Suy niệm Chúa Nhật PS 5-A Bài 151-174: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống

Thứ bảy - 06/05/2023 05:35
Suy niệm Chúa Nhật PS 5-A Bài 151-174: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống
Suy niệm Chúa Nhật PS 5-A Bài 151-174: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống
Suy niệm Chúa Nhật PS 5-A Bài 151-174: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
-------------------------------------
Phúc Âm: Ga 14, 1-12: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha". - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------------------------------
PS 5-A151: ĐƯỜNG GIÊSU.. 2
PS 5-A152: THẦY LÀ ĐƯỜNG.. 4
PS 5-A153: SỐNG HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI 6
PS 5-A154: BIẾT VÀ THẤY CHÚA.. 8
PS 5-A155: MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH.. 10
PS 5-A156: CÙNG ĐÍCH.. 18
PS 5-A157: NGƯỜI LÀ CON ĐƯỜNG.. 19
PS 5-A158: CON ĐƯỜNG GIÊSU.. 22
PS 5-A159: CHẾT SẼ VỀ ĐÂU?. 24
PS 5-A160: HÃY TIN THẦY.. 26
PS 5-A161:  ĐỪNG SỢ HÃI 28
PS 5-A162: CHÚA GIÊSU CỦNG CỐ ĐỨC TIN CHO CHÚNG TA.. 31
PS 5-A163: ĐƯỜNG ĐẾN CHÚA CHA.. 33
PS 5-A164: LÒNG ANH EM ĐỪNG XAO XUYẾN.. 36
PS 5-A165: THIÊN CHÚA TRONG ĐỨC KITÔ – ĐỨC KITÔ TRONG MỌI NGƯỜI 37
PS 5-A166:  CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_A.. 40
PS 5-A167: CHÚA NHẬT V PHỤC SINH NĂM A (07/05/2023) 43
PS 5-A168: ĐỪNG XAO XUYẾN.. 46
PS 5-A169: HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA.. 48
PS 5-A170: CHÚA LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ SỰ SỐNG.. 50
PS 5-A171: HÃY YÊU! TÌNH YÊU CHO BIẾT PHẢI LÀM GÌ 53
PS 5-A172: CHÚA GIÊSU NGUỔN MỌI SỰ AN ỦI 56
PS 5-A173: CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐẾN THIÊN QUỐC.. 60
PS 5-A174: THEO CHÚA VÀ SỐNG NHƯ CHÚA.. 62

------------------------------

-------------------------------------

 

PS 5-A151: ĐƯỜNG GIÊSU


Bông hồng nhỏ

 

Trời nắng đổ lửa. Đường xấu, gập ghềnh, khúc khuỷu. Người lữ khách bước đi miệt nhoài. Mặt đường PS 5-A151


Trời nắng đổ lửa. Đường xấu, gập ghềnh, khúc khuỷu. Người lữ khách bước đi miệt nhoài. Mặt đường in chiếc bóng liêu xiêu của người lữ hành. Bàn chân trần không chịu được sức nóng của mặt đường sỏi đá.

Trên một hành trình dài, người ta dễ dàng phàn nàn vì tình trạng con đường: đường ổ gà ổ voi, đường sục bùn lấm bẩn, đường gai góc sỏi đá,… Người ta thích một con đường rộng rãi, thênh thang và bằng phẳng hơn là một con đường chật hẹp khó đi.

Đức Giêsu- con đường mới

Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” (x. Ga,14,6a). Con đường Giêsu là con đường như thế nào, con đường ấy có gì đặc biệt để có thể dẫn chúng ta đến sự thật và sự sống? Con đường Giêsu là con đường duy nhất dấn đến Chúa Cha. “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (x. Ga 14,6b).

Nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu, ba mươi năm sống trong gia đình Nadaret, Đức Giêsu âm thầm lắng nghe lời Chúa Cha. Ngài học làm người, lớn lên trong ân nghĩa Chúa. Thời kỳ đã mãn, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ  và ra đi rao giảng Tin Mừng, mạc khải về Chúa Cha. Ba năm, những niềm vui mà các môn đệ nhận lãnh nhiều quá thể. Danh thơm tiếng tốt của Thầy đồn ra khắp các vùng lân cận. Dân chúng tung hồ Thầy, muốn đặt Thầy làm vua. Cuộc đời các ông sẽ lên như diều gặp gió. Đời người đến đây xem như đã công thành danh toại. Phải chăng, đây chính là con đường mà Thầy Giêsu nói đến?

Theo chân Thầy, chúng ta ngậm ngùi trong những lần Thầy khóc thương trước bao cảnh đời lầm than khốn khó. Những ngày cuối đời, Thầy bước đi trên một con đường gần như đơn độc, cô đơn và hãi hùng quá. Các môn đệ không ai hiểu được để chia sẻ với Thầy những nỗi niềm. Con đường ấy chỉ mình Thầy bước đi. Khi báo trước ngày mình chịu nạn, Đức Giêsu nói rõ, không úp mở. Các môn đệ ai nấy buồn rầu hết sức nhưng chẳng ai dám lên tiếng hỏi. Có kẻ đứng ra can ngăn Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải những chuyện ấy.” (x. Mt 16,22). 

Nhưng đường Thầy đi, Thầy nhất định sẽ bước đến cùng. Bởi Thầy yêu họ đến cùng. Đường hiến tế trên đồi Canvê, Thầy chịu đóng đinh để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Đường Thầy đi là đường tình yêu hiến tế.

Trải nghiệm trên đường

Trước cái chết tức tưởi của Thầy, các ông buồn đau, sợ hãi. “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (x. Ga14,1). Tương lai tối mịt, giấc mơ ngày nào như bong bóng vỡ tan tành, tựa làn khói tan đi. Đức Giêsu biết trước các môn đệ sẽ xao xuyến. Trước khi mọi việc xảy đến, Đức Giêsu an ủi và dạy dỗ các ông.

Theo chân Thầy là chấp nhận từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Con đường hẹp hứa hẹn những vấp ngã, nhưng theo gương Thầy, dù ngã quỵ nhiều lần các ông vẫn vực dậy để bước tiếp.  Đường tình yêu là đường hiến tế, tha thứ và yêu cho đến cùng. Đó là con đường mà chính Thầy đã đi qua. Chính Thầy là con đường của sự thật và sự sống. Nơi Thầy, chúng ta được dấn đến Chúa Cha. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (x.Ga14,9b).

Dấn thân cho con đường sứ vụ

Muốn bước đi trên con đường Giêsu đồi hỏi mỗi chúng ta phải bước vào cuộc khám phá khuôn mặt của Ngài. Theo Chúa, chúng ta biết trước con đường mình sẽ đi chắc chắn sẽ gặp những thách đố. Bởi thế gian thích bóng tối còn những ai bước theo Thầy sẽ đi trong ánh sáng. Ngày xưa Chúa chịu thử thách trăm bề nhưng tình yêu Chúa Cha nơi Ngài đã vượt lên trên mọi trở ngại và Thầy đã chiến thắng tử thần. Sự chết chẳng có quyền chi trên Người. Với một tâm hồn đầy lửa yêu mến Chúa và có “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5, 14), chúng ta sẽ hiên ngang làm chứng cho Nước Trời. Dù ở thời đại nào, người môn đệ cũng được mời gọi từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy. Bước vào cuộc hiệp nhất, nên một  với nhau như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Như thế, bước trên đường sứ vụ, dù làm việc gì, chúng ta cũng hướng về Thiên Chúa và làm vinh danh Chúa hơn. Để đạt được điều đó, mỗi chúng ta phải nỗ lực lắng nghe và thực hành lời Chúa mỗi ngày trong cuộc sống. Ai sẵn sàng bước đi trên con đường Giêsu, người ấy sẽ đến đích là Nhà Cha dấu yêu.

Lạy Chúa, đường Giêsu đòi hỏi chúng con can đảm theo chân Thầy. Xin Chúa gia tăng đức tin và lòng mến cho chúng con. Nếu có khi nào chúng con ngã gục, xin Chúa dìu chúng con lên và dấn bước chúng con. Amen.

---------------------------------

 

PS 5-A152: THẦY LÀ ĐƯỜNG


 Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

 

Chúa Giêsu dạy: “Thầy là con đường …… Đường đi là phương tiện liên kết mọi người lại với PS 5-A152


Chúa Giêsu dạy: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

Đường đi là phương tiện liên kết mọi người lại với nhau. Đường đi còn là phương tiện để mọi người gặp gỡ nhau. Sống trên mặt đất, loài người vạch ra không biết bao nhiêu là đường đi: Từ những con đường mòn nhỏ bé, quanh co, xuyên qua rừng, băng qua núi như đường mòn Hồ Chí Minh, đến những con đường cái quan, đường sa lộ: rộng thông thanh, tráng nhựa nhãn bóng. Ngoài ra, con người còn vạch ra những con đường mơ hồ, mênh mông ngoài đại dương, hay trên không trung. Con đường nào cũng có khởi điểm và đích điểm.

            – Loài người chúng ta là khách bộ hành, là khách đi đường. Là lữ khách đi trên đường trần. Bước lên đường, người đi phải ngoan ngoãn, phải tín nhiệm con đường mình đi.

            ∙ Ngoan ngoãn: Vì khi đi, khách bộ hành không được rẽ ngang mà phải đi theo hướng chỉ của con đường.

            ∙ Tín nhiệm: Vì khi đã chọn đứng đường hướng, thì chắc chắn théo nào ta cũng tới đích.

            – Con đường tuy câm nín, không nói năng chi, nhưng rất oai vệ và có vẻ độc tài. Dường như con đường nào cũng nói với khách bộ hành rằng: “Bao lâu ngươi còn ở lại trên con đường, bấy lâu ngươi được an toàn. Bao lâu ngươi rẽ trái hay rẽ phải, ngươi sẽ bị lạc lối và không bao giờ tới đích”.

Chúa Kitô là con đường, vì Chúa muốn liên kết đất với trời, liên kết loài người với Thiên Chúa. Từ khi loài người phạm tội, con đường dẫn tới hạnh phcú vinh quang, con đường tới Thiên Chúa bị phá hoại, bị đứt quãng. Chúa Kitô đã tái lập giao thông, đã trở thành “chiếc cầu” làm cho con đường về nước trời được mở lại như cũ. Ai muốn đến với Thiên Chúa, muốn về quê trời đều phải đi con đường đó. Con đường Chúa là con đường độc đạo, tuy gồ ghề, chật hẹp, nhưng dẫn tới đích. Vì Chúa Giêsu đã từng dạy: “Đường chật hep và nhiều chông gai là con đường đưa ta lên quê trời hạnh phúc, còn con đường rộng thênh thang và nhiều hoan lạc, là con đường đưa ta đến chốn diệt vong”.

Là khách bộ hành, con người được tự do chọn một trong hai con đường vừa nói:

            – Đa số người đời chọn con đường rộng thênh thang, vì con đường này dễ dãi, hợp với tính ươn lười của con người. Đi trên con đường này, không phải khó khăn vất vả. Nhưng ta đã biết tử thần luôn luôn rình rập trên con đường rộng thênh thang. Từ ngày người ta làm ra những xa lộ, hàng ngày biết bao tai nạn xe cộ đã xảy ra và giết chết hàng ngàn, hàng vạn người trên các trục giao thông ở khắp thế giới.

            – Ở thành phố Nữu Ước, nước Mỹ, một đêm lễ Chúa Giáng Sinh, chết tới 2000 người về tai nạn xe cộ. Riêng ở xa lộ Biên Hòa, không ngày nào không xảy ra tai nạn đụng xe chết người. Đúng như lời Chúa Giêsu phán: “Đường rộng thênh thang dễn con người đến chốn diệt vong, đến chỗ chết, nhất là chết đời đời trong hỏa ngục”.

            – Nhưng có một số người khôn ngoan, can đảm, chọn con đường gồ ghề, chật hẹp. Con đường này là con đường Chúa đã chọn, đã đi. Ai đi con đường này phải bỏ mình, vác thánh giá hằng ngày theo chân Chúa, phải khép mình vào kỷ luật, phải giữ giới răn Chúa, phải sống hy sinh vất vả, nghèo khó, phải chịu những đau khổ thử thách ở đời này. Nhưng con đường này đưa tới chiến thắng, đi tới hạnh phúc bất diệt, đưa tới nước trời.

            – Nhận mình là đường, Chúa Kitô muốn chúng ta đi theo con đường của Chúa. Đường của Chúa là đường chật hẹp, hy sinh. Đường của Chúa là đường sống khó nghèo, khiêm nhường, bác ái. Chỉ đi theo con đường Chúa đã vạch mới dẫn con người tới hạnh phúc bất diệt.

            Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin hướng dẫn con bướ theo nước bước của Ngài.

------------------------------------

 

PS 5-A153: SỐNG HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI


Lm. GB. Trần Văn Hào

 

Chúa Kitô Phục sinh đã khai sinh Hội thánh, nhiệm thể của Ngài. Chúng ta vẫn tuyên xưng đức PS 5-A153


Chúa Kitô Phục sinh đã khai sinh Hội thánh, nhiệm thể của Ngài. Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin : Tôi tin Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Đây là 4 thuộc tính căn bản của mầu nhiệm Hội thánh. Trong các Chúa nhật Phục sinh, Giáo hội chọn các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ để dẫn đưa chúng ta đi sâu vào cảm thức về Giáo hội (Sensus Ecclesiae). Ý thức thuộc về Giáo hội giúp chúng ta kiện cường đức tin và cũng là cách thế thể hiện niềm tin vào Đấng Phục sinh một cách rõ nét nhất.

Tôi tin Giáo hội Duy nhất.

Trong bài đọc 1, tác giả sách Tông đồ Công vụ thuật lại một số hoạt động của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi với con số tín hữu khá đông, gồm cả những người gốc Do Thái và những người gốc Hy Lạp. Công việc mỗi lúc một nhiều, nên 12 Tông đồ không thể quán xuyến hết, nhất là cần có người đảm trách việc phân phối lương thực hằng ngày. Cuối cùng, các Tông đồ đã chọn thêm 7 phó tế, đặt tay trên các ông để các ông thi hành tác vụ. Trong thư gửi Giáo đoàn Êphêsô chương 4, Thánh Phaolô đã liệt kê ra 5 đặc sủng trong Hội thánh : Ơn làm Tông đồ; ơn làm Ngôn sứ; ơn đi Rao giảng Tin mừng; ơn làm Người lãnh đạo và ơn Dạy dỗ. Nhưng tất cả những đặc sủng ấy đều hợp nhất trong đức tin, để mọi người với những tác vụ khác nhau, đều gắn kết nên một với Đức Kitô là đầu (Eph 4,11-13). Vì vậy, Giáo hội vẫn luôn là một thực thể duy nhất, không thể bị chia cách, cho dù trong quá khứ, Giáo hội hữu hình vẫn có những vết thương của sự rạn nứt. Công đồng chung Vatican II khi nói về Giáo hội đã dùng thuật ngữ ‘Hiệp nhất trong dị biệt’ (Unity in Diversity). Nét giáo lý này cũng được thánh Phaolô nói tới rất nhiều trong các lá thơ Ngài viết, ví dụ trong thơ gửi giáo đoàn Galat, Thánh nhân viết : “Anh em đều thuộc về Đức Kitô, không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Kitô (Gal 3,28).

Đọc lại sách Tông đồ Công vụ, chúng ta cũng nhận ra những dị biệt trong cộng đoàn đầu tiên tại Giêrusalem. Hai Tông đồ trưởng là Phaolô và Phêrô cũng có những xung khắc trong quan điểm, nhất là về việc có cần phải cắt bì hay không cắt bì. Công đồng đã được triệu tập, và chính Thánh thần đã hóa giải những khác biệt để tất cả trở nên một lòng một trí với nhau. Thánh thần là sự sống của Đấng Phục sinh, và Thần Khí luôn hoạt động trong Hội thánh để nối kết mọi người trong một nhiệm thể duy nhất.

Tôi tin Giáo hội Thánh thiện.

Đây là tín điều thứ hai nói về Hội thánh. Trong phụng vụ hôm nay, Giáo hội trích đọc lại lá thư thứ nhất của Thánh Phêrô. Ngài mời gọi các tín hữu hãy trở nên những viên đá sống động để xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng, vì Thiên Chúa đã chọn chúng ta để hình thành nên hàng tư tế thánh, dâng của lễ lên Thiên Chúa. Thánh Tông đồ viết : ‘Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa (1P 2,9)’. Đức Giêsu là đầu và chúng ta là chi thể. Ngài thông truyền sự thánh thiện của Ngài cho tất cả chúng ta, bao lâu chúng ta còn gắn kết với Ngài như cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì vậy, thánh Phaolô vẫn quen gọi các tín hữu là các ‘Đấng Thánh của Thiên Chúa’. Chúng ta là thánh không phải chỉ khi nào được Giáo hội tuyên phong (canonize), nhưng tự bản chất ơn gọi Kitô hữu, chúng ta là những vị thánh khi còn thông hiệp với Giáo hội. Tư tưởng này có thể làm cho nhiều người dị ứng, bởi vì chúng ta nhìn thấy bao nhiêu tội lỗi và những gương mù trong Giáo hội, ngay cả nơi các phẩm trật cao cấp. Tuy nhiên, Giáo hội hữu hình luôn đi đôi với Giáo hội vô hình, và đây không phải là hai thực tại tách biệt. Hiểu như một mầu nhiệm thánh thiêng và là nhiệm thể của Đức Giêsu, tự bản chất, Giáo hội vẫn luôn thánh thiện. Trong thực tế, Giáo hội lữ hành trần thế vẫn luôn bao gồm những con người yếu đuối đầy tội lỗi, và tất cả chúng ta không ai dám vỗ ngực tự hào nói tôi là một con người thánh thiện. Vì thế, trong cuộc lữ hành trần gian, Hội thánh luôn mời gọi con cái mình phải thực hành cuộc hoán cải (conversion) không ngừng. Hoán cải là trở về, là canh tân, là làm mới lại con người chúng ta trong máu Đức Kitô. Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chuẩn nhận văn kiện ‘Bắt đầu tiến trình làm mới lại từ Đức Kitô (Starting afresh from Christ) của Thánh bộ đặc trách đời sống thánh hiến và các tu đoàn tông đồ, để mời gọi các tu sĩ canh tân lại đời sống, khởi nguồn từ Đức Kitô. Bắt nguồn từ Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể thực hiện cuộc hoán cải canh tân này, và khi sống trong lòng Giáo hội, chúng ta luôn ý thức mình là những chi thể thuộc về một nhiệm thể thánh thiêng.  

Khởi nguồn từ Đức Kitô, là Đường, là Sự thật và là Sự sống.

Vào năm 1989, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tiếp tổng thống Gorbachop, bấy giờ là tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô. Trước khi từ giã, Đức Thánh Cha đã tặng ông ta một cuốn Kinh thánh ở ngoài bìa có viết dòng chữ ‘Tôi là Đường, là Sự thật và là Sự sống’. Đây chính là câu nói của Chúa Giêsu, ngỏ cho Tôma và các Tông đồ, mà Giáo hội đọc lại trong bài Tin mừng hôm nay. Toàn thể Giáo hội đều quy hướng về Đức Giêsu là đầu của nhiệm thể. Ngài cũng là con đường, là chính lộ dẫn đưa chúng ta tới hạnh phúc. Ngài là Sự thật giải thoát chúng ta khỏi những lầm lạc gây nên do tội lỗi. Ngoài Ngài ra, không có sự sống và ơn cứu độ. Những tư tưởng thần học của Thánh Gioan dẫn đưa chúng ta đến mầu nhiệm ngôi hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con : Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con. Cũng vậy, lưu lại trong Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được thông truyền sự sống khởi nguồn từ Chúa Cha.

Cả 3 bài đọc lời Chúa hôm nay đều khơi dậy nơi chúng ta ý thức ‘thuộc về’(sense of belonging). Chúng ta thuộc về Hội thánh, và Hội thánh thuộc về Đức Giêsu. Điều quan trọng là khi sống trong lòng Giáo hội lữ hành, chúng ta đã sống cảm thức thuộc về như thế nào, không phải trên lý thuyết, nhưng bằng lối sống chứng tá cụ thể hàng ngày.

Kết luận

Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện. Giáo hội lữ hành đã trải qua 2000 năm với biết bao vết thương của sự rạn nứt và chia rẽ. Những vết rạn nứt này không phải chỉ do những nhóm ly khai gây ra, nhưng trong đây còn là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Nhà văn Sienkievic người Ba Lan, trong cuốn sách ‘Quo vadis’ đã viết : “Đế quốc Rôma hùng mạnh của bạo chúa Neron rồi sẽ ngã đổ, nhưng con thuyền mộc mạc của bác dân chài miền Galilê vẫn luôn vững vàng lướt sóng”. Con thuyền đó chính là Giáo hội, là nhiệm thể thánh thiện của Chúa Giêsu mà chúng ta đang thuộc về.

------------------------------

 

PS 5-A154: BIẾT VÀ THẤY CHÚA


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

Chúa Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ của Ngài và minh chứng cho các PS 5-A154


Chúa Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ của Ngài và minh chứng cho các môn đệ, cho nhân loại, cho mọi ngưởi rằng Ngài đã sống lại từ cõi chết. Hôm nay, khi Chúa Giêsu sắp trở về cùng Chúa Cha, Ngài đã mặc khải cho ông Philipphê biết :” Nếu anh em biết Thầy, thì anh em cũng biết Cha của Thầy “. Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hay Ngài chính là Thiên Chúa, là hình ảnh đích thực của Chúa Cha.

Thực tế, thắc mắc của ông Philippê cũng là thắc mắc của nhiều môn đệ, và nhiều người. Nhưng được Chúa mặc khải về Cha, nên vấn nạn ấy được ông Philipphê và nhiều người vững tin, an tâm. Chúng ta biết Chúa Giêsu trước những thử thách, trước những gian nan của cuộc khổ nạn, Ngài đã thực sự xao xuyến. Tuy nhiên, Ngài đã vững lòng, tin tưởng thật sự vào Thiên Chúa Cha, Đấng luôn luôn yêu thương Ngài. Do đó, Ngài đã khuyên các môn đệ hãy vững vàng, đừng xao xuyến vì chính Ngài đã mang lấy những xao xuyến đó và mách bảo cho các môn đệ bí quyết để “ đừng xao xuyến “. Bí quyết :” Hãy tin vào Thiên Chúa, và tin vào Thầy “. Và hôm nay, Chúa Giêsu lại quả quyết cho các môn đệ và cho chúng ta :” Thầy là Đường, là sự Thật và là sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “, và ai thấy Thầy là thấy Cha, nếu các con biết Thầy thì cũng biết Cha “. Vâng, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đã chấp nhận kiếp sống con người ngoại trừ tội lỗi,Ngài đã dùng ngôn ngữ con người với tất cả những giới hạn của nó để mặc khải cho nhân loại, cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha là Đấng nào, là ai và con đường nào, lối nào chúng ta phải đi để đến với Ngài mà không sợ bị lầm đường, lạc lối vv…

Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa vì Chúa Giêsu là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa. Nếu Chúa không mặc khải thì nhân loại và chúng ta không thể nào biết được Chúa Cha. Đức Kitô đã chết để cứu rỗi con người, cứu độ nhân loại, cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đức Kitô đã sống lại như lời Ngài đã nói và chúng ta là con cái của Chúa, chúng ta cũng sẽ được sống lại với Ngài :” Hãy tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa “ ( Cl 3, 1 ). Chúa Giêsu Kitô đã trở thành hình ảnh của Thiên Chúa Cha cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài đã đến trần gian, sống giữa nhân loại, sống giữa chúng ta để mặc khải sự thật của Thiên Chúa Cha cho tất cả chúng ta. Chúa Giêsu đến trần gian để giúp, để hướng dẫn, chỉ đường dẫn lối cho chúng ta để chúng chúng ta biết Cha, trở về cùng Cha và đồng thời trở về với chính Ngài vì Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa Cha đích thực và Ngài cũng muốn chúng ta trở thành hình ảnh của Ngài cho anh chị em, cho những người anh em xung quanh chúng ta.

Mỗi người chúng ta có ý thức và vinh dự vì chúng ta là con cái của Chúa Giêsu Kitô hay không ? Bởi vì con mắt xác thịt chúng ta không thể nào nhìn thấy Chúa Cha là Đấng vô hình, nhưng với con mắt đức tin qua Kinh Thánh, qua Con người thật của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Có Đức Giêsu Kitô, chúng ta không chỉ thấy mà còn đến được với Thiên Chúa vì Ngài là Đường, là sự Thật và là sự Sống.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa vì Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người để chúng con được tham dự vào sự sống của Chúa. Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1. Ai mặc khải Thiên Chúa Cha cho chúng con ?
2. Tại sao Chúa Giêsu lại nói :” Ai thấy Thầy là thấy Cha ? “.
3. Chúa có mời gọi chúng ta trở thành hình ảnh của Ngài cho những người xung quanh không ?
4. Tại sao chúng ta lại khắc khoải tìm kiếm Nước Trời ?

---------------------------------------

 

PS 5-A155: MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH


Trầm Thiên Thu

 

Trong các ngôn ngữ đều có dạng mệnh lệnh cách (imperative), dạng câu ngắn nhất: chỉ một động PS 5-A155


Trong các ngôn ngữ đều có dạng mệnh lệnh cách (imperative), dạng câu ngắn nhất: chỉ một động từ. Mệnh lệnh dùng để khuyến khích hoặc ngăn cấm, có thể là mệnh lệnh xác định – hãy làm điều này, hãy nhớ điều kia, hoặc mệnh lệnh phủ định – chớ làm điều kia, đừng làm điều nọ. Mỗi dạng mệnh lệnh đều có đặc tính nhất định.

Mệnh lệnh xác định thường dùng để khuyến khích hoặc động viên, mệnh lệnh phủ định thường dùng để ngăn cấm. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại sử dụng mệnh lệnh cách phủ định để khuyến khích chứ không để ngăn cấm. Ngài động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27). Tương tự, Thánh Phêrô cũng khuyến khích: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1 Pr 3:14). Câu nói động viên chúng ta “đừng sợ và đừng xao xuyến” cũng chính là bảo chúng ta “đừng nhút nhát và đừng lo lắng”. Như vậy có nghĩa là phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!”.

Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hoặc Thánh Linh, cũng gọi là Thần Khí. Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý Chúa”. Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi” (1 Ga 4:1-3).

Quả thật, lời cảnh báo của Thánh Gioan thực sự đáng sợ! Và chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó có “người giả” đủ loại – cả đời và đạo. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc rối quá chừng!

Trong cuộc sống (đời và đạo) luôn có nhiều thứ khiến chúng ta xao xuyến, chia trí. Ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ chúng ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thực ra chỉ là “bẫy ảo giác” nó giăng để chúng ta dễ sập bẫy, thế mới đáng sợ, và chúng ta phải rất tỉnh thức – cảnh giác với cả chính mình!

Một người quen (tại Hoa Kỳ) cho biết rằng em gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô vợ bỏ đạo Công giáo và nói xấu Công giáo đủ thứ. Ngay tại Saigon, một thanh niên đã bỏ đạo Công giáo, rồi cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên “căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì. Thiên hình vạn trạng!

Khi thấy có những trường hợp như vậy, chúng ta đừng vội hoang mang hoặc xao xuyến, vì đó là những trường hợp hiếm hoi, chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ không được “như ý”, đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ Công giáo, lý luận của họ chỉ là dạng “lý sự cùn”, đầu óc thiển cận hoặc giống như “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Hãy quên họ đi!

Đối với những người thực sự giỏi (đúng nghĩa), họ không như vậy, thực tế cho chúng ta biết rằng người ta càng giỏi thì càng tin có Thiên Chúa. Đa số các bác học đều là những người tin vào Thiên Chúa. Khoảng 40 năm trước, Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm mừng Con Chúa giáng sinh. (Nay chợt hồi tưởng liên quan chuyện “theo đạo”, nhưng tiếc rằng lâu quá rồi, tôi không còn nhớ tên ông cựu họ Thích này!). Hơn 20 năm trước, một ni cô chán “ăn chay trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ chồng họ vẫn sống hạnh phúc tại Thủ Dầu Một (Bình Dương).

Thiết tưởng cũng nên xác định rằng không một người nào lập đạo mà dám nói “tôi là Thiên Chúa”, chỉ có Chúa Giêsu. Chẳng có ai làm được những phép lạ như Đức Giêsu đã làm. Và cũng chỉ có Đức Giêsu dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đơn giản như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả”. Chính khoa học và khoa khảo cổ càng ngày càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập hàng ngàn năm trước. Các giáo phái ly khai với Công giáo, nghĩa là trước đó chính họ là Công giáo. Họ ly khai vì theo ý riêng chứ không muốn theo ý chung của Giáo Hội.

Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (Ga 8:32). Sách Công Vụ đưa ra bằng chứng cụ thể: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2:38-41). Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất! Hàng tháng, tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói chi trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, thực sự là phép lạ mà Chúa Thánh Thần vẫn đang tác động không ngừng trong Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng vẫn thấy có những người gia nhập Công giáo khi họ đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), thậm chí là lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – trong đó có Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng (*). Họ là những người đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo”, hãy cố gắng củng cố và giữ vững lòng tin, hãy hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng bao giờ xao xuyến vì bất cứ điều gì!

Chúng ta không phủ nhận rằng Giáo hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng không nhượng bộ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng Chúa Giêsu không chỉ chịu chết vì chúng ta, mà Ngài còn thiết lập bí tích Hòa giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn. Tất cả là Hồng Ân.

Ngày xưa, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp đã kêu trách các tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6:2-4).

Và trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin”. Đó chính là Nhóm Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo hội, trong đó có Phó tế Tê-pha-nô về sau chịu tử đạo. Không chỉ có Phó tế Tê-phan-nô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời. Ngày nay cũng vẫn có các chứng nhân ở đâu đó trên thế giới…

Đây là niềm hãnh diện của Kitô hữu: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria est Crux Christi” (Gl 6:14). Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Trong chúng ta, chắc chắn ai cũng sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút. Thập Giá có sức hấp dẫn kỳ lạ. Vô tri bất mộ. Người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” chúng ta – các Kitô hữu có vinh quang là Thập Giá của Đức Kitô.

Thánh Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt” (Tv 33:1-2). Và rồi không thể lặng im lâu, Thánh Vịnh gia phải giải thích ngay lập tức: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).

Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), kỳ lạ là Ngài yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5:8), còn thù nghịch với Ngài (Rm 5:10), thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu đó quá lớn lao, lòng thương xót quá bao la và sâu thẳm. Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19).

Nhưng chính mỗi chúng ta đều phải xem lại chính mình, như Thánh Giacôbê đã phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1:26).

Thánh Phêrô vừa khuyên nhủ vừa động viên: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (1 Pr 2:4-6). Lòng thương xót của Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi!

Thánh Phêrô cho biết thêm về hạnh phúc của các Kitô hữu, những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2:7-9). Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi”, và ơn thiên triệu nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,… Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa.

Cuộc sống không hề đơn giản, nhiệm vụ nào cũng khó, vì thế Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14:1). Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi (x. Ga 15:5). Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được” (Mt 5:36). Vì thế mà chúng ta phải sống theo lời khuyên của Ngài: “Đừng xao xuyến!”. Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!”. Lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng được, cái gì đến sẽ đến, thế thì lo chi cho khổ? Nghe lời Chúa Giêsu bảo “đừng xao xuyến” cũng chính là tin vào sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của Thiên Chúa vậy! Và có một điều thiết tưởng cũng nên lưu ý: cách nói “không xao xuyến” nghĩa là đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ”, dạng này thường xuyên được người ta “chú ý”, mà như vậy là chúng ta chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Cẩn tắc vô ưu!

Tại sao không nên xao xuyến? Chúa Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3). Người đời cũng biết nhận định: “Sinh ký, tử quy – sống gởi, thác về”. Thật vậy, thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, “cuộc đời như chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó” (Thánh nữ Catarina), chết không là hết mà chỉ là biến đổi, chính cái chết là “ngưỡng cửa” để bước vào sự sống đời đời. Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đúng là niềm hạnh phúc của mọi niềm hạnh phúc!

Hôm đó, Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Nghe vậy, ông Tôma “gãi đầu” và hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Đức Giêsu cười và đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng là niềm hy vọng chắc chắn của những người tin vào Con Thiên Chúa, Đấng-nhập-thể-làm-người. Đức Giêsu nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:7).

Sau đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện., nhưng Ngài trách ông Philípphê ở với Ngài bao lâu rồi mà lại “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, e rằng chúng ta còn “tệ” hơn thế đấy!

Chúa Giêsu nói thêm để giải thích cho ông Philípphê và các Tông đồ khác – đồng thời cũng là nói với mỗi chúng ta hôm nay: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:10-12).

Và rồi một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Đức Tin. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi riêng, người ta sẽ thanh thản và sống theo lời khuyên và cũng là lời động viên của Đức Kitô Giêsu: “Đừng xao xuyến!”. Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta đều có thể xác định như Thánh Vịnh gia: “Chúa là gia nghiệp đời con” (Tv 16:5-6).

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, con chỉ là hạt bụi bé nhỏ nhất mà đã làm bận mắt Ngài, xin thương ban thêm Đức Tin và lòng can đảm để con không bị dao động trước mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù. Xin làm cho con nên thánh theo ước muốn và kế hoạch mầu nhiệm của Ngài. Xin ban Thần Khí Ngài để con sống can đảm và bình an. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

——-

(*) Lm Bửu Dưỡng (OP, Dòng Đa-minh, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư.

Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời” ấn định khác.

Thượng tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng Xitô (Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy giáo lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh danh Bô-ni-pha-xi-ô (Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp”. Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là Phó tế Ta-đê-ô Lê Hữu Từ (sau đó làm giám mục).

Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian nầy, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng nầy nhưng không thành…

Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc sách của Thánh Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.

Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.

Sau một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẩu cưa một chân, gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn chấp nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.

Lễ phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời.

Trong “Cuộc Hành Trình Của Đời Tôi”, Lm Bửu Dưỡng viết: “Trước kia tôi rất ghét Kitô giáo và không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên Chúa’, tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ ‘Trời’. Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ. Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng nầy kéo dài trong suốt ba năm liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: ‘Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?’. Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng. Không bao giờ! Dù nó đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.

Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét Công giáo đã trở thành một Bửu Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục Công giáo. Lm Bửu Dưỡng còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi tiếng một thời trước năm 1975. May mắn tôi được gặp ngài một lần, được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của ngài và “Công Đồng Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một học giả hiếm có.

------------------------------------

 

PS 5-A156: CÙNG ĐÍCH


Lm. Trần Việt Hùng

 

Các con xao xuyến làm chi. Tin vào Thiên Chúa, từ bi vô ngần. Thầy đi dọn chỗ ân cần, Nơi nhiều PS 5-A156


Các con xao xuyến làm chi.
Tin vào Thiên Chúa, từ bi vô ngần.
Thầy đi dọn chỗ ân cần,
Nơi nhiều chỗ ở, dự phần phúc vinh.
Nhà Cha cư ngụ thiên đình,
Các con dõi bước, bình sinh bên Thầy.
Là đường, sự thật đong đầy,
Thầy là sự sống, dựng xây Nước Trời.
Chính Cha hiện hữu muôn đời,
Mọi loài tạo tác, tuyệt vời cao sang.
Ngôi Hai Con Chúa dẫn đàng,
Tìm về chính lộ, nhẹ nhàng hân hoan,
Chúa Con chiến thắng khải hoàn,
Vinh quang thập giá, thành toàn ước mơ.
Cha Thầy yêu mến vô bờ,
Qua Thầy mạc khải, tôn thờ Ngôi Ba.
Thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Dục lòng tin kính, mưa sa phúc lành.
Ngợi khen chúc tụng thánh danh,
Phụng thờ kính mến, lòng thành tri ân.

Chúa Kitô là tảng đá sống động đã bị người ta loại bỏ, nhưng đã trở nên tảng đá góc tường. Chúa đã trở thành trung tâm điểm của đời sống con người. Sau khi hoàn tất sứ mệnh nơi trần gian, Chúa đã trở về cùng Thiên Chúa Cha. Chúa về trời để dọn chỗ cho chúng ta. Rồi Ngài sẽ trở lại đem chúng ta đi với Ngài. Thật là hạnh phúc biết bao. Chúng ta sẽ có chỗ dung thân đời đời bên Chúa.

Nhiều người băn khoăn về ý nghĩa cuộc đời. Không biết kết cục cuộc đời sẽ ra sao? Sau khi chết sẽ đi về đâu? Cha ông nói chết là qua đời, quá vãng, từ trần, qui tiên và là vào thế giới bên kia. Các ngài cố gắng đi tìm ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời. Tự con người đi tìm và tìm mãi vẫn không có một giải đáp đích thực. Có nhiều người cố tìm hạnh phúc ở đời tạm này và dừng tại đó.

Phúc âm hôm nay, Chúa đã mở cho chúng ta một con đường. Chúng ta tìm thấy ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời trong Chúa. Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Qua con đường của Chúa, chúng ta sẽ đạt tới đích. Con đường của Chúa là con đường yêu thương và tha thứ. Con đường của sự đơn sơ khiêm tốn. Con đường của sự từ bỏ và dấn thân. Sau cùng là con đường của thập giá. Đi đúng đường chúng ta sẽ hướng tới cùng đích. Chúng ta đừng lo lắng, vì Chúa Giêsu đã nói rằng trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Các con hãy tin vào Cha và vào Thầy.

Truyện kể: Vào một ngày nọ, có một nhà truyền giáo phục vụ bên Trung Quốc đã lâu năm và một ca sĩ mới sang khoảng hai tuần, cùng trở về Hoa Kỳ trên một chuyến tầu. Tầu cập bến, có cả ngàn người ra chào đón người ca sĩ, nhưng chẳng có ai để ý đến nhà truyền giáo. Nhà truyền giáo cảm thấy buồn trong lòng, thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, con dâng hiến cho Chúa cả cuộc đời. Còn anh ca sĩ chỉ có 14 ngày. Vậy mà có cả ngàn người chào đón anh về. Chúa trả lời: Hỡi con, con chưa về nhà mà.

Thật thế, quê hương trần thế chỉ là quê tạm và là nhà trọ của khách lữ hành. Chúng ta thấy đó, không có nơi đâu là bền vững. Người ta vẫn thường thay đổi chỗ ở trong cuộc sống mà. Ngôi nhà mà chúng ta mong ước và chờ đợi, đó chính là nơi Chúa hứa dọn sẵn cho chúng ta.

Chúng ta không còn lo âu sợ hãi khi đối diện với cuộc sống ngày sau. Có Chúa đi trước dọn chỗ rồi. Chúa sẽ dẫn đường chúng ta đi. Hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa. Hãy đặt bàn tay chúng ta trong lòng bàn tay Chúa. Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta về nhà Cha của chúng ta. 

---------------------------

 

PS 5-A157: NGƯỜI LÀ CON ĐƯỜNG


AM. Trần Bình An

 

Ở La Mã, đường Appia là con đường được làm ra cổ xưa nhất. Đây là con đường dài khoảng 200km PS 5-A157


Ở La Mã, đường Appia là con đường được làm ra cổ xưa nhất. Đây là con đường dài khoảng 200km nối liền giữa thành phố Capua, Caserta, Campania, với thủ đô La Mã.

Con đường trải dài 200 km đó gần như là một đường thẳng. Đặc trưng nhất của các con đường được người La Mã làm ra, chính là dạng đường thẳng. Về sau, trong hệ thống đường xá trải rộng khắp La Mã, những con đường có thể gọi là huyết mạch, thì chạy dài thẳng tấp vài chục km, xuyên ngang dốc núi hiểm trở, vượt qua thung lũng, san lấp các đầm lầy băng băng thẳng tiến.

Kể từ khi con đường Appia được bắt đầu làm vào năm 312 trước Công nguyên cho đến năm 180 sau Công nguyên, trải qua 500 năm, người La Mã như bị thôi thúc bởi cái gì đó vẫn tiếp tục làm đường. Tổng chiều dài của các con đường vào khoảng 290.000 km. Theo tính toán là hơn 7 vòng trái đất, chỉ những con đường huyết mạch thôi cũng lên đến chiều dài 86.000 km. Nhân tiện đây cũng xin nói thêm, các xa lộ liên bang của Mỹ cũng chỉ hơn 88.000 km. Thế nhưng, nếu so về diện tích thì Đế quốc La Mã chiếm 7.200.000km2, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ chiếm 9.360.000 km2 .

Đường được trải bằng đá. Rất nhiều lớp đá chồng chất lên nhau có độ dày từ 1-1,5 mét. Lớp mặt được lát đá dăm, đá chẻ, bên dưới là đá vụn, dưới nữa là các tảng đá được kết dính bằng vữa. Thật đáng kinh ngạc đường cao tốc hiện đại theo tiêu chuẩn Nhật Bản, thì độ dày các lớp đá cũng 1,4 mét, còn đường thông thường cấp Tỉnh lộ chỉ dày vỏn vẹn có 15cm mà thôi.

Chiều rộng các con đường không rộng lắm. Bề rộng lòng đường Appia vào khoảng 3 mét. Tuy nhiên, ven mỗi bên đường người ta xây dựng lối dành cho người đi bộ có bề rộng 1,5 mét, và phía ngoài lối đi bộ đó là bãi cỏ rộng 6m. Tổng cộng khoảng không gian 18 mét của con đường được đảm bảo cho việc đi lại.

Rồi người ta dựng các cột mốc biểu thị lộ trình. Ở những nơi xung yếu, người ta dựng các trạm dừng chân. Nơi đây, lữ khách có thể đổi ngựa, ăn uống và ngủ nghỉ.

Dĩ  nhiên không phải là tất cả các con đường là đều được trang bị như vậy. Ở các vùng núi hay biên giới sâu xa, bề rộng đường hẹp đi, các trạm dừng chân được thay thế bằng đồn đóng quân của quân đội La Mã. Thế nhưng, các con đường được xây dựng trên toàn thế giới La Mã bao trùm miền Viễn Đông đến Bắc Phi, và phủ cả Châu Âu. (Nguyễn Thị Hồng Lan dịch, Wakyama Shigeru, Đường Nào Cũng Về La Mã)

Trong Tin Mừng thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu tuyên xưng là “con đường, là sự thật và là sự sống.” Nếu con đường nào cũng dẫn về Roma, thì con đường Đức Giêsu luôn dẫn đi trong sự thật và sự sống.

Người là Con Đường

Câu trả lời rất minh bạch của Đức Giêsu cho ông Tôma, cũng như cho mỗi người:”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.” Đó là mặc khải vô cùng quan trọng, rất chính xác, rất rõ ràng dành cho những ai đi theo Người.

Người giới thiệu chính mình là con đường đức tin chật hẹp, chông gai, đầy khó khăn, nhưng hãy chọn đi, nếu muốn được sống: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.’(Mt 7, 13-14) Đó cũng chính là con đường cứu độ, như Đức Giêsu đã bao lần công khai khẳng định: “Các ông này là tôi tớ Thiên Chúa Tối Cao ; họ loan báo cho các người con đường cứu độ.” (CV 16, 17)

Người là sự thật

Trước quan toà Philatô,  Đức Giêsu dõng dạc xác nhận Người đến đem công lý, làm chứng cho sự thật, nhiệm vụ của Người đến thế gian: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”

Người ban công lý và sự thật, khi rao giảng Tin Mừng cứu độ: “Cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em.” (Ep 1, 13) Trong thư gửi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô cũng tiếp tục nhấn mạnh Tin Mừng là chân lý:“Lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.” (Cl 1, 5-6)

Người là sự sống

“Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Không thể nào được sống, được thấy Chúa Cha, mà không qua Đức Giêsu, không qua con đường của Người dẫn dắt, cứu độ và giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết.

Để được sống nhờ Đức Giêsu gia ân, thánh Phaolô kêu gọi điều chỉnh đời sống, như ban đầu chúng ta được tạo dựng tốt lành bắt nguồn từ sự thật:“Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hỏng buông theo những đam mê lầm lạc… Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.” (Ep 4, 22 & 24)

“Ngôi Lời đã nhập thể, và Đức Chúa Cha đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Người.” Người là sự sống: con chỉ sống bằng tinh thần của Người. Người là đường: con chỉ theo bước chân người.” (Đường Hy Vọng, số 550)

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng, mở mắt, mở linh hồn chúng con luôn biết và ghi nhớ rằng, Chúa chính là con đường, là sự thật và là sự sống, để chúng con cải cách đời sống theo Tin Mừng.

Khấn xin Mẹ Mân Côi, xin cầu bầu chúng con luôn vâng theo lời Mẹ, biết ăn năn, sám hối và cầu nguyện, xin Chúa cứu giúp chúng con trung thành với Chúa luôn mãi. Amen.

--------------------------------

 

PS 5-A158: CON ĐƯỜNG GIÊSU


JM. Lam Thy

 

Trong nhóm Mười Hai Tông đồ tiên khởi, ngoài một Giu-đa It-ca-ri-ốt chối Chúa phản Thầy, số PS 5-A158


Trong nhóm Mười Hai Tông đồ tiên khởi, ngoài một Giu-đa It-ca-ri-ốt chối Chúa phản Thầy, số còn lại tuy không đến độ quá quắt như Giu-đa, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi (khi thì tin Thầy mình là Thiên Chúa, lúc lại ngờ là ma). Vì thế nên mới có cảnh cho đến giờ phút cận kề cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, sau gần 3 năm theo Thầy nhưng vẫn chưa tin Thầy mình chính là Con Thiên Chúa, nên mới thắc mắc như kiểu Tô-ma và Phi-líp-phê trong bài Tin Mừng hôm nay (CN V/PS-A – Ga 14, 1-12). Cái thắc mắc của Tô-ma (“Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”) thì còn khả dĩ, vì Đức Giê-su dùng nghĩa bóng trong Lời dạy của Người, nhưng đến câu cuối thì Người lại nói: “Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 4). Tuy nhiên, đến như Phi-líp-phê thì lại đặt một câu hỏi bộc lộ rõ tâm trạng chưa tin tưởng Thầy mình là Con Thiên Chúa, nên khi nghe Thầy nói: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 6-7), Phi-líp-phê mới thưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”

Chính vì những thắc mắc của các Tông đồ bày tỏ tâm trạng nửa tin nửa ngờ như thế, nên Đức Ki-tô mới phải nhắc nhở (gần như quở trách): “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.” Và Người nhấn mạnh: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.” (Ga 14, 9-11).

Thật là chua xót! Người Thầy ở liền bên, dạy bảo biết bao điều hay lẽ phải, và làm biết bao nhiêu việc chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Vậy mà nay phải nói với những người thân cận nhất của mình như thế! Chẳng khác nào nói: Nếu không tin vào lời nói thì hãy tin vào việc làm của Thầy, bởi chính tự bản chất việc làm đã nói lên một cách chắc chắn bản chất của người làm nên những việc ấy! Thế mà chỉ một thời gian ngắn sau đó lại vẫn còn cảnh vừa mới tuyên xưng Thầy mình là Thiên Chúa, đã vội vàng chối bỏ đến 3 lần trong một đêm. Quả thật “Đời là thế, thế thời phải thế!”, biết sao được! Chính vì vậy nên mới nói đó chính là những thử thách nghiệt ngã trên hành trình tìm kiếm một con đường – con đường dẫn tời chân lý vĩnh cửu.

Đã gọi là hành trình tức là đi trên một con đường (theo từ nguyên thì hành trình là  “Đường đi qua trong một chuyến đi dài”), sao lại còn nói “hành trình tìm kiếm một con đường”. Vấn đề là ở chỗ đó; ví dụ: “Đường nào cũng tới La Mã”, tôi đang trên đường đi tìm con đường ngắn nhất để tới La Mã. Nói cách khác là đang trên một con đường đi tìm một con đường khác. Các thánh Tông đồ tiên khởi đi theo Thầy Giê-su cũng với mục đích tất yếu là đi tìm một con đường – con đường hạnh phúc theo cách hiểu riêng của mỗi người. Đáng lý thấy Thầy giảng dạy, nhất là chứng kiến tận mắt những việc Thầy làm, thì các ngài phải hiểu được Thầy mình là ai. Cho tới khi đã được thấy tỏ tường vinh quang Phục Sinh, tức là được thấy những chứng liệu minh hoạ cho Lời dạy của Thầy – Thầy đã hoàn tất cuộc hành trình cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã trao phó; vậy mà vẫn cứ bán tín bán nghi, để đến nỗi Thầy phải nói lên câu nói chua xót như vậy. Đi theo Thầy để tìm kiếm con đường hạnh phúc, mà không biết “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”.(Ga 14, 6)! Vậy đó!

Tuy nhiên, cũng đừng vội trách người xưa, mà hãy nhìn vào con người thời nay mà xem. “Gần chùa, gọi Bụt bằng anh” (tục ngữ VN) cũng là lẽ thường tình. Thầy sống một cách khiêm nhường quá, thân tình quá, bao dung quá, Thầy không coi học trò là tôi tớ mà là bạn hữu, Thầy không đến để được phục vụ mà là để phục vụ và thậm chí còn hiến dâng cả mạng sống mình làm giá chuộc học trò, cứu độ nhân loại. Thầy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật mà lại quỳ xuống rửa chân cho học trò, rồi còn dạy “ai tát con má trái thì hãy đưa má phải cho họ tát tiếp”. Không, nếu thật sự Thầy là Thiên Chúa thì Thầy không thể qúa bình thường (đến độ gần như tầm thường) như vậy được. Vì thế mới đi nghe hết thầy bói này đến thày tướng kia, để mò tìm hết đền này, miếu nọ, tìm những thần này, thần khác, rồi cứ mải miết mê muội với những mộng tưởng con đường dẫn tới hạnh phúc. Hoá cho nên cũng chẳng lạ gì khi thấy vẫn còn quá nhiều người tin rằng con đường hạnh phúc là con đường vinh hoa phú quý, giàu sang danh vọng. Vâng, quả thật “gần chùa gọi Bụt bằng anh” vì “Bụt chùa nhà không thiêng”, nên mới ra cớ sự. 

Cuối cùng, thì lại phải nhắc đến một điều mà mỗi khi nhắc tới là y như rằng lại được nghe điệp khúc “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Nhưng cho dù có “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, cũng vẫn phải nhắc lại: Đó là vấn đề “Đức tin” – Đức tin và cuộc sống, đức tin trong cuộc sống. “Nếu không tin vào những lời nói của Thầy thì hãy tin vì những việc làm của Thầy” (Ga 14, 11). Thầy đã làm những công vịêc ấy vì ai và để làm gì? Cái mục đích cuối cùng nhắm tới phải chăng là đem lại hạnh phúc, đem lại sự sống cho các môn đệ? Vậy thì phải chăng Thầy chính là con đường hạnh phúc, con đường dẫn tới sự sống đích thực, mà mọi người đang kiếm tìm?

Ôi! Lạy Chúa! Những sự kiện nhãn tiền xảy ra kề bên con, ngay trong cuộc sống của con, mà con vẫn bán tín bán nghi, lại đi tin vào vào những điều mơ hồ ảo tưởng. Rõ ràng là con đang đi trên một con đường, một hành trình dẫn về chân lý vĩnh cửu, dẫn tới hạnh phúc viên mãn, bởi luôn có Người Thầy Chí Thánh đồng hành; vậy mà con vẫn u mê không nhận thức được. Cúi xin Chúa hãy ban Thánh Thần soi sáng cho con hiểu ra được và vững tin rằng chỉ có một con đường duy nhất dẫn con về quê hương đích thực, sự sống vĩnh cửu, đó là CON ĐƯỜNG GIÊ-SU. Ôi! Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con! Amen.

--------------------------------------

 

PS 5-A159: CHẾT SẼ VỀ ĐÂU?


 Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Cái chết là điều mà ai cũng ngại khi phải nhắc đến. Thế nhưng, cái chết nó là một phần của cuộc PS 5-A159


Cái chết là điều mà ai cũng ngại khi phải nhắc đến. Thế nhưng, cái chết nó là một phần của cuộc sống. Cái chết đã bám vài kiếp người chúng ta. Nó là định luật tất yếu của đời người.

Nhà thơ Du Tử Lê, khi phải  ngồi đối diện với quan tài của người mẹ thân yêu đã suốt đời khổ nhục mà nay sắp tan vào bụi đất. Ông đã trăn trở với vấn nạn thẳm sâu nhất của một đời người: Chết rồi sẽ đi đâu? Ông đã ta thán rằng:

Chưa bao giờ tôi thấy,

tại sao kiếp người lại có thể vô nghĩa đến thế.

Người ta nói, chết là về nhà

Thế nhưng, ngôi nhà nào đây?

Trên mặt đất hay sâu lòng địa ngục? 

Và rồi, Vũ Khắc Khoan trong tác phẩm “Đọc Kinh” đã khắc khoải nói lên: “Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị thiện-trí-thức, chưa một vị bồ tát nào mô tả được hình tượng, xác định được thể chất, cái đó có thể giản dị như mưa và nắng, hiện hữu rất tự nhiên  -mặt trời lại mọc lúc đêm tàn- nhưng cũng lại có thể vô cùng phức tạp, ẩn hiện vô lường, vô lượng danh hiệu… Những nửa khuya tỉnh giấc, cái đó – chính nó- đôi khi vẫn thấp thoáng trong tôi, hóa trang thành những lời tra vấn trớ trêu, những tại sao ray rứt, lãng đãng quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại xa vời, nhòa dần, biến hẳn tuyệt mù.” 

Và Vũ Khắc Khoan đã khơi dậy câu hỏi ngàn đời nay trở thành câu hỏi chính mình: “Cõi đó, lạ lạ quen quen. Cõi đó hằng đêm. Cõi đó, riêng tôi. Một mình.”

Muốn lý luận gì thì lý luận, nhưng đứng trước quan tài của một người thương yêu, mình mới thấy thấm thía. Thân xác đẹp đẽ có quấn quít mấy rồi cũng trở về cát bụi. Cái gì còn lại? Vợ chồng dù có trở thành một xương một thịt, rồi cũng đến một lúc thấy chẳng phải vậy khi một trong hai phải bước đi lên xe tang mà bay vào cõi vĩnh hằng. Một mình.

Ai mà chẳng có một lần ra đi. Sinh ký tử qui: sống gửi thác về. Nhưng về đâu, quê nào, nhà nào, thì vẫn là một câu hỏi khúc mắc nhất. Cõi lớn nào ? Ngàn Xưa nào? Đó là một niềm tin hay một ảo tưởng? Phải chăng đó là cảm nghiệm mà nhà thơ Hàn mạc Tử đã từng thốt lên:  

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền

Không u ám như cõi lòng ma quỉ

Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị

Nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh. 

Đúng là đứng trước cái chết, con người mới thấy niềm tin quan trọng tới cỡ nào ! Niềm tin sống gửi thác về gắn liền với sinh mệnh đời mình. Vì thế mà nhiều người lớn tuổi thản nhiên mua trước cỗ quan tài để sẵn trong nhà, như sắm sẵn một chiếc xe để đi về quê mẹ sau những chiều chiều ra đứng ngõ sau vọng nhìn canh cánh ruột đau chín chiều.

Niềm tin ky-tô giáo dựa vào biến cố Phục sinh của Chúa Ky-tô. Cái chết của Chúa Giê-su là mở đầu cho một cuộc khải hoàn vào thiên quốc. Ngài về cùng Chúa Cha. Về nơi mà Ngài đã ra đi. Về chung hưởng vinh phúc với Chúa Cha trên trời. Ngài cũng khơi lên niềm hy vọng cho kiếp người chúng ta, vì trong nhà Cha trên trời luôn có một chỗ cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài.

Cuộc khải hoàn vinh thắng của Ngài là về Trời để Chúa Cha tôn vinh Ngài. Ngài đã tôn vinh Chúa Cha trong cuộc sống dương gian và hôm nay Chúa Cha lại tôn vinh Ngài trong vương quốc trường sinh.

Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đòi hy sinh và từ bỏ. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giê-su. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giê-su Phục Sinh chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.

------------------------------------

 

PS 5-A160: HÃY TIN THẦY


Lm. Jos. DĐH.

 

Đối với người thành đạt, mấy khi họ phải nghĩ tới: lấy gì để ăn, tìm gì để mặc ; nếu cuộc sống của PS 5-A160


Đối với người thành đạt, mấy khi họ phải nghĩ tới: lấy gì để ăn, tìm gì để mặc ; nếu cuộc sống của ta thiếu trước hụt sau, hẳn ít khi ta nghĩ tới việc làm duyên làm dáng. Nếu đang sống trong niềm vui và bình an, có thể cụm từ ưu tư lo lắng luôn ở xa ta. Thực tế thì ăn mặc là nhu cầu, tâm trạng vui buồn là cảm xúc tự nhiên được bộc lộ từ sâu bên trong ra ngoài. Hoàn cảnh “xuôi thuận” của mỗi người mỗi khác, nhưng tiếng nói từ thâm tâm ai cũng được thôi thúc sống có ý thức có trách nhiệm, ít là với bản thân, với gia đình. Xã hội thời nào cũng vậy, cha mẹ luôn yêu thương con, thầy muốn truyền kiến thức kinh nghiệm cho trò, anh chị em thì khao khát được sống bầu khí hòa thuận thương yêu.

Đủ nắng hoa sẽ nở, đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy ; đủ khôn ngoan và bình tĩnh, nhiều khó khăn phiền muộn sẽ được tháo gỡ, nhưng người ta phải đủ niềm tin mới theo Đức Giêsu một cách trọn vẹn. Hãy tin vào Thiên Chúa, hãy tin vào Thầy, lời nói đó, Đức Giêsu không chỉ trấn an các học trò, hay nhắc nhớ nhân loại chúng ta cách chung chung, đúng hơn, tin Thiên Chúa, tin Thầy, chính là căn bản để được gọi là môn đệ Đức Giêsu. Nghe biết về sở thích của anh chị em mình đã khó rồi, tin họ luôn nghĩ tốt, nói tốt về mình lại càng khó hơn ! Các môn đệ tin Thầy Giêsu đến từ Thiên Chúa đã là một bước tiến rồi, làm sao các ông không cảm thấy lo lắng ưu tư khi nghe nói tới chuyện Thầy sẽ chết đi và sống lại. Yêu quý người có thế lực xã hội, tin tưởng vào một đại gia sẽ dễ hơn, nhưng phải mường tượng về sự tồn tại của yêu thương giữa tình trò sống động mãi, bao giờ cũng phức tạp hơn nhiều.

Tin bố mẹ luôn yêu thương con cháu, tin các ngài khi qua đời vẫn đang hiệp thông phù hộ cho con cháu đâu phải dễ, nhất là mỗi lúc ta gặp khủng hoảng về đời sống tinh thần, vật chất. Cuộc sống nào cũng khó khăn, niềm tin nào mà không phải chứng thực, tất cả đều sáng tỏ với thời gian. Chuyến ra đi, hay cuộc chia tay tạm thời giữa tình thầy trò Giêsu làm sao không có xúc động, dù số học trò đã hiểu, đã tin Thầy đến từ Thiên Chúa, dù Đức Giêsu có hứa hẹn sẽ quay trở lại đón các ông: “để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó”. Tuy nhiên, căn bản cho tính bền chặt đối với các môn đệ vẫn là tình yêu, là hiệp thông tin tưởng vào Thầy Giêsu.

Sách có câu: người quân tử nói bằng việc làm, kẻ tiểu nhân nói bằng miệng lưỡi. Nhưng dù là tiểu nhân hay quân tử, mỗi người đều đang có một hướng mà họ cho rằng đó là con đường dẫn tới hạnh phúc. Đức Giêsu thấu biết sự giới hạn của các học trò, bài học mà các ông cần lĩnh hội trước hết phải là ơn bình an, để rồi các ông biết tin vào Thiên Chúa, tin vào Thầy, thay vì tin vào số phận hên xui, vào sức riêng của con người. Sống yêu thương hay sống niềm tin vào Thầy Giêsu không phải là thụ động, trông chờ như chờ “sung rụng”, nhưng là để con tim và khối óc nên một trong hoạt động của tình yêu Ba Ngôi. Đức Giêsu xác thực với Philipphê, với chúng ta: “ai thấy Thầy là xem thấy Cha”, cũng trong tình hiệp thông đó, các con không thể lạc đường sai lối vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.

Các chuyên viên về tình yêu hôm nay vẫn đang tư vấn cho người trẻ: nếu bạn yêu một người nào đó thật nhiều, đừng đợi tới ngày mai mới nói cho người ấy biết, vì rất có thể ngày mai, bạn đã là người đến sau. Trong tình yêu, Chúa Giêsu không cần các học trò thố lộ tình cảm hôm nay hay ngày mai, Ngài ý thức tất cả những ai muốn theo Chúa, hãy tin Ngài là Đường là Sự thật và là Sự sống. Ở trong tình yêu của Chúa Giêsu, là ở trong Chúa Cha, sống tin yêu vào Thiên Chúa sẽ không tính theo thời gian trước hoặc sau, mà tính bằng sự hiệp thông tròn đầy nên một tình yêu. Tin Thầy Giêsu là tin Chúa Cha, là cảm nhận được sức mạnh của tình yêu Thánh Thần, là làm được những việc Thầy Giêsu đã làm.

Hãy tin Thầy, hãy theo Thầy, chắc chắn Đức Giêsu không nói với các học trò theo cảm tính tự nhiên, lời mời gọi ấy hẳn vẫn đang sống động nơi tất cả những ai tự nguyện sống tinh thần thần người môn đệ theo Đức Kitô. Hãy tin Thầy, để chúng ta dễ dàng hơn khi quên đi quá khứ tội lỗi bất xứng của mình, hãy tin Thầy Giêsu để chúng ta thấy hiện tại và tương lai lúc nào cũng có sự hiệp thông nên một của tình yêu Ba Ngôi. Chúa Giêsu chỉ cần nơi các tông đồ, nơi chúng ta niềm tín thác vào tình yêu của Ngài, để chúng ta được xem thấy Chúa Cha, biết sống những nghĩa cử yêu thương, và biết nhận ra niềm vui hạnh phúc của hiện tại và tương lai. Amen.

---------------------------

 

PS 5-A161:  ĐỪNG SỢ HÃI


Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

 

Đã làm người, không thiếu những nỗi sợ trong cuộc đời vây lấy bản thân từng người. Không đơn PS 5-A161


Đã làm người, không thiếu những nỗi sợ trong cuộc đời vây lấy bản thân từng người. Không đơn giản là nỗi sợ hãi những điều khủng khiếp tấn công, mà còn có cả những điều lẽ ra “không đáng sợ”, cũng làm chúng ta khiếp đảm, bạc nhược, trốn chạy…

Bởi ai cũng để cho những nỗi sợ hãi vây bọc, vì thế, cuộc sống càng ngày càng tăng thêm tội ác, tăng thêm những: sự bất công, sự bị mê hoặc, sự luồng cúi, sự giành giật, sự phản bội chân lý, sự a tòng những điều dữ, sự ngông cuồng, sự ức hiếp, sự tráo trở, sự chết chóc oan uổng của người vô tội, sự khủng bố tinh thần và thể xác, sự phải gánh lấy đau khổ, thậm chí đau khổ kéo dài…

Với kẻ “sợ”, những nỗi sợ hãi ấy vô vàn lần cướp đi một phần, hoặc cướp đi tất cả sự bình an, thoải mái, cũng như sự tỉnh táo nơi bản thân.

Bởi ý thức sự cần thiết của lòng can đảm, ngay khi khởi đầu triều đại giáo hoàng của mình, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ngỏ cùng thế giới: “Đừng sợ! Hãy mở cửa đón Chúa Kitô”.

Lời “Đừng sợ” này vang lên suốt triều đại giáo hoàng của đấng kế vị thánh Phêrô, để nhắc mọi người con của Hội Thánh và bất cứ ai yêu đời sống thiện tâm về lòng can đảm đối đầu cùng thử thách và nghịch cảnh. Nhất là “Đừng sợ” những khi cần thiết phải làm chứng và nêu cao chân lý, công lý.

Ngược về thời đầu của lịch sử Kitô giáo, cũng vẫn là sự hoang mang, nỗi sợ hãi hằn trong tâm trí các môn đệ của Chúa Giêsu. Một mặt, họ sợ hãi vì chứng kiến Thầy bị giết cách tan thương, tủi nhục.

Mặt khác, họ tiếp tục hoang mang trước niềm tin phục sinh. Phục sinh là sự kiện vượt quá trí hiểu của con gười, vì thế, sau biến cố Chúa Giêsu đã thực sự chết trên thập giá, mà nay nhiều môn đệ tin rằng, Người đã phục sinh, thì nhiều môn đệ khác của Chúa vẫn bàng hoàng, vẫn bán tín bán nghi, chưa thực sự an tâm về niềm tin phục sinh ấy. Họ nghi nan bởi mầu nhiệm phục sinh, một chân lý chưa từng có, đến với họ vừa quá diệu kỳ, nhưng cũng quá bất ngờ.

Do đó, thánh Phêrô với tư cách lãnh đạo tối cao của Hội Thánh, lên tiếng trấn an và củng cố đức tin, đồng nhắc lại sứ mạng được sai đi cho các anh em mình: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người” (bài đọc 1: 1Pr 2, 7.9).

Lui về khoảng thời gian xa hơn. Đó là thời Chúa Giêsu còn hiện diện giữa trần thế, càng cho thấy, nỗi sợ hãi là một hiện thực luôn áp đảo, gây khó khăn cho con người.

Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A, Hội Thánh mời gọi chúng ta sống lại giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu nơi dương thế. Chúa từ giã và an ủi:

“Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Thói thường, lời khiến người ta khó quên nhất ngay trước khi chia lìa nhau là lời giã từ. Tin Mừng hôm nay diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu y như thế: da diết, luyến nhớ, yêu thương… Một tình cảm rất con người.

– Chúa Giêsu sắp từ giã môn đệ để về cùng Cha. Sự lưu luyến làm cho mọi người trong cuộc đau lòng. Vì thế, lời ủi an của Chúa như thêm sức mạnh để họ vượt qua.

–  Nhưng không chỉ an ủi. Lời giã từ của Chúa còn chứa đựng nội dung ước hẹn. Ước hẹn là diễn tả nỗi lòng tha thiết, gắn bó, nhung nhớ, yêu thương… Nó cũng làm cho người ở lại sẽ an tâm hơn, vơi bớt nỗi biềm, để có thể đứng vững hơn.

Lời ước hẹn làm cho cả người đi lẫn người ở, luôn đau đáu nhớ về nhau, sống kề lòng nhau, dù thực tế có xa cách ngàn trùng.

– Đó cũng là lời giải thích lý do và ý nghĩa việc Chúa rời xa môn đệ. Chúa không bỏ những ai Chúa tuyển chọn. Chúa hiện diện bên họ. Chúa chờ đợi họ đi về phía Chúa.

– Tuy nhiên, trong lời trăn trối, bên cạnh tình cảm mà Chúa thể hiện trước giờ ly biệt, còn toát lên sự trấn an lớn lao đối với những bấn loạn, sự xoa dịu đối với những rối bời đang hiện diện trong lòng môn đệ.

Chúa đã phục sinh. Đoàn môn đệ hãy tin vững chắc vào Chúa. Họ hãy dừng lại nỗi hoang mang, sợ hãi.

Chỉ có tin vào Chúa mới có thể xóa sợ hãi, thêm can đảm.

Chỉ có đức tin mới có sức động viên, giúp môn đệ thêm nghị lực vượt qua tình cảm chia cắt, bước tiếp con đường Chúa đã hướng dẫn.

Nếu Chúa gởi gắm nơi chúng ta, những môn đệ của Chúa những uớc hẹn, là Chúa gởi gắm về những bảo đảm: tiếp tục yêu thương; tiếp tục gắn bó; tiếp tục hiện diện và tha thiết để được đón nhận chúng ta, để Chúa có chúng ta và chúng ta có Chúa, cả hai tồn tại vĩnh cửu..

Môn đệ hãy đừng sợ! Lời Chúa ước hẹn sẽ trở lại có sức xoa dịu niềm đau bằng viễn ảnh hạnh phúc của ngày gặp lại.

Môn đệ hãy dừng sợ! Chúa sẽ trở lại đón rước chúng ta. Chúng ta sẽ được mang đến nơi tốt đẹp mà Chúa dọn sẵn để chờ đợi, để cùng hưởng sự sống của chính Chúa, sự sống phục sinh vinh thắng.

Lời trấn an chứa đầy sự ước hẹn của Chúa, Hội Thánh muôn đời ghi khắc, để dù bất cứ hoàn cảnh nào, thăng hay trầm, khó khăn hay thuận lợi, Hội Thánh vẫn tin tưởng để luôn kiên vững trung thành với Chúa, trung thành với đường lối cứu độ của Chúa, không bao giờ giảm thiểu, không bao giờ ngưng trệ.

Chúng ta, từng người hãy vui lên, đừng sợ hãi. Chúa chiến thắng. Chúa hiện diện hết sức gần gũi, ấm áp, không bằng không gian, nhưng bằng tình mến, bằng niềm thương, bằng Lời chân lý, bằng Thánh Thần mà Chúa nhận lãnh và ban cho chúng ta từ nơi Chúa Cha, bằng nguồn sống thần linh là kho tàng bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.

Từng người hãy cùng Hội Thánh ghi khắc sự ủi an, sự ước hẹn của Chúa để cảm nhận tất cả sự vỗ về, sự âu yếm, để ngày một thêm can đảm, thêm nghị lực sống.

Đoàn môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay cũng đang lữ hành tiến về nơi mà Chúa “đã dọn sẵn” cho mình. Như các môn đệ xưa, chúng ta hãy hết lòng trông cậy, và ngẩng cao đầu trong ơn Chúa cứu chuộc mà vượt thắng khó khăn, không đầu hàng nghịch cảnh, luôn sống tích cực, sống thánh thiện.

Chính niềm tin vào Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta biết những phương cách để giúp vượt qua mọi nỗi cheo leo trong đời.

Điều quan trọng là: Chúng ta đừng sợ hãi.

--------------------------------

 

PS 5-A162: CHÚA GIÊSU CỦNG CỐ ĐỨC TIN CHO CHÚNG TA


P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị,

 

Nếu nói theo bối cảnh Tin Mừng, thì đây là giai đoạn “Thầy trò sắp ly biệt”, còn nếu nói theo PS 5-A162


Nếu nói theo bối cảnh Tin Mừng, thì đây là giai đoạn “Thầy trò sắp ly biệt”, còn nếu nói theo , lịch Phụng Vụ hiện thời là lúc “hậu“ phục sinh, đây cũng là lúc mà đức tìn của các Tông Đồ còn sơ khai, chưa chín mùi.

Vâng, thưa quý vị, Đức Tin là một ân ban vô điều kiện, đồng thời tính chất cảu “đức tin “, có nghĩa là Thiên Chúa mời gọi, con người đáp trả, nói theo từ ngữ “chuyên môn” của kỹ thuật thông tin là : Một bên phát tín hiệu, còn bên kia nhận tín hiệu. Như vậy, Đức Tin cần có hai yếu tố là : “Phát và nhận”, từ đó , suy ra “tình yêu” đúng nghĩa cũng phải đòi hỏi hai yếu tố trên là “cho và nhận”, ví dụ : Ai cho chúng ta vật gì, thì người ấy được nhận lại hai chữ “cảm ơn” ( thank you). Chắn chắn , nếu thiếu đi một vế, thì tình cảm bất thành. Đây không phải là tính cách trao đổi, nhưng điều tối thiểu của “tình yêu” là như vậy.

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, những Lời đầu tiên của trang Tin Mừng hôm nay ( Ga 14, 1- 12) là Lời “động viên” của Chúa Giêsu : “ Lòng các con đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” ( Ga 14, 1)

Theo đó, Đoan Tin Mừng hôm nay có thể được chia ba phần rõ rệt :

Thứ nhất : Chúa Giêsu củng cố niềm tin của các tông đồ vào Thiên Chúa và vào Người. Vì chính Người là Thiên Chúa.
Thứ hai : Chúa Giêsu mặc khải chính mình qua thánh Tôma, vì sự “đòi hỏi”của ông.
Thứ ba : Chúa Giêsu mặc khải Chúa Cha qua thánh Phi-lip-phê , vì sự “yêu cầu” của ông.
Vâng, ý thứ nhất là ý tổng hợp, vì ý thứ nhất bao trùm cả Đoạn Lời Chúa hôm nay là : Chúa Giêsu đòi hỏi lòng tin mạnh mẽ hơn, xác quyết hơn vào Thiên Chúa .

Theo đó, cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu chính là “con đường “ đưa chúng ta trở về với Chúa Cha “ơn cứu độ” duy nhất từ Thiên Chúa. Như vậy, từ các Tông Đồ đến chúng ta là những người được bước theo Đức Kitô. Tin vào Lời Hứa của Người, vì vậy, cuộc Tử Nạn của Người là một sự “trao đổi” , sự nhận lại “quyền “ làm con của chúng ta với Thiên Chúa.

Người tỏ rõ chính Người là :  “Là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Qua con đường ấy, Người dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, là Đấng tạo thành muôn vật, muôn loài.

Thưa quý vị , phàm nhân không thể tìm ra “con đường” như Chúa Giêsu, vì có biết bao phàm nhân là bá chủ một thời, hay ước vọng làm bá chủ trái đất, nhưng ước vọng duy nhất là “trường sinh” trên mặt đất nầy, nhưng vô vọng. Vì , mặt đất không thể có trường sinh, chỉ có Nước Trời là vương quốc vĩnh cửu, mà như vậy, Chúa Giêsu chính là Nước Trời, bởi vì nơi Người có sự sống, và sống muôn đời.

Chúa Giêsu mời gọi môn đệ “tin “ vào Thiên Chúa và tin vào Người là một ân huệ vô song, là một sự mạc khải vĩ đại nhất, bởi vì, khi phàm nhân “chiếm hữu” được sự sống muôn đời, thì họ không cho ai vào, chỉ để cho họ và gia đình họ vào mà thôi. Nhưng, khi mở được Nước Hằng Sống nhờ cuộc Tử Nạn và, Phục Sinh, có nghĩa là Chúa Giêsu mở rộng “cửa Trời” cho tất cả những ai “TIN “vào Thiên Chúa đều được vào.

Như vậy, niềm an ủi và khích lệ lớn lao bởi sự chân thật trên hết là Đức Giêsu- Kitô, Chúa chúng ta. Theo đó, “Lời an ủi” của Người là một niềm tin vững chắc và niềm cậy trông không sai chạy cho những ai tin vào Chúa Giêsu. Vì, “Các con đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy… “ ( C 1) là một điểm tựa vững chắc cho chúng ta.

Một điểm tựa trong cuộc sống là điều cần thiết, điểm tựa, chứ không phải điểm để lợi dụng. nhà bác học Enstein đã nói : “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẫy tung trái đất “, dù là sự hoang đường, nhưng triết lý của nó cho chúng ta một ý nghĩa tuyệt đối là “ điểm tựa”.

Như vậy, nếu “bẫy được trái đất”, thì Enstein phải cần có điểm tựa, nhưng không ai có thể cho ông ta điểm tựa đó, nhưng để vào được Nước Trời chúng ta cần có “ĐIỂM TỰA GIÊSU” chắc chắn chúng ta sẽ vào được Nước Trời, vì Chúa là “sự thật”, và Người đã nói : “Nhà Cha Thầy còn nhiều chổ ở ” ( c 2).

Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta biết, Người là :”Đường, sự thật, sự sống” , một mặc khải chân lý mang lại cho nhân thế một “ĐIỂM TỰA” tuyệt đối, vì trong Chúa Giêsu có Thiên Chúa, vì chính Người đã mặc khải Chúa Cha cho chúng ta.

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ , Cha đã ban Thánh Tử Giêsu- Kitô cho nhân thế, để nhờ Người chúng con biết được “Con Đường” đến với Cha là “ Con Đường Sự Thật và là Sự Sống”./. Amen.

----------------------------------

 

PS 5-A163: ĐƯỜNG ĐẾN CHÚA CHA


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I.  LẮNG NGHE LỜI CHÚA (Ga 14,1-12):

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

 5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” 6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

 8 Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.”

II. TÌM HIỂU & SUY NIỆM LỜI CHÚA:

 

Các Tông Đồ xao xuyến trước một tương lai mịt mờ vì Thầy sẽ không còn ở đó nữa. Đức Giê-su PS 5-A163


2.1 Các Tông Đồ xao xuyến trước một tương lai mịt mờ vì Thầy sẽ không còn ở đó nữa. Đức Giê-su trấn an các ông rằng cứ tin vào Thầy và tin vào Thiên Chúa thì chẳng có gì phải sợ cả. Thầy có vắng mặt thì cũng là đi lo chuyện cho các ông mà thôi. Đức Giê-su còn mời các Tông Đồ hãy đi theo Thầy vì Thầy là ĐƯỜNG dẫn đến Chúa Cha,  Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy. Các Tông Đồ chắc hẳn rất ngạc nhiên và vui mừng về điều (mạc khải) mà Thầy vừa hé mở cho các ông. Nỗi âu lo xao xuyến của các ông có là gì so với viễn tượng được Thầy đưa vào Huyền Nhiệm của Cha.

2.2 Lời mời gọi Thầy Giê-su dành cho các Tông Đồ cũng là lời Thầy mời gọi mỗi người chúng ta. Nhiều khi chúng ta âu lo xao xuyến vì chuyện này chyện kia, nhiều lúc chúng ta không biết phải đi lối nào, phải bước theo ai trong cuộc sống hỗn độn và quay cuồng. Thầy Giê-su cho chúng ta câu trả lời/giải pháp vượt xa sự mong đợi của chúng ta. Câu trả lời hay giải pháp đó là cứ bám chặt vào Thầy, cứ theo sát gót Thầy là chúng ta sẽ gặp được Cha, sẽ được Cha đón vào Nhà.

2.3 Tâm tình chúng ta phải có là tin tưởng, cậy trông, phó thác và biết ơn, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm cụ thể: hy sinh, từ bỏ, mạnh dạn dấn thân phục vụ và mô phỏng cách sống của Thầy, trong tương quan với Cha và với tha nhân, nhất là với người nghèo cần được chúng ta yêu thương và giúp đỡ.

III. THỰC THI LỜI CHÚA:

3.1 Đáp lại lời Thầy Giê-su, tôi tin vào Thầy vì Thầy từ nơi Cha mà đến, vì Thầy nói Lời của Cha, vì Thầy ngỏ Ý của Cha.

3.2 Đáp lại lời Thầy Giê-su, tôi bước theo Thầy để được Thầy dẫn tới Chúa Cha, đưa vào huyền nhiệm của Cha, được sống với Cha và với Thầy.

3.3 Đáp lại lời Thầy Giê-su, tôi tin vào Thầy và bước theo Thầy thì tôi phải suy nghĩ, nói năng và hành động như Thầy:  “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi.”

IV.  CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA:

4.1 Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha về Con Một mà Cha đã ban cho loài người chúng con. Người đã xuống trần gian và cứu chuộc chúng con bằng cuộc sống và cái chết thập giá. Người mở đường cho chúng con về với Cha. Người đưa chúng con vào Huyền Nhiệm của Cha. Chúng con hân hoan sung sướng và cảm tạ Cha.

4.2 Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Chuộc chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa là Đường đưa chúng con vào nhà Cha, vào Huyền Nhiệm của Cha. Chúng con vui sướng hân hoan và cảm tạ Chúa! Xin Chúa dẫn chúng con đi trên con đường mà Chúa đã đi. Xin Chúa đưa chúng con đến nơi mà từ đó Chúa đã đến trần gian.

4.3 Lạy Thánh Tô-ma, Thánh Phi-lip-phê và các Thánh Tông Đồ, các ngài đã được phúc trao đổi trực tiếp với Thầy Giê-su nên được Thầy chỉ bào cho biết Thầy là ĐƯỜNG tới Chúa Cha và Thầy ở cùng Chúa Cha. Các ngài đã về Nhà Cha bằng con đường Giê-su. Các ngài đang ở với Cha và với Thầy Giê-su. Xin các ngài trợ giúp chúng con. Amen.

-----------------------------------

 

PS 5-A164: LÒNG ANH EM ĐỪNG XAO XUYẾN


   Fx Đỗ Công Minh 

 

Bài Tin mừng hôm nay là một đọan trong diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu với các tông đồ. Xao PS 5-A164


Bài Tin mừng hôm nay là một đọan trong diễn từ cáo biệt của Đức Giêsu với các tông đồ. Xao xuyến là một động từ diễn tả một con người có những tình cảm dấy lên trong lòng và thường kéo dài, khó dứt. Các Tông đồ khi được biết Chúa Giêsu sắp rời bỏ các ông thì ai nấy xao xuyến, không biết Thầy mình đi đâu? Thầy đi luôn, đi mãi ? Hiểu được tâm trạng các ông, Người an ủi”Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu,thì anh em biết đường rồi “ .

Chúa Giêsu hiểu các môn đồ của mình đang dấy lên trong lòng một tình cảm khó quên, vì Thầy trò đã từng sống với nhau mấy năm trời. Nay đến lúc sắp chia tay, trong lòng các môn đệ rối bời, không biết sẽ ra sao ngày mai? Xao xuyến đến mức TôMa phải bật lên câu hỏi “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường “. Chính từ câu hỏi rất thành thật , đơn sơ của TôMa mà Chúa đã mạc khải cho các ông về Người. “Thầy chính là Đường, là Sự thật và là Sự sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết một Thiên Chúa Cha, đấng đã sai Người đến thế gian để “Những ai tin vào con của Ngài thì được cứu và được sống muôn đời “. Đức Giêsu chỉ cho con người một con đường duy nhất, ngắn nhất để đến được với Cha “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “. Đó cũng là lời giải thích cho dụ ngôn Chúa nhật thứ tư Phục sinh vừa qua, Người tự nhận mình là cửa của RÀN. Chúa Giêsu cũng mạc khải về chính mình và sứ mạng của Người  cho nhân lọai. Người cũng chính là con đường để dẫn tới sự thật và sự sống.

Sống với Chúa ba năm trời, được chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm, được nghe biết bao lời giảng dạy. Có lúc được Chúa vỗ về ủi an, có lúc được Chúa hé mở vinh quang nước trời, nhưng cũng có lúc bị Chúa nghiêm khắc phê bình, thậm chí la rầy, để các ông hiểu Đức Kitô là ai ? Vậy mà Tôma lại không biết Thầy mình sẽ đi đâu. Còn Philliphê lại đòi hỏi: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện “ để đến nỗi Chúa phải than lên: “ Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philliphê, anh chưa  biết Thầy ư ?”

Lạy Chúa,

Con được sống trong Hội Thánh Chúa nhiều chục năm trời, được học hỏi Giáo lý, Thánh kinh , được nghe biết bao bài giảng dạy, tham gia nhiều khóa học của Hội Thánh, vậy mà con vẫn chẳng hơn gì TôMa, hay Philliphê. Vẫn không nhận ra Chúa từng ở với con bấy lâu. Con không chỉ là xao xuyến mà là tội lỗi, cứng lòng, hèn tin.

Xin Chúa cho con nhận ra Chúa là Đường cho con bước đi, là Sự Thật và là Sự Sống. Con phải tin thật và sống thật. Xin cho lời Thánh Phêrô phải là lời con thưa với Chúa mỗi ngày, từng ngày :”Lạy Thầy, xin thêm Đức tin cho con “.

“Lạy Ngài ơi thương đến, xin củng cố đức tin, vì lòng tin con đây, còn mỏng giòn non yếu. Lạy Ngài ơi thương đến, xin củng cố đức tin, vì lòng tin con đây, đã hầu vỡ tan rồi! “

--------------------------------

 

PS 5-A165: THIÊN CHÚA TRONG ĐỨC KITÔ – ĐỨC KITÔ TRONG MỌI NGƯỜI


Lm. Giuse Nguyễn

 

Khi Philipphê muốn Đức Giêsu cho ông ta thấy Chúa Cha, thì Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là PS 5-A165


Khi Philipphê muốn Đức Giêsu cho ông ta thấy Chúa Cha, thì Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Đây là chân lý mặc khải cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa ở trong Đức Kitô. Thánh Matthêu trong trình thuật về ngày phán xét cũng ghi lại lời của vị Vua Vũ Trụ: “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Đây lại là một chân lý mặc khải khác: Đức Kitô ở trong mọi người. Nỗ lực của Giáo Hội là muốn cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha yêu thương. Tình yêu đó được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Con Một Ngài, Chúa chúng ta. Để rồi khi Đức Giêsu sống lại, về trời, không còn hiện diện một cách hữu hình nữa thì chúng ta vẫn có thể biết Ngài nơi những con người chúng ta gặp gỡ, bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Chúa, và mỗi người đều là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều người chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa; vẫn còn những bạo lực, những bất công, những tàn nhẫn, những hận thù, những chia rẽ, những xúc phạm đến quyền con người. Đứng trước thực tế đó, được ánh sáng Lời Chúa hôm nay soi dẫn, tôi xin chia sẻ với cộng đoàn chủ đề: Thiên Chúa trong Đức Kitô và Đức Kitô trong mọi người.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài đọc I: Cv 6, 1-7

Sách Tông đồ Công vụ kể lại sinh hoạt của các kitô hữu đầu tiên. Họ sống chung với nhau trong một cộng đoàn.Tuy nhiên ngay từ đầu đã có những con người không được tôn trọng, cụ thể là những bà góa. Họ không được quan tâm, chăm sóc chu đáo như những người khác. Chính vì vậy mà họ đã trình bày với các Tông Đồ. Các Tông Đồ đã giải quyết bằng cách chọn những phó tế để chuyên lo phục vụ chuyện ăn uống: phần thể xác, còn các Tông Đồ thì chuyên lo cầu nguyện và rao giảng Lời Chúa: phần linh hồn. Điều này cho chúng ta thấy rằng, thời nào cũng có những con người bị lãng quên, không được quan tâm chăm sóc. Nhưng Chúa thì không bao giờ quên lãng họ, vì vậy Ngài sẽ làm cách này hay cách khác để chăm sóc họ. Thiên Chúa muốn cho người ta biết rằng Ngài ở trong mọi người.

Tin Mừng Ga 14, 1-12

Đây là một trong những lời từ biệt được xem là di chúc của Đức Giêsu. Đã là lời từ biệt, là di chúc thì chắc chắn rất chân thành và tha thiết. Trong lời từ biệt này, Đức Giêsu trấn an các môn đệ đừng xao xuyến vì việc ra đi của Ngài là trở về với Chúa Cha, hơn nữa còn là đi dọn chỗ cho các ông và những kẻ tin vào Ngài, để nếu các ông đi theo con đường Ngài chỉ thì các ông sẽ được ở với Ngài bên cạnh Chúa Cha. Ở đây Đức Giêsu nhắc đến 2 điều: con đường và Chúa Cha. Ông Tôma thắc mắc liền: Đường nào, Thầy chỉ cho chúng con với?! Còn ông Philipphê cũng xin một điều rất khôn: Thầy nói Chúa Cha, mà Chúa Cha đâu, Thầy chỉ cho con coi?! Đức Giêsu có vẻ buồn vì các ông theo Ngài bấy lâu mà không hiểu gì cả. Nhưng sau đó Ngài cũng đáp ứng 2 đòi hỏi của 2 ông. Thứ nhất chỉ cho 2 ông: con đường là chính Ngài ; và thứ hai: ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha.

      Từ những bài đọc hôm nay chúng ta thấy rất rõ mặc khải của Thánh Kinh: Thiên Chúa trong Đức Kitô và Đức Kitô trong mọi người. Chúng ta được Lời Chúa nuôi dưỡng thì chúng ta phải sống bằng Lời Chúa. Sống bằng Lời Chúa trong tuần này là cám ơn Chúa vì đã ban Đức Giêsu là đường cho chúng ta dõi bước đi theo để về quê trời. Sau nữa là tập nhận ra Đức Giêsu nơi anh chị em của mình để có thể yêu thương họ bằng một tình yêu chân thành, không giả dối.

II.  THIÊN CHÚA TRONG ĐỨC KI TÔ

Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Chỗ khác Ngài xác định: “Tôi với Cha là một”. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy rằng: Có một Chúa mà Ngài có Ba Ngôi; Ba Ngôi nhưng một Chúa. Vì thế trong Cha có Con và Thánh Thần; trong Thánh Thần có cả Cha và Con; cũng như trong Con có cả Cha và Thánh Thần. Đó là sự thật về Thiên Chúa. Cho nên hành động của Thiên Chúa không phải là hành động đơn độc, mà là hành động của sự hiệp thông. Đó là câu trả lời cho ông Philipphê: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”.

Chúng ta cám ơn Chúa vì mặc dù Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, nhưng Ngài cũng tỏ mình ra nơi Đức Giêsu Kitô để chúng ta thấy hành động của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta mới có thể noi theo. Chúng ta biết được Thiên Chúa không phải là Đấng nói bằng miệng, mà là Đấng hành động cụ thể nơi một con người Giêsu. Vì vậy sự thật Thiên Chúa ở trong Đức Kitô sẽ củng cố niềm tin vào Thiên Chúa cho chúng ta.

III.  ĐỨC KITÔ TRONG MỌI NGƯƠI

Từ sự thật Thiên Chúa ở trong Đức Kitô, chúng ta phải sống sự thật này như thế nào đây? Thưa chúng ta phải nhận ra Đức Kitô nơi mọi người. Đức Giêsu đã nói: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”. Và một lời khẳng định khác: “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn  nhất của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Từ những lời xác quyết của Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ ràng Ngài ở trong mọi người.

Nhìn bằng ánh mắt của Đức Kitô

Có một thực tế là đối với những người đem đến lợi ích cho tôi, những người tôi cảm thấy dễ chịu, thì tôi nhìn và đón tiếp họ còn hơn cả Đức Kitô nữa. Còn đối với những người bề ngoài khó nhìn, có vẻ như người xấu, những người tự nhiên tôi cảm thấy ghét, những người đem đến phiền phức cho tôi… thử hỏi mấy khi tôi nhìn và đón tiếp họ như là hiện thân của Đức Kitô? Có người lập luận là Chúa đâu ở trong người xấu, người tội lỗi, vì vậy tôi tránh xa, không giao thiệp, không đón tiếp họ là đúng rồi! Chúa không ở trong những người đó hay vì tôi không có Chúa nên tôi  không nhìn ra Chúa nơi bản thân của họ? Khi tôi có Chúa trong mình thì cái nhìn, suy nghĩ, lời nói, việc làm của tôi là cái nhìn, suy nghĩ, lời nói và việc làm của Chúa. Giả dụ những người tôi gặp gỡ thực sự là người xấu, người tội lỗi, người sẽ gây phiền phức cho tôi thì tôi càng phải nhìn và đón tiếp họ như cái nhìn của Đức Kitô. Mặc dù Đức Giêsu yêu thương mọi người, nhưng Ngài lại đặc biệt quan tâm đến người nghèo, người tội lỗi và người bệnh tật, bởi vì những người đó ít được người khác quan tâm. Cái trớ trêu ở đời là những người càng đầy đủ thì càng được người ta quan tâm và nhìn nhận, còn những người càng thiếu thốn thì càng bị người ta bỏ rơi và loại trừ. Đầy đủ và thiếu thốn ở đây là nói chung về mọi mặt chứ không phải chỉ là vật chất. Đức Kitô ở trong mọi người, không phân biệt một ai. Vì vậy chúng ta hãy tập nhìn ra Ngài nơi mọi người chúng ta gặp gỡ.

Luyện tập

Tuy nhiên, không phải muốn nhìn Đức Kitô nơi người khác là nhìn đâu; nhìn không được, nhìn không ra. Có hai yếu tố quan trọng để chúng ta có thể nhìn thấy Đức Kitô nơi người khác.

Thứ nhất là do yếu tố nhân bản, tính tình của mỗi người. Người có lòng nhân ái thì dễ yêu thương người khác hơn. Người ích kỷ, chỉ lo cho bản thân của mình, chỉ tìm những gì có lợi cho bản thân mình thì khó lòng mà sống cho người khác lắm. Người chưa trưởng thành nhân cách sẽ sống theo dư luận, sợ chuyện này chuyện kia ảnh hưởng đến mình thì dễ dàng quỵ lụy, luồng cúi, nịn bợ những người có thể đem lại lợi ích cho mình. Ngược lại, người trưởng thành họ sống có bản lãnh, không quỵ lụy, luồng cúi, hay nịn bợ một ai, vì vậy họ sẽ đối xử với mọi người như nhau.

Thứ hai là yếu tố đạo đức. Có nghĩa là sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô trong việc đọc và suy niệm lời Chúa, trong kinh nguyện, thánh lễ, những việc lành phước đức. Những việc này sẽ giúp người ta gần gũi với Đức Kitô, hiểu biết Đức Kitô và cuối cùng là hành động như Đức Kitô.

Qua lời Chúa hôm nay, chúng ta phải tập luyện cho mình có một đời sống nhân bản trưởng thành, những đức tính tự nhiên như lòng nhân ái, tha thứ, quảng đại, sống có bản lãnh… và nhất là tập cho mình có lòng đạo đức qua việc đọc và suy niệm lời Chúa, tham dự thánh lễ, siêng năng cầu nguyện và làm những việc lành phước đức… để có thể nhận ra Đức Kitô mọi người, nhất là những người trong gia đình tôi. Riêng với các bạn trẻ, nếu nhận ra Đức Kitô nơi người khác thì mới có thể tôn trọng phẩm giá của họ và đối xử với họ theo cung cách của Đức Kitô.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã cưu mang, sinh ra và nuôi dưỡng Đức Giêsu. Xin Mẹ giúp chúng con cũng được gặp gỡ Chúa hằng ngày nơi mọi người chúng con gặp gỡ.

------------------------------

 

PS 5-A166:  CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_A


Lm Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. 

 

Hôm nay là Chúa Nhật Thứ 5 Phục Sinh, là mùa chúng ta mừng kính Chúa Giê-su Ki-Tô sống lại PS 5-A166


Hôm nay là Chúa Nhật Thứ 5 Phục Sinh, là mùa chúng ta mừng kính Chúa Giê-su Ki-Tô sống lại từ cõi chết.  Người đang sống, hiện diện giữa chúng ta, ban cho chúng ta bình an, niềm vui thật của Người, nhất là củng cố đức tin cho chúng ta để chúng ta trung thành kính thờ Người, sống Lời Người dạy bảo và can đảm làm chứng cho Người.  Tuần này cũng là tuần chúng ta mừng Ngày Của Mẹ.  Ngày Của Mẹ là ngày đặc biệt để con cái thể hiện lòng biết ơn và tri ân của mình với người mẹ, vì công ơn sinh thành và dưỡng dục, cũng như tình thương yêu của mẹ, nhất là đã gieo hạt giống đức tin đầu tiên vào trong tâm hồn chúng ta.  Vì vậy, đạo làm con, chúng ta phải thảo hiếu, kính trọng mẹ cha như Chúa đã dạy, và làm những điều tốt lành để mẹ được vui.

Ngoài người mẹ đã sinh ra thân xác, chúng ta còn có một người Mẹ Hiền mà Giáo hội mừng kính trong Tháng Năm, Thánh Hoa này, đó là Đức Mẹ Maria. Và trong tuần này, cùng với Giáo hội, chúng ta mừng kỷ niệm 100 năm Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với 3 trẻ là Lucia lúc đó 10 tuổi, Phanxicô 9 tuổi, và Gia-xin-ta 7 tuổi, đang chăn đoàn chiên tại cánh đồng, ở một làng quê có tên là Fatima, nằm giữa trung tâm nước Bồ Đào Nha.  Từ ngày 13 tháng 5, đến ngày 13 tháng 10, năm 1917, Đức Maria đã hiện ra với 3 em nhiều lần, và nhờ 3 em chuyển một thông điệp đặc biệt của Mẹ đến cho mọi người, nhất là đến với các Ki-tô hữu chúng ta, là những người con có lòng yêu mến Mẹ.  Thông điệp này là: Cải thiện đời sống; Tôn sùng Mẫu Tâm và Năng lần hạt Mân côi.  Sự kiện hiện ra và thông điệp này đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Huyền Linh, sáng tác bài thánh ca “Lời Mẹ Nhắn Nhủ”, với những lời ca mà chúng ta quen thuộc và thường hát  như sau: “Năm xưa trên cây sồi, làng Pha-ti-ma xa xôi.  Có Đức Mẹ Chúa Trời, hiện ra uy linh sáng chói.  Mẹ nhắn nhủ người đời, hãy mau ăn năn đền bồi, hãy tôn sùng Mẫu Tâm, hãy năng lần hạt Mân Côi.” 

Như mọi người đã biết, trong tuần vừa qua, Đức thánh cha Phan-xi-cô đã đến Fatima để cùng với hơn 1 triệu tín hữu cử hành ngày kỷ niệm này và nâng 2 em Phan-xi-cô và Gia-xin-ta lên bậc hiển thánh. Trong buổi chiều lần hạt Mân côi cùng với khách hành hương đến từ mọi nơi, Đức thánh cha Phanxicô kêu gọi mọi người xét xem Đức Maria của họ là ai, và nhấn mạnh rằng: “Nếu muốn là người Kitô hữu, ta phải là người Maria hữu.”  Ngài nói: “Hành hương với Đức Mẹ… Nhưng Đức Mẹ nào?  Một thầy dạy đời sống thiêng liêng, một phụ nữ “có phúc vì đã tin” Lời Thiên Chúa, người đầu tiên theo Chúa trên “con đường hẹp” của thập giá, hay một Đức Bà “không ai với tới” hay một “bức tượng thạch cao” mà ta đến xin ơn huệ với thật ít phí tổn?”  Đức thánh cha sau đó kêu gọi mọi người nếu yêu mến Mẹ Maria và là người con của Mẹ, thì hãy noi gương Mẹ sống lời Chúa Giê-su dạy bảo.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su hứa với các môn đệ trước khi chia tay từ giã các ông để đi vào cuộc khổ nạn rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó.”

Ông bà anh chị em thân mến. 

Đây là lời Chúa hứa với các môn đệ ngày xưa, nhưng chúng ta xác tín đây cũng là lời Chúa hứa với tất cả chúng ta hôm nay, những người tin yêu mến Chúa.  Chúa hứa với chúng ta Người sẽ dọn một chỗ cho chúng ta trên nhà Cha trên Thiên đàng, để Chúa ở đâu, thì chúng ta sẽ ở đó.  Chúa còn chỉ bảo cho chúng ta biết: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.”  Có nghĩa là chúng ta có một chỗ trên Thiên đàng và sẽ ở nơi đó nếu chúng ta thực hành những điều Chúa dạy bảo.  Thứ nhất là đi đúng con đường Chúa đã chỉ cho: là con đường tự chế, không đi ra ngoài điều răn của Chúa, biết làm những việc đạo đức, chấp nhận hy sinh, thiệt thòi, và biết khiêm nhường hy sinh phục vụ. Tất cả những cố gắng ấy là những bước chân đi theo con đường hẹp mà chính Chúa Giê-su đã đi trước, và Đức Maria cũng đã đi. Chúng ta biết đường có nhiều loại, và đường nào cũng có ranh giới hai bên, có khởi đầu và điểm đến.  Chúng ta không thể đi ra ngoài ranh giới con đường của Chúa đã đi và chỉ bảo chúng ta mà có thể đến Chúa Cha và đích điểm là Thiên đàng được.  Thứ hai là cố gắng sống chân lý sự thật Chúa dạy là giới luật yêu thương, sống bác ái và quảng đại.  Đó là chân lý, là cốt lõi đạo Chúa, đạo của chúng ta.  Chúa sẽ căn cứ vào tình yêu thương và quảng đại chúng ta sống để phán xét và ban thưởng chỗ dành sẵn cho chúng ta, hay phạt chúng ta ở nơi đau khổ triền miên. Và thứ ba, chúng ta phải kết hợp mật thiết với sự sống của Chúa, là được nuôi dưỡng đời sống mình bằng Lời Chúa và Thánh Thể.  Đó là lương thực nuôi linh hồn và kết hợp linh hồn với Chúa.  Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống thân cây và cành như thế nào, thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Thánh Thể như vậy.

Ông bà anh chị em thân mến. Nếu chúng ta muốn lên chỗ ở mà Chúa dọn sẵn cho chúng ta, thì chúng ta hãy cố gắng sống 3 sứ điệp Fatima của Đức Mẹ Maria: “Cải thiện đời sống; Tôn sùng Mẫu Tâm; năng lần Hạt Mân Côi.”  Nhất là nghe lời Mẹ Maria khuyên bảo, sống Lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay, đó là đi đúng con đường Chúa chỉ bảo, sống chân lý Chúa dạy, và kết hợp mật thiết với sự sống của Chúa. Còn nếu chúng ta không muốn ở chỗ Chúa đã dọn sẵn là do sự tự do quyết định và là lỗi của chúng ta chứ không phải do ai khác. 

Trong tuần mừng Ngày Của Mẹ hôm nay, xin chân thành chúc mừng tất cả người mẹ trong giáo xứ và hiện diện trong Thánh lễ, nhất là các hội viên của Hội Hiền Mẫu. Xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Hiền Mẫu Maria, ban nhiều ơn lành cho các người mẹ trong ngày vui mừng này.  Và xin Mẹ cũng cầu bầu cho tất cả chúng ta, là con cái của Mẹ, biết lắng nghe và sống lời Con Mẹ dạy, để chúng ta được sống trong bằng an, ơn lành, cùng được hạnh phúc Nước Trời như Mẹ.

-------------------------------------

 

PS 5-A167: CHÚA NHẬT V PHỤC SINH NĂM A (07/05/2023)


«THẦY LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG»

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Là Kitô hữu việc tham dư thường xuyên PhụngVụ Lời Chúa và PhụngVụ Thánh Thể giúp chúng PS 5-A167


Là Kitô hữu việc tham dư thường xuyên PhụngVụ Lời Chúa và PhụngVụ Thánh Thể giúp chúng ta hiểu biết nhiều hơn sâu sắc hơa về Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người.  Các Tông đồ và các môn đệ thế hệ đầu cũng đã phải mất rất nhiều thời gian dể khám ra ra Chúa Giêsu, khám phá ra mối liên hệ của  Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha và mối liên hệ của Chúa Giêsu với các Tông đồ. Chúng ta đọc và suy niệm thật kỹ bài Phúc âm Chúa Nhât V Phục Sinh hôm nay thì chúng ta sẽ thấy những điều đó là đúng.

II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 14,1-12:   Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".

III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 10,1-10:

3.1 Mối liên hệ của Chúa Giêsu với các Tông đờ:Đó là nội dụng quan trọng thứ nhất của bài Phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu có mối liên hệ khắng khít mật thiết với các Tông đồ: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi".

3.2 Mối liên hệ của Chúa Giêsu với Thiên Chùa Cha: Đó là nội dụng quan trọng thứ hai của bài Phúc âm hôm nay.  Chúa Giêsu có mối liên hệ khắng khít mật thiết với Chúa Cha: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người".

Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha".

IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 10,1-10:  

4.1 Chúng ta hãy để Chúa Giêsu thíết lập mối liên hệ mật thiết với chúng ta Trong việc hệ trọng này chính Chúa Giêsu là người đi bước trước, là người chủ động . Chúng ta chỉ cần để cho Người hành động

4.2 Chúng ta hãy để Chúa Giêsu đưa chúng ta vào mối liên hệ mật thiết với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã nói rất rõ: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”

V. Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN

KHAI MỞ:  Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô là Đấng đưa các Tồng đồ và tín hữu vào mối liện hệ mất thiết với Người và với Chúa Cha. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.

1.-« Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người trở thàanh môn đệ Chúa Giêsu Kitô.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

2. «Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy theo chân Chúa Giêsu một cách triệt để.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

3.- «Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho giáo dân trong giáo xứ chúng ta và trong các giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu khám rphá ra mối liện hệ mậy thiết giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

4.- «Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các Kitô hữu cảm nghiệm được những việc lớn lao mà con người là, được khi họ tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

LỜI KẾT:

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Người đưa chúng con vào mối liện hệ mật thiết với Người và với Chúa Cha

Chúng con xin dâng lên Cha lời tri ân cảm tạ ngợi khen và quyết tâm sống trong hai mối liên hệ quý giá ấy.  Chúng con cầu xin Chúa nhận danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.

Sàigòn ngày 06 tháng 05 năm 2023

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

------------------------------------

 

PS 5-A168: ĐỪNG XAO XUYẾN

 

Bài Tin mừng Chúa nhật V Phục sinh đưa chúng ta trở lại với phòng tiệc ly. Trong bầu không khí PS 5-A168


Bài Tin mừng Chúa nhật V Phục sinh đưa chúng ta trở lại với phòng tiệc ly. Trong bầu không khí trầm buồn, các môn đệ đã cảm nhận được cuộc thương khó của Thầy mình. Trả lời cho câu hỏi của ông Phê-rô: Thày đi đâu vậy?”, Chúa Giê-su nói: “Nơi Thầy đi bây giờ, anh không thể theo đến được”. Dường như giữa thày trò có điều không hiểu nhau. Một đàng là Phê-rô dứt khoát đoan hứa trung thành, đàng khác Chúa lại báo trước ông sẽ chối Người. Chính trong bối cảnh này, Chúa Giê-su trấn an các môn đệ: Lòng các con đừng xao xuyến.

Xao xuyến là tâm trạng của người đang lo lắng sợ hãi và bất an. Xao xuyến làm cho người ta mất ăn mất ngủ, đôi khi vì nỗi sợ mơ hồ khó định hình. Tâm trạng của các môn đệ trong phòng tiệc ly là sợ hãi và hoang mang.  Độc giả hôm nay cần lưu ý rằng, các Tin mừng đều được viết sau biến cố phục sinh, khi những gì Chúa tiên báo đã được thực hiện. Vì thế, chúng ta phải đặt mình vào tâm trạng của các môn đệ trước Phục sinh. Các ông thực sự chưa hiểu những gì Chúa nói. Có nhiều dẫn chứng trong Tin mừng cho thấy điều ấy.

Để trấn an các môn đệ, Chúa Giê-su mặc khải cho các ông những giáo huấn quan trọng. Những giáo huấn này làm nên cốt lõi đức tin Ki-tô giáo.

Bài học thứ nhất: Đừng xao xuyến, vì Chúa Giê-su ra đi là về nhà Cha. Khái niệm “về nhà Cha” chúng ta thường dùng để diễn tả một tín hữu vừa qua đời. Ki-tô hữu là người tin vào Chúa Cha, nhờ mạc khải của Đức Giê-su. Chúa Cha là nguồn gốc mọi sự, và là đích điểm mọi loài. Chúa Giê-su từ Chúa Cha mà đến, nay Người lại trở về với Chúa Cha, như trở về với nguồn cội của mình. Việc về với Chúa Cha, khẳng định Người là Con Thiên Chúa. Người đến trần gian để thi hành sứ vụ cứu độ con người. Nay sứ vụ ấy đã hoàn tất, Đức Giê-su như vị tướng lãnh chiến thắng huy hoàng, trở về trong vinh quang và trong lời tung hô của các thiên thần.

Bài học thứ hai: Đừng xao xuyến, vì Chúa cho chúng ta biết tương lai và đích điểm của đời người. Như Chúa Giê-su đã về với Chúa Cha, người tin vào Người cũng được về với Chúa Cha như vậy. “Nhà của Cha Đức Giê-su” cũng là nhà của Cha chúng ta. Giáo lý của Giáo hội dạy chúng ta: chết không phải là hết. Chết là ra đi, là biến đổi. Chết là bước vào cuộc xuất hành mới. Cuộc xuất hành này có đích điểm là Thiên Chúa Ba Ngôi. Những ai trung tín với Chúa, sẽ được hưởng vinh quang nơi cung lòng Ba Ngôi Thiên Chúa, trong hạnh phúc viên mãn. Bài Tin mừng này thường được đọc trong Thánh lễ an táng và Thánh lễ cầu hồn, để hướng tín hữu đến niềm hạnh phúc vĩnh cửu, ngay trong lúc thương đau mất đi một người thân. Được soi sáng bởi Lời Chúa, chúng ta là người còn sống, tin rằng người thân của chúng ta ra đi là về với Chúa.

Bài học thứ ba: Đừng xao xuyến, vì chúng ta có Chúa Giê-su là Đấng dẫn đường. Từ cổ chí kim, chưa ai có thể tuyên bố như Đức Giê-su: “Tôi là Đường, là Sự thật và là Sự sống”. Đức Giê-su có thể khẳng định điều này vì Người là Thiên Chúa, Đấng Hằng sống và Đấng ban sự sống cho loài người. Nếu con đường về nhà Cha đầy gian nan thử thách, thì chúng ta có Chúa Giê-su là Đường dẫn chúng ta đi. Nếu tư tưởng và lý trí con người dễ lầm lạc, thì chúng ta có Chúa là nguồn Chân lý, giúp chúng ta nhận ra lẽ phải. Nếu con người tự bản tính phải chết, thì Chúa Giê-su, Đấng Phục sinh, sẽ ban cho chúng ta sự sống mới qua nghi thức Thanh tẩy. Nhờ Chúa Giêsu chỉ đường, chúng ta sẽ tiến bước bình an và không sợ lạc lối. Chúa Giê-su khẳng định với các môn đệ: ngay từ bây giờ anh em đã biết Chúa Cha và đã thấy Chúa Cha. Phải hiểu điều này thế nào? Chúa Cha là Đấng vô hình, nhưng con người có thể gặp gỡ Chúa Cha, khi gặp gỡ Chúa Giê-su, bởi lẽ “Ai thấy thầy là thấy Cha”. Đây quả là một huyền nhiệm. Qua Đức Giê-su, con người có thể gặp gỡ Chúa Cha và tâm sự với Ngài.

Bài học thứ tư: Đừng xao xuyến, vì chúng ta được trở nên dân tư tế nhờ Đức Giê-su. Ý niệm “dân tư tế” đã được đề cập trong Thánh lễ Dầu ngày thứ Năm Tuần Thánh. Phụng vụ Chúa nhật V Phục sinh mượn lời trong thư của thánh Phê-rô để nhắc lại vinh dự cao quý này. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, tất cả các Ki-tô hữu đều được chia sẻ ba chức năng của Đức Giêsu: đó là chức năng Ngôn sứ, chức năng Tư tế và chức năng Vương đế. Chức năng tư tế nơi người tín hữu giáo dân khác với nơi các linh mục có chức thánh. Công đồng Vatican II định nghĩa chức năng tư tế của người giáo dân là chức tư tế cộng đồng. Toàn dân Ki-tô giáo đều có chức năng tư tế, để tôn vinh cảm tạ Thiên Chúa và dâng chính đời sống của mình làm của lễ thơm tho ngọt ngào lên Thiên Chúa. Ba chức năng cao quý này làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su, để cộng tác với Người, đem ơn Cứu độ cho thế giới.

Bài học thứ năm: Đừng xao xuyến, nhưng hãy tin vào sự hiện diện của Chúa Giê-su và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Mặc dù Đức Giê-su đã về trời, nhưng Người vẫn hiện diện trong Giáo hội. Bài đọc thứ nhất, trích sách Tông đồ Công vụ nói về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và tác động của Ngài nơi cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi. Cũng như Chúa Thánh Thần luôn ở với Chúa Giê-su trong sứ vụ loan báo Tin mừng, Chúa Thánh Thần cũng luôn ở với Giáo hội là thân thể huyền nhiệm của Đức Giê-su. Chúa Thánh Thần là sức sống và là linh hồn của Giáo hội. Nhờ Ngài soi sáng mà Giáo hội kiên vững trước mọi biến cố thăng trầm. Ngay từ ban đầu, các tông đồ đã ý thức được tác động soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần làm cho các ông nên mạnh mẽ phi thường khi phải điệu ra trước Thượng Hội đồng Do Thái. Tác vụ của bảy vị phó tế đầu tiên, cùng với nghi thức đặt tay xin ơn Chúa Thánh Thần, đã chứng minh điều ấy.

Giữa một cuộc sống đầy bon chen tính toán và bất an bất ổn, Chúa vẫn đang khích lệ chúng ta: đừng xao xuyến. Lời Thánh vịnh 32 trong phần Đáp ca nói với chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương; hầu cứu họ khỏi tay thần chết, và nuôi sống trong cảnh cơ hàn”. Như thế, một điều kiện quan trọng để được Chúa gìn giữ khỏi mọi tai hoạ và âu lo, đó là sống công chính. Nơi khác Chúa nói với chúng ta: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ ban thêm cho” (Mt 6,35). Những ai tin vững vàng nơi Chúa, sẽ có thể tự tin khẳng định như tác giả Thánh vịnh: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4). mục lục

+ ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên

---------------------------------

 

PS 5-A169: HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA

 

Thế giới hiện nay chúng ta đang sống súng chưa ngừng nổ, đạn tiếp tục rơi, vũ khí giết người hàng PS 5-A169


Thế giới hiện nay chúng ta đang sống súng chưa ngừng nổ, đạn tiếp tục rơi, vũ khí giết người hàng loạt đang rình rập đe dạo con người, khiến cho lòng người xao xuyến, đức tin bị thử thách. Giống như các môn đệ, chúng ta thấy đức tin của mình bị lung lay vì chẳng những cá nhân mình mà cả thế giới đều lo âu, sợ hãi. Lo cho bản thân, lo gia đình, người thân, ông bà cha mẹ và con cái. Sợ loạn lạc, sợ đói khổ, sợ chết.

Lời Chúa Giê su nói: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy " (Ga 14,1), đúng là một tiếng chuông vang thức tỉnh niềm tin của cả nhân loại và trấn an thế giới, một liều thuốc thần tiên giúp chúng ta bớt sợ hãi, an tâm, tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Lời ấy đã từng vang vọng bên tai các tông đồ khi tình thầy trò chuẩn bị đôi ngả đôi nơi. Từ giã Thầy yêu quí, tâm trạng các môn đệ không khỏi " xuyến xao", vì họ hiểu rằng con đường Thầy đi qua sẽ là cái chết ; họ lo cho sự sống của chính mình, Thầy chết thì trò chắc gì sống. Thấu hiểu lòng trò, Thầy trấn an: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14, 1). Khi nói thế, Chúa Giêsu không chỉ quả quyết rằng cái chết không thể cầm giữ được Người nữa, Người còn cho các môn đệ biết Người sẽ làm một cuộc xuất hành với các ông để mở lối đi cho dân mới của Thiên Chúa.

Quả thật, Chúa Giêsu là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống. Người chính là Con Đường dẫn đến Chân Lý và Chân Lý ấy dẫn đến Sự Sống đời đời. Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho chúng ta. Người không chỉ đưa ra những lời khuyên dạy, chỉ hướng đi mà thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn chúng ta đi. Người cùng đi với chúng ta, đích thân Người thêm sức cho chúng ta, hướng dẫn chúng ta mỗi ngày. Chính Người là Đường dẫn đến Chúa Cha, vì chính Người đã mạc khải Chúa Cha (x.Ga 12,45), tuy Người bởi Chúa Cha mà đến và về với Chúa Cha (x.Ga 7,29-33), nhưng Người lại là một với Chúa Cha (Ga 13,30) vì chính Người là chân Lý và là Sự Sống (x.Ga 3,15).

Chúng ta có thể tóm tắt điều Chúa Giêsu muốn nói: nếu không nhờ Thầy, không ai đến được với Chúa Cha. Chỉ một mình Thầy là Đường đến với Thiên Chúa. Chỉ trong Thầy nhân loại mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Thầy đưa chúng con đến với Thiên Chúa Cha mà thôi.

Chiến tranh leo thang bao nhiêu sinh mạng bị ngã xuống, vũ khí hạt nhân được nhắc đến, gây ra bao lo âu, sợ hãi, không biết rồi sẽ ra sao! Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa là Thiên Chúa của Israel, Đấng đã cứu dân Ngài vượt qua Biển Đỏ, nay hãy tiếp tục tin vào Ngài và tin vào Đấng Ngài sai đến là Chúa Giêsu Kitô, Người cũng sẽ cứu chúng ta vượt qua dòng nước của sự chết, bởi chính Người: "là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6). Ai bước đi trên đường Giêsu, thì sẽ về được với Chúa Cha, vì không có con đường nào khác để về cùng Chúa Cha, để đạt tới mục cùng đích của kiếp người, ngoài con đường Giêsu, như Người tuyên bố: "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6).

Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Lý; Nhờ Chúa Giêsu chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ở trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu, ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là Sự Sống; Người đến thế gian trao ban sự sống cho con người, để con người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi lỗi âu lo, khỏi sự dữ, khỏi tội lỗi, nhất là khỏi chết đời đời.

"Thầy đi để dọn chỗ cho các con " (Ga 14,2). Người đi chuẩn bị cho mỗi người một chỗ, đích thân Người sẽ trở lại đón chúng ta đi. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà "Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta" (Ga 20,17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng Chúa Cha.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cứu chữa và giải thoát chúng con khỏi xuyến xao, lo âu, sợ hãi và cái chết hôm nay. Lạy Mẹ Maria, giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

-----------------------------------

 

PS 5-A170: CHÚA LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ SỰ SỐNG

 

Chúa Giêsu đã nói “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” Cách nói này đã diễn tả một cách PS 5-A170


Chúa Giêsu đã nói “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” Cách nói này đã diễn tả một cách rất vắn gọn ý nghĩa thực của Đạo. Đi đúng “đường”, hiểu biết đúng “sự thật” thì sẽ có “đời sống thực sự”. Hai bài đọc 1,2 và bài Tin Mừng Phúc Âm Gioan của Chúa Nhật này là những bổ túc cho ý nghĩa thâm sâu đầy súc tích ấy về đạo.

Bài đọc 1 (Cv 6:1-7) nói về cuộc tranh luận giữa người Hellenist và người Do Thái. Người Hellenists được kể như là dân Do Thái theo Kitô giáo nói tiếng Hy Lạp, người Do Thái thì nói tiếng Aramaic. Người Hellenists cảm thấy có sự khác biệt trong cách đối sử ở những bữa ăn chung trong cộng đồng.

Sách Công vụ Tông đồ trình bày câu chuyện kêu gọi các môn đệ và truyền chức phó tế đầu tiên trong Giáo Hội. Câu chuyện ngắn này nói về nỗi buồn phiền đã xẩy ra trong một Giáo Hội còn non trẻ. Sách Công vụ Tông đồ cho thấy Giáo Hội sơ khai lúc đó đã cố gắng xây dựng đoàn kết trong đời sống cộng đồng và tình nghĩa môn đệ, để rồi vươn tới một tình bác ái (x. Cv 2:42-47). Tuy nhiên ở đây có điều bất ổn vì một số người than phiền là nhu cầu của họ không được đặc biệt để ý tới như những người khác. Nhất là những thành viên nói tiếng Hy Lạp, là những góa phụ bị quên lãng “không được phân phát thức ăn hằng ngày”. Niềm đau này đã có trong Giáo Hội dưới nhiều hình thức. Người Hellenists thì có hai khác biệt rõ ràng về văn hóa và ngôn ngữ. Tình trạng thiên kiến này đã xẩy ra ở Giáo Hội sơ khai tại Jerusalem rồi lan tới các Giáo Hội truyền giáo ở những nơi khác. 

Cũng cần phải để ý là bảy người được chọn làm phó tế lúc đó đều là những người Hy Lạp. Họ là những người Hellenists và phải phụ thuộc vào các tông đồ là những người giữ truyền thống để được trao cho một phần quyền hành qua lời cầu nguyện và đặt tay trên họ. Sách công vụ tông đồ thì nói rõ ràng về những trách nhiệm của các tông đồ: Họ là những thừa tác viên có nhiệm vụ cầu nguyện và giảng Lời Chúa. Trách nhiệm của bảy người phó tế được chọn này thì không rõ ràng nhưng coi như là để tham dự vào việc phục vụ cho những nhu cầu của những người thường bị quên lãng, cụ thể là những góa phụ là những người mà Thiên Chúa hứa phải bảo vệ và cần được giúp đỡ (x. Jeremiah 49:11). Thánh Luca cho thấy việc mở rộng quyền lãnh đạo của các Tông đồ đã rất thành công vì các Tông đồ được rảnh rang để loan truyền Lời Chúa giúp cho Giáo Hội tiếp tục lớn mạnh. Việc xung đột nội bộ này đã giúp cho Luca thấy được nhu cầu cần phải mở rộng nhiều mục vụ khác nhau khi mà Giáo hội lớn mạnh và trưởng thành.

Với bài đọc 2 (1 Pr 2:4-9) thánh Phêrô đã dùng Kinh Thánh làm ẩn dụ để nói về cách xây dựng ngôi nhà Giáo Hội được xây bằng những viên đá sống động là những giáo dân mà nền nhà là một tảng đá lớn là Chúa Giêsu.

Trong thư thứ nhất, thánh Phêrô nói về một nhóm Kitô hữu ở Tiểu Á bị hy sinh vào thời Neron và thị trấn Roma bị đốt cháy vào năm 64 AD. Đây là một trong bảy thánh thư của các Tông đồ -còn gọi là thư phổ quát- nói về quyền bính của Phêrô để khuyến khích người Kitô hữu nên kiên trì với hy vọng cứu chuộc qua Chúa Kitô dù cho bị thế gian chối bỏ và truy nã đắng cay.

Với một ngôn từ sống động, bức thư diễn tả sức mạnh cá nhân và niềm tin cộng đồng của những người đến với Chúa Kitô. Người Kitô hữu được miêu tả như những “viên đá sống động” xây thành ngôi nhà tâm linh mà nền nhà là Chúa Kito là một đá tảng. Dù Chúa bị loài người chối bỏ nhưng Thiên Chúa Cha đã chọn Người. Với “đá tảng sống động” này, đền thờ Giáo Hội sẽ vững chắc và không thể bị phá hủy. Theo Isaiah 28:16, Chúa Kitô chính là đá tảng của Giáo Hội, một loại đá “quí báu đã được chọn.”  

Do đó, niềm tin vào Chúa Kitô được coi như là một tặng phẩm có giá trị. Đối với những người không có niềm tin, dĩ nhiên họ có lý khi từ chối tặng phẩm đó, bởi vì họ không có hay không biết cách để nhận ra cái giá trị ấy. Lại nữa, theo tiên tri Isaiah, thì tảng đá bị từ chối này đã trở thành vấn đề lớn đối với chính dân của Người. Chúa Kitô là Đá này“sẽ làm cho nhiều người sa ngã” đối với những ai không tin (x. Isaiah 8:14). Không tin thì bị quở trách vì không vâng lời.

Sau cùng, kết luận của bức thư nói lên giá trị của việc những hòn đá sống động cùng nhau xây dựng. Người Kitô hữu vui hưởng sự chọn lựa của mình vì niềm tin của họ nơi Chúa Kitô. Tuy nhiên, như trong sách Xuất Hành (Exodus) mà Phêrô đã  nêu ra, khi Thiên Chúa chọn dân Israel làm “dân riêng của Người” thì Người cũng đặt họ vào hàng “tư tế vương quốc hay một quốc gia thánh” (x. Xh 19:6). Chỉ định này cũng đi theo với trách nhiệm. Khi bị truy tố tù đầy, người Kitô hữu không được trốn tránh và che dấu, nhưng phải tuyên xưng lời ngợi khen Thiên Chúa. Đến với Chúa Kitô là buộc phải từ chối bóng tối của vô minh, của không hiểu biết và tội lỗ, đồng thời phải ngụp lặn trong “ánh sáng kỳ diệu của Chúa.”

Qua bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay (Ga 14:1-12), Chúa Giêsu đã bảo đảm với các Tông đồ là “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” Thiên Chúa Cha ở trong Người và Người ở trong Chúa Cha. Ai tin vào Chúa Giêsu thì sống và hành sử  theo cách của Thiên Chúa.

Chương 14 của Tin Mừng Gioan là một phần của bài nói chuyện của Chúa Giêsu với các Tông đồ vào bữa tiệc ly. Gioan cho thấy Chúa Giesu đã biết rất rõ về niềm tin của các Tông đồ lúc đó thì rất yếu khi mà họ phấn đấu để cố tìm ra một đường hướng phải theo khi Chúa không còn ở với họ để hướng dẫn họ nữa. Chúa bảo các môn đệ đừng có sợ, là Người ám chỉ đến cái chết và phục sinh của Người, ngay cả khi Người trở lại. Vào thời Gioan viết Tin Mừng của ông thì sự hiểu biết về việc Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai không có thay đổi nhiều kể từ lúc một vương quốc đầy quyền uy được thiết lập cho đến khi mọi người đều tin vào việc Chúa Kitô sẽ trở lại để tụ họp tất cả những ai tin vào Người. Vì lý do đó mà Chúa Giêsu đã nói về việc phải chuẩn bị trước “nhiều chỗ ở” cho tất cả mọi người đang chờ mong ngày giờ Chúa trở lại.

Để trả lời việc Chúa nói về sự ra đi của Người, ông Tôma đã nói lên những lo lắng và ưu tư chính của tất cả các môn đệ là “Chúng con không biết Thầy sẽ đi đâu.” Chúa Giêsu đã trả lời:“Ta là đường, là sự thật và là sự sống.” Người Kitô hữu cũng được gọi là“đường” (Cv 9:2). Những từ “sự thật” và “sự sống” cũng được hiểu là đường. Rất đơn giản, theo Tin Mừng Gioan, có niềm tin là có suối nguồn của sự thật và sự sống. Đôi lúc niềm tin của người Kitô hữu bị lung lay và suy giảm là vì Chúa Giêsu chưa trở lại. Cách Chúa tự diễn tả về mình là có ý giúp cho niềm tin đó của họ được vững mạnh.

Chúa Giêsu nói: đi sát và hành sử theo cách của Người là con đường duy nhất để mọi người có thể đến được với Thiên Chúa. Tuy nhiên các môn đệ vẫn còn bối rối và ưu tư chưa thỏa mãn vì chính mắt họ vẫn không “nhìn thấy” được Thiên Chúa. Khi Phillíphê đặt vấn đề này ra thì Chúa Giêsu bèn quở trách tất cả các ông là đã không nhìn ra và chẳng hiểu gì cả về sự thiết thân giữa Chúa và Cha Người. Sự thân mật này đã được nói đến xuyên suốt trong Tin Mừng Gioan, bắt đầu ngay ở lời mở đầu nói về Kito học, diễn tả Chúa Giêsu là LỜI ở cùng Thiên Chúa từ trước khi có trời đất vũ trụ (x. Ga 1:1). Đối với những ai đọc Gioan mà không thể nhìn thấy Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt thì phải dựa vào niềm tin của mình và hoàn thành những việc lớn lao vì danh Người thì đã là những dấu chỉ đủ để biết Con Người và Cha Người là một. Những ai đã nhìn thấy Chúa bằng con mắt niềm tin thì cũng nhìn thấy “đường, sự thật và sự sống.” Thị kiến này còn vĩ đại hơn bất cứ một một cái gì có được do nhận thức, ý thức hay cảm thấy của một người thường trần tục.

Nguyễn Tiến Cảnh.

--------------------------------

 

PS 5-A171: HÃY YÊU! TÌNH YÊU CHO BIẾT PHẢI LÀM GÌ

 

Tuần rồi, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử nhân lành đã và vẫn chăn dắt đàn chiên của PS 5-A171


Tuần rồi, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử nhân lành đã và vẫn chăn dắt đàn chiên của Người là chính chúng ta trong tình yêu. Nhưng mối tình ấy không đơn thuần là tình của những người yêu nhau (bạn bè, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em… chẳng hạn), trao tặng cho nhau. Nó không đơn thuần là tình yêu trên phương diện con người. Nhưng là tình yêu của Đấng mang trái tim Thiên Chúa đã làm người. Tình yêu của Chúa Kitô, vì thế, là thứ tình quý giá vô cùng.Đó là thứ tình yêu có một không hai, ngoài Chúa Kitô, ta không thể có được, càng không thể tìm kiếm bất cứ nơi đâu.

“Thiên Chúa làm người”, nói thì đơn giản, thực tế đó là cả một triết lý cao sâu, nhưng không thuộc về lý trí, lại vượt  lên trên tất cả những gì mà lý trí có thể nắm bắt.

Đó là chân lý tuyệt đối, chân lý thuộc về mầu nhiệm đức tin, một mầu nhiệm lớn mà con người chỉ có thể sống bằng sự cảm nghiệm và lòng tin.

Vừa là triết lý nhưng không thuộc về lý trí, lại là mầu nhiệm của đức tin, bởi ta không thể hiểu nổi, không thể tưởng tượng nổi vì sao lại có một tình yêu vĩ đại đến thế, tình yêu của Đấng quyền năng, cao trọng vô cùng, vượt trên tất cả mọi loài, mọi sự, còn hơn thế, là chủ tể của mọi loài, mọi sự, lại có thể hạ mình để nên một trong những thụ tạo do chính mình dựng nên.

Nhưng điều mà loài người không một chút mảy may hiểu được, càng không bao giờ dám nghĩ tới, lại là sự thật. Thiên Chúa đã làm nên và đã trao ban sự thật rất đỗi kỳ diệu để làm bằng chứng hùng hồn, chứng minh tình yêu quá sức lớn lao của Người.

Bởi vậy, nhìn vào tình yêu cuồn cuộn và mãnh liệt, không bờ bến của Thiên Chúa, ta hãy đặt bước chân đời mình vào những bước yêu thương  của Thiên Chúa để sống với nhau, sống cho nhau, hiến thân vì nhau.

Với kinh nghiệm về sức mạnh của tình yêu, chúng ta dám khẳng định, trong tình yêu, người ta có thể vượt thắng mọi khó khăn, dù khó khăn đó lớn đến đâu đi nữa, để chỉ thỏa mãn một điều  kiện duy nhất: làm cho người mình yêu hạnh phúc.

Cả cuộc đời Chúa Giêsu là thế: Chúa chấp nhận trao hiến chính mình để mưu cầu hạnh phúc cho ta. Bởi khi sinh ra làm người trong thân phận một bé thơ, người san sẻ đến cùng thân phận cùng cực, mong manh, yếu đuối của ta. Suốt ba mươi năm sống thầm lặng trong gia đình Nadarét, bên cạnh Đức Maria, thánh Cả Giuse, Chúa Giêsu đã cùng đồng hành với những người nghèo hèn, chấp nhận sống nghèo, sống vất vả.

Ba năm rao giảng Tin Mừng để loan báo ơn cứu độ, loan báo Nước trời cho trần gian. Chúa chấp nhận chết đau thương, ai oán vì lợi ích phần rỗi của chúng ta. Sự sống sau phục sinh của Chúa, không phải chỉ vì vinh quang của chính Chúa mà thôi, nhưng Chúa sống lại là để ta được sống đời đời.

Rồi hôm nay, chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người ấy, trước khi từ giã các môn đệ đã nói những lời hết sức cảm động, những lời yêu thương tràn đầy, mang dáng dấp của sự lưu luyến thẳm sâu: “Thầy đi dọn chỗ cho các con, rồi Thầy sẽ trở lại mang các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó với Thầy”.

Những lời hết sức tâm tình, ấm áp, chất chứa một tình mến không gì sánh nổi ấy, cũng là lời đầy an ủi không chỉ riêng cho các tông đồ ngày xưa, nhưng còn cho mỗi môn đệ của Chúa hôm nay.

Lắng nghe lời trăn trối chất chứa nỗi lòng yêu thương và an ủi của Chúa Giêsu, ta chấp nhận cuộc sống của chính mình, dẫu còn đó nhiều long đong, khổ ải, để như Chúa Giêsu, khi đã đi qua cuộc đời này, chúng ta được cùng Người đến nơi mà chính Người đã đến và đã dọn sẵn cho ta.

Hóa ra cũng giống như cả cuộc đời trần thế để hiến thân, để ban tặng, sau khi phục sinh, Chúa về trời, thì sự được tôn vinh trên trời ấy cũng lại quy về chúng ta. Ra đi, nhưng không phải vĩnh biệt mà là chuẩn bị, là “dọn chỗ” để “Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”.

Hạnh phúc quá đỗi, vinh dự quá đỗi cho loài người. Tưởng chừng bản thân mỗi người chỉ là mong manh, là nhỏ bé, là khó có thể hoàn thiện, lại được chính Thiên Chúa là Chúa của mình yêu thương cúi xuống để cứu chữa, để nâng đỡ, để phục vụ mình. Một tình yêu không thể tưởng tượng, chỉ còn có thể lặng đi mà chiêm ngưỡng, mà cảm nghiệm.

Cả cuộc đời Chúa Giêsu: sinh ra, lớn lên, đi rao giảng, chịu đóng đinh, chết, sống lại, lên trời, đều vì chúng ta, vì hạnh phúc vĩnh cửu của loài người.

Chỉ có một tình yêu lớn lao như tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu của Đấng mang trái tim Thiên Chúa đã làm người, mới có thể mạnh mẽ, mãnh liệt như thế, mới trở nên quá đỗi kỳ diệu và tuyệt vời như thế.

Chúng ta nói với nhau, trong tình yêu, người ta có thể vượt thắng mọi khó khăn, dù khó khắn đó lớn đến đâu, để làm cho người mình yêu hạnh phúc. Thì đây, Chúa Kitô là như thế. Tình yêu của Chúa Kitô là tình yêu vượt thắng, vượt lên trên mọi khó khăn, mọi thách đố để mang lại hạnh phúc cho ta, những kẻ được Người yêu mến vô cùng.

Hôm nay Chúa vẫn đang mời gọi hãy yêu thương, hãy bắt chước chính Chúa mà sống đời sống yêu thương.

Không có mẫu số chung để bày tỏ lòng yêu thương cho hết mọi người, mọi hoàn cảnh. Chúng ta hãy yêu. Tình yêu sẽ dạy ta biết phải làm gì để bày tỏ lòng yêu thương và sống lòng yêu thương suốt đời mình.

Người ta kể rằng, Helen Keller là một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở nên không còn xa lạ với thế giới. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh trở thành mù lòa và câm điếc suốt đời. Thế giới âm thanh và màu sắc đã đóng chặt cánh cửa lại với cô.

Làm sao để có thể truyền đạt kiến thức cho một người vừa câm, vừa điếc, lại mù lòa? Helen Keller và cả cha mẹ cô đều chịu thua, hầu như cô và mọi người đã đầu hàng số phận.

Nhưng có một “thiên thần”, bằng tình yêu, sự hy sinh của bản thân đã “làm phép lạ” để giúp đỡ cô. Vị thiên thần có cái tâm cao cả đó chính là cô giáo Anna Sullivan. Anna đã không chạy trốn khi đến với người học trò quá bất hạnh của mình. Hy vọng duy nhất mà cô có thể truyền thông kiến thức và liên lạc với Helen Keller là tiếp xúc với đôi bàn tay của cô gái này.

Đúng là phép lạ cả thể. Chỉ với ngôn ngữ tiếp xúc trên đôi bàn tay, Helen Keller đã có thể học xong đại học, lấy bằng tiến sĩ, và trở thành nhà văn nổi tiếng khắp thế giới.

Chính trong nỗi bất hạnh tưởng như tột cùng của mình, Helen Keller lại là người hạnh phúc. Bởi cô có được một người thầy đẹp quá, đáng yêu quý, đang trân trọng, đáng cho tất cả mọi người noi gương biết bao nhiêu.

Chỉ có tình yêu chân thực, người ta mới có thể mang lại hạnh phúc cho nhau. Chúa Kitô, chính vì yêu, đã cúi xuống cho ta.

Chúa sống lại để trả lại hạnh phúc đời đời do chính ta đã đánh mất trong tội. Nay Chúa về cùng Cha để hạnh phúc của ta nên trọn, đúng như lời Chúa: “Thầy đi dọn chỗ cho các con…”.

Bởi vậy, như Chúa Giêsu, ta cũng được mời gọi mang lại hạnh phúc cho anh chị em quanh mình. Câu chuyện về cô giáo Anna Sullivan và người học trò bất hạnh Helen Keller là một điển hình để bạn và tôi có thể lấy làm bằng chứng sống mà tìm ra đáp số củng cố lòng yêu thương nơi chính mình.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

--------------------------------

 

PS 5-A172: CHÚA GIÊSU NGUỔN MỌI SỰ AN ỦI

 

Một trong những điều Chúa muốn chúng ta cảm nghiệm là sự bình an nội tâm. Thay vì lo PS 5-A172


Một trong những điều Chúa muốn chúng ta cảm nghiệm là sự bình an nội tâm. Thay vì lo âu, Chúa muốn chúng ta biết tĩnh lặng nội tâm. Khi cuộc sống bên ngoài khó khăn, Chúa muốn chúng ta bình an trong lòng.

Thánh vịnh 131:2 có viết: “Hồn con, con vẫn trước sau, giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui.” Thay vì khó chịu và tức giận vì những điều thực sự không quan trọng, hãy lặng lẽ an vui.

Châm ngôn 17:27 có viết “Người nói năng dè dặt là người hiểu biết, kẻ giữ được điềm tĩnh là kẻ khôn ngoan.” Một trong những lý do tại sao chúng ta để cho những điều như lo lắng, tức giận, sợ hãi và cay đắng xâm chiếm mình là vì có một số điều chúng ta không hiểu về hoàn cảnh, về bản thân hoặc về người khác, nhất là không hiểu về Thiên Chúa. Do đó chúng ta không có vũ khí chống lại cuộc tấn công của Satan nhằm hạ gục chúng ta vì lo lắng hoặc sợ hãi. Chúa nói với bạn và tôi hôm nay: “Cứ bình tĩnh và im lặng.”

Nhưng làm thế nào để để lớn lên trong sự hiểu biết và cảm nghiệm sự bình an nội tâm mà Kinh thánh nói đến? Chúa Giêsu giải thích điều này trong bài Tin mừng hôm nay.

Chúa Giêsu bắt đầu nói: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14:1). Hôm nay chúng ta có gặp rắc rối không? Rắc rối về đời sống hôn nhân của mình? Về tài chính của chúng ta? Về sức khỏe của mình? Về những gì mọi người sẽ nghĩ? Về những gì đã được thực hiện và còn có thể được thực hiện? Đây là những gì Chúa Giêsu nói với chúng ta. Ngài nói: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:4).

Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ của Ngài và chúng ta, hãy đặt niềm tin vào những gì mà Ngài hứa sẽ mang lại sự can đảm và sức mạnh mới cho cõi lòng đang xao xuyến của chúng ta.

Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy tin vào một con người.

Đầu tiên, Chúa Giêsu bảo chúng ta tin vào một con người. Khi một đứa trẻ sợ hãi trong đêm tối, nó tìm đến cha mẹ để được che chở. Đứa trẻ sẽ bám lấy bố hoặc mẹ và bắt đầu cảm thấy an lòng. Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tìm đến Ngài như con trẻ. Ngài nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” Ngài muốn nói với các môn đệ: “Như anh em tin tưởng vào Thiên Chúa, hãy tin tưởng vào Ta, bởi vì Thiên Chúa và Ta là Một. Ngài là Chúa Cha và Ta là Chúa Con, là một Thiên Chúa.” Chúa Giêsu đã chứng minh điều này bằng cách đi bộ trên mặt nước, dẹp tan bão tố, chữa lành người bệnh, khiến người chết sống lại và những phép lạ khác mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được. Chúa Giêsu đang yêu cầu các môn đệ tin vào một Con Người, chính là Ngài.

Chúng ta tự hỏi: “Tôi có tín thác vào Ngài không?” Tôi có tin Chúa Giêsu là Đấng đầy quyền năng và đầy lòng xót thương như Chúa Cha không: “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14: 10-11). Lời này của Chúa Giêsu được chính Ngài công bố hai lần liên tiếp, một lần dưới dạng câu hỏi dành riêng cho Philíphê: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” (Ga 14: 10), lần thứ hai dưới dạng một lệnh truyền nhưng mang tính khuyến khích cổ võ: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy.” Tôi có tin những gì Ngài làm là chính Chúa Cha làm không: “Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Ngài làm những việc của mình” (Ga 14: 11)? Tôi có đặt niềm tin vào Chúa Giêsu để được hướng dẫn vượt qua những âu lo xao xuyến và đến với những việc lớn lao mà Ngài đã hứa không: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa”? (Ga 14:12).

Chúa Giêsu bảo chúng ta tin vào một nơi ở

Để giúp chúng ta mạnh mẽ khi gặp khó khăn, Chúa Giêsu bảo chúng ta tin vào một nơi. Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14:2). Không có minh họa hay ví dụ nào có thể thực sự ngang bằng với những gì Chúa Giêsu đang thực sự nói ở đây. Chúng ta hãy tưởng tượng, một người đàn ông nhận một công việc mới ở một thành phố mới. Ông bắt đầu chuyển gia đình đến đó, nhưng ông ấy phải đi trước họ, bắt đầu công việc của mình và mua một ngôi nhà. Các con ông không hiểu tại sao ông phải ra đi và tại sao phải mất một thời gian dài như vậy chúng mới có thể gặp lại người cha thân yêu. Ông bế một đứa con lên và nói: “Bố sẽ đi trước các con. Bố sẽ xây ngôi nhà mà chúng ta đã nói đến, chuẩn bị phòng cho các con. Bố sẽ trở về đón các con đến đó, các con sẽ có một khoảng sân rộng để đi xe đạp, một khu vườn đầy hoa.” Đây là điều mà Chúa Giêsu đang làm cho chúng ta, nhưng một cách lớn lao và sâu sắc hơn. Ngài đang khuyến khích chúng ta, con cái của Ngài, suy nghĩ về tương lai tuyệt vời mà Ngài đang hoạch định cho chúng ta trong ngôi nhà mới là thiên đàng.

Chúng ta có bao giờ căng thẳng trong công việc và nghĩ về kỳ nghỉ trong hai tuần không? Ý nghĩ về kỳ nghỉ đó mang lại sự nhẹ nhõm và niềm vui để vượt qua căng thẳng trong cuộc sống. Thiên đàng cũng sẽ tương tự như vậy cho chúng ta. Thiên đàng khởi đầu từ đây và bây giờ, nơi Chúa Giêsu gọi là “nhà của Cha Thầy.” Nhà của Cha Trên Trời thì hoàn toàn khác các ngôi nhà trần gian. Đó là một ngôi nhà luôn có sự hiện diện của Cha, của bình an, tình yêu, niềm vui và sự đón nhận nhau. Khi nghĩ về “ngôi nhà” này mà chúng ta đang hướng đến, tâm hồn chúng ta được xoa dịu và đem lại chúng ta bình an trong một thế giới không như mong đợi hiện nay. Mọi thứ và con người trên thế giới này sẽ khiến chúng ta đau đớn, tổn thương và thất vọng, nhất là khi chúng ta mất đi một người thân yêu. Biết có thiên đàng ở đích đến giúp chúng ta tiếp tục leo núi và không bỏ cuộc. Có nhiều thứ thiện hảo Thiên Chúa dành sẵn cho cuộc sống mà chúng ta chưa thể thấy bây giờ, ở nơi Chúa Giêsu gọi là “Nhà của Cha”.

Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy tin vào một lời hứa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta tin vào một lời hứa: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).

Chúa Giêsu nói: “Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy.” Không ai biết khi nào, nhưng Chúa Giêsu sẽ trở lại. Đó là một lời hứa. Ngài đã giữ mọi lời hứa trong Lời Ngài và Ngài sẽ giữ lời hứa này. Chúng ta không nghi ngờ gì, nhưng trong khi chờ Ngài trở lại, chúng ta cần phải sống cho Ngài. Vì Chúa muốn ở với chúng ta. Chúa muốn đi chơi với chúng ta. Chúa muốn chúng ta sống với Ngài mãi mãi. Thật tuyệt vời khi chúng ta được ai đó muốn như vậy phải không? Vợ tôi/ chồng tôi muốn tôi ở bên. Các con tôi muốn tôi ở bên. Những đồng nghiệp cũng muốn tôi ở bên. Chúa muốn chúng ta ở bên Ngài: “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” Bạn và tôi không cảm thấy vui mừng hoan hỉ và hạnh phúc tràn đầy khi ngẫm nghĩ về lời Chúa Giêsu vừa nói sao?

Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy tin vào một kế hoạch.

Chúa Giêsu nói: “Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:4). Có thể chúng ta cũng sẽ hỏi như ông Tôma: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14:5). Vậy thì hôm nay chúng ta hãy nghe và ghi nhớ lời Chúa Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6).  

Điều đó nghĩa là gì và làm thế nào để đạt tới đó? Cha Anthony de Mello, một linh mục Dòng Tên người Ấn Độ và nhà trị liệu tâm lý, có viết một câu chuyện như sau: “Một hôm lang thang trên phố, tôi thấy một cửa tiệm với hàng chữ: Tại đây có bán chân lý”. Tò mò tôi bước vào. Cô bán hàng niềm nở đón tiếp tôi và hỏi: “Ông muốn mua loại chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện?”. Tôi cho cô biết dĩ nhiên tôi đang đi tìm thứ chân lý toàn diện, thứ chân lý không pha trộn giả dối, thứ chân lý mà lý trí tôi phải đầu hàng vô điều kiện.

Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu rồi chỉ sang một cửa tiệm khác, nơi có bán thứ chân lý mà tôi đang đi tìm. Ông bán hàng nhìn tôi với lòng thông cảm. Ông chỉ cho tôi xem giá cả của món hàng mà tôi muốn mua, rồi nói với tôi: “Thưa ông, giá của món hàng rất cao”. Đã cương quyết mua cho được chân lý toàn diện, tôi liền hỏi: “Giá bao nhiêu, xin cho tôi biết”. Người bán hàng trả lời: “Nếu ông muốn mua thứ chân lý này, ông phải trả bằng cả cuộc sống của ông”. Tôi bước ra khỏi cửa tiệm, lòng buồn rười rượi.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta, giống như người đi tìm chân lý trong câu chuyện, chưa tin tưởng đầy đủ và sống trọn vẹn đời mình cho Đấng tự xưng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu, chứ không phải luật lệ hay nghi lễ, là con Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống. Mỗi người chúng ta có quyết định tin tưởng nơi Ngài và tín thác đời mình cho kế hoạch của Ngài không?

Căn tính, sứ mạng và mục đích sau hết của cuộc đời chúng ta là gì nếu không phải là những lời thánh Phêrô nói trong bài đọc thứ hai: “Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Ngài, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2: 9).

Phêrô Phạm Văn Trung

--------------------------------------

 

PS 5-A173: CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐẾN THIÊN QUỐC

 

Trong đời sống thường nhật, đường đóng một vai trò rất quan trọng. Muốn ĐI đến bất cứ một PS 5-A173


Trong đời sống thường nhật, đường đóng một vai trò rất quan trọng. Muốn ĐI đến bất cứ một nơi nào, dù xa hay gần, người ta cần phải có ĐƯỜNG: đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không, đường sắt…Không có ĐƯỜNG thì không thể nào ĐI ĐẾN NƠI được.

Trong đời sống tâm linh cũng vậy, để có thể ĐI ĐẾN THIÊN QUỐC, người ta cũng cần phải có ĐƯỜNG. Hầu hết các tôn giáo đều chỉ cho các tín hữu của mình ĐƯỜNG để họ đi về miền Cực Lạc, về chốn vĩnh hằng… sau khi lìa cõi thế này. Thế nhưng trong tất cả những ĐƯỜNG đó, cá nhân tôi, và hơn 2.3 tỉ Kitô Hữu trên thế giới này đã thấy, và tin rằng, chỉ có ĐƯỜNG GIÊSU là rõ ràng, minh mạch và có sức thuyết phục nhất. Tại sao? Xin thưa là vì ba lý do sau đây:

1. Đức Giêsu Kitô, Đấng thiết lập nên ĐẠO Công Giáo, Ngài chính là CON ĐƯỜNG. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6).

2. Đức Giêsu BIẾT rất rõ về Thiên Quốc, bởi vì Ngài xuất phát từ nơi đó, và chính Ngài đã tuyên bố rất rõ ràng: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống … Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 3:13; 20:17).

3. Đức Giêsu là Đấng đã CHỈ cho chúng ta thấy ĐƯỜNG để đi, và chính Ngài là Đấng đi trước để chuẩn bị cho chúng ta chỗ ở trên Thiên Quốc. “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở … Thầy đi dọn chỗ cho anh em … [Rồi] Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3)

Bạn thân mến, ĐƯỜNG đi về chốn vĩnh hằng của Kitô Giáo thì rõ ràng, minh bạch và có sức thuyết phục như vậy đấy, nhưng không phải là dễ đi đâu. Không dễ là bởi vì con đường dẫn về Thiên Đàng của Kitô Giáo là con đường hẹp (Mt 7:14); là con đường của hy sinh, từ bỏ, dấn thân và quên mình phục vụ (Lc 9:23-26).

Đi trên con đường của Giêsu, người ta phải chịu khó (chứ không phải là khó chịu!), phải chấp nhận khép mình vào kỷ luật, phải kiêng khem, phải chịu đựng nhiều khó khăn vất vả lắm, chứ không dễ dãi và thoải mái. Đi trên con đường Giêsu, người ta phải hy sinh, phải hãm mình, phải kiên trì, phải từ bỏ, và phải tuân giữ nhiều luật lệ lắm! Ví dụ như:

• Phải "Yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức và yêu tha nhân như chính mình" (Mc 12:30-31)
• Phải sống ngay thẳng, thật thà: “… hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’” (Mt 5:37)
• Phải trung tín với người bạn đời: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19:6).
• Phải yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ thù: "Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:27-28).

Bạn thấy ĐƯỜNG GIÊSU có dễ đi không? Không dễ chút nào cả! Chúa Giêsu biết rất rõ điều đó, vì thế cho nên Ngài đã hứa sẽ không bao giờ bỏ mặc chúng ta cô đơn, nhưng luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường: “Thầy ở cùng với anh em mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28:20); và luôn nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta: “Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng!” (Mt 11:28).

Với sự trợ giúp của Chúa Kitô Phục Sinh, và với sự nỗ lực của chúng ta, tôi tin chắc rằng bạn và tôi sẽ có đủ sức vượt qua những khó khăn thử thách, và sẽ đủ sức can đảm đứng lên và trung thành bước trên con đường Giêsu. Xin đừng chán nản bỏ cuộc, cũng đừng rời con đường Giêsu để tách sang một con đường khác, không có con đường nào khác dẫn đưa bạn và tôi tới đời sống vĩnh cửu đâu, chỉ có duy nhất một con đường của Chúa Giêsu Kitô mà thôi.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa Kitô Phục Sinh củng cố niềm tin của chúng ta. Và xin Ngài ban cho chúng ta ơn khôn ngoan và can đảm, để bạn và tôi luôn trung thành bước đi trên con đường Giêsu, và nhất là biết cố gắng nỗ lực vượt qua tất cả những khó khăn thử thách, vượt qua những chướng ngại ở trên con đường về Thiên Quốc. Nhờ vậy, chúng mình sẽ đến nơi mà Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta, ở đó chúng mình sẽ được vui hưởng cuộc sống vĩnh cửu cùng với Mẹ Maria và các chư thánh.

Cầu chúc bạn một cuối tuần khỏe mạnh, vui vẻ và bình an bên những người thân yêu, và hy vọng bạn và gia đình cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống.

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

---------------------------------

 

PS 5-A174: THEO CHÚA VÀ SỐNG NHƯ CHÚA


Anh chị em thân mến,

 

Sự sống của đoàn chiên và tương lai các môn đệ là những điều mà Đức Giê-su rất mực quan tâm PS 5-A174


Sự sống của đoàn chiên và tương lai các môn đệ là những điều mà Đức Giê-su rất mực quan tâm. Người không muốn các môn đệ sống trong hoang mang và lo sợ khi vắng bóng Người. Người đi về với Cha không phải để rời xa họ, nhưng để kết nối với họ một cách bền chặt hơn. Đó là tâm tình của Chúa khi Người phán: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Yn 14: 1-4)

Với những lời khuyên bảo và trấn an như thế, khi nghe xong các môn đệ và chúng ta cảm thấy được an ủi, thư thái và an bình hơn! Đức Giê-su hiểu rõ tâm trạng mất mát, hoang mang, thất vọng và lo sợ của các môn đệ khi phải đối diện với sự chết mà Người vừa loan báo; cho nên Người mới giúp cho các môn đệ biết rằng tuy các ông sẽ xa cách Người về mặt thể lý, nhưng trong niềm tin các ông sẽ nhận ra rằng Người không hề bỏ rơi họ. Người vẫn hiện diện đồng hành với các ông, nhất là tiếp tục dìu các ông đi vào cõi vinh quang mà Người đang có ở bên Cha. Muốn được như thế, các môn đệ và những kẻ theo Người phải có niềm tin vào Chúa.

Trên thực tế, mang trong mình thân phận mỏng dòn của kiếp người chúng ta thường đối diện với nỗi bấp bênh và các sự cố đã và đang xẩy ra ngoài tầm khống chế và kiểm soát của chúng ta. Vì thế, sẽ có một số người chai lỳ và đông cứng, mặc cho dòng đời đưa đẩy đến đâu hay đến đó. Lại cũng có một số người không chấp nhận được nên đã tìm lối thoát riêng. Đại đa số sống trong lo âu và sợ sệt. Đứng trước một tình trạng không theo ý mình như thế, con người cần tin vào Thiên Chúa và tin vào Lời của Đức Giê-su khuyên bảo hôm nay hơn.

Tuy nhiên, giống như các môn đệ, chúng ta luôn muốn mọi sự được xẩy ra trước mắt chúng ta, trong tầm kiểm soát của chúng ta. Sự việc Đức Giê-su đón chúng ta ‘đi về nhà Cha’ là việc sẽ xẩy ra trong tương lai. Nhưng trong giây phút này, nhất là những phút giây mà chúng ta hay gọi là ‘đêm đen, hay tình trạng không lối thoát’ con người cần đến sự can thiệp của Chúa hơn bao giờ hết.

Làm sao chúng ta biết mình không bị bỏ rơi? Làm sao chúng ta nhận ra sự hiện diện của Đức Giê-su đang cùng đi với chúng ta. Thật chí lý khi nghe Tô-ma nói thay cho chúng ta rằng: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”

Đức Giê-su đã trả lời rằng Người là đường là sự thật và là sự sống. Người là con đường duy nhất dẫn chúng ta đi về nhà Cha. Ai muốn đến với Cha phải đi qua Người. Truớc thách đố quyết liệt của Tin Mừng như thế, Phi-líp-phê cũng không hơn gì Tô-ma, dù đã ở với Đức Giêsu nhưng các ông vẫn chưa nhìn thấy Chúa là con đuờng sự sống dẫn các ông vào sự sống phong phú và dồi dào của Thiên Chúa. Ai thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha. (Gioan 14:9)

Nhìn vào thực trạng của thế giới, biết bao nhiêu người chưa nhìn thấy Chúa, chưa nhận ra “Người là đường, là sự thật và là sự sống”. Tôi còn nhớ đã đọc được ở đâu đó một bản thống kê, trong đó người ta ghi nhận rằng nước Nhật là nước có số người chết vì tự tử cao nhất thế giới. Một điều khó hiểu nữa là đa số những người chết vì tự tử ở Nhật Bản lại là những người trẻ, có việc làm ổn định và có địa vị cao trong xã hội. Như vậy, đâu phải nghèo khổ, già nua, bệnh tật là bất hạnh lớn nhất của đời người. Hoá ra cái làm cho con người ta trở thành kẻ khốn cùng nhất trong cuộc đời này là họ không thấy được ý nghĩa và giá trị thật của cuộc sống. Họ không tìm thấy đường nào để đi.

Trong lúc con người bị bế tắc, không lối thoát, không biết đi về đâu, thì Đức Giêsu trong bài Tin Mừng đã nhắc cho chúng ta nhớ lại rằng Thầy là Đường, là sư thật và là sự sống. Người chỉ cho con người con đường để đi đến sự sống và hạnh phúc. “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Đức Giêsu Kitô đã tự nguyện trở thành đường đi, dẫn con người về với Chúa Cha, về quê hương đích thực. Đồng thời, Người cũng là người chỉ đường và là người đồng hành với chúng ta trên con đường sự sống dẫn về quê hương chân thật đó. Người đã chỉ cho con người thấy tất cả những viễn tượng tốt đẹp và huy hoàng ở cuối của con đường ấy. Nơi đó, có một Thiên Chúa toàn năng là Cha đang mở rộng vòng tay đón chờ ta.” . . . Còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ ông ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20). Rồi mở tiệc ăn khao.

Đây là mạc khải do Đức Giêsu, Đấng hôm nay phán “Thầy là Đường, Sự thật và Sự sống.” Hãy bước trên con đường của Người. Con đường hy sinh, gian khổ và yêu thương. Con đường dẫn đưa con người đến sự sống đích thật. Đó là chân lý mà các môn đệ đã noi theo và đã sống.

Thật vậy, con đường là cách diễn tả nói lên lời mời gọi mà Chúa muốn chúng ta đi vào cuộc sống của Chúa là. Đó chính là: Con đường từ bỏ. Từ bỏ đến cùng như lời thánh Phaolô: “Đức Giê-su Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa…. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang… trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá….” (Phi-lip-phê 2:6-11).

Từ bỏ là bước vào con đường yêu thương. Yêu như Chúa yêu! Người yêu thương chúng ta và yêu thuơng đến cùng, hạ mình xuống rửa chân như dấu chỉ phục vụ hết mình. Trong Tình yêu của Chúa thì không có biên cương, không còn nô lệ hay tự do… không còn kẻ giàu hay người nghèo, kẻ sang hay người hèn; tất cả đều nên một trong lòng mến của Người. Tình yêu của Chúa là con đường đưa tất cả đến với nhau và những ai đến với Người đều không bị khuớc từ.

Và sau cùng, yêu thương gắn liền với tha thứ, không phải chỉ tha bẩy lần nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy; có nghĩa là tha liên tục và tha đến cùng như trên Thánh giá Chúa đã tha cho cả những kẻ làm hại mình; Lậy cha xin tha cho chúng…

Vì thế, theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy bước vào con đuờng của Chúa. Và con đường dẫn chúng ta đến với Chúa cũng là con đường dẫn chúng ta đến gặp tha nhân. Do đó, muốn đến và gặp gỡ Thiên Chúa không gì tốt đẹp và chắc chắn bằng đến gặp Người nơi tha nhân. Và muốn đến và gặp gỡ tha nhân không gì bảo đảm và tạo hạnh phúc cho họ bằng đến và gặp gỡ họ trong Thiên Chúa.

Ước gì chúng ta biết soi mình vào tấm gương là chính Đức Giêsu để thấy được chân lý, thấy được đường đi và thấy được Cha chúng ta là một Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta nhận biết rằng chỉ có một con đường duy nhất dẫn đưa con người đến sự sống sung mãn nơi Chúa Cha là đi con đường của Chúa, sống lối sống của Người. Amen!

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây