễn tả là "lên trời". Bởi vì Đức Giêsu chỉ thay đổi tình trạng thôi cho nên dù bây giờ Ngài vinh quang, nhưng Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài lên "ở trên trời” và để chúng ta phải mồ côi "ở dưới đất”.
Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Đức Giêsu. Hình dung Đức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay đang ngồi bên phải Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng tượng này có cụ thể đối với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người ta nghĩ rằng Đức Giêsu đã xa cách loài người.
Chúng ta phải đi xa hơn những hình ảnh tưởng tượng kìa để đạt đến ý nghĩa đích thực của việc thăng thiên: đó là Đức Giêsu đã lấy lại vinh quang, Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta luôn mãi, và nhờ vinh quang, Ngài sẽ hỗ trợ đắc lực cho chúng ta.
Như thế, Lễ thăng thiên không làm cho chúng ta cứ đăm đăm nhìn trời với lòng bùi ngùi luyến tiếc, nhưng khuyến khích chúng ta quay về cuộc sống để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng cho khắp thế giới, với lòng đầy hăng hái vì biết Đức Giêsu vinh quang lúc nào cũng hỗ trợ chúng ta.
2. Lễ thăng thiên đánh dấu một bước ngoặt
Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Đức Giêsu. Lễ này còn đánh dấu một bước ngoặt trong việc loan Tin Mừng: Trước đây, loan Tin Mừng chủ yếu là việc của Đức Giêsu, các môn đệ theo Ngài để tập sự. Từ nay, loan Tin Mừng là sứ mạng của các môn đệ, với sự hỗ trợ đắc lực của Đức Giêsu vinh quang. Bởi đó, sách Công vụ ghi lời Đức Giêsu căn dặn: "Anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất”; sách Tin Mừng Mát thêu cũng ghi lời Chúa bảo: "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần . . . để muôn dân trở thành môn đệ của Thầy".
3. Sự hiện diện hằng cửu.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc họp mặt lần chótcủa Đấng phục sinh với các môn đệ ở trần thế. Đây là cuộc gặp gỡ thân mật nhưng mở ra những viễn tượng vô cùng rộng lớn... Ngay trong giờ phút chia tay đã bắt đầu một sự hiện diện mới, sự hiện diện hằng cửu của Đấng Phục sinh: “Thầy ở với chúng con hằng ngày cho đến tận thế".
Chúa ra đi nhưng Ngài không trở thành "cố nhân”, người xưa người của quá vãng. Ngài không để chúng ta côi cút Ngài vẫn hiện diện (tuy cách hiện diện có khác), bởi vì Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đã qua rồi cái thời Ngài hiện diện hữu hình. Bây giờ đến thời của lòng tin, của sự tập quyền. Chúng ta tập nhận ra Chúa trong anh em ta trong các biến cố đời thường.
Ngài vắng mặt, nhưng vẫn tiếp tục hiện diện qua Chúa Thánh Thần, Đấng An ủi: "Thầy ra đi là tốt cho anh em, bởi nếu Thầy không ra đi thì Đấng An ủi sẽ không đến".
Chúa còn hiện diện với chúng ta trong bí tích bẻ bánh, như ngày xưa Ngài hiện diện giữa hai môn đồ ở làng Em mau.
Chúa còn hiện diện trong các cộng đoàn, "nơi có hai ba người họp mặt cầu nguyện". Chúa hiện diện ở bất cứ nơi nào có chia sẻ, bất cứ nơi nào người ta thương mến giúp đỡ nhau. Chúa hiện diện tại bất cứ nơi nào con người được giải phóng khỏi bất công, khỏi bạo lực, khỏi nghèo đói.
Trong cuộc chia tay, Chúa đã trao cho các môn đệ sứ mệnh làm lan truyền sự hiện diện của Ngài nơi tất cả các dân tộc. Sự hiện diện được thể hiện khi ta tuân giữ giới luật yêu thương, mệnh lệnh tình yêu: "Các con hãy yêu nhau, như thầy yêu thương các con”
4. Lời cuối của Đức Giêsu ở trần thế
a/ Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.
Trước khi về trời, vĩnh viễn xa rời các tông đồ, Đức Kitô đã trăn trối: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
b/ Cần phải hiểu rõ nội dung Tin Mừng mới có thể loan báo Tin Mừng được.
Chúng ta thường nói rằng mình phải loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhưng rất nhiều khi chúng ta lại biết một cách rất mơ hồ, hoặc không biết cho đúng và cho đầy đủ nội dung mà chúng ta phải loan báo. Để rồi cuối cùng chúng ta chẳng loan báo gì, hay loan báo một thứ Tin Mừng méo mó.
Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết; liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v. . .
Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo dược một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v...Tất nhiên khi làm được những việc ấy công lao của chúng ta rất lớn. Nhưng loan báo Tin Mừng có phải là chỉ làm như vậy không? Tất cả những người này họ đã biết Tin Mừng là gì chưa? đã cảm nghiệm được Tin mà họ nghe là một tin đáng mừng, làm cho đời sống họ hạnh phúc lên chưa?
Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là nội dung của việc loan báo Tin Mừng. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc “mù mà lại dắt mù”, và kết quả là “cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Mt 5,4; Lc 6,39).
Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao. giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì “cho đi cái mình chẳng có” Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?
Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, chia sẻ Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.
c/ Loan báo Tin Mừng
Một trong những sứ mạng của Đức Kitô tại trần thế này là loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa Cha, làm sao để mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa Cha, để nhờ đó được sự sống đời đời hay hạnh phúc vĩnh cửu: Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô (Gioan 7,3).
Và Thiên Chúa Cha đó chính là Tình Yêu (xem Gioan 4,8), Ngài yêu thương chúng ta vô bờ bến: “Chính Chúa Cha yêu mến anh em” (Gioan 6,27); “Chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”(Gioan 7,23).
Và Thiên Chúa Cha đó ở ngay trong nội tâm mỗi người chúng ta, chúng ta có thể gặp gỡ Ngài bất kỳ lúc này chúng ta muốn: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?... Đền thờ ấy chính là anh em” (l Cr 3,16-7; x. Cr 6,9; 2 Cr 6,6; Ep 2,20-22). Thiên Chúa đó lại là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm cho ta tất cả những gì Ngài muốn. Do dó, ta có thể yên tâm hoàn toàn khí phó thác tất cả mọi sự trong tay Ngài, Đấng vừa yêu thương ta, vừa quyền phép vô biên.
Nội dung Tin Mừng đối với chúng ta còn là sự nhập thể, là đời sống, là giáo huấn, là cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô, Con Một của Thiên Chúa Cha nữa. Đức Kitô cũng là người yêu thương chúng ta như Thiên Chúa Cha đã yêu ta: “Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và yêu thương họ lên cùng” (Gioan 13,1). “Yêu đến cùng” là yêu đến nỗi sẵn sàng hiến mạng sống mình một cách đau khổ và nhục nhã nhất (x Gioan 5,3). (Nguyễn Chính Kết)
5. Chuyện minh họa.
a/ Không đến nỗi nào đâu!
Có một chuyện kể rằng khi Đức Giêsu về trời, Tổng lãnh Thiên thần Gabriel ngạc nhiên vì Ngài trở về sớm quá. Gabriel biết rằng công việc Chúa Cha giao cho Đức Giêsu rất nhiều, không thể kết thúc trọng thời gian chỉ có 3 năm như thế. Bởi vậy Tổng lãnh Thiên Thần hỏi:
-Sao Chúa về sớm vậy?
-Ờ, Ta cũng muốn ở dưới đó lâu hơn. Nhưng mà họ đã đóng đinh ta.
-Đóng đinh Chúa ư? Vậy là Chúa thất bại rồi?
-Không hẳn vậy. Trước đó Ta đã kịp lập một nhóm tín hữu. Từ nay về sau, họ sẽ tiếp tục công việc của Ta.
-Nhưng nếu họ cũng thất bại nữa thì chắc là tiêu tùng luôn rồi!
-Không đến nỗi vậy đâu, vì một đàng Ta đã hứa sẽ ở cùng họ cho đến ngày tận thế, và đàng khác Ta còn phái Thánh Thần đến giúp họ nữa.
-À ra thế. Chắc là sẽ không thất bại nữa.
b/ Mặt trước
Một đêm, cô bé đi bên cha dưới bầu trời đầy sao. Nhìn lên, em nói với cha: "Ba ơi, con đang nghĩ rằng nếu như mặt sau của thiên đàng mà còn đẹp thế kia, thì mặt trước phải đẹp biết chừng nào!"
c/ Đường về
Một tù trưởng đã khéo léo lãnh đạo bộ lạc trong nhiều năm. Cuối cùng, ông chuẩn bị cái chết của mình cách rất bình thản. Người ta hỏi: "Sao ông bình thản vậy? Đau khổ và cái chết có gì vui đâu?" Ông đáp:
"Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ này, rồi xuôi dòng Missisipi, nhưng mùa xuân về, nó lại về đây như là về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa ông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa
Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ không người hướng dẫn? Vì Thánh Linh đã đặt vào lòng chúng con đường trở về Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người. chúng tạ con đường cuộc sống và con đường trở về.
Tôi đang chuẩn bị cho đường về của tôi. Vậy làm sao tôi lại không vui chứ ?" ------------------------------
LênTrời ABC-18: THẦY Ở CÙNG CÁC CON MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ
Br. Thomas Huy Châu, CMC
Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, Đ.T.C Gioan Phaolô II đã viết như sau khi trả: LênTrời ABC-18
Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, Đ.T.C Gioan Phaolô II đã viết như sau khi trả lời về vấn đề Hồi Giáo: "Tuy Thiên Chúa trong kinh thánh Koran được gọi bằng những danh xưng tuyệt đẹp, nhưng cuối cùng Ngài cũng chỉ là một Thiên Chúa ở bên ngoài thế giới này. Ngài là một Thiên Chúa uy phong, nhưng không bao giờ là một Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta."
Ngay chương đầu Phúc Âm Máthêu, chúng ta thấy thiên thần đã loan báo cho Thánh Giuse là trẻ Giêsu, khi sinh ra sẽ được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x.Mt 1:23), và trong đoạn cuối của Phúc Âm Mátthêu chúng ta nghe hôm nay, lời sau cùng Chúa nói trước khi về trời: "Thầy luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:20). Cùng với lời hứa này, Chúa truyền cho các tông đồ cũng như chúng ta ngày nay một sứ mạng: "Các con hay đi rao giảng cho muôn dân, làm phép rửa cho họ..." (Mt 28:19). Như vậy xem ra việc Chúa ở với chúng ta có liên quan đến nhiệm vụ rao giảng hay truyền giáo của chúng ta.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy có rất nhiều vĩ nhân như Pla-tông, A-rít-tô, Khổng Tử, hay Mẹ Têrêsa v.v., sau khi chết đi, đã để lại cho thế hệ sau những gia sản tinh thần vĩ đại khiến tên tuổi của họ còn lưu lại đến thiên thu; dầu thế các ngài đều không còn ở trên trần gian này nữa. Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác; sau 33 năm sống kiếp con người với nhân loại, Chúa Giêsu không còn hiện diện với chúng ta trong thân xác như một người nữa, nhưng với lời hứa: "Thầy luôn ở cùng các con mọi ngày", Chúa bảo đảm một thực tại là Ngài đang sống động giữa và trong chúng ta. Do đó sự kiện Chúa lên trời không phải là việc kết thúc sự hiện diện của Ngài giữa nhân loại, nhưng nói lên một sự hiện diện của Ngài một cách phổ quát và sâu thẳm hơn trong nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội mà mỗi chúng ta là thành phần, như lời Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: "Thiên Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người" (Eph1: 22-23). Hợp với Chúa Giêsu là Đầu, Giáo Hội đang cùng với Ngài tiếp tục sứ mạng cứu độ. Là thành phần của thân thể Chúa Kitô, chúng ta cũng có nhiệm vụ rao giảng ơn cứu độ với Giáo Hội tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Một trong những cách truyền giáo hiệu nghiệm là làm chứng sự "HIỆN DIỆN" của Thiên Chúa nơi trần gian này qua đời sống Đức Tin của chúng ta, vì người Kitô Hữu có nghĩa là người có Chúa Kitô. Trong Thông Điệp Evangelii Nuntiandi (về truyền giáo) Đức Thánh Cha Phaolô VI nói: "Qua đời sống chứng nhân thầm lặng, người Kitô Hữu sẽ khơi lên trong tâm trí những người chứng kiến đời sống của họ những câu hỏi đầy hấp lực: tại sao người Kiô Hữu sống như thế? Điều gì hay Ai đã thúc đẩy được họ sống như thế.... Đời sống chứng nhân như thế quả là sự rao giảng Tin Mừng mạnh mẽ và hiệu nghiệm". Là một giáo dân trong cộng đoàn hay giáo xứ, chúng ta có rất nhiều cơ hội làm nhân chứng truyền giáo. Thí dụ, người ta thấy bà Tư luôn tránh nói hành nói xấu người khác; hay thấy ông Ba không nhậu nhẹt cờ bạc, mà còn dành thời giờ đi thăm bà con đau yếu trong cộng đoàn, giáo xứ; hay thấy cậu Hai luôn chăm chỉ học hành, không bè đảng du đãng.v.v. và người ta biết bà Tư, ông Ba, cậu Hai có những đức tính tốt như vậy vì họ là người có đạo, là Kitô Hữu, thì quả thật họ là những người truyền giáo hiệu nghiệm.
Ngày nay Chúa Giêsu vẫn là Đấng Emmanuel, Ngài đang ở giữa nhân loại tuy phần nhiều chưa nhận ra Ngài. Mỗi người Kitô Hữu chúng ta tự hỏi: Chúa đang ở với tôi và trong tôi, tôi phải làm gì hay sống như thế nào để những người chưa tin Chúa nhận ra và tin theo Ngài. ------------------------------
LênTrời ABC-19: THÀY ĐƯỢC TOÀN QUYỀN TRÊN TRỜI DƯỚI ĐẤT
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
Sự Kiện Chúa Giêsu Thăng Thiên
Bài Phúc Âm Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay có liên quan trực tiếp đến bài Phúc Âm Lễ: LênTrời ABC-19
Bài Phúc Âm Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay có liên quan trực tiếp đến bài Phúc Âm Lễ Vọng Phục Sinh Chu Kỳ Năm A, bài Phúc Âm ghi lại cả lời thiên thần cũng như lời của Chúa Kitô Phục Sinh bảo các phụ nữ đến thăm mồ vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Vị thiên thần ngồi trên tảng đá được chính vị này lăn ra khỏi mồ đã nói với các bà rằng: "Hãy tới mà coi nơi Người được an táng. Rồi hãy mau đi nói với các môn đệ của Người là: 'Người đã sống lại từ trong cõi chết và giờ đây Người đã đi trước các vị đến Galilêa, nơi các vị sẽ được gặp Người'". Chúa Giêsu hiện ra với các bà trên đường các bà chạy về loan báo cho các môn đệ và xác nhận lời của vị thiên sứ của Người: "Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em Thày rằng họ phải đến Galilêa là nơi họ sẽ được gặp Thày". Đó là lý do mở đầu bài Phúc Âm Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên cho Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A hôm nay, Thánh Ký Mathêu đã viết: "Mười một môn đệ đã lên đường đi Galilêa, tới núi Chúa Giêsu triệu tập các vị".
So sánh bài Phúc Âm Thánh Mathêu cho Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên Năm A hôm nay, với hai bài Phúc Âm Năm B theo Thánh Marcô và bài Năm C theo Thánh Luca, thì hai bài Phúc Âm sau có nói rõ việc Chúa Giêsu Thăng Thiên, còn bài Phúc Âm của Thánh Mathêu hôm nay thì không. Phúc Âm Thánh Marcô Năm B viết: "Sau khi nói với các vị xong, Chúa Giêsu được nhắc lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mk 16:19). Phúc Âm Thánh Luca Năm C cũng vậy: "Thế rồi Người dẫn họ đến gần Bêthania và giơ tay lên ban phép lành cho các vị. Khi Người đang ban phép lành cho các vị thì Người rời các vị mà lên trời" (Lk 24:50-51). Trong ba Phúc Âm Nhất Lãm cho Chu Kỳ Phụng Vụ A, B, C, chỉ có Phúc Âm Thánh Luca là nói rõ địa điểm Chúa Giêsu Thăng Thiên, đó là "gần Bêthania", tức ở xứ Giuđêa và sát với Thành Giêrusalem, một địa điểm vẫn còn di tích ở Thánh Địa cho đến ngày nay. Như thế, về khung cảnh hiện ra lần này với các môn đệ ở Galilêa được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đây, không phải là lần Chúa Giêsu hiện ra cuối cùng trước khi Người Thăng Thiên.
Tuy nhiên, căn cứ vào câu cuối cùng của riêng bài Phúc Âm hôm nay, cũng như chung cả Phúc Âm Thánh Mathêu, chúng ta cũng thấy được hình ảnh của một Chúa Giêsu Thăng Thiên: "Hãy biết rằng Thày hằng ở cùng các con cho đến tận thế". Qua lời hứa cuối cùng này của Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên trong Phúc Âm Thánh Mathêu, chúng ta thấy lại được ít là hai điều Người đã mạc khải trước kia: Thứ nhất là mạc khải Giáo Hội của Người thành lập trên tảng đá Phêrô sẽ không bao giờ bị bất cứ một quyền lực nào có thể hủy diệt (x Mt 16:18); và thứ hai là mạc khải về ngày tận thế chắc chắn phải xẩy đến (x Mt 24:14). Ngoài câu cuối cùng của Chúa Giêsu đây là câu có thể cho thấy việc Người Thăng Thiên, chúng ta còn thấy một dấu hiệu khác nữa về việc Chúa Giêsu Thăng Thiên qua bài Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay, đó là sự liên hệ của bài Phúc Âm Thánh Mathêu này với bài Phúc Âm Thánh Marcô cũng cho Ngày Lễ Thánh Thiên hôm nay. Bởi vì, ở bài Phúc Âm Thánh Marcô, sau khi Chúa Giêsu nói đến Phép Rửa xong thì Người Thăng Thiên, và bài Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay cũng đề cập đến lời Chúa Giêsu nói về Phép Rửa song không nói gì đến việc Người Thăng Thiên. Bởi thế, chúng ta có thể suy ra về bài Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay ở đây là lời Chúa Giêsu hứa ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế có thể là lời hứa trước khi Người Thăng Thiên, (lời đáng lẽ được thuật lại ở Phúc Âm Thánh Luca), nhưng Người không Thăng Thiên ở Galilêa.
Về sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên, Sách Tông Vụ trong bài đọc thứ nhất hôm nay cho cả ba Chu Kỳ Phụng Vụ A, B, C, ghi nhận là: "Người vừa nói xong thì được nâng lên trước mắt các vị trong một đám mây khiến họ không thấy Người nữa". Thật ra, linh hồn của Chúa Kitô đã về cùng Cha ngay sau khi Người tắt thở trên thập gaí, và thân xác của Người cũng về cùng Cha ngay sau khi phục sinh từ trong cõi chết. (Bằng không thân xác thiêng liêng của Người ở đâu trong những lúc không hiện ra với các tông đồ?). Thế nhưng, vì sứ vụ trần gian của Người chưa hoàn tất, do đó, Người còn cần phải hiện ra với các môn đệ, với khoảng thời gian và mục đích được bài đọc một hôm nay cho biết là "trong khoảng thời gian 40 ngày mà nói với họ về triều đại của Thiên Chúa". Bởi vì, khi còn sống, Chúa Giêsu mới chỉ dùng dụ ngôn mà tiết lộ cho các môn đệ biết về Mầu Nhiệm Nước Thiên Chúa thôi, chẳng hạn như hình ảnh Nước Thiên Chúa được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại một loạt ở đoạn 12, từ câu 1 đến 53. Giờ đây, sau khi Người Sống Lại, hình ảnh một Vương Quốc Thiên Chúa do Người khai quốc đã trở thành hiện thực và sống động, nhưng vẫn không phải là một thứ vương quốc chính trị trần gian như các môn đệ của Người vẫn còn mơ tưởng, ngay trước khi Người Thăng Thiên, như bài đọc một hôm nay cho biết. Vương Quốc này như thế nào, những lời Chúa Kitô Phục Sinh nói với các môn đệ trong bài Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay đã trả lời một cách rõ ràng, một Vương Quốc Người sẽ tiếp tục tỏ hiện cho đến khi Người lại đến, chẳng những bằng tác động của Người nơi Giáo Hội, mà còn bằng quyền năng Người ở bên hữu Thiên Chúa nữa.
Như thế, Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên tức là Người không còn đích thân tỏ mình cho trần gian nơi nhân tính của Người để thiết lập Vương Quốc của Thiên Chúa nữa, mà là việc Người bắt đầu tỏ mình ra qua Giáo Hội của Người để hiện thực Vương Quốc của Thiên Chúa, một Vương Quốc mà chính Giáo Hội chẳng những là mầm mống và khởi nguyên (x Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 5), mà còn là sự hiện diện mầu nhiệm của Vương Quốc này trên trần gian nữa (cùng nguồn, đoạn 3). Vậy Biến Cố Thăng Thiên là biến cố Giáo Hội "giống như một hạt cải" (Mt 13:31) sửa soạn nẩy mầm để trở thành một cây vĩ đại nhất, vươn các chi nhánh của mình ra khắp nơi trên thế giới. Chính đám mây đã che khuất Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên trước mắt các môn đệ, cũng là đám mây "quyền năng từ trên cao" (Lk 24:49) mà các vị "sẽ mặc lấy" (Lk 24:49), như Mẹ Maria đã được "quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ" (Lk 1:35), để như Mẹ Maria đã thụ thai và hạ sinh Lời Nhập Thể thế nào, Giáo Hội cũng có thể thụ thai và hạ sinh Chúa Kitô Sự Sống cho trần gian như vậy. Nếu đám mây này biểu hiệu cho Chúa Thánh Thần, thì quả thực lời Chúa Kitô nói không sai trong bài Phúc Âm Chúa Nhật VI Phục Sinh vừa rồi: "Một ít lâu nữa thôi thế gian sẽ không còn được thấy Thày; nhưng các con thì thấy Thày": "thế gian không còn được thấy Thày" đây biểu hiệu cho con mắt xác thịt của các môn đệ, "nhưng các con thì thấy Thày" đây là thấy Thày trong một đám mây, tức thấy Thày trong "một Đấng Cố Vấn khác là Thần Chân Lý" (Jn 14:16-17).
Địa Điểm Xuất Phát Truyền Giáo
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu lại hẹn gặp các môn đệ của mình ở Galilêa tại "núi Người đã triệu tập các vị", mà không phải ở một nơi nào khác, như Núi Tử Giá hay Núi Biến Hình? Về địa điểm "núi Người đã triệu tập các vị" đây, vì Phúc Âm không nói rõ, chúng ta có thể suy ra hai địa điểm: một là Núi Phúc Đức ở Galilêa (Mt 5:1) và hai là ở địa điểm Người "triệu tập" các vị trước khi sai các vị đi truyền giáo (x Mt 10:1). Về địa điểm Núi Phúc Đức, Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại rằng: "Khi Người trông thấy đám đông thì lên một sườn núi. Sau khi Người ngồi xuống thì các môn đệ qui tụ chung quanh Người, và Người bắt đầu giảng dạy các vị" (Mt 5:1-2). Về địa điểm "triệu tập" truyền giáo, cũng Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại rằng: "Bấy giờ Người triệu tập 12 môn đệ lại mà ban cho các vị quyền khu trừ các thần ô uế và chữa lành đủ mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền. Tên của 12 tông đồ là… Chúa Giêsu sai những người này đi truyền giáo như một Nhóm 12, sau khi đã dặn dò các vị những điều sau đây…" (Mt 10:1-2,5). Căn cứ vào nội dung của bài Phúc Âm Thánh Mathêu cho Lễ Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên hôm nay liên quan đến Lệnh Truyền Giáo của Người, chúng ta có thể suy đoán là Người đã hẹn các vị đến địa điểm Người "triệu tập" các vị trước kia, nơi Người đã sai các vị đi truyền giáo, chứ không phải ở Núi Phúc Đức là nơi các vị đến để được Người giảng huấn để có đủ Tinh Thần Phúc Âm trước khi đi Truyền Bá Phúc Âm.
Và sở dĩ Chúa Kitô Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ của Người ở địa điểm truyền giáo tiên khởi này là vì, Người muốn cho các vị thấy rằng, giờ đây, sau khi Người đã sống lại rồi, tức sau khi "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất", như Người khẳng định ở ngay câu mở của bài Phúc Âm hôm nay, hay sau khi nhân tính của Người đã hiển sinh, đã mang lại "sự sống" cho tất cả mọi người trên trần gian này, thì địa điểm truyền giáo của các vị không còn chỉ giới hạn ở "thành phần chiên lạc nhà Israel" nữa (Mt 10:5), không còn bị cấm "đừng đến thăm địa hạt dân ngoại và đừng vào phố xá của người Samaritan" (Mt 10:6), mà là bao gồm "tất cả mọi dân nước" (Mt 28:19). Sau Cuộc Vượt Qua, Vương Quốc của Thiên Chúa được Người thiết lập ở Thánh Địa nói chung và tại Giêrusalem nói riêng, không phải là một thứ vương quốc như các môn đệ dù cho tới khi Thày của các vị Thăng Thiên vẫn còn mơ tưởng nữa, một mơ tưởng về chính trị bản quốc Do Thái được Sách Tông Vụ trong bài đọc hôm nay cho thấy, mà là một Vương Quốc Toàn Cầu, cần phải được bao trùm khắp thế giới, bao gồm tất cả loài người. Vương Quốc Toàn Cầu này, theo những lời dặn dò của Chúa Kitô Phục Sinh trong bài Phúc Âm hôm nay, là một Vương Quốc Ân Sủng, một Vương Quốc Sự Sống, một Vương Quốc Hiệp Thông Thần Linh: "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ ở tất cả mọi dân nước. Hãy rửa tội cho họ 'nhân danh Cha và Con và Thánh Thần'. Hãy dạy họ thi hành hết mọi điều Thày đã truyền dạy các con".
Căn cứ vào thứ tự của Lệnh Truyền Phục Sinh trong Phúc Âm Mathêu đoạn 28 câu 19 này, Giáo Hội của Người vẫn trung thành thực hiện đủ ba phần hành ấy cho tới nay: Phần hành thứ nhất đó là vai trò ngôn sứ về truyền giáo: "tuyển mộ môn đồ", phần hành thứ hai là vai trò tư tế về phụng vụ: "rửa tội cho họ", và phần hành thứ ba là vai trò vương giả về cai trị: "dạy họ tuân giữ những gì Thày đã truyền dạy". Ba phần hành này được thực hiện cụ thể nhất ở tại các giáo xứ. Thứ nhất là việc "tuyển mộ môn đồ", ở tại việc tín hữu Công Giáo sống thánh chứng nhân của mình, đặc biệt qua các công việc từ thiện bác ái, làm cho người khác nhận thấy họ là môn đệ Chúa Kitô (x Jn 13:35), để họ cũng cảm thấy muốn theo làm môn đệ của Người. Thứ hai là việc "rửa tội cho họ", thành phần dự tòng học đạo trước khi trở thành tân tòng theo đạo, sau khi được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, thường vào Lễ Vọng Phục Sinh hằng năm. Thứ ba là việc "dạy họ tuân giữ những gì Thày đã truyền dạy", qua những lớp giáo lý xưng tội rước lễ lần đầu, các lớp giáo lý dự bị hôn nhân, các bài giảng Phụng Vụ, nhất là các Giáo Huấn của Giám Mục Địa Phương và Hội Đồng Giám Mục Quốc Gia, các Giáo Huấn của Giáo Hội Hoàn Vũ, từ các Thánh Bộ, Giáo Hoàng và Công Đồng Chung v.v.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên nhưng vẫn "hằng ở cùng các con cho đến tận thế". Kitô hữu chúng ta có thực sự cảm nghiệm được Thực Tại Hiện Diện Thần Linh hay chăng? Nếu chưa, phải chăng chúng ta vẫn còn hồ nghi hay chưa hoàn toàn tin rằng Người Đã Sống Lại. Ở chỗ, chúng ta tuy đã chấp nhận sự thật là Người đã sống lại, bằng việc lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Người, song lòng chúng ta còn xu hướng về một Nước Trời theo trần gian, như trường hợp của một số môn đệ trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Đó là lý do, trong Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô ở bài đọc thứ hai hôm nay, Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã nguyện cầu cho họ như sau: "Xin Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Cha vinh hiển, ban cho anh em một tinh thần khôn ngoan và minh thức để anh em nhận biết Ngài một cách tường tận". Nếu chúng ta thực sự tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, nghĩa là chúng ta thực sự cảm nghiệm được trong chúng ta có một "sự sống và là một sự sống viên mãn" (Jn 10:10) của Người, chúng ta không thể nào ngồi yên không làm chứng nhân cho Người, không loan truyền Tin Mừng Cứu Độ xứng hợp với ơn gọi của mình. Đời Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta là dấu chứng sống động và hùng hồn nhất cho thấy Chúa Kitô Phục Sinh "hằng ở cùng các con cho đến tận thế", một Chúa Kitô Thăng Thiên, một Chúa Kitô Ngự Bên Hữu Thiên Chúa, Đấng bài đọc hai hôm nay cho biết, "Ngài đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Chúa Kitô và bởi thế đã nâng Người lên làm thủ lãnh của Giáo Hội là thân thể của Người, là tầm vóc viên mãn của Đấng làm trọn vẹn tất cả mọi sự trong vũ trụ" (như đoạn kết của bài đọc hai hôm nay). ------------------------------
LênTrời ABC-20: Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
Phải chăng công việc cứu thế của Đức Giê-su đã chấm dứt kể từ khi Ngài từ giã các tông đồ để: LênTrời ABC-20
1. Phải chăng công việc cứu thế của Đức Giê-su đã chấm dứt kể từ khi Ngài từ giã các tông đồ để về trời? Nếu việc ấy còn tiếp tục thì tiếp tục thế nào, và do ai thực hiện? Người ấy có phải là bạn, là tôi không?
2. Đức Giê-su có cần ta và có mời gọi ta cộng tác với Ngài trong việc cứu thế của Ngài không? Ngài muốn ta làm gì để cộng tác với Ngài?
3. Nếu Đức Giê-su muốn yêu anh chị em ta bằng trái tim của ta, muốn phục vụ họ bằng đôi tay của ta, muốn rao truyền Tin Mừng cho họ bằng miệng lưỡi của ta, bạn có sẵn sàng cho phép Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Để cứu con người, Thiên Chúa cần họ cộng tác với Ngài
Hôm lễ Giáng Sinh, chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Đức Giê-su giáng trần, bắt đầu cuộc đời làm người của Ngài. Hôm nay chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Ngài thăng thiên, kết thúc cuộc đời tại thế của Ngài. Ngài đến thế gian - vừa với tư cách một vị Thiên Chúa vô hạn và toàn năng, vừa với tư cách một con người đầy giới hạn và bất lực - để phục vụ con người, hầu trả lại cho con người thứ hạnh phúc vĩnh cửu đã bị nguyên tổ con người đã làm mất. Nhưng Ngài không thể làm chuyện này một mình được.
Khi dựng nên con người và cùng lúc ban hạnh phúc nguyên thủy cho con người (lúc ấy con người chưa có), Thiên Chúa không cần ý kiến hay sự cộng tác của con người. Nhưng khi con người đã hiện hữu, nhất là khi họ đã lạm dụng chính tự do Thiên Chúa ban để chống lại Ngài và làm mất đi hạnh phúc của mình, thì Ngài không thể tự mình chuộc lại hạnh phúc ấy cho con người mà không cần đến sự cộng tác tự nguyện của họ. Tương tự như khi sinh ra ta, cha mẹ không cần đến ta, nhưng một khi đã có ta, thì có rất điều ích lợi cho ta các ngài không thể làm một mình mà không cần ta cộng tác vào. Chẳng hạn các ngài có thể đem đồ ăn đến tận miệng ta, giúp chúng ta đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng ta có ăn uống học hành hay không thì hoàn toàn do ta. Cha mẹ không thể ăn uống, học hành thay cho ta được. Cũng vậy, Thiên Chúa không thể cứu chuộc ta, lấy lại hạnh phúc đã mất cho ta mà không cần đến sự hợp tác của ta. Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã làm tất cả những gì Ngài có thể làm được qua Đức Giê-su. Tuy nhiên, vẫn còn lại một phần rất nhỏ mà chính con người phải làm, không ai làm thay được.
Nhưng làm sao con người ý thức được điều đó để cộng tác với Ngài hầu được cứu rỗi và hạnh phúc? Đức Giê-su có làm được điều ấy không? Làm sao Ngài làm được điều ấy cho từng người trên thế giới từ thế kỷ này sang thế kỷ khác?
2. Để loan báo ơn cứu độ, phục vụ con người, Đức Giê-su mời gọi ta cộng tác tiếp tay với Ngài
Đức Giê-su đến thế gian với mục đích ở với con người, chia sẻ thân phận đầy đau khổ của họ, xoa dịu những nỗi đau, săn sóc và chữa lành mọi căn bệnh cho họ, nhất là đem lại nguồn ủi an, hạnh phúc cho họ. Ngài muốn phục vụ toàn thể con người, đem ơn cứu rỗi đến cho họ không trừ một ai. Nhưng thế giới của con người thì bao la trải dài suốt mấy chục thế kỷ, còn Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm thật ngắn ngủi, tại đất nước Do Thái quá chật hẹp. Làm sao Ngài có thể đến với từng người, phục vụ từng người không trừ ai như Ngài mong muốn được? Ngài có phương cách của Ngài, đó là mời gọi những người theo Ngài, những môn đệ của Ngài trong mọi thế kỷ, mọi thế hệ loài người cộng tác tiếp tay cho Ngài, trong đó có bạn, có tôi, cùng bao nhiêu Ki-tô hữu khác. Ngài lại mời gọi và đòi hỏi sự cộng tác.
Vì thế, trước khi từ biệt các môn đệ để về với Chúa Cha, Đức Giê-su đã trăn trối cho các ông di chúc này: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Đó không phải chỉ là lời mời gọi, mà là một lệnh truyền không chỉ cho 12 môn đệ đầu tiên của Ngài, mà cho tất cả những môn đệ thuộc tất cả những thế hệ sau, nghĩa là cho tất cả những ai theo Ngài. Vì thế, việc loan báo Tin Mừng hay phúc âm hóa môi trường mình sống, làm cho mọi người theo Đức Giê-su, thành môn đệ của Ngài, rửa tội cho họ, nhất là sống tinh thần yêu thương mà Ngài đã truyền dạy là bổn phận của mọi Kitô hữu.
3. Đức Giê-su mong được tiếp tục yêu thương và phục vụ con người qua bản thân và đôi tay của ta
Sứ mạng của Đức Giê-su thật vĩ đại, để hoàn tất sứ mạng ấy, Ngài muốn hiện diện một cách cụ thể bằng xương bằng thịt tại trần gian để sống với mọi người, chia sẻ đau khổ với mọi người thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi quốc gia. Ngài muốn trực tiếp nói với mỗi người, phục vụ, săn sóc, an ủi, xoa dịu và chữa lành những nỗi đau, những căn bệnh của mỗi người, nhất là đem lại nguồn ủi an và hạnh phúc cho họ. Nhưng trong thực tế, Ngài chỉ sống tại trần gian một thời gian hết sức ngắn ngủi. Vì thế, để tiếp tục công việc ấy, Ngài muốn hiện diện ở trần gian một cách khác, một cách gián tiếp, qua sự hiện diện của ta. Nghĩa là Ngài muốn yêu thương mọi người bằng trái tim ta, suy nghĩ tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề của con người bằng khối óc của ta, phục vụ mọi người bằng đôi tay của ta, đến với mọi người bằng đôi chân của ta, nói với mọi người, báo tin vui cứu độ cho mọi người bằng miệng lưỡi của ta. Ngài mong ta trở nên một dụng cụ của Ngài, tùy ý Ngài sử dụng hầu thực hiện chương trình của Ngài. Nếu Ngài đã là hiện thân của Thiên Chúa Cha giữa con người, thì Ngài cũng muốn ta là hiện thân của Ngài giữa những người sống chung quanh ta, trong gia đình ta, giữa xã hội, trong lòng thế giới. Nếu cách đây 2000 năm, Ngài đã là Em-ma-nu-en, tức Thiên Chúa ở giữa loài người qua con người Đức Giê-su, thì hiện nay, Ngài cũng muốn tiếp tục làm như thế, nhưng lần này qua con người mỗi chúng ta.
4. Hãy trở nên hiện thân của Đức Giê-su ở trần gian, giữa những người sống chung quanh ta
Chúng ta có thể trở nên hiện thân của Đức Giê-su ở trần gian, miễn là chúng ta có tình yêu đối với Ngài, với mọi người, và muốn trở nên hiện thân của Ngài giữa thế giới. Để làm được điều ấy, chúng ta chỉ cần ý thức rằng mình chính là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa (St 1,26.27; 9,6; Ep 4,24), là con cái Thiên Chúa (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4). Vì thế, ngay từ bản chất, một cách nào đó, chúng ta đã là hiện thân của Thiên Chúa rồi. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với bản chất cao cả đó. Chúng ta còn sống một cách hèn hạ, nhát đảm, bần tiện, ích kỷ, chỉ vì chúng ta chưa ý thức được phẩm chất thần linh cao quí của mình. Chúng ta giống như một hoàng tử con ruột của một ông vua, nhưng vì sống trong môi trường dân giã lâu năm nên đã quên đi nguồn gốc cao quí của mình, nên sẵn sàng đem thân làm tôi tớ người khác, làm những điều không xứng hợp với phẩm giá mình.
Đức Giê-su muốn mỗi người chúng ta ý thức được phẩm chất cao cả của mình, đồng thời mời gọi ta trở nên hiện thân của Thiên Chúa, của Ngài nơi những người chung quanh chúng ta, để qua chúng ta, Ngài yêu thương họ, phục vụ họ. Chúng ta sẽ trở nên hiện thân của Thiên Chúa khi những người chung quanh cảm nghiệm được tình yêu thương của ta đối với họ, qua việc quan tâm, chăm sóc, hy sinh vì hạnh phúc của họ.
Lời mời gọi ấy, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nói với chúng ta dưới một hình thức khác, một lệnh truyền, một sứ mạng được trao phó: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em". Làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa, cũng là giúp họ ý thức được họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Ngài, và là anh em của nhau. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Đức Giê-su truyền dạy chính là tìm cách làm cho họ yêu thương nhau, phục vụ nhau. Vả lại yêu thương nhau chính là nét đặc trưng nhất, là tiêu chuẩn bảo đảm nhất chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giê-su. Chính khi chúng ta sống như thế, sống như những hiện thân của Đức Giê-su ở giữa anh chị em ta, thì ta đã làm cho câu nói sau đây của Đức Giê-su trở thành hiện thực và cụ thể: "Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Chúng ta hãy trở nên Giê-su hay Em-ma-nu-en ở giữa anh chị em mình!
CẦU NGUYỆN
Tôi thường nghe Thiên Chúa nói qua lương tâm tôi:
"Cách đây 2000 năm, Cha đã rao truyền chân lý, bày tỏ tình yêu và phục vụ săn sóc cho một số rất ít người Do Thái thời ấy qua con người Giê-su, Con của Cha. Cha vẫn muốn tiếp tục làm công việc yêu thương săn sóc ấy cho tất cả mọi người không trừ ai ở trần gian này. Nhưng lần này không phải qua con người Giê-su nữa, mà qua bản thân con và nhiều người khác như con. Con có đồng ý để Cha yêu thương họ bằng trái tim con, và phục vụ họ bằng đôi tay của con không?" ------------------------------
LênTrời ABC-21: Suy Niệm của Lm Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết Sống lại: LênTrời ABC-21
Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết Sống lại . Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3). Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa phục đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ ( Cv 1, 8 )
Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).
I. TẠI SAO CÁC NGƯƠI CỨ ĐỨNG ĐÓ MÀ NHÌN LÊN TRỜI:
Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:"…Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con" (Ga 16, 6-7) .Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng ( Ga 14, 26 ; 15, 26-27 ).
Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: "Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".
Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông ( Cv 1, 3 ).
Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình , đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc , cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1, 6 ).
Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em" ( Mt 28, 16-20 ).
Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế
II. CHÚA VỀ TRỜI LÀ MỘT MỐI PHÚC LỚN LAO:
Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến . Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân…Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 17-20).
Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.
Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận.
Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội . Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu , xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: "Các con là muối ướp cho mọi người … Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được … ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời " (Mt 5,13-16)
Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. ------------------------------
LênTrời ABC-22: Suy Niệm của Lm Nguyễn Bình An
Các con hãy đi giảng dậy muôn dân. Ban phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khuyến: LênTrời ABC-22
"Các con hãy đi giảng dậy muôn dân. Ban phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khuyến dậy họ tuân giữ những điều Thầy đã dậy các con. Và Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:18-20) là lời cuối cùng tại thế của Chúa Kitô. Chúa trao trọng trách và buộc các tông đồ và các tín hữu phải thi hành. Chúa về trời, nhưng sứ mệnh giảng dậy vẫn liên tục và bổn phận truyền giáo không bao giờ được ngừng.
Thân xác Chúa nhẹ bay lên cao. Tay Ngài ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Ngài nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận. Một lớp mây vô tình đóng cửa trời và vĩnh viễn phân cách Chúa với nhân gian. Các tông đồ ngây ngất nhìn trời và tâm trí các ngài như mất hút vào không gian vô định. Các ông chỉ ra khỏi cơn ngất trí khi hai thiên sứ đến thức tỉnh và đưa các ông trở về với một thực tại không mấy sáng sủa. Cô đơn, lo sợ, và hoang mang đã gom các tông đồ vào phòng kín. Cầu nguyện và chờ đợi Chúa Thánh Linh là việc làm duy nhất lúc này của các ông.
Chúa đi thật rồi! Còn đâu những giây phút thân ái! những tháng ngày dong duổi truyền giáo đó đây! những hãnh diện khi Biệt Phái im miệng! Những hân hoan trước các phép lạ! và những ngỡ ngàng trước các lời thánh! Tất cả đã thành dĩ vãng của một ngày xưa tuyệt vời ấy và kết nên một nuối tiếc khôn nguôi! Lời Ngài không được ghi chép đã là một mất mát vô vàn nghiêm trọng. Nhưng đây là ý định của Chúa Kitô, vì Lời Ngài không thể vô hồn, cô đọng và cứng ngắc trên giấy trắng mực đen. Trái lại Lời Ngài phải đi vào tâm hồn, thấm nhuyễn lòng người và trở nên linh động, trong sáng, uyển chuyển và là nguồn sống của mỗi tín hữu.
Lời Ngài phải phong phú phát triển theo trình độ hiểu biết, mức độ chiêm niệm, phản tỉnh và đức tin của mỗi người. Chúa Kitô vì thế đã dùng một hình thức khác biệt và lạ đời là Thánh Linh để Lời Ngài được ghi tâm khắc cốt và luôn là chân lý, là đường, là ánh sáng, là muối ướp của tín hữu. "Ta đã dậy các con tất cả. Nhưng Đấng Phù Trợ, Thần Khí từ Chúa Cha sai đến, sẽ dậy các con mọi điều, và sẽ gợi nhớ những gì Ta đã chỉ dậy các con. Ta ban bình an cho các con... Chớ để tâm hồn xao xuyến và đừng sợ hãi" (Jn 14,25-27).
Biến cố Chúa Lên Trời vì thế đã thành niềm vui và hy vọng cho tông đồ đoàn và các tín hữu tiên khởi. Họ vui vì từng chi tiết Chúa tiên báo đã thực hiện đầy đủ. Họ hy vọng vì tuy Chúa không còn hữu hình ở thế gian nhưng Lời Ngài cam kết "Ta ở với các on mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20) đang thực hiện. Tin vào Lời Chúa, các Tông đồ trở nên mạnh mẽ và kiên nhẫn chờ đợi một phép lạ mới: Chúa Thánh Linh.
Với Chúa Thánh Linh, mỗi tín hữu sẽ trở thành một Phúc Âm sống động, tinh tuyền và trong sáng. Với Chúa Thánh Linh, mỗi tín hữu sẽ mạnh dạn sống điều họ tin và loan truyền tin mừng họ sống. Với Chúa Thánh Linh, Giáo hội và thế giới sẽ song hành bước vào một trật tự mới. Trời tái mở trên không trung trong một giải xanh vô tận. Chúa Kitô hiển trị nơi mỗi tâm hồn, trong các gia đình và trên toàn thế giới. "Chúa về trời, chúng ta vào đời" làm chứng nhân của tin mừng cứu độ và loan báo ngày mai chúng ta cũng sẽ về trời. ------------------------------
LênTrời ABC-23: SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU -Sr Margareta Maria Hiền
Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh: LênTrời ABC-23
Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn.
Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:
"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."
Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en=Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. ------------------------------
LênTrời ABC-24: LÊN TRỜI: ƯỚC MƠ CAO ĐẸP
Lễ Chúa Giêsu Lên Trời
Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20
Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều: LênTrời ABC-24
Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều người vì sự tốn kém khủng khiếp của nó: chuyến du lịch của Denis Tito, một nhà triệu phú Hoa Kỳ, người đã trả 20 triệu đô la cho tấm vé du lịch 6 ngày trên không gian.
Từ thuở bé, khi nhìn ngắm trời sao ban đêm, Tito mơ ước một ngày ngào đó mình sẽ được bay vào trời cao. Thế rồi lớn lên, ông đi học và trở thành kỹ sư làm việc cho NASA, cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia Hoa kỳ. Tito chuyên về thiết kế các đường bay thám hiểm Hỏa tinh và Kim tinh. Sau đó ông chuyển qua đầu tư và trở thành triệu phú.
Tuy làm triệu phú nhưng Tito vẫn không mất đi ước mơ bay vào vũ trụ, dầu rằng ông biết rõ giấc mơ ấy rất mong manh. Bởi vì hầu hết các phi hành gia đều xuất thân từ những phi công máy bay phản lực với nhiều tài năng và thể lực tốt, trong khi kích thước và trọng lượng cơ thể của ông lại rất khiêm tốn: cao 5'5 và nặng 140 cân Anh (pounds).
Nhưng khi cơ quan Hàng không Vũ trụ Nga chịu bán cho Titô một ghế du lịch giá 20 triệu, và sau bảy tháng trời huấn luyện không ngừng, giấc mơ của Tito đã thành sự thật. Ông phát biểu trước chuyến bay: "Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Tôi muốn thực hiện hết những giấc mơ lành mạnh và hợp pháp của mình."
"Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống", và trong cuộc đời đó có biết bao ước mơ được đan dệt. Nhưng thử hỏi ước mơ của tôi có lành mạnh và hợp pháp không? Các mơ ước của tôi tốt đẹp cao sang hay tầm thường hèn hạ? Chúng nâng tôi lên hay nhận chìm phá hủy?
Nói đến ước mơ là nói đến những mục tiêu chưa có trong hiện tại. Mục tiêu tuy nằm trong tương lai, nhưng lại chi phối đời sống con người từ ngày hôm nay. Khi một bạn trẻ mong rằng mai kia mình sẽ có tấm bằng cao học, trong hiện tại họ đã phải thức khuya dậy sớm, thu tích bao kiến thức cần thiết để một ngày nao chiếm được mảnh bằng như lòng ước mong. Thành ra, ước mơ hướng con người đến với tương lai, nhưng đã làm nên cung cách sống trong hiện tại.
Nhìn vào ngày mai để ngày hôm nay ta sống trọn vẹn hơn chính là lối đường khôn ngoan mà lễ Đức Giêsu Lên Trời muốn nói.
Không ít người bị quan niệm vật chất chi phối nên khi nói "Chúa Giêsu lên trời" người ta mau liên tưởng đến hình ảnh Ngài bốc mình khỏi mặt đất, bay vào một nơi nào đó trên trời cao. Điều này khiến cho có kẻ cứ lầm tưởng thiên đàng là một chốn nào đó trong không gian. Yuri Gagarin, phi hành gia đầu tiên của Nga, sau khi bay lên vào vũ trụ đã trở về tuyên bố: "Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng thấy Chúa đâu. Vậy mà người có Đạo lại nói 'Lạy Cha chúng con ở trên trời'".
Nghe thế, nhiều người bị lung lay niềm tin vì cứ tưởng Chúa ở trên trời cao xanh, bây giờ các khoa học gia lên trời và dùng cả viễn vọng kính tối tân tìm kiếm mà chẳng thấy ai, nên nghĩ là không có Chúa.
Có người lại lầm tưởng trên thiên đàng người ta vẫn sống như đời thường, tức cũng ăn uống ngủ nghỉ, cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Thế nên mới có cảnh bè phái Sađucêô đặt vấn đề: một bà lấy bảy anh em, thế khi về trời bà ta là vợ của ai.
Nếu thiên đàng là một cõi vật chất nào đó trong không gian thì nó cũng sẽ suy tàn như bao vật chất khác. "Lên thiên đàng" không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả.
Thế nên khi nói "Chúa Giêu lên trời" có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa.
Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn... Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người.
Thế nhưng qua việc "lên trời", Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu.
Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.
Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân", "các con là chứng nhân của Thầy". Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, vợ nọ con kia, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực đánh chí choé. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Đức Giêsu căn dặn: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau."
Thành ra việc mừng lễ Chúa Giêsu lên trời lại khai mở trong tôi một thái độ sống: sống trong cuộc đời nhưng phải hướng về quê trời. Sự hướng mình lên cao đó giúp tôi vược thắng những tình cảm thấp hèn của xác thịt, thế gian, vật chất hầu đi đến một tình yêu cao cả hơn. Đó là tình yêu chân lý, yêu sự sống, yêu những giá trị thiêng liêng, với khả năng nâng tôi lên cao hơn trong tình Chúa và tình người.
LênTrời ABC-25: “ĐÂY, THẦY Ở CÙNG ANH EM CHO ĐẾN TẬN THẾ”
( Mt 28, 20 )
Tác giả Mát-thêu khởi đầu Tin Mừng nhắc lại rằng Đức Giê-su mà ông khởi sự viết về Người là: LênTrời ABC-25
Tác giả Mát-thêu khởi đầu Tin Mừng nhắc lại rằng Đức Giê-su mà ông khởi sự viết về Người là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta ( x. Mt 1, 23 ). Và ông kết thúc lặp lại những lời Đức Giê-su hứa sẽ ở lại với chúng ta mãi mãi, cả sau khi Người đã trở về Trời. Cho đến tận thế Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Đức Giê-su nói những lời này với các môn đệ, sau khi đã ủy thác cho các ông trách vu đem lời giảng dạy của Người đi khắp thế giới. Lúc đó Người ý thức rõ là Người sai các ông đi như chiên giữa sói rừng và các ông sẽ chịu cảnh chống đối cùng bách hại ( x. Mt 10, 16 – 22 ). Vì thế Người không muốn để các ông một mình trong sứ mạng của các ông.
Vậy chính giây phút ra đi, Người hứa là Người sẽ ở lại ! Các ông sẽ không thấy Người nữa với con mắt của mình, sẽ không nghe tiếng của Người nữa, các ông sẽ không thể động chạm đến Người, nhưng Người sẽ luôn luôn hiện diện giữa các ông như trước, mà còn hơn trước nữa. Thực vậy, nếu cho đến lúc đó sự hiện diện của Người giới hạn tại một nơi chốn nhất định, ở Ca-phác-na-um, trên hồ, hoặc trên núi, hay ở Giê-ru-sa-lem, thì từ nay trở đi Người sẽ ở bất kỳ nơi nào có các môn đệ của Người.
Lúc đó Đức Giê-su cũng thấy tất cả chúng ta là những người sẽ phải sống giữa cuộc sống phức tạp từng ngày. Vì là Tình Thương Nhập Thể, Người nghĩ: tôi muốn mãi mãi sống với con người, tôi muốn chia sẻ mọi lo lắng của họ, khuyên nhủ họ, bước đi với họ trên các nẻo đường, đi vào các nhà, làm sống lại niềm vui của họ bằng sự hiện diện của tôi.
Vì vậy Người đã muốn ở lại với chúng ta và làm cho ta cảm thấy sự gần gũi của Người, sức mạnh của Người, tình thương của Người. Tin Mừng Lu-ca kể lại rằng sau khi thấy Người lên Trời, các môn đệ “hoan hỉ trở về Giê-ru-sa-lem” ( x. Lc 24, 52 ). Làm sao có thể như vậy được ? Vì các ông đã nghiệm được thực tại của những lời Người dạy. Chúng ta cũng được đầy hoan hỉ, nếu ta thực sự tin vào lời hứa của Đức Giê-su.
“Đây, Thầy ở cùng anh em cho đến tận thế” Những lời này, những lời cuối cùng Đức Giê-su nói với các môn đệ, đánh dấu cuộc sống dương thế của Người chấm dứt, và cùng một trật, khởi đầu cuộc sống của Hội Thánh, nơi Người sẽ hiện hiện bằng nhiều cách: trong Thánh Thể, nơi Lời của Người, nơi các người Thừa Tác ( các Giám Mục, Linh Mục ), nơi những người nghèo khó, nơi những người bé mọn, nơi những người sống ngoài lề..., nơi tất cả mọi người bên cạnh.
Chúng tôi thích nhấn mạnh đến một sự hiện diện đặc biệt của Đức Giê-su, sự hiện diện mà chính Người, trong Tin Mừng Mát-thêu, đã chỉ cho chúng ta: “Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” ( Mt 18, 20 ). Qua sự hiện diện này Người muốn có thể ở mọi nơi.
Nếu ta sống như Người dạy, đặc biệt giới răn mới của Người, thì chúng ta có thể nghiệm được sự hiện diện này của Người cả ở bên ngoài Nhà Thờ, giữa dân chúng, nơi họ sống, ở mọi nơi.
Điều đòi hỏi nơi ta là tình thương yêu lẫn nhau, để phục vụ, thông cảm, chia sẻ những đau khổ, những lo âu cùng niềm vui của các anh chị em ta; tình thương che lấp mọi sự, tha thứ tất cả, tình thương đặc biệt của Ki-tô giáo. Ta sống như vậy, ngõ hầu mọi người chúng ta đều có được cơ hội gặp gỡ Người ngay ở trần gian này.
CHIARA LUBICH ------------------------------
LênTrời ABC-26: HỘI THÁNH RAO GIẢNG TIN MỪNG
1. Ý nghĩa của sự kiện Đức Giê-su lên trời:
Sự kiện lên trời ( hay còn quen gọi là “thăng thiên” ) là tiến trình tiếp nối cách lô gíc biến cố: LênTrời ABC-26
Sự kiện lên trời ( hay còn quen gọi là “thăng thiên” ) là tiến trình tiếp nối cách lô gíc biến cố phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô. Thật vậy, Thiên Chúa Cha đã nhìn nhận công lao của Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô trong cuộc sống trần gian và nhất là trong cuộc Khổ Nạn Thập Giá mà Người đã chịu để cứu chuộc nhân loại, nên đã vinh thăng Người bằng cách làm cho Người sống lại từ trong cõi chết và đem Người trở về thế giới vô hình của Thiên Chúa.
Hơn nữa Thiên Chúa Cha tôn phong Người danh hiệu cao trọng nhất trong các danh hiệu và tước vị, đặt Người lên trên mọi quyền lực thần thiêng, làm Chúa Tể vạn vật, làm Vua vũ trụ. Đức Giê-su thăng thiên minh chứng hai điều:
- Người là Đức Chúa từ Trời đến và trở về Trời;
- Cõi Trời là nơi được Thiên Chúa dành cho chúng ta và chỉ ở nơi ấy, chúng ta mới được trọn hưởng niềm hạnh phúc vô tận mà Thiên Chúa đã định cho chúng ta.
2. Trước khi lên trời, Đức Giê-su:
2. 1 đã giao cho các môn đệ một nhiệm vụ quan trọng là đi khắp bốn phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa và làm cho người ta trở thành môn đệ của Chúa. Khi thi hành nhiệm vụ cao trọng ấy các môn đệ phải đặc biết quan tâm đến việc làm Phép Rửa cho những ai tin theo Chúa và dạy dỗ họ tuân giữ những điều Chúa đã dạy cho chính các môn đệ lúc tại thế.
Các môn đệ Đức Giê-su đã mau mắn và kiên cường trong việc thi hành nhiệm vụ được Thày giao. Lịch sử những năm đầu của Ki-tô giáo là một lịch sử hào hùng với những thành quả vĩ đại.
2. 2 đã hứa với các môn đệ là Người sẽ luôn hiện diện bên họ, mọi ngày cho đến tận thời gian, để giúp đỡ họ và cùng với họ thực hiện nhiệm vụ mà Chúa Cha đã giao cho Người và Người đã giao lại cho các môn đệ.
Các môn đệ Đức Giê-su đã tuyệt đối tin tưởng phó thác vào quyền năng của Thày và đã thực hiện những điều kỳ diệu trong các cộng đoàn. Sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận: “Mọi người đều kinh sợ vì các tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ” ( Cv 2, 43 ).
3. Đức Giê-su cũng dành cho chúng ta nhiệm vụ và lời hứa ấy:
Nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho những người chưa nhận biết và tin theo Chúa mà Chúa Giê-su đã giao cho các môn đệ xưa thì Người cũng dành cho chúng ta ngày nay. Cũng thế lời hứa mà Người đã nói với các môn đệ xưa thì ngày nay Người cũng nói y như thế với chúng ta. Nhiệm vụ và lời hứa xưa và nay vẫn chỉ là một.
Nhưng nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng đã trở nên cấp bách hơn bao gơ hết, đối với Giáo Hội toàn cầu nói chung và đối với Giáo Hội Việt Nam nói riêng. Vì tỷ lệ người Công Giáo trên tổng dân số thế giới cũng như Việt Nam có chiều hướng sút giảm, chứ không hề gia tăng: ở Việt Nam tỷ lệ ấy hiện nay là 6, 615%, ở Thái Lan là 0, 2%. Hơn nữa, những giá trị cốt lõi của Ki-tô giáo càng ngày càng bị đe dọa: nạn nghèo đói, đàn áp, bóc lột con người nhất là người nghèo càng ngày càng trở nên quyết liệt. Nạn chia rẽ, chiến tranh, hận thù càng ngày càng leo thang ở khắp nơi trên thế giới.
Để làm tròn nhiệm vụ được giao, chúng ta phải ra đi và lao động cật lực như chính Chúa đã ra đi và đã lao động không biết mệt mỏi. Thật vậy Chúa Giê-su đã từ Trời xuống thế làm người. Khi làm người, trong những năm hoạt động công khai, Chúa Giê-su “đã đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” ( Mt 4, 23 ). Thế mà chúng ta thường có khuynh hướng “trụ lại” và “đóng đô” chứ không thích ra đi. Chúng ta cũng có khuynh hướng làm việc “tàng tàng” và “được chăng hay chớ” chứ không “cật lực”.
Mặt khác đáng lẽ chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ được giao trong tư cách và tâm tình của người môn đệ là những người gắn bó mật thiết với con người và sự nghiệp của Thày thì chúng ta lại chiều theo xu hướng thích biến mình thành “công chức” của Chúa, thành “người làm thuê ăn công”. Chính vì thế mà công cuộc Phúc Âm hóa không đạt được kết quả mong muốn.
Hơn nữa, muốn làm tròn nhiệm vụ được giao, chúng ta phải có đủ sức mạnh. Sức mạnh ấy không phải là sức mạnh của bản thân chúng ta mà là sức mạnh của Đấng “đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” ( Mt 28, 18 ). Vì thế, thay vì ỷ lại vào tài năng và nỗ lực của mình, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Đấng đã hứa “luôn ở bên chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20 ) và thường xuyên chạy đến với Người trong đời sống nội tâm, cầu nguyện. Chúng ta còn phải biến biến lời hứa ấy thành hiện thực bằng cách để cho Chúa có điều kiện và không gian thi thố Quyền Năng vô biên của Người.
Lịch sử Giáo Hội thời sơ khai đã minh chứng hùng hồn chân lý ấy. Hiện nay ở nhiều nơi trên thế giới, người ta vẫn chứng kiến những biến đổi kỳ diệu do sức mạnh Thánh Linh thực hiện. Chỉ cần người tín hữu thật sự tin vào sức mạnh của Chúa Phục Sinh, Đấng đang cùng chúng ta hoạt động cho Nước Cha được rộng mở.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã truyền cho Hội Thánh rao giảng Tin Mừng và biến Phúc Am thành hành động. Chúng con cám ơn Chúa, vì sự tín nhiệm Chúa đặt nơi con người. Chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã tín nhiệm chúng con... khi Chúa giao cho chúng con nhiệm vụ cao cả và nặng nề ấy ! Xin Chúa thực hiện lời Chúa đã hứa và bộc lộ sức mạnh thần linh của Chúa trong mọi công việc tông đồ của chúng con, để chúng con chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu làm vinh danh Chúa Cha, Amen !
Gs. Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI ------------------------------
LênTrời ABC-27: HÃY TRỞ NÊN HIỆN THÂN CỦA ĐỨC GIÊ-SU Ở TRẦN GIAN
1. Để cứu con người, Thiên Chúa cần họ cộng tác với Ngài
Hôm lễ Giáng Sinh, chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Đức Giê-su giáng trần, bắt đầu cuộc: LênTrời ABC-27
Hôm lễ Giáng Sinh, chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Đức Giê-su giáng trần, bắt đầu cuộc đời làm người của Ngài. Hôm nay chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Ngài thăng thiên, kết thúc cuộc đời tại thế của Ngài. Ngài đến thế gian – vừa với tư cách một vị Thiên Chúa vô hạn và toàn năng, vừa với tư cách một con người đầy giới hạn và bất lực – để phục vụ con người, hầu trả lại cho con người thứ hạnh phúc vĩnh cửu đã bị nguyên tổ con người đã làm mất. Nhưng Ngài không thể làm chuyện này một mình được.
Khi dựng nên con người và cùng lúc ban hạnh phúc nguyên thủy cho con người ( lúc ấy con người chưa có ), Thiên Chúa không cần ý kiến hay sự cộng tác của con người. Nhưng khi con người đã hiện hữu, nhất là khi họ đã lạm dụng chính tự do Thiên Chúa ban để chống lại Ngài và làm mất đi hạnh phúc của mình, thì Ngài không thể tự mình chuộc lại hạnh phúc ấy cho con người mà không cần đến sự cộng tác tự nguyện của họ.
Tương tự như khi sinh ra ta, cha mẹ không cần đến ta, nhưng một khi đã có ta, thì có rất điều ích lợi cho ta các ngài không thể làm một mình mà không cần ta cộng tác vào. Chẳng hạn các ngài có thể đem đồ ăn đến tận miệng ta, giúp chúng ta đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng ta có ăn uống học hành hay không thì hoàn toàn do ta. Cha mẹ không thể ăn uống, học hành thay cho ta được. Cũng vậy, Thiên Chúa không thể cứu chuộc ta, lấy lại hạnh phúc đã mất cho ta mà không cần đến sự hợp tác của ta. Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã làm tất cả những gì Ngài có thể làm được qua Đức Giê-su. Tuy nhiên, vẫn còn lại một phần rất nhỏ mà chính con người phải làm, không ai làm thay được.
Nhưng làm sao con người ý thức được điều đó để cộng tác với Ngài hầu được cứu rỗi và hạnh phúc ? Đức Giê-su có làm được điều ấy không ? Làm sao Ngài làm được điều ấy cho từng người trên thế giới từ thế kỷ này sang thế kỷ khác ?
2. Để loan báo ơn cứu độ, phục vụ con người, Đức Giê-su mời gọi ta cộng tác tiếp tay với Ngài
Đức Giê-su đến thế gian với mục đích ở với con người, chia sẻ thân phận đầy đau khổ của họ, xoa dịu những nỗi đau, săn sóc và chữa lành mọi căn bệnh cho họ, nhất là đem lại nguồn ủi an, hạnh phúc cho họ. Ngài muốn phục vụ toàn thể con người, đem ơn cứu rỗi đến cho họ không trừ một ai. Nhưng thế giới của con người thì bao la trải dài suốt mấy chục thế kỷ, còn Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm thật ngắn ngủi, tại đất nước Do Thái quá chật hẹp. Làm sao Ngài có thể đến với từng người, phục vụ từng người không trừ ai như Ngài mong muốn được ? Ngài có phương cách của Ngài, đó là mời gọi những người theo Ngài, những môn đệ của Ngài trong mọi thế kỷ, mọi thế hệ loài người cộng tác tiếp tay cho Ngài, trong đó có bạn, có tôi, cùng bao nhiêu Ki-tô hữu khác. Ngài lại mời gọi và đòi hỏi sự cộng tác.
Vì thế, trước khi từ biệt các môn đệ để về với Chúa Cha, Đức Giê-su đã trăn trối cho các ông di chúc này: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Đó không phải chỉ là lời mời gọi, mà là một lệnh truyền không chỉ cho 12 môn đệ đầu tiên của Ngài, mà cho tất cả những môn đệ thuộc tất cả những thế hệ sau, nghĩa là cho tất cả những ai theo Ngài. Vì thế, việc loan báo Tin Mừng hay phúc âm hóa môi trường mình sống, làm cho mọi người theo Đức Giê-su, thành môn đệ của Ngài, rửa tội cho họ, nhất là sống tinh thần yêu thương mà Ngài đã truyền dạy là bổn phận của mọi Ki-tô hữu.
3. Đức Giê-su mong được tiếp tục yêu thương và phục vụ con người qua bản thân và đôi tay của ta
Sứ mạng của Đức Giê-su thật vĩ đại, để hoàn tất sứ mạng ấy, Ngài muốn hiện diện một cách cụ thể bằng xương bằng thịt tại trần gian để sống với mọi người, chia sẻ đau khổ với mọi người thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi quốc gia. Ngài muốn trực tiếp nói với mỗi người, phục vụ, săn sóc, an ủi, xoa dịu và chữa lành những nỗi đau, những căn bệnh của mỗi người, nhất là đem lại nguồn ủi an và hạnh phúc cho họ. Nhưng trong thực tế, Ngài chỉ sống tại trần gian một thời gian hết sức ngắn ngủi.
Vì thế, để tiếp tục công việc ấy, Ngài muốn hiện diện ở trần gian một cách khác, một cách gián tiếp, qua sự hiện diện của ta. Nghĩa là Ngài muốn yêu thương mọi người bằng trái tim ta, suy nghĩ tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề của con người bằng khối óc của ta, phục vụ mọi người bằng đôi tay của ta, đến với mọi người bằng đôi chân của ta, nói với mọi người, báo tin vui cứu độ cho mọi người bằng miệng lưỡi của ta. Ngài mong ta trở nên một dụng cụ của Ngài, tùy ý Ngài sử dụng hầu thực hiện chương trình của Ngài.
Nếu Ngài đã là hiện thân của Thiên Chúa Cha giữa con người, thì Ngài cũng muốn ta là hiện thân của Ngài giữa những người sống chung quanh ta, trong gia đình ta, giữa xã hội, trong lòng thế giới. Nếu cách đây 2000 năm, Ngài đã là Em-ma-nu-en, tức Thiên Chúa ở giữa loài người qua con người Đức Giê-su, thì hiện nay, Ngài cũng muốn tiếp tục làm như thế, nhưng lần này qua con người mỗi chúng ta.
4. Hãy trở nên hiện thân của Đức Giê-su ở trần gian, giữa những người sống chung quanh ta
Chúng ta có thể trở nên hiện thân của Đức Giê-su ở trần gian, miễn là chúng ta có tình yêu đối với Ngài, với mọi người, và muốn trở nên hiện thân của Ngài giữa thế giới. Để làm được điều ấy, chúng ta chỉ cần ý thức rằng mình chính là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa ( St 1, 26 . 27; 9, 6; Ep 4, 24 ), là con cái Thiên Chúa ( Lc 20, 36; Rm 8, 14.16; Gl 3, 26 ), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài ( 2 Pr 1, 4 ).
Vì thế, ngay từ bản chất, một cách nào đó, chúng ta đã là hiện thân của Thiên Chúa rồi. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với bản chất cao cả đó. Chúng ta còn sống một cách hèn hạ, nhát đảm, bần tiện, ích kỷ, chỉ vì chúng ta chưa ý thức được phẩm chất thần linh cao quí của mình. Chúng ta giống như một hoàng tử con ruột của một ông vua, nhưng vì sống trong môi trường dân giã lâu năm nên đã quên đi nguồn gốc cao quí của mình, nên sẵn sàng đem thân làm tôi tớ người khác, làm những điều không xứng hợp với phẩm giá mình.
Đức Giê-su muốn mỗi người chúng ta ý thức được phẩm chất cao cả của mình, đồng thời mời gọi ta trở nên hiện thân của Thiên Chúa, của Ngài nơi những người chung quanh chúng ta, để qua chúng ta, Ngài yêu thương họ, phục vụ họ. Chúng ta sẽ trở nên hiện thân của Thiên Chúa khi những người chung quanh cảm nghiệm được tình yêu thương của ta đối với họ, qua việc quan tâm, chăm sóc, hy sinh vì hạnh phúc của họ.
Lời mời gọi ấy, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nói với chúng ta dưới một hình thức khác, một lệnh truyền, một sứ mạng được trao phó: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em". Làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa, cũng là giúp họ ý thức được họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Ngài, và là anh em của nhau. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Đức Giê-su truyền dạy chính là tìm cách làm cho họ yêu thương nhau, phục vụ nhau.
Vả lại yêu thương nhau chính là nét đặc trưng nhất, là tiêu chuẩn bảo đảm nhất chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giê-su. Chính khi chúng ta sống như thế, sống như những hiện thân của Đức Giê-su ở giữa anh chị em ta, thì ta đã làm cho câu nói sau đây của Đức Giê-su trở thành hiện thực và cụ thể: "Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Chúng ta hãy trở nên Giê-su hay Em-ma-nu-en ở giữa anh chị em mình !
Tôi thường nghe Thiên Chúa nói qua lương tâm tôi:
"Cách đây 2000 năm, Cha đã rao truyền chân lý, bày tỏ tình yêu và phục vụ săn sóc cho một số rất ít người Do Thái thời ấy qua con người Giê-su, Con của Cha. Cha vẫn muốn tiếp tục làm công việc yêu thương săn sóc ấy cho tất cả mọi người không trừ ai ở trần gian này. Nhưng lần này không phải qua con người Giê-su nữa, mà qua bản thân con và nhiều người khác như con. Con có đồng ý để Cha yêu thương họ bằng trái tim con, và phục vụ họ bằng đôi tay của con không ?"
Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT ------------------------------
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Trước: LênTrời ABC-28
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Trước hết, sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: chỉ nói Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi Chúa sống lại bao lâu. Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây dầu, Vậy Chúa Giêsu lên trời chính xác là khi nào ?
Có thể trả lời tóm tắt và rõ ràng như sau: Chúa lên trời ngay ngày phục sinh, tức là sau khi sống lại, Chúa lên trời ngay. Và sau đó Chúa đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời gian mà sách Công vụ Tông đồ xác định là 40 ngày. Sau cùng, Ngài cho các môn đệ biết Ngài chấm dứt việc hiện ra bằng sự công khai về trời. Như vậy, mầu nhiệm lên trời mời gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liên hệ nhưng riêng biệt nhau: một bên là Đức Kitô được vinh quang lên trời ngay lúc Ngài sống lại. Điều này giác quan các tông đồ không thể cảm nghiệm được mà chỉ có nhận thức bằng đức tin. Và một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu.
Chúa Giêsu lên trời là điều chắc chắn. Nhưng ý nghĩa thế nào ? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, như chu trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Chúa Giêsu, sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng một nền móng đạo đức đặt căn bản trên tình thương, công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất thí điểm và khởi điểm… Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời. Nói khác đi, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.
Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa để rồi cũng được về trời với Chúa ? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai họ ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mệnh đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt. Hãy sống tốt với gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với những người chung quanh, bất cứ lương hay giáo. Sống tốt cũng có nghĩa là sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.
Người có lòng bác ái, yêu thương giống như một bông hoa đẹp. Bông hoa không nói gì cả, bông hoa không tuyên xưng gì cả, nhưng vì nó là một bông hoa đẹp, tuy không nói, nhưng người ta cũng thấy được cái đẹp của nó, cái hương thơm của nó. Mỗi người Công giáo, mỗi giáo xứ, hãy là những đóa hoa, những bó hoa tươi, đẹp, thơm, do tinh thần bác ái cởi mở chan hòa. Và nếu được như vậy, đạo chúng ta sẽ mở ra, và đức tin ấy mới là đức tin truyền giáo thực sự.
Xin hãy nhớ: Chúa Giêsu về trời sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian. Chúng ta cũng vậy, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta cũng phải nỗ lực hoàn tất nhiệm vụ Chúa đã trao phó và tích cực đóng góp vào sự mưu ích cho đồng loại, cho gia đình, xóm đạo, quê hương, Giáo Hội theo tinh thần phục vụ và bác ái của Tin Mừng. ------------------------------
Trước khi xa rời các tông đồ, Đức Giêsu đã ủy thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn: LênTrời ABC-29
Trước khi xa rời các tông đồ, Đức Giêsu đã ủy thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Người còn hứa gửi Chúa Thánh Thần đến với họ, để giúp đỡ họ thực hiện được sứ vụ đó.
Ngày nay, công việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới tùy thuộc vào chúng ta. Đây là một đặc ân vĩ đại, nhưng cũng là một công việc dễ làm nản lòng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Cách thế tốt nhất để rao giảng Tin Mừng chính là bằng cách sống đời sống Kitô hữu. Một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đều có thể tự hỏi là: Nếu trở thành người Kitô hữu là một tội ác, và tôi bị thử thách, thì liệu có thể tìm ra đủ chứng cứ trong cuộc sống của tôi, để làm cho tôi nhận thấy rõ sự sai lầm không ?
Christopher là một Kitô hữu ngoan đạo. Anh không bao giờ bỏ lễ ngày Chúa nhật. Anh sống cùng với gia đình trong một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, tại một khu vực hiện đại của thành phố. Với sức khỏe tốt, một công việc an toàn, có thu nhập cao, anh cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.
Tuy nhiên, có một điều làm cho anh bận tâm, liên quan đến người hàng xóm bên cạnh nhà anh. Đó là một người tự nhận mình là vô thần, và không bao giờ đến nhà thờ. Với tư cách là Kitô hữu, Christopher cảm thấy rằng anh có trách nhiệm trong việc cố gắng cải tạo người hàng xóm đó. Nhưng anh phải làm việc này như thế nào đây ? Trong nhiều dịp nói chuyện với người đó, anh đã đưa đề tài tôn giáo ra một cách hết sức tích cực có thể được. Than ôi, anh chẳng đi đến đâu cả.
Thế rồi một ngày kia, anh nảy ra một sáng kiến. Nếu anh chỉ làm sao cho người hàng xóm đó đọc được Tin Mừng, thì chắc chắn là anh thành công rồi. Ai có thể không được Tin Mừng lay chuyển ? Vấn đề duy nhất là làm thế nào để gửi cho anh ta bản sao của sách Tin Mừng. Anh có thể gõ cửa nhà anh ta, và đưa tận tay cuốn sách đó. Nhưng chắc hẳn điều đó sẽ gây khó chịu cho anh ta. Anh phải tìm một cách nào tế nhị hơn. Vậy anh nên làm gì đây ? Anh gửi cho anh ta một cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà không để tên người gửi.
Sau khi làm công việc này, anh chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Nhiều ngày trôi qua, không có gì xảy ra cả. Không hề có một dấu hiệu nhỏ nhoi nào chứng tỏ rằng người hàng xóm đó đã đọc được ánh sáng Tin Mừng. Hai tuần sau, vợ của Christopher có dịp sang thăm nhà bên cạnh. Khi trở về, chị nói với chồng “Anh có biết gì về cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà anh đã gửi cho anh ta không ?”
“Sao thế ?”
“Cuốn sách đó nằm trong thùng rác rồi !”.
Christopher phẫn nộ. Quẳng sách Tin Mừng vào thùng rác là một việc không phải chút nào. Anh đi sang nhà bên cạnh, và khi đi ngang qua thùng rác, anh đã nhặt cuốn sách đó lên.
Anh nói với người hàng xóm “Tôi hy vọng rằng tôi không xâm phạm gì đến anh. Nhưng tôi nhìn thấy cuốn sách này trong thùng rác của anh. Anh biết không, nếu anh chỉ đọc cuốn sách này thôi, thì anh có thể tìm thấy Thiên Chúa”.
Người kia trả lời một cách đáng ngạc nhiên: “Nhưng tôi đã đọc cuốn sách đó rồi. Mỗi ngày tôi đều đọc đấy chứ”.
Christopher nói: “Tôi không hiểu gì cả”.
“Anh là một người tín hữu phải không ?”
“Đúng vậy. Mà tại sao anh lại hỏi tôi như thế ?”
“À, trong suốt 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh”.
Câu chuyện kết thúc ở đây.
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh Thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh Thánh qua cuộc đời của tôi”. ------------------------------
Lần kia, một nhà lãnh đạo tinh thần gọi sáu môn đệ của ông lại, và nói “Anh em hãy ra đi và: LênTrời ABC-30
Lần kia, một nhà lãnh đạo tinh thần gọi sáu môn đệ của ông lại, và nói “Anh em hãy ra đi và kêu gọi các môn đệ”. Cả sáu người đó liền ra đi ngay tức khắc. Thời gian trôi qua, từng người một đều trở về.
Người thứ nhất trở về cùng với 500 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh xoay xở cách nào mà có được quá nhiều môn đệ vậy ?”
Người môn đệ kia thưa “Con đã đi đến giữa những khu vực có nhiều người nghèo khổ hơn. Ở đó, con nhận thấy có những người đau khổ, nghèo nàn và nhiều thèm muốn. Con hứa với họ rằng chúng ta sẽ chăm sóc tất cả các nhu cầu của họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ hai trở về với 400 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy ?”
Người đó trả lời “Con nói với họ về nước trời và phần thưởng lớn lao đang chờ đợi ở đó, dành cho những ai đi theo đường lối của chúng ta”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ ba trở về với 300 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy ?”
Người đó trả lời “Con không hề thuyết phục gì cả. Con chỉ nói với họ rằng họ sẽ bị sa hỏa ngục, trừ phi họ đi theo đường lối của chúng ta. Nhưng điều này vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục được họ, cho đến khi con làm một phép lạ. Con nguyền rủa một con chó điên, và nó chết lăn ra. Phép lạ này đã chinh phục họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ tư trở về với 200 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy ?”
Người đó trả lời “Con quyết định đi đến giữa những kẻ vô giáo dục và có cuộc sống giản dị. Con đã thuyết phục họ bằng những lý lẽ. Con làm cho họ bị mờ mắt bằng kiến thức của mình”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ năm trở về với 100 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy ?”
Người đó trả lời “Con đến với giới trẻ. Con nói với họ về đường lối của chúng ta. Thế rồi con điều khiển họ một cách đơn giản, và kết quả là đây. Họ đang đứng chung quanh, chờ đợi người lãnh đạo. Nếu con không đến với họ, thì có một số vị cứu tinh khác sẽ đến chinh phục họ và khai thác họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Cuối cùng, người thứ sáu trở về, chỉ với 12 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Điều gì đã giữ chân anh lại lâu như vậy ?” Người đó đáp “Con không có khả năng gieo hạt giống ngay tức khắc được. Không thể nào gieo giống vào giữa mùa đông. Phải đợi cho đến khi tuyết tan và mặt đất trở nên mềm mại. Vì thế, con cứ chờ đợi. Trong khi chờ đợi, con kết bạn với họ, con cố gắng đưa ra cho họ một ví dụ về đường lối của chúng ta, bằng lối sống mà con đã sống. “Trong khi đang chia sẻ cuộc sống của họ, con phát hiện ra rằng tự do rất quan trọng. Khi tước đoạt tự do khỏi họ, sẽ làm xói mòn nhân phẩm của họ, và làm giảm rất nhiều giá trị nơi quyết định của họ, trong việc họ đồng ý đi theo chúng ta. Con cũng học hỏi được một số điều khác về họ. Con được biết rằng họ là những người rất quảng đại và không ngại hy sinh. Con nói với họ về cái giá của việc trở thành người môn đệ, nhưng con nhấn mạnh vào điều tốt đẹp mà với tư cách là môn đệ, họ có thể làm cho người khác và cho Thiên Chúa. Dường như điều này gây ấn tượng nơi họ. Tuy nhiên, đến lúc phải quyết định, thì chỉ có 12 người đồng ý đến với con mà thôi”.
Nhà lãnh đạo đã khen người môn đệ cuối cùng.
Năm người đầu tiên khơi gợi sự yếu đuối và sợ hãi của con người. Thật dễ dàng trong việc khai thác nỗi sợ hãi của con người và lôi kéo họ. Nhưng điều này can thiệp vào sự tự do của họ, và vì thế, hủy hoại sự bằng lòng theo Chúa nơi họ. Người thứ sáu khơi gợi sức mạnh của họ. Anh kết bạn với họ, và cố gắng chinh phục họ bằng ví dụ.
Đó là điều mà đạo Công giáo thực hiện. Đây là một phương pháp chậm chạp hơn và khó khăn hơn, nhưng cuối cùng những người nào cải tạo sẽ được bén rễ sâu xa hơn. và sẽ được ủy thác nhiều hơn trong việc đi theo đường lối mới.
Người ta trình bày Đức Giêsu từ đỉnh núi Ô-Liu mà lên trời. Ngọn núi là một nơi chốn của tầm: LênTrời ABC-31
Người ta trình bày Đức Giêsu từ đỉnh núi Ô-Liu mà lên trời. Ngọn núi là một nơi chốn của tầm nhìn. Trên đỉnh núi, bằng cách này hay bằng cách khác, chúng ta cảm thấy gần gũi hơn với Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Người ta kể một câu chuyện về người đàn ông đã sống trọn cuộc sống của mình trong khu rừng thưa. Khoảng rừng thưa đó chỉ rộng độ 100 mét Anh, và được bao bọc bằng nhiều cây cối. Thế giới của người đàn ông đó cực kỳ khép kín. Ông có rất ít khái niệm về không gian hoặc khoảng cách. Trong một thế giới như vậy, ngay cả những đối tượng tương đối nhỏ bé, vẫn có vẻ rộng lớn hơn cả cuộc sống, bởi vì sự gần gũi của con người đối với chúng.Ngày kia, có một người khai thác rừng đưa người đàn ông đó ra khỏi khu rừng, và dẫn ông ta đi lên đỉnh núi. Người đó có thể quan sát hết tất cả khoảng không gian rộng mở tồn tại bên ngoài khu rừng, sự mênh mông của bầu trời, và sự rộng lớn của đường chân trời. Ông ta kinh ngạc khi phát hiện ra có một thế giới tồn tại ở một nơi không hề có cây cối và có rất ít thực vật như vậy. Ông ta giống như một đứa trẻ lúc đang được phấn khích vậy. Ông quá đỗi vui mừng, đến nỗi chỉ mong muốn được ở lại đó mà thôi.
Nhưng tất nhiên là ông ta phải trở về với cái thế giới nhỏ bé, khép kín, chật hẹp của mình. Tuy nhiên, không bao giờ ông quên được cuộc thăm viếng của mình tại đỉnh núi. Điều này để lại cho ông một hiệu quả tuyệt vời, giúp cho ông có được một tầm nhìn rộng rãi hơn về cuộc sống, đặc biệt khi các sự việc trở nên quá nhiều đối với ông, và thế giới đang khép lại trên ông ta.
Khi đến lúc sắp rời khỏi thế gian này, thì Đức Giêsu dẫn các tông đồ lên đỉnh núi Ô-Liu. Người đang trở lại với Cha của Người. Người đang đi đến vinh quang. Trong khi lên trời, Người ngước mắt lên, hướng về nơi mà Người đang đi tới.
Nhưng Người cũng hướng cặp mắt của Người ra bên ngoài. Người chỉ cho các tông đồ rằng có một thế giới vĩ đại đang chờ đợi được lắng nghe Tin Mừng. Người giao phó cho họ công việc đem Tin Mừng đến với thế giới rộng lớn đó, và hứa gửi Chúa Thánh Thần đến hỗ trợ cho họ trong công việc này.
Các tông đồ quá thích thú phong cảnh trên núi, đến nỗi họ chỉ muốn được ở lại đó. Nhưng có một giọng nói kêu gọi họ trở về với thực tại “Hỡi người Galilê, tại sao các ngươi còn đứng đây nhìn lên trời ?”. Mặc dù phải trở lại với thế giới thật, thì cuộc sống của họ sẽ không bao giờ như cũ nữa.
Ngày lễ này nói nhiều về Đức Giêsu. Sự lên trời của Người chứng tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của cuộc hành trình dương thế của chúng ta ở đâu. Đây là một mục đích mà một số phận, thậm chí lại còn thách đố cả óc tưởng tượng của chúng ta nữa. Điều này đem đến cho chúng ta một tầm nhìn mới mẻ và rộng rãi hơn, thúc đẩy những chân trời của chúng ta vượt ra ngoài các biên giới của thế giới này, mang lại một chiều kích vĩnh cửu cho cuộc sống của chúng ta.
Đức Giêsu trở lại với nguồn gốc, Alpha và Omêga. Đây là ý nghĩa Sự Lên Trời của Người. Đây không phải là một cuộc hành trình đi vào không gian, mà là một cuộc hành trình trở về nhà Cha. Sự lên trời của Người không nói lên việc Người rời khỏi mặt đất, nhưng lại chứng tỏ sự hiện diện liên lỉ của Người ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Trong suốt sứ vụ tại thế của Đức Giêsu, trong một thời điểm, Người chỉ có thể ở tại một nơi mà thôi. Nhưng bây giờ, do đã được kết hợp với Thiên Chúa, Người có thể hiện diện tại bất cứ nơi đâu có Thiên Chúa hiện diện, nghĩa là ở tất cả mọi nơi.
Chúng ta sống trong hy vọng rằng những lời nói của Đức Giêsu sẽ trở thành hiện thực đối với chúng ta: “Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ được ở đó”. Trong khi chờ đợi, chúng ta có một công việc phải thực hiện: rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Người trong thế giới này. ------------------------------
Sách Tông đồ Công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông: LênTrời ABC-32
Sách Tông đồ Công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
. Cũng như một lần kia, ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
. Còn thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe…”
. Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ “Thưa ma sơ, ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ ?” Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ “Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa”.
. Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho ba em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. Ba em đó cũng đơn sơ hỏi Đức Mẹ “Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy ?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói “Từ trời xuống”. Ba em liền xin “Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi”. Đức Mẹ mỉm cười đáp “Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Lucia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó hai em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết hai em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào !
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế:
. Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ “Hỡi những người xứ Galilê sao còn mải mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụrao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó…”
. Còn ba ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
. Thánh nữ Bernadette, cũng như nữ tu Luxia sau khi được nhìn thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao ? Nghĩa là: Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc thiên đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ: Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kị nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xóa đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như: chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hòa giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những lời Chúa dạy.
“Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mải nhìn trời…” Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời “Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mải mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mải nhìn trời…” Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế: Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa. ------------------------------
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông: LênTrời ABC-33
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu ?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin Mừng.
- Tin Mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
- Tin Mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
- Tin Mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin Mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con”.
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó. ------------------------------
"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời."
Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải xin, vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ: một người: LênTrời ABC-34
Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải xin, vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ: một người, một vật hay một việc nào đó. Ái mộ quá có thể dẫn đến tôn thờ và làm nô lệ.
Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong hành trình cuộc đời. Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại, không cho ta bước nhanh tới đích. Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống, không cho ta ngước lên cao.
Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại. Có vẻ chỉ trái đất là có thật, gần gũi. Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê say, quên mình chỉ là người tạm trú trên mặt đất.
Chúa về trời, về với thế giới của Cha, điều đó nhắc ta nhớ đời là một cuộc hành trình mà đích nằm ở phía bên kia.
Trời là đích xa nhưng chi phối những chọn lựa gần. Cần chọn hướng đi, chọn phương tiện sao cho đạt đích.
Không có trời thì chẳng biết đi đâu!
Con người cần có một trung tâm nằm ngoài mình, thu hút mình, nâng mình lên, kéo mình ra khỏi cái tầm thường, thực dụng.
Trời là trung tâm của đất. Đất cho con người sự sống. Trời cho con người lẽ sống.
Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ rơi vào tuyệt vọng, vì đất chẳng thể thoả mãn con người. Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời riêng. Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng như gặp lại chốn cũ người xưa.
Thế giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn vì người ta đứng ở trên trái đất mà giải quyết.
Cần nhìn trái đất từ trời, để thấy những giải pháp tận căn, bao quát, hiệu quả.
"Sao các ông cứ đứng nhìn trời?" (Cv 1,11)
Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước nhìn trời, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ, vì trái đất còn bề bộn bao việc phải làm. Sống tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao, điều đó thật là một thách đố không nhỏ, nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.
Thiên đàng không phải là bầu trời trên đầu ta. Nhưng bầu trời cao vút, bao la, thăm thẳm, là một hình ảnh gợi mở về thiên đàng.
Bầu trời càng lúc càng bị che chắn bởi cao ốc. Hãy tìm những giây phút để ngước mắt lên... Ngắm bầu trời có thể giúp ta biết sống trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi lần hạt Năm Sự Mừng, chúng ta xin được ơn "ái mộ những sự trên trời". Theo ý bạn, những sự trên trời là gì? Yêu những sự trên trời có khó không? Người Kitô hữu có bị giằng co giữa đất và trời không?
Lễ Chúa Thăng Thiên cũng là ngày Quốc Tế Truyền Thông. Ai cũng thấy tác hại của phim ảnh, tivi và những phương tiện truyền thông khác. Theo bạn, ta có thể dùng những phương tiện ấy để rao giảng Đức Kitô không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời, không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen. ------------------------------
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trăn trối lại những gì cho chúng ta, là những môn đệ của Ngài: LênTrời ABC-35
1. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trăn trối lại những gì cho chúng ta, là những môn đệ của Ngài? Chúng ta có quan tâm thực hiện những điều ấy không? thực hiện thế nào?
2. Những dấu lạ - mà Đức Giêsu hứa sẽ đi theo những kẻ có lòng tin - có ứng nghiệm với chúng ta không? Nếu không thì tại vì Ngài hứa «cuội» hay vì chúng ta chưa có đức tin đích thực? Đức tin đích thực là gì? Ta đã có chưa?
3. Là người đang rao giảng Tin Mừng, ta đã có đức tin thật sự chưa, hay mới chỉ là thứ đức tin được tuyên xưng chứ chưa được sống? Có những «dấu lạ» đi kèm theo lời ta rao giảng để những ai nghe ta dễ tin tưởng không?
Suy tư gợi ý:
1. Lời trăn trối cuối cùng
Trước khi từ giã các môn đệ để về trời và để hiện hữu một cách khác bên cạnh các ông, Đức Giêsu đã trăn trối nhiều điều. Những lời trăn trối quan trọng nhất là những lời Ngài nói ra trong bữa tiệc ly trước khi ra đi chịu tử nạn và ngay trước khi về trời. - Những trăn trối trong bữa tiệc ly nói lên tinh thần mà môn đệ của Ngài phải có: chủ yếu là yêu thương nhau (Ga 13), tin và hợp tác với Thánh Thần (Ga 14; 16), liên kết chặt chẽ với Ngài (Ga 15), hiệp nhất với nhau (Ga 17), mong đợi Ngài trở lại (Ga 16).
- Còn lời trăn trối ngay trước khi Ngài về trời nói lên việc mà các môn đệ Ngài phải làm là «đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo» để tiếp tục sự nghiệp mà Ngài đã khởi sự. Đó cũng chính là công việc phúc âm hóa và tái phúc âm hóa, để mọi người không chỉ biết Tin Mừng mà còn thật sự sống tinh thần Tin Mừng nữa.
Về lời trăn trối sau, rất nhiều Kitô hữu chỉ hiểu một cách nông cạn, là chỉ nghĩ tới việc rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa, biết Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, và dừng lại tại đấy! Nhưng thử hỏi nếu chỉ biết thôi thì ích lợi gì? Chẳng hạn biết rõ sự cần thiết và ích lợi của thức ăn, hay biết rõ mình cần phải ăn gì để mạnh khỏe mà lại không chịu ăn, thì sự biết rõ ấy có ích lợi gì? Nếu biết mà không sống điều mình biết, không đem nó ra áp dụng thì chẳng những vô ích mà còn phải chịu trách nhiệm về cái biết ấy nữa. Vì kẻ nhận 1 nén bạc thì chỉ phải làm lợi thành 1 nén khác thôi, nhưng kẻ nhận 5 nén thì có trách nhiệm làm lợi thành những 5 nén khác kia! (x. Mt 25,14-30; Lc 19,12-27).
Vì vậy, biết Tin Mừng mà không chịu sống Tin Mừng là tự làm cho mình bị kết án nặng hơn. Cũng vậy, rao giảng cho người ta biết Tin Mừng mà không giúp người ta sống Tin Mừng thì chỉ làm cho người ta bị kết án nặng hơn chứ chẳng đem lại lợi ích gì cho họ. «Đức tin chết» hay «đức tin không có việc làm» (Gc 2,17.26) đâu thể đem lại ơn cứu độ? Cũng như có đồ mà không đem ra dùng thì đồ ấy có ích lợi gì? hoặc cho người ta đồ mà không chỉ cho người ta cách sử dụng thì coi chừng kẻo làm hại người ta? Việc rao giảng Tin Mừng cần phải đi xa hơn một chút là giúp người ta sống Tin Mừng, như thế sẽ làm lợi cho họ vô cùng. Như vậy, điều quan trọng là chính chúng ta phải sống tinh thần Tin Mừng và làm cho mọi người cũng sống tinh thần Tin Mừng. Biết và sống Tin Mừng, hoặc làm cho người ta biết và sống Tin Mừng, hai thứ ấy phải đi đôi với nhau mới không có hại mà sinh ích lợi vô cùng cho mình và cho người. Nên đã biết Tin Mừng hoặc giúp ai về mặt Tin Mừng thì hãy biết hoặc giúp «tới nơi tới chốn», với tinh thần trách nhiệm. Đừng «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», tức giúp nửa vời, rất tai hại!
2. Những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin
Theo lời của Đức Giêsu thì những kẻ có lòng tin đích thực - tức tin và sống điều mình tin - sẽ có được những dấu lạ theo mình: «Họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ». Đó là những điều mà tôi nghĩ rằng thời nào cũng đều ứng nghiệm, không chỉ là thời các tông đồ. Và những điều này trước tiên được ứng nghiệm ngay nơi bản thân những người tin rồi sau đó mới ứng nghiệm ra bên ngoài, tức với người khác hay với ngoại cảnh. Tuy nhiên, lời Ngài nói cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen: tôi không tin rằng bất kỳ người mạnh tin nào cũng đều có thể uống thuốc độc mà không chết, hay bị rắn cắn mà không sao! Vì thế, những dấu lạ nói trên cần được hiểu như sau:
- «trừ được quỉ»: quỉ tượng trưng cho thế lực của sự ác. Người thật sự tin vào Thiên Chúa - là nguồn sức mạnh của mình - có thể thắng được những thế lực của sự ác hay của tội lỗi ngay trong bản thân mình. Cụ thể là thắng được những cám dỗ, những tư tưởng xấu, những khuynh hướng xấu, v.v… Nếu đức tin của họ mạnh hơn nữa, họ có thể giúp những người yếu tin cũng thắng được thế lực ác giống như họ.
- «nói được những tiếng mới lạ»: người có đức tin đích thực và sống nhuần nhuyễn đức tin ấy sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và Đức Giêsu, tức chứng ngộ được chân lý nơi bản thân mình. Nhờ đó họ có thể tự diễn đạt đức tin của mình theo đủ mọi phương thức khác nhau, chứ không dùng những kiểu nói sáo mòn, trống rỗng, thiếu chất sống. Họ luôn luôn dùng những cách diễn tả mới lạ, phù hợp với thời đại, với trình độ của người nghe, giúp người nghe cũng cảm nghiệm được thực tế đức tin như họ. Họ như một y sĩ đã nắm thật vững cốt yếu của y lý nên biết tùy bệnh mà tự mình cho thuốc thật hữu hiệu, phù hợp với từng căn bệnh. Họ không sao y những bài thuốc có sẵn của người khác để áp dụng chữa bệnh một cách máy móc giống như những y sĩ chưa nắm vững y lý. Hay như một thầy giáo đã tiêu hóa thật kỹ môn mình dạy nên chỉ cần nói tất cả những gì đang có sẵn trong bụng không phải lệ thuộc một bài bản nào cả. Họ có thể nói một cách sáng tạo theo đủ kiểu đủ cách mới lạ để học sinh dễ hiểu mà vẫn luôn luôn chính xác, chứ không nô lệ vào những giáo trình mẫu do người khác soạn sẵn.
- «cầm được rắn trong tay»: người có đức tin đích thực ắt nhiên có tâm hồn an bình và đầy tràn tình yêu. Họ coi mọi người - dù xấu ác hay ghét họ, muốn làm hại họ - như anh em ruột thịt và sẵn sàng hy sinh cho những người ấy. Vì thế, họ có thể tiếp cận và sống chung cả với những người xấu ác mà không hề bị hại, vì những người nguy hiểm này vẫn luôn cảm nghiệm được tình thương của họ dành cho mình: không ai lại muốn hại người đang yêu thương mình.
- «dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao»: tất cả những nghịch cảnh, những đau khổ trong cuộc đời không thể làm mất được sự bình an và hạnh phúc của những người có đức tin thật sự. Với đức tin, họ biết rằng tất cả những đau khổ hay nghịch cảnh Chúa gửi tới đều là những hồng ân do tình thương của Ngài. Họ tin rằng: « Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28) và «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (8,18). Vì thế, họ rất vui khi đau khổ hay nghịch cảnh xảy tới, nên đau khổ hay nghịch cảnh cỡ nào cũng không hề làm hại được họ.
- «nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ»: Ngoài ra người có đức tin đích thực còn có sức cảm hóa và giúp những người xấu ác - là người bị bệnh về tâm linh - trở về đường ngay nẻo chính. Họ có khả năng nâng đỡ và thêm sức mạnh cho những người yếu đuối tinh thần. Ai gần họ cũng cảm thấy mình bình an hạnh phúc hơn, tin vững mạnh vào Thiên Chúa, vào chính bản thân và tương lai mình hơn.
3. «Có Chúa cùng hoạt động» với người rao giảng Tin Mừng
Bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu thật tuyệt vời, làm an lòng tất cả những ai đang rao truyền Tin Mừng: «Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng». Điều quan trọng nhất để việc loan báo Tin Mừng trở nên hữu hiệu - nghĩa là không chỉ giúp người ta biết Tin Mừng, mà còn làm cho họ sống Tin Mừng nữa - đó là «có Chúa cùng hoạt động với họ». Nhưng làm sao để có Chúa ở cùng? - Họ chỉ có Chúa ở cùng khi họ thường xuyên ý thức sự hiện diện của Ngài, và luôn gắn bó với Ngài bằng tình yêu chân thành có khả năng thúc đẩy họ hy sinh, dấn thân thật sự. Nhờ đó, họ có «những dấu lạ kèm theo» xác nhận những gì họ rao giảng là chân lý. Dấu lạ quan trọng và căn bản nhất - có khả năng thuyết phục những người nghe họ - chính là họ đã thật sự sống được những điều họ rao giảng. Nhờ sống điều mình nói mà lời họ nói trở nên sống động, mạnh mẽ, đầy sức hấp dẫn, khiến người nghe luôn «tâm phục khẩu phục», đồng thời cảm nghiệm được sự hiện diện cụ thể của Thiên Chúa ở nơi họ. Ước gì mọi người loan báo Tin Mừng đều luôn «có Chúa cùng hoạt động» như vậy!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách thực tế và sống động. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình hết sức mạnh mẽ trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu! Thế mà con lại rao giảng thật hùng hồn về đức tin ấy khiến người nghe con cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ, những lời giả dối, không thể tin nổi. Xin Cha giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. ------------------------------
Chúa về trời hay lên trời là ngôn ngữ dễ gây ngộ nhận cho nhiều người. Quả thực, khi nói Chúa: LênTrời ABC-36
Chúa về trời hay lên trời là ngôn ngữ dễ gây ngộ nhận cho nhiều người. Quả thực, khi nói Chúa lên trời, có nghĩa là chúng ta hiểu Chúa vắng mặt ở trần gian, không còn hiện diện, không còn ở gian trần này nữa. Phụng vụ lễ Chúa nhật Thăng Thiên hôm nay, một mặt cho ta thấy Chúa về trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, mặt khác lại cho nhân loại thấy Ngài có mặt ở trần gian cách đầy đủ nhất hơn cả khi Ngài còn sống.
Thăng thiên là một sự tôn vinh
Về trời hay lên trời của Chúa phục sinh không có nghĩa là một sự thay đổi nơi ở từ mặt đất để về một nơi nào đó ngoài trái đất, nhưng thăng thiên là một sự tôn vinh. Thăng Thiên là một cuộc gặp gỡ, đi vào thân tình với Thiên Chúa Cha, được tôn lên làm Chúa. Chúa Giêsu thành Nagiarét mặc xác phàm làm người, ngoại trừ tội lỗi, nay được tôn lên làm Đức Chúa, nghĩa là cùng được chia sẻ quyền thống trị với Đức Chúa Cha. Mầu nhiệm nằm ở đó, mới lạ ở chỗ đó. Chính vì thế, nhân loại sẽ không còn ngỡ ngàng tưởng rằng chúa Giêsu được bốc đi, được đưa đi từ điểm này tới điểm nọ. Đức Giêsu Kitô đã đi tới cùng sự chọn lựa của Ngài như thánh Gioan nói:” Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”( Ga 1, 11 ). Chúa Giêsu đã đến thế gian rao giảng nước trời, loan báo Tin Mừng nhưng con người không chịu đón nhận và ngài chấp nhận cái ê chề của cái chết thập giá như một tội nhân dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội: Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai( Eph 1, 22 ). Đức Kitô đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh và trao ban cho sự vinh quang viên mãn, tràn đầy( Eph 1, 23 ). Chúa về trời nghĩa là được tôn vinh, nên các tín hữu tiên khởi luôn tin tưởng Chúa phục sinh vẫn hiện diện với họ không những ở Giuđa hay Galilêa mà Ngài ở khắp cùng trái đất, Ngài ở mọi nơi mọi chỗ, Ngài hiện diện trong Giáo Hội. Đoạn Tin Mừng của thánh Máccô ngay trong đoạn cuối đã xác nhận Chúa phục sinh luôn hiện diện, luôn có mặt dù rằng Ngài đã được đưa về trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha:” …Còn các tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cộng tác với họ, và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời họ rao giảng”( Mc 16, 20 ).
Hội thánh tiếp nối sứ vụ rao giảng của Chúa Phục Sinh.
Trước khi Chúa về Trời, Chúa Giêsu phục sinh đã hứa với các môn đệ:” Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế “( Ga 14, 18 ). Các tông đồ và Giáo hội luôn tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu( xem bài đọc I và Bài Tin Mừng ): nối tiếp những công việc Ngài đã làm ở trần gian, kể cả những việc kỳ diệu lạ lùng như xua trừ ma quỉ, chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Giáo Hội không còn bị đóng khung ở một nơi chốn như Galilêa, Giuđêa, hay Giêrusalem, hay chỉ nằm trong một không gian hạn hẹp, mà Giáo Hội tung ra khắp muôn nơi để rao giảng và loan báo Tin Mừng cho mọi dân, mọi nước, không loại trừ bất cứ ai, bất cứ người nào, bất cứ dân tộc nào.” Vậy anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, nhân danh Chúa Con và nhân danh Chúa Thánh Thần”( Mt 28, 19 ).
Giáo Hội loan báo Đức Kitô và rao giảng Tin Mừng bằng mọi cách, mọi phương thế miễn sao có nhiều người được trở về với Thiên Chúa. Lễ Hiển Linh đối với nhân loại, đối với thế giới hôm nay, Giáo Hội không đứng đó mà ngước lên trời để nhìn, để nuối tiếc, để ngó mông lung, nhưng Hội Thánh phải hoàn thành sứ mạng Chúa đã trao phó: rao giảng Tin Mừng cho mọi thọ tạo, Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân, muôn nước. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà là bằng cả cuộc sống, bằng việc dấn thân, bằng sự chọn lựa rõ ràng. Chúa Giêsu khi tới trần gian này, Ngài đã không có mặt một cách chung chung, một sự hiện diện có lệ, nhưng Ngài đã hiện diện như Tin Mừng cứu độ cho con người. Chúa Giêsu khi trao sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các môn đệ và cho Giáo Hội, Ngài cũng muốn mọi người và Hội Thánh có một sự lựa chọn như Ngài vì Chúa đã hứa:’ Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”( Ga 14,1).
Lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu trao cho mọi Kitô hữu một sứ mạng như vận động viên chạy bộ chuyền lửa cho các vận động viên khác để cuối cùng lửa được châm lên ở sân vận động suốt trong những ngày tranh tài. Lễ Chúa lên trời cũng giúp Giáo Hội và mọi Kitô hữu suy nghĩ và nghiệm ra sự có mặt của Chúa phục sinh giữa thế gian.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban cho Giáo Hội và mọi Kitô hữu chúng con được nhận ra Chúa giữa cuộc đời vì Chúa luôn luôn có mặt ở khắp nơi, khắp chốn. Xin cho chúng con và mọi người đừng chỉ nhìn về trời một cách vu vơ, xa xôi, mơ hồ mà hãy nhận ra Chúa đang hiện diện giữa mọi người.
Gợi ý chia sẻ
1. Anh chị hiểu thế nào về từ Chúa về trời ?
2. Anh chị có tuân theo huấn lệnh truyền giáo của Chúa phục sinh ?
3. Anh chị có cảm nghiệm gì về Chúa Thăng Thiên ? ------------------------------
Sự hiện diện “nhìn thấy được” (visibilis) của Đức Giêsu Nadarét, Con Một Thiên Chúa ở trần: LênTrời ABC-37
Sự hiện diện “nhìn thấy được” (visibilis) của Đức Giêsu Nadarét, Con Một Thiên Chúa ở trần gian kết thúc với biến cố Chúa Giêsu Thăng Thiên tức khi Người “được rước lên trời”. Biến cố ấy là một cột mốc quan trọng và có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống của Đức Giêsu cũng như của chúng ta là những người tin theo Người. Ý nghĩa của biến cố ấy chính là sứ điệp của Lời Chúa dành cho chúng ta hôm nay.
ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA: “Chúa Giêsu về Trời để các môn đệ ra đi mở rộng Nước Trời”
1. Đức Giêsu về Trời:
Người đời thường nói một cách rất chính xác: người có công thì đáng được thưởng, còn kẻ có tội thì đáng phải phạt. Nếu chúng ta nói về Đức Giêsu thì chắc chắn chúng ta phải nhìn nhận rằng: Đức Giêsu rất có công hay có công rất lớn. Người có công lớn, rất lớn, với Thiên Chúa Cha, vì Người đã vâng phục Thiên Chúa Cha trong mọi sự, đã chu toàn Thánh Ý của Cha một cách hoàn hảo. Để vâng phục Chúa Cha như một người con thảo số một Đức Giêsu đã chấp nhận cuộc sống trần gian với bao hy sinh khó nhọc và nhất là với hiến tế toàn thiêu trên thập giá. Đức Giêsu còn có công lớn, rất lớn với loài người là anh em của Chúa, vì Người đã lấy cuộc sống và nhất là cái chết để chứng tỏ nhân loại được Người yêu thương, quí trọng như thế nào. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” . Lời tuyên bố ấy chẳng những đúng với mối tương quan của Đức Giêsu với chúng ta mà còn đúng với mối tương của Người với Chúa Cha. Vì thế việc Người được Cha dùng sức mạnh thần linh đàm cho Người trỗi dậy từ cõi chết (tức Phục Sinh Người) và đặt Người ngồi bên hữu Thiên Chúa (tức đem Người về Trời), ban cho nhiều danh hiệu cao quí nhất, tôn Người làm Vua vũ trụ là sự kiện hết sức lô gích và dễ hiểu.
Nhưng chúng ta cần biết thêm điều này: Đức Giêsu đã lập công bằng giá máu và giá cuộc sống của Người không phải để cho bản thân Người, mà là để cho chúng ta. Chính đó là nguồn ơn cứu độ mà chúng ta tin rằng Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta, dù chúng ta tội lỗi, yếu đuối, bất trung và phản bội Chúa từng ngày. Nói cách khác, chúng ta được cứu chuộc không phải vì việc lành phúc đức của mình mà nhờ công nghiệp vô cùng của chính Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người vì và cho chúng ta. Nên mừng Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, chúng ta có thêm niềm hy vọng và những tâm tình cách xứng hợp là cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng và biết ơn Người!
2. Các môn đệ ra đi mở rộng Nước Trời.
Lời trăn trối của người sắp ra đi bao giờ cũng có một sức mạnh đặc biệt, nhất là đối với các nền văn hóa Trung Hoa và Việt Nam. Vì người Việt chúng ta hết sức trân trọng những lời dặn dò, trăn trối của cha mẹ trước giờ lâm chung, nên bổn phận quan trọng nhất của kẻ làm con là có mặt bên giường bệnh của cha mẹ mình. Chúng ta đi từ kinh nghiệm nhân sinh ấy của con người để có đánh giá cân xứng đối với những lời căn dặn hay mệnh lệnh của Đức Giêsu Phục Sinh trước khi Người biến khỏi trần gian này để về với Chúa Cha: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15) hay “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thành Thần, dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20). Đó là những lời quí hơn vàng hiếm hơn ngọc mà các môn đệ Đức Giêsu Kitô phải ghi lòng tạc dạ, suy niệm mỗi ngày và đem ra thực hành.
Kể từ những ngày tiếp theo sau biến cố Thăng Thiên cho đến ngày hôm nay, trải qua suốt hai muơi thế kỷ, các môn đệ của Đức Giêsu trong các Giáo hội Công giáo, Tin Lành, Chính Thống… đã làm hết sức mình để thi hành lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi Người được cất về Trời. Nhờ đó mà Lời Chúa được rao giảng, Giáo lý Chúa được giảng dạy, chân dung Chúa được giới thiệu cho các dân tộc, Nước Chúa được mở mang khắp chốn khắp nơi. Công việc ấy còn phải được tiếp tục cho đến tận cùng thời gian. Và chúng ta là những người có trách nhiệm hic et nunc: tức là ở đây và bây giờ tức trên địa bàn chúng ta đang sống và trong giai đoạn hiện nay.
Là các môn đệ của Đức Giêsu ngày hôm nay, chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho người Việt Nam của thế kỷ 21 sống trong một xã hội đang phát triển ở vào giai đoạn thay đổi sâu rộng. Vậy chúng ta phải làm gì để thực thi lệnh truyền của Chúa Giêsu là ra đi mở rộng Nước Trời ngày hôm nay và trên quê hương đất nước này? Thiết tưởng chúng ta có thể xác định một số việc ở cấp cá nhân và một việc ở cấp cộng đoàn. Ở cấp cá nhân, chắc chắn không thể bỏ qua việc mỗi người nỗ lực sống tốt hơn đời sống Kitô hữu của mình. Đặc biệt nên quan tâm hơn nữa đến sứ mạng truyền giáo của Kitô hữu. Có thể phỏng theo cách truyền giáo đem lại nhiều kết quả tốt đẹp của Giáo hội Hàn Quốc. Đó là phương pháp “người người kết thân, nhà nhà kết thân” tức mỗi người và mỗi gia đình công giáo kết thân với một người hay một gia đình không công giáo, quan tâm đến họ, chia sẻ với họ trong chừng mực có thể, để giúp những người ở không công giáo có dịp hiểu người và Đạo Công giáo hơn. Còn ở cấp cộng đoàn, có lẽ chúng ta nên ưu tiên cho việc học hỏi về sứ mạng truyền giáo và trao đổi kinh nghiệm về truyền giáo. Có lẽ cũng nên quan tâm đến việc huấn luyện tông đồ giáo dân, nhất là trong khuôn khổ hội đồng mục vụ giáo xứ và các hội đoàn tông đồ. Những tài liệu quan trọng như Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, Sắc lệnh Truyền Giáo, Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân của Công đồng Vatican II cũng như những Thông điệp, Tông huấn Sứ vụ Đấng Cứu Thế, Công cuộc Loan Báo Tin Mừng, Việc Giảng Dạy Giáo lý, Giáo hội tại Châu Á …… của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II cần được giảng dạy, học hỏi, thảo luận và áp dụng ở cấp giáo phận cũng như giáo xứ. Ngoài ra, kinh nghiệm của các Giáo hội Á châu cho thấy việc thành lập các ‘Cộng đoàn Giáo hội cơ bản’ trong các giáo xứ là một cách truyền giáo rất thích hợp và hiệu quả trong những thập niên từ sau Công đồng Vatican II cho đến nay. Có như thế chúng ta mới bớt xấu hổ mỗi khi nghe lại lệnh truyền của Thầy Giêsu, lệnh truyền mà chỉ trong một năm Phụng vụ chúng ta nghe lại không dưới ba bốn lần.
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha quyền năng và yêu thương, chúng con cảm tạ ngợi khen chúc tụng Cha, vì Cha đã phục sinh Đức Giêsu, Con Cha và đưa Người về Trời, tưởng thưởng công lao xứng đáng cho Người! Chúng con cũng cảm tạ ngợi khen chúc tụng Cha vì chúng con được hưởng nhờ công lao và được chia sẻ sứ mạng mở rộng Nước Trời của Người.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng Phục Sinh và Thăng Thiên, chúng con chúc mừng Chúa đã được Chúa Cha thưởng công xứng đng với vinh quang trên trời, vì công lao to lớn mà Chúa đã thực hiện. Chúng con cảm tạ Chúa đã chỉ thị cho chúng con ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Thật ra chúng con cảm thấy vô cùng xấu hổ mỗi khi nghe lại lời dặn dò ấy của Chúa. Chúng con không dám và không biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân. Chúng con không chịu trau dồi tinh thần, kiến thức và kỹ năng truyền giáo. Quả chúng con không xứng với sự tin tưởng của Chúa! Xin Chúa giúp chúng con đổi mới tư duy và hành động để chúng con có thể thực thi lệnh truyền của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân các tâm hồn và thế giới, xin Chúa hãy biến đổi, huấn luyện và đồng hành với chúng con để chúng con mạnh dạn bước vào cánh đồng truyền giáo là xã hội Việt Nam hôm nay và tích cực làm việc trong đó cho Nước Trời được mùa gặt bội thu. Amen. ------------------------------
Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau trong ngôi thánh đường này để mừng trọng thể lễ Chúa: LênTrời ABC-38
Hôm nay cộng đoàn chúng ta họp nhau trong ngôi thánh đường này để mừng trọng thể lễ Chúa Thăng Thiên. Đây cũng là ngày Giáo Hội dành làm “Ngày truyền thông thế giới”. Khi chọn ngày lễ này làm ngày truyền thông, Giáo Hội muốn nhắc nhở từng người chúng ta ý thức hơn đến việc loan truyền cho mọi người Tin Mừng Phục Sinh, một Tin Mừng vĩ đại nhất qua mọi thời đại và có khả năng biến đổi cuộc sống của những ai tin nhận.
Không chỉ hôm nay, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trong suốt những tuần lễ vừa qua, dưới nhiều hình thức khác nhau, phụng vụ lời Chúa cũng đã luôn mời gọi chúng ta phải lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô.
Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, Maria Mađalêna đã là người đầu tiên loan báo cho hai môn đệ Phêrô và Gioan về sự kiện ngôi mộ trống, dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Rồi tám ngày sau, vào Chúa Nhật II Phục Sinh, trong lần hiện ra với các tông đồ có cả Tôma, chính Đấng Phục Sinh đã truyền cho các tông đồ “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Kế đến, trong Chúa Nhật III, Tin Mừng Luca còn thuật lại cho chúng ta việc Đấng Phục Sinh hiện đến với các tông đồ khi đó đang tụ họp cùng với hai môn đệ vừa từ làng Emmaus trở về. Và cả lần này, Đấng Phục Sinh cũng giao cho các ông sứ mạng “nhân danh Người rao giảng sự thống hối… bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47). Ngài còn nhấn mạnh: “Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 48). Còn trong Chúa Nhật IV, chúng ta đọc được tâm sự của Đức Kitô, Vị Mục Tử nhân lành: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn” (Ga 10, 16a). Được gia nhập vào đoàn chiên duy nhất của Đấng Phục Sinh như cành nho liên kết với thân nho, từng người chúng ta cũng được mời gọi sinh hoa trái bằng đời sống bác ái yêu thương. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người tin nhận Đấng Phục Sinh. Đó chính là giáo huấn của lời Chúa trong Chúa Nhật V Phục Sinh. Còn trong Chúa Nhật vừa qua, Đức Kitô xác định rõ với từng người chúng ta: “Chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái” (Ga 15, 16). Và hôm nay, trước khi chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình của mình với các môn đệ, một lần nữa, Đấng Phục Sinh đã giao cho các tông đồ sứ mạng: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.
Như thế, loan báo Tin Mừng Phục Sinh không còn là một điều mà chúng ta muốn làm hay không tuỳ thích, nhưng là một sứ mạng, một bổn phận bắt buộc cho tất cả những ai muốn xưng mình là kitô hữu. Ý thức điều đó, Công đồng Vatican II, trong Sắc lệnh về truyền giáo, số 2 đã nói: “Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo”. Giáo Hội phải loan truyền cho mọi người về Tin Mừng Phục Sinh, vì từ đây, Đấng Phục Sinh không còn hiện diện hữu hình với chúng ta nữa. Chúa lên trời, không phải là Ngài không còn hiện diện với con người nữa, nhưng là hiện diện với một cách thức mới, hiệu quả hơn, như lời Ngài đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Lịch sử Giáo Hội đang bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn mở ra cho muôn dân. Đó cũng là một trong những lý do khiến Giáo Hội chọn ngày lễ hôm nay làm ngày “Truyền thông thế giới”. Từ đây, Giáo Hội có nhiệm vụ truyền thông cho thế giới về Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng của Tình yêu và Sự sống, Tin Mừng của niềm Hy vọng.
Chúa lên trời, Ngài không trực tiếp hoạt động nữa nhưng trao cho các tông đồ và từng người chúng ta tiếp tục sứ mạng đem ơn cứu độ của Ngài cho muôn dân. Ngài muốn mượn đôi tay, đôi chân, và cả con tim của chúng ta để thông truyền Tin Mừng đó cho mọi người ngay trong chính môi trường chúng ta đang sống. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại, sau khi Đức Giêsu Phục Sinh về trời, đang lúc các môn đệ vẫn còn ngước mắt lên trời, thì thiên sứ đã nhắc các ông: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn trời…”. Các tông đồ không được phép đứng đó mãi nhìn trời. Các ông phải trở về với cuộc sống hiện tại để làm chứng cho Đấng Phục Sinh.
Cũng thế, là một kitô hữu, chúng ta không chỉ đọc kinh, tham dự các nghi lễ phụng vụ ở nhà thờ, chúng ta phải trở về nhà, đối diện với mọi vất vả trong cuộc sống thường ngày như những người khác. Các bậc phụ huynh vẫn phải vất vả đi biển, ngược xuôi buôn bán, các em nhỏ cũng phải bận rộn với việc học hành các kiến thức văn hoá, xã hội… tắt một lời, trước mắt mọi người, mỗi người chúng ta vẫn phải sinh hoạt, lo toan mọi điều trong cuộc sống như bất cứ một người nào. Tuy nhiên, ngay giữa cuộc sống đó, chúng ta vẫn có thể thông truyền Tin Mừng Phục Sinh, loan báo cho mọi người biết rằng sau cuộc sống hiện tại này, còn có một quê hương vĩnh cửu trên trời, nếu chúng ta giữ mình không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình.
Chúng ta không được phép chỉ nhìn trời, nhưng phải nhìn đến những người đang sống quanh ta, đó là người chồng, người vợ, là cha mẹ, con cái, là anh chị em và cả những người hàng xóm, láng giềng, những người hợp ý với chúng ta lẫn những người làm chúng ta khó chịu. Nếu trong một gia đình Công Giáo luôn trên thuận dưới hoà, anh chị em luôn biết tha thứ, đùm bọc yêu thương nhau. Nhất là nếu chúng ta luôn biết quan tâm chia sẻ, nâng đỡ những người hàng xóm, không phân biệt lương giáo những lúc “tối lửa, tắt đèn”, thì tôi thiết nghĩ, đó là cách tốt nhất để chúng ta thông truyền cho mọi người về một Tình yêu phổ quát của Đấng Phục Sinh, Đấng đã chết và sống lại cho tất cả chúng ta.
Để sống được như vậy không phải là điều dễ dàng. Với kinh nghiệm bản thân của mình, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng có cùng một cảm nghiệm với thánh Phaolô: “Điều lành tôi muốn tôi lại không làm, còn điều dữ tôi không muốn, tôi lại làm” (Rm 7, 20). Những điều đối với chúng ta là không thể, thì đối với Thiên Chúa lại là có thể. Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoạt động trong sức mạnh của Đấng Phục Sinh và dưới tác động của Thánh Thần. Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã nhắc bảo chúng ta hãy luôn cậy trông vào ơn Chúa: “Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi… và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta”.
Lòng trông cậy của chúng ta không phải là một sự trông cậy viễn vông, nhưng dựa vào chính lời hứa của Đấng Phục Sinh trước lúc về trời: “Hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa… Phần các con, …, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần… Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con”. Lời hứa này đã được chứng thực qua hoạt động rao giảng của các tông đồ thuở ban đầu. Thánh sử Marcô thuật lại: “Các ông đi giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”.
Tóm lại, chúng ta có thể chu toàn sứ mạng thông truyền Tin Mừng bằng chính đời sống công chính, yêu thương, nhường nhịn, tha thứ cho dù chỉ là một câu nói và một tấm lòng mở rộng sẵn sàng cảm thông của chúng ta. Chính đời sống đó sẽ là một dấu lạ cho mọi người nhận ra rằng có một Thiên Chúa đang ở với chúng ta. Chớ gì nhờ sức mạnh của Thánh Thể nâng đỡ, từng người, từng gia đình và cả cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ trở thành một lời chứng hùng hồn cho Tin Mừng yêu thương và hy vọng của Đấng Phục Sinh. Amen. ------------------------------
LênTrời ABC-39. CHỨNG TỪ VÀ VIỆC RAO GIẢNG
Mark Link S.J.
Bài đọc: Cv 1: 1-11 ; Ep 1: 17-23 ; Mc 16: 15-20
Chủ đề: Đức Giêsu giao chúng ta sứ mệnh làm chứng cho Ngài giữa thế gian và rao giảng cho các dân tộc.
Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại: LênTrời ABC-39
Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âụ Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó”
Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa Cha, Cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?Ự Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất hạnh phúc được nghe anh xưng tộiỰ Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!Ự Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của conỰ
***
Tinh thần làm chứng nhân của anh lính thủy quả là hơi “quá” nhiệt tình, nhưng chắc chắn anh đã có một ý nghĩ đúng đắn. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Các ngươi sẽ làm chứng cho Ta đến tận cùng trái đấtỰ Lệnh truyền của Chúa Giêsu bao hàm tất cả chúng ta, qua Bí Tích Rửa tội, Thêm sức, tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm chứng nhân cho Chúa Giêsụ Nhưng Bí tích Rửa tội và Thêm sức còn đòi hỏi chúng ta đi xa hơn, chúng yêu cầu chúng ta nhiều hơn nữạ Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Hãy công bố Tin Mừng cho mọi tạo vậtỰ Đó cũng là điều mà tất cả chúng ta phải thi hành.
Việc công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu không dành riêng cho các Linh mục hay các tu sị Đó là bổn phận mà tất cả chúng ta đều phải thực hiện sau khi đã nhận lãnh phép Rửa tội và Thêm sức. Điều này gợi lên một vấn nạn: Một người trung bình có thể rao giảng như thế nào về Chúa Giêsu trong thế giới hôm naỷ
Tôi xin chia sẻ với quí vị câu chuyện nói về cách thế mà một người đã dùng để trả lời cho câu hỏi ấỵ
Ruđell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với ho Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến. Ruđell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công giáọ Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấỵ Ruđel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp khách.
Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với Giáo hội thế nàọ Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh việnỰ Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo rạ
*****
Câu chuyện của Ruđell Morris nhấn mạnh một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng. Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruđell đã làm. Hoặc “công bố” một cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc gíup đỡ tài chính cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hộị
Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của toàn năm phụng vu Đó chính là lý do khiến chúng ta mừng lễ Thăng Thiên với hình ảnh chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác trong một số cuộc chạy đua tiếp sức.
Cũng ngay này, cách đây hơn 2000 năm, Đức Giêsu đã chuyền chiếc gậy tượng trưng công việc của Ngài cho các môn đệ để các môn đệ tiếp tục chuyền đị Chúng ta có thể tiếp tục công việc ấy bằng cách làm chứng cho đức tin của mình như anh lính thủy kia đã làm và công bố đức tin ấy cho kẻ khác như Ruđell đã làm. Đây là một trách nhiệm hai mặt mà lễ Thăng Thiên đặt ra cho chúng tạ Mỗi người chúng ta phải chu toàn trách nhiệm này theo cách thức mà Chúa Thánh Thần linh ứng cho từng ngườị
Để kết thúc, chúng ta hãy nhắc lại những lời Đức Giêsu truyền dạy cho các môn đệ Ngài trong bài giảng trên núị Chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta trong ánh sáng của ngày lễ hôm naỵ
“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nọ
Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….
Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5: 13-16) ------------------------------
LênTrời ABC-40. SỨ MỆNH ĐỂ LẠI - N.Quesson
“Anh em hãy đi khắp thế, rao giảng Tin Mừng cho loài thụ tạo”.
Khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng dưới thế, Người trở về trờị Thiên Thần Gabriel ra đón Chúa từ: LênTrời ABC-40
Khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng dưới thế, Người trở về trờị Thiên Thần Gabriel ra đón Chúa từ xa, vừa gặp Chúa, Thiên Thần lên tiếng hỏi:
- Thưa Chúa, công trình của Chúa được tiếp tục thế nào nơi trần gian?
- Ta đã có mười hai tông đồ, một nhóm môn đệ và vài phụ nự Ta đã trao cho họ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng tới tận cùng trái đất.
Nghe Chúa trả lời, Thiên Thần Gabrien như chưa thoả mãn, hỏi lại:
- Nhưng nếu nhóm nhỏ bé đó thất bại thì Chúa có chương trình nào khác không?
Chúa mỉm cười quả quyết:
- Ta không dự trù kế hoạch nào nữạ Ta tin tưởng vào ho
Đây chỉ là một chuyện, nhưng nó giúp ta hiểu phần nào tâm trạng Chúa Giêsụ Chúa đã trao sứ mệnh của Người cho Giáo hộị Giáo hội của Chúa không phải hoàn thiện. Các Tông đồ các môn đệ cũng không phải là hoàn thiện, tất cả chúng ta đều không hoàn thiện, nhưng Chúa vẫn tin tưởng trao nhiệm vụ: “Anh em hãy đi khắp thế, rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo” (Mc 16, 15). Đó là nhiệm vụ bó buộc phải hoàn tất. Vì nhiệm vụ đó là đặc tính, là dấu chỉ của một đời sống Kitô hữụ
Nhiệm vụ Chúa trao ban thật nặng nệ Vì đó là việc rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo khắp hoàn vụ Chúa mời gọi các môn đệ ra khỏi môi trường Do Thái, ra khỏi tầm nhìn hạn hẹp của mình để đi tới vô biên, để tiếp nhận mọi dân tộc, mọi nền văn hoá, vì Tin Mừng của Chúa dành cho mọi thụ tạo, chứ không phải chỉ chấp nhận một cơ cấu riêng biệt nàọ
Nhiệm vụ đó có thể chu toàn được không? Chắc chắn là được. Vì nếu không thể thực hiện thì Chúa đã không đòi ta thi hành. Nhưng muốn thực hiện nhiệm vụ này, điều kiện đầu tiên là ta phải thấm nhuần tinh thần của Chúạ Phải làm sao cho lời Chúa trở nên Tin Mừng cho tâm hồn chúng tạ Khi Tin Mừng đã chan hoà, đã thành tinh thần của ta, lúc đó Tin Mừng sẽ sáng tỏ trong đời sống, sẽ biểu lộ trong lời nói và hành động của chúng tạ Một khi lời Chúa trở nên Tin Mừng cho tâm hồn ta, một niềm vui lớn lao và niềm vui đó không thể nào dấu kín được, nó sẽ toả lan, sẽ thông truyền cho người khác. Ngược lại, một đời sống buồn rầu, than vãn, một đời sống chỉ toàn là xét đoán, chỉ trích, kêu ca, nhất định không phải một Kitô hữu thực.
Một điều kiện cần thiết nữa ta phải có để chu toàn sứ mệnh Chúa trao phó là kết hiệp chặt chẽ với Chúa, như cành với câỵ Chúa về Trời nhưng Chúa vẫn luôn hành động qua các tín hữụ Chỉ khi chúng ta hoạt động bằng bàn tay Chúa, chúng ta nói bằng lời của Chúa, khi đó chúng ta mới có thể thu lượm kết quả, vì khi đó chính Chúa nói năng và hành động qua tạ Có thế lực của Chúa, ta sẽ thắng lướt mọi quyền lực độc hại thế trần (Mc 16,17-18)
Chúa đã lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, Chúa lên cao nghĩa là Chúa thấy rõ và thông cảm với tạ Giữa Chúa và ta không còn gì ngăn cách, cản trở, Chúa tiếp tục sứ mệnh trần thế của Người nơi cuộc sống mỗi kitô hữu chúng tạ Đó là niềm vui, là hạnh phúc bây giờ và mãi mãi của người tín hữu chúng tạ
Lạy Chúa, xin Chúa hiện diện với chúng con. Dẫn dắt chúng con trên đường phục vụ Tin Mừng hôm naỵ Chúng con cầu xin Chúạ.
------------------------------
LênTrời ABC-41. PHI HÀNH KHÔNG GIAN VỀ TRỜI - Gm. Arthur Tonne
Một người cha và đứa con trai 10 tuổi đang coi một chuyến bay vũ trụ Apollô 15. Sau khi phi thuyền: LênTrời ABC-41
Một người cha và đứa con trai 10 tuổi đang coi một chuyến bay vũ trụ Apollô 15. Sau khi phi thuyền rớt xuống mặt biển làm tung toé nước xung quanh, người cha hỏi đứa con trai mình: “Khá, con nghĩ gì không? Jim. “Ai cũng nghĩ một đứa trẻ 10 tuổi chỉ có thể trả lời như sau: “ôi, thưa bố, tuyệt, êm, gọn”. Nhưng thay vào đó, Jim trịnh trọng phát biểu; “Bố biết không, Bố, con hãnh diện là người Hoa Kỳ” Tin tức từ các nước ngoài cũng có phần tương tư không phân biệt quốc tịch, người ta tuyên bố: “Tôi hãnh diện là một con người”.
Hôm nay, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu lên trời, chúng ta có thể tuyên bố: “Tôi hãnh diện là một Kitô hữu, là người theo Chúa KitôỰ Một cách nào đó, chuyến bay vũ trụ nhắc nhở chúng ta về sự lên trời của Chúạ
Cả hai là biến cố chiến thắng lực thiên nhiên, sức hấp dẫn của trái đất, sức nóng quá độ, sự điều tiết của cơ thể con người đối với sự thay đổi áp lực và vô trọng lực. Sự lên trời của Chúa chúng ta là chiến thắng trên sự thoái hoá của sự dự Là chiến thắng của tinh thần trên vật chất.
Mỗi chuyến bay vũ trụ là cố gắng phi thường của một số người nhưng là một cố gắng tập thệ Hàng ngàn khoa học gia, hàng ngàn kỹ thuật gia cùng chung sự hiểu biết của họ để thiết kế con thuyền, trang bị máy móc, hoạch định chuyến bay đề phòng bất trắc. Để được lên trời cũng đòi chúng ta một cố gắng tập thể, chúng ta phải cùng nhau hành động để đạt được chiến thắng thiêng liêng, như Đức Giêsu đã chiến thắng khi Ngài về trờị
Cả hai công trình đều tốn kém. Chúng ta biết Apllo 15 tốn 445 triệu đôla, nghĩa là mỗi người phải chịu 4,20 đôla tiền thuệ Sự về trời của Chúa thì saỏ phải mất cả cuộc đời của Ngài để yêu mến và phụng sự tha nhân. Sự lên trời của chúng tả cả một đời phụng sự vì tình yêụ
Ngay sau khi chương trình không gian bắt đầu, nhiều người Mỹ đã tỏ ý muốn được du hành như vậỵ Khoảng giữa 1964 và 1971, hãng hàng không Hoa kỳ đã nhận được 90.000 người dành chỗ du hành mặt trăng trước. Chúng ta, những người Kitô hữu càng phải khao khát theo Chúa Kitô về trời hơn nữạ Lòng khao khát của chúng ta được bày tỏ bằng những lời trong Kinh tiền tụng thăng thiên: “Đầu tiến tới đâu, thì chúng ta, chi thể của Người hy vọng theo Người tới đóỰ Tôi không biết hãng hàng không Hoa Kỳ đòi bao nhiêu một chuyến bay lên mặt trăng. Chắc chắn những người Mỹ bình thường không trả nổị Để theo Đức Giêsu về trời, mọi người chúng ta đều có thể làm được, những ai tin và chịu phép rửa tội là sẽ có “vé”, không phải lên mặt trăng, nhưng là lên trờị
Cả hai: Lễ lên trời và những chuyến bay Apollo đều hữu ích cho nhân loạị Những chuyến bay vũ trụ đã đem lại lợi ích: tiên báo thời tiết chính xác hơn; khám phá ra nguồn năng lượng mớị Cải thiện chế độ dinh dưỡng của loài ngườị Mục đích của Lễ Chúa về trời còn lớn lao hơn: giá trị tinh thần trên vật chất .
Dĩ nhiên có sự khác biệt. Lễ Chúa về trời chứng tỏ Thiên tính tối thượng của Đức Giêsu Kitô trên vật chất. hơn nữa, thiên đàng là một trạng thái vượt mọi ý niệm về thời gian và không gian. Nhìn Chúa về trời còn hồi hộp hơn. Nhiều lý do vui mừng hơn bất cứ một chuyến bay vũ trụ nàọ Ước gì tất cả chúng ta dự phần trong lễ Chúa lên trời hôm naỵ
Thế là kẻ tử tội chết treo nhục nhã trên khổ hình thập giá, người mà thiên hạ cho rằng đã bị: LênTrời ABC-42
Thế là kẻ tử tội chết treo nhục nhã trên khổ hình thập giá, người mà thiên hạ cho rằng đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ, nay Ngài đã " được cất lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa". Con đường Ngài đã đi để đến với những người tội lỗi, những kẻ bị loại trừ, con đường đã dẫn Ngài đến tòa án và cuộc khổ nạn, con đường ấy chính là con đường của Thiên Chúa .
Điều mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa được rước lên trời một cách kỳ diệụ Mà là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một tin mới lạ, một tin mừng cho tất cả mọi loài thọ tạọ Đó là tin mừng về việc cứu chuộc, giải phóng, chữa lành. Tin Mừng về việc bất chấp mọi gian lao để thay đổi thế giới nàỵ Để tạo nên và phát triển một nhân loại mới ngồi bên hữu Thiên Chúa .
Trải qua hằng bao thế kỷ, Tin Mừng ấy, như men trong bột, phải luôn luôn được xáo lên xáo xuống, để Thần Khí Thiên Chúa có thể làm cho men dậy thơm trong thúng bột nhân loạị
Với thần lực do Thánh Linh ban cho, các môn đệ, những nhân chứng tích cực, sẽ không ngừng làm chứng cho các gía trị của Tin Mừng , cho đến tận những thôn cùng xóm vắng. Đức Giêsu lên trời, nhưng hằng ngày vẫn có muôn vàn phụ nữ và đàn ông tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi tìm một thế giới mớị
Họ cũng là những người gây phiền nhiễu như Đức Giêsu . Họ không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới thiếu vắng tình thương, trong đó một số kẻ phè phỡn dư dật trong khi hằng vạn người lang thang đói rách. Họ Là những kẻ gây phiền nhiễu như Đức Giêsu , vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, loài người có thể ngày một tiến gần hơn đến đức công bình, tha thứ và tình thương. Cho dù họ có bị bách hại, bị tù đầy, những người con thân thiết của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, những kẻ rửa tội cho tương lai của nhân loại ấy, không bao giờ dừng bước, bởi vì họ luôn nghe được tiếng nói thì thầm trong lòng họ: "Thầy ở cùng chúng con hằng ngày cho đến tận thế". ------------------------------
LênTrời ABC-43: JESUS IS THE WORLD! Br. Minh Trân, CMC
Jn 17:20-26
Cách đây hai năm tôi có dịp dạy giáo lý cho các em lớp 8 tại thành phố Avondale, Louisiana. Tôi còn: LênTrời ABC-43
Cách đây hai năm tôi có dịp dạy giáo lý cho các em lớp 8 tại thành phố Avondale, Louisiana. Tôi còn nhớ có lần đề nghị với các em làm một vài posters treo trong lớp cho sống động. Các em hỏi: "Làm cái gì cũng được hả thầy?" "Thì cái gì cũng được. Miễn là nó nhắc mình nhớ đến Chúa Giêsu là được rồi." Tôi trả lời như thế. Thế là vài ngày sau một trong những tấm posters được trình bày lộng lẫy với những tấm hình sặc sỡ chung quanh hàng chữ: "Jesus is the world!" Nhìn tấm poster, tôi lắc đầu không biết phải nói sao về "tư tưởng thần học" mới lạ này. Khác hẳn với điều tôi được học hỏi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan cũng đã ghi lại hai chữ: Jesus (Chúa Giêsu) và the world (thế gian). Thánh Gioan không nói Jesus is the world (Chúa Giêsu là thế gian), nhưng ngài nói Jesus prays for the world (Chúa Giêsu cầu nguyện cho thế gian).
Tìm hiểu thánh kinh, chúng ta thấy từ ngữ the world có 3 ý nghĩa:
1/ thế gian là thế giới chúng ta đang sống.
2/ thế gian là những người chưa nhận biết Chúa.
3/ thế gian là những người chống lại Chúa.
Cả ba ý nghĩa này không đồng nghĩa với Chúa Giêsu, nhưng nó là đối tượng của công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu. Thánh Gioan ghi rõ Chúa Giêsu không chỉ cầu nguyện cho các môn đệ mà thôi, nhưng còn cho tất cả những người nhờ lời các môn đệ rao giảng mà tin vào Cha -- những người chưa nhận biết Chúa, và cả những người chống lại Chúa. Chúa đã cầu nguyện cho tất cả mọi người được hợp nhất nên một.
Đến đây tôi nhớ đến tích truyện của cha Brandsma. Một tấm gương yêu thương tha thứ và ước ao cho người giết mình được nhận biết Chúa. Ngày 26.7.1942, trước khi bị hành quyết, cha Brandsma đã trao cho nữ y tá trẻ tuổi ngoại đạo người Hòa lan một xâu chuỗi Mân côi thô sơ mà ngài đã làm trong tù. Người y tá này có nhiệm vụ chích thuốc độc cho cha chết. Cha nói với cô ta: "Cô hãy dùng xâu chuỗi này để cầu nguyện."
- Tôi không cần, vì tôi không biết cầu nguyện - cô ta đáp.
- Cô cứ thử mà xem, ít là cô hãy lập lại câu: "Xin cầu cho chúng tôi là kẻ có tội..."
Đó là những lời cuối cùng của cha Brandsma trước khi chết. Chính nhờ xâu chuỗi Mân côi của cha Brandsma mà cô đã tìm được đức tin, và năm 1955, cô đã tự ý trình diện để cung khai bổ túc hồ sơ phong chân phước cho cha Brandsma. Cha Brandsma đã được ĐTC Gioan Phaolô đệ nhị phong chân phước ngày 3.11.1986. Cha bị Đức quốc xã giết trong trại tập trung Dachau, gần Muenchen, Tây Đức.
Là người công giáo chắc hẳn chúng ta không những đã được học hỏi thế nào là cầu nguyện, mà còn được khuyên dạy phải sống đời cầu nguyện làm sao. Biết là một chuyện. Sống là một chuyện khác. Nhiều lúc cầu nguyện cho những người thù ghét hãm hại mình xem ra cũng thực hiện được. Trái lại, thật oái oăm thay những lần nghĩ đến phải cầu nguyện cho những người gần gũi, những người đáng lý ra phải yêu mến thì xem ra lại là một vấn đề.
Nhìn lại tấm poster với những tấm hình dán chung quanh: Michael Jordan, cầu thủ bóng rổ nổi tiếng của đội banh Chicago Bulls' mẹ Têrêsa Calcuta bên cạnh những em bé bụng ỏng với thân hình da bọc xương' công chúa Diana' tổng thống Clinton... dường như tôi đã cảm nghiệm được ý nghĩa câu các em muốn nói: Jesus is the world! ------------------------------
LênTrời ABC-44: NHỮNG LỜI CHỈ BẢO SAU HẾT CHO CÁC TÔNG ĐỒ
Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội
Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời lời Kinh Thánh chép rằng: LênTrời ABC-44
“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.”
SUY NIỆM:
Từ các bản văn Thánh Kinh của Phụng Vụ hôm nay, chúng ta có thể rút ra được những điều quan trọng nào cho đời sống Đức Tin ? Làm thế nào để chúng ta thực hiện Sứ Mạng Làm Chứng ?
1. Từ các bản văn Kinh Thánh của Phụng Vụ hôm nay, chúng ta có thể rút ra những điều quan trọng sau đây cho đời sống Đức Tin:
Đức Giê-su Ki-tô chịu khổ nạn và phục sinh là các sự kiện nằm trong chương trình, kế hoạch của Thiên Chúa và được thực hiện bằng Sức Mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần, hay Thần Khí của Thiên Chúa là ân ban của Cha và là quà tặng đã được Đức Ki-tô long trọng hứa ban cho các môn đệ. Thần Khí sẽ giúp các môn đệ và các Ki-tô hữu hiểu được Mầu Nhiệm của Đức Giê-su Ki-tô đã được mặc khải trong Thánh Kinh. Vì thế muốn trở thành môn đệ đích thực của Đức Giê-su chúng ta cần phải có Thánh Thần trong tâm hồn.
Cùng với Thánh Thần, Đức Giê-su ban cho chúng ta một sứ mạng cao cả và quan trọng: đó là làm chứng về Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa nhập thể làm người, đã chịu chết và đã phục sinh và được Thiên Chúa tôn vinh trên tất cả và đặt Người làm Đức Chúa muôn dân muôn loài và làm đầu Hội Thánh là Thân Thể của Đức Giê-su Ki-tô.
2. Chúng ta thực hiện Sứ Mạng Làm Chứng:
Trước tiên chúng ta có chia sẻ xác tín của các Giám Mục của chúng ta không ? Tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu các ngài đã quả quyết rằng “nếu trong thiên niên kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, Thập Giá đã được trồng trên đất Âu Châu, trong thiên niên kỷ thứ hai, Thập Giá được trồng trên đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì trong thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội sẽ được một mùa gặt bội thu trên lục địa rộng lớn và tràn trề sức sống này.” ( Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 1 ).
Để có được một mùa gặt bội thu, chúng ta có đồng quan điểm với các ngài về việc dành ƯU TIÊN cho việc Loan Báo tức Làm Chứng không ? ( Xem THGHTCA số 19 ) Dành Ưu Tiên cho việc Loan Báo hay Làm Chứng có nghĩa là mối bận tâm trước nhất và lớn nhất của chúng ta phải là việc Loan Báo Tin Mừng ! Có nghĩa là chúng ta đầu tư trí tuệ, tài năng, tiền của, thời gian, sức lực nhiều nhất, trước nhất cho việc Loan Báo ấy !
Thứ đến, chúng ta đã hiểu rõ thế nào là Loan Báo chưa ? thế nào là Làm Chứng chưa ? Loan báo hay Làm Chứng theo THGHTCA ( số 19 ) trước hết là công khai loan báo Đức Giê-su là Chúa, hay nói rõ hơn như Đức Phao-lô VI và được Đức Gio-an Phao-lô II nhắc lại trong Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, số 22: ”Không có việc Loan Báo Tin Mừng thực sự, nếu trong đó người ta chưa công bố tên, giáo lý, cuộc đời, các lời hứa, Nước Trời và Mầu Nhiệm của Đức Giê-su Na-da-rét, Con Thiên Chúa”
Vậy chúng ta có thể rút ra một kết luận hết sức cụ thể cho cuộc sống là muốn loan báo về Đức Giê-su, người Ki-tô hữu phải biết về “giáo lý, cuộc đời, các lời hứa, Nước Trời và Mầu Nhiệm của Đức Giê-su Na-da-rét, Con Thiên Chúa”. Biết ở đây không chỉ là lý thuyết, kiến thức; mà biết ở đây chủ yếu là kinh nghiệm đời sống nội tâm, gắn bó chặt chẽ và thâm sâu với Thiên Chúa nhập thể làm người và hiện đang sống và hoạt động giữa chúng ta. Có sự hiểu biết ấy, chúng ta mới có thể nói về Người như nói về Đức Chúa và Bạn Thân của mình. Vì thế mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nói chung và Đức Tổng Giám Mục của Tổng Giáo Phận Sài-gòn nói riêng đã đề nghị các giáo xứ, các hội đoàn, các nhóm, các gia đình hãy chú tâm vào việc học hỏi, lắng nghe, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa trong sinh hoạt của mình trong Năm Thánh 2000 vừa qua và trong năm 2001 là năm đầu của Thế Kỷ 21 và của Thiên Niên Kỷ thứ ba này ! Lắng nghe Lời Chúa để sống Lời Chúa; Sống Lời Chúa để Rao Giảng Lời Chúa: đó chính là nội dung Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2000 và đáng lẽ phải là “chương trình hành động” của toàn Giáo Hội Việt Nam !
Cuối cùng, đi vào hành động cụ thể mỗi người phải biết cách Làm Chứng và tìm ra mọi cơ hội cho công việc cao cả này:
Làm Chứng về Ai ? Làm Chứng về Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về Chương Trình Cứu Độ của Người, về Giới Răn yêu Thương, về giá trị siêu việt và bình đẳng của con người, về tình Huynh Đệ giữa mọi người, mọi dân tộc !
Làm Chứng như thế nào ? ( hay bằng cách nào ? ) Làm Chứng bằng nhiều cách: lời nói, việc làm, sách báo, thái độ, cử chỉ, lời cầu nguyện, hy sinh, thời giờ, tiền của, trí tuệ… !
Làm Chứng ở đâu ? Làm Chứng trong gia đình, trường học, cơ quan xí nghiệp và ngoài xã hội !
Làm Chứng cho ai ? Làm Chứng cho những người sống chung quanh và tiếp xúc với chúng ta hằng ngày !
Làm Chứng khi nào ? Làm Chứng bất cứ khi nào: lúc thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn ! ------------------------------
LênTrời ABC-45: Suy Niệm của Lm Augustine, SJ
Lc 24,46-53
Cách đây mấy chục năm, một bộ phim được rất nhiều người Mỹ hâm mộ. Bộ phim ấy mang tựa: LênTrời ABC-45
Cách đây mấy chục năm, một bộ phim được rất nhiều người Mỹ hâm mộ. Bộ phim ấy mang tựa đề Lệ Thu (Laura) là tên một thiếu nữ xinh đẹp bị sát hại. Truyện phim kể lại một loạt những bất ngờ xảy ra khi một thám tử trẻ được phái đến điều tra vụ ám sát nói trên.
Chàng thám tử này tỉ mỉ lục xét căn nhà của Lệ Thu. Chàng xem xét tất cả những điều liên hệ đến cô, những hình ảnh, sách vở, áo quần, thư từ, nhật ký riêng của cô.
Yêu một người đã chết
Một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Chàng thám tử đã hoàn toàn bị hình ảnh xinh đẹp của Lệ Thu ám ảnh. Chàng cảm thấy xúc động và bỗng thấy mình say đắm trước hình ảnh đó, mặc dầu chàng quá biết mình đang yêu đương một con người đã chết.
Thế rồi một buổi tối kia, giữa lúc chàng đang có mặt trong căn nhà của Lệ Thu và đang cố gắng tìm lời giải đáp cho cuộc điều tra mà chàng đã đeo đuổi thì bỗng có tiếng chìa khoá tra vào ổ, rồi cánh cửa mở ra. Chàng thám tử hoàn toàn kinh ngạc: Lệ Thu hiện thân đứng đó trước mặt chàng!
Thì ra Lệ Thu đã đi về miền quê nghỉ ngơi ít bữa. Suốt thời gian vắng nhà, cô hoàn toàn cắt đứt với các phương tiện truyền thông đại chúng, như truyền thanh, truyền hình và báo chí nên không hề hay biết về vụ ám sát xảy ra ngay tại căn nhà của cô mà chính cô, theo báo chí, đã là nạn nhân của vụ thảm sát! Trong thực tế người phụ nữ bị giết không phải là cô nhưng là một người lạ mặt đã xâm nhập căn nhà của cô và đã bị sát hại.
Cuốn phim kết thúc với cảnh Lệ Thu va chàng thám tử yêu nhau, lấy nhau và sống hạnh phúc bên nhau suốt đời.
Cuốn phim lần lượt cho thấy ở phần I cảnh chàng thám tử lục xét căn nhà và nghiên cứu các di vật của Lệ Thu để rồi say mê nàng. Phần II diễn tả biến cố Lệ Thu xuất hiện trước mặt chàng thám tử và được chàng nhận ra nàng như thế nào. Phần III cho thấy cảnh hai người yêu nhau và kết hôn với nhau.
Người đó là ai? Tại sao bị giết
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt chúng ta trước cuộc sát hại của một con người. Nhưng khác hẳn trường hợp nhân vật Lệ Thu trong bộ phim nói trên, con người bị giết chết một cách thê thảm chiều thứ sáu Tuần Thánh đã chỗi dậy khỏi mồ: người đó là ai? Tại sao bị giết chết? Sự kiện người đó chỗi dậy khỏi sự chết có liên hệ gì tới hạnh phúc của gia đình nhân loại?
Trước hết, con người bị đóng đinh và tắt thở trên khổ hình thập giá chiều thứ Sáu Tuần Thánh, cũng chính là con người hiện ra với các môn đệ ba ngày sau đó. Giữa cảnh kinh hồn bạt vía của các môn đệ, Đức Giêsu khi hiện ra đã phải trấn an các ông khi nói: "Sao anh em hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy đây mà!" (Lc 24,38).
Đức Giêsu xuất xứ từ làng quê Nadarét miền Galilê thuộc xứ Pha-lệ-tinh dưới quyền đế quốc Roma. Tên khai sinh của Người là Giêsu, có nghĩa là Giavê Thiên Chúa cứu, sau được kèm thêm tên chức vụ là Kitô, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong và sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo (Lc 4,18). Tuy được biết đến do các sử gia nổi tiếng, như Giuse (Flavius Joseph vào năm 37-100 sau CN), plinê năm 112, Taxít (Tacitus năm 116) và Suctonius năm 120, nhân vật lịch sử Giêsu chủ yếu là đối tượng của bốn sách Tin Mừng, trong đó có sách Tin Mừng thứ ba do tác giả Luca. Luca cho biết ông "đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự… và đã viết để độc giả được nhận thức rằng giáo huấn họ đã học hỏi thật là vững chắc" (Lc 1,3-4). Với tác giả Luca, toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước đều làm nên một lịch sử cứu độ do Đức Giêsu mang lại. Tất cả những điều Giavê Thiên Chúa hứa ban cho dân Người đều được thể hiện nơi Đức Giêsu (Lc 24, 44). Tân Ước trích dẫn tới hơn 100 lần từ các thánh vịnh của Cựu Ước nói về Đức Giêsu và về Giáo Hội của Người (x. Lc 24,25-27; 4,4-46).
-Nhưng tại sao Đức Giêsu bị người ta đóng đinh trên khổ hình thập giá? Tại Nadarét, Đức Giêsu làm nghề thợ mộc cho tới chừng 30 tuổi, thì rút lui vào sa mạc xứ Giuđê và đã xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Kế đến Người trở về miền Galilê và rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa: Người đã chữa nhiều người khỏi bệnh, đã trừ nhiều quỉ ra khỏi những người bị chúng ám.
Người dành mối quan tâm ưu ái đối với người "nghèo", trẻ nhỏ, phụ nữ, những thành phần yếu kém trong xã hội, những người bị giới lãnh đạo Do Thái Giáo khinh chê. Một đàng Người đả phá sự khắt khe và hẹp hòi của đa số người biệt phái, đàng khác Người vẫn từ chối không chiều theo những khát vọng cách mạng của phe chủ trương quá khích. Để trải rộng địa bàn ảnh hưởng, Người đã qui tụ những môn đệ và chọn ở giữa họ, nhóm Mười Hai người tượng trưng cho Mười Hai chi tộc của Dân Mới của Thiên Chúa. Nhưng Người không những đã gặp phải những đám đông không hiểu nổi giáo thuyết Người dạy, mà còn đụng độ với giới lãnh đạo Do Thái Giáo.
Người bỏ miền Galilê, khải hoàn vào thành Giêrusalem là nơi Người bện giây làm roi để đuổi con buôn ra khỏi khuôn viên Đền Thờ. Đó là điều mà giới lãnh đạo Do Thái Giáo không thể nào chấp nhận được. Ít ngày sau, Đức Giêsu đã bị bắt, bị điều tra, xét hỏi và bị giới lãnh đạo Do Thái Giáo lên án tử hình về tội phạm thượng. Tại sao? Vì Người dám tự xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa. Người ta giao Đức Giêsu cho Tổng Trấn Philatô là người kết án Đức Giêsu về tội quấy rối an ninh trật tự khi tự xưng mình là vua dân Do Thái. Ông giao Đức Giêsu cho người Do Thái đem đi đóng đinh trên khổ hình thập giá sau khi đã cho lính đánh đòn Người. Người tắt thở trên thập giá và được chôn trong ngôi mộ đục sẵn trong núi đá. Đó là vào chiều thứ sáu. Sáng sớm Chúa Nhật, các môn đệ của Đức Giêsu đi viếng xác Người thì thấy ngôi mộ nơi chôn xác Người trống rỗng. Lịch sử của Đức Giêsu từ đó đã chuyển sang lịch sử của Giáo Hội Kitô với chính Đức Kitô được các môn đệ loan báo là đã chỗi dậy khỏi sự chết và đã hiện ra với nhiều môn đệ trước sự hốt hoảng của họ (Lc 24,38) như đã nói ở trên.
Toàn bộ những điều thuộc về Đức Giêsu đều chỗi dậy
Với biến cố Đức Giêsu chỗi dậy khỏi sự chết, toàn bộ những lời Người nói và những việc Người làm cũng như những mối tương quan nối kết Người với mọi người, hết thảy đều "chỗi dậy" mãnh liệt để thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ Thánh Linh hiện xuống.
Với Đức Giêsu cũng như với tất cả những người Do Thái đạo đức đến chịu phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả, thời gian đã điểm: Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách quyết liệt; Nước Thiên Chúa quả thật đã kề bên. Vậy, phải sẵn sàng và tỉnh thức và phải sám hối để nghênh đón Chúa đến. Nhưng khác với người Do Thái luôn chờ đợi Chúa đến trong tương lai, Đức Giêsu cho biết Nước Thiên Chúa "đã ở giữa anh em". Người nói với người Do Thái: "Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông (Lc 11,20). Phải phát hiện ra kho báu và bán đi tất cả những gì mình có để mua lấy thửa ruộng có kho báu chôn vùi (Mt 13,44). Phải từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa Giêsu (Mt 16,24-26).
Không phân biệt màu da, ranh giới.
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn vạch cho loài người biết mọi người đều là con cái của Thiên Chúa, không phân biệt màu da, ranh giới và công phúc. Ai mà tôi gặp trên đường cũng là người gần gũi mà tôi phải giúp đỡ (Lc 10,29-37). Đức Giêsu không đến để phá hủy Lề Luật nhưng đến để kiện toàn Lề Luật (Mt 5,17). Người đến không phải để phân rẽ dân Thiên Chúa nhưng để thiết lập dân Chúa nhờ chính Người tự hiến làm của lễ hy sinh. Người dùng chính máu Người để ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và loài người (Lc 22,20).
Đức Giêsu quả là Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho dân Chúa mà Người ưu ái gọi là đoàn chiên của Người. Người đến là để cho các chiên được sống và sống dồi dào (Ga 10,10).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Con người bị giết chết chiều thứ Sáu Tuần Thánh và được các môn đệ loan báo là đã sống lại. Con người đó là ai? Có được một số sử gia Do Thái và ngoại đạo nào biết đến chăng? Người bị kết án tử hình về tội gì trước toà án đạo và đời?
2. Bạn hiểu thế nào về việc Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết liên quan tới Nước Thiên Chúa? Chính bạn nhận được những ảnh hưởng tích cực nào từ việc Đức Giêsu sống lại, liên quan tới niềm tin và niềm trông cậy của bạn?
3. Bạn có biết vị thánh nào say mê khi học hỏi và sống Tin Mừng do Chúa Giêsu công bố chăng? Riêng trong số 117 vị thánh tử đạo Việt Nam, có ai tỏ rõ lòng yêu mến say mê đó không?
(Vietnamese Missionaries in Taiwan ) ------------------------------
LênTrời ABC-46: TÁC NHÂN VÀ CHỨNG NHÂN - Lm Phêrô Phan Văn Lợi
Biến cố Lên trời là chóp đỉnh của Tin Mừng Luca: tất cả hành trình của Đức Giêsu và của môn: LênTrời ABC-46
Biến cố Lên trời là chóp đỉnh của Tin Mừng Luca: tất cả hành trình của Đức Giêsu và của môn đệ bước đi cùng Người qua các con đường Palestina đều nhắm mục tiêu đó, đặt trên ngọn núi cao nhất Giêrusalem, núi Cây dầu. Thật thế, ta biết rằng khi Luca khai mở phần trung tâm cuốn Phúc âm của ông, nói về hành trình dài của Đức Giêsu tiến lên Giêrusalem, trình thuật bắt đầu với ghi chú: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Nhưng ngay trong cuộc Hiển dung, Luca đã xác định nội dung cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu, Môsê và Elia theo chiều hướng như thế rồi: “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (9,31). Cuộc xuất hành vinh hiển này sẽ chính là việc Đức Kitô vào trong ánh sáng Chúa Cha và trong Giêrusalem thiên quốc hoàn hảo, sau khi đã giao sứ mệnh tác nhân và chứng nhân cho các môn đệ của Người.
1. Những tác nhân của Thăng Thiên
Do đó, Đức Giêsu đến Giêrusalem như đến một bến đỗ cuối cùng, bến đỗ của cái chết và sự sống lại. Và lên trời chính là dấu ấn mà thánh sử thứ ba áp trên biến cố Vượt qua: quả thế, đoạn làm nên bản văn Tin Mừng hôm nay đóng lại toàn thể phần thứ nhất của tác phẩm Luca, cuốn Tin Mừng. Đó là kết thúc khải hoàn cuộc sống trần thế của Đức Giêsu. Như một thượng tế, Người đưa tay chúc lành cho Giáo Hội của Người (c.50). Và trước mặt Người, cả cộng đoàn tín hữu ở trong tư thế phụng vụ thờ lạy, ngợi khen và hân hoan: “các ông bái lạy Người”. Đây không phải là giã từ song là khai mạc một thời đại hy vọng.
Chính vì thế, Luca khai mở phần hai tác phẩm của mình, sách Công vụ Tông đồ, cũng với một trình thuật thăng thiên khác: đó là bản văn làm nên bài đọc thứ nhất của lễ trọng hôm nay (1,1-11), mô tả cuộc đại hiển linh của Đức Kitô, Cứu Chúa sống lại. Giáo Hội quy tụ quanh Người để chiêm ngưỡng thực tại đích thực của nhân vật mà Giáo Hội đã sống các thời gian đầu của mình với: hôm nay -theo kiểu nói của thư Êphêsô, dựa trên ngôn ngữ Kinh Thánh truyền thống- “Người được đặt ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời, trên mọi quyền lực thần thiêng” (1,20-21). Nhưng trong giây phút này, ngoài mầu nhiệm đích thực của người con Thiên Chúa, Giáo Hội còn khám phá mầu nhiệm và vận mệnh tối hậu của chính mình nữa: sau khi đã hoàn tất hành trình của mình trong lịch sử, qua việc gìn giữ và loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sẽ đi vào trong vinh quang của Chúa mình.
Dĩ nhiên, đó không phải là một định mệnh tức thì và tầm thường, vì phải đạt tới qua con đường khổ nạn trong lịch sử, một con đường chầm chậm và gian nan. Thật ý nghĩa câu trả lời của các thiên sứ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,11). Thời của Giáo Hội không phải là hão huyền chờ mong một kẻ vắng mặt hay chạy trốn vào trong một bầu trời mộng tưởng, trái lại là trở về với Giêrusalem trần thế để trọn vẹn bước đi con đường sứ vụ của mình. Chỉ có như thế, cửa Giêrusalem trên trời mới mở ra cho người môn đệ.
Như thế, thay vì là lễ của những con người mơ mộng hay ngược lại kinh hoảng trước viễn ảnh một cuộc tận thế đến gần, Thăng thiên thực ra là sự trình bày cách hữu hình và biểu tượng mối liên kết giữa hiện tại và tương lai, giữa thực tế và hy vọng, “niềm hy vọng chúng ta đã nhận” và được Thiên Chúa soi lòng mở trí cho ta thấy (Ep 1,18).
Nhưng như sách Công vụ gợi ý (1,4.8), chúng ta chớ nên rời xa thành của mình, thành Giêrusalem hạ giới, vì ở đó và trong mọi vùng khác của trái đất, chúng ta sẽ phải làm tác nhân và chứng nhân cho Đức Kitô và cho lời Người. Thành ra, nếu quan niệm chính xác về cuộc Thăng thiên, dấu chỉ mục tiêu tối hậu của Đức Kitô và kitô hữu, ta sẽ đề phòng một vài trường phái tu đức cực đoan đang có trong Giáo Hội.
Một đàng, thật mạnh mẽ cơn cám dỗ -còn thấy được thời nay nơi những phong trào khải huyền như phong trào Chứng nhân Giêhôva và một vài phong trào đặc sủng (Thánh linh) quá cuồng nhiệt- cơn cám dỗ “đứng nhìn trời”, chuyên chú chiêm ngưỡng cái kéo ta khỏi mặt đất, khỏi những náo động thường nhật, khỏi các bổn phận cuộc sống nặng nề. Đàng khác, cũng hấp dẫn không kém cơn cám dỗ gọi là “duy thế tục” vốn khép chặt toàn bộ Kitô giáo trong một “hoạt động” cụ thể, ngụp lặn vào việc đời, như các nền thần học giải phóng một thời tại Nam Mỹ.
Do đó, có vấn đề tìm lại sự hòa hợp giữa con đường hiện tại và mục tiêu phải giữ cho sống động ở chân trời, giữa kiếp sống thường nhật tức thời và định mệnh tối hậu hoàn hảo. Công đồng Vatican II, trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng (số 39), đã khẳng định rất rõ ràng: “Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng niềm trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới”. Kể từ khi Đức Kitô nhập thể, lịch sử và vĩnh cửu đã kết hợp không tách rời. Những gì chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính chẳng phải là sự bất tử của linh hồn cho bằng là “sự sống lại của thể xác”, nghĩa là việc tất cả hữu thể và tất cả tạo vật đi vào trong mầu nhiệm vinh quang của Thiên Chúa, có sự cộng tác của kitô hữu. Cuộc Thăng thiên tròn đầy và toàn diện là thế, ý nghĩa tối hậu cuộc Phục sinh của Chúa là thế.
2. Những chứng chân của Khổ nạn
Để giúp thể hiện ý nghĩa đó, Đức Giêsu đã mời gọi các Tông đồ và chúng ta trong giây phút hiện diện tối hậu trên trần gian: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”, chính anh em “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Xem ra ta thích thoát khỏi đoạn cuối Tin Mừng có vẻ ám ảnh đó: “Anh em sẽ là những chứng nhân của Thầy”. Ta đang ở trong niềm vui Phục sinh, đời đang tươi đẹp, Đức Giêsu đã chấm dứt một hành trình gian khổ mà ta muốn quên lãng. Thế nhưng Người lại bảo: anh em sẽ là chứng nhân về tất cả những gì đã xảy đến: các đau khổ của Thầy, cái chết tủi nhục của Thầy...
Nhưng Phục Sinh đâu phải là việc trở lại một cuộc sống trong đó chỉ cần nói thật nhiều tiếng Alleluia là đủ. Điệp khúc thật của Phục Sinh là: “Anh em sẽ là các chứng nhân của Thầy”, sẽ phải nói những gì anh em cảm nghiệm về mầu nhiệm Vượt qua. Tại sao ta vẫn thường dị ứng với sứ mệnh ấy? Tại sao ta cho rằng nói đến thập giá trong một thế giới đang nỗ lực thực hiện cái gọi là “chất lượng cuộc sống”, đang tìm cách đề cao những giá trị gọi là “nhân bản”, đang chú trọng đến thành tích, năng suất, hiệu quả, kitô hữu có vẻ như lạc lõng giữa cõi trần.
Sao ta lại nghĩ rằng: làm chứng nhân cho bác ái đã đủ: kitô hữu hãy góp phần cùng xã hội chăm sóc kẻ khốn khó, bệnh tật, neo đơn, hoạt động xóa đói giảm nghèo, mở lớp học tình thương, thanh toán nạn mù chữ... Ta quên rằng kitô hữu còn phải làm chứng nhân cho sự thật, như Đức Kitô đã coi đây là bổn phận chủ yếu của mình: sự thật về Thiên Chúa, sự thật về con người, một bổn phận đã khiến Người (cũng như bao ngôn sứ trước Người và bao môn đệ sau Người) phải trả giá, trả giá đắt.
Quả thế, làm chứng nhân cho tình thương dễ được vỗ tay, khen ngợi, công nhận, kể cả từ phía những kẻ chống tôn giáo, chống Thiên Chúa. Nhưng làm chứng nhân cho sự thật rất dễ gánh chịu những thiệt thòi, dễ lãnh những đòn thù của kẻ sống trong gian trá, chủ trương độc tài, sử dụng bạo lực. Nhưng có lẽ đó mới là khía cạnh chủ yếu trong vai trò chứng nhân của kitô hữu. Truyền thống Giáo Hội chẳng đồng hóa “chứng nhân” với “tử đạo” (martyr) đó sao? Làm chứng nhân tình thương chỉ cho con người cơm áo, sự sống. Làm chứng nhân sự thật mới đem lại cho con người lẽ sống, dẫn họ tới Nước Trời (ý nghĩa tối hậu của cuộc Thăng thiên). Và trong thế giới cũng như xã hội hiện thời của chúng ta, đó chính là chấp nhận mọi gian khổ vì đức tin, vì Tin Mừng, đó chính là can đảm lên tiếng bênh vực cho quyền làm con người và quyền làm con Chúa, như chứng từ sau đây của một giám mục Công giáo thầm lặng ở Trung Quốc trao cho một người bạn đến thăm và được thông tấn xã Fides của bộ Truyền giáo trích đăng tháng 11 năm 1999:
“Tại Trung Quốc, chúng tôi không thể cử hành thánh lễ khi chúng tôi muốn. Chúng tôi không thể quyết định một hoạt động nào, chẳng hạn truyền chức linh mục hoặc mở một chủng viện mới. Tự do của linh mục trong Giáo hội Công giáo công khai (tức thuộc Hội Công giáo yêu nước) còn bị thu hẹp hơn tự do của linh mục trong Giáo hội Công giáo thầm lặng. Linh mục công khai bị kiểm soát trong mọi di chuyển: mỗi khi ra ngoài nhà mình đều có người theo dõi; để thi hành bất kỳ hoạt động nào, linh mục công khai đều phải xin phép nhà nước. Một linh mục thầm lặng ít nhất còn có thể viếng thăm các tín hữu một cách âm thầm, bí mật. Về phần tôi, vì bị quản thúc tại gia, tôi không được tự do thăm viếng các tín hữu của tôi. Nhiều khi tôi thi hành một vài sứ vụ một cách bí mật, nhưng rất là khó khăn.
Trong dịp Hồng Kông được trả lại cho Trung Quốc, và trong những dịp lễ trọng của Giáo Hội, tôi luôn bị quản thúc tại gia. Công an khóa tôi trong nhà, và tôi không thể tiếp xúc với các tín hữu. Các linh mục hoặc nữ tu chỉ có thể đến gặp tôi hai người mỗi lần hoặc đến một mình, nhưng luôn luôn là lén lút. Nếu công an nhà nước khám phá được, thì họ sẽ bị trừng phạt hoặc bị tịch thu các đồ đạo hoặc tiền bạc. Và cho dẫu tôi khai rằng mình lên thành phố để khám bệnh, họ vẫn không tin và nói: Chắc chắn là ông đi thăm các tín hữu của ông. Các viên chức nhà nước nói với chúng tôi rằng: Các ông chỉ có thể cầu nguyện cho ĐGH nhưng không thể tùng phục ngài. Tôi trả lời họ: Các ông không theo đạo nào, còn Giáo Hội Công Giáo của chúng tôi là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Quan hệ giữa chúng tôi với ĐGH như một ngành với thân cây nho! Các chủng viện của Hội Công giáo yêu nước có các giáo sư đến từ nước ngoài; chúng tôi hy vọng rằng các vị ấy cũng đến với chúng tôi. Chắc chắn là có khó khăn về vấn đề an ninh. Chúng tôi cũng gặp khó khăn về tài chánh, nhưng chúng tôi có thể giải quyết các khó khăn đó. Hiện nay trong giáo phận chúng tôi có 40 linh mục, 50 chủng sinh và 100 nữ tu. Như vậy, thứ tự do tôn giáo mà hiến pháp TQ bảo đảm chỉ là thứ tự do của chim trong lồng, của súc vật trong cũi. Và trong bối cảnh đó, chứng tá đức tin can trường và trung thành của các tín hữu Công giáo tại TQ càng đáng ngưỡng mộ hơn nữa vậy”. ------------------------------
Khi còn ở với các môn đệ, đã nhiều lần Chúa Giêsu nói trước là Ngài sẽ về trời, giờ đây là lúc Ngài thực hiện điều đó. Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần, thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.
Đối với các Kitô hữu, sự thăng thiên của Chúa Giêsu có ba ý nghĩa:
1) Đó là sự kết thúc. Một giai đoạn đã qua và một giai đoạn khác bắt đầu.
Ý nghĩa trọng đại của việc Chúa thăng thiên là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho tới đời đời. Tác giả thư Do thái viết: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi. Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng” (Dt 1,3). “Không phải nhờ máu dê hay máu bê, nhưng là nhờ chính Máu của Ngài, Ngài đã vào thánh điện -- duy chỉ một lần -- sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời” (Dt 9,12). Chúa Giêsu đã làm xong công tác cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một vị Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng đời đời vượt khỏi thời gian và không gian.
2) Và như vậy đây là một khởi đầu
Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải với tấm lòng sầu muộn, vì họ biết rằng từ nay không gì có thể ngăn cách mình với Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô?” (Rm 8,35) và ông khẳng định: “Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta!” (Rm 8,38-39)
3) Hơn thế nữa, sự thăng thiên của Chúa quyết chắc với các môn đệ rằng họ chẳng những có một người Thầy ở thế gian mà còn có một người Thầy ở trên trời nữa.
Thánh Phaolô thách thức: “Ai sẽ cáo tội những kẻ Thiên Chúa đã chọn -- Thiên Chúa đã giải án tuyên công, ai sẽ là người lên án? -- Phải chăng là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng đang chuyển cầu cho ta” (Rm 8,33-34)
Chẳng hề có ai, vì Chúa đã chết đền tội chúng ta, đã sống lại làm Cứu Chúa của chúng ta và hiện đang ngồi bên hữu cầu thay cho chúng ta như một trạng sư. Bên hữu Cha là chỗ có thế lực, có uy quyền nên sự cầu thay của Chúa Giêsu rất linh nghiệm.
Còn một điều quan trọng hơn nữa, sự thăng thiên của Chúa Giêsu là điều kiện để Ngài sai Chúa Thánh Thần xuống, mà chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm này vào Chúa nhật tới.
Nếu chúng ta biết Chúa Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các thánh đã yêu mến, đã yêu mến một quê hương tốt hơn -quê hương trần gian- mà các ngài gọi là quê hương trên trời. Thánh Phaolô khuyên chúng ta là những người cùng chết, cùng sống lại với Chúa Giêsu cũng sẽ được cùng cất lên trời để gặp Ngài: “Vậy đã cùng sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng (hướng) về những điều dưới đất. (Cl 3,1-2)
Chúng ta phải cẩn thận về điều thánh Phaolô muốn nói ở đây, chắc chắn Ngài không hề biện hộ cho việc mơ tưởng tới một thế giới khác khiến những người tin Chúa tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngưỡng cõi đời đời mà thôi. Vì ngay sau đó, thánh Phaolô tiếp tục quy định một loạt các nguyên tắc đạo đức vạch rõ rằng người Kitô hữu cứ tiếp tục công việc ở đời này và duy trì mọi mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình phải quan tâm đến, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi đời đời. Rõ ràng điều ấy sẽ đem đến cho người Kitô hữu một loạt các giá trị mới. Kitô hữu sẽ không còn bận tâm đến những điều mà người thế gian xem là quan trọng nữa. Các tham vọng đang ngự trị thế gian sẽ bất lực và không thể làm cho người ấy vướng bận nữa. Người ấy sẽ tiếp tục sử dụng những điều thuộc về thế gian này nhưng trong một cách thức mới. Người ấy sẽ đặt việc ‘cho đi’ lên trên việc ‘thu góp’, phục vụ trên cai trị, tha thứ ở trên báo thù. Tiêu chuẩn về giá trị của người ấy sẽ là tiên chuẩn của cõi trời chứ không phải cõi đời.
Khi người thanh niên giàu có đến xin Chúa Giêsu chỉ cho anh phương cách để được sống vĩnh cửu. Chúa bảo anh về đem tài sản phân phát cho kẻ nghèo để được của cải trên trời. Điều gì đã làm vì tình yêu sẽ bền vững muôn đời.
Thật an ủi khi biết rằng Đấng chờ đợi ta ở trên trời cũng là Đấng đã, đang bao bọc ta ở dưới đất. ------------------------------
LênTrời ABC-48: NHÌN THEO HƯỚNG NGƯỜI ĐI – VIKINI
Thánh Luca tường thuật cuộc Thăng thiên của Đức Giêsu trong hai quyển sách: Quyển thứ nhất: LênTrời ABC-48
Thánh Luca tường thuật cuộc Thăng thiên của Đức Giêsu trong hai quyển sách: Quyển thứ nhất là Tin Mừng, quyển thứ hai là Công Vụ Tông Đồ.
Trong Tin Mừng, Ngài kể biến cố Thăng thiên như xẩy ra ngay trong ngày Đức Giêsu sống lại. Sau khi Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường về Em-mau, rồi với các tông đồ ở Giêrusalem, Người dậy bảo và sai các ông đi rao giảng cho muôn dân. Nói xong, Người chúc lành cho các ông và Người lên trời ngay trước mắt các ông.
Trong công vụ, Thánh Luca thêm một số chi tiết khi Chúa lên trời: Về thời gian là sau 40 ngày (Cv. 1, 3 ; 13,31), về không gian là núi Ôliu (núi cây Dầu) (Cv. 1,12), và có đám mây rước Người lên (Cv.1, 9). Những chi tiết này vừa nói lên tính chất lịch sử vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Bốn mươi ngày là thời gian Đức Giêsu còn ở dưới thế, hiện ra dậy dỗ các tông đồ, ăn uống, an ủi, chúc phúc cho các ông và các ông đã thấy Người bằng tai, mắt, đụng chạm, gần gũi Người. Những việc đó nói lên tính cách cụ thể về lịch sử. Bốn mươi ngày còn tượng trưng cho thời gian được đặc ân mặc khải của Thiên Chúa, như ông Môsê ở trên núi Sinai bốn mươi ngày đêm đã được Thiên Chúa mặc khải cho mười điều răn (Xh. 24,18 ; 34, 28).
Đám mây vừc có tính chất vật lý cụ thể, vừa nói lên vinh quang của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa hiện ra, như Thiên Chúa đã giao ước với ông Noe bằng đặt cầu vòng trên đám mây là dấu chỉ “nước sẽ không dâng lên thành đại hồng thủy để tiêu diệt loài người nữa” (St. 9, 13-15). Đám mây cũng là nơi Đức Giêsu ngự giá để chứng tỏ Người là Thiên Chúa như khi Người biến hình trên núi có “đám mây đến bao phủ các ông tông đồ và từ đám mây có tiếng phán rằng: Đây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mc. 9, 7). Đặc biệt trong ngày quang lâm: “Các ông sẽ thấy Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự trên mây trời mà đến” (Mc. 14, 62 ; Mt. 26,64).
Núi Ôliu: ( Núi cây Dầu) ở phía đông thành Giêrusalem. Đi từ núi vào thành phải vượt qua thung lũng Kê-rôn (Cedron) mênh mông, nơi có những vườn cây xanh tươi, vườn Giêtsêmani cũng nằm ở đây. Betania cũng nằm ở phía đông sườn núi, nơi Đức Giêsu đã cho Lazarô chết bốn ngày sống lại (Mc. 11, 18), cũng ở phía đông núi Ôliu có ngọn núi Beth-pha-giê, nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem trong ngày lễ lá. Chính trên ngọn núi này, Người đã tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào và ngày tận thế của loài người (Mc. 11,1 và 13,3). Trong những ngày tuần thánh, trước khi bị bắt, Đức Giêsu thường xuyên đến miền núi này để cầu nguyện trong những đêm thanh vắng. Thánh Luca kể Đức Giêsu lên trời ở núi Ôliu, vừa nhắc lại những biến cố lịch sử, vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa vì “tất cả cánh đồng thây ma, tro tàn, tất cả các nương rẫy cho đến khe suối Kê drôn … hết thảy đều là của thánh dâng kính Thiên Chúa” (Gr. 31, 40), trong thị kiến của ngôn sứ Êgiêkiel đã thấy: “Vinh quang Thiên Chúa từ giữa thành đi lên và dừng lại trên núi phía đông của thành”. Nơi đây đã thành nơi tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời ở đấy và “Các ông sụp lạy Người… Lòng đầy hoan hỷ mà chúc tụng Thiên Chúa”, bây giờ các ông hoàn toàn nhận ra Người là Thiên Chúa, sụp lạy và chúc tụng Người với tâm tình thờ lạy Thiên Chúa, và lòng các ông đầy hoan hỷ.
¯ Lòng đầy hoan hỷ bởi vì Thầy mình thật là Thiên Chúa hằng sống, không còn phải chết nữa.
¯ Các ông hoan hỷ vì Thầy đầy quyền năng Thánh Thần để dậy các ông hiểu lời Kinh thánh, và Thầy về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để ban sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các ông.
¯ Các ông hoan hỷ vì Thầy đã tín nhiệm trao cho các ông tiếp tục công cuộc rao giảng công cuộc cứu độ của Thầy và làm chứng về Thầy đã chịu khổ hình, và ngày thứ ba Ngài đã sống lại từ cõi chết. Bây giờ Người ngự trên trời, nhưng vẫn ở lại với các ông mọi ngày cho đến tận thế. Với lòng đầy hoan hỷ ấy, các ông hăng hái trở lại Giêrusalem, vào đền thờ cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa, chờ đợi ngày Thánh Thần hiện xuống để cùng các ông làm chứng về Thầy tại Giêrusalem, khắp xứ Giuda, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.
¯ Đầu đội trời, chân đạp đất: “Các ông đăm đăm nhìn trời hướng Người đi” (Cv, 1,10).
Nhìn theo hướng Thầy đi: Thầy đã từ trời xuống đất, Thầy đã dốc hết tâm sức ra phụng sự Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em. Thầy đã không ngại phục vụ cho đến cùng, hiến toàn thân chịu chết và chết trên thập giá, để xây dựng một vương quốc bao la hoà giải, hòa thuận, hòa bình, một vương quốc công bình, hiệp thông và bác ái.
Các ông đăm đăm nhìn theo hướng Người đi: Thầy từ trời xuống, rồi về trời. Các ông cũng phải nhận sức mạnh Thánh Thần từ trời xuống để các ông đi khắp mặt đất rao giảng Tin Mừng của Thầy từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất để xây dựng vương quốc của Thầy đã thiết lập, rồi các ông mới được về trời hưởng vinh quang của Thầy.
¯ Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải đăm đăm nhìn trời “Cầu xin Chúa Cha vinh hiển, là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho chúng ta thần khí khôn ngoan, để mặc khải cho chúng ta nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho chúng ta thấy rõ: Đâu là niềm hy vọng chúng ta đã được” (Bài đọc II) đâu là con đường hy sinh phục vụ quên mình, hết mình và bỏ mình của Đức Giêsu Kitô, để chúng ta đi theo con đường đó mà xây dựng một thế giới mới. Lúc đó, chúng ta mới được đi theo Người về trời hưởng gia nghiệp vinh quang phong phú của Người. Amen. ------------------------------
LênTrời ABC-49: THẦY Ở LẠI VỚI CÁC CON - Đức Cha G.B. Bùi Tuần .
Trước khi về trời, Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến: LênTrời ABC-49
Trước khi về trời, Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Đây là một lời hứa đầy an ủi. Vì chưng, còn gì quí bằng được có Chúa Cứu Thế ở bên mình.
Ý thức về lời hứa ấy, Hội Thánh hay nhắc cho chúng ta ơn trọng được Chúa ở cùng. Những lời trong Phụng vụ, như “Chúa ở cùng anh chị em” là những lời cầu chúc cần chúng ta để tâm suy nghĩ.
Chúa Giêsu hứa ở lại với chúng ta. Nhưng ở lại với mục đích nào?
Để đào tạo ta.
Chúa ở lại một cách trọn vẹn, có nghĩa là với tất cả tâm tình và cuộc đời cứu thế của Ngài. Một trong những mục đích quan trọng Ngài nhắm tới là đào tạo ta. Ngài ở lại với ta để dạy dỗ ta. Để ta học với Ngài. Để ta có thể được nên giống Ngài.
“Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Ngài quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Ngài, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong cái chết của Ngài, với hy vọng có ngày chúng ta được sống lại từ trong cõi chết” (Ph 3,10-11).
Khi biết rõ: Đức Kitô ở lại với ta, để dạy dỗ ta, để cuộc đời của Ngài là trường dạy ta, thì bổn phận của ta là cố gắng đi vào sự sống của Ngài.
Đi vào sự sống của Đức Kitô, không phải là nghiên cứu hồ sơ về ĐKT, nhưng là phải gặp gỡ chính ĐKT.
Gặp gỡ thường xuyên Đức Kitô là một bổn phận cao đẹp và cũng là một công việc linh thiêng ngọt ngào.
Càng gặp gỡ Đức Kitô, càng đi vào cuộc sống Đức Kitô, chúng ta sẽ càng thấy cuộc sống Ngài rất khác cuộc sống ta. Thí dụ cuộc sống ta thường chạy theo tiêu chuẩn thành công, uy tín, hưởng thụ. Còn cuộc sống Đức Kitô lại luôn nhắm vào tiêu chuẩn: Hiền lành, khiêm tốn, từ bỏ mình, yêu thương, phục vụ.
Nhưng điều quan trọng nhất Ngài dạy ta, đó là: Để cứu độ, Ngài đã trải qua chặng đường cực kỳ đau khổ trước khi được sống lại. “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, các thượng tế, các kinh sư loại bỏ. Rồi bị giết chết. Sau cùng sẽ sống lại” (Mc 8,31).
Tất cả những việc đó đã được Đức Kitô thấy trước, báo trước. Và tất cả các việc đó đều đã xảy ra. Đây là một thực tế gây bàng hoàng, ghê sợ. Ấy thế mà, khi gặp gỡ Chúa Giêsu, để lắng nghe bài dạy đào tạo của Ngài, ta thấy Ngài không ngần ngại bảo ta cũng hãy đi theo con đường Ngài đã đi. “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mc 8,34).
Phản ứng trước sự Chúa Giêsu ở lại với chúng ta.
Phúc Âm cho thấy thời Chúa Giêsu, các phản ứng trước con người và cuộc sống Chúa Giêsu là rất nhiều và rất khác nhau. Kẻ thì đón nhận, kẻ thì tin nhưng không theo. Kẻ thì tin và đi theo. Kẻ thì chối bỏ. Kẻ thì săn đuổi và loại trừ Ngài một cách độc ác và gian ác. Những kẻ hung hăng nhất lại là một số các nhà lãnh đạo tôn giáo tức là các thượng tế, các nhà thông thái tức là các kinh sư, các người có uy tín trong xã hội tức là các kỹ lão.
Bởi vì theo thói thường, ai cũng muốn theo một vị thầy, một vị cứu tinh quyền uy, đắc thắng, đè bẹp quân thù, giải thoát thành công khỏi mọi khổ đau, để đi tới vinh quang, hưởng đời sung sướng, được mọi người kính nể. Ai cũng muốn được đào tạo trên con đường trơn tru, dễ dãi. Ai cũng rất ngại con đường khiêm tốn, khó nghèo, từ bỏ ý riêng, để tuân phục thánh ý Chúa. Chúa Giêsu sống khác, dạy khác. Nên bị người ta ghét và chống đối.
Xem ra thời nay hơn kém cũng vẫn thế thôi.
Mấy thí dụ về hiện tình theo Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, công bình mà nói, thời nay không thiếu người đã không theo thói thường trên đây. Họ đã đón nhận Chúa Giêsu, đã tin Ngài, đã đi theo Ngài. Ngài đã đào tạo họ. Họ thực sự đang đi vào cuộc sống của Ngài.
Hiện nay, bao người đang lặng lẽ xông pha như thánh Phaolô xưa: “Giờ đây, bị Thần Linh trói buộc, tôi lên Giêrusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này là: Tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi chẳng đáng giá trị gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, cho tròn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24). Họ được như vậy là vì họ có Chúa Giêsu ở lại trong họ và đào tạo họ.
Hiện nay, bao người đang lặng lẽ đi theo Chúa Giêsu đến tận Núi Sọ. Họ chịu đóng đinh mình một cách thiêng liêng vào thánh giá. Trước các thách thức, họ vẫn thinh lặng, hiền từ khiêm tốn dâng chính mình làm của lễ đền tội cho nhân loại và khẩn cầu ơn tha thứ cho những kẻ làm khổ mình. Bởi vì Chúa Giêsu ở lại trong họ, sống trong họ, đào tạo họ để thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Nhờ đó, vô vàn người đã và đang được sống lại.
Hiện nay, biết bao người đang hằng ngày lặng lẽ đón nhận tinh thần phục vụ, hiền lành và khiêm nhường cầu nguyện của Đức Kitô vào lòng mình như đón nhận một hạt giống. Hạt giống Tin Mừng này đang dần dần mọc lên trong họ một cách thinh lặng dưới sự chăm sóc của Thánh Linh. Để nhờ đó, họ biết có những chọn lựa rất hợp thánh ý Chúa Cha trong mọi tình huống cụ thể, theo hướng dẫn của Thần Linh Đức Kitô.
***
Để kết, tôi xin phép chia sẻ kinh nghiệm riêng tôi về lời Chúa hứa: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Khi Chúa Giêsu ở lại với môn đệ Ngài, thì Ngài cứu họ, nhất là bằng cách đào tạo họ. Nhiều lúc Chúa đào tạo bằng những khổ đau. Có đủ loại khổ đau. Có khổ đau có tên, và có những khổ đau không tên.
Nhưng chính nhờ cách đào tạo qua các thử thách như vậy, mà người môn đệ Chúa sẽ biết bám chặt vào Chúa, sẽ hết sức tin cậy vào Chúa, sẽ tha thiết kết hợp với Chúa, sẽ hết sức cố gắng khiêm nhường từ bỏ mình trong mọi sự để biết tuân phục thánh ý Chúa.
Như vậy, câu hỏi quan trọng mà mỗi người chúng ta cần đặt ra cho lương tâm mình sẽ là: Tôi có khát khao và thực tâm đón nhận Chúa Giêsu không? Tôi có khiêm tốn vâng phục Chúa Giêsu trong kế hoạch Ngài đào tạo bản thân tôi và cộng đoàn tôi không? Rồi, hãy khiêm tốn tin cậy đến với Chúa Giêsu, để tạ ơn, sám hối và nài xin Ngài luôn ở lại với ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ở lại với con mọi giờ, mọi phút, bởi vì Chúa mới là Đấng cứu độ con, là mô hình đào tạo con. Lạy Chúa, xin thương xót con.
Long Xuyên, ngày 7 tháng 5 năm 2001
Đức Cha G.B. Bùi Tuần ------------------------------
LênTrời ABC-50: Sứ Vụ đã hoàn thành nhưng chưa hoàn tất
Lm Phêrô Phạm Ngọc Lễ
Ngày Lễ trọng mừng Chúa Giêsu Lên trời, toàn bộ Phụng Vụ muốn nói với chúng ta, “Sứ Vụ: LênTrời ABC-50
Ngày Lễ trọng mừng Chúa Giêsu Lên trời, toàn bộ Phụng Vụ muốn nói với chúng ta, “Sứ Vụ đã hoàn thành nhưng chưa hoàn tất”. Trong bài Tin Mừng, Thánh Luca nhấn mạnh đến việc hoàn thành sứ vụ: mầu nhiệm Vượt Qua và việc phúc âm hóa thế giới. Trình thuật Công vụ tông đồ tập chú vào trọng trách cần phải được bổ túc: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy…cho đến tận cùng trái đất”; Đức Giêsu…cũng sẽ ngự đến…” Sau cùng, thư gởi Do Thái tóm kết sứ mạng đã được hoàn thành trong Đức Kitô vinh hiển, Vị Thượng tế của Đền Thánh trên trời ( Người vào đó một lần cho tất cả) nhưng chưa hoàn tất (“để giờ đây ra trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta…Người sẽ xuất hiện lần thứ hai…để cứu độ những ai trông đợi Người”)
Sứ Điệp Niềm Tin
1. Đức Giêsu Kitô có thể an tâm.
Lên Trời không phải là thời gian bi thảm cho Đức Giêsu hoặc cho các môn đệ của Ngài. Lên Trời là sự chia tay của Đấng sáng lập, giao phó trách nhiệm cho con cái tiếp tục công việc của Người, nhưng không phải bỏ mặc họ cho số phận. Đúng hơn, Người hằng dõi theo những thăng trầm trong việc thiết lập Nước Trời giữa lòng đời từng bước một với sự hướng dẫn của Thánh Thần. Đức Kitô an tâm, vì Người đã làm trọn Kinh Thánh, và các môn đệ cũng bắt đầu hiểu điều đó. Đức kitô có thể an tâm, chẳng phải vì các môn đệ của Ngài đều là những anh hùng, nhưng vì Thần Khí của Ngài vẫn luôn theo dõi họ, bất cứ nơi nào trong sứ vụ rao truyền tin mừng. Đức Giêsu Kitô có thể an tâm, bởi vì các môn đệ của Ngài, hun đúc bởi Thần Khí, có thể rao truyền Tin Mừng của Thiên Chúa, là chính Đức Giêsu Kitô, cho mọi dân, qua mọi thế hệ, đến tận cùng trái đất cho đến tận thế. Đức Kitô có thể an tâm bởi vì Người đã hoàn thành sứ vụ của Ngài trong lịch sử, và đã ‘chuyển giao’ cho Thánh Thần, Đấng sẽ khơi dậy điều đó nơi tâm hồn những kẻ tin. Đức kitô có thể an tâm, vì các môn đệ của Ngài rao truyền cũng một tin Mừng mà Ngài đã rao giảng; họ cũng làm những dấu lạ mà Ngài đã làm, họ sẽ làm chứng cho sự thật của Tin Mừng y hệt như Ngài đã làm chứng đến độ chết trên thập giá. Lạy Chúa Giêsu, Chúa có thể an tâm, vì Hội thánh của Chúa, giữa bao chống đối của thế gian, và dù những yếu đuối vấp ngã của con cái Chúa, vẫn luôn trung thành với Chúa, cho tới khi Chúa lại đến.
Rời thế gian đồng thời ở lại trong thế gian.
Khi một người nào đó sắp chết, người ấy cảm thấy tự thâm tâm một khát vọng muốn ở lại thế gian, muốn để lại cái gì của chính mình, cùng lúc muốn rời bỏ và muốn lưu lại. Người ấy sẽ để lại con cái, chúng sẽ tiếp nối đời sống của kẻ ấy và nhớ đến kẻ ấy, để lại ngôi nhà mà kẻ ấy đã xây dựng, để lại cây mà kẻ ấy đã trồng, để lại một dự án, dù lớn hay nhỏ, về khoa học, văn chương … Đức Giêsu, vừa là người vừa là Chúa, là Đấng duy nhất có khả năng thỏa đáp cái băn khoăn đó trong lòng con người. Ngài rời bỏ, cũng như bao người khác. Nhưng Ngài vẫn còn lưu lại, không chỉ trong trí nhớ, trong một dự án, nhưng là trong hiện thực. Ngài vinh hiển trên trời nhưng đồng thời đang sống cách nhiệm mầu nơi trần thế. Với ân sủng, Ngài sống trong lòng mỗi tín hữu; Ngài sống trong hy tế Thánh Thể, và nơi nhà tạm trên khắp thế giới Ngài vẫn tiếp tục sự hiện diện cứu độ và thực sự của Ngài. Ngài sống và lưu lại với ta bằng Lời của Ngài, lời vang vọng trên môi miệng của những người rao giảng và trong tâm thức của mọi người. Ngài lưu lại và hiện diện nơi Đức Giáo Hoàng, Các Giám Mục và Linh Mục đại diện Ngài trước mặt muôn dân, là sự nối dài của Đức Kitô. Đức Giêsu lưu lại với ta, và với Thánh Thần của Ngài, Ngài xây dựng bên trong con người, một tạo vật mới, là hình ảnh của Ngài trong lịch sử. Sự hiện diện thường hằng của Đức Giêsu Kitô trong thế giới là rất thực, nhưng cũng rất nhiệm mầu, ẩn giấu, chỉ những ai có cái nhìn của lòng tin mới nhận ra Ngài.
Gợi Ý Mục Vụ
1. Đức Kitô vẫn ở cùng ta.
Trong đời sống con người, ta cần có sự hiện diện của một bạn hữu, ngay cả khi ta chỉ có một mình. Ta cần một sự hiện diện thực sự: của một người vợ, của những đứa con, của một người thân, của một đồng nhgiệp, của một người lối xóm… hay ít ra của một người ta mơ đến, một sự hiện diện trong trí tưởng tượng như: nhớ đến mẹ, hình ảnh của một người bạn thân thiết nhất, nghĩ đến đứa con đang ở một thành phố khác, một quốc gia khác… Sự hiện diện thực sự hoặc trong tưởng tượng đều nâng đỡ ta, an ủi ta, mang lại cho ta an bình, làm ta phấn khởi. Đức Kitô vẫn ở với mọi người và mỗi người chúng ta. Sự hiện diện của Ngài là thực sự và hiệu quả cho dù ta không thấy và chạm đến được. Đó là sự hiện diện của một người bạn lắng nghe những điều thầm kín của ta với yêu thương, nhẫn nại, lòng tốt, gíup đỡ và quý mến. Là người biết nghe những việc rất nhỏ mọn xảy ra mỗi ngày, cho dù cũng là những việc giống nhau, và chẳng đáng quan tâm chút nào. Là người biết thông cảm những nổi loạn trong tâm hồn ta, những cơn giận dữ của ta, nước mắt của ta, những đam mê xấu….Đức Kitô vẫn luôn ở với ta, bên cạnh ta, lắng nghe ta. Sự hiện diện của Đức Kitô là sự hiện diện của Đấng cứu độ, tìm kiếm ơn cứu độ cho ta bằng mọi cách. Ngài ở cạnh ta khi ta sa ngã để giúp ta sức mạnh vượt thắng. Ngài là bạn đồng hành khi mọi sự tốt đẹp, khi những nổ lực của ta mang lại hoa quả, khi ân sủng gặp được mảnh đất màu mỡ của tâm hồn ta. Ngài ở với ta khi ta quỵ ngã, trong sự bất trung tội lỗi, để giúp ta nhận định ra các sự việc, và vực ta đứng dậy. Đức Kitô lưu lại bên ta để cứu ta. Có bao giờ bạn nghĩ đến sự hiện diện của Đức Kitô như một người bạn và như một Đấng Cứu Độ không?
2. Phụng Vụ cuộc sống hằng ngày.
Như vị thượng tế của giao ước mới, Đức Giêsu đã hiến dâng cuộc sống mỗi ngày của Ngài trên bàn thờ cuộc sống trần thế, cho đến khi Ngài toàn hiến chính mình trong phụng vụ Thập giá. Với biến cố lên trời, vị thượng tế của ta đã rời thế giới này. Chúng ta, kitô hữu, là dân tư tế, chúng ta nhận chính nhiệm vụ dâng hiến thế giới lên Thiên Chúa trên bàn thờ của lịch sử. Đối với kitô hữu, mỗi hành vi đều là hành vi phụng tự, mỗi ngày đời là một phụng vụ cầu nguyện và chúc lành của Thiên Chúa. Không có một hoạt động nào của con người mà lại không được biến nên của lễ thánh làm đẹp lòng Thiên Chúa. Vì vậy, Hiến Chế Tín lý của Công Đồng Vaticanô II về HộiThánh nói cho ta biết rằng tất cả các môn đệ của Đức Kitô, bằng kinh nguyện liên lỉ và lời cầu xin Thiên Chúa, phải hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. (x. Rm 12:1; LG 10). Qua phép rửa, biến ta thành chi thể của dân tư tế, ta được mời gọi tuyên xưng niềm tin đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, qua Hội Thánh, trước mặt mọi người. Như một thành viên của dân tư tế, tôi tuyên xưng niềm tin của tôi nơi gia đình, trước mặt con cái hoặc cha mẹ của tôi. Bằng lối cư xử hoặc bằng lời nói, tôi tuyên xưng niềm tin của tôi trong cuộc họp mặt các bạn hữu hoặc các đồng nghiệp. Như một người chia sẻ chức tư tế thánh tẩy, tôi đặt niềm tin của tôi lên trên tất cả, và tôi lấy đức tin làm chuẩn mực duy nhất cho mọi quyết định và hạnh phúc của tôi. Đời sống của tôi có phải là phụng tự thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa không? Đây có phải là mơ ước sâu thẳm nhất và mục đích to lớn nhất của tôi không?