Suy suy niệm Chúa Nhật PS 6-A Bài 151-167: Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác ------------------------------ Phúc Âm: Ga 14, 15-21: "Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác".
Có một bài hát rất nổi tiếng về tình yêu. Đó là bài “Anh còn nợ em”. Bài hát với cung nhạc thật PS 6-A151
Có một bài hát rất nổi tiếng về tình yêu. Đó là bài “Anh còn nợ em”. Bài hát với cung nhạc thật ray rứt như diễn tả tâm hồn ai đó đang vướng bận nợ nần với người mình thương.
“Anh còn nợ em, công viên ghế đá,” “Công viên ghế đá, lá đổ chiều êm. Và còn nợ em dòng xưa bến cũ Dòng xưa bến cũ, con sông êm đềm.”
Ghế đá công viên hay dòng xưa bến cũ chỉ là nơi chốn, thế mà lại là món nợ của tình yêu. Tâm trạng chàng trai dường như đang ray rứt vì đã để lỡ những cuộc hẹn và có khi những hình ảnh thân thương ấy đã vào dĩ vãng khiến chàng trai bần thần, nhớ nhung.
Nhưng theo Kinh Thánh, nợ tình yêu là lẽ thường tình. Ai cũng cần có nhu cầu yêu. Ai cũng có một trái tim để yêu. Nhưng tình yêu thì chẳng bao giờ cùng khiến con người luôn mắc nợ tình yêu vì yêu chưa trọn.
Vì yêu chưa trọn nên vẫn ray rứt về những lần mình chưa làm tròn bổn phận tình yêu. Con tim vẫn bồi hồi về những việc đáng lý phải làm mà mình vẫn chưa làm :
“Anh còn nợ em, chim về núi nhạn Trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm Anh còn nợ em nụ hôn vội vàng nụ hôn vội vàng nắng chói qua song.”
Xem ra anh chàng rất si tình. Không trả được nợ thì lòng hối hận, mặc cảm tội lỗi vì mình vẫn thiếu một cuộc tình. Anh đã xem tình yêu là bổn phận đến nỗi không chu toàn thì được xem là tội, là nợ của nhau.
“Anh còn nợ em Con tim bối rối Con tim bối rối Anh còn nợ em Và còn nợ em Cuộc tình đã lỡ.. Cuộc tình đã lỡ Anh còn nợ em…”
Cái nợ đã trở thành tội khi để lỡ một cuộc tình. Chàng trai sẽ ray rứt mãi vì đã để ai đó đang sầu muộn vì trông mong, thương nhớ người thương. Cái nợ đã trở thành tội khi cuộc tình đã lỡ khiến gặp nhau mà con tim bối rối thẹn thùng, vì phụ bạc lẫn nhau.
Xem ra cuộc tình nào cũng nợ nhau thôi. Càng yêu càng nợ nhau. Nhiều người lầm tưởng rằng kết hôn là hết nợ nhau, là đã làm xong nhiệm vụ rồi có quyền xao nhãng, bỏ rơi nhau. Nhưng đúng ra, kết hôn là ký kết nợ tình của nhau. Họ phải trả nợ nhau suốt đời. Họ phải dành tình yêu cho nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Họ phải nợ ân nghĩa vợ chồng cho đến khi tóc bạc răng nong.
Thiên Chúa luôn yêu thế gian. Vì yêu mà Ngài đã dám dốc cạn cuộc đời qua hiến tế trên thập giá. Ngài còn gánh nợ cho thế gian khi chịu chết để đền tội cho thế gian. Ngài đã hy sinh cả tính mạng mình để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu. Tình yêu của Ngài không ray rứt vì cuộc tình đã lỡ mà luôn canh cánh bên lòng sự quan tâm, lo lắng, xót thương con người. Ngài tự nguyện nợ tình yêu con người đến nỗi đã yêu là yêu cho đến cùng.
Hôm nay Ngài còn ký một giao ước nợ ân tình với con người qua Đấng bảo trợ mà Ngài sẽ ban để ở cùng chúng ta luôn mãi. Đấng bảo trở ấy sẽ ủi an, nâng đỡ, che chở con người trước mọi khó khăn thử thách. Đấng ấy sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi chúng ta gặp bước gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa rằng: “Ơn Ta đủ cho con và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”.
Nguyện xin Chúa Kytô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta được bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Ước gì các đôi vợ chồng cũng đừng để cuộc tình đã lỡ mới nói nợ nhau. Xin hãy vì tình yêu mà quan tâm nâng đỡ nhau và vì ân nghĩa mà trung thủy với nhau trọn đời. Đó là cách mà chúng ta không nợ nhau trong tâm trạng ray rứt, mà là niềm vui vì tự nguyện gánh nợ cho nhau khi dâng hiến cuộc đời mang lại hạnh phúc cho nhau. Amen.
Tình yêu bao giờ ai cũng muốn không chỉ bằng lời mà còn là hành động, không chỉ là thể xác PS 6-A152
Tình yêu bao giờ ai cũng muốn không chỉ bằng lời mà còn là hành động, không chỉ là thể xác mà còn cả tâm hồn, không chỉ ở hiện tại chóng qua mà còn cả thời gian lâu dài, không chỉ là tinh thần mà còn cả chiều sâu linh hồn. Một tình yêu ước muốn nhưng cũng là một tình yêu đòi hỏi nhiều hy sinh chết đi nơi chính mình để thuộc về người yêu. Tình yêu như thế rất khó nên cần nhờ ơn Chúa mỗi ngày để hoàn thiện yêu thương, như Chúa dạy yêu mến và giữ Lời.
Với những suy tư của Thánh Augustine, xin được chia sẻ.
Tình yêu ban đầu.
Dạo đầu của tình yêu luôn là những khắc khoải, những ước muốn ở gần, được sẻ chia, được ngỏ lời yêu thương và được đáp lại lòng yêu thương ấy. Tình yêu khi đã được đáp lại, thưở ban đầu qua đi lại rất mau, dường như mỗi người đều muốn đi tìm sự hoàn hảo hơn ngoài người mình yêu. Đó là một khao khát nhưng cũng là một cám dỗ chết người.
Như cơn khát không bao giờ ngơi, con người tự nhiên cũng khát như thế trong mọi chiều kích. Thánh Augustine có một kinh nghiệm: “Chúa vốn ở trong con mà con lại ở ngoài con, và tìm Chúa ở bên ngoài.” Chính vì đi tìm bên ngoài Chúa nên tình yêu con người thường lầm lỗi và đôi khi không lối thoát, gặt hái nhiều đau khổ. Đời sống hôn nhân không còn mặn nồng như ngày đầu yêu nhau.
Cảm nghiệm về tình yêu.
Trong cuộc đời mỗi người, cảm nghiệm về tình yêu xuất phát từ tình bạn cũng cần thiết, bởi những tình bạn ấy cũng cần trong cả giai đoạn hôn nhân để cùng nhau tìm thấy những tình cảm tự nhiên mà trong sáng.
Thánh Augustine tự thuật về tình bạn đó: “”Có nhiều điều khác làm con say mê tâm tình bạn hữu như: chuyện trò cười đùa với nhau và tỏ tình hào hiệp cho nhau; cùng nhau đọc những trang sách hay; đùa giỡn với nhau, tôn trọng lẫn nhau; thỉnh thoảng bất đồng ý kiến với nhau, nhưng không cay cú như thường xảy ra, và chính sự bất đồng ý kiến rất họa hiếm đó càng làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí thường xuyên với nhau; dạy bảo và học hỏi lẫn nhau, nhớ mong người vắng mặt, vui vẻ đón tiếp người mới trở về. Từ tâm hồn những kẻ yêu và được yêu lại, các dấu hiệu ấy và các dấu hiệu khác tương tự được biểu lộ qua miệng, lưỡi, con mắt và trăm ngàn cử chỉ rất nhã nhặn khác. Thật là như những ngọn lửa nung nấu tâm hồn làm cho nhiều người hoà hợp nên một” (Tự Thuật).
Tình yêu là sự chín dần.
Tình yêu và thời gian luôn cần song hành với nhau, bởi vì tình yêu cần chín dần trong việc “Yêu mến, hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn. Như những trái cây tẩm thuốc để chín ép, chỉ có thể cung cấp cho thị trường, nhìn bắt mắt dễ bán, trao đổi; nhưng lại độc hại cho người sử dụng. Tình yêu không thể như thế, nên tình yêu cần có thời gian, để hiểu nhau hơn, đón nhận và sửa lỗi cho nhau hơn, hy sinh hơn, tha thứ hơn và để yêu thương hơn.
Một tình yêu chín dần, cần đến tình yêu của Chúa, mới có thể tiến xa hơn trong tình yêu nhân loại. Thánh Augustine cầu nguyện với Chúa: ““Xin ban Chúa cho con, lạy Chúa, xin trả Chúa lại cho con. Này con yêu mến Chúa, nếu còn ít, thì chớ gì con yêu mến Chúa nhiều hơn. Con không thể đo lường cho biết tình yêu của con còn thiếu cái gì cho đầy đủ, để đời sống con chạy ôm lấy Chúa, cho đến khi con được ẩn nấp trong mầu nhiệm của nhan thánh Chúa.”
Ngọt ngào của tình yêu.
Vị ngọt của tình yêu khi đã đủ chín mùi, đó là một cảm nghiệm sâu xa trong tình yêu nhân loại: “Sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”. Con người vẫn yêu, yêu một cách say đắm mà không đi vào chỗ chết người, yêu một cách mặn nồng mà không vồn vã.
Một tình yêu êm đềm như thánh Augustine diễn tả: ““Con yêu cái gì khi con yêu Ngài? Không phải là vẻ đẹp của thân xác, không phải là nét duyên dáng theo thời gian, không phải là sự rực rỡ của ánh sáng đáng yêu cho đôi mắt này; không phải là những giai điệu ngọt ngào của các bài ca có cung giọng trầm bổng; không phải là mùi êm dịu của hương hoa, của thuốc thơm; không phải là manna và mật ong; không phải là những chi thể dễ chịu cho ôm ấp thân xác. Con không yêu tất cả những điều này khi con yêu Thiên Chúa của con. Tuy nhiên khi yêu Chúa, con cũng yêu một ánh sáng, một âm điệu, một mùi hương, một của ăn và một sự ôm ấp trong tình yêu của Chúa …” (Tự Thuật X,6,8)
Tình yêu và giữ Lời
Chính vì tình yêu với Chúa là cùng đích của mọi tình yêu nhân loại, tình yêu đó cần được nuôi dưỡng bằng chính Lời của Chúa. Lời dẫn dắt, Lời chữa lành, Lời khuyến khích, an ủi, Lời ban sức sống. Con người tự mình dẫu biết nhưng vẫn khó giữ Lời của Chúa, nên cần cầu nguyện với Chúa luôn để không ngã lòng.
Thánh Augustine nói: “Hãy yêu mến đi rồi làm gì thì làm”. Chính trong lòng yêu mến này mà Thánh Augustine luôn cầu nguyện: “Chúa đã soi sáng, đã chiếu rọi, đã xua đuổi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa mùi hương của Chúa ra và con đã được hít lấy và đâm ra say mê Chúa. Con đã được nếm Chúa và đâm ra đói khát Chúa; Chúa đã đụng tới con và con ước ao sự bình an của Chúa.” (Tự Thuật)
Xin cho con luôn khao khát và yêu mến Chúa, khi con yêu mến Chúa con sẽ được kéo theo làm tất cả vì lòng yêu mên Chúa. Con sẽ có những tình bạn tốt đẹp, đời sống đôi bạn của nhiều người sẽ thấy niềm vui, hạnh phúc. Con yêu mến Chúa và yêu mến tất cả những gì Chúa ban.
Muốn xác minh vàng thật hay giả, người ta thường lấy lửa thử vàng. Người ta dùng mỏ đốt của PS 6-A153
Muốn xác minh vàng thật hay giả, người ta thường lấy lửa thử vàng. Người ta dùng mỏ đốt của máy khò để phun tia lửa có nhiệt độ cao hơn 1.000 độ vào thỏi vàng. Nếu vàng nóng chảy thành chất lỏng và khi để nguội nó trở lại thành vàng như cũ, thì đó là vàng thật; còn nếu trong quá trình đốt, vàng nóng chảy và bay hơi đi mất thì đó là vàng giả.
Phép thử tình yêu
Những chàng trai, cô gái khôn ngoan không chọn bạn đời cách hấp tấp vội vàng vì sợ chọn lầm người. Các bạn biết cân nhắc xem người mà mình đang nhắm đến, có thật sự yêu thương mình bằng tình yêu chân thật hay chỉ là thứ tình cảm giả dối nhằm trục lợi mà thôi.
Bởi vì một cô gái dễ dàng chấp thuận kết hôn với một chàng trai chỉ vì anh này giàu có; hoặc chàng trai thích lập gia đình với cô gái chỉ vì cha mẹ cô này có địa vị cao trong xã hội và có thể giúp chàng tiến thân… vì thế, trước khi chọn bạn trăm năm, người khôn ngoan phải dùng một phép thử, tức là tìm cách nào đó để xác định xem người mà mình nhắm đến, có thật sự yêu thương mình bằng tình yêu chân thật hay chỉ vì tiền bạc, địa vị, công danh…
Thế là người khôn ngoan biết căn cứ vào một số yếu tố nào đó để biết ai là kẻ yêu thương mình thực sự.
Yếu tố để nhận ra ai thực sự yêu mến Thiên Chúa
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết Ngài căn cứ vào một yếu tố duy nhất để xác định ai là kẻ yêu mến Ngài thực sự, đó là người thực hành giới răn của Ngài.
Chúa nói: “Ai vâng giữ các điều răn của Thầy, thì người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14, 21).
Như thế, ai không tuân giữ giới răn Chúa thì bị xem là người chẳng có lòng yêu mến Chúa.
Ngoài ra, những ai tự cho là mình yêu mến Thiên Chúa mà không thể hiện tình yêu ấy bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa, thì đó là thứ tình yêu vô bổ, vì người đó chẳng được vào Nước Trời, như lời Chúa Giê-su nói: “Không phải kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy… mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21).
Phần thưởng dành cho người yêu mến Thiên Chúa
Những ai có lòng mến Chúa được thể hiện qua việc tuân giữ các giới răn Chúa, chủ yếu là luật yêu thương, sẽ được lãnh nhận những hồng phúc vô giá.
Hồng phúc thứ nhất là được Thiên Chúa yêu thương: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14, 21).
Hồng phúc thứ hai là tâm hồn họ trở nên cung điện của ba Ngôi Thiên Chúa, được ba Ngôi Thiên Chúa luôn “ở lại” với mình, như lời Chúa dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” Ga 14, 23).
Và hồng phúc thứ ba là được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Trong ngày phán xét, Chúa Giê-su sẽ long trọng ban thưởng hạnh phúc thiên đàng cho người người đó, như lời Ngài phán:
“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm… (Mt 25, 34-35).
Lạy Chúa Giê-su,
Thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng cách giữ luật yêu thương là điều kiện cần thiết và không thể thiếu để chúng con được Chúa yêu thương, được Chúa ở cùng trong suốt đời này và được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc.
Xin cho chúng con biết thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng cách giữ cho tròn luật yêu thương Chúa dạy để đáng hưởng những phần thưởng vô cùng lớn lao không gì sánh được mà Chúa đã hứa ban.
Trong tình yêu đôi lứa, người ta luôn trân trọng cụm từ thủy chung, vì để chúng vụt mất, một là PS 6-A154
Trong tình yêu đôi lứa, người ta luôn trân trọng cụm từ thủy chung, vì để chúng vụt mất, một là cuộc tình sẽ gẫy đổ, hai là mối tình của họ, có như không. Trong quan hệ bạn bè, người ta chỉ có thể gắn kết chặt chẽ với nhau bằng những kinh nghiệm thực tế, được chia sẻ, giúp đỡ nhau tận tình. Cuộc sống phức tạp đâu phải chỉ vì lợi nhuận kinh tế, ngoài tình yêu, tình bạn, còn cả một chuỗi dài những ngờ vực, hiểu chưa đúng về nhau. Kẻ có tiền, người có quyền, các đấng bậc đức độ, có uy tín, các cha mẹ bề trên, luôn chi phối, dù mục tiêu là hạnh phúc, gia đình thuận hòa, ai cũng mong đủ điều kiện chu toàn việc bổn phận được giao. Vợ chồng tin tưởng nhau, anh chị em bạn bè hiểu nhau, nghĩ tốt cho nhau, cha mẹ con cháu biết duy trì tình yêu thương, thầy trò tận tâm chia sẻ giúp nhau, hẳn ai cũng mơ ước cuộc sống của mình có được điều tốt đẹp đó.
Chúa Giêsu hôm nay, Ngài không lấy quyền để áp đặt, sai khiến các học trò, Ngài không lấy đời sống đạo đức nhằm dụ dỗ các ông liều mình xả thân để được gọi là anh hùng cứu nước cứu dân tộc. Danh ngôn cuộc sống chỉ rằng: cho tiền cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn. Cho cá thì phải cho cả cần câu, nếu thực hành được như thế, người nhận, người cho đều thấy sự gần gũi chân thật hết tình, hết mình vì yêu thương. Chúa Giêsu không có ý biến các học trò trở nên những thương gia, cũng chẳng chủ trương nhắn bảo: có thực mới vực được đạo, Ngài cần một điều nơi các ông: “nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Yêu mến là nỗ lực nhằm giúp người ta không cảm thấy mình bị côi cút, tâm hồn phấn chấn hơn, nhờ tự tin mà người ta đủ ý thức mình không phải lẻ bóng đơn côi.
Trong tình nghĩa thầy trò, Chúa Giêsu quả quyết Đấng Phù Trợ là Thần Chân Lý sẽ hiện diện, giúp các ông chu toàn sứ mạng được giao phó, chỉ cần các ông vững lòng tin yêu, sống lời mời gọi của Thầy Giêsu. Tục ngữ có câu: dốt đến đâu, học lâu cũng biết, Chúa Giêsu thì hướng các học trò đến niềm tin và sức mạnh của tình yêu, hoàn toàn không phải do kiên nhẫn hay sức riêng. Các môn đệ giới hạn đủ mọi mặt, tương quan giữa tình thầy trò, tình anh em còn nhiều thiếu sót, giáo huấn của Đức Giêsu các ông chưa hiểu, chưa thể nắm bắt ! Những người học trò ấy, hôm nay lại nghe nói tới sự hiện diện của Thần Chân Lý, khi đặt để các học trò trong tương quan yêu mến, Chúa Giêsu nói: “nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ giới răn của Thầy”. Nếu không yêu, không sống giới luật yêu thương, họ cũng chỉ nghe như vịt nghe sấm mà thôi.
Kinh nghiệm người xưa nói rằng: mất tiền, mất của, không mất, nhưng mất niềm tin, là mất tất cả. Chính sự kết hiệp nên Một trong tình yêu giữa Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, làm nên điều kỳ diệu “chảy tràn” tới các học trò lòng yêu mến, biết tuân giữ giáo huấn của Thầy Giêsu. Ngày hôm nay, người ta đang bằng nhiều phương thế để lập kỷ lục, để được gọi là đẳng cấp, họ cũng nhận ra, vinh quang và danh dự chỉ đến được với người không mất niềm tin, biết tôn trọng kỷ luật bản thân và qui tắc sống. Tất cả mọi danh hiệu, tất cả những gì tồn tại nơi cuộc sống, sẽ không phải là chức tước, bổng lộc, mà chính là niềm tin, dấu chỉ của bình an hạnh phúc.
Người môn đệ của Đức Giêsu hôm nay khi nói tới sự hiện của tình yêu, chúng ta vẫn hiểu đó là tác động của Thánh Thần, là ơn ban của các Bí tích, là mẫu mực của tình cha nghĩa mẹ… Ở trong Đức Giêsu, Ngài sẽ nói “hãy vững lòng tin yêu”, để rồi mọi người hiểu rằng: “Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con”. Nhận biết Đức Giêsu vừa thiêng liêng vừa hữu hình, mỗi người phải trở nên môn đệ, trở nên người biết sống mến yêu, biết thực thi ơn gọi làm công dân Nước Trời. Để được yêu và chia sẻ yêu thương, người ta phải hiểu yêu là gì, Đấng ban phát cho ta tình yêu là ai, và cần có điều kiện nào để tình yêu Giêsu sẽ hiện diện mãi trong cuộc đời ta.
Nhiều người hôm nay cũng đang thắc mắc, tại sao yêu người anh chị em của mình khó quá, trong khi ghét bỏ và nói hành nói xấu, làm hại thanh danh của họ thì dễ hơn ! Thực ra khi ta tự mãn về khả năng hiểu biết của mình, về điều hay điều tốt của mình, lúc đó ta khó lòng nhận ra điểm tốt, nghĩa cử đáng yêu nơi anh chị em mình. Nghịch lý ấy, cha ông chúng ta cùng từng nói: khi yêu củ ấu cũng tròn, khi không yêu thì củ bồ hòn cũng méo. Làm sao ta đủ khiêm tốn để nhận ra sự giới hạn của mình ? ta cần trang bị cho mình những kiến thức gì để đủ nhận ra mọi người đang yêu thương ta ? Chúa Giêsu Ngài vẫn đang nói với chúng ta: “hãy vững lòng tin yêu”, tình yêu sẽ biến đổi được tâm tính của con người, chính tình yêu sẽ thay đổi cách suy nghĩ, và làm cho ta đủ khiêm tốn để đón nhận Thần Chân Lý, để sống giới luật yêu thương. Amen.
Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, phía sau thành công của một người thường có biết bao sự PS 6-A155
Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, phía sau thành công của một người thường có biết bao sự trợ giúp của những người khác. Các nhà lãnh đạo chính trị hay tôn giáo cũng cần phải có một ban cố vấn trợ giúp các công việc phía sau. Nhiều nhà khoa học hoặc những người thành công, thành danh thì phía sau những thành công ấy là sự trợ giúp của một người bạn, hoặc của chính người vợ, vì mỗi người không thể tự mình làm được tất cả mọi sự.
Chúa Giêsu cũng thấy rằng, tự sức các tông đồ khi được trao một sứ mạng to lớn là làm thay đổi thế giới thì các ông sẽ không thể thực hiện được. Vì thế, trước khi chia tay với các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa sẽ xin với Chúa Cha để Ngài ban cho các tông đồ cũng là cho Giáo Hội một Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần. Đấng Bảo Trợ sẽ dẫn dắt Giáo Hội đi trên con đường của Chúa Giêsu và giúp cho Giáo Hội ngày càng lớn mạnh, vươn mình, tỏa bóng trên thế giới. Từ mười hai con người nhỏ bé tầm thường, nhờ sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên những con người thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới này.
1/ Thánh Thần – Đấng Bảo Trợ, giúp các tông đồ và các tín hữu tuân giữ các giới răn của Chúa, tức là giúp họ trung thành với Tin Mừng: Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin với Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, để Ngài ở cùng anh em luôn mãi. Các tông đồ y thức mình được trao cho kho tàng Lời Chúa, vì thế, các ông đã gìn giữ nguyên vẹn, đã sống, đã rao giảng và trao truyền lại cho các thế hệ tín hữu. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ một sứ mạng hết sức lớn lao và cấp bách: Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Các tông đồ sẽ không thể chu toàn được sứ mạng này bằng sức riêng của mình, nhưng bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chính các tông đồ ý thức được điều này, nên các ông đã vượt qua sự sợ hãi, vượt qua sự co cụm tại Giêrusalem để tỏa đi muôn nơi.
Đấng Bảo Trợ biến đổi và giúp các tông đồ dần dần hiểu, tin những giới răn và lời Chúa Giêsu dạy. Trước đây đi theo Chúa Giêsu, nghe những lời giảng dạy của Chúa, các tông đồ dường như chỉ để ngoài tai hoặc nghe một cách hờ hững, nên các ông chưa thể hiểu và cũng chưa tin đủ. Vì thế đã nhiều lần Chúa Giêsu khiển trách các ông về thái độ này. Trước đây theo Chúa Giêsu, các ông tìm kiếm danh vọng, địa vị xã hội, nay nhờ sức thúc đẩy của Đấng Bảo Trợ, các ông không còn quan tâm đến bản thân, gia đình hoặc lợi ích cá nhân nữa, nhưng dành trọn cuộc đời cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trước đây, các ông ngại khó, ngại khổ, sống trong sợ hãi, nay các ông hân hoan đón nhận đau khổ, đòn vọt, tù đày vì Chúa Giêsu.
2/ Sách Công Vụ Tông Đồ đã cho thấy cách rõ ràng sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ cho Giáo Hội. Đoạn sách hôm nay kể về ông Phêrô, Philipphê và Gioan. Philipphê đến thành Samaria, một thành phố vốn bị coi như dân lai tạp về tôn giáo và chủng tộc. Samaria cũng được biết đến như một vùng thờ nhiều thần linh của dân ngoại, vậy mà khi Philipphê vừa tới đó rao giảng, Thánh Thần đã quy tụ họ, làm cho đám đông nên một lòng chú ý nghe những lời giảng của Philipphê. Bóng tối của sự chết, đau khổ, bệnh tật cùng các thần ô uế bị xua trừ, dân Samaria được biến đổi, họ vui mừng hân hoan đón nhận giáo lý mới từ các tông đồ. Nghe tin về sự biến đổi và đón nhận Tin Mừng của dân thành Samaria, Phêrô, với tính cách là thủ lãnh Giáo Hội, và Gioan đã đến với họ. Hai ông đã cầu nguyện, đặt tay trên họ để cho họ được lãnh nhận Thánh Thần. Điều đó cho thấy, Thánh Thần đã cư ngụ đầy tràn trên các tông đồ, và cho các ông quyền tiếp tục nhân danh Chúa Giêsu để trao ban Thánh Thần cho các tín hữu.
3/ Tất cả những lời nói, việc làm và đời sống của các tông đồ đã cho thấy Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu đã hứa, nay đang hoạt động mạnh mẽ nơi các ông. Qua các tông đồ, Thánh Thần cũng được ban dồi dào trên các tín hữu và còn ghi một dấu ấn không phai mờ nơi tâm hồn các tín hữu, biến họ trở thành những người vĩnh viễn thuộc về Chúa Kitô.
Thánh Phêrô đã tin vào Chúa Giêsu, đã đón nhận được sức mạnh của Thánh Thần và đã dạy chúng ta: Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Đấng ngự trị trong lòng anh em. Một khi có Chúa Kitô làm chủ cuộc đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi bất cứ điều gì, cũng không tìm kiếm điều gì khác ngoài Chúa Kitô. Thánh Phêrô đã có kinh nghiệm này và đã dạy chúng ta: Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm tin của anh em. Hãy cư xử hiền hòa và kính trọng với những người phỉ báng, vu khống, ghét bỏ mình; hãy giữ một lương tâm ngay thẳng trong mọi nơi mọi lúc. Đó cũng là những điều Thánh Phêrô nhân danh Chúa Kitô và dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần đã dạy chúng ta phải thực hiện.
a/ Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm tin của anh em. Những người tin vào Chúa Giêsu luôn bị người đời ghét bỏ, nghi kỵ, loại trừ, có những người tìm cách xuyên tạc đức tin và giáo lý của chúng ta. Hãy trả lời cho họ không chỉ bằng lời, mà còn bằng chính đời sống và việc làm của chúng ta. Người ta sẽ không thể tin chúng ta là những người Công giáo mà lại có một cuộc sống bê bối, gian tham lừa lọc; người ta không thể tin Hôn nhân Công Giáo là một vợ một chồng, thủy chung cho đến chết, khi những người Công giáo dễ dàng lừa chồng, dối vợ, để cho gia đình mình hoặc con cái bị rạn nứt, đổ vỡ, chia lìa. Chúng ta chỉ có thể trả lời cho những người chất vấn về niềm tin của chúng ta bằng lối sống yêu thương, bác ái, phục vụ.
b/ Cư xử hiền hòa và kính trọng với những người phỉ báng, vu khống. Theo phản ứng tự nhiên, con người dễ dàng nổi giận và phản ứng mạnh mẽ khi bị phỉ báng, vu khống ; nhiều người đã chọn giải pháp ăn miếng trả miếng, trả oán trả thù. Nhưng là những người thuộc về Đức Kitô và thuộc về Thánh Thần, chúng ta phải cư xử hiền hòa, nhân từ, độ lượng với mọi người, kể cả những người vu khống, làm tổn thương mình. Chúng ta được mời gọi sống quảng đại tha thứ và đón nhận người khác, kể cả những người không thích hoặc thù oán với chúng ta. Đồng thời, mỗi người còn phải biết nhìn lại mình và biến mình trở nên dễ thương dễ mến trong mắt người khác, kể cả trong mắt những kẻ thù ghét mình.
c/ Giữ lương tâm ngay thẳng trong mọi nơi mọi lúc. Trong hoàn cảnh xa hội suy thoái về đạo đức, tiếng lương tâm nơi nhiều người đã trở nên yếu ớt hoặc lệch lạc. Chúng ta được mời gọi phải sống và hành động theo tiếng nói của lương tâm và không ngừng huấn luyện lương tâm của mình cho đúng chuẩn. Hãy dùng việc suy niệm Lời Chúa để huấn luyện lương tâm của mình, để cho Tin Mừng cắt tỉa, uốn nắn những chỗ sai lầm, lệch lạc trong lương tâm và giúp cho lương tâm có một độ nhạy bén cần thiết. Chỉ khi thường xuyên được huấn luyện như thế, lương tâm mỗi người mới có đủ khả năng phản ứng theo sự thật và chân lý, mới có khả năng nhắc nhở và chỉ dẫn cho những hành động của con người.
4/ Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần đã được ban cho mỗi người, chỉ có điều là chúng ta đã để cho Ngài hiện diện, hoạt động và tác động trong chúng ta ra sao mà thôi. Ngài không thay thế chúng ta, cũng không làm mất bản chất con người chúng ta, nhưng Ngài sẽ soi sáng, thúc đẩy và ban sức mạnh để chúng ta dám chọn sống theo giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống và làm chứng cho sự thật của Tin Mừng. Đấng Bảo Trợ sẽ bảo vệ, hỗ trợ chúng ta khi chúng ta trung thành với ơn gọi làm Kitô hữu để mỗi ngày chúng ta được thanh luyện nên giống Chúa Kitô và là người mang Chúa Kitô trong cuộc sống.
Đức Maria, Đấng đã hoàn toàn xin vâng để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trên cuộc đời của Mẹ, xin Mẹ giúp chúng ta cũng biết noi gương Mẹ để cho Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi chúng ta. Amen.
Thú thật nhiều khi lướt qua câu nói này của Đức Giê-su, tôi chỉ coi đó là một lời ví von văn vẻ PS 6-A156
Thú thật nhiều khi lướt qua câu nói này của Đức Giê-su, tôi chỉ coi đó là một lời ví von văn vẻ của một ngưởi, vì biết rằng mình sắp phải ra đi vĩnh viễn nên nói thế để an ủi các môn đệ buồn phiền; thế nhưng toàn bộ mạch văn lại cho thấy Người không coi nhẹ vấn đề như thế, và ngôn từ ‘mồ côi’ Người sử dụng là có chủ đích và mang một nội dung hết sức sâu sắc. Câu nói ‘Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến cùng anh em!’ xác định trước hết tương quan bền chặt giữa Người với các môn đệ; nó hé mở cho thấy: sự phục sinh của Người sẽ chiến thắng cả sự chia cắt của chết chóc, rồi nữa nó còn cho thấy vai trò đích thực của nhân vật ‘Đấng Bảo Trợ’ sẽ được phái đến.
Thường thì một người được gọi là ‘mồ côi’ khi mất cha hay mất mẹ đẻ, mất những người thân máu mủ mà họ gắn bó lệ thuộc về mọi mặt trong cuộc sống tự nhiên của cuộc đời. Từ ngữ ‘mồ côi’ tự nó diễn tả một mất mát cực kỳ to lớn không gì có thể bù đắp được, cho dầu sau đó có thể sẽ xuất hiện những cha mẹ nuôi hay người đỡ đầu với những tương quan mật thiết và chặt chẽ không hề thua kém.
Đức Giê-su đã nhiều lần đề cập tới mối tương quan thân mật và bền chặt giữa Người với các môn đệ tin vào Người! Người đã từng sử dụng nhiều hình ảnh sống động và cụ thể để diễn tả mối tương quan này như: ‘Mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên’, ‘cành nho phải dính liền với thân cây nho’…; và trên hết Người sử dụng không úp mở hình ảnh của người cha, người mẹ đối với đứa con thơ. Như thế niềm tin Ki-tô hữu không chỉ dừng lại ở việc chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa quyền năng, thậm chí ở việc sống và đem ra thực hành các học thuyết cao đẹp mà Đức Giê-su rao giảng. Niềm tin Ki-tô hữu phải ‘hiện sinh’ (existential faith) hơn nhiều vì nó tác động tới sự hiện hữu sâu xa nhất của con người! Nơi người tín hữu: niềm tin đặt nơi Thiên Chúa phải chiếm vị trí mà cha mẹ đẻ chiếm trong cuộc sống đời thường. Vai trò của Người phải thiết yếu tới độ, nếu thiếu nó, ta sẽ lâm vào tình cảnh của một đứa trẻ mồ côi đáng thương không gì khỏa lấp được. Thực vậy, loài người nói chung và từng con người nói riêng đã thực sự lâm vào tình cảnh côi cút do tội lỗi họ phạm. Họ bơ vơ vất vưởng còn hơn cả ‘bầy chiên không người chăn dắt’, Đức Giê-su đã diễn tả như vậy (Mt 9:36).
Khi đến trần gian, Đức Giê-su đã rao truyền một sứ điệp thực sự độc đáo và căn bản: Thiên Chúa là Cha, một Người Cha đầy từ tâm và hay thương xót! Và không chỉ rao truyền bằng lời giảng dạy, bằng chính cuộc sống và nhất là cái chết của mình, Người đã cụ thể cho thấy Chúa Cha đó là ai và là gì: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Đứng trước tình cảnh côi cút vất vưởng bơ vơ của con người, Đức Giê-su đã trở thành người bảo trợ – ‘Paraclet’. Các nhà chú giải Kinh Thánh cho biết, từ Hy Lạp ‘Parakletos’là một đặc ngữ của Gio-an, và mang nội dung rất đa dạng; nó có thể được hiểu là người hỗ trợ, kẻ bảo vệ chở che, vị cố vấn trạng sư, đấng bầu chữa trung gian…; tóm lại, Đức Giê-su dùng từ này để diễn đạt vai trò của Người đối với từng người chúng ta trong thân phận côi cút do tội lỗi gây nên: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến cùng anh em”. Như thế Đức Ki-tô chính là đệ nhất Parakletos, và Người thực hiện chức năng này cách hoàn hảo qua cái chết Thập Giá của Người, một thể hiện cho phép mỗi chúng ta có khả năng đụng chạm tới, cảm nghiệm được cách sinh động nhất thứ tình yêu bao bọc có khả năng vĩnh viễn xua tan mọi mạc cảm bơ vơ côi cút đã tồn tại từ bao đời. Và một khi phải rời bỏ cõi thế để trở về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su hứa với các môn đệ rằng, Người sẽ mãi mãi tiếp tục hiện diện qua việc “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Như vậy Đức Giê-su chính là ‘Đấng Bảo Trợ’ đệ nhất; Thần Khí được Người phái đến sau sẽ tiếp tục công việc và vai trò bảo trợ mà Người đã khởi đầu; “Đó là Thần Khí sự thật… vì anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”.
Nếu sự thực là như thế, thì dầu có sống giữa một thế giới đầy hận thù chia rẽ, Ki-tô hữu hẳn phải cảm thấy mình được ưu đãi hơn hết thảy mọi người! Kể từ ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, họ biết mình được bảo trợ cách đặc biệt, không phải chỉ trong việc chống chọi với các thế lực thù nghịch bên ngoài, mà ngay cả bên trong nữa trước tình trạng cô đơn lạnh lẽo của tội lỗi. Họ sẽ không bao giờ còn cảm thấy côi cút và bị ruồng bỏ, ngay cả giữa những yếu đuối và bất toàn, vì đã có Parakletos là Đức Ki-tô và Thần Khí của Người! Và Thần Khí sẽ không ngừng bảo đảm với họ rằng: Parakletos – Ki-tô đó sẽ mãi mãi “ở giữa và ở trong anh em”. Nếu quả đúng như thế thì rỏ ràng các Ki-tô hữu đang sở đắc một Tin Mừng ‘thứ thiệt’ có khả năng tác động sâu xa tới hiện hữu sinh động (active existence) của họ.; điều này chắc chắn phải mang lại cho họ niềm vui bất tận vì luôn cảm thấy mình được yêu thương.
Niềm tin của tôi, cũng như của bất kỳ Ki-tô hữu nào, sẽ không thể thiếu vắng cảm nhận đầy an ủi này! Thế nhưng vấn đề là ở chỗ: tôi đã bao giờ cảm nghiệm thấy điều đó chưa?
Lạy Đấng Bảo Trợ của con là Thần Khí của Đức Ki-tô Giê-su, con cảm tạ Ngài khôn xiết vì đã giải thoát con khỏi mạc cảm mồ côi theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Được biết con có một Người Cha nhân hậu là chính Chúa Cha, một Người Anh sẵn sàng chết để cứu con trong mọi hoàn cảnh, và một Thần Khí an ủi hằng tác động bên trong, con nguyện sống trong niềm hân hoan không bao giờ tàn lụi của Tin Mừng Chúa. Xin cho thật nhiều người được cùng con chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao này. A-men.
Thánh Phêrô nhắn nhủ tín hữu ở các xứ: Pontô, Galat, Capadokia, Axia và Bithynia và với chúng PS 6-A157
Thánh Phêrô nhắn nhủ tín hữu ở các xứ: Pontô, Galat, Capadokia, Axia và Bithynia và với chúng ta, những người được Thiên Chúa tuyển chọn là: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em”(1P 3,15). Có thể nói động thái hy vọng là khao khát, là mong chờ điều tốt đẹp nào đó với niềm tin rằng sẽ đạt được. Niềm hy vọng của Kitô hữu chúng ta mà thánh Tông Đồ Cả nói ở đây chính là được hưởng phúc lành vĩnh cửu mà Thiên Chúa hứa ban. Và để đạt phúc lành này thì ngài khuyên bảo phải hiệp nhất nên một với nhau, biết cảm thông, yêu thương nhau như anh chị em, đừng lấy ác báo ác nhưng ăn ở nhân hậu (x.1P 3,8-9). Để thực hiện điều này thánh nhân nhấn mạnh: “hãy tôn Đức Kitô, là Đấng Thánh, làm Chúa ngự trị trong lòng chúng ta”.
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.”(Ga 14,15). Điều răn mà Chúa Kitô truyền dạy đó là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34). Mẹ Hội Thánh, cách riêng Hội Thánh Việt Nam căn cứ vào cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Cứu Thế đã cụ thể hóa giới luật tình yêu qua kinh “Mười bốn mối thương người” mà Kitô hữu chúng ta dường như thuộc nằm lòng, nhờ thường đọc trong các ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ trọng.
Một sự thật mà chúng ta cần chân nhận, đó là không ít người con cái Chúa vô tình hay vì lý do nào đó mà lãng quên lời căn dặn, đúng hơn là lời khẳng định của Chúa Kitô: “phải làm điều này mà không được bỏ điều kia”(x.Lc 11,42); đừng “gạn lọc con muỗi mà nuốt chửng cả con lạc đà” (x.Mt 23,23-24), khi họ chỉ thực hiện một vài mối thương người mà thôi hoặc né tránh không thực thi một vài mối thương người này kia.
Chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận rằng từ tín hữu giáo dân đến hàng mục tử một cách nào đó xem ra đã thực thi những nghĩa cử như “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt, chôn xác kẻ chết và có thể thêm việc “cho khách đỗ nhà”. Tuy nhiên việc thăm viếng “kẻ tù rạc” và “chuộc kẻ làm tôi” thì hình như đang bị thiếu sót cách này cách khác. Phải chăng nếu không phải là người thân thích thì chúng ta vốn ngại dây dưa với những người đang trong vòng lao lý, cả những người thực sự có tội và cả những người bị kết án cách oan sai, bất công? Ngày nay không còn chế độ nô lệ như ngày xưa, nhưng tình trạng bị ràng buộc, bị kìm giữ cách bất công vẫn nhan nhãn trước mắt chúng ta. Trên thế giới và ngay trên đất nước chúng ta vẫn còn đó tình trạng rất nhiều người không được sử dụng các quyền căn bản của họ xét như là con người (nhân quyền). Đây cũng là một hình thức nô lệ không hơn không kém.
Chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng Kitô hữu chúng ta xem ra ít tắc trách trong việc “lấy lời lành mà khuyên người, an ủi kẻ âu lo, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ làm mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết”. Thế nhưng việc “mở dạy kẻ mê muội và răn bảo kẻ có tội” thì dường như còn bị hạn chế về cả đối tượng lẫn phạm vi cần điều chỉnh hay sửa sai. Chúng ta, nhất là những vị mục tử vẫn chu toàn việc răn bảo kẻ có tội và mở dạy kẻ mê muội, nhưng thường là mở dạy hay răn bảo những người đồng đạo, những người dưới quyền và cũng thường trong những lãnh vực đạo đức mang luân lý cá nhân hay trong việc tuân giữ các luật buộc như “giữ Lễ Ngày Chúa Nhật, lãnh nhận các bí tích, kiêng việc xác, ăn chay…”. Cần thú nhận rằng những lỗi lầm mang tính công bằng xã hội hoặc những lệch lạc, sai lầm mang tính hệ thống, nhất là khi người lỗi phạm đang nắm quyền cao, vị lớn trong xã hội và cả trong giáo hội thì chúng ta có vẻ như đang xao lãng bổn phận “mở dạy và răn bảo”.
“Phải làm điều này mà không được bỏ qua điều kia”. Xin lặp lại lời của Chúa Kitô để cùng thức tỉnh nhau ra khỏi tình trạng “gạn lọc con muỗi mà nuốt chửng cả con lạc đà”. Yêu thương cách có chọn lọc, cách có tính toán thì không thực sự là yêu thương, và chắc chắn không “như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta”. Yêu thương một cách có tính toán và chọn lọc như thế thì rất có thể có được sự bình an do thế gian ban tặng và dĩ nhiên cần khẳng định rằng đó không phải là sự bình an mà Chúa Kitô trao ban (x.Ga 15,27).
Xin Thần Khí sự thật đổ đầy tâm hồn Kitô hữu chúng ta để chúng ta biết thế nào là yêu mến Chúa Kitô, thế nào là tôn Đức Kitô làm Chúa ngự trị trong lòng chúng ta, thế nào là làm chứng về niềm hy vọng của chúng ta. Có thể không trọn vẹn và chắc chắn không thể đủ đầy, tuy nhiên điều chúng ta phải cần làm cho xứng với danh môn đệ Chúa Kitô, đó là kiên trì nhẫn nại trong hiền hòa và bao dung thực thi cả “Mười bốn mối thương người”, không xao lãng hay loại bỏ bất cứ mối thương người nào. Đây là câu trả lời có tính thuyết phục nhất cho niềm hy vọng của chúng ta trước bà con lương dân và anh chị em khác đạo và trước cả những người tự nhận là vô thần.
Các bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được một cuộc sống mới.
Lời Chúa.
Cuộc sống mới nhờ mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Cuộc sống mới nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần làm cho các Tông đồ thực hiện được những dấu lạ tại thành Samaria của dân ngoại (trừ được các thần ô uế, chữa lành những người tê bại và tàn tật) ; cuộc sống mới làm cho: “Trong thành, người ta rất vui mừng” (Cv 8, 8). Cuộc sống mới của những con người biết nghe Lời Đức Giêsu để sống theo Tin Mừng của Người: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15)…
Như vậy trước đây một số người vẫn sống theo lối sống cũ, lối sống của những người phỉ báng các Kitô hữu, của những người đã sẵn sàng làm những chuyện gian ác, của những người không tin vào Đức Giêsu Kitô (x. 1Pr 3, 15-18).
Cuộc sống mới là gì?
Cuộc sống mới đó không chỉ được ban tặng cho các Tông đồ và những kẻ tin hơn 2.000 năm trước, mà nó là sứ điệp chính yếu trong Tin mừng của Đức Kitô luôn vang vọng trong mọi thời đại, và nhất là trong chính hôm nay, ngay giờ phút này, để mời gọi chúng ta hãy bước vào sự sống mới.
Bước vào sự sống mới không phải là “chui vào bụng mẹ để được sinh ra một lần nữa” như Nicôđêmô suy nghĩ ; hay chết đi để được để được “đầu thai” trong kiếp sống mới… Nhưng là sống cuộc sống riêng của mỗi người trong mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô.
Những mẫu gương sống cuộc sống mới
a). Ơn gọi của Esmeralda Solis Gonzalez, một cựu hoa hậu Mêhicô
Esmeralda Solis Gonzalez sinh ngày 12/04/1997 tại Valle de Guadalupe, thuộc bang Jalisco, trong một gia đình Công giáo. Vào năm 2016, Esmeralda đã được chọn là hoa hậu của thành phố quê nhà, và là một trong số những người được chọn đến thủ đô Mêhicô thi hoa hậu toàn quốc cùng năm 2016. Nhưng Esmeralda từ bỏ dự tính làm người mẫu và chuyên gia về dinh dưỡng, gia nhập dòng Nữ thừa sai Clara Thánh Thể ở thành Cuernavaca thuộc bang Morelos. Cô đã chia sẻ: “Bạn sẽ không biết gì về đời sống tu trì cho đến khi bạn vào trong tu viện. Cho đến nay, từ một góc nhìn khác, tôi đã có thể thấy thế giới là gì và nó mang lại điều gì cho bạn. Tôi đã rất hạnh phúc với những gì tôi đã có được. Nhưng hạnh phúc đó không thể sánh với hạnh phúc mà Chúa đang đổ tràn đầy trong tâm hồn tôi”
b). Của một số nhà lãnh đạo
Đầu tiên phải nhắc đến lời phát biểu của tổng thống Mỹ Donal Trump tại trường Đại Học Liberty, một Đại học của Thiên Chúa giáo lớn nhất nước Mỹ vào ngày 13/05/2017: “Ở Mỹ, chúng ta không tôn thờ chính quyền, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa”. Ông nói thêm: “Đó là lý do tại sao chúng ta tự hào công bố trên đồng tiền của chúng ta, “Trong Chúa chúng ta tin”, và đó là lý do tại sao mỗi khi chúng ta nói lời Tuyên thệ chúng ta hãnh diện tuyên bố rằng chúng ta là một quốc gia, dưới sự cai trị của Thiên Chúa… Và lý do tại sao những người lãnh đạo của chúng ta trong lễ tuyên thệ nhậm chức đều đặt tay lên quyển Kinh thánh và nói “xin Thiên Chúa giúp con.”
Kế đến là vị tân Tổng thống trẻ tuổi nhất của nước Pháp Emmanuel Macron, 39 tuổi vừa tuyên thệ nhậm chức hôm 14/05/2017. Ông đã chia sẻ: “Tôi chịu phép rửa vào năm 12 tuổi. Đây là lựa chọn của riêng tôi. Tôi chịu phép thánh tẩy khi học ở Trường Providence (Chúa Quan Phòng) của các cha Dòng Tên tại Amiens”. Tân tổng thống Emmanuel Macron nói tiếp: ‘‘Nhờ ơn Chúa, tôi có quyết tâm hội nhập với thế giới. Ngày nay, tôi thường suy nghĩ về bản chất đức tin của tôi. Tương quan của tôi với các vấn đề thiêng liêng tiếp tục nuôi dưỡng các suy nghĩ của tôi.’’. Ông tỏ lòng tôn kính với Đức Thánh Cha Phanxicô, và theo nguồn tin riêng, ông sẽ mời ngài viếng thăm nước Pháp, đất nước được mệnh danh là trưởng nữ của Giáo hội.
Sau cùng là tân Tổng Thống Hàn Quốc, ông Moon Jae-in, trong ngày nhậm chức và chính thức bước vào “Nhà Xanh” là nơi cư trú của các vị Tổng thống Hàn Quốc, đã mới Linh mục đến làm phép dinh Tổng thống. Ông đã chọn bắt đầu vào ở trong Nhà Xanh đúng vào ngày kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, để có ý dâng công việc phục vụ quốc gia của ông dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ
Qua những tấm gương cụ thể đó cho chúng ta thấy những con người sống cho sự sống mới, đó là việc đặt hiện tại, tương lai cuộc đời của mình trong bàn tay quan phòng của Chúa. Hay nói cách khác, họ có niềm tin vào Thiên Chúa.
Sống cuộc sống mới trong Năm Gia Đình 2017 Trong Năm Gia Đình 2017 này, qua sứ điệp lời Chúa hôm nay, mời gọi mỗi gia đình hãy sống cuộc sống mới, nghĩa là sống niềm tin cụ thể vào Thiên Chúa.
Trong những ngày qua, các tín hữu trên khắp trên thế giới như sống lại sự kiện tại làng Fatima năm xưa; nhiều họ đạo cũng tổ chức mừng sự kiện 100 năm Đức Mẹ hiện ra ; một vài họ đạo có hiện tượng được gọi là “Đức Mẹ khóc ra máu”… Nhân dịp này nhiều người đã đi hành hương, đã đến tham dự những buổi diễn nguyện, đã tìm đến với những nơi có hiện tượng lạ… nhưng thử hỏi họ có quyết tâm để thực hành “sứ điệp Fatima” qua việc ăn năn đền tội, siêng năng lần hạt Mân Côi và tôn sùng Trái Tim Mẹ, nghĩa là có ý thức đến đời sống đức tin của mình không hay chỉ quan tâm đến dấu lạ?
Tháng Năm mời gọi mỗi gia đình hãy nhắc nhở nhau để lo ăn năn đền tội, cải thiện cuộc sống bằng việc mỗi người hãy từ bỏ những đam mê xấu, cụ thể làm sao để lôi kéo được những người khô khan nguội lạnh đi xưng tội, nhất là cơ hội rước lễ trong mùa Phục Sinh đã gần hết. Những người làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ hãy sống đúng với ơn gọi của mình, đừng vì những chuyện riêng tư mà làm gương mù, gương xấu cho con cái mình. Các bạn trẻ cũng hãy tỉnh thức, vì tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Vì thế nếu có việc “Đức Mẹ khóc” thì cũng chỉ vì tội lỗi nhân loại.
Sáu chương đầu của sách Tông Đồ Công Vụ nói về lịch sử thành lập Giáo Hội tiên khởi ở Jerusalem PS 6-A159
Sáu chương đầu của sách Tông Đồ Công Vụ nói về lịch sử thành lập Giáo Hội tiên khởi ở Jerusalem. Qua bài đọc I (Cv 8:5-8, 14-17) và những câu trong Cv 10: 44-48 & Cv 19:1-6, thánh Luca đã phân biệt bí tích Thanh Tẩy nhân danh Chúa Giesu và sự tiếp nhận chúa Thánh Thần. Trong mỗi trường hợp, có ơn Chúa Thánh Thần đều phải thông qua một trong 12 tông đồ như Phero và Gioan hoặc người đại diện như Phaolo. Đây là cách có vẻ hay nhất mà Luca dùng để diễn tả nhiệm vụ của Giáo Hội trong việc cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Những chỗ khác trong sách Tông Đồ Công Vụ, bí tích Thanh Tẩy và Chúa Thánh Thần lại liên kết mật thiết với nhau (Cv 1:5; 11:16).
Vậy chúng ta học được gì từ cảm nghiệm này? Bản văn của Luca trong Tông Đồ Công Vụ nói rõ ràng tặng phẩm Chúa Thánh Thần không phải là một đặc ân cá nhân. Tuyên xưng Kinh Thánh cũng không đơn thuần là do có óc thông minh hiểu biết, mà là một tiến trình hiểu biết do cảm nghiệm về đức Giesu thành Nazareth, đấng đã chết trên thập giá và phục sinh. Không một trở ngại nào -dù là bất toàn thể xác, chủng tộc hay địa lý- có thể đặt con người ra ngoài ơn gọi cứu chuộc của Tin Mừng. Thiên Chúa đã tích cực hoàn thành trọn vẹn mục đích của Người vì sứ mạng hoạt động của Giáo Hội (Lc 24:47;Cv 1:8). Chúa Giesu đã để ý đến tất cả những ai có khả năng làm chứng nhân và Người huấn luyện họ, thêm sức mạnh cho họ rồi sai họ đi khắp các nẻo đường để rao truyền Lời Chúa.
TÔN THỜ ĐỨC KITO LÀ THIÊN CHÚA NGỰ TRONG LÒNG
Bài đọc 2 thư thánh Phero (1Pr 3:15-18) nhắc nhở chúng ta là nhờ đức Kito chịu đau khổ và chịu chết mà người công chính có thể cứu giúp kẻ bất lương (1Pr 3:18); nhờ sự phục sinh, Người lấy lại đời sống mới trong Chúa Thánh Thần rồi thông phần cho các tín hữu qua bí tích thanh tẩy rửa sạch mọi tội lỗi. Như gia đình ông Noah được cứu khỏi cơn hồng thủy thì người Kito hữu cũng được cứu rỗi qua nước của bí tích Thanh Tẩy (1Pr 3:19-22). Từ đó họ không phải sợ hãi như những kẻ tội lỗi nhưng lại vui mừng trong đau khổ vì họ hy vọng trong chúa Kito. Sự vô tư hiền hòa của họ sẽ làm cho những kẻ cáo buộc họ phải thất vọng (1Pr 3:13-16; Mt 10:28; Rm 8:35-39).
Lời thánh Phero nói với Giáo Hội sơ khai hơn 2 ngàn năm xưa nay vẫn còn vang vọng nơi chúng ta: “Hãy tôn thờ đức Kito là Thiên Chúa ở trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng cắt nghĩa cho bất cứ ai hỏi anh em lý do anh em hy vọng, nhưng hãy trả lời một cách hiền hòa và tôn kính với lương tâm trong sáng. Như vậy khi anh em bị người ta phỉ báng, nói xấu vì anh em làm việc thiện trong chúa Kito thì chính họ sẽ bị xấu hổ.” (1Pr 3:15ff)
Lý do chúng ta hy vọng là gì? Xin phép nhắc lại một phần bài giảng của Biển Đức XVI trong ngày lễ thánh Phero và Phaolo tông đồ ở Rome hôm 29-6-2009:
“Rất vắn gọn, tôi muốn lưu ý anh chị em về hai xác quyết khác trong thư 1 của thánh Phero liên quan đến chúng ta ở thời đại ngày nay. Trước hết có một câu mà ngày nay chúng ta lại khám phá ra, mà theo căn bản đó các thần học gia thời Trung Cổ hiểu biết bổn phận thần học gia của mình: “Đức Kito là đấng thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng cắt nghĩa cho bất cứ ai yêu cầu lý do mà anh em hy vọng” (3:15). Niềm Tin Kito giáo là Hy Vọng. Nó lót đường cho chúng ta đi tới tương lai. Nó là hy vọng với đầy đủ lý lẽ của nó, một hy vọng mà chúng ta có thể và cần phải cắt nghĩa. Niềm Tin đến từ “Lý Chứng đời đời” đã đi vào thế giới chúng ta và chứng tỏ cho chúng ta là Thiên Chúa thật. Niềm Tin vượt quá khả năng của lý trí của chúng ta, cũng như tình yêu nhìn rõ tỏ mọi sự hơn là đơn thuần thông minh. Nhưng Niềm Tin nói với lý trí và trong cách biện chứng nó cũng phù hợp với lý trí. Nó không trái ngược với lý trí mà còn bổ sung lý trí và vượt quá lý trí để đưa chúng ta đến với Lý Chứng vĩ đại hơn của Thiên Chúa.
“Là mục tử thời đại, chúng ta có bổn phận trước hết phải hiểu rõ lý do chúng ta tin. Bổn phận chúng ta không chỉ đơn thuần giữ nó như một truyền thống mà phải nhận biết nó như những giải đáp cho những câu hỏi mà người ta chất vấn chúng ta. Niềm tin đòi hỏi sự cộng tác hữu lý của chúng ta, được ăn sâu và thanh hóa trong việc chia sẻ tình yêu. Nó là một trong những bổn phận của người mục tử, là thấm nhuần niềm tin vào ý nghĩ, khả dĩ có thể biểu lộ lý lẽ chúng ta hy vọng trong những cuộc tranh cãi ở thời đại chúng ta.”
TÂN TRẠNG SƯ Ở GIỮA CHÚNG TA
Trong Tin Mừng Gioan, ý nghĩa tiếng ‘mất’ trong số các môn đệ thì đã rõ ràng khi đức Giesu chuẩn bị xa lìa họ. Phero hỏi Chúa: “Thầy sẽ đi đâu?” (Ga 13:36) và “Thưa Thầy, tại sao tôi không thể đi theo Thầy ngay bây giờ?” (Ga 13:37). Đến điểm tột cùng này Chúa đã trả lời: “Nếu anh em yêu mến thầy thì anh em sẽ giữ những giới răn của thầy. Và khi thầy xin Cha thầy thì Ngài sẽ ban cho anh em một tân trạng sư là chúa Thánh Thần của sự thật, mà trần gian không biết, nhưng sự hiện diện của ngài ẩn hiện nơi các môn đệ (Ga 14:17). Lúc đó nền tảng của sự tin tưởng của chúng ta sẽ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Danh từ trạng sư dịch từ tiếng Hy Lạp là “paraclete” có liên quan đến luật pháp, có nghĩa là trạng sư hay luật sư biện hộ. Nó cũng có nghĩa người phát ngôn viên, người trung gian, người an ủi giúp đỡ và bảo trợ, mặc dù không có tiếng nào nói lên được ý nghĩa mà Gioan muốn ám chỉ. Trong Gioan, từ “paraclete/trạng sư” nghĩa là thầy dạy, chứng nhân cho đức Giesu và là bảo trợ viên của trần gian, người đại diện thường trực của đức Giesu ở trần gian trong khi người về cùng Cha người.
Đức Giesu chính là trạng sư đầu tiên. (coi 1Ga 2:1), có nghĩa là đấng trung gian ở trên thiên đàng. Trạng sư đến trong cộng đồng Kito giáo là dấu hiệu khởi đầu sứ mạng trần thế thúc đẩy những Kito hữu của Giáo Hội sơ khai vượt quá khỏi giới hạn địa dư của mình đi ra khắp bốn phương trời. Nếu đức Giesu là trạng sư trong khi Người hiên diện ở trần thế, thì chúa Thánh Thần bây giờ là Tân Trạng Sư. Đức Giesu sẽ lại xuất hiện khi Người trở lại. Vị trạng sư này là một người xa lạ nhưng là bảo đảm cho lòng trung thành với chúa Giesu: “ Trạng sư là Chúa Thánh Thần mà Cha thầy sẽ gửi đến nhân danh thầy, sẽ dạy dỗ anh em mọi sự và nhắc nhở anh em những điều thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26). Người còn nói thêm là vị trạng sư này sẽ làm chứng với tư cách thầy, đồng thời cũng làm cho các môn đệ trở thành chứng nhân. Nhờ đoạn văn này, chúng ta nhớ lại sự bất ổn và sợ hãi của các môn đệ nói ở phần khởi đầu của sách công vụ tông đồ. Khi Chúa Thánh Thần đến, họ được soi sáng, can đảm hơn và trở thành chứng nhân một cách can trường và trong sáng.
LÀ HY VỌNG, KHÔNG BÁM CHẶT VÀO QUÁ KHỨ
Trạng sư không chỉ là bảo đảm cho lòng trung thành và can đảm tuyên xưng mà còn là hướng dẫn đi tới tương lai: “ Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi Thánh Thần Sự Thật đến, Người sẽ hướng dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn. Người không tự mình nói điều gì nhưng Người sẽ nói lại cho anh em tất cả những điều Người nghe và báo cho anh em biết những điều sẽ xẩy ra” (Ga 16:12-13). Sự hiện diện và hướng dẫn của Thần Linh Chúa làm cho các tông đồ thêm sức mạnh tiến đến tương lai, sẵn sàng đương đầu với mọi thách đố một cách đầy sáng tạo. Tông đồ đích thực thì trung thành với đức Giesu và sứ điệp của Người, tuy nhiên họ không bị kẹt với quá khứ. Chính Thần Linh Chúa sẽ điều chỉnh họ, giúp họ biết uyển chuyển để thích nghi với mọi hoàn cảnh nhưng luôn luôn một mực trung thành và hy vọng.
ĐÔI LỜI KẾT: KÝ ỨC SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI
Tân trạng sư không phải là đại diện được gửi đến để thay thế Chúa Giesu vắng mặt.. Trái lại, để bảo đảm sự hiện diện của Người cũng như của Thiên Chúa Cha. Các ngài “sẽ cùng đến” để trọn lời hứa của đức Giesu, và sẽ ở cùng với Người. Các ngài sẽ không ở với những kẻ không yêu mến Chúa và giữ Lời Người. Trạng sư ở trong mọi người yêu Chúa và giữ các giới răn Chúa, và vì vậy sự hiện diện của Người không bị giới hạn bởi thời gian (Ga 14: 15-17). Trạng sư hiện diện nơi các môn đệ thời nay của chúa Giesu cũng như Người ở với các môn đệ đầu tiên. Không một ai có thể nghĩ rằng đức Giesu đã bỏ rơi Giáo Hội của chúng ta ngày nay. Chúa Giesu vẫn tiếp tục gửi đến cho chúng ta Thần Linh Thiên Chúa sự thật. Chúng ta đã nghe và đọc Tin Mừng: “Đấng mà Thiên Chúa Cha gửi đến cho chúng ta sẽ dạy chúng ta tất cả mọi sự và nhắc nhở chúng ta tất cả mọi điều mà đức Giesu đã nói với chúng ta (c.26). Điều nhắc nhở và gợi nhớ lại được diễn tả một cách tuyệt vời bằng những danh từ mới trong sách Giáo Lý Công Giáo nói về công việc của trạng sư / chúa Thánh Thần: “Chúa Thánh Thần là trí nhớ sống động của Giáo Hội” (c.# 1099)
Sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần là dấu hiệu khởi đầu sứ mạng toàn cầu của người Kito hữu sơ khai vươt biên giới của mình đi đến muôn nơi. Là Kito hữu, con người Giesu Kito là “khởi điểm”của hy vọng và mục đích của chúng ta. Đức Kito đòi hỏi Giáo Hội biến muôn dân trên khắp địa cầu thành môn đệ Chúa.”(Mt 28:19) Để hướng dẫn việc làm trong sứ mạng của Giáo Hội, chúa Kito đã gửi chúa Thánh Thần xuống cho chúng ta. Đức Giesu đã xác định Chúa Thánh Thần là Tân Trạng Sư, là “Thần Linh của Sự Thật”, mà thế gian không biết vì Ngài ẩn dấu sự hiện diện của Ngài trong các môn đệ (Ga 14:17). Lúc đó nền tảng của sự tin tưởng của chúng ta là có Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Giesu đã là trạng sư trong khi Người hiện diện ở trần thế cùng các môn đệ. Chúa Thánh Thần là Tân Trạng Sư, sự hiện diện của Ngài là hướng dẫn Giáo Hội cho đến khi chúa Giesu trở lại lần thứ hai. Vị trạng sư này là một người xa lạ, nhưng là bảo đảm cho lòng trung thành với chúa Giesu: Vị trạng sư là Thần Linh Chúa mà Thiên Chúa Cha sẽ gửi đến cho anh em nhân danh Thầy, sẽ dạy anh em mọi sự và nhắc nhở anh em tất cả những điều mà thầy đã nói với anh em (Ga 14:26).
Khi còn làm linh mục chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tại thành phố Poteau, một PS 6-A160
Khi còn làm linh mục chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tại thành phố Poteau, một trong những thành phố lâu đời và nghèo nhất trong tiểu bang Oklahoma này, tôi đọc được một câu chuyện về một bác sĩ sống và hành nghề trong thành phố này vào những năm của thập niên 30. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ nội dung câu chuyện của bác sĩ này. Những người dân sống trong vùng này vào lúc đó rất nghèo và không có phương tiện di chuyển, cho nên vị bác sĩ phải lái xe đến những ngôi nhà lụp xụp và nghèo nàn để chữa bệnh.
Một ngày kia vị bác sĩ phát giác ra chính mình cũng đang mang một chứng bệnh, và khi ông cảm thấy triệu chứng bệnh càng ngày càng trở nên khó chịu hơn, ông ta liền vào một bệnh viện để khám. Trong bệnh viện, ông được cho biết bị bệnh ung thư và ở trong thời kỳ cuối cùng. Ngay lúc đó, ông cảm thấy bàng hoàng sửng sốt, nhưng sau đó ông giữ lại được bình tĩnh. Cũng trong lúc đó, tâm hồn và tư tưởng của ông đều hướng về đàn con còn trẻ của mình. Ông có rất nhiều điều muốn tâm sự với đàn con nhưng bây giờ chúng còn rất trẻ không thể hiểu được những điều ông nói.
Vị bác sĩ liền dùng một máy ghi âm và thu những dòng tâm sự của mình với đàn con vào đó, để sau này khi chúng lớn lên có thể nghe và hiểu tâm sự cũng như những lời trăn trối của ông. Trong máy ghi âm, ông nhắn nhủ các con hãy suy nghĩ và tự hỏi: có sẵn sàng để thức dậy ra khỏi giường trong một đêm lạnh lẽo, lái xe đến nhà một bệnh nhân, biết rằng họ không có tiền trả và họ có thể đợi đến sáng để chữa trị không? Ông hỏi các con ông: Nếu các con có thể trả lời sẵn sàng làm công việc đó, thì mới ghi danh học ngành y khoa trở thành bác sĩ như ông.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện người bác sĩ vị tha và quảng đại trên mang một sự tương đồng rõ rệt với câu chuyện của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Như cuộc đời của vị bác sĩ, Chúa Giêsu cũng không có cuộc sống lâu dài. Trước khi từ giã các môn đệ để chịu chết, tâm tư của Chúa cũng hoàn toàn hướng về các ông. Người còn rất nhiều điều muốn nói với các ông, nhưng các ông chưa sẵn sàng để hiểu những điều đó. Chúa Giêsu đã từng nói với các ông: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức hiểu nổi.” Cũng giống như vị bác sĩ, Chúa Giê su đã sửa soạn một phương cách để tiếp tục dạy dỗ và hướng dẫn các môn đệ khi Người đã từ biệt, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa nói với các ông: “Khi nào Thánh Thần chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn.”
Chúng ta thấy tất cả 3 bài Kinh thánh tuần này đều có một ẩn ý cho chúng ta biết sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần, trong ngày lễ Hiện Xuống mà chúng ta sẽ mừng kính 2 tuần nữa. Bởi vậy, chúng ta cần chú ý và hiểu rõ vai trò của Chúa Thánh Thần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều biết vai trò của Thiên Chúa Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ, trời, đất và muôn loài trong đó có con người. Chúng ta cũng quen thuộc với sứ mệnh của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng cứu chuộc trần gian, nhưng có lẽ nhiều người chúng ta còn hiểu một cách mơ hồ về vai trò của Chúa Thánh Thần.
Kinh thánh cho chúng ta biết Chúa Thánh Thần đã đóng một vai trò quan trọng trong 3 công việc trọng đại trong kế hoạch của Thiên Chúa. Công việc trọng đại thứ nhất của Chúa Thánh Thần là tham dự vào việc tạo dựng của Thiên Chúa. Sách Sáng thế trong Cựu Ước cho chúng ta biết trước khi tạo dựng vũ trụ, trời đất và muôn vật, Thánh Thần Chúa đã chuyển động trên mặt nước. Hay nói một cách khác, Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị sẵn sàng mọi sự cho công việc sáng tạo trần thế của Thiên Chúa. Công việc trọng đại thứ nhì của Chúa Thánh Thần là sự sinh xuống trần của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa. Khi Tổng Lãnh Thiên Thần Gabiel hiện ra và báo cho Đức Maria về sự thụ thai Ngôi Hai Thiên Chúa trong lòng bà, đã nói: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà.” Nói một cách khác, Chúa Thánh Thần đã ngự trên Đức Maria và sửa soạn cho sự sinh ra của Ngôi Hai Thiên Chúa. Và công việc trọng đại thứ ba mà Chúa Thánh Thần đã đóng một vai trò quan trọng xảy ra trong ngày Lễ Hiện Xuống, cũng là ngày khai sinh của Giáo hội. Sách Tông Đồ Công Vụ diễn tả Chúa Thánh Thần chuyển động trên đầu các tông đồ như một luồng gió, thình lình như những ngọn lửa ngự trên họ và biến đổi họ từ những người sợ sệt, yếu đuối, trở thành một nhóm người can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Ki-Tô Phục sinh. Họ không còn là một nhóm người nghi ngờ mà trở thành những người có lòng xác tín vào Chúa Ki-Tô và liên kết với nhau như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-Tô.
Ông bà anh chị em thân mến. Qua 3 sự kiện trọng đại này, chúng ta nhận biết cùng một Chúa Thánh Thần đã hiện diện và chuẩn bị sự sống cho tạo vật, cho Chúa Giêsu và cho Giáo hội, và ban sự sống của Chúa cho chúng ta khi chúng ta nhận lãnh Bí tích Thánh tẩy. Như vậy, Chúa Thánh Thần như là một sợi dây liên kết chặt chẽ và mật thiết trong kế hoạch và ân sủng của Thiên Chúa, là nguồn ban sự sống thánh thiêng, và đồng thời tạo một sự liên kết mỗi Ki-tô hữu chúng ta với Chúa Giê-su Ki-tô và với nhau, như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô. Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy.” Nghĩa là không thể nói yêu mến Chúa, sống thân mật với Chúa, mà không tuân giữ giới răn Chúa dạy. Nếu chúng ta tin Chúa thì chúng ta sẽ yêu mến Chúa, và nếu chúng ta yêu mến Chúa thì chúng ta sẽ vui mừng và hy sinh sống giới răn của Chúa. Chúng ta biết khi không có lòng yêu mến chân thật thì khó mà làm, hoặc có làm thì chỉ vì miễn cưỡng hay không thật lòng. Muốn được sống trong an bình, ơn sủng và tình yêu Chúa, chúng ta phải thực hành những điều Chúa truyền dạy. Xin Chúa biến đổi chúng ta trở thành những chứng nhân can trường và làm sáng danh Chúa Giê-su Kitô, để bình an, ơn sủng và tình yêu của Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Và xin Chúa Thánh Thần soi sáng và ban ơn thêm sức để chúng ta xây dựng tình yêu thương hiệp nhất trong Thân Thể Chúa Ki-tô, là Giáo hội và là giáo xứ, và làm sang danh Chúa.
Là Kitô hữu thì việc quan trọng nhất là có một lối sống thích hợp với ơn gọi, vai trò và trách nhiệm PS 6-A161
Là Kitô hữu thì việc quan trọng nhất là có một lối sống thích hợp với ơn gọi, vai trò và trách nhiệm của mình đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Bài Phúc âm Chúa Nhât VI Phục Sinh hôm nay giúp chúng ta tạo dựng lối sống riêng biết ấy.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
Ga 14,15-21:
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 14,15-21:
3.1 Người môn đệ của Chúa Giêsu là người yêu mến Thầy Chí Thánh: Yêu Thày Chí Thánh là nét riêng của người môn đệ. Chúng ta nhớ câu hỏi mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã hỏi Tông đồ Phêrô bên bờ hồ sau mẻ lưới lạ: “Phêrô con có yêu mên Thầy hơn các anh em này không?”.
3.2 Yêu mến Chúa Giêsu thì sẽ giữ giới răn của Người: Đó là điều hiển nhiên trong tương quan cá vị của người môn đệ với Thầy Chí Thánh: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy", vì giới răn của Thầy là nhũng chỉ dẫn xác đáng nhất cho một nếp sống môn đệ.
3.3 Yêu mến Chúa Giêsu thì sẽ được Cha Người ban Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác: "Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con ".
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 14,15-21:
4.1 Chúng ta hãy yêu mến Chúa Giêsu mỗi ngày một hơn bằng lời nói việc làm cụ thể môi ngày. Nỗ lực của chúng ta là càng ngày càng hiểu biết và nhất là càng yêu mến Thấy Chí Thánh của chúng ta sâu sắc hơn.
4.2 Chúng ta hãy để Chúa Giêsu đưa chúng ta vào mối liên hệ mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì đó chính là mục tiêu mà Chúa Giêsu nhắm tới khi xuống trân gian.
V. Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô là Đấng đưa các Tồng đồ và tín hữu vào mối liện hệ mất thiết với Người và với Chúa Cha. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.-«Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người trở thành môn đệ yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy được Chúa Giêsu ban Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho giáo dân trong giáo xứ chúng ta biết tuân giữ luật của Chúa Giêsu vì lòng yêu mến.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các Kitô hữu cảm nghiệm được Tình Yêu của Chúa Cha trong cuộc đời mình.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Người đưa chúng con vào mối liện hệ mật thiết với Người và với Chúa Cha
Chúng con xin dâng lên Cha lời tri ân cảm tạ ngợi khen và quyết tâm sống trong hai mối liên hệ quý giá ấy. Chúng con cầu xin Chúa nhận danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 13 tháng 05 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Khi thể hiện tình yêu, nếu không nắm bắt được tấm lòng của đối phương, mà lại thể hiện tình yêu PS 6-A162
Khi thể hiện tình yêu, nếu không nắm bắt được tấm lòng của đối phương, mà lại thể hiện tình yêu bằng phương pháp chỉ có bản thân mình thích trong khi đối phương không vui mừng thì đây không phải là tình yêu chân chính.
Liên hệ đến tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Chúng ta yêu mến Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta yêu theo kiểu của chúng ta thôi chưa chắc đã là yêu mến Chúa. Chính Thiên Chúa phán: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Thiên Chúa cũng cao hơn tư tưởng của lòng người bấy nhiêu” (Is 55,9).
Trong bầu khí tình Thầy trò tâm sự, Chúa Giê-su phán: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy” (Ga 14, 15). Vậy, chúng ta nghĩ xem, chúng ta yêu mến Chúa với việc tuân giữ các giới răn của Chúa như thể nào?
Mến Chúa thì phải giữ các giới răn của Chúa
Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể làm người vừa mở ra cho nhân loại con đường dẫn đến sự sống đời đời, vừa dạy người ta biết cách yêu mến Thiên Chúa. “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy… Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy, và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu mến nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó” (Ga 14,15.21).
Cứ lời Chúa Giê-su nói ở trên thì có thể biết được rằng việc giữ các giới răn của Chúa là thể hiện lòng yên mến Chúa. Nếu ai yêu mến Chúa thì phải quý trọng và giữ các răn mà Chúa đã dạy và truyền phải giữ.
Những người giữ tập tục của loài người
Chúa Giê-su đã nghiêm khắc với những người không giữ các giới răn của Chúa lại còn tự phụ cho rằng mình yêu mến Chúa. “… như có chép rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng. Còn lòng chúng thi xa Ta… Các ông gạt bên lệnh truyền của Thiên Chúa, mà cố thủ lấy lệ truyền của loài người” (Mc 7,6).
Việc giữ các giới răn của Chúa phải phát xuất từ đức tin tôn trọng lời của Chúa và tình yêu hướng tới Chúa. Tuy nhiên, rất nhiều người không có đức tin và tình yêu thương ấy nên mới dễ dàng gặt bỏ các giới răn của Chúa để giữ các tập tục của loài người. Dù họ tuyên xưng to tiếng ngoài môi miệng rằng họ kính mến Chúa thì Chúa, Đấng thấu suốt mọi tâm can cũng không công nhận cho.
Giữ các giới răn của Chúa là mến Chúa
Chúng ta yêu mến Chúa nên giữ các giới răn của Chúa. Giữ các giới răn của Chúa là yêu mến Chúa.
Lời của Chúa Giê-su nêu lên tương quan giữa các giới răn với tình yêu dành cho mình, nên Người kết luận: “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy” (Ga 14,21). Và Người cam kết: “Thầy sẽ xin Cha“. Nói thế là Người chịu trách nhiệm về những việc Người làm. Một cách chắc chắn và bảo đảm là; nếu Chúa Giê-su bênh đỡ chúng ta, chúng ta còn sợ hãi gì?
Chúa Giê-su xin Cha điều gì? Người xin Cha “ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác” (Ga 14, 16). Khi nói Đấng Phù Trợ khác, Chúa Giê-su chứng tỏ sự lo lắng bảo vệ các môn đệ, và cho thấy Người là một Đấng Phù Trợ. Đó là lý do tại sao Người nói đến một “Đấng Phù Trợ khác“.
Lạy Chúa Giê-su, chúng con nài xin Chúa xin Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến với chúng con, và ở trên chúng con như đã ở với các môn đệ Chúa, những người sống nhờ Thánh Thần Chúa và vui mừng nhận biết chỉ có Chúa là ơn cứu độ chúng con. Amen.
Bạn có biết mồ côi cha, hay mồ côi mẹ, hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ…thì cơ cực và khổ sở lắm PS 6-A163
“Bạn có biết mồ côi cha, hay mồ côi mẹ, hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ…thì cơ cực và khổ sở lắm không?
• Khi bị mồ côi, đứa trẻ phải thường xuyên đối diện với những sự thiếu thốn cả về cơm ăn, áo mặc, lẫn những sự nâng đỡ, ủi an, vỗ về, chăm sóc về tinh thần…vì thế cho nên nhạc sĩ Trần Long Ẩn mới viết trong bài Mừng Tuổi Mẹ rằng: “Mẹ già như chuối chín cây, gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi. Mồ côi tội lắm ai ơi! Đói cơm, lỡ bước biết người nào lo…”
• Khi sống cảnh mồ côi, đứa trẻ phải một mình chiến đấu với những nghịch cảnh và những sóng gió, bão táp của cuộc đời. Cuộc chiến đấu này vất vả, cơ cực và nguy hiểm vô cùng, cho nên ông bà ta mới nói: Thứ nhất mồ côi mẹ cha, thứ nhì gánh vả thứ ba ngược đò.
• Và khi sống trong cảnh mồ côi, con trẻ thiếu sự hướng dẫn, sự khuyên bảo cũng như những lời răn dạy của cha mẹ… cho nên đã không ít những trẻ mồ côi đã rơi vào những cạm bẫy đen tối của cuộc đời. Vì thế cho nên ca dao mới viết Mồ côi tội lắm người ơi! Lỡ chân ai đỡ, lỡ lời ai bênh?
Vì sợ con cái lâm vào cảnh mồ côi, thiếu sự chăm lo, săn sóc và dạy dỗ… cho nên Chúa Giêsu đã lo liệu và xin Chúa Cha… ban một Đấng Bảo Trợ đến ở với [các con] luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật (Ga 14:16-17). Chưa hết, Ngài còn nhờ luôn cả HAI NGƯỜI MẸ đảm đương công việc chăm sóc, đỡ nâng, và giáo dục cho đoàn con của Ngài.
• Người Mẹ thứ nhất là Đức Maria: “Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà." Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." (Ga 19:26- 27). Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria chăm sóc, hướng dẫn và lo lắng cho đoàn con của Ngài.
• Người Mẹ thứ hai chính là Mẹ Giáo Hội. Gọi Giáo Hội là Mẹ bởi vì chính Giáo Hội đã cưu mang và sinh ra những đứa con qua bí tích Rửa Tội, sau đó giáo dục và răn dạy cũng như nâng đỡ chúng qua việc dạy Giáo Lý, và qua những giáo huấn…Mẹ Giáo Hội còn nuôi dưỡng và chăm sóc cho con cái qua việc cử hành thánh lễ, băng bó những vết thương, và chăm sóc chúng qua việc ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân và bí tích Giải Tội.
Bạn thấy Chúa Giêsu chu đáo chưa? Ngài đã lo lắng và chăm nom cho đoàn con tận tình và chi tiết như thế đấy, nhưng mà con cái của Ngài đâu có quan tâm gì đến sự chăm lo của Ngài dành cho họ đâu! Thậm chí họ còn làm ngơ và khước từ sự chăm lo của Ngài nữa kìa!
• Họ từ chối những bữa ăn do chính tay Mẹ Giáo Hội chuẩn bị cho họ. Những bữa ăn đó là các bí tích: Mình Thánh Chúa, Giải Tội, Thêm Sức, Xức Dầu Bệnh Nhân và Hôn Phối.
• Một số khác thì quay lưng, không nhìn nhận Mẹ Giáo Hội qua thái độ bất tuân lời giáo huấn và quyền lãnh đạo của Đức Giáo hoàng, và của các Giám mục, và tệ hơn nữa, họ ly khai và đoạn tuyệt khỏi Giáo Hội vì Giáo Hội cứng rắn trong những luật lệ có liên quan đến luân lý đạo đức, ví dụ như ngừa thai, phá thai, hôn nhân đồng tính, trợ tử…
Bạn thân mến, nếu bạn nhận ra rằng, sống trong cảnh mồ côi mồ cút thì khổ sở lắm, nhất là mồ côi về mặt tâm linh, nghĩa là không có Mẹ Maria, không có Mẹ Giáo Hội chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng, thì xin bạn hãy cố gắng đừng để mình bị rơi vào cảnh mồ côi bằng cách:
• Hãy kính mến và tùng phục MẸ GIÁO HỘI, vì Mẹ Giáo Hội đã được chính Chúa trao cho quyền giáo huấn: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy” (Lc 10:16).
• Đừng thờ ơ, đừng làm ngơ, và cũng đừng chê bai những của ăn thiêng liêng, tức là các bí tích, mà Mẹ Giáo Hội đã chuẩn bị rất công phu cho bạn hưởng dùng, nhất là bí Tích Thánh Thể và Giải Tội. Không chịu lãnh nhận những thức ăn tinh thần bổ dưỡng của Mẹ Giáo Hội ban cho thì bạn sẽ chịu thiệt thòi nhiều lắm! “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20:23).
• Chú ý lắng nghe và tuân giữ những lời Giáo Huấn của Giáo Hội qua Đức Giáo hoàng, Giám mục và các Linh mục về những vấn đề liên quan đến đạo đức, luân lý và về mặt đức tin.
Tôi tin chắc rằng, khi kính mến, tùng phục, đón nhận tình yêu cũng như ân huệ của Chúa qua Mẹ Giáo Hội và qua Mẹ Maria, thì cuộc sống của chúng mình sẽ được an vui, bình an, và hạnh phúc ở cả đời này lẫn đời sau.
Hôm nay cũng là ngày Mother’s Day, tôi cũng cầu xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, ban bình an, niềm vui, sức khỏe và hạnh phúc cho tất cả các bà mẹ. Cầu chúc quý bà và quý chị luôn sống trong ơn nghĩa của Chúa.
Thánh Vịnh gia cho biết: “Lời hứa của Ngài được hoàn toàn chứng nghiệm.” (Tv 119:140) Thật PS 6-A164
Thánh Vịnh gia cho biết: “Lời hứa của Ngài được hoàn toàn chứng nghiệm.” (Tv 119:140) Thật vậy, Chúa Giêsu hứa ban Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta luôn mãi, để chúng ta không bao giờ đơn độc hoặc mồ côi.
Nhưng cuộc sống luôn có những điều kiện cách như hệ lụy tất yếu. Được hay mất, tùy mình. Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” (Ga 14:15) Từ hệ lụy đó lại có mối liên kết khác: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Ga 14:16-17)
Chúa Giêsu biết mình sắp phải rời thế gian và xa những người thân thiết, Ngài hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em.” (Ga 14:18) Và Ngài nói rõ: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.” (Ga 14:18-20) Ngài nói “toạc móng heo” mà vẫn không dễ hiểu. Không phải vậy, Ngài muốn đưa chúng ta tới đức ái trọn vẹn, vì nhờ yêu mến mà chúng ta khả dĩ lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách viên mãn để đủ can đảm làm chứng sự thật về Thiên Chúa.
Dẫn chứng về chuỗi yêu mến, Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14:21) Thiên Chúa là tình yêu, trước sau gì cũng là yêu thương. Ngài tỏ mình cho mỗi người mỗi cách, mỗi người được nhận biết theo cách riêng, không ai giống ai, nhưng vẫn là MỘT Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất, vì “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” mà thôi. (Ep 4:5)
Thánh Gioan định nghĩa súc tích: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 & 16) Vì thế, ai yêu mến Ngài thì tuân giữ Luật Ngài – Luật Yêu, và chắc chắn rằng yêu Chúa thì phải yêu người. Yêu Chúa không khó bằng yêu người, chỉ cần thực hành “chuỗi yêu” trong 1 Cr 13 thì cũng đủ mệt rồi, vì yêu không thể nói suông mà phải thể hiện bằng hành động, qua từng động thái. Vả lại, tha nhân là huynh đệ của chúng ta và là những người có Thiên Chúa trong lòng. Ai sống yêu mến thì mới được lãnh nhận Thần Khí Sự Thật của Thiên Chúa.
Cựu Ước cho biết rằng, khi Thiên Chúa tuyển chọn Bơxanên, con của Uri, con của Khua, thuộc chi tộc Giuđa, Ngài đã hứa với ông Môsê: “Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Thiên Chúa để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật làm bằng vàng, bạc hay đồng, mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc.” (Xh 31:3-5) Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn không bao giờ sai.
Ước gì mỗi chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Khí Chúa để làm vinh danh Chúa bằng chính khả năng riêng mà chúng ta nhận được từ Ngài. Nhưng có điều quan trọng là chúng ta luôn phải “hết dạ tri ân.” (Cl 3:15) Con người sai lầm nên dễ ảo tưởng, thế nên rất cần ơn phân định thần khí để không tin lầm, như Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.” (1 Ga 4:1) Chúa Thánh Thần là Thần Khí Yêu Thương, là Đấng Ngôi Ba nhiệm xuất từ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Hãy cầu nguyện liên lỉ với Ngài!
Cụ Nguyễn Công Trứ xác định: “Đã mang tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông.” (Đi Thi Tự Vịnh) Có danh nghĩa để hành động, hành động vì chính nghĩa, vì công lý, chứ không để đàn áp hoặc chèn ép người yếu thế hơn mình. Làm người, ai cũng cần một danh nghĩa nào đó, nhưng phải là danh nghĩa chính đáng. Được làm người là một đại hồng ân, Đức và Tài cần để thực hiện điều tốt lành cho tha nhân. Với Đức và Tài, người ta có thể trở thành quân tử hoặc tiểu nhân, tùy vào “vị trí” của chúng: “Đức hơn Tài là quân tử, Tài hơn Đức là tiểu nhân.” (Khổng Tử) Lằn ranh rất mong manh giữa Đức và Tài: “Chữ Tài liền với chữ Tai một vần.” (Nguyễn Du)
Hằng ngày có nhiều loại đức cần phải trau giồi, càng phải trau giồi nhiều hơn đối với người Công giáo. Về đối nhân có rất nhiều nhân đức (chân thành, hòa nhã, bình dị, hòa đồng, nghiêm túc, vui vẻ,…), về đối thần có ba nhân đức: tin, cậy, mến. Đức mến là đức ái – lòng yêu thương, lòng thương xót. Đức mến cần thiết và quan trọng nhất, vì trên Nước Trời không còn đức tin và đức cậy, chỉ còn đức mến. (x. 1 Cr 13:13)
Thật vậy, cuộc đời này không có tình yêu thương thì cũng như cuộc sống không có ánh mặt trời. Vô tri bất mộ. Không biết thì không yêu mến, thậm chí có thể ghét, nhưng khi đã biết thì người ta cảm thấy yêu mến. Nhưng trước khi BIẾT thì phải MUỐN BIẾT và TÌM HIỂU cho thấu đáo chứ không thể hời hợt hoặc nửa vời. Khi biết rõ rồi thì sẽ nảy sinh yêu mến, và có thể say đắm – si tình.
Đạo Chúa mệnh danh là Đạo Yêu Thương. Không yêu thương thì đừng nói là theo Chúa. Thánh Phaolô nói: “Ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22) Nhưng mến Chúa thì phải yêu người, vì yêu người là thước đo lòng mến Chúa. Đó là hệ lụy tất yếu. Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20)
Cũng có hệ lụy trong vấn đề này, như Thánh Sibyllina Pavia nói: “Ai không yêu mến anh em thì không thể trở thành người anh dũng tử đạo.” Có tình yêu thì người ta có thể làm được mọi sự, bất kể nhỏ hay to, đúng như Thánh Augustinô nhận định: “Cứ yêu thật đi rồi muốn làm gì thì làm.” Chính Thánh Augustinô đã từng nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới!” (Tự Thuật, số 10 & 27) Còn Mẹ Thánh Teresa Calcutta xác định: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể.” Chuỗi yêu thương kỳ diệu quá chừng!
Vì yêu Chúa – và yêu Chúa qua tha nhân, người ta có thể làm được mọi thứ. Sách Công Vụ kể: “Ông Philípphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó. Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philípphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm.” (Cv 8:5-6) Họ không chỉ “nghe đồn” mà còn “chứng kiến” các dấu lạ do tông đồ Philípphê đã làm. Vì họ đã biết nên họ không thể làm ngơ, không thể không chú ý. Thật vậy, “các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám, nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng.” (Cv 8:7-8)
Vào thời đó, các Tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa nên cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Thần. Kinh Thánh cho biết: “Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.” (Cv 8:16-17)
Đó là Bí tích Thêm sức, bí tích làm cho chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần viên mãn. Xưa nay chúng ta vẫn quen với cách nói “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – gồm các ơn: khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông minh, đạo đức, và kính sợ Chúa. Tuy nhiên, đó là cách nói của Kinh Thánh, vì số 7 là con số kỳ diệu của Kinh Thánh, chứ Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó. Chúng ta thật hạnh phúc vì được biết Thiên Chúa, được yêu mến Ngài, và được lãnh nhận Chúa Thánh Thần: “Bình an cho anh em.” (Lc 24:36; Ga 20:19; Ga 20:20; Ga 20:26)
Rất sung sướng, nên Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời, nào dâng lời ca tụng tôn vinh!” (Tv 66:1-2) Hòa chung niềm vui đó, chúng ta cùng thân thưa với Thiên Chúa: “Vĩ đại thay, sự nghiệp của Ngài! Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm. Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh. Đến mà xem công trình của Thiên Chúa: hành động của Người đối với phàm nhân thật đáng kinh đáng sợ!” (Tv 66:3-5) Thiên Chúa toàn năng, có Ngài thì người bình thường cũng trở nên phi thường, không có Ngài thì thiên tài cũng chẳng làm gì được, như Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5)
Là Đấng hằng hữu và toàn năng, Thiên Chúa tạo thành mọi vật, cũng chính Ngài “làm cho biển khơi hóa đất liền và dân Ngài đi bộ qua sông, việc Ngài làm đó khiến ta hoan hỷ. Chúa uy dũng hiển trị muôn đời; đôi mắt Ngài theo dõi chư dân, quân làm phản chớ có hòng nổi dậy!” (Tv 66:6-7) Lịch sử đã và đang chứng minh điều đó, không một thần linh nào có thể làm được các vĩ công như Thiên Chúa của chúng ta. Thật là một hồng ân lớn lao đối với chúng ta khi được biết Ngài, yêu mến Ngài và tôn thờ Ngài, tuyệt vời hơn nữa là Ngài đã yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4:19) và yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1) – dù chúng ta chỉ là những kẻ bất lương và tội lỗi.
Chỉ là được hiện hữu trên đời này – dù chúng ta có thế nào – cũng đủ để chúng ta phải cảm tạ Ngài suốt cuộc đời. Không chỉ vậy, Chúa Cha còn thương xót kiếp khốn cùng của chúng ta mà bắt Con Một Yêu Dấu phải chết thay chúng ta, dù Người Con van xin nhưng Ngài vẫn “làm ngơ” vì Ngài muốn cứu độ chúng ta. Ơn cứu tử quá lớn! Chính Ngài chọn chúng ta từ trước khi vũ trụ được tạo thành chứ không phải chúng ta chọn Ngài. (Ep 1:4)
Chắc chắn không thần linh hoặc con người nào như Thiên Chúa, vì Ngài luôn hơn cả mức tuyệt vời: “Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.” (Đnl 32:10) Chính tình yêu thương đó đã được đóng ấn tín bằng “lời thề độc” này: “Kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta.” (Dcr 2:12) Quả thật, chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu được, vì Ngài yêu thương chúng ta tới cùng nên Ngài cũng bảo vệ chúng ta tới cùng. Vì thế, chúng ta rất hãnh diện và phải mau mắn chia sẻ niềm vui đó với người khác: “Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình.” (Tv 66:20)
Có kinh nghiệm được chia sẻ vui buồn cuộc sống với Chúa Giêsu, ông Phêrô chân thành nhắn nhủ: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống.” (1 Pr 3:15-16)
Tại sao phải “giữ thẳng” mà không thể du di “làm cong” – dù chỉ một chút? Ông Phêrô lý giải: “Bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác. Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Ngài đã được phục sinh.” (1 Pr 3:17-18) Rất rõ ràng, thẳng thắn. Chính tình yêu mến đó đã được Chúa Thánh Thần tác động. Đó cũng là đặc cách của Thiên Chúa. Vì yêu, mọi lời hứa của Ngài đều được nên trọn.
Lạy Chúa giàu lòng thương xót, xin ban Thần Khí Yêu Thương để chúng con có thể sống trọn đức ái theo Lòng Thương Xót của Ngài, xin ban Thần Khí Chân Lý để chúng con thực hiện mọi lệnh truyền theo công lý của Ngài. Xin tiếp tục đốt lửa yêu mến để chúng con có thể yêu mến Ngài và chỉ yêu mến Ngài như Ngài muốn. Xin giúp chúng con biết đại lượng với mọi người, dù đó là ai, vì ai cũng được tạo dựng theo hình ảnh Ngài, bình đẳng với nhau, đồng hưởng giá Máu Cứu Độ của Con Một Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay là một phân đoạn trong diễn từ cáo biệt của Đức Giê-su trước khi Người PS 6-A165
Bài Tin Mừng hôm nay là một phân đoạn trong diễn từ cáo biệt của Đức Giê-su trước khi Người bước vào hành trình khổ nạn. Chúa biết rõ chương trình của Cha muốn Người thực hiện. Giờ ra đi đã gần kề.
Trước giờ ly biệt, Đức Giê-su bồi hồi và xúc động. Trong tâm tình đó, Người hiểu rõ tâm trạng mất mát, hoang mang, thất vọng và lo sợ của các môn đệ khi phải đối diện với sự chết mà Người vừa loan báo; cho nên Người mới giúp các môn đệ biết rằng tuy các ông sẽ xa cách Người về mặt thể lý, nhưng trong niềm tin các ông sẽ nhận ra rằng Người không hề bỏ rơi họ. Người vẫn hiện diện đồng hành với các ông, nhất là tiếp tục dìu các ông đi vào cõi vinh quang mà Người đang có ở bên Cha.
Muốn nhận biết được sự hiện diện mới này, các môn đệ cần có niềm tin, lòng mến, sự kiên trì trong vâng phục ý muốn của Chúa. Vì thế, trong câu mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nhắc các môn đệ rằng; “Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ giữ các điều răn của Thầy.” Đây là chân lý, là sự thật được mạc khải bởi Chúa Giê-su. Phần các môn đệ, chỉ có tiếp nhận. Sự tiếp nhận này là một hồng ân.
Chân lý và sự thật được trao ban để các môn đệ nhận biết và tuân giữ điều Thầy truyền. Chỉ có trong lòng mến, các môn đệ mới có thể tuân giữ các giới lịnh của Chúa. Tình yêu và tuân phục Lời Chúa là hành trang của người môn đệ.
Thật vậy, dựa trên kinh nghiệm sống, chúng ta nhận biết rằng khi đang yêu là lúc chúng ta đi tìm và hoàn thành sở thích và ý nguyện của người mình yêu. Cho dù chàng hay nàng không nói, nhưng qua ánh mắt chúng ta nhận biết người ta đang yêu muốn gì và lập tức chúng ta thực hiện ngay. Đó chính là tâm tình và thái độ sống của Đức Giê-su, tìm kiếm và làm vui lòng Cha. Yêu là thế đó.
Anh chị em thân mến,
Đức Giê-su nhắc nhở các môn đệ nhớ lại một chân lý căn bản, đó là khả năng yêu mến của các môn đệ phải được xuất phát từ Chúa Thánh Thần, Người là Đấng mà Đức Giê-su sẽ xin Cha sai đến ở giữa họ, sống với họ, giúp họ tuân theo lời dậy của Người. Mà ai yêu mến Chúa, thì sẽ được Cha yêu mến và sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Như vậy, yêu thương và lắng nghe tiếng Chúa là cẩm nang sống của người môn đệ. Những điều này cần được thể hiện bằng việc làm diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Đã có lúc nào chúng ta tự vấn lương tâm trả lời câu hỏi là tôi có yêu Chúa hay nhận biết rằng Chúa vẫn yêu tôi như thế nào?
Trong anh chị em, sẽ có một số người cho rằng câu hỏi này thật vớ vẩn. Cả đời tôi theo Chúa. Gia đình tôi thuộc đạo gốc. Tính theo tuổi đời tôi đã làm con Chúa bao nhiêu năm. Biết bao việc đạo đức kể sao cho hết! Nào là tham dự Thánh Lễ, tuân giữ luật Giáo Hội, ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, làm các việc bác ái, tham gia vào các sinh hoạt trong nhà thờ… cứ thế mà tuôn ra. Các việc làm như thế không là yêu Chúa thì còn yêu ai nữa đây!
Thật ra, câu hỏi nói trên không dễ trả lời chút nào. Thành thật mà nhìn nhận rằng tất cả các việc làm đạo đức mà chúng ta liệt kê ở trên chưa hẳn là các chứng từ nói lên tình yêu của mình với Chúa. Câu hỏi thật khó khăn và cũng cần có câu trả lời thỏa đáng.
Nói chung, chúng ta có thể diễn tả cảm giác yêu bố mẹ và những người thân trong gia đình như thế nào. Tình yêu của người chồng dành cho vợ hay là của người phối ngẫu dành cho nhau có thể diễn tả được. Họ biết mức cảm xúc trong tình nghĩa vợ chồng cần có cho nhau. Nhưng thành thật mà nói chúng ta lại ú ớ khi diễn tả cảm giác yêu Chúa. Bản thân tôi cũng thế, nói yêu Chúa thì nhiều; nhưng đã có lần nào tôi có cảm giác ấm áp trước tình của Chúa dành cho tôi hay chưa?
Tuy nhiên, có một sự thật, ít nhất đối với tôi, và xin phép chia sẻ đến anh chị em; đó là cho dù chúng ta không thể diễn tả bằng cảm xúc trước tình của Chúa dành cho mình thì cũng đừng lo; bởi vì tình yêu mà Chúa muốn chúng ta thực hiện không dừng lại ở cảm xúc. Người muốn là sự vâng phục, vâng phục trong yêu mến, vâng phục không chỉ một lần mà là luôn mãi. Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ Lời Thầy.
Hơn thế nữa, khi nói đến tình yêu, Đức Giê-su muốn chúng ta hành động. Và điều trước tiên mà chúng ta cần ghi nhớ là tình yêu của chúng ta dành cho Chúa là một tình yêu siêu thoát cần sự đầu phục và tôn thờ. Như vậy, tình yêu đích thật mà Chúa muốn chúng ta dành cho Người là cách sống vâng phục và tôn thờ Thiên Chúa.
Nhưng làm thế nào để có thể đầu phục Chúa hoàn toàn, làm thế nào để chúng ta có thể dâng hiến một đời cho Người. Chắc hẳn không thể dựa vào nỗ lực và những cố gắng của bản thân! Bởi vì, con người thì yếu đuối, dễ vỡ và mỏng dòn. Chúng ta cần trợ lực. Đó chính là điều mà Đức Giê-su nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Gio-an 14: 16-17)
Thật vậy, chúng ta chỉ có thể yêu Chúa và thương tha nhân khi để cho quyền năng của Chúa Thánh Thần hoạt động. Người chính là Thần Khí, hơi thở truyền ban sự sống của Thiên Chúa, thay đổi chúng ta, biến đổi chúng ta và kéo chúng ta lại gần Chúa hơn. Chúng ta chỉ cần học để buông bỏ chính mình, tập đừng kiểm soát và trao quyền kiểm soát và để Thiên Chúa hoạt động thì chúng ta sẽ càng ngày càng tận tụy và ngoan ngoãn hơn trong việc yêu mến Chúa.
Cuối cùng, thưa anh chị em.
Kinh nghiệm về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong chúng ta là nền tảng tuyệt đối trong mọi trải nghiệm của đời sống. Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta đi vào nẻo chính đường ngay để mối quan hệ với Thiên Chúa càng ngày càng bền chặt hơn. Người chính là nguồn suối của mọi ân huệ. Người làm cho các hạt giống được triển nở và sinh hoa kết quả trong cuộc sống để chúng ta trở thành mẫu mực trọn vẹn theo ý định của Thiên Chúa. Chính Thần Khí của Thiên Chúa sẽ khiến chúng ta đầu phục và bầy tỏ lòng sùng kính đối với Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta hết mực tôn thờ và yêu thương. Đó chính là điều mà Đức Giê-su đã phán: “Thầy ra đi thì có lợi (hơn) cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Gio-an 16:7)
Đức Giêsu thể lý không còn ở đây nữa. Người đã ra đi và rời bỏ chúng ta: Hãy ngợi khen Chúa vì điều đó! Bởi vì nếu Chúa Giêsu vẫn còn ở với chúng ta, chúng ta dựa vào Người rồi ỷ lại, rồi lười biếng và sẽ không biết sức mạnh của Thánh Linh trong cuộc sống của chúng ta và chúng ta cũng không có cơ hội diễn tả thân phận và cuộc sống Kitô hữu nữa.
Chúa ở cùng anh chị em. Thánh Thần của Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đó là lời chào mà chúng ta gửi đến cho nhau qua các nghi lễ phụng vụ. Đó còn là tin vui trọng đại mà chúng ta trao gửi cho nhau. Đó cũng là kinh nghiệm mà các kẻ tin đã chứng thực qua mọi thế hệ về sức mạnh của Thánh Linh, Đấng đã biến đổi họ và chúng ta thành khí cụ yêu Chúa và thương người một cách trọn hảo hơn. Và, khi những người khác thấy việc Chúa Giêsu đã làm để thay đổi cách sống của chúng ta với Người và với nhau thì họ cũng muốn biết Chúa.
Chỉ có trong quyền năng của Thánh Thần mới biến đổi chúng ta thành khí cụ yêu thương của Người. Ước gì, cuộc sống của chúng ta sẽ là nhân chứng tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa cho gia đình, cho xóm đạo, cho cộng đoàn và thế giới mà chúng ta đang sống hôm nay. Amen!
Đoạn Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay là một đoạn ngắn trong bài diễn từ dài, vốn có thể được PS 6-A166
Đoạn Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay là một đoạn ngắn trong bài diễn từ dài, vốn có thể được coi như di ngôn của Chúa Giêsu trước khi Ngài từ biệt các môn đệ. Thánh Gioan thuật lại điều cốt lõi trong sứ điệp của Chúa Giêsu, trong đó hôm nay Thánh Gioan nhấn mạnh đến hai khía cạnh.
Mối tương giao thân thiết với Chúa Giêsu và thực thi các điều răn của Ngài.
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14: 15). Khi nghe vậy, chắc chắn các môn đệ của Rabbi Giêsu, nhưng không hẳn tất cả chúng ta ngày nay, đều biết ngay giới răn của Thầy là gì. Vì trong đoạn 13 trước đó, thánh Gioan cho thấy câu trả lời rõ ràng của Chúa Giêsu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Điều răn này được Chúa Giêsu đề cập một lần nữa trong đoạn 15 tiếp sau: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12).
Hôm nay, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh thêm nữa khi nhắc lại ý tưởng trên kia: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14:21). Nhưng ở đoạn 14 này thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu chưa muốn nói đến mối tương quan giữa con người với nhau, vốn cũng cần thấm đượm tình yêu thương. Trên hết, Chúa Giêsu muốn nói đến mối tương quan mật thiết mà Ngài có với các môn đệ của Ngài. Đó là một tương giao thân tình và mật thiết như mối tương giao giữa Chúa Kitô và Chúa Cha LÀ MỘT. Chúng ta nhớ lại Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu nói với nhóm mười hai: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Ngài và đã thấy Ngài” (Ga 14,7). Ngay sau đó Philíphê xin Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14: 8). Chúa Giêsu trả lời với giọng trách cứ Philípphê: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14: 9-11). Đây là tình yêu nền tảng cho mối tương giao giữa Chúa Giêsu và bất cứ môn đệ nào của Ngài, cả cho chúng ta ngày nay, và cho mọi người, mọi thời, mọi nơi tin theo Ngài: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga 14:20). Hẳn có người sẽ tự hỏi: tại sao tôi nên biết như thế và biết như thế thì được gì cho cuộc sống của tôi? Chúa Giêsu không chần chờ nói ra lý do và cũng là kết quả lớn lao của mối thân tình ấy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14:15.21).
Những lời nói của Thầy Giêsu thật cảm động và sâu sắc, tràn ngập tình yêu, sự dịu dàng. Thầy Giêsu đã dành ba năm với nhóm môn đệ này, và bây giờ chỉ còn một khoảng thời gian ngắn nữa là Ngài kết thúc sự hiện diện của Ngài trên trần gian với họ, mà Ngài gọi là bạn hữu: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:14-15). Dù biết rằng Phêrô - một trong những người bạn thân thiết nhất của Ngài - sẽ chối Thầy mình, dù biết Giuđa sẽ phản Thầy, và Tôma sẽ nghi ngờ Thầy, nhưng Chúa Giêsu đã lôi kéo tất cả các môn đệ của Ngài lại gần bằng những lời tận đáy lòng của Ngài. Chúa Giêsu bộc lộ con tim của Ngài bằng những hình ảnh đầy cảm xúc để bày tỏ tấm lòng của Ngài: những trẻ mồ côi, “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14:18) và nỗi đau của người phụ nữ khi sinh con: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình…Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16:21).
Tôi có đọc những lời này một cách chậm rãi, lặng lẽ ngẫm suy - và để cho sâu thẳm lòng mình được đụng chạm đến bởi Chúa Giêsu vốn đang khao khát “trút tâm can” trao ban Tình Yêu của Ngài cho tôi? Tình Yêu đó khởi phát từ nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, biểu hiện qua chính Chúa Con và được kiên vững bởi Chúa Thánh Thần. Tôi có cảm thấy vinh dự và hân hoan vì được Chúa Giêsu mời gọi tham dự vào mối tương giao mật thiết của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần không? Liệu Chúa Kitô có thể làm được gì hơn nữa nếu ai đó, cũng có thể là tôi, cương quyết khước từ Trái tim bừng cháy Lửa Yêu Thương của Ngài?!
Tin tưởng và hy vọng.
Đức tin không phải là một món đồ chúng ta sở hữu để sử dụng lúc nào nơi nào tùy theo ý muốn của riêng mình. Đức tin trước hết là đặt lòng tin tưởng, niềm hy vọng, sự tín thác của chúng ta vào Thiên Chúa. Đó không chỉ là niềm tin rằng Thiên Chúa có thể làm điều gì đó mà còn là sự tin tưởng và hy vọng, một sự xác tín rằng Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta theo ý muốn tốt lành và trọn hảo của Ngài. Đồng thời đức tin là khi chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu, biểu hiện hữu hình của Thiên Chúa, như Ngài nói: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm” (Ga 14:11) và hy vọng vào những lời Ngài đã hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16).
Thánh Phaolô nói với các tín hữu Rôma: “Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:11).
Như vậy, Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban, đem lại cho chúng ta sự sống mới và hoạt động trong chúng ta, là những người tin vào Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, để trở nên con cái của Thiên Chúa: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Chúa Thánh Thần đến để giúp con người tái lập tình thân với Thiên Chúa, là tình trạng đã có từ ban đầu, nhưng đã bị huỷ hoại vì cám dỗ của Satan. Chúa Thánh Thần làm mới lại tinh thần của con người vốn đã chết trong xác thịt tội lỗi và đưa họ trở lại cuộc sống đích thực trong Thiên Chúa: “Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã… nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Chúa Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” (Cl 2:13). Chúa Chúa Thánh Thần là sức mạnh làm cho chúng ta vượt qua sự chết, nhờ dìm mình trong cái chết của Chúa Kitô khi lãnh nhận Phép Rửa, để sống một đời sống mới, nhờ lãnh nhận Thánh Thần: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa…Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa...hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ...Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5:16-25).
Chúng ta đôi khi hơi giống các tông đồ sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh chết trên Thánh Giá: không còn làm chủ vận mệnh bản thân, lạc hướng, rút lui, tản mác hoặc co cụm lại một chỗ vì sợ hãi. Dù Chúa Giêsu đã hứa ban cho họ Thần Khí: “Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:17), nhưng họ chưa lãnh nhận được Thần Khí đó. Chỉ khi Chúa Giêsu phục sinh và nhất là khi Chúa Thánh Thần ngự xuống cách long trọng vào ngày Lễ Ngũ Tuần để khai mở cộng đoàn Hội Thánh (Cv 2,1-13), các Tông đồ mới lãnh nhận Thánh Thần: “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 8:4). Chúa Thánh Thần làm cho các Tông đồ hiểu mầu nhiệm Chúa Giêsu, hiểu những giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời, về con đường Tử Nạn và Phục Sinh. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà các Tông đồ được biến đổi trở thành con người mới, mạnh mẽ, can đảm, nhiệt thành và dấn thân rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. Ngài sẽ thúc đẩy họ công bố Chúa Giêsu: “đã chết và được mai táng…Chính Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại…nâng Ngài lên, trao cho Ngài Thánh Thần đã hứa, để Ngài đổ xuống… Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 8:29,32,36).
Chúng ta cũng đã lãnh nhận Thánh Thần này khi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy (chịu phép Rửa tội) và bí tích Thêm Sức (giúp tăng trưởng các ơn đã lãnh nhận trong bí tích Thánh Tẩy). Thánh Thần, “Đấng Bảo Trợ đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16), đồng hành với chúng ta, giúp chúng ta hiểu Lời Chúa trong Kinh Thánh, hiểu sứ điệp của Chúa Kitô, hiểu giới răn yêu thương mà Ngài đã để lại cho chúng ta. Chính Ngài yêu chúng ta, vẫn mãi trung thành với tình yêu đó. Chính Thánh Thần thúc đẩy chúng ta, như trong bài đọc thứ nhất, “tản mác đi khắp nơi loan báo lời Chúa” (Cv 8:4) theo bước chân “Ông Philípphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Chúa Kitô cho dân cư ở đó” (Cv 8:5).
Chúng ta hãy nghe Tông đồ trưởng Phêrô nói trong bài đọc thứ hai để tin tưởng và đón nhận Chúa Kitô làm Chúa cuộc đời mình: “Chúa Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Ngài làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1 Pr 3:15-17). Và hãy làm chứng cho niềm hy vọng của chúng ta vào Chúa Kitô: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em…Chính Chúa Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi - Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Ngài đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Ngài đã được phục sinh” (Cv 3:18).
Người nọ từng trông thấy một thiên thần đi bộ xuống phố, tay phải xách thùng nước đầy, tay trái PS 6-A167
Người nọ từng trông thấy một thiên thần đi bộ xuống phố, tay phải xách thùng nước đầy, tay trái cầm bó đuốc rực lửa. Người ấy liền hỏi: “Ngài làm gì với bó đuốc và thùng nước vậy ?” Thiên thần đứng lại, nhìn người ấy mà bảo: “Ta sẽ thiêu rụi các tòa nhà trên trời bằng bó đuốc và sẽ dập tắt lửa hỏa ngục bằng thùng nước này. Lúc đó sẽ thấy được ai là kẻ thực sự yêu mến Thiên Chúa.” Chủ ý của thiên thần là nhiều người vâng lệnh Chúa, giữ đức tin vì sợ hãi hình khổ Hỏa ngục hay vì hy vọng phần thưởng Thiên đàng. Họ không giữ huấn lệnh ấy vì yêu thương như Chúa Giê-su đã nêu lên trong bài Tin Mừng đang đọc: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.”
1. Giữ điều răn vì yêu mến.
Đứng trước điều răn Đức Giê-su, chúng ta thường có một trong hai thái độ. Tiên vàn, chúng ta có thể coi điều răn như một cái gì hạn chế tự do của chúng ta, thậm chí như một đòi hỏi khắt khe, phi nhân, độc đoán; nên dẫu không ưa, chúng ta có thể cũng ép mình phải giữ vì sợ hãi, “sợ phạt hỏa ngục” hay ngược lại để mong “được thưởng Thiên đàng”. Hãy lấy ví dụ điều răn yêu thương kẻ thù, điều răn về tính dục và hôn nhân… Chúng ta có thể tự nhủ: “Chìa má kia luôn cho người vả mặt có vẻ khiếp nhược, tha thứ kẻ thù biết đâu tiêu diệt ý chí đấu tranh! Giữ sự trong sạch thời còn tuổi trẻ e là dại dột uổng phí, cố gắng bảo toàn sự chung thủy và mối giây hôn nhân sau khi đã có những rạn nứt xem ra lỗi thời, có nguy cơ tự đày đọa mình trong hỏa ngục trần gian.” Và vì thế chúng ta miễn cưỡng chịu đựng, sống đạo một cách ơ hờ, hoặc lạm dụng tòa cáo giải, hay đến mức cuối cùng là cho mọi sự đi đong! Nhưng một niềm tin chỉ xây trên nỗi sợ phạt và lòng mong thưởng thì luôn luôn tìm kiếm kẽ hở, đưa đến những kiểu lý luận như sau: “Tới mức nào thì tôi mới bị xem là phạm lỗi ? Có thể ăn cắp bao nhiêu mà chưa phải là tội trọng? Tôi có thể buông thả đến độ nào mà chỉ lỗi nhẹ điều răn thứ sáu ? Tôi có thể cho ít bao nhiêu mà vẫn chu toàn bổn phận Ki-tô hữu?” Thái độ này là thái độ của một nô lệ, một gia nhân chứ không phải là của một người con Thiên Chúa.
Hay ngược lại, chúng ta có thể coi điều răn như một cái gì thăng tiến bản thân, một biểu hiện tình yêu của Cha trên trời, một phương thế Chúa dùng giáo dục con tim nhân loại vốn luôn nghiêng chiều về lòng ích kỷ. Và từ đó chúng ta sẽ giữ với lòng yêu mến biết ơn. Mà quả thật, nếu chịu khó suy nghĩ tìm hiểu, ta sẽ thấy các điều răn Thiên Chúa, giới luật Hội Thánh, dẫu đôi khi rất đòi hỏi, vẫn là những chỉ dẫn tốt đẹp, đưa chúng ta đạt tình yêu chân chính, hoàn thiện đúng nghĩa, đưa xã hội tới bình an trường tồn, văn minh đích thực. Hay nếu chưa hiểu thì cũng coi các điều răn Đức Giê-su dạy như những cơ hội để chúng ta biểu lộ tình yêu đối với Người. Một niềm tin xây dựng trên tình yêu như thế luôn tìm dịp làm đẹp lòng Thiên Chúa và phục vụ anh em, đưa tới những kiểu lý luận: “Tôi có thể làm gì để chứng tỏ lòng yêu mến Chúa và giúp anh em hơn nữa ? Bác ái thế này vẫn chẳng thấm vào đâu! Đừng ngại nhờ đến tôi bất cứ lúc nào!” Đó thực là thái độ của một người con Thiên Chúa, một môn đệ của Đức Giê-su.
2. Giữ điều răn nếu yêu mến.
Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thường chỉ muốn yêu mến Chúa mà khỏi giữ điều răn của Người. Thế mà Người lại bảo: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ tuân giữ lời Thầy” và thêm: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại nơi người ấy” (Ga 14,23). Câu nầy đưa chúng ta lên đỉnh cao vời và vào cõi dịu ngọt, nhưng bốn từ giữ ta lại với thực tế, và thường chúng ta chẳng muốn nghe chúng: “Tuân giữ lời Thầy”. Giữ lời, hay giữ điều răn, không phải là chuyện ít nhiều tùy ý trong đà tình yêu của chúng ta đối với Đức Giê-su. Thậm chí đây cũng chẳng phải là một lẽ đương nhiên, như thể nếu yêu mến Đức Giê-su, tôi sẽ phải giữ các điều răn của Người. Từ “nếu” liên kết khát vọng mến Chúa của chúng ta với thái độ sống của chúng ta cách rất mạnh mẽ: tôi chỉ yêu mến khi tôi vâng lời Người, bởi lẽ tình yêu đích thật, cụ thể của tôi, đó là cái tôi thực hiện chứ không phải chỉ nhận ra hay ao ước. Người Pháp có câu tục ngữ: “Nền hỏa ngục được lát bằng thiện chí” (thiện chí đơn thuần). Các thất bại của chúng ta có nguồn gốc sau đây: không muốn cho rằng tình yêu chẳng phải là một từ ngữ, một giấc mơ, hay một tiếng tim đập, mà là một thái độ sống, một cách ăn nết ở.
Khi người ta chiêm niệm với thánh Gio-an, thái độ sống ấy hiện ra thật rõ rệt: “Ta phải yêu mến anh em”. Với tình yêu Đức Giê-su dùng để yêu loài người, thứ tình yêu múc lấy từ việc Người liên kết với Chúa Cha. Thái độ sống huynh đệ của chúng ta nối dài cái đã được sống trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Mối dây bền chặt nối kết ước vọng mến Chúa rất thật của chúng ta với cái chúng ta làm cụ thể từ sáng tới chiều bằng trí khôn và đôi tay, qua các cuộc gặp gỡ huynh đệ của mình là như thế đấy. Nếu trong tất cả những điều ấy mà không có tình yêu thì đừng nói đến tình yêu đối với Thiên Chúa. “Chính khi yêu anh em con, Đức Giê-su bảo ta, là con yêu chính Thầy.”
Trong ánh sáng đó, bản văn hôm nay nói cho ta hay làm sao sự vắng mặt bề ngoài của Thiên Chúa có thể là một kinh nghiệm hiện diện liên tục. Hiện diện của Ba Ngôi, như đã được nêu ngay từ đầu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban Thánh Thần cho anh em.” Thánh Thần này là Thần khí Tình yêu, vì Người là mối dây nối kết Chúa Cha với Chúa Con, đồng thời nối kết chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Người cũng là Thần khí Sự thật như Đức Giê-su nêu rõ, vì Người cho ta biết một sự thật bao trùm mọi sự thật: Thiên Chúa là Tình yêu! Tình yêu là bản tính của Thiên Chúa và phải là động lực duy nhất của con người. Khi gia tăng tình bác ái huynh đệ, chúng ta cảm nhận ngay sự ngọt ngào được sống với Đức Giê-su chính kinh nghiệm làm Con của Người, trong dòng tình yêu mầu nhiệm của Ba Ngôi.
Nhưng tất cả những điều ấy sẽ gây một ấn tượng không thực, hay càng khiến người ta thấy Thiên Chúa như vắng mặt cách tàn nhẫn nếu chúng ta không quyết tâm tìm sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình. Mỗi khi muốn suy niệm về mối tương quan của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, hãy bắt đầu bằng cách giữ thật tốt các tương quan huynh đệ. Chính các tương quan này bảo đảm cho chúng ta thực sự hiểu được Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa khi thực sống giới răn yêu thương. Bạn muốn hiểu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, hãy bác ái với mọi người đi đã, từ tư tưởng, ra lời nói, qua hành động.