Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-A Bài 151-190 Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh
----------------------------- Phúc Âm: Lc 24, 13-35: "Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp". Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông. Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. - Ðó là lời Chúa.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, Có hai môn đệ, thấm nhuần đau thương. Em-maus dẫn lối lên PS3-A151
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, Có hai môn đệ, thấm nhuần đau thương. Em-maus dẫn lối lên đường, Trở về quê cũ, tựa nương tháng ngày. Truyện trò trao đổi hăng say, Mỗi người một ý, chăng hay tình hình. Giê-su tiến bước đồng tình, Hỏi han giải thích, Thánh Kinh từ đầu. Các ông khờ dại bao lâu, Tiên tri loan báo, khổ sầu tôi trung. Ki-tô cứu thế bao dung, Đánh đòn hành hạ, tới cùng xót xa. Khổ hình thập giá vì ta, Hy sinh chịu chết, thứ tha tội đời. Ba ngày sống lại rạng ngời. Hoàng hôn ghé quán, xin mời cùng vô. Giê-su cầm bánh tung hô, Tạ ơn chúc tụng, tông đồ ngạc nhiên. Đọan Người biến mất nhãn tiền, Các ông sáng mắt, nhân hiền Thầy ơi!
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra rất nhiều lần với các môn đệ. Khi Chúa hiện ra, họ đã không nhận ra Chúa ngay. Bà Maria Mađalêna thấy Chúa đó, nhưng tưởng là người làm vườn. Ngoài bãi biển, Chúa nói hãy thả lưới bên hữu thuyền, các tông đồ cũng không nhận ra Chúa. Trên đường về quê Emmaus, hai môn đệ cũng không nhận ra Chúa đang đồng hành với các ông. Vậy sau khi sống lại, Chúa đã biến đổi hình dạng khác thường.
Được nhìn biết Chúa là một ơn Chúa ban. Chúa chỉ xuất hiện với người mà Chúa muốn tỏ bày. Câu truyện trong bài phúc âm kể rằng hai môn đệ trên đường Emmaus bước đi trong thinh lặng và chán nản. Các ông đã bỏ cuộc, nhưng trong lòng vẫn thao thức. Chọn cơ hội tốt, Chúa xuất hiện đồng hành để giải thích ý nghĩa sự đau khổ, sự chết và sự sống lại mà các tiên tri đã loan báo về Đấng Cứu Thế. Tuy hiểu lời Kinh Thánh, nhưng mắt các ông vẫn bị che kín.
Chúa kiên nhẫn đợi chờ sự thức tỉnh của hai môn đệ. Chúa biết hai ông là người chân thành và nhiệt tình. Chấp nhận lời mời ở lại quán trọ với bạn trong lúc chán nản. Nơi đây Chúa đã dâng thánh lễ thứ hai, qua nghi thức bẻ bánh như dấu chỉ và các môn đệ đã nhận ra Thầy. Lòng các ông phấn khởi và vui tươi. Tinh thần các ông như sống lại trong niềm hy vọng. Khởi đầu cho sứ mệnh mới, hai môn đệ lập tức trở lại Giêrusalem đem tin vui đến các môn đệ khác.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế, đã bao lần chúng ta chán nản rơi vào thất vọng. Chúng ta toan tính bỏ cuộc. Đôi khi chúng ta tìm giải quyết theo cách thức và nhãn quan của chúng ta. Tốt nhất, chúng ta hãy mời Chúa cùng đồng hành. Chúa sẽ đem lại nguồn an vui.
Chúng ta nghe câu truyện dấu chân trên cát. Trong giấc mơ, người đó bước bộ dọc theo bờ biển với Chúa. Bỗng nhiên những biến cố cuộc đời xuất hiện trong chớp nhoáng. Nhìn lại dấu chân trên cát, người đó thấy rằng trong những lúc vui tươi và hạnh phúc, có hai hàng dấu chân xuất hiện trên cát. Nhưng những lúc đau khổ, chỉ còn lại một hàng dấu chân. Người đó thưa với Chúa: Con không hiểu sao, trong lúc con cần Chúa, Chúa lại rời xa con. Chúa phán: Cha không bao giờ xa con, trong những lúc con gặp nguy nan và buồn nản. Khi con chỉ thấy một hàng dấu chân. Khi đó, Cha mang vác con trên vai.
Chúng ta hãy mời Chúa đồng hành trên đường lữ thứ. Chúng ta hãy rước Chúa cư ngụ trong nhà. Chúng ta hãy đón Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta. Mừng Chúa phục sinh, chúng ta hãy mở rộng cửa đón Chúa. Chúa chính sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và dẫn dắt chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu.
Ngày 18-04-2017, báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Liên Hiệp Quốc đã khẳng PS3-A152
Ngày 18-04-2017, báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Liên Hiệp Quốc đã khẳng định “đạo đức Công Giáo” giúp giải thích tại sao thanh thiếu niên ở Mêxicô lại hạnh phúc hơn thanh thiếu niên ở Anh. Lý do là bởi vì Nước Anh, một trong những nước giàu có, phụ thuộc một cách bấp bênh vào phúc lợi từ hệ thống an sinh xã hội của nhà nước; trong khi tại Mêxicô và Balan, người ta trông cậy vào gia đình và cộng đồng, là những thể chế đáng tin cậy, được xây dựng vững mạnh trên niềm tin tôn giáo. Điều đó cũng có nghĩa là sự bảo đảm an toàn của người đời không làm cho người ta hài lòng với cuộc sống; ngược lại, dù cuộc sống có những gian nan thử thách, nhưng khi có niềm tin vào Chúa, vào sự sống đời sau, con người cũng cảm thấy hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống của mình. Chính vì vậy, điều quan trọng là con người tìm ở đâu để có một điểm tựa vững chắc cho cuộc đời mình.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Cv 2, 14.22b-33
Tiếp tục loạt bài giảng về cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô để mời gọi người ta tin vào Ngài, Thánh Phêrô đã nói đến sự gian ác của con người: “Đức Giêsu đã bị nộp, và anh em đã dùng ban tay kẻ dữ mà đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi” (Cv2, 23b). Sự gian ác đó xuất phát bởi những tính toán riêng tư của con người. Họ muốn loại trừ ông Giêsu ra khỏi cuộc sống để họ được bình an với những gì họ đang có; trong khi Đức Giêsu nói lên những chân lý, những sự thật và những đòi buộc… chính những điều đó đã khuấy động tâm hồn họ, đòi buộc họ phải từ bỏ lối sống không đúng đắn để đón nhận Tin Mừng… Nhưng vì họ không muốn nên họ đã giết chết Ngài. Hay nói cách khác, họ đã có một điểm tựa khác ngoài điểm tựa Giêsu.
Bài Đọc II: 1Pr 1, 17-21
Cũng là những lời rao giảng của Tông đồ trưởng Phêrô, ngài đã nhắn nhủ giáo đoàn của mình: “Anh em hãy biết rằng, không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô” (1Pr 1, 18-19). Như thế Phêrô bằng tất cả tấm chân thành của một Tông đồ, của một kẻ đã từng chối Thầy, của một người đã được chứng kiến Đấng Phục Sinh, của một môn đệ đã mạnh rao giảng về niềm tin mà mình đã xác quyết, giờ đây ông chỉ cho các Kitô hữu biết đâu là điểm tựa vững chắc cho cuộc đời của họ: là chính Đức Kitô.
Tin Mừng: Lc 24, 13-35
Hai môn đệ được nhắc tới trong bài Tin Mừng hôm nay, đã một thời dám từ bỏ nhà cửa, quê hương, sự nghiệp của mình để làm môn đệ ông Giêsu. Như lời họ chia sẻ với người “khách lạ”, họ theo ông Giêsu để mong chờ sự giải phóng cho dân tộc Israel. Nhưng với cái chết của ông Giêsu họ hoàn toàn thất vọng nên đã quay về với những gì họ đã từ bỏ. Có lẽ họ cũng đã chuẩn bị để khi trở về sẽ bị gia đình, bị lối xóm cười chê, mai mỉa; chắc phải một thời gian lâu lắm người ta mới hết chọc quê mình. Nhưng thà như vậy còn hơn là ở lại Giêrusalem, sẽ mất tất cả.
Khi nhận ra Thầy mình đã sống lại từ cõi chết, họ lập tức quay lại Giêrusalem ngay đêm hôm đó, kể tất cả mọi sự cho anh em mình. Bắt đầu từ ngày hôm đó, cuộc đời của họ đã biến đổi hoàn toàn. Họ không còn theo ông Giêsu vì để mong chờ sự giải phóng cho Israel, nhưng họ tin tưởng và bước theo Đấng đã chết và sống lại để họ được Sự Sống Mới.
Như vậy điểm tựa của 2 môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay đã thay đổi từ một con người Giêsu sang một Đấng Phục Sinh.
II. ĐIỂM TỰA CHO CON NGƯỜI
Những giá trị tự nhiên
Con người luôn cần “những điểm tựa”. Từ khi được sinh ra đứa bé đã nương tựa hoàn toàn vào cha mẹ hoặc những người chăm sóc chúng. Trưởng thành, điểm tựa để hình thành nhân cách của một con người chính là gia đình, trường học và xã hội. Lớn lên, điểm tựa đó là nơi để họ nghỉ ngơi sau một thời gian làm việc mệt mỏi, là chốn để họ tìm về sau những lúc đi hoang. Và luôn luôn trong suốt cuộc đời, điểm tựa cho con người chính là niềm tin vào những con người mà mình gặp gỡ, vào cuộc sống mà mình đang hiện diện…
Thế nhưng thực tế ngày nay cho thấy điểm tựa cho con người không còn vững chắc. Hàng loạt những vụ án dâm ô với trẻ em, trong đó có cả những người thân, người lân cận, người làm công tác giáo dục… đã đến lúc phải gióng lên hồi chuông báo động ; những câu chuyện giáo viên mầm non bạo hành trẻ em… cho thấy những điểm tựa vốn vững chắc một thời đã trở thành cái bẫy cho trẻ em. Những cô gái mới lớn, vô tư, muốn có nhiều tiền để đổi đời, đặt niềm tin vào những người giới thiệu việc làm, nhưng đã vô tình rơi vào tay những kẻ buôn người. Những nam sinh, những chàng trai mới lớn muốn tìm “điểm tựa trên mây” nên đã rơi vào cái bẫy của sự tò mò, đến lúc muốn thoát ra cũng không được bởi vòng vây của dâm ô, của chất gây nghiện… Những con người và môi trường sống cũng không còn là chỗ dựa an toàn cho nhau, vì không biết người ta lợi dụng, lường gạt và hãm hại nhau lúc nào… Thức ăn, nước uống, cũng không còn an toàn cho con người vì thực phẩm bẩn và ô nhiễm môi trường…
Tất cả những phản ánh nêu trên chính là tâm trạng của 2 môn đệ trên đường Emmaus. Họ đã mất đi điểm tựa, họ đã thất vọng về tất cả. Họ buông xuôi, bỏ cuộc. Họ biết tìm nơi đâu một điểm tựa an toàn, chắc chắn?
Điểm tựa Giêsu
Lời Thánh Vịnh 61: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”. Đức Giêsu đã khẳng đinh: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga14, 6). Và: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, thì các con cũng ở đó”.
Trên đường Emmaus ngập tràn đêm tối, chán nản và thất vọng, 2 môn đệ gặp lại Thầy mình đã Phục Sinh từ trong cõi chết. Mầu nhiệm đó làm cho lòng các ông bừng cháy lên. Các ông quay trở lại Giêrusalem mà không còn sợ hãi, vì các ông đã tìm lại được điểm tựa nơi Thầy Giêsu, nơi Đấng Phục Sinh.
Người ta kể một câu chuyện về cây táo. Lúc còn nhỏ, ngày nào đứa bé cũng chạy ra leo trèo, chơi giỡn dưới gốc cây táo. Thời gian trôi qua, đứa bé giờ đã lớn, không còn đến chơi với cây táo nữa. Một hôm nó trở lại vẻ mặt u buồn. Cây táo mừng rỡ reo lên: “Hãy đến chơi với ta đi!”. Đứa bé nói cháu đã lớn và cháu không thích chơi giỡn nữa, cháu cần tiền. Cây táo nói: “Vậy con hãy leo lên hái trái ta đem bán và lấy tiền”. Nó hái tất cả trái trên cây táo và sung sướng ra đi. Một thời gian sau, nó lại quay về với vẻ mặt u buồn. Cây táo lại vui mừng: “Hãy đến chơi với ta đi!”. Nó nói “cháu không có thời gian, giờ cháu còn phải lo cho gia đình, cháu cần một mái nhà”. Cây táo vui vẻ nói: “Vậy cháu hãy đốn những cành cây của ta về cất nhà đi!” Và chàng trai đã chặt hết những cành cây và ra đi không trở lại. Một thời gian sau, đứa bé giờ đã lớn tuổi, quay trở lại với vẻ mặt u buồn. Cây tạo lại vui vẻ: “Hãy đến chơi với ta đ!” Đứa bé năm nào nói: “ Cháu đang buồn, vì thấy mình già đi, cháu muốn chèo thuyền đi khắp nơi cho khuây khỏa”. Cây táo liền nói: “Vậy cháu hãy đốn thân ta để làm một chiếc thuyền đi!” Chàng trai chặt thân cây táo làm thuyền và chèo đi xa, xa mãi. Nhiều năm sau, chàng trai giờ đã già nua quay lại với gốc cây táo. Cây táo u buồn và nói: “Ta xin lỗi vì ta chẳng còn gì cho con, không còn trái nữa”, “nhưng cháu đâu còn răng để ăn” ; “Ta cũng chẳng còn cành cho con leo”, “Nhưng cháu không đủ sức để leo nữa” ; “Ta thật sự chẳng còn gì cho con, ngoài bộ rễ đang chết dần, chết mòn”, “Con cũng chẳng cần gì ngoài một chỗ nghỉ ngơi sau những tháng ngày mệt mỏi”. Cây táo mừng rỡ reo lên: “Vậy thì gốc cây già cỗi này là nơi rất tốt để làm điểm tựa cho con nghỉ ngơi sau một cuộc đời mệt mỏi”. Và đứa bé năm nào giờ là một ông già ngồi xuống, tựa lưng vào bộ rễ cây táo, nhắm mắt lại, ngủ một giấc thật ngon. Còn cây táo thì mừng rơi nước mắt.
Cây táo là hình ảnh của Thiên Chúa đã hy sinh tất cả mọi sự cho con người, nhưng con người đi tìm một điểm tựa khác, họ chỉ quay về với Ngài mỗi khi cuộc đời không cho họ một điểm tựa. Nhưng đến lúc cuối đời, chỉ Thiên Chúa mới là điểm tựa vững chắc cho họ mà thôi.
Qua lời Chúa hôm nay, tôi muốn giới thiệu với anh chị em, đặc biệt các bạn trẻ một điểm tựa vững chắc mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, đó là Đức Giêsu Kitô. Hãy từ bỏ những điểm tựa khác như tiền bạc, những thú vui, những tò mò…để tìm đến với điểm tựa Giêsu. Cụ thể sau một ngày sống hãy tìm đến với Ngài trong giờ kinh hôm. Đến với Ngài trong các thánh lễ, các bí tích và các việc đạo đức…
Chúng ta có giờ đi hát Karaoke trong căn phòng máy lạnh với chúng bạn, nhưng lại không có giờ để đi tham dự thánh lễ. Chúng ta có thể ngồi hàng giờ để chơi facebook, zalo, nhưng không thể ngồi nửa giờ để đọc kinh gia đình, hay lần chuỗi lòng thương xót….
Hãy thay đổi điểm tựa cho cuộc đời chúng ta vững chắc!
Nóng bỏng con tim là con tim yêu mến, nồng cháy tình yêu. Ngày xưa Môisen trong Cựu Ước PS3-A153
Nóng bỏng con tim là con tim yêu mến, nồng cháy tình yêu. Ngày xưa Môisen trong Cựu Ước nhận biết Thiên Chúa qua bụi gai lửa cháy bập bùng nhưng bụi gai vẫn xanh tươi. Trong Tân Ước hai môn đệ trên đường về quê làng Emmaus cũng nhận biết Đức Kitô Phục Sinh khi tâm tư các ông bừng cháy lửa tình yêu và các ông nhận ra Thầy Phục Sinh. Mặc dầu không đồng í với cách đối xử của chính quyền, họ vừa lạm dụng quyền hành vừa xử án tử hình bất công với Đức Kitô nhưng các môn đệ vẫn dùng ngôn từ của người tỏ ra có tư cách, lịch sự để diễn tả tâm tình đau khổ của người đang mất niềm hy vọng nơi các nhà lãnh đạo.
Nhờ tâm tình bác ái và lòng nhân các ông đã biến con tim đau khổ thành con tim nồng cháy tình yêu. Bác ái và lòng nhân với người xa lạ không quen, các ông gặp trên đường về quê. Dù hai người đang to nhỏ, tâm sự về nỗi đau đớn trong lòng, các ông vẫn chào đón người lạ trên đường và cùng với người lạ chia sẻ tâm sự riêng của hai người. Người lạ không những chỉ lắng nghe với tâm tình chân thành, cởi mở và mau chóng trở thành người chủ toạ, hướng dẫn cuộc đối thoại, giải thích cho các ông về mọi biến cố xảy ra cho Đức Kitô. Chính những đau khổ, tủi nhục đó lại trở thành vinh quang để nhân loại nhận biết tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Các môn đệ lắng nghe và thầm cảm tạ người lạ về những điều người đó giải thích cho các ông. Người lạ đó nói với tất cả tấm lòng chân thành, yêu mến và chính tình yêu đó để lại trong tâm các môn đệ lòng yêu mến thiết tha. Chiều đến người lạ còn định đi tiếp nhưng các môn đệ tỏ í mời người lạ cư ngụ tại nhà các ông qua đêm. Điều này bao gồm cả việc đãi bữa cơm tối, chỗ ngủ và có lẽ bữa ăn sáng ngày hôm sau.
Các môn đệ nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài bẻ bánh. Thay vì được phục vụ nơi bàn tiệc, người xa lạ làm công việc của chủ nhà, chủ tiệc. Ngài cầm bánh trong tay, dâng lời chúc tụng, tạ ơn trước khi trao cho các ông. Việc làm trên nhắc các ông về bữa Tiệc Li Đức Kitô thực hiện trước khi chịu khổ hình. Đúng lúc đó các môn đệ nhận ra Đức Kitô, Ngài liền biến khỏi các ông. Lúc đó các ông mới nhận biết người xa lạ dọc đường, nói với tất cả tâm tình chính là Đức Kitô Phục Sinh dưới hình thức người đi đường. Dù sau một ngày vất vả, cực nhọc nhưng tâm tình các ông chan hoà lòng mến và tình yêu, ngay đêm đó các ông lên đường trở về nơi mà lúc sáng các ông dời bỏ, chạy trốn. Các ông trở lại nơi đó để báo tin vui cho các bạn hữu là các ông đã gặp lại Đức Kitô Phục Sinh và tin vui các người phụ nữ loan báo là tin thật bởi chính các ông đã gặp Ngài, được Ngài giảng dậy dọc đường và chính các ông chứng kiến việc Ngài bẻ bánh và biến khỏi mắt các ông. Câu chuyện trên đường Emmaus cho biết các môn đệ gặp Đức Kitô bởi tâm tình yêu mến Thiên Chúa và hành động bác ái của các ông. Hành động bác ái là cách Đức Kitô dùng để mở con mắt tâm linh, con mắt trong tâm hồn con người. Các ông thể hiện bác ái qua việc mời người lạ cùng chia xẻ tâm tình của mình. Các ông thực hiện bác ái bằng tâm tình lắng nghe, nghe một cách chân thành. Các ông thực hiện bác ái bằng việc mời người lạ trú ngụ qua đêm. Các ông thực hiện bác ái bằng việc cho kẻ đói ăn, khát uống, lạnh cho chăn ấm. Các ông thực hiện bác ái bằng lời nói thành thật và nhẹ nhàng, nhưng không kém phần sắc bén, quyết đoán, khi nói về người lãnh đạo lạm quyền và đối xử bất công.
Đức Kitô Phục Sinh nói với chúng ta qua tiếng nói của con tim yêu mến. Điều răn mới Đức Kitô truyền lại là điều răn yêu thương và điều này được cho miễn phí. Điều răn mới không phải bằng lời nói suông mà được thể hiện qua việc bác ái, yêu thương và lòng nhân dành cho tha nhân. Điều mà các môn đệ trên đường Emmaus thực hiện trong cuộc sống.
Câu chuyện trên cho biết thực phẩm, thức ăn, thức uống, ngôn ngữ, bác ái yêu thương gắn liền với cuộc sống. Chúng quan trọng cho cuộc sống trần gian và khi chúng ta dùng chúng một cách khôn ngoan chúng trở thành giá trị thiết thực cho cuộc sống tâm linh.
Câu chuyên hai môn đệ trên đường đi Emmau thường được biểu trưng hành trình đức tin của PS3-A154
Câu chuyên hai môn đệ trên đường đi Emmau thường được biểu trưng hành trình đức tin của Kitô hữu. Nói đến hành trình đức tin của Kitô hữu thì chúng không thể không nói đến một hành vi thờ phượng đỉnh cao trong Phụng Vụ là các buổi cử hành Thánh Thể hay còn gọi là Thánh Lễ. Dõi theo chân hai môn đệ năm xưa, xin được chia sẻ đôi tâm tình.
1. Các cơn giông tố hay nhũng thách đố của cuộc đời:
Hai môn đệ chán chường, mỏi mệt, rời Giêrusalem về quê cũ, Emmau. Thế là hết. Hết mọi hy vọng về một vương triều mới dưới sự lãnh đạo của Thầy Giêsu. Tất cả như vô vọng. Còn gì để mong khi xác Người đã nằm im bất động ngay trong huyệt lạnh. Một vài tin đồn khá giật gân từ miệng các phụ nữ. Ôi, phụ nữ! Ôi đàn bà! Thời nào chẳng vậy, từ không thành có cũng thường do các bà dựng nên. Chẳng còn lý do gì để lưu lại chốn kinh thành. Thôi đành về quê xưa, mang lại cảnh kiếp “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
Hành trình đức tin Kitô hữu hôm nay và mọi thời, hẳn không thiếu những thì, những lúc, thấy mình chơi vơi, lạc hướng. Niềm tin đã nhiều lần chao đảo trước bao thử thách, cam go và cảnh hẩm hiu của số phận. Hình như Chúa bỏ tôi hay là Chúa có hiện hữu chăng? Nếu thực có Người và Người đang sống thì tình người sẽ không như thế và cuộc đời sẽ không như vậy. Bao ngang trái vẫn dẫy đầy. Người ngay gặp cảnh dữ, kẻ ác lại gặp vận may. Đâu phải là chuyện hoạ hiếm, mà trái lại, nó đang nhan nhãn thật khó chối cãi. Đôi lần và đã nhiều lần, bản thân tôi và cả bậc thánh nhân như muốn buông xuôi. Cứ mặc dòng đời trôi. Người ta sao, mình vậy. Anh hùng làm gì cho thiệt thân. Sao lại phải vất vả bơi ngược dòng cho khác người?
2. Tình yêu luôn cần đó một lời mời:
Một đôi khi đến Nhà Thờ nghe Lời Chúa, nghe giảng dạy, lòng cũng nóng lên như hai môn đệ đi Emmmau ngày nào. Quyết tâm ăn năn: không thiếu. Quyết tâm thay đổi: có nhiều. Nhưng rồi, ra khỏi Nhà Thờ, về với cuộc sống đời thường thì đâu lại hoàn đấy. Ánh sáng của Lời Chúa vừa le lói: “có qua đau khổ mới đến vinh quang” chợt vụt tắt. Hết lưỡng lự lại phân vân và rồi không thắng nổi cái sức ì của kiếp nhân sinh.
Ta có ngờ đâu, như xưa với hai môn đệ đi Emmau, Chúa Kitô Phục Sinh mãi đang đồng hành bên ta. Không nhận ra Người cũng là điều dễ hiểu. Tại mắt đức tin ta mờ tối hay lòng ta đang nặng trĩu muôn sự đời? Dẫu gì đi nữa thì Người chẳng để ta đơn côi. “Thầy ở lại với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Người vẫn đang đồng hành với ta khi vui cũng như lúc buồn, lúc chán chường cũng như khi hân hoan vui sướng. Người đang đợi ta. Người đang chờ ta. Tình yêu luôn mở ngõ với một lời mời.
3. Chuyện nghịch lý của tình yêu:
May thay, hai môn đệ đi Emmau đã mở lời nài ép người khách lạ vào quán trọ dùng bữa, qua đêm. Một nghĩa cử bình thường của tình nhân loại, thế thôi, nhưng cũng đủ thành duyên cớ để Chúa Kitô lưu lại cùng hai ngài và tái diễn các hành vi của Bữa Tiệc Thánh. Thiên Chúa chẳng hề bỏ qua một nghĩa cử nào của ta, dù là bé nhỏ, để bắt đầu một cuộc gặp gỡ. Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Ai mở cửa thì Ta sẽ vào dùng bữa với họ (x. Kh 3,20).
Chuyện nghịch lý đã xảy ra. Khi chủ mời khách dự tiệc đời thì khách lại trao ban cho chủ lương thực bởi trời. Vị khách lạ cầm lấy bánh bẻ ra, trao cho hai môn đệ. Khách chủ đổi ngôi. Tình yêu quả thật kỳ diệu. Chính khi trao ban là lúc lãnh nhận. Càng chia sẻ thì càng có thêm nhiều. Nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh là một hạnh phúc không gì so sánh.
4. Tình yêu là để thông chia chứ không phải để độc chiếm:
Vừa nhận ra Thầy Chí Thánh, Thầy vụt biến mất. Hạnh phúc là điều cần phải dệt xây chứ không phải để hưởng thụ. Ai càng cố nắm giữ thì sẽ mất. Hiểu được điều này, hai môn đệ vội vàng trở về Giêrusalem ngay giữa đêm khuya báo tin cho anh em. Tình yêu, hạnh phúc thúc bách ta cần chia sẻ, dù lúc trời nắng nhẹ hay giữa đêm khuya lạnh giá. Gặp gỡ, hiệp thông với đấng Phục Sinh để rồi chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã lãnh nhận.
Loan báo Tin Mừng là một hệ luận tất yếu của người đã nhận hồng ân, được cảm nhận Chúa Phục Sinh. Gian truân, bắt bớ, tù đày chẳng hề ngăn được bước chân các tông đồ, các môn đệ. Vừa được giải thoát khỏi tù ngục, các tông đồ đã lại hiên ngang rao giảng tại Đền Thờ (x.Cvtđ 5,17-26).
5. Thánh Lễ: một hành trình Emmau.
Người ta dễ dàng nhận ra bản trình thuật của Thánh Sử Luca về chuyện hai môn đệ đi làng Emmau được cấu trúc như tiến trình của Thánh Lễ gồm hai phần chính là Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể. Mỗi ngày đầu tuần tức là ngày Chúa Nhật, Kitô hữu tiên khởi quy tụ lại để họp mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Truyền thống của Hội Thánh từ xưa đến nay đều mừng Chúa Phục Sinh trong ngày Chúa Nhật, kể cả trong các mùa đặc biệt như mùa Vọng và mùa Chay.
Thật đẹp thay cứ mỗi tuần chúng ta họp nhau ít là một lần vào ngày Chúa Nhật để dâng lên Chúa mọi bao vui buồn sướng khổ của đời ta. Không một ai là khách lạ trong buổi cử hành Thánh Thể. Không một ai đến Nhà Thờ ngày Chúa chỉ vì luật buộc. Và ước gì không một ai đến họp mừng Chúa Phục Sinh với đôi bàn tay trắng trơn, khi họ không thực sự tham dự mà chỉ xem Lễ cách bàng quang, chiếu lệ.
Dâng lên Chúa trọn cuộc sống buồn vui và bao trăn trở của mình để rồi lắng nghe Chúa nói qua phần Phụng Vụ Lời Chúa. Xin đừng quên phần diễn giải Lời Chúa của giám mục, linh mục hay của thầy phó tế trong Thánh Lễ là một phần của Phụng vụ Lời Chúa. Ước gì tất cả mọi người không chỉ nói với Chúa và nghe Chúa nói mà còn được kết hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí tích Thánh Thể. Và rồi cái gì đến sẽ phải đến. Những bước chân của chúng ta sau khi ra khỏi Nhà Thờ sẽ là những bước chân trong hân hoan, sẵn sàng chia sẻ niềm vui, chia sẻ hồng ân mình đã lãnh nhận. Mong sao cứ mỗi lần ra khỏi Thánh đường, lòng chúng ta lại rộng mở hơn xưa, cho kẻ lạ cũng như người thân, cho người đạo hạnh cũng như kẻ bất nhân bạc tình. Nếu được vậy thì đó là một trong những dấu chỉ nói lên rằng ta đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh, Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân trần.
(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi dặm. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. (15) Đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. (8) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. (19) Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói: còn chính Người thì họ không thấy”. (25) Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ ! (26) Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? (27) Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. (28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó (34) Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (35) Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ LÀNG EM-MAU:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã hướng dẫn hai môn đệ về đức tin để họ từ tâm trạng PS3-A155
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã hướng dẫn hai môn đệ về đức tin để họ từ tâm trạng chán nản và vấp ngã trước mầu nhiệm thập giá (18 và 21), đã tìm lại được niềm tin yêu vào mầu nhiệm Phục Sinh qua việc nghe lời Người giải thích Kinh Thánh (25-27.32), và được tham dự nghi thức Bẻ Bánh do chính Người thực hiện (30-31).
CHÚ THÍCH:
– C 13-16: + Cùng ngày hôm ấy: Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. + Có hai người trong nhóm môn đệ: Hai môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10,1), không thuộc nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). Còn ông thứ hai không được nêu tên và được suy đoán là chính Lu-ca, tác giả đã tường thuật câu chuyện này. + Làng Em-mau: Một nơi cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 km về phía Tây. Nhưng cho tới nay các nhà chú giải vẫn chưa xác định được vị trí của ngôi làng này. + Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra: Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau đang khi đi đường. + Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ: Đức Giê-su Phục Sinh luôn yêu thương và quan tâm đến các môn đệ. Khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn nan giải, thì Người liền hiện đến để ban ơn nâng đỡ. + Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách lạ kia lại có thể là Thầy Giê-su của họ. Cũng có thể do khuôn mặt Đức Giê-su Phục Sinh đã được biến dạng khác với khi còn sống. Trước đó vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la cũng đã không nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người hiện ra gần bên ngôi mộ đã an táng Người.
– C 17-18: + “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” : Chúa Phục Sinh chủ động bắt chuyện để các ông dễ dàng tâm sự những lo buồn chất chứa trong lòng. + Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem…: Các ông nghĩ đây là một khách hành hương đi lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và không quan tâm đến một biến cố lớn lao mới xảy ra trong thành mấy ngày qua.
– C 19-21: + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…: Cho đến lúc này, các môn đệ mới công nhận Đức Giê-su là Ngôn sứ có quyền lực trong lời rao giảng và các phép lạ đã làm. Các ông đi theo Người với hy vọng có được một địa vị trong Vương quốc của Người. + Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình: Sự kiện mới xảy ra đã làm các ông chán nản thất vọng: các nhà lãnh đạo dân Ít-ra-en đã nộp Người để quan Phi-la-tô kết án đóng đinh thập giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì để cứu vị Ngôn sứ của Người. Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày thứ ba rồi !
– C 22-24: + Cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi…: Tâm trạng của các ông vẫn hoang mang, dù mấy phụ nữ và các Tông đồ đã nhìn thấy mồ trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng “Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các ông này thì cho điều đó thật khó tin. Câu này cho thấy hai môn đệ này không phải thuộc loại người dễ tin. Do đó, một khi họ tin thì chắc đã phải có những bằng chứng xác đáng không thể phản bác được.
– C 25-27: + Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ !: Lời Chúa quở trách đức tin yếu kém của hai ông có hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm chứa một tình cảm âu yếm. + Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?: Chúa Giê-su nhắc lại lời Người đã từng báo trước về số phận của Người trước đó: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ…: Luật Mô-sê và sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Thánh Kinh Cựu Ước, đã làm chứng về con đường cứu thế mà Đức Giê-su đã chọn theo là: « Qua đau khổ vào trong vinh quang » (x. Lc 24,44 tt).
– C 28-31: + Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa: Thái độ giả vờ ở đây không phải là giả dối, nhưng là cách thử để xem phản ứng của các môn đệ, xem các ông có thực lòng muốn nghe và muốn Người ở lại hay không. Một đức tin chỉ có giá trị khi người tin tự nguyện mở lòng đón nhận, chứ không bị ép buộc. + Họ nài ép Người: Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14,23). Chính Lời Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn đệ, nên các ông đã xin Người ở lại nhà các ông để có thể tiếp tục nói chuyện với các ông. + Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn: Đây là lời hai môn đệ mời vị khách lạ kia ở lại một cách khép léo tế nhị. Đây cũng là lời cầu nguyện tâm tình của các tín hữu muốn kết hiệp mật thiết với Chúa.
– C 32-31: + Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Khó có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã truyền phép Thánh Thể như đã làm trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ở đây, Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc trong phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22,19). Đó là cử chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. 9,16), ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x. Cv 2,46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu cũng được nghe lời Chúa giáo huấn và được tham dự bàn tiệc Thánh Thể giống như hai môn đệ làng Em-mau. + Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người: Tiến trình đức tin của các tín hữu cũng bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa, rồi tin theo Chúa và được thánh hóa nhờ tham dự bàn tiệc Thánh Thể như bà Ly-đi-a thời Giáo Hội sơ khai (x. Cv 24,13-15). + Nhưng Người lại biến mất: Từ đây Chúa Giê-su sẽ hiện diện cách thiêng liêng vô hình khi các tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời giảng của các mục tử, tham dự thánh lễ hay phục vụ người nghèo…
– C 32-35: + Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?: Nhờ được nghe giảng Thánh Kinh, các môn đệ đã thấy được ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một chặng đường Người phải trải qua để vào trong vinh quang phục sinh. + Ngay lúc ấy, họ đứng dậy…: Việc nhận ra Chúa Phục Sinh và lòng tin yêu Chúa đã biến đổi hai môn đệ từ chỗ thất vọng muốn buông xuôi, trở thành con người mới đầy phấn khởi và hy vọng. Tâm trạng ấy làm các ông hăng hái đi lại quãng đường dài 11 cây số trở về Giê-ru-sa-lem để báo tin vui cho các tông đồ và môn đệ khác. + Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon: Sự kiện Si-mon Phê-rô được Chúa Phục Sinh hiện ra trước các tông đồ khác đã được chính Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,31-32) và sau này cũng được thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr 15,5). + Thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường: Cuối cùng hai môn đệ làng Em-mau đã chia sẻ niềm vui Phục Sinh cho Nhóm Mười Một tông đồ và các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem.
CÂU HỎI: 1) Hai môn đệ quê làng Em-mau kể trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm 72 môn đệ ? Tên của các ông là gì ? 2) Tại sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la lại không nhận ra ngay người đang nói chuyện với mình là Chúa Phục Sinh? 3) Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Em-mau nói lên điều gì về tình yêu của Người đối với các tín hữu chúng ta ? 4) Câu trả lời của hai môn đệ cho thấy đức tin của các ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế nào ? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm mục đích gì ? Tại sao giờ đây các ông lại chán nản tuyệt vọng ? 5) Hai môn đệ này có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa Giê-su không ? Tại sao ? 6) Chúa Giê-su trong vai khách bộ hành đã làm gì để củng cố đức tin còn non yếu của hai môn đệ ? 7) Chúa Giê-su giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục đích gì ? 8) Câu nào của hai môn đệ là lời cầu nguyện mẫu về lòng tin yêu Chúa cho các tín hữu chúng ta hôm nay ? 9) Hai môn đệ đã nhận ra người khách lạ chính là Thầy Giê-su Phục Sinh khi nào ? 10) Hai ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa tin yêu Chúa vào lúc nào ? 11) Điều gì khiến hai môn đệ nhiệt tình loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho người khác ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Họ mới bảo nhau: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA BỒNG TA TRÊN ĐÔI TAY CỦA NGƯỜI ?
Một người tân tòng sau khi theo đạo đã gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn: bệnh tật, rủi ro mất xe, mất tiền bạc… Anh đã nhiều lần xin Chúa cho tai qua nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt làm ngơ khiến anh đâm ra chán nản và thôi không cầu nguyện và cũng không đến nhà thờ dự lễ nữa. Thế rồi một đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang đi bách bộ với Chúa Giê-su trên bãi biển. Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt có 4 dấu chân: hai dấu chân lớn của Chúa, và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ lởm chởm nhiều sỏi đá thì anh không thấy Chúa đi bên cạnh nữa. Quay lại nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát của anh. Anh chán nản ngồi nghỉ mệt trên một tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi đâu để con phải một mình đương đầu với những khó khăn như vậy ?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn anh và nói: “Con hãy thử nhìn kỹ lại xem hai dấu chân trên cát kia là của ai ?” Lúc đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra đó hai dấu chân to là của Chúa Giê-su. Anh lại hỏi: “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của con đâu ?” Chúa liền trả lời: “Con ơi, hãy nhớ rằng: Ta luôn ở bên con mọi giây phút trong cuộc đời con. Những khi con gặp phải sự gian nan thử thách thì đó là lúc Ta đang bồng con trên cánh tay Ta đó !”
2) CHÚA ĐẾN VỚI CHÚNG TA QUA THA NHÂN CẦN ĐƯỢC TRỢ GIÚP :
Vào một buổi sáng cuối đông, bác thợ giầy thức dậy rất sớm dọn dẹp nhà cửa và cho thêm củi than vào lò sưởi để đón chờ khách quý là Chúa Giê-su. Người đã hiện ra với bác trong giấc mơ ban đêm và hứa sẽ đến nhà thăm bác vào ngày hôm sau. Khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì bác thợ giầy đã nghe thấy có tiếng gõ ngoài cửa. Tưởng là Chúa đã đến, bác liền vội ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đứng mặt bác không phải là Chúa Giê-su, mà là anh phát thư như mọi lần. Băng tuyết ngoài trời khiến mặt mũi và tay chân của anh ta đỏ lên như gấc. Bác thợ giầy cảm thông liền mời anh ta vào nhà ngồi bên lò sưởi và pha trà nóng mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đã nói lời cám ơn và từ giã đi lo công việc.
Ít phứt sau, nhìn qua khung cửa kính, bác thấy một bé gái khoảng 7-8 tuổi đang co ro đứng trước cửa nhà khóc, bác liền ra hỏi thăm thì được biết em bị lạc mẹ ngoài chợ và đang tìm đường về nhà nhưng không tìm thấy đường vì tuyết rơi trắng xóa. Bác thợ giầy liền lấy bút viết vài chữ trên tờ giấy và gắn ngoài cửa nhà để thông báo cho Chúa Giê-su biết mình cần đi ra ngòai một lát. Nhưng tìm đường dẫn cô bé về nhà không đơn giản. Mất mấy tiếng đồng hồ bác mới tìm được nhà của đứa bé, và khi ra về thì trời đã xế chiều.
Về đến nhà, bác lại thấy có người đang ngồi đợi nhưng không phải là Chúa, mà là một bà mẹ trẻ gần nhà với vẻ mặt buồn bã. Chị cho biết đứa con nhỏ của chị đang lên cơn sốt ở nhà và chị chạy sang tìm bác để nhờ giúp đưa bé đi nhà thương. Bác thợ giầy liền hối hả theo chị về nhà giúp đưa cháu bé đến bệnh viện chăm sóc. Nửa đêm bác mới trở về nhà mình và nằm lăn ra giường ngủ quên cả việc ăn uống. Trong giấc mơ, bác thợ giầy đã nghe thấy tiếng Chúa Giê-su: « Hôm nay Ta cám ơn con đã sẵn sàng tiếp đón và cho Ta vào nhà để sưởi ấm và còn dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn Ta bị lạc có thể trở về nhà mình. Cám ơn con đã giúp đưa Ta đến bệnh viện để kịp thời thuốc thang chữa trị ». Thì ra hôm nay Chúa Giê-su đã giữ lời hứa đến thăm bác thợ giầy không phải một mà là ba lần. Người hiện thân qua những người cần được trợ giúp như Người đã nói: « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy » (Mt 25,40).
3) TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CHA TRÊN TRỜI :
Một sĩ quan công giáo, người Anh được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến một nơi được chỉ định. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dôi. Một cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm. Mọi người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm. Chính thái độ bình tâm này của chồng mà bà vợ xem như là một biểu hiệu thiếu lo lắng, thông cảm, yêu thương đối với vợ con nên bà càng tức giận xỉ vả hơn.
Trước tình thế khó xử đó, khi đã có đôi lời giãi bầy vắn tắt, viên sĩ quan rời căn phòng một lát rồi quay trở lại với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười lớn tiếng không chút gì nao núng cả.
Viên sĩ quan hỏi :
– Làm sao mình có thể cười khi nhận thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực?
Bà vợ trả lời :
– Làm sao em lại phải sợ khi biết lưỡi kiếm ấy nằm trong tay một người thương yêu em.
Bấy giờ viên sĩ quan nghiêm giọng nói :
– Vậy tại sao em lại muốn anh sợ hãi cơn bão tố này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương anh ?
Được thăng giáo hoàng là một việc rất trọng đại. Khi Đức Pi-ô XI đăng quang, sau khi thực hiện xong các lễ nghi rồi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức Giáo hoàng trước ngài Bê-nê-dic-tô XV, thì tự nhiên ngài cảm thấy một mối lo âu ập xuống trên ngài, vì Giáo hội đang bị kẻ thù tấn công tư bề, Hội Thánh đang phải trải qua một giai đoạn thử thách mới : Tuy Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt, nhưng Thế chiến Thứ Hai lại đang âm ỉ và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nghĩ đến những chuyện ấy, lòng Đức Pi-ô XI lại ngập tràn lo âu. Bấy giờ ngài qùi gối trước Thánh Giá và cầu nguyện sốt sắng. Đang lúc cầu nguyện, tự nhiên tay ngài chạm phải một tấm ảnh đặt trên bàn làm việc của Đức tiên giáo hoàng. Bấy giờ Đức Pi-ô liền cầm tấm ảnh lên xem và tự nhiên ngài thấy nỗi lo sợ trong lòng biến mất, và ngài lại cảm nghiệm được sự bình an trong tâm hồn. Đó là bức hình vẽ Chúa Giê-su đang đứng trên mũi thuyền và truyền cho sóng gió yên lặng. Từ ngày đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức hình ấy trên bàn làm việc, và mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn không biết phải làm gì, Đức Pi-ô XI ngồi nhìn vào bức ảnh rồi cầu xin Chúa Giê-su hãy phán một lời, thế là mọi khó khăn đang gặp phải đều tự nhiên tan biến hết (W.J. Diamond- Đồng cỏ non).
SUY NIỆM:
1) Tâm trạng của hai môn đệ về làng Em-mau:
Đây là hai trong số 72 môn đệ của Đức Giê-su đã được Người sai từng hai người đi giảng đạo (x. Lc 10,1a). Hai ông đã đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Giờ đây đại lễ đã xong, hai ông quay trở về nhà riêng tại làng Em-mau. Một trong hai ông tên là Cờ-lê-ô-pát, còn người kia không được nêu tên, có thể là chính tác giả Lu-ca. Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau với vẻ mặt buồn bã thất vọng. Sở dĩ họ mang tâm trạng như thế là vì mấy lý do như sau:
– Một là vì Đức Giê-su « là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá » (Lc 24,19b-20).
– Hai là biến cố đau thương của Đức Giê-su đã xảy ra trái với ước vọng của các ông khi đi theo làm môn đệ của Thầy, khiến các ông hoàn toàn thất vọng muốn buông xuôi: « Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Nhưng các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là ngày thứ ba rồi » (Lc 24,21).
2) Vai trò của Kinh Thánh và Phụng Vụ trong việc củng cố đức tin:
– Lời Kinh Thánh đã làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi lòng các ông: Trong vai một người khách bộ hành, Đức Giê-su đã « giải thích cho hai ông tất cả lời Thánh Kinh chỉ về Người ». Còn về “vụ ông Giê-su” thì sau khi lắng nghe quan điểm của hai ông về vụ án, về cuộc tử nạn, và việc Người bị treo trên thập giá, Đức Giê-su đã giải thích Kinh Thánh và khích lệ tinh thần của các ông như sau: ”Nào Đấng Ki-tô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang sao”? (Lc 24,26). Sau đó các ông đã nói với nhau : « Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32).
– Chính cử chỉ yêu thương đã mở mắt đức tin của các ông : Để được nhận biết tin yêu Chúa, đòi các môn đệ phải khao khát lắng nghe Lời Chúa qua lời cầu: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (Lc 24,29). Rồi chính bầu khí yêu thương giữa cộng đoàn đã mở mắt đức tin cho các ông, như Tin Mừng thuật lại: « Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất » (Lc 24,30-31).
3) Vai trò của Tin, Cậy, Mến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng:
Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh thì Người lại biến mất. Chính lòng tin và lòng mến đã thúc bách hai môn đệ lập tức quay lại Giê-ru-sa-lem loan báo Tin Vui như Tin Mừng ghi nhận : « Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh (Lc 24,33-35).
4) Sống và chu toàn sứ vụ loan báo tin mừng Phục Sinh cho thế giới hôm nay:
– Trong cuộc sống, mỗi lần gặp thử thách, nhiều tín hữu thường nghĩ rằng: Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Chúa không còn quan tâm giúp đỡ mình nữa… và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự lễ Chúa Nhật và có khi còn mê tín dị đoan: đi coi bói tóan, cậy nhờ thầy bùa thầy ngải…
– Lẽ ra chúng ta phải xác tín rằng: Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta. Không những Người ở bên chúng ta khi ta được bình an, mà ngay cả những lúc gặp gian nan khốn khó như bệnh tật tai nạn, chúng ta vẫn tin rằng Chúa đang đồng hành với chúng ta. Người luôn đi bên ta và sẵn sàng giơ tay trợ giúp và bồng ẵm ta trên tay nếu ta biết cậy trông vào Người, như « ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thi ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy Thầy xin cứu vớt con. Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi! » (Mt 14,29-31).
– Nếu mỗi ngày chúng ta quyết tâm từ bỏ các thói hư như : tham lam, gian ác, ích kỷ, tự mãn cùng các đam mê tội lỗi khác, sẵn sàng vác thập giá là chu tòan các việc bổn phận của mình mà theo chân Chúa Giê-su, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc Nước Trời đời sau. Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.
– Mỗi người sẽ làm gì để noi gương hai môn đệ làng Em-mau, lập tức đi loan báo Tin Mừng cho tha nhân và phải loan báo thế nào để giúp họ dễ nhận biết tin yêu Chúa ?
THẢO LUẬN: 1) Khi gặp một người lỡ đường xin tá túc ban đêm, chúng ta nên làm gì để vừa bảo đảm an toàn cho gia đình, vừa thực hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như kinh Thương Người đã dạy ? 2) Hát bài: Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn thiếu gì. Dù trời tăm tối, bước đi không lo lạc lối. Đường dù nguy nan, không chút vấn vương tâm hồn. NGUYỆN CẦU: – LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn rồi, vì lòng chúng con đang khao khát được nghe lời Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì đức tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất cần được Chúa trợ giúp vượt qua khó khăn của cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì chúng con dễ sa chân lạc bước, hay chạy tìm kiếm thỏa mãn những đam mê bất chính, dễ chán nản buông xuôi khi gặp thử thách gian nan. Xin ở với chúng con, để chúng con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người đau khổ và chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì khi gặp được Chúa, chúng con sẽ được ơn biến đổi cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
– LẠY CHÚA. Hai môn đệ làng Em-mau đã sằn sàng đón tiếp một người khách lạ đang cần một bữa ăn tối và một chỗ nghỉ đêm. Chính nhờ lòng quảng đại ấy, mà hai ông đã nhận ra Chúa Phục Sinh, và được biến đổi nên vui tươi phấn khởi. Xin cho chúng con cũng biết quảng đại đi bước trước để làm quen với một người lạ đang bị đau khổ, cho chúng con biết sẵn sàng lắng nghe những tâm sự của họ và năng tham dự thánh lễ moi ngày. Nhờ được gặp Chúa, chắc chắn chúng con sẽ được ơn biến đổi trở nên người mới và chu toàn được sứ mệnh loan Tin Mừng cho tha nhân, như hai môn đệ làng Em-mau xưa.
Emmaus có thể xem như hành trình cuộc đời, đóng lại hay mở ra. Trên đỉnh của thất vọng là PS3-A156
Emmaus có thể xem như hành trình cuộc đời, đóng lại hay mở ra. Trên đỉnh của thất vọng là cánh cửa mở ra hy vọng và cũng có thể là cánh cửa khép lại trong tuyệt vọng. Cánh cửa mở ra, đó là hình ảnh của ngôi mộ Phục Sinh, tảng đá lăn ra khỏi mộ. Cánh cửa khép lại trong tuyệt vọng là chiếc hòm khóa kín bằng u mê, tự kết liễu chính mình,
Emmaus: con đường chán nản.
Hai môn đệ trên đường Emmaus, thất vọng trở về sau khi Chúa tử nạn, họ buồn bã kể lại cho nhau nghe những thổn thức ngày qua.
Không ai có thể nhốt mình, nếu mình không tự nhốt. Tự nhốt mình trong của cải xa hoa, trong những đám tiệc tốn kém, trong những vũ điệu cuồng say, trong những lối sống hưởng thụ. Tự nhốt mình trong những gian tham, cướp bóc. Tự nhốt mình trong cách thế độc tài, độc quyền. Sách Huấn ca nói về họ: “Của cải không lợi gì cho kẻ tiểu nhân, đối với con người đố kỵ, thì tài sản để làm gì? Tích luỹ mà vong thân là tích luỹ cho kẻ khác, người khác sẽ hưởng dùng của cải nó thu gom. Xấu với bản thân thì tốt với ai được? Ngay cả với tài sản của mình, nó cũng không được hưởng. Không ai tệ hơn kẻ làm hại chính mình, và đó là công trả cho sự gian ác của nó” (Hc 14, 3 – 6). Cái chết cũng là cánh cửa khép lại trong tuyệt vọng với chính họ. Bởi cái chết không mang theo được gì trong bình diện vật chất. Tinh thần có đem theo được thì toàn là những thứ rác rưởi của mưu mô, thù hằn, tính toán, cay nghiệt. Ra khỏi, đó là cách thức của con người thực sự đang sống. Đừng tự nhốt mình trong của cải hư vô, đó là hành vi xấu với chính mình.
Tự nhốt mình trong tay người khác, tự nhốt mình trong sự tùy thuộc vào người khác có quyền thế hơn, tự nhốt mình trong những thỏa hiệp với cái ác. Những trạng thái tự nhốt mình cho hay về sự nhược tiểu, ươn hèn, xu nịnh, luồn cúi, sống nhục. Sách tiên tri Isaia nói: “Khốn thay những đứa con phản nghịch, sấm ngôn của Đức Chúa! Chúng thực hiện kế hoạch, nhưng không phải của Ta, chúng ký kết thoả hiệp, nhưng không theo thần khí của Ta, cứ chồng chất tội này lên tội khác. Chúng đâu thỉnh ý Ta khi lên đường đi xuống Ai-cập tìm sự che chở của Pha-ra-ô, và núp bóng Ai-cập. Nhưng sự che chở của Pha-ra-ô sẽ khiến các ngươi phải thẹn thùng, và việc ẩn núp dưới bóng Ai-cập sẽ làm cho các ngươi phải nhuốc hổ.” (Is 30, 1- 3). Ai cũng biết, chính mỗi người cần giải quyết vấn đề của mình, người khác chỉ cho lời khuyên, trợ giúp. Nếu không tự giúp mình thì trời cũng không giúp. Đừng dựa vào cành cây, cành cây sẽ gẫy, đừng dựa vào con người, con người sẽ chết, chỉ dựa vào một mình Thiên Chúa “Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Rm 10, 11).
Đau khổ do thiên tai, bệnh tật, rắc rối từ nơi không mong muốn. Con người không thể tránh hết mọi đau khổ ở trong cuộc đời. Thiên tai, mắc bệnh ác tính như các vùng sống trong chất thải nhiễm độc, trong những thực phẩm không an toàn…Biết nhưng vẫn phải sống vẫn phải dùng. Đau khổ đến, sẽ đến nhưng đừng tuyệt vọng. Thất vọng trong đau khổ như ông Gióp nhưng ông vẫn không ngừng hy vọng. Bài học đến từ Thiên Chúa, ra khỏi mồ thật không dễ chịu: “Thiên Chúa dùng cái nghèo để giải thoát người nghèo, dùng khổ đau mà mở mắt họ.” (Giop 36 , 15).
Emmaus: Thánh Thể, niềm vui cuộc sống.
Ở đình cao của thất vọng là hy vọng, cũng như trên đỉnh mủa Đông lạnh gía là mùa Xuân ló dạng. Không có sầu tuyệt vọng mà chỉ có niềm hy vọng được thắp lên.
Niềm hy vọng ở Bí Tích Thánh Thể: Hai môn đệ nhận ra Chúa khi bẻ bánh; (Lc 24, 30 – 31) và các môn đệ cũng nhận ra Người “Cầm lấy và ăn trước mặt các ông.” (Lc 24, 43). Thánh lễ mỗi ngày đều được cử hành, con người có thể tìm thấy chính Chúa trong mọi biến cố cuộc đời mình, để tìm ra câu giải đáp. Thiên Chúa chờ đợi để lắng nghe và chính con người cũng cần lắng nghe Thiên Chúa nói:
“Vì sức mạnh của Ngài không dựa vào số đông, quyền lực của Ngài chẳng ở nơi người mạnh thế. Nhưng Ngài là Thiên Chúa của kẻ khiêm nhu, là Đấng cứu giúp người hèn mọn, Đấng đỡ nâng kẻ cô thế, Đấng bảo vệ người bị bỏ rơi, Đấng Cứu Tinh của những ai thất vọng.” (Giuđitha 9, 11)
“Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34, 19 – 20).
“Nếu con lỡ rút gươm đe bạn, đừng thất vọng: vẫn có thể hàn gắn. Nếu con lỡ nặng lời với bạn, đừng lo sợ: con có thể giải hoà.” (Hc 22, 21 – 22)
“Ai gặp gian truân thì quen chịu đựng;4 ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy.5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 4 – 5)
Trong mọi hoàn cảnh, con người đều có thể gặp Chúa trong Lời của Người. Dùng Lời Chúa để là chìa khóa mở những cái mồ của con người, bởi chính Lời Chúa là sức mạnh mở cửa mồ để con người bước ra. Đó sẽ là những hành vi tích cực để không tự nhốt mình.
Thánh Thể đón lấy là chính Chúa, Chúa chờ đợi con người, muốn yêu và được yêu. Vừa là chủ động và là bị đông, Tình Yêu của tuyệt đối là như thế, đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, hy sinh tất cả và tha thứ tất cả. Tất cả đều cử hành trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Người.
Năng tham dự bí tích Thánh Thể sẽ củng cố con người trong nghị lực, sống tươi vui và dồi dào phong phú hơn. Chính Chúa nói với con người: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)
Mỗi người đang hành trình trên đường Emmaus. Con đường ấy dẫn đến niềm vui khi gặp được Chúa và mời Người ở lại. Trong hành vi thiện chí của con người, hòn đá cửa mộ được lăn ra và Thiên Chúa bước vào. Con người sẽ chết trong ngôi mộ chính mình khi tự ý khóa lại. Chọn lựa của con người, cần suy nghĩ mỗi khi hành động: đóng vào hay mở ra.
Chúng ta có thể nhận ra thái độ và tâm tình buồn thảm và thất vọng và của các môn đệ sau cái PS3-A157
Chúng ta có thể nhận ra thái độ và tâm tình buồn thảm và thất vọng và của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giê-su, Thầy của mình. Vì sau 3 năm khổ cực theo Chúa với hy vọng sẽ hưởng được vinh quang đã hoàn toàn biến mất sau cái chết khổ nhục của Chúa trên thập giá. Thập giá đã kết liễu cuộc đời đầy hứa hẹn của Thầy, thập giá đã chôn vùi mọi hy vọng và niềm mong đợi trong lòng của họ. Mọi sự đã sụp đổ và tiêu tan hoàn toàn. Cũng như tâm trạng của mỗi người chúng ta khi đối diện với cái chết của người thân yêu, đó là chết là hết. Chết thì không còn gì nữa trong trần gian này. Sự nghiệp của một người thường chấm dứt khi người ấy nhắm mắt xuôi tay. Giả như người ấy sống bác ái, quảng đại hay có những sự nghiệp tinh thần lớn lao và quan trọng, thì may ra còn để lại chút ý nghĩa hay ảnh hưởng nào đó cho những người còn sống.
Thế nhưng có lẽ các môn đệ và những người yêu mến Chúa vẫn còn mang một tia hy vọng mỏng manh vào lời Chúa tuyên bố trước đây là Người sẽ sống lại. Tin mừng cho chúng ta biết vào sáng sớm ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi Chúa chết, mấy người phụ nữ đã đến viếng mộ Chúa, họ không thấy xác Chúa, và họ quả quyết Chúa đã hiện ra với họ. Đó là những điều đang làm các môn đệ của Chúa băn khoăn suy nghĩ, cụ thể là hai môn đệ mà bài Tin Mừng hôm nay kể lại. Hai ông vừa buồn, vừa sợ hãi và thất vọng, vì thế các ông quyết định bỏ Giêrusalem trở về quê cũ, nhưng trên con đường về làng Em-mau, Chúa Giêsu đã hiện ra cùng đồng hành với hai ông và trò chuyện với hai ông. Chúng ta thấy, lúc đầu hai ông chưa nhận ra đó là Chúa Giêsu phục sinh mà chỉ tưởng là một người bộ hành nào đó tình cờ gặp trên đường, nên các ông mời ghé lại quán bên đường dùng cơm và tiếp tục câu chuyện. Vào quán, khi dùng bữa, Chúa Giêsu phải dùng đến những cử chỉ quen thuộc, cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng Thiên Chúa, bẻ ra và trao cho hai ông, lúc ấy hai ông mới sáng mắt nhận ra Ngài. Nhưng khi vừa nhận ra thì Chúa Giêsu biến mất. Các ông vui mừng quay trở lại Giêrusalem để báo cho các bạn khác biết Chúa Giêsu đã sống lại thật rồi.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện hai môn đệ đi về làng Em-mau cũng là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng đi theo Chúa Giêsu, cũng đã tin vào Người. Trong biết bao năm tháng, chúng ta đã nghe những lời Chúa giảng dạy, nhưng cũng như các môn đệ, nhiều khi chúng ta chán nản hay thất vọng vì điều chúng ta trông mong ước, hay điều chúng ta cầu xin, nhiều khi rất thiết tha, nhưng cầu mãi, trông hoài mà vẫn chưa được. Chúng ta lâm cảnh đau đớn vì bệnh hoạn, gia đình không hòa thuận, con cái khó dạy bảo, công việc không thành công hay như chúng ta mong muốn Những tình cảnh đó làm cho chúng ta chán, chúng ta buồn, chúng ta khổ, đủ thứ cả, thế mà nghe giảng, tham dự tĩnh tâm, cầu nguyện cũng không đem lại cho chúng ta hy vọng gì hơn, giống như hai môn đệ nói : “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en, nhưng việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.” Đợi cho đến ngày thứ ba, hai ông đâm ra thất vọng. Cũng thế, chúng ta đợi, chúng ta chờ, có khi đã hơn ba ngày, ba tuần, ba tháng, ba năm mà vẫn không thấy gì, chúng ta đâm ra thất vọng, chán nản, phàn nàn. Nhiều khi chúng ta đổ lỗi cho người này, người kia, cho linh mục này, linh mục kia, kêu trách Chúa, thậm chí có người còn ra điều kiện với Chúa hoặc bỏ Chúa.
Nhưng cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta hãy bắt chước hai môn đệ này như hai ông đã thưa với Chúa: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi.” Và hãy xin Chúa: “Xin Chúa luôn ở lại với con trên đường đời đầy đau buồn, chông gai và gian khổ này. Xin Chúa ở lại với con trong cái xã hội đầy tội ác, nhiều hận thù và ganh ghét, còn muốn đóng đinh Chúa nữa này. Xin Chúa lưu lại đây với con để dạy con biết chết đi những tính hư nết xấu, lòng ích kỷ, tham lam và lười biếng, và được biến đổi trở nên như những Kitô hữu chính thật, để con có lòng xác tín, yêu mến Chúa hết sức, hết trí khôn và hết tâm hồn của con, và được sống mật thiết trong ân sủng của Chúa.” Trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, chúng ta không bao giờ chán nản và thất vọng, vì biết rằng Thiên Chúa là Đấng toàn năng, là Cha nhân từ thương yêu chúng ta vô cùng, và luôn có những việc lạ lùng và bất ngờ cho chúng ta.
Tin mừng cho chúng ta thấy các môn đệ có biết đâu trên cuộc hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng đồng hành, chú ý từng tâm sự, từng nỗi lo âu nhỏ to của các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Điều đó cho chúng ta vửng niềm tin Đấng Phục sinh vẫn hiện diện bên chúng ta. Nhưng cách hiện diện của Người hoàn toàn mới lạ, khác với cách hiện diện thông thường mà con mắt thể xác của chúng ta có thể nhìn thấy được. Chỉ đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng, tâm trí các ông được Người khai mở, nhận ra và tin Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Vì thế, các ông không một chút nghi ngờ vị khách đồng hành, người đã giảng dạy Kinh thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục sinh. Tâm hồn các ông lúc đó tràn ngập niềm vui mừng vì được gặp Chúa Phục sinh, khiến cho các ông lập tức lên đường trở về Giêrusalem, báo và làm chứng cho các môn đệ khác Thầy đã sống lại như đã tuyên bố. Những bước chân nặng nề, chán chường và cô đơn trước đó đã được thay thế bằng những bước chân vui mừng, hớn hở và hạnh phúc. Kể từ đó, Tin mừng Phục sinh đã theo dấu chân của các ông lan rộng khắp hoàn cầu.
Ông bà anh chị em thân mến. Như hai môn đệ trên đường Emmau,và trong bất cứ tình cảnh nào, người Kitô hôm nay cũng phải mang trong mình sự vui mừng, hân hoan và hy vọng trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế này. Câu chuyện Emmau giúp mỗi người chúng ta nhận ra điều này: bất luận chúng ta là ai và đang sống trong bất cứ hoàn cảnh như thế nào, đều có sự hiện diện, có sự “quan sát” và có sự đồng hành của Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh. Đặc biệt Chúa đang hiện diện với tất cả chúng ta trong Bí tích Thánh thể mà chúng ta đang cử hành. Xin Chúa cũng sẽ đi cùng với chúng ta về gia đình và cuộc sống hàng ngày.
Thánh Lu-ca là tác giả duy nhất thuật lại câu chuyện trên đường Emmaus. Câu chuyện này đã PS3-A158
Thánh Lu-ca là tác giả duy nhất thuật lại câu chuyện trên đường Emmaus. Câu chuyện này đã truyền cảm hứng cho rất nhiều suy tư và giáo huấn, như điển mẫu cho một hình thái mục vụ hiện nay, đó là sự đồng hành của Giáo hội với mọi người thời đại. Như Chúa Giê-su đã đồng hành và lắng nghe hai môn đệ đang thất vọng ê chề và giúp họ khơi lên niềm hy vọng, Giáo hội của Chúa hôm nay cũng phải đồng hành với nhân loại đang đắm chìm trong thất vọng, giúp mọi người tìm thấy niềm vui.
“Chậm hiểu và chậm tin”, đó là hai điều được nhắc tới trong lời khiển trách của vị khách lạ trên đường Emmaus, sau khi đã ân cần lắng nghe hai ông giãi bày nỗi lòng. Các ông không phải là những người không hiểu biết, vì trong lời tâm sự, các ông cho biết các ông theo Chúa Giê-su vì “vẫn hy vọng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel”. Các ông vẫn sống niềm hy vọng của Israel từ nhiều thế hệ. Tuy nhiên, niềm kỳ vọng của các ông lại mang tính trần tục. Theo các ông, Đấng Messia phải chiến thắng lẫy lừng, chinh đông dẹp bắc. Đàng này, Người lại bị giết như một kẻ gian phi. Dưới quan niệm của các ông, Đức Giê-su thành Na-gia-rét, tuy là người có uy thế trong việc làm cũng như lời nói, nhưng đã thất bại thảm hại. Chính các ông cũng đang thất vọng ê chề.
Tâm trạng của hai môn đệ trên đường Emmaus cũng là tâm trạng của nhiều người trong xã hội hôm nay, trong số đó có một số tín hữu Ki-tô. Trước những vấn nạn lớn như chiến tranh, xung đột, dịch bệnh, đau khổ, thiên tai, những dấu hỏi lớn được đặt ra mà không có câu trả lời. Nhiều người còn đặt lại vấn đề về ngay sự hiện hữu của Thiên Chúa. Ngài có hiện hữu thật không? Nếu Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót, sao nhân loại phải khổ đau như vậy?
Giữa một chuỗi những vấn nạn của thời đại, hôm nay Chúa Giê-su Phục sinh trả lời cho chúng ta. Trước hết, Chúa viện dẫn chính trường hợp cái chết của Người, để giải thích ý nghĩa của đau khổ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!” (Lc 24, 25). Chúa Giê-su đã mở trí cho hai ông hiểu Kinh Thánh, để thấy ở đó những điều đã tiên báo về cuộc khổ nạn của Người. Người cũng soi sáng cho các ông có một cái nhìn mới về đau khổ và thập giá. Việc hai ông nhận ra Chúa Giê-su khi Người bẻ bánh ở cuối trình thuật như đỉnh cao của mặc khải. Chúa cho các ông thấy Người vẫn sống và sự chết không thể giam hãm Người trong nấm mộ tối tăm. Vào lúc Chúa tỏ mình ra với hai ông, cũng là lúc hai ông thay đổi não trạng, không còn buồn rầu ủ dột.
Cuộc sống trần gian giống như một cuộc lữ hành. Chúa Giê-su vẫn hiện diện giữa chúng ta, mà đôi khi chúng ta không nhận ra Người. Có nhiều người không muốn gặp gỡ Chúa vì cuộc gặp gỡ với Chúa khiến họ phải đảo lộn những dự tính, phải thay đổi cách nhìn và nhất là phải từ bỏ những đam mê không phù hợp với đời sống mới của con cái Thiên Chúa.
Như Chúa Giê-su đã khai lòng mở trí cho hai môn đệ, hôm nay Chúa cũng đang giúp chúng ta hiểu Kinh Thánh. Ông Phê-rô nhờ được gặp gỡ với Chúa Phục sinh, mà từ một người dân chài chất phác ít học, đã trở nên nhà giảng thuyết hùng hồn. Bài đọc I ghi lại bài giảng đầu tiên của ông trong ngày lễ Ngũ Tuần. Với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, ông đã lược lại lịch sử dân tộc thánh trong một bài giảng, đồng thời chứng minh những gì các ngôn sứ loan báo nay đã được hoàn thành nơi Đức Giê-su thành Na-gia-rét, Đấng đã chết và đã sống lại.
Lễ Phục sinh là lễ của niềm hy vọng. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta như vậy. Nhờ Đức Ki-tô phục sinh mà chúng ta được sinh ra làm con cái Thiên Chúa. Tin vào sự Phục sinh của Chúa, cùng với niềm xác tín Người đang hiện diện giữa cuộc đời, sẽ giúp người tín hữu tìm thấy niềm hy vọng và bình an.
“Sao các anh chậm hiểu và chậm tin?”. Đó là câu hỏi Chúa đặt ra cho chúng ta hôm nay, vào những lúc đức tin của chúng ta bị chao đảo trước phong ba cuộc đời.
Trình thuật Emmaus kết thúc với việc Chúa bẻ bánh và trao cho các môn đệ. Trình thuật này dùng các từ vựng giống như việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Chúng ta đang cử hành Thánh lễ. Tại nơi đây, vào lúc này, Chúa Giê-su vẫn đang bẻ bánh và trao cho chúng ta. Chúng ta hãy nhận ra Người.
Sự kiện Chúa Giê-su phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na PS3-A159
Sự kiện Chúa Giê-su phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê và bà Sa-lô-mê (x. Lc 24, 1 – 12), các bà về thuật lại cho các Tông Đồ ở Ga-li-lê-a, hai môn đệ làng Emmaus trong nhóm các bà chẳng những chưa tin mà còn lo sợ (x. Lc 24). Chúa Giê-su Phục Sinh tiếp tục hiện ra dưới dáng dấp của một người lữ hành, tỏ ra không biết, rồi đồng cảm với hai ông, đã dùng Kinh Thánh để giải thích, bẻ bánh trước mặt hai ông, giúp lòng họ sốt sắng lên và làm cho mắt họ sáng ra để nhận ra Người (x. Lc 24, 13 – 35).
Trở lại Giê-ru-sa-lem, hai ông thuật lại cho các Tông đồ trong khung cảnh cửa đóng then cài. Đang lúc đứng bàn chuyện, Chúa Giê-su hiện đến với họ khiến họ kinh hoàng khiếp sợ “bối rối tưởng mình thấy ma” (Lc 24, 37).
“Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ” (Lc 24, 36). Đó là lời cầu chúc đầu tiên của Đức Ki-tô Phục sinh, kèm theo là những chứng tích ở tay chân với những vết thương, họ “vẫn còn chưa tin” (Lc 24, 41). Chúa phải nghĩ đến cách ăn cá nướng và mật ong, trích dẫn luật Môi-sen, lời các tiên tri và Thánh vịnh là những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh và cuộc sống mới của Chúa. Chính Chúa thực hiện những lời Sách Thánh đã chép, và tiếp theo bằng miệng: “Chính Thầy đây” (Lc 24, 39), đúng Thầy là sự thật và là sự sống. Đó là lý do tại sao các Tông đồ, những người ban đầu nghi ngờ, thậm chí khi nhìn thấy cơ thể sống của Chúa cũng chưa tin đã trở nên những chứng nhân rao giảng về sự sống lại của Chúa cách hùng hồn (x. Cv 4).
Lời Chúa sưởi ấm con tim
Giả bộ khách đồng hành, tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của hai môn đệ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giê-su Phục sinh bắt đầu gợi chuyện, nghe họ bộc bạch về đau khổ và thất vọng cũng như đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngóm. Thấy họ buồn sầu như thế, Chúa nói chuyện với hai ông và “giải thích” Kinh Thánh, “bắt đầu từ Mô-sê và các tiên tri“, giúp họ hiểu rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ðấng Cứu Thế đã được thấy trước trong chương trình của Thiên chúa và được loan báo trước trong Thánh Kinh (x. Lc 24, 27). Như thế, Chúa đốt cháy lên trong con tim họ một ngọn lửa hy vọng. Khi đó hai mộn đệ cảm thấy một sức thu hút ngoại thường nơi con người bí mật ấy và mời Người ở lại với họ chiều hôm đó: “Mời ông ở lại với chúng tôi“, lý do“vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn ” ( Lc 24, 29 ).
Thánh Thể mở mắt đức tin
“Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Chúa Giê-su chấp nhận và cùng họ vào nhà và khi ngồi vào bàn Người làm phép và bẻ bánh, thì họ nhận ra Người, nhưng Người đã biến khỏi cái nhìn của họ, để họ lại đầy kinh ngạc. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi “bẻ bánh” đơn giản (Lc 24, 35). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ “Trỗi dậy trở về Giê-ru-sa-lem” (Lc 24, 33) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho “Mười một Tông đồ và các bạn khác đang tụ họp” (Lc 24, 33).
Lời Chúa và Thánh Thể trong đời sống người tín hữu
Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giê-su khi người bẻ bánh, liền về Giê-ru-sa-lem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục sinh.
Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về “làng Emmaus“, quay lưng lại với chương trình của Thiên Chúa, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus, sau khi đã “nhận ra” Chúa trong việc bẻ bánh, thì mau mắn trở lại Giê-ru-sa-lem lòng tràn đầy niềm vui, kể cho anh em mình tất cả những gì đã xảy ra. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Thánh Phao-lô cũng bảo chúng ta: “Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến“ (1 Cr 11,26 ). Như thế, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Ki-tô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Hãy để cho Lời Chúa sưởi ấm con tim và Thánh Thể Người mở đôi mắt đức tin của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng niềm hy vọng và tình bác ái, để chúng ta có thể đồng hành với các anh chị em buồn sầu và tuyệt vọng, sưởi ấm con tim họ với Tin Mừng, và bẻ bánh tình huynh đệ với họ.
Cùng với Mẹ Ma-ri-a, chúng ta nhìn lên Mẹ Ma-ri-a như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giê-su Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
Câu chuyện Chúa sống lại từ cõi chết hầu như đã ngã ngũ mà có người vẫn còn hồ nghi, trong đó PS3-A160
Câu chuyện Chúa sống lại từ cõi chết hầu như đã ngã ngũ mà có người vẫn còn hồ nghi, trong đó lại là hai môn đệ của Chúa. Họ rong rủi trên đường đi Emmaus. Để làm gì? Không ai biết. Làng Emmaus ở đâu? Không thấy có trên bản đồ. Tất cả chỉ là mơ hồ, nghi ngờ và hoang mang. Nhưng chính sự nghi ngờ này đã được Chúa dẫn đưa họ đến tin tưởng. Bẻ bánh.
Bài Tin Mừng Phúc Âm Luca (Lc 24:13-35) hôm nay kể lại câu chuyên hai môn đệ Chúa trên đường đi Emmaus. Khi Luca kể câu chuyện này thì biến cố Chúa Giêsu sống lại cũng xẩy ra cùng một ngày. Chúng ta nhận thấy hai môn đệ Chúa Giêsu đã cùng nhau bàn bạc không ngừng nghỉ trên đường họ đi Emmaus, cách Jerusalem khoảng bảy dặm. Người kể truyện ghi chú rằng họ tỏ ra rất buồn phiền và tinh thần thì rất sa sút. Bỗng chốc Chúa sống lại xuất hiện với họ giữa đường mà họ không hề nhận biết.
Khi trực tiếp hội thoại, cùng bàn luận với hai ông, Chúa cũng nói với họ về câu chuyện thời sự đặc biệt vừa xẩy ra ở Jerusalem. Các ông đáp trả lời Chúa cũng chỉ như một câu chuyện bình thường về tôn giáo mà không hề nói về bất cứ điều gì liên quan đến việc Chúa sống lại. Nó chẳng ăn khớp gì với những việc sẽ xẩy ra sau này là tin Chúa sống lại đã được tuyên bố và báo cho họ biết vào ngày hôm trước. Thực vậy, việc Chúa phục sinh đã hiện diện ngay trước mắt họ mà họ hoàn toàn không hay biết, khiến họ thành như những kẻ điên rồ, chậm hiểu về những điều mà Kinh Thánh đã nói là Chúa Giêsu cần phải chịu đau khổ rồi được vinh hiển. Chúng ta không biết thánh Luca có trong đầu bản văn nào, nhưng điều quan trọng hơn cả là sứ điệp Chúa Giêsu chết và sống lại tất cả đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa ngay từ thuở khởi đầu.
Diễn biến quang cảnh câu chuyện đã cho chúng ta biết mắt và lòng trí của hai môn đệ sau cùng đã mở ra thế nào và tại sao. Đến Emmaus họ mời Chúa Giêsu ở lại với họ vì trời đã tối, đêm đã đến, dập dình nỗi sợ Chúa mình đã chết. Làm sao đây?
Thế rồi vào bữa ăn chiều, Chúa Giêsu chúc phúc, bẻ bánh và chia cho các ông giống y như Chúa đã làm vào bữa tiệc ly trước khi Chúa chịu chết. Họ bừng trí mở mắt nhớ lại và nhận ra Chúa Giesu chính là người đã đồng hành với các ông trên đường đi Emmaus vừa mới đây. Họ cũng nhớ lại và cảm thấy thế nào khi Chúa giảng dạy cho các ông trên hành trình Emmaus, và lòng trí họ bừng cháy lên lửa tin yêu, thân xác họ mạnh mẽ trở lại. Cuối cùng khi bẻ bánh, hành trình của họ đã hoàn thành, từ chỗ không tin gì cả đến chỗ hoàn toàn tin cậy. Đúng vậy, đây chắc chắn là lý do của một niềm vui vĩ đại. Làng Emmaus là đây, đã có thực trên bản đồ, có vị trí rõ ràng. Tất cả đã rõ ràng. Không hồ nghi áy náy bâng khuâng. Tôi tin Chúa đã phục sinh thực sự từ cõi chết, để cho tôi cũng được sống lại vào ngày sau cùng. -
Khi đọc sơ qua bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay, tôi rất lấy làm lạ. Lạ là bởi vì hai môn đệ PS3-A161
Khi đọc sơ qua bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay, tôi rất lấy làm lạ. Lạ là bởi vì hai môn đệ này đã đi theo Chúa vài năm chứ không phải ít. Và các Thánh Sử đều tường thuật, thân xác của Chúa Giê-su trước và sau khi Phục Sinh chỉ là một. Ngài đã phục sinh cũng với chiều cao, vóc dáng, cũng những vết thương, với những lỗ đinh ở tay, ở chân, và bên cạnh sườn… Vậy mà tại sao họ lại không nhận ra Người? Cái gì đã ngăn cản đôi mắt họ như vậy?
Nhưng đọc kỹ một chút, và sau khi suy niệm, tôi thấy thánh Luca đã cho biết có hai lý do khiến các ông không nhận ra Người:
• Thứ nhất là vì các ông KHÔNG HIỂU KINH THÁNH. “Các anh chẳng hiểu gì cả!”
• Thứ hai là các ông CHẬM TIN: “Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!”
Họ không hiểu Kinh Thánh không phải là vì họ không được học, hay không có ai giải thích cho họ. Chính Chúa Giê-su đã nhiều lần giảng dạy, và đã cắt nghĩa Kinh Thánh, cũng như giúp cho các ông hiểu thêm về sứ mạng Ngài sẽ phải chịu.
• "Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại" (Lc 18: 31-33).
• "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24:44-45)
Như vậy rõ ràng là, mặc dù hai môn đệ này đã từng nghe, từng được Chúa mạc khải cho họ biết về cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài. Mặc dù các ông cũng đã từng được nghe lời các ngôn sứ tiên báo về Đấng Cứu Thế trong các Hội Đường, nhưng họ vẫn không hiểu Kinh Thánh và vẫn chậm tin. Chính vì thế, việc đầu tiên Chúa Giê-su Phục Sinh đã làm, là đã giảng giải và cắt nghĩa cho các ông hiểu biết về Kinh Thánh. Và sau khi đã được nghe giải thích và đã hiểu Kinh Thánh, lòng của họ đã bừng cháy…mắt của họ đã mở ra và nhận ra Người. Nói một cách khác, nhờ được học hỏi Kinh Thánh, niềm tin của các môn đệ cũng như của các tông đồ đã được củng cố, và đã kiên vững hơn.
Bạn thân mến, qua bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 3 Phục Sinh hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta thấy việc đọc và học hỏi Kinh Thánh rất quan trọng trong đời sống đức tin. Nếu bạn và tôi không biết và không hiểu gì về Kinh Thánh, thì thánh Jerome khẳng định, chúng mình sẽ không biết Đức Kitô Phục Sinh là ai cả!
Nếu ngày xưa, niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh của hai môn đệ trên đường đi Em-mau nói riêng, và của các Tông đồ nói chung, đã được vững mạnh hơn, nhờ vào việc các ông hiểu biết về Kinh Thánh, thì hôm nay, bạn và tôi cũng hãy cố gắng đọc, học hỏi và suy niệm Kinh Thánh, để nhờ vậy, niềm tin của bạn và của tôi vào Chúa Kitô Phục Sinh sẽ được kiên vững hơn, được sâu đậm hơn, và được mạnh mẽ hơn.
• Xin hãy cố gắng đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Chỉ cần đọc 5-10 phút thôi, không cần đọc nhiều đâu.
• Trước khi đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ, xin hãy đọc qua bài đọc, và các bài suy niệm ở các trang mạng truyền thông xã hội.
• Trước khi đi ngủ, cả gia đình quây quần bên nhau, cử một người đọc một đoạn Phúc Âm, lý tưởng nhất là đọc bài Phúc Âm của ngày lễ hôm sau.
• Khi đọc Kinh Thánh, nếu có điều gì không hiểu hoặc có thắc mắc, bạn hãy viết xuống, sau đó email hỏi các linh mục, các tu sĩ… Xin đừng ngại ngùng, học luôn luôn đi đôi với hỏi, chả có gì phải ngại cả!
Kinh Thánh có một vị trí rất cao trọng trong đời sống đức tin của chúng mình, vì thế cho nên Thánh Công Đồng, trong Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải dạy rằng: “Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu” (# 21).
Ước mong bạn và tôi luôn luôn nỗ lực và cố gắng hơn nữa trong việc đọc, học hỏi và suy niệm Kinh Thánh. Tôi tin chắc rằng, nếu bạn và tôi siêng năng đọc, học hỏi và suy niệm Kinh Thánh, thì đức tin của chúng mình sẽ mỗi ngày triển nở hơn, và sẽ bén rễ sâu hơn vào Chúa Kitô Phục Sinh. Và nhờ có một đức tin vững mạnh vào Ngài, chúng mình sẽ vượt qua tất cả mọi đau khổ, thử thách, và sóng gió trong cuộc đời.
1. Không có thập giá, không có Chúa Kitô phục sinh.
Hai môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay rời Giêrusalem hoàn toàn thất vọng. Họ đang trên đường PS3-A162
Hai môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay rời Giêrusalem hoàn toàn thất vọng. Họ đang trên đường trở về, và trở lại cuộc sống trước đây của họ, có lẽ như một cách để bỏ lại đằng sau trải nghiệm đã làm họ mất tinh thần: Đấng Thiên Sai của họ đã bị hành hình trên thập giá, như một tên tội phạm, và cùng với cái chết của Ngài, ước mơ phục hồi Vương quốc Israel của họ cũng tiêu tan. Thập giá đã làm tiêu tan hy vọng của họ. Họ đã can đảm rời bỏ nhà cửa và gia đình để theo Chúa Giêsu. Họ đã lắng nghe lời Ngài, họ đã chứng kiến những phép lạ của Ngài, và thậm chí họ còn đi rao giảng nhân danh Ngài. Họ nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ được chào đón nhiệt tình như Đấng Mêsia được chờ đợi từ lâu. Và chính vào thời điểm mà Chúa Giêsu gọi là “giờ của Ngài”, thời điểm mà Ngài hoàn thành công việc vĩ đại nhất của mình, thì một chuyện không ai trong các môn đệ ngờ tới lại xảy đến! Chuyện gì đã xảy ra thế ? Thiên Chúa đã chọn con đường mà các môn đệ không lường trước được và họ không chấp nhận. Thập giá và đau khổ không nằm trong trù tính của họ. Bóng cây thập giá hiện ra, họ bỏ cuộc, quay trở lại lối sống cũ với mong muốn quên đi những đau thương trong trái tim nặng trĩu. Họ trao nhau những lời không niềm tin, không còn Chúa: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel” (Lc 24: 21). Họ chưa bao giờ hiểu những gì Chúa Giêsu rao giảng, bởi vì trong đáy sâu lòng mình, họ không muốn có một Đấng Cứu Thế như vậy, một Đấng Thiên Sai hoàn toàn yếu ớt, bị đánh đòn, bị sỉ nhục, bị đóng đinh chết trên thập giá.
Mỗi khi chúng ta cố gắng loại bỏ thập giá khỏi cuộc sống của mình, thì rốt cuộc chúng ta cũng loại bỏ Chúa Giêsu. Con người không thể thoát khỏi thập giá đủ mọi loại trong đời mình, dù họ cố tránh bao nhiêu chăng nữa! Không có thập giá, thì không có Chúa Kitô, như Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Chúa Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2: 19-20). Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phêrô khẳng định Ơn Cứu Độ không đến từ nơi đâu khác ngoài cái chết đổ máu của Con Chiên vẹn toàn là Chúa Kitô trên thập giá. Vinh quang phục sinh chỉ có được khi chúng ta nghiệm được và hiểu ra rằng “…không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Chúa Kitô… Nhờ Ngài, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Ngài được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (Bài đọc thứ hai, 1 Pr 1: 18-19, 21).
2. Chúa Giêsu luôn đi bước đầu tiên.
Các môn đệ đã vứt bỏ mọi thứ, bỏ Thánh Đô Giêrusalem, nơi họ theo Thầy Giêsu của họ trong nhiều cuộc hành trình với nhiều biến cố lớn lao kỳ diệu. Nay mọi thứ lớn lao kỳ diệu đã chấm hết trên Đồi Sọ, đã bị chôn vùi trong mộ đá. Còn cách nào khác để tiếp tục sống và nuôi hy vọng ngoài việc trở về quê cũ: “Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số” (Lc 24: 13).
Đôi khi chúng ta phản ứng giống như họ: chúng ta từ bỏ Chúa Kitô và cố gắng tự sửa chữa mọi thứ theo tính toán riêng mình, nhưng điều này luôn dẫn chúng ta đến nản lòng. Để có năng lượng sống mới, chúng ta cần đến Chúa Kitô. Chính Ngài, chứ không phải ai khác, biết rõ cõi lòng của chúng ta rõ nhất. Chúa Kitô Phục Sinh sẽ đến đúng lúc, dù nhiều khi một cách bất ngờ chúng ta không nhận ra Ngài: “Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Chúa Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Ngài” (Lc 14: 15-16). Hai môn đệ quá bận tâm đến những lo lắng và vết thương lòng của mình đến nỗi họ không nhận ra người đang đi bên cạnh mình. Tự thương hại không giúp chúng ta nhìn thấy Chúa, mà chỉ làm chúng ta chìm sâu hơn trong sự bất lực của chính mình. Chúa Giêsu quan tâm đến những âu lo, những đổ vỡ trong tâm khảm của chúng ta. Ngài muốn chúng ta thổ lộ tất cả những điều ấy với Ngài: “Ngài hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24: 17). Một câu hỏi bất ngờ làm thay đổi hoàn cảnh đáng thương này: “Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Ngài để Ngài bị án tử hình, và đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Ngài đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Ngài vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy” (Lc 24: 19-24). Trải nghiệm đó cũng ghi dấu trong cuộc sống của chính chúng ta và hành trình tâm linh của chúng ta, vào những thời điểm mà chúng ta buộc phải điều chỉnh lại những kỳ vọng và đương đầu với những thất bại cũng như những mơ hồ và sai lầm của cuộc sống. Khi những lý tưởng cao đẹp của chúng ta trong cuộc sống bị đổ nát, chúng ta từ bỏ mục tiêu của mình, vì nhận ra những yếu đuối và kém cỏi của chúng ta. Khi chúng ta bắt tay vào những dự án vĩ đại, nhưng sau đó lại thấy rằng chúng ta không thể thực hiện được: “Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:18). Khi tất cả chúng ta, sớm hay muộn, trong cuộc sống hàng ngày và trong các mối tương quan của mình, trải qua một thất bại, một sai lầm, hay một cú ngã, và thấy những gì chúng ta đã tin tưởng, hoặc cam kết trở nên vô nghĩa. Khi chúng ta cảm thấy bị đè bẹp bởi tội lỗi của mình và bởi cảm giác hối hận. Tất cả những khi ấy Chúa Giêsu luôn đi bước đầu tiên trong cuộc đời chúng ta. Bất kể nghề nghiệp, thân phận của chúng ta là gì, Ngài quan tâm đến cõi lòng của chúng ta và muốn giúp chúng ta; chúng ta cần khiêm hạ chấp nhận mình “chẳng hiểu gì” về Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, vì thế chất tâm trí chất chứa nhiều nghi nan: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!” (Lc 24: 25). Một câu trả lời bác bỏ những nghĩ suy sai lầm của hai lữ khách và mời họ nhìn xa hơn các dự án riêng và những hy vọng hạn chế của họ, cũng là của chúng ta hôm nay. Chúng ta cần bình tâm, lắng lòng lại và nghe Lời Ngài và để Lời Ngài bừng sáng lên trong trái tim chúng ta: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Ngài sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24: 26-27). Thánh Phêrô, trong trình thuật Công vụ Tông đồ cũng đã kêu gọi: “Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Chúa Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Chúa Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Ngài vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại, giải thoát Ngài khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Ngài mãi...Vậy toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Chúa Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (CvTđ 2: 22-24).
3. Đức tin được chữa lành.
Chúa Giêsu Kitô là chủ chăn đi tìm hai con chiên lạc này. Như mọi khi, Ngài nhẹ nhàng soi sáng lương tâm của họ và khéo léo dẫn dắt họ đến với sự thật. Việc lắng nghe Lời Chúa chuẩn bị cho hai môn đệ nhận ra Ngài khi Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, chúc tụng và trao cho họ: giống như những cử chỉ như trong Bữa Tiệc Ly. Nhận ra Chúa trong việc “bẻ bánh”, mọi nghĩ suy của họ đều thay đổi. Lòng các môn đệ tràn ngập niềm vui biết bao khi nhận ra Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã biến mất! Điều kỳ diệu xảy ra: các môn đệ không còn rơi vào tình trạng chán nản “vẻ mặt buồn rầu” (Lc 24: 17) vì họ đã “đánh mất” Chúa Giêsu như mấy ngày trước. Ngược lại, trái tim của họ bừng cháy: “Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24: 32). Không thể kìm nén sự hân hoan vui mừng để ngủ lại Emmau như dự tính, họ liền chạy trở lại Giêrusalem ngay trong đêm tối, tin chắc rằng Chúa Giêsu còn đang sống. Đức tin của họ đã sống lại. Bây giờ đức tin đó dựa trên Sách thánh và Bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đã phục hồi đức tin của họ.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tất cả chúng ta đều đã từng trải qua những khoảnh khắc khó khăn trong cuộc đời, những khoảnh khắc tăm tối khi bước đi trong buồn bã, trầm ngâm, không có chân trời, chỉ có một bức tường trước mặt. Và Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta để ban cho chúng ta niềm hy vọng, sưởi ấm trái tim chúng ta và nói: “Hãy bước tới, Thầy ở cùng anh em. Hãy bước tới”. Bí mật của con đường dẫn đến Emmaus đơn giản là thế này: mặc dù bề ngoài có vẻ trái ngược, chúng ta vẫn tiếp tục được yêu thương và Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng yêu thương chúng ta. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, luôn luôn, ngay cả trong những lúc đau khổ nhất, ngay cả trong những lúc tồi tệ nhất, ngay cả trong những lúc thất bại. Đó là nơi Chúa có mặt. Và đó là hy vọng của chúng ta. Chúng ta hãy tiến lên với niềm hy vọng này! Bởi vì Ngài ở bên cạnh chúng ta và bước đi cùng chúng ta. Mọi nơi mọi lúc!” (Buổi tiếp kiến chung, thứ Tư 24/5/2017)
Cùng với Đức Thánh Cha, chúng ta nguyện xin:
“Lạy Chúa Giêsu là đường đi, là sức mạnh và là niềm an ủi của chúng con, giống như các môn đệ Emmaus, chúng con nài xin Chúa: “Xin ở lại với chúng con vì trời đã xế chiều” (Lc 24:29). Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với chúng con khi niềm hy vọng lụi tàn và đêm tối thất vọng ập xuống. Xin hãy ở lại với chúng con, vì cùng với Chúa, cuộc hành trình của chúng con tiếp tục và từ những con hẻm mù mịt của sự ngờ vực, niềm vui kinh ngạc được tái sinh. Xin ở lại với chúng con, vì với Chúa, đêm đau thương biến thành bình minh rạng ngời của cuộc đời. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con! Vì nếu Chúa đi bên cạnh chúng con, thất bại sẽ nhường chỗ cho hy vọng của sức sống mới. Amen.”
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại các việc xẩy ra cho hai môn đệ trên đường đi Em-mau. Câu chuyện PS3-A163
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại các việc xẩy ra cho hai môn đệ trên đường đi Em-mau. Câu chuyện này rất thú vị, giống như một tin vui xuất hiện để cất đi những phiền muộn có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nó đã như một luồng sáng chiếu tỏa và làm tan đi lớp mây mù ngăn cản các môn đệ nhận ra Thầy mình. Nó không chỉ nói đến việc nhận ra Đức Giê-su phục sinh của hai môn đệ mà còn của mỗi người chúng ta nữa.
Thật thú vị khi nhận ra việc Thánh sử chỉ nhớ tên một môn đệ, Clê-ô-pát, còn tên người môn đệ thứ hai thì không được nhắc đến. Phải chăng đây là chủ ý của Thánh sử để mỗi người chúng ta có thể tự đặt mình vào vị trí của người môn đệ thứ hai này. Nói khác đi, kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh của các môn đệ trên đường Em-mau mãi mãi là kinh nghiệm cần phải có của mỗi người chúng ta, môn đệ của Chúa trong mọi thời.
Đối với những môn đệ trên đường đi Em-mau, tương lai của họ thực sự rất đen tối. Trước đây, trên hành trình theo Chúa, họ đã nhìn nhận Người là một ngôn sứ đầy uy quyền. Họ đã không sai lầm khi đặt trọn niềm hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Thế mà Người lại chết, và cho đến nay đã sang ngày thứ ba rồi! Dù có mấy phụ nữ ra thăm mộ về báo tin là họ đã không còn thấy xác của Thầy đâu nữa nhưng họ vẫn không tin. Tin tức về sự xuất hiện của Thầy chỉ làm cho họ càng thêm hoang mang. Chính mắt họ đã nhìn thấy cảnh người ta chôn xác Chúa. Thế là hết! Bao nhiêu hy vọng ở nơi Chúa giờ này bị chôn vào ngôi mộ của Người. Đối với họ thế là hết.
Sau cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, họ cảm thấy tất cả đã mất. Họ đã mất thời gian và nỗ lực trong mấy năm qua, giấc mơ đã tan thành mây khói. Họ cần làm lại từ đầu. Họ cần hoạch định một dự án cho tương lai. Tuy rằng như thế, có một chi tiết thật thú vị mà chúng ta không nên bỏ qua, đó là hai môn đệ vừa đi vừa nói về những gì vừa xẩy ra cho Đức Giê-su. Như vậy, tuy không còn hy vọng nhưng hai môn đệ trên đường Em-mau vẫn khao khát tìm kiếm một lời giải thích cho tất cả sự việc vừa mới xẩy ra.
Trong khi hai môn đệ đang bàn tán thì Đức Giê-su đến và cùng đi với họ. Theo Thánh Luca cho biết thì đó là Đức Giê-su, còn các môn đệ lại không nhận ra Người. Khi Đức Giê-su lên tiếng thì họ dừng lại và với vẻ buồn phiền họ đã kể cho Người biết về những chuyện vừa xẩy ra.
Chúng ta hiểu được nỗi buồn phiền của các môn đệ. Nỗi buồn phiền về những gì vừa xẩy ra. Tất cả đều diễn ra không theo ý muốn của họ. Đây cũng là nguyên nhân khiến họ không nhận ra người đang đi với họ là Đức Giê-su. Người đã đến và mở lời trước để trò chuyện với họ. Cách hành xử của Clê-ô-pát rất thật khi ông đã nói cho người khách lạ biết về những ý nghĩ và tâm tư của họ về những việc vừa xẩy ra tại Giê-ru-sa-lem. Họ đã bị bí lối.
Đến đây, người khách lạ mà hai môn đệ nghĩ rằng ông ta không biết những gì vừa xây ra lại là người cầm chìa khóa mở cho họ nhận biết những điều bí nhiệm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa muốn Đức Giê-su thực hiện. Bắt đầu từ Mai-sen, người khách lạ trích dẫn các lời tuyên bố của các ngôn sứ, từ từ tiết lộ kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Kinh thánh có sức mạnh như một dòng điện và được Thần khí kích hoạt và hướng dẫn. Có lẽ những gì mà người khách lạ nói hôm nay cũng không khác gì những gì mà Đức Giê-su đã giảng dậy khi còn sống với các ông. Nhưng hôm nay các ông nghe và đón nhận bằng một chiều kích mới cho nên lòng các ông mới được bừng cháy lên. Ngọn lửa của Thánh linh đã thiêu đốt tâm hồn và xóa tan đi những u mê để họ nhận ra ý nghĩa của Lời Chúa. Từ đó, họ bắt đầu hiểu con đường đau khổ và thập giá của Đức Giê-su dưới ánh sáng hoàn toàn mới. Họ thấy đó không phải là một thảm họa, một sự thất bại mà là khởi đầu của một thời đại ân sủng mới.
Đang say mê nghe giảng giải, lòng trí của họ được khai sáng thì trời đã tối. Hai môn đệ nài ép Đức Giê-su ở lại với họ. Việc này nói lên lòng quảng đại và say mê lắng nghe lời Chúa của các môn đệ. Về phần Đức Giê-su, sau khi sống lại, Người hiện diện theo cách thức của Người. Người không ép buộc ai nhưng chờ một lời mời. Như một khách lạ, Người đứng bên cửa rồi gõ, ai mở ra đón nhận thì Người bước vào và dùng bữa với họ.
Sau đó, để đáp lại lòng quảng đại và tâm hồn hiếu khách của hai môn đệ, Đức Giê-su trong khi đồng bàn, Người đã cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra rồi trao cho các môn đệ. Tất cả các cử chỉ này quá quen thuộc làm cho các môn đệ nhớ lại việc Thầy mình đã làm phép lạ Bánh Hóa Nhiều để nuôi ăn 5000 người, nhớ lại cử chỉ của Chúa trong bữa Tiệc Ly. Nhìn thấy các cử chỉ đó, mắt họ liền mở ra và lập tức nhận ra Người. Cử chỉ của Chúa Giê-su lúc Người bẻ bánh là một chi tiết khá hấp dẫn, mang một nét đặc thù mà chỉ có Chúa mới làm được. Cử chỉ nhắc lại tinh thần tự hiến của Chúa mà các môn đệ đã trải nghiệm. Vì thế, hai môn đệ nhận ra Người.
Anh chị em thân mến,
Câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau có thể áp dụng cho mọi người ở mọi lứa tuổi. Chúng ta có thể thấy mình trong hai người khách lạ, mệt mỏi đi về Em-mau. Niềm tin và hy vọng đã mất, tương lai mà họ hy vọng bây giờ đã sụp đổ. Tuy nhiên, họ đã gặp một người bạn vô danh đang đi trên đường với họ, người lữ khách mà họ chưa từng quen biết đã cho họ một cái nhìn sâu sắc và kết nối thế giới mới với thế giới mà họ biết.
Em-mau không còn là đích điểm mà họ nhắm đến. Với lòng vui sướng, thanh thoát họ hân hoan trở về nơi mà các bạn của họ đang chờ, đó chính là Giê-ru-sa-lem. Nghĩ đến đó, họ lập tức lên đường trở về.
Giống như tâm trạng của người con đi hoang, chỉ nghĩ đến nhà nơi có hình ảnh của Cha khiến anh không thể chần chừ được nữa, cần lên đường về nhà ngay. Các môn đệ cũng thế, nhận ra Thầy là niềm vui cả thể. Họ không còn muốn nán ở lại Em-mau thêm một giây, một phút nào nữa. Họ khởi hành và trên đường về Giê-ru-sa-lem, tâm tư của họ không còn nặng chĩu và buồn chán nữa. Trái lại, họ nhận ra trong khi chia sẻ của ăn với Chúa tại Em-mau, họ nhớ lại một trải nghiệm trước đây họ đã chứng kiến khi Chúa nuôi ăn 5000 người trong bữa tiệc bẻ bánh ra nhiều. Họ nhận ra Người.
Thật vậy, sự hiện diện của Chúa đã chạm đến cơn đói sâu thẳm nhất của họ, và của ăn mà Chúa chia sẻ tại Em-mau không chỉ là của ăn vật chất mà là thức ăn giúp họ mở rộng tâm hồn và thân xác để đón nhận. Và, tất nhiên, đó là cách thức Người hiện diện, trong Bí tích Thánh Thể, nơi việc bẻ bánh. Và đây chính là ý nghĩa mà việc bẻ bánh của Chúa Giêsu muốn dành cho họ sau khi Người phục sinh. Người sẽ hiện diện một cách thức như thế cho đến ngày Người lại đến trong vinh quang.
Trong tâm tình đó, những lời của Người nói, cử chỉ Người làm trong bài Tin Mừng hôm nay chạm đến trái tim chúng ta, cho chúng ta thêm can đảm, kiên tâm, hy vọng và tiếp tục kéo chúng ta lại gần Chúa và gần nhau nhiều hơn nữa. Như vậy, tại bất cứ nơi nào mà chúng ta lắng nghe Lời Chúa và cùng nhau chia sẻ bữa tiệc lòng mến thì có Chúa hiện diện, không hẳn chỉ tại các nơi thờ phượng. Thiết yếu là niềm tin và lòng mến mà chúng ta noi gương Đức Giê-su sẵn sàng san sẻ cuộc đời cho nhau thì sẽ gặp Chúa. Amen!
Mau chóng lan truyền tin nóng về Chúa Giêsu chết trên Thập Giá làm rúng động dân chúng, tin PS3-A164
Mau chóng lan truyền tin nóng về Chúa Giêsu chết trên Thập Giá làm rúng động dân chúng, tin đó chưa lắng xuống thì bất ngờ có tin nóng hơn về sự phục sinh của Ngài tiếp tục khuấy động lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác, chỉ chưa đầy 3 ngày.
Cũng chính ngày hôm ấy có hai người trong nhóm môn đệ buồn bã trở về làng Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cũng thấy thất vọng vì ước mơ tan thành mây khói, tương lai không biết thế nào, đành về quê cắm câu, chứ chưa biết chuyện ngã ngũ ra sao. Tướng mất thì quân cũng tan hàng. Buồn vô cùng!
Qua trình thuật Lc 24:13-35, Thánh sử kể rằng đang lúc họ vừa đi đường, trò chuyện và bàn tán, Chúa Giêsu xuất hiện và đồng hành với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài “giả nai” hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, tỏ vẻ buồn rầu vì chuyện xảy ra xôn xao khắp nơi mà ông ta chẳng biết gì ráo trọi. Ông khách lạ này đúng là người vô tình nhất thế giới rồi!
Hai ông nghe hỏi vậy thì một người tên Cơlêôpát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Chúa Giêsu vẫn “vô tư” hỏi họ: “Chuyện gì vậy?” Họ kể lại vụ ông Giêsu Nadarét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Họ cũng nói rằng họ kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống, và họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy.”
Chúa Giêsu nói với họ: “Các anh CHẲNG HIỂU GÌ CẢ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh.
Vậy mà hai ông vẫn chẳng hiểu gì. Nghe Chúa Giêsu trách họ “chậm tin” mà chúng ta cảm thấy “nhột” lắm. Thật vậy, hằng ngày cuộc sống cứ lặng trôi, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh của mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, ngay cả việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của robot được lập trình sẵn, hoặc đọc kinh như được nhấn play, gắn thẻ nhớ hoặc gắn USB, rồi cứ thế mà “phát âm” thôi. Và rồi chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng khi gặp chuyện gì không “như ý” thì cảm thấy… ái ngại. Hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm, chẳng oan ức gì!
Khi gần tới nơi họ cần đến, Chúa Giêsu giả bộ còn phải đi xa, nhưng họ mời Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Ôi chao, tiếc thật! Họ tròn mắt bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Chính xác Thầy Giêsu đã sống lại. Họ liền quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Hai ông vui vẻ thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và đã nhận ra Chúa khi Ngài bẻ bánh. Nhất định không thèm về quê nữa, mọi sự sáng tỏ rồi. Alleluia!
Thật chí lý khi người ta nói là “chữ nghĩa” – Chữ phải có Nghĩa. Trong Việt ngữ, chữ “gặp gỡ” cũng độc đáo quá chừng: GẶP để GỠ chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, không thì không thể. Tương tự, NHẬN thì phải BIẾT, nếu KHÔNG BIẾT thì chắc hẳn “có vấn đề.” Những người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh đều biến đổi hoàn toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài, bởi vì họ nhận biết Ngài. Họ được “gặp” Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ để trở nên con người mới hoàn toàn. Họ nhận biết Ngài nên họ cũng muốn nên giống Ngài. Đơn giản thế thôi, nhưng đó là vấn đề quan trọng.
Chắc chắn rằng có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười,” nhận biết tỏ tường, sự thật minh nhiên – đúng hoặc sai, yêu hoặc ghét. Không thể chối cãi. Đó là một quy trình đơn giản mà cần thiết, có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Trong cuộc sống đời thường, có nhiều dạng khoảng cách – địa lý, tinh thần, tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta đi được khoảng cách xa bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường, và những gì chúng ta khả dĩ nhận biết. Quả thật, sự nhận biết rất quan trọng, không thể không gặp gỡ nhau, nhưng gặp nhau rồi có nhận biết nhau hay không lại là chuyện khác.
Gặp nhau không chỉ nhìn thấy nhau, mà quan trọng là đối thoại với nhau – có thể bằng ngôn ngữ, ánh mắt, động thái, cử chỉ, thậm chí có thể đối thoại ngay trong sự im lặng – gọi là “ngôn ngữ không lời.” Gặp nhau làm gì? Gặp nhau để nhận ra nhau, để yêu thương, để chia sẻ với nhau, để giúp đỡ nhau, để biến đổi nhau,… Rất đa dạng. Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là nhận biết chính Đức Kitô là Đấng Phục Sinh.
Cuộc gặp gỡ đó rất diệu kỳ, có sức mạnh khó cưỡng lại, và cuộc gặp gỡ đó có thể biến đổi cuộc đời mình. Cuộc gặp gỡ đó có kết quả tốt là nhận biết Đức Kitô qua tha nhân. Quá trình gặp gỡ Đức Kitô cũng là một dạng được sống lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của Ladarô, (Ga 11:1-44) em trai của Mácta và Maria, và con trai bà góa thành Nain (Lc 7:11-17) chỉ là sống lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa.
Thân xác nhục thể và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì thế mà chính Chị Maria Mácđala và hai môn đệ trên đường Emmau đều không nhận ra Thầy Giêsu của mình, mặc dù rất quen. Chị Maria Mácđala chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài gọi đích danh mình bằng giọng nói thân thương và quen thuộc, còn hai môn đệ kia chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: bẻ bánh. Thật vậy, khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và ngờ vực. Nỗi lo sợ đã khiến họ hoa mắt chăng? Cửa thì đóng kín, thế mà bỗng dưng có người “đi xuyên tường.” Thảo nào các môn đệ tưởng là ma thật!
Chúa Giêsu thấy tội nghiệp các trò lắm, thế là Ngài cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương thịt và Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật. (Lc 24:36-43) Thân xác phục sinh khác thật và lạ thật đấy, nhìn giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai nhận ra Ngài. Bất kỳ ai gặp gỡ Đức Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có vẻ.” Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô. Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ không “ra vẻ” để được khen.
Cuộc đời các thánh đã cho chúng ta biết chắc về việc họ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thần bí. Cuộc đời họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ, thậm chí có những vị thánh bị cho là tâm thần. Nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được.
Tông đồ Phêrô được Thầy Giêsu tín cẩn trao trọng trách làm giáo hoàng tiên khởi, đã từng nói dám liều chết với Thầy, nhưng rồi chính ông đã chối bỏ vì khiếp nhược khi Thầy bị bắt, nhưng sau khi ông nhận biết Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn khác hẳn, không còn nhát đảm như trước. Cụ thể là vào một ngày nọ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giuđa Ítcariốt), và lớn tiếng nói: “Thưa anh em, miền Giuđê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây.” (Cv 2:14)
Sự biến đổi rất rõ nét. Và rồi ông Phêrô dõng dạc: “Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Chúa Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Chúa Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đavít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.” (Cv 2:22-28)
Phêrô của ngày hôm nay hoàn toàn biến đổi tích cực, không còn là Phêrô hèn nhát và tiêu cực của ngày hôm qua. Ông thực sự trở nên một nhân chứng sống động, nhiệt thành. Quả thật, khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác, kể cả cái chết. Rồi ông quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đavít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe.” (Cv 2:29-33) Thật tuyệt vời khi người ta được Thiên Chúa biến đổi thành con người mới!
Thiên Chúa rất vui khi chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Ngài. Thực sự Ngài muốn chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài để được hưởng Lòng Thương Xót của Ngài – hoàn toàn có lợi cho chúng ta chứ chẳng thêm gì cho Ngài. Khi đã gặp gỡ và nhận biết Đấng Kitô Phục Sinh, đồng thời tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ không thể không vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2)
Chúng ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích của đời chúng ta: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ.” (Tv 16:5) Do đó, chúng ta có thể không ngần ngại thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11) Thật là tuyệt vời với niềm tin tưởng như vậy, đẹp biết bao niềm tín thác như thế!
Thực sự tin tưởng nhau thì người ta có thể gặp nhau bất cứ lúc nào. Phàm nhân thường có mức độ ưu tiên khác nhau, thường thì ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn – “ngon” hơn về ngoại hình, vật chất, chức tước, học vị,... Nhưng Thiên Chúa không hề như vậy, vì Ngài không thiên vị bất kỳ ai! Thật vậy, Thánh Phêrô cho biết: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này.” (1 Pr 1:17) Rất rõ ràng, rạch ròi, công minh, nghiêm túc.
Thánh Phêrô giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.” (1 Pr 1:18-21) Có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng không thừa chút nào.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con nhận ra Ngài trong bất kỳ ai, nhất là nơi những người hèn mọn, và xin cho mọi người cũng nhận ra Ngài khi gặp chúng con. Xin giúp chúng con biết cầm “tấm bánh cuộc đời chúng con, tạ ơn, bẻ ra và trao cho mọi người, và luôn làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Thánh Lu-ca chỉ kể lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục sinh (24,13-33 và 24,36-49), còn cuộc hiện PS3-A165
Thánh Lu-ca chỉ kể lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục sinh (24,13-33 và 24,36-49), còn cuộc hiện ra thứ ba (x. câu 34) thì ông chỉ nói rất vắn gọn. Thêm nữa, cuộc hiện ra đầu được ban cho hai môn đệ, vốn chẳng có vai trò nào trong Tin mừng Lu-ca lẫn Công vụ Tông đồ, được kể dài dòng hơn cuộc hiện ra thứ hai, vốn xác nhận Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang ở với họ như những chứng nhân chính thức của cuộc Phục sinh. Sau cùng, đối với Phê-rô, Lu-ca nêu lên cuộc hiện ra dành cho ông, nhưng chẳng kể lại. Dù thế, đây là cuộc hiện ra đầu hết và quan trọng hơn cả.
Trình thuật «hai môn đệ làng Em-mau» có mục đích cho thấy làm sao sau khi đã trò chuyện với Chúa trên đường (cc.13-27), cuối cùng họ đã nhận ra Đức Giê-su khi dùng bữa tối (cc.28-35); nó chẳng chứa việc sai đi truyền giáo nào cả. Sở dĩ Lu-ca gán cho nó tầm quan trọng lớn lao, là vì ông muốn lôi kéo các độc giả vào, cho họ thấy câu chuyện mang tính thời sự và một giá trị thường xuyên đối với họ. Đời sống Giáo hội, với những cuộc hội họp thờ phượng, lúc đưa ra lời giải thích Thánh Kinh và xảy ra việc cử hành Thánh Thể, chính là nơi mà tín hữu có thể nhận ra hôm nay sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. “Bạn đường vô danh của ông Cơ-lê-ô-pát mang tên của mỗi một tín hữu” (Charles Perrot) đang đọc hay nghe trang Tin mừng thời danh này.
1. Hy vọng rồi tuyệt vọng
“Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói ! Thế thì Đức Ki-tô lại không phải chịu khổ nạn như thế đã, rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn). Ngay cả trong ngày Phục sinh, ngay cả khi hát Alleluia, chúng ta cũng hãy để cho Đấng Sống Lại “đối xử thô bạo” với mình như thế. Có lẽ khi nói những lời ấy, Đức Giê-su đã nở nụ cười của lối mắng yêu, và hai môn đệ cũng nhanh chóng mỉm cười; rất tốt khi được Người, Đấng Hằng Sống, gọi là ngu độn !
Hãy trao đổi cũng nụ cười ấy với Người. Vì chúng ta cũng là những lữ khách Em-mau. Chúng ta tiến bước trên con đường đời mình với nhiều hy vọng đầu tiên rất ư thuần khiết, rồi ngày càng pha trộn, pha trộn chất Ki-tô giáo lẫn chất ngoại giáo, sáng sủa lẫn tối mờ, xả thân và ích kỷ. “Chúng tôi đã từng nuôi hy vọng chính Người sẽ giải thoát Ít-ra-en”, hai môn đệ nói thế, hàm ý Người sẽ lên ngôi vinh hiển để họ cũng được thông phần, và chúng ta cũng y như họ. Rồi các thất vọng đã đến: với Đức Giê-su thế là chấm dứt vĩnh viễn. Mộng vàng nay đã tan mây ! Trở về làng cũ cấy cày cho xong!
Thình lình xảy ra cuộc Gặp gỡ. Khó tin đến nỗi thoạt tiên hai môn đệ chẳng thấy gì: “Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ”. Nhưng họ chẳng nhận ra Người, một đàng vì tham vọng tiêu tùng đã làm ý thức họ mờ tối, đàng khác vì cuộc Phục sinh đã làm cho hình dạng bên ngoài của Đức Giê-su thay đổi. Chúng ta từng có cuộc gặp gỡ giống thế nhưng cũng đã khép kín như họ trước cái không ngờ : Thiên Chúa trước mặt chúng ta, Thiên Chúa ở với chúng ta !
Tuy nhiên, dẫu biết điều ấy, đức tin chúng ta vẫn không thức tỉnh đủ, con tim chúng ta quá chậm rì, chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc đời như thể Người chẳng có đó. Vì chúng ta luôn mong ước bản thân Người hiển linh, Giáo hội Người hiển thắng.
2. Rạo rực rồi bừng sáng.
Nhưng đôi khi tâm hồn cũng cháy lên : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” Kinh Thánh ! Đừng hy vọng tiến tới trong đức tin nếu không đọc Kinh Thánh, tất cả Kinh Thánh, kho tàng lớn lao của Mạc khải mà hôm nay Đức Giê-su cho chúng ta chìa khóa để hiểu : “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình đã rồi mới vào trong vinh quang của Người”. Các ngôn sứ (tức Cựu Ước) đã tiên báo như vậy ! Khó thấu hiểu, khó chấp nhận thật, tuy nhiên Đức Giê-su sẽ thân thương gọi chúng ta là ngu độn bao lâu chúng ta chưa thật sự nội tâm hóa bí mật của mọi bí mật này.
Quỹ đạo lớn đi từ thập giá đến vinh quang, đó chính là chuyện đời của Đức Ki-tô, chuyện đời của thế giới, chuyện đời của mỗi một con người. Ai hiểu con đường gian khổ này thì đã hiểu tất cả. Chúng ta chỉ có thể sống một cái gì đó với Đức Giê-su khi xin vâng đối với tình yêu, và lúc đó chúng ta cũng xin vâng đối với gian khổ. Ai nghĩ rằng yêu thương không phải trả giá gì hết thì xin mời đi chỗ khác vậy ! Nhưng khi chúng ta đau khổ để thương yêu, thì sẽ thấy Đức Giê-su có đó.
Chẳng hoàn toàn như thế. Các môn đồ đã nhận lấy bí mật lớn lao, lòng họ đã rạo rực (“Xin ở lại với chúng tôi”), thế nhưng họ vẫn chưa nhận ra Người. Phải có cuộc bẻ bánh (tức Thánh Thể, Thánh Lễ) và lần này họ đã hiểu. Dẫu cho Người “biến mất trước mắt họ”, từ nay Người sẽ luôn có đó, ta sẽ có thể tiến bước với Người từ thập giá đến vinh quang. Ngay lập tức hai môn đồ có một phản xạ tốt : đi loan báo điều kỳ diệu: “Chúa sống lại thật rồi ! ” Và tất cả trả lời : “Đúng thế”. Làm Ki-tô hữu sẽ là sống niềm xác tín đó và thông truyền đó ra.
Như thế đức tin chúng ta nẩy sinh nhờ ba yếu tố lớn, với ba thời điểm lớn : Lời Chúa, Thánh Thể và Chứng từ. Ba yếu tố này ngày nọ đã biểu lộ ra qua cuộc đối thoại giữa một tín hữu Công giáo (vốn là một tông đồ xã hội nổi tiếng) với một mục sư Tin lành. Vị mục sư nói với anh: “Tôi nghĩ rằng Kinh Thánh đã đủ giúp chúng ta gặp Chúa và hiểu Chúa thực sự rồi. Thánh lễ chỉ là bịa đặt vô ích của Công giáo các anh” - “Thưa mục sư, tôi nghĩ rằng Thánh Kinh chưa đủ mà còn phải có Thánh Thể, Thánh Lễ nữa! Bằng chứng là câu chuyện hai môn đệ làng Em-mau. Khi nghe Đức Giê-su giải thích Kinh Thánh, họ chỉ mới thấy lòng rạo rực. Phải đợi đến lúc Người bẻ bánh, họ mới nhận ra được Người !” Đúng là Lu-ca đã đẽo gọt trang Tin Mừng này để nêu bật cho ta ba phương thế gặp gỡ Chúa (Thánh Kinh, Thánh Thể, Chứng từ) cũng như để biến nó thành sơ đồ của cuộc sống Ki-tô hữu : sống đời mình như một thánh lễ và thành thử như một việc chấp nhận thập giá mỗi ngày đời ta.
Một sự chấp nhận mà ngược đời thay, sẽ đem lại hạnh phúc : tiến về vinh quang Thiên Chúa cùng với Đức Giê-su! “Xin ở lại với chúng con” như thế là một lời tình yêu có nghĩa “Con muốn ở với Người”.
Nhiều khi chúng ta hay quên chuyện này, Đức Giêsu phục sinh là người tràn đầy niềm vui. Ngài PS3-A166
Nhiều khi chúng ta hay quên chuyện này, Đức Giêsu phục sinh là người tràn đầy niềm vui. Ngài vui vì Ngài được Cha phục sinh. Ngài vui vì Cha đã đóng ấn trên toàn bộ cuộc đời Ngài, chứng nhận mọi việc Ngài làm, mọi lời Ngài nói. Cha cho cả thế giới biết rằng Đấng không xuống khỏi thập giá không phải là người bị Thiên Chúa nguyền rủa hay bỏ rơi, nhưng là Chiên Thiên Chúa, Đấng mang cho trần gian bao tội lụy. Đức Giêsu đã trải qua đức tin tăm tối như chúng ta. Ngài vẫn luôn tin rằng Cha sẽ cứu Ngài, cứu theo cách của Cha. Ngài đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện lên Cha. Rốt cuộc, Ngài đã được Cha nhậm lời (Hr 5,7). Cha không cứu Con khỏi thập giá và cái chết, nhưng Cha cứu Con khỏi nấm mộ và âm phủ. Phục sinh là món quà quý Cha tặng cho Chúa Giêsu, Người Con Một đã vâng lời Cha cho đến chết trên thập giá (Pl 2,8). Chúa phục sinh vui thật là vui, và Ngài muốn đem niềm vui cho môn đệ. Khi hai môn đệ bỏ cuộc, bỏ cộng đoàn để về quê ở Emmau, Ngài không muốn mất họ và muốn hiện ra gặp họ. Ngài muốn dựng lên một “kịch bản” đáng nhớ cho cuộc gặp gỡ này. Trước hết Ngài cùng đi với họ như một người tình cờ đi chung đường. Ngài thấy rõ vẻ buồn bã trên khuôn mặt của họ, Và cũng biết rõ họ đang đắng lòng về chuyện của thầy Giêsu. Vậy mà Ngài vẫn làm như không biết, và khiêm tốn xin được tham dự vào câu chuyện của hai người: “Hai anh đang trao đổi chuyện gì vậy?” Ngài chỉ nhận được câu trả lời thiếu thiện cảm của Clêôpát: “Chắc ông là người duy nhất không biết chuyện mới xảy ra.” Chúa Giêsu kiên nhẫn, không vội cắt đứt câu chuyện. Ngài hỏi: “Chuyện gì vậy?” Dĩ nhiên Chúa quá biết chuyện mới xảy ra về cái chết của Ngài, nhưng Ngài vẫn làm như không biết. Ngài làm bộ hỏi để cho họ có cơ hội trải lòng. Hai môn đệ đã tha hồ kể về niềm hy vọng đã vỡ tan, về nỗi đau. Họ không nuốt trôi được chuyện Thầy của họ là người công chính, mà phải chết như một tên tội phạm, bị Thiên Chúa ruồng rẫy. Chỉ sau khi đã lắng nghe hết mọi chuyện, Chúa mới dùng Kinh Thánh để giúp họ hiểu được biến cố vừa qua. Thầy của họ phải đi ngang qua cây cầu khổ đau và cái chết để qua bên kia cầu là sự sống vinh quang. Khi biết sắp đến lúc phải chia tay, để hai ông vào làng của họ, Chúa Giêsu làm ra vẻ mình phải đi xa hơn. Ngài làm thế để cho họ được tùy ý mời Ngài vào nhà. Đây cũng là cách Ngài xem họ đã đón nhận đến mức nào những soi sáng của Ngài dựa trên Kinh Thánh. Quả thật hai ông đã mê người khách lạ đi chung với mình rồi. vì lời của ông này làm ấm lại trái tim lạnh giá của họ. Hai ông đã ép người khách lạ vào nhà để nghỉ ngơi qua đêm. Dĩ nhiên Chúa Giêsu đồng ý ngay. Chính trong lúc Ngài bẻ bánh trao cho họ, thì họ nhận ra Ngài. Hai ông chắc đã bỏ dở bữa ăn để về ngay Giêrusalem. Đi lại mười một cây số nữa trong đêm, nhưng lòng rất vui. Họ huyên thuyên với nhau suốt đường dài, ôn lại những chi tiết về những gì đã xảy ra dọc đường, nhất là lúc mắt họ mở ra để thấy Chúa khi bẻ bánh. Không phải Chúa phục sinh chỉ đi với hai môn đệ này một lần. Ngài đi với từng người chúng ta nhiều lần trong đời, khi chúng ta bỏ cuộc, chán chường, buồn sầu và thất vọng. Ngài biết những thử thách chúng ta phải chịu trên đường đời. Ngài mong đưa chúng ta về với đức tin, về với cộng đoàn. Mỗi lần đến, Ngài lại theo một “kịch bản” riêng. Chúng ta có nhận ra Ngài không?
LỜI NGUYỆN
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa. Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến. Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời. Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện. Xin ở lại với con, vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn. (Cha thánh Piô Năm Dấu)
Thánh Luca là tác giả duy nhất kể lại câu chuyện hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem trở về PS3-A167
Thánh Luca là tác giả duy nhất kể lại câu chuyện hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem trở về Emmaus. Bố cục văn chương cũng như nội dung hàm chứa những nội dung rất sâu sắc. Tác giả muốn khẳng định với chúng ta:
* Khi chúng ta thất vọng, có Chúa đồng hành để nâng đỡ, mặc dù chúng ta không cảm nhận được sự hiện diện của Người.
* Khi chúng ta đã nhận ra Chúa và đã tìm được niềm vui, thì Người lại ẩn mình đi. Ẩn mình không có nghĩa là vắng bóng, mà chỉ là sự hiện diện huyền nhiệm mà thôi.
Trong hành trình cuộc đời, Đấng Phục sinh vẫn hiện diện bên chúng ta. Nhờ sự đồng hành và nâng đỡ của Người, mà chúng được bình an và thấy con tim vui trở lại. Phụng vụ mùa Phục sinh muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.
Chúa Giêsu đã bị một số người Do Thái lên án tử bằng hình thức đóng đinh vào thập giá. Bản án đã được thi hành theo ý muốn của thày Thượng tế, các luật sĩ và biệt phái. Công chúng ở Giêrusalem đều biết rõ vụ việc và nhiều người đã trực tiếp chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu. Tuy vào thời chưa có hệ thống thông tin hiện đại như ngày nay, nhưng “vụ án Giêsu” là một sự kiện nổi bật, không ai mà không biết. Vì vậy, hai môn đệ ngạc nhiên thấy vị khách đi cùng đường với mình, cũng từ hướng Giêsusalem về ngoại ô, mà không biết sự kiện này. Tuy vậy, hai ông này cũng giống như đại đa số những người đã chứng kiến vụ án, đều chỉ nhìn nhận sự kiện với cái nhìn hoàn toàn thế tục. Kinh Thánh kể các ông đã có một thời theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người, các ông cũng hoàn toàn thất vọng, như các ông đã thú nhận: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng, chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israen”. Cùng với lời thú nhận này, là tâm trạng buồn bã, chán nản thất vọng. Các ông cũng có nghe mấy người phụ nữ nói về ngôi mồ trống và lời đồn Chúa đã sống lại, nhưng các ông cho đó là chuyện tầm phào, chẳng đáng tin.
Tâm trạng và lý luận của hai môn đệ, cũng là tâm trạng và lý luận của nhiều người trong thời đại của chúng ta. Đối với họ, Chúa Giêsu đã chết. Việc Chúa sống lại chỉ như câu chuyện tầm phảo, viển vông. Chính quan niệm này làm cho người vô tín chìm đắm trong bi quan, chán nản và thất vọng, khi họ đối diện với những khó khăn trên đường đời.
“Người khách lạ” đã gợi ý để hai môn đệ nhìn nhận sự kiện dưới cái nhìn khác. Là người Do Thái, hai ông dễ dàng hiểu vấn đề khi nghe người khách lạ liên hệ và trích dẫn lời các ngôn sứ, cộng với việc hồi tưởng những gì Chúa Giêsu đã làm và đã giảng dạy. Từ những chia sẻ của vị khách đi đường, niềm vui và hy vọng đã trở lại với các ông. Cử chỉ bẻ bánh là điểm mấu chốt giúp hai ông khẳng định, người khách đồng hành chính là Thày mình, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Chính lúc các ông nhận ra Người, thì Người biến mất. Hai ông đã thoát ra khỏi tâm trạng bi quan thất vọng. Sự thao thức kể lại cho anh em tin vui này đã khiến các ông trở về Giêrusalem ngay trong đêm. Trở về Giêrusalem là trở về với nơi đã làm các ông thất vọng. Các ông đã trở về Giêrusalem với tâm trạng mới mẻ, đầy tràn niềm vui và nghị lực.
Đức Giêsu không phải là một nhân vật huyền thoại. Cuộc khổ nạn và phục sinh của Người đã được tiên báo qua các ngôn sứ. Trong bài giảng ngài lễ Ngũ Tuần, Thánh Phêrô can đảm làm chứng về sự kiện phục sinh. Ông lược qua những gì đã được ghi chép trong Kinh Thánh Cựu ước, để khẳng định với thính giả rằng: “Theo kế hoạch của Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại”. Vị Tông đồ còn quả quyết: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”. Niềm xác tín của thánh Phêrô vừa dựa trên sự kiện, vừa căn cứ vào truyền thống Thánh Kinh.
Lễ Phục sinh và tuần Bát nhật đã kết thúc. Chúng ta đang từng bước trở về với những sinh hoạt đời thường. Phụng vụ lưu ý chúng ta: Đấng Phục sinh đang hiện diện và đồng hành với chúng ta, dù chúng ta không nhìn thấy người bằng con mắt thể lý. Lễ Phục sinh nhắc người tín hữu phải sống phù hợp với mầu nhiệm họ cử hành. Thánh Phêrô viết cho các tín hữu: “Nếu anh em gọi Thiên Chúa là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này” (Bài đọc II).
Giữa những lo âu của cuộc sống hôm nay, nhất là giữa đại hoạ của bệnh viêm phổi Vũ Hán (COVID-19), mầu nhiệm Phục sinh chiếu toả ánh sáng của niềm hy vọng. Cuộc sống dù đau buồn đến đâu, đừng quên Chúa đang đồng hành với chúng ta. Hãy nhận ra sự hiện diện của Người để cảm nhận sự ngọt ngào Chúa ban.
Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường PS3-A168
Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành Emmaus. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang trên đường trở về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất hiện, không phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái lại, Người gây nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.
Cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Đấng Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Đấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và nỗi khổ, bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình. Nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể thỏa mãn được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt đối hóa những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình bị vong thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến tranh nghèo khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực trước cái chết. Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi: "Đâu là ý nghĩa của tất cả những điều đó? Đâu là ý nghĩa của thân phận con người?"
Chính lúc ấy, Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu lên những câu hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái chết đau thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Đây chính là kinh nghiệm mà người bạn đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên đường Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.
Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.
Ước gì sự hiện diện của Đấng Phục Sinh và hai người môn đệ trên đường Emmaus cảm nhận được lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không lẫm lũi bước đi trong đơn độc mà trái lại, hân hoan tiến bước với Ngài.
Chúng ta đang ở trong mùa Phục Sinh của năm 1999, tức năm A của chu kỳ phụng vụ. Chúa nhật PS3-A169
Chúng ta đang ở trong mùa Phục Sinh của năm 1999, tức năm A của chu kỳ phụng vụ. Chúa nhật tuần II vừa qua, chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng Ga.20, 19-29. Đoạn Tin Mừng này cho thấy các tông đồ chỉ tin Chúa phục sinh khi chính các Ngài thấy tận mắt Đấng Phục Sinh!
Tin Đức Yêsu phục sinh, quả là điều khó
Không phải chỉ có Thomas không tin Chúa phục sinh (Ga.20, 24-29), nhưng mười tông đồ khác cũng không tin Chúa phục sinh (Mc.16, 9-14).
Tôi có thực sự tin Chúa phục sinh không? Tại sao tôi tin Chúa đã phục sinh?
Không ai có thể tuyên xưng Yêsu là Chúa, mà lại không nhờ ơn Thánh Thần (1Cor.12, 3). Phúc cho những ai không thấy mà tin (Ga.20, 29)!
Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta tin Ngài đã phục sinh! Biến cố Đức Yêsu phục sinh ích gì cho tôi? Tôi được gì qua mùa chay và mùa phục sinh này? Mùa chay vừa qua và mùa phục sinh này giúp gì cho tôi? Yếu tố biến đổi các tông đồ Tại sao hai môn đệ Emmau thất vọng bỏ về quê (Lc.24, 13-35)?
Họ không tin Chúa đã phục sinh! Họ không tin vào lời chứng của các chị phụ nữ (Ga.20, 18)!
Đi theo Đức Yêsu với nhiều tham vọng, nên khi thấy Đức Yêsu chết, họ tuyệt vọng! Cái chết của Đức Yêsu đã hủy diệt niềm hy vọng của họ!
Chúa Yêsu Phục Sinh đã vực dậy hai môn đệ tuyệt vọng trên đường Emmau, bằng lời giảng, bằng "bí tích Thánh Thể". Hai môn đệ đã lập tức trở thành chứng nhân loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh không một chút chậm trễ (Lc.24, 33.35).
Các tông đồ! Điều gì đã làm cho các ngài biến đổi?
từ người nhút nhát thành người can đảm tuyên xưng Đức Yêsu phục sinh!
từ người ít học thành người dám đứng ra rao giảng!
từ những người đầy tham vọng (Mc.10, 37; Cv.1, 6) đến những người chỉ còn biết rao giảng tin mừng phục sinh!
Biết Đức Yêsu Phục Sinh là Thiên Chúa! Điều này làm các tông đồ biến đổi! Làm sao để được biến đổi như các tông đồ?
Điều gì quan trọng nhất đối với tôi? Tôi khao khát gì?
Nếu mình không khao khát mong ước gì cả, đó thực là một tai họa!
Tự do và hạnh phúc! Tự do và hạnh phúc, là hậu qủa của cuộc sống, nó không là điều mình tìm như một đối tượng trực tiếp!
Thiên Chúa đã biến đổi các tông đồ, chính nhờ Thánh Thần mà các Ngài tin vào Chúa Phục Sinh! Chính Chúa đã làm các tông đồ được như các ngài là!
Còn tôi, tôi mong chờ gì nơi Thiên Chúa? Tôi có thực sự tin Đức Yêsu là Thiên Chúa như các tông đồ không?
Xin cho chúng ta ơn được biết mình, biết mình chưa cố gắng đủ, chưa tận dụng mọi hồng ân Chúa ban để làm lợi cho tha nhân và cho chính mình.
Trong cuộc sống, có lẽ ai cũng có những giây phút thất vọng chán chường. Hai môn đệ trên đường PS3-A170
Trong cuộc sống, có lẽ ai cũng có những giây phút thất vọng chán chường. Hai môn đệ trên đường đi Emmau là một ví dụ điển hình. Tuy vậy, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, Ngài luôn quan tâm đến từng người, để nâng đỡ ủi an và ban lại cho họ bình an và niềm vui. Đức Yêsu vẫn luôn đồng hành với các môn đệ của Ngài trong từng giây phút sống, ngay cả khi những môn đệ này đã mất niềm tin vào Ngài.
1. Đức Yêsu Phục Sinh củng cố niềm tin của các môn đệ
Biến cố xảy ra hôm thứ sáu là một biến cố kinh hoàng khủng khiếp đối với các môn đệ Đức Yêsu. Đức Yêsu không chỉ là thầy, là một tiên tri, nhưng còn là người mà các môn đệ đặt trọn niềm tin và hy vọng. Các ông tưởng rằng một ngày nào đó, thầy mình sẽ vinh quang và các ông sẽ được chia phần vinh quang. Biến cố Đức Yêsu bị bắt và bị giết, xảy ra quá nhanh (chưa đầy một ngày), làm các tông đồ bàng hoàng và tuyệt vọng.
Bao nhiêu ngày tháng theo thầy, giờ đây không còn giá trị và ý nghĩa. Bao nhiêu hy vọng và mơ ước, giờ đây chỉ là hư không; và hơn nữa, không chừng còn là mối họa nếu không mau trốn khỏi Yerusalem. Hai môn đệ trên đường Emmau là những người đã không còn chút hy vọng, cho dù đã được nghe các chị phụ nữ báo tin Đức Yêsu phục sinh, vì họ không tin người chết có thể sống lại. Hai môn đệ này bỏ Yêrusalem với tâm trạng buồn chán tuyệt vọng.
Đức Yêsu đã đến, đồng hành và chuyện vãn với họ; Ngài nâng đỡ đức tin yếu đuối, làm cho họ như bừng tỉnh và có lại niềm hy vọng. Họ đã hiểu Kinh Thánh hơn, đã hiểu về chương trình của Thiên Chúa hơn, và đã lại tin vào Đức Yêsu. Bình an và niềm vui, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và đang đồng hành với con người.
2. Qua đau khổ đến vinh quang
“Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Những giây phút thất vọng và chán chường trong cuộc sống, là những giây phút giúp chúng ta biết mình là ai, biết lập trường và thái độ sống cùng niềm tin và hy vọng của chúng ta như thế nào.
Gian truân và thử thách cũng có những điểm tích cực, như giúp chúng ta nhận ra con người thực của mình, biết mình yếu nhược như thế nào, giúp mình biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa. “Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần?” Những khó khăn cũng thường giúp con người vững chãi và trưởng thành hơn.
Tuy vậy là người, ai cũng ngại khó khăn và không quen gian khổ, gặp gian nan thì chùn bước. Đức Yêsu đã đi trọn kiếp người, với tất cả gian nan khốn khổ của thân phận làm người. Cho dù gặp chống đối, Ngài vẫn sống yêu thương chan hoà với mọi người, vẫn tha thứ trong mọi hoàn cảnh. Qua trình thuật hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, Ngài giúp hai môn đệ “bỏ cuộc” này nhìn lại cuộc đời, để nhận ra “phải qua gian khổ mới vào được vinh quang”. Chính Ngài cũng phải trải qua, và phần lớn ai là người cũng phải trải qua. Đường trần là nơi thử vàng “lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
3. Chúng tôi là những chứng nhân
Kinh nghiệm với Đức Yêsu của các tông đồ là kho tàng vô cùng quý với những ai tin vào Đức Yêsu. Đức Yêsu chết và phục sinh, không là một triết thuyết hay suy luận, nhưng là thực tại mà các tông đồ đã sống với, đã tiếp xúc và kinh nghiệm. Các tông đồ không dựa vào bất cứ lý thuyết nào, nhưng dựa vào chính kinh nghiệm của các ngài.
Chúng tôi là những chứng nhân. Khi bị tra vấn tại sao các ngài giảng dậy như vậy, các ngài trả lời “chúng tôi không thể không nói điều đã thấy và đã nghe”. Các ngài chỉ nói lên sự thật, chỉ làm chứng những gì đã xảy ra, để cho người khác nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử con người, để con người nhận ra tình yêu thương vô cùng của Thiên Chúa đối với con người.
Các tông đồ đã làm chứng, và cả cuộc đời của các ngài là đi làm chứng cho sự thật. Có thể nói, cuộc đời của các tông đồ là làm chứng Đức Yêsu đã chết và sống lại, là kể lại cho con người những gì Đức Yêsu đã sống và đã làm, để con người nhận ra sự thật thâm sâu ẩn tàng qua Đức Yêsu. Các tông đồ làm chứng, và các ngài làm chứng “về những điều đã thấy và đã nghe” với bất cứ giá nào, ngay cả khi bị tra tấn hay gông cùm, ngay cả khi bị ghen ghét và bị giết. Các ngài vẫn làm điều phải làm, chính cái “dại” làm chứng cho sự thật này, làm các ngài trở thành những người tuyệt vời, những người “khôn” đối với Thiên Chúa và những ai thuộc về Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao bạn tin Đức Yêsu phục sinh? 2. Bạn có gặp khó khăn nào mà qua đó giúp bạn trưởng thành hơn không? Xin chia sẻ. 3. Bạn có kinh nghiệm được Đức Yêsu an ủi hoặc Ngài là ánh sáng giúp bạn vượt qua khó khăn không? Xin bạn chia sẻ.
Xin cho chúng con biết dành thời giờ lắng nghe, học hỏi và đón nhận lương thực tinh thần Chúa PS3-A171
Xin cho chúng con biết dành thời giờ lắng nghe, học hỏi và đón nhận lương thực tinh thần Chúa ban để trở thành người có phẩm chất cao đẹp, thánh thiện, tốt lành.
Hôm xưa, Chúa Giê-su cất bước tìm đến với hai môn đệ sầu thảm đang lê bước trên đường về Em-mau. Ngài dùng lời Kinh thánh để soi lòng mở trí hai môn đệ về biến cố tử nạn và phục sinh của Đấng cứu thế. Lời giảng giải của Chúa Giê-su khiến cho “lòng họ bừng cháy lên.” Họ say mê và yêu thích nghe lời Chúa đến nỗi khi “trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, họ nài ép Chúa Giê-su ở lại với họ” cho bằng được (Lc 24, 28-29).
Nếu hôm nay, Chúa Giê-su lại tìm đến với chúng ta và ngỏ lời với chúng ta qua các vị mục tử, qua sách báo lành mạnh, qua các phương tiện truyền thông của Hội thánh… tiếp tục dùng lời Kinh thánh soi lòng ta, mở trí ta, nuôi dưỡng đời sống tâm linh chúng ta, thì ta có hoan hỉ đón nhận hay là ngoảnh mặt quay lưng?
Lắm kẻ khước từ
Hôm ấy, có đông đảo giáo dân tập trung tại hội trường rộng lớn của Giáo xứ để mừng lễ bổn mạng. Linh mục quản xứ có nhã ý chiêu đãi giáo dân bữa tiệc tinh thần, ngài nói:
- Ai muốn xem sách báo đạo với nhiều đầu sách truyền đạt lời Chúa, tìm hiểu giáo lý, giáo dục nhân cách và nhiều sách khác rất bổ ích cho đời sống thiêng liêng… thì vui lòng đến phòng sách bên phải; Nếu ai muốn đọc truyện đời, những tiểu thuyết ngôn tình, kiếm hiệp, trinh thám và nhiều sách dạy làm ăn, buôn bán… thì qua phòng sách bên trái.
Thế là gần như 95% giáo dân chen chúc nhau vào phòng sách bên trái để tìm đọc những loại sách đời, nhiều người phải đứng chờ bên ngoài không vào được vì bên trong đã chật ních. Trong khi đó, phòng sách đạo bên phải chỉ có lác đác một ít người cao tuổi ghé thăm.
Nếu bạn là người hiện diện tại hội trường hôm ấy, bạn đi về phòng sách nào??
- Cha quản xứ kêu mời giáo dân, đặc biệt là giới trẻ, tham dự giờ tĩnh tâm quan trọng để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục sinh vào tối thứ Tư tuần thánh. Không ngờ vào giờ đó, nhà hàng ca nhạc bên cạnh cũng tổ chức sự kiện ca múa nhạc có sự tham gia trình diễn của các ngôi sao ca nhạc và danh hài từ thành phố về. Thế là giới trẻ giáo xứ đua chen nhau xem ca múa nhạc, chỉ còn một ít cụ ông, cụ bà tham dự tĩnh tâm!
Nếu bạn cũng thuộc thành phần giới trẻ của giáo xứ này, bạn sẽ tham dự sự kiện ca nhạc hay giờ tĩnh tâm?
Trong đời sống hằng ngày, người ta không tiếc thời giờ, công sức hay tiền bạc để đáp ứng nhu cầu ăn uống, nhậu nhẹt, vui chơi... Trong khi đó, chẳng mấy ai dành ít thời giờ trong ngày để học hỏi, lắng nghe lời Chúa và bồi bổ tâm hồn.
Nếu hôm nay Chúa Giê-su lại đến với mỗi người chúng ta và ngỏ lời với ta qua các vị mục tử, qua sách báo lành mạnh, qua các phương tiện truyền thông của Hội thánh… thì bạn sẽ từ khước, dửng dưng, hờ hững… hay hăm hở đón nghe lời Ngài như hai môn đệ Em-mau?
Ung thư tâm hồn
Theo tổ chức Y tế thế giới, chỉ riêng trong năm 2018, số ca mắc ung thư của Việt Nam đã tăng lên 165.000 ca. Ung thư là mối đe dọa đáng sợ nhất đối với người Việt trong thế kỷ này.
Một trong những nguyên nhân gây bệnh là do thực phẩm bẩn và môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Thường xuyên hít thở không khí bị ô nhiễm cũng như dung nạp vào cơ thể những thực phẩm bẩn là con đường dẫn đến ung thư. Trái lại, hít thở không khí trong lành cũng như dung nạp thực phẩm lành, sạch là cách ngăn ngừa ung thư hiệu quả. Tương tự như thế, nếu chúng ta thường xuyên dung nạp lương thực tinh thần độc hại do văn hóa phẩm đồi trụy cung cấp mà không bổ sung những thực phẩm tinh thần lành mạnh, cao quý do lời Chúa và giáo huấn Hội thánh mang lại, thì nguy cơ ung thư tâm hồn, ung thư đời sống thiêng liêng không thể tránh được.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa dạy chúng con biết rằng: “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn sống bằng lời Chúa nữa”, chính vì thế, Chúa đã mang Lời khôn ngoan từ trời của Thiên Chúa để làm lương thực hằng ngày nuôi dưỡng đời sống tâm linh của chúng con. Tiếc thay, chẳng những chúng con thờ ơ, hờ hững với quà tặng cao quý Chúa ban, lại còn ham mê những thứ lương thực tinh thần độc hại, có nguy cơ hủy diệt đời sống cao đẹp của tâm hồn.
Xin cho chúng con biết dành thời giờ để lắng nghe, học hỏi và đón nhận lương thực tinh thần Chúa ban, nhờ đó, chúng con sẽ trở thành người có phẩm chất cao đẹp, thánh thiện, tốt lành.
Ánh Sáng là ơn ban của Chúa Kitô Phục Sinh, luôn chiếu tỏa trên các môn đệ Chúa và tất cả PS3-A172
Ánh Sáng là ơn ban của Chúa Kitô Phục Sinh, luôn chiếu tỏa trên các môn đệ Chúa và tất cả những người tin vào Ngài. Chính ánh sáng này đem lại sự bình an cho những ai được chiếu tỏa, để một khi họ tin nhận được, ánh sáng sẽ đi vào trong cuộc đời thường ngày, giúp họ vượt qua được những khó khăn và thăng trầm trong cuộc sống; đặc biệt ánh sáng của Chúa Giêsu giúp cho chúng ta ngày càng ý thức và nhận rõ ràng hơn về chính Đức Kitô là Thiên Chúa và sứ vụ cứu độ của Ngài.
Bài CVTĐ nói cho chúng ta biết, Phêrô con người bình thường như bao môn đệ khác, và ngay cả nhiều yếu đuối, tội lỗi; nhưng giờ đây Ngài lại rao giảng về Đức Giêsu Nazareth, Đấng đã vì nhân loại tội lỗi mà chịu khổ hình và chết trên thập giá. Tại sao Phêrô và các môn đệ lại được ơn như vậy, bởi vì chính ánh sáng của ơn cứu độ, từ thập giá và sự phục sinh của Chúa đã chiếu tỏa, ánh sáng này giúp cho các Ngài chấp nhận và vững tin vào Chúa Giêsu. Nhờ đó, các Ngài nhận được ơn can đảm và sức mạnh hầu giúp các Ngài luôn hân hoan trong Chúa, nơi sứ vụ của mình.
Từ thư thứ 1 của Phêrô, Ngài đã rao giảng và làm chứng cho chúng ta biết, ánh sáng được ban cho chúng ta là đến từ Đức Kitô, Đấng đã phục sinh, Đức Giêsu là “Con Chiên Tinh Tuyền”, qua sự hy sinh của Ngài, và với giá máu châu báu mà Ngài đã đổ ra từ thương tích của thập giá, ban cho chúng ta thần lương sự sống. Thần lương này trao ban cho mọi người, nhưng chỉ những ai tin và đón nhận thì được ơn thánh.
Tin mừng của Luca nói cho chúng ta biết, Chúa Giêsu Phục Sinh đã đồng hành và cùng đi vào trong cuộc sống của con người, cụ thể là với hai môn đệ trên đường về làng Emaus. Các ông ra về trong tâm trạng buồn chán, muốn rút lui, vì các ông đã không còn gì để bám víu và tin nữa. Vì người mà họ đã tin và từ bỏ mọi sự mà theo, giờ đã chết, và xác của Ngài cũng không còn. Chính trong hoàn cảnh bi thương như vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các ông. Chúa Giêsu đã can thiệp bằng ánh sáng của Ngài. Ánh sáng này soi dẫn khi Chúa chia sẽ Lời Chúa và mở trí cho các ông hiểu về Kinh thánh và về sứ vụ của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa cũng chiếu tỏa trên các ông, khi Ngài cùng ngồi bàn và “Bẻ Bánh” trao cho các ông, và nhờ đó mà họ nhận ra Ngài. Nhờ Ánh sáng của Kinh Thánh và Ánh sáng từ “bàn tiệc bẻ bánh” giúp cho hai môn đệ mở lòng, mở con mắt đức tin. Họ đã nhận ra Người, lòng họ sáng ra, hân hoan, mau chóng trở lại Giêrusalem. Ánh sáng đó đã giúp họ có lại đức tin vào Chúa Giêsu, đức tin mà trước đây họ tin còn rất mơ hồ, thì giờ đây đức tin đạt được là chân thật và kiên vững; nhờ đó mà các ông quay trở lại với Chúa và sứ vụ mà Ngài trao cho họ.
Ngày nay Thiên Chúa qua nhiều cách thế cũng đang đồng hành và cũng đang can thiệp vào chính cuộc sống của mỗi người chúng ta. Cách chiếu tỏa ánh sáng và can thiệp đó hữu hiệu nhất là bí tích tình yêu Thánh Thể. Đọc lại tin mừng hôm nay chúng ta thấy phần nào tương tự tiến trình của Thánh lễ, với Bàn tiệc Phụng vụ Lời Chúa và Bàn tiệc Phụng vụ Thánh Thể. Đây chính là “ánh sáng tình yêu” của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua chính Lời Hằng Sống và qua Hiến Tế Hy Sinh của Đức Kitô. Khi chúng ta tham dự, và để cho Chúa hiện diện ban ơn chiếu tỏa ánh sáng ơn sủng của Ngài, chúng ta sẽ được ơn biến đổi, ơn thánh hóa và tha thứ.
Anh chị em thân mến, trong những hoàn cảnh khó khăn của chúng ta hiện nay khi dịch bệnh và nền kinh tế đang làm nhiều người phải đau khổ, tuyệt vọng, và không còn chỗ nào hay còn ai để bám víu vào. Vậy chúng ta hãy bám víu vào Chúa Phục Sinh, bằng cách xin Ngài cũng đến với chúng ta, đồng hành và chia vui sẻ buồn với chúng ta. Xin cho ánh sáng của Lời Chúa và Thánh Thể luôn chiếu tỏa ơn thánh Chúa trên chúng con. Nhờ đó, giúp chúng con tái khám phá ơn Chúa từ hai bàn tiệc này, để chúng con có được niềm hy vọng, niềm tin và sức mạnh hầu chu toàn thánh ý Chúa trong sứ vụ và ơn gọi của chúng con. Amen.
Trang sử này của thánh Luca đã được các nhà chú giải chú ý đến rất nhiều và đã khai thác từng PS3-A173
Trang sử này của thánh Luca đã được các nhà chú giải chú ý đến rất nhiều và đã khai thác từng chữ, từng câu. Nhưng ở đây, chúng ta chỉ muốn tìm xem Chúa hành động như thế nào đối với chúng ta và muốn gì nơi chúng ta.
Ngày thứ nhất trong tuần, đối với các tông đồ, ngày này là ngày bận rộn nhất, đầy những biến cố vui buồn lẫn lộn và đầy ý nghĩa nhất vì chứa đựng nhiều sự kiện có tầm quan trọng không thể tưởng được đối với những người liên hệ, trong đó có chúng ta.
Sáng tinh sương, Maria Macđala đã tìm thấy ngôi mộ trống, Phêrô và người môn đệ Chúa thương nhìn thấy những băng vải, mọi sự đang còn mập mờ chưa rõ, Hai môn đệ thành Emmau rời nhóm môn đệ về quê vì “không thấy Thầy”. Trên đường họ trò chuyện với nhau và có người thứ ba cùng đi một hướng với họ nhập vào nhóm cho có bạn.
Người bạn đường nhận thấy dáng vẻ buồn sầu của họ, đã lên tiếng hỏi thăm. Một trong hai người là Cơlêôpat mới thố lộ tâm tình: “Chuyện ông Giêsu Nadaret…”
Và ông đã ngắn gọn tóm lại cả thân thế Chúa Giêsu, cả những biến cố của việc phục sinh. Và ông kết luận: “Chính Người thì chúng tôi không thấy”. Họ buồn khổ vì họ đã vỡ mộng. Theo ông Giêsu, “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân”. Họ buồn nản chỉ vì mộng của họ quá to. Thầy của họ là một ngôn sứ, là một người có thế giá trước mặt Thiên Chúa và cả toàn dân, thì sau này, họ sẽ được một chỗ đứng quan trọng. Nhưng mọi sự không như họ tưởng, tất cả hy vọng kia đã bị chôn vùi dưới ngôi mộ. Thấy uy thế của họ đã thất bại thảm thương. Họ không còn gì để bám víu nữa. Người ta nói rằng Ngài đã sống lại nhưng họ vẫn không thấy Ngài. Họ nghe mà không thấy. Cũng như Tôma, nghe mà không thấy.
Người bạn đồng hành trách họ bằng một câu nặng nề nhưng đầy thân mật: “Ồ, các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Đấng Kitô lại chẳng phải chịu cực hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Rồi bắt đầu từ ông Môsê và qua tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Những trang sử cũ xưa hôm nay sống lại qua lời nói của người bạn đường không quen biết. Tất cả sống lại trong tâm hồn đang bị dày vò bởi những nỗi thất vọng não nề. Họ chăm chú nghe và từ từ họ thấy sáng lên những tia hy vọng đã phụt tắt. Nhưng họ chưa nhận ra người bạn đồng hành đó là ai. Thánh Gioan nói: “Mắt họ bị che phủ” bởi những tham vọng quá to của họ.
Chúng ta cũng thế. Thờ Chúa, nhưng chúng ta cứ mơ tưởng những gì không phải là Chúa. Chúng ta tìm Chúa nơi không có Chúa thì làm sao nhận ra Ngài? Hay chúng ta chỉ trông chờ những hồng ân vật chất mà không nhìn thấy những gì Chúa mang đến cho chúng ta. Mắt chúng ta cũng bị che mờ vì những tham vọng trần thế mà lãng quên điều chính yếu, điều chính yếu là Ngài. Tiên tri Isaia đã nói: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được”.
Đoạn đường dài hơn mười hai cây số sắp kết thúc và trời đã về chiều. Lúc ấy họ còn muốn nghe, vì họ đã sống lại những giờ phút thật thú vị. Tất cả lịch sử về Đấng Cứu Độ đã được sống lại trong tâm trí họ. Họ mới hiểu rằng sự thống khổ, thập giá mới là con đường vững chắc nhất đưa đến vinh quang. Hai ông nài xin Ngài ở lại vì người bạn đường kia muốn đi xa hơn, muốn rời bỏ họ: “Xin mời anh ở lại với chúng tôi vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn”. Ngài vào nhà và ở lại với họ”. Ngài không từ chối lời mời gọi khẩn thiết của họ. Trong sách Khải Huyền, Chúa nói: “Ta đứng ngoài và gõ cửa. Ai mở cho Ta, Ta sẽ vào và ăn tối với người ấy”. Ở đây chính các môn đệ mời Ngài và Ngài chấp nhận.
Chúng ta có mời gọi Ngài ở lại với chúng ta không? Khi tâm hồn chúng ta chỉ còn là trời chiều buồn tẻ, cô đơn? Ngài lắng nghe những tiếng nói sầu muộn của chúng ta như đã nghe những lời tâm sự thất vọng của ông Cơlêôpat. Phúc cho chúng ta vì chúng ta có một Thiên Chúa thật nhân từ, nhẫn nại, luôn lắng nghe tất cả, thông cảm tất cả những nỗi niềm đau khổ của chúng ta. Chúng ta tìm an ủi ở nơi đâu mà không đến với Chúa là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi không từ chối chúng ta điều gì?
Đây là một quán trọ. Người ta dọn bánh và thức ăn. Các khách lữ hành đã thấm mệt. Họ cần ăn, và Chúa đã cho họ ăn một thứ của ăn họ không ngờ: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và nhận ra Người”. Ngài đã mở mắt họ bằng lời Kinh Thánh suốt con đường dài, giờ đây, Ngài mở mắt họ ra bằng một cử chỉ thân tình quen thuộc: khi bẻ bánh. Phải sống thân mật với Ngài mới có thể nhận ra khuôn mặt của Ngài dưới những hình thức khác. Họ đi đường với Ngài suốt một ngày dài, họ không nhận ra Ngài, giờ đây khi nhận ra Ngài thì Ngài đã lẫn khuất. Dù Ngài có biến đi, họ đã nhận ra Ngài, họ đã tin rằng Ngài đã sống lại thật.
Đó là sứ điệp Ngài gởi cho họ trong lúc buồn nản thất vọng.
Giáo hội hôm nay vẫn lặp lại những việc làm của Chúa: hằng ngày bẻ bánh Lời Chúa và Mình Chúa cho chúng ta. Chúng ta có thấy tâm hồn sốt nóng lên khi nghe lời Chúa nói với chúng ta không? Chúng ta có nhận ra Chúa trong tấm Bánh Tình Yêu mà Giáo hội luôn bẻ ra để nuôi chúng ta trong cuộc hành hương dài về Đất Hứa không?
Thật kỳ diệu khi chúng ta luôn có một Thiên Chúa thân cận yêu thương, luôn lắng nghe và đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc đời. Chỉ cần nhận ra Chúa trong những thể cách hiện diện của Ngài. Ngài có thể hiện diện trong những giờ phút tăm tối nhất cũng như trong những ngày huy hoàng chiến thắng, tràn trề niềm vui. Chúng ta hãy xin Ngài luôn ở lại với chúng ta nhất là trong những giờ phút chúng ta không biết phải làm gì, khi chúng ta lạc loài trong một thế giới đầy tội ác, hận thù, khi con người không còn trái tim. Xin cho chúng ta có một quả tim biết rung cảm với mọi người, để có thể đồng hành với những người anh em khốn khổ, giúp họ khám phá ra khuôn mặt khả ái của Chúa.
Chúng ta sẽ loan báo cho mọi người như các môn đệ Emmau: “Chúng tôi đã nhận thấy Thầy khi Thầy bẻ bánh cho chúng tôi”.
Lc 24: 13-35 Trong câu chuyện đàm thoại giữa hai môn đệ và người lữ hành xa lạ trên đường Emmau hôm nay.
Kính thưa anh chị em,
Đức tin của chúng ta luôn luôn có một đối tượng để tin, và đối tượng đó chính là Đức Giêsu Kitô PS3-A174
Đức tin của chúng ta luôn luôn có một đối tượng để tin, và đối tượng đó chính là Đức Giêsu Kitô. Nhờ Đức Giêsu Kitô mà đức tin của chúng ta được nuôi dưỡng và sống động. Đối với các tông đồ ngày xưa cũng như thế. Họ đã tin vào một Giêsu Nazareth là cứu Chúa của họ. Thế nhưng Giêsu Nazareth đó bị giết chết khiến cho họ trở nên mất niềm hy vọng.
Trong câu chuyện đàm thoại giữa hai môn đệ và người lữ hành xa lạ trên đường Emmau hôm nay, thánh Luca đã kể rằng một trong hai môn đệ đã nói: “Lúc đó chúng tôi đã hy vọng rằng….” (Luca 24: 21). Như vậy có nghĩa là lúc đó chúng tôi ĐÃ TIN, chúng tôi ĐÃ THEO, chúng tôi ĐÃ HY VỌNG….thế nhưng bây giờ, hiện nay thì những hy vọng, những hành động đã tin, đã theo đó đã qua đi rồi, không còn nữa. Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mong "công hầu khanh tướng", hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng và họ trở về làng cũ tức là trở về với nỗi thất vọng ê chề.
Giữa lúc u tối đó, Chúa hiện đến đồng hành với các ông như một người lữ khách, nhưng các ông không nhận ra và chỉ xem như là một hành khách lạ. Để rồi chính vị lữ khách ấy đã tìm cách giải thích kinh thánh cho các ông hiểu và trao cho các ông niềm hy vọng mới, để cho các ông có thể thốt lên: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Đây là một lời mời thật lòng của các môn đệ. Bởi vì, lúc đó trời đã tối rồi. Tuy nhiên, câu nói đó ta cũng có thể hiểu nó không chỉ diễn tả màn đêm buông xuống của vũ trụ vạn vật khi về đêm, nhưng có lẽ nó cũng diễn tả MỘT TÌNH TRẠNG TÂM HỒN. Đó là tình trạng tâm hồn u sầu, buồn bã của 2 môn đệ trên đường Emmau, tâm trạng của sự thiếu vắng niềm tin, tâm trạng của sự thất vọng ê chề.
Tâm trạng đó, có lẽ không phải chỉ là ở nơi 2 môn đệ Emmau, mà đó cũng chính là tâm trạng của toàn thể các môn đệ và cũng là tâm trạng của chúng ta ngày hôm nay khi chúng ta đánh mất niềm hy vọng trong cuộc sống.
Chính trong tâm trạng ấy các ông cần một niềm hy vọng, cần một người để chia sẻ và an ủi. Thật may mắn, giữa lúc lạc lối như vậy, các ông đã gặp được người có khả năng đáp ứng những khát vọng đó. Vì thế, như vỡ oà trong niềm vui sướng, các ông đã thưa với người “lữ khách” rằng: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”.
Lời mời ấy có thể rất cần thiết cho chính chúng ta ngày hôm nay, khi chúng ta đang gặp phải thử thách, thất vọng. Những lúc cuộc đời của chúng ta gặp thất bại, có những cay đắng, chán nản đến độ chúng ta đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa nữa, chúng ta cần bắt chước hai môn đệ thốt lên lời nguyện xin, để củng cố tâm hồn mình: "Lạy Chúa hãy ở lại với con”. Tuy nhiên, đôi khi thực tế lại ngược hoàn toàn, khi cuộc đời chúng ta gặp trắc trở, cầu xin hoài mà Chúa không thay đổi trắc trở ấy cho chúng ta, nên chúng ta thường đẩy Chúa ra xa khỏi tâm hồn c húng ta. Cầu nguyện là để Chúa ban ơn mà sao Chúa vẫn cứ im lặng trước nỗi đau của mình, thế nên, ở nơi Chúa chẳng thấy niềm hy vọng gì hết. Tâm trạng của chúng ta trong những giờ phút như vậy giống như là Chúa đã chết rồi, và tâm trạng đó cũng giống như là tâm trạng của các môn đệ cho rằng Chúa đã chết và không còn hy vọng gì nữa nơi vị thầy từng được họ coi là thần thánh, là cứu cánh của cuộc đời. Chính vì thế nên, hiếm khi chúng ta mời Chúa ở lại khi chúng ta buồn phiền, thất vọng. Đó là điều thường xảy ra nơi mỗi con người chúng ta.
Điểm mấu chốt khiến cho 2 môn đệ trên đường Emmau có lại niềm hy vọng, là cho dẫu họ đi về với tâm trạng buồn phiền, thất vọng ê chề, nhưng may mắn cho họ là họ vẫn còn mở rộng tâm hồn ra để đón chào người Lữ Khách, chính nhờ điều đó nên người lữ khách mới có cơ hội để giải thích kinh thánh, cũng như dùng hành động bẻ bánh để mở con mắt đức tin cho họ tin vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng hoàn cảnh, từng giây phút và trong mọi biến cố buồn vui của họ. Chúa sống lại, giờ đây không phải mang tính chất hữu hình nữa, nhưng đi xâu hơn, xa hơn, đó là Chúa phục sinh hiện hữu trong tâm hồn của họ. Nhờ đó họ bừng tỉnh với niềm hy vọng và sống niềm hy vọng đó trong tương quan với các tông đồ khác với hành động: chạy về báo tin cho các môn đệ khác biết là mình đã gặp Chúa phục sinh.
Chúng ta cũng vậy, trong những lúc thất vọng ê chề, chúng ta không nên oán trách Chúa, nhưng chúng ta hãy mở lòng ra để Chúa đi vào tận cõi sâu nhất của tâm hồn, để Chúa dẫn dắt chúng ta qua các mối tương quan cần thiết, chính nơi đó Chúa sẽ bắt đầu giải thích cho chúng ta hiểu những hoàn cảnh tâm hồn của chúng ta. Kinh nghiệm bản thân mỗi người chúng ta đều đã từng trải qua, có những lúc chúng ta tưởng như Chúa không quan tâm đến chúng ta, không đón nhận lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng thời gian trôi qua, khi nỗi đau đã nguôi ngoai và sau đó chúng ta nhìn lại tất cả mọi sự việc, bấy giờ chúng ta mới thốt lên rằng: Cám ơn Chúa vì Chúa đã không theo ý con mà theo sự khôn ngoan và yêu thương của Chúa mà giờ đây con đã cảm nhận được rằng, nếu lúc bấy giờ Chúa theo ý con thì giờ này chắc con đã thất bại ê chề rồi. Đó là kinh nghiệm của tôi, nhưng cũng có thể là kinh nghiệm của anh chị em và đó cũng là lúc Chúa đang giải thích các vấn nạn đã xảy ra cho chúng ta giống như 2 môn đệ Emmau.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa vẫn ở bên cạnh chúng ta đó thôi, nhưng bởi vì chúng ta đã đóng cửa tâm hồn mình lại với những oán trách, những thất vọng, những lý lẽ của con người, đó là chúng ta thường đi tìm những lý do để giải thích cho những thất bại, những đau khổ, những lỗi lầm của mình. Chính vì có quá nhiều những cản trở đó nên cửa tâm hồn chúng ta không còn chỗ cho Chúa có thể đi vào và ở lại với chúng ta. Thật vậy, chỉ khi chúng ta mở rộng lòng mình ra mời Chúa ở lại bằng những mối tương quan, sự bao dung, sự tự hối, sư khiêm nhường và lòng vị tha, thì lúc bấy giờ chúng ta mới có khả năng đương đầu được với những thất vọng và đau khổ trên bước đường đời.
Ngạn ngữ trung hoa có câu: “Nhật Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời mặt trăng tuy có sáng nhưng khó mà chiếu vào chiếc chậu úp). Ánh sáng của mặt trời cũng như ánh sáng Giêsu, tuy sáng và có đó, nhưng nếu người ta không chịu tiếp nhận thì cũng vô ích, nó cũng giống như ánh sáng chiếu vào một chiếc chậu úp thôi.
Để có thể mời Chúa ở lại trong tâm hồn, trước tiên, chúng ta hãy mở rộng lòng mình ra để đón nhận những hạn chế của mình, những khiếm khuyết của mình, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng đón nhận những người xung quanh, và Chúa thì đang hiện diện trong các mối tương quan với anh chị em.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết mời Chúa ở lại trong tâm hồn, để rồi đoạn đường Emmau của chúng con trở thành niềm hy vọng và động lực cho cuộc sống của chúng con. Lạy Chúa xin hãy ở lại với chúng con. Amen.
Có người hỏi tôi rằng thưa cha, chúng ta có được phép bỏ tro người chết xuống hồ, sông hay biển PS3-A175
Có người hỏi tôi rằng thưa cha, chúng ta có được phép bỏ tro người chết xuống hồ, sông hay biển? Tôi mới trả lời rằng: việc chôn xác kẻ chết là một việc đạo đức được khuyến khích và tôn trọng từ xưa đến nay trong Giáo Hội. Hơn nữa Giáo Hội coi việc đạo đức này được đặc biệt tôn trọng vì niềm tin và hy vọng của chúng ta là “xác loài người ngày sau sống lại” (Kinh Tin Kính), cho nên phải được chôn cất cho xứng đáng với niềm tin này. Và từ Công Đông Vaticanô II (1962-65) đến nay, Giáo Hội lại cho phép đốt xác nhưng phải tin rằng dù xác chết tan trong lòng đất hay tan thành tro bụi khi đem thiêu, thì vẫn được quyền năng của Thiên Chúa cho sống lại hiệp cùng linh hồn để vào Nước Trời hưởng hạnh phúc Thiên Đàng hay bị phạt trong hỏa ngục trong ngày cánh chung (Mt 25, 31-46). Vì vậy, theo Giáo luật và Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng nếu hỏa táng người chết, thì việc này không được làm trái với niềm tin của Giáo Hội về sự sống lại của kẻ chết (GL, số 1176; SGLGHCG số 1684- 1690), nghĩa là phải tin rằng dù xác kẻ chết đã ra tro bụi, thì vẫn được sống lại cùng với linh hồn trong ngay sau hết như đã nói ở trên. Vì thế, tro của người hỏa táng cũng phải được tôn kính như xác chôn ngoài nghĩa địa. Nghĩa là phải cất giữ tro này ở nơi xứng đáng, hoặc ở tư gia hay trong nhà thờ nào có nhận cất giữ tro của người hỏa táng. Nghĩa là không được phép mang tro này ra rải ngoài sông, ao hồ hay biển cả, như những người không có niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết. Vì không tin, nên họ đã rải tro của thân nhân họ ra sông, hồ hay biển cả, vì cho rằng con người là hư không, chết là hết không hy vọng gì cả, nên thả tro ra sông, biển để nói lên sự hư không này của thân phận con người. Ngược lại, vì người Công Giáo tin xác loài người sẽ sống lại, nên xác chết phải được giữ gìn trong nghĩa trang hay trong các hộp tro để cho con cháu, thân nhân viếng thăm và cầu nguyện. Vậy nếu đem tro của người chết rải ra ngoài sông, biển thì lấy đâu ra nơi cụ thể để viếng thăm đặc biệt trong tháng cầu cho các linh hồn. Nghiêm trọng hơn nữa là nếu đem rải tro người chết ra sông, hay biển thì vô tình cũng giống như những người không tin và hy vọng có sự sống lại của thân xác.
Sinh ra đời, ai ai cũng có niềm tin và hy vọng. Nếu không có niềm tin thì sẽ như chiếc tàu không có bánh lái. Con tàu không có bánh lái thì biết đi về đâu. Niềm hy vọng cũng vậy, nếu tôi không có hy vọng thì tôi sẽ là con người đau khổ và tội nhất. Vì có hy vọng mới có vươn lên, đi tới và chiến thắng được mọi khó khăn, đau khổ. Cho nên, cựu Tổng thống Mỹ Obama đã nói rằng: “Khi còn thở, nghĩa là ta còn hy vọng”; “Cách tốt nhất để không cảm thấy vô vọng là đứng dậy và làm gì đó. Đừng đợi chuyện tốt đẹp xảy ra với mình. Nếu bạn ra ngoài và khiến điều gì đó tốt đẹp xảy ra, bạn sẽ khiến thế giới tràn đầy sự hy vọng, bản thân của bạn tràn đầy hy vọng”.
Hai môn đệ trong Tin Mừng hôm nay, một người tên là Cơ-lê-ô-pát, người kia không có tên, người không có tên ấy cũng có thể là mỗi người chúng ta. Hai ông ngay từ đầu có niềm tin vào Chúa Giêsu nhưng niềm tin của các ông quá ơ hờ, niềm tin vào một Chúa sẽ đánh tan quân thù bằng vũ lực. Cho nên, Chúa chết thê thảm mà không có một uy quyền nào cả nên mất niềm tin, dẫn đến mất hy vọng. Vì vậy, các ông bỏ Chúa không tiếc sót. Những giữa lúc buồn tủi, thất vọng ấy, Chúa Giêsu phục sinh xuất hiện. Lập tức ánh sáng rực lên giữa màn đêm đen. Niềm vui rộn rã xoá tan u sầu. Ngọn lửa bừng lên sưởi ấm những trái tim lạnh giá vì Chúa Giêsu đã đem đến cả một trời hy vọng. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã nhen nhúm niềm hy vọng trong tâm hồn hai ông qua lời chứng của những người bạn, các ông không tin, rồi qua Thánh Kinh tâm hồn các ông rộn ràng niềm vui, trí các ông bừng sáng nhưng các ông vẫn chưa nhận ra Chúa phục sinh. Cuối cùng, Chúa Giêsu bẻ bánh, chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các ông nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Niềm hy vọng không còn là hy vọng nữa, nhưng đã trở thành hiện thực. Niềm tin không còn bán nghi, không còn hoang mang lo lắng và thấp thỏm nữa vì các ông đã gặp được chính niềm hy vọng là Chúa đã sống lại thật rồi.
Chúa Giêsu bẻ bánh là nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới. Từ nay u buồn sẽ không còn, lo âu sợ sệt tan biết mất, hy vọng đã vươn lên và và các quay trở lại Giêrusalem tiếp tục làm môn đệ Chúa phục sinh. Cho nên, Thánh Thể Chúa chính là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng. Nhờ có Thánh Thể, đường xa trở nên gần. Nhờ có Thánh Thể, nỗi buồn trở niềm vui. Vì nhờ có Thánh Thể, ta luôn được ở bên Chúa.
Đời sống ta không thiếu những giờ phút khó khăn. Cuộc đời đầy thử thách nhiều lúc đẩy ta vào hố thẳm tuyệt vọng. Ta hãy học bài học Chúa dạy các môn đệ trên đường Emmau: Hãy biết nhìn các biến cố trong cuộc đời bằng con mắt đức tin. Dưới ánh sáng đức tin, mọi đau khổ sẽ xuất hiện với một ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc đời. Ánh sáng đức tin sẽ thắp sáng niềm hy vọng. Hãy biết nghe, đọc và suy gẫm Lời Chúa và hãy đến với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể để nhìn thấy Chúa phục sinh luôn ở trong đời ta. Đặc biệt hãy kết hiệp với Chúa Giêsu trong Thánh Thể vì Thánh Thể sẽ là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng của ta và cảm nếm trước hạnh phúc trên thiên đàng. Đường đời chúng ta cũng như quãng đường từ Giêrusalem đi Emmau. Khi ta tin vào Chúa phục sinh luôn đồng hành với ta trong cuộc sống qua Lời Chúa và Thánh Thể của Ngài, con đường là cuộc đời ta sẽ trở nên gần gũi, bằng phẳng, vui tươi, hạnh phúc và sáng sủa dù ta đi trong bóng đêm. Và khi ta tin vào Chúa phục sinh thì niềm hy vọng của ta nơi Chúa phục sinh cũng sẽ trở thành hiện thực trong ngày sau hết như Lời Chúa nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ”.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm tin yêu và hy vọng của chúng con. Xin cho đường đời chúng con đang trải qua luôn là con đường tin yêu và hy vọng vì luôn có Chúa phục sinh luôn ở bên hôm qua hôm nay và mãi mãi. All.
Mỗi người trong chúng ta khi bước vào cuộc sống, ai ai cũng đã, đang và sẽ gặp biết bao nhiều PS3-A176
Mỗi người trong chúng ta khi bước vào cuộc sống, ai ai cũng đã, đang và sẽ gặp biết bao nhiều chuyện buồn phiền và thất vọng. Buồn phiền vì không được đi học hay có đi học, học không bằng bạn bè, buồn vì không có việc làm, buồn vì bạn bè phản bội, buồn vì bà con chơi xấu mượn tiền không trả, buồn vì làm ăn không thành công, thui lỗ, buồn vì bệnh tật… Rồi trong chuyện tình yêu hôn nhân gia đình cũng vậy, chưa có người yêu cũng buồn nên mới có chuyện: “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không duyên. Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành. Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng dở dang. Yêu ai cũng lở làng dù rằng tôi chẳng lỗi chi”. Nhưng, khi có người yêu rồi buồn vì người yêu nay đã là vợ hay chồng người ta, nên mới có chuyện: “Đời tôi cô đơn nên yêu em chẳng bao lâu. Ngày mai đây em lên xe hoa bước theo chồng. Đời tôi quen cô đơn nên tôi chẳng trách em. Tôi quen rồi những chuyện dang dở từ khi mới yêu”. Rồi trớ trêu thay, khi đã lấy vợ lấy chồng rồi đó, cũng gặp chuyện buồn phiền vì vợ chồng chia tay, ly dị nhau cho nên mới có chuyện: “Thôi rồi ta đã xa nhau kể từ đêm pháo đỏ rượu hồng. Anh đường anh, anh em đường em yêu thương xưa chỉ còn âm thầm. Em đành quên cả sao em kỷ niệm xưa sánh như biển lớn. Ân tình cao tựa bằng non chỉ đổi bằng nhung lụa sao người?”. Đó vì tiền bạc mà tình yêu vợ chồng, cha mẹ không còn sắt son nữa, không còn chung thủy với nhau nữa nên từ bỏ nhau đường ai nấy đi, bỏ mặt con cái bơ vơ, lang thang côi cút, làm cho con cái phải buồn sầu đắng cay vì cha mẹ bỏ rơi nên mới có chuyện: “Cha ơi, cha là ai? Mẹ ơi, mẹ là ai? Mưa rơi con lạnh quá, gió buốt từng cơn đêm dài bơ vơ, nằm mơ một mái nhà có mẹ và có cha. Tại sao sinh em trong cuộc đời mà sao không cho em tình người. Tuổi thơ em lang thang lạc loài em nào có tội gì đâu. Tuổi thơ em không một mái nhà, tuổi thơ em không được đến trường, tuổi thơ em bơ vơ đầu đường xin từng hạt cơm rơi, xin từng hạt cơm rơi”. Rõ ràng người chưa có gia đình cũng buồn, có gia đình cũng buồn, đi tu theo Chúa có buồn phiền và thất vọng không? Có buồn chứ, cụ thể hai môn đệ trong Tin Mừng mà chúng ta vừa mới nghe.
Rõ ràng hai môn đệ đã từng theo Chúa, nghe Chúa giảng và thấy làm những việc kỳ điệu, ấy thế mà hôm nay Chúa chết, buồn sầu và thất vọng nên quyết định bỏ Chúa lên đường về quê, làm ăn kiếm sống, không theo Chúa nữa. Tại sao các ông buồn và thất vọng? Vì trước đây họ theo Chúa với hy vọng rằng Chúa sẽ giải phóng Ít-ra-en, khi ấy Chúa sẽ được vinh dự vui mừng, mình cũng “vui lây”. Giờ đây, Chúa mình theo chết thảm quá nên cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mong “công hầu khanh tướng”, hết hy vọng. Cho nên, hôm nay, trên đường từ Giê-ru- sa-lem về Em-mau là đi về phía tây, phía mặt trời lặn, phía đêm tối. Tâm trạng hai môn đệ lúc ấy buồn sầu thảm thiết và ruột gan rối bời như đêm đen. Thế rồi, Đức Giêsu xuất hiện như người lữ hành cùng đi với họ, trò chuyện, giải thích Thánh Kinh cho họ. Chính lúc nghe Lời Chúa, lòng họ đã bừng cháy lên, nhất là khi "Người cấm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ" thì họ mới thực sự nhận ra Người, không chỉ bằng con mắt xác thịt mà bằng cả con mắt đức tin. Giờ đây, thật sự họ đã nhận ra Chúa đã phục sinh và từ đó ý nghĩa của cuộc đời trở nên trong sáng, tối tăm trở nên sáng như ban ngày. Cho nên, sau khi Ngài biến mất, họ phải đứng dậy ngay, quay trở lại Giê-ru- sa-lem, đi về phía đông, phía mặt trời mọc, phía ánh sáng. Và chính Đức Giêsu đã đưa họ từ tâm trạng buồn phiền thất vọng, chán nản sang niềm vui phục sinh và hạnh phúc vì có Chúa trong đời.
Sống giữa cuộc đời, chúng ta gặp nhiều biến cố xảy ra cho mình và gia đình chúng ta và nó làm cho ta phải buồn phiền và thất vọng. Vì vậy, mọi ngày chúng ta từ giữa cuộc đời đến Nhà thờ mang trong mình những tâm tư của cuộc sống. Khi vào nhà thờ mình kể cho Chúa Giêsu nghe tất cả, lúc đó Chúa Giêsu qua Giáo hội lấy Thánh kinh chia sẻ với anh chị em. Lấy Thánh kinh để dọi một ánh sáng vui mừng và hy vọng biến cố buồn phiền và thất vọng mà anh chị em gặp trong cuộc sống để chúng ta gặp Chúa trong những biến cố ấy, Ngài luôn hiện diện đỡ nâng ta, ban bình an và nói với ta những lời an ủi để ta khỏi tuyệt vọng trong đời để rồi đời không phải là vạn ngày sầu mà mỗi ngày có một niềm vui, như lời Chúa nói: “Thầy đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 1-10). Vì thế, đỉnh cao của Thánh lễ là việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho chúng ta, và khi chúng ta rước Mình Thánh Chúa vào trong cung lòng ta, lúc ấy chúng ta sẽ được kết hiệp mật thiết với Chúa, Chúa sẽ làm cho chúng ta bình an khi gặp những đau khổ, buồn phiền trong cuộc sống hôn nhân và gia đình. Qủa vậy, chính khi "bẻ bánh" mà hai môn đệ Emmau mới bừng sáng con mắt mà nhận ra Người. Thì chỉ có Bí tích Thánh Thể mới giúp chúng ta hồi phục sau những cơn giông tố cuộc đời. Chỉ có Bí tích Thánh Thể mới bổ sức cho chúng ta những người cha, mẹ, và con cái sau những lần vấp ngã đắng cay để trỗi dậy làm cho mái ấm gia đình nở hoa chứ không bế tắc. Chỉ có Bí Tích Thánh Thể mới dẫn đưa chúng ta từ nơi tối tăm sự chết đến miền ánh sáng Phục Sinh bằng việc gia đình hòa thuận thương yêu nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gia nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe và khi vui cũng lúc sầu buồn. Vì vậy, chỉ trong Đức Giêsu, chúng ta mới nhận ra được ý nghĩa của cuộc đời. Có Ngài hiện diện, ngay cả trong những ngày tháng buồn phiền, chúng ta vẫn có thể thấy ánh sáng cho hành trình cuộc đời, được Ngài lưu lại trong tâm hồn, chúng ta nhận ra thiên đàng đã bắt đầu ngay trên trần thế này đó là bình an và hạnh phúc, vì chưng: “Hồng ân Chúa như mưa, như mưa, rơi xuống đời con miên man, miên man, nâng đỡ tình con trong tay, trong tay vòng tay thương mến. Đời có Chúa êm trôi êm trôi Chúa dắt dìu con luôn luôn không thôi, có Chúa cùng đi con không đơn côi. Ôi tình tuyệt vời”.
Cho nên, trong Tâm thư gửi cho các gia đình Công giáo năm nay, các Đức giám mục Việt nam mời gọi Gia đình hãy là ngôi nhà thờ phượng khi gia đình tràn ngập sự hiện diện của Chúa. Ngài sẽ bước vào ngôi nhà của anh chị em khi mọi người trong nhà cầu nguyện chung, lắng nghe Lời Chúa. Những giờ cầu nguyện chung ấy sẽ liên kết mọi người trong Chúa, giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của gia đình, cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và trở nên chứng nhân của Chúa giữa lòng đời. Vì vậy, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng: “Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu việt để diễn tả và củng cố đức tin phục sinh. Gia đình có thể dành ít phút mỗi ngày để quy tụ với nhau trước nhan Thiên Chúa hằng sống, nói với Ngài về những lo lắng bận tâm, cầu xin với Ngài cho những nhu cầu của gia đình, cầu nguyện cho ai đang gặp khó khăn, xin Chúa giúp ta biết sống yêu thương, tạ ơn Ngài về sự sống và về bao ơn lành khác. Với ít lời lẽ đơn sơ thôi, nhưng những phút giây cầu nguyện đó có thể mang lại điều tốt lành lớn lao cho gia đình” (Niềm vui của tình yêu, 318). Và trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng Đức giáo hoàng đương kim đã khẳng định rằng: “Những ai gặp Chúa Giê-su và chấp nhận đề nghị cứu độ của Ngài thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn”.
Nếu ngày xưa, hai môn đệ Emmaus đã nhận ra Chúa khi Ngài ngồi vào bàn ăn bẻ bánh trao lại cho hai ông, thì hôm nay nơi Bàn Tiệc Thánh này, Ngài cũng làm lại cử chỉ đó để chúng ta nhận ra Ngài đang sống và hiện diện giữa chúng ta và với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Và sau khi vui mừng nhận ra Chúa đã sống lại, hai ông đã vội vã ra đi gặp anh em để thông đạt niềm vui và niềm tin yêu nơi họ. Cũng vậy, sau khi hiệp lễ, chúng ta được sai phái ra đi đem Tin Mừng Chúa sống lại, đem niềm vui Phục Sinh đến cho mọi người, nhất là những người trong gia đình chúng ta để mọi thành viên trong gia đình thương yêu nhau, vợ chồng chung thủy với nhau, cha mẹ yêu thương chăm sóc và giáo dục con cái nên người, nhất là con cái phải thảo kính với ông bà cha mẹ, quan tâm và chăm sóc ông bà cho mẹ bằng tinh thần cũng như vật chất. Và như thế, gia đình chúng ta quả thật là gia đình Công giáo thực sự và là mái ấm tình thương vì luôn có Chúa hiện diện.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, "xin ở lại với chúng con", vì chúng con rất cần Chúa trong các nỗi buồn của cuộc đời. Chúng con không xin Chúa những ơn cao cả, nhưng chỉ xin Chúa luôn hiện diện. Có Chúa, dù cuộc đời chúng con có còn nhiều buồn phiền nhưng chúng ta tin chắc chắn rầng Chúa ban bình an cho chúng con, làm chúng ta an tâm mà vui sống. Amen.
Khi chúng ta u sầu, lúc buồn chán; hay khi gặp thất bại cay đắng của cuộc đời thì chúng ta hay PS3-A177
Khi chúng ta u sầu, lúc buồn chán; hay khi gặp thất bại cay đắng của cuộc đời thì chúng ta hay làm gì? Đó là thích được chia sẻ. Ai trong chúng ta cũng thích được chia sẻ; chia sẻ vui buồn của cuộc đời.
Vì sao vậy?
Vì lẽ tự nhiên của tâm lý con người. Khi không chia sẻ, tìm cách giữ kín tâm tư tình cảm thì tự nhiên sinh ra một sự đè nén trong tâm hồn, có hại hơn là có lợi. Nỗi u buồn, chán nản mà giữ kín trong lòng chỉ càng thêm u buồn chán nản. Và một khi con người đi vào chỗ bế tắc thì hầu như không thấy được một con đường nào mới để đi tới. Sự vật sẽ trở nên đen tối và người đó sẽ chẳng thấy gì sáng sủa hơn. Câu chuyện Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emause giúp chúng ta nhận ra giá trị của việc chia sẻ.
Hai môn đệ đi theo Đức Giêsu với nhiều hy vọng to tát. Hai ông nói: “Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Ngài sẽ giải cứu Israel” (Lc 24,21). Nhưng hai ông đã thất vọng. Đang ở thủ đô Giêrusalem mấy ngày trước, chắc hẳn hai ông đã cùng với dân chúng tung hô Chúa Giêsu: “Vạn vạn tuế con vua Đavit”; “Vạn vạn tuế con vua Đavit”. Chắc hẳn là hai ông rất vui mừng, hãnh diện, và hy vọng khi mình và nhiều người khác cùng tung hô thầy mình như thế. Còn bây giờ, các ông thất vọng buồn sầu, rời bỏ kinh thành, đi về quê với tâm lòng nặng trĩu, như lời một bài thánh ca hát: "mộng vàng tan mây,… lê bước chân đường dài!".
Nhưng rồi, Chúa Giêsu phục sinh đã khéo léo hội nhập với họ như một khách đi đường, một kẻ xa lạ. Có được một kẻ xa lạ mà trút bầu tâm sự, trút gánh nặng của nỗi lòng thì còn gì bằng, nhất là người xa lạ lại tử tế, chăm chú lắng nghe. Chúa Giêsu đã tạo ra một bầu khí dễ chịu, khiến hai ông dễ dàng trút ra câu chuyện buồn của hai ông.
Thế rồi Chúa Giêsu phục sinh cũng bắt đầu kể câu chuyện của Ngài. Có điều là câu chuyện của Ngài cũng là câu chuyện của họ nhưng với cái nhìn khác. Đối với họ thập giá là một điều khủng khiếp đánh tan mọi hy vọng; cái chết của Ngài, như là mộtj thất bại cay đắng, đánh dấu cái một sự chấm dứt niềm tin và hy vọng. Nhưng bây giờ, Ngài lại cho họ thấy thập giá không phải là cái thất bại, cái cuối cùng, cái chấm dứt niềm hy vọng. Ngài nói: “Nào Đức Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Ngài đã giúp họ hiểu câu chuyện mà chính Ngài đã trãi qua. Ngài đã giúp họ thay đổi được cái nhìn, thay đổi được cuộc đời.
Họ đã vui sướng thú nhận: "Dọc đường khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao?” (Lc 24,32).
Cách đây ít lâu, một người đàn ông bước vào một khách sạn ở thành phố Luân Đôn. Anh nói là anh không còn nhớ mình có tên gì nữa. Thì ra anh bị một bệnh, là bệnh quên. Anh ta cũng không nhớ được là mình từ ở đâu tới, và đã làm chuyện gì. Anh ta lúng túng, sợ hãi và sau đó là thất vọng.
May mắn cho anh, khi đem anh tới bệnh viện. Bác sĩ tâm lý này đã cho thấy rằng, anh này sở dĩ bị bệnh quên là vì anh có những điều muốn quên mà quên chẳng được, bức xúc quá nên anh phát sinh bệnh quên và quên luôn, quên hết mọi sự.
Sau mới khám phá ra rằng, anh ta vốn là một kẻ mồ côi. Khi lớn lên anh yêu và lấy được một cô gái nhà giàu và ở rễ tại nhà cô gái ấy. Cô vợ nhà giàu này lại không cần tiền của anh ta, mặc dù anh đã làm thợ và kiếm tiền về giúp gia đình. Người trong nhà lại khinh dễ anh ta, đến nỗi anh cảm thấy mình trở nên dư thừa, vô dụng... Anh hối hận vì mình lấy phải một cô vợ giàu. Giả như lấy một cô vợ nghèo thì nay mình đã không bị rơi vào tình cảnh này. Càng suy nghĩ anh càng thấy buồn tủi, càng oán hận chính mình. Anh muốn quên đi mọi sự. Tâm trí anh căng thẳng đến độ anh phát sinh bệnh, đó là bệnh quên.
Câu chuyện có lẽ hiếm khi xảy ra. Nhưng thật sự cuộc đời con người luôn có nhiều trường hợp đau thương xảy ra tương tự. Nhưng nếu như những người như vậy, có được cơ hội để kể câu chuyện của họ, thì chắc hẳn có được những giải toả tâm tư và sẽ có những tia sáng chiếu soi vào cuộc đời bế tắc u buồn của họ. Cái hy vọng phấn khởi sẽ đến với họ. Ít nhất là khi được lắng nghe, họ cũng đã cảm thấy mình được tôn trọng, cảm thấy mình có giá trị, được đón nhận. Từ đó họ mới có đủ can đảm để chấp nhận cuộc đời mình, gánh vác cuộc đời mình.
Nhưng tiếc thay, nhiều người lại không có cơ hội để kể câu chuyện của mình, vì không gặp được người nghe để mà kể. Cũng có khi kể xong câu chuyện mà tâm tư họ chưa được giải toả, vì họ chưa được lắng nghe...
Nghe, đón nhận một câu chuyện có nghĩa là làm sao cho người tâm sự không còn thấy ghét mình nữa, không còn u sầu, không còn thất vọng về mình nữa. Điều đó đặt biệt chỉ có được khi từ chính những cái đen tối, từ những khía cạnh tiêu cực, ta lại thấy được tình yêu thương và ân sủng của Thiên Chúa đang hoạt động trong đó.
Câu chuyện nền tảng giúp tìm ra ý nghĩa của các câu chuyện đau buồn khác chính là câu chuyện thập giá của Đức Kitô và sự Phục Sinh của Ngài. Vì chính ý nghĩa về đau khổ và vinh quang của thập giá sáng soi mọi cái đau khổ của câu chuyện con người. Ý nghĩa đó là: chính tội lỗi của con người đã gây nên đau khổ và sự chết, chính sự tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và sống yêu thương đưa con người chúng ta thoát khỏi đau khổ và sự chết, đưa đến phục sinh vinh quang.
Sự kiện hai môn đệ trên đường Emause cũng giúp chúng ta thấy rằng, hiệu quả của chia sẻ, sẽ tăng lên gấp bội, khi được nuôi dưỡng bởi Kinh Thánh và bởi Thánh Thể. Không gì tốt hơn để giúp nhận ra ý nghĩa của câu chuyện thập giá, câu chuyện của cuộc đời, cho bằng khi được dưỡng nuôi bằng Kinh Thánh và Thánh Thể.
Tin Mừng Lc 24: 13-35 Trên đương về quê nhà, hai môn đệ đã cảm nhận vị khách đang cùng đồng hành với mình có một điều gí đó làm họ được ấm lòng.
SUY NIỆM
Ngày 25-4-2017, tại buổi nói chuyện với sinh viên tại trường Harvard Kennedy, bang Massachusetts PS3-A178
Ngày 25-4-2017, tại buổi nói chuyện với sinh viên tại trường Harvard Kennedy, bang Massachusetts, ông Ban Ki-moon, nguyên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã cảnh báo: "Thế giới đang tiến gần hơn đến sự hủy diệt hạt nhân. Điều này thực sự đáng sợ", Quả thật, những ngày qua cả thế giới đang trải qua những giờ phút căng thẳng vì sợ rằng, ngòi nổ chiến tranh thế giới sẽ xảy ra. Tại sao, con nguòi ngày càng sống trông bất an và đầy lo âu như thế? Câu trả lời có thể tìm thấy được ngày trong lối sống tục hoá của thế giói hôm nay. Quả thật, chính chủ trương sống thực dụng, ích kỷ và loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống con người đã rước lấy thảm hoạ cho mình. Kể từ khi Liên Minh Châu Âu loại trừ ảnh hưởng Kitô giáo ra khỏi bản hiến pháp cũng là lúc cả Châu Âu rơi vào khủng hoảng về đời sống luân lý, và cuộc sống đối diện với nhiều bất an. Mảnh đất được coi là vùng đất đáng sống nay đang ở trong tình trạng chất chứa đầy lo âu. Vâng, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời thì tất nhiên bóng tối sẽ tràn vào.
Sự bất an của cuộc sống còn chi phối đến cả đời sống gia đình. Thật vậy, chưa bao giờ con số ly dị ngày càng nhiều như hôm nay, và việc ly dị cứ ngỡ là điều không thể xảy ra nơi những người được gọi là Công giáo, thế nhưng thật trớ trêu, con số các vợ chồng công giáo đưa nhau ra toà ly dị không là ít. Đó là hậu quả của một cuộc sống quá chạy theo những giá trị của cải vật chất và xa dần đức tin. Không còn đặt Thiên Chúa làm trọng tâm của của cuộc sống gia đình, hậu quả đương nhiên là sự đổ vỡ.
Trên đương về quê nhà, hai môn đệ đã cảm nhận vị khách đang cùng đồng hành với mình có một điều gí đó làm họ được ấm lòng, được nghe những lời của người khách đó sao mà lòng cảm thấy an bình, và hy vọng, bởi họ đang ở trong một tâm trạng buồn phiền và thất vọng, Giêsu, vị Thầy mà họ bước theo, đã bị giết, chẳng còn gì để mà hy vọng, chẳng còn chi để trông mong, tất cả mọi dự tính đều sụp đổ. Khi được nghe vị khách đồng hành đang mở lòng mở dạ, lòng các ông cảm thấy hân hoan, niềm hy vọng được nhen nhóm và đang đẩy luy dần sự thất vọng. Sự bình an xuất hiện khi gặp được vị khách đặc biệt nầy. Và các ông đã nhiệt tình: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Lời mời được đáp trả, Chúa đã ở lại với các ông và đièu kỳ diệu đã xả ra, các ông đã gặp được chính Thầy, Thầy đã sống lại. Một niềm vui khôn xiết chiếm lấy các ông, xua tan mọi nỗi sợ hãi, sự muộn phiền.
Đó cũng là thái độ người thời đại hôm nay cần phải có nếu muốn có an bình: Mời Chúa đến và ở lại. Gia đình muốn có êm ấm và hạnh phúc hãy mời Chúa đến và van xin Chúa ở lại. Bởi Chúa là nguồn an bình. Bóng tối sự chết đã bị Người xoa bỏ và đạp tan. Chúa đã đi ra từ bóng đêm của hận thù, của tham lam ích kỷ, Chúa đã sống lại từ cõi chết, và sự dữ không còn chi để có thể đụng chạm tới Người. Vì thế sự hiện diện của Người là sự hiện diện của bình an, cuả niềm vui và hạnh phúc.
Mời Chúa đến và van xin Người ở lại để nghe lời Người, ví đó là lời của sự sống, lời có sức mạnh loại trừ lòng tham tính ích kỷ, sự háo danh, là những nguyên nhân đưa đến chiến tranh, đổ vỡ và bất hạnh. Mời Chúa đến và van xin Người ở lại để học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, đó căn nguyên của hạnh phúc và loại khỏi mình mọi nỗi âu lo. Mời Chúa đến và van xin Người ở lại, chúng ta sẽ kiến tạo được sự bình an đích thật, bởi Người là Đường, là sự thật và là sự sống. Mời Chúa đến ngự trị chúng ta sẽ nhận sự sống đích thật bởi Người đã chiến thắng sự chết.
Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con vì trời đã xế chiều và ngày đã sắp tàn. Amen.
Chủ đề: Cuộc sống mới của kẻ tin vào Ðức Giêsu Phục Sinh.
Sợi chỉ đỏ:
Bài đọc I: Phêrô làm chứng về việc Đức Giêsu Phục Sinh. - Đáp ca: Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy PS3-A179
- Bài đọc I: Phêrô làm chứng về việc Đức Giêsu Phục Sinh. - Đáp ca: Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy con đường về cõi sống. - Bài đọc II: Tín hữu đã được giải thoát khỏi lối sống phù phiếm của cuộc đời tạm gửi này. - Bài Tin Mừng: Trên đường Emmau, Đức Giêsu đồng hành với tín hữu; tín hữu có thể cảm nghiệm được Ngài qua Lời Chúa và Thánh Thể.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Ngày xưa trên đường Emmau có hai môn đệ hoang mang đã tìm lại được đức tin và niềm vui cho cuộc sống. Phải chăng nhiều lúc chúng ta cũng hoang mang như thế. Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng hai môn đệ ấy dấn bước trên con đường Emmau để cũng tìm gặp những điều tốt lành như hai môn đệ ấy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta nhiều lần được nghe Lời Chúa nhưng tâm hồn vẫn nguội lạnh thờ ơ chứ không bừng cháy lên như hai môn đệ Emmau.
- Chúng ta nhiều lần tham dự lễ bẻ bánh nhưng cặp mắt đức tin vẫn khép kín không nhận ra Ðức Giêsu đang đồng hành với chúng ta.
- Chúng ta ít quan tâm tìm đến với Chúa qua việc đọc và cầu nguyện Thánh Kinh.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Cv 2,14.22-28
Ðoạn thư này của Thánh Phêrô gồm 2 ý chính:
- Ông nhắc lại cho dân Do Thái nhớ những nét chính về cuộc đời Ðức Giêsu: Ngài là người được Thiên Chúa sai đến với họ; Ngài đã làm “nhiều phép mầu, dấu lạ và những việc phi thường để chính minh sứ mạng của Ngài”; Ngài đã bị giết chết. Tất cả những điều này người Do Thái đều biết, nay chỉ cần nhắc lại là họ nhớ.
- Thiên Chúa đã làm cho Ðức Giêsu sống lại. Ðiều này làm ứng nghiệm Tv 15 và chứng minh Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia.
2. Ðáp ca: Tv 15
Tác giả hát lên niềm vui vì đã dám đặt cược tất cả vào Chúa, và đã thắng cuộc. Chúng ta có thể dùng những lời Thánh vịnh này để biểu lộ niềm vui mừng và tin tưởng của chúng ta vì có Ðức Giêsu Phục Sinh đang ở bên chúng ta.
3. Bài đọc II: 1 Pr 1,17-21
Ðây là một lời kêu gọi hãy tin cậy vào Thiên Chúa và Ðức Giêsu Phục Sinh:
- Việc Ðức Giêsu chết và sống lại ấy đã giải thoát tín hữu khỏi lối sống phù phiếm xưa nay.
- Vậy từ nay tín hữu hãy đặt trọn niềm tin cậy phó thác vào Thiên Chúa và Ðức Giêsu Phục Sinh.
4. Bài Tin Mừng: Lc 24,13-35
Câu chuyện này diễn ra qua nhiều giai đoạn:
- Tâm trạng hoang mang chán chường của hai môn đệ trên đường Emmau.
- Ðức Giêsu Phục Sinh đã ban lại cho họ đức tin và niềm vui, bằng hai cách: giúp cho họ hiểu Lời Chúa, cử hành lễ Bẻ bánh. Ðây chính là 2 phương tiện giúp mọi tín hữu được gặp Ðức Giêsu Phục Sinh.
- Sau cảm nghiệm được gặp Ðức Giêsu, hai ông trở về Giêrusalem và loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ khác.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Làm thế nào để có được cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau
Mong sao độc giả Tin Mừng hiểu được rằng câu chuyện này nhắm đến họ. Ðến lượt mình, họ tự hỏi làm sao thấy được Ðấng Phục Sinh. Câu trả lời là: mắt trần hoàn toàn vô dụng. Sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh khác hẳn sự hiện diện của Ðức Giêsu Nadarét. Ðây là một sự hiện diện mới mẻ, chỉ tỏ hiện với con mắt đức tin được nuôi bằng Kinh Thánh và việc chia sẻ bữa ăn với Ðức Giêsu.
Nếu muốn thấy và sống sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh, các tín hữu phải trang bị cho mình hai điều kiện ấy vì họ luôn sẵn có trong tay Thánh Kinh và Thánh Lễ. (M. Sevin, trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 135)
2. Ðể khỏi rơi vào sự đơn điệu của đời thường
Lễ Phục Sinh đã trôi qua 15 ngày. Chúng ta dễ buông mình rơi lại vào sự đơn điệu của đời thường, trở về với những lỗi phạm quen thuộc.
Nhưng đức tin không phải chỉ để dự lễ, mà là để sống cả đời. Ðức tin là một ơn gọi phải theo suốt đời.
Bởi thế, trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phêrô đưa ra rất nhiều chỉ dẫn để chúng ta luôn sống niềm tin vào Ðức Giêsu Phục Sinh:
- Ðừng tự ru ngủ bằng ý tưởng mình đã là con cái Thiên Chúa: “Thiên Chúa không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mà xét xử”. Phải biết “sợ” Cha mình, một nỗi sợ hiếu thảo và đầy tình yêu mến.
- Hãy luôn vui mừng vì mình là những con người tự do, tự do vì “được giải phóng khỏi lối sống phù phiếm do cha ông để lại”, để hướng tới sự thánh thiện. Nếu không hướng tới sự thánh thiện, chúng ta sẽ rơi lại nếp sống nô lệ cũ.
- Ý thức mình đã được cứu chuộc bằng giá máu của Ðức Giêsu. Ngài đã yêu thương ta đến thế, lẽ nào ta đành phụ bạc Ngài.
3. Một cách hiện diện mới
Cách viết của Luca chứa đựng một ngụ ý thần học sâu sắc: Khi hai môn đệ đang đi trên đường, mặc dù Ðức Giêsu đang ở bên cạnh họ nhưng họ không nhận ra “vì mắt họ còn bị ngăn cản” (câu 16). Ðến khi Ðức Giêsu bẻ bánh thì “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài” (câu 31). “Nhưng Ngài lại biến mất” (câu 31).
Ngụ ý thần học của cách viết này là: Ðức Giêsu Phục Sinh vẫn hiện diện ngay bên cạnh ta, nhưng theo một cách mới. Chúng ta không thể nhận ra cách hiện diện mới ấy vì cặp mắt thể xác của ta như “bị ngăn cản” bởi một bức màn. Chỉ khi nào Ngài muốn và cho những ai Ngài muốn thì Ngài mới cất bức màn ấy đi và khi đó mắt chúng ta mới “mở ra” và thấy được Ngài.
Vì thế, một mặt chúng ta hãy vững tin rằng Ðức Giêsu Phục Sinh lúc nào cũng ở sát bên cạnh chúng ta; mặt khác hãy sử dụng những phương tiện mà Ngài đã để lại hầu có thể nhận ra Ngài, đó là Lời Chúa và Thánh lễ.
4. Bức họa của Rembrandt
Trong các tác phẩm của danh họa Rembrandt, có một bức rất ấn tượng vẽ cảnh Ðức Giêsu đang ngồi cùng bàn với hai môn đệ Emmau. Ðiều gây ấn tượng là vẻ mặt sung sướng vô ngần của hai môn đệ lúc họ nhận ra Chúa. Bức họa nổi tiếng này được đặt trong một nhà bảo tàng, và có một chuyên viên phụ trách giải thích ý nghĩa của nó cho các khách tham quan.
Lần kia một cặp vợ chồng vừa có đứa con duy nhất bị chết vì tai nạn. Họ buồn quá không biết làm gì nên cùng nhau đến nhà bảo tàng ấy để giải khuây. Họ cũng được người hướng dẫn ấy dẫn đến bức họa này. Ban đầu, hai vợ chồng chẳng buồn để ý tới những lời giải thích. Nhưng dần dần họ bị cuốn hút vào. Và cuối cùng, khi người hướng dẫn dứt lời thì họ tâm sự với người hướng dẫn: “Chúng tôi đã nghe nói về bức họa này nhiều lần, nhưng chưa lần nào chúng tôi được nghe người nào trình bày một cách hấp dẫn như ông. Chúng tôi thực sự xúc động.”
Người hướng dẫn đáp: “Thực ra, không phải lần nào tôi cũng trình bày một cách xác tín như vậy đâu. Có lần tôi đã nói một cách rất hời hợt qua loa.” Rồi ông ta kể: “Ba năm trước, vợ tôi bị ung thư, sức khoẻ cạn kiệt dần, rồi nàng chết một cách hết sức đau đớn. Tôi không thể nào chấp nhận nổi các chết này, vì nàng là một người rất tốt, không đáng bị chết như thế. Tôi tưởng như cả thế giới sụp đổ. Tim tôi như vỡ tan. Nhưng vì bổn phận, tôi vẫn phải đến làm việc ở nhà bảo tàng này. Tôi giải thích ý nghĩa các bức họa một cách hết sức máy móc, vô hồn. Thế rồi một hôm, tôi chợt hiểu ra rằng bức họa này không chỉ liên can đến hai người môn đệ tuyệt vọng này, mà cả đến tôi nữa. Cũng như hai ông ấy, tôi đã tuyệt vọng và trở thành một người lữ hành cô đơn. Dù tôi là một người tín hữu, nhưng đối với tôi Ðức Giêsu chỉ là một nhân vật mờ mịt trong những trang sách Tin Mừng. Tuy nhiên hôm đó tôi cảm thấy Ngài đang hiện diện thực sự bên cạnh tôi, Ngài ở bên tôi như một người bạn hiểu rất rõ mọi nỗi khổ đau của loài người. Từ lúc đó “mắt tôi mở ra, lòng tôi cháy bừng lên” như hai môn đệ ấy. Tôi đã tìm lại được hy vọng và lẽ sống cho đời mình. Bởi vậy từ đó trở đi, mỗi khi tôi kể câu chuyện Emmau là tôi kể về chính cảm nghiệm của mình.”
Cặp vợ chồng không cầm được nước mắt: “Chúng tôi cũng thế. Chúng tôi đã ‘mở mắt ra và thấy lòng mình cháy bừng lên’. Hôm nay chúng tôi cũng tìm lại được hy vọng và lẽ sống cho đời mình, vì biết rằng Ðức Giêsu Phục Sinh đang thực sự ở bên cạnh chúng tôi”. (Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến,
Niềm tin của hai môn đệ đi làng Emmau được củng cố vững chắc, và niềm vui gặp Chúa tràn ngập tâm hồn hai ông. Trong niềm hân hoan mừng Chúa đã sống lại, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh tôn kính Lời Chúa ngang với Mình Máu Thánh Chúa/ và không ngừng kêu gọi con cái mình siêng năng học hỏi Lời Chúa./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu/ ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.
2. Kinh Thánh là quyển sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất/ và được nhiều người đọc nhất trên thế giới./ Chúng ta hiệp lời cầu xin/ cho ngày càng có nhiều người mộ mến tìm đọc/ và nhận ra được giá trị thực sự của quyển sách quý báu này.
3. Trong đời sống hằng ngày/ có biết bao người chán nản và tuyệt vọng vì gặp quá nhiều đau khổ./ Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa/ ban cho những anh chị em đang gặp thử thách gian nan/ một niềm tin sắt đá/ và một niềm cậy trông vững bền vào tình thương/ và sự quan phòng của Người.
4. Rộng rãi giúp đỡ những người khốn khổ bất hạnh/ là một trong những bổn phận căn bản của đời sống đức tin./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta/ biết thật tình chia sẻ cơm áo cho những ai thật sự đói nghèo.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa luôn đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống. Xin cho tất cả chúng con biết nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống thường ngày của chúng con, để chúng con vẫn luôn vui sống giữa muôn phiền toái của cuộc đời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Kinh tiền tụng: nên dùng Kinh tiền tụng Phục Sinh số 2, vì có nói tới cuộc sống mới.
- Trước kinh Lạy Cha: Làm con thì phải phó thác theo ý cha mình. Chúng ta hãy hợp ý với Ðức Giêsu dâng lên Chúa Cha tâm tình phó thác của chúng ta.
VII. GIẢI TÁN
Sau khi gặp được Ðức Giêsu Phục Sinh, hai môn đệ Emmau đã làm chứng cho những người khác tin Chúa. Anh chị em cũng thế, hãy đi làm chứng cho mọi người rằng Chúa đã sống lại.
Đâu là mục đích của thánh sử khi kể lại cách chi tiết cuộc hiện ra với hai môn đồ Emmau? Hay nói PS3-A190
1. Đâu là mục đích của thánh sử khi kể lại cách chi tiết cuộc hiện ra với hai môn đồ Emmau? Hay nói cách khác, đâu là ý nghĩa thần học của trình thuật này? 2. Có sự tương tự giữa trình thuật này với buổi hội họp Thánh Thể không? 3. Trình thuật này phải chăng chỉ là một sáng tác có tính cách thần học, một câu chuyện giả tưởng có ý nghĩa tượng trưng? Đâu là những lý chứng biện hộ tính cách lịch sử của nó?
CHÚ GIẢI
1. Đâu là mục đích thánh sử theo đuổi khi kể lại cách chi tiết cuộc hiện ra với hai môn đồ Emmau? Hình như không cùng mục đích với giai thoại kế tiếp (24, 36- 43) là cuộc hiện ra với nhóm mười một. Đoạn văn sau này nhấn mạnh nhiều đến thực tại thể lý của Đấng Phục sinh. Việc nó trưng ra nhiều dấu chỉ mà Chúa Kitô ban cho nhóm Mười một thật không có gì khó hiểu: các sứ đồ phải làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô sống lại cho thế giới, nên người đã cho họ thấy mình vẫn sống, với nhiều tang chứng rành rành (tekmêris) ” (Cv 1, 3). Thật vậy, niềm xác tín làm cơ sở cho sứ mệnh của họ phải dựa trên nhiều chứng cứ không thể chối cãi được (đó là nghĩa chính xác của chữ tekmêrion). Các diễn từ của Phêrô và Phaolô trong Cv cũng nói lại điều ấy (Cv 10, 40- 41 ; 13, 30- 31).
Giai thoại hai môn đồ Emmau có mục tiêu khác. Ở đây Chúa Kitô không hiện ra với các chứng nhân chính thức của cuộc Phục sinh, nhưng với các môn đồ thường. Vì thế Người không mấy quan tâm đến việc làm cho họ xác tín về tính cách thể lý của Sự sống lại cho bằng là đoan chắc với họ rằng: cuộc Tử nạn chẳng làm họ vắng bóng Người đâu. Người cho thấy Người vẫn hiện diện với họ, đồng thời để cho họ hiểu trưng từ nay trở đi sự hiện diện đó sẽ thường có tính cách vô hình. Vì thế Cao điểm của trình thuật chính là giây phút họ nhận ra Chúa Kitô và giây phút Người biến mất khỏi họ, hai giây phút này liên hệ mật thiết với nhau.
Việc nhận ra Chúa Kitô lại được nối kết với cử chỉ Đấng Phục sinh bẻ bánh. Chẳng lẽ ở đấy không có điểm nào liên quan tới mầu nhiệm Thánh Thể sao? Khó mà nghi ngờ được. Nhưng trước nhất, ta hãy so sánh Lc 24, 13- 35 với giai thoại viên hoạn quan người Êthiopi, công chức của nữ hoàng Canđakê trong Cv 8, 26- 40. Cả hai cảnh đều diễn tiến theo một lược đồ giống nhau. Như hai môn đồ Emmau đang trao đổi về cuộc Tử nạn thì Chúa Giêsu đến, cũng thế, khi người Êthiopia đang đọc Is 53 thì phó tế Philipphê bắt kịp xe ông. Như Chúa Giêsu đi từ Kinh thánh để giải thích cái chết và Phục sinh của Người, thì Philipphê cũng giải thích Is 53. Sau khi bẻ bánh ở Emmau thì Chúa Gtêsu biến mất, cũng thế, sau khi rửa tội cho người êthiopia, Philipphê liền được Thánh Thần đem đi mất dạng. Một bên, việc giải thích mầu nhiệm con người Chúa Giêsu được nối kết với nhiệm tích rửa tội, bên khác, nó lại được nối kết với việc bẻ bánh, mà theo Cv 2,42, là bí tích Thánh Thể.
Vậy phải chăng có thể kết luận rằng việc bẻ bánh ở Emmau nói cho đúng ra cũng là bí tích Thánh Thể? Một ít tác giả cổ xưa (thánh Augustin, Hiêrônimô, Bêđa) và vài nhà chú giải hiện đại (Dupont, Grundmann …) cũng đã nghĩ thế. Nhưng đa số các nhà chú giải vẫn phản đối lối giải thích có tính cách thần túy Thánh Thể đó (prat, Lebrẹton, Lagrange, Plummer, Klostermann, Valensin-huby, Schlatter, man son, Schmid, Creed …) và các lý do họ đưa ra cũng khá vững. Như chúng ta, Luca cũng biết là các môn đồ Emmau chẳng hiện diện trong bữa Tiệc ly; như thế làm sao ông có thể giả thiết là Chúa Giêsu đã làm cho họ một cử chỉ mà họ không tài nào giải thích đúng được? Ngay trong Công vụ sứ đồ, việc bẻ bánh không phải đâu đâu cũng là bí tích Thánh Thể cả: ít nhất phải loại trừ 27,35 là trường hợp có các người ngoại đạo hiện diện và cùng ăn uống (trong hoàn cảnh này, không thể nghĩ rằng Phaolô ăn một mình thôi, vì theo tập tục Do thái, người ta bẻ bánh để rồi san sẻ cho các bạn thực khách). Chống lại mấy lý chúng trên, người ta cho rằng các độc giả Hy lạp đầu tiên đọc Tin Mừng thứ ba, chỉ có thể nghĩ đến bí tích Thánh Thể khi nghe nói về việc bẻ bánh ở chương 24, vì họ không hề biết nghi thức bẻ bánh của người Do-thái trước một bữa ăn thông thường. Nhưng người ta quên rằng họ đã biết, cũng nhờ chính tin Mừng, một cuộc bẻ bánh khác do Chúa Giêsu thực hiện như cuộc bẻ bánh ở chương 24 (các cuộc bẻ bánh trong Cv là sự kiện của Giáo Hội), và là chính hình bóng của phép Thánh Thể: việc bẻ bánh trước khi hóa bánh ra nhiều (Lc 9, 16).
Nhận xét sau cùng này đưa chúng ta đến ý nghĩa thần học đích thực của giai thoại. Như việc hóa bánh ra nhiều, cử chỉ của Chúa Giêsu ở Emmau, dù không là phép Thánh Thể đúng nghĩa, cũng phải được xem như là biểu tượng của Thánh Thể vậy. Ngay cả đối với hai môn đồ, cử chỉ này mang một tính chất huyền nhiệm: bẻ bánh là việc dành cho gia chủ; thế mà Chúa Giêsu, khách của hai vị, lại thi hành phận vụ đó, và do đấy xử sự đối với họ như gia chủ mời khách ngồi bàn; Người cũng đã xử sự giống hệt đối với các đám đông khi hóa bánh ra nhiều. Một cử chỉ như thế giúp các môn đồ nhận ra Cứu Chúa của mình: “họ đã nhận ra Người lúc bẻ bánh”; nhưng chỉ về sau, nhờ thực hành của Giáo Hội, họ mới có thể thấu triệt ý nghĩa biểu tượng bl tích gắn liền với việc bẻ bánh này.
Dưới con mắt thánh sử, chính ý nghĩa Thánh Thể vừa nói mới là điều thiết yếu, là điều ông muốn ta chú ý lưu tâm. Trong trình thuật này, Chúa Giêsu gợi ý cho các môn đồ đang muốn giữ Người lại (hãy lưu lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều) hiểu rằng Người không những hiện diện chắc chắn với họ cho dù từ này về sau sự hiện diện ấy sẽ thường mang tính cách vô hình (ý nghĩa thần học thứ nhất của trình thuật) mà còn hiện diện với họ từ đây trong chính bí tích Thánh Thể (ý nghĩa thần học thứ hai).
2. Nhưng cơ cấu cũng như ngữ vựng của trình thuật còn làm ta suy diễn thêm điều khác. Trước khi đến với phép Thánh Thể, con người phải tin vào Chúa Kitô. Hai môn đồ đang hoài nghi mà Chúa Giêsu theo kịp trên đường làm ta nghĩ tới các tâm hồn thiện chí đang tìm kiếm trong khắc khoải lo âu; Chúa Giêsu không vắng mặt trong nỗi khổ đau và sự kiếm tìm của họ. Trước tiên “bị ngăn ngừa không nhận diện được” Chúa Giêsu (c. 16), mắt các tông đồ cuối cùng đã mở ra” (cho) và họ nhận biết Người. Có mối liên hệ hiển nhiên giữa việc nhận biết này với ơn đức tin mà Lc thương thích diễn tả một cách tương tự: theo câu 45, Chúa Giêsu “mở trí” cho hai môn đồ hiểu Kinh Thánh; trong Cv 16,14, Thiên Chúa “mở lòng” Lyđia, cho bà chú ý vào các điều Phaolô giảng dạy và sau đó bà đã được rửa tội. Như thế, trình thuật hấp dẫn của Lc 24, 13- 35 phác họa chính tất cả tiến trình của những tâm hồn đi tắt trạng thái hoài nghi đến đức tin và từ đức tin đến các bí tích.
Ta có thể đi xa hơn nữa và thêm rằng các trình thuật như trên đã được nghĩ ra và biên soạn trong bầu khí của các cộng đoàn phụng vụ đầu tiên. Không những chi tiết của phần cuối mà cả toàn bộ trình thuật đều gợi lên một lược đồ phụng vụ: trước hết, có các bài đọc nhắc lại việc chuẩn bị Kinh Thánh và những gì Chúa Giêsu dã làm là Thánh thư và Tin Mừng đoạn người ta ngồi vào bàn và Chúa đến, rồi tâm cả ăn lấy Người. Như trong một phần tiền lễ, các môn đồ Emmau thảo luận, và Chúa Giêsu giải thích Kinh Thánh cho họ nghe; họ như những dự tòng lãnh nhận huấn dụ đầu tiên và mở rộng lòng đón lấy đức tin. Rồi khi tâm hồn đã được bài giáo lý đầu Thánh lễ ấy chuẩn bị, họ tham dự việc bẻ bánh, Chúa trở nên hiện diện và mắt họ mở ra. Họ rước lễ thiêng hứng, vì đã gặp được Người.
3. Tuy nhiên, dù có bận tâm nêu lên ý nghĩa giáo thuyết và biểu tượng của trình thuật Luca, ta cũng không nên đi đến chỗ xem trình thuật này như một sáng tác có tính cách thần học. Xét về phương diện thực tại lịch sử, đừng hễ thấy một trình thuật có nhiều điểm trùng hợp với các chủ đề văn chương chung, thì lập tức kết luận rằng nó hoàn toàn có tính cách văn chương chứ không có nền tảng thực tại; đấy là một sai lầm mà nhiều đầu óc phiêu lưu đã phạm phải và gieo rắc trong Giáo Hội hiện nay. Thế mà, như ta sẽ thấy ngay bây giờ, có nhiều suy đoán nghiêm chỉnh biện hộ cho lịch sử tính tổng quát của trình thuật này. Trước tiên hãy xem một lý do tổng quát và tiên thiên, rồi sau đó những lý do riêng biệt.
Cách chung, tác giả Tin Mừng thứ ba đã thu lượm được nhiều tài liệu bên lề truyền thống chính thức của Giáo Hội, tức truyền thống của nhóm 12 trong các cuộc hành trình riêng, Luca đã gặp nhiều môn đồ không thuộc nhóm 12 tí nào: toàn bộ sách Công vụ sứ đồ xác nhận điều đó. Ông đã tò mò chất vấn cả các phụ nữ Galilê như Maria, Gioanna, Suzanna chẳng hạn. Qua các cuộc đàm thoại ấy, ông cảm thấy hình như có một Tin Mừng nào đó khác với Tin Mừng của nhóm 12 (Mt và Lc): Tin Mừng của các môn đồ. Như ta biết, có nhiều môn đồ đã theo Chúa Giêsu đến Giêrusalem: họ làm thành một nhóm khác trong cộng đoàn, ở bên cạnh nhóm 12, nhóm anh em của Chúa và nhóm các phụ nữ. Ta hiểu rằng truyền thống chung, tức truyền thống nhóm 12, nhóm sứ đồ người Galilê, đã chẳng mấy quan tâm đến các môn đồ hạng hai này … Nhưng Lc không chia sẻ mối ngại ngùng của truyền thống chung, và đã biết thu thập tin tức, tài liệu. Vì ông tỏ ra xác thực, có thẩm quyền trong những nơì liên hệ tới truyền thống chung (truyền thống của nhóm 12), điều mà chúng ta có thể kiểm chứng, nên cũng phải kết luận tương tự đối với truyền thống của các môn đồ. Hầu như chắc là Lc không hề bịa đặt; ông đã tìm tài liệu từ các môn đồ Chúa Giêsu; và tại sao tài liệu này, vì khác với truyền thống của nhóm 12 và chứa đựng nhiều sự kiện hơn, lại bị khả nghi?
Riêng về trình thuật đang nghiên cứ đây, người ta có thể đưa ra một số lý lẽ khiến ta không được xem nó như một câu chuyện giả tương có tính cách biểu trưng. Các lý lẽ này giá trị không đều nhau:
a. Dĩ nhiên phải công nhận rằng Kitô giáo nguyên thủy rất thích lối biểu tượng. Nhưng làm sao cắt nghĩa được não trạng của Lc nếu cho rằng ông, người muốn viết với tư cách sử gia, lại chẳng đủ khả năng phân biệt một sự kiện có thực với một huyền thoại? Thường ta dễ chiều theo lối suy rộng về các phương pháp mà sử gia cổ vẫn dùng. Nhưng càng tiếp xúc các sử gia có, dù là vị khá hoặc dở, ta càng thấy mình không được nghĩ rằng, ngoại trừ việc ghi lại các diễn từ, phương pháp của họ hoàn toàn khác biệt phương pháp của các sử gia gần với ta hơn.
b. Trong các trình thuật liên hệ đến cuộc Phục sinh, các thánh sử hẳn cảm thấy trách nhiệm họ còn nặng nề hơn chỗ khác. Ở đây chứng từ cá nhân có một tầm quan trọng thật đặc biệt. Giáo Hội hẳn không thể chấp nhận các truyền thống có nguồn gốc mập mờ.
c. Sự kiện giai thoại Emmau liên hệ đến hai môn đồ ngoài nhóm 12 là một lý chứng bênh vực lịch sử tính của nó. Vì huyền thoại hẳn đã chọn các diễn viên quan trọng hơn. Thấy Chúa Kitô Phục sinh và cùng ăn với Người, chắc chắn không phải là một đặc ân tầm thường.
d. Rất hiếm khi các nhân vật thấp kém và các địa điểm ít tiếng tăm được Tin Mừng Nhất lãm nêu danh rõ ràng. Lúc xảy ra luật trừ, ta có thể tự hỏi phải chăng thánh sử muốn qua đó ngụ ý rằng ông đã được một chứng nhân tận mắt cung cấp cho tài liệu mà ông là người duy nhất trình bày lại cho ta.
e. Ngôn ngữ sêmita của một trình thuật chắc chắn không bảo đảm lịch sử tính. Nhưng ít nhất nó khiến ta không được nghĩ rằng trình thuật này chỉ là một sáng tác thi văn của thánh sử. Lúc viết ở c.18: duy chỉ có ông ngụ tại Giêrusalem thì lại đã không hay biết các việc xảy ra ở đó mấy ngày nay!”. Cú pháp lòng thòng này chẳng phải là không có trong Hy ngữ. Tuy nhiên, nếu không bị vướng ngôn ngữ Aram, thì có lẽ thánh sử đã viết: “ông là người duy nhất ở Giêrusalem không hay biết … “.
f. Tiếng kêu ở câu 25: “Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin “, mà bề ngoài có vẻ cứng rắn nhưng kỳ thực đầy tình âu yếm, chắc tác giả đã không thể bịa đặt; vì ta nhận ra ở đó âm diệu không tài nào bắt chước của giọng nói Chúa Kitô.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Một làng kia cách Giêrusalem sáu mươi dặm, tên là Emnmau": địa điểm này hãy còn được tranh luận. Người ta nghĩ đó là Amwas, cách Giêrusalem độ 30km về hướng Tây. "60 dặm" là cách đọc thông thường được chấp nhận (tương ứng với 12 km); nhưng nhiều chứng từ đáng tin cậy (như bản Sinaiticus, 5 trong các thủ sao khá nhất của bản Phổ thông và 3 thủ sao của bản syri-palestin) lại đọc 160, là điều phù hợp với địa danh Amwas.
"Ông là cư dân duy nhất ở Giêrusalem": Cách dịch này không đúng mấy vì làm ta tưởng các môn đồ xem Chúa Giêsu như là người thường trú tại Giêrusalem. Nhưng động từ Hy lạp được dùng ở đây, paroikéô, chắc hẳn có nghĩa thông thường như trong bản 70: "cư ngụ với tư cách ngoại kiều, lưu trú như người ngoại quốc". Các môn đồ coi Chúa Giêsu như khách hành hương đến Giêrusalem dịp Lễ Vượt Qua.
"Một ngôn sứ quyền năng trong việc làm": Các môn đồ cho tới bày giờ vẫn còn xem Chúa Giêsu như một ngôn sứ thôi.
"Nhưng với ngần ấy cơ sự, nay đã là ngày thứ ba rồi kể từ khi các việc ấy diễn ra": Các môn đồ đã thất vọng vì Chúa Giêsu bị nhà cầm quyền Israel tuyên án tử hình thập giá. Họ cũng thất vọng vì đã ba ngày sau vụ đóng đinh rồi mà Thiên Chúa chẳng hề can thiệp gì để cứu giúp vị ngôn sứ cả.
"Khởi từ Môisen và rảo qua hết thảm các ngôn sứ": Môisen, nghĩa là Lề luật, với các Ngôn sứ tạo thành chất liệu chủ yếu của Thánh Kinh (16, 16. 29- 31; 24, 44; Cv 24, 14; 28, 2) người ta đọc sánh các vị trong phụng tự ở Hội đường (Cv 13, 15).
"Người cầm lấy bánh, chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho họ”: Không chắc là bấy giờ Chúa Giêsu tái diễn bữa Tiệc ly. Nhưng Luca dùng ở đây một ngữ vựng có tính cách Thánh Thể (x 22, 19 và 9, 16) để cho độc giả cảm thấy rằng việc "bẻ bánh" (Cv 2, 42.46; 20,7.11) làm họ gặp gỡ Đấng Phục Sinh, như trường hợp các môn đồ Emmau.
"Người đã hiện ra cho Simon": Biến cố này được đề cập tới trong bản liệt kê cổ xưa của 1 Cr 15, 5, cũng như đã được loan báo ở 22, 31- 32, nơi người ta cũng gặp tên Simon.
“Lúc bẻ bánh": tiếng Hy lạp cho phép ta hiểu: lúc bẻ bánh hoặc nhờ việc bẻ bánh.
KẾT LUẬN
Sự hiện diện của Đấng Phục sinh thâm nhập vào tâm thức tôn giáo, vào trong đời sống đức tin, nhờ Thánh Kinh được giải thích theo ý nghĩa sứ điệp Vượt Qua, nhờ bữa ăn Thánh Thể nung đốt tâm hồn và giúp tâm hồn nhận ra Chúa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Tâm trạng của các môn đồ Emmau mấy ngày sau cái chết của Chúa Giêsu không phải là đặc biệt lắm. Lúc ấy cũng như bấy giờ, có nhiều người đã đặt niềm hy vọng vào Chúa hay vào Giáo Hội và họ đã thất vọng vì diễn tiến các biến cố. Họ nghĩ Chúa Kitô phải ban cho họ niềm trông cậy và bình an, Giáo Hội phải đem đến cho họ những điều vững chắc và nhiều gương mẫu thật đáng phục; thế nhưng chẳng có gì được thực hiện. Chúa không được mọi người thành tâm thiện chí nhận ra, và Giáo Hội chẳng tai tiếng thì cũng làm nhiều kẻ nản lòng... Dĩ nhiên, sự việc không bao giờ xảy ra như đã hứa và niềm hy vọng của chúng ta đôi khi như bị dối lừa.
2) Các môn đồ Emmau và những ai đã trông cậy vào Chúa Giêsu mà thất vọng, là vì niềm hy vọng của họ quá trần tục, dựa trên cái nhìn nhân loại về các biến cố. Để thắng nỗi ô nhục, cớ vấp phạm gây ra do sự thất bại của Chúa Giêsu, niềm hy vọng đó phải biến thành niềm hy vọng đốt thần, đặt cơ sở trên cái nhìn của Thiên Chúa về lịch sử. Vì thế, trong cuộc đàm thoại với hai môn đồ Emmau, Chúa Giêsu đã sửa đổi nhãn giới của các vị bằng cách giúp họ hiểu rằng cái chết của Người có ý nghĩa xét về quan điểm của Thiên Chúa. Quan điềm này được diễn tả trong Thánh Kinh. “Bắt đầu từ Môisen và hết thảy các ngôn sứ, Người dẫn giải cho họ các điều đã viết về Người trong toàn bộ Thánh Kinh".
Chúng ta không rõ hai môn đồ nghe gì lúc ấy, chỉ biết vài ngày sau đó họ nói vắn tắt thế này: lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi Ngươi trò chuyện cùng ta trên đường đi đó sao? Có lẽ Chúa Giêsu đã nhắc lại cách vắn tắt và sống động toàn bộ lịch sử của tuyển dân, với bao biến cố thăng trầm, bao phen trung thành và bội phản của họ; nhắc lại những chuỗi can thiệp của Chúa mà, mỗi thế hệ, qua mọi mọi biến cố đau thương hay hạnh phúc, đã làm dấy lên nhiều ngôn sứ với nhiệm vụ khêu lại lòng trung thành nhạt phai, đã hứa ban Đấng cứu thế mà một ngày nào đó sẽ đến tai lập tất cả trong bình an và trật tự. Ta có thể nghĩ rằng người lữ khách vô danh này đã nhắc lại cho họ các thi ca về người Tôi tớ của Isaia và các Thánh vịnh, như Phêrô đã làm trong ngày lễ Ngũ tuần trước mặt người Do thái. Tắt một lời, khi gợi lại 12 thế kỷ lịch sử này, Người cho họ thấy “Đấng Messia phải chịu đau khổ đã rồi mới vào trong Vinh quang".
Cuối cuộc chiêm niệm này, sau khi đã dấn bước đi theo, các bậc tiền tổ trong đức tin, tức là các ngôn sứ, hiền nhân, thi sĩ của Thiên Chúa toàn năng, hai môn đồ mới bắt đầu khám phá ra rằng có lẽ tất cả không đến nỗi phải thất vọng, rằng mọi sự có lẽ nằm trong trật tự, cho dù trật tự ấy khác với trật tự mà tự nhiên họ đã mong chờ. Đức tin vào Giêsu Nadarét của họ. Niềm tin của họ có lẽ đã thoát ra khỏi một thứ lý luận trần tục nào đó, thì lý luận đã giam hãm họ và đẩy họ đến chỗ thất vọng ê chề; nhưng dầu sao niềm tin ấy xem ra không phi lý nữa, mà còn có thể phù hợp với cái nhìn của Thiên Chúa về thế gian, cái nhìn đã được loan báo dần dần bởi các hiền nhân và các ngôn sứ trong suốt 1200 năm lịch sử.
3) Nhờ lại Thiên Chúa được khám phá trong Thánh Kinh, các môn đồ Emmau đã có một não trạng khác; họ đã mở rộng quan điểm, hay đúng hơn đã loại bỏ quan điểm của mình dể đi vào quan điểm của Thiên Chúa. Chỉ sau đấy họ mới nhận ra Chúa Giêsu. Muốn tin vào Chúa Kitô tử nạn, chiến bại và Phục sinh, thì phải chấp nhận ra khỏi cái kiểu lý luận thế nhân, để đặt mình trong kế hoạch của Thiên Chúa, kế hoạch mà mọi phương hướng luôn luôn làm lý trí nhỏ bé của con người choáng ngợp, và để Ngài hướng dẫn. Bấy giờ mọi sự sẽ trở nên đơn giản, sẽ biện thành niềm vui. Như thánh Phêrô đã nói khi kết thúc một đoạn trong thư của ngài mà chúng ta vừa nghe lúc nãy: nhờ Chúa Kitô, anh em tin vào Thiên Chúa. Đấng đã cho Người sống lại từ cõi chết và đã ban vinh quang cho Người, ngõ hầu anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng của anh em nơi Thiên Chúa" (1Pr 1, 21).