Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống ABC Bài 151-200 Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ
------------------------------------ Lễ Vọng: Phúc Âm: Ga 7,37-39; "Phát sinh nước hằng sống"
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan. Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: "Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông". Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh. - Ðó là Lời Chúa.
***** Chính ngày: Phúc Âm: Ga 20,19-23: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------------
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ. Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài. Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt. Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài. Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới. Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy. Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.
Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ. Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa. Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.
Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi. Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm. Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới. Đường đi xuất hiện rõ ràng. Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.
Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu. Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa. Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ. Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.
Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố. Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm nay đầy những bóng tối. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Ngọn lửa Thánh Thần có tác dụng gì trên các Tông đồ, làm cho các ngài thay đổi mãnh liệt? 2) Bạn có cảm nhận được Chúa Thánh Thần trong đời bạn không? 3) Để mình bị biến đổi, để mình bị thúc đẩy trên đường dấn thân làm việc phục vụ, dễ hay khó? --------------------------------
Qua các bài tường thuật của các bản Phúc Âm, chúng ta đã biết được rằng ngay trong buổi chiều Phục Sinh, Ðức Giêsu đã vội đến với các môn đệ của Người. Vì tất cả họ đều vô cùng hoảng hốt khiếp sợ. Họ đã gài then, đóng chặt cửa nhà lại để không một ai từ bên ngoài có thể vào nhà họ được. Họ hoàn toàn tự cô lập khỏi thế giới đồng loại. Và chính trong hoàn cảnh và tâm trạng đó, họ đã gặp được Ðức Giêsu, Ðấng đã mở ra cho tương lai đời họ, những con người khép kín và nhát sợ, những triển vọng hoàn toàn mới mẻ và bất ngờ.
Tôi nghĩ rằng sự hiện ra của Ðức Giêsu là hoàn toàn do sáng kiến tự nguyện của Người. Vì về phía các môn đệ, xem ra họ không còn mong đợi chuyện đó nữa, mặc dù bà Maria Ma-đa-lê-na đã tường trình cho họ nghe là bà đã gặp lại được Ðấng Phục Sinh rồi. Vâng, họ đã đóng chặt cửa nhà lại, để “nội bất xuất, ngoại bất nhập”! Qua đó thánh sử đã muốn nói lên rằng: Không có bất cứ một hệ thống an ninh nhân loại nào có thể ngăn cản được sự hiện diện của Ðức Giêsu giữa các môn đệ của Người.
Những hình ảnh đánh dấu tình trạng các môn đệ lúc bấy giờ thật đáng ghi nhận: Sợ hãi, nhà cửa đóng kín, một bầu không khí đầy vẻ tang tóc ảm đạm, v.v…mà ngày nay người ta sẽ gọi là tình trạng tâm lý suy sụp, đổ vỡ! Vâng, sau biến cố Ngày Thứ Sáu Khổ Nạn, các môn đệ trở nên sợ hãi và sống khép kín, tâm lý các ngài trở nên bất ổn suy sụp, không chỉ vì sợ người Do-thái, nhưng còn vì quá thất vọng cho suốt ba năm theo chân Thầy, vì bị bạn bè làng xóm mỉa mai chê cười là nhẹ dạ nông nổi và nhất là lo cho tương lai rồi đây không biết sẽ đi về đâu!
Đức Maria và các Tông Đồ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trong ngày Hiện Xuống
Khi tôi đọc và suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, nẩy sinh trong tôi ý tưởng là sự thể về các môn đệ được trình thuật trong bài Tin Mừng có lẽ cũng trùng hợp với tình trạng ngày nay trong Giáo Hội. Người ta có thể so sánh tâm trạng lo sợ, khép kín và suy sụp của các môn đệ xưa với sự lo sợ phải sống đức tin vào Ðức Giêsu một cách triệt để của một số kitô hữu ngày nay; nói cách khác, người ta đâm ra ngại ngùng và cả đến sợ hãi nữa, khi phải bày tỏ công khai niềm tin đầy xác tín của mình. Chẳng hạn, họ cho rằng nếu sống đạ “một cách tuyệt đối quá, nghĩa là thực hành đúng đắn và sít sao tất cả những gì Ðức Giêsu đòi hỏi, có lẽ sẽ gây ra đụng chạm và bất bình nơi nhiều người. Họ sợ bị coi là quá khích hay bất khoan dung, và từ đó sẽ sinh ra bất an trong giáo xứ. Họ sợ có thể đưa tới sự bất cộng tác, và cả thái độ lơ là đối với đời sống đạo nơi một số người trong giáo xứ, hoặc những sự khó khăn rắc rối tương tự khác có thể xảy ra, v.v… Nhưng những suy tư lo lắng như thế là vô căn cứ, nếu không nói là một sự ngụy biện, vì ngược lại, đời sống sinh hoạt của một xứ đạo có đầm ấm, có sống động, nhất là có còn là kitô giáo nữa hay không, là hoàn toàn tùy thuộc đức tin của chúng ta vào Ðức Kitô, nghĩa là thực thi tất cả những giới răn của Người, và tùy thuộc sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Ðó chính là trọng điểm của đại lễ Hiện Xuống mà chúng ta đang cử hành hôm nay: Ðức Giêsu Phục Sinh bỗng nhiên hiện diện giữa các môn đệ của Người, khi cửa đóng then cài; vì Thần Khí Thiên Chúa tác động thế nào, ở đâu và khi nào là tùy Người muốn, chứ không hề bị bất cứ quyền lực thế gian nào ngăn cản.
Một thí dụ điển hình về điều đó là ngày Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII khi bỗng nhiên được linh ứng – theo chính lời ngài nói – đã loan báo triệu tập Công Ðồng chung Vatican II, mà ngài coi là một lễ Hiện Xuống mới! Tôi nghĩ rằng Ðức Giáo Hoàng có lý! Vì từ lúc bấy giờ mọi cửa ra vào và mọi cửa sổ của tòa nhà Giáo Hội đều được mở tung. Mỗi người đều có thể nghe được sứ điệp Kitô giáo bằng ngôn ngữ riêng của mình, đều hiểu được biến cố Hiện Xuống được trình thuật trong Công Vụ Tông Ðồ. Mặc dù phải đối mặt với nhiều chống đối, sau cùng Công Ðồng cũng đã được triệu tập, các vị Giám Mục từng dè dặt cũng đã tham gia, các vị giáo chủ từng nghi ngờ do dự cũng đã cộng tác, và đời sống Giáo Hội đã được cặn kẽ kiểm tra và xem xét lại, một luồng gió mới và mát mẻ đã được thổi vào lòng Giáo Hội, đến nỗi người ta đã nhận ra được ranh giới rõ ràng phân biệt hai giai đoạn trong lịch sử Giáo Hội: Thời tiền Công Ðồng và thời hậu Công Ðồng!
Tinh thần canh tân đã làm cho Công Ðồng mang đầy ý nghĩa. Nhiều đổi mới của Công Ðồng mà mấy thập niên về trước còn được coi là “phá rào” hay “cách mạng”, thì ngày nay đã trở thành những điều đương nhiên. Trong nhiều cách và dưới nhiều hình thức, các thành viên của giáo xứ ngày nay đã cùng cộng tác vào việc tổ chức đời sống giáo xứ, cả trong những lãnh vực, mà trước kia hoàn toàn chỉ dành cho một mình cha quản xứ. Cách đây khoảng 30, 40 năm về trước, thật là một điều không thể tưởng tượng được, là các bậc phụ huynh tự đảm nhiệm - hay cùng với cha xứ và các giáo lý viên - công việc giúp các con em và thanh thiếu niên trong xứ dọn mình xưng tội rước lễ lần đầu hay chịu phép thêm sức, hoặc những người giáo dân giúp cho rước lễ, v.v… Và còn biết bao nhiêu thí dụ khác trong đời sống Giáo Hội. Tất cả cho phép chúng ta đưa ra được một kết luận chung: Người kitô hữu hôm nay đã ý thức được rằng mình là Giáo Hội, là thành phần Dân Chúa và góp phần xây dựng cộng đồng giáo xứ theo khả năng và cách thức của mình. Cũng như xưa kia, trước hết tất cả mọi người – đàn ông, đàn bà, trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành, ông già bà cả và tầng lớp trung niên, v.v…- đều được kêu mời hãy dấn thân vào cuộc sống của cộng đồng giáo xứ với tất cả lòng nhiệt thành và hăng hái của mình, hầu cho qua đó Thần Khí Ðức Giêsu có thể tự do hoạt động trong giáo xứ!
Dĩ nhiên, đó là một điều dễ nói nhưng không dễ thực hiện. Rất có thể sẽ xảy ra tình trạng là Thần Khí của Ðức Giêsu xuất hiện như một niềm vui mừng trọng đại và hoàn toàn bất ngờ cho con người, nhưng cũng có thể những tác động của Người không được đón nhận hay bị phản đối. Ông Wilhelm Stählin đã nói về điều đó như sau: “Chúng ta không nên cầu xin Ðức Chúa Thánh Thần đến ngự giữa chúng ta như một điều tất nhiên, bởi vì Ðức Chúa Thánh Thần ngự ở đâu và chọn nơi nào làm chốn Người ngự, thì không những Người mang đến “ơn sủng”, nhưng đồng thời Người cũng là Thần Khí của những đòi hỏi gắt gao, vâng, Thần Khí làm đảo lộn … Chính Chúa Thánh Thần, Ðấng mà chúng ta hằng sốt sắng kêu cầu và đồng thời cũng là sức mạnh làm đảo lộn tất cả những sự tự tín quá khích vào khả năng riêng mình nơi từng cá nhân hay nơi các cộng đoàn tôn giáo; Người là sự công kích của Thiên Chúa vào tất cả tính ù lì bất động và sự tự mãn của chúng ta; Người không hề kiêng nể trước bất cứ định chế sẵn có nào, trước bất cứ trật tự nào, nếu như định chế hay trật tự đó đã trở thành mục đích, chứ không còn là phương tiện nữa…
Ai tin vào Chúa Thánh Thần như là sức mạnh sáng tạo của Thiên Chúa và trong niềm tin đó cầu xin Người ngự đến, người đó phải biết rằng anh đã kêu xin sức mạnh làm đảo lộn của Thiên Chúa và hãy sẵn sàng chấp nhận để cho Thiên Chúa đảo lộn nơi con người anh tính tham chức quyền của cải, những thói quen và cả trong những cách thức tư duy của anh, nếu như tất cả chúng không xứng đáng làm chiếc bình chứa đựng sự xáo động có tính cách cải tiến và sự thật đầy năng động. Vậy, ai cầu xin:“Nguyện Chúa Thánh Thần, xin ngự đến”, thì cũng phải cầu xin: Nguyện xin Ngài hãy đến và làm đảo lộn nơi con những chỗ nào con cần phải được đảo lộn!“
Dành chỗ cho Thần Khí Ðức Giêsu trong tâm hồn mỗi người chúng ta và trong cộng đồng giáo xứ là một điều minh nhiên! Nhưng nhiều người đã lập tức nêu lên câu hỏi: Dựa vào đâu để tôi có thể biết được rằng tôi - với tư cách là cá nhân hay cộng đồng - thực sự sống và hành động bởi Thần Khí Ðức Giêsu? Thánh Phaolô đã mau mắn trả lời thay cho chúng ta: Thánh Thần luôn hiện diện ở đâu có bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ, v.v… như là hoa quả cũng những hành động của chúng ta (x. Gl 5,22).
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến. Lạy Ðấng ban sự sống, xin tuôn đổ trên chúng con sức mạnh của Chúa!” Amen
Một Chúa mà có ba ngôi. Chúa Giêsu, ngôi thứ hai làm người có hình hài thân xác, chung sống giữa mọi người. Nhưng ngôi thứ ba, đức Chúa Thánh Thần, không có hình hài thân xác. Ngài là ngọn gió và cũng là ngọn lửa.
Gío thì cảm nhận được và nghe âm vang được, nhưng không thấy được. Còn lửa thì không nghe được, nhưng cảm nhận được và nhìn thấy được:„ Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.“ (Cv 2,3).
Ðức Chúa Thánh Thần ẩn dấu, nhưng lại có thể nhận ra được qua hình ngọn lửa!
Lửa là hình ảnh linh thiêng trong nhiều nền văn hóa. Nước vọt lên từ lòng đất. Nhưng lửa tỏa chiếu xuống từ trời cao. Lửa là cái gì thần thiêng thánh đức. Và trong nhiều nền văn hóa lửa còn là một vị Thần.
Lửa tẩy sạch những dơ bẩn và làm mới lại
Khi hàn xì sắt thép, người thợ không chỉ rửa sạch chỗ sắp hàn bằng nước cho sạch, nhưng còn dùng lửa đốt hơ nóng chỗ đó cho sạch những hết những rỉ xét hay chất sơn keo cũ còn đóng ăn sâu cho sạch và sau đó mới đem chì, thép hàn gắn lại.
Người thợ kim loại luyện thép, đúc vàng làm nữ trang cũng trôi luyện qúy kim bằng lửa nóng cháy cao độ tách những gì không là vàng, là kim loại ra khỏi, để chỉ còn lại vàng, kim loại tinh ròng. Trong lò đốt rác chất độc, lửa cháy nóng cực độ làm tan biến rác chất độc, sau cùng chỉ còn lại tro bụi.
Lửa thiêu đốt cái gì cũ dơ bẩn và mang đến sự sống mới tinh ròng.
Chúng ta cầu xin lửa Ðức Chúa Thánh Thần đến cháy sáng trong ta. Thiêu đốt những gì làm cản trở đời sống như sự lo âu buồn phiền, sự sợ hãi, đắng cay, thất vọng, ý nghĩ điều xấu xa tội lỗi, ý nghĩ tự ty mặc cảm yếu hèn. Khi những cản trở này tan biến, đời sống trở nên sáng sủa, trái tim trở nên trong sạch chân thành vui tươi.
Lửa là hình ảnh sức sống vươn lên
Nhìn vào một em bé bạn trẻ ta bắt gặp ánh mắt trong sáng như lửa chiếu tỏa ánh sáng. Ai đang lúc giận dữ cũng có ánh mắt đỏ ngầu bừng nóng như lửa cháy. Khi đức cố Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị xuất hiện đến với con người, nhất là với Bạn Trẻ, một làn sóng tưng bừng nổi lên lan tỏa như ánh lửa từ ngài phát tỏa ra. Làn sóng ánh lửa linh thiêng đó, như đốt cháy bừng sáng tâm hồn các Bạn trẻ đang có mặt ở đó lúc ngài xuất hiện.
Chúng ta cầu xin lửa Ðức Chúa Thánh Thần xuống đánh thức khơi lên sức sống, đốt cháy khơi dậy lòng phấn khởi vui tươi. Nhất là những khi tâm hồn đời sống như „ trống rỗng hết pin, hết sức lực“.
Nhiều người trong đời sống chỉ lo biết mở cửa lòng, mở sức lực ra bên ngoài, làm tiêu hao lửa nhiệt huyết đời sống, đến nỗi than hồng cũng dịu tắt lịm luôn, chỉ còn lại tro tàn sự thất vọng chán chường buông xuông. Họ đã quên gìn giữ bảo vệ lửa tâm hồn đời sống mình.
Lễ Ðức Chúa Thánh Thần muốn nhắn nhủ, trong tận thâm sâu của trái tim tâm hồn đốm than hồng sự sống còn đó. Từ đốm than hồng đó ngọn lửa sức sống được thổi vươn lên cho thể xác lẫn tinh thần.
Lửa Ðức Chúa Thánh Thần khơi bừng dậy đốm than hồng nằm tận sâu thẳm trong tâm hồn, mà ta tưởng như đã tàn lụi tắt lịm rồi. Lửa Chúa Thánh Thần mang đến sự nồng ấm và niềm vui cho sức sống tâm hồn vươn lên cao.
Lửa nối kết
Buổi tối ngày cắm trại Bạn Trẻ thường hay tự tập bên đống lửa vừa sưởi ấm, vừa ca hát kể chuyện và cũng tìm thời giờ thư giãn sau một ngày sinh hoạt mệt nhọc. Ánh lửa bập bùng chiếu tỏa ánh sáng hơi nóng từ những thanh củi cháy bốc cao một vùng trời. Tâm hồn Bạn Trẻ cũng nóng bừng niềm vui phấn khởi dâng cao theo. Giờ phút bên ánh lửa trại họ cảm thấy gần gũi nhau. Lửa phát tỏa ánh sáng thu hút và liên kết họ lại bên nhau.
Vào những ngày chuẩn bị đón mừng lễ Ðức Chúa Thánh Thần hiện xuống mọi tín hữu xin lửa Chúa Thánh Thần chiếu sáng tập họp mọi người vào trong Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô, Giáo hội tình yêu và cầu nguyện.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thay đổi bộ mặt trái đất chúng con!
LM. Nguyễn Ngọc Long --------------------------------
Trong Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, bài Tin Mừng nhắc lại cách rõ ràng việc Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cùng ban quyền cho các Tông Đồ để các Ngài thay Người mà tha tội. Tuy vậy vẫn có nhiều người thắc mắc rằng tại sao chúng ta phải xưng tội với các linh mục? Các ngài cũng là người như chúng ta mà làm sao có quyền tha tội? Mục đích của bài này không phải là để viết về Bí Tích Hoà Giải mà chỉ để trả lời những câu hỏi này, đặc biệt là cho các bạn trẻ và các Giáo Lý viên.
Đây là một trong những thắc mắc chính mà nhiều người Tin Lành đặt ra cho người Công Giáo làm cho chúng ta đôi khi cũng nghi ngờ sự cần thiết của việc xưng tội và hiệu quả của Bí Tích Hòa Giải.
Hơn bốn thế kỷ qua, người Tin Lành đả phá việc xưng tội như một cách các linh mục dùng để điều tra giáo dân cho "biết tẩy" họ để rồi các ngài tha hồ thao túng họ. Nhưng sau nhiều năm không chấp nhận Bí Tích Hòa Giải, một số người ngoài Công Giáo, nhất là các mục sư Tin Lành, đã nhận ra quyền năng của xưng tội trong việc giải thoát con người khỏi mặc cảm tội lỗi. Chúng ta sẽ lần lượt phân tích xem ích lợi thực sự của việc xưng tội ra sao không những cho linh hồn mà cả cho thể xác chúng ta.
1. Thú tội là một cách chữa bệnh tâm thần
Ngày nay người ta dùng việc thú tội như một cách chữa các bệnh tâm thần hoặc nghiện ngập. Y học dùng tập trung tư tưởng hoặc thôi miên để giúp bệnh nhân nhớ lại những việc họ đã làm trong quá khứ. Nhận biết lỗi lầm của mình và nói ra những lỗi lầm ấy trước mặt người khác là bước đầu trong việc chữa lành các bệnh tâm thần. Cách này được dùng rất nhiều trong việc chữa các bệnh nghiện ngập như nghiện rượu, ma túy, và các phim ảnh dâm dật, cùng trong việc cố vấn hôn nhân.
2. Một số các mục sư Tin Lành nổi tiếng đang cổ võ việc xưng tội
Sau nhiều năm chối bỏ Bí Tích Hòa Giải, một số mục sư Tin Lành thời nay đã nhận ra quyền năng chữa lành của việc xưng tội và đang dùng nó dưới hình thức cố vấn hoặc chữa bệnh tâm thần.
Mục sư Norman Vincent Peale viết trong tập san Guidepost (Tháng 4, 1989) rằng: Việc thú nhận lỗi lầm của mình trước mặt người khác là điều rất quan trọng bởi vì nó đưa những tội lỗi thầm kín ra ánh sáng để chúng ta có thể đương đầu với chúng.
Mục sư Robert Schuler viết trong sách "The be Happy-Attitude" (trang 127) rằng: nếu chúng ta không bao giờ chia sẻ với bất cứ người nào khác về điều gì bất hợp pháp hoặc vô luân mà mình đã làm hay toan tính làm trong bí mật, chúng ta không được giải thoát khỏi những cảm giác tiêu cực. Những cảm giác tiêu cực như thế sẽ làm cho chúng ta mất niềm tin vào Thiên Chúa.
Mục sư Quaker Richard Foster dành nguyên một chương cho việc thú tội trong sách "The celebration of Discipline: The Paths to Spiritual Growth" của ông. Ông quả quyết rằng tất cả mọi Kitô hữu cần phải thú tội và phải cảm nghiệm được ơn tha tội của Đức Kitô.
3. Đó là lý do tại sao Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo viết
Ngay trên bình diện thuần nhân loại, xưng tội hay thú tội giải thoát và giúp chúng ta dễ dàng hòa giải với anh em. Qua việc thú tội, con người nhận mình là tội nhân, nhận trách nhiệm về tội lỗi đã phạm, nhờ đó lại sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa và hiệp thông với Hội Thánh để có một tương lai mới (x. GLCG 1455).
4. Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Hòa Giải để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi
Đức Chúa Giêsu Kitô, vì là Thiên Chúa, nên biết rõ hơn ai hết sự cần thiết của việc "phải nói với người khác bí mật của bạn" cho nên Người đã thiết lập bí tích Hòa Giải để chúng ta trực tiếp đến với Người và nói cho Người biết những bí mật của chúng ta. Để đảm bảo cho chúng ta rằng Người có QUYỀN tha tội và có thể trao quyền này cho các Tông Đồ, Thánh Kinh viết:
“Nhưng để các ông biết rằng Con Người có quyền tha tội ở dưới đất này...” (Mc 2:10).
"Và Thầy cũng bảo con rằng con là Phêrô, (nghĩa là Ðá,) và trên chính đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cổng âm phủ sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời, và bất cứ sự gì con cầm buộc dưới đất, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, bất cứ sự gì con tháo mở dưới đất, cũng sẽ được tháo mở trên trời" (Mt 16:18-19).
Vào buổi chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, khi các cửa nơi các môn đệ ở đều đóng kín vì sợ người Do Thái. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói, “Bình an cho các con!” Khi nói xong, Người chỉ cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ vui mừng khi các ông thấy Chúa. Chúa Giêsu lại bảo các ông, “Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.” Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc” (Ga 20:19-23)
5. Những giải thích căn bản theo Giáo Lý Công Giáo
Tội trước hết là xúc phạm đến Thiên Chúa và làm tổn thương sự hiệp thông với Hội Thánh. Vì thế, khi hoán cải chúng ta được Thiên Chúa tha thứ đồng thời được hòa giải với Hội Thánh (x. GLCG 1440).
Tuy chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, nhưng vì là Con Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu có quyền tha tội, và Người đã ban quyền này cho một số người để họ nhân danh Người mà tha tội (x. GLCG 1441-1442).
Trong đời sống công khai, chẳng những Chúa Giêsu tha tội, Người còn cho thấy hiệu quả của việc tha tội: Người đã đưa những người được tha tội trở lại cộng đồng dân Chúa vì tội đã tách lìa họ khỏi cộng đồng. Khi cho các Tông Đồ chia sẻ quyền tha tội, Chúa cũng cho các ngài quyền giao hòa tội nhân với Hội Thánh. Ai bị các Tông Đồ loại trừ khỏi sự hiệp thông với Hội Thánh, cũng không được hiệp thông với Thiên Chúa; ai được hiệp thông trở lại, cũng được thông hiệp lại với Thiên Chúa (x. GLCG 1443-1445).
Bí tích này được gọi là bí tích Hoán Cải, bí tích Thống Hối, bí tích Xưng Tội vì việc xưng tội với linh mục là một yếu tố cần thiết của bí tích này; bí tích Tha Tội, bí tích Hòa Giải, vì ban cho tội nhân ơn giao hòa của Thiên Chúa. (x. GLCG 1423-1424)..
Thống hối nội tâm của Kitô hữu có thể được diễn tả bằng nhiều cách. Quan trọng nhất là giữ chay, cầu nguyện và bố thí. Trong đời sống hằng ngày, việc hoán cải được thể hiện qua việc giao hoà, lo lắng cho người nghèo, thực thi cũng như bảo vệ công lý và hòa bình, bằng việc nhận lỗi, sửa lỗi cho nhau, xét lại cách sống, xét mình, linh hướng, chấp nhận đau khổ, kiên trì khi bị bách hại vì sự công chính. (x. GLCG 1434).
Bình thường xưng tội cá nhân và trọn vẹn, sau đó giải tội, là hình thức duy nhất để tín hữu giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh. Ðức Kitô hành động trong mỗi bí tích. Người đích thân nói với từng tội nhân: "Này con, tội con đã được tha". Người nâng dậy và dẫn họ về hiệp thông lại với anh em. Như thế việc xưng tội riêng là hình thức có ý nghĩa nhất trong việc giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh. (x. GLCG 1484).
Tội nhân muốn giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh, phải xưng cùng linh mục tất cả những tội trọng chưa xưng thú và nhớ được sau khi đã xét mình kỹ lưỡng. Hội Thánh tha thiết khuyên xưng các tội nhẹ, mặc dù điều đó không buộc (GLCG 1493).
Công thức giải tội trong Giáo Hội Latinh diễn tả những yếu tố cốt yếu của bí tích: Chúa Cha từ ái là nguồn mọi ơn tha thứ. Người thực hiện việc giao hòa tội nhân nhờ cuộc vượt qua của Chúa Con và hồng ân Thánh Thần, qua lời nguyện và thừa tác vụ của Hội Thánh:
Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa, mà giao hòa thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội; xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh, mà ban cho anh (chị) ơn tha thứ và bình an. Vậy, tôi tha tội cho anh (chị) nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần (x. OP 46: Công thức giải tội) (GLCG 1449).
6. Ích lợi của Xưng Tội
Bí tích Hoà Giải là một món quà vô giá mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Nếu chúng ta quý trọng và sử dụng bí tích này cách thường xuyên, chúng ta sẽ thấy mình nhận được rất nhiều ơn ích.
a) Bí tích này giúp chúng ta cảm thấy chắc chắn rằng mình được Thiên Chúa tha tội - Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta bằng những cách khác, nhưng Người đã chọn làm người để ở cùng chúng ta. Người biết rằng chúng ta là con người có hồn và xác. Người hiểu rằng chúng ta cần phải bày tỏ sự ăn năn của mình và cần phải biết chắc rằng tội mình được tha. Người đến thế gian như một con người để chúng ta được gặp Người và nghe lời Người tha tội cho chúng ta. Trong bí tích Hòa Giải, Người cho chúng ta gặp riêng Người qua vị linh mục và nghe rõ ràng từ miệng Người: "Tội con đã được tha" như Người đã làm khi Người còn rao giảng nơi dương thế. Người hứa rõ ràng trong Tin Mừng rằng Người đã ban cho các môn đệ của Người quyền tha tội (x. Ga 20:19-23). Vì sự bảo đảm này, chúng ta ra về bình an.
b) Bí tích này giúp chúng ta đương đầu với vấn đề tội trọng - Bằng cách nhìn nhận các tội của mình và xưng chúng ra, chúng ta nhận thức rằng mình đã làm những điều dữ, nhưng chúng ta không phải là người dữ. Sau khi xưng tội và nhận được ân sủng của Chúa, chúng ta có thể xa lánh tội lỗi cách dễ dàng hơn là dựa vào sức mình mà tránh tội.
c) Bí tích này giúp chúng ta đương đầu với tội nhẹ - Nếu không xưng tội chúng ta không biết rằng mình xa Thiên Chúa thế nào khi mình chỉ phạm tội nhẹ. Nhiều người trong chúng ta vì lâu ngày không xưng tội cảm thấy là mình chẳng có tội gì để xưng. Nhưng sau khi xét mình cẩn thận, chúng ta mới biết rằng mình đã từ từ xa cách Thiên Chúa vì những ích kỷ nhỏ nhặt, nuông chiều xác thịt, tự hào, lười biếng, nói hành nói xấu, thiếu kiên nhẫn, bất công đối với người khác.... Những tội nhẹ nho nhỏ này sẽ từ đẩy ân sủng của Thiên Chúa ra khỏi lòng chúng ta, làm cho chúng ta ra yếu đuối, và đưa chúng ta đến tội trọng.
d) Bí tích này nhắc cho chúng ta đừng coi nhẹ tội lỗi - Tội của chúng ta, nếu tội nhẹ, là hành động từ chối tình yêu của Chúa Giêsu, là vả vào mặt Chúa hay đâm một cái gai nhọn vào đầu Chúa, hoặc đánh một roi đòn vào lưng Chúa. Nếu là tội trọng, thì chúng ta đóng đanh Chúa. Mỗi khi chúng ta đi xưng tội, là chúng ta ý thức rằng mình đã hành hạ Chúa Giêsu như thế nào, và cố gắng hàn gắn những sứt mẻ trong mối liên hệ của mình với Thiên Chúa do tội mình gây ra.
e) Nhờ lãnh nhận bí tích Hòa Giải, chúng ta lại thấy mình xứng đáng làm phần tử của cộng đoàn Đức Tin - Khi chúng ta phạm tội, chúng ta không chỉ phạm đến Chúa Giêsu, mà cũng làm tổn thương Hội Thánh, là Nhiệm Thể của Người. Khi chúng ta lãnh nhận bí tích Hòa Giải, chúng ta cũng hòa giải với Nhiệm Thể của Người và trở thành phần tử tốt của Hội Thánh.
7. Kết Luận
Mục đích và hiệu quả của bí tích Hòa Giải là giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Bí tích này cũng giao hòa chúng ta với Hội Thánh. Việc giao hòa với Thiên Chúa còn dẫn tới những sự giao hòa khác là chữa lành các vết thương do tội gây ra: chúng ta được giao hòa với chính mình, nhờ đó tìm lại được chính mình; được giao hòa với anh em là những người chúng ta đã xúc phạm và gây thương tổn. Khi thống hối và tin tưởng quay về với Đức Kitô, chúng ta "sẽ từ cõi chết bước vào cõi sống và khỏi bị xét xử" (x. GLCG 1468-1470).
8. Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận
1) Tại sao y học dùng việc thú tội để chữa bệnh tâm thần? 2) Tội là gì và gây ra hậu quả nào trên tội nhân và người khác? Hãy kể ra ba tội trọng và hậu quả của chúng. 3) Phải có những điều kiện nào để một tội thành tội trọng? 4) Tại sao Hội Thánh lại có quyền tha tội? Tìm những dẫn chứng trong Thánh Kinh để chứng minh cho câu trả lời của bạn. 5) Hãy chia sẻ với người khác về cảm giác của bạn sau khi xưng tội.
(Bài này được viết dựa theo sách "I Believe!" và "The Privilege of Being Catholic" của Cha Oscar Lukerfahr, C.M. và sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.)
Sáng thứ tư 7-5-2008 đã có hơn 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung với Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Bên cạnh các đoàn hành hương Tây Âu và Bắc Mỹ cũng có các đoàn hành hương Đông Âu như Hungari và Croat. Từ Á châu có các nhóm hành hương Ấn Độ, Indonesia và Đại Hàn.
Trong các khách cấp cao hiện diện đặc biệt có Đức thượng Phụ Karekin II Giáo Chủ Giáo Hội Armeni Tông Truyền toàn thế giới đang hướng dẫn phái đoàn viếng thăm Tòa Thánh. Buổi tiếp kiến đã bắt đầu bằng lời chào mừng Đức Thượng Phụ và phái đoàn.
Vì đang trong tuần cửu nhật chuẩn bị mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về Chúa Thánh Thần như là tình bác ái vĩnh cửu và mối dây hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và mọi người trong cộng đoàn Giáo Hội khắp thế giới. Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, như anh chị em thấy, hiện diện giữa chúng ta hôm nay có Đức Katholicos Karekin II Thượng Phụ Giáo Chủ mọi tín hữu Armeni và phái đoàn đặc biệt. Tôi xin lần nữa bầy tỏ niềm vui được tiếp đón Người sáng nay: sự hiện diện của Người hôm nay làm sống dậy niềm hy vọng vào sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các tín hữu Kitô. Tôi cũng xin nhân dịp này cám ơn Người về sự tiếp đón dễ thương đã dành cho Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh mới đây tại Armeni. Tôi cũng vui sướng nhắc lại chuyến viếng thăm không thể quên được của Đức Thượng Phụ tại Roma hồi năm 2000, sau khi Người được bầu làm Thượng Phụ. Vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi là Đức Gioan Phaolo II đã trao tặng Người một thánh tích của thánh Gregorio Vị Sáng Soi và sau đó đi thăm đáp lễ Người bên Armenia.
Giáo Hội Armeni Tông Truyền nổi tiếng dấn thân cho cuộc đối thoại đại kết và tôi chắc chắn rằng cả chuyến viếng thăm lần này của Đức Thượng Phụ cũng góp phần củng cố các tương quan thân hữu huynh đệ nối kết các Giáo Hội của chúng ta. Các ngày chuẩn bị mừng lễ trọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống khích lệ chúng ta làm sống dậy niềm tin cậy vào sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần để tiến tới trên con đường đại kết. Chúng ta xác tín rằng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong việc kiếm tìm sự hiệp nhất, vì Thần Khí của Người hoạt động không mệt mỏi để nâng đỡ các cố gắng của chúng ta hướng tới việc thắng vượt mọi chia rẽ và khâu lại mọi vết rách trong cơ phận sống động của Giáo Hội.
Đó chính là điều Chúa Giêsu hứa với các môn đệ những ngày cuối cùng trong sứ mệnh trần gian của Ngài, như chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin Mừng: Ngài bảo đảm với các vị sự trợ giúp của Thánh Thần, Ngài sẽ gửi đến để tiếp tục làm cho các vị cảm nhận được sự hiện diện của Ngài (x. Ga 14,16-17). Lời hứa ấy trở thành sự thật khi Chúa Giêsu vào trong Nhà Tiệc Ly sau khi sống lại, và chào các môn đệ với các lời sau đây: ”Bằng an cho các con, và Ngài thổi hơi trên các ông và nói: ”Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Ngài cho các ông quyền tha tội. Như thế ở đây Thánh Thần hiện ra như là sức mạnh của việc tha tội, của việc canh tân con tim và cuộc sống của chúng ta, và như thế Người canh tân trái đất và tạo dựng sự hiệp nhất ở nơi đâu có chia rẽ.
Rồi trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Thánh Thần tỏ lộ ra qua các dấu chỉ khác: qua dấu chỉ của gió mạnh, của các lưỡi lửa và các Tông Đồ nói tất cả mọi thứ tiếng. Đây là một dấu chỉ mà sự phân tán bên Babilonia, hậu qủa của sự kiêu căng phân rẽ con người, đã được thắng vượt trong Thánh Thần, là tình bác ái trao ban hiệp nhất trong sự khác biệt. Ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống của mình Giáo Hội nói mọi thứ tiếng - nhờ sức mạnh của Thánh Thần và nhờ các lưỡi lửa - và Giáo Hội sống trong tất cả mọi nền văn hóa, không phá hủy gì trong các ơn và các đặc sủng khác nhau, nhưng thâu tóm tất cả vào trong một sự hiệp nhất mới mẻ và lớn lao hòa giải: hiệp nhất trong đa dạng.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Thánh Thần là tình bác ái yêu thương, là mối dây sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, kết hiệp các người tản mác với sức mạnh của mình trong tình bác ái của Thiên Chúa, và như thế tạo ra cộng đoàn Giáo Hội to lớn và đa dạng trên toàn thế giới này.
Trong những ngày sau lễ Chúa lên trời cho đến Chúa Nhật Ngũ Tuần, các môn đệ đã cùng với Mẹ Maria tụ họp trong Nhà Tiệc Ly để cầu nguyện. Các vị biết là không thể tạo ra tổ chức Giáo Hội: Giáo Hội phải sinh ra và được tổ chức do sáng kiến của Thiên Chúa. Nó không phải là một thụ tạo mới, mà là một ơn của Thiên Chúa. Và chỉ như thế Giáo Hội mới tạo ra cả sự hiệp nhất, một sự hiệp nhất phải lớn lên. Giáo Hội trong mọi thời, đặc biệt là trong 9 ngày giữa lễ Thăng Thiên và lễ Hiện Xuống, hiệp nhất tinh thần trong Nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ và Đức Maria để liên lỉ khẩn nài Thánh Thần xuống. Được làn gió mạnh của Người thổi Giáo Hội sẽ có khả năng loan báo Tin Mừng cho tới tận cùng bờ cõi trái đất. Từ đó Đức Thánh Cha đưa ra lời khích lệ như sau:
ì đó tại sao trước các khó khăn và chia rẽ, các tín hữu Kitô không thể chịu trận cũng không thể nhượng bộ sự ngã lòng. Điều Chúa xin chúng ta đó là kiên trì trong cầu nguyện để duy trì sống động ngọn lửa lòng tin, lòng cậy, lòng mến, dưỡng nuôi ước mong hiệp nhất trọn vẹn. Ước chi chúng ta nên một như Chúa nói. Lời mời gọi đó của Chúa Kitô luôn vang vọng trong tim chúng ta. lời mời gọi mà tôi đã có dịp gióng lên trong chuyến tông du Hoa Kỳ, trong đó tôi đã nói lời cầu nguyện là trung tâm của phong trào đại kết.
Và Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Trong thời đại toàn cầu hiện nay, cùng với sự phân hóa, nếu không có lời cầu nguyện thì các cơ cấu, các tổ chức và chương trình đại kết sẽ không có con tim và linh hồn của chúng. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì các kết qủa đã đạt được trong cuộc đối thoại đại kết nhờ hoạt động của Thánh Thần: chúng ta hãy ngoan ngoãn lắng nghe tiếng nói của Ngài, để cho con tim của chúng ta được tràn đầy hy vọng, không ngừng rong ruổi trên con đường dẫn tới sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả mọi môn đệ Chúa Kitô.
Trong thư gửi tín hữu Galat thánh Phaolô nhắc lại rằng ”hoa trái của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23). Đó là các ơn của Chúa mà hôm nay chúng ta cũng khẩn nài cho mọi Kitô hữu, để trong việc phục vụ chung và quảng đại đối với Tin Mừng trên thế giới họ có thể là dấu chỉ tình yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chúng ta hãy tin tưởng hướng nhìn lên Đức Maria, Đền thánh của Thánh Thần và qua Mẹ chúng ta cầu xin: lậy Thánh Thần xin hãy đến tràn đầy con tim của tín hữu và đốt lên ngọn lửa tình yêu của Chúa. Amen.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Hungari, Craot và Ý trước khi cất kinh Lậy Cha và ban phèp lành tòa thánh cho mọi người.
Sau khi Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn, các tông đồ trở nên hoang mang, sợ sệt, đang tụ họp trong nhà Tiệc ly, chưa biết phải xử sự làm sao, thì chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với các ông, trấn an và thổi hơi trao ban Thánh Thần cho các ông: ”Anh em hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần”. Và 50 ngày sau nữa, vào sáng ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống một cách công khai để ban cho các ông những đặc sủng của Ngài để các ông mạnh dạn đi loan báo Tin mừng và xây dựng Giáo hội.
Thực ra, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay khi Ngài hiện ra lần thứ nhất tại nhà Tiệc ly vào buổi chiều hôm Phục sinh. Sau khi chào các ông, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các ông khi Ngài thở hơi và nói: ”Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ””(Ga 20,22-23). Còn ngày lễ Ngũ tuần chỉ là dịp Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các ông một cách đặc biệt, với đặc sủng ngôn ngữ, đồng thời cũng là dịp giới thiệu Giáo hội cho muôn dân và chính thức sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người.
Lịch sử cứu rỗi còn tiếp tục qua lịch sử nhân lọai và ngày hôm nay lại khai mở một giai đọan mới khi Thánh Thần hiện xuống cách huy hòang vĩ đại trên một nhóm người và biến cải họ nên cột trụ một tập đòan mới là Hội thánh. Hôm nay trong nhà Tiệc ly chỉ có 120 người, nhưng rồi đây sẽ lan tràn khắp thế giới, trở thành Giáo hội hòan vũ. Ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn còn được ban xuống cho chúng ta, đặc biệt với đặc sủng ngôn ngữ, để chúng ta biết cao rao những kỳ công của Chúa, giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người và góp phần xây dựng Hội thánh của Chúa ở trần gian này.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Cv 2,1-11: Bài sách Công vụ tông đồ hôm nay tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ trong nhà Tiệc ly ngày lễ Ngũ tuần.
Theo lời căn dặn của Đức Kitô phục sinh, các tông đồ tập họp lại trong nhà Tiệc ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Đây chính là Đấng Bảo trợ mà Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn. Hôm nay ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Giêsu chính thức gửi Chúa Thánh Thần cho các tông đồ để Ngài cư ngụ và hoạt động nơi các ông bằng sức mạnh của Ngài, thôi thúc họ và ban cho họ những đặc sủng, đặc biệt là đặc sủng ngôn ngữ.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ bằng hình lưỡi lửa cho mỗi người. Lưỡi tượng trưng cho lời nói, Lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Ngài khắp mọi nơi.
+ Bài đọc 2: 1Cr 20,19-23: Chúa Thánh Thần được ban cho các tông đồ và Giáo hội đặc biệt trong ngày lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần là hồn sống của Giáo hội, Ngài luôn hoạt động trong Giáo hội cách tích cực. Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Corintô hãy hiệp nhất trong Thánh Thần. Trong Giáo hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu, những đặc sủng ấy nhằm ích lợi cho mọi người. Vì thế, các tín hữu phái tránh chia rẽ, đừng làm gì khả dĩ gây phương hại cho sự đoàn kết; trái lại, phải dùng các ơn ấy để xây dựng thân thể Giáo hội.
+ Bài Tin mừng: Ga 20,19-23: Trong các sách Tin mừng, không chỗ nào nói tới việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, chỉ trừ sách công vụ tông đồ (Cv 2,1-11). Tuy nhiên, Hội thánh muốn lấy lại bài Tin mừng Chúa nhật II Phục sinh để cho biết: ngay buổi chiều hôm lễ Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ trong nhà Tiệc ly và đã ban Chúa Thánh Thần cho các ông: ”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Như thế, trước khi ủy thác sứ vụ cho các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông, và nhờ đó, các môn đệ giờ đây thực thi sứ mạng trong ân sủng và quyền năng của Chúa Thánh Thần.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Đặc sủng ngôn ngữ.
I. CHÚA THÁNH THẦN ĐƯỢC BAN XUỐNG.
Trong lễ Hiện xuống hôm nay, Giáo hội đọc bài Tin mừng kể việc Đức Giêsu hiện ra lần thứ nhất với tập thể tông đồ chính ngày Phục sinh.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu đã hiện ra với một số phụ nữ (Mt 28,9) trong đó có bà Maria Magdala (Ga 20,11t), bà Gioanna và bà Maria mẹ Giacôbê (Lc 24,9t). Buổi chiều Ngài đã hiện ra với hai môn đệ đi đến làng Emmau (Lc 14,13t) và cũng chiều đó, Ngài lại hiện đến với các tông đồ, có thể có một số môn đệ ở cùng các ông.
Có lẽ Đức Giêsu hiện ra với các ông về đêm khuya. Đang lúc hai môn đệ đi làng Emmau về kể cho các ông nghe việc Chúa hiện ra với mình, thì Đức Giêsu hiện ra. Đường đi từ Giêrusalem đến Emmau khá xa, đi về phải muộn mới tới nơi.
Các cửa phòng đều đóng kín, Đức Giêsu đột ngột hiện ra đứng giữa các ông và nói: ”Bình an cho các con”. Đây là lời chào bình thường của người Do thái mỗi khi gặp nhau. Trong bối cảnh của các tông đồ khi đó, lời chúc của Đức Kitô chắc chắn đã có ý nghĩa đặc biệt cụ thể chứ không thể như ta chào bình thường, vì liền sau đó Ngài đã trao ban sứ mạng cho các ông.
Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Phải chăng Đức Kitô lưu giữ các dấu thương tích như một kỷ niệm… Hay để cho các tông đồ và môn đệ xem thấy dấu vết rành rành đó mà vững tin vào sự Phục sinh của Ngài ? Và Ngài thổi hơi và ban Thánh Thần: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Hành động của Đức Kitô như lặp lại hình ảnh cuộc sáng tạo của Thiên Chúa Cha (St 1,1t). Đức Kitô qua cuộc Tử nạn và Phục sinh đã trở thành Đấng tái tạo một nhân lọai mới (Ga 3,5t; Is 32,16).
Trong bài đọc 2 trích sách Công vụ tông đồ, thánh Luca còn cho chúng ta biết thêm về ngày lễ Hiện xuống: Khi đến lễ Ngũ tuần, mọi người đang tề tựu tại một nơi, có lẽ là tại nhà Tiệc ly, với số người là 120. Bỗng nhiên trời phát ra một tiếng, nghe như tiếng gió ào ào, vang dội khắp cả nhà. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tan ra đậu xuống từng người một và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói được tiếng nước ngòai. Sự kiện này làm cho các khách hành hương phải kinh ngạc vì ai nấy đều nghe nói tiếng bản xứ của mình. Họ phải sửng sốt và thán phục.
Chúng ta không biết Đức Giêsu đã thiết lập Giáo hội lúc nào, nhưng chúng ta biết chắc lễ Hiện xuống là ngày Đức Giêsu khai trương Giáo hội, Ngài giới thiệu Giáo hội cho muôn dân và cũng từ hôm nay các môn đệ chính thức được sai đi đến với muôn dân: ”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”, để các ông rao giảng Tin mừng về Nước Trời và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa Kitô.
II. CHÚA THÁNH THẦN BAN ĐẶC SỦNG NGÔN NGỮ.
Được đầy tràn Thánh Thần trong buổi sáng lễ Hiện xuống, các Tông đồ cũng đón nhận được ơn đặc sủng về ngôn ngữ. Vì thế, các ông có thể nói cho những người đến hành hương tại Giêrusalem từ khắp nơi trên thế giới: mọi người đều hiểu theo ngôn ngữ của mình. Thánh Phêrô đã dùng đặc sủng ấy mà giới thiệu Đức Giêsu Nazareth cho những người tại Giêrusalem, và qua bài giảng nảy lửa ấy, đã có 3000 người trở lại. Đặc sủng ấy vẫn còn được ban cho Giáo hội và cho mọi thành phần trong Giáo hội hôm nay.
1. Ơn nói các thứ tiếng lạ.
Sách Công vụ tông đồ thuật lại việc chúa Thánh Thần ban đặc sủng ngôn ngữ cho các tông đồ như sau: ”Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 6). Mọi người đến xem đều lấy làm lạ khi thấy các ông nói được các tiếng thổ ngữ của mình một cách thành thạo.
Đây là một đặc sủng ngôn ngữ. Có hai cách chú giải về phép lạ ngôn ngữ này: có nhà chú giải cho rằng các tông đồ nói tiếng lạ hoặc chỉ nói một thứ tiếng nhưng Thánh Thần tác động trên người nghe để họ hiểu được theo tiếng của họ. Cách thứ hai thì cho rằng quả thực Thánh Thần tác động trên các tông đồ để các ngài có khả năng nói được các thứ tiếng ngoại ngữ. Theo mạch văn thì cách thứ hai có sức thuyết phục hơn: chính các thính giả la lên: ”Chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Chúa” (Cv 2,11).
Phép lạ ngôn ngữ này là hình ảnh đối lại với câu chuyện tháp Babel xưa (St 11,1-11). Câu chuyện đó là ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không còn thông cảm với nhau được..
Hôm nay, với tác động của Chúa Thánh Thần, mọi dị biệt ngôn ngữ đã bị xóa bỏ để mọi người cùng nghe được sứ điệp Tin mừng. Nhân loại được giao hòa và hiệp nhất với nhau.
2. Nói về ngôn ngữ.
Theo tự điển Đào duy Anh thì: tự mình nói ra là ngôn, đáp lại kẻ khác gọi là ngữ. Hay nói cách khác, ngôn ngữ là “nói năng”. Ngôn ngữ bất đồng là tiếng nói không giống nhau, không thể nói chuyện cùng nhau. Có nhiều loại ngôn ngữ, ta tạm chia làm 3 loại:
a) Ngôn ngữ bằng lời nói.
Đây là thứ ngôn ngữ dành riêng cho con người có trí khôn. Con vật dù có thông minh mấy cũng không thể xử dụng được thứ ngôn ngữ này vì nó đòi hỏi phải có lý trí để hiểu biết lời mình nói. Con yểng, con nhòng, con sáo... có thể bắt chước tiếng người nói lại được một vài câu, nhưng chúng chỉ nói lại như cái máy vi âm chứ không hiểu biết gì cả.
Vì con người có thể hiểu được lời mình nói và phải chịu trách nhiệm về lời nói đó, nên người ta mới khuyên:
Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.(Ca dao)
Ngôn ngữ này cũng liên quan đến tiếng cười, tiếng khóc. Cười hay khóc đều biểu lộ niềm vui hay nỗi buồn của con người. Cười khóc cũng là đặc tính riêng biệt của con người, cần phải có sự hiểu biết thì mới có thể cười hay khóc được, con vật không có khả năng này. Vì thế người ta nói:
Làm người có miệng có môi, Khi buồn thì khóc, khi vui lại cười. (Ca dao)
b) Ngôn ngữ bằng chữ viết.
Ngày xưa, người ta có những tư tưởng rất hay, rất thâm thúy, có cả những phát minh nữa như Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, giáo lý của Phật Thích Ca, triết lý của Socrates, Platon, Aristote, Lão Tử, Khổng Tử... làm thế nào có thể truyền lại cho hậu thế, nếu không dùng đến ký tự, chữ viết đủ mọi loại vì ngày xưa chưa có máy vi âm như ngày nay ?
Trong những kim tự tháp ở Ai cập, còn có nhiều loại chữ viết kỳ bí mà ngày nay người ta cũng chưa giải mã được, chưa hiểu được ý nghĩa của những chữ viết đó.
c) Ngôn ngữ bằng cử chỉ.
Khi nói tới ngôn ngữ thì không nhất thiết là phải nói tới lời nói hay nói năng, còn có một thứ ngôn ngữ khác không cần phải nói năng mà ai cũng hiểu được, đó là “cử chỉ”. Ngôn ngữ cử chỉ đây là một qui ước người ta đặt ra với nhau và cho nó một ý nghĩa để người ta có thể hiểu nhau được.
Có những cử chỉ mang một ý nghĩa phổ biến mà bất kỳ ai cũng có thể hiểu được, ví dụ: cười biểu lộ sự vui tươi, khóc biểu lộ sự buồn bã, gật đầu tỏ vẻ đồng ý, lắc đầu tỏ ý từ chối.
Dĩ nhiên có một số cử chỉ khác mang ý nghĩa theo qui ước mà người ta phải học thì mới hiều được, ví dụ “xê-ma-pho, hay cử điệu bằng tay của những người câm.
3. Ngôn ngữ của chúng ta.
a) Ngôn ngữ tự nhiên.
Trong đời sống hằng ngày, việc trao đổi tư tưởng và tâm tình thường diễn tả bằng lời nói vì đó là thứ truyền thông rất hiệu nghiệm và phổ biến. Chỉ có người nào câm mới bị loại trừ ra khỏi thứ ngôn ngữ này.
Chúng ta cũng phải lưu ý trong việc dùng ngôn ngữ bằng lời nói vì nó dễ đưa tới hậu quả xấu khi chúng ta cẩu thả trong lời nói, thiếu suy nghĩ như người ta khuyên: ”Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Người xưa khuyên ta phải thận trọng trong lời nói:
Nhất ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy. (Một lời nói sai trái thì bốn con ngựa đuổi không kịp)
Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta là sẽ bị lên án về lời nói của mình: ”Loài rắn độc kia, xấu như các ngươi, thì làm sao nói điều tốt được ? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Tôi nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh em mà anh em sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh em mà anh sẽ bị kết án”(Mt 12,34-37; Mc 3,29. Lc 12,10).
b) Ngôn ngữ thiêng liêng hay thần bí.
Trong đời sống thiêng liêng chúng ta còn có loại ngôn ngữ thần bí mà không có cách nào diễn tả được. Đó là ngôn ngữ đức tin và ngôn ngữ của tình yêu. Chúng ta chỉ có thể có được ngôn ngữ này khi chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa, hai tâm hồn đã kết hợp với nhau để không còn phân biệt được Chúa nói với ta hay ta nói với Chúa, vì lúc đó “tôi sống mà không phải tôi sống mà Chúa Kitô sống trong tôi”, tôi đã nên một với Người.
Bình thường khi cầu nguyện thì ta nói, Chúa nghe, đôi lúc Chúa nói, ta nghe, nhưng đến giai đoạn cao nhất là không còn nói, không còn nghe. Chúng ta có thể chia thành 4 giai đoạn theo tứ tự sau đây:
1/ Ta nói, Chúa nghe. 2/ Chúa nói, ta nghe. 3/ Không ai nói, cả hai chỉ nghe. 4/ Không ai nói mà cũng không ai nghe.
Tất cả chỉ là một sự im lặng tuyệt đối.
Truyện: Trong phòng thông dịch viên.
Người ta mới phát minh được một cái máy kỳ diệu. Nó là một óc điện tử có thể dịch ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Hiện thời, máy chỉ có thể dịch tiếng Nga sang tiếng Anh. Nhưng bước đầu đã thành công, một bước tiến vĩ đại, và chắc thế nào những bước sau cũng sẽ thành công hơn.
Hiện nay trong những hội nghị quốc tế chẳng hạn như hội nghị Minh ước Bắc Đại tây dương ở Paris, hay tại Liên hiệp quốc ở New York, người ta còn phải dùng thông dịch viên, đây cũng là một thành công chói lọi của kỹ thuật tân tiến. Các đại biểu trong hội nghị chỉ cần đưa máy nghe lên tai thì tức khắc họ sẽ nghe diễn giả đang nói tiếng Ba tư nói thành tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Ý… từng câu một, tòan thể bài diễn văn được dịch ra và chuyền lại cho các thính giả nghe.
Người ta có thể so sánh việc này với phép lạ về ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc các tông đồ còn đang sợ sệt lo ngại vì Đức Giêsu đã lên trời. Họ đóng cửa ở trong phòng, không biết làm thế nào để thực hiện được lời Chúa dạy là biến đổi thế gian. Rồi một buổi sáng nọ, bỗng nhiên Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới hình thức cơn gió lốc. Các tông đồ tự nhiên thấy vững tâm mạnh dạn. Họ mở cửa, ra ngòai đường và bắt đầu giảng.Trước mặt họ là một đám đông dân chúng hỗn độn, gốc cả 15 nước và nói 15 thứ tiếng. Thế mà khi tông đồ nói, mỗi người nghe như tông đồ nói tiếng xứ mình. Tất cả đều hiểu rằng tông đồ giảng về Tình thương và Hòa bình. Thông dịch viên là ai ? Đó là Đức Chúa Thánh Thần.
4. Ngôn ngữ và loan báo Tin mừng.
Thánh Phaolô bảo: có nhiều đặc sủng, có nhiều cách phục vụ khác nhau trong Giáo hội. Nhưng các đặc sủng ấy chỉ nhằm phục vụ lợi ích chung… Khi chúng ta được chịu phép rửa tội và đặc biệt trong ngày lễ hôm nay, Chúa Thánh Thần đều ban cho mỗi người chúng ta đặc sủng ngôn ngữ để chúng ta loan báo Tin mừng, để làm trọn sứ mạng tiên tri của mình.
Ngôn ngữ đây không nhất thiết phải là lời nói hay chữ viết, mà là cử chỉ, điệu bộ; hay nói cách khác, ngôn ngữ này là chính con người chúng ta, cuộc sống thực tế hằng ngày của ta. Loan báo Tin mừng bằng lời nói hay chữ viết có thể vượt trên khả năng của ta, nhưng ngôn ngữ bằng cuộc sống hằng ngày thì phù hợp với tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chính cuộc sống gương mẫu của ta là một bằng chứng hùng hồn nói lên sự hiện hữu của Thiên Chúa. Gương sáng của ta là một sức mạnh lôi kéo mọi người đến với Chúa, một việc làm có tính cách thuyết phục đến nỗi không thể từ chối được. Vì:
Lời nói như gió lung lay,Gương bày như tay lối kéo. (Tục ngữ)
Ánh sáng soi vào trong đêm tối sẽ làm cho bóng tối biến đi. Sứ mạng của ánh sáng là phải chiếu vào nơi tối tăm, mà chúng ta là ánh sáng thế gian (Mt 5,14) thì chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho thế gian u tối phải bừng lên ánh sáng Chúa Kitô như lời Ngài dạy: ”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Chính cuộc đời gương mẫu của ta sẽ trở thành một bài giảng hùng hồn khiến họ cảm phục, một bài giảng không cần dùng lời nói mà có sức lôi kéo không thể cưỡng lại được, dĩ nhiên phải cùng với sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá Giáo hội và mỗi người.
Truyện: Bài giảng biết đi.
Một buổi chiều của năm 1953, các ký giả và một số nhân viên chính phủ tập trung tại một nhà ga xe lửa ở Chicago, Hoa kỳ để chào đón một người được giải thưởng Nobel hoà bình năm 1952.
Người vừa xuống khỏi xe lửa là một người đàn ông to lớn, tóc ngắn và mang một chòm râu cắt gọn ghẽ. Các máy hình chớp liên hồi. Các nhân viên cao cấp của thành phố đang rộng tay để đón chào vị thượng khách.
Người được giải Nobel hoà bình cám ơn mọi người rồi bỗng đưa mắt nhìn vào một chỗ nào đó trên sân ga. Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng ấy. Mọi người đều tưởng ông đã để quên một hành lý nào chăng.
Ông băng qua đám đông đi thẳng tới một người đàn bà có tuổi đang khệ nệ với hai vali nặng. Ông giơ tay đỡ lấy một chiếc vali, mỉm cười với bà rồi dẫn bà ra một chiếc xe buýt gần đó. Khi giúp người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông đang chờ đợi, ông nói: ”Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị chờ đợi”.
Người được giải Nobel hoà bình năm 1953 ấy, không ai khác hơn là bác sĩ Albert Schweitser, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban tổ chức đón tiếp ông hôm đó, đã nói với một ký giả: ”Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi”.
(Nguồn: R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 41-42) Lm Giuse Đinh lập Liễm --------------------------------
Lời kinh tuyên xưng:“ Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống“.
Tin trong tâm hồn và tuyên xưng ra bằng lời nói chữ viết. Điều này thật chính đáng cùng cần thiết.
Nhưng Đức Chua Thánh Thần lại không có hình hài cùng mầu sắc cụ thể nào cho tầm suy hiểu của tâm trí con người. Làm sao có thể hình dung ra Ngài?
Đã có nhiều suy niệm về Ngài từ xưa nay. Thánh giáo phụ Cyrillô thành Giêrusalem đã dùng hai hình ảnh: nước mưa và ánh sáng mặt trời, so sánh diễn tả về Ngài.
Nước mưa từ trời cao đổ xuống cho mọi cây cối trồng mọc trên đất bất cứ ở vùng nào. Nước mưa mang sức sống phát triển đến cho mọi cây cối thảo mộc.
Cùng một nước mưa rơi đổ xuống khu rừng, khu vườn mang sức sống cho cây cối thảo mộc phát triển tươi tốt. Nhưng lại sinh ra hiệu qủa chất sinh dưỡng khác nhau nơi mỗi loài cây cối thảo mộc. Nước mưa phát sinh hiệu qủa nơi cây Dừa khác với nơi cây Soài, khác nơi cây Mít, nơi cây Lúa, nơi cây Nho, nơi cây Hoa Hồng, nơi bông Huệ…
Cũng vậy, cùng một Chúa Thánh Thần, Đấng là ngôi thứ ba Thiên Chúa, Đấng có cùng một hình hài, Đấng không thể phân chia ra từng mảnh. Nhưng Ngài lại phát sinh ân đức hiệu qủa khác biệt nhau nơi đời sống mỗi con người, như Ngài muốn, như theo ý muốn Thiên Chúa tạo dựng nên con người.
Trong dòng đời sống con người cũng như thế. Ai cũng được Thiên Chúa tạo dựng sinh thành, ban cho sự sống, thân xác, tâm trí, khả năng. Nhưng mỗi người lại có khả năng khác nhau. Người có tài năng ăn nói; người có khả năng suy tư thâm sâu cùng viết lách; người có khả năng sắp xếp tổ chức công việc; người có tâm hồn kiên nhẫn quảng đại; người có tâm hồn thơ văn, người có lòng can đảm chịu đựng; người có tâm trí suy tư hiểu biết thực nghiệm về kỹ thuật về toán học, về cách nấu ăn, cách may mặc. Mỗi người có hoàn cảnh địa vị sống tương xứng với sức lực thể xác cùng tâm trí của mình khác với người khác…
Khả năng sinh sống nơi mỗi người như một bông hoa trong khu vườn sáng tạo của Thiên Chúa, trong đó có muôn loại thứ bông hoa khác nhau. Đó là những hiệu qủa của cùng một Thánh Thần tác động nơi mỗi người.
Hình ảnh thứ hai Thánh Cyrillô dùng so sánh diễn tả về Chúa Thánh Thần: ánh sáng mặt trời.
Ánh sáng mặt trời chiếu tỏa lan xuyên qua tầng không khí đến khắp địa cầu. Ánh sáng mặt trời chiếu ở vùng miền lục địa Phi Châu cũng là ánh sáng chiếu ở vùng Á Châu, vùng Mỹ châu, vùng Đại dương châu.
Cùng một ánh sáng phát tỏa lan đi, nhưng phát sinh hiệu qủa tùy theo đối tượng thiên nhiên tiếp nhận ánh sáng. Ánh sáng mặt trời phát sinh hiệu qủa nơi loài thú vật sinh sống trong rừng khác với nơi loài thú vật chăn nuôi trong nhà, khác với nơi loài động vật sống trong nước, khác với nơi lòai thảo mộc…
Tương tự như thế cũng với Chúa Thánh Thần, Đấng chiếu tỏa ân đức thần khí cho mọi người, nhưng lại sinh gây ra những hiệu qủa khác biệt nơi mỗi người.
„Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ“ ( 1 cor 12, 4-10).
Đời sống mỗi người là một con đường sáng tạo Thiên Chúa đã tạo dựng, cùng được hướng dẫn trong ánh sáng ân đức Chúa Thánh Thần.
Thần Linh Thiên Chúa là sức sống cho sáng tạo đó. Chúng ta tin nhận như thế và tắm gội trong „ nước mưa cùng ánh nắng“ Chúa Thánh Thần.
Lễ Đức Chúa Thánh Thần 2008
LM. Nguyễn Ngọc Long --------------------------------
Cha William J. Bausch, trong Ngày Lễ Chúa Thần Hiện Xuống cách đây vài năm, trong bài giảng của mình, Cha kể rằng:
Khi tôi hãy còn là một cậu bé 6 hay 7 tuổi gì đó, mẹ tôi thường hay dẫn tôi đến nhà thờ. Lúc đó, nhà thờ rất đẹp theo kiểu gothic cổ kính, trên cung thánh có một hình tam giác rất lớn, với những tia sáng phát ra từ đó, và bên trong cái tam giác có duy nhất một con mắt rất lớn. Dẫu tôi rất thích nhà thờ đó, thế nhưng lúc nào tôi cũng bị luôn ám ảnh và sợ sệt vì con mắt lớn to đó từ trên cao, phía trên bàn thờ, cứ luôn lúc nào cũng hướng nhìn thẳng chằm chằm vào tôi.
Một nggày nọ, tôi ghé đến nhà thờ để cầu nguyện chút ít, thì có một bà cụ già đang lần chuổi Mân Côi. Bà đã chú ý đến tôi khi tôi đang nhìn chằm chằm vào con mắt đó.
Bà cụ liền gọi tôi đến và nói với tôi rằng: "Con ạ, một số người sẽ nói với con rằng con mắt đó có nghĩa là Thiên Chúa luôn lúc nào cũng ngó nhìn đến con mỗi khi con làm bất kỳ điều gì đó sai trái để Ngài có thể trừng phạt con. Thế nhưng, đối với Bà, Bà muốn con nhớ rằng Thiên Chúa luôn lúc nào cũng yêu mến con, Ngài quá yêu thương con đến nổi Ngài không thể nào mà không ngó mắt nhìn đến con."
Khi tôi nghe được điều đó, tôi chẳng hề biết được sự khác biệt là thế nào cả, vì rằng Thiên Chúa yêu thương tôi cũng giống như mẹ và cha, vẫn yêu thương tôi vậy! Kể từ lần đó trở đi, cứ mỗi lần vào nhà thờ, tôi liền vẫy tay chào con mắt đó, và nói: "Lạy Chúa con đến trở lại đây. Con là Billy đây!"
Một kỷ niệm thời thơ ấu khác mà tôi còn nhớ đó là trong lớp học khi đó, bỗng dưng Cha sở đến thăm lớp học của chúng tôi - và cái ngạc nhiên hết cho tất cả mọi người chính là cùng đi theo với Cha sở có Ông Curry - người chuyên quét dọn của nhà thờ.
Cha liền cất gịong nói: "Hỡi các con, Cha muốn tất cả các con hãy nhìn vào hai bàn tay của người đàn ông này!" Ông Curry liền cảm thấy bối rối, nhưng vì vâng phục, Ông chìa hai bàn tay của Ông ra cho bọn trẻ chúng tôi ngắm nhìn. Hai bàn tay thật chai nạm và bẩn thỉu, và nếu ba-mẹ tôi thấy, thì vì hai bàn tay này, mà tôi chắc chắn sẽ bị đuổi ra khỏi bàn ăn tối ngay trong gia đình của mình.
Cha sở liền cầm bàn tay phải của Ông Curry và giơ lên cao hơn dường như là để cho chúng tôi được nhìn thấy nó một cách rõ ràng hơn.
Cha liền nói: "Đây chính là hai bàn tay để làm những công trình của Thiên Chúa."
Bọn trẻ trong lớp tôi liền ngớ mắt nhìn nhau. Một số trong chúng tôi nghĩ rằng chẳng phải những bàn tay đó đã nhiều lần cầm chổi để quét sân, quét lớp, hay chùi sàn sân trường và lớp học, khi chúng tôi ăn uống và đổ dưới bàn hay dưới sàn nhà sao? Và chẳng nhẻ Thiên Chúa lại thích thú với những việc đó sao?
Cha sở liền tiếp tục: "Hai bàn tay của người đàn ông này luôn lúc nào cũng lau chùi và dọn sạch nhà thờ, giữ cho trường và lớp học của chúng con luôn được sạch sẽ và tươm tất, và cũng đã rửa tượng của Chúa Giêsu, của Đức Mẹ Maria, và của Thánh Giuse, để các Ngài mang ơn huệ xuống cho tất cả chúng ta. Hai bàn tay của người đàn ông này đã dâng hiến cho chính Thiên Chúa trong mọi việc dẫu lớn hay nhỏ mà người đàn ông này làm. Các con hãy xem lại các đôi bàn tay của chúng con, và thử tự hỏi chính mình xem là các con có làm những việc tương tự như vậy không?"
Hai câu chuyện trên là để muốn nói lên một sự thật đã bị quên bẵng đi về Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có rất nhiều người vẫn thường hiểu rằng Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống chính là ngày sinh nhật của Giáo Hội, hay nói khác đi của các Đức Hồng Y, các Đức Giám Mục, các Linh Mục, các Nam/Nữ Tu Sĩ - những người có trong phẩm trật của Giáo Hội, vốn chiếm chưa đầy 1% trong tổng số người Công Giáo trên khắp cả thế giới. Để từ đó, chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng: chúng ta càng gần gũi với những gì mà các đấng bậc đó làm bao nhiêu, thì chúng ta càng xông xáo tham gia vào các hoạt động của Giáo Hội nhiều bấy nhiêu. Mặc khác, chúng ta càng ít dính dáng vào Giáo Hội bao nhiêu, thì chúng ta càng xa lánh Thiên Chúa nhiều bấy nhiêu.
Kết quả là chúng ta chẳng lo chú ý gì cả đến việc phải trở nên thánh, việc phải hoán cải mỗi ngày, việc hiểu biết về kế hoạch mà Thiên Chúa đã định tiền cho chúng ta, và việc chúng ta chính là một thành viên trong Giáo Hội Công Giáo.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, không phải là ngày lễ riêng tư cho các đấng bậc có trong phẩm trật của Giáo Hội, mà là cho tất cả mọi người trong chúng ta. Ngày Lễ đó chính là một lời tuyên bố công khai rằng vì yêu thương loài người quá đỗi, nên Thiên Chúa không thể rời mắt Ngài đi để luôn ngó nhìn đến chúng ta, và cũng chính vì tình yêu đó mà Ngài đã tuôn đổ Thánh Thần của Ngài xuống trên tất cả chúng ta, và cho tất cả mọi người chúng ta., và Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống chính là sự ủy thác chính thức của Thiên Chúa, để mõi mong sự nên thánh mỗi ngày của chúng ta trong chính Giáo Hội của Người!
B. Tìm Hiểu Vắn Tắt về 7 Ơn của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần (The Holy Spirit)
Sống trên cõi đời này, chỉ có một điều duy nhất quan trọng mà thôi đó là ơn cứu rỗi đời đời, và cũng chỉ có duy nhất một điều là đáng sợ nhất mà thôi, đó chính là tội lỗi. Tội lỗi chính là kết quả của sự ngu dốt, sự yếu kém và sự thờ ơ. Chúa Thánh Thần chính là Thần Khí của Ánh Sáng, của Sức Mạnh, và của Tình Yêu. Với 7 ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Ngài khai mở cho tâm trí của chúng ta, cũng cố ý chí của chúng ta và đốt cháy trong trái tim của chúng ta lửa yêu mến Thiên Chúa.
Để đảm bảo ơn cứu rỗi của chúng ta, ch1ung ta phải khẩn cầu Ơn của Chúa Thánh Thần xuống cho chúng ta mỗi ngày, vì "Thần Khí của Ngài giúp chữa lành tất cả mọi tật bệnh của chúng ta, và để giúp nguyện cầu thay cho chúng ta."
Prayer
Almighty and eternal God, Who hast vouchsafed to regenerate us by water and the Holy Spirit, and hast given us forgiveness all sins, vouchsafe to send forth from heaven upon us your sevenfold Spirit, the Spirit of Wisdom and Understanding, the Spirit of Counsel and fortitude, the Spirit of Knowledge and Piety, and fill us with the Spirit of Holy Fear. Amen.
Ơn Kính Sợ (The Gift of Fear)
Ơn Kính Sợ lấp đầy chúng ta với sự tôn kính tuyệt đối dành cho Thiên Chúa và khiến cho chúng ta đủ sợ hãi để tránh xúc phạm đến Người bằng chính tội lỗi của chúng ta. Khi nổ sợ hãi dâng lên, không phải đến từ ý nghĩ của hỏa ngục, nhưng là đến từ những tình cảm tôn kính và lòng hiếu thảo vâng phục của chúng ta dành cho Thiên Chúa - Đấng là Cha toàn năng của chúng ta ở trên trời.
Ơn Kính Sợ chính là khởi điểm của sự khôn ngoan, nhằm tách rời chúng ta ra khỏi những thích thú hay khoái lạc của trần gian, vì đó chính là những hấp lực lôi kéo chúng ta rời xa Thiên Chúa vì "Những ai kính sợ Thiên Chúa sẽ chuẩn bị con tìm mình, và trong ánh sáng của Ngài, Ngài sẽ thánh hóa những linh hồn đó."
Prayer
Come, O blessed Spirit of Holy Fear, penetrate my inmost heart, that I may set you, my Lord and God, before my face forever, help me to shun all things that can offend You, and make me worthy to appear before the pure eyes of Your Divine Majesty in heaven, where You live and reign in the unity of the ever Blessed Trinity, God world without end. Amen.
Ơn Đạo Đức (The Gift of Piety)
Ơn Đạo Đức nhằm làm phát sinh trong trái tim của chúng ta một tâm tình thảo hiếu dành cho Thiên Chúa, Đấng là Người Cha yêu mến nhất của tất cả mọi người chúng ta. Nó khơi dậy lên trong chúng ta tình yêu thương và sự trọng kính dành cho những gì thuộc về Người, và những gì được thánh hóa cho Người, cũng như cho tất cả những ai uy quyền hành động thay danh Người, Đức Trinh Nữ Maria - Mẹ Người và tất cả các Thánh, Giáo Hội và vị lãnh đạo Giáo Hội của Người ở trần gian, cha-mẹ và các vị Bề Trên của chúng ta, và những người cai trị hay cầm quyền trong mọi quốc gia của chúng ta.
Những ai có được Ơn Đạo Đức tìm thấy việc sống đúng đức tin và việc giữ đạo của riêng mình, không phải là một nhiệm vụ nặng nề, mà chính là một việc phục vụ vui sướng. Bất cứ nơi đâu có tình yêu, thì sẽ không có sự lao nhọc.
Prayer
Come, O Blessed Spirit of Piety, possess my heart. Enkindle therein such a love for God, that I may find satisfaction only in His service, and for His sake lovingly submit to all legitimate authority. Amen.
Ơn Chịu Đựng (The Gift of Fortitude)
Bằng chính Ơn Chịu Đựng, tâm hồn được Thiên Chúa cũng cố thêm bằng chính sức mạnh của Người để chống lại những nổi sợ hãi tự nhiên, và được hổ trợ đến cùng để hoàn tất nhiệm vụ một cách vẽ vang.
Ơn Chịu Đựng truyền phát vào trong ý chí một sự thúc đẩy và sinh lực để khiến cho người đó không mấy ngần ngại khi đảm lấy những sứ vụ khó khăn và cam go nhất, để diện đối với tất cả mọi loại hiểm nguy, để dành được sự kính trọng của con người, và để chịu đựng mà không hề than vãn sự tử đạo chầm chậm cho dẫu có phải trải qua nổi khổ đau, sầu não suốt cả cuộc đời vì "Những ai kiên gan, bền chí đến cùng, sẽ được Thiên Chúa cứu rỗi."
Prayer
Come, O Blessed Spirit of Fortitude, uphold my soul in time of trouble and adversity, sustain my efforts after holiness, strengthen my weakness, give me courage against all the assaults of my enemies, that I may never be overcome and separated from Thee, my God and greatest Good. Amen.
Ơn Hiểu Biết (The Gift of Knowledge)
Ơn Hiểu Biết giúp cho tâm hồn biết đánh giá mọi việc được Thiên Chúa tạo dựng ra theo đúng với ý nghĩa đích thực của chúng - trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Ơn Hiểu Biết giúp tháo gỡ tính cách giả tạo của các sinh và loài vật, tiết lộ ra sự trống rỗng của chúng, và nhằm để chỉ ra mục đích thật sự duy nhất của chúng chính là những khí cụ trong việc phục vụ Thiên Chúa.
Ơn Hiểu Biết tỏ bày ra cho chúng ta thấy được sự yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa ngay cả trong những nghịch cảnh, và để hướng chúng ta đến việc ngợi ca và tán tụng Người trong bất kỳ hoàn cảnh sống nào của chúng ta. Được hướng dẫn bởi chính ánh sáng của nó, chúng ta biết nhận ra đâu chính là những điều đầu tiêm, quan trọng và thiết yếu nhất, để biết trân quý tình bạn cao đẹp mà Thiên Chúa dành cho chúng ta trên hẳn tất cả mọi sự.
"Ơn Hiểu Biết chính là dòng suối sống mà con người được sở hữu lấy!"
Prayer
Come, O Blessed Spirit of Knowledge, and grant that I may perceive the will of the Father; show me the nothingness of earthly things, that I may realize their vanity and use them only for Thy glory and my own salvation, looking ever beyond them to Thee, and Thy eternal rewards. Amen.
Ơn Thông Hiểu (The Gift of Understanding)
Ơn Thông Hiểu chính là một ơn huệ của Chúa Thánh Thần, nhằm giúp chúng ta nắm trọn được tòn bộ những ý nghĩa của sự thật về tôn giáo của chúng ta. Dẫu rằng, chúng ta biết được những sự thật đó qua Đức Tin, thế nhưng bằng chính Ơn Thông Hiểu, chúng ta mới có thể học biết cách để trân trọng và ưa thích về những sự thật đó, và ơn đó cũng nhằm cho phép chúng ta thấm nhuần vào ý nghĩa nội tại của những sự thật được tỏ bày ra, để qua chính những sự thật đó, cuộc sống của chúng ta có thể được hoán chuyển và làm tươi mới hơn mỗi ngày.
Đức Tin của chúng ta thường có khuynh hướng trở nên cằn cỗi và thụ động, do đó, bằng chính Ơn Thông Hiểu này mà đời sống của chúng ta được khởi hứng lên để luôn trở thành những chứng tá sống động cho đức tin có trong chính chúng ta; để chúng ta xứng đáng "cùng bước đi với Thiên Chúa, để luôn làm hài lòng Ngài qua tất cả những gì chúng ta làm, cũng như để làm gia tăng thêm hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa nhiều hơn nữa."
Prayer
Come, O Spirit of Understanding, and enlighten our minds, that we may know and believe all the mysteries of salvation; and may merit at last to see the eternal light in Thy Light; and in the light of glory to have a clear vision of Thee and the Father and the Son. Amen.
Ơn Chỉ Bảo (The Gift of Counsel)
Ơn Chỉ Bảo được Thiên Chúa phú cho mỗi tâm hồn cùng với sự khôn ngoan siêu nhiên, để tâm hồn có thể nhanh chóng và chính xác nghiệm xét hay xử phân những gì cần phải làm, đặc biệt là trong những trường hợp hay những tình huống hết sức phức tạp hoặc khó khăn. Ơn Chỉ Bảo dùng những nguyên tắc được ban cho bởi Ơn Hiểu Biết và Ơn Thông Hiểu vào vô số các trường hợp cụ thể diện đối với chúng ta torng cuộc sống và trách nhiệm hằng ngày của chúng ta trong vai trò là các bậc cha-mẹ, thầy/cô giáo, các công chức, và những người công dân Kitô Giáo.
Ơn Chỉ Bảo chính là một gia sản vô giá cho mỗi người trong chúng ta trong việc kiếm tìm ơn cứu rỗi vì trong "tất cả mọi điều này, hãy nguyện cầu Thiên Chúa Tối Cao, để Ngài trực tiếp hướng dẫn chúng ta đến với sự thật."
Prayer
Come, O Spirit of Counsel, help and guide me in all my ways, that I may always do Thy holy will. Incline my heart to that which is good; turn it away from all that is evil, and direct me by the straight path of Thy commandments to that goal of eternal life for which I long.
Ơn Khôn Ngoan (The Gift of Wisdom)
Bao trùm tất cả mọi ơn khác, cũng giống như lòng khoan dung bao trùm lấy tất cả mọi đức tín khác, thì Ơn Khôn Ngoan chính là ơn hoàn hảo nhất trong số các ơn huệ. Ơn Khôn Ngoan là nhằm để cũng cố đức tin của chúng ta, để làm cho niềm hy vọng của chúng ta được kiên vững hơn, để hoàn thiện đức bác ái nơi chúng ta, và để cổ võ việc đem ra thực thi tất cả mọi đức tín - mà Thiên Chúa trao ban và mõi mong nơi chúng ta - ở mức độ cao nhất.
Ơn Khôn Ngoan khai sáng tâm trí để chúng ta biết nhận thức và vui vẽ đón nhận những gì là thiêng liêng và cao vời nhất, cũng như biết cách trân trọng và đón nhận những niềm vui tục trần theo đúng với những ý hướng của Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu Kitô đã từng nói: "Hãy vác Thập Giá mà theo Ta, vì gánh của Ta thì êm ái, và ách của Ta thì nhẹ nhàng!"
Prayer
Come, O Spirit of Wisdom, and reveal to my soul the mysteries of heavenly things, their exceeding greatness, power and beauty. Teach me to love them above and beyond all the passing joys and satisfactions of earth. Help me to attain them and possess them for ever. Amen.
C. Kinh Cầu Xin 7 Ơn Của Chúa Thánh Thần bằng Việt Ngữ - Anh Ngữ- Pháp Ngữ - Tây Ban Nha - và Đức Ngữ:
KINH CẦU XIN BẢY ƠN CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Ôi Lạy Chúa Giêsu Kitô - Đấng mà trước khi về trời đã hứa ban Chúa Thánh Thần xuống để chu toàn sứ vụ của Ngài nơi các linh hồn của các Mộn Đệ và Tông Đồ của Ngài, xin hãy rủ lòng để ban cùng Chúa Thánh Thần đó xuống trên con để hoàn thiện nơi tâm hồn con, mọi ơn huệ và tình yêu của Ngài. Hãy ban cho con Ơn Khôn Ngoan để con biết khinh rẽ những thứ hư nát của tục trần, để chỉ biết khát khao vào những gì là vĩnh cữu, Ơn Thông Hiểu để khai sáng tâm trí con cùng với ánh sáng về sự thật của Thiên Chúa, Ơn Chỉ Bảo để con biết chọn ra cách chắc chắn nhất để làm hài lòng Thiên Chúa hòng đạt được nước thiêng đàng, Ơn Chịu Đựng để con có thể vác thập giá cùng với Chúa bằng sự can đảm hòng qua đó con có thể khắc phục tất cả mọi chông gai ngược phản lại sự cứu rỗi của con, Ơn Hiểu Biết để con biết được Thiên Chúa và biết được chính mình hòng từ đó lớn lên một cách hoàn hảo theo đúng với nhân đức của các Thánh, Ơn Đạo Đức để con tìm cách phụng sự Thiên Chúa là Đấng nhân từ và hiền lành, Ơn Kính Sợ để con được lấp đầy bằng một tình yêu kính tôn hướng về Thiên Chúa hòng không bao giờ tìm cách làm phật lòng Ngài. Hãy đánh dấu nơi con, hỡi Thiên Chúa, dấu chỉ hòng trở nên những vị tông đồ đích thực của Ngài, và hãy khởi bừng lên trong con tất cả mọi ơn phúc của Chúa Thánh Thần. Amen.
PRAYER FOR THE SEVEN GIFTS OF THE HOLY SPIRIT
O Lord Jesus Christ Who, before ascending into heaven did promise to send the Holy Spirit to finish Your work in the souls of Your Apostles and Disciples, deign to grant the same Holy Spirit to me that He may perfect in my soul, the work of Your grace and Your love. Grant me the Spirit of Wisdom that I may despise the perishable things of this world and aspire only after the things that are eternal, the Spirit of Understanding to enlighten my mind with the light of Your divine truth, the Spirit of Counsel that I may ever choose the surest way of pleasing God and gaining heaven, the Spirit of Fortitude that I may bear my cross with You and that I may overcome with courage all the obstacles that oppose my salvation, the Spirit of Knowledge that I may know God and know myself and grow perfect in the science of the Saints, the Spirit of Piety that I may find the service of God sweet and amiable, and the Spirit of Fear that I may be filled with a loving reverence towards God and may dread in any way to displease Him. Mark me, dear Lord, with the sign of Your true disciples and animate me in all things with Your Spirit. Amen.
LA PRIERE POUR LES SEPT CADEAUX DE L'ESPRIT SAINT
L'O le Seigneur Jésus Christ Qui, avant de monter dans le ciel a promis d'envoyer l'Esprit Saint pour finir Votre travail dans les âmes de Vos Apôtres et les Disciples, condescendre pour accorder le même Esprit Saint à moi qu'Il peut perfectionner dans mon âme, le travail de Votre grâce et Votre amour. M'accorder l'Esprit de Sagesse que je peux mépriser les choses périssables de ce monde et aspire seulement après les choses qui suis éternelles, l'Esprit de Compréhension pour éclairer mon esprit avec la lumière de Votre vérité divine, l'Esprit de Conseil que je jamais peux choisir la façon la plus sûre de Dieu agréable et gagner le ciel, l'Esprit de Courage que je peux porter ma croix avec Vous et que je peux surmonter avec le courage tous les obstacles qui s'opposent mon salut, l'Esprit de Connaissance que je peux savoir que Dieu et sait que me et grandit parfait dans la science des Saints, l'Esprit de Piété que je peux trouver le service de Dieu doux et aimable, et l'Esprit de Crainte que je pourrais être rempli avec une vénération tendre vers Dieu et peux redouter de quelque façon Pour Le déplaire. Me marquer, cher Seigneur, avec le signe de Vos vrais disciples et m'anime dans toutes choses avec Votre Esprit. Amen.
ORACION PARA LOS SIETE REGALOS DEL ESPIRITU SANTO
El Señor O Jesucristo Que, antes subir en el cielo prometió enviar el Espíritu Santo a terminar Su trabajo en las almas de Sus apóstoles y Discípulos, se digna a otorgarme el mismo Espíritu Santo a mí que El puede perfeccionar en mi alma, el trabajo de Su gracia y Su amor. Otórgueme el Espíritu de la Sabiduría que puedo despreciar las cosas perecederas de este mundo y aspirar sólo después de que las cosas que sean eternas, el Espíritu de la Comprensión para aclarar mi mente con la luz de Su verdad divina, el Espíritu del Consejo que puedo elegir jamás la manera más segura de Dios agradables y ganar el cielo, el Espíritu de Fortaleza que puedo soportar mi cruz con Usted y que puedo vencer con valor todos los obstáculos que se oponen mi salvación, el Espíritu del Conocimiento que puede saber que Dios y saber y crecerme perfecto en la ciencia de los Santos, el Espíritu de la Piedad que puede encontrar el servicio de Dios dulce y amable, y del Espíritu del Temor que puedo ser llenado de una reverencia amorosa hacia Dios y puedo temer en cualquier manera Para desagradarLo. Márqueme, estimado Señor, con el signo de Sus discípulos verdaderos y anímeme en todas cosas con Su Espíritu. Amén.
GEBET FÜR DIE SIEBEN GESCHENKE VOM HEILIGEN GEIST
O Herr Jesus Christus Der, bevor Aufsteigen in Himmel versprochen hat, den Heiligen Geist zu schicken, Ihre Arbeit in den Seelen von Ihren Aposteln und Anhängern zu beenden, geruht, mir den gleichen Heiligen Geist zu gewähren, dass Er in meiner Seele, die Arbeit von Ihrer Anmut und Ihrer Liebe perfektionieren darf. Gewähren Sie mir den Geist der Weisheit den ich darf verachten die verderblichen Dinge von dieser Welt und streben Sie nur nachdem die Dinge, die ewig sind, der Geist des Verständnisses, mein Gemüt mit dem Licht von Ihrer göttlichen Wahrheit aufzuklären, der Geist des Rates den ich je darf wählen den sichersten Weg angenehmen Gott und Gewinnhimmel, der Geist der innerer Stärke, den ich meinem Kreuz mit Ihnen tragen darf, und Dass ich mit Mut die ganzen Hindernisse überwinden darf, der meiner Erlösung, den Geist der Kenntnis entgegensetzt, den ich kennen darf, dass Gott und weiß, dass mich selbst und perfekt in der Wissenschaft von den Heiligen, der Geist der Frömmigkeit wächst, den ich dem Dienst finden darf, von Gott süß und umgänglich, und der Geist der Angst, dass ich mit einer liebenden Ehrfurcht nach Gott gefüllt werden darf, und darf in wie auch immer fürchten Um Ihm zu missfallen. Markieren Sie mich, lieben Herrn, mit dem Zeichen von Ihren wahren Anhängern und beleben Sie mich in allen Dingen mit Ihrem Geist. Amen.
Nói về quan hệ với miền Trung Đông, đặc biệt với thế giới Hồi Giáo, một nhà báo, bình luận gia của một tờ báo lớn phương Tây đã viết: “Làm thế nào chúng ta có thể nói chuyện với các dân tộc nhận mình có quan hệ trực tiếp với Thượng Đế?”. Nhà báo vô tình nhận xét về hiện trạng của các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng có quan hệ ấy. Đó là Đức Thánh Linh mà hôm nay là lễ của Ngài. Lễ của Thiên Chúa tình yêu đích thực và duy nhất.
hưng xin hãy tưởng tượng: tình yêu sẽ như thế nào khi thể hiện hữu hình cho người ta thấy? Tông đồ công vụ kể: “Khi đến ngày lễ ngũ tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho ”. Như vậy hình dáng của Tình Yêu là cái lưỡi, lưỡi bày tỏ trái tim ra bên ngoài. Trước hết chỉ có một lưỡi, sau đó phân tán thành nhiều và cư ngụ trên mỗi người. Phải chăng đó là thần khí của sự thật mà Đức Kitô đã hứa? Như vậy tình yêu là sự thật trong hành động mà chúng ta đã suy niệm ở CN V Phục Sinh vừa qua về bổn phận của các tín hữu phải chuyển tải cho thiên hạ qua dây siêu dẫn (superconductor). Dây siêu dẫn không làm hao hụt năng lượng khi phân phối điện năng (tức hiệu suất điện trở bằng zero từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ). Người tín hữu chuyển tải sự thật và tìnhh yêu Thiên Chúa cho thế giới cũng phải trong trạng thái tuyệt đối như vậy.
Cho nên Thánh Thần ngự xuống bằng tiếng gió mạnh và xuất hiện như hình lưỡi lửa. Gió mạnh là năng lượng không trông thấy được, nhưng thổi đến đâu là hiệu quả đến đó. Lưỡi lửa tượng trưng cho tình yêu nồng cháy diễn tả cảm tình yêu mến của con tim. Liệu người tín hữu nào lại không khao khát hiện diện trong ngày lễ ngũ tuần? Năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xuất hiện trên truyền hình toàn cầu buổi chiều hôm trước ngày lễ ngũ tuần và khắp mọi ngôn ngữ đều có thể nghe Ngài cầu nguyện. Một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả lại lễ hiện xuống ngày khởi đầu giáo hội.
Cả ba bài đọc Chúa Nhật hôm nay đều diễn tả hành động của Chúa Thánh Linh trong vai trò hướng dẫn sự thật và tình yêu. Bài công vụ tiếp tục viết: “Nào là những người Roma đến đây, nào là người Do Thái cũng như người đạo theo, là người đảo Creta hay người Ả Rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa”. Kỳ công nào nếu không phải là việc làm của tình yêu và sự thật về Thiên Chúa, và thân phận con người nơi Đức Giêsu Kitô? Nghĩa là Thánh Thần ngự xuống trên họ, làm thay đổi, kiện cường và sai họ đi khắp thế gian thu nhận môn đệ về cho Thiên Chúa. Đức Thánh Linh cư ngụ trong linh hồn mỗi tín hữu tiên khởi, như trong chúng ta hôm nay, chia sẻ cho họ đoàn sủng, sứ vụ và phục vụ. Biến họ thành các dây điện siêu dẫn, tức không điện trở. Chẳng lạ gì họ thâu lượm được nhiều kết quả.
Hãy để thánh thần tỏ rõ Đức Giêsu trong mỗi người rao giảng, linh mục cũng như tu sĩ, giáo dân để thiên hạ trông thấy những kỳ công của Thiên Chúa và khâm phục, cảm tạ Ngài. Vì thế, bài Phúc Âm thuật lại Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ để họ nhận lấy thần khí, mạnh dạn rao giảng cho thế gian: “Đến đây chúng ta thấy rõ câu trả lời cho nghi vấn trên: tình yêu khả thị sẽ như thế nào?”. Chúa Cha tỏ tình yêu và sự thật và tình yêu của Ngài cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô hứa sai Thánh Thần để hướng dẫn chúng ta sống sự thật và tình yêu ấy. Thánh Thần linh hứng cho Hội Thánh viết Phúc Âm, dạy dỗ chân lý mạc khải. Hôm nay Thánh Thần hiện hình để cho biết Ngài có mặt trong Giáo Hội, trong từng linh hồn tín hữu tin kính Đức Kitô, biến toàn bộ thành dây siêu dẫn của Thiên Chúa.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta nghĩ sao đây? Vấn đề đúng là như vậy. Vì khi sống gió nổi lên trong lòng hội thánh về đức tin. Các tông đồ đã cho hay sự hướng dẫn của Thần Khí Đức Kitô trong công nghị đầu tiên ở Giêrusalem: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định rằng: không nên đặt thêm gánh nặng ngoài những chi cần thiết trên vai họ, gánh nặng mà cha ông chúng ta cũng không mang nổi”. Rõ ràng các tông đồ đã khẳng định Thánh Thần đang dẫn dắt Hội Thánh Chúa, chúng ta dám xác tín như vậy không? Thánh Thần là thần khí của sự thật và tình yêu, luôn âm thầm hướng dẫn hội thánh trong suy nghĩ, học thuyết một cách không sai lầm, chứ không nông nổi tuyên bố lung tung như các diễn giả thời nay. Thánh Irênêo viết về Hội Thánh tiên khởi: “Ở đâu có Hội Thánh, ở đấy có Thánh Thần, ở đâu có Thánh Thần, ở đấy có Giáo Hội”. Chúng ta nên suy nghĩ câu nói ấy để hành xử cho tốt, kẻo gây nhiều thiệt hại cho Giáo Hội.
Ở miền nam Hoa Kỳ, giáo dân có câu châm ngôn: “God has no grandchildren” (Thiên Chúa không có cháu chắt). Ý nói đức tin không phải là của gia bảo, hay đơn thuốc gia truyền, đời nọ thừa kế đời kia, từ đời ông cho đến đời cha, rồi con cái cháu chắt. Dĩ nhiên chúng ta phải giáo dục đức tin cho các thế hệ kế tiếp. Nhưng các tín hữu thời nay không phải là các hậu duệ của các tín hữu tiên khởi, của thế hệ Hội Thánh trực tiếp lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Không phải vậy. Hội Thánh bây giờ vẫn là Giáo Hội “tiên khởi” được Chúa Thánh Thần sinh ra qua bí tích rửa tội và được sai đi rao giảng tin mừng cho thế hệ mình. Chỉ khác nhau về thời gian. Chúng ta không được phép nuối tiếc: giả như tôi có mặt lúc bấy giờ. Phép thanh tẩy, các bí tích mà tín hữu lãnh nhận, Chúa Thánh Linh ngự xuống trong ngày hôm nay vẫn y nguyên như thời các tông đồ, mới mẻ và tinh tuyền, đầy sức sống và ơn thánh. Thiên Chúa không có cháu chắt, toàn bộ là con, là thế hệ tiên khởi, sinh ra trong thần khí Chúa.
Điều rõ nét là phúc âm hôm nay, Gioan cho chúng ta hay: “Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đế, đứng giữa các ông và nói: bình an cho anh em … Nói xong Người thổi hơi vào các ông và nói: anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Cả một sự tạo dựng mới. Nhân loại lại trở về ân huệ cũ: hình ảnh và hoạ ảnh của Thiên Chúa. Lần này thì không ai làm hư hỏng được nữa, vì Adam chính là Con Thiên Chúa, đức Giêsu Kitô. Các tông đồ, mặc dù được trao sứ mệnh ra đi rao giảng tin mừng cho nhân loại, nhưng vẫn sợ sệt, phần vì lãnh đạo Do Thái đe doạ, phần vì xấu hổ đã phản bội thầy. Vì thế Chúa làm hoà trước: bình an cho anh em. Ngài nói tới hai lần trong một đoạn văn ngắn, để đảm bảo với các ông sự tha thứ của Ngài. Sau đó Ngài sai các ông đi rao giảng cho thế gian. Nhưng chẳng thể tha thứ được nếu không có tình yêu. Ở đây là vai trò của Thánh Linh. Và hơn thở của Thiên Chúa chính là Thánh Linh: “Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Thánh Linh không loại trừ ai, ngoài những kẻ từ chối tình yêu của Thiên Chúa.
Ngày nay chúng ta cũng cần Chúa tha thứ: bình an cho anh em. Vì chúng ta cũng đã phản bội. Lòng chúng ta cũng đầy xao xuyến lo âu vì tội lỗi cũ, những tội còn ghê gớm hơn là các tội của các tông đồ, vì dầu sao các ông hèn nhát là do không đủ kiến thức. Còn chúng ta, được học hỏi, biết rõ Chúa, nhưng vẫn chối bỏ tình yêu của Ngài vì dục tình, vì chạy theo thế gian, rồi biện minh bằng những lý lẽ ngô nghê. Bình an cho anh em. Chúng ta cũng cần Chúa tha thứ và đảm bảo như vậy. Ngõ hầu cảm thấy được làm hoà với Thượng Đế, được tạo dựng lại. Làm những thụ tạo mới qua lời Chúa như các tông đồ. Con người đầy tội lỗi, hèn nhát, mù tối, nguội lạnh, thoả hiệp với thế gian, bây giờ được tha thứ và can đảm để bắt đầu một cuộc sống mới trong “ngày thứ nhất” như các môn đệ xưa mà nhận lãnh Thánh Thần qua hơi thở của Đức Kitô.
Xin lưu ý, Chúa bao giờ cũng làm gương trước rồi mới dạy dỗ sau: Ngài rửa chân cho các môn đệ rồi mới nói: anh em cũng phải rửa chân cho nhau, phải thương yêu và phục vụ lẫn nhau. Phúc Âm hôm nay cũng vậy. Ngài tha thứ và làm hoà với các ông: bình an cho anh em, rồi mới sai các ông đi rao giảng thứ tha. Các tông đồ y hệt chúng ta: yếu đuối và hèn nhát, nhưng có thể tha thứ và rao giảng thứ tha vì họ được hơi thở của Đức Giêsu tạo dựng mới: Thiên Chúa không có cháu chắt, chúng ta không thuộc hàng cháu chắt của đức tin. Chúng ta là con trực tiếp. Vậy thì cũng phải làm như vậy: tha thứ và rao giảng hoà giải cho thế giới đầy những bất ổn, tranh chấp, chia rẽ, đánh nhau, chém giết.
Lưu ý thứ hai là theo như Gioan trong Phúc Âm hôm nay, Chúa không trì hoãn việc tha thứ và hoà giải với các môn đệ. Ngài thực hiện ngay chiều ngày thứ nhất trong tuần, khi vừa trỗi dậy từ cõi chết. Ngài ban cho họ thần khí tha thứ để họ tiếp tục ngay công việc của Ngài: anh em hãy đi rao giảng và thu thập môn đệ cho thầy. Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ của mình; tẩy rửa và làm dây siêu dẫn cho Ngài hay chìm sâu trong nết xấu và đam mê tiện nghi thế gian?
Lưu ý thứ ba là Chúa cho các ông xem các vết thương chân tay và cạnh sườn Ngài. Rao giảng không đơn giản đâu. Nó cũng gây nên các vết thương cho người xây dựng hoà bình. Dĩ nhiên việc xem thấy Chúa phục sinh mang đến cho các tông đồ niềm vui khôn tả, nhưng đi rao giảng, thi hành sứ vụ Ngài trao cũng có nghĩa chịu thương tích. Xin đừng trốn tránh, hoặc lựa chọn những dễ dãi, mà phải cắm mắt nhìn vào các vết thương nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng ta phải trả giá cho việc rao giảng tha thứ và hoà giải. Thực tế đã có nhiều môn đệ trả giá bằng cái chết của mình như xưa nay vẫn thường xảy ra. Chúng ta phải noi gương các vị, ít là từ bỏ những phù phiếm hàng ngày để làm gương.
Dĩ nhiên có những người từ chối tha thứ và hoà giải, và nhiều nữa là khác. Thậm chí cả một quốc gia, một dân tộc. Nhưng chính những quốc gia, dân tộc ấy sẽ lãnh nhận bản án cho mình vì quay mặt đi khỏi tha thứ hoà giải của Chúa. Phần mình, chúng ta phải cố gắng trở nên những dây siêu dẫn (super conductors) không làm hư hao năng lượng thứ tha và hoà giải, tình yêu và sự thật của Thiên Chúa qua tính mê nết xấu của mình. Có như vậy, chúng ta mới xứng đáng mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Amen.
Tổng hợp theo: Smith & Jude Sicilianô Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP --------------------------------
Gioan 20, 19-23: Bài trích Phúc Âm theo thánh Gioan. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Đức Chúa GIÊSU hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: ”Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Đức Chúa GIÊSU lại phán bảo các ông rằng: ”Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Lạy Đức Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, xin soi sáng tâm lòng con, hầu lòng con nhìn thấy tất cả những gì thuộc về THIÊN CHÚA.
Lạy Đức Chúa Thánh Thần, xin ngự đến trong tâm trí con, hầu trí con biết được tất cả những gì thuộc về THIÊN CHÚA.
Lạy Đức Chúa Thánh Thần, xin ngự đến trong tâm hồn con, hầu hồn con thuộc trọn về THIÊN CHÚA.
Xin Đức Chúa Thánh Thần thánh hóa mọi điều con nghĩ, những gì con nói và các việc con làm, hầu tất cả đều nhắm tới vinh danh THIÊN CHÚA.
Trên đây là lời kinh tín hữu Công Giáo đạo đức thường khẩn nài cùng Đức Chúa Thánh Thần. Đó chỉ là lời kinh ngắn. Nhưng lời kinh tha thiết nhất, đầy đủ nhất, vẫn là lời Ca tiếp liên đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật Hiện Xuống: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến và từ Trời Cao xin tỏa ánh quang minh của Ngài ra..
Ước gì mỗi tín hữu Công Giáo đưa lời kinh dấu ái này thấm nhập vào tận cõi thâm sâu nhất của lòng mình. Bởi vì, Đức Chúa Thánh Thần chính là Cha kẻ cơ bần, là Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, Đấng an ủi tuyệt vời, là Khách Trọ hiền lương của tâm hồn. . Và còn rất nhiều danh xưng khác mà tín hữu Công Giáo dâng lên chúc tụng Đấng là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi. .
Đúng thế, nguyên việc nhắc đến các danh xưng tuyệt mỹ của Đức Chúa Thánh Thần cũng đủ làm cho tâm hồn các tín hữu Công Giáo được tràn đầy sự êm ái dịu ngọt và hưởng nếm Tình Yêu THIÊN CHÚA. Thật vậy, Đức Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu THIÊN CHÚA, là Đấng ban sự sống, bởi vì, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, như lời kinh Công Đồng Constantinople tuyên xưng và toàn thể Giáo Hội Công Giáo đọc vào mỗi Chúa Nhật và vào các ngày lễ trọng.
Xin trở lại với bài Tin Mừng vừa nghe. Thánh Gioan tông đồ viết:
- Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần. . Đức Chúa GIÊSU hiện đến. Người thổi hơi trên các môn đệ và phán bảo các ông: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Đức Chúa Thánh Thần là ân huệ đầu tiên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ Phục Sinh. Đi kèm với Chúa Thánh Thần là ơn bình an. Đức Chúa GIÊSU KITÔ Phục Sinh, Đấng Khải Hoàn, Đấng Chiến Thắng sự dữ và cái chết, đã trao ban Thánh Thần Chân Lý cho loài người. Từ nay, nhân loại cứu chuộc sẽ được Đức Chúa Thánh Thần dẫn dắt. Là Thánh Thần Tình Yêu, Ngài cũng sẽ đốt lửa kính mến THIÊN CHÚA trong tâm hồn các tín hữu. Vậy thì, hãy trở thành dụng cụ ngoan ngoãn dưới sức tác động quyền uy của Đức Chúa Thánh Thần.
Trong một thế giới đầy dẫy đảo điên, nhiều trắng đen lẫn lộn và sôi sục hận thù, các tín hữu Công Giáo có bổn phận van nài sự trợ giúp của Đức Chúa Thánh Thần. Ngài là Tình Yêu chân thật. Nguyện xin Ngôi Ba THIÊN CHÚA ngự đến, qua lời bầu cử vạn năng của Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ MARIA, Hiền Thê Chí Ái của Ngài.
Xin kết thúc bài suy niệm ngắn với chính lời của “Ca tiếp liên” đọc trong lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Lạy Chúa Thánh Thần, Ôi sự sáng chứa chan hồng phúc, xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn các tín hữu của Ngài. Nếu không có Chúa Thánh Thần trợ phù, trong con người còn chi thanh-khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa Thánh Thần ban cho các tín hữu, là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn. Xin Chúa Thánh Thần ban cho họ được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời. Amen.
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt --------------------------------
Lạy Ngôi Ba tình yêu Thiên Chúa, thật là may mắn cho con cảm nhận được thời đại con đang sống là thời đại của Ngài, thời đại của “Hồng ân suối nguồn”.
Đời sống đạo con, bấy lâu nay, thật là ơ hờ và khiếm khuyết:
-Muốn yêu Thiên Chúa, nhưng không biết ý thức nguồn cấp phát năng lực tình yêu không ai ngoài Thánh Linh Tình yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể!
-Ao ước tìm hiểu sâu xa Lời Chúa để yêu, để mến, để sống xứng đáng tước vị nghĩa tử của Chúa Cha, được trao ban ban qua bí tích Rửa tội, mà lại quên nguyệân xin Thần Chân lý để có ánh sáng soi chiếu và hướùng dẫn!
-Muốn được củng cố trong đời chứng nhân Tin mừng Kitô mà lại quên tìm hiểu Bí tích của Hiện xuống, là Thêm Sức, để biết tựa nương vào năng lực của Thần khí Chúa Kitô để mỗi giây mỗi phút được trưởng thành trong ơn nghĩa Chúa và phục vụ tha nhân, như Đức “Giêsu Nadarét” đã hăng say ra đi rao giảng Nước Trời “dưới sự thúc giục của Thánh Linh, điểu mà Phúc âm ghi nhận rất minh bạch: (Lc 4:14-15) Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê... Người giảng dạy trong các hội đường... (Lc 4:17-18-19). .. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
Mãi đến chiều tà bóng ngã mới nghe được lời giảng thấm thía của một vị linh mục trên Internet: "Thiên Chúa là Tình yêu thần linh và siêu việt. Còn ta là tạo vật được sáng tạo bởi lòng thương xót của Ngài; vậy làm sao ta có thể tự lực yêu Ngài hoặc mon men đến gần Ngài được! Làm sao tự sức con người ta có thể nhảy vào lảnh vực thần linh! Cho nên cần phải có Thần Khí dẫn dắt và nâng cao. Thần Khí đó là Thần Khí của Thiên-Chúa-Làm-Người, Chúa Giêsu Thánh Thể: Chúa Thánh Thần đã bao phủ trên Mẹ Maria và nâng nhân tính lên cao để mật thiết kết hợp với thần tính của Chúa Con; nhờ vậy, và chỉ nhờ vậy, mà chúng ta có được vị Cứu thế, Thiên-Chúa-Làm-Người và Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta!
Giờ đây ngồi suy niệm, tôi bàng hoàng luyến tiếc: sao không được hướng dẫn sớm hơn để biết chân lý nền tảng này, nhờ đó đời sống thiêng liêng của mình được xây dựng trên nên tảng vững chắc và duy nhất phải có này!
Ôi! Những Danh hiệu kỳ diệu của Chúa Thánh Thần đã được cuốn Giáo lý rút ra từ Kinh Thánh và tóm gọn: Thần Nghĩa Tử, Thần Chân Lý, Thần Vinh Quang, Đấng Phù Trợ, Đấng Bảo Trợ,ï vị Trạng Sư, Đấng An Uỉ, Đấng Bênh Vực...
Với chừøng ấy nét mô tả vai trò không thể thiếu vắng của Chúa Thánh Thần trong đời kitô-hữu, tôi mới thấm thía khi nhớ lại tâm sự của Chúa Giêsu trước khi rời các môn đệ một cách hữu hình:
"Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy" (Ga 15,26). "Thầy bảo thật với anh em: Thầy đi thì có lợi cho anh em: Thật vậy, Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em" (Ga 16,7).
Ba năm giảng dạy của Chúa Giêsu, đó là cả một chương trinh và môn học; muốn học đến nơi đến chốn thì phải có Thầy giỏi. Tục ngữ Việt Nam có câu: "Không thầy, đố mầy làm nên".
Hồng phúc cho người Kitô hữu là được giáo dục và hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, là Thầy dạy “ở bên trong”. Lời Chúa Giêsu: "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chiu nổi." (Ga 16,12).
Vì thế cuốn Giáo lý lưu ý một cách thú vị:
GLGHCG #1697:. .. Huấn giáo về "đời sống mới" (x. Rm 6,4) trong Đức Ki-tô phải là: Một huấn giáo về Chúa Thánh Thần, vị Thầy nội tâm về đời sống mô phỏng theo Đức Ki-tô, người khách trọ dịu hiền và người bạn soi sáng, hướng dẫn, sữa chữa và củng cố đời sống mới này...
GLGHCG #2672: Khi chúng ta được Thiên Chúa xức dầu bằng Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thấm nhập toàn thể con người ta để trở thánh vị Thầy nội tâm dạy cho ta biết cầu nguyện. Người là tác giả của truyền thống kinh nguyện sống động của Hội Thánh...
Thậy vậy, tôi bây giờ thâm tín Chúa Thánh thần là giáo sư tâm hồn của mỗi người chúng ta. Ngài huấn luyện chúng ta thích hợp cho mỗi một môi trường sống.
Từ nay, tôi quyết tâm lưu ý đến sự soi sáng, thúc đẩy và nâng đỡ của Chúa Thánh thần.
Loài người luôn khao khát được yêu; đó là bảo chứng con người muốn hướng về Trời. Muốn đạt được mục tiêu này, chúng ta phải biết múc lấy thần lực nơi Thánh thần Suối nguồn Tình yêu.
Xin Chúa Thánh thần dạy con xử dựng ba nhân đức đối thần Tin, Cậy, Mến để con được “nhảy vào” và đắm đuối trong lảnh vực thần linh; xin cho con biết cảm nhận tác động của Ngài, nhờ biết lắng nghe trong nguyện cầu và trong thinh lặng. Có thế con mới tiếp nhận được lời dạy bảo của Ngài là vị Thầy Nội tâm.
Đời mỗi người Kitô hữu phải trổ sinh hoa trái Thánh Linh trong cuộc sống hàng ngày: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, tiết độ, khiêm tốn, khiết tịnh.
Đường con theo Chúa có đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nhưng đây là cuộc sống mang tính chất được thần linh hóa, nên phải sai trái suốt cả bôn mùa, bất chấp thời tiết: “Hăng say hành thiện không ngừng”, như thánh Phaolô (Gal 6,9) đã dựa vào lời dạy của Chúa Giêsu về cành nho phải sai trái vì được gắn liền với Cây Nho đầy nhựïa sống Thánh linh.
Lạy Thiên Chúa của con, con quyết tâm yêu mến và bước theo Ngài.
Đường đi của đời con là Chúa Giêsu Kitô mà đích điểm là Thiên Chúa Ba Ngôi trong hạnh phúc trường cữu. Lý tưởng của con là Chúa Kitô, một chân lý rõ ràng làm sao con quên hoặc chối từ được. “Bỏ Ngài con biết theo ai, vì Ngài có lời ban sự sống”. Thiên Chúa đã ban cho con tự do để con chọn lựa: một là Thiên Chúa, hai là Satan, chứ không có sự chọn lựa nào khác. Vậy hễ theo Chúa thì phải chống Satan; bãi chiến trường cũng tại chính tâm hồn ta. VớiThánh Linh Tình yêu của Chúa Giêsu Thánh Thể hỗ trợ, phần thắng nằm chắc trong tay chúng ta.
Lạy Chúa, càng cố gắng, lắm khi con càng cảm thấy yếu đuối. Nhưng nhìn lại quá khứ, con cảm nhận được đời con luôn là cả một khối hồng ân Chúa trìu mến thương ban; xin cho con biết đáp đền phần nào.
Làm sao con có thể yêu mến Chúa được, nếu Chúa Thánh Thần không dẫn lối con theo. Lời Chúa Kitô: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết, những điều ấy sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em" (Ga 16,13,14).
Lời Thầy rõ nét chi li. Từ lâu con đã ơ hờ. Từ này quyết chí trung thành lắng nghe.
Lạy Thánh Linh tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống Chúa Kitô luôn.
Xin Chúa Thánh Thần thương tình thánh hoá bản thân chúng con, ngỏ hầu mọi cử chỉ và hành vi của chúng con đều đẹp lòng Chúa Cha, nhờ quyền năng Thánh Thể mà chúng con được diễm phúc rước hằng ngày, để qua tác động thánh hóa của Chúa, chúng con được cùng Chúa Giêsu Thánh thể trở thành hy lễ tình yêu đẹp lòng Chúa Cha trong mọi giây phút của cuộc đời dương thế.
Xin Chúa Ngôi Ba Đoái Thương Đời con năm tháng ơ hờ, Đi tìm Chân lý thẩn thờ vu vơ. Ngôi Ba Thiên Chúa bất ngờ, Giúp con hết có dại khờ lững lơ. Ngài theo con mãi không sờn, Sợ con cất bước chập chờn đêm đen. Biển đời sóng gió lênh đênh, Aâm thầm tay nắm bồng bềnh không buông.
Ngũ tuần Ơn Thánh suối nguồn, Tình yêu Thiên Chúa đổ tuôn tràn đầy, Mở đường cho chính hồn nầy, Biết tìm về Chúa đêm ngày ước mơ.
Xin luôn thấm nét hồn thơ, An vui biết được Chúa Trời cưng yêu. Thánh Thần lửa mến đốt thiêu, Cầm tay sánh bước dập dìu hoan ca.
Tình thương Thiên Chúa bao la, Tình con bé nhỏ thế mà được yêu. Thánh Thần chỉ dạy bao điều. Lắng nghe hợp tác mến yêu tâm thành.
Thánh Thần là Đấng ủi an, Giúp con cảm nhận Chủ Chăn bên mình. Để con luôn sống an bình, Vì con vốn đã đồng hình Ki-tô.
Để đời xinh đẹp thắm tô, Khiến người ca hát tung hô danh Ngài. Từ nay quyết chí thuộc bài: Trạng Sư bào chữa, với Ngài vươn lên.
Thánh Thần khấn xin Ngài đến, Tưới nhuần ơn thánh khắp miền tươi xanh. Tình thương của Chúa thực hành, Từ nay sai trái xứng cành Cây Nho. Nam Giao --------------------------------
Tôi rất tâm đắc khi đọc và cảm nếm được những suy tư lắng đọng sâu xa của ĐHY Joseph Ratzinger trong “Muối Cho Đời”. Ngài viết:
“Đức tin cho chúng ta niềm vui. Nếu không có Chúa, thế giới sẽ hoang sơ, sẽ chỉ còn là nỗi buồn chán, và sẽ hòan toàn là thiếu thốn. Điều này ta đang chứng kiến nơi thế giới vắng Chúa hôm nay, nó đang càng ngày càng cạn dần sinh lực và trở nên tẻ nhạt. Có niềm vui lớn là vì có tình yêu lớn hiện diện, đó là cốt lõi của đức tin Kitô Giáo. Bạn là người chắc chắn đựơc yêu. Cũng nhờ vậy mà ngay từ đầu Kitô Giáo đã chiếm được trái tim của đa số những người yếu đuối và đau khổ.”
Từ cảm nghiệm thâm sâu và tuyệt vời này, tôi thích thú nhận ra rằng thế giới cộng đòan các tông đồ tiên khởi đã hoang sơ, đã buồn chán và đã hòan toàn thiếu thốn. Một phần vì thiếu vắng Vị Mục Tử Nhân Lành; một phần vì những tháng ngày theo Thầy đã không còn đem lại cho các ngài niềm hy vọng vào một vinh quang chói lọi trần thế; còn phần nữa vì thiếu niềm tin vào phương cách cứu độ kỳ lạ của Thiên Chúa thể hiện điên cuồng nơi Thập Giá Đức Kitô.
Nhưng khi những đau khổ quằn quại rồi là cái chết treo thê thảm đã hằn sâu trong thân thể Đức Kitô được phô bày ra, đức tin của công đoàn nhỏ bé này mới thực sự thấm sâu. Chính vì thế mà các ngài đã bừng lên niềm vui vì đã thấy Chúa Phục Sinh vinh hiển từ cõi chết. Đích thực đức tin đã cho các ngài niềm vui.
Đây cũng chính là cảm nhận được Thánh Thần linh hứng mà thánh sử Gioan đã ghi lại:
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” (Ga 20, 19-20)
Niềm vui của các tông đồ bừng lên, lớn dậy bởi các ngài đã nhận ra Đức Kitô là Con Một như Đức Giêsu, khi còn hiện hữu bằng thân xác, đã mặc khải:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3, 16)
Cũng như có lần Người đã thổ lộ:
“Thế thì anh thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống Chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6, 42-43)
Quả thật, các tông đồ đã dần dần nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Một tình yêu lớn đã làm cho các ngài bừng lên niềm vui quá lớn lao. Niềm tin của các ngài đã “khỏi phải chết” trong nỗi sợ người Do Thái, trong sự hèn nhát và chối Chúa của mình. Các ngài đã nhận ra các ngài được yêu bằng một Tình Yêu “đến nỗi đã ban Con Một”.
Trước sự hân hoan sung sướng vì Thần Khí Đức Kitô hiện diện, khi mà “các cửa đều đóng kín” và khi nhìn thấy sự thay đổi trong mắt, trong tim của các môn đệ mà Người yêu mến, nên Người đã thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, Đấng đã làm cho các ngài nhận ra những yếu đuối và bất tòan của minh và từ đó, không còn phải khép nép, co cụm lại vì sợ sệt như trước kia nữa. Các ngài đã sống cuộc sống mới trong Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, bởi Ngài là Đấng Ban Sự Sống. Thật sự, các ngài đã “có niềm vui lớn là vì có Tình Yêu Lớn hiện diện”.
Sáng thứ ba, ngày 06/05/2008 vừa qua, khi đến thăm và khám bệnh “rối loạn tiêu hóa” tại Phòng Khám Từ Thiện Phú Trung, nơi tình nguyện chăm sóc chữa trị những bệnh nhân AIDS, tôi đã khám phá, nơi đây tỏa lan ra niềm vui khó tả. Từ linh mục bác sĩ Augustinô Nguyễn viết Chung, nhóm trưởng nhóm Tiếng Vọng (Éco) Nguyễn thị Vinh cho đến những anh chị em thiện nguyện khác đang thể hiện một niềm vui hân hoan trong Thánh Thần, khi chăm sóc ân cần gần 20 người bệnh chỉ còn lại da bọc xương với nhiều những biến chứng thay hình đổi dạng trên thân thể gầy còm và xanh xao hao mòn của họ. Với những con người mang “căn bệnh thế kỷ” này, chẳng mấy ai dám đến gần họ, đụng chạm đến da thịt tàn phai và héo úa của họ, vì sự sợ hãi lây bệnh đưa đến cái chết. Nhưng hằn sâu trong trái tim, tâm hồn của những tình nguyện viên can đảm dấn thân, nhiệt huyết phục vụ này, tôi cảm nghiệm được tất cả đều có Tình Yêu Lớn hiện diện trong sâu thẳm, vì với họ, tâm hồn và thân xác của những con người khổ đau của thế kỷ trên kia chính là Đền Thờ Thiên Chúa, là hiện thân của Thần Khí Đức Kitô vậy.
Mà “Thiên Chúa là Tình Yêu” như thánh Gioan định nghĩa xác tín. Hay như thánh Phaolô giảng dậy: “Thiên Chúa là Thần Khí và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đấy có tự do” tức không còn nỗi sợ hãi chiếm đoạt nữa. Quả là “Tình Yêu đã thắng được mọi sự” (Omnia Vincit Amor).
Tin vào lời Chúa Giêsu đã dậy dỗ, đã mặc khải sau khi đã được “nhìn thấy Chúa” phục sinh mà các ngài đã quên mình để sau đó, hăng say ra đi làm chứng cho Tin Mừng. Niềm vui lăn xả theo “linh đạo nhập thể” của các tông đồ đã được thầy Giêsu chúc lành sau khi “Người đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần và Người đã được làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1, 4) mà chính bản thân Người đã trải qua và đã trăn trối:
“Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy Thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20, 20-21)
Rồi khi chứng kiến và cảm mến nhóm Tiếng Vọng lăn xả cùng với những con người cùng khổ quặn đau, tôi lắng nghe được Thần Khí Lời Chúa vang vọng bởi “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, mà là công chính, bình an hoan lạc trong Thánh Thần.” Niềm vui khi “nhìn thấy Chúa” hiện diện nơi người nghèo khổ, bệnh tật và bị khinh khi của tất cả những người tôi gặp gỡ nơi nhà thờ Phú Trung vào ngày hôm đó, đã giúp tôi thêm cảm nghiệm và thâm tín rằng: “Thần Khí tỏ ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung”. Anh chị em đang hoạt động tích cực nơi đây đều do sự đóng góp tiếp tay của nhiều người vắng mặt khác. Những người này tham gia bằng vật chất, tiền của vì họ ý thức tận trong tim lời Tông Đồ Dân Ngoại tha thiết nhắn nhủ rằng:
“Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thông nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn.” (Pl 2, 1-2)
Lạy Thánh Thần, Tình Yêu Thiên Chúa,
Xin ban thêm ơn đức tin cho chúng con. Nhờ ơn trọng đại này chúng con mới cảm nhận được bình an hoan lạc trong tâm hồn và cho thân xác yếu hèn của chúng con.
Xin biến đổi con mắt đức tin để chúng con nhìn thấy Chúa hiện diện nơi những người mà Chúa Giêsu khi còn sống kiếp phàm nhân đã ra tay nâng đỡ yêu thương. Xin thánh hóa chúng con yêu mến sự hiệp nhất với niềm vui là được ở lại trong Tình Yêu Hiệp Nhất Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
Phêrô Vũ văn Quí CVK64 Email: peterquivu@gmail.com --------------------------------
Dựa theo bố cục tổng quát của Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách Vinh quang), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nới mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành ba phần:
1) Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (20,19-20); 2) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (20,21-23). 3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Luca 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ “ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm các câu 14,20; 16,23.26).
Tác giả dùng công thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì các ông sợ người Do-thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Do-thái, shalôm (= bình an) là một lời chào thông thường. Nhưng trong mạch văn long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Gioan, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong sách Sáng thế 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Gioan, người ta đã dịch là “trút hơi thở”) (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu. 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời chào “bình an”thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (19-20)
Sau khi Đức Giêsu đã bị bắt, bị xử tử và được an táng, tình trạng của các môn đệ thật đáng thương: các ông về nhà đóng kín tất cả các cửa, vì sợ người Do-thái. Các ông hoàn toàn mất bình an. Khi hiện ra với các ông, điều đầu tiên Đức Giêsu nói là: “Bình an cho anh em!” (19,19). Nhưng nói mà thôi thì không đủ, Người còn cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Người không chỉ nói về bình an, Người cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đã trở lại với cuộc sống trong tư cách Đấng chiến thắng cái chết. Các vết thương cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Trong cùng một lúc, Người cho các ông được gặp Người như Đấng Chịu đóng đinh và Đấng Phục Sinh. Do đó, Người chính là sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ (c. 20).
* Lời chào “bình an”thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (21-23)
Lần thứ hai, Người lại chúc các ông được bình an (c. 21). Các môn đệ lại được mời gọi quy chiếu về Đức Giêsu là sự bình an để lại sống tư cách được sai đi (= tông đồ) và sứ mạng chia sẻ hoa trái ơn cứu độ là ơn tha tội. Vì đã nhận được lời chúc bình an, là hoa trái công trình cứu độ, và cũng là chính Người (x. Ep 2,14), Đức Giêsu cho các môn đệ được thông phần vào chính sứ mạng, sự sống và quyền của Người là tha tội. Các ông sẽ bị từ chối, ghét bỏ, nên chỉ khi nào bám vững vào sự bình an của Người, gắn bó với chính Người, các ông mới chu toàn được nhiệm vụ. Như Chúa Cha đã sai Người, nay Người sai các môn đệ. Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Để các ông chu toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần là sự sống mới không tàn phai. Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc.
Ở trong một thế giới đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới.
+ Kết luận
Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên củng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông, hoặc nói theo thư Êphêxô, “chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Lời Chúa, trong các buổi cử hành Phụng vụ, trong giờ cầu nguyện giữa cộng đoàn anh chị em, là Đức Kitô Phục Sinh. Người ban cho chúng ta bình an và Thánh Thần, và sai chúng ta đi hân hoan chia sẻ niềm tin và niềm hy vọng ấy. Chúng ta cần phải để Người đưa chúng ta ra khỏi ngôi mộ của sợ hãi, của ích kỷ, để tin tưởng đi vào lòng thế giới. Quả thật, Đức Giêsu không giải thoát các môn đệ khỏi những ưu phiền (x. 16,33), nhưng ban cho chúng ta sự vững vàng, không lay chuyển và sự tin tưởng an bình.
2. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là “Con Chiên đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
3. Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: “Hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Ngài như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn phá nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu. Có khi gió quạt mát, có lúc gió thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Ngài mạnh mẽ, Ngài len lỏi vào mọi sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Ngài, Ngài sẽ bẻ gãy, Ngài nhổ tung và phá hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Ngài cũng làm cho các con tim nên dồi dào phong phú. Ngài liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà [liên tục] kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4,6).
Câu truyện mà tôi nghe từ hồi còn là một chú giúp lễ, đó là vào một lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống như sau:
Linh mục chính xứ muốn gây ngạc nhiên cho tín hữu nên đã nói với ông từ tối hôm trước leo lên trần nhà thờ, nhốt sẵn một con bồ câu và sáng hôm sau, lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ông leo lên nằm sẵn đó, chờ linh ngài hô to: “Lậy Chúa Thánh Thần xin hãy đến” thì từ một lỗ nhỏ khoét sẵn ông từ thả con chim bồ câu để nó bay xuống.
Nhưng sáng hôm say, lúc mọi người đang nghiêm trang tham dự thánh lễ, và khi linh mục hô lớn: “Lậy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự xuống”, thì chim bồ câu không thấy xuất hiện. Ngừng một lát, linh mục lại kêu lớn: “Lậy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự xuống”, và rồi cả nhà thờ đều lim lìm không một tiếng ho, tiếng thở để mong nhìn thấy Chúa Thánh Thần. Vẫn không thấy Chúa Thánh Thần xuất hiện. Như linh cảm có chuyện không lành, linh mục lại hô to thêm lần nữa: “Lậy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự xuống”. Bấy giờ từ trên trần nhà thờ, tiếng ông từ vọng xuống: “Lậy cha, Chúa Thánh Thần bị mèo ăn thịt rồi ạ!”.
Câu truyện tưởng như khôi hài hoặc chỉ mang ý nghĩa ngụ ngôn trên nếu đem ứng dụng vào cuộc sống con người thời đại, ta thấy nó đang xẩy ra cho từng người trong chúng ta. Sống giữa thế giới hôm nay để bảo đảm được ơn Chúa Thánh Thần, để sức sống của Ngài, tình yêu của Ngài, hơi thở của Ngài được luôn sống động và trổ sinh hoa trái trong đời sống tâm linh và thực tế là một điều khó khăn. Cũng như việc bảo vệ con bồ câu đơn sơ và hiền lành trước những con mèo hung dữ và đói ăn đang rình là một việc làm đòi hỏi nhiều nỗ lực.
Thật ra Chúa Thánh Thần được hình dung hóa bằng con bồ câu, và Satan và bè lũ của chúng được hình dung hóa bằng những con mèo đói và hung dữ kia chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, Tình Yêu và hơi thở của Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bị Satan khống chế và ăn thịt. Vì Satan và đồng bọn chúng luôn luôn phải quỳ phục trước mặt Ngài và ở dưới quyền Ngài. Do đó, hình ảnh so sánh kia chỉ nhằm nhắc nhở người Kitô hữu rằng, họ cần phải tỉnh thức đề phòng, vì những ngọn gió tội lỗi so Satan và quỉ thần chúng thổi tới có thể làm tắt đi ngọn lửa Chúa Thánh Thần trong lòng mình, như những con mèo có thể rình bắt những con bồ câu đơn sơ, vô tội.
Vậy đâu là những con mèo độc hại, dữ tợn và đói ăn kia? Trong vườn tâm hồn của mỗi Kitô hữu vẫn lởn vởn có nhiều mèo loại này. Nhưng nhìn chung xã hội con người hiện nay, thì những con mèo to lớn, dữ tợn và đói ăn đang sẵn sàng rình chờ và vồ lấy ăn thịt con bồ câu nhỏ bé tức sức Sống Thánh Linh nơi mỗi tâm hồn là: Mèo Ly Dị, Mèo Phá Thai, Mèo Đồng Tính, Mèo Hôn Nhân Đồng Tính, Mèo Vô Thần, Mèo Duy Vật, Mèo Hưởng Thụ. Riêng tại khu vườn cá nhân mỗi người, vẫn có những thứ Mèo Tham Lam, Mèo Quyền Lực, Mèo Vô Độ lởn vởn. Những con mèo mà hơi thở của chúng, hơi hám của chúng đang tạo nên một bầu khí ô nhiễm mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là “nền văn hóa của sự chết”! Và khi đã hít thở không khí sự chết này, thì tâm hồn con người sẽ trở nên tê liệt, tức là “mất đi ý thức tội lỗi”, như lời Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII đã nói.
Tôi hình dung ra hình ảnh của câu truyện trên qua những gì đang sẩy ra quanh nhà tôi. Đó là mỗi năm có mấy cặp chim én, chim cu gáy đến làm tổ quanh vườn nhà tôi. Tôi phải vất vả lắm mới có thể canh chừng chúng khỏi mấy con mèo hàng xóm. Thế nhưng mỗi năm vẫn có những trường hợp những con chim này bị mèo ăn thịt. Cứ mỗi lần tôi nhình thấy tổ chim bị xé nát và những lông chim rải rác quanh vườn, là tôi biết rằng đã có những con chim bị mèo ăn thịt.
Cĩmg thế, con chim bồ câu đơn sơ, bồ câu trong sạch, bồ câu bác ái của tôi vẫn bị những chú mèo dục tình, cao ngạo, tham lam, ích kỷ rình bắt. Nhiều khi những cuộc rượt bắt này khiến tôi thật sự vất vả và lo lắng. Nhưng rất may mắn, dù con chim bồ câu yếu đuối và rất đơn sơ nhưng lại có cắp cánh để bay cao, ngược lại, những con mèo dù to lớn, dữ tợn, và gian ác cũng chỉ có khả năng chạy rảo trên đất, và cùng lắm là leo lên cây hoặc cành cây nơi những con chim đang đậu. Đây là hình ảnh trận chiến thiêng liêng giữa những tâm hồn thiện chí và sức cám dỗ của Satan, thế gian và xác thịt. Nhờ Thần Khí Chúa những tâm hồn thiện chí sẽ được bay cao để thoát khỏi những nanh vuốt đang rình chờ và rượt bắt của những con mèo của tinh thần và nếp sống thế tục, nếu họ tỉnh thức và cậy trông nơi Ngài.
Lậy Chúa Thánh Thần xin hãy đến và xin hãy đốt lên ngọn lửa yêu mến trong linh hồn con. Xin giúp con giữ mãi ngọn lửa này, vì đó chính là sức sống tình yêu mà Chúa đã ban cho con, để nhờ đó con được cứu độ. Xin đừng để ngọn gió tội lỗi làm vụt tắt ngọn lửa này. Và xin giúp con khỏi rơi vào những cám dỗ của Satan, thế gian và xác thịt mà dập tắt đi ngọn lửa Ngài đã nhóm lên trong lòng con. Amen. --------------------------------
Thắc mắc: Người giáo dân thường chỉ cầu nguyện cùng với Chúa Cha và Chúa Giêsu thôi. Vậy Chúa Thánh Thần có tác động gì đến cuộc sống của người giáo dân hay không ? Không cần Chúa Thánh Thần, người giáo dân có được cứu độ không ?
Vì ta chỉ nghe nhắc đến Chúa Thánh Thần trong dip gần lễ Hiện xuống mà thôi, c2n trong năm rất ít khi nghe nhắc đến Chúa Thánh Thần.
Bạn mến,
Giáo lý dạy thế nào về mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta vẫn nhớ: Thiên Chúa là Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng nhận xét của bạn như đại diện cho một số đông tín hữu dường như không sai: “Người giáo dân thường chỉ cầu nguyện cùng với Chúa Cha và Chúa Giêsu thôi”.
Tại sao lại có tình trạng này?
1.- Một kiểu hình dung mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
Trước tiên hẳn là có lý do tâm lý: chúng ta quen suy tư bằng hình ảnh, nên chúng ta cũng hình dung ra Thiên Chúa bằng những hình ảnh. Như thế, vì Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa là Cha của Người và Cha của chúng ta, mà từ ngữ “Cha” có thể đưa tâm trí chúng ta về hình ảnh một cụ già râu tóc bạc phơ. Chính sách ngôn sứ Đanien cho chúng ta một hình ảnh như vậy: “Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an toạ. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền” (Đn 7,9); do đó, chúng ta nghĩ là mình biết chút gì đó về Thiên Chúa. Còn Chúa Giêsu, là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, đã chịu chết, sống lại và lên trời vào khoảng 30-32 tuổi, thì Người là một thanh niên Do-thái như bất cứ một thanh niên Do-thái 30-33 tuổi nào đó. Ý tưởng này khiến ta càng nghĩ rằng ta biết Chúa Giêsu còn rõ hơn Chúa Cha. Còn Chúa Thánh Thần thì sao? Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một số hình ảnh về Người: chim bồ câu (Mt 3,16), lửa (Mt 3,11; Lc 3,16; Cv 2,3), không khí, gió, hơi thở (Ga 3,8), nước (Ga 7,38-39), dầu (Cv 10,37-38), ngón tay của Thiên Chúa (Lc 11,20)…! Những hình ảnh đó không giúp chúng ta hình dung ra Ngôi Ba Thiên Chúa như là một nhân vật. Thật ra Đức Giêsu có gọi Người bằng một danh hiệu của con người, đó là “Đấng Bảo Trợ” (Ga 14,26), hoặc Đấng Bảo Trợ khác” (Ga 14,16-17) thì cũng chẳng giúp gì hơn. Do đó, chúng ta “lơ là” với Chúa Thánh Thần.
2.- Mầu nhiệm Chúa Thánh Thần
Thế nhưng Kinh Thánh không muốn chúng ta hình dung Thánh Thần ra với một hình ảnh. Vì Thánh Thần (cũng như Chúa Cha) không nhập thể, Người không có xác thịt, nên chúng ta không nên hiểu các hình ảnh đó (chim bồ câu, lửa, không khí, gió, hơi thở, nước, dầu, ngón tay của Thiên Chúa..) diễn tả bản thân Thánh Thần, nhưng là các biểu tượng gợi tới chức năng của Người, các công việc Người làm cùng với kết quả Người tạo ra. Người chính là Đấng can thiệp nhanh trong lịch sử thế giới. Người bao trùm thế giới và ban sức sống, như cánh chim bồ câu. Người vừa đốt cháy các rác rưới vừa đánh tan băng giá chết chóc, như lửa. Người vừa quét sạch các rác rưới vừa làm mát mẻ vừa chuyển mầm sống đi khắp nơi, như gió. Người rửa sạch vết nhơ và ban sự sống như nước tinh trong. Người vừa chữa lành vừa tăng cường sức mạnh, như dầu…
Rồi chúng ta còn nghĩ Chúa Thánh Thần trong tương quan với Chúa Cha và Chúa Con như thế nào? Cho phép tôi được dùng một hình ảnh thô thiển: Thiên Chúa Ba Ngôi phải chăng như là một cái gateau được chia ra làm ba phần không bằng nhau? Ta có Chúa Cha là phần lớn nhất, có Chúa Con là phần thứ hai nhỏ hơn phần thứ nhất, thế là mừng lắm rồi, còn Chúa Thánh Thần là phần nhỏ nhất, nên nếu không có thì cũng chẳng thiệt hại bao nhiêu?! Trong thực tế Chúa Thánh Thần lại được nhấn mạnh là rất quan trọng. Vì sao?
Thật ra, Thánh Thần chính là hoa trái ơn cứu độ, vì khi hoàn tất chương trình cứu độ, Đức Giêsu đã “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30). Rồi vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu Phục Sinh đã thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Thánh Thần sẽ làm cho các môn đệ được bình an, được vững vàng và sẵn sàng ra đi thi hành sứ vụ. Người là Thần Khí tức là “Khí thần”, hơi sức phong phú và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, đối lại với hơi sức con người nghèo nàn giới hạn. Ta không nên nghĩ Người chỉ là phần gateau nhỏ nhất! Thiên Chúa đã dùng (hoặc: đã cùng) Thánh Thần để tạo dựng, cứu chuộc và quan phòng. Chính Thiên Chúa đã dùng để đưa sinh khí đến cho muôn loài (x. St 1,2). Do đó, “tội phạm đến Chúa Cha, đến Con, đều được tha, nhưng phạm đến Thánh Thần thì không được tha” (Mt 12,31) là vì phạm đến Chúa Cha hay đến Chúa Con thì vẫn còn có Chúa Thánh Thần là sức mạnh tha tội để xóa tội cho ta, còn phạm đến Thánh Thần, là từ chối, xua trừ chính sức mạnh tha tội thì Thiên Chúa còn sức mạnh nào nữa mà tha tội cho ta?
Hôm nay chúng ta có thể dừng lại với một biểu tượng: Thánh Thần như là nước, nước giải khát. Chúng ta làm việc thì cần nước. Thánh Thần là nước đầy sự sống: khi ta chiến đấu kiệt sức với ba thù, Người tăng cường sức lực cho ta. Ta khao khát yêu thương, chính Thánh Thần là tình yêu của Thiên Chúa sẽ đáp ứng cơn khát này. Ta khao khát được thông cảm, chính Thánh Thần là Đấng tạo bầu khí cảm thông. Ta khao khát được sống tình liên đới huynh đệ, chính Thánh Thần là Đấng kiến tạo sự hợp nhất. Chúng ta có thể đọc đoạn thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galát 5,22 để thấy Thánh Thần ban cho ta những “hoa trái” nào.
Cũng chính Người ở trong ta mà cầu nguyện. Do đó, không có Thánh Thần thì không có đời sống thiêng liêng, đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện. “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Như thế, có Thần Khí là sống trong sự liên kết với Chúa Cha và Chúa Con. Có Thần Khí, chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha (Gl 4,6; Rm 8,14-16), chúng ta tin được rằng Đức Giêsu là Cứu Chúa và Đức Chúa (1 Cr 12,3), và sống được tình huynh đệ với nhau (Cv 2,46-47; x. 4,32).
3.- Hội Thánh ít nhắc đến Chúa Thánh Thần?
Còn bây giờ bạn bảo: “Chỉ nghe nhắc đến Chúa Thánh Thần trong dịp gần Lễ Hiện Xuống mà thôi, còn trong năm ít khi nghe nhắc đến Thánh Thần”, thì điều này hoàn toàn không đúng. Xin đan cử một ví dụ nhỏ: câu kết thúc các lời nguyên đầu mỗi thánh lễ bao giờ cũng nhắc đến Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Giêsu: “Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”. Và nếu bạn để ý, các Kinh Nguyện Thánh Thể (KNTT) đều có những lời nhắc đến Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn KNTT II là Kinh ngắn nhất có mấy câu: “Vì thế, chúng con nài xin ch câu: “Vì thế, chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hóa những của lễ này”: câu này nói đến vai trò thánh hóa của Chúa Thánh Thần; “…chúng con tha thiết nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”: vai trò của Chúa Thánh Thần là quy tụ mọi người. KNTT III có mấy lần nhắc đến Chúa Thánh Thần: “Vì vậy, lạy Chúa, chúng con tha thiết nài xin Chúa, nhờ cũng một Chúa Thánh Thần, đoái thương thánh hóa của lễ chúng con dâng tiến Chúa đây”: vai trò thánh hóa của Thánh Thần; “… xin cho chúng con được bổ dưỡng bởi Mình và Máu Con Chúa, và được tràn đầy Thánh Thần của Người, thì trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”: vai trò hợp nhất; “Nguyện xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng con trở nên của lễ muôn đời dâng tiến Chúa…”: vai trò thiêng liêng hóa bản thân chúng ta. Các KNTT khác cũng có nhiều câu tương tự.
Tuy nhiên, bạn có thể nói, vì bạn không đi lễ nhiều (các ngày trong tuần), nên không để ý, chúng ta có thể nghĩ đến “Kinh Đức Chúa Thánh Thần” mà chúng ta có thể đọc mỗi ngày. Hay còn thuận tiện và dễ dàng hơn nữa, chúng ta nói đến “Kinh Sáng Danh”, trong đó Chúa Thánh Thần được nhắc đến cùng với “Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”. Và cuối cùng, một hành vi dễ làm đến mức có thể trở thành máy móc, đó là “Dấu Thánh giá”, cũng có nhắc đến Chúa Thánh Thần: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”.
Chúng ta còn có thể nói nhiều nữa về Thánh Thần, vì trong thực tế, có cả một môn thần học gọi là “Thần Khí học” hay “Thánh Thần học” (pneumatology). Nhưng có lẽ chừng đó ý cũng đã phần nào trả lời cho bạn và mời gọi bạn tin tưởng vào Thánh Thần, để rồi bắt đầu cầu nguyện với Người. Chúc bạn một lễ Hiện Xuống chan hòa mọi hoa trái của Chúa Thánh Thần.
Quang cảnh thánh Gioan thuật lại ở đây, tóm tắt và thực hiện lời nói của Đức Giêsu trong diễn văn giã từ của Ngài trước lúc ra đi chịu chết. Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ ra đi, nhưng thực tại thần linh mà Ngài đã thiết lập và chính là Ngài vẫn lưu lại nơi các môn đệ. Cử chỉ hà hơi trên các môn đệ để biểu hiện ơn Chúa Thánh Thần, khơi dậy nơi họ một đời sống mới và trao ban cho họ một sứ mạng.
Theo não trạng Do Thái, sống, chính là lãnh nhận từ Thiên Chúa, một phần “hơi thở sự sống”. Người ta đi đến chỗ cắt nghĩa gió và hơi thở như một thực tại làm cho sống, ít nhiều siêu vật chất, phát xuất từ Thiên Chúa. Sách Sáng thế ký nói: “Bấy giờ, Thiên Chúa nặn hình con người từ bụi đất và hà hơi sống vào mũi nó, và người trở nên vật sống động” (Stk 2,7). Chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã sử dụng yếu tố não trạng này của các môn đệ và hà hơi trên họ để nói lên ý nghĩa một đời sống mới và một sứ mạng mới khởi sự nơi họ.
Làm sao giải thích ơn huệ Chúa Thánh Thần chiều ngày Phục Sinh và làm sao hiểu được sứ mạng Đức Giêsu giao phó cho các môn đệ?
1) Ơn huệ Chúa Thánh Thần khai mào một đời sống mới. Đây là một sự bắt đầu. Người ta có thể tự hỏi tại sao Đức Giêsu lại ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trước biến cố Hiện xuống. Lễ Hiện xuống vẫn giữ tất cả ý nghĩa của nó như là việc biểu lộ chính thức sự khai sinh của Giáo Hội. Nhưng sự khai sinh này không phải là một cuộc nổi lên đột ngột, và chung cuộc. Trái lại nó liên tục: bắt đầu bằng việc sinh ra, nó lớn lên và không ngừng tăng trưởng mãi cho đến tận cùng lịch sử nhân loại, ví tựa như một loài có sự sống đang phát triển không ngừng. Chúa Thánh Thần đã bắt đầu sinh hạ trong nhân tính với chính Đức Kitô. Đoạn qua các các giai đoạn kế tiếp nhau, linh hồn của Giáo Hội tức là Chúa Thánh Thần, đã dần dần biểu lộ sự hiện diện sống động của mình. Mầu nhiệm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn các môn đệ, luôn kính trọng các định luật phát triển của sự sống: đi từ nhựa sống, ngang qua các mầm, bông hoa rồi tiến đến trái trăng. Ơn huệ Chúa Thánh Thần được trao ban cho các môn đệ đang tụ họp, là một lúc trong mùa xuân của Giáo Hội. Chúng ta lưu tâm đến mùa xuân của Chúa Thánh Thần trong chúng ta hay là tác động chín mùi của Chúa Thánh Thần?
2) Trong đoạn trích dẫn của thánh Gioan, sứ mạng trao ban cho các môn đệ là quyền tha tội. Tư tưởng truyền thống của Giáo Hội nhận ra trong các lời nói của Đức Giêsu cái nền tảng của bí tích Giải tội. Nhưng còn phải hiểu rõ thế nào là “tội”. Đó là những kháng cự với ý muốn của Thiên Chúa và các lỗi lầm đi kèm theo. Nhưng trong nhãn giới của thánh Gioan tội nặng nhất là từ-chối-có-hiểu-biết tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. một trong những khía cạnh của sứ mạng các môn đệ trước nhất là loan báo Lời Chúa. Lời đem lại cho con người niềm tin nơi Đức Giêsu, và tiếp theo là việc xét xử. Các môn đệ là các quan án; và tuỳ theo đức tin này được chấp nhận hay từ chối, họ phán quyết người nào đang ở trong tình bạn với Thiên Chúa hay xa cách Thiên Chúa; họ có quyền xét xử người nào là đáng lãnh nhận ơn tha thứ và tình bạn của Thiên Chúa, mà họ là các thừa tác viên, dựa trên việc các người này có chấp nhận hay không niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Cứu thế, (niềm tin mà trước nhất họ đã đề ra). --------------------------------
Bước vào ngàn năm thứ ba, điều đó mang ý nghĩa hai ngàn năm đã qua từ lúc “thời gian đã mãn”, là lúc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là năm sinh của Chúa Giêsu Kitô. Lịch sử nhân loại được chia làm hai giai đoạn: Trước Chúa Giêsu Kitô giáng sinh và sau Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Nếu có nói về một công nguyên, thì sự tính toán vẫn quy về lúc Chúa Giêsu Kitô giáng sinh.
Để chuẩn bị cho Năm Toàn Xá, Năm Thánh vào năm 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công bố Tông thư “Tiến đến Ngàn Năm Thứ Ba” vào ngày 10.11.1994. Đức Giáo Hoàng đệ nghị ba năm cuối của thế kỷ này được hiến dâng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Năm 1997 hiến dâng cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người; năm 1998 cho Chúa Thánh Thần, và năm 1999 cho Thiên Chúa Cha. Đức Thánh Cha còn muốn cho các tín hữu học hỏi thông điệp về Chúa Thánh Thần trong sinh hoạt của Giáo Hội và thế giới. Thông điệp mang tựa đề: “Chúa và Nguồn Sinh Khí” trong những năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Bởi vì, Đức Thánh Cha đã nói: “Giáo Hội không thể chuẩn bị Ngàn Năm mới bằng cách nào khác hơn là ở trong Chúa Thánh Thần”.
Là “Chúa và là Nguồn Sinh khí”, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn tác động trên Ngài, nhất là trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, như khi vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Nhưng chỉ sau khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Tin Mừng hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi trên các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thiên Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi vào Ađam hơi thở của sự sống và con người nên sống động (St 2,7). Cũng có thể, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống” như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Sách Công vụ Tông đồ còn cho thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Giêrusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động đã được biểu lộ qua các Tông đồ “nói tiếng khác nhau” và “mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được lời rao giảng của các Tông đồ”. Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại Tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: “Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”. Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: “Đức Giêsu là Chúa”, thì cũng chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta “hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”. Bởi vì, giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai Nước Trời, mà lại chia rẽ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được. Chính vì thế mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt năm 2000 là tiêu điểm để hoạt động cho các Kitô hữu của các Giáo Hội anh em được hiệp nhất như ý Chúa muốn.
Đời sống Kitô hữu là một đời sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô đã nói: “Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc về xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt là chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an” (Rm 8,5-6). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải nhìn ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng, ước muốn nên giống Ngài, để có thể đi vào trong tình hiếu thảo của Chúa Giêsu, trong cầu nguyện, trong nghèo khó, tuân phục, trong khiêm tốn, phục vụ, trong tình huynh đệ, xả kỷ của Chúa Giêsu đối với mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, như vậy anh em sẽ không theo những khuynh hướng ích kỷ của xác thịt. Và đây là hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta”. (Gl 5,16.22-25).
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo điều kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Đức Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và quy tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.
Phil lớn hơn em nó là Joe 2 tuổi, chúng thích rừng, thích hồ ao xung quanh thành phố của chúng, trên vùng Michigan. Đó là lý do chính chúng ngưỡng mộ chú Bill, một người độc thân lớn tuổi. Chú thông thạo săn bắn và câu cá. Hai đứa nhỏ thần tượng hóa chú Bill. Chúng vui mừng vô cùng khi nghe tin chú Bill sắp đến ở với chúng. Chú Bill thường mua quà cho các cháu, luôn luôn là những dụng cụ dùng ngoài trời: chiếc địa bàn, con dao, đèn pin, búa, cung và tên, balô và khi chúng lớn, chú còn cho một khẩu súng trường.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm Chúa Thánh Linh, Ngôi Ba Thiên Chúa Ba Ngôi, ban cho chúng ta bảy ơn quý giá; chúng ta gọi là bảy ơn Chúa Thánh Thần. Quà của chú Bill cho Phil và Joe luôn hữu ích cho cuộc sống ngoài trời. Ơn huệ của Chúa Thánh Thần rất cần thiết và hữu ích cho đời sống thiêng liêng. Ơn huệ của Chúa Thánh Thần là gì? Chúng ta phải sử dụng làm sao?
Tất cả là ơn huệ thiêng liêng, là sức mạnh thiêng liêng trợ giúp cho linh hồn chúng ta.
Ơn khôn ngoan là ơn giúp chúng ta nâng cao tâm hồn lên trên mọi sự vật mau qua trên mặt đất, để hướng về những sự không mau qua, những sự vĩnh cửu.
Ơn thông hiểu: như một đèn pha thần thánh, chiếu tỏa sáng lân chân lý Chúa tỏ ra cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa các chân lý ấy.
Ơn lo liệu: như một địa bàn ơn thần thánh, trong những khó khăn, bối rối trong đời sống. Chúa Thánh linh giúp chúng ta biết phải làm gì để vinh danh Chúa và cứu vớt linh hồn chúng ta cũng như anh em chúng ta.
Ơn sức mạnh: nghĩa là can đảm. Chúa Thánh Linh cho chúng ta sự can đảm thiêng liêng cần thiết để giữ luật Chúa và luật Giáo Hội. Tử đạo là điển hình cao nhất của ơn sức mạnh.
Ơn hiểu biết: là ơn giúp ta phán đoán đúng đắn các tạo vật, giúp ta biết sử dụng kiến thức đúng đắn. Ơn hiểu biết không phải chỉ để thâu thập các sự kiện về thế gian, nhưng là đặt chúng trong liên quan và trật tự.
Ơn đạo đức: là tình yêu và lòng nhiệt thành của người con đối với Cha mình, là ước muốn của người con mong làm đẹp ý Cha mình. Như một ân huệ của Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức giúp ta tôn kính và yêu mến Chúa là Cha chúng ta. Nó giúp ta thi hành những gì đẹp lòng Chúa, yêu giúp đỡ anh em, yêu cầu nguyện và yêu lời Chúa.
Ơn kính sợ Chúa là ơn giúp ta sợ làm mất lòng Chúa. Không phải sợ hãi như nô lệ sợ chủ; nhưng sợ làm phiền lòng Đấng yêu thương chúng ta. Đấng chúng ta yêu mến. Như Kinh Thánh nói: “Kính sợ Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan”.
Hôm nay, chúng ta vui mừng vì Chúa Thánh Linh đã cho chúng ta tất cả những ơn trợ giúp đó. Phil và Joe trong câu chuyện đã sung sướng nhận những món quà để sinh hoạt ngoài trời. Chúng ta hân hoan đón nhận ân huệ của Chúa Thánh Linh giúp chúng ta trong đời sống với Chúa.
Một cha sở già miền núi phía nam nước Ý thường dùng các ví dụ cụ thể để diễn tả mầu nhiệm trong đạo. Vào lễ Thánh Linh hàng năm, Ngài ra lệnh thả một chim câu trong nhà thờ. Và khi chim đậu xuống ai, người đó phải cố thực hiện một công tác cụ thể phục vụ cộng đoàn. Có lần chim đậu xuống một thầy hiệu trưởng, ông này đã cam kết và thực hiện một cuốn sách giá trị. Lần khác chim đậu xuống một vị công tước và công tước đã bỏ tiền xây hệ thống dẫn nước. Một Linh mục trẻ được sai tới thay thế cha sở già. Cha sở mới không thích kiểu cách cha sở cũ nhưng chưa tiện hủy bỏ. Vào ngày Lễ Thánh Linh ngài bảo cứ thả chim câu, và cho mở rộng hết các cửa, nghĩ rằng chim sẽ bay ra ngoài. Nhưng con chim bay lượn một vòng quanh nhà thờ và đậu ngay xuống vai cha sở mới, cả nhà thờ vỗ tay mừng rỡ. Cha sở mới phải lên tiếng hứa sẽ đem hết sức lực và thì giờ phục vụ giáo xứ, và ngài đã giữ lời.
Câu chuyện vui nầy diễn tả phần nào những hoạt động của Chúa Thánh Thần, Người thúc giục, soi sáng và hướng dẫn ta trong mọi ý hướng, mọi sáng kiến phục vụ anh em. Chúa Giêsu nói về hoạt động của Thánh Linh: Người như gió, muốn thổi đâu thì thổi (Ga 38). Và Chúa cũng nhắc nhở ta trong vai trò quan trọng của Thánh Linh trong việc giúp hiểu Tin Mừng, trong việc truyền bá giáo lý của Chúa: “Thầy sẽ xin Cha ban cho các con một Đấng phù trợ, Người là Thần Chân lý” (Ga 14,16): “Khi Thần Chân lý tới, Người sẽ dạy cho các con biết tất cả sự thật” (Ga 16,13).
Khung cảnh Tin Mừng chúng ta mới nghe chứng tỏ điều Chúa nói. Chúa đã phục sinh, chuyện nầy các tông đồ đều đã biết, nhưng các ông vẫn lo âu, tụ họp nhau trong phòng đóng kín cửa vì sợ. Chúa Giêsu định phó thác cho các ông nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo trên khắp hoàn vũ. Nhưng bây giờ các ông còn đang run sợ, lẩn trốn, như vậy làm sao các ông thực hiện nổi nhiệm vụ Chúa trao phó?
Trong tình trạng lo âu trốn tránh đó, Chúa Giêsu đã tới giữa công đoàn, thở hơi và các ông và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Hành động của Chúa Giêsu làm ta nhớ tới việc Chúa sáng tạo sự sống (Kn 2,7; Ed 37,9). Theo thánh Gioan thì biến cố nầy xảy ra ngay vào ngày Chúa sống lại. Tác động đầu tiên của Thánh Linh là mang tới sự sống, và Chúa Giêsu là người trước hết lãnh nhận tác động đó. Chúa Thánh Thần đã làm nên sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong quyền lực Chúa Cha. Danh hiệu đầu tiên của Thánh Linh là “Thiên Chúa ban sự sống”.
Chúa Thánh Thần còn đem lại cho ta ơn tha tội: “Các con tha thứ cho ai, người ấy được tha”. Thực sự ơn tha tội đã được Thiên Chúa trao ban đầy tràn kể từ cái chết cứu độ của Chúa Giêsu. Vấn đề còn lại ở phía con người, chúng ta có ý thức và sẵn sàng đón nhận ơn tha thứ của Chúa hay không.
Sau khi các tín hữu nhận lãnh sự sống và ơn cứu độ. Thánh Linh sẽ trao ban sứ mệnh, chuyển thông ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện cho mọi người. Đó là nhiệm vụ của Giáo Hội và của mỗi Kitô hữu. “Giáo Hội là cơ quan mở mang cho nhân loại cộng đồng tình yêu”. Từ khi Thánh Linh hiện xuống, tình trạng đã đổi khác. Các Tông đồ không còn run sợ trốn tránh trong phòng kín, nhưng bắt đầu ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi. Các ông làm chứng lời giảng bằng chính cuộc sống và cả tính mạng của mình.
Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người, chúng con có đủ khôn ngoan, can đảm phục vụ và làm chứng cho Chúa trước mặt thiên hạ. --------------------------------
Có lẽ các môn đệ vẫn tiếp tục họp tại phòng cao, nơi đã tổ chức Bữa Tiệc Ly. Nhưng họ đã họp mặt trong bầu khí đầy sợ hãi. Họ kinh hoàng vì đã biết sự cay cú độc ác của dân Do Thái vừa giết Chúa, và các môn đệ sợ rằng tiếp theo sẽ tới phiên họ. Họ đã họp lại trong sợ hãi, sợ từng tiếng chân đi ngoài hành lang, từng tiếng gõ cửa, e có tay sai của Tòa Công Luận đến bắt họ. Đang lúc đó, thình lình Chúa Giêsu hiện ra giữa họ, Ngài chào họ bằng lời chào thông thường của người Phương Đông: “Chúc anh em được bình an”. Câu ấy mang ý nghĩa nhiều hơn là: “Cầu mong cho anh em khỏi lo lắng bối rối”. Nó có nghĩa: “Nguyện Thiên Chúa ban cho anh em mọi điều tốt lành”. Sau đó Chúa Giêsu ban cho môn đệ một mệnh lệnh, sự sai phái mà Hội Thánh chẳng bao giờ được quên.
1) Ngài phán rằng Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai phái họ y như vậy. Đây là điều mà Westcott đã gọi: “hiến chương của Hội Thánh”. Nó có ba nghĩa.
a/ Chúa Giêsu cần Hội Thánh. Đúng như thánh Phaolô muốn nói khi ông gọi Hội Thánh là “thân thể của Chúa Kitô” (Ep 1,23; 1Cr 12,12). Chúa Giêsu đã đến với một sứ điệp cho mọi người, bây giờ Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ điệp ấy sẽ chẳng bao giờ đến được với mọi người nếu Hội Thánh không loan truyền. Hội Thánh phải là cái miệng nói thay cho Chúa, là đôi chân đi những nơi Ngài cần đến, là đôi tay để làm công việc của Ngài. Sứ điệp của Chúa Kitô được đặt vào tay Hội Thánh. Vậy ý nghĩa nhất trong câu chuyện này là Chúa Giêsu tùy thuộc vào Hội Thánh.
b/ Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Một sứ giả cần có người phái mình đi, cần có sứ điệp để mang đi, cần một thế lực, một thẩm quyền để hậu thuẫn cho sứ điệp mình mang đi, người ấy cần có người để nhờ cậy khi nghi ngờ và gặp khó khăn. Vì thế, Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Nếu không có Ngài, Hội Thánh sẽ không có sứ điệp, không có năng lực, không có ai để nương cậy khi bị chống đối, không có gì để soi sáng cho tâm trí, thêm sức cho đôi tay, khích lệ cho tâm hồn. Vậy, câu này có nghĩa là Hội Thánh lệ thuộc vào Chúa Giêsu.
c/ Nhưng ở đây vẫn còn một điểm khác nữa. Việc Hội Thánh được Chúa Giêsu sai phái song song với việc Ngài được Chúa Cha sai phái. Không ai đọc tường thuật của sách Gioan mà không thấy tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha luôn luôn dựa trên sự vâng phục trọn vẹn và tình yêu trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu làm sứ giả của Chúa Cha, chỉ vì Ngài vâng phục và yêu mến Chúa Cha cách trọn vẹn. Do đó Hội Thánh cũng chỉ làm sứ giả, công cụ cho Chúa Giêsu khi Hội Thánh yêu mến và vâng phục lời Ngài thật sự trọn vẹn. Hội Thánh không thể ra đi với các chính sách nhân tạo của mình mà phải theo ý của Chúa Giêsu. Bất cứ lúc nào cố ý dựa vào sự khôn ngoan và năng lực riêng để giải quyết vấn đề mà không tìm ý muốn và hướng dẫn từ nơi Chúa Giêsu, Hội Thánh sẽ thất bại.
2) Chúa Giêsu hà hơi trên các môn đệ để ban Thánh Thần. Khi nói như vậy chắc chắn Gioan đang nhớ lại câu chuyện sáng tạo con người. Tác giả xưa đã viết: “Thiên Chúa bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì con người trở nên một loài sinh linh” (St 2,7). Đó cũng chính là bức tranh mà Êdêkiên đã thấy trong thung lũng đầy hài cốt khô, ông nghe Chúa phán với gió: “Hỡi hơi thở, hãy đến từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, để cho chúng được sống” (37,9). Khi Thánh Thần đến, có sáng tạo mới, như đánh thức sự sống từ trong cái chết. Khi Thánh Thần xuống trên Hội Thánh, Hội Thánh được đánh thức và tái tạo để thi hành nhiệm vụ của mình.
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
SỨ VỤ (cc. 21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa”, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian. --------------------------------
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chiều tối ngày Phục sinh, ngay sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ đã được ban Chúa Thánh Thần và Hội Thánh phát sinh từ hơi thở của Đức Giêsu. Trong bài tường thuật này, so với bài của Thánh Luca trong Công vụ Tông Đồ, hình như Đức Giêsu chiếm chỗ quan trọng hơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan đã thường cho chúng ta thấy màu sắc thần học dưới hình thức những biểu tượng Kinh Thánh trong Tin Mừng của Người.
“Ngày đầu tuần”.
Một thế giới bắt đầu, một tạo dựng mới. Đây là một sáng thế ký mới. Chúa đã “nắm được con người trong tay”, và nhồi nắn lại con người với một thứ đất sét mới.
Và từ ngày đó, các Kitô hữu đã luôn luôn tập họp lại, từ “ngày thứ nhất trong tuần” này đến “ngày thứ nhất trong tuần” kia, nghĩa là từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Hội Thánh được hình thành từ những cuộc tập họp như thế trong suốt thời gian và ngày nay vẫn còn tiếp tục. Cũng cần phải có những buổi họp mặt Chúa nhật để hình thành một Kitô hữu, dần dần theo tiến độ những lần Đức Giêsu “hiện đến”. Chúng ta đã xa rời sự bắt buộc phải xem lễ ngày Chúa nhật với vẻ pháp lý của nó: Bây giờ, việc xem lễ là một điều cần thiết cho cuộc sống “Chúng bị bắt buộc phải thở, để lấy hơi lại”. Và không phải chỉ một năm một lần mà thôi.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ
Sự sợ hãi! Thế giới chúng ta luôn luôn ở trong sự sợ hãi. Nguy cơ về nguyên tử, đó là mối lo sợ!
Trước khi đi xa hơn trong việc cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng vào trong chính cuộc đời của tôi xem tôi sợ những gì? Nơi Chúa “hiện ra vào ngày Phục sinh”, là nơi các môn đệ đã tự khoá cửa lại, để tự bảo vệ; nơi các ông sợ hãi. “Nơi Chúa Thánh Thần có thể hiện ra trong đời tôi, đó chính là vết thương nội tâm của tôi, chỗ yếu nhược của tôi, nơi tôi có thể bị nguy hiểm hay đau khổ. Tình trạng “khoá chặt cửa” của tôi như thế nào? Những hoàn cảnh, tội lỗi, lo âu nào đang giam giữ tôi?
Thánh Phao lô đã có ý thức thực tại này như là một cái chết: “Cái chết đang tác động trong chúng ta. Nhưng chúng ta không mất can đảm, vì trong chúng ta, dù là con người bên ngoài đang đi đến sự hư mất, con người bên trong vẫn mỗi ngày mỗi đổi mới – Những nguy nan chóng qua của ta thật nhẹ nhàng so với sự cao quý khôn lường của vinh quang đời đời mà Chúa chuẩn bị cho ta” (2Cr 4,12-16.17).
Đức Giêsu đến đứng giữa các ông.
Không phải ngẫu nhiên mà Thánh Gioan đã liên kết việc Đức Giêsu Phục sinh với việc ban Chúa Thánh Thần. Trong Kinh Tin Kính chúng ta khẳng định rằng: Chúa Thánh Thần là “Chúa, Đấng ban sự sống”. Ơn ban sự sống này, chính Đức Giêsu đã được nhận trước tiên, khi giải thoát Đức Giêsu khỏi quyền lực của sư chết, Chúa Thánh Thần đã làm được một kỳ công lớn lao.
Nơi chúng ta là tạo vật hữu hạn, không phải là Chúa “tinh thần” và “thể xác” luôn được liên kết, lúc thịnh cũng như lúc suy. Nhưng dù tinh thần của chúng ta có mạnh đến đâu, nó cũng sẽ bị một thất bại cuối cùng, nó không thể giữ lại thân xác của nó: “Con người” có nghĩa là “hay chết”. Nhưng đứng trước vũ trụ được tạo dựng và hay chết này, Đức Kitô chẳng những có khả năng giới hạn của trí khôn nơi con người mà còn có những khả năng vô hạn của Thiên Chúa.
Nơi Đức Kitô có một thần trí thức hơn hẳn trí khôn con người thường bị cái chết khống chế – Đức Kitô có được quyền năng Chúa Thánh Thần, là Đấng ban sự sống.
Đức Giêsu phá vỡ mọi rào cản. Việc người đột nhiên xuất hiện với các môn đệ đang ở trong phòng đóng kín có nghĩa là Người không bị một trở ngại nào ngăn cản không cho đến “ngự giữa các môn đệ của Người”.
Sáng hôm đó, Người đã nhận được một “hơi thở” mới, làm Người trở nên một “thân thể linh thiêng”, một thân thể sinh động do sự sống của Chúa Thánh Thần (1Cr 15,44). Trước khi trực tiếp ban hơi thở đó cho các bạn hữu mình Đức Giêsu “được Phục sinh và tôn vinh nhờ quyền năng Thiên Chúa, Cha Ngài, đã nhận từ Chúa Thánh Thần” (Cv 2,23). Chính Thánh Phêrô nói lên mạc khải lạ lùng này trong ngày Lễ Hiện Xuống – Vâng, sự Phục sinh là công trình của Chúa Thánh Thần.
Người đưa cho các ông xem tay và cạnh sườn.
Bạn đang tìm nơi Đức Giêsu xuất hiện vào ngày Phục sinh chăng? Bạn thấy khó nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần chăng?
Vậy thì bạn hãy cố tìm ra những vết sẹo, những vết thương trong tim bạn, trong cuộc đời bạn, cũng như trong thế gian và trong Giáo Hội.
“Chúc anh em được bình an”. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ sự bình an
“Như Chúa đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”.
Các ông đã tự “ở trong nhà đóng kín”, bây giờ các ông “được sai đi”.
Việc phái các ông đi thi hành nhiệm vụ không hẳn được coi dưới góc độ của một tổ chức nào đó. Đây không phải là một bảng quảng cáo được dựng lên. Đức Giêsu cũng không nhắm đến những công cụ thực tiễn mà Giáo Hội sẽ tìm ra được để truyền giáo. “Chỉ có một điều quan trọng đối với Người: Nguồn gốc của sứ mạng này. Đó là “mối liên hệ mật thiết kết hợp Đức Giêsu với Chúa Cha”. Nói cho cùng, chỉ một sứ mạng: Sứ mạng của Chúa Cha, cũng là sứ mạng của Chúa Giêsu, và trở thành sứ mạng của Giáo Hội.
Nói xong Người thổi hơi vào các ông.
Ở đây Thánh Gioan dùng ngôn ngữ của Thánh Kinh, ám chỉ đặc biệt đến hai đoạn văn nổi tiếng:
+ Sự tạo dựng lúc đầu: “Chúa thổi vào mũi (của Adong) hơi thở sự sống”(St 2,7).
+ Sự tạo dựng sau cùng: “Hãy thổi lên đống xương khô này và chúng sẽ sống lại”(Ed 37,9).
Đã có một sự tạo dựng trong quá khứ, sự phát sinh sự sống vào lúc khởi đầu thời gian; và sẽ có một sự tạo dựng trong tương lai, sự sống lại cuối cùng, vào ngày kết thúc. Nhưng cũng có một sự tạo dựng luôn luôn hiện thực: “Hơi thở” của Chúa vẫn đang tác động. “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống”.
Hơi thở sự sống! Các bạn không nhận thấy sự tài tình khi mô tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới bằng việc thông thường và căn bản nhất là “thở” sao?. Tất cả những sinh vật đến những dã thú to lớn, tất cả đều thở bằng khí oxy, được ban cho chúng ta trên hành tinh này, và chính tôi cũng đang thở hơi thở của những sinh vật. Đây là một hình ảnh cảm kích của Thiên Chúa duy nhất. Đấng làm cho chúng ta sống! Với Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh đơn giản này: “Gió thổi đến nơi nào nó muốn và làm cho người ta sống” (Ga 3,6-8).
Anh em hãy lãnh nhận
Tôi cầu nguyện với những lời này. Tâm thức con người ngày nay không thích “nhận lãnh”. Người ta khước từ, không muốn lệ thuộc kẻ khác. Đó là điều tội lỗi nhất: cao vọng được như “thần thánh”. Nhưng điều đó không thuộc quyền con người. Dù muốn dù không con người vẫn phải lệ thuộc và hoàn toàn lệ thuộc: Để sống con người phải nhận sự sống. Tôi nhận sự giúp đỡ của cha mẹ tôi, tôi nhận sự sống từ không khí tôi thở. Tôi tùy thuộc hàng ngàn sự vật, hàng ngàn con người, hàng vô vàn điều kiện khác.
“Anh em hãy nhận lãnh Chúa Thánh Thần”.
Chúng ta phải nhận lấy “Chúa Thánh Thần”.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết đón nhận những ân huệ Chúa trao ban: Chúa Thánh Thần.
Nhân loại phải đón nhận mối thông hiệp Thần Khí giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhiều nhưng chỉ một. Như thế, chúng ta nhận ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Chúa Cha sai đến, mà là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Theo Công đồng Vatican II, Giáo Hội là sự quảng diễn cho con người nhận biết cộng đồng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa
Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và nhiệm vụ của Giáo Hội là loan báo sự tha thứ và ơn cứu rỗi. Sự tiến triển trong trang Tin Mừng này của Thánh Gioan thật là cảm kích. Một cộng đồng con người có kinh nghiệm của người được sống lại. Từ kinh nghiệm đó sai gởi cộng đồng này đi làm nhiệm vụ. Sự trao ban Chúa Thánh Thần giúp cho sứ mạng này có thể được thi hành. “Sứ mạng” này là để loan truyền sự cứu rỗi - sự tha thứ – sự thánh thiện.
Như vậy vai trò của Giáo Hội là giải thoát! Là cống hiến cho con người tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nói cách khác, về mặt tiêu cực, rõ ràng vai trò đó không có nghĩa là Giáo Hội có thể hành xử một thứ quyền võ đoán. Không bao giờ đặt câu hỏi: “Chúa có tha thứ cho tôi không?” Thập Giá của Đức Giêsu đã trả lời cho vấn nạn đó rồi. Nhưng câu hỏi luôn phải nêu lên là: “Tôi có lãnh hận ơn tha thứ đó không?”. --------------------------------
Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này đưa ta đến "sau cái chết của Đức Giêsu, vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần ngày quy tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn mà Người quy tụ lại để chia sẻ Lời và Bánh, và để sai họ đi vào thế giới.
Các môn đệ quy tụ lại ở cùng một nơi: một kiểu nói mà thánh sử dùng để báo trước tính giáo hội của việc Chúa hiện ra mà ngài sắp tường thuật. Các cửa đều "đóng kín" vì "sợ người Do thái? Nỗi sự hãi cho đến lúc này vốn bao trùm những người Israel, đến nỗi họ không dám tuyên bố ủng hộ Đức Giêsu, thì từ nay còn là phận của các môn đệ thân tín của Chúa: các ông đang cảm nhận một tâm trạng lo âu sọ hãi mà lát nữa đây ơn bình an sẽ đối nghịch lại và khoả lấp hết.
Người ta dễ dàng nhận ra ba tiến trình đặc biệt của những lần gặp gỡ sau phục sinh: Đức Giêsu có sáng kiến (1), Người tự tỏ mình ra cho các môn đệ (2) người uỷ thác cho các ông một sứ mạng (3).
- Sáng kiến của Đức Giêsu:
+ Đức Giêsu "đến" như vậy là Người thể hiện lời đã hứa với các môn đệ trong bài diễn từ giã biệt: "Thầy sẽ đến cùng anh em" (14,18-28).
+ Người "đứng giữa các ông”, dịch sát nghĩa là "Người đứng dậy”, chuyển từ trạng thái đang nằm, ý nói là chết sang tư thế thẳng đứng của Đấng phục sinh.
+ "Chúc anh em được bình an". Đó là những lời đầu tiên Đấng-hằng-sống gởi cho các môn đệ của Người đang tu họp. Đây không phải chỉ là lời chào hỏi thông thường "Shalom" của những người Do thái khi gặp nhau. Càng không phải là lời cầu chúc suông, nhưng là ơn huệ mang hiệu quả thực sự của Bình an, đúng như lời Chúa hứa: "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy; Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng" (14.27).
Các môn đệ nhận biết Chúa.
Đức Giêsu cho họ xem "tay và cạnh sườn Người" (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan 19,34). Chắc chắn từ nay đã qua rồi thời gian người hiện diện thể lý, nhưng Đấng đang đứng giữa họ lúc này vẫn là Đức Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã thấy chết và được mai táng, nhưng từ nay đã biến hình đổi dạng nhờ mầu nhiệm Phục sinh. Và trong cái "nhận Thầy" do lòng tin ban cho, các môn đệ "tràn đầy niềm vui" niềm vui bất tận và Chúa đã báo trước cho các ông: "Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất được" (16,22).
Trao phó sứ mạng:
Việc các môn đệ được gặp Đấng-đang-sống, cùng nhận ra Đấng đã trải qua và chiến thắng vẻ vang cơn thử thách của cái chết trên thập giá, không phải là đã hoàn tất. Cuộc gặp gỡ ấy giờ đây khai mở một sứ mệnh.
+ Sau khi đã làm mới lại ơn bình an: "Chúc anh em được bình an!”.
+ Đức Giêsu "thổi hơi vào các ông", làm lại cử chỉ ban đầu khi tạo dựng con người, giống như trong Sáng thế ký 2,7: ở đây hành động này càng ám chỉ rõ nét là hành động sáng tạo của Chúa, nhất nữa vì đây là lần duy nhất Tân Ước sử dụng cách diễn tả của bản văn Sáng thế ký.
Đúng là một cuộc tạo dựng mới. Đức Giêsu vinh hiển thông ban Thần Khí tái sinh cho con người. Khi cho họ được chia sẻ sự hiệp thông với Chúa. "Như (chữ ‘Như' ở đây không phải chỉ là một so sánh, nhưng ám chỉ một nền tảng, một liên hệ sâu xa) Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”.
+ Và nếu các môn đệ được sai đi, chính là để loan báo cho ‘mọi người tin mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa’. X. Leon- Dufour giải thích: "Tha/cầm giữ ” lối văn chương Do thái dùng một cặp từ trái nghĩa nhau để diễn tả một sự trọn vẹn ở đây cách diễn tả ấy có nghĩa là trọn vẹn quyền thương xót được đấng Phục sinh trao ban cho các môn đệ. Thể văn thụ động diễn tả hiệu quả đạt được đều ngụ ý rằng chính Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn tha thứ, cách dùng thì (động từ) ở quá khứ hoàn thành có nghĩa là ơn tha thứ của Chúa là yếu tố quyết định. Người ta sẽ có thể giải thích một cách rộng rãi là khi cộng đoàn tha thứ, thì chính Thiên Chúa tha thứ vậy. (Lecture de l'evangile se lon Jean. quyển IV, Seuil. tháng 11/1996, trang 241).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) Trái tim Chúa Cha, nguồn mạch sứ vụ truyền giáo
(Đức Cha L.Daloz, trong "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người", DDB, trang 251-252).
Gioan đã xác định thời điểm cuộc gặp gỡ giữa Chúa phục sinh với các môn đệ là chiều ngày thứ nhất. Ngày phục sinh, ngày tạo dựng mới ngày "Chúa nhật"thứ nhất của các Kitô hữu. Đức Giêsu lướt qua những cánh cửa khoá chặt vì sợ hãi, - Người "đến" như đã hẹn và biến đổi sợ hãi thành vui mừng: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con" (14,18). Thế là niềm tin đã trào tuôn trong trái tim hai tông đồ chạy đến mộ. Thế là Maria Madalena đã loan báo sứ điệp nhận được trong vườn. Và bây giờ chính Đức Giêsu, sau cơn đau đớn, đem đến bình an, thứ bình an mà không ai còn có thể mong ước gì hơn: "Bình an cho các con”. Những vết thương của Đấng chịu đóng đinh trở thành những dấu chỉ để nhận biết Đấng Phục sinh: "Người cho họ xem tay và cạnh sườn Người”? Các lời hứa được ứng nghiệm. Sau cái chết đau thương, giờ đây là tràn đầy niềm vui: "Thầy nói điều ấy với các con để niềm vui của Thầy ở trong các con và để niềm vui của các con được trọn vẹn" (15,11).
Niềm vui của Tin Mừng này cần phải toả lan khắp vũ trụ, phải mở tung khoá cửa, ra đi khắp thế giới. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Gioan khơi nguồn sứ mệnh truyền giáo nơi mặc khải của Đức Giêsu phục sinh. Thánh sử lội ngược lên tận ngọn "nguồn, đến trái tim Chúa Cha, Đấng muốn bày tỏ tình thương của Người cho mọi người: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Các môn đệ tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu. Vì giờ đây Người đã được tôn vinh, Chúa Thánh Thần có thể châu lưu trong họ như những dòng sông mang nước sự sống, như hơi thở sáng tạo bắt đầu hoạt động để tử những bộ xương khô xuất hiện một dân tộc mới: “Người thổi hơi trên các ông và bảo: hãy nhận lãnh Thánh Thần. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, trong quyền năng phục sinh, các môn đệ tụ tập được cắt đặt đi phục vụ ơn cứu độ cho anh em mình. Khi loan báo Tin Mừng, Người đặt mỗi người trước trách nhiệm của mình, và trao cho họ quyền giải phóng: "Các con tha tội cho ai, kẻ ấy được tha, các con cầm buộc ai, người ấy bị cầm buộc”. Buổi chiều phục sinh ấy là bước ngoặt lịch sử: đó đã là lễ Ngũ Tuần, và Giáo Hội khai sinh! Cùng với Đức Giêsu, cả thế giới bước vào bình minh của sự sống lại.
2) “Bổn phận của tín hữu”
("Thư các Đức Giám mục gởi người Công giáo Pháp", Cerf, trang 25).
Dù là Kitô hữu và có lời giải đáp chân lý và sự sống, ta vẫn chia sẻ số phận chung của những con người ở xã hội ta. Chính vì thế sứ mạng và trách nhiệm trao cho ta trong thế giới này không thể cho ta niềm tự mãn, càng không cho ta phương tiện nhìn thế giới từ trên cao làm như thể ta vượt trên thế giới.
Như thế, ta được mời gọi rà soát lại tính chất mới mẻ của ân ban Thiên Chúa, của chiều sâu nội tâm đức tin của ta khi sống trong cái xã hội đầy biến động này.
Như thế, ta được mời gọi tự mình đi kín múc nơi nguồn suối đức tin lòng can đảm và niềm hy vọng thiết yếu để đảm nhận những trách nhiệm mà không sợ hãi, không e dè.
Như thế, ta được mời gọi rao truyền Tin Mừng không như một chương trình đi ngược lại văn hoá, xã hội, nhưng như một tiềm năng đổi mới mời gọi con người, tất cả mọi người đi lên tới nguồn sự sống.
Nói cách khác, đòi hỏi phúc âm hoá là một lời mời gọi mà ta có bổn phận phải lắng nghe vì ta phải tìm và phải thấy trong Tin Mừng và trong nhân cách Đức Kitô, hiệp thông với Giáo Hội, những điểm tựa và những điểm qui chiếu có mặt vừa trong hiện hữu của ta, vừa trong những bất ổn của xã hội.
3) Tin vào Chúa Thánh Thần, trước những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu trong thế giới ngày nay.
("Célébrer", tạp chí của Uỷ ban quốc gia về Phụng vụ, số 268. trang 18).
Ba bài đọc đã thống nhất nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, tại sao không đề nghị với cộng đoàn một hành vi đức tin vào Chúa Thánh Thần, trước những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu trong thế giới hôm nay? Ba trong các thách đố nên lưu ý: Sự năng động truyền giáo trong một Giáo Hội cần tập trung lực lượng vào mục vụ.
Sự độc đáo của một đời sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trong một xã hội mà sự phân định các giá trị chân thực ngày càng tăm tối hơn. Ta sẽ chú ý rằng sự tiến bộ thiêng liêng trước hết không hệ tại nhìn ngắm chính mình, nhưng do ở phó thác cho Chúa Thánh Thần.
Sự ngoan ngoãn đối với Thánh Thần chân lý, nhân tố tự do và tiến bộ, trong một thế giới mà những phong trào bảo thủ tôn giáo và những phong trào chính thống quá khích khác nhau đang gào thét. --------------------------------
Làm môn đồ là có một sứ mệnh: chúng ta đã biết điều ấy qua diễn từ giã biệt (13,16.20; 15,1-8). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế gian, nay thành sự hiện diện trọn vẹn của Thiên Chúa, phải được các môn đồ nối dài. Tin Mừng Nhất lãm cũng đề cập đến những lần Chúa Giêsu hiện ra cho các nhóm môn đồ: chính lúc bấy giờ Người giao sứ mệnh cho họ (Mt 28, 16-20; Lc 24,47-49; Mc 16,15: không xác thực; xem Cv 1,8).
Nơi Gioan, cuộc hiện ra cho mấy môn đồ đang tụ họp nằm vào chính chiều ngày thứ nhất trong tuần. Các ông tụ họp đâu đó tại Giêrusalem. Về sau chúng ta sẽ biết là Tôma không có mặt lúc ấy. Mọi cửa đều đóng kín vì họ còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ người Do thái.
Nhưng không gì ngăn chận được Đấng Phục sinh. Cách thức hiện hữu mới của Người chẳng còn bị chướng ngại vật chất nào cản trở. Chúa Giêsu đột nhiên đứng giữa họ. Trình thuật Luca 24,36-49 rất giống với trình thuật Gioan ở chỗ này. Các môn đồ thoạt tiên kinh hãi rồi được Chúa Giêsu trấn an. Người không nói như ngày xưa: Chính Ta đây... (6,20), vì sự hiện diện của Người từ nay thuộc một trật tự khác, sự hiện ấy đem lại bình an (14,27) và vui mừng (16, 20-24; 17,13). Lời chào theo thói quen: Bình an cho các con! ở đây vượt quá ý nghĩa thông thường của nó. Chúa Giêsu chúc và ban cho họ một sự bình an và một niềm vui đặc biệt, khả dĩ giúp họ thắng vượt cớ vấp phạm thập giá và những âm hưởng của nó trong cuộc đời họ (14,17).
Vì không có vấn đề quên! Bởi thế Chúa Giêsu trỏ cho xem các dấu vết Tử nạn của Người. Nơi Lc 24, 36-49, Chúa Giêsu đưa tay và chân chứ không đưa cạnh sườn, vì Luca đã chẳng nói đến nhát lưỡi đòng trong trình thuật Tử nạn của ông; vả lại trình thuật của ông chú tâm đến thực tại Phục sinh hơn: các môn đồ đã không thể chỉ tin vào lời nói của mấy người đàn bà, họ chỉ tin khi Chúa Giêsu hiện ra cho Phêrô và sau đó trỏ cho các sứ đồ còn đang sợ hãi xem tay chân của người cùng bắt đầu ăn trước mặt họ. Và kết luận của Lc là Người đã sống lại thực. Nơi Gioan, Chúa Giêsu đưa tay và cạnh sườn Người trong cùng mục đích ấy: chúng ta không đứng trước một hồn ma một sản phẩm của trí tưởng tượng đâu? nhưng đồng thời thánh sử muốn nhấn mạnh rằng sự phục sinh giả thiết phải có thập giá. Thập giá không thể loại trừ khỏi tư tưởng, phủ nhận như một giấc mộng hãi hùng. Cầu mong họ được bình an, thứ bình an trước hết liên hệ tới Người (16, 33) để họ học hiểu thập giá theo Kitô giáo!
Sau đó, mặc dầu thấy các môn đồ tràn ngập vui mừng, Người cũng lặp lại một lần nữa: Bình an cho các con! Việc lặp lại này chứng tỏ đây không phải là một công thức thông lệ, đồng thời cho thấy bình an được cầu chúc là thứ bình an tích hợp mọi dấu vết của cuộc Tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Niềm đau chia ly không thể biến thành một nỗi mong thoáng qua, quên đi cuộc Tử nạn. Không, nỗi đau đó phải trở nên một niềm vui bền vững, nhờ đau khổ mà chín mùi, niềm vui của Chúa Giêsu cũng như niềm vui của họ, niềm vui không một ai cướp mất (16, 20-22). Niềm vui ấy là niềm vui của mùa gặt phát sinh từ nỗi gian khổ, cơ cực cửa Tử nạn (4,38; 17,13). Thật vậy, Chúa Giêsu giờ đây đến trao cho họ sứ mệnh Cha đã giao phó cho Người: Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con. Các hạn từ gần giống như trong lời nguyện thượng tế (17, 18). Chúa Giêsu ra đi, nhưng thực tại thần linh mà Người mang tới và hiện thân, vẫn ở trong họ và bên họ. Phận sự của họ là từ nay mang nó đến cho thế gian còn bỏ hoang. Cảnh này quả tóm tắt và thể hiện tư tường của diễn từ giã biệt vậy (x.Mt 28, 19- 20).
Nhưng nếu đã phải có phần khí trợ giúp, các môn đồ mới hiểu được "chân lý", thì huống là việc làm cho kẻ khác hiểu, họ lại cần Ngài phụ lực biết bao. Như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống vào con người đầ u tiên (St 2,7; Kn 15, 11), hôm nay Chúa Giêsu cũng thổi Thần khí vào các môn đồ để tái tạo họ cho sứ mệnh mới. Việc tuôn đổ Thần khí ở đây không hẳn có nghĩa là việc tái sinh họ trong Nước Thiên Chúa và trong sự sống (3, 3-8) cho bằng là chỉ sứ mệnh đã trao cho họ: sứ mệnh đem bao kẻ khác vào chính sự sống này.
Vì cùng với Thần khí, họ được ban quyền tha và cầm giữ tội trong Lc cũng vậy (24,47), việc loan báo đức tin có mục tiêu tha tội và có đối tượng là mọi dân nước. Trong Mt 16, 19, quyền trên được hứa cho Phêrô; trong Mt 18, 18, quyền năng cởi buộc ấy được ban cho Giáo hội. Thuật ngữ pháp lý bao hàm cả quyền phán xét. Nơi Gioan 20,23, cầm giữ đối nghịch với tha thứ (Mc 7,8; x.Hc 28, 1: diatôrein). Trong tư tưởng thánh sử, quyền này là một tia sáng chói lọi của Con Người (Mc 2, 5 và ss; Lc 7, 47- 48), Đấng từ nay được đặt làm thẩm phán (Ga 3, 19; 5, 27; 9, 39; 12, 31- 32; 17, 2). Thành ra các môn đồ nhận được ở đây một quyền xét xử thật sự; họ tham dự quyền tài phán cánh chung của Con Người là Chúa Giêsu. Thế thật hữu lý khi Giáo hội coi lời Chúa Giêsu nói đây như nền tảng của quyền tha thứ tội lỗi bằng bí tích cáo giải.
Nhưng tại sao thánh sử, mà trọng tâm tư tưởng là việc mặc khải, định nghĩa ở đây sứ mệnh các môn đồ bằng quyền xét xử chứ không bằng việc loan báo lời (17, 9- 21)? Người ta có thể ngạc nhiên về điều đó. Nhưng chắc chắn là Gioan ghi lại những lời của chính Chúa Giêsu. Trong Lc 24,47, Chúa Giêsu không nói đến việc tha tội; trong Mt 28,18 thì Người để ý tới quyền phổ quát và thần linh của mình. Như đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu (9,39), việc rao giảng Tin Mừng đem lại sự chia rẽ trong thế gian. Các môn đồ được công bố là có thẩm quyền phân biệt xem ai đáp lại sứ điệp; họ được quyền phán xét sau cũng như trước khi người ta lãnh phép rửa tội. Dĩ nhiên quyền này không độc lập với việc rao giảng, vì xét cho cùng chính "chân lý” mới giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi (8,32-34) và biến cải nên tinh tuyền (13, 10; 15,3). Lc 24,47 nhấn mạnh rnối dây liên kết chặt chẽ việc công bố đức tin.và quyền xét xử nhưng xem ra thiên về điểm đầu hơn. Trong Mt 28, 18- 20 quyền được trao ban bao gồm việc loan báo đức tin, quyền thanh tẩy và trông coi việc giữ các giới luật. Tư tưởng Gioan đặc biệt nhấn mạnh đến quyền tài phán của các môn đồ, được xem như một tia sáng của quyền Con Người.
Người ta tự hỏi tại sao Thần khí đã được ban cho các môn đồ ngay từ Phục sinh, trái ngược với cảm thức của cộng đoàn Kitô giáo sơ khai là đặt việc tuôn đổ Thần khí vào lễ Ngũ tuần (Cv 2, 1-4). Luca chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ Ngũ tuần. Nhưng ông có thể đưa về phần thứ hai của tác phẩm mình, tức sách Cv.; còn Gioan thì không. Vậy phải chăng ta có thể coi Thần khí như một sản phẩm có điều kiện? Được ban theo lượng theo liều? Thật ra, việc chia sẻ Thần khí được thực hiện từ từ. Ngài đâu phải là một chân lý tĩnh, đặt trong túi như một đồ vật đáng giá. Đối với Kitô hữu, thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài không ngừng được phân phối, vào lễ Ngũ tuần và sau đó trở đi. Việc tuôn tràn vào lúc Phục sinh, Hiện xuống và sau đó đều là những dấu hiệu của cùng một thực tại mà, từ lúc Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39), đã cách mạng cả thế giới. (3, 3-8). Lối phân biệt việc ban Thần khí vào lúc Phục sinh và Hiện xuống chỉ là thứ yếu, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố đều thuộc về cùng một Giờ. Tất cả mọi cuộc tuôn đổ Thần khí chỉ là một. Ngày Phục sinh, các môn đồ nhận được Thần khí để chuẩn bị sứ mệnh; Thần khí ấy trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2, 1-4); sau đấy Ngài còn tiếp tục giúp đỡ họ không cùng.
Gioan chẳng kể lại ChúaGiêsu giã từ thế nào và môn đồ phản ứng ra sao, không phải vì ông muốn qua đó ngụ ý sự hiện diện thường xuyên của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần (Ga 16,7; x. Mt 28,20) nhưng vì muốn tuân theo một cơ cấu văn chương; phản ứng của Maria Mađalêna sau cuộc hiện ra cũng bỏ qua không bàn đến.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực hiện trên trần gian đã hoàn tất (x. Ga 17,4), Chúa Thánh Thần được phái đến trong ngày lễ Ngũ tuần để thánh hoá Giáo hội mãi mãi, và như thế những ai tin sẽ được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Giáo hội duy nhất (x. Ep 2,18). Chính Ngài là Thánh Thần ban sự sống, là mạch nước vọt lên vĩnh cửu (x. Ga 4,14; 7,38-39); nhờ Ngài, Chúa Cha hồi sinh những kẻ đã chết vì tội lỗi, đợi đến phục sinh thân xác hay chết của họ trong Chúa Kitô (x. Rm 8,10-11). Chúa Thánh Thần ngự trị trong Giáo hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (x. 1Cr 3,16). Trong họ, Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tử (x. Gl 4,6; Rm 8,15). Ngài dẫn đưa Giáo hội bằng muôn ơn theo phẩm chức và đoàn sủng; trang điểm Giáo hội bằng hoa quả của Ngài (x. Ep 4,11-12). Nhờ sức mạnh Tin mừng, Ngài làm tươi trẻ, không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo hội đến kết hợp hoàn toàn với Phu Quân mình. Thực vậy, Chúa Thánh Thần và Hiền Thê nói cùng Chúa Giêsu Kitô rằng: "Xin hãy đến" (x. Kh 22,17) (trích Hiến chế về Hội Thánh số 4).
2) Từ nay Chúa Kitô hoạt dộng trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Người, không những bằng cách khơi dậy những khát vọng đời sau, nhưng còn từ những khát vọng đó cổ vũ, tinh luyện và củng cố những ước vọng quảng đại thúc đẩy gia đình nhân loại biến cải cuộc sống của mình trở nên nhân đạo hơn và quy phục trái đất về cùng mục đích ấy. Quả thực ơn Chúa Thánh Thần tác động mỗi người mỗi khác: có những người được gọi làm chứng nhân tỏ tường cho sự mong đợi quê trời, bảo tồn chứng tá sống động trong gia đình nhân loại; một số khác được gọi để hiến thân phục vụ con người trong phạm vi trần thế, dùng sự phục vụ ấy chuẩn bị chất liệu cho Nước Trời. Ngài giải thoát tất cả để sau khi bỏ lòng vị kỷ và tập trung mọi năng lực trần thế cho cuộc sống con người, tất cả hướng về ngày mai, ngày mai mà nhân loại sẽ trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa (Trích hiến chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 38). --------------------------------
Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua: Đức Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Đấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta. - Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. - Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Cv 2,1-11: Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần. Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 103
Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do "sinh khí" của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.
3. Bài đọc II: 1 Cr 12,3b-7.12-13
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần: Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.
4. Tin Mừng: Ga 20,19-23
Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).
Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau:
Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.
Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật..
Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Lưỡi lửa
Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu ? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.
2. Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần
Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung: hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.
Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.
Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được "lưỡi lửa" mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hôm lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Đó là hiệu quả bởi "lưỡi lửa" của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.
Xin "lưỡi lửa" hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.
3. Thổi hơi
Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. "Hơi thở" của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.
Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Địa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế ? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng "hơi thở" là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.
4. Hiệp nhất trong đa dạng
Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng: đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến… Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.
Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.
Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sắc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay:
Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng "đặc sủng" của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.
Đừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Đó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.
Tận dụng "đặc sủng" Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
5. Chúa Thánh Thần, Đấng bị quên lãng
Chúa Thánh Thần là Đấng bị quên lãng. Đúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần
Thế nhưng CTT lại là Đấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.
Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe: CTT hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả: vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi CTT ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn: nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.
Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM. LM này trước đó có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của cô: ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM ! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy ? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn CTT hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy ? Xin đề nghị 2 điều:
Một là chúng ta hãy cầu nguyện cùng với CTT. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Đấng biết tất cả mọi sự kia mà. Điều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với CTT, để CTT soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đổi.
Điều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Đó là CG vừa ban CTT vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ: "Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai... " Tại sao CG ban CTT và ban ơn tha tội chung nhau ? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẻ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh BTGT cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với CTT. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc: một là xét mình xem mình có những tội gì ; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội ; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào ; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh ; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào ? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi.
Xưng tội cùng với CTT nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với CTT, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó ; xin CTT soi sáng cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với CTT nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin CTT soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.
6. Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi
Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường: gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng... Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội...
Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện: các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với CG, cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với CG suốt 3 năm trời, được CG dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của CG... Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế ? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục: Đi theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi ; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của CG đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toàn của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.
Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thương Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện: thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông: Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa ; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.
Ngày nay chúng ta mừng lễ CTT hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ.... mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.
Đó cũng chính là ý tưởng của ĐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của Ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo Ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời Ngài "làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền GH, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho GH..."
Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được CTT Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Đầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục: chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phòng không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về TC, về linh hồn, về thiên đàng hoả ngục, về bí tích ; chúng ta đòi hỏi GH có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của GH mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v....Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tục như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.
Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có CTT hiện xuống trên chúng ta. CTT sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa: làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Thể theo lời Đức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và cầu xin.
1. Lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin / Chúa Cha ban Thánh Thần để soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các vị mục tử / trong việc điều khiển con thuyền Hội Thánh / vượt qua mọi phong ba bão táp ở trần gian.
2. Nhiều nơi trên thế giới ngày nay vẫn còn đang sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha cử Thánh Thần đến / đem yêu thương vào nơi oán thù / đem niềm vui cho người đau khổ / đem hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
3. Ngày hôm nay / bạo lực và hận thù vẫn còn đang làm cho biết bao gia đình phải tan nát / biết bao người phải lâm vào cảnh khốn khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần là nguồn tình yêu / để đổi mới lòng trí con người trên khắp địa cầu.
4. Đường lối Thiên Chúa thì nhiệm mầu / Lời Người thì cao siêu / nhiều khi chúng ta không thể hiểu tường tận được / Vì thế chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha / ban Thánh Thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta / những điều Chúa Giêsu đã dạy lúc còn ở với các môn đệ.
CT: Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám phá được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ…
Một thiếu nữ kia có gương mặt xấu xí, tìm đến nhà hoá trang tài ba xin làm một cái mặt giả thật đặc biệt để dùng xuất hiện nơi công cộng. Người hóa trang tài ba đến độ khi cô mang chiếc mặt giả vào thì không ai có thể biết đâu là thật, đâu là giả. Và thời gian trôi qua, không ai còn nhớ gương mặt thật của cô như thế nào.
Rồi có chàng thanh niên nọ, với khuôn mặt đẹp trai đến bày tỏ tình yêu với cô và xin cưới cô làm vợ. Cô đồng ý, nhưng vì lương tâm thôi thúc, cô nói thật cho chàng biết về gương mặt xấu xí của mình. Chàng trai vẫn không thay đổi ý định, vẫn xin cưới cô vì thực sự yêu thương cô. Cô cảm thấy hạnh phúc vì tình yêu chân thật này. Nhưng trước ngày làm lễ cưới, chàng trai cũng đến thú nhận với cô là mình cũng đang mang mặt giả như cô trước đó. Khi nhìn thấy gương mặt thật của chàng, nàng hốt hoảng bỏ chạy và la lớn:
- Anh xấu xí lắm, tôi không thể và không còn yêu thương anh được nữa.
***
Quý vị và các bạn thân mến,
Chúng ta đừng hành đông như cô gái trong câu chuyện vui trên. Thánh Phaolô nơi thơ gởi giáo đoàn Côlôsê 3:12-15 đã khuyên những người con tinh thần của mình như sau: “Hãy sống bác ái, hãy chấp nhận những tật xấu của nhau, nâng đỡ nhau, giúp nhau chân tình”. Thánh Phalô còn viết như sau: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thánh hiến và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhận hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái. Đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Chúa Kitô điều khiển tâm hồn anh em. Vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn an bình đó”.
Trước tôn nhan Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đều có những bất toàn, xấu xí, và nếu Thiên Chúa hành động giống như cách của con người chúng ta thì có lẽ Ngài sẽ chạy xa chúng ta, không thể yêu thương chúng ta được nữa. Thế nhưng, Ngài là Thiên Chúa, và cách hành xử của Ngài không giống như cách hành xử của con người, cả khi chúng ta còn là những tội nhân, còn mang những vết tích xấu xa của tội lỗi đã phạm, và những yếu đuối bất toàn đã mang lấy khi bước vào đời.
Chúng ta là những người xấu xí như vậy, nhưng Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương chúng ta, và sai Con Một Ngài xuống trần để thực hiện chương trình cứu rỗi, mang lại cho mỗi người chúng ta dung mạo mới, thật tốt đẹp, dung mạo của những con cái Thiên Chúa được tái tạo nhờ ân sủng cứu rỗi, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần hiện diện với chúng ta trong lịch sử nhân loại. Ngài soi sáng hướng dẫn giúp mỗi người chúng ta duy trì mãi mãi dung mạo đẹp đẽ đã lãnh nhận từ ngày chịu phép rửa tội.
Chúa Thánh Thần là nhà hoá trang tài ba, nhưng còn hơn là một nhà hoá trang, Ngài không những biến đổi lớp vỏ bên ngoài, nhưng lại hoạt động tận cõi thâm sâu trong tâm hồn con người chúng ta. Ngài biến đổi từ bên trong và tác động mãi mãi đến độ nếu chúng ta cộng tác vào ân sủng của Ngài thì chúng ta sẽ luôn luôn đẹp đẽ, được chói sáng với dung mạo của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần làm cho mỗi người chúng ta ngày càng trở nên giống như Chúa Kitô nhiều hơn, để chúng ta mãi mãi sống trong tình yêu thương đối với Thiên Chúa và đối với nhau. Càng được biến đổi trở nên giống Chúa Kitô chúng ta càng dễ dàng sống yêu thương nhau hơn. Chúng ta hãy chấp nhận lẫn nhau, hãy tha thứ cho nhau.
***
Lạy Chúa Thánh Thần, xin thương ngự đến canh tân và thánh hoá con người con mỗi ngày thêm một đẹp đẽ hơn, giống hình ảnh Thiên Chúa hơn. Amen!
R. Veritas Ngọc Nga sưu tầm --------------------------------
Trong Tông Thư Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, Ðức Gioan Phaolô nhận thấy trước khi tiến vào Thế Kỷ 21, Giáo Hội đã tiếp nhận biệt ân mà Chúa Thánh Linh dành cho việc thăng tiến người giáo dân, đúng là ơn đặc biệt vì nhờ đó họ góp phần vào công cuộc hiệp nhất mọi Kitô hữu và đối thoại với các tôn giáo và nền văn hoá hiện đại (số 46).
Có thể nêu một số trường hợp điển hình về hiệp nhất các Kitô hữu và về đối thoại với các tôn giáo chăng?
Trước đây, chúng ta đã có dịp nêu trường hợp một chị giáo dân đóng vai con thoi giữa Ðức Cố Thượng Phụ Anathenagoras I của Chính Thống Giáo và Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI của Giáo Hội Công Giáo. Người ta thấy Chúa Thánh Linh vẫn khơi dậy một đức ái thắm thiết giữa hai vị lãnh đạo tôn giáo này bất chấp sự chia rẽ giữa hai Giáo Hội còn đó chưa được hàn gắn. Nhưng điều đặc biệt là người giáo dân được tham dự vào mối tương quan thân ái ấy giữa hai vị, hướng tới tình hiệp nhất đại kết.
Chúng ta cũng nên ghi nhận nơi đây thành quả rõ nét về yêu thương được thấy nơi cuộc họp ba ngày 25 - 27.6.1997 của các vị đại diện 1,600 người Do Thái thuộc phong trào Hiệp Nhất Thế Giới mà ai cũng biết dưới sự lãnh đạo của chị giáo dân Chiara Lưu Bích. Ngay việc hiệp nhất giữa những khuynh hướng Do Thái Giáo bao gồm chính thống, canh cải, bảo thủ, theo hướng tục hoá, đã là chuyện khó. Nhưng đề tài tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong linh đạo Do Thái giáo và phong trào Tổ Aám đã là đề tài trúng tủ, đến nỗi một dự viên Do Thái đã thú thật "Bước vào hội nghị mà thấy những khác biệt giữa Do Thái chúng tôi, tôi đã sợ và đã có phê phán tiêu cực. Nhưng rồi tôi nhận ra sự kiện mỗi người chúng tôi có mặt ở hội nghị đã là một hành vi yêu thương. Ðó chính là điều hiện thực nhất tôi nhận ra ở giữa chúng tôi, những người tới dự."
Chị giáo dân Lưu Bích nói về kinh nghiệm của mình trong gặp gỡ với Chúa cho hơn 10,000 người Nhật ở Tôkyô nghe. Người đứng ra tổ chức cuộc nói chuyện là người đã từng tham dự Công Ðồng Vaticanô II với tư cách là dự thính viên ngoài Công Giáo. Ðó là ông Ninh Kỳ Oanh (Nikkyo Niwano), vị sáng lập Phong Trào Phật Tử Vì Thế Giới Hiệp Nhất với 6 triệu thành viên. Các thành viên này đã từng có tương quan tốt với anh chị em giáo dân thuộc Phong Trào Focolare ở nhiều quốc gia nên muốn chính chị Lưu Bích đến nói cho họ nghe về gốc gác của Focolare. Do đó mà chị được tự do mô tả kinh nghiệm thân mật của chị với Thiên Chúa nhiều năm trước khi khởi xướng Phong Trào. Oâng Ninh Kỳ Oanh rất đắc ý về kinh nghiệm thiêng liêng của chị Lưu Bích đến nỗi ông nói: "Vậy theo thánh ý Thiên Chúa và lòng từ bi của Ðức Phật là chúng ta phải lao tác cho thế giới được hiệp nhất."
Bốn năm sau (1985) nhân dịp mừng thượng thọ của ông Ninh Kỳ Oanh, ông còn mời chị Lưu Bích tới Tôkyô. Lần này bài nói chuyện của chị nhắm tới hàng ngàn người Nhật đại diện giới tôn giáo, văn hoá và chính trị của Nhật Bản. Chiều hôm đó, chị Lưu Bích và những người bạn Công giáo tháp tùng chị, đã hết sức xúc động khi nghe ông Ninh Kỳ Oanh mời gọi đám đông giới trẻ Phật Tử đang nghe ông, hãy trở lại đạo Công Giáo nếu đó là điều lương tâm họ gợi ý, bởi lẽ ông rất quí chuộng và yêu mến Ðức Giáo Hoàng và đạo Công Giáo!
Hai năm sau, một nhân vật khác nữa của Phật Giáo Nhật Bản là Ðức Minh Ðăng (Etai Yamada) sau được bầu làm chủ tịch Hiệp Hội Phật Tử Nhật Bản gồm tới 60 giáo phái. Vị này đã được Ðức Gioan Phaolô II mời tham dự ngày Cầu Nguyện Cho Hoà Bình tại A-si-di năm 1986. Sau khi quan sát các bạn trẻ Focolare sinh hoạt, Ðức Minh Ðăng nói: "Tôi rất cảm động trước sự dấn thân của giới trẻ Focolare. Tôi nghĩ các tu sĩ Phật Giáo Nhật Bản chúng tôi cũng phải sống như vậy."
Lễ Hiện Xuống mới.
Tất cả những điều vừa kể là một dấu chỉ của một lễ Hiện Xuống mới. Như xưa tại Giêrusalem trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ Ðức Giêsu không còn là nạn nhân của sự sợ hãi nữa. Họ đã bước ra khỏi căn phòng đóng kín trên lầu để xuất hiện làm chứng về Chúa Giêsu Phục Sinh. Và hôm đó đã có thêm khoảng 3.000 người theo đạo (Cv 2,41). Nay cũng vậy, đã đến lúc các Kitô hữu thể hiện lời Ðức Giêsu dạy họ: "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi thì lấy gì muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được? Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5,13-16).
Không những phải làm chứng, Giáo Hội tự bản chất còn phải truyền giáo. Dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 1995, giáo phận Rôma do Ðức Thánh Cha đứng đầu, đã nêu gương cho các giáo phận trên thế giới, bằng cách huy động toàn Giáo Hội trong lãnh thổ vào sứ mạng truyền giáo chung, với 12,000 nhà truyền giáo là giáo dân, 2,000 nhà truyền giáo là nữ tu, chưa kể 781 linh mục triều và các phó tế vĩnh viễn. Dịp này Ðức Thánh Cha đã đặt linh mục vào tâm điểm dưới sức thúc đẩy của Chúa Thánh Thần khi nói "Mỗi linh mục mang trong trái tim mình những giáo dân đã và đang được giao cho mình chăn dắt", Ðức Thánh Cha còn nói tiếp: "Chính giáo dân sẽ giúp cho linh mục hiểu rõ ơn gọi của mình hơn, giúp cho các linh mục sống ơn gọi của mình đầy đủ hơn. Bởi vì linh mục học hỏi được rất nhiều ở trẻ em, ở người trưởng thành và thanh niên, ở các người già, các bà mẹ gia đình, các công nhân, các người làm nghệ thuật hay văn hoá cũng như các người quê mùa chất phác". Lời của Ðức Gioan Phaolô II vừa trích gợi ý về hướng theo đó nên hiểu Lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay rằng "Khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn." (c.13)
Sau khi nhìn nhận nỗi buồn do sự ra đi của Ðức Giêsu gây nên (Ga 16,5-7), Người bắt đầu an ủi các môn đệ bằng việc loan báo Ðấng Bảo Trợ sẽ đến với các ông. Ðấng ấy sẽ đứng ra bảo vệ chính nghĩa của Người, vạch trần tội lỗi của thế gian và cho thấy rõ Satan thủ lãnh của thế gian đã bị xét xử (cc. 8-11). Ðấng ấy sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn (cc.12-15).
Cựu Ước đã loan báo "Thần Khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu" (Tv 142,10). "Lạy Chúa, nẻo đường Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con - Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ (Tv 24,4-5).
Dĩ nhiên ý niệm "Thần Khí", "đường nẻo" hoặc "chân lý của Ngài" mà tác giả Gioan sử dụng vượt ngoài nội dung của những từ tương đương trong Cựu Ước. Nhưng quan trọng hơn chính là sự hướng dẫn của Ðấng Bảo Trợ không chỉ bảo gồm việc hiểu sâu hơn về những điều Ðức Giêsu đã dạy. Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh thực ra phải được hiểu về lối sống ăn khít với lời dạy dỗ và cuộc đời trần thế của Ðức Giêsu. Như vậy khi Ðức Giêsu nói với các môn đệ "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em trên nẻo đường của sự thật toàn vẹn" (c.13) có nghĩa là Người sẽ hướng dẫn các môn đệ hoàn toàn theo lời dạy dỗ và gương lành của Ðức Giêsu, tuyệt đối không theo sự ô nhiễm của thế gian, xác thịt và tinh thần tăm tối. Do đó Ðức Giêsu nhắc đi nhắc lại rằng Chúa Thánh Thần là Ðấng Bảo Trợ "sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em" (cc.14-15)
Cách tốt nhất để đón nhận ơn cứu độ
Vậy việc làm thích hợp nhất người Kitô hữu có thể bắt đầu thực hiện dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống này là đặt mình để Chúa Thánh Thần dẫn dắt nhằm áp dụng lời Tin Mừng của Chúa Giêsu vào cuộc sống. Ðó sẽ là cách tốt nhất để đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại.
Một số câu hỏi gợi ý:
Bạn nghĩ gì về lời bình luận của Ðức Minh Ðăng (Etai Yamada) khi nói "Tôi rất cảm động trước sự dấn thân của giới trẻ (Công Giáo) Focolare. Tôi nghĩ các tu sĩ Phật Giáo Nhật Bản chúng tôi cũng phải sống như vậy." Lời đó có gợi ý gì về cách giáo dục con em gia đình Công Giáo của chúng ta chăng? Nhưng có phải các bạn trẻ Công Giáo Focolare nói trên cũng chỉ thực hiện lời Chúa Giêsu dạy là "Chính anh em là muối cho đời? là ánh sáng v.v?"?
Bạn nghĩ lời Tin Mừng nào của Chúa Giêsu mà bạn lấy làm tâm đắc? Bạn sẽ cầu cùng Chúa Thánh Thần như thế nào để Ngài giúp bạn áp dụng lời đó vào cuộc sống?
Mùa Phục Sinh kết thúc với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Chúa Nhật kế tiếp Giáo Hội sẽ mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính nhờ Đức Giêsu mà người ta biết một cách đặc biệt về Thánh Thần Thiên Chúa.
1. Đức Giêsu đã nói về Thánh Thần
Quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh đã đề cập đến Thần Khí của Thiên Chúa: “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St.1, 2). Trong sách Thánh Vịnh, người ta đọc thấy: “Sinh khí của Ngài, Ngài gởi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv.103, 30). Thần Khí (hơi thở) của Thiên Chúa đã được biết tới trong Cựu Ước.
Các tông đồ chỉ nhận ra căn tính của Đức Giêsu một cách đặc biệt sau khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Cùng với dân chúng, các tông đồ nhận ra Đức Giêsu là một tiên tri, là Đấng Kitô (Mt.16: 16: Đấng Thiên Chúa xức dầu, Đấng Thiên Sai) ngay khi Ngài còn sống đời tại thế; nhưng chỉ sau biến cố Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới nhận ra Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, ngự bên hữu Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, hay một cách chính xác hơn Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Chính nhờ Đức Giêsu, mà con người biết về Thánh Thần một cách rõ ràng hơn.
Tin mừng theo thánh Gioan cho thấy chính Đức Giêsu mặc khải cho con người biết về Thánh Thần một cách đặc biệt. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ sẽ được Thiên Chúa sai gởi tới nhân danh Đức Giêsu, để ở với mãi với con người (Ga.14: 16.26). Có một tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu, và Thánh Thần Đấng Bảo Trợ. Không ai biết rõ Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải (Mt.11: 27). Cũng chính Đức Giêsu nói cho con người biết về Thánh Thần. Thánh Thần có nguồn gốc nơi Thiên Chúa Cha, và được chính Thiên Chúa Cha sai gởi (Ga.14: 16.27). Thánh Thần cũng được Đức Giêsu sai gởi nữa (Ga.15: 26).
2. Sứ mạng của Thánh Thần
Thánh Thần luôn ở với con người. Thánh Thần được sai tới, để ở mãi với con người (Ga.14: 16). Thánh Phaolô diễn tả: “anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em” (1Cor.3, 16-17). Ở với con người, đó là sứ mạng chính của Thánh Thần. Hiện tại Thánh Thần đang ở với mỗi người chúng ta. Thánh Thần đang hiện diện nơi cung lòng mỗi người. Không bao giờ Thánh Thần rời bỏ chúng ta.
Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng làm cho con người nên thánh, Đấng làm cho con người thuộc về Thiên Chúa. Một ngôn từ khác để diễn tả tác động làm con người thuộc về Thiên Chúa, đó là tha tội (Ga.20: 22-23). Thiên Chúa như người cha nhân từ luôn tha thứ tội lỗi cho con người, ngay cả khi người con chưa kịp nói lời xin lỗi. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy làm cho con người sám hối trở lại với Thiên Chúa. Không phải chờ cho tới lúc con người tới tòa hòa giải để nghe lời xá giải qua trung gian linh mục, Thánh Thần Thiên Chúa mới tác động tha thứ tội lỗi con người; nhưng ngay ý định thống hối, hành vi thống hối đầu tiên, đã là do tác động của Thánh Thần rồi. Vị linh mục nơi tòa hòa giải là dấu chỉ hữu hình của lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa.
Thánh Thần là Thầy dạy dỗ con người về Thiên Chúa (Ga.14: 26; 16: 12-13). Không ai có thể dạy con người về Thiên Chúa. Con người có thể nói về Thiên Chúa, hoặc lặp lại những lời về Thiên Chúa, nhưng không thể dẫn con người tới gặp gỡ và cảm nghiệm Thiên Chúa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã làm điều này nơi các tín hữu (Rm.8). Thánh Thần dạy mỗi người về Thiên Chúa, làm chứng về Thiên Chúa cho con người, làm con người trở thành những chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa (Ga.15: 26).
3. Sống dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần
Vũ trụ bao la là những “lời” hoặc những “dấu chỉ” cho thấy Thiên Chúa hiện hữu và tốt lành, v.v… Qua vũ trụ thiên nhiên, Thiên Chúa “nói” với con người một cách nào đó. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu cho con người biết nhiều về Thiên Chúa. Với Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, Thiên Chúa sẵn sàng đánh đổi tất cả để được con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
Thánh Thần được ban cho con người, cũng vì yêu thương. Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng tâm trí mỗi người, giúp mỗi người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa qua lý trí của mình. Hãy lắng nghe Thiên Chúa nói qua Kinh Thánh, qua những lời giảng dạy của những vị có thẩm quyền, qua tha nhân và cả qua những biến cố hằng ngày nữa. Thiên Chúa đang nói với con người, và Thánh Thần đang soi sáng hướng dẫn con người. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Thes.5: 19). Thiên Chúa có thể nói với mỗi người qua những trung gian và thời điểm khác nhau, hãy lắng nghe dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, để nhận ra và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn chúng ta sống bình an hạnh phúc. Những gì giúp chúng ta bình an và hạnh phúc thật, đều đến từ Thiên Chúa; những gì làm chúng ta bất an, lo lắng, giận hờn thù ghét, không đến từ Thiên Chúa. Hãy tập nhận định để mỗi người được sống an bình thanh thản hơn trong Thiên Chúa. Chính Thánh Thần là nước mát rửa sạch tâm hồn con người; cũng chính Thánh Thần là lửa mến sẽ hun đốt lòng con người cháy lửa tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Thần giúp tất cả mọi người, để tất cả sống trong tình yêu của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Thánh Thần là ai? Dựa vào đâu bạn biết Thánh Thần là Thiên Chúa? Thánh Thần hiện đang ở đâu? Nhiệm vụ, sứ mạng của Thánh Thần là gì? Làm sao nhận ra tác động của Thánh Thần? Thế nào là sống theo Thần Khí?
Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau việc Chúa Con đến trong thế gian mà chúng ta đã tưởng niệm từ mầu nhiệm Nhập Thể đến biến cố Thăng Thiên, lễ Ngũ Tuần khai mở kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Cv 2: 1-11 Sự kiện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giê-su, tụ họp trong phòng Tiệc Ly, được thánh Lu-ca tường thuật trong sách Công Vụ. Biến cố nầy rất thân thuộc với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày nầy.
1Cr 12: 3-13 Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng tính đa dạng của những ân ban làm chứng về hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mỗi một tín hữu lãnh nhận những ân ban của Chúa Thánh Thần, vì chỉ có một Thánh Thần duy nhất để hình thành nên một thân thể duy nhất.
Ga 20: 19-23 Tin Mừng Gioan tường thuật tiền Ngũ Tuần, ngay từ ngày Phục Sinh. Đức Giê-su, hiện ra ở giữa các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chắc chắn những ân ban của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy; nhưng thánh ký nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua là biến cố từ đó Giáo Hội khai sinh. Thánh Thần ở với Giáo Hội ngay từ ngày đầu tiên.
BÀI ĐỌC I Cv 2: 1-11
Theo thánh Lu-ca, sau khi Chúa Giê-su lên trời trên núi Ô-liu, các Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, tuân theo lời căn dặn của Ngài trước khi rời bỏ họ: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành , cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi các ông tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13). Chắc hẳn là phòng Tiệc Ly, căn phòng mà Đức Giê-su đã dùng bữa sau cùng với các ông, và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể; chính cũng ở căn phòng đó mà, dù mọi cửa đã đóng kín, Đức Giê-su đã hiện ra cho các ông vào buổi chiều Phục Sinh; chính cũng ở căn phòng đó mà Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông.
1. Mọi người đang tề tựu ở một nơi.
Không nên hiểu “mọi người đang tề tựu ở một nơi” là cộng đoàn gồm một trăm hai mươi người họp mặt vài ngày trước đó để chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa (Cv 1: 15). Chắc hẳn đây là một nhóm nhỏ hơn được mô tả ở Cv 1: 13-14: “Các Tông Đồ… cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”.
Họ cùng nhau chuyên cần cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố mà Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng chú ý, Chúa Thánh Thần chọn tỏ mình ra vào ngày đại lễ Do thái được gọi lễ Ngũ Tuần, lễ tưởng niệm cuộc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai, giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong trận cuồng phong và lửa.
2. Lễ Ngũ Tuần.
Được gọi “lễ Ngũ Tuần” vì ngày đại lễ nầy được cử hành vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần Do thái tự nguồn gốc là ngày lễ mùa, ngày lễ kết thúc giai đoạn được khai mạc vào ngày lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, những ngày đại lễ của dân Ít-ra-en đều đã chịu một tiến trình tâm linh hóa: chúng đã trải qua từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử thánh. Đối với dân Chúa chọn, lịch sử cốt yếu là hành động của Thiên Chúa. Lễ Vượt Qua tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập, lễ Lều tưởng niệm cuộc lưu lại trong Sa-mạc; sau cùng, lễ Ngũ Tuần tưởng niệm Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập. Vào thời kỳ gần với kỷ nguyên Ki tô giáo, lễ Ngũ Tuần không chỉ tưởng niệm việc ký kết giao ước, nhưng còn là dấu chỉ của việc làm mới lại giao ước hằng năm. Vào ngày lễ nầy, dân Do thái lập lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa.
3. Núi Xi-nai và phòng Tiệc Ly.
Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật được diễn ra một cách long trọng. Biến cố nầy được tác giả mô tả theo một văn phong rất gần với phép ngoa dụ. Trong đa số các tôn giáo, những biểu tượng được mượn ở nơi trận cuồng phong đi theo những cuộc thần hiện. Trong Do thái giáo có một ghi nhận đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối mọi hình ảnh về Ngài, chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây chói sáng) và dấu chỉ gió (cuồng phong hay gió hiu hiu), cũng là hơi thở hay thần khí, bởi vì đó là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ trong khuôn khổ của những cuộc thần hiện Cựu Ước. Thêm nữa, những hình ảnh truyền thống đã trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Chúng ta đọc thấy ở văn chương khải huyền nầy, trận cuồng phong loan báo cuộc quy tụ muôn dân muôn nước vào ngày phán xét; những hình lưỡi lửa thuộc vào cùng một hình tượng của ngày chung cuộc. Thánh Lu-ca liên kết những hình ảnh nầy trực tiếp hơn đến ân ban các ngôn ngữ mà các Tông Đồ nhận được. Kỷ nguyên Ki tô giáo thật sự được loan báo bởi cùng những dấu chỉ với kỷ nguyên cánh chung.
Sau cùng truyền thống Kinh Sư đã suy niệm biến cố Xi-nai và đã khai triển những hàm chứa của nó, theo đó, giọng nói của ông Mô-sê đã được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngõ hầu mọi dân tộc đều có thể hiểu được.
Và làm thế nào không gợi lên lời cầu chúc của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29).
Như vậy có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước; Tân Ước đáp trả cho sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai bộ tộc Ít-ra-en ở chân núi Xi-nai; mười hai Tông Đồ ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp. Nhưng những khác biệt thì sâu xa.
4. Phép rửa trong Thần Khí.
“Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã báo trước rồi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho các anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11).
Các Tông Đồ đều nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Giáo Hội xuất phát từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki tô giáo nầy.
Những biến cố Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật; những biến cố của phòng Tiệc Ly thiết lập kỷ nguyên Thánh Thần. Xưa kia một dân duy nhất trở thành đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay muôn dân đều được mời gọi hưởng cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ơn huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là ân nói các ngôn ngữ, nhờ đó các Tông Đồ mới có thể ngỏ lời với đám thính giả “từ các dân thiên hạ trở về”. Một danh sách liệt kê dài các dân tộc nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), ở đó sự lộn xộn của ngôn ngữ và sự phân tán của các dân tộc xuất hiện như một sự trừng phạt. Nầy đây Giáo Hội của Đức Ki tô dâng hiến cho nhân loại một khả năng hiệp nhất được phục hồi.
Một ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, có thể nhận thấy ngay, là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được đầy tràn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ ra khỏi căn phòng cửa đóng then cài; họ loan báo cho tất cả mọi người những kỳ công của Thiên Chúa. Với sự dạn dĩ, họ phục quyền Đấng chịu đóng đinh và làm chứng Ngài đã sống lại.
5. Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a.
Như chúng ta đã ghi nhận trên, ở nơi cụm từ: “mọi người đang tề tựu” bao gồm Đức Ma-ri-a cùng với mấy người phụ nữ. Việc Đức Ma-ri-a hiện diện vào ngày khai sinh Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần không phải là không quan trọng: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ trong bầu khí thinh lặng của căn phòng Na-da-rét: Thiên Chúa kín đáo đến ở giữa nhân loại. Đây là một tình mẫu tử khác, tình mẫu tử của nhiệm thể Con Mẹ mà từ nay Đức Ma-ri-a đảm nhận.
Vài người phụ nữ cũng đón nhận Thánh Thần. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng ở giữa họ có bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Những phụ nữ nầy không phải chịu dãi dầu sương gió trên những dặm đường xa, chịu tù đày bắt bớ như các Tông Đồ; các bà làm chứng theo một cách khác; các bà hoạt động đến mức mà truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la “tông đồ của các tông đồ”.
BÀI ĐỌC II 1Cr 12: 3-7, 12-13
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-sô, có lẽ vào mùa xuân năm 55, cho cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đó, vào năm 50-52.
Cộng đoàn Cô-rin-tô rất năng động, nhưng cũng gây ra những bất đồng nội bộ khiến thánh Phao-lô phải bận tâm: đây là đối tượng của thư thứ nhất. Giáo đoàn nầy sống ở giữa thế giới lương dân và trong thành phố rộng mở trước những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là trước những đạo thần bí đông phương đang hồi cực thịnh. Những trào lưu nầy không phải không có tác động đến cách ăn nếp ở của các tín hữu.
Ngoài ra, đây không là hoàn cảnh riêng biệt của cộng đoàn Cô-rin-tô. Trong những năm đầu tiên, các cộng đoàn Ki tô hữu đã khổ sở vì thiếu cơ cấu: chưa có phẩm trật; tổ chức còn non yếu và chưa đầy đủ. Ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê đến rồi đi chứ chưa bao giờ cư ngụ lâu dài ở đó. Vào lúc đó, mọi việc đều hoàn toàn tự phát và Chúa Thánh Thần bổ túc những thiếu thốn ban đầu nầy. Quả thật, những đặc sủng thì nhiều; sau đó sẽ trở nên hiếm hơn. Đó là một sự kiện.
Các tín hữu Cô-rin-tô xem ra đã được ban cho nhiều đặc sủng khác nhau, đôi khi không phải là không gây ồn ào huyên náo hay phô trương. Vì thế thánh nhân đòi hỏi họ tiên vàn phải hiểu rõ nguồn mạch của những ân huệ nầy.
1. Nguồn mạch duy nhất của muôn vàn ân sủng: Ba Ngôi Thiên Chúa. Thật đáng lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những ân sủng và mọi hoạt động Ki tô hữu dưới dấu chỉ của Ba Ngôi, khởi đi từ Chúa Thánh Thần: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa (Đức Ki tô). Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa (Chúa Cha) hoạt động trong mọi người”.
2. Mục đích duy nhất của muôn vàn ân sủng: lợi ích chung. Thánh Tông Đồ đưa ra một luật vàng: tiêu chuẩn của những ân sủng phải là lợi ích của cộng đoàn, nghĩa là nếu không vì lợi ích cộng đoàn, ân sủng đó chỉ là ngụy tạo, mạo danh. Tiếp đó, việc so sánh thân thể với Đức Ki tô rất nổi tiếng. Một thân thể làm cho mọi chi thể nên một như thế nào, Đức Ki tô làm cho Giáo Hội nên một như thế ấy, bất chấp vô số thành viên.
Nguyên tắc hiệp nhất, chính là Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất và ban muôn ân sủng cho cho mọi tín hữu trong bí tích Thánh Tẩy. Sự sống Thánh Thần phun trào trong chúng ta như mạch nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG Ga 20: 19-23
Chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng nầy rồi vào Chúa Nhật II Phục Sinh, trong một trích dẫn dài hơn và trong quan điểm của biến cố Phục Sinh (xin xem thêm chú giải Chúa Nhật II Phục Sinh).
Hôm nay, bản văn nầy được đề nghị cho chúng ta trong viễn cảnh của lễ Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng nầy được gọi “lễ Ngũ Tuần” của Tin Mừng Gioan.: “Đức Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Điều nầy không mâu thuẩn với biến cố mà sách Công Vụ tường thuật, nhưng là một bổ túc thần học: “Giáo Hội khai sinh ngay từ biến cố Phục Sinh”, thậm chí nếu những ân huệ Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy.
Chúng ta sẽ nhấn mạnh vài nét đặc trưng mà trong bài chú giải của Chúa Nhật II Phục Sinh chúng ta đã không gợi lên.
1. Cuộc sáng tạo mới: Đức Giê-su trao gởi sứ mạng tiếp tục công việc của Ngài cho cộng đoàn nhỏ bé nầy, “nhóm còn lại” nầy hình thành Giáo Hội Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Giáo Hội khai sinh dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một trong những giáo huấn của bản văn nầy.
Đức Giê-su thổi hơi vào họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo, Ngài thổi sinh khí vào con người, và con người trở nên một sinh vật. Động từ mà thánh Gioan dùng ở đây không được gặp thấy ở bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng chính xác là động từ của bản Bảy Mươi, bản dịch Hy Lạp, của sách Sáng Thế để chỉ cử chỉ của Đấng Sáng Tạo (St 2: 7).
Đây cũng là động từ mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en sử dụng để mô tả cuộc hồi sinh của những bộ xương khô: “Ngươi hãy nói với Thần Khí: ‘Hỡi Thần Khí hãy thổi hơi vào những người đã chết nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế cốt là đánh dấu một “cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới khởi sự. Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành một hạt nhân của nhân loại được tái sinh. Chính sự sống của Đấng Phục Sinh mà Ngài chuyển thông cho các ông.
2. Hiệp nhất giữa biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần. Thánh ký luôn luôn liên kết sự tuôn trào Chúa Thánh Thần với biến cố Phục Sinh. Ông đã diễn tả tư tưởng nầy khi Đức Giê-su công bố về “những dòng nước hằng sống” vào ngày lễ Lều: “Đức Giê-su nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần nội tại nầy, được thánh Gioan ghi lại, chỉ là lời dạo đầu của ngày lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động của Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ngay lập tức các Tông Đồ. Nhưng khi đặt bên cạnh nhau: biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần, thánh Gioan nhấn mạnh sự hiệp nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày lễ nầy đã được liên kết rồi trong Do thái giáo; đến lượt mình, Tin Mừng khẳng định sự liên đới của hai biến cố nầy trong một viễn cảnh mới.
Lm. Ignatiô Hồ Thông --------------------------------
Nhìn lại những đoạn Tin mừng theo thánh Gioan được trích trong hai tuần lễ vừa qua, chắc hẳn chúng ta đều nhận ra rằng lời hứa ban Thánh Thần là điều được Đức Giêsu lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ:”Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con”(Ga 16,7).
Và lời hứa ấy đã được thực hiện ngay khi Đức Giêsu sống lại hiện ra với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly vào ngày thứ nhất trong tuần. Sau khi chào thăm các ông, Ngài thở hơi và nói với các ông: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Như thế, đối với Gioan. việc Đức Giêsu Tử nạn – Phục sinh – Ban Thánh Thần chỉ là một. Chính vì thế, phụng vụ đã chọn đọc bài Tin mừng hôm nay chính thức hai lần trong mùa Phục sinh: một là vào ngày Chúa nhật trong tuần Bát nhật Phục sinh và hôm nay, trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng theo chiều hướng đó, thánh Gioan đã gắn liền cái chết của Đức Giêsu trên thập giá với việc trao ban Thần Khí, thánh sử đã thuật lại giờ ra đi của Đức Giêsu như sau: ”Ngài gục đầu xuống và trao ban Thần Khí”(Ga 19,30).
Như vậy, ngày Phục sinh Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,21-23), nhưng ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo hội (Cv 2,1-13). Cũng như qua bí tích Rửa tội, chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách long trọng để trở thành người chiến sĩ của Nước Trời vậy.
2. Chúa Thánh Thần được ban xuống
Vào địp lễ Ngũ tuần, tức là 50 ngày sau lễ Vượt Qua, theo lời dặn của Đức Giêsu, các Tông đồ họp nhau lại tại nhà Tiệc ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Sách Công vụ tông đồ kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xẩy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Mẹ ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà, có những lưỡi lửa xuất hiện và đậu trên đầu từng người. Họ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bõ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xẩy ra ? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa ! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Joel đã tiên báo: ”Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
II. THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ HIỆP NHẤT
1. Ngày khai sinh Giáo hội
Trước hết, Chúa Thánh Thần, chính là Đấng qui tụ muôn dân nên một trong Giáo hội. Thật vậy, các Tông đồ trước khi nhận lãnh Thánh Thần đã “đóng kín cửa vì sợ người Do thái”. Thế nhưng, sau khi đã nhận được sức mạnh của Thánh Thần, các ngài đã mở tung cửa mạnh dạn bước ra rao giảng cho mọi người Tin mừng về Đấng Phục sinh khiến mọi người đều bỡ ngỡ.
Theo sách Công vụ Tông đồ thuật lại lúc đó, tại Giêrusalem có rất nhiều người thuộc các dân tộc với nhiều tiếng nói khác nhau, từ muôn nơi trở về nhân dịp lễ Vượt Qua, nhưng có một điều lạ là tất cả đều nghe rõ và hiểu điều các Tông đồ loan báo, họ thắc mắc:”Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mésopotamia, Giuđêa, Pontô, Tiểu á, Phrygia, Pamphilia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ tại đây, là Do thái và tòng giáo, là người Crêta và Ảrập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa”.
Khi nêu lên danh sách các dân tộc này, thánh sử Luca đã cho thấy tính phổ quát của Tin mừng cứu độ. Mọi dân nước dù xa xôi như Rôma, mút cùng thế giới theo quan điểm của người Do thái, hay bé nhỏ như Pamphylia, một thành phố rất nhỏ của đế quốc Rôma, cũng phải được nghe loan báo Tin mừng và qui tụ về thành một đoàn chiên duy nhất dưới quyền của một chủ chiên là Đức Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là mối dây liên kết muôn dân nên một, như lời khẳng định của thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần”.
2. Những ân ban của Chúa Thánh Thần
Khi chịu phép Thêm sức, người tín hữu học về Ngôi Ba Thiên Chúa, về ơn Chúa Thánh Thần và những hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội và trong đời sống người tín hữu. Giáo lý Công giáo dạy có 7 ơn Chúa Thánh Thần là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Đó là những ơn căn bản cần thiết cho đời sống người Kitô giáo. Còn có những ơn khác nữa như ơn nhẫn nại, chịu đựng, ơn đơn sơ, hồn nhiên... Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Côrintô giải thích là ơn Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn nơi các tông đồ mà thôi, nhưng còn được tác động trong nhiều cách thế, nơi nhiều người khác nhau.
Trong ngày lễ Hiện xuống hôm nay, chúng ta đặc biệt chú trọng đến ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta là qui tụ mọi dân tộc lại trong một cộng đoàn tức là Giáo hội. Ngài là hồn sống của Giáo hội và của từng người một. Bài tường thuật của sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu ? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 226).
III. TA XÂY DỰNG HỘI THÁNH HIỆP NHẤT
1. Vai trò của mỗi Kitô hữu
Khi được chịu phép rửa tội, chúng ta trở thành một phần tử trong Giáo hội, thành một chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Mỗi người phải có một vai trò trong Giáo hội tùy theo khả năng mà Chúa Thánh Thần sắp xếp. Không ai được đứng bên lề Giáo hội.
Ta thấy ơn Chúa Thánh Thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo hội như thánh Phaolô chỉ dạy: ”Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người”(1Cr 12,3). Như vậy tất cả các phần tử trong Giáo hội đều đóng những vai trò quan trọng khác nhau và thi hành những phận vụ khác nhau. Ơn Chúa Thánh Thần ban cho mỗi phần tử khác nhau là để hợp nhất các phần tử. Và cái dấu chỉ của việc hoạt động tông dồ nhằm mục đích vinh danh Chúa.
Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm lặng lẽ hoạt động nơi ta và Giáo hội mà ta không thấy. Có người tự hỏi tại sao Chúa Thánh Thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại ta đang sống ? Để trả lời, ta cần nhận định là Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ lùng trong thời đại chúng ta đang sống, miễn là ta biết mở rộng tâm hồn và cộng tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống.
2. Tránh gây sự chia rẽ
Công đồng Vatican II dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả mọi phần tử trong Giáo hội đều được gọi để sống đời sống thánh thiện và làm chứng của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi đóng vai trò của mình trong việc hoạt động tông đồ của Giáo hội tùy theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo thánh Phaolô, Chúa Thánh Thần là mối dây liên kết mọi thành phần trong Hội thánh, nên mỗi thành phần không đứng riêng rẽ, nhưng liên đới và gắn bó chặt chẽ với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể: ”Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy”.
Nhìn vào con người chúng ta, chỉ có một thân thể mà có nhiều chi thể: tai, mắt, mũi, miệng, chân tay... Mỗi chi thể có nhiệm vụ khác nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhằm lợi ích cho toàn thân. Và cái dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang Nước Chúa không chỉ tùy thuộc vào cái tài khéo, mức độ học vấn, hay địa vị của mỗi người mà thôi, nhưng còn tùy thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với Chúa.
Truyện: Bất đồng ý kiến.
Hai người bơi chung một chiếc xuồng trên dòng sông nước ngược. Vì có sự bất đồng ý kiến nên qua một hồi lời qua tiếng lại, anh ngồi phía trước gác dầm không bơi nữa. Anh phía sau lái thấy vậy mới nói: Này anh, tôi với anh dù có bất đồng ý kiến, nhưng chúng ta cùng đi chung trên một chiếc xuồng, cùng tiến chung về cùng một mục tiêu, anh không thể để mặc tôi bơi một mình như vậy được.
Anh ở trước mũi trả lời tỉnh bơ:
Chiếc xuồng có hai phần, lái và mũi. Phần lái thuộc về anh. phần mũi thuộc về tôi. Anh cứ bơi phần anh, phần tôi, tôi bỏ, tôi thả trôi thì mặc tôi.
Anh phía sau tức quá, nhưng cũng ráng bơi, vì nếu bỏ thì chiếc xuồng sẽ trôi ngược và không ai tới đích. Không ngờ chỉ một lúc sau, anh nghe tiếng nước tràn vào phía sau, anh quay lại thì thấy anh chàng kia không còn đủ bình tĩnh nữa, đang đục một lỗ để định nhận chìm xuống. Anh kia hoảng sợ nói:
Ơ này, anh có giận tôi thì giận, chứ anh nhận chìm xuồng, tôi không biết bơi đâu đấy nhé.
Anh phía sau thản nhiên nói:
Chiếc xuồng có hai phần, phần mũi và phần lái. Phần mũi của anh, còn phần lái của tôi, tôi nhận chìm kệ tôi chứ !
Thế là chẳng mấy chốc cả hai đều chết chìm trong lúc vẫn cứ cố gắng cãi nhau hơn là nỗ lực bơi vào bờ !
3. Sống hiệp nhất yêu thương
Tính cách cộng đoàn của lễ Hiện xuống đòi hỏi phải có đức bác ái huynh đệ: Thánh Thần không đến trên từng cá nhân riêng rẽ, nhưng trong một tập thể được nối kết bằng hiệp nhất yêu thương. Nơi nhóm người họp nhau tại căn phòng, Chúa Thánh Thần muốn nối kết thành cộng đoàn hiệp nhất, cộng đoàn này luôn luôn mở rộng ra khắp thế giới mà vẫn luôn giữ được mối hiệp nhất.
Ngày Hiện xuống này chính là ngày thành lập Hội thánh. Thế nên, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ của mình cùng lãnh nhận Thánh Thần ở Giêrusalem bằng một biểu lộ hiệp nhất. Các môn đệ đã thực hiện sự hiệp nhất này qua việc chung sống yêu thương. Sự chung sống yêu thương này khác hẳn thái độ ghen tỵ vẫn thường xẩy ra trong đời sống công khai của Đức Giêsu. Đây chính là kiểu mẫu bác ái phải có nơi các Kitô hữu khắp mọi nơi.
Truyện: Tha nhân là chính Chúa
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân núi Himalaya. Ông lo âu trình bầy về tình trạng bi đát của tu viện ông.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân đến từ khắp nơi. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây.
Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo:
Các tội đã và đang xẩy ra tại cộng đoàn đó là tội vô tình. Và giải thích: Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong qúi vị, nhưng qúi vị không nhận ra Ngài.
Nhận được câu trả lời giải đáp, vị Bề trên hối hả quay về tu viện. Ông tập họp cộng đoàn lại, và loan báo cho mọi người biết Đấng Cứu thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu thế cải trang vậy ? Nhưng có một điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu thế.
Vậy là từ đó, mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 287)
Lm Giuse Đinh lập Liễm --------------------------------
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thường được gọi là Lễ Hiện Xuống với Lễ Vọng và Lễ Chính Ngày. Lễ Vọng được mừng trọng thể vào chiều Thứ Bảy tuần VII Mùa Phục Sinh, trước hoặc sau Kinh Chiều. Lễ Chính Ngày được mừng trọng thể vào Chúa Nhật hôm sau. Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống chấm dứt Mùa Phục Sinh và bước sang Mùa Thường Niên II.
Trong Thánh Lễ Vọng, ngày Thứ Bảy: Bài Đọc I có thể chọn: Khởi Nguyên 11: 1-9; Xuất hành 19: 3-8, 16-20; Egiêkien 37:1-14 hoặc Giôen 3: 1-5. Bài Đọc II: Roma 8: 22-27. Bài Phúc Âm Gioan 7: 37-39.
Trong Thánh Lễ Chính Ngày vào ngày Chúa Nhật hôm sau: Bài Đọc I: Công Vụ Tông Đồ 2: 1-11; Bài Đọc II: 1 Corinto 12: 3-7, 12-13 (Năm B có thể chọn: Galat 5:16-25, Năm C có thể chọn: Roma 8: 8-17). Bài Phúc Âm: Gioan 20:19-23 (Năm B có thể chọn: Gioan 15: 26-27; 16:12-15. Năm C có thể chọn: Gioan 14: 15-16, 23-26).
Qua các Bài Đọc trên đây, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là dịp để chúng ta nhớ lại và mừng một biến cố rất trọng đại: “Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các Thánh Tông Đồ, đúng như lời Chúa Giêsu đã thông báo trước (Gioan 14:26, 15:26, 16: 7-15). Với Ơn Thánh Hóa của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã được biến đổi hoàn toàn: Từ những người sống bằng nghề ‘chài lưới’, những người bình dân, ít học thức, các Ngài đã trở nên ‘những con người mới’ thông hiểu Thánh Kinh, ‘những Tông Đồ nhiệt thành’ sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời và cả mạng sống để rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người, ở mọi nơi mà Chúa Thánh Thần soi sáng cho các Ngài tìm đến: Từ Giêrusalem đến các vùng lân cận, đến các dân tộc chung quanh, đến mãi Thủ Đô Rôma, trung tâm văn hóa của nhân loại thời đó.
Như vậy, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày khởi đầu của Giáo Hội, ngày ‘Sinh Nhật’ của Giáo Hội, cũng là ngày khởi đầu công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông Đồ trở nên những người can đảm. Các Ngài không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” nữa (Gioan 20: 19), nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các Ngài ở (Cv 2: 14…) và đã có nhiều người ăn năn sám hối, xin chịu Phép Rửa để gia nhập Giáo Hội Chúa (Cv 2: 41). Từ ngày đó, nhờ Ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo Hội tiếp tục phát triển qua dòng thời gian cho đến ngày nay, và Giáo Hội được mở rộng đến các dân tộc (Luca 24: 47) để đem Tin Mừng tình thương và Ơn Cứu Rỗi đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi…” (Matcô 16:15…). Chúa Thánh Thần vẫn che chở Giáo Hội Chúa qua “mọi cơn gian nan khốn khó”, qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp ở mọi thời và mọi nơi.
Hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân thế giới chúng ta, để bảo vệ Nhân Quyền và tự do Tôn Giáo, “hiệp nhất chúng ta nên một” trong cùng một gia đình nhân loại, và ban hòa bình cho các tâm hồn, các gia đình và thế giới chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần ngự đến giúp chúng ta là các tín hữu của Chúa, luôn biết sống làm sao để “làm chứng cho Chúa” bằng chính đời sống lương thiện, công chính của mình, và hòa hợp yêu thương đối với mọi người.
Xin Chúa Thánh Thần ngự đến để giúp chúng ta biết đem Tin Mừng tình thương của Chúa đến cho mọi người chung sống với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày: trong gia đình, trong khu xóm, nơi sở làm, trường học… Xin Chúa Thánh Thần ngự đến để gìn giữ Giáo Hội qua mọi cuộc bách hại; đặc biệt để nâng đỡ tinh thần các vị chủ chăn và các tín hữu đang bị phân tán, đang bị tù đầy, bị đe dọa, đang gặp bao nhiêu khó khăn thử thách ở nhiều nơi trên thế giới. Xin Chúa Thánh Thần ngự đến để giúp chúng ta luôn giữ vững Đức Tin tinh tuyền giữa bao chủ trương sai lạc của thế giới hôm nay.
Lm Anphong Trần Đức Phương --------------------------------
Theo Sách Tông Đồ Công Vụ ( cuốn sách ghi lại các hoạt động truyền giáo của các Thánh Tông Đồ vào thuở ban đầu của Giáo Hội), Chúa Giêsu sau khi sống lại, đã hiện ra với các Thánh Tông Đồ nhiều lần trong vòng “40 ngày” (Công Vụ 1:3) Trong những lần hiện ra đó, Chúa Giêsu Phục Sinh đã “nói chuyện với các Ông về Nước Trời”, củng cố đức tin cho các Ông về việc Chúa thực sự đã sống lại, chuẩn bị tâm hồn các Ông để “đón nhận Chúa Thánh Thần” và trao cho các Ông nhiệm vụ truyền giáo “cho đến tận cùng trái đất”. Sau đó Chúa Giêsu đã “lên Trời trước mặt các Ông” (Công Vụ 1:1-9).
“Chúa Giêsu Lên Trời” chỉ có nghĩa là Ngài không còn hiện ra với các Tông Đồ nữa; tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn ở cùng các Thánh Tông Đồ và Giáo Hội Chúa, như lời Chúa đã hứa “Thầy vẫn còn ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế…” (Mat 28:20). Chúa Giêsu vẫn họat động truyền giáo với các Thánh Tông đồ và Gíao Hội qua dòng thời gian: “Các Tông đồ ra đi rao giảng các nơi, có Chúa cùng họat động với các Ông…) (Matcô 16,20…). Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn chính của Giáo Hội. Các Đức Giáo Hòang chỉ là vị “Đại Diện” (Vicar) của Chúa Giêsu nơi trần gian; nhưng không “kế vị” Chúa Giêsu. Qua họat động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn rao giảng, ban ơn Thánh hóa chúng ta qua các phép Bí Tích, ban ơn tha tội, Tế lễ trên Bàn Thờ, nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Thánh Chúa trong Bí Tích Thánh Thể…
Trước khi “Lên Trời”, Chúa Giêsu đã hứa với các Thánh Tông Đồ là Chúa Thánh Thần sẽ đến (Công Vụ 1:8); (Gioan 16:7). Chúa Thánh Thần là “Đấng Bảo Trợ”, là “Đấng an ủi”. Đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới “hình lửa” trên từng Tông Đồ và các Tông Đồ “được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần” (Công Vụ 2: 1-4). Ngày đó trùng vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần là Đại Lễ của Do Thái Giáo, vào đúng ngày thứ 50 sau ngày Chúa Giêsu sống lại (‘Pentecost’ ‘ngày thứ 50’); vì thế chúng ta mừng Lễ Chúa Thánh Thần vào ngày thứ 10 sau Lễ Chúa Lên Trời. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI mùa Phục Sinh (đúng 40 ngày sau Chúa Nhật Phục Sinh), nhưng thường được chuyển vào Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh. Như vậy Lễ Chúa Thánh Thần được mừng vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh; sau đó chúng ta bước sang Mùa Thường Niên, chu kỳ II.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày khởi đầu của Giáo Hội, ngày “Sinh Nhật” của Giáo Hội, cũng là ngày khởi đầu công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông đồ trở nên những người can đảm, những người thông hiểu Kinh Thánh và nhớ lại các điều Chúa Giêsu đã giảng dạy. Các Ngài không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” (Gioan 20:19); nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các Ngài ở (Công Vụ 2:14) và đã có nhiều người ăn năn sám hối và xin chịu Phép Rửa để gia nhập Giáo Hội Chúa (Công Vụ 2:41).
Từ ngày đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo hội tiếp tục phát triển qua thời gian cho đến ngày nay, và Giáo hội được mở rộng đến các dân tộc (Luca 24:47) để đem Tin Mừng tình thương và ơn cứu rỗi đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi….” (Matcô 16:16…). Qua dòng thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn che chở Giáo hội qua “mọi cơn gian nan thử thách!”; qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp.
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội đã bị “bách hại” mà vị tử đạo đầu tiên là Thánh Têphanô. Các Giáo hữu đầu tiên đã phải tản mát đi khắp nơi để bảo vệ đức tin và đi đến đâu lại rao truyền Đạo Thánh Chúa cho mọi người họ gặp gỡ hàng ngày; nhờ thế càng thêm nhiều người được rao giảng Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội Chúa. Đó là phong trào “Diaspora” của người Kytô hữu thuở Giáo hội lúc ban đầu. Nhưng khi Giáo hội tràn lan đi khắp nơi, tới Thủ đô Rôma thì cuộc bách hại trở nên dữ dội hơn với Néron và nhiều Hòang Đế Rôma khác, suốt hai ba thế kỷ cho đến năm 313. Trong những cuộc bách hại đó, từ các vị Giáo Hòang (mà đầu tiên là Thánh Phêrô), các Giám Mục, và mọi Kytô hữu đều bị lùng bắt và bị hành hạ dã man cho đến chết, có người bị thiêu sống, có người bị ném cho thú dữ ăn thịt nơi các hý trường tại Rôma. Thánh Phaolô và các Tông Đồ đều bị tử đạo. Thánh Gioan bị đày ra đảo Patmos và chết tại đó. Lúc đó chẳng có một tổ chức “Nhân quyền” nào, hoặc một tổ chức nào có thể lên tiếng để bênh vực. Các vua chúa có tòan quyền bách đạo. Các Tín hữu không còn đường nào trốn chạy, phải vào các Nghĩa trang để đào các hầm mộ mà trú ẩn trong những điều kiện thật khổ sở; đó là các “Catacombes” đào sâu xuống đất và dài hằng cây số, hiện còn ở Rôma, mà khách hành hương có thể đến thăm viếng để thấy đức tin của các tín hữu lúc ban đầu mạnh mẽ như thế nào.
Tất cả đều nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Cũng nhờ ơn Chúa Thánh Thần họat động trong Giáo hội mà dù bách hại tàn bạo như vậy, nhưng Giáo hội tại Rôma lúc đó không bị tiêu diệt, nhưng vẫn triển nở, vẫn lan tràn đi khắp nơi cho đến ngày nay. Trái lại các Hòang Đế Rôma cũng như đế quốc Rôma hùng vĩ như vậy đã tan biến đi, nay chỉ còn là “vang bóng một thời!”
Ngay tại quê hương Viêt Nam, Giáo hội lúc ban đầu cũng bị các vua chúa triều Nguyễn bách hại thật tàn bạo và bằng nhiều cách khác nhau , như chính sách “Gia Tô phân sáp…” Tất cả đều nhằm tiêu diệt Đạo Chúa, dù mới được chớm nở tại quê hương chúng ta. Dầu vậy Giáo Hội tại Việt Nam cũng đã không bị tiêu diệt, mà vẫn triển nở; còn các triều đại Nhà Nguyễn đều đã đi vào dĩ vãng.
Nếu không có Chúa Thánh Thần nâng đỡ che chở làm sao Giáo hội mới chớm nở ở Rôma, ở Việt Nam, và nhiều nơi khác trên thế giới không bị tiêu diệt dù bị đàn áp tàn bạo như vậy.
Những người Cộng Sản vô thần cũng đã tìm đủ mọi cách để tiêu diệt đức tin của các tín hữu nơi các nước họ đã chiếm được. Với những tính tóan rất kỷ lưỡng họ đã tin tưởng mạnh mẽ là Giáo hội sẽ bị họ tiêu diệt mau chóng ở khắp nơi họ tràn đến; nhưng chế độ Cộng Sản đã bị sụp đổ ở hầu hết các nơi; nhưng Giáo hội ở các nơi đó vẫn không bị tiêu diệt mà vẫn phát triển nhờ Chúa Thánh Thần che chở, giữ gìn.
Đạo Thánh Chúa không phải chỉ bị bách hại ở một nơi nào đó, vào một thời kỳ nào đó; nhưng luôn bị bách hại ở mọi nơi và dưới thật nhiều hình thức khác nhau do mưu mô của “ma quỷ thế gian” bày đặt ra ; vì “bóng tối thì luôn ghét ánh sáng…”. Chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân thế giới chúng ta, để bảo vệ nhân quyền và tự do Tôn giáo, “ hiệp nhất chúng ta nên một” trong cùng một gia dinh nhân loại và ban hòa bình cho các tâm hồn , các gia đình và thế giới chúng ta.
Xin Chúa Thánh thần ngự đến giúp chúng ta là các tín hữu của Chúa, luôn biết sống làm sao để “làm chứng cho Chúa” bằng chính đời sống lương thiện, công chính, và hòa hợp, yêu thương đối với mọi ngừơi. Xin Chúa Thánh thần ngự đến để giúp chúng ta biết đem Tin Mừng tình thương của Chúa đến cho mọi ngừơi chung sống với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày: trong gia đình, trong khu xóm, nơi sở làm, trừơng học…Xin Chúa Thánh thần ngự đến để gìn giữ Gíao Hội qua mọi cuộc bách hại, và gìn giữ chúng ta luôn nắm vững Đức Tin tinh tuyền giữa bao chủ trương sai lạc của thế giới hôm nay.
Khi Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem theo lề luật Do Thái lúc bấy giờ, Ông Già đáng kính Simeon ẵm lấy Chúa Hài Nhi và sau khi nói tiên tri “Ngài sẽ là ánh sáng chiếu soi các dân tộc”, Ông lại nói tiên tri thêm rằng “Hài nhi này sẽ là dấu hiệu cho nhiều người chống đối….” (Luca 2:22…). Chúa Giêsu cũng đã cảnh cáo các Tông đồ và mỗi người chúng ta: “Nếu thế gian ghét chúng con, thì chúng con hãy biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước rồi… Nếu chúng con sống theo thế gian, thế gian sẽ yêu thích chúng con; nhưng vì chúng con không sống theo thế gian, nên thế gian ghét chúng con… Nếu họ đã bách hại Thầy, họ cũng sẽ bách hại chúng con… Họ sẽ làm tất cả những gì có thể được để chống lại chúng con chỉ vì chúng con mang danh Thầy!” (Gn 15:18). Trong thư thứ 1Gioan cũng có đọan viết “Anh em đừng ngạc nhiên, nếu thế gian ghét anh em…” (1Gn 3:13).
Tệ hại hơn nữa, Chúa Giêsu còn cảnh cáo thêm điều quan trọng này là “sẽ đến lúc những kẻ giết chúng con lại tưởng là họ đã làm một việc để tôn vinh Thiên Chúa!” (Gioan 16:2). Đó là những kẻ nội phản; những kẻ mà Thơ 1 Gioan gọi là “những kẻ phản bội Chúa Kitô” (Antichrists) (1Gioan 2:18…). “Họ xuất thân từ hàng ngũ chúng ta; nhưng rồi không còn thuộc về chúng ta nữa!”. (1Gioan 2:19). Những nhóm “Ly giáo” (Schism) hoặc “Lạc giáo” (Heresy) xuất hiện từ thời các Tông đồ và vẫn xuất hiện qua dòng thời gian “rao giảng những điều sai lạc để giết Đức tin tinh tuyền của các tín hữu của Chúa” cùng với những cuốn “mạo thư” như “Phúc Âm Giuđa”… Trong thời đại chúng ta, họ đã dùng những phương tiện truyền thông và phim ảnh để gieo rắc những điều lầm lạc để nhằm tiêu diệt lòng tin của chúng ta vào Chúa Kitô Phục Sinh và Giáo hội của Chúa. Đan cử như những cuốn phim nặng về thương mại của Hollywood như cuốn “The Last Temptation” “Da Vinci Code” (về cuốn tiểu thuyết và cuốn phim này đã có những Mạng lưới và Sách hướng dẫn của Giáo hội để “giải mã” những ngụy tạo của tác giả Dan Brown; đặc biệt cuốn sách nhỏ “The Da Vinci Deception”.
Trước những “tà thuyết” và những “ngụy tạo” như vậy (nhiều khi chỉ vì chủ trương “giựt gân” để kích thích tính tò mò của con người nhằm quảng cáo và làm thương mại), chúng ta không cần “hỏang sợ”; nhưng cần cầu xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn để sáng suốt nhận định và “nắm vững Đức Tin tinh tuyền”, như thơ 1 Phêrô đã chỉ bảo chúng ta: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức; vì ma qủy, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Vậy anh em hãy đứng vững trong Đức tin mà chống cự lại…” (1 Phêrô 5:8…). “Thánh Thần! Cúi xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài… Xin Ngài đổi mới… Chiếu sáng thế gian u mê… Dẫn dắt chúng con trên đường… Xin ban thêm sức kiên vững không lay…. (trích trong bài Thánh ca “Thánh Thần Hãy Đến” của Cha Thành Tâm). Lm. Anphong Trần Đức Phương --------------------------------
Một trường phái triết học tuy không mới lắm nhưng vẫn mang tính thời sự, đó là “hiện tượng luận”. Cái nhìn triết học này chủ yếu căn cứ vào các hiện tượng lặp đi lặp lại, trong tự nhiên lẫn xã hội, để rồi rút ra những quy luật nào đó khả dĩ giúp ta đặt vấn đề, dù rằng có thiên về tính chủ quan nhưng vẫn phản ảnh một điều gì đó rất thật của cuộc sống. Theo cái nhìn này, xin được nêu lên một vài hiện tượng như sau: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần năm xưa, khi hiện ra với các môn đệ tại nhà Tiệc ly mà không có ông Tôma ở đó, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các ngài và ban Thánh Thần. Hôm ấy các cánh cửa của căn phòng được đóng kín vì các vị sợ người Do Thái hãm hại. Một tuần sau, các vị cũng tề tựu ở đó, có Tôma ở cùng, thế mà các cửa vẫn đóng kín ( x.Ga 20,26 ). Một hiện tượng khác: Các em thiếu niên 13-14 tuổi xét chung đang ngoan ngoãn, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên cần học giáo lý, sau khi được Giám Mục đặt tay ban Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức, thì một số không ít lại trở chứng, ngang bướng, lười tham dự Thánh Lễ và hay bỏ học giáo lý. Một hiện tượng khác: Đang là chủng sinh thì sống phải phép, lịch sự đủ đầy, bỗng sau khi được đặt tay ban Thánh Thần qua Nghi thức phong chức linh mục, thì có đôi vị lại hành xử theo cung cách cha chú, ta đây.
Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta tin nhận tính “tại sự” ( ex opere operato ) theo thần học bí tích. Tuy nhiên tính “tại sự” ấy của bí tích không cấm chúng ta đặt vấn đề rằng cớ sao trong nhiều trường hợp như chiều ngày thứ nhất trong tuần của năm nào tại căn nhà Tiệc Ly, Thánh Thần đã được ban tặng mà hiệu quả dường như chưa thấy ? Vấn nạn xem ra tuy khó có lời giải, nhưng dựa vào lời của Đấng Cứu Thế chiều hôm ấy, chúng ta có thể thấy được vấn đề. “ Hãy nhận lấy Thánh Thần !” Chúa đã thổi hơi ban Thánh Thần, nhưng các Tông đồ phải biết đón nhận. Ai trao cho chúng ta một tặng phẩm mà chúng ta không nhận hay chưa nhận thì cũng là chưa có, nói đúng hơn, là chưa có hiệu quả. Mặt trời đã mọc lên nhưng các cánh cửa căn nhà còn đóng kín thì căn nhà vẫn chìm trong bóng tối. Theo toán học thì ngoài điều kiện cần, phải có điều kiện đủ, thì kết quả mới xảy ra. Triết học gọi đó là nguyên nhân và cơ hội, còn thần học thì phân biệt nguyên nhân tác thành hay còn gọi là nguyên nhân đệ nhất và nguyên nhân đệ nhị. Anh em Phật tử lại dùng hai từ nhân và duyên.
Để hồng ân Thánh Thần mà chúng ta được trao ban, phát sinh hoa trái, thiết tưởng không thể thiếu thái độ sẵn sàng đón nhận, vì đây chính là duyên, là nguyên nhân đệ nhị, là cơ hội, là điều kiện đủ. Để sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hiệu quả, không gì hơn, hãy nhớ lại những gì Chúa Kitô và các Tông đồ nói về Thánh Thần, đặc biệt qua vài Danh xưng của Người. Người là Thiên Chúa thật trong Ba Ngôi Thiên Chúa, là Thần Chân Lý, là Đấng An ủi, Đấng Bảo Trợ, là Nguyên lý của các đặc sủng… Qua các Danh xưng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể thấy một vài điều kiện để có thể sẵn sàng đón nhận Người.
1. Sự khiêm nhu: Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý.
Người dẫn chúng ta đến sự thật, Người soi sáng cho chúng ta nhận thức sự vật hiện tượng, nhận thức chính bản thân ta và tha nhân, nhận biết Thiên Chúa và chương trình ý định của Người cách đúng đắn. Để tiếp cận với chân lý, trên hết và trước hết cần phải có sự khiêm nhu chân thành. Người khiêm nhu thì chân nhận mình còn mù mờ, thấy sự việc như trong sương, trong chiếc gương đồng ( x.1Cor 13,12 ). Người khiêm nhu thì sẵn sàng biết lắng nghe và chân thành học hỏi. Người khiêm nhu còn can đảm nhìn nhận con người bất toàn và đầy thiếu sót lẫn sai lầm của chính mình. Thiếu nữ Maria, làng quê Nagiarét, nhờ biết khiêm nhu cách sâu thẳm, nên đã đón nhận ân sủng Thánh Thần cách đầy tràn ( x. Lc 1,26-38 ). Trái lại, chính lòng kiêu căng đã làm cho nhiều biệt phái và luật sĩ khôn ngoan, thông thái năm xưa không thể tiếp nhận chân lý ( x.Lc 10,21 )
2. Sự tín thác vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa:
Người biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa thì sẽ dễ dàng đón nhận Đấng Bảo trợ, đặc biệt trong những cơn gian nan thử thách. Các Thánh Tử đạo là những người làm chứng cho chúng ta về điều kiện này. Dù xuất thân bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau, dù khác nhau về trình độ học vấn, dù khác nhau cả về mức độ đạo đức hay chức vị, danh phận…thì các ngài vẫn bình an trong cơn gian khổ, bách hại, vì luôn có Đấng Bảo trợ, Thần An ủi ở cùng. Sự bình an trong cơn gian nan, khốn khó là một trong những nét trỗi vượt của các thánh Tử đạo so với những anh hùng dân tộc. Cũng là chịu hy sinh cách anh dũng vì “chính đạo”, nhưng các anh hùng dân tộc thì phẩn uất, căm thù kẻ làm hại mình, còn các thánh Tử đạo thì hân hoan, an bình và còn cầu nguyện cho cả kẻ giết mình. Được như vậy là nhờ các ngài luôn tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Sự tín thác này được thể hiện bằng niềm tin rằng chính sự sống của mình là do Chúa ban tặng, tin nhận rằng Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng đã dựng nên mình từ hư vô mà còn là Người Cha nhân hậu chăm sóc mình đến từng sợi tóc ( x.Mt 10,30; Lc 12,7 ), là Đấng trọn lành cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân ( x. Mt 5,44-45 )
3. Có tấm lòng vì ích chung:
Một người có tấm lòng vì ích chung, cách riêng vì ích lợi của những người nghèo, những người cô thế, kém phận thì rất dễ sẵn sàng hiến thân theo khả năng và hoàn cảnh cách hết mình. Và họ sẽ nhận được nhiều đặc sủng như chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri, phân định thần khí…do Thánh Thần ban tặng ( x. 1 Cor 12,7-11 ). Tấm lòng vì ích chung có thể nói là đối nghịch với tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng mình. Khi đã có tấm lòng vì ích chung thì ta sẽ dễ dàng xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng cái khác biệt của tha nhân. Trái lại khi đã đặt cái tôi của mình lên trên hết, thì ta sẽ có nguy cơ tìm cách bắt kẻ khác phục vụ mình, làm theo ý riêng mình cách độc đoán, độc tài và có thể là độc ác nếu ta có chút quyền hay chút tài lực.
Gió muốn thổi đi đâu thì thổi ( x.Ga 3,8). Không ai thấy gió nhưng người ta có thể nhận ra gió qua các hiệu ứng của nó như lá bay, cây lay…Xem quả thì biết cây ( x.Mt 7,16-20 ). Mừng Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa xin hãy kiểm định xem chúng ta đã trổ sinh những hoa trái nào. Giả như chúng ta chưa sinh hoa kết trái tốt lành là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa đón nhận hồng ân Thánh Thần mà Chúa Kitô đã ban tặng. Nếu chúng ta chưa sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần thì cũng là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa thật sự khiêm nhu, chưa biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, chưa biết mưu cầu ích chung, nhất là ích lợi của của người nghèo, ngưòi kém phận…
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa --------------------------------
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: - Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất. Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả. Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp ziggurat miền Lưỡng Hà: tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng.
Một khi con người đã loại bỏ Chúa, tự nhiên chia rẽ và phân tán với đồng loại. Kiêu căng gây chia rẽ. Thiên Chúa là duy nhất và là giềng mối hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể được tái lập bởi và quanh Thiên Chúa. Ngày Hiên Xuống, Thánh Thần sẽ hiệp nhất nhân loại quanh Đức Kitô Phục Sinh (Cv 2,1-11). Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành. Thánh Thần là nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Giáo Hội trở thành Giáo Hội của mọi dân tộc.
Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh. Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội họp. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đậu xuống trên từng người.
Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong thời gian lễ Ngũ Tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các Tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhiên, sửng sốt, thán phục và bàn tán cùng nhau: - Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa? Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo mà mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Có được như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguồn sức sống mãnh liệt. Chúa Thánh Thần là sự trẻ trung của Giáo hội. Chúa Thánh Thần là năng lực đổi mới thế giới. Ngài như luồng gió cường tráng. Ngài như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các Tông đồ, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần dùng đã liên kết và tạo nên sự cảm thông. Đó chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu. Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài là thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, không thể xích lại gần nhau và không thể cảm thông với nhau. Khi đó hận thù sẽ bùng nổ.
Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế. ông ước mong mọi người có thể sử dụng ngôn ngữ ấy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ. Thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Không đạt kết quả vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và không đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.
Tình yêu chân chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Tình yêu là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Tình yêu không chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng. Tình yêu còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống đong đầy tình bác ái huynh đệ. Một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, hay một việc làm giúp đỡ, ngôn ngữ tình yêu dễ hiểu dễ gần nhau. Ngôn ngữ này giúp con người hiểu được nhau và hiểu được chính Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu nên ai yêu thương thì gặp được Thiên Chúa.
Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biết đường ăn năn trở về cùng Chúa. Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và bất cứ ai cũng có thể hiểu được. Máy vi tính là phát minh hiện đại của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng. Trong đời sống, con người dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam... cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai cũng có, ai cũng biết. Đó là ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả. Ngôn ngữ tình yêu phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhạy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ tình yêu, mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái, con người với nhau trong đời sống.
Ngôn ngữ tình yêu không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thái lan, chữ Ả rập... cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Ngôn ngữ tình yêu từ bẩm sinh đã nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Ai ai cũng có chương trình ngôn ngữ đó và đều có thể sử dụng được chương trình này. Dù là tiếng mẹ đẻ, ta cũng cần phải học, phải mài giũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm. Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra.
Cần phải điều chỉnh lại cách sử dụng sao cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này sai lỗi là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ tình yêu. Khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình hoặc là muốn sử dụng sai của riêng mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, không hiểu nhau được nữa. Những sai lầm đó là do thiếu tình liên đới với nhau, do chỉ chú ý tìm quyền lợi riêng tư cho mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hòa và tình liên đới trong cuộc sống. Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các thánh Tông đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho cả nhân loại. Ngôn ngữ tình yêu do Chúa Thánh Thần mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được Tin mừng ơn cứu độ của Chúa Giêsu và đến với nhau rồi cùng nhau tìm về với Thiên Chúa. Ngôn ngữ Thánh Thần kiến tạo một gia đình, mọi người là anh em con một Cha trên trời. Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người: ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu. Kinh Thánh đã được dịch ra hơn hai ngàn ngôn ngữ. Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, để chúng con luôn nói với nhau bằng ngôn ngữ của Ngài, ngôn ngữ yêu thương và hiệp nhất. Amen. --------------------------------
Trong các thí nghiệm của khoa học, để một phản ứng hóa học xảy ra, bao giờ cũng có một xúc tác kèm theo: có thể là nhiệt độ, điều kiện môi trường,một chất xúc tác, hay một tác động bên ngòai nào đó. Ở bình diện tình cảm của con người cũng thế, khi hai người yêu nhau, và muốn gần nhau, bao giờ cũng có những xúc tác kèm theo như: khứu giác, vị giác, xúc giác,thính giác và thị giác. Những chất xúc tác càng mạnh về cường độ thì những phản ứng hóa học hay tình cảm sẽ có chiều tỉ lệ thuận với chúng. Xét trên góc độ của khoa học, và tình cảm là thế. Trên lãnh vực siêu nhiên, chính Chúa Thánh Thần là những “xúc tác” hướng dẫn họat động cho sứ vụ Tông Đồ của những người theo Chúa Kitô.
Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những điều này, qua một số trường hợp các nhân vật đặc biệt trong Kinh Thánh.
Trước hết là trong Cựu ước, chúng ta nhận thấy Thánh Thần đến và trao phó cho họ những sứ mạng và trợ giúp về thể lý, tinh thần và thiêng liêng để giúp những người này hòan thành nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao ban. Thánh Thần được Thiên Chúa trao ban ơn khôn ngoan để họ lãnh đạo đòan dân của Chúa như trong trường hợp của Môisê, Giôsua, Đavít…” Yavê phán với Môsê:”Hãy triệu tập lại cho Ta bảy mươi người, trong hàng Kỳ mục Israel, những kẻ ngươi biết là Kỳ mục của dân, những ký lục của nó, ngươi sẽ đem chúng đến Trướng Tao phùng và chúng sẽ đứng chực ở đó với ngươi. Ta sẽ xuống, và ở đó Ta sẽ phán bảo ngươi, Ta sẽ rút Thần khí có trên ngươi mà đặt trên chúng, và chúng sẽ gánh vác với ngươi gáng nặng là dân này, và ngươi sẽ không còn gánh lấy một mình”(Ds 11, 16-17). Việc xức dầu cho các vua là dấu hiệu sự hiện diện của Thánh Thần trong việc cai trị của họ:” Samuel cầm lấy sừng dầu mà xức dầu cho cậu giữa các anh và Thần Khí đã đáp xuống trên Đavít từ ngày ấy về sau”(1Sm 16,13).
Dưới tác động hết sức mãnh liệt của Thánh Thần, những con người vốn mỏng dòn yếu đuối, bỗng trở nên sức mạnh phi thường: « Thần Khí xuống trên ông Samson và ông đã xé mảnh con sư tử như thể người ta xé mảnh con dê…Bây giờ Thần Khí giáng xuống trên ông, và ông đã xuống Asqalon và giết 30 người…Khi ông đến gần Lêkhi, Thần Khí Giavê giáng xuống trên ông: các chão trên tay ông đã ra ngay như sợi dây gai cháy xèo trong lửa…”( Tl14,6.19; 15,14). Ngôn sứ Mica tự coi mình là người đầy sức mạnh, đầy Thần Khí Giavê(Mk 3,8). Êdêkiel thì cho rằng Thần Khí nhập vào ông, lôi ông đứng dậy, giao cho ông sứ vụ phải thi hành hay những điều cụ thể phải làm(Ed 2,2; 3,24).Có thể kể ra rất nhiều trường hợp những con người trong Cựu ước được ơn của Chúa Thánh Thần biến đổi để trở nên những chứng nhân cho Thiên Chúa và chuẩn bị cho sứ mạng cao cả của Đấng Thiên sai. Cựu ước cũng vậy và kế đếnTân ước cũng thế, trong số những người nghèo của Giavê ngóng chờ ơn cứu độ, đã có nhiều người đón nhận được hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tin mừng của Thánh Luca chỉ cho chúng ta thấy những con người đặc biệt này: Bà Êlisabeth (Lc 1, 41); Ông Zacaria (Lc 1, 67); và thánh Gioan Tẩy Giả (Lc 1,13-18). Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu là người đón nhận tràn đầy hồng ân của Chúa Thánh Thần ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ của mình (Lc 4,18-19). Các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ tuần đã nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần (Cv 2,4). Thánh Phêrô tràn đầy Chúa Thánh Thần khi ra trước công nghị Do Thái(Cv 4,8). Các tín hữu họp nhau cầu nguyện cho Phêrô và Gioan cũng đầy tràn Thánh Thần( Cv 4,31). Trong số các phó tế, Stêphanô được mô tả là người đầy Thánh Thần và được thị kiến vinh quang của Thiên Chúa và Đức Giêsu ngự bên hữu Ngài:” Được đầy ơn Thánh Thần, ông( Stêphanô) đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa”( Cv 7,55). Thánh Phaolô, sau khi trở lại, cũng đón nhận được ơn của Chúa Thánh Thần ( Cv 9,17; 13,9).
Qua những dẫn chứng trên, chúng ta mới có thể cảm thông với những người Do thái và Hy lạp khi họ gán cho các Tông Đồ là những kẻ say rượi:”Nhưng người khác lại chế nhạo:” Mấy ông này say rượi rồi”(Cv 2,13). Vâng những người Tông đồ của Chúa, trên cánh đồng loan báo nước Trời. Họ là những kẻ say men Thần Khí, và tràn ngập hơi cay của Thần Linh. Cũng như những người say mê Thiên Chúa và điên trong Thần Khí, là những người đã chọn Chúa Giêsu làm gia nghiệp họ như những người say không hối tiếc và những người điên không biết buồn.
Lc 7,37-39: 37 Vào ngày cuối cuộc lễ, một đại lễ, Ðức Yêsu đứng dậy mà hô lên rằng: "Ai khát thì hãy đến với Ta, và hãy uống 38 kẻ tin vào Ta! như Kinh thánh đã nói: Tự lòng Ngài có những sông tuôn chảy nước sinh sống. 39 Ðiều ấy, Ngài nói về Thấn khí các kẻ tin vào Ngài sẽ lĩnh lấy, vì Thần khí chưa có, bởi Ðức Yêsu chưa được tôn vinh.
Đoạn 7:37-39 liên kết với đoạn trước. Chúa Giêsu đã đi dự lễ Lều nhưng cách kín đáo (7:10). Người nói diễn từ đầu tiên khi Người đã ở nửa chặng đường (7:14). Và diễn từ trong đoạn 7:37-39 nầy là vào ngày cuối cùng của lễ Lều. Theo sau đoạn nầy là phản ứng của dân chúng (7:40-44), và phản ứng của các thượng tế và nhóm Pharisêô (7:45-52). Chủ đề chính của đoạn là nói về nước ban sự sống ban cho những người tin. Nước ấy chính là Thánh Thần được ban khi Chúa Giêsu được tôn vinh.
Diễn từ ngắn nầy có thể phân chia như sau: - Khung cảnh của diễn từ (c. 37a); - Diễn từ về nước ban sự sống (cc. 37bc-38); - Lời chú thích của thánh sử (c. 39).
Khung cảnh của diễn từ là dịp lễ Lều là vào ngày cuối cùng (c. 37a). Ngày nầy được nhấn mạnh là “ngày trọng đại”, vì trong bảy ngày của dịp lễ, ngày cuối cùng là ngày cao điểm và có nhiều nghi lễ đặc biệt.
Lễ Lều là một trong những lễ lớn nhất trong năm của người Do thái thời xưa. Lễ Lều được quy định từ ngày 15 đến 21 của tháng thứ bảy trong năm (vào khoảng cuối tháng 9 hay đầu tháng 10 theo dương lịch thời nay) (Lv 23:34.37; Ds 29:12-34). Nếu mưa rơi nhiều trong thời gian nầy, đó là dấu hiệu bảo đảm một mùa mưa dồi dào; như thế mùa màng năm tới sẽ phong nhiêu. Mỗi sáng đều có nghi thức rước kiệu. Người ta đi xuống lấy nước từ mạch nước Gihôn ở phía đông nam đồi của đền thờ. Nguồn nước nầy cung cấp nước cho hồ Silôam. Một tư tế múc nước đầy bình vàng từ nguồn nước cứu độ nầy, “Các bạn sẽ vui mừng múc nước từ nguồn cứu độ” (Is 12:3). Khi đoàn rước đến trước bàn thờ toàn thiêu đặt trước đền thờ, vị tư tế đi quanh bàn thờ và đổ nước trên bàn thờ và để nước chảy xuống đất. Vào ngày thứ bảy, nghi thức đi quanh bàn thờ làm đến bảy lần.
Lễ Lều rất quan trọng và mang tính cách linh thánh đối với người Do thái, vì việc cung hiến đền thờ Salômôn đã xảy ra vào dịp lễ Lều (1 Vua 8:2.65-66; 2 Niên biểu 5:3; 7:8-10). Đồng thời nó cũng liên kết với “ngày khải hoàn của Chúa”. Trong khung cảnh của lễ Lều, Zacharia mô tả vị vua thiên sai vào thành Giêrusalem, chiến thắng và cỡi trên một con lừa (9:9). Chúa tuôn đổ lòng trắc ẩn xuống trên Giêrusalem (13:1), Người mở ra một nguồn nước cho nhà Đavít để tẩy sạch Giêrusalem (13:1); nước hằng sống tuôn ra từ Giêrusalem đến tận Địa Trung Hải và Biển Chết (14:8); và sau cùng, mọi quân thù bị tiêu diệt, dân chúng hằng năm lên Giêrusalem để giữ lễ Lều nầy (14:16) (x. Raymond E. Brown, The Gopsel according to John I-XII, AB, vol. 29 (NY, 2006), p. 326-327).
Diễn từ về nước hằng sống (cc. 37bc-38)
Trong phần nầy có vấn đề về bản văn. Đa số các ấn bản và bản dịch ngày nay đều theo Textus Receptus là đặt dấu chấm vào cuối câu 37, và đọc là: “Ai khát, hãy đến (với Tôi) và uống. Ai tin vào Tôi, như Kinh thánh đã nói, tự lòng người ấy trào ra những giòng nước sinh sống”. Trong trường hợp nầy lời kinh thánh qui chiếu về những người tin, và nguồn nước sinh sống phát xuất từ họ. Những người ủng hộ cách giải thích nầy, trong đó có Ôrigênê và các giáo phụ Phương Đông, dựa vào thủ bản P22 (thế kỷ thứ hai), và Gio 4:14 trong đó Chúa Giêsu nói đến nguồn nước trong người tin vọt ra sự sống vĩnh cửu.
Cách dịch thứ hai là đặt dấu phẩy vào cuối câu 37, như bản Kinh Thánh Giêrusalem và một số tác giả mới đây đã làm. Đọc như thế nầy: “Ai khát, hãy đến (với Tôi), và uống, người tin vào Tôi, như kinh thánh đã nói, tự lòng người ấy trào ra những giòng nước sinh sống”. Theo cách giải thích nầy, “người ấy” (ngôi thứ ba số ít) chỉ “Tôi” đi trước, chính là Chúa Giêsu thay vì người tin hay cũng là người khát nước. Bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn theo cách đọc nầy.
Cách dịch thứ ba là đặt dấu chấm sau câu 38a, đọc như thế nầy: “Ai khát, hãy đến (với Tôi), và uống, người tin vào Tôi. Như kinh thánh đã nói, tự lòng Người trào ra những giòng nước sinh sống”. Trong trường hợp nầy, những giòng nước sinh sống trào ra từ cung lòng của Chúa Giêsu. Bản dịch của Phụng Vụ Giờ Kinh theo cách đọc thứ ba nầy.
Theo mạch văn, có thể quả quyết Chúa Giêsu là nguồn nước sinh sự sống. Động từ pisteuō “tin” ở dạng phân từ xuất hiện hai nơi cc. 38 và 39. Ở câu 38, ho pisteuōn, phân từ hiện tại diễn tả tính tổng quát, “những người tin”. Ai tin vào Chúa đều được mời gọi đến uống nước nơi Người. Ở câu 39, ho pisteusantes, phân từ aorist, chỉ những người đã tin rồi. Những người nầy sắp được lãnh nhận Thánh Thần. Trong cả hai trường hợp đều đòi hỏi lòng tin vào Chúa Giêsu, và nước sinh sự sống và Thánh Thần đều chỉ một thực tại duy nhất. Nước ấy là Thánh Thần và chỉ có thể phát xuất từ Chúa Giêsu.
Như thế Chúa Giêsu là nguồn nước sinh sự sống. Lời mời gọi và mệnh lệnh “Hãy đến uống” (c. 37bc) nhắc nhớ lời Chúa Giêsu nói với Người phụ nữ xứ Samaria. Người hứa là những ai đến uống nước Người ban là sẽ không còn khát nữa (4:14), vì Người chính là nguồn nước sinh sự sống (4:10). Koilia, theo nghĩa đen là “cái bụng” “cái dạ” (3:4; Mt 19:12; Lc 1:15). Theo nghĩa bóng, koilia chỉ tâm hồn, con tim hay nơi thâm sâu nhất của con người. Như thế có thể hiểu là nước sinh sự sống nầy ám chỉ nước và máu chảy ra từ con tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu (19:34).
Lời chú thích của thánh sử (c. 39)
Thánh sử thấy nước hằng sống ở đây trong tương quan với Thánh Thần. Lời hứa ban Thánh Thần nầy chỉ được thực hiện khi Người được tôn vinh, edoxasthē. Doxazō “tôn vinh” ở thể thụ động ám chỉ Thiên Chúa là chủ hành động. Việc tôn vinh chỉ được thực hiện ngang qua sự chết (12:16; 13:31.32). Gioan khẳng định điều nầy khi nói đến việc Phêrô phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa (21:19). Như thế, Chúa Giêsu ban Thánh Thần ngay lúc Người chết trên thập giá, paredōken to pneuma, “Người giao phó linh hồn/ thần khí” (19:30).
Thánh Thần là nước sinh sự sống không bao giờ khô cạn. Người cũng là nguồn tình yêu của Thiên Chúa cho con người, vì Thánh Thần là hoa trái của tình yêu tự hiến cho đến cùng của Chúa Giêsu. --------------------------------
Vào ngày lễ Hiện Xuống, Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cư ngụ nơi tâm hồn các môn đệ bằng một phương cách mới đầy quyền năng.Lễ Hiện Xuống là ngày khai sinh Giáo Hội.Bởi vì, Chúa Thánh Thần là linh hồn, là hơi thở của Giáo Hội.Chúa Thánh Thần ban sự sống, hướng dẫn, kiến tạo, giúp Giáo Hội xây dựng sự hiệp nhất, duy nhất, yêu thương. Giáo Hội luôn có sự sống, sức mạnh để loan báo Tin Mừng và để làm chứng cho sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh…
Cách đây hơn 2.000 năm, khi Đức Giêsu Kitô bị bắt, bị giết treo trên Thập giá, người ta đặc biệt những người lãnh đạo tôn giáo lúc đó, những người không thiện cảm, ghen ghét Chúa Giêsu, cứ tưởng như thế là Chúa Giêsu đã chấm dứt. Ngay các môn đệ là những người đã đi theo Chúa, đã sống với Chúa, đã nghe lời giảng dạy, đã thấy các phép lạ Ngài làm, đã sống thật thân tình với Chúa, nhưng các Ngài lúc đó vẫn hoang mang, u sầu, thất vọng , tưởng rằng Thầy mình đã mất luôn, đã không còn tồn tại nữa. Họ sơ hãi co cụm trong phòng kín. Đức Kitô Phục Sinh đã nhiều lần hiện đến với các ông và nói “ Bình an cho các con “.Sau khi Chúa Sống Lại đã cho các môn đệ xem tay, chân và cạnh sườn mang thương tích của Ngài để củng cố niềm tin cho các môn đệ Chúa đã Phục Sinh thật. Chúa Phục Sinh lại tiếp tục ban bình an cho các môn đệ, trao sứ vụ và quyền bính cho các Ngài để các Ngài tiếp tục công trình cứu thế của Chúa Phục Sinh. Để củng cố sự can đảm, sức mạnh cho các môn đệ, Chúa Phục Sinh ban Thánh Thần cho các môn đệ, Ngài nói:” Các con hãy nhận lấy Thánh Thần “.
Chúa ban Thánh Thần và sự bình an cho các môn đệ để Chúa Thánh Thần chính là sự khôn ngoan hướng dẫn các môn đệ rao giảng, biết cách ứng xử ở đời nhờ đó các môn đệ sẽ trở nên những dũng sĩ can trường loan truyền Tin Mừng. Sự bình an Chúa ban là sức mạnh nội tâm giúp các môn đệ xưa và Giáo Hội ngày nay, can đảm đối diện với những thử thách, cam go, bách hại trong đời sống đức tin vv…
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã biến đổi tất cả, đã đem lại cho mọi người sự sống, đặc biệt mang lại sự sống mới cho các môn đệ. Chính thánh Phêrô đã đứng lên rao giảng, các môn đệ khác cũng rao giảng, mọi người lúc đó thuộc nhiều miền, nhiều đất nước đã nghe được tiếng nói của mình.Thánh Phêrô đã rửa tội cho nhiều ngàn người. Giáo Hội đầu tiên đã được khai sinh, sức sống mới mãnh liệt bừng lên. Công đồng Vaticanô II, do Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 triệu tập đã là một ngày “ Lễ Hiện Xuống mới của Giáo Hội “. Công đồng Vaticanô II đã mang lại sức sống mới, sức sống mãnh liệt cho Giáo Hội.
Vào lễ Ngũ Tuần đầu tiên cách đây 2018 năm, Thần khí Đức Kitô Phục Sinh bắt đầu ngự trong tâm hồn các môn đệ một cách đầy quyền năng, sức mạnh. Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt động mạnh mẽ, đầy sáng tạo, quyền năng, không ngừng trong Giáo Hội. Mừng lễ Chúa Thánh Thần chúng ta mừng ngày kỷ niệm trọng đại của Đạo Công Giáo được khai sinh, đồng thời chúng ta được mời gọi đón nhận những ơn ban của Chúa Thánh Thần.Nhờ ơn của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh và mỗi người chúng ta có đủ năng lực, sức mạnh, bình an để sống Phúc Âm và rao truyền Lời Chúa bởi vì “ Lúa chín đầy đồng…”, nào chúng ta ra đi gặt lúa…
Lạy Chúa Thánh Thần,xin hãy đến đổi mới tâm hồn chúng con và ban cho chúng con sức mạnh, lòng nhiệt thành để loan báo Tin Mừng.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Lễ Chúa Thánh Thần nói cho chúng ta những gì ? 2.Tại sao lại gọi ngày lễ Hiện Xuống là ngày lễ Ngũ Tuần ? 3.Chúa Thánh Thần đã lấy hình gì mà ngự xuống các môn đệ xưa ? 4.Tại sao lại nói Lễ Hiện Xuống khai sinh Giáo Hội ? 5.Tại sao Chúa lại ban bình an cho các môn đệ ?
Ga 15,26-27: 26 Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ gởi đến anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì ngay từ đầu anh em ở với Thầy.
16,12-15: 12 Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng anh em không mang nổi bây giờ. 13 Khi nào Ngài đến, Thần Khí sự thật sẽ hướng dẫn anh em trong sự thật toàn vẹn. Vì Ngài sẽ không nói tự mình, nhưng những gì Ngài sẽ nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. 14 Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy và sẽ loan báo cho anh em. 15 Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế mà Thầy đã nói là Ngài lấy những gì của Thầy và sẽ loan báo cho anh em.
Bài Tin mừng của Chúa nhật nầy gồm hai đoạn không liên tục nhau; do đó cần giải thích riêng theo mạch văn của chúng. Điểm chung là cả hai đoạn đều nói về Chúa Thánh Thần, tuy trình bày về Ngài dưới những khía cạnh khác nhau.
Đoạn 15:26-27 được xen vào giữa hai đoạn nói về việc thế gian ghét Chúa Giêsu (15:18-24) và bắt bớ các môn đệ (16:2-4a). Nó liên kết với hai đoạn trên qua chủ đề “làm chứng”. Trong những câu 14:16-17.26 đã nhắc đến Thần Khí sự thật - Đấng Phù Trợ. Điểm chung được ghi nhận là Ngài đến từ Chúa Cha, như Chúa Giêsu vậy (x. 8:42; 13:3; 17:8). Điểm riêng là ở đây nhấn mạnh việc làm chứng của Ngài, khác với việc lưu lại, dạy dỗ và nhắc nhớ như trong những lần trước (x. 14:17; 14:26). Bên cạnh Gioan (1:15.19; 5:36), kinh thánh (5:39), chính Chúa Giêsu (18:37), công việc (5:36; 10:25) và Cha của Ngài (8:18) làm chứng cho Ngài, còn có Chúa Thánh Thần và các môn đệ (15:26-27), vì Ngài cần chứng từ của Ngài khác (x. 5:32).
Việc làm chứng phải là làm chứng cho sự thật về Chúa Giêsu; bởi đó, trong đoạn nầy Chúa Thánh Thần được gọi là Thần Khí sự thật (15:26; 1 Gio 5:6). Nhưng sự thật gì? Sự thật về Chúa Giêsu: Ngài là Con Thiên Chúa (12:27) và là Vua - Đấng Kitô (x. 12:13; 18:33; 19:3.14.19.21). Nhiều lần trong những tranh luận với các thủ lãnh Do thái, Chúa Giêsu đã nói đến điều nầy. Trước mặt Philatô, Ngài đã tự làm chứng cho mình và đã khẳng định cách chắc chắn “Ngài là Vua” (18:37). Đây là lý do chính đưa đến việc Ngài bị ghét bỏ và đóng đinh vào thánh giá (7:26-27.31.41-42; 10:24). Vì thế, trong bối cảnh của đoạn nói đến việc thế gian ghét Chúa Giêsu cách vô cớ (15:25), nhiệm vụ của Thần Khí sự thật phải được hiểu là làm chứng rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và cũng là Đấng Kitô (Gio 1:33; 1 Gio 5:6). Ngoài ra, Chúa Thánh Thần đến còn để trợ giúp các môn đệ trong việc làm chứng (Tđcv 1:8). Lý do họ phải làm chứng là vì họ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ đầu. Điều nầy các tông đồ sẽ xác nhận khi họ đi rao giảng (Tđvc 1:22; 2:32; 3:15; 4:20; 5:32; 1 Gio 1:1). Nội dung lời chứng của các môn đệ cũng như trên: Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Kitô (3:14.26; 4:26; 10:38). Còn những thử thách và bách hại mà họ chịu, như Thầy của họ, là những cơ hội thuận lợi để có thể làm chứng bằng hành động cho Ngài (16:2-4); Gioan viết Tin mừng ra cũng với mục đích là để làm chứng cho Ngài (Gio 21:24). Như thế, các tông đồ đã làm chứng cho Chúa Giêsu trong cả chữ viết, lời nói và hành động.
Đoạn 16:12-15 là phần cuối của đoạn 16:4b-15, trong đó nói đến vai trò của Chúa Thánh Thần đối với các môn đệ; trong khi các câu 16:8-11, nhiệm vụ của Ngài đối với thế gian nầy. Đoạn nầy chia thành: 1- Khả năng tiếp nhận của các môn đệ và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần (16:12-13); 2- Tương quan của Chúa Thánh Thần với Chúa Giêsu (16:14-15).
Chúa Giêsu đã nói tất cả cho các môn đệ những gì Ngài nghe từ Chúa Cha (x. 15:15). Tuy nhiên, Ngài đã gởi Chúa Thánh Thần đến vì họ không có khả năng hiểu trọn vẹn những gì Ngài đã nói, “họ không thể mang nổi”. Do đó, nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là “hướng dẫn họ trong mỗi sự thật” (16:13). Ngài giúp họ hiểu cách thâm sâu hơn những chân lý đã được bày tỏ, hơn là khám phá thêm những điều mới. Những chân lý nầy phát xuất từ Chúa Cha, chuyển thông qua Chúa Giêsu, chứ không phải bắt nguồn từ Chúa Thánh Thần (x. 7:16; 8:28; 12:49; x. 5:19-27; 14:9-10). Như thế, chỉ có một mạc khải và một Thánh Thần là Đấng soi sáng các môn đệ hiểu nội dung của mạc khải ấy.
Khi loan báo lời của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần tôn vinh Ngài (16:14-15). Động từ “tôn vinh” thường chỉ đến việc Chúa Giêsu trải qua sự chết và được chỗi dậy trong vinh quang. Trong việc nầy Cha và Con tôn vinh lẫn nhau (12:23.28; 13:31-32; 17:1.5). Như thế, công việc Chúa Thánh Thần là làm cho thông hiểu công trình cứu chuộc của Chúa Con, và qua đó tôn vinh Ngài.
Khi đến để làm chứng và loan báo lời của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần cũng làm cho các môn đệ hiểu thấu đáo lời của Ngài và trở nên chứng nhân của Ngài.
Lm LG Đặng Quang Tiến --------------------------------
Mùa Phục sinh được kết thúc với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Qua biến cố này, sức sống Phục sinh từ Ðức Kitô được phát triển sung mãn; vì Chúa Thánh Thần hiện xuống để khai sinh Giáo hội và làm cho Giáo hội được tràn đầy sức sống trong sự hiệp nhất. Thế nên, Chúa Thánh Thần chính là nguyên lý làm cho sống; Ngài cũng là nguyên lý làm nên sự hiệp nhất trong cộng đoàn dân Chúa.
Sống, đó là hoạt động và tăng trưởng. Hai dấu hiệu đó cho thấy một sức sống đang tăng trưởng dồi dào hay đang suy yếu. Một sinh vật, nếu không hoạt động (ít nhất là hoạt động ngay trong chính mình, như trường hợp cây cối) và không tăng trưởng, nó đang đi đến chỗ chết. Ngược lại, một sức sống sung mãn được thể hiện trọng hoạt động "mạnh" và tăng trưởng "nhanh". "Ðức tin sống" là đức tin đang hoạt động và đang tăng trưởng.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sống của đời sống đức Tin. Nói cách khác, chính Chúa Thánh Thần nâng đỡ đức tin của chúng ta và làm cho đức tin đó hoạt động mạnh mẽ trong cuộc đời kitô hữu; điều này được nhận thấy dễ dàng qua hiệu quả của công việc chúng ta thực hiện. Hiệu quả công việc đó là "xây dựng một nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Phao-lô); hiệu quả đó là hoa trái đức Ái, là lòng kiên vững Cậy Trông.
Như thế, chúng ta hãy cầu xin Thánh Thần cho đức Tin ta sống và sống dồi dào hơn.
Hình ảnh tháp Babel, biểu tượng sự chia rẽ, đã bị xóa bỏ toàn bộ trong lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, vì Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất, Ngài giúp cho con người hiểu được "tiếng lòng" của nhau. Ngài làm cho muôn người được đồng tâm nhất trí trong một đức Tin, một tình yêu. Sự chia rẽ sẽ dẫn đến sự chết, suy tàn; nhưng hiệp nhất sẽ làm nên sức sống mới, làm tăng trưởng luôn. Chính Chúa Thánh Thần đã hiệp nhất muôn người muôn ý, để xây dựng chi thể Ðức Kitô là Hội thánh.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần là dịp để chúng ta cầu nguyện cho sự hiệp nhất của tất cả những người tin Chúa Giêsu trên trần gian này.
Chúng ta cầu khẩn nài xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta; để "Dân Cha rực sáng như dấu chỉ nói lên sự hiệp nhất và hòa thuận, trong một thế giới bị xâu xé vì bất hòa" (Kinh Tạ Ơn / mẫu hội họp I).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là hy vọng của chúng con Xin Chúa đừng để đời sống chúng con rơi vào hư vô, Nhưng xin cho niềm khát khao sống thánh thiện nở noa trong chúng con và làm vinh danh Chúa. Amen. (một thanh niên Châu Phi)
Xã hội hôm nay đang mở ra đón nhận những luồng gió mới. Ðối thoại là con đường dẫn tới chân lý. Thái độ bảo thủ, cố chấp khó được chấp nhận. Có chân thành đối thoại mới thấy được tất cả nét đẹp của chân lý nơi tha nhân. Chân lý chỉ có một, nhưng có nhiều cách diễn tả khác nhau. Chính Thánh Linh sẽ cho thấy tất cả nét phong phú tuyệt vời của chân lý. Nói khác, duy nhất nhưng vẫn khác biệt. Có tôn trọng nét đặc thù mới thấy tất cả vẻ kỳ diệu của chân lý, gia tài chung của nhân loại.
THẦN CHÂN LÝ
Chân lý không phải là sở hữu của riêng ai. Chính khi nhân danh chân lý tiêu diệt sự khác biệt trong duy nhất, người ta đánh mất chân lý. Trong ngày lễ Ngũ tuần, khi "tràn đầy ơn Thánh Thần" (Cv 2:4), các môn đệ Ðức Giêsu đã làm nhiều người "kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình" (Cv 2:6). Họ đã không nghe thấy tiếng Do thái từ miệng những người Galilê đó. Thánh Linh có thể làm cho thính giả nghe và hiểu được tiếng Do thái dễ dàng. Nhưng Người đã không làm chuyện đó. Sự đồng bộ trong ngôn ngữ hay văn hóa chưa chắc đã đem lại sự hiệp nhất. Cùng nghe một sứ điệp bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau đó là nét kỳ diệu của Thần Chân lý, "Ðấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha" (Ga 15:26).
"Thần Khí sự thật sẽ làm chứng về Thầy" (Ga 15:26), vì "Thầy là sự thật" (Ga 14:6). Chỉ có sự thật mới làm chứng cho sự thật. Ai muốn làm chứng cho Thầy cũng phải "đứng về phía sự thật" (Ga 18:37). Nếu không, họ không thể được "sự thật giải phóng" (Ga 8:32), do đó không thể có tự do, được giải thoát khỏi cuộc đời ồn ào để "nghe tiếng" Chúa (Ga 18:37). Không nghe tiếng Chúa, làm sao nói về Chúa ? Khi được nghe tiếng Chúa: "Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng"(Ga 15:27), người môn đệ sung sướng biết chừng nào ! Nhưng niềm vui đó chỉ có thể trọn vẹn, khi họ trở nên những "thần chân lý". Thật vậy, họ phải được "thánh hiến trong sự thật" (Ga 17:17), hòa nhập hoàn toàn vào sự thật, mới có thể làm chứng cho sự thật. "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16:13). Sự thật toàn vẹn đó vượt quá khả năng lãnh nhận của con người, vì phát xuất tự Thiên Chúa. Chính Thánh Linh sẽ thực hiện việc kỳ diệu đó. Cũng như Con Thiên Chúa, Thánh Linh "sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến" (Ga 16:13). Những điều sẽ xảy đến cho người môn đệ cũng là những điều đã xảy đến cho Thầy Chí Thánh, vì "trò không hơn Thầy" (Mt 10:24). Nói lên những điều đó phải là những ngôn sứ, những người nói sự thật, vì "lời Cha là sự thật" (Ga 17:17).
Cũng như Thánh Linh, khi loan báo sự thật như thế, họ làm vinh danh Thiên Chúa, đúng như lời Ðức Giêsu đã nói: "Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em" (Ga 16:14). Tự bản chất, "lời Thầy là thần khí và là sự sống". Nghĩa là, sự thật mạnh mẽ và uyển chuyển như chính sự sống, chứ không cứng ngắc như xác chết. Không thể có sự thật một chiều. Trái lại, sự thật đa dạng và có thể xuất hiện trong những hoàn cảnh và với những con người bất ngờ. Chấp nhận chân lý trong những điều kiện cụ thể như thế đòi con người phải có một tấm lòng mở rộng. Mở rộng để chấp nhận những con người hay não trạng khác với mình. Mở rộng để thấy được những nét biến ảo kỳ diệu của chân lý. Ðức Giêsu là chân lý, nhưng là một chân lý đã nhập thể, chứ không còn thuần túy ở trên trời. Con đường nhập thể của Chúa không phải là con đường một chiều. Người ta thích trải nhung trên con đường ấy. Nhưng thiên nhiên không bao giờ có một con đường giống như thế. Trái lại đường Chúa đến thường gai góc, gồ ghề, khúc khuỷu. Ði trên đường đó chắc chắn sẽ đạt tới đích điểm, nhưng chắc chắn cũng trầy da tróc vẩy. Thực tế cũng có những con đường rộng thênh thang. Có những con đường chật hẹp, tăm tối, sình lầy. Tất cả mọi người chắc chắn không đi trên một con đường. Hướng mở rộng trăm chiều như thế, tại sao lại cố chấp cho rằng chỉ có con đường của mình mới duy nhất đúng ? Chính thánh Phaolô đã xác nhận: "Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người" (1 Cr 12:4-6). Sự khác biệt làm phong phú, chứ không triệt tiêu chân lý. Thực tế, "Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung" (1 Cr 12:7). Như thế, tiêu chuẩn duy nhất để thẩm định giá trị của sự đa dạng là "ích chung". Ích chung chính là hạnh phúc sau cùng của mọi người. Nhưng "ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc ?" (Tv 15:2). Thiên Chúa chính là cứu cánh mọi người đều nhắm tới. Cụ thể, "chỉ có Ðức Kitô là tất cả và ở trong mọi người" (Cl 3:11). Nói khác, Ðức Kitô chính là "ích chung", tiêu chuẩn lượng định mọi giá trị.
KHÁC BIỆT TRONG DUY NHẤT
Tới nay, sự khác biệt trong Giáo Hội vẫn làm nhức nhối tim óc nhiều người. Sự khác biệt ấy lớn lao đến nỗi nhiều người không nhận ra nhau mặc dầu cùng chia sẻ một niềm tin Kitô. Giáo Hội vẫn cố gắng không ngừng tìm về hiệp nhất với những anh em mình. Nhưng bao nhiêu thập niên sau Công đồng Vatican II, nỗ lực ấy hình như vẫn chưa đi xa lắm, mặc dù đã có những tiến bộ lớn trong cuộc đối thoại với anh em Chính thống, Anh giáo, Tin Lành. Ðến nay, có lẽ Giáo Hội vẫn phải học cho biết "sự duy nhất do sự hiện diện của Thánh Linh là sự duy nhất trong khác biệt"(Finan 1995:633).
Không có những khác biệt đó, duy nhất sẽ trở thành đồng nhất, đồng bộ. Còn gì nghèo nàn hơn sự đồng nhất ! Ðẹp thì đẹp thật, nhưng không phải là dấu chỉ sức hoạt động của Thánh Linh, Ðấng "hiệp nhất nhưng không tiêu diệt hay giảm thiểu sự khác biệt đích thực" (Finan 1995:635). Dĩ nhiên có những khác biệt gây xung khắc, không đưa tới "ích chung". Cần phải cảnh giác trước những khác biệt đó. Nhưng nhiều khi cảnh giác quá đến nỗi quên rằng "sự khác biệt giữa các ân sủng trong cộng đồng Kitô giáo (và nhân loại nói chung) là một phước lành" (Finan 1995:635). Khi gạn bỏ đống sạn, vô tình người ta đổ luôn cả những hạt kim cương. Thái độ khắt khe quá mức nhiều lúc đã để lỡ cơ hội đối thoại để tìm ra sự thật. Ví dụ mới đây Giáo Hội đã nhận thấy mình đã đối xử quá khắt khe với những đòi hỏi chính đáng của giới ký giả thế giới. Trong lịch sử vì quá khắt khe đó, Giáo Hội đã tạo một khoảng trống rất khó lấp nổi giữa những anh em cùng một niềm tin Kitô. Biết bao giá trị vô cùng cao quí đã trôi đi vì những rạn nứt quá lớn đó.
Ngày nay Giáo Hội đang cố gắng xích lại với những anh em Kitô hữu và với thế giới. Cùng thờ một Chúa, tại sao lại chia rẽ ? Cùng phục vụ một chân lý, tại sao lại không hợp tác với nhau ? Nếu tất cả những anh em Kitô hữu trên thế giới thực hiện được giấc mộng xưa của Ðức Kitô, Giáo Hội sẽ có một tiếng nói mạnh biết bao đối với thế giới ! Chẳng hạn, trong các Giáo Hội Kitô, Công giáo đã có một tiếng nói mạnh nhất vì có sự hiệp nhất trên toàn cầu.
Sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo hôm nay lây lan sang cả các sinh hoạt thế tục. Chẳng hạn, Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã hội lần thứ 34 ngày 4/6/2000 vừa qua, hằng ngàn ký giả khắp thế giới tuốn về Roma. Giáo Hội đang tìm cách ảnh hưởng tới những cơ quan cân não này. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói với các ký giả báo chí: "Thách đố lớn mà quí vị đang đương đầu là dùng tài năng và ảnh hưởng rộng lớn trên công luận mà phục vụ cách trung thực cho sự thật về nhân bản con người. Ðiều này có nghĩa là bảo vệ sự sống và xây dựng một cộng đồng nhân loại càng ngày vững mạnh hơn dựa trên sự liên đới keo sơn, công lý và tình yêu" (VietCatholic 4/6/2000). Chỉ khi nào phục vụ chân lý và con người, mọi hoạt động truyền thông mới đạt mục đích hiệp nhất nhân loại, nền tảng xây dựng hòa bình. Hơn ai hết, Kitô hữu thời đại hôm nay phải dùng mọi phương tiện, ngay cả những phương tiện tân tiến nhất để loan truyền sứ điệp Phúc Âm (ÐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 6/6/2000). Sứ mệnh cao cả đó nhằm thực hiện một lễ Hiện Xuống mới cho toàn thể nhân loại trong thế kỷ mới.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP --------------------------------
Trình thuật về lễ Hiện Xuống là một trình thuật quan trọng. Bản văn này không chỉ thuật lại mốc khởi đầu của Giáo Hội, nhưng cả việc kết thúc của sách Tin Mừng. Vậy mà, một câu hỏi làm chúng ta ngạc nhiên: tại sao trình thuật này không được các sách Tin Mừng thuật lại, nhưng chỉ được kể đến trong sách Công Vụ Tông Ðồ ?
Trong thực tế, sách Công Vụ Tông Ðồ chỉ tường thuật, hoạ lại truyền thống Do-thái, "một điều đã được khẳng định", xét như là một thực tại, vốn đã có trong Tin Mừng.
Ðối với người Do-thái, lễ Ngũ Tuần là dịp kỷ niệm hồng ân được ban tặng qua Lề Luật. Với biến cố tại núi Xi-nai, người Do-thái được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ, nhất là được quy tụ thành một dân có liên đới và trách nhiệm với nhau. Họ cùng hướng tới một mục đích và chấp nhận cùng đi với nhau trên một con đường. Một số tác giả Do-thái không thuộc lãnh vực Kinh Thánh đã sử dụng hình ảnh lửa, gió, tiếng nổ lớn để mô tả tính cách đảo lộn của biến cố Xi-nai. Thánh Lu-ca cũng sử dụng lại cách diễn tả này.
Tuy vậy, các tác giả sách Tin Mừng cảm thấy không cần phải thuật lại, theo một hình thức đặc biệt, sự đổi mới từ căn bản mà các ông đã luôn diễn tả trong suốt cả sách Tin Mừng.
Sứ điệp của thánh Gio-an tóm tắt điều cốt yếu này: các Tông Ðồ - sau này là các tín hữu - đều được thông dự vào sự sống của Ðức Giê-su, cũng như vào sự bình an của Người. Các ông là những người được đổ tràn Thần Khí: các ông sẽ sống giữa trần gian, sẽ đi đến mọi nơi để đem lại ơn tha thứ và lòng thương xót. Sứ mệnh của các ông được tóm lại trong mệnh lệnh đơn giản sau đây: Hãy đi công bố Tin Mừng về ơn hoà giải và tha thứ. Nhờ sứ mệnh của các Tông Ðồ, nhân loại được tái tạo, và đó chính là lễ Ngũ Tuần của tất cả nhân loại.
Lễ Ngũ Tuần không thể tách rời khỏi lễ Vượt Qua. Xưa kia, đây là ngày lễ đánh dấu việc hưởng dùng những hoa trái đầu tiên nơi đất hứa, sau khi đã trải qua những chặng đường gian lao đầy thử thách. Sự kiện này mới chỉ là khởi đầu cho những ân huệ sau này: tất cả đều phát xuất từ cuộc Vượt Qua.
Ngày nay, lễ Ngũ Tuần, tức là lễ Hiện Xuống, cũng gắn liền với lễ Phục Sinh. Mặc dù mới chỉ là khởi đầu, chưa phải là hoàn thành, nhưng toàn bộ hoa trái của lễ Phục Sinh đã được trao tặng trong Thần Khí của Ðức Giê-su: chính Thần Khí sẽ bao phủ cả vũ trụ, khởi đầu từ các Tông Ðồ, để rổi sẽ lan đến mọi nơi.
Tất cả mới chỉ là khởi đầu - và ngọn lửa, ngọn gió thần linh vẫn có đó ...
Thầy sai anh em đi
Kể từ ngày kêu gọi các môn đệ đầu tiên, Ðức Giê-su đã chuẩn bị cho các ông đón nhận mệnh lệnh này. Toàn bộ cử chỉ, hành động, lời nói, lời cầu nguyện cũng như sự hiện diện của Người đều nhằm huấn luyện các môn đệ đón nhận biến cố hôm nay.
Cũng như Ðức Giê-su, các môn đệ có một sứ mạng phải chu toàn, có một sứ điệp phải loan báo. Công trình do Người khơi mào (và được đóng ấn trong máu Người) không thể bị gián đoạn. Công trình biến đỗi, tái tạo cuộc sống con người cần phải được thực hiện tới cùng. Muôn dân muôn nước thuộc mọi thời cần phải, và được quyền biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ. Chính vì thế, mặc dù các Tông Ðồ đang trong tình trạng sợ hãi, Ðức Giê-su vẫn sai các ông đi.
Một khởi đầu có vẻ quá khiêm tốn, quá âm thầm. Thiên Chúa vẫn hành động như thế. Ðức Giê-su sai một nhóm người, quá ít, lại kém hiểu biết để thực hiện một công trình vĩ đại: chinh phục cả thế giới về cho Người. Ðã có nhiều người lấy làm ngạc nhiên về việc sai đi này: Với nhóm người nhỏ nhoi như thế mà Tin Mừng được loan báo cho toàn thế giới sao ? Việc cứu độ cả nhân loại lại tuỳ thuộc vào nhóm người tầm thường này sao ? Làm sao các Tông Ðồ có thể làm được ? Mặc dù Ðức Giê-su đã kể dụ ngôn về "men trong bột", nhưng làm sao có thể tin rằng những con người như thế kia lại có thể làm đảo lộn cả thế giới ? Khó tin quá !
Thế nhưng, chính Ðức Giê-su cũng đã nói về "chiên đi vào giữa bầy sói" (Mt 10,16). Người biết rõ thái độ thù nghịch, không muốn đón nhận cũng như sự thờ ơ của con người đối với các sứ giả, và với sứ điệp của Người. Người sai các Tông Ðồ đi, không phải với bàn tay trắng. Các môn đệ cũng có những "vũ khí" như Ðức Giê-su đã có. Những "vũ khí" này không nhằm giết hại ai, nhưng là để làm cho sống. Ðó là Bình An, Vui Mừng và Tha Thứ.
Những điều này có ý nghĩa gì ?
"Ơn Bình An" không phải là không có chiến tranh hay xung đột. Bình an của Thiên Chúa là sức mạnh giúp chế ngự, lướt thắng những nghi ngờ và sợ hãi. Bình an của Thiên Chúa giúp con người biết mở rộng lòng để đón nhận tình yêu.
"Ơn Vui Mừng" do Thiên Chúa ban tặng vượt xa mọi thứ hạnh phúc thông thường. Ngay giữa những khó khăn, những vất vả nhằm kiến tạo một thế giới công bình hơn, con người vẫn cảm nhận được niềm vui vì xác tin rằng Thiên Chúa không bao giờ quên lãng công trình sáng tạo của Người.
Cuối cùng, "ơn Tha Thứ" của Thiên Chúa: đây là điều con người vẫn thiếu. Ơn sủng này giúp con người có khả năng hiểu biết, đón nhận và hoà giải với người khác cũng như với chính mình. Ơn sủng này sẽ chữa lành và tái tạo tất cả những gì đã bị thương tỗn, bị lệch lạc trong con người cũng như trong các mối tương giao ...
Như vậy, với Thần Khí của Thiên Chúa, con người được giải thoát khỏi sợ hãi, khỏi thái độ khép kín nơi chính mình, để hướng đến những biên cương mới, nơi Thiên Chúa chờ đợi họ.
Ngày lễ của Hội Thánh
Lễ Ngũ Tuần là ngày giáng sinh của Hội Thánh. Thần Khí được ban xuống, không phải trên những cá nhân riêng lẻ, nhưng trên một cộng đoàn đã được quy tụ và tỗ chức. Ðây chính là cộng đoàn mà Ðức Giê-su đã kiên trì đào tạo để sai đi. Chính trên cộng đoàn này, Thần Khí, qua lửa và gió, đáp xuống như trận cuổng phong, để bắt lấy họ, đốt cháy họ, nhào nặn họ, biến họ thành một dân mới tức là Hội Thánh.
Ðược khai sinh trong Thần Khí, Hội Thánh sẽ phải luôn lắng nghe Thần Khí để kiểm lại sự hiện diện của mình giữa trần gian, đổng thời nhìn lại sứ mạng của mình đã lãnh nhận, nhận được sức mạnh để chu toàn sứ mạng ấy.
Về phần mình, mỗi Ki-tô hữu cũng phải ý thức rằng mình thuộc về Hội Thánh, thuộc về Thần Khí của Thiên Chúa. Những ân huệ đã lãnh nhận không phải chỉ để mưu ích cho cá nhân mình, nhưng là để cho toàn thể Hội Thánh thêm phong phú. Mỗi người sẽ góp phần riêng của mình giúp Hội Thánh luôn sống đúng với ý nghĩa mà Thiên Chúa mong muốn. Mỗi người sẽ cộng tác với người khác để làm cho Hội Thánh luôn tươi trẻ, để loan báo cho thế giới về mầu nhiệm Phục Sinh.
"Như Chúa Cha đã sai Thầy, "thì Thầy cũng sai anh em". (Ga 20,21)
"Ai tin vào Thầy "thì người đó sẽ cũng làm được những việc Thầy làm, "người đó còn làm những việc lớn hơn nữa". (Ga 14,12)
Chúng ta nghĩ gì về điều này ? Có phải là một sứ mạng không thể thi hành, hay: "Lạy Chúa, này con đây, "xin cũng sai con đi. "
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
Hôm lễ Lên trời, chúng ta đã thấy một cuộc lên trời hữu hình trước mắt các môn đệ khoảng 40 ngày sau khi Chúa sống lại; và có một cuộc lên trời vô hình, nhưng đích thực, xảy ra chính hôm phục sinh, khi Ðức Kitô đi vào vinh quang của Chúa Cha. Cũng vậy, hôm nay chúng ta cũng có thể nói đến hai cuộc hiện xuống. Một lần, như chúng ta vừa nghe đọc trong Phúc Âm vào chính buổi chiều ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa sống lại đã thổi hơi vào các Tông đồ và bảo: các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Và như vậy, Thánh Thần đã đến với các môn đệ ngay từ hôm Phục sinh. Nhưng cũng lại có một cuộc hiện xuống hữu hình công khai như sách Tông đồ Công vụ thuật lại cho chúng ta nghe trong bài đọc I hôm nay. Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần tức là 50 ngày sau lễ Vượt qua, lễ Chúa sống lại, các Tông đồ đã được lãnh nhận Thánh Thần một cách thật kỳ diệu.
Phụng vụ hôm nay chú trọng đến biến cố hiện xuống hữu hình, công khai này, nhưng mà để nhờ đó mà hiểu biết hơn về hành động âm thầm của Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội trải qua các thời đại. Như vậy, chúng ta cũng phải tựa vào biến cố của ngày lễ Ngũ tuần hôm nay để biết quý hóa ơn Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong Giáo Hội và nơi ta.
Lễ Ngũ tuần trong dân Dothái thoạt tiên chỉ là một lễ nông nghiệp. Năm mươi ngày sau khi cắt bó lúa đầu mùa, nông dân làm lễ này như "để rửa công thợ" tức là như để liên hoan mừng mùa gặt tốt tươi. Sau đó, người ta đã mặc cho ngày hội nông dân này một ý nghĩa tôn giáo, cũng như người ta đã tôn giáo hóa ngày xuất quân đi gặt hái. Hôm đó người ta đã đem bó lúa đầu tiên về dâng trên bàn thờ. Còn hôm nay, 50 ngày sau mùa gặt, người ta đem bánh, đem chiên, đem bò, đem dê để dâng lễ, biểu lộ lòng biết ơn sâu xa của con người lao động đối với các ơn mưa móc bởi trời. Như vậy, ngày lễ 50 hoàn thành ngày lễ đầu mùa gặt hái và bầu khí tự nhiên sầm uất hân hoan hơn buổi lễ đầu tiên.
Dần dần, những ngày lễ nông nghiệp này được tôn giáo hóa thêm. Người ta đưa những buổi lễ đó vào bình diện giao ước, và dùng để gợi lại những biến cố trong lịch sử dân Chúa cũng là lịch sử ơn cứu chuộc. Lễ dâng bó lúa đầu mùa được đồng hóa với lễ Vượt qua, kỷ niệm lần đầu tiên dân được tế lễ Chúa sau khi thoát ách nô lệ, chấm dứt thời gian mà các tiên tri thường diễn tả bằng những hình ảnh đói kém, thiếu lúa rượu và dầu ăn. Ngày nông dân xuống ruộng gặt bó lúa đầu tiên khiến họ nhớ tới ngày được đặt chân vào đất chảy sữa và mật. Và 50 ngày sau, khi liên hoan chung quanh các vựa thóc, khỏi sao họ không nghĩ tới ngày hội lớn ở chân núi Sinai xưa. Thành ra ngày lễ Ngũ tuần được dùng ngay để kỷ niệm ngày ký kết giao ước Sinai. Và Chúa đã muốn dùng ngày lễ ấy để ban Thánh Thần xuống một cách dồi dào trên các môn đệ.
Như chúng ta vừa nghe đọc trong bài đọc I hôm ấy các môn đệ đang hội họp. Bỗng từ trời có tiếng gió thổi mạnh. Và có lửa hiện xuống, chia ra thành nhiều hình lưỡi đậu trên các môn đệ. Quang cảnh thật là kỳ lạ, nhưng lập tức ai cũng thấy ngay đây là việc của Chúa. Khi xưa ở trên núi Sinai, muốn chứng tỏ Người hiện xuống trên núi để hành động, Người cũng đã dùng tiếng sấm, tiếng sét. Và hôm ấy trên bài thờ giao ước, lửa trên trời cũng hiện xuống thiêu đốt tất cả lễ tế. Như vậy hôm nay, qua tiếng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa hiện đến Chúa cũng rõ ràng chứng tỏ Người đến hành động mạnh mẽ nơi các Tông đồ.
Mà thực vậy, người ta thấy các ngài bỗng dưng đầy Thánh Thần sốt mến, như các tiên tri trong những giây phút xuất thần và thiêng liêng nhất. Các Tông đồ nói tiếng lạ, ca tụng các kỳ công của Chúa. Người ta kéo nhau lại coi. Chắc chẳng ai đếm được số người bao nhiêu và thuộc những dân nước nào. Nhưng vì hôm đó là ngày lễ lớn, các người Dothái đi làm ăn nơi xa cũng về lễ, tác giả sách Tông đồ Công vụ kể tên 12 nơi, từ đông sang tây lấy Giuđêa làm chính, có ý ám chỉ rằng tất cả mọi nơi trên mặt đất này đều được Chúa gọi về để tham dự hồng ân Người đã từng hứa ban.
Gioel, người tiên tri của Chúa, đã từ lâu tuyên cáo rằng: sẽ đến ngày Ta đổ Thần trí Ta trên mọi người; già trẻ trai gái hết thảy sẽ nói tiên tri và tiếng lạ. Như vậy, ngày hôm nay, việc đó đã xảy đến. Quả thật Thiên Chúa đang hành động kỳ diệu nơi các Tông đồ. Họ là người Galilêa, thế mà mọi người đang nghe họ nói về Chúa trong thứ ngôn ngữ của mình. Rõ ràng Chúa muốn dùng họ để đoàn tụ muôn dân lại trong một niềm tin, khác với cảnh xây tháp Babel ngày xưa, anh em một nhà mà bỗng dưng nói tiếng xa lạ không còn hiểu nhau nữa. Gia đình nhân loại từ ngày đó đã phân rẽ và chia rẽ kình địch nhau vì họ muốn chống lại Chúa. Hôm nay những con người Galilêa kia đầy lòng yêu mến Chúa, đang nói lên những lời sốt sắng để muôn dân đoàn tụ lại trong một niềm tin.
Và nếu chúng ta muốn diễn tả thêm về ý nghĩa của lửa hiện xuống, sách thánh còn đó để giúp ta hiểu. Trong Cựu Ước, Chúa dùng lửa để báo hiệu việc Chúa hiện diện, để dẫn dắt dân đi trong u tối, để thánh hóa chấp nhận các lễ vật. Các lưỡi lửa hôm nay cũng nói lên việc Chúa hiện diện, thánh hoá, soi sáng, khích lệ các cộng đoàn Tông đồ. Nhưng cùng với việc các môn đệ nói tiếng lạ, lưỡi lửa hôm nay còn làm chứng Chúa Thánh Thần muốn đặt vào lòng Giáo hội sơ khai bản tính sốt sắng nhiệt thành để biến cả thế giới nên một gia đình đầy bác aí yêu thương.
Ý nghĩa thay ngày lễ Ngũ tuần của Tân Ước, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mà chúng ta mừng hôm nay. Nó vượt xa ngày hội lớn của dân Dothái khi Chúa ký kết giao ước ở chân núi Sinai. Còn nói đến lễ nông nghiệp kết thúc mùa gặt hái làm gì? Tuy nhiên, trong lễ hiện xuống này, Chúa muốn cho chúng ta sống lại tất cả ý nghĩa của các lễ kia, để chúng ta thấy hết mọi vẻ đẹp của ngày lễ Chúa Thánh Thần và nhất là để chúng ta đem tất cả những ý nghĩa đó vào đời sống đạo của chúng ta.
Thật vậy, ngày lễ Hiện xuống này nối liền với lễ Phục sinh đến nỗi kinh Tiền tụng chốc nữa nói: Chúa muốn dùng lễ Hiện xuống hôm nay hoàn thành và kết thúc lễ Phục sinh, khác nào như ngày lễ nông nghiệp 50 ngày sau khi gặt hái kết thúc lễ đầu mùa xuống đồng gặt hái vậy. Và cũng như ngày lễ Ngũ tuần nhắc nhở lại giao ước Sinai, kết thúc và hoàn thành lễ Vượt qua đặt chân vào hứa địa. Chính Chúa Giêsu sống lại trên trời hôm nay ban Thánh Thần Ngài chan hòa vũ trụ khiến ta có thể nói, hôm Phục sinh ánh sáng vinh quang của Chúa sống lại mới ló lên ở chân trời cho tạo vật bừng dậy sống một ngày mới; hôm nay Chúa lên trời như mặt trời giữa ngọ tỏa hết ánh sáng xuống trên hết mọi tạo vật... Nên chúng ta phải tung hô ca tụng Chúa hết sức mình và nhận ra sự nghiệp của Chúa phục sinh bây giờ đã tràn lan khắp trời đất. Và như tạo vật lúc giữa trưa được đầy ánh sáng mặt trời thế nào, hôm nay chúng ta được đầy ánh sáng hiểu biết và sốt sắng mến yêu đạo Chúa như vậy. Và nhất là như các môn đệ Chúa trong ngày lễ Hiện xuống được đầy Thánh Thần nói lên niềm tin đoàn tụ muôn dân lại thế nào, hôm nay chúng ta cũng phải trở thành những con người thu hút người ta về với Chúa và hợp với nhau thành một gia đình nhờ thái độ sống đạo sốt sắng, nhiệt thành của chúng ta.
Bởi vì hôm nay Thiên Chúa cũng vẫn đang còn muốn ban Thánh Thần Người cho những ai cầu xin. Và Thánh Thần muốn tiếp tục hoạt động trong các cộng đoàn Kitô hữu như ngày trước. Ðặc biệt trong thánh lễ này, Thiên Chúa đang muốn đổ Thánh Thần sốt mến xuống trên chúng ta đang sum họp nơi đây. Mọi lời kinh tiếng hát đều muốn hướng lòng chúng ta lên với Chúa và hòa giải chúng ta trong một tâm tình chung. Nhất là Thánh Thể mà chúng ta sắp chịu lấy, là Mình Máu Thánh Chúa, là sự sống hùng mạnh đầy yêu thương sáng tạo thoát ra từ lòng Chúa, để ai lãnh nhận, chính họ sẽ không sống nữa, nhưng là chính Chúa và Thánh Thần của Người sống ở trong họ. Họ sẽ ra về, tùy theo phận sự, mỗi người làm một công việc cho gia đình và cho xã hội; nhưng nếu họ tiếp tục để cho Chúa sống ở trong họ, thì như lời Thánh thư hôm nay nói, cũng chỉ là Thánh Thần làm việc, hành động ở trong mọi người. Và như vậy, một Thánh Thần sẽ hướng dẫn công việc của muôn người đi về cùng một mối là xây dựng một gia đình nhân loại trong tình yêu thương của Chúa. Các sự lầm lạc tối tăm và chia rẽ hận thù sẽ dần dần bị loại ra. Phúc Âm ở trong lòng mọi người dần dần thúc đẩy chúng ta hành động vì yêu thương và cho yêu thương. Ðời sống con người sẽ được hạnh phúc ngày ở đời này để cuối cùng muôn dân sẽ được kêu gọi tập họp lại trong Nước Trời vô tận.
Chúng ta cùng nhau đứng lên tuyên xưng niềm tin sâu xa đó và xin Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng ta, sai chúng ta đi loan truyền tình yêu của Người đang muốn kết nạp mọi người.
Những khi tâm trí con người cố định bám chặt vào một con đường, xin đến giúp tâm trí con người thoát ra khỏi vòng cố định đó. Soi dẫn tâm trí nhận ra con đường chương trình của Thiên Chúa muốn trong đời sống mình.
Xin ban cho con người khả năng nhìn tất cả mọi biến cố trong đời sống bằng con mắt đức tin vào Thiên Chúa.
"Qủa vậy, nơi đức khôn ngoan có một Thần Khí tinh tường và thánh thiện" ( Thư gửi Titus 3,6).
2. Lạy Chúa Thánh Thần, thần linh sự thông minh, xin đến giúp con người không chỉ nghe hay đọc Lời Chúa, nhưng còn biết nhận ra sứ điệp Chúa nhắn nhủ cùng đem ra thực hiện trong đời sống cụ thể hằng ngày.
"Ta sẽ ban tặng các người một qủa tim mới, sẽ đặt Thần Khí mới vào lòng các người“ ( Ezechiel 36,26)
3.Lạy Chúa Thánh Thần, Thần linh ân đức biết lo liệu,
Nhiều khi tâm trí con người xuay quanh luẩn quẩn như một vòng tròn vào một điểm, như người sống trong hồ nghi không sao tìm ra lối thoát khỏi khu vòng đó. Xin giúp tâm trí con người thoát ra khỏi vòng sống chật hẹp luẩn quẩn, cùng sẵn sàng nghe lời khuyên nhủ khuyến khích vươn lên.
"Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xứa dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng…" ( Luca 4,18)
4. Lạy Chúa Thánh Thần, thần linh sức mạnh
Qua ơn đức sự khôn ngoan và biết lo liệu, Chúa Thánh Thần giúp con người hiểu nhận ra ý Thiên Chúa muốn sắp đặt trong đời sống. Xin đến giúp con người có sức mạnh chống trả lại sự cám dỗ thúc đẩy từ bên ngoài cũng như từ bên trong thâm tâm, cùng can đảm lội ngược dòng nước chống lại cám dỗ quyến dũ bất chính.
"Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em" ( Công vụ tông đồ 1,8).
5.Lạy Chúa Thánh Thần, thần khí sự hiểu biết
Xin đến giúp con người chúng con nhận ra luật lệ của công trình tạo dựng thiên nhiên, để sử dụng xây dựng đời sống trở nên có ích lợi.
Xin giúp con người biết bỡ ngỡ sự lạ lùng kỳ diệu trong thiên nhiên, cùng có tâm tình biết ơn tình yêu Thiên Chúa đã tạo dựng nên thiên nhiên cho nhân loại.
"Nếu chúng ta sống nhờ thần khí, thì cũng hãy nhờ thần khí mà tiến bước" ( Galata 5,25).
6. Lạy Chúa Thánh Thần, thần khí lòng đạo đức
xin đến giúp tâm hồn con người chúng con khi gặp những đau khổ, thử thách buồn phiền, không kêu than trách Thiên Chúa, nhưng biết thắc mắc: Lạy Chúa, Chúa muốn nhắn bảo điều gì cho con qua biến cố sự việc này?.
Xin chỉ dậy chúng con đừng lần theo tại sao, nhưng lần theo con đường ý nghĩa c ủa biến cố sự việc, cùng đặt lòng tin tưởng vào Chúa.
"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong an hem." ( 1 Corintho 3,16)
7. Lạy Chúa Thánh Thần, thần khí kính mến Chúa
xin đến giúp con người chúng con trên mọi nẻo đường đời sống biết thắc mắc tìm theo ý Thiên Chúa hơn theo ý riêng mình muốn. Xin củng cố tâm hồn chúng con sẵn sàng kính trọng trật tự trong công trình sáng tạo thiên nhiên, nhận biết raThiên Chúa là chủ thiên nhiên và bảo vệ gìn giữ mọi loài được tạo dựng trong đó.
"Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa." (Công vụ tông đồ 10,44).
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long --------------------------------
Vào dịp mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cũng là cao điểm của mùa khấn dòng và tiến chức. Có thể nói được rằng đây cũng là mùa hoa trái của Thánh Thần.
Đâu đâu người ta cũng thấy khấn dòng, phong chức. Trong Nam cũng như ngoài Bắc, trong nước cũng như hải ngoại. Cứ đọc mục tin tức, thông báo trên các trang web Công giáo, sẽ thấy rõ điều này. Nào là “Dòng Thừa Sai Bác Ái GP Vinh tổ chức Lễ Khấn Dòng”, nào là “Phong chức Tân Linh mục gốc người Việt Nam tại TGP Los Angeles, “Dòng Mân Côi New Orleans Lousianna tổ chức Lễ khấn trọn đời”, “Dòng Nữ Đa Minh Houston Texas tổ chức Lễ khấn trọn đời”, “Dòng Mến Thánh Giá Los Angeles tổ chức Lễ khấn trọn đời”, “Dòng Mến Thánh giá Phan Thiết, Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt tổ chức lễ khấn vĩnh khấn”, nào là “Giáo phận Bà Rịa phong chức linh mục cho 6 thầy”, v.v.
Khấn dòng hay tiến chức là bước sang một giai đoạn mới với một sứ mạng mới. Sứ mạng ấy rất cần ơn của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu xin cho các tân khấn sinh và các tân chức có được nhiều thánh ân để họ sống xứng đáng với ơn gọi của mình và chu toàn sứ mạng mà họ lãnh nhận.
Chúng ta cũng hãy nguyện xin Chúa Thánh Thần chiếm trọn tâm hồn mình để cuộc đời chúng ta mang lại nhiều hoa trái tốt lành, hoa trái “công chính, bình an và hoan lạc”.
2. Chia sẻ
CHÚA THÁNH THẦN, NHÀ ĐẦU TƯ SỐ 1
Kể từ năm 1995, khi được bình thường hoá quan hệ với Mỹ, sau những năm tháng dài bị cấm vận, bị bao vây kinh tế, và nhất là khi được chính thức vào WTO tháng 01.2007, Việt Nam lập tức tìm mọi cách để thu hút sự đầu tư của nước ngoài trên mọi lĩnh vực: kinh tế, khoa học, y tế, giáo dục….. Các giải pháp cấp bách được đưa ra là cải cách đường lối, đổi mới chính sách, hội nhập kinh tế quốc tế… nhằm tạo ra một môi trường đều tư ổn định, minh bạch và tự do cho các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đáng ghi nhận: hiện nay Hoa Kỳ vẫn đang là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Theo sau là Nhật Bản và Trung Quốc.
Thế đó là trong những lĩnh vực thuộc thực tại trần thế. Còn trong lĩnh vực tâm linh, chúng ta đang thu hút nhà đầu tư nào và ai là “nhà đầu tư” lớn nhất trong cuộc đời chúng ta, nếu không phải là Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, “nhà đầu tư số một” trong cuộc đời người Kitô hữu chúng ta là ai, nếu không phải là chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà chúng ta đang hân hoan mừng lễ kính Ngài.
Ta thấy rằng trong lãnh vực kinh tế, việc đầu tư có thể lời hay lỗ, nhiều khi lỗ te tua, như tập đoàn cho vay thế chấp khổng lồ Freddie Mac, tập đoàn tài chính Merrill Lynch & Co của Hoa Kỳ, nhà sản xuất xe hơi khổng lồ Fiat của Ý, Toyota của Nhật… Thậm chí nhiều công ty, tập đoàn phải tuyên bố sáp nhập hoặc phá sản, điển hình là tập đoàn xe hơi Hoa kỳ vĩ đại Chrysler.
Còn việc đầu tư của Chúa Thánh Thần thì sao ? Chúa Thánh Thần một khi Ngài đầu tư vào cuộc đời của ai thì cuộc đời người đó chỉ có “lời” chứ không bao giờ “lỗ”. Những thành quả, những “cái lời”, của “nhà đầu tư Tâm linh” mang lại cho chúng ta sẽ là gì ?
- Thành quả trước hết là hồng ân sự sống: một sự sống toàn diện và tròn đầy. Sự sống thể xác lẫn linh hồn. Sự sống có từ khởi đầu công trình sáng tạo và sự sống được tái tạo trong công trình cứu độ. Thành quả này ta có thể thấy một cách cụ thể là nền văn hoá sự sống mà Giáo hội đang ra sức xây dựng và cổ vũ mọi người bảo vệ và tôn trọng.
- Thành quả thứ đến là hồng ân sự thật. Vì Chúa Thánh Thần được mệnh danh là nguồn mạch chân lý, sự thật viết hoa. Sự thật về Thiên Chúa, về vũ trụ, về con người và sự thật lớn nhất là sự thật về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất. Một khi chúng ta biết yêu mến sự thật và sống theo sự thật là chúng ta đang cộng tác với nhà đầu tư Thứ Thiệt này.
- Thành quả sau nữa là hồng ân hiệp nhất yêu thương. Chúa Thánh Thần còn được định nghĩa là nguyên lý của sự hiệp nhất yêu thương, nguyên lý liên kết Chúa Cha và Chúa Con, nguyên lý nối kết con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Nền văn minh tình thương
Tuy nhiên, để có thể mang lại thành quả dồi dào, cần có sự cộng tác từ phía người được đầu tư. Sự cộng tác đó là tạo mọi điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư. Bao gồm việc tạo “môi trường”, tức tâm hồn thông thoáng, cải cách “thủ tục”, tức lối sống đơn giản; dỡ bỏ các rào cản về “mặt bằng, thuế quan”, tức là dẹp các tính hư tật xấu…Có như thế Chúa Thánh Thần mới có thể hoạt động một các hiệu quả được.
Kinh nghiệm cho thấy trong lĩnh vực kinh tế nếu môi trường đầu tư lắm chướng ngại, thủ tục rườm rà, thuế quan lắt léo,… thì sức thu hút đầu tư sẽ giảm và việc đầu tư cũng sẽ kém phần hiệu quả. Trong đời sống tâm linh cũng thế.
Vậy câu hỏi đặt ra thay cho phần kết là tôi đang thu hút nhà đầu tư nào ? Thần tài, thần tiền, thần sắc dục, thần quyền lực danh vọng hay Thần Khí Sự Sống, Thần Chân Lý, Thần Tình Yêu ? Và những rào cản nào tôi chưa dỡ bỏ để Chúa Thánh Thần chiếm trọn vốn đầu tư 100% trong cuộc đời của tôi?
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long --------------------------------
Hôm nay là ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, là ngày khai sinh Giáo Hội Công Giáo ở trần gian này, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giê-su đã hứa ban Chúa Thánh Thần xuống cho các tông đồ, và vừa sai phái các ngài đi loan truyền Phúc Âm vừa trao quyền tha tội cho các ngài, trong tâm tình ấy, tôi chia sẻ với bạn hai điểm quan trọng trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống này.
1. Bảy ơn Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến nhân danh Chúa Giê-su để Chúa Thánh Thần -với ơn sủng của Ngài- ở với các tông đồ trong ngày khai sinh Giáo Hội, chúng ta gọi đó là bảy (7) ơn Chúa Thánh Thần: ơn khôn ngoan, ơn thông hiểu, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn suy biết, ơn đạo đức và ơn kính sợ Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ và ban toàn vẹn bảy ơn ấy cho các ngài, để các ngài chu toàn sứ mệnh mà Chúa Giê-su đã truyền cho các ngài.
Nhờ ơn khôn ngoan mà các tông đồ biết cách đối đáp trước mặt vúa chúa quan quyền trần gian về niềm tin của mình; nhờ ơn thông hiểu mà các tông đồ nói được các thứ tiếng lạ hiểu được những điềm thiêng dấu lạ; nhờ ơn lo liệu mà các tông đồ biết chuẩn bị tâm hồn cho các tín hữu đón nhận Tin Mừng của Chúa Giê-su; nhờ ơn sức mạnh mà các tông đồ đã không quản hiểm nguy đi khắp nơi truyền giáo; nhờ ơn suy biết mà các tông đồ biết nhận ra thánh ý Chúa trong cuộc sống của mình; nhờ ơn đạo đức mà các tông đồ trở thành mô phạm cho mọi người tín hữu; nhờ ơn kính sợ mà các tông đồ quyết không phạm tội làm mất lòng Chúa...
2. Hoa quả của Thánh Thần
Thánh Phao-lô tông đồ đã liệt kê ra mười lăm con đẻ của ma quỷ, là hậu quả do tội lỗi gây ra, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, mười lăm hậu quả này đã làm cho con người ta trở thành những công cụ cho ma quỷ. Nhưng đồng thời, bên cạnh đó, thánh Phao-lô cũng đã được ơn soi sáng mà nhận ra được những hoa quả thiêng liêng của Chúa Thánh Thần, đó là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ (Gl 5, 22), chính những hoa quả này mà làm cho con người ta nhận ra Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong Giáo Hội và trong những kẻ tin vào Chúa Giê-su.
Những hoa quả thiêng liêng này không phải tự nhiên mà có, nhưng tất cả những ai tin nhận Đức Giê-su Ki-tô và đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì mới có, và nhờ những hoa quả này mà người ta nhận ra Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong chúng ta.
Bạn thân mến,
Trong bảy ơn Chúa Thánh Thần thì:
- Ơn lo liệu, ơn suy biết và ơn đạo đức thì nảy sinh đức tiết độ và trí hiểu, hoa quả của tiết độ là tiết chế và hiền hòa; hoa quả của trí hiểu là bác ái và hoan lạc.
- Ơn khôn ngoan, ơn thông hiểu và ơn thông minh thì nảy sinh chính nghĩa và dũng cảm, hoa quả của chính nghĩa là trung tín và từ tâm, hoa quả của dũng cảm là nhẫn nhục và nhân hậu.
- Ơn kính sợ thì kết trái bình an.
Chúa Thánh Thần là nguyên nhân của mọi nhân đức, mọi ơn lành, chính những ơn lành và nhân đức ấy mà nhân loại –trong đó có bạn và tôi- ao ước được sống trong tình huynh đệ chân thành, ao ước được trở nên một con người có ích cho xã hội và cho Giáo Hội, và sâu xa hơn, trong tình yêu của Chúa Giê-su, bạn và tôi mong muốn được nên giống Ngài hơn, do đó mà bạn và tôi luôn để cầu xin Chúa Thánh Thần đến để hướng dẫn chúng ta thực hành những điều Chúa Giê-su đã dạy, để trở nên chứng nhân cho Ngài trong cuộc sống của mình.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta. ---------------------------------- http://www.vietcatholic.net/nhantai http://360.yahoo.com/jmtaiby jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. --------------------------------
Năm 1917 khi hiện ra với ba trẻ mục đồng ở Fatima, đức mẹ Maria đã hỏi ba em: các con có sẵn sàng sống hy sinh cầu nguyện cho người đau khổ, cho người tội lỗi không?
Câu hỏi hay lời kêu gọi của Đức Mẹ Fatima cho ba bạn trẻ Jacinta, Francisca và Lucia ẩn chứa nội dung của Bí tích Thêm sức: tiếp nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần sống làm nhân chứng cho Chúa trong tương quan với mọi người nơi cộng đồng xã hội và Giáo Hội.
Và đó cũng là lời của Chúa Giêsu nói với các Thánh Tông đồ: „Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất“ ( Cv 1,8).
Chúng ta, người Công giáo đã nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần qua Bí tích Rửa tội, bí tích Thêm sức, bí tích Giải tội, bí tích truyền chức Linh mục. Nhưng Đức Chúa Thánh Thần lại không có một hình dạng mắt có thể thấy, cùng tay chân có thể tiếp cận đụng chạm được.
Vậy đâu là những dấu chỉ nói diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần trong đời sống ?
1.Dòng Nước
Nước là chất lỏng không có hình dạng cùng không có mầu sắc nào nhất định. Nhưng lại cần thiết căn bản cho sự sống mọi loài phát triển cùng tồn tại. Cây cỏ, súc vật và con người hằng ngày đều cần phải uống nước. Nơi nào không có dòng nước chảy tới, nơi đó sự sống không nảy sinh lên được.
Nước là một trong bốn yếu tố căn bản bên cạnh lửa, đất và không khí, theo suy tư triết học về thiên văn từ thời thượng cổ, của hình thành cấu tạo vũ trụ trái đất.
Nước là hình ảnh dấu chỉ của sự sống. Trong Kinh Thánh thuật lại: „Thuở ban đầu, Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước“ ( St 1,2).
Trong Bí tích Rửa tội, người tín hữu Chúa Giêsu Kitô được rửa trong nước và trong Đức Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, đức tin chúng ta có nước Đức Chúa Thánh Thần là thức ăn nuôi dưỡng cho lớn lên trưởng thành.
2.Dầu Thánh Chrisam.
Trong Bí tích rửa tội, người lãnh nhận, sau khi đã tiếp nhận làn nước rửa tội, cũng được xức dầu Thánh Chrisam. Và ngày lãnh nhận Bí tích Thêm sức, khi đến tuổi thanh thiếu niên cũng lần nữa được xức Dầu Thánh Chrisam, như dấu ấn Đức Chúa Thánh Thần:„ Hãy nhận lấy Đức Chúa Thánh Thần „
Qua đó, tầm hồn được củng cố trở nên mạnh dạn sống tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, Đấng là sức mạnh. Và từ nền tảng đó, người tín hữu Chúa Kitô hăng hái tham gia tích cực vào công việc xây dựng đời sống Giáo Hội.
3.Ngọn Lửa
Bên cạnh nước, Đất, và không khí, lửa là một trong bốn yếu tố căn bốn thành hình của vũ trụ trái đất, theo như suy luận về thiên văn từ thời thượng cổ.
Lửa và nước là thái cực nghịch lại với nhau. Nước làm dập tắt lửa. Nhưng lửa lại đun nóng làm nước bốc thành hơi khói.
Lửa chiếu tỏa ánh sáng cùng hơi nóng nồng ấm. Lửa cũng là hình ảnh dấu chỉ nói về tình yêu mến, sự hăng say nồng nàn của tâm hồn con người.
Lửa cũng chẳng có hình dạng nào nhất định. Nhưng từ một ngọn đốm lửa nhỏ người ta có thể châm lan tỏa biến thành nhiều ngọn đốm lửa khác nữa.
Cũng vậy, với ơn Đức Chúa Thánh Thần cũng có thể làm phấn khởi gây lòng yêu mến hăng say nơi người khác được qua việc làm bác ái giúp đỡ nhau trong tình người.
4. Chiếc chong chóng quạt gió
Bây giờ hầu như khắp nơi đều thấy những chiếc chong chóng quạt gió khổng lồ dựng trên cánh đồng, nơi sườn đồi núi hoặc cả ở ngoài biển. Khi cánh qụat xuay chuyển làm cho môtơ chạy biến thành điện năng.
Hay có những em bé bạn trẻ cầm chơi những chiếc chong chóng quạt gió mầu sắc rực rõ nhỏ bé. Chúng chạy nhảy vui đùa thi nhau với cánh quạt xuay vần trong thiên nhiên rất đẹp thi vị.
Những chiếc chong chóng quạt gió dù to khổng lồ hay mầu sắc rực rỡ nhỏ của em bé chơi đùa cũng đều cần phải có gió mới họat động xuay quay tròn đều được.
Gió chuyển động gây ra không khí tươi mát cùng sức mạnh làm cho cánh quạt chong chóng xuay chuyển vận hành, cho cánh buồm ghe thuyền căng thẳng tạp ra sức mạnh đẩy thuyền ghe lướt đi trên mặt sóng nước.
Cũng tương tự như vậy, Đức Chúa Thánh Thần mang hiệu qủa mới trong đời sống Giáo Hội
như ngọn gió tươi mát thổi vào qua việc đổi mới canh tân đời sống phụng vụ cùng mục vụ, qua việc làm sống lại nếp sống đạo đức đã bỏ quên, nhất là việc nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm cùng đổi mới tâm hồn nếp sống nơi mỗi người.
5.Muối cho đời
Muối là chất mặn dùng để pha chế vào lương thực thức ăn cho đậm đà. Thử tượng kho cá, nấu canh, chiên đậu phộng hay khoai tây ( Pommes Frite) mà không có muối tra vào sẽ ra như thế nào, liệu có còn thưởng thức ăn ngon được không?
Muối pha rắc vào sẽ làm cho cá thịt không bị hư thối, muối cũng làm tan biến tuyết đá đông đặc trơn trượt.
Ơn Đức Chúa Thánh Thần cũng tương tự như chất muối mặn là chất xúc tác làm cho sức sống đức tin được dậy hương vị không bị ươn hèn hư thối, cho sự lạnh lẽo khô cứng đóng băng chán chường tan rã biến đi trong đời sống đạo đức với Chúa và giữa con người với nhau.
Chúa Giêsu hằng nhắn nhủ kêu gọi: „Anh em là muối cho đời“ ( Mt 5,13).
6. Miếng nam châm
Một miếng nam châm dù nhỏ bé thế nào cũng vẫn có hấp lực sức thu hút kim loại dính vào với nó. Vì nơi mỗi nơi miếng nam châm có ẩn chứa lực từ trường phát tỏa ra thu hút vật thể bằng kim loại khi gần sát nó. Và lực thu hút của nam châm chuyền tiếp từ vật kim loại này sang tiếp tới miếng kim loại khác.
Cũng tương tự như thế, với ơn Đức Chúa Thánh Thần như sức lực thu hút của miếng nam châm. Qua Ngài tâm hồn đời sống đức tin của chúng ta như bị thu hút hướng về sự tốt lành thánh thiện, điều chân thật mỹ miều. Và với ơn thu hút trợ giúp của Ngài, chúng ta cũng có thể thu hút gây lòng vui mừng phấn khởi người khác theo hướng về sự tốt lành thánh thiện.
7.Cánh cửa
Dù là một túp lều, cái chòi hay ngôi nhà lớn, cũng đều cần có cửa ra vào thông thương giữa phía bên ngoài và phía bên trong.
Cửa cũng là hình ảnh đời sống con người.
Con người có thể sống trong mối tương giao liên kết với người khác, có thể bắc nhịp cầu nối liền với xã hội; có thể đóng vai trò trung gian, góp phần vào việc thông tin giúp thông cảm hiểu biết, khi mở cánh cửa đời sống lòng mình ra bên ngoài.
Và con người cũng có thể chặn đứng gây chướng ngại vướng trở hay ẩn dấu cô lập mình lại, khi họ đóng cánh cửa đời sống lòng mình lại.
Mở cánh cửa tâm hồn đời sống ra là đón nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là sự sống trong thiên nhiên, là suy nghĩ cùng ý tưởng sáng tạo nơi mỗi con người, là phát triển vươn lên.
„Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.“ ( KH 3,20).
Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long --------------------------------
không ai có thể nói: "Đức Giêsu là Chúa" mà lại không do Thánh Thần.
Vậy có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng làm mọi sự trong mọi người. Sự xuất hiện của Thánh Thần được ban cho từng người, tuỳ theo lợi ích. Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần. (1 Cr 12, 3b-7. 12-13).
Tôi thiết tưởng những điều Thánh Phaolô nói trên khi ngài gởi thư đến cho tất cả anh em ở Côrintô, quả thực là quá đủ khi ngài nói về ân sủng của Chúa Thánh Thần. Khi Chúa Giêsu đã hoàn tất công trình Cứu Độ của Ngài trên trần gian, và phải về Trời đoàn tụ cùng Chúa Cha trên Thiên Quốc, Nơi mà Ngài đã hằng có từ muôn thuở muôn đời, Ngài đã vì thương yêu hết thảy nhân loại, nên đã xin cùng với Thiên Chúa Cha, cho Đấng Phù Trợ đến, để ở lại trong từng người một, từng ngày, cho đến tận thế. Chúa Thánh Thần được trao phó trách nhiệm mới là hướng dẫn, chỉ bảo, mạc khải, khuyên dụ, khuyến khích, ban thêm sức mạnh, ban thêm cho ơn trí tri, nói tiếng lạ, chữa bệnh, chịu đựng, và tất cả những ơn cần thiết khác, mà một người bình thường với khả năng khiêm nhường Chúa ban, sẽ có thể đạt được tất cả, nếu người ấy một lòng ao ước được sống liên kết và mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Vâng, tôi chỉ có thể làm chứng nhân cho Thiên Chúa những gì tôi nhận được từ nơi Chúa Thánh Thần, và Ngài tác động trên tôi như thế nào và ra làm sao!? Bởi ơn Chúa ban cho mỗi người mỗi khác, và tôi tin rằng, mỗi người đều có một sứ vụ riêng, trách nhiệm riêng, khả năng riêng, mà Chúa sẽ dùng chúng ta để làm cho Thiên Chúa Cha được nên vinh hiển muôn đời, trên tất cả con cái của Ngài. Vâng, chẳng phải chúng ta đã làm nên được tích sự gì cho Chúa đâu, bởi có phải tất cả chúng ta đều là những con người vô dụng, trước nhan Thánh Chúa!? Và có phải Chúa phải cần đến chúng ta thì Ngài mới thấy rằng Ngài là Đấng quyền năng!? Bởi có phải bao nhiêu lâu Chúa tác tạo nên chúng ta, Chúa vẫn luôn bảo bọc, thương yêu, dậy dỗ, và nuôi cho chúng ta miếng ăn, miếng uống, từ tâm hồn, đến thể xác, và tâm linh của chúng ta hay không?
Khả năng của chúng ta Chúa ban phát cho, cũng y như những nén bạc mà Chúa đã ban cho từng người chúng ta vậy! Tùy theo khả năng riêng cá biệt mà Ngài trao cho chúng ta, người thì 2 nén, người thì 5 nén, người thì 10 nén. Và có phải những ai Chúa trao cho nhiều nén bạc thì Chúa đòi hỏi huê lợi nhiều trên người ấy không? Nên sự khôn ngoan nhất là chúng ta hãy chấp nhận và chớ nên so sánh giữa ta với người. Hãy nghĩ rằng hạnh phúc là những gì Chúa ban cho, chứ không phải hạnh phúc là những gì chúng ta mong cho có, và phải trông đợi cho có giống như những người khác!? Giả dụ thôi nhé! Tôi biết tôi xinh đẹp hơn những người con gái khác thì cái lợi của tôi sẽ sinh hoa lợi gì trên cái đẹp của tôi? Cái xinh xắn duyên dáng mà Chúa ban cho tôi, tôi sẽ giúp ích gì cho anh chị em của tôi? Tôi sẽ làm được gì để đáp trả tình yêu của Chúa khi biết bao nhiêu bạn gái cùng trang lứa phải bỏ biết bao nhiêu tiền bạc để mới được giống một phần như tôi? Hoặc giả Chúa ban cho tôi có được nhan sắc của một cô gái chỉ trung bình, nhưng được cái hàm răng và nụ cười rất xinh xắn, và rất bắt mắt, mọi người chung quanh tôi. Tôi biết chứ, và tôi sẽ làm gì được cho Chúa hay cho tha nhân, những gì mà Chúa ban tặng cho tôi? Xinh xắn duyên dáng có phải là sự thuận lợi tốt đẹp nhất của người con gái, nhất là khi cô rao chào hàng, thì bảo đảm quán cơm của cô phải là đông nhất và ai ai cũng phải ghen!?? Hay có nhiều cô con gái hay than phiền rằng mình là phận gái chẳng những vô duyên mà trời lại còn bắt xấu, thì những cô con gái này, cả đời không làm gì lợi ích cho chính bản thân mình, gia đình, xã hội, hay tổ quốc, mà vùi đầu vào gối, khóc lóc tối ngày, rồi giam mình vào trong bốn bức tường, không làm ăn gì hay sao!? Trong khi Thiên Chúa ban cho cô mọi sự khôn ngoan trên đời mà cô có thể đem lại cho cô một mái ấm gia đình và là hoa quả tốt đẹp giúp đồng loại và làm đẹp nòi giống của cô!?
Còn những chàng thanh niên trai trẻ thì sao!? Có phải tình cảnh gia đình của mỗi người mỗi khác!? Đàn ông con trai đâu có phải ganh đua lẫn nhau ở cái đẹp bề ngoài phải không thưa quý anh chị em? Quả đàn ông ở trong thời buổi nào cũng được quý trọng thưa là vì sao? Hầu như ở cái thời nào thì chúng ta cũng thấy cái cảnh âm thịnh mà dương suy cả! Bởi đàn ông thời xưa thì luôn luôn tới tuổi thì bắt đi quân dịch. Số lính ra đi thì nhiều, nhưng số trở về thì chẳng là bao nhiêu!? Rồi thì một số bỏ đi qua nước ngoài sinh sống và đã lấy người ngoại quốc, cho nên số đàn ông trong nước lại thiếu kém. Chưa kể một số nam nhi đã đi theo tiếng gọi của Chúa. Một số không chịu lấy vợ vì nhiều lý do. ... nhất là trong thời buổi sống cuộc sống rất tự do của ngày nay. Và đặc biệt nhất là ở trung quốc và hàn quốc hiện nay là trai thừa mà gái thiếu, nên cũng cho chúng ta những mẩu chuyện thật là thương tâm trên vấn đề buôn bán gái một cách lộ liễu trên đất nước VN, vì nghèo mà mang tấm thân ngà ngọc làm món hàng cho thiên hạ nước ngoài họ mua với giá thật rẻ mạt.
Sở dĩ tôi đi vòng vo tứ hướng là vì dù sao đi chăng nữa! Chẳng phải chúng ta tự trong người mà sinh ra những bản ngã xấu cả đâu! Nhưng âu cũng là do hoàn cảnh sống của mỗi người và vì tìm sự sống quá khó khăn trong từng ngày một, đã vô tình biến đổi chúng ta trở nên xấu, và đã trở nên hư hỏng. Lỗi không phải tại ở cái gốc của chúng ta đâu! Bởi Thiên Chúa đều thương yêu chúng ta như nhau, nên Thiên Chúa Cha mới tạo dựng chúng ta nên giống hình ảnh của Ngài. Nhưng thực sự có ai trong chúng ta có thời giờ để chất vấn mình rằng Chúa sinh ra mình trên trần gian này để làm gì không, thưa anh chị em???? Anh chị em có bao giờ nghĩ rằng, Chúa tạo ra mình đặt để cho sống cả một cuộc đời khốn khổ không cha không mẹ từ tấm bé, lớn lên thất bại rất là nhiều lần trên con đường đi tìm tình yêu!? Thất bại liên miên trong vấn đề công ăn việc làm, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn trong công việc nào mà mình đã làm cả! Có vợ thì vợ chê vợ bỏ. Có con thì chúng hỗn láo xấc xược không vâng lời. Nợ nần thì chồng chất ngổn ngang. Học hành thì không có gì là đáng kể từ thuở bé cho đến giờ, cho nên tìm việc làm quả là khó khăn và khổ sở. Ấy vậy! Ai trong chúng ta có bao giờ để ý rằng, người nghèo ít có thấy ai lại đi kết liễu cuộc đời mình, mà chỉ là những anh chị lắm tiền nhiều của không biết làm gì hữu ích cho cuộc đời của mình hay không?
Tôi nghiệm thấy rằng, suốt quãng thời gian từ khi tôi còn rất bé cho đến nay, vâng tất cả những gì tôi từng trải qua, đã tạo cho con người của tôi những thất vọng ê chề, những mong ước chỉ là mong ước, những buồn phiền chất chứa như núi cao, những than thân trách phận không giúp tôi được gì!? Và cuộc sống từng ngày trải qua thật nhạt nhẽo như nước ốc, nhưng không gì khác hơn là biết nhạt nhẽo nhưng vẫn phải húp cho qua ngày đoạn tháng. ... cho đến khi. Vô tình tôi đã được gia nhập vào nhóm Canh Tân Đặc Sủng của hai ông bà bác sĩ mà trước đây tôi đã làm việc cho họ. Chúa Thánh Linh đã xuống trên tôi, và tôi đã khóc một trận như mưa lũ, và hình như đây là dấu hiệu mà bất cứ ai được ơn Chúa Thánh Linh thì phải. Cái khóc thay cho sự tha thứ của Chúa như gội rửa bao nhiêu tội nhơ, bất luận tội lỗi đến đâu. Sau khi đó, tôi vẫn tiếp tục theo hai ông bà đọc kinh mỗi tối thứ sáu và tìm hiểu Phúc Âm của Chúa.
Kế đến, tôi đã phải rất ngạc nhiên vì Chúa Thánh Linh đã đến trong tôi và cho tôi nhiều hứng khởi để làm nhạc, tuy dù tôi đã chẳng biết tí ti gì về âm nhạc. Tôi chẳng biết nốt nhạc là gì, trừ những lời lẽ Chúa Thánh Linh đã giúp tôi, và tôi đã dùng máy cassett để thâu âm điệu lên xuống ra sao mà thôi! Những bài hát Ngài ban tặng cho tôi đến hôm nay tôi mới có cơ hội để thực hiện, vì tôi tin rằng điều gì Chúa muốn, thì Chúa sẽ làm, tôi thật tình không ao ước gì hơn là để Danh Chúa được tôn vinh và Ca Ngợi. Trước đây tôi cũng rất ao ước phải chăng mình được thực hành ít nhất một cái CD nhỉ!? Nhưng nào tôi có tiền, nay mọi thứ tôi đều hiểu rằng việc của Chúa, thì Chúa sẽ có cách và tôi chẳng tốn một xu. Nhạc thì Chúa ban cho con gái của tôi, tuy cháu học ít, nhưng Chúa lại ban cho cháu cái tài riêng, nên bây giờ thì hai mẹ con, tha hồ mang những bản nhạc của Chúa lên “YouTube”. Song song với những bài hát Chúa ban tặng riêng cho tôi là những bài viết tôi đã được các Trang Web lớn đăng dùm cho tôi, quả tình không gì sung sướng cho tôi bằng tôi đã có dịp mà cảm Tạ ơn Thiên Chúa ban thật nhiều cho tôi và gia đình.
Để nhận được nhiều hồng ân và ơn của Chúa, chỉ qua tôi dành nhiều thời giờ cho Chúa tôi, nhất cử nhất động, tôi đều chạy đến Ngài như Người Cha, Người Anh, và Người Bạn. Tôi tâm sự cùng Ngài; Tôi than thở cùng Ngài; và sau cùng tôi dâng lên tất cả mọi khó khăn và thử thách của tôi trong tay quan phòng của Ngài. Thế là tôi có tất cả! Thế là tôi có được hạnh phúc và sự bình an của Ngài! Thế là tôi cứ bình chân như vại tuy dù bao nhiêu sóng gió, phong ba, bão táp, có làm con thuyền gia đình của chúng tôi chòng chành, chóng vánh, trồi lên, lượn xuống, có đôi khi tôi cứ ngỡ rằng con thuyền nó sẽ chìm, nhưng không. .. bởi vì sự bám chặt vào Chúa, mà gia đình chúng tôi luôn luôn được Chúa che chở và đỡ nâng. À tiện tôi cũng muốn chia sẻ cùng anh chị em, là tất cả bài viết của tôi, không bài nào mà tự tôi có thể viết được cả! Mà là nhờ ơn Chúa Thánh Linh đã giúp tôi, vì tôi chỉ là cây viết vô dụng của Ngài không hơn không kém.
Lậy Chúa Thánh Thần! Cảm tạ Ngài đã giúp cho chúng con có cơ hội để tán tụng Ngài và vinh danh Ngài, vì không có Ngài chúng con chỉ là những con người vô dụng. Lậy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến. ..... trên tất cả chúng con. Xin cho chúng con luôn được ở trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta đã quên đi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Đôi khi ta có cảm giác như Ngài không còn hiện diện nữa thì phải. Nếu như chúng ta đánh mất đi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời, quả thật đó là điều đáng tiếc trong cuộc đời của mỗi người chúng ta
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Chúa Giêsu, sau khi Ngài lên Trời, trở về cùng Cha là Đấng đã sai Ngài xuống trong trần gian này Ngài đã không để chúng ta mồ côi. Bằng chứng cụ thể trong Tin mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa được nghe đấy, Chúa Giêsu đã hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Phải nói rằng Chúa Giêsu quá tinh tế, quá lo lắng cho con cái của mình. Chúa Giêsu hiểu con cái của mình, may mà có Thầy ở bên mà nhiều khi con yếu tin huống chi là khi Chúa ra đi. Biết các môn đệ sẽ bị hụt hẫng, sẽ bơ vơ và nhất là quên các lời của mình dạy nên Chúa đã lo lắng hết sức mình là xin cùng Cha để Ngài gửi Thánh Thần xuống.
Thật sự, không phải Thánh Thần chỉ mới xuất hiện sau khi Chúa Giêsu về Trời nhưng Chúa Thánh Thần đã xuất hiện từ ngày tạo thiên lập địa.
Chúa Thánh Thần trong Cựu Ước:
. Thánh Thần tích cực lôi kéo vũ trụ ra khỏi tình trạng hỗn mang lúc ban đầu. "Đất trời trông không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang, và Thần Khí là là trên mặt nước" (St 1, 2).
. Thánh Thần trong mầu nhiệm tạo dựng con người. Thánh Thần là Đấng ban sự sống thể lý cho con người: "Chính hơi thở của Thiên Chúa đã làm ra tôi, khí Shadday đã cho tôi sự sống" (G 33, 4).
. Thánh Thần phục sinh kẻ chết về thể lý cũng như tinh thần. Người phục hồi sự sống cho những bộ xương khô, biểu tượng của sự chết: "Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ được sống" (Ed 37, l4).
. Thánh Thần, Đấng bảo tồn toàn thể sự sống trên trái đất. Khi Giavê Thiên Chúa rút hơi thở Người lại, thì không tạo vật nào còn sống: "Nếu Người chỉ nghĩ đến Người, nếu Người rút về làn khí hơi thở của Người, thì mọi xác phàm sẽ chết cùng một lúc, và con người sẽ trở về với cát bụi" (G 34, 14-15)
Chúa Thánh Thần trong các Tin mừng:
Thánh Thần và biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu
Có hai điều nổi bật trong các bài tường thuật biến cố Nhập Thể của Đức Kitô:
- Các Tin Mừng Nhất Lãm, đặc biệt là Matthêu và Luca khẳng định Đức Maria là một Trinh Nữ, khi thiên thần truyền tin. Matthêu ứng dụng cho Maria sấm ngôn của Is 7, 14 (bản LXX) về một mgười nữ sẽ sinh con được đặt tên là Emmanuel.
- Cả Matthêu lẫn Luca đều nhấn mạnh tác động siêu nhiên của Thánh Thần trong lúc Đức Maria chịu thai Đức Giêsu:
"Xảy ra là Bà dã có thai do tự Thánh Thần" (Mt 1, 18. 21).
"Thánh Thần sẽ đến trên người và quyền năng Đấng Tối Cao trên người rợp bóng" (Lc 1, 35).
Luca: Tác động của Thánh Thần rộng rãi hơn.
Các tác động của Thánh Thần nơi Đức Kitô
Đức Kitô được xức dầu Thánh Thần khi chịu phép rửa.
Cả bốn Phúc Âm đều nói tới sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa và đều mô tả sự kiện ấy như một biến cố đặc biệt mở đầu thời gian rao giảng của Đức Kitô (Mt 3, 1)
Biến cố Đức Giêsu chịu phép rứa có giá trị mạc khải sứ vụ và chân tính của Ngài. Trong biến cố ấy, Thánh Thần đáp xuống và lưu lại nơi Đức Giêsu, Người làm chứng cho sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu là sứ vụ thanh tẩy trong Thánh Thần. Thánh Thần không thể đến trên Đức Giêsu cách nhất thời nhưng lưu lại trong Ngài, và vì thế tất cả sứ vụ của Ngài đếu thể hiện trong quyền năng của Thánh Thần. Thánh Thần và việc Đức Giêsu chịu cám dỗ.
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ, và khẳng định Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách (Lc 4, 1)
Satan tìm cách lung lạc tinh thần Đức Giêsu, mong Ngài thay đổi quan điểm về sứ vụ. Nhưng Đức Giêsu vẫn giữ vững tinh thần và lập trường, vì Ngài được đầy Thần Khí (trong biến cố phép rửa).
Thánh Thần và dấu lạ Đức Kitô thực hiện.
Tin mừng Luca ứng dụng sấm ngôn Messia của Is 61, 1-2 cho sứ vụ của Đức Giêsu (4,18-22). Tất cả các việc làm, đặc biệt là những phép lạ, đều là dấu chỉ sứ mạng Thiên Sai của Ngài.
Nhờ Thần Khí mà Ngài làm những điềm thiêng dấu lạ: chữa bệnh tật, xua trừ ma quỷ, cho kẻ chết sống lại (x. Mt 11, 5)
Và đó là bằng chứng Nước Thiên Chúa đang đến (Mt 12, 28; Lc 11, 20. ..).
Thánh Thần và cái chết của Đức Giêsu Kitô.
Cuộc chiến khốc liệt nhất mà Đức Giêsu phải đương đầu chống lại Satan, đầu mục của thế gian, là cuộc Khổ Nạn và cái chết bi thảm của Ngài. Danh tánh của Thánh Thần không được minh nhiên đề cập đến trong các bài tường thuật cuộc Khổ Nạn, nhưng hoạt động của Thánh Thần vẫn tiềm tàng và mạnh mẽ nơi Đức Giêsu, trong những giờ phút cam go nhất như trong vườn Cây Dầu và trên thập giá. Chính nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần mà Đức Kitô hiến thân làm của lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa, như Chiên Con "hiến tế" để xoá tội trần gian (Dt 9, 14).
Thánh Thần và sự phục sinh của Đức Kitô.
Rất nhiều đoạn trong các thư khẳng định Đức Kitô sống lại từ trong cõi chết nhờ tác động của Thánh Thần. Phục sinh là chứng từ vững chắc nhất về sứ vụ và chân tính của Đức Giêsu Kitô. Thánh Thần, vì thông phần vào sự phục sinh thân xác Đức Giêsu, cũng là tác giả của chứng từ Phục Sinh.
Phaolô minh nhiên gán sự phục sinh Đức Giêsu Kitô cho tác động của Thánh Thần: "...được đặt làm Con Thiên Chúa quyền năng, theo Thánh Khí, do tự phục sinh từ cõi chết, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Rm 1, 4).
Thư Phêrô cũng rõ ràng không kém: "Người đã bị giết chết về xác thịt, nhưng đã được tác sinh về Thần Khí" (1Pr 3, 18). Tóm lại, cả cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu đều diễn tiến trong Thánh Thần; Thánh Thần làm chứng về Ngài và loan báo mầu nhiệm của Ngài.
Nhìn lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy tác động, ảnh hưởng của Thánh Thần trên Giáo hội sơ khai là gì.
Khi Chúa Giêsu chịu chết, các ông nhát đảm và đã tỏa đi muôn phương vì mất định hướng, mất đi Lẽ Sống của mình. Khi Chúa Giêsu sống lại, lòng của các ông cũng tin đó nhưng cũng chưa vững lắm. Chỉ khi Chúa Thánh Thần đến và ngụ trên các ông, lòng tin của các ông khác hẳn.
Qua sách Công vụ tông đồ chúng ta thấy đó, đến ngày lễ Ngũ Tuần, khi mọi người đang tề tựu cầu nguyện như mọi lần thì Thánh Thần đến và tuôn đổ muôn ơn trên các ông và rồi họ nói các thứ tiếng tùy theo khả năng mà Thánh Thần ban cho.
Thế đấy ! Từ khai sơ của Giáo Hội, Thánh Thần đến và ban cho mỗi người một ơn riêng tùy khả năng của mình.
Ngày nay cũng vậy, Chúa Thánh Thần đã đến và ban cho mỗi kitô chúng ta qua sự đặt tay và cầu nguyện của linh mục chủ sự trong bí tích Thanh Tẩy, qua sự đặt tay và cầu nguyện nhất là xức dầu Thánh từ tay Giám mục trong bí tích Thêm Sức. Chúa Thánh Thần đã xuống muôn ơn lành trên mỗi người chúng ta nhưng chúng ta đã không nhận ra và có thể chúng ta đã nhận ra nhưng chúng ta chôn vùi, chúng ta dập tắt ơn của Thần Khí đang hoạt động trong ta.
Nếu chúng ta mở lòng ra để đón nhận Thần Khí của Chúa, tức khắc hoa quả của Thần Khí sẽ đến và ở lại trong tâm hồn, trong cuộc đời của ta ngay. Nhìn vào một người, ta có thể nhận ra là người ấy có hoa quả của Thần Khí không ? nếu có, chúng ta sẽ nhận ra nơi người ấy sống theo Thần Khí. Hoa quả của Thần Khí trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galat chúng ta vừa nghe rất rõ ràng. Hoa quả ấy là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Và ngược lại, nếu không có Thần Khí thì người ấy sẽ hướng về những ước muốn của xác thịt. Nếu hướng theo xác thịt thì sẽ gây ra những tính xác thịt là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thồ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần, nguồn mạch của tình yêu, nguồn mạch của bình an, hoan lạc, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâp, trung tín, hiền hòa, tiết độ đến và ở lại trong tâm hồn mỗi người chúng ta để sau khi cùng nhau cử hành Thánh Lễ Hiện Xuống này, mỗi người chúng ta sẽ được biến đổi để khi chúng ta trở về với môi trường sống của chúng ta, hoa quả của Thần Khí sẽ tỏa lan trên mọi người chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc.
Khi đến giảng cho dân chúng tại Êphêsô, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Anh chị em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa?” Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều ngạc nhiên, nhìn nhau không hiểu gì hết. “Thánh Thần là gì? Thánh Thần là ai? Chúng tôi chưa hề nghe thấy ai nói đến nhân vật xa lạ đó, phương chi là đã lãnh nhận hay không”. Đó là câu trả lời của những người ở Êphêsô khi nghe thánh Phaolô hỏi họ về Chúa Thánh Thần.
***
Bạn thân mến!
Trong tiếng Hípri, người ta dùng cùng một chữ để diễn tả “gió”, “hơi thở” và “thần khí”. Cũng như người ta không thể nhìn thấy gió mà chỉ thấy hậu quả của nó. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ được nhận ra nơi những người được tác động và làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa.
Hơi thở thì gắn bó chặt chẽ với sự sống; hơi thở là dấu chỉ của sự sống. Với phương pháo cấp cứu miệng qua miệng, chúng ta có thể đem lại sự sống cho một người mà phổi đã ngưng hoạt động, nhờ hơi thở ta.
Trong sách Sáng Thế, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam và ông trở nên sống động. Khi Thiên Chúa chọn những người để thi hành các sứ vụ đặc biệt, chẳng hạn như ông Samson, vua Saun, vua Đavid và những người khác nữa, thì “thần khí của Thiên Chúa” cũng được ban cho họ. “Thần khí của Thiên Chúa” được xem như nguồn mạch của sự sống và của mọi thành tựu lớn lao của dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.
Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Đó là dấu chỉ ngoài sự sống thể lý, họ còn lãnh nhận một sức sống thiêng liêng và họ được sai đi thi hành một sứ vụ lớn lao. Mọi sự đều biến đổi trong cuộc sống của họ. Sự sợ hãi đổi thành vui mừng và can đảm; sự dữ của tội lỗi bị đánh bại bởi quyền năng của ơn tha thứ. Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt. Chúng ta được tái sinh và được tuyển chọn để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nghe có vẻ rất tốt đẹp, nhưng chúng ta có cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Thánh Thần trong chúng ta không?
Thực ra, Chúa Thánh Thần không phải là vấn đề của cảm xúc, nhưng là việc chúng ta có mở lòng ra để Thần Khí của Thiên Chúa tràn vào cuộc sống của mình. Đó là việc chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi kế hoạch, mọi ý riêng, và không tự mình hướng dẫn mình nhưng để cho Thần Khí dẫn dắt chúng ta. Dĩ nhiên, đây là một cuộc mạo hiểm nhưng là một cuộc mạo hiểm đem lại sự giải thoát. Một khi để cho Thần Khí của Thiên Chúa ban sự sống, tăng cường sức mạnh, như chúng ta đã nhìn thấy nơi cuộc đời của các thánh tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, thì cuộc sống của họ liền được biến đổi hoàn toàn. Tại sao không để cho Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn bạn, sử dụng quyền năng của Người mà biến đổi toàn diện cuộc đời của bạn?
***
Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và cuộc đời của các ngài đã được biến đổi hoàn toàn. Giờ đây, xin Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên con để giúp con vượt thắng mọi trở ngại mà trở nên một môn đệ can đảm của Chúa giữa trần gian này, Amen.
Tổng hợp từ R. Veritas --------------------------------
Bấy giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa tỏa ra, đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được tràn đầy Thánh Linh. Qua vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh ngọn gió.
Hậu quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét sạch bụi bặm và rác rưởi. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bởi Thần Khí cũng thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này, gió thổi chỗ khác. Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những luật lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực sẽ vượt qua mọi thúc ép bên ngoài. Và khi tình yêu cao cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài, những nghi lễ của Môisen, những quan niệm hẹp hòi của bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như một ngọn gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm cho trong sạch và dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô nhiễm. Cùng với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một con người mới được sinh ra với một lý tưởng mới và những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu đó là thế giới Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Như một bức tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được sức mạnh của cơn gió xoáy.
Giáo hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đường và chinh phục thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng có Chúa Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào, không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Trong thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Biết bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng thế và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần chúng ta hoài nghi vì thiện chí của chúng ta bị coi thường và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ không bao giờ thất vọng. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Đừng làm buồn lòng Chúa Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài. Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế nào là dập tắt ngọn lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại những hành động hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy, để chúng ta chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ, còn tâm hồn chúng ta là cây đàn. Nếu chúng ta để cho Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những khúc nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là như một con đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua bóng tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót. Ngoài ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một ngày hội lớn, một ngày khải hoàn chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.
Ngọn gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu: trong giờ kinh nguyện, trên đường phố, bên giường bệnh nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ truyền sang cho tôi. Và thật là diễm phúc, nếu tôi biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, bởi vì tôi sẽ được Ngài hướng dẫn và ủi an.