Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 1 & 7 Vọng-ABC Bài 451-494 Chúa đã sống lại rồi

Thứ sáu - 07/04/2023 09:42
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 1 & 7 Vọng-ABC Bài 451-494 Chúa đã sống lại rồi
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 1 & 7 Vọng-ABC Bài 451-494 Chúa đã sống lại rồi
Suy Niệm Tin Mừng PS 1 &7 Vọng –ABC Bài 451-494: Chúa đã sống lại rồi
----------------------------------    
Mục Lục:

Phúc Âm Năm A: Người phải sống lại từ cõi chết 2
Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại". 2
Phúc Âm Năm C: 3

PS 1-ABC451: Đêm Vọng Phục Sinh. 3
PS 1-ABC452: Niềm hy vọng Phục Sinh. 4
PS 1-ABC453: Sứ điệp của Chúa Phục Sinh. 6
PS 1-ABC454: Lửa và Ánh sáng. 7
PS 1-ABC455: Vượt qua. 9
PS 1-ABC456: Người đã sống lại thật 12
PS 1-ABC457: Chúa đã sống lại thật rồi 14
PS 1-ABC458: CHÚA NHẬT "CHÚA THƯƠNG XÓT". 15
PS 1-ABC459: Chúa Nhật Phục Sinh. 18
PS 1-ABC460: Chúa Nhật Phục Sinh. 21
PS 1-ABC461: Ngôi mộ trống. 23
PS 1-ABC462: Tìm kiếm những sự trên trời 25
PS 1-ABC463: Xác nhận lòng tin. 29
PS 1-ABC464: Đêm thánh - Đêm hy vọng. 34
PS 1-ABC465: Đêm thánh - Đêm hy vọng. 37
PS 1-ABC466: Niềm tin chiến thắng sự sợ hãi 40
PS 1-ABC467: Sự thật minh nhiên. 42
PS 1-ABC468: Khải hoàn. 45
PS 1-ABC469: Tìm Đấng Phục Sinh. 48
PS 1-ABC470: Ánh sáng Phục Sinh. 52
PS 1-ABC471: Tẩy sạch mùi cọp. 54
PS 1-ABC472: Ngày Chúa đã làm ra. 55
PS 1-ABC473: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết”. 58
PS 1-ABC474: Galilê, điểm hẹn của Chúa Giêsu. 59
PS 1-ABC475: Chúa Nhật Phục Sinh. 61
PS 1-ABC476: Ngôi mộ trống. 63
PS 1-ABC477: Chúa Nhật Phục Sinh. 65
PS 1-ABC478: Chúa Nhật Phục Sinh. 67
PS 1-ABC479: Niềm Vui Phục Sinh”. 70
PS 1-ABC480: Ra khỏi mồ. 71
PS 1-ABC481: Người Phải Sống Lại 75
PS 1-ABC482: Trở nên tạo vật mới 77
PS 1-ABC483: Mồ trống. 80
PS 1-ABC484: Phụ nữ. 82
PS 1-ABC485: CON NGƯỜI MỚI 84
PS 1-ABC486: ĐÊM ÁNH SÁNG VÀ NIỀM VUI 86
PS 1-ABC487: “CHÚNG TA LÀ MỘT DÂN TỘC PHỤC SINH”. 89
PS 1-ABC488: PHỤC SINH, NGUỒN HY VỌNG VÀ VINH QUANG.. 93
PS 1-ABC489: TIN MỪNG PHỤC SINH.. 96
PS 1-ABC490: PHỤC SINH, MẠC KHẢI LINH THÁNH.. 97
PS 1-ABC491: ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN.. 101
PS 1-ABC492: NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH.. 102
PS 1-ABC493: CHỨNG NHÂN PHỤC SINH.. 105
PS 1-ABC494: TẠI SAO GIOAN LẠI CHỜ PHÊRÔ?. 108

-------------------------------

 

Phúc Âm Năm A: Người phải sống lại từ cõi chết

Phúc Âm: Ga 20,1-9: "Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo
Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. - Ðó là lời Chúa.

--------------------------------------

 

Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Ðây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước". Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. - Ðó là Lời Chúa.

-------------------------------

 

Phúc Âm Năm C:


---------------------------

-----------------------------
 
 

PS 1-ABC451: Đêm Vọng Phục Sinh


-- TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
 
 

Trong đêm Vọng Phục Sinh, việc công bố Lời Chúa là một phần căn bản của nghi thức Phụng vụ PS 1-ABC451


Trong đêm Vọng Phục Sinh, việc công bố Lời Chúa là một phần căn bản của nghi thức Phụng vụ. Khởi đầu, chúng ta đọc bài trích Sách Sáng Thế, tường thuật việc Thiên Chúa tạo dựng muôn vất muôn loài. Và lời sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa là “Hãy có ánh sáng!” Nơi nào có ánh sáng, nơi đó phát sinh sự sống.

Lễ nghi đêm nay, khởi đầu trong bóng tối là hình ảnh của nhân loại đi trong bóng tối tội lỗi, bóng tối của sự chết. Nến Phục sinh được thắp lên, lan tỏa ra khắp mọi người, cả nhà thờ rực sáng. Đức Kitô phục sinh đem lại sự sống cho cả thế giới, cho cả lịch sử nhân loại. Ngọn lửa nến Phục sinh vừa sáng vừa nóng biểu hiện Đức Giêsu Kitô vừa là Chân lý vừa là Tình yêu, là Chân lý trong Yêu thương. Nhưng nến cháy sáng rồi thì bị tiêu hủy, sống-chết đi đôi với nhau. Chúa Giêsu qua cái chết thập giá, Ngài đã phục sinh và phục sinh tất cả những ai tin vào Ngài. Cây nến mà chúng ta cầm trong tay được thắp lên từ cây nến phục sinh cũng như Chúa Phục sinh đã thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta. Lát nữa đây, khi cử hành Phụng vụ làm phép rửa cho 37 anh chị em dự tòng đây, chúng ta cầu nguyện và cũng hãy cảm nghiệm sự sống của Chúa được chuyển qua anh chị em để trở nên con cái của Chúa. Khi chịu phép rửa, anh chị em hãy tin vào lời Chúa phán:” Hãy có ánh sáng”, và Chúa phân chia anh chị em ra khỏi bóng tối như Ngài đã làm vào lúc sáng tạo vũ trụ. Và trong Đức Kitô, chúng ta nhận ra cái gì đúng cái gì sai, cái gì rạng ngời cái gì tối tăm, cái gì phải làm cái gì phải tránh. Và ánh sáng cuộc đời chúng ta, nhờ đó, cũng lan tỏa ra chung quanh để người khác nhận ra Đức Kitô cũng là ánh sáng cho cuộc đời của họ.

Yếu tố quan trọng thứ hai trong nghi lễ nầy là nước. Trong Đêm Canh thức Phục sinh, đọc 9 bài Kinh thánh: 7 bài Cựu Ước và 2 bài Tân Ước. Vì lý do thời gian hay yếu tố nào khác, phải bớt các bài Đọc , thì cuối cùng cũng giữ lại tối thiểu 4 bài. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được bỏ bài Sách Xuất Hành, chương 14, là chương tường thuật dân Do Thái vượt qua Biển đỏ cách lạ lùng. Nói đến biển, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến sức mạnh của sóng thần đã tàn phá miền Bắc Nước Nhật vừa qua. Trong mạc khải, biển cũng được diễn tả như thế lực thù nghịch, nơi giam giữ ác thần, là nơi hoành hành của sự chết. (Chúa ra lệnh cho biển im tiếng !) Dân Do Thái đi vào Biển Đỏ là nơi chôn vùi binh lính của Pharaô Aicập đuổi theo. Người dự tòng, ngày nay thay vì được dìm vào hồ nước, thì được dội nước trên đầu, nói lên sự chết cho tội lỗi, như Chúa Giêsu bị đóng đinh thân xác vào thập giá và chôn cất trong mồ. Và như lời thánh Phaolô trong thư Do Thái: “(…) khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu Kitô, là chúng ta đã được dìm vài trong cái chết của Người …” Nhưng nước đồng thời cũng mang ý nghĩa của sự thanh tẩy, của sự sống mới, sự tăng trưởng và Chúa Giêsu cũng dùng để nói về Chúa Thánh Thần. Và thánh Phaolô nói tiếp: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được một đời sống mới”.

Qua bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tham dự vào sự Phục Sinh của Đức Kitô. Qua Đêm Canh thức nầy, Giáo hội mời gọi tất cả chúng ta hãy vui mừng, vì trong Đức Kitô, sự sống của chúng ta đã chiến thắng sự chết và sự cứu rỗi cho chúng ta mạnh hơn tội lỗi, vì thế, như Phụng vụ Lời Chúa vừa được cử hành, “Tôi loan báo cho anh chị em một tin rất vui mừng, đó là Alleluia, Chúa đã sống lại!”

-----------------------------
 
 

PS 1-ABC452: Niềm hy vọng Phục Sinh


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
 
 

Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm lại sáng, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay PS 1-ABC452


Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm lại sáng, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lầy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.

Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khoẻ: các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còn đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người. Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta sẽ được cứu sống lại với Ngài. “Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài”. Qua việc lặp lại lời tuyên hứa khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn. Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình.

Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chủa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn. Mỗi năm khi mừng lễ Phục sinh, chúng ta chiêm ngưỡng tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giần hờn, ghen tuông. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục sinh.

Chúa đã chết để cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm vui và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn vẹn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.

-------------------------------
 
 

PS 1-ABC453: Sứ điệp của Chúa Phục Sinh


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
 
 

Bài Phúc Âm đêm vọng Phục Sinh tường thuật lại sự kiện các phụ nữ đến thăm mộ Chúa từ sáng PS 1-ABC453


sớm ngày thứ nhất trong tuần. Các bà chứng kiến cảnh tảng đá đậy cửa mộ bị lăn ra ngoài và thi hài Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Thấy vậy các bà rất phân vân, lo sợ. Tuy nhiên Thiên Thần trấn an các bà “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết ? Người không còn ở đây. Người đã sống lại...

Nhờ đó các bà tin nhận Chúa đã Phục Sinh. Các bà hân hoan trở về báo tin cho các tông đồ, dù rằng các ông vẫn còn nghi ngờ.

Trình thuật của bài Phúc Âm Phục Sinh tối nay muốn gởi đến chúng ta hai sứ điệp quan trọng sau.

Sứ điệp I: Chúa Phục Sinh mang đến niềm vui.

Trước nỗi lo sợ hoang mang của các bà phụ nữ, Thiên Thần Chúa đã trấn an các bà: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại”...

Biến cố Chúa Giêsu chịu chết, đã gây nên cho các bà phụ nữ cũng như hầu hết các tông đồ một nỗi hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay khi Phục Sinh, Chúa muốn trấn an họ bằng cách làm cho các bà phụ nữ nhớ lại Lời Người đã nói khi còn sống: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Nhất là qua sự kiện ngôi mộ trống và lời xác minh của các Thiên Thần, các bà đã tin nhận Chúa đã sống lại.

Như thế, sự kiện Chúa Phục Sinh mang đến cho các bà phụ nữ cũng như cho tất cả chúng ta một sứ điệp lớn lao, sứ điệp của niềm vui.

Vui bởi lẽ từ nay thập giá sẽ trở thành Thánh Giá vinh quang.

Vui bởi lẽ người đời chỉ có thể giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn.

Vui bởi vì từ nay các thế lực thống trị trần gian: Ma quỷ, thế gian, thần chết đã bị đánh bại nơi Đức Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Do đó ai tin nhận Người cũng sẽ có được niềm vui chiến thắng vinh quang ấy.

Sứ điệp II: Nhiệm vụ loan truyền Phúc Âm, tin mừng Chúa Phục Sinh

Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh, nhờ sự soi dẫn của các Thiên Thần và Lời Chúa đã nói, các bà như được thúc đẩy để thực thi sứ mạng loan truyền Phúc Âm. “Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác”.

Tin mừng Chúa Phục Sinh phải được loan báo cho mọi người, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan truyền Phúc Âm” (Ga 10,27).

Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên Thánh Giá và đã Phục Sinh để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta phải tin nhận và loan báo cho mọi người.

------------------------------
 
 

PS 1-ABC454: Lửa và Ánh sáng


--Lm Giuse Đinh Tất Quý
 
 

Trong nghi thức Phụng vụ Vọng Phục Sinh đêm nay, Giáo Hội hướng chúng ta về Lửa và Ánh PS 1-ABC454


Trong nghi thức Phụng vụ Vọng Phục Sinh đêm nay, Giáo Hội hướng chúng ta về Lửa và Ánh sáng. Lửa và ánh sáng là hai yếu tố rất quan trọng và rất cần thiết trong cuộc sống của chúng ta.

Cách đây hơn 8.000 năm, con người chưa khám phá ra lửa. Không có lửa, cuộc sống con người thật tăm tối và bấp bênh.

Đầu thập niên 80, bên Mỹ người ta trình chiếu rộng rãi một bộ phim dị thường mang tựa đề là “Săn tìm lửa”(Quest for fire). Trong bộ phim này, nhà sản xuất đã cho người xem được chứng kiến một cảnh hết sức vui mừng khi người ta khám phá ra lửa lần đầu tiên trên trái đất này. Chính lửa đã giúp cho những con người trên hành tinh này khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn.

Nếu không có lửa không biết cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao.

Bên cạnh ngọn lửa, trong đêm cực thánh này Giáo Hội còn đề cao Ánh sáng.

Không có Ánh sáng, thế giới sẽ sống trong tăm tối. Ánh sáng giữ một vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển của tất cả các tạo vật có sự sống trên trái đất này.

Bài Sách Thánh thứ 1 trong sách Sáng thế Ký chúng ta vừa nghe thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ. Không phải vô tình mà tác giả Sách Thánh đã đặt ánh sáng là yếu tố đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng nên trong chương trình sáng tạo của Người. Ánh sáng được tạo dựng nên trước tất cả mọi tạo vật khác kể cả con người. Tác giả Sách Thánh có lý do để trình bày thứ tự ưu tiên như thế.

Không có lửa và ánh sáng, giá lạnh và bóng tối sẽ ập xuống và tiêu diệt tất cả các mầm sống trên hành tinh trái đất này. Chúng ta không thể tưởng tượng được một cuộc sống mà không có lửa và ánh sáng.

Vậy thì khi Giáo Hội đem Lửa vá Ánh sáng vào đêm Vọng Phục Sinh mừng Chúa sống lại, Giáo Hội muốn cho chúng ta nhận ra sự thật này: Sự sống, nhất là sự sống đời đời của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa. Nếu con người không thể sống mà không có lửa và ánh sáng thì cuộc sống siêu nhiên của chúng ta cũng không thể có và không thể tồn tại nếu không biết lệ thuộc vào Thiên Chúa.

Nhiều người ngày hôm nay đã quên hay cố tình quên đi sự thật đó.

Vũ trụ này đã không phải tự nhiên mà có. Khoa học đã cho chúng ta thấy điều đó. Vũ trụ này đã có một sự khởi đầu.

Con người cũng không phải tự nhiên mà có. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người chúng ta, tạo dựng nên từ tro bụi.

Chính Thiên Chúa cho con người sự sống và chính Người gìn giữ sự sống của con người. Từ bụi đất Chúa đã làm nên chúng ta và vì yêu thương, Thiên Chúa cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Người.

Tội lỗi đã làm cho sự sống của Chúa nơi chúng ta bị mất đi. Dù chúng ta có phản bội, tình yêu của Người vẫn tồn tại.

Một lần nữa, Thiên Chúa lại cho chúng ta thấy Tình yêu của Người. Người đã sai Con của Người xuống cõi trần ai làm người và chịu chết để chuộc tội cho chúng ta.

Bằng sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Người muốn cho chúng ta được quyền chia sẻ lại sự sống của Người nếu chúng ta biết chết đi cho con người tội lỗi của mình, để phục sinh lại trong con người mới với Đức Kitô.

Chính sự Phục Sinh của Đức Kitô bảo đảm sự sống đời đời cho chúng ta.

Hãy sống lại với Chúa Giêsu trong con người mới: Con người thánh thiện, nhân từ, đầy lòng yêu thương, để xứng đáng với ơn Chúa cứu chuộc và Tình thương của Người.

Một thương gia theo Ấn giáo sống tại Ấn Độ, một lần kia đã hỏi một nhà truyền giáo Kitô Giáo:

- Ông có thoa cái gì trên mặt ông không mà lúc nào tôi thấy mặt ông cũng rạng rỡ thế ?

Ngạc nhiên quá, vị giáo sĩ trả lời:

- Tôi có thoa gì đâu!

Ông nhà buôn nhấn mạnh:

- Có, chắc chắn mà! Tôi thấy hầu hết những người tin Chúa Giêsu đều có vẻ mặt tươi sáng tương tự như Ngài. Tôi đã thấy những người đó tại thành phố Agra và Surat và ngay cả thành phố Bombay này nữa.

Thình lình vị giáo sĩ hiểu ra và hối hả trả lời: “Bây giờ tôi hiểu ông nói gì rồi và tôi xin cho ông biết bí quyết của chúng tôi. Đây không phải là những gì chúng tôi thoa từ bên ngoài, nhưng là những gì phát xuất từ bên trong. Đó là sự phản chiếu ánh vinh quang Thiên Chúa trong lòng của chúng tôi”.

Hãy tin tưởng vào Chúa và hãy thanh thản bước đi an bình giữa một thế giới đầy dẫy những cạm bẫy và bất trắc này, vì Chúa Phục Sinh đang đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống này. Amen.

--------------------------------
 
 

PS 1-ABC455: Vượt qua


--Lm Giuse Đinh Tất Quý

I. Đêm nay là đêm Vượt qua.
 
 

Bài đọc thứ nhất Chúa tạo dựng lên trời đất: Vượt qua từ không sang có. Bài thứ hai câu truyện PS 1-ABC455


Bài đọc thứ nhất Chúa tạo dựng lên trời đất: Vượt qua từ không sang có.

Bài thứ hai câu truyện của Abraham: Vượt qua từ con người ích kỷ, chỉ biết sống cho mình với ý riêng của mình để sống cho Thiên Chúa.

Bài thứ ba kể lại chuyện người Do thái vượt qua Biển đỏ: Trước khi vượt qua Biển đỏ họ sống một cuộc sống nô lệ. Khi vượt qua Biển đỏ họ bắt đầu bước vào cuộc sống sống tự do.

Bài Thánh thư Thánh Phaolô: Vượt qua tội lỗi bước vào đời sống ơn sủng.

Bài Phúc Âm: Chúa Giêsu vượt qua từ sự chết bước vào sự sống. Đây là cuộc vượt qua hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất.

Mọi cuộc vượt qua…như vượt qua từ không sang có, từ con người ích kỷ sang cuộc sống quảng đại hiến thân, từ nô lệ sang tự do, từ tội lỗi sang đời sống ân sủng, từ cái chết bước vào sự sống đều đòi hỏi một sự giã từ, giã từ một cái gì đó bất toàn để bước sang một sự hoàn hảo hơn. Việc giã từ như thế không phải lúc nào cũng suông sẻ, không phải lúc nào cũng dễ dàng nhưng rất nhiều khi nó đòi hỏi đến mức độ phải hy sinh, phải quên mình, có khi phải trả bằng cả một cuộc sống đầy máu. Chúng ta hãy nhìn cảnh Abraham đau xót như thế nào khi dẫn đứa con duy nhất của mình lên núi để tế lễ cho Thiên Chúa! Chúng ta hãy nhìn cảnh những người Do thái phải điêu đứng trả giá như thế nào trong suốt 40 năm trời ở sa mạc để rồi sau đó mới được vào đất hứa. Và chúng ta hãy nhìn xem Chúa Giêsu Chúa của chúng ta đã phải trả giá như thế nào để có được sự Phục Sinh vinh hiển hôm nay.

II. Vâng! Một con tằm phải trải qua đau đơn để tự chui ra khỏi cái kén và trở thành con bướm biết bay. Một hạt giống nằm sâu trong lòng đất nảy mầm phải tự vươn thẳng lên xuyên qua tầng đất dày để thành cây cứng cáp.

Con tằm nào được người ta cắt vỏ kén chui ra sẽ chỉ mãi bò quẩn quanh cái kén mà không bao giờ thành loài bướm biết bay được.

Hạt giống nằm trên mặt đất dễ dàng nảy mầm nhưng rồi sẽ bị bật gốc ngay khi gặp cơn giông tố.

Con người không thể chọn cho mình nơi sinh ra, nhưng có thể tự chọn cho mình một cách sống; rèn luyện cho mình khả năng chịu đựng để trở thành một con người có bản lĩnh với một ý chí mạnh mẽ đã được tôi luyện qua thử thách, khó khăn, bất hạnh và có khi cả thất bại. Thất bại, bất hạnh có thể là điều tuyệt vọng với người này nhưng có thể là may mắn với người khác - tùy vào cách họ đón nhận một cách dũng cảm để vượt qua hay tự thương thân trách phận mình mà gục ngã.

Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học judo với một võ sư Nhật. Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyện mà thầy chỉ dạy cho mình có mỗi một thể võ duy nhất.

Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:

- Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học thêm được một thể võ nào khác nữa sao?

Ông trả lời:

- Đây là thể võ duy nhất thầy dạy con, và đây cũng chính là thế võ duy nhất mà con cần phải học.

Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.

Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đi tham dự một cuộc thi Judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn một chút nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thể võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.

Lần này đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm hơn. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hoàn toàn bị đối phương áp đảo. Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:

- Cứ để cậu bé tiếp tục. - Võ sư yêu cầu.

Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thể võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đoạt chức vô địch.

Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra cái điều ám ảnh trong đầu mình bẩy lâu nay:

- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thể võ như thế?

- Con chiến thắng vì hai lý do. - Người thầy trả lời - Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con có thể phá được thể võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại - mà con lại không có tay trái.

Vâng! Đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Hãy tin vào chính mình, chúng ta có thể làm được tất cả!

Martha Washington: "Phần lớn hạnh phúc hay bất hạnh được quyết định bởi tính cách của chúng ta chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh."

Lạy Chúa Giêsu Chúa đã làm người và sống cuộc sống làm người của chúng con. Nhìn vào cuộc sống làm người của Chúa trên trần gian, chúng con thấy Chúa đã gặp quá nhiều bất hạnh, khó khăn, đau khổ và cả sự chết nữa nhưng Chúa đã vượt qua tất cả… vượt qua để bước vào vinh quang.

Xin Chúa giúp cho chúng con cũng biết sống như Chúa, biết cố gắng vượt qua những khó khăn thách đố… để sau này chúng con cũng được tham dự vào sự vinh quang với Chúa. Amen.

------------------------------
 
 

PS 1-ABC456: Người đã sống lại thật


--‘Xây Nhà Trên Đá’

--Lm. ViKiNi
 
 

Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người PS 1-ABC456


1- Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người nào trên các hành tinh không? Phi thuyền bắt đấu thăm dò từ hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh, thiên vương tinh, hải tinh, diêm tinh và phải vượt qua thái dương hệ 40.000 năm nữa mới tới một hành tinh gần nhất. Sau đó phi thuyền phải bay 100 triệu năm nữa mới tới một hành tinh xa hơn. Phi thuyền đem theo một đĩa vàng có thể tồn tại hơn 100 triệu năm để phát ra 106 tín hiệu diễn tả văn hóa loài người đi thăm dò xem có thế giới loài người nào khác đáp lại chăng? Thật là một kỳ công đi tìm sự sống loài người khác, ngoài thế giới loài người trên trái đất này.

2- Đêm Phục sinh này, Đức Giêsu đang đáp lại tín hiệu của loài người đi tìm sự sống xa lạ đó, một sự sống không còn đau khổ, không còn thập giá, không còn mạo gai đinh đóng, lưỡi đòng, không còn nếm dấm chua mật đắng, không còn bị chôn trong mồ, không còn phải chết ở đâu nữa. Đó là sự sống lại của Đức Giêsu. Sự sống lại của Đức Giêsu làm cho thập giá trở nên Thánh giá cứu độ, làm cho mạo gai trở nên triều thiên, lưỡi đòng trở nên lò lửa yêu mến của Thánh Tâm, dấm chua trở nên mật ngọt, cửa mồ phải bật tung ra, chỗ nằm u tối trở nên sáng ngời, sự chết đời đời trở nên sự sống trường sinh.

Bài đọc một sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã biến đổi tối tăm mù mịt, u ám mông quạnh, ra sáng láng chan hòa sức sống tươi mát, rực rỡ như buổi bình minh, thông thoáng như cảnh chiều dương, vạn vật sinh động, vui thỏa, nhuộm muôn mầu ngàn sắc. Đó là cảnh Phục sinh mà Thiên Chúa đã sáng tạo thuở ban đầu. Thiên Chúa đã cho con người sống vương giả trong cảnh trời đất huyền diệu đó như trong vườn thượng uyển của vua nước Trời.

3- Con người được sống vương giả, chính ra càng ngày càng trở nên xứng đáng với sứ mệnh cao cả của Thiên Chúa đã ban cho mình. Trái lại, con người: nhân dục vô nhai, dục vọng vô bờ, lòng tham không đáy, no bụng đói con mắt, thèm thuồng đủ thứ nên đã nếm phải nọc độc của rắn quỷ. Tham thực cực thân, ăn no tức bụng. Nọc độc đã cướp đi sự sống vương giả của con người. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu triều đại đế vương sụp đổ chỉ vì những ông hoàng bà chúa sống vương giả, được voi đòi tiên, ăn chơi trác táng, tranh bá đồ vương, chém giết lẫn nhau. Đức Giêsu nhiều lần đã nói những dụ ngôn về các ông bá hộ như thế, chẳng bao lâu họ phải bỏ mạng: “Đồ ngốc đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi” (Lc. 12, 20). Tổ tiên loài người đã sống mất mạng vì lối sống phú hộ đó. Cain đã giết em, Evà đã kinh hoàng ôm lấy xác con vào lòng đầy đau xót chỉ vì bà đã ham mê nuốt trái cấm đầy quyến rũ ngon ngọt. “Chỉ vì một người đã sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì Thiên Chúa làm qua một Người là Đức Giêsu Kitô sự sống lại được ban dồi dào” (Rm. 5, 12, 17-19).

4- Đêm nay, Đức Giêsu đã phục sinh sự sống dồi dào cho con người, cho chúng ta. Đêm nay Đức Giêsu đã giải phóng con người chúng ta khỏi thần chết như Mosê đã giải phóng cho dân Israel khỏi nô lệ khốn cùng của Ai cập. Israel đã dứt bỏ mọi quyến luyến Ai cập, chỗi dậy theo lệnh Mosê, vâng lời Thiên Chúa vượt qua biển máu, nên Thiên Chúa đã ra tay chôn vùi quân địch đeo bám họ dưới đáy biển máu và đã dẫn đưa họ về sống trong miền đất tự do chảy sữa và mật (Bài đọc 3). Đêm nay, chúng ta cũng phải dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi, chỗi dậy theo lệnh Giáo hội, vâng lời Thiên Chúa vượt biển chết tội lỗi, thì sẽ được Đức Giêsu giải phóng ta khỏi tà thần, tiêu diệt quỷ dữ, dẫn đưa ta về miền đất phục sinh vinh quang muôn đời.

Lạy Chúa Giêsu, con đã chết và qua phép Rửa tội, Chúa đã cho con được chỗi dậy từ cõi chết. Con xin hết lòng cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm vì đức từ bi Người muôn thuở. Xin Chúa gìn giữ con, ấp ủ con trong nguồn Phục sinh muôn đời của Chúa (2Cr. 3, 1-4; Tv. 117).

-----------------------------
 
 

PS 1-ABC457: Chúa đã sống lại thật rồi


(Mc 16, 1-8)

--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
 

Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên của Giáo hội cất cao giọng công bố với niềm vui cả thể trong PS 1-ABC457


“Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên của Giáo hội cất cao giọng công bố với niềm vui cả thể trong Đêm canh thức Phục sinh, đồng thời mời gọi con cái mình cùng mừng vui vì niềm vui ơn cứu độ. Chúa Kitô Vị Thủ Lãnh của chúng ta sau khi đã hiến mình chịu chết, Người đã sống lại khải hoàn và qua sự sống lại ấy, Người trao ban Sự Sống Mới cho chúng ta.

Đêm nay, chúng ta vui mừng chiêm ngắm vinh quang chiến thắng rạng ngời của Chúa Giêsu trên đau khổ và sự chết, để tất cả những ai tìm kiếm và tin vào Chúa là Chân lý thì được đời sống đời đời. Chúa Giêsu sống lại, niềm hy vọng của chúng ta. Không ai phải thất vọng, như những bà dù đã an táng Chúa, vẫn “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu” (Mc 16,1) không một ai trong các bà tuyệt vọng hết.

Chúa Giêsu sống lại là một điều có thật không thể nghi ngờ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi một sự kiện hiển nhiên từ trời, một thân xác phục sinh, các phương tiện trên mặt đất không tài nào nắm bắt được. Nhưng  từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê là những chứng nhân không thể sai được, sau nhiều lần Chúa hiện ra, tất cả những ngờ vực bị loại trừ, lời thiên thần nói với các bà: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người” (Mc 16, 6).

Vâng, Người đã sống lại rồi, hãy tìm kiếm sự hiện diện của Chúa ở đây, ngay bây giờ, giữa dân Chúa, giữa những khổ đau của Người, và hãy đi theo Chúa. Trong lá thư ngày thứ Tư Lễ Tro, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta rằng: “Ơn cứu độ quả là hồng ân, đó là ân sủng của Thiên Chúa, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của tôi, cần có sự đồng ý của tôi, sự thật, có nghĩa là mong muốn sống như Chúa Giêsu, đi theo Người “.

Còn sự vui mừng nào lớn hơn niềm vui Chúa sống lại, sự kiện này mang lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng về những vấn nạn của những người vẫn hỏi chúng ta: chúng ta đang chờ đợi điền gì sau cái chết? Đâu là ý nghĩa của khổ đau? Chúng ta chắc chắn rằng sau khi chết một cuộc sống mới đang chờ đón chúng ta: “Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước” (Mc 16, 7). Thánh Phaolô khẳng định với niềm xác tín rằng: “Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,8-9). Khi được hỏi về ngày sau hết, người Kitô hữu phải trả lời một cách hợp lý với niềm vui và hy vọng.

Tin Mừng lễ Vọng đêm nay nhấn mạnh rằng người thanh niên tức thiên thần ngồi bên phải mộ đã nói với các bà về ý nghĩa của khổ đau, Thập giá và vinh quang: Đấng đã sống lại chính là Đấng bị đóng đinh. Saint Leo cả nói: “… (nhờ thập giá của Chúa) những người tin kín múc được sức mạnh từ sự yếu đuối, vinh quang từ sự nhục nhã, sự sống từ cái chết “, những thập giá hàng ngày là một con đường Phục Sinh.

Phần chúng ta, “chạy ra khỏi mồ …” (Mc 16,8), trở về từ nỗi khổ đau, ngờ vực trong ta, chúng ta hãy mang đến cho những người xung quanh ta đang ở trong thung lũng đầy nước mắt niềm hy vọng và sự tự tin. Bóng tối của ngôi mộ bừng sáng lên lời hứa bất tử. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu hướng chúng ta dõi mắt về trời để có thế nhìn thấy Dân Vượt Qua. Chúng ta cũng cầu xin cho những ai sống trong buồn sầu của ngày “Thứ Sáu Tuần Thánh” trở thành một dân sống trong niềm vui của lễ Vượt Qua.

Mừng vui lên, vì Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia, Allêluia, Allêluia.

-------------------------------

 

PS 1-ABC458: CHÚA NHẬT "CHÚA THƯƠNG XÓT"


(DIVINE MERCY SUNDAY)

 

Ngày 23 tháng 5 năm 2000, Thánh Bộ Phượng Tự đã ra quyết định chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh PS1 ABC458


Ngày 23 tháng 5 năm 2000, Thánh Bộ Phượng Tự đã ra quyết định chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh là ngày Chúa Nhật "Chúa Thương Xót" (giống như Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh là Chúa Nhật "Chúa Chiên Lành – Good Shepherd Sunday"), để các tín hữu trên toàn thế giới dùng Chúa Nhật này suy ngắm về lòng thương xót của Chúa đối với mỗi người và toàn thể nhân loại. Tin tưởng ở lòng Chúa Thương Xót, chúng ta sẽ luôn vửng lòng trông cậy, phó thác nơi Chúa khi gặp những thử thách, những biến cố khủng khiếp xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta và thế giới.

Việc tôn sùng "Lòng Thương Xót Chúa" (devotion to the Divine Mercy) đã được bà Thánh Faustina Kowalska cổ động. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn Bà lên bậc hiển Thánh ngày 30 tháng 4 năm 2000. Sau đây là một số đoạn Đức Thánh Cha đã viết về Chúa Nhật "Chúa Thương Xót".

"Cũng như Thánh Faustina, chúng ta cũng tuyên xưng rằng ngoài Tình Chúa Thương Xót, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại. Chúng ta cùng hết lòng tin tưởng kêu lên Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa". Lời tuyên xưng hết lòng tin tưởng nơi tình thương toàn năng của Chúa, đặc biệt cần thiết cho thời đại chúng ta, một thời đại mà nhân loại đang phải trải qua những hoảng sợ trước bao nhiêu những xuất hiện của sự dữ. Kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa rất cần thiết để tự đáy tâm hồn đầy khổ đau, lo lắng, và bất ổn của chúng ta, luôn nổi lên một nguồn cậy trông vửng chắc... Với con mắt linh hồn, chúng ta ước ao được nhìn vào con mắt của Chúa Giêsu đầy lòng thương xót để nhận ra nơi sâu thẳm trong cái nhìn của Chúa phản ảnh đời sống sâu xa của Chúa, nơi đó chúng ta cũng nhận ra ân sủng mà chúng ta thường nhận được và Chúa vẫn tái ban hàng ngày cho chúng ta mãi mãi cho đến tận thế...".

Chính Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và là Thánh Thần Chân Lý, dẫn chúng ta trên đường đến với lòng Thương Xót của Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho thế giới nhận ra tội lỗi, sự công chính, và "sự phán xét" (Ga 16,8). Chúa Thánh Thần cũng cho chúng ta hiểu được ơn cứu rỗi trọn vẹn nơi Chúa Kytô. Càng nhìn nhận ra tội, càng dể nhớ đến Thánh Giá Chúa Kytô. Hơn nữa, Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta, qua thánh giá Chúa Kytô, nhìn nhận tội lỗi của mình, từng tội lỗi một với trọn vẹn sự dữ chứa chấp trong đó. Cũng qua thập giá Chúa Kytô, Chúa Thánh Thần cho chúng ta nhìn ra tội lỗi trong ánh sáng mầu nhiệm "Tình Chúa Thương Xót": đó là tình yêu của Chúa chứa đầy lòng thương xót và tha thứ; nhờ đó, sự nhận ra tội lỗi của mình đem lại lòng vững tin rằng tội có thể được xóa bỏ và con người được phục hồi trở lại tình trạng người con yêu thương của Chúa. Thánh Giá là một sự "hạ mình" sâu thẳm nhất của Thiên Chúa xuống tới nhân loại. Thánh Giá là sự hoàn tất cuối cùng của Tình Yêu muôn thuở của Chúa đối với những vết thương đau đớn nhất của cuộc sống con người...

"Lạy Cha là Đấng Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, Linh Hồn và bản tính Thiên Chúa của con yêu dấu của Cha, Chúa Giêsu Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và tội lỗi của toàn thế giới ; nhờ những đau khổ trong cuộc khổ nạn của Người, xin thương xót chúng con và cả thế giới...".

Ngày nay, hơn lúc nào hết, thế giới cần đến lòng thương xót của Chúa. Ở mọi lục địa, từ sâu thẳm của những khổ đau của nhân loại, lời kêu xin lòng thương xót của Chúa hằng vọng lên khắp nơi. Nơi nào ghen ghét và lòng khát vọng trả thù ngự trị, nơi đó chiến tranh lại đem đến đau khổ và chết chóc cho những người vô tội ; và nơi đó lòng Chúa xót thương lại cần thiết để đem lại sự ổn định cho tâm hồn và con tim nhân loại, và đem lại an bình. Nơi nào thiếu tôn trọng sự sống và phẩm giá con người, nơi đó lại càng cần lòng thương xót Chúa ; vì trong ánh sáng của tình thương xót của Chúa, chúng ta nhận ra giá trị tuyệt vời của mỗi con người.

Tình thương xót của Chúa rất cần thiết để những bất công trên thế giới được chấm dứt và ánh sáng chân lý được ngời sáng...

"Con xin cảm tạ Chúa, gần một năm trước đây đã ban ơn cho con để con tuyên bố cho toàn thể Giáo Hội Chúa Nhật Thứ II Phục Sinh là ngày lễ Tình Thương Xót của Chúa".

(ĐGH Gioan Phaolô II, "Chúa Nhật Tình Thương Xót Chúa" năm 2001).
"Trong ngày lễ "tình thương xót", lòng thẳm sâu của Tình Ta nhân từ xót thương mở ra. Ta tuôn đổ cả một đại dương ơn phúc cho những tâm hồn nào đến múc nguồn thương xót của Ta. Những ai ngày đó đi xưng tội, đi lễ và rước lễ; sẽ nhận được sự tha thứ hoàn toàn mọi tội lỗi và mọi hình phạt". (Trích nhật ký của Thánh Faustina).

Chúng ta hãy cùng hợp nhau cầu nguyện: Xin Chúa thương đến nhân loại khổ đau trong thế giới chúng ta hôm nay còn nhiều hận thù và chia rẽ ; xin cho nhân quyền, phẩm giá, sự sống, và tự do, nhất là tự do tôn giáo được tôn trọng ở khắp nơi ; xin cho Hòa Bình và Hạnh Phúc thật sự trở lại Miền Trung Đông và nơi nơi trên thế giới. (LM Anphong Trần Đức Phương).

-----------

NB. Ngày 29/6/2002 Tòa Ân Giải ký Sắc lệnh ban Ân xá trong ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa:

“Ơn toàn xá được ban với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha cho những tín hữu nào trong ngày Chúa Nhật thứ hai sau lễ Phục Sinh tức là Chúa Nhật Kính Lòng Từ Bi Chúa tại bất kỳ nhà thờ nào có lòng quyết tâm từ bỏ mọi quyến luyến tội lỗi kể cả tội nhẹ và tham dự vào các việc đạo đức tôn vinh lòng từ bi Chúa hay ít là đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính cùng với sự kêu cầu Chúa Giêsu từ bi trước sự hiện diện của Mình Thánh Chúa được trưng bày công khai hoặc giữ trong nhà tạm.

Ân xá một phần được ban cho những tín hữu nào ít là với tâm tình thống hối dâng lên Chúa Giêsu từ bi một trong những lời cầu khẩn được phê chuẩn hợp pháp ví dụ: "Lạy Chúa Giêsu từ bi con tín thác nơi Chúa".

Ngoài ra những người làm nghề hàng hải, những người phải di tản vì chiến tranh hay các biến cố khác, những người đau yếu và những người phải săn sóc cho kẻ đau yếu, hoặc những người không thể bỏ các công việc vì lợi ích chung cũng có thể được ơn toàn xá trong Chúa Nhật Kính Lòng Từ Bi Chúa nhưng họ phải có quyết tâm từ bỏ tội lỗi và có ý hướng thi hành ba điều kiện thường lệ một khi có thể và đọc trước ảnh Chúa Giêsu từ bi một Kinh Lạy Cha, một Kinh Tin Kính và một lời cầu Chúa Giêsu từ bi”.

---------------------------------

 

PS 1-ABC459: Chúa Nhật Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Suy niệm

 

Bài Tin Mừng này được đọc vào buổi sáng Chúa nhật Phục sinh, khi tử thần vẫn tác oai tác quái PS 1-ABC459


Bài Tin Mừng này được đọc vào buổi sáng Chúa nhật Phục sinh,
khi tử thần vẫn tác oai tác quái trên thế giới.
Mỗi ngày hàng ngàn người chết, không đủ nhà xác và quan tài.
Bao người phiền muộn vì mất mát người thân.
Bao người âu lo vì thấy mạng sống mình bị đe dọa.
Bà Maria Mácđala cũng đã trải qua những thời khắc kinh hoàng.
Bà đã đứng gần thập giá của Đức Giêsu chịu đóng đinh,
chứng kiến Ngài gục đầu và trao sinh khí (Ga 19,30).
Hẳn bà cũng đã tham dự lễ mai táng của Thầy Giêsu.
Ngôi mộ mới của Thầy nằm trong khu vườn mà bà biết rõ.
Maria không thể nào quên được buổi chiều thứ sáu ấy.
Cái chết bi thương của Thầy trên thập giá vẫn in hằn trong trí nhớ.
Bà hiểu mình đã mất Thầy thật rồi,
người Thầy đã giải phóng bà khỏi tay bảy quỷ (Lc 8,2).
Điều làm bà an ủi, đó là bà còn giữ được xác của Thầy.
Đối với bà, xác của Thầy cũng quý như chính con người Thầy.
Bà đã trải qua ngày thứ bảy bồn chồn, khó lòng chợp mắt,
chỉ mong ngày sa-bát mau kết thúc để bà có thể ra viếng mộ.
Tất cả tập trung của bà dồn vào ngôi mộ,
vì trong đó có thân xác của người Thầy mà bà mến thương.
Buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, bà đã vội vã ra mộ.
Điều bà không dám ngờ đã xảy ra: tảng đá che mộ bị dời đi,
và xác Thầy cũng không còn ở đó nữa.
Hốt hoảng, sợ hãi, hoang mang,
bà chạy về báo cho Simôn và người môn đệ kia chuyện chẳng lành.
“Họ đã đem Chúa đi khỏi mộ,
và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,2).
Theo bà, chắc chắn phải có người lấy, tuy không biết là ai thôi.
Trong bài Tin Mừng này, không có thiên thần nào hiện ra giải thích,
nên Maria thấy vô cùng khó hiểu trước biến cố mất xác Thầy.
Bước chân chạy của Maria đã kéo theo bước chân chạy của hai môn đệ.
Vì tình hình quá căng thẳng, hai ông như đua nhau chạy cho mau.
Mỗi người đến, nhìn vào mộ đều thấy một điều gì đó.
Bà Maria chỉ thấy xác Thầy mình không còn đó (Ga 20,2).
Người môn đệ Chúa thương, đứng ngoài, thấy những băng vải (Ga 20,5).
Còn Simôn Phêrô thì vào trong mộ, thấy những băng vải,
cùng khăn che đầu được cuộn lại và xếp riêng ra một nơi (Ga 20,6-7).
Cuối cùng, người môn đệ kia cũng vào mộ.
Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
Người tín hữu hôm nay cũng có lúc giống bà Maria,
Hốt hoảng vì thấy mất Chúa, mất đi điều quý giá nhất của mình.
Ai đã lấy Ngài đi, để lại ngôi mộ trống trơn lạnh lẽo?
Phải tập nhìn vào ngôi mộ, tập để ý đến những chi tiết nhỏ.
Tập đọc ra những dấu chỉ lờ mờ của hy vọng ngay giữa những đổ vỡ.
Tập nhìn thấy những điểm sáng trong ngôi mộ tối tăm,
và nhận ra bàn tay Thiên Chúa đang hoạt động cách kín đáo.
Thật tiếc thương khi xác Thầy không còn,
nhưng những băng vải quấn xác Thầy vẫn còn nằm ở đó,
còn khăn che đầu thì được cuộn lại, xếp riêng (Ga 20,7-8).
Điều đó cho thấy không phải có người ăn cắp xác và đem đi.
Vì kẻ cắp không có thì giờ để làm việc đó.
Từ từ ngôi mộ bừng sáng lên, và mang nhiều ý nghĩa.
Nơi của chết chóc và mất mát lại trở nên vườn ươm sự sống.
Maria đi ra mộ viếng xác và đớn đau vì xác Thầy không còn trong mộ.
Bà đâu biết rằng đó là khởi đầu cho một Tin Mừng trọng đại.
Nếu xác Thầy cứ nằm trong mộ thì làm gì có phục sinh.
Bà đi tìm xác một người chết, nhưng rồi bà sẽ gặp người đang sống.
Trận dịch năm nay đem lại nhiều chết chóc đau thương.
Bao nhiêu nấm mộ đã mọc lên vội vàng.
Có hy vọng nào từ những nấm mộ không?
Đức Giêsu đã được phục sinh,
nhưng sau nạn dịch này, thế giới có được phục sinh không?
Sự tàn phá của vi rút trên mạng sống con người
đòi chúng ta phải chung tay xây dựng một thế giới đầy tràn sự sống.
Bảo vệ rừng, ngừng xây đập, không phí tiền chạy đua vũ trang,
làm sạch lại bầu khí, làm xanh lại bầu trời, làm trong lại dòng sông.
Cơn dịch này nhắc chúng ta về những giá trị bị lãng quên,
đòi ta điều chỉnh lại tương quan giữa người với người,
giữa con người với thiên nhiên, và giữa con người với Đấng Tạo Hóa.
Chúa phục sinh đã tặng cho ta ơn phục sinh,
nhưng để hưởng ơn ấy, không phải là chuyện tự nhiên hay đương nhiên.
Chúng ta sẽ chẳng nếm được niềm vui sống lại,
nếu cứ loay hoay ở trong ngôi mộ của ích kỷ và khép kín.

Cầu nguyện

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Chúa không cho phép.
Cả những chuyện xấu xa tồi tệ mà con người làm cho nhau.
Cả sự dữ đang hoành hành do Xatan gây ra trên mặt đất.
Nhiều khi chúng con không hiểu được
tại sao Chúa lại cho phép xảy ra những chuyện như thế. 
Nhưng chúng con tin rằng, đối với ai yêu mến Chúa,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ (Rm 8,28; GLCG 395,760).
Chúng con tin rằng những gì Chúa cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Chúa đau đớn khi phải dùng roi mà sửa dạy
như người cha sửa dạy con mình để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Chúa muốn nhắc nhở,
để cải hóa bản thân và điều chỉnh đời mình cho hợp với ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân ái,
trên đường về quê trời,
Chúa muốn chúng con trải qua những thử thách cam go,
như bệnh tật, khổ đau và cái chết,
để chúng con nên cứng cáp và trưởng thành.
Xin cho chúng con đừng nổi loạn trước thử thách,
nhưng biết nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá,
để biết cách nhẫn nại và giữ vững niềm hy vọng,
kể cả khi thấy Thiên Chúa vắng bóng, thinh lặng hay khoanh tay.
Ước gì cơn dịch bệnh làm chúng con ý thức sự bất lực của mình,
để tha thiết cầu xin và tín thác vào tình yêu Chúa.
Ước gì khi Chúa cho cơn dịch chấm dứt,
chúng con lại thấy sự sống của Chúa chiến thắng vinh quang.

---------------------------------

 

PS 1-ABC460: Chúa Nhật Phục Sinh


(Bài giảng của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho – trong thánh lễ Vọng Phục Sinh, tại Nhà thờ Chánh Tòa Mỹ Tho vào đêm Thứ Bảy Tuần Thánh ngày 7 tháng 4 năm 2012)

CHÚA PHỤC SINH

Anh chị em rất thân mến,

 

Chúng ta sắp bước vào Năm Thánh Đức Tin. Nội dung rất quan trọng của đức tin của chúng ta PS 1-ABC460


Chúng ta sắp bước vào Năm Thánh Đức Tin. Nội dung rất quan trọng của đức tin của chúng ta là “Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã chịu đóng đinh, chịu chết trên cây Thập tự giá, nhưng ngày thứ ba đã sống lại, chiến thắng sự chết, vĩnh viễn đi vào “Lòng của Thiên Chúa”, nơi mà Người đã cư ngụ từ trước muôn đời.

Nếu không tin “Chúa Phục Sinh”, thì chúng ta không còn là người công giáo, không là người kitô hữu, môn đệ của Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói “nếu Chúa không sống lại, thì đức tin của anh chị em hoá ra vô ích”, tất cả những điều Người dạy dỗ sẽ chìm vào quên lãng, sẽ bị chôn vùi với thời gian, với cái chết. Nếu Chúa không sống lại, thì những gì cao cả nhất mà Người phải trả giá bằng máu là “Tình Yêu của Thiên Chúa”, là “Sự Thật về Thiên Chúa”, đều phải khuất phục trước đau khổ, sự chết, tội ác và sự gian trá của con người.

Chúng ta tin Chúa đã sống lại thật, Người đã chết thật, chứ không phải giả vờ chết, đã được chôn cất, như chứng từ của các Thánh Tông đồ, và sau ba ngày, Người đã trỗi dậy và ra khỏi ngôi mộ. Bài Tin mừng Marcô tường thuật việc các người phụ nữ có lòng yêu mến Chúa Giêsu là bà Maria Macđala, bà Maria Mẹ Ông Giacôbê, và bà Salômê, sáng tinh sương, khi mặt trời vừa hé mọc, đã ra viếng mộ, đem theo dầu thơm, để xức cho xác của Chúa Giêsu. Nhưng các bà không thấy xác của Người đâu cả, chỉ thấy ngôi mộ trống.

Các bà thấy tảng đá lớn che ngôi mộ đã được lăn ra, và có một thanh niên mặc áo trắng, ngồi bên phải ngôi mộ, đã nói với các bà: “Đừng hoảng sợ, các bà tìm Đức Giêsu Nazarét, Đấng đã bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa!” Chúa Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết, Người đã ra khỏi mồ. Người đã trỗi dậy như thế nào, lúc nào, không ai thấy, chỉ thấy ngôi mộ trống, và nghe thấy lời của thiên thần dưới hình dáng một thanh niên mặc áo trắng. Chỉ có bằng chứng là ngôi mộ trống, rồi có sứ điệp từ trời loan báo việc Chúa Giêsu đã trỗi dậy, đã sống lại từ cõi chết.

Việc Chúa Sống lại từ cõi chết là nội dung của “sứ điệp từ trời”, cũng như việc “Chúa nhập thể làm người” trong lòng trinh nữ Maria là nội dung sứ điệp của thiên thần Gabriel. Đó không chỉ là một sự kiện thuần tuý, mà là đức tin, đức tin của chúng ta, đức tin của Giáo hội, phát xuất từ các Thánh Tông đồ đã được gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhiều lần nhiều cách, trong phòng đóng kín ở trên lầu, hay ngoài bãi biển lúc đang thả lưới bắt cá. Có môn đệ còn được gặp gỡ Chúa đang lúc đi đường, như hai môn đệ làng Emmau.

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu có trở lại tình trạng trước khi Người chết không? Các Tông đồ và Phaolô đều khẳng định: Người không còn chết nữa, sự chết không làm chủ được Người nữa. Khi hiện ra, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ “sờ và chạm đến Người”. Người đã chỉ cho họ các vết thương ở tay và cạnh sườn, nhưng thân xác của Người không còn là thân xác bụi trần, mà là thân xác thiên thai sáng láng, thuộc cảnh vực thần linh. Các môn đệ vui mừng vì được nhìn thấy Chúa.

Ngày nay chúng ta không còn thấy Chúa Giêsu bằng mắt phàm nữa. Người đã sống lại, đã vượt qua thế gian về cùng Chúa Cha. Người không còn hữu hình nơi trần thế này nữa. Nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra Người bằng con mắt đức tin, mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Lễ, đón Chúa Phục Sinh đến với chúng ta. Người hiện diện giữa chúng ta và ban Thần Khí Phục Sinh của Người cho chúng ta. Người là Sự Sống, là niềm vui và hy vọng cho chúng ta, và cho cả thế giới. Sự chết không còn là tiếng nói cuối cùng.

Trần gian này, dù có đau khổ bao nhiêu đi nữa, hay sung sướng thế nào đi nữa, cũng sẽ qua đi. Chỉ một mình Chúa Giêsu Phục Sinh là “Chúa muôn loài” tồn tại vĩnh viễn và tất cả những ai yêu mến, tin tưởng và tuân phục Người sẽ được giống như Người. Các anh chị em dự tòng ngồi trước mặt mọi người hôm nay, sẽ được thông phần vào “Sự Sống của Chúa Phục Sinh”, khi chịu phép rửa, họ sẽ được mặc lấy Chúa Giêsu Phục Sinh và trở nên con người mới. Hãy cầu nguyện cho họ.

---------------------------------

 

PS 1-ABC461: Ngôi mộ trống


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Buổi sáng ngày Phục sinh, tức là ngày thứ nhất trong tuần, mà ngày nay được gọi là ngày Chúa nhật PS 1-ABC461


Buổi sáng ngày Phục sinh, tức là ngày thứ nhất trong tuần, mà ngày nay được gọi là ngày Chúa nhật, chúng ta giống như những người phụ nữ và hai môn đệ trong Tin Mừng, hối hả chạy đến mồ Chúa Giêsu. Bài Tin mừng Thánh Gioan được đọc trong Thánh lễ chính ngày diễn tả hai môn đệ chạy đến mộ để kiểm chứng những gì họ đã nghe mấy người phụ nữ kể lại. Các bà này đã nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Các bà bàng hoàng và lo sợ vì mất Chúa, và các bà cảm thấy đau xót về điều đó. Hai môn đệ là Phêrô và Gioan đã vội vàng chạy đến xem và họ thấy ngôi mộ trống. Khác với mấy người phụ nữ, hai ông không lo sợ bàng hoàng, mà tin vào sự phục sinh của Chúa, vì Người đã tiên báo với các ông điều này.

Cần lưu ý, trong xã hội Do Thái thời cổ xưa, mỗi ngôi mộ được thiết kế như một hang động, nhất là đối với những người khá giả. Thánh sử Gioan nói với chúng ta, ngôi mộ an táng Chúa Giêsu là ngôi mộ của một người nhà giàu còn mới, nên các môn đệ an táng Chúa tại ngôi mộ đó. Chính vì vậy mà hai ông Phêrô và Gioan cũng như những người phụ nữ có thể bước vào bên trong ngôi mộ này. Các bà đến viếng mộ với ý định hoàn tất nghi thức tẩm liệm mà trước đó chưa làm xong vì lý do ngày lễ nghỉ.

Hãy trở lại với ngôi mộ trống: nếu như thân xác Chúa Giêsu còn nằm trong ngôi mộ. Nếu như nấm huyệt vẫn được đậy kín, thì Chúa Giêsu cũng chỉ như một vĩ nhân, khi còn sống thì rao giảng những điều uyên bác cao siêu, nhưng khi chết thì cũng giống như bao người khác. Không, ngôi mộ trống khẳng định với chúng ta: Chúa Giêsu không còn ở đây. Người không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Người không bị giam cầm bởi sự chết cũng như bởi nấm mộ. Nói cách khác, Người đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa đã được Người báo trước. Tuy vậy những người phụ nữ và một số môn đệ khác vẫn thấy hoang mang và bất ngờ trước sự việc này. Thay vì vui mừng, các bà sợ hãi, run rẩy, hết hồn hết vía. Các bà không dám nói với ai vì sợ hãi.

Ngôi mộ trống là khởi điểm cho Đức tin Kitô hữu. Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng. Người có quyền trên sự sống và sự chết. Người đã tự ý trao ban sự sống của Người và Người có quyền lấy lại, như chính Người đã tuyên bố. Vì vậy, sự chết không còn làm chủ được Người. Ngôi mộ là bằng chứng hùng hồn về quyền năng của Chúa Giêsu, là Thiên Chúa tối cao.

Ngôi mộ nói với chúng ta về chiến thắng của Chúa Giêsu. Chúa chiến thắng cái gì? Thưa, Chúa chiến thắng bạo lực. Thập giá là bạo lực của con người dành cho Con Thiên Chúa. Một số biệt phái và luật sĩ, có sự chống lưng của các tư tế và nhất là vị tư tế thượng phẩm, đã lên án tử cho Chúa và quyết định giết Người bằng một hình thức vừa gây đau đớn, vừa gây nhục nhã. Khi giết được Chúa và khi thấy các môn đệ đã an táng Thầy mình trong huyệt mộ, những kẻ giết Chúa nghĩ mình đã diệt được một kẻ thù. Họ đã nhầm. Chúa Giêsu đã bước ra khỏi mộ, vinh quang sáng láng. Thiên Chúa đã chiến thắng mưu mô của con người. Tình thương đã thắng thù hận. Ánh sáng đã thắng tối tăm. Chúa Giêsu không sống lại để trả thù những người đã hành hạ và đã giết Chúa. Người sống lại để khẳng định rằng: mưu mô gian trá chỉ là nhất thời, tình yêu bao dung sẽ tồn tại mãi mãi. Đấng Phục sinh không chỉ chiến thắng sự chết, mà Người còn giải phóng con người khỏi sự chết. Người cũng giải phóng con người khỏi sự giam cầm của quyền lực tối tăm, tức là ma quỷ và tội lỗi xấu xa.

Ngôi mộ nói với chúng ta về niềm hy vọng Kitô giáo. Con người được tạo dựng không để nằm yên trong huyệt mộ, sau khi đã trải qua một cuộc sống đan xen hoà quyện giữa hạnh phúc và đau khổ, nhưng được tạo dựng để hưởng hạnh phúc vinh quang đời đời với Chúa. Chúa phục sinh bước ra khỏi mộ khơi nguồn hy vọng cho con người nói chung, người Kitô hữu nói riêng. Bởi lẽ từ nay, họ xác tín rằng, thân phận con người không chỉ là “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi”, nhưng trong con người có mầm sống siêu nhiên, thúc đẩy con người sống lương thiện. Mầm sống ấy không chết khi con người nhắm mắt xuôi tay, nhưng sẽ bừng lên cho một cuộc sống mới, như hạt giống gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để nảy mầm sinh bông kết trái. Niềm hy vọng của người tín hữu giúp họ vượt lên những khó khăn của cuộc đời, với niềm xác tín Đấng Phục sinh đang hiện diện với họ, để dẫn họ đi trên mọi nẻo đường.

Kitô hữu là người tin vào Chúa. Tin là chấp nhận một điều gì đó mặc dù không nhìn thấy hoặc không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm. Một cách nào đó, người tín hữu đang đứng trước sự vắng bóng của Thiên Chúa, được coi như đứng trước một ngôi mộ trống. Quả vậy, chúng ta tin vào Chúa mà đâu có nhìn thấy Ngài. Chúng ta cầu nguyện với Chúa nhưng đâu có được gặp gỡ Ngài trực tiếp. Ngôi mộ trống chỉ là nơi đã an táng Chúa Giêsu. Những gì chúng ta cảm nhận suy tư về Thiên Chúa thực ra chỉ là dấu vết của Ngài. Chính vì vậy, lễ Phục sinh mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện quyền năng và đầy yêu thương trong cuộc sống hằng ngày. Chúa đang ở đây, với chúng ta, mặc dù con mắt thể xác không nhìn thấy Ngài.

Lễ Phục sinh không phải một sự kiện giải trí. Câu chuyện Đấng sống lại không phải là một huyền thoại. Người tín hữu mừng lễ Phục sinh, phải canh tân đổi mới cuộc đời để sống lại với Chúa. Trong thư gửi giáo dân Côlôxê được đọc trong Bài đọc II của Thánh lễ, thánh Phaolô nói đến sự sống mới của người Kitô hữu. Bởi lẽ, nhờ những hy sinh hãm mình và khổ chế, chúng ta cùng chết với Chúa Giêsu, và nay chúng ta sống lại với Người. Thánh nhân đặt những giá trị thuộc thượng giới, đối nghịch với những giá trị thuộc hạ giới. Giá trị hạ giới chỉ đem lại cho con người niềm vui nhất thời; giá trị thượng giới giúp con người đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu. Quả vậy, hành trình đi theo Đức Kitô là hành trình biến đổi. Đây vừa là hành trình của sự sống, cũng là hành trình của sự chết. Bởi lẽ chúng ta phải chết đi mỗi ngày để sống lại với Chúa. Nói cách khác, chúng ta phải loại bỏ những gì là tham lam, bần tiện, hận thù, ích kỷ, để nhường chỗ cho lòng đạo đức, nhân hậu bao dung. Tiến trình hoán cải là tiến trình liên lỉ, lâu dài, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng hy sinh và chấp nhận thương đau, như sự chết vậy.

Chúng ta hãy trở lại với hai môn đệ chạy vội đến mộ Chúa vào lúc tảng sáng. Khi trực tiếp quan sát ngôi mộ trống, hai ông tin. Các ông đã theo Chúa khoảng ba năm, được Chúa hướng dẫn và dạy dỗ. tuy vậy, niềm tin nơi các ông vào Đấng Thiên Sai còn nhiều mờ khuất và lệch lạc. Chính biến cố phục sinh đã giúp các ông xác tín vào Thày mình với một quan niệm và tầm nhìn xa rộng hơn. Không chỉ xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu, các ông còn mạnh mẽ lên đường rao giảng Đấng Phục sinh, mặc dầu phải chấp nhận hy sinh gian khổ và phải chết. Mỗi chúng ta, khi mừng lễ Phục sinh, hãy trở nên nhân chứng của Đấng phục sinh giữa đời, để khẳng định với mọi người xung quanh: Đức Giêsu đã sống lại và đang hiện diện giữa chúng ta. Những ai tin vào Người sẽ được hạnh phúc hôm nay và mãi mãi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phục sinh từ cõi chết. Chúa đã chiến thắng tử thần để sống lại vinh quang. Chúng con nhiều khi bị giam cầm trong huyệt mộ của sự ghen ghét, lười biếng và ích kỷ. Xin Chúa kéo chúng con ra khỏi mồ tối, để nhờ ánh sáng phục sinh chiếu soi, chúng coi can đảm vươn tới ánh sáng và trở nên ánh sáng giữa đời. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC462: Tìm kiếm những sự trên trời

 

Những người yêu mến văn học thì chắc có lẽ không thể nào quên được, tác giả người Mỹ nổi PS 1-ABC462


Những người yêu mến văn học thì chắc có lẽ không thể nào quên được, tác giả người Mỹ nổi tiếng: O. Henry. Trong nhiều chuyện của ông. Ông có một cái câu chuyện ngắn Chiếc Lá Cuối Cùng (The Last Leaf). Là một cái câu chuyện đầy tính nhân văn.

Có một họa sĩ già tên là Behrman sống ở tầng trệt ở bên dưới phòng của hai nghệ sĩ trẻ là Sue và Johnsy. Behrman cả một cuộc đời mơ mộng rằng, mình sẽ để lại một tác phẩm để đời, nhưng ông không làm gì được. Ngoài 60 rồi và rồi ông có một cái chòm râu rậm như Môsê hiện thân trên bức điêu khắc của Michelangelo.

Có thể nói rằng Behrman là một sự thất bại trong nghệ thuật. Trong 40 năm vung vẫy chiếc cọ mà ông không hề chạm đến vạt áo của người tình. Ông luôn luôn muốn vẽ một kiệt tác nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm, ông không vẽ gì được ngoại trừ thỉnh thoảng ít nét vẽ cho thế giới thương mại, cũng như quảng cáo. Rồi cạnh đó ông kiếm chút tiền bằng việc ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ. Và có thể nói đến kiệt tác của ông thì không có một tác phẩm nào để đời cả.

Và đến rồi, mùa đông năm ấy khi mà Johnsy bị sưng phổi thì, sự sống của cô như ngàn cân treo sợi tóc. Và bác sĩ chỉ nhắm rằng là cô chỉ còn vỏn vẹn 1/10 cơ may sự sống thôi! Cơ may này thì tùy thuộc vào ý chí của con người. Và với cái cái bệnh này thì chỉ có đến chờ công ty mai táng thôi! chứ còn không thể nào mà có thuốc nào mà chữa được.

Và khi mà vào hoàn cảnh ấy, Johnsy bị ám ảnh là cô sẽ không qua khỏi. Và rồi trước cửa phòng của cô thì có những chiếc lá non ở trên cành cây sau bức tường tường cửa sổ đó. Cứ mỗi ngày, mỗi ngày lá rơi, lá rơi và rồi có một chiếc lá cuối cùng còn lại.Và nàng tâm sự rằng là: nếu mà chiếc lá này mà rơi nữa, thì coi như nàng sẽ chết.

Thế nhưng mà, khi nghe được cái tâm sự của nàng Behrman đã hoàn thành cái bức vẽ tuyệt vời của ông: với một cái chiếc lá màu xanh đeo bám trên cành khô.

Và đột nhiên có một cái sự sống hồi sinh nơi Johnsy Johnsy thấy chiếc lá cuối cùng ấy vẫn cứ còn mãi trên cây. Và rồi cô đã chống chọi với cái sự chết. Và quyết tâm chống lại bệnh tật và nàng đã chiến thắng.

Thế nhưng rồi, dù cái nét vẽ không được đẹp nhưng mà với chiếc lá màu xanh ấy! chiếc lá đầy tính nhân văn ấy. Tả thực một con người ấy trả giá bằng một cái chết của chính Behrman. Behrman đã qua đời tại bệnh viện vì viêm phổi. Ông đã nhuốm bệnh trong vòng 2 ngày thôi! Bởi vì ông đã cố gắng dù trời mưa gió ướt giày, lạnh như đá! Ông vẫn cố gắng hoàn thành cái bức họa như Johnsy mong ước.

Và rồi người ta không thể hiểu nổi ông đi đâu, trong cái đêm trời mưa đó. Và sau đó họ tìm thấy một cái đèn bão vẫn cháy và một cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả và nghiêng màu với ít màu xanh và màu vàng. Và khi nhìn ra cửa sổ thì thấy chiếc lá thường của mùa xuân cuối cùng đã nằm trên bức tường. Và chính Behrman đã vẽ vào cái đêm cuối cùng. Cái lá thật rơi rụng và chính Behrman đã làm Jonhsy có một cái sức sống, có một sự cố gắng để vượt qua bệnh tật.

Và rồi cái câu chuyện của O. Henry này rất là hay. Câu chuyện này không chỉ hay về mặt văn chương, mà chúng ta có thể minh họa về cái chết của Chúa Giêsu.

Cái chàng họa sĩ này đã cứu mạng cô gái bằng cách hy sinh cả mạng sống mình để vẽ chiếc lá trên tường. Còn Chúa Giêsu thì hy sinh chết trên thập giá để cứu con người. Chàng họa sĩ đã hy sinh cái tính mạng của mình, một hình ảnh để minh họa cho cái chết của Chúa Giêsu. Nhưng thật sự thì, chàng họa sĩ đó chỉ vẽ lên tường cái lá hy vọng, lá đó không phải là thật mà chỉ là lá vẽ thôi! Còn Chúa Giêsu đến trong trần gian này và chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một niềm hi vọng, không phải là một niềm hi vọng bánh vẽ; mà là một niềm hy vọng có thật.

Trong lịch sử nhân loại, nhiều tư tưởng của nhiều họa sĩ đã cho nhân loại những cái hình ảnh là những cái bánh vẽ. Và rồi Chúa Giêsu không hề như các Họa sĩ của trần gian. Chúa Giêsu đã cung cấp cho chúng ta một niềm hi vọng đích thực. Đó là chính cái sự Phục Sinh của Ngài, chứ không phải chỉ là cái hình vẽ trên tường.

Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không ai chối cãi được, bởi vì đó là một biến cố Lịch Sử trong không gian và thời gian.

Và rồi trong mùa Phục sinh, chúng ta nghe Kinh Thánh nhiều, nói về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Không phải chỉ là một ngôi mộ trống mà Gioan mà Phêrô thấy, mà nhiều lần sau đó Chúa Giêsu đã hiện đến với các môn đệ. Và chính các Môn Đệ đã làm chứng về điều đó. Không chỉ bằng cái môi miệng của các môn đệ mà bằng chính cả cuộc đời của họ. Các môn đệ đã tuyên bố một Đức Kitô sống lại mà thực tế lịch sử đã ghi nhận.

Điểm khác biệt lớn là chàng họa sĩ này có thể cứu cái cô này trong một thời gian nào đó, và rồi sau đó Johnsy cũng chết thôi! Cũng như Lazarô được sống lại sau cõi chết, nhưng cuối cùng cũng phải chết.

Cái điều mà Chúa Giêsu đã làm cho con người thấy, chứng minh cho con người thấy, đó là vượt ra khỏi cái giới hạn của con người. Không phải dừng lại ở cái chết, bởi vì con người là chết nhưng Chúa Giêsu đã phục sinh. Mầu nhiệm phục sinh mang một ý nghĩa hoàn toàn khác.

Điều quan trọng là chúng ta tin cái điều mà mình tin đó, không phải bằng lý trí nhưng mà là chạm đến trái tim của cuộc đời chúng ta. Chạm đến cái điều đó, nơi tâm tình của thánh Phaolô:

“Nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta ra vô ích.” Và rồi «Anh em hãy nghĩ những gì thuộc về thượng giới, chứ đừng nghĩ những gì thuộc hạ giới.»

Mầu nhiệm của niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh là ở chỗ đó.

Và nói ngay như thế, không phải rằng chúng ta chỉ sống và chúng ta chờ chết, nếu mà chúng ta tin vào Chúa Giêsu phục sinh thì chúng ta thấy được những cái giới hạn của phận người: sức khỏe, tài năng, địa vị xã hội và tiền bạc có bền vững mãi hay không?

Ai dám nói 10, 20 năm 30 năm nữa, mình sẽ ra sao? Chưa cần đến 10, 20 năm, 30 năm mà có thể ngày này, tháng này, sang năm, chúng ta đã là người thiên cổ.

Có ai dám nói mình cầm một số tiền để có thể là chi để vào cửa thiên đàng, như người ta vẫn thường chi tiền bôi trơn qua các cửa ở trần gian hay không ? Những cái thực tại Hạ giới mà cần cho cuộc sống con người, Nó rất rất là cần, nhưng nó không phải là tuyệt đối. «Bé cái lầm».

Và tội lỗi của con người, đó chính là khi chúng ta đảo lộn cái giá trị thực tại, cũng như đảo lộn cái giá trị tuyệt đối. Nhiều khi mình cứ nghĩ rằng: những cái đồng tiền, những cái danh vọng, những cái quyền lực đó là quyết định đó là cùng đích của cuộc đời chúng ta. Thế nhưng sai lầm, bởi vì đó chỉ là những cái thực tại của trần gian thôi.

Chúng ta nhớ đến một cái lời nguyện Chúa nhật thứ 17 thường niên: “Lạy Chúa, xin cho chúng con biết dùng của cải chống qua này, nhưng mà lòng vẫn khăng khít với những thực tại ở trên Trời.”

Điều quan trọng rằng chúng ta nhắm đến là cái mục đích cuối cùng của chúng ta là chúng ta được Phục sinh với Đức Kitô. Và chính cái Phục sinh đó mời gọi chúng ta: Ngày mỗi ngày trong cái hành trình sống của chúng ta; chúng ta có gạt bỏ tất cả gọi là cái bám víu vào, để chúng ta không siêu thoát được với Chúa Giêsu Phục sinh.
Xin Chúa Giêsu Phục sinh chiếu soi ánh sáng niềm tin của Ngài vào trong cuộc đời của chúng ta. Để rồi ngày mỗi ngày, từng giây từng phút trong cuộc đời. Lòng chúng ta, dẫu rằng, chúng ta sống ở trong trần gian này nhưng chúng ta vẫn hướng về những chuyện ở trên trời. Để chúng ta tìm kiếm những sự trên trời, để sau này chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Đức Kitô và hưởng nhan thánh của Ngài. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC463: Xác nhận lòng tin


(Suy niệm của Flor McCarthy, SDB – Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng – Nguyên tác: New Sunday & Holy Day Liturgies - Chuyển ngữ: Thiên Phúc)

Tin Mừng Ga 20,1-9 – Khi phát hiện ra ngôi mộ trống của Đức Giêsu, các môn đệ bắt đầu thấu hiểu những điều mà Kinh Thánh đã báo trước.

DẪN NHẬP VÀ SÁM HỐI

 

Lễ Phục Sinh là một ngày lễ trong lịch Phụng vụ của Giáo Hội. Đức Giêsu đã chế ngự được sự PS 1-ABC463


Lễ Phục Sinh là một ngày lễ trong lịch Phụng vụ của Giáo Hội. Đức Giêsu đã chế ngự được sự chết, không chỉ cho bản thân Người, mà còn cho tất cả chúng ta nữa. Niềm vui của Lễ Phục Sinh tràn ngập trên toàn trái đất, niềm vui vì sự chết đã bị khuất phục.

Lạy Chúa Giêsu, thông qua ân sủng sự sống lại của Người, Chúa chứng tỏ cho chúng con rằng ánh sáng còn mạnh mẽ hơn cả bóng tối. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

Chúa chứng tỏ cho chúng con rằng điều tốt đẹp còn mạnh mẽ hơn cả sự dữ. Lạy Chúa Kitô, xin thương xót chúng con.

Chúa chứng tỏ cho chúng con rằng sự sống còn mạnh mẽ hơn cả cái chết. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.

ĐỀ TÀI CÁC BÀI ĐỌC

Bài đọc 1 (Cv. 10, 34a. 37-43) Chúng ta được nghe một phần bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô.

Bài đọc 2 (C1. 3, 1-4): Thông qua Phép Rửa Tội của mình, chúng ta đã được chia sẻ sự sống lại của Đức Kitô, theo môt cách thức mầu nhiệm và bí ấn.

Tin Mừng (Ga 20, 1-9): Khi phát hiện ra ngôi mộ trống của Đức Giêsu, các môn đệ bắt đầu thấu hiểu những điều mà Kinh Thánh đã báo trước, nghĩa là Người sẽ được sống lại từ cõi chết.

CHÚ THÍCH THÁNH KINH

Bài đọc từ sách Công Vụ Tông đồ là một phần bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô. Trong đó, ngài tóm tắt sứ vụ của Đức Giêsu, đã lên đến tột đỉnh trong sự chết của Người. Nhưng sứ vụ của Ngươi không kết thúc ở đó - Thiên Chúa đã cho Người sống lại, cho phép một số nhân chứng được nhìn thấy Người. Thánh Phêrô là một trong những nhân chứng đó. Ngài tiếp tục công bố rằng Đức Giêsu chính là Đấng mà tất cả các ngôn sứ đã nói đến, nghĩa là Đấng Mêsia. Tất cả những ai tin tưởng nơi Người, thì các tội lỗi của họ đều sẽ được tha thứ.

Tin Mừng kể lại việc phát hiện ra ngôi mộ trống. Tự thân ngôi mộ trống (với những mảnh khăn liệm được xếp gọn) không phải là bằng chứng trực tiếp của sự sống lại. Tuy nhiên, điều đó lại là bước đầu tiên hướng tới việc xác lập sự thật rằng Đức Giêsu đã vượt qua cái chết và chuẩn bị cho các môn đệ gặp gỡ Chúa sống lại.

Nhiều Bài đọc của chu kỳ Phục Sinh đều có ý muốn dạy dỗ những người tân tòng theo lối sống của người Kitô hữu. Bài đọc 2 hôm nay và Bài đọc thay thế là những ví dụ hay. Do đó, mùa Phục Sinh cung cấp cho chúng ta một cơ hội để suy niệm về ý nghĩa của việc được trở thành những thành viên đã được rửa tội của Thân Thể Đức Ki-Tô.

Mỗi năm, vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường Thánh Phêrô ô Rôma, để được lãnh nhận Phép Lành Phục Sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị Thánh Phêrô công bố thông điệp Phục Sinh: "Đức Kitô đã sống lại, Allêluia". Ngài đang làm điều mà Thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ ‘Phục Sinh đầu tiên - ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.

Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: "Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo, nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh" (Lc 22 1 31-32).

Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc Thương Khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.

Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: "Thưa thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy", ông thực sự chân thành khi nói những điều đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn cây dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó - ông đã lăn ra ngủ vùi. ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.

Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nỏi "Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng trong vườn với ông ta sao?” Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm - ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.

Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Gỉêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa.

Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồỉ lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.

Và Phêrô đã trở nên người tốt lành, ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các Tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người quy tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: "Chúa đã sống lại thật rồi và Người đã hiện ra với ông Phêrô".

Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quý mến, chắc hắn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũỉ với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và ngườỉ khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.

Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.

Đôi khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự có mặt trong những sự kiện của Tin Mừng. Họ được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chứng ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc gống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.

Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bề ngoài hình ảnh giống như họ. Nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.

Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Gỉêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.

Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16: 14).

Tất cả những điều này để lại cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Gỉêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con". Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phảỉ làm gì, để có được lòng tin?

Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm đó trở nên "tự nhiên" theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau - tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.

Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chỉến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC

1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liền sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường. Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh đang có: "Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian".

Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu, miệng còn lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể "Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người.

Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của Chúa Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách để Người đi vào trong vinh quang của Người.

Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.

2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?

Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mộ rồi.

Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu để cho kẻ chết sống lại, quả thật đứng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.

---------------------------------

 

PS 1-ABC464: Đêm thánh - Đêm hy vọng


(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)

(Lễ Đêm Phục Sinh - St 1,1-2,2; St 22,1-8; Xh 14,15-15,1a; Is 54,5-14; Br 3,9 – 15.32;4,4; Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Mc 16, 1-8)

Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (x. 1Cr 15,14).

 

Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt PS 1-ABC464


Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt bóng tối sự dữ và sự chết qua việc sống lại huy hoàng, để mở đường cho những ai tin cũng được sống lại như Ngài đã sống lại.

Đây là niềm tin và hy vọng tuyệt đối của tất cả chúng ta.

Vì thế, đêm hôm nay được gọi là Đêm Hồng Phúc, Đêm Cứu Độ, Đêm Ánh Sáng, Đêm của Sự Sống. Đêm Mẹ của các đêm.

Toàn bộ nghi thức phụng vụ mà chúng ta đang cử hành đều diễn tả những tâm tình trên cách sống động và sốt sắng, để đưa mỗi người chúng ta vào trong mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm cứu chuộc.

Khởi đi từ việc Giáo Hội cử hành nghi thức thắp lửa Nến Phục Sinh. Đây là nghi thức làm toát lên vai trò của Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi thế gian. Ngài đến khai mở và dẫn đưa nhân loại thoát ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để bước vào miền ánh sáng cứu độ.

Khi đã đi ra khỏi bóng đêm của cái chết để bước vào cõi sống, chúng ta hãy cùng với các thần thánh trên trời, nhân loại dưới thế và toàn thể vũ trụ hân hoan công bố Tin Mừng Phục Sinh và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa (x. Exsultet).

Tiếp theo, Mẹ Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những bài sách thánh quan trọng trong lịch sử cứu chuộc, để cảm nhận được tình thương, sự trung tín của Thiên Chúa trên dân của Người như thế nào! Ngõ hầu giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng: Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót, chính Người là chủ tể trong toàn bộ lịch sử cứu độ của dân Người.

Đỉnh cao của lòng xót thương ấy chính là việc: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải hư mất, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thế nên, sứ mạng của Đức Giêsu đến trong trần gian này là để cứu chuộc và khai mở cho nhân loại biết đích xác con đường cứu chuộc ấy là con đường tình yêu. Đây là con đường bản lề để dẫn tới mầu nhiệm phục sinh.

Không chỉ nói và dạy, nhưng Đức Giêsu còn đích thân khai mở con đường ấy bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh của mình.

Như vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không phục sinh, hẳn tất cả những gì đã loan báo về Ngài trước đó đều vô hiệu, những Giáo Huấn của Ngài trở nên phù phiếm, lời rao giảng của các Tông đồ trở thành chiêu trò lừa bịp, và chúng ta trở thành những kẻ mê muội, dại dột khi tin vào một con người đã chết mà không bao giờ sống lại.

Nhưng, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa hằng sống, đã sống lại vinh quang, khiến cho tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo nay ứng nghiệm. Nhất là lời chứng của các Tông đồ trở nên sự thật. Giáo Huấn của Giáo Hội trở nên vững chắc. Và, niềm tin của chúng ta tràn đầy hy vọng. Vì thế, giáo phụ Tertulianô đã phát biểu rất chính xác qua một câu Latinh ngắn gọn như sau: “Fiducia christianorum resurrectio mortuorum; illam credentes, sumus: Niềm hy vọng của người Kitô đặt ở nơi sự việc kẻ chết sống lại; chính vì tin như thế, mà chúng ta mới là Kitô hữu”; chỗ khác, thánh Phaolô dạy: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4; x. 1Ga 3,2).

Đây thực sự là niềm vui khôn xiết tả và nguồn hy vọng được cứu độ trở nên tuyệt đối. Xin tạ ơn Chúa: Halêluiya.

Như thế, những gì diễn ra đêm nay không chỉ là một biến cố đã qua, nay được lặp lại, mà nó là một sự kiện sinh động đến sống động, bởi vì Đức Giêsu đã không kết thúc cuộc đời dương thế của Ngài bằng cái chết, nhưng là sự sống lại. Cái chết của Ngài không phải là dấu chấm hết, mà nó là một khởi đầu, khai mào cho một sự sống mới trong vinh quang dành cho tất cả những ai tin vào Người.

Sứ điệp mà Giáo Hội gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là:

Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người cách đặc biệt. Người đã, đang, và sẽ hiện diện cách trực tiếp, sống động trong lịch sử nhân loại cũng như nơi mỗi người chúng ta.

Vì thế, chúng ta thuộc về con cái của sự sáng, sự sống, là những người đã được cứu chuộc nhờ Máu và Nước của Đức Giêsu.

Khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại và trong cuộc đời của chúng ta, đồng thời xác tín mạnh mẽ vào Đấng Phục Sinh, mỗi người chúng ta cần tu chỉnh cuộc sống của chính mình, để trở chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh khi tin điều xác tín, sống những gì đã tin và thi hành những việc Chúa dạy. Những điều đó là:

Luôn biết xót thương người khác, nhất là những người tội lỗi, để tìm cách nâng họ dậy, khơi gợi niềm hy vọng, ngõ hầu họ cũng được tháp nhập vào đoàn Dân Thánh, dân được cứu chuộc.

Không bao giờ chấp nhận hay lựa chọn thói vô tâm, vô cảm, dửng dưng làm tinh thần chủ đạo trong những sinh hoạt và các mối tương quan hằng ngày của chúng ta.
Cần tránh cho xa những chân lý nửa vời, những trò đánh lận con đen, những thói ăn thời ở đợ, những hành vi tham nhũng, áp bức, bóc lột, gian dối, kiêu ngạo, ăn chơi đàn điếm…, đây là những bóng đêm của tội lỗi, là con đường dẫn đến sự chết, vì thế, chúng ta phải tránh cho xa kẻo mất ơn cứu độ.

Mong sao, trong Đêm Thánh, Đêm Hồng Ân cứu độ này sẽ đem lại cho chúng ta một luồng sinh khí mới, để mỗi người được tràn đầy niềm vui, hy vọng và bình an, hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, xin cho chúng con biết loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng mạnh mẽ Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Halêluiya. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC465: Đêm thánh - Đêm hy vọng


(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)

(Lễ Đêm Phục Sinh - St 1,1-2,2; St 22,1-8; Xh 14,15-15,1a; Is 54,5-14; Br 3,9 – 15.32;4,4; Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Mc 16, 1-8)

 

Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của PS 1-ABC465


Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (x. 1Cr 15,14).

Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt bóng tối sự dữ và sự chết qua việc sống lại huy hoàng, để mở đường cho những ai tin cũng được sống lại như Ngài đã sống lại.

Đây là niềm tin và hy vọng tuyệt đối của tất cả chúng ta.

Vì thế, đêm hôm nay được gọi là Đêm Hồng Phúc, Đêm Cứu Độ, Đêm Ánh Sáng, Đêm của Sự Sống. Đêm Mẹ của các đêm.

Toàn bộ nghi thức phụng vụ mà chúng ta đang cử hành đều diễn tả những tâm tình trên cách sống động và sốt sắng, để đưa mỗi người chúng ta vào trong mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm cứu chuộc.

Khởi đi từ việc Giáo Hội cử hành nghi thức thắp lửa Nến Phục Sinh. Đây là nghi thức làm toát lên vai trò của Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi thế gian. Ngài đến khai mở và dẫn đưa nhân loại thoát ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để bước vào miền ánh sáng cứu độ.

Khi đã đi ra khỏi bóng đêm của cái chết để bước vào cõi sống, chúng ta hãy cùng với các thần thánh trên trời, nhân loại dưới thế và toàn thể vũ trụ hân hoan công bố Tin Mừng Phục Sinh và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa (x. Exsultet).

Tiếp theo, Mẹ Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những bài sách thánh quan trọng trong lịch sử cứu chuộc, để cảm nhận được tình thương, sự trung tín của Thiên Chúa trên dân của Người như thế nào! Ngõ hầu giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng: Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót, chính Người là chủ tể trong toàn bộ lịch sử cứu độ của dân Người.

Đỉnh cao của lòng xót thương ấy chính là việc: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải hư mất, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thế nên, sứ mạng của Đức Giêsu đến trong trần gian này là để cứu chuộc và khai mở cho nhân loại biết đích xác con đường cứu chuộc ấy là con đường tình yêu. Đây là con đường bản lề để dẫn tới mầu nhiệm phục sinh.

Không chỉ nói và dạy, nhưng Đức Giêsu còn đích thân khai mở con đường ấy bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh của mình.

Như vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không phục sinh, hẳn tất cả những gì đã loan báo về Ngài trước đó đều vô hiệu, những Giáo Huấn của Ngài trở nên phù phiếm, lời rao giảng của các Tông đồ trở thành chiêu trò lừa bịp, và chúng ta trở thành những kẻ mê muội, dại dột khi tin vào một con người đã chết mà không bao giờ sống lại.

Nhưng, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa hằng sống, đã sống lại vinh quang, khiến cho tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo nay ứng nghiệm. Nhất là lời chứng của các Tông đồ trở nên sự thật. Giáo Huấn của Giáo Hội trở nên vững chắc. Và, niềm tin của chúng ta tràn đầy hy vọng. Vì thế, giáo phụ Tertulianô đã phát biểu rất chính xác qua một câu Latinh ngắn gọn như sau: “Fiducia christianorum resurrectio mortuorum; illam credentes, sumus: Niềm hy vọng của người Kitô đặt ở nơi sự việc kẻ chết sống lại; chính vì tin như thế, mà chúng ta mới là Kitô hữu”; chỗ khác, thánh Phaolô dạy: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4; x. 1Ga 3,2).

Đây thực sự là niềm vui khôn xiết tả và nguồn hy vọng được cứu độ trở nên tuyệt đối. Xin tạ ơn Chúa: Halêluiya.

Như thế, những gì diễn ra đêm nay không chỉ là một biến cố đã qua, nay được lặp lại, mà nó là một sự kiện sinh động đến sống động, bởi vì Đức Giêsu đã không kết thúc cuộc đời dương thế của Ngài bằng cái chết, nhưng là sự sống lại. Cái chết của Ngài không phải là dấu chấm hết, mà nó là một khởi đầu, khai mào cho một sự sống mới trong vinh quang dành cho tất cả những ai tin vào Người.

Sứ điệp mà Giáo Hội gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là:

Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người cách đặc biệt. Người đã, đang, và sẽ hiện diện cách trực tiếp, sống động trong lịch sử nhân loại cũng như nơi mỗi người chúng ta.

Vì thế, chúng ta thuộc về con cái của sự sáng, sự sống, là những người đã được cứu chuộc nhờ Máu và Nước của Đức Giêsu.

Khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại và trong cuộc đời của chúng ta, đồng thời xác tín mạnh mẽ vào Đấng Phục Sinh, mỗi người chúng ta cần tu chỉnh cuộc sống của chính mình, để trở chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh khi tin điều xác tín, sống những gì đã tin và thi hành những việc Chúa dạy. Những điều đó là:

Luôn biết xót thương người khác, nhất là những người tội lỗi, để tìm cách nâng họ dậy, khơi gợi niềm hy vọng, ngõ hầu họ cũng được tháp nhập vào đoàn Dân Thánh, dân được cứu chuộc.

Không bao giờ chấp nhận hay lựa chọn thói vô tâm, vô cảm, dửng dưng làm tinh thần chủ đạo trong những sinh hoạt và các mối tương quan hằng ngày của chúng ta.

Cần tránh cho xa những chân lý nửa vời, những trò đánh lận con đen, những thói ăn thời ở đợ, những hành vi tham nhũng, áp bức, bóc lột, gian dối, kiêu ngạo, ăn chơi đàn điếm…, đây là những bóng đêm của tội lỗi, là con đường dẫn đến sự chết, vì thế, chúng ta phải tránh cho xa kẻo mất ơn cứu độ.

Mong sao, trong Đêm Thánh, Đêm Hồng Ân cứu độ này sẽ đem lại cho chúng ta một luồng sinh khí mới, để mỗi người được tràn đầy niềm vui, hy vọng và bình an, hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, xin cho chúng con biết loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng mạnh mẽ Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Halêluiya. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC466: Niềm tin chiến thắng sự sợ hãi

 

(Lễ Đêm Phục Sinh - Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn)

 

Kết quả hình ảnh cho chúa phục sinh Với bài hát “niềm tin chiến thắng”, Nhạc sĩ Lê Quang viết PS 1-ABC466


Kết quả hình ảnh cho chúa phục sinh Với bài hát “niềm tin chiến thắng”, Nhạc sĩ Lê Quang viết rằng: “Tôi sẽ hát cho những niềm vui những nỗi buồn. Tôi sẽ hát cho giọt nứơc mắt lang trên môi ai. Đừng khóc nhé em! đừng buồn nhé anh, vì cuộc đời đau mãi chỉ có niềm vui, đâu mãi tươi sáng rạng ngời. Nhưng khi gặp khó khăn, đau đớn, buồn bã, nếu ta giữ một niềm tin, ta sẽ vượt qua và sẽ chiến thắng. Ngược lại, nếu thiếu niềm tin, ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ, dễ thất vọng, chán chường, bỏ cuộc và dễ chiến bại”.

Thưa anh chị em,

Chính các tông đồ ngày xưa đã trải qua những giờ phút đen tối: Thầy chết, người ta lùng bắt, các ông thất vọng, sợ hãi, vì thiếu niềm tin vào quyền năng của Chúa và Lời Ngài. Hôm nay, “Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Các bà bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? " Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ” (Mc 16,1-5). Các bà sợ quá nên không thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra giữa các bà rõ ràng chàng thanh niên ấy là Chúa đứng sờ sờ ra đó. Sợ quá nên Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai và vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Tại sao các bà chưa tin? Vì một người mới bị giết chết, an táng trong mồ rõ ràng mà bây giờ lại đứng sờ sờ trước mặt các bà. Để củng cố đức tin, Chúa Giêsu bảo các bà: "Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông".

Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ và những người phụ n niềm vui và niềm tin sắc đá. Họ đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ngài đã buồn sầu lo sợ vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ và các bà, và ở với họ mọi ngày cho đến tận thế. Cho nên, từ bây giờ dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, họ vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với mình để mình vượt lên chiến thắng mọi khó khăn như Thầy đã chiến thắng.

Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, Ngài vẫn hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ và mấy người phụ nữ ngày xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Đặc Ngài đang sống để dù chúng ta có chết Ngài cũng làm cho ta sống lại. Chúa Phục Sinh luôn hiện diện trong ta qua Bí Tích Thánh Thể, khi chúng ta rước Ngài vào lòng Ngài sẽ làm cho đời ta bình an khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Ngược lại, chúng ta bỏ Ngài ra ngoài các biến cố trong đời vì luôn lo sợ không biết rõ những gì sẽ xảy ra trong cuộc sống và mình phải làm sao? Lo sợ vì bệnh lạ xuất hiện nhiều mà không có thốc chữa, sợ đi xe vì cháy nổ, sợ ăn thịt gia súc vì có hóa chất siêu nạt, lo sợ ăn rau quả vì có chất tăng trưởng, lo sợ vì gạo cao su, sợ gia đình bất hạnh vì con hư hỏng, hay ông ăn chả bà ăn nem... Nhưng điều đáng nói ở đây chính là việc đứng trước những lo âu hay đau khổ của cuộc sống, chúng ta dễ rơi vào cơn trống rỗng tâm linh đồng thời không tìm được ý nghĩa của cuộc sống. Điều nguy hiểm hơn chúng ta dễ cảm thấy mình như bị cô độc, dường Chúa như bỏ rơi.

Thật ra, Chúa luôn đồng hành và ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, luôn nhìn thấy những băng khuâng lo lắng sợ hãi của ta, đồng thời giúp chúng ta nhìn sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, Ngài giúp chúng ta vượt khó, chiến đấu với những sợ hãi, vì Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”, nên chắc chắn chúng ta thắng vượt được khó khắn, đau khổ trước bóng tối của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh xin giúp chúng con luôn vững tin! Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC467: Sự thật minh nhiên


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu - Lễ Vọng Phục Sinh)

CON CHÚA PHỤC SINH – TRỜI ĐẤT MỚI
THẾ NHÂN THAY ĐỔI – XÁC HỒN VUI

 

Xét về bản tính nhân loại, văn sĩ trào phúng Mark Twain (Mỹ) nói: “Người ta không lúc nào PS 1-ABC467


Xét về bản tính nhân loại, văn sĩ trào phúng Mark Twain (Mỹ) nói: “Người ta không lúc nào thành thật hơn lúc nhận biết mình là kẻ dối trá” (A man is never more truthful than when he acknowledges himself a liar). Một kiểu nói khôi-hài-nhức-buốt. Khi còn mặc xác phàm, Chúa Giêsu đã xác định: “Sự thật sẽ giải phóng quý vị” (Ga 8:32). Được giải thoát là không còn lệ thuộc, không còn bị bất cứ thứ gì kìm kẹp. Đó là sự giải phóng (hoặc giải thoát) đích thực, chứ không phải loại giải phóng ảo theo kiểu “bánh vẽ” mà người ta vẫn hô hào, khoe khoang.

Sự giải thoát khá đa dạng, cụ thể và dễ nhận biết là “thoát khỏi lao tù” (dù đó là nhà tù lớn hay nhỏ). Tù nhân rất hạnh phúc khi được phóng thích. Bệnh nhân rất hạnh phúc khi được phục hồi. Người đang khát rất hạnh phúc khi được giải khát. Người mong chờ rất hạnh phúc khi được mãn nguyện. Và còn nhiều dạng hạnh phúc khác khi chúng ta được như ý. Nhưng người ta rất hạnh phúc khi được “cải lão hoàn đồng”, và chắc chắn không có hạnh phúc nào lớn hơn khi được “cải tử hoàn sinh”. Vậy mà chúng ta sẽ được tận hưởng loại hạnh phúc đặc biệt này, loại hạnh phúc mà chính Chúa Giêsu đã hứa ban: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3).

Theo tầm nhìn của nhân loại, Chúa Giêsu là người “thua cuộc”, thất bại ê chề, thế nhưng Ngài đã lật ngược thế cờ bằng cách phục sinh từ cõi chết, đúng như lời Ngài nói trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9:31).

Đỉnh cao của Mùa Chay là Tuần Thánh, đỉnh cao của Tuần Thánh là Tam Nhật Vượt Qua. Tuần Thánh đa sắc màu mà lại thấm đậm nỗi buồn, thế nhưng đêm cuối tuần lại chan hòa niềm vui nối tiếp nỗi mừng. Vì thế, trong bài Công bố Tin mừng Phục sinh (Exultet), Giáo hội nhiều lần mời gọi mọi người “mừng vui lên!”, vì Đức Kitô “đã thay thế chúng ta trả nợ của Adam với Chúa Cha muôn thuở, và đã lấy máu hồng quý giá rửa sạch án tổ tông xưa”, và “vì đây là lễ vượt qua, lễ mà Chiên thật bị sát tế, trong máu Chiên môi miệng tín hữu được thánh hiến đêm nay”.

Hạnh phúc diệu kỳ “tỏa sáng” đêm nay, bởi vì đêm nay “là đêm mà cha ông chúng ta, là con cháu Israel, thoát ly Ai Cập xưa, Chúa đã cho tiến qua Biển Đỏ vẫn khô chân; là đêm nhờ ánh sáng cột lửa thiêng xóa tan mọi bóng tối nhân gian; là đêm mà hết những ai có lòng tin Chúa Kitô khắp trên trần gian, được cứu thoát hết các vết nhơ và tối tăm tội khiên, được ơn thiêng đưa về hợp đoàn cùng các thánh nhân; và “là đêm mà xiềng xích bị bẻ tung, Đức Kitô khải hoàn chiến thắng vinh quang”.

Và đặc biệt đêm nay còn là đêm hạnh phúc vô cùng bởi vì “nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”. Thật kỳ diệu đối với phàm nhân: “Ôi nhiệm mầu thay! Lòng Yêu Thương của Chúa không ai hiểu thấu!”. Niềm vui đêm nay được tính theo cấp số nhân bởi vì “tội Adam đã được tẩy xóa chính nhờ sự chết Chúa Kitô!”. Vớ niềm vui tột đỉnh như vậy, Giáo hội đã gọi Tội Nguyên Tổ là “tội hồng phúc”, chính tội hồng phúc đó “đã ban cho chúng ta Đấng cứu chuộc rất cao sang”, và Giáo hội cũng gọi đêm nay là “đêm hồng phúc”, bởi vì đêm nay là “đêm nối kết trời đất”. Một “dấu cộng” tâm linh thật to lớn!

Thánh Vịnh gia xác định: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:4-6). Có đau khổ mới biết hạnh phúc ngọt ngào thế nào, và muốn vinh quang thì phải biết chịu đựng đau khổ. Đức Kitô đã đau khổ tột cùng nên mới được vinh quang, vì thế: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33:12). Đồng thời chúng ta phải luôn cầu nguyện với Chúa: “Xin đổ tình thương xuống trên chúng con như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Lời cầu đó cũng chính là lời hứa của mỗi chúng ta thân thưa với Ngài – vị Chúa Tể càn khôn duy nhất.
Lạ lùng biết bao, chính câu hỏi của Thánh Phaolô cũng chính là câu trả lời: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao?” (Rm 6:3). Và rồi chính Thánh Phaolô đã giải thích rạch ròi: “Được dìm vào trong cái chết của Ngài là chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Cụm từ “được dìm vào cái chết của Đức Kitô” cho thấy tình-trạng-thụ-động-hoàn-toàn-tín-thác, và đó chính là niềm hạnh phúc của chúng ta – những người tin nhận Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô. Nghe có vẻ “ngược đời” lắm, chắc chắn những người không có niềm tin Kitô giáo sẽ không thể hiểu nổi, thế nhưng đó lại là sự thật trăm phần trăm, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên.

Tình trạng “được dìm vào cái chết của Đức Kitô” không chỉ là hạnh phúc mà còn là sự may mắn của chúng ta, bởi vì “chúng ta đã NÊN MỘT với Đức Kitô NHỜ ĐƯỢC CHẾT như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ NÊN MỘT với Ngài, NHỜ ĐƯỢC SỐNG LẠI như Ngài đã sống lại” (Rm 6:4). Việt ngữ “hay hơn” ngoại ngữ ở thể thụ động: cái gì “không tốt” thì nói BỊ, cái gì “tốt” thì nói ĐƯỢC. Và không chỉ vậy, “con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6:6). Đó là cả một chuỗi kỳ diệu của cuộc đời người Công giáo.

Thật vậy, không kỳ diệu sao được, bởi vì bất kỳ “ai đã chết thì thoát khỏi quyền lực của tội lỗi” (Rm 6:7). Đúng như thế, “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Thánh Phaolô xác quyết đó chính là NIỀM TIN của chúng ta. Từ 0 giờ đêm Thứ Năm rạng sáng Thứ Sáu Tuần Thánh, những kẻ thủ ác tưởng đã chiến thắng, và từ 3 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Tử thần cũng cho rằng nó đã chiếm ưu thế, nhưng rồi hắn đành “bó tay” từ Đêm Vọng Phục Sinh: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Ngài chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Ngài. Ngài đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6:9-10).

Sự thật minh nhiên: Đức Giêsu đã thực sự sống lại, đúng như lời Ngài đã nói trước. Ngài sống cho Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài. Còn hạnh phúc nào hơn? Đó là điều “trên cả tuyệt vời”. Tuy nhiên, không thể cứ “khơi khơi”, không thể cứ “thấy sang bắt quàng làm họ”, hoặc sống kiểu “cục muối cắn đôi, cục đường ăn cả”, mà phải có điều kiện “ắt có và đủ”, nghĩa là ai đã sống Mùa Chay thì mới có thể cảm nhận trọn vẹn niềm vui phục sinh, và chỉ những ai đã “dám chết cho tội” thì mới xứng đáng cùng phục sinh với Đức Kitô: “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:11).

Ngay thời điểm vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria – mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, họ mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Đó là sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Họ ngạc nhiên: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” (Mc 16:3), vì tảng đá lấp cửa mộ là tảng đá lớn lắm, có thể vài đàn ông lực lưỡng mới có thể lăn ra nổi, thế mà họ vừa ngước mắt lên đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi. Ngạc nhiên này tiếp theo ngạc nhiên khác. Họ vào trong mộ thì thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng. Là phụ nữ “yếu bóng vía” nên họ hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền trấn an: “Đừng hoảng sợ!” (Mc 16:6a), rồi người thanh niên đó xác định: “Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Ngài đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Ngài đây này!” (Mc 16:6b). Chắc chắn rồi, rõ ràng rồi. Thế mà những kẻ thủ ác, vốn tâm địa xấu xa, quen thói ăn không nói có, dám hối lộ cho đám lính một số tiền để chúng phao tin tào lao! (x. Mt 28:13-14). Những kẻ xấu đó không ai xa lạ, mà chính là các thượng tế lừa đảo.

Sau đó, chính người-thanh-niên-áo-trắng đó còn căn dặn họ thêm: “Xin các bà về nói với môn đệ Ngài và ông Phêrô rằng Ngài sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Ngài như Ngài đã nói với các ông” (Mc 16:7). Chắc lúc đó các bà nhà ta run như cầy sấy, sợ quá nên chẳng nói được lời nào. Thảo nào vừa nghe người thanh niên kia nói xong, “họ vừa ra khỏi mộ liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” (Mc 16:8a), thậm chí “chẳng nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16:8). Thật hay mơ vậy ta? Thế là thế nào?

Ôi chao, thật tội nghiệp các chị em phụ nữ quá! Chiều Thứ Sáu, họ không sợ mà cứ lẽo đẽo tiễn Chúa Giêsu lên Đồi Can-vê như “đưa đám tang sống” và khóc hết nước mắt. Thế mà bây giờ, biết Chúa Giêsu đã sống lại, họ lại sợ hãi và chạy mất dép như ma đuổi. Phụ nữ là vậy, thông cảm! Việc cần quan tâm lúc này là: ĐỨC KITÔ ĐÃ PHỤC SINH. Hãy vui mừng lên – Alleluia!

Lạy Thiên Chúa hằng sinh và hằng hữu, tất cả là hồng ân vô biên của Ngài. Chúng con thật hạnh phúc được đắm mình trong Biển Hồng Ân Thương Xót vô biên của Ngài. Chúng con xin tạ ơn Thánh Phụ đã ban Thánh Tử Giêsu cho chúng con, xin trọn đời tạ ơn Đức Kitô đã cứu độ chúng con, và xin tạ ơn Thánh Linh luôn hướng dẫn chúng con trong mọi hoàn cảnh. Cúi xin Ba Ngôi gìn giữ, nâng đỡ và thánh hóa chúng con, đừng để chúng con phải thiếu vắng Chúa bao giờ. Xin cho mọi người cảm nhận được niềm vui phục sinh trong mọi hoàn cảnh của mình. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC468: Khải hoàn


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu - Chúa Nhật Phục Sinh)

MỘ ĐÁ CHỨNG MINH ĐỨC CHÚA SỐNG LẠI
NHÂN GIAN LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH

 

Chúa Giêsu đã phục sinh khải hoàn, tất cả tín nhân hân hoan hợp xướng “Alleluia!”, nhưng đồng PS 1-ABC468


Chúa Giêsu đã phục sinh khải hoàn, tất cả tín nhân hân hoan hợp xướng “Alleluia!”, nhưng đồng thời cũng phải có trọng trách: “Anh em PHẢI CỞI BỎ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và PHẢI MẶC LẤY con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Hai mệnh lệnh “phải” rất quyết liệt!

Chúa Giêsu đã chiến thắng Tử Thần, niềm vui phục sinh đang tràn ngập lòng người, ánh sáng phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi Kitô hữu. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Chúa Giêsu sống lại là lời xác định về niềm tin của chúng ta: XÁC LOÀI NGƯỜI SẼ SỐNG LẠI. Chắc chắn như vậy, nhưng phần chúng ta là phải cố gắng sống để hoàn tất lời hứa của Ngài: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3).

Thiên Chúa là ĐẤNG CÔNG CHÍNH (Tv 11:7; Tv 35:28; Ga 17:25) nên Ngài cũng CÔNG MINH CHÍNH TRỰC (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7). Ngài còn là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) nhưng Ngài lại chẳng thiên vị bất kỳ ai, như Thánh Phêrô xác quyết: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, dĩ nhiên cũng chẳng loại trừ ai, bởi vì MỌI NGƯỜI ĐỀU BÌNH ĐẲNG TRƯỚC MẶT CHÚA. Thế nên chớ cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mình “ngon” hơn người khác!

Nói về Đấng Phục Sinh, Thánh Phêrô giải thích một loạt: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Rút kinh nghiệm sau lần lỡ chối bỏ Sư Phụ Giêsu của mình chỉ vì quá khiếp nhược, và rồi nhận biết sự thông cảm của Thầy khi Thầy quay lại nhìn mình (Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt”, khóc vì biết mình yếu đuối và khốn nạn. Nhưng điều đó lại là đại phúc. Không biết khóc cho tội mình mới là khốn nạn đời đời.

Ngay sáng sớm, được mấy phụ nữ báo “tin nóng”, ông Phêrô cũng đã ba chân bốn cẳng chạy tới mộ, thế là chắc chắn rồi. Từ khi biết chắc Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Chẳng còn thứ gì có thể khiến ông lo sợ như trước nữa. Ông đã biến đổi thành một con người hoàn toàn mới.

Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-cương-trực (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế cũng “liều mạng” lắm chứ – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược (chối Thầy khi chỉ có mấy đứa tớ gái chân yếu tay mềm – Mt 26:69-75; Mc 14:66-72; Lc 22:56 -62; Ga 18:15-18, 25-27). Thế nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-hèn-nhát-và-nhu-nhược đã biến thành một Phêrô-mạnh-mẽ-và-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó chính là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân mọi sự.

Và rồi mỗi chúng ta cũng chẳng hơn gì Phêrô, cũng đã bao phen “chối” Chúa, thậm chí còn dám “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem. Nhưng dù chúng ta dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết, chỉ cần chúng ta thật lòng sám hối. Mặc dù tội lỗi và bất xứng, nhưng chúng ta hãy can đảm kêu gọi: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh Vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp ca này: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Hãy vững lòng tin tưởng và tự thề hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao làm vậy? Đây là lý do minh nhiên:

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
Lại trở nên đá tảng góc tường
Đó chính là công trình của Chúa
Một công trình kỳ diệu vô thường
(Tv 118:22-23)

Với lòng nhiệt thành và sự ân cần, Thánh Phaolô căn dặn mỗi chúng ta: “Anh chị em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh chị em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:1-3). Có lẽ sợ chúng ta nản chí sờn lòng nên Thánh Phaolô tiếp tục động viên: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Đó là lời hứa chắc chắn và là niềm tin bất tử của tất cả chúng ta – những người đã, đang và sẽ hành động vì Đức-Kitô-Phục-Sinh.

Đây là tường thuật của người-môn-đệ-Chúa-yêu: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.

Lo sợ và hoang mang, Cô Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình đã nói trước. Con người thế đấy, nỗi sợ hãi khiến người ta hóa ngớ ngẩn. Nghe nói vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc chạy ra mộ, họ cùng chạy, chạy như bay. Nhưng chàng trai Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.

Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào. Chàng Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi mà không lòng tin thì cũng vô ích. Nếu thấy và tin rồi cũng chưa xong, mà còn có bổn phận phải làm chứng. Một “chiếc kiềng” vững chắc nhờ cả ba chân: Thấy – Tin – Thực Thi.

Dựa vào Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ĐỨC GIÊSU PHẢI TRỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, tất nhiên không loại trừ mỗi chúng ta, cho rằng “không thấy thì rất khó tin” – theo kiểu thực nghiệm. Nhưng Chúa Giêsu lại xác định: “Phúc thay những người KHÔNG THẤY MÀ TIN!” (Ga 20:29). Không thấy mà vẫn tin, đó không phải là hồ đồ, mù quáng hoặc ảo tưởng, mà là đức tin do Thiên Chúa mặc khải.

Lạy Thiên Chúa uy linh cao cả, xin tạ ơn Ngài đã soi sáng cho chúng con nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, nhận biết Đức Kitô là Đấng chịu chết và sống lại, xin ban thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên đường lữ hành trần gian này, đồng thời cũng giúp chúng con can đảm làm chứng nhân về Ngài trong suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ duy nhất của chúng con. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC469: Tìm Đấng Phục Sinh


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Chuyện kể rằng... Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết PS 1-ABC469


Chuyện kể rằng... Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?”. Các vị lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút “tro tàn”, người thì nói là “chút hài cốt”, người thì nói là “mấy cọng râu”, người thì nói là vật này hoặc vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo trả lời: “Chúa Giêsu của chúng tôi để lại một di sản là NGÔI MỘ TRỐNG”.

Thật kỳ diệu, “ngôi mộ trống trơn” đó lại chứa đựng tất cả. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24:5-6). Lời Đức Kitô nói trước, giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã sống lại thật rồi: “Alleluia! Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế, vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa” (1 Cr 5:7b-8a).
Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.

Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (1). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt.

Một Phêrô hôm nay hoàn toàn khác một Phêrô hôm qua, con người khiếp đảm đã biến thành con người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn rao giảng về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:37-38).

Và ông dẫn chứng cụ thể: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là sự thật của các sự thật, là sự thật hơn cả sự thật, không gì có thể chối cãi.

Thật hạnh phúc vì chúng ta có được đức tin tông truyền và vẫn đang cố gắng sống niềm tin đó. Hôm nay là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình, và hãy xác định lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chúng ta chỉ là con số “không” to lớn, vậy thì không thể không tạ ơn, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:16). Kinh Thánh đã nói: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết” (Kn 2:1). Nhưng chúng ta không phải chết tủi nhục, mà được sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17)

Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”, và xác nhận “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, với lý do vô thường: “Đây là ngày Chúa làm ra – Cùng nhau ta hãy reo ca vui mừng” (Tv 118:24).

Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thì phải thế thôi, không thể khác được, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 8:23). Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải noi gương Ngài, một lòng một dạ chỉ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” mà thôi.

Thánh Phaolô cho biết lý do: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:3-4). Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất nhơ nhớp, hôi thối hơn đống rác, ấy thế mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Chuyện như huyền thoại mà lại là sự thật. Quá đỗi kỳ diệu!

Tuy nhiên, đừng vì thế mà ẢO TƯỞNG, ảo tưởng sinh KIÊU NGẠO, kiêu ngạo sinh CỐ CHẤP, cố chấp thì… “hết thuốc chữa”. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Vì thế, “chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8).

Trình thuật Ga 20:1-9 ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết, đặc biệt là chuyện người ta đi tìm Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe vậy, cả ông Phêrô và chàng Gioan cũng vội vã đi ra mộ. Họ không đi bộ mà chạy. Chắc hẳn họ cũng đang hoang mang, không biết kẻ nào to gan mà đưa thi hài Thầy đi đâu mất tiêu!

Cả hai đều ráng chạy cho mau, nhưng chàng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Rất gọn gàng. Thế thì không thể bị đánh cắp. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế chứ? Chắc chắn chẳng kẻ nào to gan mà lấy trộm xác Thầy được đâu!

Rồi Gioan cũng đi vào theo, chàng đã thấy và đã tin. Trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, không chỉ hết lo sợ mà còn vui mừng khôn tả: Thầy đã phục sinh rồi, alleluia! (2)

Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu và hằng sinh, Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã phục sinh vinh hiển, chúng con vô cùng hạnh phúc, và xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn, đồng thời cũng biết nhiệt thành làm nhân chứng giữa cuộc đời hôm nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

--------
(1) Có 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh đứng hàng đầu: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.
(2) Nghe Hallelujah của nhà soạn nhạc Handel (1685-1759)

---------------------------------

 

PS 1-ABC470: Ánh sáng Phục Sinh


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Chúa Giêsu phục sinh khải hoàn, chúng ta hân hoan hợp xướng: “Alleluia!”, nhưng đồng thời chúng PS 1-ABC470


Chúa Giêsu phục sinh khải hoàn, chúng ta hân hoan hợp xướng: “Alleluia!”, nhưng đồng thời chúng ta cũng có trọng trách: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24).

Ánh sáng Phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi chúng ta. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18).

Thánh Phêrô xác quyết: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, và không loại trừ ai, vì mọi người đều bình đẳng trước mặt Chúa. Đừng cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mình “ngon” hơn người khác!

Thánh Phêrô giải thích một loạt: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Sau khi lỡ chối bỏ Sư phụ mình vì khiếp nhược và nhận biết sự thông cảm của Sư phụ Giêsu khi Ngài quay lại nhìn mình (Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt”.

Sau khi biết Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43).

Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-thẳng-tính (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược. Nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-nhát-đảm đã biến thành một Phêrô-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó là tác động của Chúa Thánh Thần!

Chúng ta cũng vậy, cũng đã bao phen “chối” Chúa và “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem. Nhưng dù chúng ta dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết. Vì thế, chúng ta can đảm kêu gọi: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp khúc: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Chúng ta tin tưởng và đoan hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao? Vì:

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
Lại trở nên đá tảng góc tường
Đó chính là công trình của Chúa
Một công trình kỳ diệu vô thường
(Tv 118:22-23)

Thánh Phaolô căn dặn mỗi chúng ta: “Anh chị em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh chị em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:1-3). Sợ chúng ta nản chí sờn lòng, Thánh Phaolô khuyến khích: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Lời hứa chắc chắn đó là niềm tin bất tử của tất cả chúng ta – những người đã, đang và sẽ hành động vì Đức-Kitô-Phục-Sinh.

Người-môn-đệ-Chúa-yêu (Gioan) tường thuật: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.

Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình nói trước. Nghe vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.

Ông Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào. Ông “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi, liệu có đủ lòng tin? Nếu thấy và tin rồi thì phải có bổn phận làm chứng.

Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, kể cả chúng ta, không thấy thì rất khó tin. Nhưng Chúa Giêsu lại xác định: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con và xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên cuộc lữ hành trần gian này, đồng thời giúp chúng con can đảm làm chứng nhân của Ngài suốt đời trong từng nhịp thở. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC471: Tẩy sạch mùi cọp

 

Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” số ra tháng sáu năm 1991, có đăng một truyện ngắn với tựa đề PS 1-ABC471


Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” số ra tháng sáu năm 1991, có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp”. Câu truyện đại khái như thế này:

Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, vừa là người dạy thú của một đoàn xiếc. Người chồng, mặc dù nhận thấy nghề dạy thú cua vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ. Tuy nhiên, anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thu không thể không cần đến cái mùi ấy. Chính nhờ cái mùi ấy mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và mới ngoan ngoãn vâng lời cô. Cho đến một hôm, họ giận nhau. Tình trạng này kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Chị chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với anh và cũng rất xa lạ đối với chị, đó là chị đã tẩy sạch mùi cọp bằng nước hoa thơm phức. Họ đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đêm hôm sau, người vợ ấy đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị đã thuần hóa. Số là nó đã không nhận ra chị, bởi vì cái mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và thế là chỉ trong khoảng khắc, chị đã bị tan xác dưới những móng vuốt của con cọp mà chị đã hết lòng yêu thương.

Từ câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì yêu thương chồng, chị đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đã hy sinh chính mạng sống của mình. Tình yêu đích thực không phải chỉ là chết đi một ít, nhưng là chết đi trọn vẹn, để làm phát sinh sự sống mới. Đó cũng chính là ý nghĩa cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, mà Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong mùa Phục sinh.

Thực vậy, Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, nghĩa là hiến chính mạng sống mình vì chúng ta như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu. Và sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài chính là một sức sống mới bừng lên từ tình yêu tha thiết ấy,

Chúng ta cũng thế, trong đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta lặp lại lời hứa của ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Với bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được mai táng với Đức Kitô, đề rồi được phục sinh trong sự sống mới của Ngài. Mai táng vơi Đức Kitô, có nghĩa là chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta, là khước từ cái mùi của dục vọng sai trái, là từ bỏ tất cả những gì lôi kéo chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và Thánh Phaolô cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Hãy mai táng con người cũ, đề mặc lấy con người mới của Đức Kitô.

Xin Đức Kitô Phục Sinh luôn chiếu tỏa anh sáng của Ngài vào trong tâm hồn u tối của mỗi người, để chúng ta hiểu được những đòi hỏi đích thực của đức tin, vì theo Chúa đó là bước đi trên con đường thập giá, bước đi trên con đường chiến đầu và hy sinh, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục Sinh với Ngài.

---------------------------------

 

PS 1-ABC472: Ngày Chúa đã làm ra


(Suy niệm của Lm. Minh Anh)

“Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!”.

Kính thưa Anh Chị em,

 

Đây là ‘ngày Chúa đã…. Chúng ta vui mừng hoan hỷ vì Chúa Kitô đã sống lại. Qua cuộc khổ nạn PS 1-ABC472


“Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!”. Chúng ta vui mừng hoan hỷ vì Chúa Kitô đã sống lại. Qua cuộc khổ nạn, Con Thiên Chúa đã ôm tội ác của cả nhân loại vào trong tử huyệt, nhưng Ngài không còn ở đó; Ngài chôn vùi sự dữ vào lòng đất và chỗi dậy để khởi đầu một sự sống mới. Chúa đã sống lại! Sự ác không phải là tiếng nói cuối cùng, tử thần bị đánh bại; Ngài đã chiến thắng sự chết, trả lại cho nhân loại sự thanh bình của vườn địa đàng, đất trời reo ca.

Nhiều nơi trên thế giới, lễ Phục Sinh đến vào mùa xuân. Đây là thời điểm thiên nhiên tự nó mang đến sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Những bông hoa tulips bắt đầu vươn lên khỏi mặt đất im lìm lạnh giá, những chiếc lá bắt đầu nhú trên cành cây biến khu rừng thành một biển xanh, mặt trời bắt đầu toả sáng với ánh hào quang rạng rỡ, mang theo hơi ấm khi nó mọc lên. Muôn vật tự nó phản ánh vinh hiển và vẻ huy hoàng sự Phục Sinh của Chúa Kitô theo nhiều cách. Cái chết của mùa đông phản ánh cái chết của Ngài và sự im lặng của ngôi mộ chiều ngày thứ Bảy. Mọi thứ đi vào im ắng; cảnh vật dường như chết đi, cả động vật và côn trùng cũng chìm vào trạng thái ngủ đông với nhiều hình thức bất động khác nhau. Tuy nhiên, vào một thời điểm, khi sự ấm áp của mặt trời toả lan, một lần nữa, thiên nhiên được gọi từ cái chết mùa đông sang sự sống hừng hực của mùa xuân.

Thiên Chúa nói theo nhiều cách, chu kỳ của thiên nhiên là một trong những cách thức dễ thấy nhất. Hơi ấm sẽ trở lại sau mùa đông, thiên nhiên trỗi dậy và trái đất lại ca hát. Vậy nếu Cha Trên Trời chăm chút nâng niu từng tạo vật nhỏ bé đến như thế, thì Ngài còn quan tâm đến việc tái tạo loài người bao nhiêu nữa? Ngài quan tâm đến sự Phục Sinh của Con Chí Ái của Ngài đến mức nào? Và nhất là, Ngài còn quan tâm bao nhiêu đến việc chúng ta bước vào một cuộc sống mới đã giành cho từng người nhờ sự Phục Sinh của con Ngài? Hãy để vẻ đẹp của tạo vật trở nên dấu chỉ cho chúng ta về một thực tại vĩ đại hơn vô hạn. Hãy để bản thân cuốn hút vào sự mới mẻ được tặng ban trong sự Phục Sinh của Chúa Kitô. Vươn lên có nghĩa là trở nên một tạo vật mới trong Ngài.

Hãy gẫm suy những lời tuyệt diệu này, “Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ”. ‘Ngày’ chúng ta vui mừng trong cuộc sống mới mà Thiên Chúa ban cho linh hồn mỗi người là ‘ở đây, lúc này’. Đó là một ngày mới, ngày vinh quang, được biến đổi bởi một con người, một Thiên Chúa, Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu Kitô. Cuộc sống mới phải bắt đầu ngay giờ này và phải liên tục trở nên mới mẻ, rạng ngời, khi chúng ta ngày càng đi sâu hơn vào vinh quang của sự Phục Sinh. Hãy suy gẫm về ‘ngày mới’ này, để Ngài ban cho chúng ta điều đó qua quyền năng Phục Sinh.

Anh Chị em,

“Chúa Kitô đã sống lại!” không phải là một công thức ma thuật làm cho các vấn đề tan biến. Không! Sự Phục Sinh của Chúa Kitô không làm điều đó; nhưng thay vào đó, là sự chiến thắng của tình yêu đối với cội rễ của cái ác, một chiến thắng không ‘bỏ qua’ đau khổ và cái chết, nhưng ‘vượt qua’ chúng, ‘đứng trên’ chúng, mở ra một con đường trong vực thẳm, biến cái ác thành cái thiện, và đây là dấu ấn độc đáo cho thấy quyền năng đích thực của Thiên Chúa. Và như thế, ngày lễ Phục Sinh đúng là một ngày tưng bừng hỷ hoan, “Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ”.

Trước một thị trấn Áo, tướng Massena bất ngờ xuất hiện với 18.000 quân. Hội đồng thị trấn họp, đầu hàng là câu trả lời duy nhất. Thế nhưng, một cựu quan chức nói, “Hôm nay là lễ Phục Sinh, hãy mừng lễ và cứ để mọi rắc rối cho Chúa, Chúa có cách của Chúa”. Họ cử người đến nhà thờ, xin cha xứ rung chuông báo lễ. Nghe tiếng chuông nhà thờ, quân của Napoléon suy luận, quân đội Áo đã đến giải cứu; họ phá trại và biến mất trước khi chuông của Kinh Vinh Danh ngừng vang lên.

Anh Chị em,

Ngày Phục Sinh là ‘ngày Chúa đã làm ra’. Ngài làm ra lại trời mới đất mới mà con người đã hủy hoại; Ngài nối lại tương quan giữa con người với Thiên Chúa mà Adam đã đánh mất; Ngài giao hoà lại ‘người với Chúa’, ‘người với người’ mà tội đã cắt đứt. Vâng, nơi sự Phục Sinh của Chúa Con, Chúa Cha đã bắt đầu một cuộc sáng tạo mới. Thế nhưng, không phải chỉ hôm nay mới là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nhưng mọi ngày là ‘ngày Chúa đã làm ra’; vì thế, chúng ta hãy tưng bừng hỷ hoan. Hãy để cho mình được tưng bừng hỷ hoan, người sống với mình được tưng bừng hỷ hoan. Muốn thế, hãy để mọi rắc rối trong tay Chúa, Chúa có cách của Chúa. Hãy thôi làm điều ác nhưng không ngừng gieo rắc thiện hảo, an bình; hãy là con cái của Đấng Phục Sinh; bớt tìm “những sự thuộc hạ giới và không ngừng tìm kiếm những gì thuộc thượng giới” như thư Côlôssê hôm nay nhắc nhở.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Phục Sinh, con tạ ơn Chúa đã dùng cái chết đau thương của Ngài mà ‘sinh lại’ thế giới; xin cho con biết sống mọi ‘ngày Chúa đã làm ra’ với ‘tư chất’ của một người con đã được Chúa cứu chuộc: tưng bừng hỷ hoan; và biết ra đi chia sẻ niềm vui ‘được tái sinh’ của mình”, Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC473: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết”


(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nam)

Tin mừng Ga 20,1-9 - Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.

Suy niệm:

 

Đức Kitô đã sống lại thật! Đó là sứ điệp vĩ đại nhất, quan trọng nhất của Kitô giáo mà phụng vụ PS 1-ABC473


Đức Kitô đã sống lại thật! Đó là sứ điệp vĩ đại nhất, quan trọng nhất của Kitô giáo mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn trình bày cho chúng ta trong ngày lễ mừng Chúa Phục Sinh.

Sách Công Vụ đã ghi lại lời rao giảng của Thánh Phêrô. Ngài đã long trọng xác quyết với viên đại đội trưởng Rôma là Corlanio và cả gia đình ông:“Đức Kitô đã sống lại thật!”. Sau đó, ông và cả gia đình xin học đạo và được rửa tội gia nhập đạo. Phêrô còn xác quyết: Sự chết và phục sinh là cao điểm của cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Kitô phục sinh là nền tảng đời sống đức tin của người Kitô hữu.

Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Colosê: Anh em được hiệp thông với Đức Kitô Phục Sinh, thì hãy tìm kiếm những sự trên trời để cùng Người hưởng phúc vinh quang.

Tin mừng hôm nay ghi lại hiện tượng mồ trống, không còn xác Chúa Giêsu ở đó qua ba nhân chứng là Maria Madalena, Phêrô và Gioan. Tất cả đều chứng kiến tận mắt ngôi mộ trống, tảng đá lấp cửa mộ được đẩy qua một bên, khăn liệm xác Chúa xếp lạ gọn ghẽ. Những sự kiện này là bằng chứng xác thực Đức Giêsu Kitô đã sống lại thật. Sau đây chúng ta cùng nhau suy niệm về thái độ của 3 nhân chứng:

1. Ngày mai táng Chúa Giêsu, đau buồn, lo âu, sợ hãi bao trùm Maria Madalena và những người phụ nữ đạo đức. Việc xức thuốc thơm thân xác Chúa được làm một cách vội vã, không được chu đáo. Vì thế, vào sáng sớm bà đem thuốc thơm đến mộ để ướp lại xác Chúa. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống, cửa mộ mở toang, không còn thấy xác Thầy ở đó. Maria đã vội vã báo tin cho Phêrô và Gioan. Đối với Maria Madalena, bà đến mộ để xức thuốc thơm cho thân xác Chúa cho chu đáo hơn và bà đến mộ để gặp lại xác Chúa với tâm trạng như thế, bà nhìn vào ngôi mộ trống, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.

2. Còn đối với Phêrô, ông sợ hãi, buồn lo vì đã chối Chúa, vì sợ liên lụy “Họ đã giết Thầy, thì cũng có thể giết các đồ đệ”. Điều hiển nhiên là “Chúa đã chết và đang an nghỉ trong ngôi mộ đá”. Điều ông mong muốn là đừng có điều gì rắc rối xảy ra nữa. Ông chạy đến mộ với tâm trạng lo sợ bàng hoàng, ông đã không xác nhận Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại.

3. Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa Giêsu yêu mến ông hơn các tông đồ. Tình yêu của ông đã được biểu lộ trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo Chúa trên con đường khổ nạn cho đến lúc cuối cùng và có mặt dưới chân thập giá, an táng Chúa Giêsu… Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong đời mình, cho dù phải xa cách nhau. Với tâm tình yêu mến đó, Gioan đã nhận ra Đức Giêsu đã sống lại từ cói chết: “Ông đã thấy và ông đã tin”.

Từ đó, chúng ta kết luận: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng, toan tính trần gian như Maria Madalena đi tìm xác Chúa không đưa đến niềm tin. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông tới niềm tin vào Đức Kitô phục sinh.

Tin Đức Kitô Phục Sinh và cảm nghiệm được ơn phục sinh, các tông đồ mở toang cửa, hăng say ra đi đem Tin mừng Phục sinh cho mọi người bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Người Kitô hữu tin vào Đức Kitô phục sinh, không được giữ niềm vui cho mình, mà phải loan tin vui đó cho mọi người trong gia đình, trong xã hội bằng cách giúp đỡ, chia sẻ, phục vụ mọi người trong yêu thương.

---------------------------------

 

PS 1-ABC474: Galilê, điểm hẹn của Chúa Giêsu


(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Ga 20, 1-9: Galilê, một vùng đất đã ghi đậm kỷ niệm về tất cả những lời nói và hành động hết sức gần gũi của Đức Giêsu Nagiaret. Chính vì vậy, biến cố Phục Sinh cần phải được nối lại với những gì xảy ra trước đó ở Galilê...

 

Chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa để hiểu mầu nhiệm Vượt Qua. Một ngôi mộ mới PS 1-ABC474


Chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa để hiểu mầu nhiệm Vượt Qua. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Ngôi mộ này ngôi mộ của ông Giuse, một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất.

Một đêm thật u buồn, thật ảm đạm! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó. Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.

Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to lớn, thật là một trở ngại... Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra một bên, và xác của Thầy cũng không còn ở đó nữa. Sứ thần Chúa loan báo Tin Vui: Đấng Bị Đóng Đinh đã chỗi dậy, Ngài hẹn gặp các môn đệ tại Galilê.

Tại sao Chúa lại hẹn gặp các môn đệ tại Galilê mà lại không ở một nơi nào khác?
Vậy việc hẹn gặp ở Galilê mang ý nghĩa gì?

Và đâu là lý do để Chúa hẹn gặp các môn đệ ở Galilê?

Câu trả lời vẫn là: Galilê là quê hương của các môn đệ.

Mọi sự đều bắt đầu ở đó. Một ngày kia, Đức Giêsu đã đến với họ. Ngàibắt gặp họ đang hành nghề đánh cá. Họ hết sức xúc động trước cái nhìn và lời lẽ của Ngài. Họ bị đánh động và cảm thấy như một niềm hy vọng mãnh liệt vươn dậy trong lòng, đến nỗi họ đã không ngần ngại đi theo Ngài với niềm hăng say nhiệt tình của tuổi trẻ và với tất cả niềm hạnh phúc vì đã tìm ra Đấng mà các tiên tri loan báo, Đấng mà mọi người chờ mong.

Galilê, đó là nơi mà Đức Giêsu đã để lại dấu vết hiện diện của Ngài:

- là Cana, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu ngon,
- là ngọn núi nơi Ngài công bố các Mối Phúc Thật,
- là những phép lạ chữa lành bệnh tật mà họ là nhân chứng với tất cả sự kinh ngạc,
- là những đám đông hứng khởi và ngày một đông đảo hơn,
- là những bữa ăn cùng nhau chia sẻ,
- là những nẻo đường rong ruổi mà các môn đệ đi theo Đức Giêsu.

Như thế, Galilê, một vùng đất đã ghi đậm kỷ niệm về tất cả những lời nói và hành động hết sức gần gũi của Đức Giêsu Nagiaret. Chính vì vậy, biến cố Phục Sinh cần phải được nối lại với những gì xảy ra trước đó ở Galilê.

Trở lại Galilê là cách thức giúp họ tìm lại một con người rất thật và rất gần gũi của Đức Giêsu. Gặp lại như thế quả là hết sức cần thiết, nhất là vào thời điểm mà Đức Giêsu khẳng định với họ cách long trọng về vương quyền của Ngài trước khi trở về với Chúa Cha (Mt 28,18).

Các môn đệ cần phải hiểu rằng không có sự cắt đứt giữa Đức Giêsu Lịch Sử và Đức Chúa Phục Sinh, Đấng chiến thắng sự chết cũng chính là con người rất gần gũi, “rất người’ mà họ đã từng kề cận, đã từng chung sống.

Được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh ở Galilê, nghĩa là ở chính nơi mà họ đã biết đến, đã ngưỡng mộ và yêu mến Ngài, quả là một khoảnh khắc mang tính chất quyết định. Cuộc gặp gỡ đã nối kết vinh quang của Đấng Phục Sinh với cuộc đời trần thế của Ngài và do đó tạo nên một ký ức sống động về kinh nghiệm Tin Mừng Phục Sinh. Các môn đệ sống lại kinh nghiệm đó, nhưng lần này là trong Ánh Sáng Phục Sinh. Từ nay tâm trí họ, Đức Giêsu Lịch Sử và Đức Chúa Phục Sinh là một.

Hơn nữa, một điều chúng ta cần lưu ý ở đây là việc trở lại Galilê cũng như việc Chúa Phục Sinh tỏ mình cho các môn đệ xảy ra giữa hai biến cố Phục Sinh và Hiện Xuống. Vì thế, cần phải hiểu việc Chúa hiện ra tại Galilê như sự chuẩn bị cho biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cuộc gặp gỡ này, Chúa Giêsu cho môn đệ thấy rằng, vinh quang Thiên Chúa mà Ngài vừa bước vào cũng chính là ánh vinh quang của đức ái thần linh đã dẫn dắt Ngài suốt trên con đường trần thế và đưa Ngài đến chỗ trao hiến chính mạng sống mình. Sự trao hiến này mạnh hơn cả sự chết và đó cũng chính là sự sống mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.

Như vậy việc trở lại Galilê mang chiều kích của một kinh nghiệm thiêng liêng, chứ không phải chỉ là sự trở về một nơi chốn theo nghĩa địa lý. Đó thực sự là một cuộc khám phá, dưới ánh sáng của ChúaThánh Thần. Dưới ánn sáng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ cũng như chúng ta khám phá ra nơi nhân tính của Đức Kitô Lịch Sử, một tình yêu siêu việt đã hiến ban cho chúng ta cách nhưng không. Khi đón nhận tình yêu này, chúng ta thông hiệp vào sự sống viên mãn. Một sự sống vừa nâng cao và tái tạo chúng ta từ nơi thâm sâu của con người, vừa dẫn đưa chúng ta vào một thế giới rộng lớn bao la. Một kinh nghiệm như thế cho chúng ta thấy rằng mình được nâng đỡ, được bao bọc bởi một tình yêu, một tình yêu chỉ mong muốn thông ban sự sống, thông ban sự thánh thiện, thông ban niềm vui và vinh quang của Thiên Chúa cho chúng ta. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC475: Chúa Nhật Phục Sinh


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ ĐCV Sao Biển)

CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI, SỰ CHẾT ĐÃ BỊ ĐẨY XA

 

Mừng Chúa Phục sinh! Hôm nay, chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Bài đọc PS 1-ABC475


Mừng Chúa Phục sinh! Hôm nay, chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Bài đọc một và bài Tin mừng đưa ra những hiểu biết sâu sắc về các chứng nhân Kitô hữu thời kỳ đầu để có thể giúp chúng ta trong vai trò chứng nhân cho Chúa Kitô  hôm nay.

Trong bài đọc một trích từ sách Tông đồ Công vụ, thánh Phêrô đã giảng cho nhóm người Do Thái và dân ngoại về sự công bằng và cởi mở của Thiên Chúa dành cho mọi dân tộc. Qua việc nêu bật sứ vụ rao giảng và chữa lành của Chúa Giêsu, thánh Phêrô khẳng định rằng các môn đệ của Chúa Giêsu chính là chứng nhân cho Người. Thánh Phêrô cũng nhấn mạnh đến chứng nhân ngôn sứ, khi nói: “Mọi ngôn sứ đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được tha tội.” Lời tuyên bố này nối kết Chúa Giêsu với truyền thống ngôn sứ của dân Do Thái đồng thời cũng mời gọi dân ngoại trở thành tín hữu và lôi kéo cả hai nhóm vào phong trào Kitô mới này. Ngay sau bài giảng, nhóm dân ngoại đã lãnh nhận Thánh Thần, chứng tỏ sức mạnh của chứng tá Kitô hữu trong việc truyền cảm hứng niềm tin.

Tin mừng theo thánh Gioan hôm nay tập trung vào ba chứng nhân Kitô hữu đầu tiên - Maria Mađalêna, người môn đệ được Chúa yêu mến và Simon Phêrô – và cuộc gặp gỡ của họ tại ngôi mộ trống. Hành động của họ có thể được xem như là việc hình thành phẩm trật về vai trò và trách nhiệm trong truyền thống, mặc dù điều này lẽ ra nên tránh. Ví dụ như, bà Maria (và có lẽ đi cùng với vài người phụ nữ khác) không vào trong ngôi mộ nhưng báo tin cho các môn đệ biết về việc ngôi mộ đã được mở ra. Người môn đệ được thương mến nhường chỗ cho ông Phêrô vào trước dù ông đã đến trước, có lẽ đây là một dấu chỉ để tỏ lòng tôn trọng thẩm quyền của thánh Phêrô. Kiểu đọc diễn biến sự kiện như vậy tạo ra một cuộc cạnh tranh không cần thiết và sự chuyển động quyền lực giữa các chứng nhân đầu tiên, có vẻ hạ thấp phụ nữ (bà Maria) và đề cao giáo sĩ (ông Phêrô) trên giáo dân (người môn đệ được thương mến). Thay vào đó, hành động của họ đã cho thấy những phản ứng khác nhau trước mầu nhiệm phục sinh; mỗi phản ứng đều quan trọng.

Theo truyền thống Nhất lãm, bà Maria phát hiện ra ngôi mộ trống có lẽ nhờ bà và những người phụ nữ khác đi xức dầu táng xác Chúa Giêsu. Việc bà Maria có mặt tại ngôi mộ cho thấy sự cam kết của bà đối với Chúa Kitô, ngay cả khi Người đã chết. Khi thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ, bà lo lắng là có thể ai đó đã chơi xấu, cho rằng những người đã gây nên cái chết của Chúa Giêsu rất có thể gây tác hại thêm bằng cách xúc phạm thân xác Ngài. Khi được cảnh bảo, bà đi báo tin cho hai môn đệ khác về sự việc ngôi mộ trống, bà trở thành người đầu tiên loan báo việc Chúa sống lại, ngay cả trước khi bà hoàn toàn nhận ra điều này, như đã xảy đến sau đó trong trình thuật.

Nhân chứng thứ hai là người môn đệ Chúa yêu, không phải là một trong mười hai Tông đồ mà là một môn đệ ẩn danh đôi khi được cho là tác giả Tin mừng Gioan. Khi nghe bà Maria kể lại sự việc, người môn đệ Chúa yêu chạy nhanh đến mộ, trở thành người đầu tiên đáp trả lời loan báo Chúa sống lại. Thay vì vào trong mộ, người môn đệ Chúa yêu cúi mình xuống nhìn, thay đổi tư thế để nhìn vào trong mộ và có lẽ ám chỉ cách ẩn dụ việc ông thay đổi nhận thức về sự thánh thiêng của những gì đã xảy ra trong ngôi mộ. Khi người môn đệ Chúa yêu bước vào mộ sau ông Phêrô, “ ông thấy và ông tin”, trở thành người đầu tiên tin Chúa sống lại.

Thánh Phêrô nôn nóng chạy đến mộ để tìm hiểu và gặp thấy ngôi mộ trống. Bước vào bên trong để kiểm tra ngôi mộ, ngài thấy các dây băng nhỏ và khăm liệm phủ đầu trước đó đã được dùng để quấn xác Chúa Giêsu. Những hành động này cho thấy ông Phêrô mong muốn được hiểu biết, qua đó trở thành người đầu tiên tiếp xúc với ngôi mộ trống và nỗ lực tìm hiểu mầu nhiệm phục sinh.

Những chứng nhân Kitô hữu đầu tiên này đã nỗ lực rất nhiều trước mầu nhiệm phục sinh. Phản ứng của họ hòa trộn giữa lo sợ, tin tưởng, ối rối và hiểu biết. Suốt mùa Phục sinh, chúng ta sẽ được nghe nhiều hơn về những phản ứng trên cũng như những cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô phục sinh và sứ vụ loan báo niềm tin, như chúng ta đã nghe trong bài đọc một. Các bài đọc này nhắc nhớ chúng ta rằng chứng tá Kitô hữu không chỉ nhìn nhận ngôi mộ trống, nhưng còn là một lời mời gọi để hành động. Khi Maria gặp thấy ngôi mộ trống, bà đã báo tin cho những người khác, họ đến rồi tin (người môn đệ được thương mến) và rồi tìm kiếm để hiểu biết (thánh Phêrô). Khi bước vào mùa Phục sinh, chúng ta nên quan tâm đến việc làm thế nào để đời sống của chúng ta phản chiếu chứng tá về Chúa Kitô phục sinh. Hành động của chúng ta nên biểu lộ đức tin vào Đức Kitô và sự hiểu biết Tin Mừng, từ đó có thể truyền cảm hứng cho người khác tin vào Chúa Kitô.

------
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/03/18/easter-sunday-gospel-reflection-catholic-scripture-240198

---------------------------------

 

PS 1-ABC476: Ngôi mộ trống


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ - TSVN)

Tin mừng Ga 20, 1-9, Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài nữa...

1. Sự kiện ngôi mộ trống:

 

Đức Giêsu đã đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng PS 1-ABC476


Đức Giêsu đã đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài nữa.

- Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ hoảng hốt kêu lên: người ta đã lấy xác Thầy rồi.

- Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ, nhưng thấy ngôi mộ đã mở toang. Nhìn vào trong, thấy khăm liệm còn đó, Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan đã thấy và tin.

Tại sao cả ba, đứng trước cùng một sự kiện, mà kẻ tin, người lại không tin?
Đó chính là tâm trạng của mỗi người đối với Chúa Giêsu.

2. Tâm trạng của Maria Mađalêna và Gioan.

Khi người thân của chúng ta chết, chúng ta thường không muốn chấp nhận sự ra đi của họ. Chúng ta biết rằng họ đã chết, và chúng ta luôn cố gắng tạo ra một mối tương quan nào đó với họ. Một trong những cách thông thường nhất là ra viếng mộ. Ra viếng mộ với hy vọng làm vơi đi nỗi nhớ, nhưng chính việc ra viếng mộ lại càng làm cho chúng ta thương nhớ người chết hơn, bởi vì, chính lúc đứng trước ngôi mộ, lại là lúc, một lần nữa, chúng ta xác nhận rằng: người thân yêu của chúng ta đã chết thật. Nghĩa là giữa chúng ta và họ, không còn mối liên hệ bình thường như những người đang sống. Cũng vậy, ra viếng mộ, Maria cũng muốn cho vơi đi nỗi nhớ, nhớ một người đã chết và Maria chỉ nghĩ đến thi thể của thầy mình, nghĩa là bà đến đó để gặp một xác chết. Với tâm trạng đó, làm sao bà có thể nghĩ đến chuyện Chúa sống lại được.

Quả thật, đối với Maria Mađalêna, chết là nằm sâu trong lòng đất, chết là khép lại tất cả, chết là chấm dứt tất cả và đàng sau cái chết là một bóng đêm dày đặc.

Nhưng đối với Gioan, ngôi mộ đâu có mùi chết chóc, ngôi mộ đâu có hoang vu, ngôi mộ đâu có trống rỗng, nhưng ngôi mộ đã được mở ra và Đức Giêsu đã phục sinh và bước ra khỏi mồ.

3. Tâm trạng của Phêrô và Gioan.

Còn Phêrô, ông đang sợ hãi, ông đang sợ bị liên lụy, ông đang sợ bị bắt bớ. Ông chạy ra ngôi mộ với tâm trạng đối phó. Với tâm trạng đó, làm sao ông có thể nghĩ đến việc Chúa sống lại được.

Chính vì vậy, Phêrô và Gioan, cả hai vào trong mộ, cả hai đều thấy khăn liệm, nhưng Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan "ông đã thấy và tin".Cũng với tâm tình này

Quả thực thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu đó đã thể hiện ra bên ngòai, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa trên con đường khổ giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân Thánh Giá đến giây phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hòan cảnh có bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ tới Chúa Giêsu, luôn nhớ đến những lời giảng dạy của Thầy và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với tâm tình này Gioan đã nhận ra Chúa sống lại. Ông đã thấy và tin. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC477: Chúa Nhật Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

TRẦN GIAN TẠM BỢ - THIÊN ĐÀNG VĨNH CỬU

 

Con người thời nào cũng băn khoăn thắc mắc về mục đích của cuộc sống: sinh ra để làm gì PS 1-ABC477


Con người thời nào cũng băn khoăn thắc mắc về mục đích của cuộc sống: sinh ra để làm gì và chết rồi đi đâu? Nhưng rồi cũng bế tắc. Không tìm được lời giải thích thỏa đáng. Chỉ biết rằng “có sinh có tử”. Con người sinh ra ắt có ngày chết.

Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá thất tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc là bộ “Lịch sử loài người”. Nhưng vì bận rộn không có thì giờ đọc nên đã nhờ các nhà thông thái nghiên cứu và rút gọn lại trong một câu cho vua dễ nhớ và để làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Sau một thời gian, ban tu thư đã trình lên vua một câu vắn tắt: ”Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ: loài người sinh ra để khổ rồi chết”. Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện… rồi tắt thở.

Cái chết đó là điều tất yếu của đời người. Nó là con đường mà ai cũng phải tới. Đây là điều mà trong bài Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn cũng từng viết: “…người chết nối linh thiêng vào đời… …biển xanh sông gấm nối liền một vòng tử sinh…”

Thời gian thì trôi nhanh. Con người thì chẳng kìm được thời gian. Khiến cuộc đời trôi qua thật nhanh như cụ Nguyễn Khuyến từng nói:

“Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận,
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay”

Nhưng trong thời đại hôm nay ta thấy cái chết chẳng đợi tuổi nữa. Lứa tuổi nào cũng có thể ra đi. Hằng ngày ta vẫn thấy hàng vạn cái chết khiến có người bảo rằng: “Thế giới như đang bước vào thời đại của những bữa tiệc về cái chết”.

Mỗi ngày, người ta nhìn thấy sự chết xuất hiện ở phía Đông, hướng Bắc, đâu đó trên hành tinh này và cũng xảy ra ngay chính ở nơi cư trú của mình. Ở Việt Nam trung bình một ngày có 33 người chết vì tai nạn giao thông. Mỗi năm có 200 ngàn người mắc bệnh ung thư. Mỗi năm có hơn 2 triệu thai nhi bị giết chết. Mỗi ngày trên thế giới có 25.000 người chết vì đói đặc biệt là Châu Phi...

Chết rồi sẽ đi đâu trong cõi linh thiêng này. Chẳng một triết gia nào tìm được câu trả lời thỏa đáng. Nhưng có một Đấng đã tự mình chết rồi sống lại. Sự phục sinh của Ngài đã trả lời cho mọi vấn nạn về kiếp sống con người. Như Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền".

Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi.

Như vậy sự phục sinh của Đức Ky-tô là câu trả lời đầy đủ cho vấn nạn sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Thánh Gioan còn cho biết thêm: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Ngài sẽ lau khô nước mắt của nhân sinh; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.

Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.

Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tùy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa chịu mục nát thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong vinh quang với Chúa muôn đời.

Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau sẽ cũng được sống lại với Người trong vương quốc trường sinh. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC478: Chúa Nhật Phục Sinh


(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)

 

Hôm nay, tiếng reo ca Alleluia vang dội trong khắp Giáo hội. Tất cả đều như sống lại sau những PS 1-ABC478


Hôm nay, tiếng reo ca Alleluia vang dội trong khắp Giáo hội. Tất cả đều như sống lại sau những ngày đau thương thống khổ. Chúa đã sống lại rồi! Hết rồi những ngày buồn thảm sầu thương. Chúng ta đã thấy bừng lên sự sống mới từ con người đã chịu treo trên thập giá và đã sống lại. Một điều thật khó tin nhưng là một sự thật. Và chúng ta đang sống trong thực tại linh thiêng và khó tin đó. Chúng ta đang sống trong Đấng đã phục sinh vinh hiển. Không có sự phục sinh sẽ không có đạo Công giáo vì đó là nền tảng duy nhất, không thể thay thế.

Chúa Giêsu đã chết, đúng như lời Kinh Thánh. Ngài đã được mai và ngày thứ ba Ngài sống lại, đúng như lời Kinh Thánh. Và nếu Chúa Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi cũng trống rỗng. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế.

Chúa Kitô đã sống lại. Tất cả đều sống lại với Ngài. Tất cả mọi sự đều trở nên trong sáng. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. “Ta là sự sống lại và là sự sống”. “Ta là ánh sáng thế gian”… Tất cả trở nên sáng ngời và rõ rệt. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa nhập thể nhưng là Thiên Chúa hằng sống. Ngài sống lại để mọi sự được tái sinh và chúng ta sẽ sống trong Ngài.

Các môn đệ không được như chúng ta. Họ phải đi ngang qua nhiều giai đoạn khó khăn mới đạt đến niềm tin vào sự sống lại của Chúa.

Trong tường thuật của thánh Gioan, chúng ta thấy Maria Magđala. Nàng đến mộ từ sáng sớm. Nàng không yên tâm, nàng chỉ nghĩ đến Chúa đang nằm trong mồ. Khi đến mộ, nàng thấy mộ đã mở toang. Tưởng là ai đã xúc phạm đến mộ, và đã cướp xác Thầy. Chuyện này cũng thường xảy ra thời bấy giờ. Nàng chạy nhanh về báo tin cho Phêrô.

Nghe tin báo như thế, Phêrô tức tốc chạy ra mộ để kiểm chứng. Gioan cũng chạy theo. Hai người cùng chạy. Việc này không thể chậm trễ được. Chúng ta thấy Gioan tôn trọng vị lãnh đạo của mình. Ông đến mộ trước nhưng không bước vào. Phêrô cũng đến và vào trong mộ. Các ông thấy gì? Ngôi mộ trống không, không còn thi hài ở đó nữa, nhưng còn thấy những băng vải quấn xác Chúa. Khăn liệm được xếp lại và để riêng, không để lẫn với những dây băng. Như thế ngôi mộ không bị xúc phạm và xác của Ngài không bị đánh cắp, vậy thì phải hiểu thế nào?

Nếu xác bị đánh cắp thì làm sao khăn liệm còn đó và cả dây băng? Môn đệ Chúa yêu kết luận: “Ông thấy và ông tin”. Ông đã đạt đến niềm tin. Phêrô không nói gì nhưng chắc hẳn đã thấy nhóm lên trong lòng niềm vui vì Thầy đã sống lại thật.

Niềm vui của chúng ta đã trọn vẹn vì chúng ta dám tin vào một Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu đã đưa Chúa Giêsu đến với chúng ta, sống kiếp người của chúng ta, chết cho chúng ta, sống lại cho chúng ta. Niềm vui trần thế của chúng ta mong manh vì không có gì bảo đảm. Niềm vui phục sinh của chúng ta có bảo đảm vững chắc, vì chính Đấng phục sinh từ cõi chết là bảo đảm. Ngài là Thiên Chúa thật, Thiên Chúa toàn năng, đã chiến thắng sự chết và vẫn sống.

Cuộc sống hôm nay của chúng ta, niềm vui của chúng ta nằm trong tay toàn năng của Ngài. Ngài bao bọc chúng ta trong vòng tay yêu thương của Ngài. Chúng ta vẫn còn phải đương đầu với cuộc sống, với mọi cam go của cuộc sống, nhưng chúng ta không còn sợ sệt. Thiên Chúa Tình Yêu đã tràn ngập chúng ta. Sức sống thần linh của Ngài biến đổi tất cả. Chúng ta không đi về cõi hư vô, chúng ta đi về nguồn sống. Ngài chỉ cần một ngôi mộ trống để tỏ cho chúng ta thấy quyền năng vô song của Ngài.
Như Gioan, chúng ta chỉ cần tin. Niềm tin vào Chúa phục sinh là nền tảng của cuộc sống chúng ta. Chúa đã chết không phải vì Ngài thất bại, nhưng Ngài chết cho chúng ta. Ngài sống lại không phải sống lại cho Ngài mà cho chúng ta. Điều này có ý nghĩa gì? Phải chăng Ngài liên đới với chúng ta một cách sâu xa. Tất cả là cho chúng ta. Ngài đưa chúng ta vào cuộc sống thần linh của Ngài. Chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm một cách mạnh mẽ mối liên hệ này. Ngài nói: “Chúng ta cùng sống, cùng chết với Chúa Kitô”. Con người cũ của chúng ta phải chết đi, lúc đó con người mới sẽ xuất hiện trong ánh sáng của Đấng đã toàn thắng tội lỗi và sự chết. Lúc đó sẽ không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đấng đã thương chúng ta và đã chết cho chúng ta.

Làm sao con người cũ của chúng ta có thể chết được? Chúng ta được sinh ra trong tội. Con người xác thịt vẫn đòi chiếm phần nhất hảo. Chúng ta vẫn ngại khó, xác thịt vẫn nặng nề. Phiến đá cửa mộ quá lớn, “ai sẽ lăn tảng đá cửa mộ cho chúng ta?” Làm sao đóng đinh tính xác thịt chúng ta vào thập giá? Chúng ta thích sự lành nhưng chúng ta không làm, còn sự dữ chúng ta ghét, chúng ta lại làm”. “Ai sẽ cứu chúng ta khỏi cái xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Chỉ có Ngài thôi vì chúng ta chỉ là tro bụi. Nhưng nếu chúng ta tin. Niềm tin sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói như thế cho những người đã đến xin Ngài chữa lành.

Niềm tin không dễ dàng. Các môn đệ Chúa phải chập choạng trong đêm tối của lo sợ nghi nan mới tìm thấy ánh sáng. Chúng ta cũng thế. Việc Chúa phục sinh là một biến cố gây nghi vấn nhiều hơn là mang lại bình an. Nó xuất hiện trong thế giới của những kẻ phải chết làm sao dễ chấp nhận? Cái chết hôm nay như một thực tại hằng ngày. Những tai ương, những cảnh giết chóc xảy ra hằng ngày làm chúng ta xao xuyến. Cái chết của những người thân khiến chúng ta đau khổ. Nhưng niềm tin sẽ chiến thắng. Chúa hỏi chị Matta: “Con có tin không?” Chúa cũng hỏi chúng ta như thế. Hãy trả lời với Chúa như các môn đệ xưa kia: “Con tin, nhưng xin thêm đức tin cho con”.

Chúa Giêsu hôm qua đã là một tử tội: “Hãy đóng đinh nó vào thập giá!” Hôm nay, chính con người cũ của chúng ta trở thành tử tội: “Hãy đóng đinh nó vào thập giá!” Có như thế, chúng ta sẽ thành con người mới, được tái tạo trong Chúa Kitô. Hãy đi vào ánh sáng. Từ nay Chúa Kitô là ánh sáng của chúng ta, là vinh quang của chúng ta. Đừng mặc cảm vì chúng ta yếu đuối. Chúa đã nhận lấy tất cả sự yếu đuối của chúng ta. Ngài đã rửa sạch tất cả trong dòng máu tinh khiết của Ngài. Hãy vui lên! Hãy hát lên một bài ca mới: “Chúa đã sống lại thật rồi! Alleluia!”

Ngài đang ở đây. Ngài là Bánh Hằng Sống, là nguồn sống mới của chúng ta. Ăn lấy Ngài đi, tình yêu của Ngài sẽ là nguồn vui bất tận của chúng ta hôm nay và mãi mãi.

---------------------------------

 

PS 1-ABC479: Niềm Vui Phục Sinh”


(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)

 

Lời mời gọi của bài Đáp ca trong ngày Lễ Chúa Phục Sinh: “Đây là ngày Chúa đã lập ra, chúng PS 1-ABC479


Lời mời gọi của bài Đáp ca trong ngày Lễ Chúa Phục Sinh: “Đây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan”. Thưa ACE, ai trong chúng ta là những người có Niềm Vui của Chúa Phục Sinh ban tặng và Niềm Vui Phục Sinh này được thể hiện như thế nào trong tâm hồn và cuộc sống chúng ta? Cách riêng với giáo xứ, với từng gia đình và cộng đoàn, chúng ta có thực sự mở lòng để đón nhận và cảm nếm được ơn ban trọng đại của Chúa Phục Sinh trong năm nay?

 Bài đọc một trong TĐCV tường thuật: Từ những con người yếu đuối, chối Chúa, chối Thầy như Phêrô và các môn đệ, giờ đây các ông lòng đầy hân hoan, ra đi loan báo tin vui về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chịu cực hình, chịu chết và nay đã sống lại thật. Vì các ông là những người có liên quan tới Chúa Giêsu, nên khi Chúa bị bắt và bị giết chết, thì họ đã lo sợ, hoang mang và bất an. Nhưng giờ đây, với ơn ban của Chúa Giêsu Phục Sinh, họ đã vui tươi, hăng say, can đảm, không còn sợ hãi mà ra đi, mạnh dạn rao truyền về Đức Kitô, Đấng đã Phục Sinh. Câu hỏi được đặt ra: Tại sao Phêrô và các tông đồ lại có niềm vui, ơn ban đặc biệt này? Thưa, đó là vì họ đã tin vào Đức Kitô, đã tin vào những gì mà Thầy Giêsu dạy; nhờ đức tin giúp họ mở lòng cho ơn Chúa để có sức mạnh và niềm vui.

Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô hơn bất cứ ai khác đã được ơn thánh hoán cải vì Ngài đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đến từ Thiên Chúa, Đấng đã chịu cực hình, chịu chết và phục sinh. Chính qua kinh nghiệm và cách sống của Phaolô, cho chúng ta phần nào có thể đồng cảm với chính con người yếu đuối tội lỗi của chúng ta. Vì Phaolô ngay từ ban đầu, ông đã không tin, không chấp nhận ông Giêsu Kitô chịu đóng đinh, Phaolô đã ra tay bắt hại những ai tin vào ông Giêsu nữa, vì cho rằng tin vào một người đã chết nhục nhã như vậy mà gọi là Thiên Chúa thì đúng là sự điên rồ, sỉ nhục. Thế nhưng, giờ đây khi đã được ơn đức tin và nhờ sự khiêm tốn sau cú ngã ngựa trên đường vào thành Đamas, Phaolô đã mạnh dạn tuyên xưng và loan truyền niềm tin của mình. “Tôi biết tôi đã tin vào ai”. Với lòng khiêm tốn khi đón nhận đức tin, Phaolô đã có đầy tràn niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Chính vì lẽ đó, với Phaolô giờ đây “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”. Thật vậy, với kinh nghiệm của bản thân, nên Phaolô đã mời gọi chúng ta hãy tin vào Đức Giêsu Kitô và tìm kiếm những sự trên trời, nhờ đó chúng ta mới có niềm vui và bình an đích thực.

Tin mừng minh chứng và khẳng định cho chúng ta về những con người có niềm vui phục sinh, họ chính là những con người luôn sống gắn bó mật thiết và có lòng yêu mến cách đặc biệt dành cho Đức Giêsu Kitô. Maria Madalena, con người được lòng mến thôi thúc, “Bà đã đi ra mồ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối”. Tại sao Maria lại hăng say và vội vã như vậy? Phải chăng vì lòng luyến tiếc nhớ thương, hay vì bà muốn làm điều gì đó cho Chúa Giêsu, điều mà bà chưa thể làm khi Chúa chịu chết và táng xác? Thật vậy, với một người có lòng mến đặc biệt như Maria, nên khi chứng kiến ngôi mộ trống, thấy tảng đá che cửa mộ được lăn ra khỏi, thấy không còn xác Chúa trong mồ, bà đã không ngồi ở đó mà khóc lóc than van, nhưng đã chạy nhanh về tìm báo cho Phêrô, tường thuật lại sự việc cho các môn đệ. Với Phêrô và môn đệ khác được Chúa thương mến, khi được Maria báo tin, họ đã không một chút chần chừ, họ cũng vội vàng chạy đến mộ Chúa. Động lực nào đã thúc bách họ? Phải chăng vì họ đã ân hận khi chối bỏ Chúa, hay vì họ đã không làm tròn trách nhiệm của người môn đệ đối với Thầy của mình? Nhưng dù sao đi nữa, giờ đây vì lòng mến Chúa đã thôi thúc họ, nên họ đã ra đi đến mồ ngay. Họ không phải đi cách bình thường, nhưng “Cả hai cùng chạy”. Thật vậy, lòng mến đã thúc bách làm cho họ chạy và đưa họ đến gần Chúa trong hoàn cảnh khi có thể được. Đặc biệt hơn nữa, với người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu, ông chạy nhanh hơn, đến mồ trước, nhưng ông không vào bên trong, ông đã để cho Phêrô vào trước, nhưng sau đó khi ông vào, “Ông thấy và ông đã tin”. Lòng mến dành cho Chúa và lòng tin vào Chúa chính là cung cách, thái độ sống của những người môn đệ Chúa, người sống gắn bó mật thiết với Chúa và được Chúa yêu.

Thưa ACE, để có được Niềm Vui của Chúa Phục Sinh và tâm hồn được mừng rỡ hân hoan, chúng ta được mời gọi hãy sống tinh thần, cung cách và thái độ như Maria Madalena, Phêrô, Phaolô và như người môn đệ Chúa yêu. Người môn đệ Chúa yêu không có tên, điều này được mở ra và mọi gọi tất cả chúng ta cũng hãy để cho Chúa yêu thương, hãy cố gắng để chúng ta cũng được trở nên người môn đệ Chúa yêu, bằng thái độ khiêm tốn, lòng tin, lòng mến của chúng ta vào Chúa. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC480: Ra khỏi mồ


(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

“Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu"

Phêrô và Gioan cũng đến mồ và chỉ thấy còn lại: “những khăn liệm để đó”, “những dây băng nhỏ để đó”, “khăn liệm che đầu cuộn lại để riêng một chỗ”.
Chúa Giêsu đã sống lại và đi ra khỏi mồ. Ngôi mộ trống. Đúng là: “theo Thánh Kinh, thì Người phải sống lại từ cõi chết”. (x. Ga 20, 1-9)

 

Đối với các Kitô hữu công giáo hôm nay, thì việc Chúa Giêsu sống lại là một tín điều, buộc phải PS 1-ABC480


Đối với các Kitô hữu công giáo hôm nay, thì việc Chúa Giêsu sống lại là một tín điều, buộc phải tin. Nhưng khổ nỗi, điều gì buộc thì cũng không thoải mái cho bằng điều tự nguyện. Vì thế, từ đức tin “buộc phải tin” đến đức tin “tự nguyện tin”, các tín hữu Chúa đã phải trải qua hành trình “sống niềm tin phục sinh”, cảm nhận được niềm vui kỳ diệu, và cuối cùng là tự nguyện tin và tin tuyệt đối.

Tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh không phải là niềm tin nói, niềm tin viết, niềm tin giảng dạy thuyết pháp, niềm tin tranh luận phân tích, càng không phải là niềm tin phong trào hay lễ hội, nhưng là niềm tin được thể hiện bằng chính sự anh dũng dám buông bỏ tất cả, dám hy sinh tất cả, dám chết cả bạc tiền, cả danh dự, cả sự nghiệp, và cả những nhu cầu của cuộc sống thế trần này, để chỉ đổi lấy một sự sống lại ngay lúc này và mai sau. Người ước được sống lại ngay lúc này, là người biết mình đang bị giam hảm, đang mất tự do, đang bị nô lệ thần chết, hay đúng hơn, sống mà như đang chết trong tội lỗi. Người sống mầu nhiệm phục sinh, sống niềm vui phục sinh phải là người được thoát ra khỏi vòng giam hãm, người được tự do, người tinh tuyền trong trắng. Ấy vậy, khi suy gẫm về mầu nhiệm phục sinh, thì “ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”. Cách hành văn câu kinh có vẻ cũ kỹ, nhưng chất chứa một ý nghĩa luôn luôn mới, luôn luôn thời sự cho mỗi chúng ta.

Bạn và tôi có thể đã nhận bao nhiêu lời chúc mừng, bao nhiêu tin nhắn, cuộc điện thoại, điện thư với nội dung: “Alleluia. Mừng Chúa Sống Lại” hoặc “Alleluia. Happy Easter” trong ngày Đại Lễ Phục Sinh. Nhưng thử hỏi: có ai mừng lễ tôi, mừng lễ bạn mà dám gửi cho chúng ta câu này “Bạn đã sống lại thật về phần linh hồn chưa?” để nhắc nhở chúng ta rằng: chỉ có “sống lại thật về phần linh hồn” mới là niềm vui chính đáng của tôi, của bạn trong ngày Đại Lễ.

Thật đáng tiếc, chúng ta đã và đang Mừng Chúa Sống Lại như một lễ hội, hơn là mừng biến cố sống lại của chính linh hồn mình.

Này nhé, chúng ta đã qua một mùa chay nhiệm nhặt. Đã qua một tuần thánh sốt sắng buông bỏ mọi thứ ở đời, sốt sắng đến với tòa cáo giải, sốt sắng tham dự phụng vụ và những giờ ngắm… sốt sắng… ủ dột… phiền não…

Hôm nay, Đại Lễ Phục Sinh. Luật Hội Thánh buộc nghỉ việc xác để chúng ta mừng lễ. Nhưng mừng lễ thế nào? Mừng Chúa sống lại và mừng chúng ta được sống lại thật về phần linh hồn chứ?

Hay là mừng lễ như thế này:

Người chuẩn bị con heo quay, người con cầy tơ, người mấy con gà đi bộ hay dăm con vịt… mấy thùng bia, vài lít rượu hoặc ngơm ngã hơn là kiếm một chai Tây cho oách. Người mời thêm vài thân hữu, vài đồng nghiệp, vài người hàng xóm. Cứ nghĩ ăn càng to, khách càng đông thì như vậy là mừng lễ cách long trọng, xứng mặt anh hùng, đúng tầm đại gia hay ra vẻ nghệ sĩ sành điệu nhất. 10g sáng nhập tiệc mừng đại lễ. Cứ chén thoải mái. Tàn tiệc rồi mà chưa bí tỉ thì kéo nhau đi “tăng” hai vừa hát karaoke vừa lai rai thêm vài thùng nữa cho đến hồi vừa nói nói tiếng tây lẫn tiếng tàu, vừa vung tay lẫn đá chân đi hàng hai hàng ba mất thăng bằng. Đã vậy, còn đưa nhau đi “tăng” ba, phòng trà ca nhạc hay quán cà phê ôm nào mờ mờ ảo ảo cho nó sướng cái người. Mừng hết một ngày lễ Phục Sinh, chơi luôn đêm, xả láng sáng về sớm.

Đội quân tín hữu tóc dài cũng không kém. Nghỉ việc xác và mừng lễ Phục sinh lại là cơ hội chứng tỏ mình là phụ nữ mới trong cái xã hội gọi là giải phóng. Mà cụ thể nhất là giải phóng phụ nữ khỏi cái thân phận “trong nhà” để bà cũng được hưởng chế độ “ngoài cửa” khỏi lãng phí một đời hoa. Họ là những người buôn bán. Ai cũng đứng một sạp ở chợ. Mừng lễ, năm bảy chị thuê bao một chiếc 16 chỗ đi dã ngoại Phục Sinh. Ở đó, họ đã hẹn với cũng năm bảy ông cán bộ thuế vụ, công an. Và họ vui chơi thoải mái. Mừng lễ Phục sinh lại là cơ hội giảm thuế, cơ hội làm ăn. Khuya mới về. Như thế là mừng lễ.

Những người hơi có tí tuổi, đã vậy, thì trách chi tuổi trẻ. Quán nhậu nào cũng đông khách, cũng ồn ào. Quán karaoke nào cũng hết phòng, có phòng một cặp, có phòng đôi ba cặp trai gái. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng xe đua inh ỏi, ngửi thấy mùi khói khét, thi thoảng, kinh hồn hơn, lại có vài vụ ẩu đả…

Sáng thứ hai, tuần mới bắt đầu. Mùa phục sinh mới bắt đầu. Và đâu rồi lại cũng vào đấy. Chờ đến sang năm, sẽ mừng lễ to hơn…

May mắn thay, tôi được nghe kể lại có người ăn mừng lễ cách điệu nghệ hơn nhiều: Sau thánh lễ Phục Sinh, họ về nhà ăn điểm tâm phục sinh với vợ con một tí, rồi hẹn nhau một chuyến đi bất ngờ. Hai ông chở nhau trên chiếc Honda 79 cũ kỹ. Quần áo hơi luộm thuộm lùa thùa nếu không nói là chỉ vừa tươm tất chút nhưng không có vẻ gì là sang trọng cả. Họ vào làng kia, trong hóc núi. Họ định với nhau đóng vai người đi mua củ mì tươi để đến thăm từng nhà trong hóc núi. Ở đó, hai ông đã tìm được những niềm vui Phục Sinh lạ thường: Ít là có 7 gia đình công giáo trong hóc núi. Họ chẳng biết hôm nay lễ Phục Sinh.

- “Lâu rồi, tui không đến nhà thờ vì xa quá, lại chẳng có đứa mô chở đi”.

- “12 năm rồi tui chưa xưng tội ông à. Nhưng tui nghĩ ở mãi trong hóc núi nầy cũng chẳng có cái tội gì ngoài tội không xưng tội”.

- “Dạ, em đã trốn vào ở đây để làm rẫy được 3 năm rồi. Ban ngày, một mình với trời đất thiên nhiên, ban đêm, một mình với Chúa. Em không về dự lễ ở Giáo Xứ em, sinh dịp cho họ nguyền rủa em mà mang tội. Thỉnh thoảng về nhà thờ Chánh Tòa Phan Thiết xưng tội, dự lễ, rồi lại trở vào đây. Năm nay không dự lễ Phục Sinh được vì chị hàng xóm người lương, bên cạnh nhà em kìa, đang hấp hối”.

Có thể bạn còn nhiều cách mừng lễ hay hơn, đẹp hơn, nhưng thiết nghĩ không có cách nào tuyệt vời hơn là sống lại với Đức Kitô, cùng Đức Kitô ra khỏi mồ. Vâng, vì niềm vui Phục sinh đã được chuẩn bị từ một mùa chay thành tâm sốt sắng, một tuần thánh thánh thiện là để đi đến quyết định “ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn”.

Vậy như Chúa Giêsu đã sống lại thật và đi ra khỏi mồ, mỗi tín hữu Chúa mừng Đại Lễ Phục Sinh của Chúa cũng chính là mừng cho mình có những quyết tâm sống lại và ra khỏi mồ, quyết tâm không trở lại nằm trong những nấm mồ tội lỗi nữa.

Ra khỏi mồ, và không bao giờ trở lại nấm mồ ích kỷ, tham lam đã từng chôn chặt đời mình chung với những bó tiền vô nghĩa chất đống chẳng sinh ích lợi gì cho phần rỗi đời mình.

Ra khỏi nấm mồ dửng dưng hờ hững từng chôn chặt đời mình trong tối tăm làm cho đôi mắt mình không thể ngó ra ngoài cái ngục tù kinh khủng ấy để nhìn thấy được bao nỗi đọa đày của nhân gian.

Ra khỏi nấm mồ vô cảm vô tâm từng chôn chặt con tim mình như con tim đóng băng lạnh lùng không có chỉ một chút lòng trắc ẩn, thương người.

Ra khỏi những nấm mồ nhơ nhớp dưới dáng vẻ sang trọng tiện nghi của những khách sạn, nhà hàng, sàn nhảy, từng giam hảm đời mình trong thú vui nhục dục.

Ra khỏi nấm mồ kiêu căng tự phụ để có thể nhận ra mình là hạt bụi tiểu tốt vô danh…

Hãy tưởng tượng, hãy hình dung, và hãy nhận thực ra rằng chúng ta đang sống trong những nấm mộ khi ta hãy đang còn sống.

Và hãy nhớ cho rằng sống niềm tin và niềm vui phục sinh là khẩn trương ra khỏi những nấm mồ ấy, và không bao giờ trở lại nữa.
Vâng, nấm mồ đời tôi, nấm mồ đời bạn, không là những nấm mồ trong tương lai như những nấm mồ hiện tại ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa, hay nghĩa trang Giáo Xứ của tôi của bạn -trong đó, thân xác con người đang thối vữa, đang tan biến thành cát bụi chóng vánh, may ra, còn lại cái hộp sọ ghê rợn và vài chiếc xương khô mòn phai dần theo thời gian, năm tháng, nhưng là nấm mồ tội lỗi ngay hôm nay đang chôn chặt linh hồn mình. Nấm mồ cứ đầy hơn, cửa mồ mỗi kiên cố hơn, khi chúng ta bằng lòng để cho tội lỗi ngập ngục, khống chế.

Hãy anh dũng bước ra khỏi mồ.

“Thứ năm thì gẫm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”.

Nguyện xin ơn Phục Sinh của Chúa Giêsu giúp chúng con anh dũng đi ra khỏi những nấm mồ tội lỗi, để chúng con “đặng sống lại thật về phần linh hồn” và được hân hoan niềm vui phục sinh ngay khi còn sống trên dương gian này. Amen.

---------------------------------

 

PS 1-ABC481: Người Phải Sống Lại


(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

 

Chương 20 bắt đầu những trình thuật về Chúa sống lại, gồm: vào ngày thứ nhất trong tuần, buổi PS 1-ABC481


Chương 20 bắt đầu những trình thuật về Chúa sống lại, gồm: vào ngày thứ nhất trong tuần, buổi sáng, Maria Mađalêna và hai môn đệ đến mồ Chúa (20,1-10, Chúa hiện ra với Mađalêna (20,11-18); buổi chiều, Chúa hiện ra với các môn đệ (20,19-23); tám ngày sau, Chúa hiện ra lần nữa với các môn đệ, có cả Tôma (20,24-29), và kết luận (20,30-31). Đoạn 20,1-10 chia thành ba phần: Maria Mađalêna phát hiện mồ trống và đi báo tin (20,1-2); Phêrô và Gioan chạy ra mồ (20,3-4); cảnh bên trong mộ (5-8); kết luận của thánh sử (cc. 9-10).

Nấm mồ là trung tâm chú ý của trình thuật. Chữ “nấm mồ” được dùng đến 8 lần trong câu chuyện nầy. Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan là những người chạy đi chạy lại vì nấm mồ đã được mở ra. Câu chuyện được trình bày theo cách nhìn nấm mồ từ xa, kéo lại gần, rồi lại lùi xa. Từ xa Maria Mađalêna thấy hòn đá lấp mồ đã được dời đi; cô chỉ đến gần mồ sau khi hai môn đệ đã đi khỏi đó (x. 20,11). Maria chạy về báo tin (c. 2). Phêrô và Gioan chạy đi. Họ chạy đến mồ vì tin xác Chúa đã được đem đi khỏi đó (c. 4 [2x]). Họ chạy và chạy nhanh theo sức; ở đây chỉ một sự hối hả. Tới nấm mồ, trong khi Gioan đứng ngoài để chờ Phêrô, nhìn vào trong ông thấy những tấm khăn liệm, othonion; đây là điều duy nhất ông ghi nhận (c. 5). Vào bên trong nấm mồ, vật đầu tiên mà Phêrô thấy cũng là những tấm khăn liệm (c. 6); vật nầy được nhắc thêm một lần nữa ở câu 7 để nhấn mạnh. Phần Gioan, cũng vào bên trong mồ với Phêrô. Ông thấy những tấm khăn liệm thêm một lần nữa và lần nầy ông tin (c. 8). Kết thúc câu chuyện là họ rời nấm mồ mà về nhà. Thánh sử chú thích là họ chưa hiểu lời kinh thánh là Chúa Giêsu phải sống lại.

Hòn đá được lăn ra khỏi cửa nấm mồ, những tấm khăn liệm và khăn bọc đầu là những dấu hiệu cho biết Chúa Giêsu đã sống lại. Trong trình thuật ngay trước, người ta tẩm liệm Người theo phong tục do thái là lấy khăn quấn đầu và toàn thân Người (19,40), rồi đặt Người vào trong nấm mồ mới (19,42). Người đã chết thật. Bây giờ, nấm mồ ấy đã được mở ra, những khăn liệm ấy đã được tháo gỡ ra và được xếp đặt gọn gàng. Người chết không còn trong đó nữa. Như những gì đã xảy ra cho Lazarô là nấm mồ đã được mở ra (11,4), băng vải đã được tháo gỡ khỏi ông và ông được cứu khỏi sự chết (11,44), cũng đã xảy ra cách tương tự cho Chúa Giêsu. Điều nầy chứng tỏ Người đã sống lại thật.

Một dấu hiệu khác chứng tỏ Chúa đã sống lại là lòng tin của Gioan. “Ông đã thấy và ông đã tin” (20,8). Việc “thấy”, blepo, của Maria Mađalêna, Gioan trong lần đầu tiên (20,1.5) và của Phêrô, theoreo (20,6) là dùng con mắt tự nhiên mà quan sát và nhận thức sự việc (x. 9,19.21; 11,9: 10,12; 12,45; 14,17.19). Ngược lại, khi Gioan thấy, orao, những tấm khăn liệm lần thứ hai, thì ông tin. Việc “thấy” lần nầy là bằng con mắt đức tin Thiên Chúa ban cho (x. 14,5). Như Abraham thấy ngày của Chúa và ông đã vui mừng (x. 8,56), như Isaia thấy vinh quang của Người và ông đã nói về Người, cũng vậy Gioan thấy khăn liệm của Người và đã tin Người đã sống lại.

Lúc nầy các môn đệ chưa nhớ lại lời kinh thánh nói về sự sống lại của Người (2,22). Maria Mađalêna đã loan tin vô bằng cớ là “Chúa đã bị lấy đi” (c. 1), trong khi Phêrô đã  không loan báo được điều gì cho các môn đệ khác sau khi về lại từ nấm mồ, chỉ vì một điều là ông đã không thấy nấm mồ như Gioan đã thấy.

---------------------------------

 

PS 1-ABC482: Trở nên tạo vật mới


(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

 

Vì thương con người Chúa đã hạ mình có nhiều ý nghĩa trong ngày mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh PS 1-ABC482


Vì thương con người Chúa đã hạ mình có nhiều ý nghĩa trong ngày mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh. Sau khi việc cử hành các nghi lễ phụng vụ được hoàn tất, ngươi ta phân phát trứng đã làm phép cho mọi người đang tham dự Thánh Lễ trong Thánh Đường, để chỉ rằng, tất cả đều được thông phần trong muôn phúc lành của Chúa trong ngày Đại Lễ. Sau đó người ta chúc mừng nhau và đập trứng. Khi đập trứng, người này xướng: "Chúa Kitô đã sống lại". Người kia đáp lại: "Người đã sống lại thật".

Đập bể trái trứng, gà con chui ra, tượng trưng sự mở cửa mồ của Chúa Kitô, để Người bước ra. Cái trứng cũng chỉ sư sống mới, vì trong cái trứng chứa đựng một mầm sống của con gà con. Khi gà con nở ra khỏi trứng, xuất hiện một tạo vật mới.

Chúa Kitô sống lại, bước ra khỏi mồ cũng có một sự kiện tương tự như thế. Vì Chúa Kitô thực sự đã chịu tử hình và nay Ngài đã phục sinh vinh quang trước nhiều nhân chứng; cũng như cái trứng dường như là một vật chết trước khi nó phát sinh sự sống mới.

I. NIỀM TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH

Qua bốn mươi ngày chay tịnh sám hối chuẩn bị tâm hồn; nhất là trong Tam Nhật Thánh, chúng ta đã diễn lại Thiên Tình Sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, để tưởng niệm mầu nhiệm tình Chúa yêu thương nhân loại. Giờ đây, trong Đêm Cực Thánh này, chúng ta cung với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, cử hành đêm canh thức với tất cả tâm tình sốt mến của Mẹ Chí Thánh Chúa và các Tông Đồ của Người đang trông đợi vào lời tiên báo "Chúa sẽ phục sinh". Nay đã được thực hiện, bằng tat cả niềm tin kính sùng mộ.

Chúng ta hân hoan long trọng mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh, là chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô vượt qua cõi chết để bước vào nguồn sống mới bất diệt. Chúng ta mừng kính cuộc chiến thắng cua Chúa Kitô trên kẻ thù nghịch, là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, để đạt tới cuộc khải hoàn vinh quang vĩnh cửu.

Quả thật, Chúa Kitô đã phục sinh, sự kiện lịch sử này đã được các sử gia đáng tin cậy minh xác, không ai có thể chối cãi được. Cả bốn Thánh Ký đã ghi chép rõ ràng trong Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ, bằng những chứng tích xác thực, đã được các chứng nhân thế giá, từng được diễm phúc chung sống với Chúa. Như Thánh Phêrô đã quả quyết: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những sự việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết, khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã cùng được ăn uống với Người sau khi Người từ coi chết sống lại" (Act 10:39-4). Chính Chúa đã tỏ mình cho bà Maria Madalena khi bà tới thăm mồ vào tảng sáng, Người cũng hiện đến với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly và trên bờ biển Teberia, với hai môn đệ trên đường đi làng Emau. Đặc biệt, Người còn hiện đến với đông đủ các Tông Đồ đang hội họp trong Nhà Tiệc Ly lúc cửa vẫn đóng kín và phán với các ông: "Bình an cho các con!". Rồi Người còn phán bảo riêng với Tôma, kẻ đã không tin vào lời các Tông Đồ khác thuật lại việc Chúa hiện đến với các ông, khi Tôma vắng mặt: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin". Bấy giờ Tôma mới sửng sốt và sung sướng kêu lên: "Lạy Chúa tôi, lậy Thiên Chúa của tôi!". Chúa Giêsu đáp lại: "Hỡi Tôma, vì con đã trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai đã không thấy mà vẫn vững lòng tin" (Jn 20:26-29).

Tất cả chúng ta là những con cái đã được Chúa yêu thương chúc phúc, vì chúng ta đã không thấy mà chúng ta vẫn vững lòng tin vào lời các Tông Đồ và Hội Thánh truyền dạy.

II. HẠNH PHÚC ƠN LÀM CON THIÊN CHUA

Cũng trong Đêm Cực Thánh này, Giáo Hội muốn chúng ta tưởng nhớ lại hồng phúc chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô, bằng việc truyền dạy chúng ta ôn lại những lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.

Trong ngày đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ: Từ bỏ tội lỗi để được sống sự tự do của con cái Thiên Chúa; từ bỏ mọi quyến rũ của tội lỗi để khỏi bị ách tội lỗi chế ngự; từ bỏ Satan là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa là Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô Con Chúa, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria và đã sống lại từ cõi chết, đang ngự bên hữu Chúa Cha; tin kính Chúa Thánh Thần, tin Giáo Hội Công Giáo và tất cả mọi điều Giáo Hội truyền dạy.

Được diễm phúc làm con Thiên Chúa là một ơn cao trọng vô cùng, là căn nguyên mọi ơn phúc Chúa ban cho chúng ta, như lời Thánh Gioan nhắn nhủ: "Anh chị em hãy xem, Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa và sự thực là thế" (I Jn 3:1). Bởi vì, chúng ta chỉ là một thụ tạo bất xưng, đã từng là nô lệ dưới quyền thống trị của Satan hỏa ngục và tội lỗi, là kẻ phản bội chỉ đáng Chúa trầm luân hỏa ngục vì án phạt nguyên tội di truyền và muôn vàn tội lỗi riêng chúng ta hằng xúc phạm đến Chúa. Nhưng nhờ công nghiệp sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta đã được tuyển chọn giữa muôn triệu người trên trần gian, được nâng lên hàng con cái Thiên Chúa, để được thừa hưởng lời Chúa hứa, sẽ được phục sinh với Người và lãnh gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho con cái trung thành, trong vinh quang bất diệt với Chúa trên Quê Trời.

III. ĐIỀU KIỆN SỐNG ƠN GỌI LÀM CON CHÚA

Để sống xứng với ơn gọi cao cả làm con cái Chúa và đáng được phục sinh với Chúa Kitô, để hưởng hạnh phúc gia nghiệp vĩnh cửu Chúa đã hứa ban, chúng ta hãy tuân giữ các giáo huấn Chúa dạy và sống theo mẫu gương đời sống Chúa đã thực hiện. Chính mẫu gương đời sống của Chúa Cứu Thế đã là một mãnh lực vô song thu hút, lôi cuốn muôn tâm hồn thiện chí tiến bước theo Chúa, sẵn sàng khước từ tất cả và chính bản thân, để được trở nên môn đệ của Chúa và cố gắng họa lại nơi bản than và cuộc sống mình chân dung đích thực và sống động của Đấng đã kêu gọi các ngài: "Nếu các con muốn theo Thầy, các con hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy" và Chúa còn nhắn nhủ: "Thầy đã làm gương cho các con, để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm".

Để lập nên giá Ơn Cứu Độ chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải từ khước mọi vinh quang cao cả, nhập thể mặc lốt phàm nhân, mang thân nô lệ, sống đời tôi tá và sau cùng, tự nguyện lãnh nhận mọi ô nhục, xỉ vả, hành xích của cuộc khổ nạn và bản án bất công như một tội nhân trọng phạm bị tử hình trên Thập Giá. Chính nhờ lễ hy sinh đó, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả những ai tin kính thuần phục Người.

Trong một xưởng thợ, cả một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau chê bai Đạo Công Giáo, bọn họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người... Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã dõng dạc lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa tôi đã mất tất cả!"

Mọi người đều hướng mắt trừng trừng nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: "Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán xóm làng, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê thù ghét. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi biết bao tâm địa xấu xa, những đam mê tật xấu khác nữa... Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến cái tổ ấm yêu đương thành một hỏa ngục. Thì nay, mọi phần tử trong gia đình tôi đã trở nên các Tín Hữu, con cái Thiên Chúa. Như vậy, tôi đã mất tất cả".

Sau hết, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất những gì rồi. Vậy các bạn hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan chắc chắn với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu".

Kết Luận

Lời Chúa phán dạy chúng ta: "Nếu hạt lúa miến gieo xuống lòng đất mà thối đi, nó chỉ trơ trơ không thể nào sinh được bông hat; nhưng nếu nó có chịu mục nát, nó mới nảy sinh mầm sống, vươn lên thành cây, trổ sinh bông hạt, đem lại một mùa thu hoạch dồi dào, khiến người thợ gặt được hân hoan vui sướng".

Câu truyện trái "Trứng Phục Sinh" gợi lên cho chúng ta một hình ảnh cụ thể và sống động: Nó như một nấm mồ mà Chúa Kitô đã được mai táng tại đó. Con gà con làm bể chiếc trứng để chui ra, nhắc nhở chúng ta việc Chúa Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mồ.

Là con cái Chúa, chúng ta chỉ được hưởng trọn niềm hân hoan trong ngày Đại Lễ mừng mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, khi chúng ta sống đúng với ơn gọi cao cả được làm con cái Chúa, trở nên một tạo vật mới bằng cách quyết tâm từ bỏ tất cả những gì phản với tinh thần Chúa, tin kính mến yêu thực thi tất cả mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy như chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.

---------------------------------

 

PS 1-ABC483: Mồ trống


(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)

 

Giây phút đầu tiên thấy mồ trống các bà hoảng hốt, lo sợ. Mồ trống, tâm hồn các bà cũng trống vắng PS 1-ABC483


Giây phút đầu tiên thấy mồ trống các bà hoảng hốt, lo sợ. Mồ trống, tâm hồn các bà cũng trống vắng, rỗng tuyếch. Tâm tư bồn chồn, lo lắng tự hỏi điều gì đã xảy ra. Xác Thầy ở đâu? Làm sao bây giờ? Hỏi ai kiếm cho? Giây phút đó các bà lo đến mất hồn, sợ đến lạc trí. Thầy mình yêu quí chết vẫn không yên. Mồ trống nghĩa là xác không còn trong đó nữa. Như thế xác Thầy giờ ở đâu? Mồ trống mang ý nghĩa bí ẩn gì đây? Các bà đi tìm câu trả lời. Có thể đau khổ hơn được nữa không khi Thầy đã chết. Thầy chết mả không đẹp, mồ không yên, vẫn có kẻ quấy phá. Mất xác.

Khi sự kiện xảy ra ngoài dự tính chúng ta thường nghĩ tới điều xấu, điều tệ, đau buồn. Các bà cũng không tránh khỏi lối suy nghĩ thông thường này. Các bà liên tưởng đến điều tệ hại nhất. Người ta vất xác Thầy đâu đó, quanh đây, trong vườn?

Các bà đâu biết mồ trống là dấu chỉ của vui mừng, hy vọng đoàn tụ, tình thương và là dấu chỉ của Phục Sinh.

Vui mừng đoàn tụ

Trên đường ra mộ các bà hỏi nhau

‘Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ dùm ta đây? (Mc 16,8)

Tâm hồn các bà cũng nặng trĩu như tảng đá ngàn cân đè nặng tâm tư. Khi ngước mắt nhìn lên các bà thấy tảng đá đã lăn sang một bên. Hốt hoảng, lo sợ trong phút chốc rồi niềm vui chan hoà tràn ngập khi nghe đến đoàn tụ. Chính Đức Kitô chọn địa điểm đoàn tụ. Hãy đi nói với anh em ta và hẹn gặp nhau tại Galilê.

‘Các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông’ Mc 16, 8.

Gặp Đức Kitô phục sinh lòng tràn ngập niềm vui, lo lắng, phiền muộn tan biến. Tảng đá ngàn cân biến khỏi tấm lòng u uẩn, sầu thương. Thay vào đó là niềm vui hoan lạc, hạnh phúc tràn trề, hy vọng cao vời.

Dấu chỉ của hy vọng

Đang lúc các bà lo lắng, sợ hãi, cúi gầm mặt xuống lệ ngắn, lệ dài sứ thần Chúa nói

‘Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại’ Lc 24, 5-7

Mồ trống là dấu chỉ của hy vọng. Mồ trống Đức Kitô làm tròn lời hứa xưa với các môn đệ. Mồ trống gợi nhớ điều Chúa nói trước đây.

Dấu chỉ của Phục Sinh

Trên đường đi Em mau các tông đồ không nhận biết Chúa khi Ngài đi đường đàm đạo với các ông về những sự kiện mới xảy ra trong mấy ngày qua. Mãi cho đến khi Chúa bẻ bánh các ông mới nhận ra Ngài.

‘Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người nhưng Người lại biến mất’ Lc 24,32

Mồ trống giúp các tông đồ sáng mắt, nhận ra Ngài lúc bẻ bánh. Các tông đồ nhận biết Chúa đã sống lại. Chính điều này đổi mới các ông, đổi mới cách suy nghĩ, cách sống và niềm tin. Biến các ông thành con người mới, người của thời đại hậu Phục Sinh.

---------------------------------

 

PS 1-ABC484: Phụ nữ.

 

Chưa bao giờ Phụng vụ Lời Chúa lại dành cho giới phụ nữ một vị thế đáng trân trọng như hôm PS 1-ABC484


nay. Vâng, thực đấy. Tin Mừng lễ Phục Sinh nói nhiều đến họ. Họ là những người nhận được tín hiệu Phục Sinh đầu tiên, họ cũng là những người được Đấng Phục Sinh cho gặp mặt trước hết, và chính họ còn là những người được trao nhiệm vụ lớn lao là đem Tin Vui Phục Sinh đến cho các tông đồ. Nói khác đi, sơ dĩ giới nữ có được vị thế trân trọng là vì ưu thế của họ trước Tin Mừng Phục Sinh. Nhưng tại sao họ lại có được ưu thế ấy? Phải chăng chỉ vì họ là phụ nữ? Tất nhiên không phải thế, mà vì những lý do khác.

1. SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT TRÁI TIM CHÂN THÀNH

Phúc Am kể: từ sáng sớm khi trời còn tối ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đã đến thăm mồ Chúa Giêsu. Các bà đến chẳng phải vì tò mò, bởi nếu có, thiết nghĩ sự sợ hãi còn lớn hơn sự tò mò nữa, mà đúng ra chỉ vì cảm tính rất phụ nữ: các bà yêu mến Chúa Giêsu, nên muốn được biểu tỏ cảm tình chăm sóc Ngài, cho dẫu Ngài đã bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng trong huyệt đá. Thế thôi.

Người ta bảo: trái tim giới nam có nhiều ngăn được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên lâu ngày thành nếp, ngày nào thứ tự ấy bị đảo lộn, ngày ấy có lộn xộn trong nhịp sống. Khong biết có phải vì thế mà giới nam ưa bị nhồi máu cơ tim? Người ta cũng bảo: trái tim giới nữ chỉ có một ngăn duy nhất, một khi ngăn ấy đã dành cho ai thì chỉ có trời mới biết điều gì xảy ra. Có lẽ vì thế, ghen tuông chính là thuộc tính đi liền với giới nữ? Không biết đúng sai? Nhưng nếu không sai, thì rõ ràng là trong khi đáng lẽ phải lâm vào cảnh thất vọng sợ sệt co cụm khép kín, thì giới nữ trong bài Phúc Am lại vượt lên để bất chấp tất cả: bất chấp sự chết, bất chấp mồ bị niêm phong, bất chấp cả lính canh, miễn là họ được ở gần vị Thầy tôn quý.

Thiết tưởng, một trái tim chân thành như thế, ở giới nữ cũng như ở bất cứ ai, cũng xứng đáng nhận được Tin Mừng Phục Sinh.

2. SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT GẮN BÓ TRUNG THÀNH

Phúc âm hôm nay không thấy bóng tông đồ nào. Trước thảm kịch ngày thứ sáu tuần thánh, chẳng ai bảo ai, họ trốn chạy mỗi người một ngả. Mạnh miệng như ông Tôma có lần hạ quyết tâm “Nào cùng lên Giêrusalem chịu chết cả đám”, thế mà trong ngày thương khó của Chúa, ông là “người thợ lặn” giỏi nhất, lặn biệt tăm. Sôi noi như ông Phêrô có lúc đã quyết liệt “Dẫu mọi người bỏ Thầy, con đây xin đồng sinh đồng tử với Thầy”, thế rồi sau đó chính ông trở thành kẻ chối Chúa táo bạo nhất, không chỉ một lần mà những ba lần.

Trong khi ấy, phụ nữ lại là những kẻ gắn bó trung thành với Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Họ có mặt bên Chúa trong cuộc khổ nạn, họ đứng gần dưới chân thánh giá cùng với Mẹ Chúa, họ góp sức trong lúc an táng, và hôm nay, dẫu Chúa đã ba ngày bị vùi chôn trong ngôi mộ niêm phong, họ vẫn trung thành đến viếng thăm ngay từ khi bình minh ló rạng. Và thế là mồ đã mở toang và họ được hạnh phúc là những người đầu tiên ghi nhận sự kiện phục sinh, cho dẫu đó mới chỉ là dạng thức sơ khởi của một ngôi mộ trống vắng.

Nếu hạnh phúc không phải từ trời rơi xuống, mà “như ngọc trong đá không có cho ai đi qua hững hờ”, thì rõ ràng gặp được Tin Vui Phục sinh chính là hạnh phúc cho họ và cho tất cả những ai đã trung thành gắn bó với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn đời sống hằng ngày, bất luận họ là giới nữ hay giới nam.

3. SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ NHỮNG BƯỚC ĐI NHIỆT THÀNH

Để ý một chút, người ta thấy hình ảnh người nữ nêu lên trong Phúc âm hôm nay rất lạ. Thay vì dáng vẻ yểu điệu thục nữ như trong các buổi biểu diễn thời trang áo dài Việt Nam nhiều người đã xem, thay vì những bước chuyển động nhẹ nhàng và dịu dàng giới nữ muôn đời vốn có, hôm nay qua trang Tin Mừng họ lại chạy, chạy vội vàng, chạy hớt hải, cắm đầu mà chạy. Nhưng đó chính là hình ảnh sinh động minh họa cho một chuyển động nhiệt thành, chỉ có được khi đã tiếp cận với dấu chứng phục sinh và đã trở thành điều kiện cần thiết để loan tin vui Phục sinh đến với mọi người.
Trước biến cố Phục sinh, bọn lính canh đã khiếp sợ, bởi vì họ chỉ là những kẻ canh giữ xác chết, còn người phụ nữ ban đầu có vẻ sợ đấy, nhưng lòng nhiệt thành đã giúp họ thắng vượt tất cả. Để mãi mãi hiểu rằng: Tin Mừng Phục Sinh một khi đã nhận được, người ta không thể giữ riêng làm của gia bảo, cũng không thể dửng dưng lạnh lùng, gỗ đá, càng không thể đa hệ nửa sợ hãi nửa vui mừng, mà chỉ còn lại một niềm vui duy nhất là sẵn sàng gieo bước loan tin Phục sinh bằng đời thấm đẫm tin yêu hy vọng. Đó là ba lý do giải thích tại sao giới nữ lại có ưu thế trước Tin Mừng Phục sinh, và thiết tưởng đó cũng là những điều kiện cần thiết cho tất cả mọi người trong lòng tin vào Đức Kitô Nguồn Sống. Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta lặp lại lời tuyên xưng đức tin: Đức Kitô là điểm đến của chương trình cứu độ. Nếu Thiên Chúa đã sáng tạo con người cách lạ lùng, thì Ngài còn tái tạo con người trong Đức Kitô Phục Sinh một cách lạ lùng hơn nữa, dù đời người và người đời đầy dẫy những vực thẳm tội lỗi chết chóc, nhưng vẫn có đó chiều cao của ơn thánh và sự sống. Đức Kitô chiến thắng tội lỗi và sự chết là để mở ra cho ta đường vào cuộc sống mới, nhưng ta có mới được hay không, mới nhiều hay ít, mới trong hay ngoài là tùy thuộc vào tâm tình của ta hôm nay trước Chúa Kitô. Sẽ là đong đầy sự sống nếu ta biết dành cho Ngài một trái tim chân thành sẵn sàng rung động trước những lời goi của Tin Mừng giữa con lốc xoáy của kiểu sống kinh tế thị trường hiện tại. Sẽ là ngọt ngào sự sống nếu ta biết trung thành gắn bó với Đức Kitô vượt qua những nghịch cảnh không thiếu giữa chốn chợ đời. Và sẽ còn là vo cùng sự sống nếu ta biết dệt đời mình bằng những bước đi nhiệt thành tin yêu, cho dẫu ở đâu đó, người ta vẫn còn cư xử với nhau bằng hung ác của những trái tim chó sói, hay vẫn còn hiện diện bên nhau bằng giả dối của những chiếc mặt nạ da người. Được như thế, niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh mới là niềm tin của sự sống và người ta mới có thể sống vươn lên nhờ lòng tin của mình. Và như thế, nghĩ đến ưu thế của giới nữ trước Tin Mừng Phục sinh hôm nay rốt cuộc cũng chính là nghĩ về mình. Chẳng phải vì muốn chơi đẹp như phép lịch sự phương Tây, cũng chẳng phải vì tình cờ ngẫu hứng mà Đức Kitô đã dành cho giới nữ ưu tiên ấy, mà chỉ vì muốn thông qua họ, cho thấy một chân lý. Đó là: tất cả những ai chân thành tin, trung thành hy vọng và nhiệt thành yêu mến gắn bó với Đức Kitô, dù phải trải qua những khổ nạn trong cuộc sống cụ thể hằng ngày, họ sẽ là những người hạnh phúc biết sống do và cho Đấng Phục sinh. Hôm nay Phụng vụ hát lên niềm vui Allêluia, chúc mọi người trở thành những nốt nhạc sống động trong khúc hát mới của những con người mới đi trên đường mới của Đức Kitô Phục sinh.

---------------------------------

---------------------------------

 

PS 1-ABC485: CON NGƯỜI MỚI

 

Nghi thức Vọng Phục sinh mang nhiều ý nghĩa biểu tượng rất sinh động. Tất cả điều diễn tả PS 1-ABC485


Nghi thức Vọng Phục sinh mang nhiều ý nghĩa biểu tượng rất sinh động. Tất cả điều diễn tả những thực tại mới mẻ: Thiên Chúa thực hiện một cuộc sáng tạo mới qua cái chết của Con Một Ngài; Đức Giê-su Phục sinh biến đổi sang một trạng thái hiện hữu mới. Người không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian như trước đây; Những ai tin vào Đức Giê-su, từ nay trở thành con người mới. Họ sống trong ánh sáng kỳ diệu siêu nhiên, chứ không còn đắm chìm trong tối tăm nữa. Nghi thức Vọng Phục sinh mời gọi người tín hữu cùng nhìn lại quá khứ, để thấy những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm trong lịch sử. Ngài can thiệp vào lịch sử nhân loại bằng quyền năng mạnh mẽ và bằng tình yêu thương. Hôm nay, Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu trong thế giới của chúng ta. Khi mừng lễ Phục sinh, người tín hữu được mời gọi cố gắng không ngừng để thực sự trở nên con người mới trong Đức Giê-su Ki-tô.

Lâu nay, thi thoảng chúng ta cũng nghe thấy cụm từ “con người mới” trong các văn bản của xã hội. Theo quan điểm này, con người mới là con người văn minh, tri thức và có văn hóa. Nét văn hoá ấy thể hiện trong ngôn từ, cách ứng xử, cộng tác bảo vệ môi trường sinh thái và có tinh thần trách nhiệm với công ích.

Theo nhãn quan Ki-tô giáo, “Con người mới” đương nhiên là phải có những đức tính căn bản nêu trên. Tuy vậy, để được gọi là con người mới thực sự, thì người tin Chúa phải “ở trong Người”. Thánh Phao-lô đã viết: “Nếu ai ở trong Đức Giê-su Ki-tô, thì người ấy là thụ tạo mới” (2 Cr 5,17). Ở trong Đức Ki-tô là lối diễn tả sự gắn bó mật thiết với Người, nên một với Người và chỉ nói hay làm những gì phù hợp với giáo huấn của Người. Những ai ở trong Đức Giê-su lúc nào cũng cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong mọi bối cảnh của cuộc sống. Họ sẽ không còn suy nghĩ, nói năng hay làm những điều khuất tất, vì họ luôn sống dưới cái nhìn yêu thương của Người. Nói tóm lại, người sống trong Đức Giê-su như thể đã được nếm hưởng thiên đàng khi còn ở dương thế.

Chúa Giê-su là “Con Người Mới”. Thánh Phao-lô gọi Chúa Giê-su là A-đam mới, đối nghịch với A-đam ở khởi đầu của lịch sử. Thánh nhân viết: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thanh người công chính” Rm 5,19-19). Nhiều nhà thần học thích dùng thuật ngữ “A-đam cuối cùng” để nói về Chúa Giê-su, vì sau Người, nhân loại không còn phải chờ đợi một vị Thiên sai nào nữa.

Là Con Người Mới, Chúa Giê-su là mẫu mực cho hết thảy chúng ta. Người là “Thần Tượng”, là “Anh Cả” của mọi Ki-tô hữu. Nói cách khác, con người chỉ đạt được tầm vóc “con người mới” khi trở nên giống Đức Giê-su. Thánh Phao-lô đã diễn tả bằng một động từ “mặc lấy”, như thể người Ki-tô hữu được bao trùm bởi chính Đức Giê-su. “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xa xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24). Đương nhiên đây không chỉ là sự bao trùm bề ngoài, mà là sự thấm đượm tận căn và có sức biến đổi chúng ta. Như thế, để được nên con người mới, chúng ta phải đoạn tuyệt quá khứ còn nhiều bất toàn, để nên giống Đức Giê-su, Đấng đã sống lại vinh quang. Thánh Phao-lô (trong Bài đọc II) diễn tả một cách cụ thể hơn: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Giê-su đang ngự bên hữu Thiên Chúa”. Con người sống trên trần gian luôn bị giày vò và giằng xé giữa hai thế lực: giữa thượng giới và hạ giới; giữa bản năng và ý chí. Tiến trình trở nên con người mới là tiến trình phấn đấu không ngừng để vươn tới thượng giới, như Đức Giê-su đã đạt tới thượng giới và đang ở bên Chúa Cha. Nói cách khác, hành trình nên thánh là những nỗ lực để gần với trời và xa khỏi đất.

Biến cố Phục sinh đã làm cho hai môn đệ là Phê-rô và Gio-an mang một cái nhìn hoàn toàn mới. Trước đó, khi nghe mấy người phụ nữ nói Chúa đã sống lại, hai ông còn bán tín bán nghi. Chỉ khi tận mắt nhìn thấy ngôi mộ trống, hai ông mới tin và hồi tưởng lại những gì Thầy mình đã nói trước. Hai ông đã trở nên con người mới, trước ngôi mộ trống của ngày Phục sinh và hai ông đã lấy chính mạng sống mình để làm chứng cho Chúa Phục sinh.

Mừng lễ Phục sinh, mỗi chúng ta cũng phải trở nên người mới, con người của ân sủng và mặc lấy Chúa Giê-su. Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI đã viết: “Biến cố Phục sinh là một cái gì mới đi vào trần thế, và từ đó Giáo Hội đã có thể hình thành. Và trong thực tế, Phục sinh là cộng đoàn của những người tin vào Chúa Ki-tô, cộng đoàn của Dân Thiên Chúa mới” (Thiên Chúa và trần thế, Tr. 347). Như thế, trong Đức Giê-su Phục sinh, tất cả tín hữu làm thành một dân hoàn toàn mới, một dân tộc thánh thiện, nhân ái và cùng nhau tiến về Quê Trời.

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

--------------------------------

 

PS 1-ABC486: ĐÊM ÁNH SÁNG VÀ NIỀM VUI


Ánh sáng xua tan bóng tối

 

Trước khi cử hành nghi thức Đêm Vọng Phục sinh. Mọi người chìm trong bóng tối tĩnh mịch của PS 1-ABC486


Trước khi cử hành nghi thức Đêm Vọng Phục sinh. Mọi người chìm trong bóng tối tĩnh mịch của đêm đen, không ánh đèn, tất cả cộng đoàn phụng vụ cùng hướng về phía cha chủ tế: với đống lửa đang cháy sáng. Sau Nghi thức làm phép lửa, Nến Phục sinh được thắp lên như sự hiện diện của chính Chúa Giê-su Phục sinh đang ở giữa chúng ta.

Lúc kiệu nến Phục sinh, vị chủ tế xướng lên ba lần: “Ánh sáng Chúa Ki-tô”. Và cộng đoàn cùng đáp lại ba lần: “Tạ ơn Chúa.” Nghi thức này muốn nói rằng: Ánh Sáng Phục sinh của Chúa Ki-tô đã bừng lên xua tan bóng đêm của tội lỗi và sự chết. Từ trong bóng tối, Nến Phục Sinh dẫn chúng ta bước vào ánh sáng cử hành long trọng đêm Vọng Phục sinh. Đây chính là ánh sáng mà dân Ít-ra-en mong đợi như I-sai-a tiên báo: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Is 9,1). Nay ứng nghiệm nơi Đức Giê-su Ki-tô Phục sinh: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16) Vâng, ánh sáng ấy được vận hành trong dòng lịch sử cứu độ của nhân loại.

Chúng ta vừa rước Nến Phục sinh cháy sáng với lửa được làm phép vào nhà thờ đặt trên chân nến. Trên thân Nến có các mẫu tự Hy Lạp: Alpha và Omega (có nghĩa là “chữ đầu” và “chữ cuối”trong bảng mẫu tự Hy Lạp), tượng trưng cho Chúa Ki-tô là đầu và là cuối (là nguyên thủy và cùng đích) của tất cả mọi tạo vật. Nến cũng được đánh dấu theo năm, năm nay là năm 2024. Cây Nến này được thắp sáng suốt cả Mùa Phục sinh, trong các Thánh lễ và sẽ được đốt lên vào mỗi dịp cử hành phép Rửa tội và trong Thánh lễ an táng.

Mỗi người được thắp nến của mình với Lửa mới lấy từ Nến Phục sinh. Cầm nến sáng trên tay trong đêm vọng Phục sinh là chúng ta đón nhận Ánh sáng Phục sinh của Chúa Ki-tô. Ánh sáng ấy không chỉ nhìn thấy ở phương diện vật lý nhưng còn là ánh sáng của niềm tin. Tâm hồn mỗi người chúng ta được Chúa Ki-tô Phục sinh ngự đến trong đêm nay. Ánh sáng ấy chính là Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh đúng như Người tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12)

Đến phần làm phép Nước, Nến sẽ được nhúng vào nước, sau đótân tòng được Rửa tội bằng Nước Phép này, những người đã đã chịu phép Rửa tội sau khi lặp lại lời hứa cũng được rảy trên mình cùng một nước mới này.

Tin Mừng Phục sinh được công bố

“Mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiên thần trên trời. Cùng vui lên, hỡi những thừa tác viên này… Và vui lên, toàn trái đất vui lên … tất cả vũ trụ đều hân hoan… Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh vui lên…khắp nơi trong cung điện này hòa vang lên ngàn muôn tiếng ca reo mừng của nhân trần”(x.Exsultet). Cả Trời Đất mừng vui. Mừng vui lên! Hỡi anh chị em!!! Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia.

40 ngày Chay Thánh qua đi, nay Giáo hội bước vào 50 ngày Mùa Phục sinh và kêu gọi con cái mình Mừng vui lên. Này người trần hỡi hãy vui lên, Al-lê-lui-a! vì “Chúa đã sống lại thật rồi đem niềm vui cho thế giới. Chúa đã sống lại rồi, vinh quang tỏa lan khắp nơi. Chúa đã sống lại rồi, cho muôn người hưởng phúc quê Trời”. (Trích bài hát “Mừng Chúa Phục sinh” – Tuấn Kim)

Ánh sáng mang lại niềm vui

Mừng vui lên! Đêm vọng Phục sinh là đêm của niềm vui. Chúa Ki-tô Phục sinh là nguồn vui, Người mang niềm vui đến cho chúng ta. Thật vậy, trong suốt cả Mùa Chay, chúng đã đã nguyện ngắm, ăn chay, cầu nguyện, tĩnh tâm, xưng tội để chuẩn bị tâm hồn đón nhận niềm vui Phục sinh: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11). Đúng thế, sau mỗi lần xưng tội chúng ta thấy tâm hồn ngập tràn niềm vui. Niềm vui ấy đến từ ân sủng của Chúa Giê-su Phục sinh. Niềm vui hoán cải và yêu thương. Niềm vui của cậy trông và phó thác cuộc đời trong tay Thiên Chúa.

Đêm nay, đêm mang lại niềm vui đặc biệt cho các anh chị em dự tòng vừa được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Họ được rửa bằng Nước mới, xứ Dầu mới, thắp Lửa mới. Mỗi chúng ta chan chứa một niềm vui vì tình thương Chúa ngập tràn.

Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Ki-tô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do tội Tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người.

Vâng, Chúa Ki-tô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

Vậy chúng ta có thể cao rao: “Chúa Ki-tô… Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------

 

PS 1-ABC487: “CHÚNG TA LÀ MỘT DÂN TỘC PHỤC SINH”

 

Sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô không chỉ là một sự kiện choáng ngợp, có một không hai trong PS 1-ABC487


Sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô không chỉ là một sự kiện choáng ngợp, có một không hai trong lịch sử, mà đã trở thành điểm then chốt xác định bản chất của niềm tin Kitô giáo. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông thư Dies Domini, nhấn mạnh rằng: “Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là sự kiện căn bản làm nền tảng cho đức tin Kitô giáo” (Vatican, ngày 31 tháng 5, Lễ Trọng Hiện Xuống, năm 1998). Sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô vượt qua bất cứ ranh giới nào của con người: chủng tộc,văn hóa, xã hội, chính trị...Trong Lễ Phục Sinh, các tín hữu cùng thừa nhận chiến thắng cuối cùng của ánh sáng trước bóng tối, sự cứu độ những người tội lỗi và sự sống vượt qua cái chết. Đó thực sự là một câu chuyện về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, đã hy sinh tột cùng để cứu độ nhân loại, để lại cho chúng ta lời hứa về cuộc sống vĩnh cửu.

Đối với người Công giáo, Lễ Phục sinh không phải là một lễ chỉ kéo dài trong một ngày, mà là cả một mùa suy tư, chiêm niệm và đổi mới. Tác động sâu sắc của Sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô vượt ra ngoài những bức tường của các nhà thờ và trở thành sức mạnh hướng dẫn cuộc sống hàng ngày của các tín hữu. Thánh Augustinô đã nắm bắt được ý nghĩa này và tuyên bố: “Chúng ta là một dân tộc Phục Sinh, và Halleluiah là bài hát của chúng ta” (Augustinô, Exposition on Psalm 148). Chính Thánh Phaolô tuyên bố: “Nếu Chúa Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Nếu Chúa Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Chúa Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Chúa Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cor 15:14, 17-19).

Các bài đọc Phục Sinh hôm nay nêu bật ba điều cần phải diễn ra trong đời sống của các Kitô hữu nếu họ muốn tham gia sâu xa hơn bao giờ hết vào cuộc sống mới của Chúa Kitô phục sinh, Đấng mà Thần khí và quyền năng thần linh của Ngài đã thấm nhập vào toàn thể vũ trụ.

Tìm kiếm những gì thuộc về Chúa Kitô

Trước hết, là Kitô hữu, nếu chúng ta mong muốn trở thành một “dân tộc Phục sinh”, thì chúng ta phải tìm kiếm những giá trị thuộc về trời cao: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa  Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (3:1). Trong bức thư này gửi các tín hữu Côlôsê, Thánh Phaolô khuyến khích họ đặt Chúa Kitô làm trung tâm trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đối với người có đức tin, cuộc sống không chỉ đơn thuần là những công việc, nghỉ ngơi rồi lại làm việc nhiều hơn nữa; thành công và thất bại, cưới vợ lấy chồng, sinh con đẻ con cháu; mua sắm và tiêu dùng; mọi thứ  dường như hết sức bình thường và có lẽ cũng vô cùng đơn điệu. Đó chưa phải là sự sống thật. Sự sống thật là Chúa Kitô. Ngài là tâm điểm của những khát vọng sâu xa của chúng ta, của trái tim và tâm trí chúng ta trong những lúc thuận lợi cũng như khó khăn, là lý do cho sự hiện hữu và là niềm hy vọng cho tương lai của chúng ta. Thiên Chúa không muốn cuộc đời của chúng ta chỉ là những tháng ngày đầy lo toan, gánh chịu bao nhiêu thứ đa đoan trần tục, lúc căng thẳng lúc chán nản, giống như chúng ta đang đi trong những vòng luẩn quẩn và mắc kẹt trong trần gian như bị giam giữ trong một thứ lao tù. Cuộc sống mỗi ngày của chúng ta cần có một ý nghĩa tâm linh. Thánh Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta đến một thế giới lớn hơn, một cách nhìn rộng hơn: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3: 2). Ngài kêu gọi chúng ta ngước mắt lên và tập trung vào Chúa  Kitô để có được mục đích cho những nỗ lực của chúng ta trên trần thế này.

Thánh Phaolô muốn nói rằng cuộc sống trên trần thế này sẽ tốt đẹp hơn nếu cuộc sống đó được sống bằng quyền năng của Chúa Kitô phục sinh: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống của anh em được ẩn tàng nơi Thiên Chúa, cùng với Chúa Kitô” (Cl 3: 2). Tuy nhiên điều cần tránh không phải là trần thế mà là thói vô đạo đức: “Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” (Cl 3: 5). Điều này không có nghĩa là các tín hữu bỏ bê các công việc bổn phận hằng ngày để cứ mơ tưởng về cõi vĩnh hằng, nhưng chỉ có nghĩa là các tín hữu không chỉ quan tâm đến những điều tầm thường của thế gian. Các tín hữu cần bận tâm đến những việc trên trời, để cảm giác, cảm xúc, suy nghĩ, ý tưởng và hành động của họ thấm nhuần những giá trị thiêng liêng. Các tín hữu phải nhìn mọi thứ nơi trần thế trong cái nhìn vĩnh cửu: “Khi Chúa Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Chúng ta được mời gọi sống một cuộc sống đời thường bằng “sự sống được ẩn tàng nơi Thiên Chúa, cùng với Chúa Kitô.”

2. Cởi bỏ những tấm vải liệm

Nếu muốn dự phần vào việc Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, thì chúng ta phải cởi bỏ những tấm vải liệm của mình. Bài đọc Tin Mừng theo thánh Gioan kể câu chuyện về Maria Mađalêna, Simon Phêrô và môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu phát hiện ra rằng xác của Chúa Giêsu, vốn đã bị đóng đinh, chết, nay không còn trong ngôi mộ nơi Ngài được mai táng nữa. Thay vào đó, tất cả những gì họ tìm thấy trong ngôi mộ là vải liệm của Chúa Giêsu: “Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20: 5-7).

Chúa Kitô từ cõi chết sống lại, Ngài trút bỏ vải liệm, trở nên con người hiển vinh, vượt qua mọi ràng buộc của định luật vật lý, sinh hóa, của trời cũ đất cũ. Dù chúng ta là người đang sống nhưng liệu chúng ta có đang mặc vải liệm không? Điều gì trong cuộc sống của chúng ta là vải liệm? Chúng ta đã mặc cho mình những tấm vải liệm này hay để người khác mặc cho chúng ta? Chúng ta có sẵn sàng cởi bỏ những tấm vải liệm này để sống lại và trở nên một với Chúa Kitô sống động đầy kỳ diệu hay chúng ta bằng lòng trở thành những người chết về mặt tinh thần, cảm xúc, tâm lý, trí tuệ, xã hội, dù vẫn còn đang sống? Lễ Phục sinh mời gọi chúng ta mặc những bộ quần áo mới vinh hiển - “mặc lấy Chúa Kitô”, sống một đời sống mới.

“Mặc lấy Chúa Kitô”, sống một đời sống mới, chia sẻ vinh quang Phục Sinh có nghĩa gì? Các tín hữu, nhờ đức tin và phép rửa, chia sẻ lời hứa về một cuộc sống mới và vĩnh cửu: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Chúa Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Chúa Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại” (Rm 6:3-5). “Mặc lấy Chúa Kitô” đòi hỏi phải cởi bỏ những điều ác trong chúng ta, vốn không dễ nhận ra, vì từ lâu chúng ta đã đồng hóa nó với chính cái tôi của mình. Mà buông bỏ cái tôi là điều không dễ chút nào. Nhưng chính nó đã chiếm tất cả vị trí của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Đó là con người cũ, men cũ mà con người “mới” phải cởi bỏ để sống sự sống mới của Chúa Phục Sinh: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2;20). Chúng ta có đang từ bỏ con người cũ để mặc lấy Chúa Kitô như chúng ta cam kết khi lãnh nhận phép Thánh Tẩy không?

Sách Giáo lý Giáo hội số 537 khẳng định rằng “Kitô hữu, nhờ bí tích Rửa Tội, được đồng hoá một cách bí tích với Chúa Giêsu, Đấng, trong phép rửa của mình, đã tham dự trước vào cái Chết và sự Sống Lại của mình; họ phải tiến vào mầu nhiệm của sự khiêm tốn quy phục và thống hối này, bước xuống nước cùng với Chúa Giêsu để cùng với Ngài bước lên, và phải được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần để trở nên con yêu dấu của Chúa Cha trong Chúa Con và “sống một đời sống mới”.

Thông điệp này trở thành nguồn hy vọng rằng sau khi vượt qua bức màn của cái chết như chúa Kitô, chúng ta được giải thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi và cái chết, được sống một cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa.

3. Sống sứ mạng của Chúa Kitô

Thứ ba, nếu các Kitô hữu mong muốn trở thành một “dân tộc Phục Sinh”, chia sẻ hồng ân sự sống mới khi làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô, thì chỉ hát “Halleluia” thôi thì chưa đủ. Bài đọc hôm nay trích từ sách Công vụ Tông đồ nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã xức dầu cho Chúa Giêsu thành Nadarét bằng Thánh Thần và quyền năng. Những quyền năng này được trao cho Chúa Kitô để Ngài ôm lấy và sống sứ mạng thánh thiện là rao giảng, dạy dỗ, chữa lành tất cả những ai bị bệnh tật, và giải thoát những ai bị ma quỷ kiềm chế: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38).

Cả chúng ta nữa, những người bước đi theo truyền thống của các Tông đồ, cũng được rửa tội trong Chúa Kitô. Chúng ta đã được xức dầu bằng Thánh Thần và có cùng sứ mạng như Chúa Kitô và các Tông đồ: “Chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10: 42-43).

Trở thành một dân tộc Phục Sinh có nghĩa là thực hiện công việc của Chúa Kitô Phục Sinh bằng quyền năng của Ngài và “làm chứng” về Ngài. Dân tộc Phục Sinh sẽ hướng dẫn người ta đến với Chúa Giêsu, và qua Chúa Giêsu mà đến với Chúa Cha. Bằng lời nói và việc làm, dân tộc Phục Sinh làm chứng Chúa Giêsu là Sự thật và là Thiên Chúa. Và mọi Kitô hữu đều thực hiện những công việc này trong cuộc sống của mình. Kitô hữu là hương thơm của Chúa Kitô, là ánh sáng của thế giới, “là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Chúa Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Công trình tốt đẹp ấy là giúp mọi người tin vào Chúa Giêsu, đón nhận mọi người bằng một tình yêu chữa lành, tiếp đón những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nhờ ân sủng của Chúa Kitô phục sinh, chúng ta sống hòa hợp, chiếu tỏa ánh sáng đức tin và tình yêu để vượt qua bóng tối của tuyệt vọng và cái chết. Như vậy, chúng ta có thể yên tâm rằng Chúa Kitô phục sinh vẫn sống động trong mỗi chúng ta và giữa tất cả chúng ta.

Bước ra khỏi Mùa Chay và cử hành niềm vui phục sinh, chúng ta hãy để lời ca “Halleluia - Hãy ngợi khen Chúa” vang lên trong tâm hồn chúng ta, vì chúng ta thực sự là dân tộc Phục Sinh, đang cử hành chiến thắng của sự sống vĩnh cửu. Chúa Kitô đã sống lại! Halleluia! mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

---------------------------------

 

PS 1-ABC488: PHỤC SINH, NGUỒN HY VỌNG VÀ VINH QUANG


Anh chị em thân mến,

 

Khi nói đến niềm hy vọng hay đức cậy, chúng ta nghĩ ngay đến Lời của Thánh Phao-lô trong thư PS 1-ABC488


Khi nói đến niềm hy vọng hay đức cậy, chúng ta nghĩ ngay đến Lời của Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô như sau: “Vậy nay còn lại Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Đức Mến lớn hơn cả!” (1 Cor 13:13).

Vẫn biết là đời sống của chúng ta được xây dựng trên nền tảng của Lòng Mến, và  chúng ta bị đòi buộc sống để đáp trả cho Lòng Mến mà chúng ta đã lĩnh nhận. Tuy thế, nếu không có đức cậy thì làm sao chúng ta có niềm hy vọng vào thế giới xem ra muốn đẩy Thiên Chúa ra bên ngoài cuộc sống của họ.

Sau đây là một vài biến cố tiêu biểu:

Thế Kỷ XXI được bắt đầu bằng cuộc tấn công của quân khủng bố đã kéo sập hai tòa nhà tại trung tâm thương mại thế giới tại Nữu Ước (World Trade Center) và giết bao nhiêu người dân vô tội. Tình hình khủng bố cho đến nay vẫn gia tăng, những cuộc tàn sát thật man rợ vẫn còn tiếp diễn. Nhiều tín hữu bị giết!

Chúng ta nghe nhiều về những cuộc rối loạn bên Haiti, một quốc gia ở vùng biển Caribian. Trong thời gian vừa qua, cuộc sống của những người dân vô tội ở Haiti bị đe dọa bởi các băng đảng. Hiện tai con số đã lên trên 300 băng đảng đang nắm quyền kiểm soát hầu hết đất nước, trong đó có 80% tại thủ đô Port-au-Prince.

Những nhóm này, vốn đã gây chiến với nhau trong nhiều năm. Thời gian vừa qua,  họ cướp bóc nhà cửa, hãm hiếp phụ nữ và trẻ em gái, đồng thời chiếm đoạt nguồn cung cấp thực phẩm và nước uống để kiểm soát dân số. Một nửa đất nước không có đủ lương thực và 15.000 người Haiti phải chạy loạn.

Chiến tranh vẫn còn tiếp diễn.

Thêm vào đó, nhân loại vẫn còn bị đe dọa bởi các tai ương như động đất, sóng thần, thiên tai, dịch bệnh, v.v …

Đó là chuyện của thế giới. Chẳng có tin gì vui! Chúng ta hy vọng gì cho một thế giới như thế.

Còn bản thân mình thì sao?

Có bao giờ anh chị em đã phải trải qua những kinh nghiệm của cuộc đời: như nếm cảnh cô đơn, bị ruồng rẫy, phản bội, lợi dụng, bị phụ tình, là nạn nhân của ghen tuông, bị nhạo báng, sỉ nhục, sống trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, không? Tức: muốn nói ra mà không biết phải nói làm sao. Bởi, sự im lặng, câm nín không lối thoát vẫn cứ bao vây đời mình. Và lúc đó chúng ta thấy cuộc đời chỉ là đêm đen, bóng tối luôn bao phủ và hầu như không có lối thoát.

Chính trong cảnh ngộ đó, nhiều người đã tìm giải pháp để xa lìa và tránh thoát tất cả. Còn chúng ta, là tín hữu, tìm giải pháp ở đâu - hy vọng vào ai cứu ta ra khỏi tình trạng ‘bí lối và bó tay’ này?

Thưa anh chị em,

Ai là những người đã từng trải một vài kinh nghiệm nói ở trên, hãy cùng nhìn lại các việc mà chúng ta đã làm, không phải để tưởng niệm một biến cố xẩy ra ở quá khứ; cho bằng hiện tại hóa biến cố đó bằng chính những đóng góp của bản thân mình.

Sự thinh lặng trong Ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Nhưng, chính vào lúc đó Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng chúng ta.

Đức Giê-su đã sống lại ngay trong lúc ta bị bí lối. Quả thật, có cảm nhận được điều đó mới biết Phục sinh là ánh sáng soi đường cho ta và mọi người. Có cảm-nghiệm như thế, ta mới biết là sự sống vẫn rất cần và quan trọng đến thế nào.

Ánh sáng Phục Sinh đã bùng lên trong đêm tối của cuộc đời mình và đưa chúng ta hy vọng rằng chỉ có Ánh sáng Phục Sinh mới đem đến cho cuộc đời mình một ý nghĩa mới, mục đích mới.

Chúa Phục Sinh đem đến cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng và xác tín rằng ngay vào lúc đen tối nhất, Thiên Chúa không bỏ rơi con Ngài thì Người cũng không bỏ rơi ta. Can đảm, mạnh dạn mà tiến bước với niềm hy vọng là thái độ sống mà chúng ta từng học được qua Phục sinh.

Với tâm tình và niềm xác tín vào nguồn của mọi hy vọng nơi Chúa. Chúng ta sẽ có một lối nhìn tích cực hơn vào cuộc sống này. Cũng chính vì những gì đang xẩy ra trong thế giới này, mỗi người trong chúng ta càng xác tín hơn về vai trò và bổn phận của mình.

Vì thế:

Đừng bao giờ nói với Chúa tại sao lại để con rơi vào cảnh khốn khổ thế này.

Nhưng hãy:

Tạ ơn Ngài đã cho con sinh ra và sai con vào thế giới.

Tạ ơn Ngài đã gọi và cho phép chúng ta đốt lên ngọn lửa hy vọng soi chiếu và dẫn đường người khác ra khỏi vùng tối tăm.

Tạ ơn Ngài đã gửi con vào môi trường.

Tạ ơn Ngài đã tín thác để con lãnh đạo bằng chính việc phục vụ và dấn thân không ngần ngại của con.

Và chúng ta tin rằng Chúa cũng làm như thế trong hoàn cảnh tương tự mà con đã và đang trải qua.

Như vậy, ý thức được nhiệm vụ cao cả của người tín hữu, chúng ta được sai đến trong thế gian; nhưng ý thức rằng mình không bao giờ thuộc về nó. Vì thế đừng đùa giỡn với những trò chơi của thế gian.Trái lại, phải dấn thân sống tinh thần Tin Mừng trong các nhiệm vụ của cuộc sống thường ngày.

Tất cả đều được mời gọi để nên trọn hảo và việc nên trọn lành không dược thưc hiện một sáng một chiều. Vì thế bước đi bằng niềm Hy vọng là thế. Chúng ta biết rằng, cuộc sống không được đan kết bởi những gì mà ta đã thực hiện cho bằng do cách thức sống kết hiệp của chúng ta với Đức Chúa của mình để Ngài hoàn thành chương trình của Ngài trong sự yếu hèn của chúng ta.

Sau cùng, hy vọng trong niềm vui của Chúa Phục Sinh,  chúng ta được thúc đẩy bước đi giữa thế giới đầy biến động để đốt lên ánh sáng hy vọng cho nhau và cho thế giới đầy hỗn loạn và tang thương này.

Nào chúng ta cùng cất tiếng tung hô và ngợi khen: Chúa nay thực đã Phục Sinh, Alleluia, Alleluia. Amen!

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-------------------------------

 

PS 1-ABC489: TIN MỪNG PHỤC SINH

 

Có nỗi đau nào lớn cho bằng nỗi đau của người môn đệ đã chứng kiến cái chết thảm thương của PS 1-ABC489


Có nỗi đau nào lớn cho bằng nỗi đau của người môn đệ đã chứng kiến cái chết thảm thương của người Thầy mình luôn hết lòng yêu thương? Có nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau của người môn đệ đã từng thề thốt hứa trung thành với Thầy cho dù phải chết nhưng rồi trong cơn hiểm nguy, vì hãi sợ đã chối Thầy đến ba lần? Có nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau của những môn đệ đã mất đi Người Thầy đáng kính? Trong nỗi đau đớn đến cùng tận, họ hiểu được thế nào là trống vắng, thế nào nào bơ vơ. Không có Thầy bên cạnh, họ lo âu, sợ hãi, lòng buồn tê tái. Thầy Giêsu đã ngủ yên trong mồ đá.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria đã ra mộ từ lúc trời còn tối. Bà không để cho nỗi sợ hãi chôn chân ở nhà. Thầy mất, bà rất đau khổ, càng yêu quý Thầy bao nhiêu thì nỗi đau để lại trong lòng càng lớn bấy nhiêu. Bà chỉ chờ hết ngày Sabát để ra mộ thăm Thầy. Bà xăm xăm bước đi, lần mò trong đêm tối. Bà nhớ Thầy da diết khôn nguôi. Thấy ngôi mộ trống, bà nghĩ ngay đến việc người ta đánh cắp xác của Thầy. Điều ấy càng làm bà đau đớn và hoảng sợ. Ở trong đau khổ, người ta bị nỗi đau khổ dày vò. Thấy ngôi mộ trống không, bà không vào trong mộ để xem nhưng đã chạy thẳng về báo tin cho ông Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu” (Ga 20, 2). Hai ông vừa nghe bà báo tin liền vội vã chạy ra mộ. Lòng các ông cũng quặn đau trước sự ra đi của Thầy. Xác Thầy không còn, đó là một tin chẳng lành. Các ông chạy ra tận nơi để xem cho tường tận. Người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước, ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. Ông Phêrô vừa đến nơi liền vào thẳng trong mộ. Ông thấy những băng vải được sắp xếp gọn gàng. Đây chẳng phải là một vụ đánh cắp xác được làm trong vội vàng. Chẳng ai đi ăn cắp xác mà lại cẩn thận xếp gọn gàng những băng vải. Ông đã nhìn quanh mộ và chỉ lặng im. Ông Gioan bấy giờ cũng bước vào. Ông đã thấy và đã tin. Ông chỉ thấy những gì ông Phêrô đã thấy thôi sao? Ông đã thấy những gì ông Phêrô đã thấy và ông còn thấy bằng cái nhìn của con tim. Ông tin Thầy đã sống lại. Lòng ông vui lên. Thầy không ngủ yên trong mồ đá nhưng đã trỗi dậy.

Trong cuộc sống thường ngày, có những nỗi buồn cũng làm cho ta tê tái. Dường như, ta cũng đang cảm thấy Chúa vắng bóng. Người ở đâu khi ta bị nỗi đau khổ dày vò? Hãy rời khỏi căn nhà của chính lòng mình để ra đi, hãy bước đi bằng tiếng nói của con tim như bà Maria để được thấy điều Chúa muốn ta thấy, để được gặp Chúa, được nghe tiếng gọi thân thương của Người. Chúa Giêsu Thánh Thể đang kiên nhẫn chờ ta. Người âu yếm gọi tên ta. Hãy chạy vội đến với Người như hai môn đệ, để được nhìn thấy tường tận những dấu chỉ Người đã để lại. Nhìn lên thập giá, ta thấy gì? Chúa Giêsu đã chết thật rồi. Người đã chết như một tử tội. Người đã mang lấy tội lỗi của ta mà đưa lên thập giá, Người đã chết là để cho ta được sống. Nhìn Người chịu treo trên thập giá, ta không chỉ thấy cái chết của Người nhưng ta nghe được tiếng vọng của Tình Yêu. Người dẫn ta bước qua đau thương, thử thách để bước vào sự sống vinh quang. Mỗi lần ta biết sám hối, từ bỏ những gì đã ngăn cản ta đến với Chúa, ta đã chết đi với con người tự nhiên của mình, chết đi với ý muốn riêng mà chọn điều Chúa muốn; như thế ta đang được sống trong sự sống của Chúa rồi. Trong tình yêu, trước khi để cho lý trí dẫn đường, ta hãy tập lắng nghe tiếng nói của con tim và mạnh dạn đi theo điều con tim mách bảo.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh! Con cảm tạ Chúa đã chết và sống lại để con cũng được sống trong Chúa. Chúa giải thoát con khỏi tử thần. Con tin Chúa vẫn đang sống trong con và làm cho con được mạnh mẽ hơn mỗi ngày, để nhờ đó, con được lớn lên và trở thành người loan báo Tin mừng của Chúa. Mỗi lần con thấy Chúa vắng bóng trong đời, xin cho con khao khát tìm kiếm Chúa và gặp được Chúa. Amen.

Bông hồng nhỏ

---------------------------------

 

PS 1-ABC490: PHỤC SINH, MẠC KHẢI LINH THÁNH

 

Một tín hữu Ki-tô giáo đang cùng một tín hữu Hồi giáo trò chuyện. Người Ki-tô hữu nói: “Tạ PS 1-ABC490


Một tín hữu Ki-tô giáo đang cùng một tín hữu Hồi giáo trò chuyện. Người Ki-tô hữu nói: “Tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng tôi một quyển Kinh thánh vô ngộ”. Người Hồi giáo đối lại: “Ô, chúng tôi cũng tạ ơn Đức Allah (Thiên Chúa theo tiếng Ả-rập) đã ban cho chúng tôi một kinh Coran vô giá” - “Cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng tôi một Đấng Cứu Thế là Đức Giê-su” - “Chúng tôi cũng cảm ơn Đức Allah đã ban cho chúng tôi một Ngôn sứ là Ma-hô-mét” - “Tạ ơn Thiên Chúa vì Đức Giê-su đã chịu chết cho muôn người” - “Chúng tôi cảm ơn Đức Allah vì Ma-hô-mét đã xả thân cho nhân loại” - “Tạ ơn Thiên Chúa, vì sau ba ngày nằm trong phần mộ, Đức Giê-su Cứu Thế đã sống lại khải hoàn. Người ngự về trời và hiện đang ngồi bên hữu Thiên Chúa, cầu thay nguyện giúp cho chúng tôi”. Người tín đồ Hồi giáo ngơ ngác: “Ô, chuyện tương tự ấy thì chúng tôi không biết đến, vì từ khi Ma-hô-mét qua đời, chúng tôi chẳng được tin gì nữa!”

Cái độc đáo của Đức Giê-su cũng như của Ki-tô giáo là ở chỗ đó. Mỗi năm, chúng ta lại long trọng nhắc tới điểm độc đáo này qua cả một mùa Phụng vụ mà hôm nay là cao điểm. Tuy nhiên, để thấu hiểu mầu nhiệm này, không phải là một điều dễ dàng.      

Gây Cho Con Người Nỗi Sợ Hãi

Bài Tin Mừng hôm nay là đoạn kết của Phúc Âm theo thánh Mác-cô. Những gì tiếp theo (Mc 16,9-20), kể ra khá lý thú, là một phụ trương, một phần thêm vào, một miếng vải chắp nối các đoạn cuối của những Tin Mừng khác (vì không thấy trong các bản chép tay cổ nhất cũng như nơi nhiều Giáo phụ). Nhưng ta hãy dừng lại trước sự kiện lạ lùng này: trong bốn Tin Mừng, có một cuốn kết thúc với sự sợ hãi: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi”.

Tuy nhiên, với các phụ nữ chạy trốn khỏi mộ trong nỗi kinh hoàng thực sự ấy, thiên thần Phục sinh trước đó đã nói: “Đừng hoảng sợ!” Trong Thánh Kinh, đấy luôn luôn là dấu hiệu đi trước một cuộc truyền tin. Thật vậy, thiên thần loan báo, chỉ trong hai từ, điều sắp là đá tảng đức tin Ki-tô giáo: “Đấng bị đóng đinh đã trỗi dậy.” Thiên thần xác định: “Đức Giê-su Na-da-rét” đúng là kẻ đã chết, nhưng Người đã sống lại. Chính vì câu ngắn gọn này: “Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy”, chính vì cú sốc mạnh mẽ của các từ này, mà phụng vụ cho ta đọc đoạn cuối Tin Mừng Mác-cô đêm Vọng Phục sinh năm B. Chúng ta đứng trước mạc khải thẳng thừng nhất về cuộc Phục sinh, thô tháp nhất theo nghĩa không gì đẽo gọt và tô điểm bảng cẩm thạch ghi mấy chữ nói lên tất cả: “Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy”.

Thiên thần khẳng định điều ấy với các phụ nữ đã thấy Đức Giê-su chết trên thập giá, đã nhìn ngắm tử thi của Người khi nó được đặt vào mồ và nay họ đến để ướp hương liệu! Họ chẳng đời nào nghĩ đến một cuộc phục sinh, và khoảng cách này giúp chính chúng ta đứng lùi lại, thật xa các trình thuật đã cũ mèm mà nay chẳng còn đánh động chúng ta nữa, để nhìn chúng với một cặp mắt mới.

Hãy tưởng tượng mình cùng với ba phụ nữ ấy đến xem một tử thi, và còn đang đứng trong cái nơi mà một kẻ bị đóng đinh là một kẻ chết. Thì đột nhiên bước vào một thế giới khác: một thiên thần, và thành thử là một sứ điệp của Thiên Chúa xuất hiện. Chính sứ điệp này đã khiến các phụ nữ hãi sợ và cũng phải làm chúng ta sợ hãi. Các thánh sử khác lập tức ném chúng ta vào trong niềm vui: “Alleluia! Đức Ki-tô đã phục sinh!” Mác-cô thì vẫn ở trong đường hướng của Phúc Âm mình, Phúc Âm về bí mật (bí mật “Mê-si-a”), vì tôn trọng mầu nhiệm, vì sợ khó nói những chuyện của Thiên Chúa. Giáo huấn của ông về sự Phục sinh, đó là một sự thinh lặng do hãi sợ cách linh thánh: “Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi”. Họ cảm thấy khó có sức vâng phục lệnh truyền: “Xin các bà về nói với môn đệ Người rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông”. Đi nói rằng một kẻ chết đã sống lại ư?

Khiến Con Người Phải Lặng Thinh

Sự thinh lặng này, Mác-cô là người duy nhất đề cập đến (theo Lu-ca, các phụ nữ có nói: 24,9-11, nhưng ông đã chẳng đề cập đến sứ mệnh phải nói của họ. Mát-thêu thì bảo họ chạy đi báo tin cho các môn đồ: 28,8, nên cho phép ta giả thiết là họ đã có nói). Nỗi bối rối này, Mác-cô cũng là người đặc biệt nhấn mạnh (nơi Lc 24,9 không có ghi chú nào như thế, trong lúc Mt 28,8 nói các phụ nữ “vừa sợ hãi vừa rất đỗi vui mừng”). Nỗi bối rối này là hiệu quả của một cơn khủng khiếp linh thánh trước sự xuất hiện của cái thần thiêng, hay đúng hơn của Lời Thiên Chúa, lời xác quyết việc sống lại của Đấng bị đóng đinh và như thế soi sáng bí ẩn của ngôi mộ trống.

Thế mà chủ đề “mạc khải mầu nhiệm che giấu” nằm dài suốt Tin Mừng thứ hai, và mầu mhiệm này là mầu nhiệm lai lịch Đức Giê-su, mầu nhiệm Vương quốc Thiên Chúa hay là mầu nhiệm hoàn tất ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn của Con Người. Đàng khác, theo Mác-cô, việc mạc khải này được thực hiện cách rất đáng ngạc nhiên, nó biểu lộ kế đồ nghịch lý của Thiên Chúa cũng như sự bất lực của con người trước mầu nhiệm: mạc khải âm thầm không chứng nhân về lai lịch Đức Giê-su sau phép rửa (1,9-11) ; mạc khải bị Đức Giê-su bắt phải giữ kín của các thần dữ đã chọc thủng được bí mật (1,24-25.34; 3,11-12) ; mạc khải được dành riêng cho một vài người mà dầu sao vẫn không hiểu rõ (4,10-13; 8,30-33; 9,6-10.32). Phải chờ đến khi hoàn tất ý định của Thiên Chúa (x. 8,33), đến khi Đấng bị đóng đinh chết đi thì một con người, một kẻ ngoại đạo mới nhận ra Người là Con Thiên Chúa (15,39). Và khi đến giờ của mạc khải tột đỉnh, giờ của Phục sinh, thì mạc khải này cũng còn bị giữ lại, chẳng phải bởi một ý chí nào đó muốn giới hạn những người được thụ hưởng, nhưng bởi nỗi kinh hãi và hoảng hốt do chính mạc khải gây nên.

Như thế Mác-cô, không chút e dè, đặt độc giả của mình trước sự siêu việt thần linh của Tin Mừng Thiên Chúa và mầu nhiệm được mạc khải trong đó cho đức tin. Các phụ nữ đến viếng mộ đã chịu thử thách của mạc khải này, nhưng không hề trở thành chứng nhân chính thức của mạc khải. Chính nhờ lời rao giảng của các môn đồ mà Tin Mừng đã tiếp tục thi thố quyền năng cứu rỗi của nó trong thế gian. Và chính nhờ các lần hiện ra ở Ga-li-lê, theo Mác-cô, mà các môn đồ đã được đặt làm chứng nhân của Lời. Cũng từ quan điểm đó, Mác-cô thấy cần nhấn mạnh sự thinh lặng của các phụ nữ. Không phải với tư cách loan báo lời mà kỷ niệm về họ đã được nhắc lại, nhưng vì họ đã tiến gần cách thấm thía cái mầu nhiệm mà Lời luôn mạc khải trong Giáo hội.                             

Chúng ta chắc nói mình không thấm thía và nghĩ mình có thể công bố Đấng chịu đóng đinh đã sống lại. Nhưng như vậy là có lẽ quá nhanh đấy. Để cùng với từ “trỗi dậy” này đi vào trong thế giới của Thiên Chúa, hãy qua con đường của Mác-cô: sợ hãi, im lặng, và vẫn luôn sợ hãi. Sợ khó hiểu, sợ không thể nâng mình lên tới đó. Tới chỗ sờ được chính Thiên Chúa, khi chúng ta nhìn Đức Giêsu-Phục sinh. Đây không phải là mầu nhiệm của một con người đơn thuần trở về từ cõi chết, song là mầu nhiệm của một con người đi vào trong thế giới của Thiên Chúa và mở các cánh cửa của thế giới đó ra cho chúng ta. “Ngày hôm nay, lời nguyện lễ Phục sinh nói, lạy Cha từ ái, Đức Giê-su đã đánh bại thần chết, khai đường mở lối cho chúng con vào cuộc sống muôn đời”.

Lạy Chúa, xin cho con biết im lặng trước mầu nhiệm của Chúa. Con chỉ có thể nói Chúa không là gì chứ khó có thể nói Chúa là gì. Mầu nhiệm của Chúa là đại dương bao la, con được mời nhảy vào bơi trong đó nhưng sẽ chẳng khi nao đạt tới bến bờ. Cho con đừng tầm thường hóa mầu nhiệm vì tự mãn mình có thể nắm bắt nó được, vì trình bày Chúa cách thô thiển trước mặt anh em. Xin cho con biết sợ hãi trước mầu nhiệm của Chúa, là tiếng nói của tình yêu Chúa ngỏ với quả tim chúng con, biết sợ rằng mình chỉ dùng lý trí để tìm hiểu mà không chịu cảm nghiệm với tâm hồn, sợ rằng mình chỉ thỏa mãn với đôi ba ý niệm hay thậm chí với cả một hệ thống thần học mà chẳng đem vào cuộc sống, sợ rằng dù có cố gắng bao nhiêu, con cũng chẳng có thể đáp lại tình yêu Chúa đã tỏ ra qua các công trình và mầu nhiệm cứu rỗi. Nhưng cũng xin Chúa cho con kinh ngạc đến ngây ngất trước mầu nhiệm Phục sinh của Chúa, mầu nhiệm mở ra cho chúng con những chân trời hiểu biết bao la và chân trời sự sống viên mãn, những chân trời tin tưởng mãnh liệt và chân trời hy vọng tuôn tràn.

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

---------------------------------

 

PS 1-ABC491: ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

 

Với người không có niềm tin tôn giáo, thì “chết là hết”. Sự tuyệt vọng này kéo lê cuộc đời của PS 1-ABC491


Với người không có niềm tin tôn giáo, thì “chết là hết”. Sự tuyệt vọng này kéo lê cuộc đời của phận người. Thế nhưng, niềm tin Kitô giáo lại mừng cách long trọng biến cố Chúa Giêsu phục sinh. Thật vậy, Đức Giêsu sống lại là chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho đức tin và niềm hy vọng của mỗi người Kitô hữu. Chính nhờ niềm tin này mà Giáo hội không ngừng reo vui: Hal-lê-lui-a! Đó là một biến cố vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Đó là niềm vui được vang lên và loan đi khắp địa cầu.

Mở đầu Tin mừng hôm nay, thánh Gio-an cho thấy hình ảnh của Ma-ri-a Mác-đa-la. Với sự nhớ thương Thầy, đến nỗi bà không thể ở yên. Bà đã đến mộ từ rất sớm, “lúc trời còn tối". Trong sự chập choạng của đất trời, bà thấy tảng đá lấp cửa mồ đã lăn ra khỏi mộ. Và từ ngôi mộ mở toang, bà kết luận: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".

Song song với hình ảnh của Ma-ri-a Mác-đa-la là hình ảnh ông Phê-rô, người được Tin mừng nêu tên trước trong hành trình chạy ra mộ. Mặc dù chạy chậm hơn môn đệ kia, nhưng khi đến nơi, Phê-rô vẫn là người thứ nhất bước vào trong mộ. Ông nhìn thấy tỏ tường “những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu". Ông Phê-rô đã thấy, nhưng ông còn "rất đỗi ngạc nhiên” vì ông chưa hiểu rằng "theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết".

Cuối cùng là hình ảnh “môn đệ kia, người được Đức Giêsu thương mến". Tuy chạy tới mộ trước ông Phê-rô, và vội cúi xuống để nhìn vào trong, nhưng ông lại nhường cho Phê-rô tiến vào trong mộ trước. Chính người môn đệ ấy, bằng trực giác của tình yêu, cùng với cảnh mỗ trống và các khăn vải sắp xếp ngăn nắp, ông đã nhận ra Chúa đã sống lại. Tin mừng thuật lại: "Ông đã thấy và ông đã tin". Theo ông, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu, mà chính là quyền lực của sự sống đã chiến thắng sự chết, chiến thắng của sự sáng trên sự tối tăm. Quả thật, sự xác tín của “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” như làm sáng lên sự tối tăm của Ma-ri-a và trấn an sự ngạc nhiên của Phê-rô.

Kính thưa Anh chị em,

Người môn đệ Chúa yêu đã thấy mọi sự, không chỉ bằng con mắt thường, nhưng bằng con mắt của lòng tin. Như thế, vấn đề chính yếu của Tin mừng Đức Kitô Phục Sinh là niềm tin. Nhờ tin vào mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, người tín hữu có cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình. Quả vậy, chỉ với cái nhìn đức tin, chúng ta mới nhận ra được Tin mừng Cứu Độ, vì “phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội". Đó cũng là nội dung lời rao giảng của tông đồ Phê-rô mà bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấu hiểu tỏ tường về biến cổ phục sinh của Đức Kitô.

Xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho chúng ta cũng biết tin yêu vào Ngài, để chúng ta luôn sống trong bình an và hy vọng. Từ đó, chúng ta không còn bám víu vào những thực tại trần thế chóng qua, nhưng tìm kiếm những điều thuộc thượng giới là nơi Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đang ngự bên hữu Thiên Chúa, nhờ đó cảm nhận được niềm vui sâu xa trong ngày Chúa chúng ta quang lâm. Amen.

Học viện Đaminh

---------------------------------

 

PS 1-ABC492: NIỀM VUI VÀ ĐỨC TIN PHỤC SINH

 

Chúa Kitô đã Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Gioan tường thuật khá chi tiết, và đầy xác tín PS 1-ABC492


Chúa Kitô đã Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Gioan tường thuật khá chi tiết, và đầy xác tín: Chúa đã sống lại (x.Ga 20,1-31).

Với tôi, Tin Mừng theo thánh Gioan như một nhân chứng vừa sung sướng, vừa hãnh diện thuật lại những gì mắt thấy tai nghe.

Bằng ngòi bút sâu sắc trong suy niệm; thâm tín trong diễn tả; quả quyết trong lời kể; say sưa trong chiêm ngắm; tràn ngập hạnh phúc, niềm vui, lòng mến nơi tâm hồn, thánh Gioan tường thuật hành trình chạm tới ơn phục sinh và chạm tới Đấng Phục Sinh mà các môn đệ, cụ thể là ba con người: Maria Macđala, Phêrô, Gioan đã trải qua để tiến đến đức tin mạnh mẽ rằng: “Chúa đã Phục Sinh”.

Bằng chính niềm vui và đức tin phục sinh, thánh Gioan quả quyết: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20, 3-9).

Chúa đã phục sinh. Không phải chỉ một mình thánh Gioan sung sướng ghi lại biến cố phục sinh của Chúa, và sung sướng ngỏ với mọi người về chính đức tin của mình: “Ông đã thấy và đã tin”, mà chẳng lâu sau đó, thánh Phêrô cũng đã tin, các tông đồ đã tin, đoàn môn đệ đã tin, và cả Hội Thánh đã tin.

Ngày nay Hội Thánh vẫn mang lấy chính tâm tư vui mừng khôn xiết của thánh Gioan, để không chỉ tin, mà còn hãnh diện đem “khoe” cùng cả loài người, cùng toàn thể vũ trụ, cùng mọi thụ tạo để loan báo, để truyền giảng không mệt mỏi về niềm vui và đức tin: CHÚA CỦA MÌNH ĐÃ PHỤC SINH. Không dừng ở phục sinh. Đấng Phục Sinh vẫn tồn tại. Đến muôn đời, Đấnh Phục Sinh sẽ tồn tại. Người là Chúa. Bất cứ ai thuộc về Người, cũng sẽ phục sinh cùng Người.

Bởi thâm tín mạnh về niềm vui và đức tin Phục Sinh, dẫu là thánh Phêrô hay các tông đồ, đẫu là đoàn môn đệ của Chúa hay toàn Hội Thánh, đã không để bất cứ điều gì khuất phục mình – nhưng đạp trên tất cả sự dữ, dù là cái chết, gông cùm, tù tội, bị thú dữ nghiền nát, bị hành hạ dã man, bị lên án khốc liệt, bị phân biệt đối xử… vẫn không làm lung lay lời rao giảng và lòng xác tín: Chúa đã phục sinh – để đêm ngày, qua muôn muôn lớp lớp lịch sử, vẫn hiên ngang sống, hiên ngang chết cho niềm thâm tín vào Một Đấng Phục Sinh Duy Nhất là Chúa muôn loài, cữu rỗi muôn loài.

Niềm vui và đức tin phục sinh mà Hội Thánh xác tín nơi Chúa Kitô, không đơn giản chỉ là hồi sinh trở về đời sống trần thế như đã từng sống. Sẽ không bao giờ giống cuộc trở về sau cái chết của con trai bà góa thành Naim (Lc 7, 11-17), con gái ông Giairô (Lc 8, 40-56), hay Lazarô ở làng Bêtania (Ga 11,1-45). Bởi tất cả họ, dù đã từng được Chúa cho hồi sinh, đều cũng lại trở về bụi đất như tất cả mọi người.

Chúa Kitô phục sinh, Người không phục hồi sự sống như đã từng sống nơi dương thế, nhưng là tiến về sự sống trong Thiên Chúa, sống bằng sự sống của chính Thiên Chúa. Đó là sự sống thuộc linh, một sự sống không hao mòn, không bị thời gian khống chế, không tàn phai, không kết thúc.

Về mặt nhân trần, Chúa đã chết thật. Chúa là người như mỗi chúng ta là người. Chúa đã chết như bao nhiêu con người đã chết.

Nhưng Chúa đã phục sinh. Từ nay Chúa mặc lấy sự sống sung mãn đến nỗi sự chết không còn quyền gì ảnh hưởng tới Chúa. Chúa chúng ta cũng không còn bị bất cứ định luật tự nhiên nào có thể chi phối. Không còn có bất cứ mãnh lực nào, dù tự nhiên hay siêu nhiên, hữu hình hay vô hình, có thể bị hủy hoại hay bất hoại… có khả năng chi phối sự sống phục sinh của Chúa.

Chúa Kitô là Đấng duy nhất trong nhân loại đã chiến thắng sự chết. Từ nay, Chúa đi vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống đã khải hoàn chiến thắng của Chúa đã trào tràn, tuôn đổ trên mỗi chúng ta.

Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và là sự sống lại của chúng ta. Chúa cho chúng ta tham dự vào sự phục sinh của Chúa, như chính Chúa từng phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, thì dù có chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).

Còn chúng ta, nhờ ơn phục sinh của Chúa, chúng ta cũng trở thành bất diệt sau cái chết trần thế của mình.

Là chứng nhân của Ðấng Phục Sinh đầy tràn sự hãnh diện, ôm ấp niềm vui, và tha thiết sống chết cho đức tin, các tông đồ, các môn đệ, và cả Hội Thánh của Chúa, ra đi khắp thế giới, loan tin mừng Phục Sinh. Tất cả cùng khẳng định: Ai tin nhận Chúa Kitô, tuyên xưng Chúa Kitô là Chúa và sống theo giáo huấn của Chúa, kẻ đó sẽ được Phục Sinh như Chúa.

Chúng ta, từng cá nhân, hãy mang lấy chính tâm tư vỡ òa của thánh Gioan tông đồ, của cả Hội Thánh, của biết bao nhiêu anh chị em đồng đạo, dám băng mình trên mọi nẻo đời, công bố cách không mệt mỏi đức tin cao cả, quý trọng, độc nhất vô nhị của mình: CHÚA ĐÃ PHỤC SINH.

Niềm vui và đức tin phục sinh phải là lẽ sống, là tâm niệm sống, là định hướng sống của từng Kitô hữu.

Hãy để niếm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn đời sống. Một đời sống mà biết để niềm vui và đức tin phục sinh hướng dẫn, sẽ là một đời sống phong phú, một đời sống không chỉ mang đậm niềm hạnh phúc, nhưng còn trào tràn hạnh phúc ấy ra mọi nơi, mọi hoàn cảnh mà đời sống ấy hiện diện.

Hãy để niềm vui và đức tin phục sinh đồng hành, giúp ta vững tâm bước qua tăm tối, chông gai, thử thách của đời sống. Qua tất cả những thăng trầm ấy, ta đóng đinh chính mình, đóng đinh tính xác thịt của mình vào thánh giá của Chúa, nhờ đó, ta sẽ cùng Chúa tiến vào cõi phục sinh vinh thắng.

Lạy Chúa, xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào mọi góc tối tăm của linh hồn chúng con, để chúng con trung thành sống chết cho đức tin. Xin đừng để chúng con rơi vào hoàn cảnh bi thảm mà các lãnh đạo Do thái giáo xưa đã từng thực hiện, đó là một mặt tuyên xưng lòng tin của mình, nhưng mặt khác, do đời sống bê bối của chúng con, chúng con lại đang ra sức chối từ Chúa, ra sức đẩy xa ảnh hưởng của niềm tin phục sinh ra khỏi cuộc đời mình. Amen.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

---------------------------------

 

PS 1-ABC493: CHỨNG NHÂN PHỤC SINH

 

Thánh Kinh ghi rõ, Chúa Giêsu đã bị đóng đinh trên đồi Golgotha vào Thứ Sáu Tuần Thánh. Ngài PS 1-ABC493


đã chết, đã được các môn đệ an táng trong mộ đá, và ngày thứ ba Ngài đã phục sinh. Biến cố quan trọng này đã được cả bốn Thánh Ký ghi lại:

-Sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Phúc Âm Thánh Mátthêu Chương 27-28.

-Ngôi mộ trống và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Phúc Âm Thánh Luca 24:1-9.

-Chúa Giêsu phục sinh. Phúc Âm Thánh Marcô 16:1-8.

-Chúa Giêsu chết và phục sinh. Phúc Âm Thánh Gioan 16:16-23.

Đối với đức tin Kitô giáo, Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết là một điều hết sức quan trọng, vì nó đánh cược với cả đời sống tinh thần của người Kitô hữu ở hiện tại và trong tương lai. Thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Côrinthô: “Và nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi là vô ích, và đức tin của anh em cũng trở thành vô ích” (1 Côrinthô 15:14). Như vậy phải chăng Ngài đã phục sinh từ cõi chết? Điều này có thật sự đúng không? Hoặc đây cũng chỉ là một trong những hiện tượng thuộc thế giới siêu hình thu hút sự tin tưởng của nhiều người?

Chúa Giêsu phục sinh là một sự kiện lịch sử. Nó không dựa trên những câu truyện hoang đường, những lý thuyết về triết học, hoặc những suy đoán hay cảm nghiệm từ một người hay một số người. Trong bài đọc của lễ Phục Sinh, Thánh Phêrô đã xác tín rằng: “Chúng tôi là những nhân chứng về mọi việc [Đức Giêsu] đã làm” (Tông Đồ Công Vụ 10:39). Câu truyện hai môn đệ trên đường Emmau của Thánh Sử Luca cũng ghi lại một chi tiết sống động về sự phục sinh của Chúa Giêsu, đồng thời xác nhận lời chứng của Phêrô: “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Luca 24:33-35).

Theo một số học giả Thánh Kinh, các Kitô hữu tiên khởi đã tuyên xưng việc Chúa Phục Sinh ngay những tháng sau lễ Phục Sinh đầu tiên, chứ không phải chờ đến những thế kỷ sau này. Những gì chúng ta tin bây giờ chính là những điều được ghi lại trong Thánh Kinh.

Nhân chứng không hoàn hảo, nhưng đáng tin

Nhưng ai là những chứng nhân? Là những môn đệ của Chúa Giêsu. Họ chắc chắn không phải là những người hoàn hảo. Họ là Thomas đầy nghi ngờ, Giacôbê và Gioan háo danh, Phêrô chối thầy, và các tông đồ khác, những người chạy trốn khi Chúa bị bắt. Là Maria Mađalêna, người đã có thời bị bẩy quỉ ám. Tất cả cùng với bà, họ là những nhân chứng đầu tiên. Họ là những “tông đồ của các tông đồ”. Do đó, nếu việc Chúa Giêsu phục sinh là do họ tạo nên, họ sẽ không bao giờ nói rằng câu chuyện ấy đến từ một người đàn bà: “Maria Magđalen đi và loan báo cho các môn đệ, “Tôi đã thấy Chúa”.  Và bà đã thuật lại với họ những gì Ngài đã nói với bà” (Gioan 20:18). Trong thời gian các tông đồ, phụ nữ không có bất cứ ảnh hưởng, quyền hành hoặc sức mạnh gì. Vậy tại sao các tông đồ lại hành động như vậy? Thật ra, các ngài chỉ muốn nói lên điều mà chính các ngài biết rõ ràng rằng chuyện đó đã xảy ra. Các ngài không phải là những chứng nhân hoàn hảo, nhưng lời chứng của các ngài là chân thật.

Trong Phúc Âm của Thánh Mátthêu, những trưởng tế đã nói với các lính Rôma, những kẻ canh mồ Chúa Giêsu để phao tin rằng: “Các môn đệ của ông đã ăn cắp xác ông” (x. 28:11-15). Một đội quân gồm 16 người đã được sai tới niêm phong ngôi mộ với con dấu của Caesar. Cũng có tài liệu cho rằng con số này là 30 người. Với một số lính canh đông đảo, và với sự canh phòng nghiệm nhặt như vậy làm sao các môn đệ có thể lấy cắp xác thầy mình? Không lẽ tất cả các lính canh hôm đó đều ngủ say cả sao?

Khi họ tự tạo ra câu truyện dối trá như vậy, điều đó có nghĩa là ngôi mộ đã trống. Không có xác Chúa Giêsu ở đó. Và nếu ngôi mộ đã trống thì tại sao nó lại trở nên trống? Vậy phải chăng môn đệ Chúa Giêsu thật sự đã ăn cắp xác Ngài? Điều này hoàn toàn trái ngược với sự thật là tất cả các môn đệ kể cả những người đã chạy trốn, bỏ thầy trong cuộc Thương Khó đều cùng nhau đồng nhất về sự kiện lịch sử này là Chúa Giêsu đã chết, và đã sống lại. Đây là đức tin mà các ngài đều tuyên xưng. Và đây cũng là chứng cứ lịch sử mà tất cả các ngài là những nhân chứng.

Tuyên xưng và vững tin

Tuyên xưng và kiên vững trong đức tin. Các tông đồ đã thực hiện cả hai. Các ngài tuyên xưng sự thật phục sinh, và kiên trì với niềm tin ấy dù phải trả giá bằng bắt bớ, tra tấn, tù đày, và tử đạo.

Điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến chính chúng ta, những Kitô hữu tin vào sự phục sinh của Chúa. Nếu Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết, đức tin này cũng phải thay đổi toàn bộ đời sống chúng ta. Tuy nhiên, nó sẽ không thay đổi dễ dàng, nhẹ nhàng và hứng khởi. Bởi vì sẽ có một ngày chúng ta không muốn việc Chúa phục sinh trở thành sự thật. Lý do là nó khiến chúng ta cũng phải trả giá cho những gì mà mình tin.

Trong thế giới hôm nay, nhiều người tuy được nuôi dưỡng trong các gia đình Công Giáo, bởi cha mẹ Công Giáo nhưng đã bỏ không thực hành đức tin Công Giáo, không tham dự các bí tích, không tham dự các Thánh Lễ. Trong nhiều trường hợp họ đã từ chối không muốn nhận mình, hoặc để ai nhận ra họ là người Công Giáo. Họ không muốn đối diện với việc tuyên xưng Chúa đã phục sinh và kiên trì trong đức tin. Lý do vì họ sợ phải trả giá cho những gì mà họ tin.

Cái giá của đức tin

Các tông đồ, những chứng nhân tiên khởi, tất cả đều có cơ hội để nghi ngờ, nhưng các ngài đã không làm vậy. Các ngài đồng loạt, hiệp nhất, và không ngừng công bố, tuyên xưng và kiên trì tin vào Chúa phục sinh, mặc dù tất cả các ngài đều đã phải chết vì niềm tin ấy. Thực tế, các ngài từng người đều đã phải chịu bắt bớ, nhục hình, tra tấn, giam cầm, và chết một cách khác nhau, bằng những cái chết hết sức đau đớn. Vậy nếu bây giờ chúng ta cảm thấy cô đơn, bị bỏ rơi, bị hiểu lầm, bị đau khổ, bị bắt bớ, bị tra tấn, bị nghèo khổ, bị bệnh tật, bị người đời khinh bỉ vì tuyên xưng Chúa phục sinh, chúng ta cũng hãy kiên trì, vững tin. Chúa Giêsu đã nói với Thomas khi Ngài cho ông xem dấu đinh và cạnh sườn Ngài sau khi sống lại: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gioan 20:29). Câu nói này Ngài có ý nói cho chúng ta là những người tin vào những gì các tông đồ đã tin, đã sống, và đã kể lại.

Chứng nhân Phục Sinh 

Trong các thánh lễ, sau nghi thức truyền phép, cộng đoàn đã lập lại lời tung hô: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”. Tuyên xưng Chúa sống lại, và loan truyền Chúa chịu chết. Đây là sự kết hợp giữa đức tin và hành động. Nếu chỉ tuyên xưng ngoài miệng mà không thực hành, không loan truyền niềm tin ấy, có nghĩa là chúng ta không thật sự tin rằng Chúa đã chết và đã sống lại. Bởi vì “đức tin mà không việc làm là đức tin chết” (Giacôbê 2:14).

Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Niềm tin ấy đã làm thay đổi mọi sự. Các tông đồ đã tin và đã thay đổi. Những thánh nhân, những Kitô hữu tốt lành đã tin và đã thay đổi. Chúng ta cũng phải trở thành những chứng nhân tin mừng bằng cách thay đổi suy nghĩ, hành động và nếp sống của mình, để những ai còn nghi ngờ về việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, có thể tìm thấy nơi chúng ta như một nhân chứng. Vậy liệu chúng ta có đủ niềm tin và xác tín để nói với họ như Thánh Phaolô đã nói với chúng ta: “Hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Côrinthô 11:1)?!

Trần Mỹ Duyệt

---------------------------------

 

PS 1-ABC494: TẠI SAO GIOAN LẠI CHỜ PHÊRÔ?

 

Bạn có biết người môn đệ Chúa thương mến là ai không? Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, và PS 1-ABC494


Bạn có biết người môn đệ Chúa thương mến là ai không? Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, và theo các thánh Giáo Phụ, người môn đệ Chúa thương mến đó chính là Gioan Tông đồ. Gioan là người trẻ trung, hăng hái, và can đảm nhất trong Nhóm Mười hai, bởi vì ông là người đã  trung thành đi theo Chúa đ ến tận núi Sọ, và được Chúa trao cho vinh dự lớ n lao là thay mặt Chúa để chăm sóc cho Mẹ  Maria: “Đây là m ẹ của con.” (Ga 19:26-27).

Bây giờ chúng ta trở lại câu hỏi: "Tại sao ông Gioan lại chờ  ông Phê-rô?"  Có phải ông sợ ma không? Vô lý! Bởi vì nếu ông sợ ma thì ông sẽ không chạy một mình đến mộ trước  như vậy! Còn nữa, nếu ông sợ ma thì sức mấy mà ông lại một mình đứng trước cửa mộ để cúi xuống và nhìn thấy những băng vả i [ở trong mộ].

Như vậy thì tại sao? Tôi nghĩ, đó là vì ông tôn trọng quyền  bính của ông Phê-rô. Bạn cứ mở Tin Mừng của thánh  Mát-thêu ra đọc thì sẽ thấy, trước đó ông Gioan đã tận tai  nghe Chúa Giê-su trao quyền lãnh đạo cho ông Phê-rô:  "Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ  xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:18). 

Thái độ đứng ch ờ ông Phê-rô tại cửa mộ khiến cho tôi khâm  phục tính khiêm như ờng của ông Gioan, bởi vì tôi thấy, ông Gioan tôn trọng ông Phê-rô không phải vì ông Phê-rô thánh thiện tài giỏi hơn, đạo đức thánh thiện hơn, giàu có hơn, ăn  nói lưu loát hoạt bát hơn mình, nhưng ông tôn trọng và tùng  phục chỉ vì ông Phê-rô đã được Chúa gọi và chọn, cắt đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội mà Ngài thiết lập. 

Mẫu gương tùng ph ục quyền bính của ông Gioan thật đáng để cho mỗi ngư ời chúng ta noi gương bắt chướ c, vì có lắm  khi, bạn và tôi tùng phục ông bà cha mẹ, vâng lời Đức Giáo hoàng, Giám mục, các vị Bề Trên, cha xứ, cha linh hướng,  thầy trợ úy, sơ trợ tá... là bởi vì sợ, là bởi vì họ lớn tuổi hơn mình, có nhiều bằng cấp hơn mình, thông thạo nhiều ngoại  ngữ hơn mình, có nhiều tiền và có nhiều uy tín hơn mình...  chứ không phải tôi tôn trọng và vâng phục các ngài, vì các  ngài là những người được Thiên Chúa gọi và tuyển chọn  làm đại diện cho Ngài ở trần gian.

Qua mẫu gương ông Gioan kính trọng người đại diện của Chúa ở trần gian, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, xin  Chúa ban cho bạn và tôi ơn khiêm nhường và ơn can đảm để chúng mình biết noi gương bắt chước thánh Gioan, luôn  tuân phục và kính trọng những vị đại diện của Chúa ở trần gian này, cho dù các ngài có dở, có kém hơn chúng  mình về bất cứ phương diện nào đi chăng nữa, thì bạn và  tôi cũng hãy cố gắng tuân phục và kính trọng các ngài.  - Là con cháu, xin hãy kính trọng và tuân phục ông  bà, cha mẹ, chú bác, cô dì...khi các ngài giáo dục,  bảo ban, dạy dỗ và khuyên răn bạn siêng năng đi  tham dự thánh lễ, đi xưng tội, không được ăn ở với  nhau trước khi cử hành nghi thức hôn phối trong  nhà thờ, không đi chơi khuya, không cờ bạc, rượu  chè, xì ke ma túy... thì xin hãy tùng phục, lắng  nghe, đừng bao giờ lớn tiếng cãi lại hay lý sự cùn!

- Là những tín hữu, xin hãy kính trọng và tùng phục  quyền bính của Đức Giáo hoàng, Giám mục, Linh  mục, Phó tế... khi các ngài nhân danh Chúa giảng  dạy, khuyên răn và hướng dẫn bạn về mặt tín lý và  luân lý. Ví dụ như, không được ủng hộ những đạo luật phá thai, hôn nhân đồng tính, trợ tử, tử hình,  không được coi phim ảnh bậy bạ, không được trồng và buôn bán marijuana... Những lúc đó, xin bạn hãy nhớ, các ngài đang thi hành bổn phận mà Chúa giao phó cho các ngài đấy!

- Là linh mục, tu sĩ, xin hãy kính trọng và tuân phục các Đức Giám mục và các đấng bề trên khi các ngài khuyên nhủ, răn đe, dạy dỗ hay thuyên chuyển  việc mục vụ... xin đừng có thái độ chống báng, phản kháng, và đừng nghĩ rằng mình bị các ngài  ghét bỏ hay ruồng rẫy! Mà là chính Chúa đang  răn dạy bạn đấy!

Chúa Giê-su đã khẳng định với các môn đệ khi xưa cũng  như hôm nay rằng: "Ai nghe anh em là nghe Thầy, ai từ chối anh em là từ chối Thầy; nhưng ai từ chối Thầy là từ chối Đấng đã ai Thầy" (Lc 10:16). Xin hãy nhớ, khi kính  trọng và tuân phục những vị đại diện của Chúa nơi trần  gian này, thì lúc đó chúng mình đang kính trọng và tuân  phục chính Thiên Chúa. Mà ai kính trọng và tuân phục  Thiên Chúa, thì người đó sẽ nhận được nhiều ân phúc của Chúa ban cả ở đời này lẫn đời sau nữa, chẳng thiệt  hại hay mất mát gì đâu! Xin hãy cố gắng bạn nhé!

Cầu chúc bạn và gia đình một mùa Phục Sinh vui  tươi, khỏe mạnh và xin sự bình an của Chúa Kitô Phục Sinh luôn cư ngụ dồi dào trong bạn và những người thân  yêu của bạn.

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây