“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. - Ðó là lời Chúa.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. - Ðó là lời Chúa.
Chắc có lẽ, Chúng ta không quên cái câu thơ của Hàn Mặc Tử, một cái câu thơ diễn tả cái sự LênTrời ABC-301
Chắc có lẽ, Chúng ta không quên cái câu thơ của Hàn Mặc Tử, một cái câu thơ diễn tả cái sự chia ly của cuộc đời, sự diễn tả tình cảm của một con người khi chia cắt nhau: Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn kia hóa dại khờ.
Và quả thật trong cái thân phận làm người, con người làm sao mà tránh khỏi những dòng lệ, làm sao tránh khỏi sự đau đớn khi phải chia cách người thân của mình, người thương của mình.
Chúng ta cứ ra ngoài sân bay thì chúng ta thấy, bây giờ thì đỡ rồi. Bởi vì, phương tiện đi đi về về nó không như ngày xưa! chứ như ngày xưa, mỗi lần mà ra sân bay, sục sùi nước mắt. Chỉ là đi định cư thôi, và cũng có thể chỉ là đi du học thôi, vài năm rồi về, nhưng mà ướt đẫm cả sân bay. Bởi vì cảm thấy, một cái niềm nhớ, một cái niềm thương với cái người thương của mình biết bao giờ gặp lại.
Và tâm trạng đó ít nhiều gì chúng ta được chứng kiến đặc biệt nơi các nghi thức nhập quan: BỐ ơi bố! sao bố bỏ con. Từ nay không được nghe tiếng bố nữa! bố không còn dạy con nữa! Con không còn nghe tiếng la của bố, tiếng thương của bố, tiếng nói của bố nữa! Mẹ ơi mẹ, ngày hôm nay con không còn thấy mẹ nữa! Và khóc... quan tài đậy lại những dòng lệ cứ trào dâng.
Và ngày hôm nay chúng ta bắt gặp cái tâm trạng đó nơi các môn đệ: “Hỡi người Xứ Galilê, sao còn đứng đó làm chi? vì Chúa đã được đưa lên trời trước mắt các ông.” Những người Galilê cảm thấy nuối tiếc, cảm thấy vết thương khi tiễn đưa CHÚA về trời và đó là điều hiển nhiên. Nhưng mà chuyện quan trọng rằng: các Môn Đệ có nhận ra những gì mà thầy đã nói khi mà thầy còn sống không?
“Thầy bởi Cha mà ra, bây giờ thầy trở về cùng Cha. Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở. Chúa Giêsu trở về với cái cội nguồn của Ngài. Bởi vì vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã bằng lòng đến trong trần gian này, đã sống kiếp người ngoại trừ tội lỗi, để nói với trần gian này: Thiên Chúa yêu thương con người.
Và xong cái nhiệm vụ của mình Chúa Giêsu lại về trời, để rồi Chúa Giêsu dọn chỗ cho những người tin theo Ngài, những ai tin Ngài: “Lạy Cha những gì Cha đã ban cho con. Con muốn rằng con ở đâu thì kẻ đó cũng ở đó với con người”
Kitô Hữu của chúng ta, dẫu rằng sống trong Trần Gian này, nhưng quê hương của chúng ta đích thực ở trên trời. Và trần gian này chỉ là cõi tạm thôi! mạnh giỏi chăng là được 80, phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ.
Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi! “Lạy Chúa xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống để hầu tâm trí được khôn ngoan.”
Và người Kitô Hữu chúng ta cần có cái sự khôn ngoan kinh khủng lắm, khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa chứ không phải là khôn ngoan theo kiểu của người đời.
Khôn ngoan theo kiểu người đời: người ta hì hà, hì hục, người ta cố gắng, nhưng mà trong thực tế cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta có như người ta vun vén, người ta xây đắp cho người ta một cái quê hương ở trần gian này.
Và tưởng chừng cái quê hương đó không bao giờ hư mất và tưởng chừng họ lột da sống đời để ở lại trần gian này. Nhưng mà trong thực tế cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta thấy, dù giàu, dù nghèo, dù sang hay hèn không ai có thể lột da sống đời cả. Và trần gian này chỉ là cõi tạm. Đích đến và cùng đích của cuộc đời chúng ta đó là gì? quê hương của chúng ta đó là: “quê hương của chúng ta là trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa.” như Thánh Phaolô nói.
Và rồi, chúng ta liệu liệu chúng ta sống như thế nào để chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta. Và đặc biệt, dù sống trong cuộc lữ hành trần gian này, nhưng lòng chúng ta được mời hướng về quê hương trên trời. Nước trời đã được ví như tiệc cưới, nơi đó Thiên Chúa đã mời gọi và Thiên Chúa khoản đãi tất cả mọi người không trừ một ai. Không trừ một người dân tộc nào, không trừ ngôn ngữ nào, không trừ thành phần nào cả.
Và chuyện quan trọng là mặc cho mình chiếc áo cưới và đúng chiếc áo cưới đó thì sẽ được dự vào Nước Trời.
Cái áo cưới đó là gì? Cái áo cưới đó là: lòng từ bi nhân hậu, nhẫn nại chịu đựng, và tha thứ cho nhau. Cái áo cưới đó là: cái áo cưới của tình yêu thương đồng loại. Những người đi vào Nước Trời nếu mà không mặc cái áo cưới yêu thương, không khoác cho mình cái áo của lòng từ bi CHÚA thì chắc chắn sẽ bị đuổi ra ngoài thôi!
Cũng như trong trang Tin Mừng của Ngày Cánh Chung: Ngày ấy THIÊN CHÚA tách riêng ra giữa hai đám người, bên phải là chiên, bên trái là dê. Ngày ấy CHÚA hỏi rằng: Ngày xưa, TA đói các ngươi cho TA ăn, Ta khát các ngươi cho TA uống. Những người đã làm như thế sẽ được đứng bên phải, và được vào hưởng Nước Trời nơi đoàn chiên của Chúa. Còn những người mà Ngày xưa khi TA đói các ngươi không cho TA ăn. TA khát các ngươi không cho TA uống, lại được liệt vào hàng dê, để bị đem đi hủy diệt và chịu lửa đời đời.
Và thế đấy, chúng ta được mời gọi sống Lòng từ bi chúng ta hướng về trời. để ngày hôm nay ngày đang còn sống trong trần gian này chúng ta nhớ những người quản lý bất lương khôn ngoan CHÚA nói chúng ta phải biết tính toán bị lỗi khi chúng ta bị đuổi việc làm đó là khi mà chúng ta về nhà Chúa.
Chúng ta mang theo gì chúng ta? Hành trang của chúng ta mang theo gì? Hành trang của chúng ta mang theo hận thù, hay hành trang của chúng ta mang theo lòng yêu thương, lòng bác ái, lòng vị tha của Chúa.
Có những người tưởng chừng rằng là mình lột da sống đời và cứ mãi mãi nghĩ rằng mình ở trên đó cái quyền lực đó. Mình sát hại anh chị em đồng loại của mình bằng mọi cách.
Và mình nghĩ rằng là mình có tiền, mình có thể mua được cái này cái kia ở trần gian. Có thể mua được chức, có thể mua được quyền để hạ đạp người khác. Và có những người cứ nghĩ rằng mình mãi mãi, mãi mãi là mình, và quê hương của mình ở trần gian. Để rồi cứ phải vun vén và đánh mất đi tình nghĩa.
Và thực tế trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta thấy: có nhiều gia đình bi thương lắm! Chỉ vì vài đồng bạc thôi, chỉ vì một vài tấc đất thôi, mà người ta lại cấu xé nhau, người ta chà đạp nhau và người ta đã đánh mất đi cái tình yêu thương. Thì nói tới đây con lại nhớ đến câu chuyện rất là tuyệt vời!
Có một cái vị địa chủ kia, bán đất cho một cái người đàn ông. Người địa chủ bảo rằng: từ sáng cho tới chiều, tôi bán cho ông miếng đất đó 10₫ bạc, miễn làm sao, ông đi từ sáng cho đến lúc mặt trời lặn, ông cứ đi đi! tới đâu, đó là ranh giới của miếng đất mà ông sẽ được hưởng với giá 10₫.
Thế là cái người đàn ông đó hí ha, hí hửng chạy về nhà suy nghĩ một đêm tính ra bây giờ ngày mai mình phải đi như thế nào đó thật nhanh, thật xa, để đất đai của mình được nhiều.
Thế là ông mua 2 ổ bánh mì, kèm theo 2 chai nước. Ông đi và ông đi, ông đi vội vả đến độ nghỉ trưa mệt nhòa. Ông nghĩ rằng: Nếu bây giờ mình nằm ngủ, mình nghỉ trưa thì mình sẽ bị thiệt thòi mất đi những mét đất mà ông chủ bán.
Thế là với 2 ổ bánh mì và 2 chai nước, ông đã ăn và đã vội vàng đi và đi, đi mãi cho đến lúc chiều tà, đến lúc không còn ánh nắng nữa, thì phần đất mà ông chủ hứa đã dành cho ông như đã hứa.
Thế nhưng rồi, tiếc thay với những cái cơn nắng nóng, cơn khát và sức khỏe giới hạn ông đã kiệt sức và không còn sống được nữa, tới khi người ta phát hiện ra ông, ông đã chết. Người ta đào lỗ chôn cho ông với vừa đủ cái thân hình nhỏ bé của ông.
Thế đấy, một cái câu chuyện có thể gọi là câu chuyện tưởng tượng thôi! Nhưng mà nhắc nhớ với mỗi người chúng ta: quê hương của chúng ta không phải ở trần gian, để chúng ta tìm kiếm.
Thứ hai thì ngắm: Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho Ái Mộ những sự trên Trời.
Dẫu rằng, chúng ta còn sống trong trần gian này chúng ta phải nặng gánh với cơm áo gạo tiền. Điều đó không ai phủ nhận cả, nhưng chúng ta phải biết quê hương của chúng ta ở đâu? để lòng chúng ta ở đâu thì kho tàng của chúng ta ở đó và Quê Hương của chúng ta ở đó.
Càng cho đi, càng thấy mình hạnh phúc và bình an, càng cho đi, mình càng cảm thấy con người mình nó nhẹ nhàng. Ví dụ như trong một căn phòng của một người nào đó khi chết, càng nhiều đồ thì người ta dọn dẹp càng nhiều. Và rồi khi nhập quan liệm chỉ có được vài bao trà, vài bộ quần áo đem theo thôi! Tất cả đều để lại cho người khác hưởng dùng.
Ấy vậy mà người ta càng trang bị, càng níu kéo. Chúng ta thấy một con diều nó càng vươn cánh bay xa, mà con diều nó nặng nề thì nó không thể nào lên trên cao được bay cao được.
Quê hương của chúng ta ở trên trời, để rồi tất cả những gì mà chúng ta hưởng dùng, chúng ta mua dùng đó, liệu liệu chúng ta dùng! Có những bộ đồ ba năm trời không mặc tới, nhưng nó vẫn còn nằm yên trong kẹt tủ; cho thì tiếc, để thì tội và lúc nào cũng vun vén, vun vén mãi.
Chúng ta nhìn thấy ông già bà lão dễ thương trong những viện dưỡng lão, nhất là các nhà hưu dưỡng. Chúng ta thấy một thời vang bóng có thể là bà này, bà kia, chị phụ trách...chị tổng phụ trách, bề trên nhưng tới khi về tới nhà hưu chỉ còn có một cái gối, một cái giường và một tấm ra thôi! Kế bên đó là bình Oxy mỗi người chúng ta ai cái mà chúng ta phải đối diện với chiếc xe lăn và có thể hành trang của mỗi người chúng ta cuối đời ở với chúng ta là cái bình Oxy và xe lăn.
Chúng ta liệu, chúng ta sống như thế nào đó, cho chúng ta nhẹ nhàng với tất cả những vật chất, với tất cả những gì chúng ta bám víu. Lòng chúng ta nhẹ nhàng, lòng chúng ta càng cất cánh lên cao cùng Chúa, lòng chúng ta không còn vướng bận vào Trần Gian.
Chúng ta thấy mà những người mà mê của cải trần gian khi ra đi họ cảm thấy ấm ức họ cảm thấy tiếc nuối, vì tất cả những gì mà mình vun vén để cho người khác xài. Còn một tâm hồn bình an thanh thản họ cảm thấy rất nhẹ nhàng khi ra đi. Bởi vì họ tín thác vào trong bàn tay của Chúa. Và họ xác tín rằng đây chỉ là cõi tạm, cõi thực mới là cung lòng của Chúa. Sống làm sao để có một chỗ trong cung lòng của Chúa. Sống làm sao để có một chỗ trên thiên đàng mới là chuyện quan trọng. Thì nói tới đây, con lại nhớ đến một cái câu chuyện:
Có một cái người dự lễ tại tâm tức là đi lễ ở nhà, không đến nhà thờ cô ta mới lý luận rằng là ước ao chết thì được lên ở một góc Thiên Đàng thôi thử hỏi coi ở trần gian này cô không bao giờ bước chân tới nhà thờ thì làm gì mà có một chỗ ở trên thiên đàng cho cô.
Ngày hôm nay ở trần gian này, chúng ta không thu xếp thời gian để đến với Chúa, thì làm gì có cơ hội ở với Chúa trên thiên đàng. Xin chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để chúng ta hướng lòng về Chúa.
Ngày hôm nay, ngày mừng lễ CHÚA lên trời, để mỗi người chúng ta trong thân phận làm người chúng ta cảm thấy nuối tiếc, chúng ta cảm thấy buồn phiền khi xa cách CHÚA nhưng trong một cung cách nào đó, Chúa lại gần chúng ta hơn. Chúa ở khắp mọi nơi, CHÚA ở hiện diện trong lòng chúng ta để Chúa đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn luôn chạy đến với Chúa và kính múc Tin Mừng Phục Sinh của Chúa. Để rồi lòng chúng ta, chúng ta luôn hướng về trời. Và Ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi mang cái lời mời của Chúa là: Anh em hãy đi loan báo Tin Mừng cho khắp mọi loài thọ tạo.
Khi chúng ta không có Tin mừng, khi cuộc đời của chúng ta vẫn lê lết thì không thể nào chúng ta có thể loan báo Tin Mừng cho người khác được.
Khi nào lòng chúng ta nhẹ nhàng với vật chất của cải trần gian, khi nào lòng chúng ta thanh thản với tất cảc những bám víu của trần gian.
Và khi nào chúng ta yêu thương đủ thì lúc ấy chúng ta mới có thể làm chứng Tin Mừng cho một Đức Kitô phục sinh.
Và khi ấy chúng ta sẵn sàng đón nhận cái chết và sau khi chết chúng ta sẽ có một chỗ ở trên thiên đàng như Chúa đã hứa với mỗi người chúng ta. Amen.
Người đi trước, rước người theo sau, câu thành ngữ nhắc đến một điểm dừng, một điểm hẹn, dù LênTrời ABC-302
Người đi trước, rước người theo sau, câu thành ngữ nhắc đến một điểm dừng, một điểm hẹn, dù nơi chốn và cái đích hạnh phúc chẳng lấy gì làm rõ ràng. Bậc sinh thành đi trước ta, anh chị em bạn bè đồng hành cùng ta, ai ai cũng cho ta kiến thức, kinh nghiệm, còn lãnh nhận, thu thập những ý tưởng đẹp, bài học hay từ cuộc sống này, thuộc về tự do của ta. Bậc làm cha mẹ không thể sống mãi với con cháu, nhưng có phải tính thiêng liêng vẫn bất tử: nợ ai một chút chớ quên, ơn ai một chút phải nên đáp đền. Nói về tình, ai cũng cần được thương yêu chăm sóc, lưu tâm đến lý, mọi người đều cần trang bị những kiến thức để sống, để tới điểm hẹn mà tiền nhân hằng chuẩn bị cho ta.
Nếu như ở đời, người ta quan niệm: nơi đâu có tự do ở đó có hạnh phúc, nên ta chẳng lạ gì, khi không ít người coi nước Mỹ là “thiên đường”, rất đáng du lịch, du học, tìm cách định cư. Đức Giêsu năm xưa gián tiếp xem “thiên đường” là tin mừng hạnh phúc: “ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ”. Dù được thiên đường hay được nước trời ở đời sau, với tâm trí phàm nhân, hơi xa vời, mọi người vẫn đang thao thức đầu tư công sức để đi tới nơi về tới chốn, được sum họp cùng gia đình dòng tộc ở thiên đường hôm nay và mai sau. Tâm tính tự nhiên, ai chẳng thích rõ ràng cụ thể: thích vui khỏe bình an, thích hạnh phúc bền vững, dù tâm trí và lòng dạ chúng ta chưa hiểu hết “tin và chịu phép rửa” như thế nào, mới đạt tới thiên đường thật ?
Thầy Giêsu hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài hứa hẹn ngày sum họp đoàn tụ, khi các học trò chu toàn việc loan báo tin mừng: “các con hãy đi khắp nơi rao giảng tin mừng cho mọi loài tạo vật”. Có phải Thầy Giêsu chính là cha là mẹ, là thầy, là anh cả đi trước, đã và đang dẫn đường chỉ lối để các học trò, để từng người trong chúng ta đi đến thành công, bằng việc vâng lệnh thầy truyền. Nếu các bậc tiền bối nói: lòng người hẹp hòi, phúc khó mà tới, lòng người trung hậu, phúc tự tìm về. Vâng, tự sức những ngư phủ sẽ chẳng làm “nên cơm cháo gì”, và rồi, điều kỳ diệu xảy ra ở “niềm tín thác” đầy hứa hẹn: “và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin, nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói được các thứ tiếng mới lạ….”.
Sum họp ngày lễ tết, gặp gỡ nhau mừng ngày nhận bằng cấp danh hiệu, chúng ta đã có cảm giác. Sum họp ngày ở bên Thầy Giêsu, sum họp với gia đình dòng tộc trên thiên quốc, người tín hữu chỉ cảm nhận bằng niềm tin. Chúng ta tin tổ tiên ông bà cha mẹ, các ngài vừa dạy vừa dỗ, vừa chuyển cầu đắc lực cho ta, hẳn chưa đủ, ngộ lỡ ta sử dụng tự do của mình “vô tội vạ” thì sao ? Mỗi người còn phải sống, phải nghiêm túc thực thi giới luật cơ bản: mến Chúa yêu người, hay tích cực hành động theo thánh ý Chúa với nén bạc riêng mỗi chúng ta đang có. Dù tin nhiều hay tin ít, kitô giáo chúng ta vẫn hướng tới ngày sum họp trên thiên quốc là hứa hẹn, là hy vọng quan trọng. Thực tế nơi cuộc sống hiện tại, nhiều người con vẫn đang âm thầm hy sinh không tiến thân vì nặng ơn cha nghĩa mẹ: lên chùa thấy phật muốn tu, về nhà thấy mẹ công phu chưa đền !
Kitô giáo chúng ta tuyên xưng niềm tin Đức Kitô, Đấng là Thầy là Chúa, Đấng đã chiến thắng thế gian, Ngài đi trước và sẽ rước các học trò và chúng ta cùng Ngài sum họp bên hữu Chúa Cha. Điều cần thiết và trọng tâm là ta đang sống tinh thần người môn đệ thế nào, ta có tin về sum họp thiên đường, chính là về quê hương thật, nơi có Ba Ngôi Thiên Chúa, có tổ tiên dòng tộc, có đại gia đình kitô giáo không ? Đức Giêsu hôm xưa chia tay các học trò, cuộc chia tay không có nước mắt, chắc không phải vì tình thầy trò cứng rắn theo kiểu nói ở đời: nước mắt đàn ông không tuôn thành dòng … Xét về lý, chỉ những ai đủ trưởng thành mới đáng gọi là nam thanh nữ tú, nên hiểu thế nào là tình ? câu trả lời sẽ là tất cả những ai mang trái tim bằng thịt đều “biết yêu và đáng được yêu”. Hẹn ngày sum họp, hẹn ngày tái ngộ, có phải là lời xã giao môi miêng hay không, tùy tự do nơi mỗi người chúng ta hôm nay đang thực hiện.
Có thể chúng ta không hiểu hết lý lẽ về tình yêu thương của Thầy Giêsu dành cho các học trò: “vậy sau khi nói với các học trò, Người lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha”. Nếu đọc tiếp đoạn tin mừng, suy tư thêm: “phần các ông, các ông đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”. Ta có thể nói, Thầy Giêsu đến trần gian, Thầy đã chiến đấu, chiến thắng thế gian, tất nhiên sứ mạng của Thầy sẽ còn tiếp tục quy tụ và hoàn thiện những kẻ tin cho đến ngày sau hết. Sum họp thiên đường mai sau, hay hạnh phúc quê trời hôm nay, không phải là lúc xã hội, hay thế giới sẽ khoác “cẩm bào cho Thầy Giêsu”. Mà là từng người trong mỗi gia đình nhân loại phải góp phần cải thiện bản thân để xứng đáng với niềm tin của mình hầu cùng nhau sum họp Đại gia đình thiên quốc. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên, năm B này, các nhà phụng vụ muốn LênTrời ABC-303
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho cộng đoàn chúng ta biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, trong sự hiệp nhất với nhau, như các chi thể trong cùng một thân thể, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Là những chi thể của Đức Kitô, tất cả chúng ta đều được kêu gọi sống hợp nhất với nhau, mỗi người tùy theo công việc phục vụ mình đã lãnh nhận: Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tùy theo mức độ Đức Kitô ban cho. Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, khi chúng ta cùng thông phần đau khổ với Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Người đã được đưa lên các tầng trời, nhưng dưới đất, Người vẫn còn phải chịu bất cứ nỗi khổ cực nào mà chúng ta cảm thấy với tư cách là chi thể của Người: Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?, hay khi Người nói: Xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn. Vậy tại sao chúng ta không chịu khổ cực ở dưới đất như thế để được nghỉ ngơi với Người ở trên trời nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, khiến chúng ta được liên kết với Người?
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, trong khi chờ đợi điều Người đã hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại: Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa: Điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, nhờ ơn Chúa soi sáng, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cầu xin: Xin Chúa soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, là niềm hy vọng chắc chắn, Chúa dành cho hết mọi người, kể cả dân ngoại, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 46, vịnh gia đã kêu gọi: Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả. Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại: Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông. Đức Kitô đã lên trời vinh hiển: là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Ước gì chúng ta biết hiệp nhất với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể, khi chu toàn sứ vụ Chúa trao, và biết thông phần đau khổ với Đức Kitô, để được cùng Người hưởng vinh quang. Ước gì được như thế!
Ai trong chúng ta sẽ có một lúc nào đó chạnh lòng tự hỏi: “Mình là ai, từ đâu đến và sẽ về đâu LênTrời ABC-304
Ai trong chúng ta sẽ có một lúc nào đó chạnh lòng tự hỏi: “Mình là ai, từ đâu đến và sẽ về đâu sau khi chết?”. Tại sao con người lại có mặt trên trần gian để một ngày nào đó phải chết? Chết là chấm dứt, là biến mất khỏi thế gian này, hay còn có một nơi nào đó để trở về?
Người Ai Cập cổ tin rằng kiếp sống sau là có thật. Vì thế trong những ngôi mộ huy hoàng, họ để lương thực, tiền bạc, vật dụng và tư trang theo người chết hy vọng có cái dùng trong kiếp sau. NgườiPhật giáo thì đốt vàng mã là để cho người đã khuất có thể sử dụng cho đời sau.
Đời sau mà con người hướng tới đó là thiên đàng, là nơi hạnh phúc và không còn khổ đau. Theo Kinh Thánh, thiên đàng là một nơi có thật, vượt quá mọi mơ ước, đẹp hơn tất cả những mộng ước đẹp nhất của chúng ta. Chúng ta hãy tưởng tượng một thế giới không có chiến tranh, bệnh tật, buồn lo hay sầu thương chi cả. Chúng ta hãy hình dung một thế giới không có đau khổ, già nua, hay chết chóc. Nơi đó, “Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhứt đã qua rồi.” (Khải-huyền 21:4). Chúng ta sẽ thấy nơi ấy thật đáng sống, đáng là bến đợi cho cuộc đời chúng ta.
Nơi ấy, hôm nay Chúa Giê-su đã được rước về. Nơi đó chính là quê hương mà Đức Chúa Trời dànhsẵn cho những người tuân giữ giới răn Chúa. Vì chính Chúa Giê-su đã nói: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó (Ga 14:2-3).
Nhưng nơi đó không phải là một nơi chốn có giới hạn về không gian hay thời gian. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thiên đàng là một trạng thái sống chứ không phải là một nơi chốn theo nhận thức của ngôn ngữ loài người.” “Thiên đàng là một lối sống, là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ Chúa Cha, diễn ra trong Chúa Kitô phục sinh, và hiệp thông với Chúa Thánh Thần.”
Như vậy, Thiên đàng hay Quê Trời sẽ là nơi gặp gỡ, là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Điều ấy mang lại cho chúng ta niềm tin tưởng, và gia tăng niềm tín thác. Vì qua cuộc đời khổ ải chóng qua này ta sẽ đến một bến bờ hạnh phúc viên mãn.
Nhưng điều mà Chúa Giê-su hứa ban hạnh phúc cho con người không chỉ là thiên đàng mai sau mà còn là thiên đàng tại thế khi ta sống theo thánh ý Ngài. Thiên Chúa sẵn sàng ban cho chúng ta một cuộc đời bình an và hạnh phúc nếu chúng ta luôn thuộc về Ngài thì ân sủng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta.
Nếu hiểu thiên đàng là nơi ta gặp Chúa và ở lại trong Ngài, thì ngay hôm nay, nếu ta chọn Chúa mà tránh xa tội lỗi, chọn Chúa mà từ chối những niềm vui bất chính thì chúng ta đã sống trong hạnh phúc với Chúa.
Xin Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa ngõ hầu chúng ta được Chúa ban hạnh phúc đời này và gia nghiệp vĩnh cửu trên thiên đàng mai sau. Amen
Trước ngày về trời Đức Kitô chuẩn bị cho môn đệ ngày Ngài dời họ để về cùng Chúa Cha. Đức LênTrời ABC-305
Trước ngày về trời Đức Kitô chuẩn bị cho môn đệ ngày Ngài dời họ để về cùng Chúa Cha. Đức Kitô chuẩn bị bằng cách giúp họ dù xa cách Ngài họ vẫn có thể trực tiếp liên lạc và cảm thấy Ngày luôn đồng hành với họ. Đức Kitô đề nghị hai cách liên lạc. Thứ nhất là liên kết với Ngài như cành nho liên kết với thân nho để nhận sự sống từ thân nho. Cách thứ hai là thực hành giới luật yêu thương Ngài ban. Khi làm một trong hai công việc đó, môn đệ cảm nhận Đức Kitô kề bên. Sau đó, Đức Kitô còn ban cho các ông ơn nhận biết bằng cách mở mắt các môn đệ. Người đầu tiên nhận ơn đó chính là bà Magdala. Sáng sớm bà ra thăm mộ, gặp Ngài bà tưởng là người làm vườn. Bà nhận ra Đức Kitô khi Ngài gọi tên bà (Gioan 20,16). Kế đến Đức Kitô mở mắt hai môn đệ trên đường về quê. Các ông nhận ra Đức Kitô khi nhìn thấy các Ngài bẻ bánh, sau khi đã dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Luca (24:30-32) thuật lại:
‘Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: ‘Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta chẳng bừng cháy lên sao?’
Sau đó Đức Kitô mở mắt cho Thoma khi ông đòi sờ tay vào vết thương nơi tay và cạnh sườn Đức Kitô. Thoma không dám sờ tay vào vết thương khi Đức Kitô hiện ra nhưng mắt đức tin ông mở ra, nhận biết Đức Kitô Phục Sinh và long trọng tuyên xưng; ‘Lậy Chúa, lậy Thiên Chúa của con Gn 20,28’. Ngày Đức Kitô về trời, Ngài cùng môn đệ đến ngoài thành Bethany, nơi đó Ngài từ giã các ông. Kinh Thánh không nhắc đến điều này, nhưng chúng ta có thể mường tượng ra cảnh Đức Kitô được cất lên cao, các môn đệ mắt mở to nhìn thân thể Đức Kitô cứ lên cao mãi, cao mãi, cho đến khi chỉ còn một chấm nhỏ trước khi mất hút vào bầu trời xanh thẳm.
Giã từ Đức Kitô nhưng các môn đệ không giã từ hình ảnh Đức Kitô về trời. Hình ảnh Chúa về trời in sâu trong tâm khảm các tông đồ và hình ảnh đó luôn cùng đồng hành với các ông trong mọi tình huống của cuộc sống. Các ông bắt đầu thực hiện điều Đức Kitô phán bảo: ‘Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15’.
Với các tông đồ thế giới các ông lúc đó rất hạn hẹp, có lẽ không ra khỏi những vùng Đức Kitô rao giảng. Và rồi thế giới đó lớn dần, lan toả ra đến những vùng lân cận và Tin Mừng được dân ngoại đón chào. Một lần nữa Thánh Thần Chúa mở mắt các ông. Tin Mừng Chúa không riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc. Như thế mới gọi là rao giảng cho ‘khắp tứ phương thiên hạ’.
Thánh Marcô ghi nhận các tông đồ vui mừng rao giảng khắp nơi. Nơi đâu cũng có kẻ đón chào, và nơi đâu cũng có kẻ chống đối. Nhân Danh Đức Kitô các môn đệ đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Các ông trừ ma quỉ, chữa bệnh và chuyển tải đến mọi người ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của yêu thương, tha thứ. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Gioan Tiền Hô, nhóm chống đối Tin Mừng dùng thủ đoạn gian manh, tâm tư độc hại, miệng lưỡi rắn độc, mong hại Môn Đệ Đức Kitô và những kẻ tin theo Ngài.
‘Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Mat 12:33’.
Môn đệ Đức Kitô được ban cho miệng lưỡi (lời) khôn ngoan để bác lại miệng lưỡi ( lời) độc hại, gian ác. Môn đệ Đức Kitô đến mang Tin Mừng, ban ơn lành cho mọi người. Trong hoàn cảnh gặp chống đối kịch liệt các ngài không chủ trương đả kích, gây chiến, nhưng khiêm nhường, âm thầm cầu nguyện nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần Chúa.
Đức Kitô về trời, Ngài không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Môn đệ Đức Kitô, với con mắt đức tin, các ông nhận biết, cảm nghiệm Chúa luôn kề bên, cùng đồng hành với các ông. Đức Kitô hoàn thiện sứ mạng Chúa Cha trao phó. Ngài trao sứ mạng đó cho các môn đệ tiếp tục rao giảng về tình yêu Chúa cho muôn dân. Đức Kitô luôn đồng hành cùng các môn đệ, dù các ông không nhìn thấy Ngài bằng xương, bằng thịt nhưng luôn cảm thấy Ngài gần kề. Bất cứ khi nào các ông liên kết với Ngài trong tình yêu các ông nhận biết có Chúa luôn ở cùng. Là môn đệ Đức Kitô, mỗi chúng ta đều được trao ban tránh nhiệm mang Tin Mừng đến cho muôn dân. Chúng ta cùng khuyến khích, nâng đỡ nhau hoàn thành điều Đức Kitô phán bảo.
‘Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15’.
Đối với chúng ta hôm nay, gửi một lá thư từ Việt Nam đi Âu hay Mỹ là điều dễ như trở bàn tay LênTrời ABC-306
Đối với chúng ta hôm nay, gửi một lá thư từ Việt Nam đi Âu hay Mỹ là điều dễ như trở bàn tay, nhất là đối với thư điện tử, chỉ cần soạn thư vào điện thoại hay máy tính, rồi nhấn vào phím gửi… thế là bức thư sẽ được chuyển đi đến nơi ta muốn, trong một vài giây!
Thế nhưng vào thời trước đây, khi ngành Bưu chính Việt Nam chưa phát triển[1] chuyển một bức thư từ Bắc vào Nam là cả một hành trình đầy gian truân.
Chuyển giao sắc chỉ nhà vua
Hồi ấy, người lính trạm ở hoàng cung (nay gọi là bưu tá), sau khi tiếp nhận sắc chỉ của nhà vua, tức tốc lên ngựa phóng nước đại bất kể ngày đêm mưa nắng, để chuyển giao sớm hết sức có thể cho nhà trạm kế tiếp. Người lính ở nhà trạm nầy, khi vừa tiếp nhận sắc chỉ được mang tới, phải lập tức phóng ngựa lên đường không trì hoãn để chuyển giao cho nhà trạm tiếp theo…
Cứ thế, các lính trạm nối tiếp nhau phóng ngựa như bay, bất chấp nhọc nhằn gian khổ, băng qua nhiều chặng đường gian nan hiểm trở có lắm thú dữ hoành hành, để chuyển giao nhanh chóng sắc chỉ đến tay người nhận, dù phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Chuyển giao sứ điệp của Chúa Giê-su
Trước khi về trời, Chúa Giê-su long trọng trao cho các Tông đồ sứ mạng loan báo Tin mừng cho toàn thế giới. Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mác-cô 16, 15).
Tin mừng là thông điệp quan trọng bậc nhất vì có liên hệ mật thiết đến phần rỗi, đến số phận đời đời của nhân loại như lời Chúa Giê-su nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mác-cô 16, 16).
Tin mừng là một thông điệp vô cùng quý báu vì mang lại hoà bình và hạnh phúc cho toàn thế giới.
Tin mừng cũng là thông điệp khẩn cấp, cần phải loan truyền nhanh chóng và rộng rãi khắp nơi vì e rằng có rất nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận được sứ điệp mang lại ơn cứu rỗi nầy.
Sau khi tiếp nhận sứ điệp Tin mừng, các tông đồ đã cống hiến toàn bộ cuộc đời còn lại của mình, chấp nhận vô vàn gian lao khổ ải, kể cả ngục tù, xiềng xích và cái chết, để chuyển giao Tin mừng cho người Do-Thái cũng như cho dân ngoại.
Kế đó, các cộng đoàn tín hữu tiên khởi, sau khi đón nhận Tin mừng do các tông đồ truyền lại, đã nỗ lực chuyển giao cho thế hệ tiếp theo dù phải trả bằng giá máu. Nhờ thế, sứ điệp Tin mừng của Chúa Cứu Thế đã được loan báo cho nhiều dân tộc khắp năm châu.
Chuyển giao Tin mừng là sứ mệnh cấp bách
Hôm nay, Chúa Giê-su và Hội thánh đã trao sứ điệp quý báu và quan trọng nầy tận tay chúng ta và thôi thúc chúng ta chuyển đi khắp thế giới: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.”
Nắm trong tay thông điệp tối khẩn có liên quan đến vận mệnh đời đời của toàn thể nhân loại, ít nữa là vận mệnh của hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam chưa biết Chúa đang sống quanh ta, nhưng dường như chúng ta còn uể oải chưa muốn lên đường làm trách nhiệm người “lính trạm” của Chúa Ki-tô.
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm nay, nhiều người phải sống bất hạnh vì chưa được đón nhận niềm hạnh phúc do Tin mừng mang đến; nhiều dân tộc phải sống trong thù nghịch, trong cảnh huynh đệ tương tàn, vì không hề biết giải pháp đem lại hoà bình do Tin mừng cung cấp… đang khi Chúa vẫn thôi thúc chúng con truyền rao Tin mừng cho họ mà chúng con vẫn nhắm mắt làm ngơ!
Và nếu chung quanh chúng con có nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận sứ điệp Tin mừng cứu độ vì sự chểnh mảng, thờ ơ của chúng con là những “người lính trạm” của Chúa… thì đến ngày phán xét, chúng con sẽ trả lời với Chúa sao đây?
Chúa Giêsu đã lên trời, Người ngự bên hữu Chúa Cha nhưng Người vẫn ở cùng nhân loại mọi LênTrời ABC-307
Chúa Giêsu đã lên trời, Người ngự bên hữu Chúa Cha nhưng Người vẫn ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Người ra đi để dọn chỗ cho ta, một chỗ trong nhà Cha, dành một chỗ cho những ai khao khát được ở lại trong trái tim của Thiên Chúa.
Trước khi được rước lên trời, Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với nhóm Mười Một và căn dặn: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Đó là lệnh truyền của Người. Tin Mừng được rao truyền cho tất cả mọi loài thụ tạo, không loại trừ ai. Tình yêu cứu độ được ban cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu cho biết: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16, 16). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, tình yêu của Người lớn lao đến nỗi Người cho họ quyền tự do đón nhận tình yêu ấy, tự do tin vào Người hay là từ chối. Người luôn canh cánh một niềm yêu thương đối với những ai chưa được sống trong tình yêu của Người. Một khi đón nhận Tin Mừng, ta hãy trở nên người môn đệ của Chúa, sống và loan báo Tin Mừng cho mọi người. Đó là sứ mạng Chúa đã trao phó cho ta.
Các Tông đồ đã ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng (x. Mc 16, 20). Ta cũng sẽ thi hành sứ mạng ấy trong Thánh Thần Tình Yêu của Chúa, hãy để Chúa Phục Sinh sống trong tâm hồn ta, hoạt động trong ta. Ta có đủ bén nhạy với tác động của Thánh Thần Tình Yêu không? Hãy luôn xin Chúa ơn được nhạy bén với tác động ân sủng của Chúa Thánh Thần và trung thành với ân sủng Người ban. Có bao lần ta nhận ra lời mời gọi của Chúa nhưng vì lười biếng, vì chỉ lo nghĩ cho lợi ích của chính mình, ta đã giả điếc làm ngơ. Bao việc thiện ta đã bỏ qua vì ta không đủ quảng đại để cho đi. Ta có vui mừng khi nhận ra thánh ý Chúa, lời mời gọi tha thiết của Chúa và mau mắn thi hành hay ta than phiền khi được Chúa mời gọi yêu thương? Ta đã từng chán nản và không muốn thi hành lời mời gọi của Chúa. Có lẽ, Linh mục- nhạc sĩ Thái Nguyên đã cảm nghiệm sâu xa lời mời gọi của Chúa dành cho mình trong những ca từ sau đây: “Lời mời gọi của Chúa luôn gây xáo trộn đời con. Bao dự định riêng tư dường như mất hút trong đời. Con mong muốn thế này Chúa lại mong muốn thế kia. Con không sao hiểu được nhưng tin vào tình thương của Ngài” (Tâm tình xin vâng – Thái Nguyên). Quả thế, để thi hành ý muốn của Thiên Chúa, ta phải sẵn sàng bỏ đi ý riêng và những dự định của bản thân, biết hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình thương của Người. Bao lâu, ta chỉ sống cho ý riêng, ta chưa sống cho thánh ý Chúa. Ta cũng hãy cầu nguyện và tha thiết xin Chúa ơn cảm nếm được tình yêu Chúa dành cho chính mình. Một người con cảm nhận được bố mẹ thương mình thì nó sẽ đáp trả bằng cách sống thật ngoan. Một người con sau bao ngày quậy phá, một ngày, nó bỗng nhận ra tình thương bố mẹ dành cho mình, nó đã thay đổi từng ngày. Một khi nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương ta mới nhận ra tội lỗi của mình, ta mới bắt đầu thay đổi cuộc sống. Sám hối không gì khác hơn là biết từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Kitô như cách các môn đệ xưa đã nêu gương. Còn gì đẹp hơn những lời rao giảng mạnh mẽ của tông đồ Phêrô, của tông đồ Phaolô, và bao người môn đệ khác, vì các ngài cảm nếm tình yêu thương xót mà Chúa dành cho mình. Mỗi lần, ta rao giảng Lời Chúa bằng chính hành động bác ái với người khác, dù đó là một việc làm âm thầm hay công khai, sức mạnh của lời cầu nguyện hợp với việc làm ấy có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã lên trời để dọn chỗ cho con. Để được lên trời với Chúa, con phải thi hành lệnh truyền mà Chúa đã trao: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16, 15). Xin cho con luôn khắc ghi lời mời gọi của Chúa và biết mở ra trước tác động của Chúa Thánh Thần, để Chúa sống trong con. Amen.
Theo Giáo lý Hội Thánh công giáo, số 665 “Chúa Giê-su Ki-tô, là Đầu của Hội Thánh, đã đi LênTrời ABC-308
Theo Giáo lý Hội Thánh công giáo, số 665 “Chúa Giê-su Ki-tô, là Đầu của Hội Thánh, đã đi trước chúng ta vào Nước vinh hiển của Chúa Cha, để chúng ta, là chi thể của Thân Thể Người, sống trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ được vĩnh viễn ở với Người”. Quả thật, việc Đức Giê-su lên trời không phải hôm nay mới lên, mà khi Ngài sống lại đã lên ngự bên hữu Chúa Cha rồi.Nhưng tại sao hôm nay, chúng ta mới mừng biến cố vô cùng quan trọng này? Phải chăng Chúa có phương cách của Ngài là muốn hiện ra và đồng hành với các môn đệ sau khi Ngài chết. Đức Giê-su Phục Sinh đã đến và cùng đi với các Tông Đồ để củng cố đức tin yếu kém của các ông. Việc chưa tin và còn cứng lòng của các Tông Đồ sau biến cổ khổ nạn của Ngài, Đức Giê-su biết rõ hơn ai hết. Vì thế, sau khi Chúa Cha cho Đức Giê-su sống lại để giúp các ông hiểu rõ về chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giê-su.“Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình : trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa.” (Cv 1, 2-3)
Tuy nhiên, mặc dù sự hiện diện của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng chưa đủ để thuyết phục cho các Tông đồ và mọi người tin một cách chắc chắn. Cho nên, sau 40 ngày, Đức Giê-su đã thực hiện một điều kỳ lạ trước mặt các Tông Đồ: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” (Cv 1,9). Đức Giê-su lên Trời là Ngài được ngự bên hữu Chúa Cha. Ngài trở về nơi Ngài đã xuất phát. Ngài lên Trời để chỉ đường cho chúng ta đi theo. Ngài lên Trời để khẳng định và xác tín với mỗi chúng ta rằng: ‘Quê hương thiên đàng’ là có thật, nơi hưởng vui vẻ đời đời với Chúa là có thật. Ngài lên Trời để nhắn gửi với mọi người rằng là Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta.“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,2-3).
Quả thật, để chiếm được “chỗ ở” hay thiên đàng mà Đức Giê-su đã chuẩn bị cho chúng ta không phải không có khó khăn và gian nan, nghĩa là chúng ta phải chiến đấu để qua cửa hẹp, là phải biết từ bỏ tính mê nết xấu, là biết làm lành lánh dữ, là yêu thương tha thứ, là công bằng vị tha, là vui tươi dẫu có đau khổ và thử thách,…Do đó, nói như nhạc sĩ Hoàng Vân trong bài ca Hát về Cây Lúa hôm nay: “Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay.” Thật vậy, cuộc sống Thiên đàng mai sau sẽ được quyết định tuỳ thuộc vào cuộc sống hiện tại của mỗi chúng ta. Do đó, chúng ta cố sao để sống cho tốt, cho xứng đáng là hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Khi chúng ta sống tốt và yêu thương là chúng ta đang hưởng phúc thiên đàng nơi trần gian rồi. Câu chuyện sau đây phần nào giúp chúng ta hiểu rõ thế nào là hoả ngục, thế nào là thiên đàng.
Có một hiệp sĩ Samurai kia rất hung bạo. Ông tìm đến một thiền sư hỏi: Xin cho tôi biết thiên đàng, hỏa ngục là gì. Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói: Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng hỏa ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi. Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại mà nói: “Hỏa ngục là đó”. Nhận được bài học thực tế của vị thiền sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư đã dám hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hỏa ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt vị thiền sư với tất cả tấm lòng thành và tỏ ý sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn sâu vào đôi mắt y mà bảo: “Thiên đàng là thế đó”.
2/ Mệnh lệnh hay ‘chúc thư’ của Chúa Giê-su trước khi Ngài lên trời?
Trước khi về Trời, Đức Giê-su đã để lại một “chúc thư” hay sứ vụ quan trọng cho các Tông Đồ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”(Mt 28,18-20). Sứ vụ này chính Đức Giê-su đã thực hiện, Ngài đã nêu gương. Nay trước khi Ngài lìa khỏi các Tông đồ, Ngài cũng muốn truyền lại sứ vụ đặc biệt này cho tất cả mọi người nhằm mở mang Tin Mừng của Nước Trời đến tất mọi hang cùng ngõ hẻm để hết thảy mọi người tin và được hưởng ơn cứu độ. Đây là ý muốn của Thiên Chúa, như Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại đã nói: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (Tm 2,4). Thật vậy, sứ vụ Loan Báo Tin Mừng cho muôn dân là trách nhiệm của mỗi ki-tô hữu. Không ai có quyền chối từ sứ vụ đó khi trên mình mang danh là ki-tô hữu. Nói rõ hơn như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng là những ai đã chịu Bí tích Thánh Tẩy đều có trách nhiệm Loan Báo Tin Mừng hay truyền giáo. Chính Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng: “Hành trình lữ thứ của Giáo Hội tự bản chất là một cuộc truyền giáo” (AG 2)
Là ki-tô hữu, chúng được mời gọi dấn thân đi đến với tha nhân, vì đó là sứ mạng. Chính Thánh Phaolô đã cảm nhận: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14); hay “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Đúng là khốn, là buồn nếu mỗi ki-tô hữu không chịu Loan Báo Tin Mừng. Tuy nhiên, để sống sứ vụ truyền giáo hay loan báo niềm vui Tin Mừng, mỗi ki-tô hữu tiên vàn là người vui và bình an, là người có Chúa. Mà đã có Chúa thì phải có niềm vui. Nếu không có niềm vui thì sứ vụ loan báo Tin Mừng xem ra phản tác dụng. Đức Thánh Cha đã cảm nhận được điều đó hết sức thực tế như sau: Có những kitô hữu sống như chỉ có Mùa Chay mà không có Phục Sinh. (NVTM, số 6). Ngài nói tiếp: Cho nên, một nhà truyền giáo không thể lúc nào cũng giống như một người vừa đi đưa đám về. Chúng ta hãy phục hồi và gia tăng lòng nhiệt thành,“niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc rao giảng Tin Mừng, ngay cả khi chúng ta phải gieo trong nước mắt […] Chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, là thế giới đang tìm kiếm, có khi trong lo âu, có khi trong hy vọng, nhận được Tin Mừng không phải từ nhà truyền giáo buồn rầu và chán nản, thiếu kiên nhẫn hoặc lo âu, nhưng từ thừa tác viên của Tin Mừng mà cuộc sống của người ấy tỏa sáng lòng nhiệt thành, là người đã nhận được niềm vui của Đức Kitô trong mình trước”.(NVTM, số 10)
3/ Đức Giê-su lên Trời nhưng Ngài vẫn ở với nhân loại cho đến tận thế, nghĩa là làm sao?
Đức Giê-su lên Trời, nhưng Ngài không bao giờ bỏ rơi các môn đệ nói riêng, và chúng ta nói chung. Điều đó được chứng thực qua lời nói của Ngài: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Nghĩa là làm sao?
Vì là hình ảnh hữu hình củaThiên Chúa là tình yêu, Đức Giê-su đã không nỡ lòng nào bỏ bê các Tông đồ và nhân loại lầm than. Dấu chỉ đó được cụ thể hoá qua những lời nói của Ngài đối với các môn đệ trước khi rời xa họ. Trước tiên, Đức Giê-su gửi Thánh Thần đến cho các Tông đồ. “Song, Thầy nói thật với anh em : Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em ; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16,7) Điều đặc biệt là Đức Giê-su muốn ban Thịt Máu của Ngài cho các môn đệ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung. Chính câu nói “Thầy sẽ ở cùng anh em mỗi ngày cho đến tận thế” là ý muốn nói từ nay Ngài không thể hiện diện bằng xương bằng thịt như anh em đang thấy, nhưng Thầy sẽ hiện diện bằng cách thức khác, đó là Ngài trở nên Bí Tích Thánh Thể để nuôi sống mỗi người. Từ nay tấm bánh trắng và chén rượu nho, sau khi được truyền phép, tấm bánh trở nên Mình của Đức Giê-su, chén rượu trở nên Máu của Đức Giê-su. Từ nay, Ngài ở cùng nhân loại nơi các nhà tạm nơi các nhà thờ được thánh hiến. Nói cách thâm sâu hơn, khi chúng ta rước Mình Máu Người, chúng ta có Người hiện diện trong nhà tạm tâm hồn của chúng ta. Từ nay, chúng ta không còn cô đơn hay mồ côi nữa vì có Chúa Thánh Thần luôn ở cùng ta, đặc biệt, có Đức Giê-su là Bí Tích Thánh Thể ở bên cạnh ta nơi nhà chầu và nhất là ở trong cung lòng của mỗi chúng ta khi chúng ta rước Ngài. Bên cạnh đó, Đức Giê-su còn hiện diện nơi Lời Chúa, nơi những người nghèo, nơi những dấu chỉ yêu thương với anh em đồng loại.
Mầu nhiệm Đức Giê-su lên Trời không chỉ là niềm hy vọng chắc chắn về đời sống vĩnh cửu cho những ai có niềm tin vững chắc, mà mầu nhiệm này còn nhắc nhở chúng ta về bổn phận và trách nhiệm tiếp nối sứ vụ Loan báo Tin Mừng của những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, giúp người khác đi trên con đường Đức Giê-su đã đi. Đó là con đường về Trời. Đặc biệt, mầu nhiệm Chúa lên Trời không làm cho chúng ta mất Chúa, xa lìa đời đời, nhưng lời hứa của Chúa là “Thầy ở cùng các con mỗi ngày cho đến tận thế” đã làm cho chúng ta vui mừng hơn, có hy vọng tràn trề hơn và nhờ đó, chúng ta có sức mạnh và lòng nhiệt huyết để ra đi loan báo Tin Mừng cho mỗi anh chị em để chỉ đường cho nhiều người cùng về Trời với chúng ta. Amen.
Cùng với tòan thể Giáo hội, hôm nay chúng con mừng lễ Chúa lên trời. Chúa lên trời không phải LênTrời ABC-309
Cùng với tòan thể Giáo hội, hôm nay chúng con mừng lễ Chúa lên trời .
Chúa lên trời không phải là Ngài từ giã chúng con để đi về một nơi khác. Khái niệm “Trời” dễ làm con có cảm tưởng một nơi nào đó quá xa, ở đó Chúa dõi theo con người chúng con nơi trần gian. Và cũng trong suy nghĩ đó mà có nhiều người chúng con quên đi thực tại trần thế này, nơi Chúa trao cho con người sống và thống trị nó.
Có những người công kích và bài bác đạo Chúa, họ cho rằng người tín hữu là người sống trong ảo tưởng, chỉ mơ mộng chuyện trên mây trên gió mà không thấy được những việc cụ thể. Sống mà không lo cho hôm nay, chỉ lo tìm hư ảo mai sau. Mà cũng chính từ cách sống của chúng con đây dễ làm cho những người ngòai Kitô giáo ngộ nhận. Con cũng đã có lúc nghĩ như vậy. Con đã từng quên đi lời nhắc nhở của Thiên sứ:“Sao các ông còn đứng nhìn lên trời làm chi vậy ? ”.
Xin cho con trong cuộc sống luôn biết xây dựng nước trời từ chính hiện tại hôm nay, bằng những hành động sống lòng tin cụ thể. Không chỉ hướng về quê trời mà lãng quên bổn phận xây dựng trời mới đất mới ngay tại trần gian này .
Xin cho con luôn biết chuẩn bị cho ngày về trời như Chúa đã chuẩn bị trong suốt cuộc đời Người nơi dương thế. Đó chính là làm tròn bổn phận mình, sống cùng, sống với anh chị em đồng lọai; giúp nhau cùng thăng tiến cuộc sống hôm nay và luôn luôn vững tin rằng: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “, để đến ngày Chúa gọi, chúng con sẽ cùng dắt tay nhau về trời với Chúa và với anh chị em con. AMEN.
Con Chúa Thăng Thiên Hiển Vinh Chói Lọi, Chúng Con Lữ Khách Hy Vọng Tràn Đầy. Thiên Chúa LênTrời ABC-310
Con Chúa Thăng Thiên Hiển Vinh Chói Lọi Chúng Con Lữ Khách Hy Vọng Tràn Đầy
Thiên Chúa – Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng, Đấng mang danh chí thánh – đã phán: “Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát.” (Is 57:15) Đó là niềm an ủi khôn tả đối với tội nhân chúng ta.
Chúa Giêsu đã từng xác định với ông Nicôđêmô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3:13) Không một phàm nhân nào xuất phát từ trời, chỉ một mình Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, nhưng Ngài hứa cho chúng ta về trời NẾU trung thành tin Ngài và tuân giữ các giáo huấn của Ngài. Đó là diễm phúc cho chúng ta, nhưng chữ “nếu” rất quan trọng vì là điều kiện tuyệt đối.
Thiên Quốc là cõi vĩnh hằng, công dân Nước Chúa phải tinh tuyền, công chính. Là tín nhân, ai cũng khao khát được về trời với Chúa, thế nên ngay bây giờ phải cố gắng “đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rm 12:21) Tuy nhiên, Thánh TS Thomas Aquino (1225-1274) xác định: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ. Nhận ra những ai là người mà chúng ta PHẢI TRÁNH, đó là phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.” Thực sự rất cần ơn phân định để biết những gì phải theo và phải tránh, nói theo khẩu ngôn là “liệu hồn.”
Muốn vào cõi vĩnh hằng – Nước Trời, thì phải vào cõi tạm – sống giữa đời. Phải thực sự can đảm mới đủ sức dấn thân và chiến đấu hết sức – trước tiên là “vật lộn” với chính mình, bởi vì có nhiều trách nhiệm và cũng có lắm đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng đã chịu nhiều đau khổ: sinh nơi hang đá, sống di trú, không có chỗ tựa đầu, cuối cùng là chết thê thảm với nhục hình thập giá.
Bất cứ ai là tin nhận và đi theo Ngài, chắc chắn không thể đi con đường nào khác hoặc đi lối tắt để có thể gặp Ngài nơi cõi vĩnh hằng. Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã căn dặn chúng ta phải cố gắng gieo Hạt Lời Chúa mọi nơi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Chúng ta không đơn độc, vì Ngài hứa cùng hành động và đồng hành với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Và còn hơn thế nữa, Ngài còn sai Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý đến để dạy chúng ta những điều phải làm. (x. Ga 14:26) Như vậy thì không có gì phải lo sợ giữa cuộc đời này.
Chính Chúa Giêsu đã huấn luyện các tông đồ mà Ngài tuyển chọn qua tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông nhận biết Ngài vẫn sống và hoạt động sau khi đã chịu chết. Một hôm, chính Ngài truyền cho các tông đồ không được rời khỏi Giêrusalem, mà phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà họ đã nghe Ngài nói tới. Điều gì? Đó là: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.” (Cv 1:5) Ngày nay, Chúa Thánh Thần cũng vẫn tiếp tục và không ngừng hoạt động.
Cũng đã từng có những người hỏi Chúa Giêsu rằng có phải đó là lúc Chúa Giêsu khôi phục vương quốc Israel hay không. Nhưng Ngài xác định: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là CHỨNG NHÂN của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7-8) Thời đó, người ta cứ tưởng Chúa Giêsu là một chính khách có thể đảo chính để khôi phục quốc gia Israel, nhưng mọi người đều lầm to. Thật vậy, có lần Ngài đã xác định trước mặt tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36)
Chúa Giêsu không thuộc về thế gian này nên Ngài không thu quân để đảo chính, và Ngài đã để cho người ta đóng đinh vào Thập Giá. Sau 40 ngày sống lại, Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ xong, Ngài lên trời trước mặt họ, và rồi có đám mây quyện lấy Ngài, khiến họ không còn thấy Ngài nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm ngước lên trời, nhìn theo phía Ngài đi, có hai người đàn ông mặc áo trắng xuất hiện và nói với họ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11)
Một hiện tượng vô cùng lạ lùng, chưa thấy bây giờ nên các ông rất ngạc nhiên. Chúa Giêsu về trời và vĩnh viễn ở đó chứ không lên trời một thời gian như đi du lịch, cũng chẳng như Chú Cuội bám gốc đa bay lên cung trăng, hoặc như Táo quân cưỡi cá chép bay lên trời. Đó chỉ là huyền thoại, không có thật. Lại càng không phải như các phi hành gia bay lên cung trăng bằng phi thuyền. Đó chỉ là dạng lên trời không chính thức, họ lên trời nhưng không thể sống được nếu không có bình dưỡng khí. Họ phải trở lại trái đất trước khi hết dưỡng khí.
Ngạc nhiên rồi ngơ ngẩn. Các môn đệ ngạc nhiên khi thấy Thầy Giêsu bay lên trời. Họ cũng đã từng ngơ ngẩn khi thấy Thầy bị người ta giết chết, tưởng thế là hết, nhưng Thầy phục sinh và sống mãi. Hạnh phúc tràn ngập. Nay các ông càng ngơ ngẩn hơn vì Thầy đi rồi, một thoáng buồn thôi. Các tông đồ phải ra đi và vào đời, tất cả tín nhân chúng ta cũng phải vậy – dấn thân, vào đời, và hy vọng ngày về trời, gặp lại Chúa Giêsu.
Thông thường, cuộc chia tay nào cũng có phần lưu luyến, thường buồn hơn vui, nhưng khi cuộc chia tay với Chúa Giêsu lại không buồn mà lại hy vọng tràn trề. Ngài về trời là dấu chỉ chắc chắn chúng ta cũng được về trời. Hoàn toàn vui mừng. Thế nên Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3) Alleluia!
Chúa Giêsu thăng thiên là về nơi Ngài đã xuất phát. Thánh Vịnh gia mô tả là “rộn rã tiếng hò reo, vang dội tiếng tù và, đàn ca kính mừng Ngài.” Tuy nhiên, cuộc sống đôi khi không êm đềm như thảm lụa, luôn cần động viên lẫn nhau: “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên tòa uy linh cao cả.” (Tv 47:8-9)
Sự khôn ngoan rất cần thiết, cần cho cả đời sống xã hội và tâm linh, trong mọi trường hợp. Sự khôn ngoan đó không như khôn ngoan bình thường, mà chính là Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em THẦN KHÍ KHÔN NGOAN để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người SOI LÒNG MỞ TRÍ cho anh em thấy rõ, đâu là NIỀM HY VỌNG anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là GIA NGHIỆP VINH QUANG phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là SỨC MẠNH TOÀN NĂNG đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” (Ep 1:17-20)
Nhờ khôn ngoan, chúng ta đón nhận nhiều điều quý giá khác từ Thiên Chúa. Vô cùng tuyệt vời! Nhưng có điều cần lưu ý: “Đức Khôn Ngoan là thần khí hằng yêu mến con người, nhưng không miễn thứ cho kẻ nói lời phạm thượng.” (Kn 1:6)
Thánh Phaolô kết luận bằng cách giải thích: “Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.” (Ep 1:21-23) Điều kỳ diệu tuyệt vời!
Trước khi “chia tay” với các môn đệ, Chúa Giêsu căn dặn: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Đó không chỉ là lời nhắn nhủ của “người ra đi” mà còn là mệnh lệnh – tức là điều phải thực hiện bằng mọi giá. Ngài vừa hứa hẹn vừa cảnh báo: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án.” (Mc 16:16) Đó không là lời hù dọa là hệ lụy tất yếu mà thôi.
Người ta được công chính hóa nhờ đức tin. Quả thật, đức tin quan trọng, tạo nên sức mạnh vô song, và tạo nên điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của loài người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khỏe.” (Mc 16:17-18) Đã và đang có những người làm được như vậy, đó là tặng phẩm Thiên Chúa trao cho ai thì người đó phải biết sử dụng hợp lý. Ai cũng có một tặng phẩm – người được tặng phẩm này, kẻ được tặng phẩm khác, có người được vài tặng phẩm. Điều đó giống như kẻ được một nén, ba nén, năm nén, nhưng vấn đề không là được nhiều hay ít, mà là có sử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa hay không. Vì thế, đừng ỷ sức mình hoặc tìm tư lợi.
Thánh sử Mác-cô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16:19-20) Chúa Giêsu chia tay để về cõi vĩnh hằng, các tông đồ phải ra đi và vào đời, làm chứng về Đức Giêsu Kitô, Đấng chịu chết trên Thập Giá, phục sinh vinh thắng và lên trời vinh hiển.
Thánh Phaolô nói về phong cách sống chứng nhân giữa đời: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm.” (Rm 12:6-8) Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi hoàn cảnh, với trình độ khác nhau, mỗi người là một các chi thể khác nhau nhưng vẫn chung một Nhiệm Thể Đức Kitô.
Tất cả các chi thể phải đồng tâm nhất trí, cùng phát triển và liên kết trong Nhiệm Thể Thánh – Giáo Hội: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.” (Ep 4:4-6)
Về phong cách, Thánh Phaolô cho biết: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.” (Rm 12:9-13) Thật hạnh phúc nếu chúng ta làm được như vậy, đồng thời cũng tôn vinh Thiên Chúa và làm vui lòng Ngài, bởi vì như vậy là chúng ta tuân giữ lời dạy của Ngài.
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài đã cho chúng con nhận biết Ngài qua Thánh Tử Giêsu và được hứa phần thưởng vĩnh sinh. Xin giúp chúng con sống nhân bản, hoàn thiện mỗi ngày để xứng đáng với tình yêu thương Ngài dành cho chúng con. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa và Dưỡng Phụ Giuse nâng đỡ, chở che và hướng dẫn chúng con không lạc hướng về Quê Hương đích thực, nhất là trong thời buổi nhiễu nhương ngày nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ.... Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu Phục sinh ban cho LênTrời ABC-311
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu Phục sinh ban cho Nhóm Mười Một trước khi Người lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa. Theo lời ấy, khởi đầu là Nhóm Mười Một rồi biết bao thế hệ đã ra đi, hăng say rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, có Chúa cùng hoạt động và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ngài rao giảng.
Lược qua dọc dài lịch sử Giáo hội, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì sự lan tràn của dân Thiên Chúa. Từ một nhóm tông đồ nhỏ nhoi nay Giáo hội Chúa có mặt hầu như khắp năm châu. Đức Giêsu thật sự đã phục sinh và lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngày nay, Người vẫn tiếp tục đồng hành, ở lại với chúng ta qua các Bí tích, đặc biệt là qua Bí tích Thánh Thể như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Người ban tràn đầy Thánh Thần cho những ai lãnh nhận bí tích Rửa tội, cách riêng là những ai được gọi. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được bước đi trong Giáo hội, được gọi Thiên Chúa là Cha, được trở nên chi thể của Đức Kitô, được chia sẻ các chức vụ của Đức Kitô: tư tế, vương đế, ngôn sứ. Khi chúng ta thi hành các chức vụ trên nhất là chức vụ ngôn sứ, khi ấy, chúng ta đang thi hành lệnh truyền của Đức Kitô, giới thiệu Chúa cho muôn người.
Tiếp nối bước chân của các Tông đồ tiên khởi, cho đến ngày nay, có biết bao lớp người, bao vị tông đồ nhiệt tình, hăng say ra đi, thực thi lệnh truyền của Chúa Kitô. Các ngài là những thừa sai đến từ dòng Phanxicô, dòng Đa Minh, dòng Tên… Đối với Giáo hội Việt Nam, chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã gửi các vị thừa sai đến gieo hạt giống Tin Mừng trên đất Việt vào khoảng thế kỷ XVI, XVII. Trong số các thừa sai lúc bấy giờ, chúng ta đặc biệt nhớ đến Đức cha Francois Pallu (Đại diện Tông Tòa Địa phận Đàng Ngoài) và Đức cha Pierre Lambert de la Motte (Đại diện Tông Tòa Địa phận Đàng Trong). Các ngài là những thừa sai đến từ Pháp, được Đức Giáo Hoàng Alexandre VII bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa vùng Viễn Đông vào ngày 08 tháng 06 năm 1658. Qua Đoản sắc Super Cathedram được Đức Giáo Hoàng Alexandre VII ký vào ngày 09 tháng 09 năm 1659, Giáo hội Việt Nam được khai sinh (x. Tiểu sử Đức cha Francois Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte). Nếu có cơ hội tìm hiểu hành trình truyền giáo của các ngài, chúng ta sẽ thấy được bao gian lao, vất vả, hiểu lầm các ngài đã trải qua cũng như tình yêu, lòng nhiệt thành mà các ngài dành cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
Điểm qua một vài nét lịch sử của Giáo hội Việt Nam để chúng ta thấy được công việc của Chúa Thánh Thần thực hiện qua các vị thừa sai. Để tri ân công ơn của hai vị Đại diện Tông tòa tiên khởi, trong khóa họp tháng 04 năm 2019, Hội đồng Giám mục VIệt Nam đã chính thức xin mở án phong thánh cho các ngài. Tiếp nối gương sáng của các vị tiền bối, chúng ta, mỗi người qua ơn gọi và bậc sống của mình cũng hãy ra đi, thực thi lệnh truyền của Đức Giêsu Phục sinh, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Đó là lệnh truyền dành cho tất cả chúng ta, những kẻ tin vào Đức Giêsu. Người sẽ đồng hành cùng chúng ta như xưa nay Ngài đã đồng hành với các vị tiền bối, chỉ cần chúng ta can đảm ra đi. Bởi, thánh Phaolô Tông đồ đã quả quyết: Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10).
Chúa Giêsu lên trời mở ra những chân trời mới cho chúng ta: Phận người không chỉ ở nơi đất LênTrời ABC-312
Chúa Giêsu lên trời mở ra những chân trời mới cho chúng ta: Phận người không chỉ ở nơi đất thấp mà còn vươn tới tận trời cao. Đạo Chúa không chỉ giới hạn ở 1 quốc gia mà mở ra cho toàn thiên hạ.
Phận người vươn tới trời cao. Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế làm người. Thế rồi, con người Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là tin mừng vĩ đại cho loài người: Thân phận con người từ nay không dừng lại nơi đất thấp, mà vươn tới trời cao. Chúa mở ra cho toàn thể loài người một chân trời hy vọng được hưởng sự sống vinh quang đời đời trên trời. Phận người không phải là an nghỉ nơi huyệt mộ trong lòng đất, nhưng là vui sống hạnh phúc trên trời với Thiên Chúa. Phải chăng vì thế mà Chúa đã tạo dựng con người trong tư thế: Đầu đội trời, chân đạp đất. Sống nơi đất thấp, nhưng con người lại luôn hướng lên trời cao. Đất cho ta sinh sống, nhưng Trời mới cho ta lẽ sống. Đạo Chúa lan tỏa thiên hạ. Khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, thì Đạo Chúa mới chỉ giới hạn ở 1 quốc gia, nhưng khi Chúa lên trời, thì Đạo Chúa đã mở ra toàn thiên hạ khi Ngài truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” Như vệ tinh cần phải bay lên trời thì mới phủ sóng rộng toàn cầu, Chúa Giêsu lên trời cũng phủ sóng Tin Mừng khắp thế giới. Vệ tinh trên trời cần các thiết bị dưới đất tiếp nhận tín hiệu rồi truyền sóng, Chúa lên trời cũng cần các môn đệ của Ngài truyền sóng Tin Mừng, ra đi làm chứng nhân cho Chúa. Hãy ra đi lan tỏa Đạo Chúa khắp thiên hạ. Và như thế, không phải đợi sau khi chết chúng ta mới được về trời với Chúa, mà ngay khi đang sống dưới đất chúng ta cũng đã được vui hưởng niềm vui Nước Trời khi loan báo và làm chứng Tin Mừng yêu thương. Bởi vì, đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời. Amen.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời. Trong bài đọc I tác giả sách Công Vụ Tông LênTrời ABC-313
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời. Trong bài đọc I tác giả sách Công Vụ Tông Đồ miêu tả biến cố này như sau: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,9-11).
Có thể nói rằng đây là sự miêu tả bên ngoài của biến cố. Thánh Phaolô trong bài đọc II nói đến ý nghĩa ẩn dấu bên trong của biến cố này. Theo ngài, “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ep 1,22). Như thế, lễ Lên Trời cử hành sự đăng quang vinh hiển của Chúa Kitô như là Chúa của hoàn vũ.
1- Lên trời nghĩa là gì?
Trong biến cố này, lời nhắc nhở của hai thiên thần mặc áo trắng làm chúng ta nhớ đến những lời của những người vô thần thường nói với các Kitô hữu: “Sao các ông còn đứng nhìn trời?” Thật vậy, triết gia Hegel đã từng mỉa mai rằng: “Người Kitô hữu đã hoang phí những kho tàng quý báu ở dưới đất khi mải mê hướng về trời.” Karl Mark cũng cho rằng: “Các Kitô hữu đã phỏng chiếu lên trời những khao khát không được thỏa mãn của họ ở dưới đất này.” Vì thế, thánh lễ hôm nay thúc đẩy chúng ta suy tư về việc “hướng về trời.” Đây là một hạn từ được các bài đọc Kinh Thánh nói tới.
Triết gia Platon, một trong những người thầy vĩ đại nhất của nhân loại, đã nói về ý nghĩa thiêng liêng của trời. Ông để lại vũ trụ quan của mình qua dụ ngôn về cái hang. Platon hình dung loài người là một đoàn người tù nhân bị trói chặt trong một hang động u tối. Họ quay mặt vào vách tường ở dưới đáy động. Vì bị trói chặt, đám người không thể nhìn ra cửa hang, cũng không thể đi ra ngoài hang. Bên ngoài cửa hang là cả một thế giới được Platon cho là Chân, Thiện, Mỹ. Trong thế giới đó có vô số thứ tốt lành mà ông gọi là thế giới các Ý Tưởng (Ideas). Theo ông, tất cả các ý tưởng đều tuyệt đẹp, vĩnh cửu và bất biến. Các vị thần là những sinh linh hay siêu nhân có thể nhận biết tất cả những ý tưởng đó. Thương loài người bị cầm tù, các thần làm một bản sao một số ý tưởng để mang vào hang cho loài người xem. Chúng giống như những con rối hay búp bê, được làm bằng vật liệu nào đó, chúng thực là những con rối, nhưng không phải là cái thực của hình mẫu lý tưởng. Để cho mọi người trong hang nhìn thấy chúng, các thần đốt lửa đằng sau để chiếu bóng của con rối lên bức tường. Nhờ ánh sáng mà người ta thấy được bóng của các con rối.
Như thế, theo Platon, thế giới vĩnh hằng với các ý tưởng chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên. Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, đối tượng được các thần sao chép từ các ý tưởng. Thế giới của các cái bóng những con rối là hình ảnh về những sự vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người. Platon nói rằng đây là điều kiện của con người chúng ta ở trong thế giới. Thế giới này chỉ là một hang. Những điều mà chúng ta tin rằng là thực chỉ là bóng của thực tại ở đằng kia, ở trên trời. Chúng là sự bắt chước của thực tại trên trời. Vì thế, cần phải thoát khỏi thân xác là ngục tù nhốt chúng ta trong thế giới vật chất với những ảo tưởng, để “thoát khỏi hang tối” mà nhận biết thực tại đích thực. Vì thế, Platon hiểu rằng trời là quê hương vĩnh cửu của con người, chứ không phải là một không gian địa lý nào đó xa xôi trong vũ trụ này. Trời có ý nghĩa hoàn toàn khác, ở ngoài không gian và thời gian. Ông gọi đó là “thế giới của các ý tưởng” hay thế giới bên kia.
Danh họa Raffaello đã tóm tắt một cách tuyệt hảo ý tưởng của Platon trong một bức tranh nổi tiếng gọi là “Trường Athens.” Trong đó, chúng ta thấy hai nhà triết gia vĩ đại cổ, một Platon và một Aristotes, đại diện cho hai thái độ đối lập nhau. Với bàn tay chỉ xuống dưới, Aristotes nói rằng thực tại là ở trên mặt đất và sự hiểu biết của chúng ta phải khởi đi từ những sự vật mà chúng ta thấy và đụng chạm; còn Platon với ngón tay chỉ lên trời lưu ý rằng thực tại ở trên cao, trên trời.
Ngày hôm nay, tất cả chúng ta ít nhiều là những người theo Aristotes, ai cũng có cái nhìn và chú ý đến trần gian. Chúng ta cần bổ túc bởi cái nhìn của Platon.
Nếu chúng ta sống tình yêu mang tính “platonist,” nghĩa là tình yêu này có tính thiêng liêng hơn, hướng thượng hơn và lý tưởng hơn, lúc đó, cả trong tình yêu, tình yêu của chúng ta có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn. Bởi lẽ, chúng ta thấy rằng mối nguy hiểm lớn nhất là hạ giá tình yêu khi chỉ giảm thiểu nó ở trong phạm vi thuộc thể lý, cảm xúc và tính dục.
2- Sự khác biệt của Kitô giáo về trời
Có những đoạn Kinh Thánh xem ra như phác họa lại khuôn mẫu của Platon để nhìn các sự vật như được miêu tả từ dụ ngôn cái hang. Nhân vật trong bức tranh của Raffaello với ngón tay chỉ về trời chính là hình ảnh rất đẹp về thánh Phaolô khi ngài nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2).
Như vậy, Đức tin Kitô giáo có phải là một dạng cập nhật tư tưởng Platon chăng? Đức Giêsu đến không mang lại gì mới mẻ chăng? Không, chúng ta phải nói rằng có một sự khác biệt nền tảng; trời trong mạc khải Kitô giáo không phải là trời như Platon quan niệm. Kitô giáo không quan niệm thế giới theo sơ đồ không gian trên/dưới, hoặc trên cao/dưới thấp, nhưng với lược đồ thời gian hiện tại/tương lai. Khi chúng ta nói về trời, chúng ta không hiểu rằng đó là một không gian ở trên chúng ta, nhưng là một biến cố trước mặt chúng ta, hướng về biến cố đó chúng ta tiến bước. Biến cố này chính là sự trở lại vinh quang của Chúa Kitô, sự trở lại lần thứ hai (parusia) là “trời mới đất mới.”
Đó là lý do tại sao hai thiên thần nhắc nhở các Tông Đồ không hướng nhìn lên trời mà phải hướng về sự trở lại của Chúa Kitô: “Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” Liên quan đến điều này, thánh Phaolô nói: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Kinh Thánh nói rằng: “Vì trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai” (Hr 13,14).
Có ai đó sẽ nói: “Nhưng đâu có gì khác biệt?” Quả thật, có sự khác biệt lớn lao! Đối với cái nhìn của Platon, thế giới này không còn giá trị của nó. Thế giới này là một cái hang, nghĩa là một nhà tù. Nên ông dùng hai từ trong tiếng Hy Lạp khi nói: thân xác (soma) là một ngôi mộ (sema). Hãy chạy trốn, thoát khỏi thế giới này. Không có ơn cứu độ nơi thân xác và thế giới, nhưng chỉ khi con người rời khỏi thân xác và thế giới này mới có ơn cứu độ.
3- Hướng về sự trở lại của Chúa Kitô
Đối với người Kitô hữu không như thế, Kitô giáo không phải theo nhị nguyên luận như Platon. Thân xác không chỉ đơn giản là “phương tiện” hoặc là “tù ngục” cần phải trốn thoát. Thân xác con người được Thiên Chúa tiền định để tham dự vinh quang phục sinh với linh hồn. Sự phục sinh và sự lên trời của Đức Kitô minh chứng cho chúng ta chân lý này. Chúng ta được hạnh phúc “trong chính thân xác mình,” như đức tin đảm bảo điều đó cho chúng ta. Cuộc gặp gỡ với Chúa Đấng sẽ đến và “ra đi để được ở với Đức Kitô” (Pl 1,23), Người chính là “trời, là thiên đàng đối với người Kitô hữu chúng ta.”
Hơn nữa, nếu thế giới này thuộc về Thiên Chúa, được tạo dựng bởi Người, thì nó cũng được cứu độ (x. Rm 8,19), do đó, chúng ta không được tách khỏi vận mệnh thế giới, nhưng đóng góp để gìn giữ và xây dựng thế giới này đẹp hơn, tốt hơn và nhân bản hơn. Chúng ta có bổn phận phải làm cho những điều kiện sống ở đời này tốt hơn. Đức tin dạy chúng ta khi trông chờ Đức Kitô đến và hướng về tương lai không cho phép chúng ta an nhiên tự tại trong sự lười biếng hay bỏ bê bổn phận xây dựng xã hội trần thế. Thời gian được ban cho chúng ta để “làm điều thiện cho mọi người” (Gl 6,10) như thánh Phaolô dạy. Vì thế, “không được lãng phí những kho báu dưới đất khi hướng về trời.”
Nếu trời đối với chúng là “Chúa đến,” như thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức, bởi vì Người đang đến lúc này trong phép Thánh Thể, trong người nghèo, trong người đau khổ, cô đơn. Chúng ta hãy tỉnh thức để đón Chúa đến với cặp mắt không chỉ nhìn lên, nhưng còn phải biết nhìn xuống để nhận ra Chúa nơi anh chị em của mình. Amen!
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định: “Phần con, con LênTrời ABC-314
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng. ”Được cất lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa cất lên không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ. Việc Chúa về trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Việc Chúa Giêsu về trời đánh dấu sự hoàn tất của công trình cứu độ được thực hiện qua biến cố thập giá. Tuy vậy, sự hoàn tất này lại mở ra một gian đoạn mới trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã sang một trang mới kể từ biến cố phục sinh. Nhận được lệnh truyền của Chúa, các môn đệ đã hân hoan ra đi thi hành sứ vụ. Đây là một cuộc lên đường mới, đầy hứng khởi nhiệt tình. Việc Chúa được cất lên trời không làm cho các môn đệ u sầu buồn bã, trái lại các ông lại hân hoan vui vẻ, vì tin chắc có Chúa ở với mình. Từ nay, các ông được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm phép lạ mà chính Chúa đã ban cho các ông, như lời căn dặn trước khi Người về trời. Với lời “sai đi” của Chúa, lãnh vực truyền giáo không còn giới hạn trong xứ Palestina, nhưng đã mở ra những chân trời mới. Nước của Chúa không còn giới hạn ở những cột mốc lãnh thổ, nhưng lan rộng đến mọi nền văn hóa, đến mọi dân tộc. Chúa đã về trời. Cũng như trời rộng bao la mênh mông thế nào, thì vương quốc bình an mà Người đã khởi sự thiết lập cũng sẽ rộng lớn như vậy. Chúa Giêsu đã nhập thể và mang lấy thân phận con người như chúng ta. Sau khi kết thúc cuộc đời trần gian, Người đã khải hoàn về thiên quốc. Việc Chúa Giêsu về trời cũng khẳng định với chúng ta, đất và trời từ nay không còn cách biệt nữa. Dưới đất này đã có trời, và trên trời cao đã có đất. Quả vậy, nếu định nghĩa trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, thì trong “cõi người ta” này, Thiên Chúa đang hiện hữu để chúc lành và dẫn dắt chúng ta bằng cánh tay yêu thương của Ngài. Nếu định nghĩa đất là nơi con người sinh sống, thì trên trời, hiện đã có một “Con Người” là Đức Giêsu, mẫu mực chung cho tất cả mọi người về cách sống cũng như về sự hy sinh vì tha nhân. Vì thế, liền sau khi Chúa Giêsu được cất lên, trong khi các môn đệ còn bỡ ngỡ lưu luyến, thì hai sứ thần đã nói với họ: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Qua những lời này, các sứ thần muốn khẳng định với các ông rằng, các ông hãy quay về với bổn phận, vì tuy Chúa đã về trời, Người vẫn luôn hiện diện trên mặt đất này với các ông. Từ nay, mọi bước đường truyền giáo của các ông sẽ có Chúa đi cùng. Người hiện diện thiêng liêng, vô hình nơi trần gian, và Người sẽ trở lại trong vinh quang vào thời tận cùng của lịch sử. Chính vì vậy, “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước” (Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên). “Quê Trời” là niềm mơ ước của con người thuộc mọi nền văn hóa, dù khái niệm về trời rất mông lung bàng bạc. Trong quan niệm dân gian của người Việt, “Trời” không chỉ là cái vòm màu xanh ở tít trên cao, nhưng là một “Đấng”, một “Ông”, một “Vị”. Nơi “Ông Trời” người ta tin tưởng cầu xin ơn phù trợ để mọi sự tốt lành: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm” (Ca dao). Trời cũng là nơi ở dành cho các anh hùng dân tộc, những người có công với nước, như trường hợp Thánh Gióng, sau khi đánh giặc Ân, cưỡi ngựa về trời. Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: Quê trời là phần thưởng Chúa Cha dành cho người công chính. Hạnh phúc Nước trời là được chìm mình trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi, cùng với anh chị em mình. Đó là tình yêu vĩnh cửu, viên mãn, tồn tại muôn đời. Hạnh phúc Chúa Giêsu hứa ban không phải một thứ “bánh vẽ” xa vời, một thứ “thuốc phiện mê dân” ảo tưởng, Nước Trời đã hiện diện giữa trần gian, ngay ngày hôm nay, nơi cuộc đời của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận bằng con tim rộng mở và tấm lòng chân thành.
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Thăng Thiên. Chúa về trời để dọn chỗ trước cho chúng ta LênTrời ABC-315
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Thăng Thiên. Chúa về trời để dọn chỗ trước cho chúng ta, Đức Giêsu trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Ngài giữa thế gian và loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.
Trước khi Chúa siêu thăng về trời, Ngài đã ra lệnh cho các môn đệ “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật “ ( Mc 16, 15 ). Chúa về trời là về với Thiên Chúa Cha. Chúng ta là con cái của Ngài.Chúng ta tin vào Ngài, chính Ngài đã nói :” Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sống lại “ và “ Ta đi để dọn chỗ cho các ngươi “. Do đó, đích đến của mỗi người Kitô hữu chúng ta là Nước Trời. Cuộc hành trình đức tin đi về quê trời là cuộc hành trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn, phải can đảm, vững mạnh, kiên quyết vượt thắng tội lỗi, đích đến là ở bên kia, là phía trước, thật gần nhưng cũng rất xa xôi.Nên, những bước chân gần gũi của chúng ta là đến với anh em ở mọi nơi, ở khắp cùng thế giới, những bước chân rao giảng Tin mừng, loan báo Đức Kitô. Phúc Âm mà chúng ta được Hội Thánh và chính Chúa sai đi là gieo rắc tình yêu.Tin mừng là chính Chúa yêu thương thế gian, yêu thương con người. Tin mừng là chính ai tin thì sẽ được lãnh nhận bí tích rửa tội, sẽ được cứu độ. Phúc Âm đó là Chúa ban cho chúng ta Lời để loan báo tình thương và ban cho chúng ta quyền năng làm phép lạ, và đến với mọi hạng người, không phân biệt bất cứ ai, bất cứ người nào bởi vì bất cứ ai tin cũng được Chúa đón nhận, được Chúa cứu độ.
Người Galilê xưa cứ nhìn lên trời để hy vọng dõi theo Chúa về trời. Thực tế là không chỉ nhìn lên trời, nhưng người Kitô hữu hãy hăng say đi loan báo Tin mừng, vì thế giới còn biết bao người chưa nhận biết Chúa đúng như lời Chúa nói :” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt “. Chúa về trời, nhưng Ngài vẫn hiện diện với chúng ta, với nhân loại cho đến ngày tận thế.Chúa về trời, Ngài dùng miệng lưỡi của chúng ta để loan báo Tin Mừng, dùng đôi tay của chúng ta để giúp đỡ con người, để thi ân cho người khác, dùng đôi chân của chúng ta để đến với những con người nghèo khổ vv…Chúa về trời nhưng người vẫn luôn muốn :” Xin cho chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha “. Chúa về trời nhưng Ngài vẫn luôn mong ước :”…để những người Cha ban co Con cũng ở đấy với Con “ ( Ga 17, 24 ).
Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ trọng đại nhất của người Công giáo chúng ta. Chính vì thế, chúng ta có thể dùng hình ảnh của các vận động viện chuyền ngọn lửa thiêng trong một cuộc chạy tiếp sức để ngọn lửa được châm và cháy rực lên trong suốt cuộc thi đấu của Olympic hay một thế vận hội nào của thế giới.
Chúa Giêsu Phục Sinh trước khi về trời đã trao cho các môn đệ, cho Hội Thánh ngọn lửa đức tin, ngọn lửa của công cuộc truyền giáo, và các tông đồ, các môn đệ cùng tất cả Giáo Hội tiếp tục công việc cứu thế của Chúa cho đến ngày tận thế.
Đức Giêsu Kitô đã dạy các môn sinh của Ngài :” Các con là muối ướp cho đời, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó . Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là thành phố xây trên núi…Cũng thế, ánh sáng của các con phải chiếu sáng lên trước mặt thiên hạ, để họ nhìn xem những việc thiện chúng con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời “ ( Mt 5, 13-16 ).
“ Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay,Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển.Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường rước chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời “. Amen. ( Lời nguyện Nhập lễ Thăng Thiên ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa về trời để làm gì ? 2.Sứ mạng Chúa trao cho Hội Thánh là gì ? 3.Lễ Thăng Thiên là lễ thế nào đối với chúng ta ? 4.Sống lại, Chúa đã ở với các môn đệ bao lâu ? Rồi Ngài đi đâu ? 5.Tại sao lại ví công cuộc truyền giáo giống như một cuộc chuyền lửa tiếp sức ?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra căn dặn các môn đệ của mình và ban cho các LênTrời ABC-316
Trước khi về trời, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra căn dặn các môn đệ của mình và ban cho các ông lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (Mc 16, 15). Lệnh truyền ấy đã hối thúc muôn tâm hồn miệt mài ra đi trên cánh đồng sứ vụ. Họ hăm hở ra đi truyền rao Tin Mừng. Từng thế hệ nối tiếp nhau, không có khó khăn hay gian khổ nào có thể cản bước tiến của họ, vì trong tâm hồn họ và bên cạnh họ luôn có Thầy Giêsu hiện diện.
Ta cũng là người môn đệ của Chúa, đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được ơn cứu độ. Ta sẽ ra đi truyền rao Tin Mừng bằng cách nào đây?
Khi muôn người tông đồ của Chúa ra đi, can đảm đến những vùng đất truyền giáo xa xôi, họ mang ánh sáng của Tin Mừng đến cho những “người mù” chưa nhận biết Chúa; cũng có những tâm hồn không có cơ hội cất bước đến vùng truyền giáo, nhưng tâm hồn họ đầy tràn nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ rằng, một nữ tu dòng kín như Chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu lại trở nên một vị thánh bổn mạng cho các xứ truyền giáo. Cũng có những con người ngày đêm âm thầm gieo vãi hạt giống đức tin và Thiên Chúa vẫn không ngừng chúc lành cho những hạt giống ấy. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng: “Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ…” (Mc 16, 17). Nếu như ta bắt đầu một công việc tốt lành nào đó và ý thức rằng ta đang làm trong tình yêu Giêsu, đang nhân danh Thầy mà thực thi tình yêu thì chắc hẳn chính Thầy sẽ chúc lành cho công việc ta làm. Từ những việc nhỏ nhặt nhất như cho một em bé ăn, chăm sóc một người bệnh, tiếp chuyện một người và nhiều việc không tên khác, nếu như ta đặt trọn tình yêu thì tình yêu chân thành của ta gửi đến họ, họ sẽ cảm nhận được.
Cũng vậy, khi ta sống cuộc đời mình với từng phút giây luôn ý thức có Chúa cùng hoạt động với ta thì quả thật là một niềm hạnh phúc lớn lao. Các Tông đồ cũng đã trải qua từng phút giây hạnh phúc tuyệt vời. “Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Đâu là dấu lạ sẽ kèm theo để xác nhận lời ta rao giảng đây? Đó chẳng phải là nụ cười hồn nhiên trong sáng của những bé thơ bên cạnh ta, hay đơn giảng chỉ là một ánh mắt tin tưởng của một bà cụ được ta dẫn qua đường, … Niềm vui và hạnh phúc chân thành ta trao ban sẽ còn lưu lại trong trái tim những người ta gặp gỡ. Không phải chính tài năng của ta đã đem lại cho họ điều đó nhưng là chính tình yêu Giêsu cháy bừng trong ta đã thắp lửa hạnh phúc cho họ.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã lên trời nhưng Chúa vẫn còn ở lại với chúng con luôn mãi nơi Bí tích Thánh Thể. Xin cho con từng ngày đón nhận Chúa bằng cả tâm hồn mình và luôn dâng hiến chính mình cho Chúa. Lạy Chúa! Chúa đã muốn đến với con và cùng con đến với mọi người. Con tạ ơn Chúa! Amen.
Cuộc đời là cay đắng. Cuộc đời thật là chông gai. Cuộc đời như những cơn sóng có lúc vỗ mạnh LênTrời ABC-317
Cuộc đời là cay đắng. Cuộc đời thật là chông gai. Cuộc đời như những cơn sóng có lúc vỗ mạnh dồn dập, có lúc gợn nhẹ và có lúc lặng lẽ, nhẹ nhàng thướt tha. Xưa kia các môn đệ chẳng phải trải qua những thăng trầm ấy khi sống cùng với Thầy sao?
Khi mới theo Thầy Giêsu, các môn đệ có những ước mơ hoài bão và dự tính cho tương lai. Trong khoảnh khắc Thầy Giêsu chưa đi vào cuộc Vượt Qua, các môn đệ có cuộc sống thân mật, vui vẻ cùng Thầy. Các ông được Thầy Giêsu yêu thương và nâng đỡ, được đồng bàn mỗi ngày. Mọi người xung quanh cũng vui và kính nể các ông. Thế rồi, giờ đã tới, Thầy Giêsu đi vào cuộc sóng gió, thì các môn đệ nhận thấy hoang mang, lo sợ và chạy tán loạn. Các ông không dám đối diện với sự thật đang diễn ra và bắt đầu khép mình lại trong bốn bức tường. Ngày ngày, các ông sống trong sự buồn rầu, bóng tối thì thỏa sức bao phủ, chiếm lấy tâm hồn và lòng trí các ông. Rồi, một luồn tia sáng chiếu soi căn phòng đã đánh tan bóng tối ấy. Ánh sáng ấy là sự sống của Thầy Giêsu. Từ lúc ấy, các ông bắt đầu tiếp xúc với Thầy trong nhịp sống xuất hiện bất ngờ và biến đi bất ngờ. Dầu là vậy, các môn đệ vẫn được Thầy Giêsu giảng dạy và khơi nguồn sức sống nơi tâm hồn, trái tim mỗi ngày. Thầy mời gọi các môn đệ hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. (x. Mc 16,15). Thầy Giêsu còn mời gọi các môn đệ hãy mở lòng ra, hãy sống lại và thoát ra khỏi sự u buồn, sợ hãi và hãy vui lên, ra đi loan báo Tin Mừng, loan báo mầu nhiệm Đức Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang. Các môn đệ sẽ ra đi trong ân sủng của Thầy Giêsu là trừ được quỷ, nói những tiếng mới lạ cùng đặt tay trên những bệnh nhân. (x. Lc16,17-18). Sau khi nói những lời ấy nơi ngọn núi cao, Thầy Giêsu được các Thiên Thần rước lên trời. Còn các môn đệ lòng đầy hân hoan. Bên trong các môn đệ bây giờ đã có một tình yêu siêu thoát và tâm trạng nặng nề không còn là gánh nặng nữa. Những ngày qua, các môn đệ đã đi vào dĩ vãng thì từ nay các ông hướng tất cả tâm trí về sứ mạng của Thầy trao ban với một lòng tin yêu nhiệt thành; và được chứng kiến việc Thầy rước lên Trời như đã thôi thúc các môn đệ tìm kiếm những điều trên cao, nơi Thầy đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Thầy Giêsu phải ra đi, phải về Trời thì Thầy mới sai Chúa Thánh Thần và chính Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các môn đệ và hướng dẫn cho các ông. Đó cũng là những tâm tình và vẻ đẹp tình yêu của Thiên Chúa mà Hội thánh đã mừng lễ Thăng Thiên, lễ vui tươi và trông cậy. Nào, chúng ta hãy hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, cùng lắng nghe và thực hành sứ mạng của mình trong mỗi ngày sống như các môn đệ.
Lạy Chúa, xin cho con đừng u mê và mải mê trần thế mà cùng hướng lên Trời. Xin cho mỗi người chúng con thi hành sứ mạng là bổn phận hằng ngày một cách vui tươi, nhiệt thành. Nhờ đó, trong ngày sau hết chúng con cũng được rước lên Trời với Thầy. Amen.
Giê-su ngước mắt nguyện cầu, Lạy Cha chí thánh, khấu đầu khấn van. Những người Cha đã LênTrời ABC-318
Giê-su ngước mắt nguyện cầu, Lạy Cha chí thánh, khấu đầu khấn van. Những người Cha đã trao ban, Kết đoàn hợp nhất, chung đàn chiên con. Xin Cha gìn giữ chúng con, Không ai bị mất, héo hon loại trừ. Trừ ra môn đệ thoái hư, Trọn lời Kinh Thánh, riêng tư phản Thầy. Khi còn dưới thể tỏ bày, Vui mừng phấn khởi, khi Thầy ra đi. Những điều Con đã thực thi, Từ Cha ban xuống, phát huy rạng ngời. Chúng còn hiện diện trong đời, Người ta ghét bỏ, một thời gian nan Vì chúng không thuộc thế gian, Xin Cha thánh hóa, ban tràn ân thiêng.
Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha để xin cho chúng ta được ơn hợp nhất nên một. Chúa không cầu xin để cất nhắc con cái ra khỏi thế gian mà vẫn sống trong thế gian, nhưng không ai bị hư mất. Sống giữa thế gian là sống giữa một xã hội xô bồ. Chúng ta phải chiến đấu từng ngày với những cơn cám dỗ, những khó khăn và phải phấn đấu không ngừng.
Không ai có thể bảo đảm được rằng mình sẽ luôn đứng vững và sống thánh thiện. Cuộc đời mỗi ngày là một thách thức mới và những nhu cầu đòi hỏi mới. Ai có thể nói, tôi bấy nhiêu tuổi rồi, tôi vẫn kiên vững trong niềm tin, trong sạch trong việc làm, dịu hiền trong các cư xử, thật thà trong mọi lời nói và trong trắng trong tâm hồn. Hãy ý tứ! Chúng ta cần cầu nguyện luôn để được đứng vững trước mặt Chúa.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta sống giữa thế gian mà không bị nhiễm tội thế gian. Chúa biết trước các môn đệ của Chúa sẽ phải đối diện với muôn vàn thách thức ở đời. Chúa không còn hiện diện bên cạnh để nâng đỡ và ủi an. Chúa đã xin Chúa Cha sai Thánh Thần Chân Lý đến để phù trợ. Chúa quan tâm đến sự hợp nhất giữa anh em, sự kiên trì trong niềm tin và bảo toàn trong sự thật. Chúa không cầu nguyện để họ khỏi bị đau khổ và bắt bớ nhưng cầu cho họ được sự kiên trì.
Giáo Hội Công Giáo cũng đã trải qua biết bao thăng trầm. Nhiều cuộc chia rẽ đưa đến phân biệt Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương, ly giáo, Chính Thống Giáo, thệ phản Tin Lành có trên 700 Giáo phái khác nhau, rồi các nhóm riêng tư muốn tự lập trong Giáo Hội. Sự hợp nhất nên một rất quan trọng. Giáo Hội muốn hợp nhất nhưng con người lại không muốn. Ai cũng khư khư nghĩ mình là đúng nhất, tốt nhất và truyền thống nhất. Để rồi tự tách mình ra khỏi thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Chúng ta hãy nhìn về Chúa Kitô, Ngài chính là trung tâm điểm của thế giới.
Chúng ta cứ tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mỗi người có cách rao giảng và sống lời Chúa riêng biệt. Truyện kể có một bà cụ già sống dưới chế độ vô thần đã viết thơ cho cháu ở Hoa Kỳ. Lá thơ nào bà cũng viết Phúc âm. Cháu nghĩ là lời khuyên của bà ngầm chứa điều gì. Sau đã nhận ra rằng bà có ý viết và cho người kiểm duyệt được đọc. Biết đâu lời Chúa sẽ thay đổi tâm hồn của họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới hưởng thụ. Rất khó để nhận ra đâu là chân lý và đâu là sự dữ vì xã hội bị dẫn đi vào con đường tục hóa. Hãy cầu nguyện để chúng ta vững vàng trong niềm tin. Tiếp tục sống chứng nhân cho chân lý giữa dòng đời.
Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh LênTrời ABC-319
Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó ” Người lên Trời” (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở : “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cvtđ 1, 11). Sự kiện ấy cũng lôi kéo tâm hồn chúng ta lên với Chúa, làm chúng ta nhớ lại lời Chúa hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời và mong cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế.
“Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha“. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông : “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất” (Cvtđ 1, 8 ). Từ đây nhiệm vụ được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha tặng ban, Ngài là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu “ đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa ” (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật ” (Mc 16, 15). Dựa trên lời Thầy, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép rửa cho họ, nói cho họ biết về Thiên Chúa để họ tin mà được cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô “cho đến tận cùng trái đất” (Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo, dẫu biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa lên Trời, và trở lại.
Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc : “Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy” ( Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962 ). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : ” Chúa Giêsu lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa ” (Mc 16, 19).
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, ” Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Ðàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.
Chúa Giê su lên trời đánh dấu một lịch sử mới của nhân loại. Từ nay, trong Chúa Ba Ngôi có LênTrời ABC-320
Chúa Giê su lên trời đánh dấu một lịch sử mới của nhân loại. Từ nay, trong Chúa Ba Ngôi có một con người, như nhà thần học Romano Guardini đã nhận định. Dù con người vẫn đang sống dưới thế này, nhưng cuộc sống luôn được quy hướng về Chúa Cha, vì con người đã có mặt ở nơi Chúa Con đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Cuộc sống luôn hướng về.
Con người tín thác vào Chúa luôn là con người “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17, 16). Là một lữ hành trên hành trình về với Chúa Cha, nên con người tin Chúa luôn xác tín quê hương đích thực là trên trời.
Một hành trình sống trong trần gian không thuộc về thế gian, mời gọi người tín hữu “Tiên vàn mọi sự hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, các điều khác Người sẽ ban cho sau” (Mt 6, 33). Không quá mải mê trần thế mà quên mất thiên đàng, vì thiên đàng ở ngay trong trần thế khi xây dựng được sự công chính và trật tự, an sinh, bình an.
Xin Chúa giữ gìn.
Thế gian bị lên án là một thế gian của sự tham lam, hưởng thụ, kiêu căng, loại trừ Thiên Chúa, tranh giành sự sống của người khác, làm mất phẩm giá của con người… Một thế gian đầy bất công, giả dối, lường gạt và vơ vét… Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17, 15).
Đấng được Chúa Cha ban cho con người là Chúa Thánh Thần, Đấng giữ gìn con người tin vào Chúa Giêsu khỏi ác thần. Đấng làm cho người tín hữu được sáng tỏ trong chân lý, vững mạnh trong đức tin, sẵn sàng sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian.
Mưu chước của thế gian vô lường, người tín hữu dù là con cái sự sáng nhưng lại dễ bị mắc bẫy và thường thật thà lại thua thiệt, Chúa Giêsu trong câu truyện người quản lý bất lương nói: “Vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng” (Lc 16, 8)
Chúa hứa ban gấp trăm đời này và đời sau, có ý nghĩa gì cho cuộc sống người tín hữu, khi thường sống giữa những sự dữ? Sống lương thiện không dễ dàng! Ra đường thì nạn mãi lộ, đồng lương không bằng đồng lậu, ngay thẳng thì ra bên ngoài, không nịnh hót, bè phái thì không có chỗ dung thân… Chính vì những khó khăn như vậy, người Kitô hữu cần nhờ đến Chúa Thánh Thần soi dẫn và trợ lực. Đấng xoay chuyển sự dữ ra sự lành. Đấng làm cho mọi sự đều có thể, như Thánh Phaolô, ngài xác tín khi đương đầu với khó khăn: “Ơn Ta đủ cho ngươi” (2Cor 12, 9).
Hướng về và ở lại trong Chúa Cha qua đời sống kinh nguyện.
Đời sống kinh nguyện của người Kitô hữu khác hẳn với kinh nguyện khác. Trong mọi lời cầu nguyện đều ở trong Thiên Chúa, chứ không ở bên ngoài kêu cầu đến. Chúa Thánh Thần luôn hoạt động làm cho lời cầu nguyện được ở trong Chúa Giêsu và dâng lên Chúa Cha, Thánh Phaolô viết cho người tín hữu Galat: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! ” (Ga 4, 6).
Lời kinh nguyện dù đọc dưới hình thức cá nhân nhưng vẫn là kinh nguyện của cộng đoàn. Người tín hữu không đơn độc trên đường lữ hành về nhà Cha. Luôn có Chúa Giêsu là Đấng đồng hành, có Chúa Thánh Thần là sức mạnh hỗ trợ khi chân mệt gối mỏi. Cùng nhau tiến bước trong Chúa Thánh Thần, kết hợp cùng Chúa Giêsu. Kinh nguyện trở nên hơi thở cho đời sống, để sống dồi dào và sống vững mạnh trong niềm phó thác và trông cậy.
Cầu nguyện là ở trong Chúa, nên không chỉ là nguyện xin mà thường là tạ ơn. Những ơn lành mọi điều thiện hảo đều từ Chúa Cha ban cho, hết ơn này đến ơn khác, “tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cor 15, 10). Tạ ơn như thế là hướng về nguồn cội của người tín hữu, đưa hoàn vũ này hướng về Chúa.
Chúa Giêsu về trời, mang theo con người nhân loại về cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Thánh Thần, con người được tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Xin cho chúng con sống sức sống vui tươi, mạnh mẽ, tươi trẻ trong Chúa để gắng làm cho xã hội đang sống được tốt hơn, con người sống hạnh phúc hơn, nhiều người nhận biết Chúa.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng LênTrời ABC-321
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời, những chữ lên trời bị chi phối bởi cách suy nghĩ có giới hạn của con người. Theo cách suy nghĩ đó, các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Con người đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Trời ở đây không phải là một khoảng không gian rõ rệt, nhưng là một tình trạng (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 659-667, 2794-2796) mà Chúa Giêsu đi vào trong đó để dẫn chúng ta theo.
Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ bình dân của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Ngày xưa khi Chúa Giêsu nhập thế thì gọi là ‘xuống trần’. Hôm nay Người trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là ‘lên trời’. “Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Eph 4,10). Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi trên chốn bồng lai tiên cảnh đầy mây, nhưng đó là tình trạng Người đã lấy lại vinh quang. Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời nghĩa là sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ, Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần. Người chính là “vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời, để đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người (x. Pl 2,10-11).
Chúa Giêsu lên trời, điều đó dạy cho chúng ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.
Trời không phải là một nơi chốn xác định, là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.Lên trời không phải là bay bổng lên không gian, nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa. Lên trời không phải là vắng mặt, là xa cách nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.
Chúa Giêsu lên trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người và như thế đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô. Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Chúa Giêsu lên trời, đưa mọi người về trời với Người vì chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. Thánh Phaolô trong bài đọc II (x.Ep 1,17-23) đã nói, Giáo hội là Hiền thê của Chúa Giêsu, Người là đầu và chúng ta là những chi thể. Khi Chúa Giêsu về trời là mỗi người cũng được chia sẻ thần tính của Người, đi vào một tình trạng kết hợp hoàn toàn mới mẻ với Người. Điều này không phải chỉ xảy ra sau khi ta chết, nhưng có thể thực hiện ngay trong đời sống trần thế như đời sống của nhiều tín hữu đã chứng minh: thánh Phaolô được đưa lên tầng trời thứ ba (x. 2Cr 12,2). Nhiều vị thánh như Phanxicô Assidi, Gioan Thánh Giá, Catarina de Sienna… cảm nghiệm trời trong những lần xuất thần; còn thánh Têrêsa Calcutta lại thấy trời giữa lòng xã hội với những con người khốn khổ, bệnh tật.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Chúa Giêsu lên trời, mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ.Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa Giêsu lên trời, hướng chúng ta đến cái nhìn lên trời cao và cái nhìn về trần thế.
– Hướng lên trời cao để biết rằng quê hương vĩnh cửu của ta ở trên trời, nơi đó có Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha, để ta biết “ái mộ những sự trên trời” và biết sống niềm hy vọng một ngày nào đó sẽ được trở về với nguồn cội của mình là thiên đàng vĩnh phúc.
– Hướng về trần thế để biết chu toàn bổn phận xây dựng cuộc sống trong giây phút và hoàn cảnh hiện tại của mỗi người, để biết thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao phó với một thái độ tin tưởng là có Chúa luôn đồng hành.
Nếu bám vào một thứ vật chất nào đó, như những người nghiện ma túy, rượu bia, phim đồi trụy hay tìm thỏa mãn dục vọng, người ta có thể cảm thấy sung sướng như được lên trời trong giây lát. Nhưng đó không phải là trời thật sự vì chúng làm cho người ta bất an, lệ thuộc, tàn tạ, chết chóc. Còn khi vượt lên trên những vật chất, tham vọng, dục vọng, để gắn bó mật thiết với Chúa, chúng ta sẽ được Người chuyển thông sự sống kỳ diệu, hạnh phúc vô biên, niềm vui vô tận, quyền năng lạ lùng. Lúc đó chúng ta cảm thấy mình lên trời với tâm trí nhẹ nhàng, thanh thoát.
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển rất nhanh. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Chủ đề của Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông xã hội năm 2018 là “Tin giả và một nền báo chí vì hòa bình: Sự thật sẽ giải thoát anh em!”. Tin giả là những thông tin sai lạc dựa trên những dữ liệu không tồn tại hoặc bị bóp méo để lừa dối và thao túng độc giả. Tin giả thường dẫn đến việc làm mất uy tín của người khác, trình bày những người ấy như kẻ thù, thậm chí như ma quỷ, và nung nấu lòng căm thù họ. Tin giả là một dấu chỉ của thái độ thiếu khoan dung, quá nhạy cảm, kiêu căng và thù hận.
Chứng kiến tình hình tin giả đang lan rộng trong một thế giới chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi sự thay đổi nhanh chóng các kỹ thuật truyền thông, ĐGH Phanxicô muốn đưa ra một sứ điệp để cộng tác với mọi người trong nỗ lực ngăn chặn sự lan rộng của tin giả, đồng thời tái khám phá phẩm giá của báo chí cũng như trách nhiệm của các nhà báo trong việc truyền đạt sự thật.
Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho vi khuẩn giả dối là luôn biết thanh lọc mình trong sự thật. Theo Kitô giáo, sự thật không chỉ là điều được đưa ra ánh sáng sau khi bị che giấu, mà là nơi chúng ta có thể dựa vào để cuộc đời của ta không bị sụp đổ. Và nơi đó chính là Đức Kitô, như lời Ngài xác định: “Ta là sự thật” (Ga 14, 6). Và sự thật này sẽ cho ta được tự do: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32). Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho vi khuẩn giả dối chính là kết hiệp với Đức Kitô và thực hiện Lời Ngài.
Các nhà báo có trách nhiệm và sứ mạng rất lớn trong việc bảo vệ tin tức. Sứ mạng này đòi hỏi họ phải luôn ý thức rằng: Thông tin cho người khác chính là đào tạo người khác, vì thế các nhà báo phải luôn quảng bá sự thiện, tạo ra lòng tin, mở đường cho sự hiệp thông và hoà bình.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại.
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
Có một vấn nạn không dễ gì lý giải: địa điểm Chúa lên trời thực sự ở đâu, Ga-li-lê-a hay Giê-ru-sa-lem LênTrời ABC-322
Có một vấn nạn không dễ gì lý giải: địa điểm Chúa lên trời thực sự ở đâu, Ga-li-lê-a hay Giê-ru-sa-lem, hai địa điểm cách nhau tới vài trăm cây số? Tác giả Lu-ca khảng định rất rõ ràng: tại Giê-ru-sa-lem, địa điểm đó gần Bê-ta-ni-a (Lc 24, 47.50; Cv 1, 4-12), trong khi Mát-thêu lại xác định: một ngọn núi miền Ga-li-lê-a (Mt 28, 16). Tôi đã đặt câu hỏi này cho hướng dẫn viên chuyến hành hương Đất Thánh năm 2005, giáo sư Coffele của đại học UPS và nhận được câu trả lời: ‘truyền thống’ luôn xác định là Giê-ru-sa-lem (lúc đó chúng tôi đang viếng đền thờ Thăng Thiên, do người Hồi Giáo quản lý, có cả tảng đá in vết chân Chúa khi Ngài cất lên trời!) Điều đó cho thấy, khi Kinh Thánh đề cập tới bất cứ biến cố nào thì điều quan trọng nhất cần lưu tâm vẫn là nội dung của sứ điệp hơn là chính sự kiện. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Về biến cố Đức Giê-su phục sinh thăng thiên thì chỉ có Lu-ca mới tường thuật cách tương đối chi tiết, trong khi các tác giả khác, hoặc không đề cập gì (Gio-an, Mát-thêu), hoặc chỉ thoáng qua mà thôi (Mác-cô).
Tin Mừng Mát-thêu hôm nay, thay vì mô tả chính biến cố Chúa về trời thì chỉ đơn giản ghi lại những lời căn dặn và trăn trối đầy tâm huyết cuối cùng Chúa gửi gắm tới các môn đệ thân yêu trước khi xa rời họ vĩnh viễn.
Trong giờ phút ly biệt chấm dứt cuộc hiện diện trần thế, Đức Giê-su long trọng công bố Vương Quốc Người chính là quyền lực yêu thương của thập giá đã được vĩnh viễn xác lập và bao trùm: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”; đồng thời Người căn dặn các môn đệ ở lại, và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Như vậy Thăng Thiên trước hết phải được hiểu như một mệnh lệnh ‘ra đi’ để mở rộng vương quốc Ki-tô. Chúa về trời là để tạo điều kiện cho các môn đệ có thể tự do lên đường. “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em hơn” (Ga 16, 7). Chúa về trời là để vương quốc tình yêu của Ngài được mở rộng tới mọi nơi, tới mọi cõi lòng. Hướng nhìn của biến cố ‘Chúa lên trời’ không phải là không gian vũ trụ vô tận, mà là đi sâu vào niềm tin bên trong tâm hồn con người. “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1, 11) Sự hùng vĩ và huy hoàng của ‘lên trời’ không phải là một thứ ánh sáng chói lòa của tinh tú hay mây trời, nhưng là “anh em nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em… anh em là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Như vậy việc mừng ‘Chúa lên trời’ đối với các Ki-tô hữu sẽ đồng nghĩa với việc xác định lại niềm tin vào quyền lực tình yêu của Thầy Giê-su, và khảng định lại quyết tâm mở rộng vương quốc đó tới mọi tâm hồn và cho tới tận cùng trái đất. Do đó Thăng Thiên chính là một biến cố nội tâm sâu xa nhất, một đòi hỏi khắt khe nhất của niềm tin.
“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, lời trăn trối tâm huyết làm sao chính vào lúc hình bóng Thầy Giê-su lặng lẽ bị mây trời che khuất. ‘Xa mặt thì cách lòng’, thói thường vẫn thế… Đức Giê-su thì khảng định ngược lại, khi ‘các ông không còn thấy Người nữa’ thì lại là lúc Người ‘cận lòng’ và gần gũi thắm thiết với từng môn đệ hơn bao giờ hết. Thậm chí sự gần gũi thắm thiết này còn được hiện thân hóa bằng cả một nhân vật kỳ diệu được Người sai phái đến: Thần Khí – Đấng Bảo Trợ – Thần Chân lý. Các môn đệ mừng vui là phải bởi vì ‘Chúa về trời’ đâu phải là mất mát, là xa cách. Các ông được lợi, lợi rất nhiều, nhiều tới mức sung mãn nhất: họ được sở hữu Thầy Giê-su cách trọn vẹn và vĩnh viện, qua sự hiện diện phong phú tột cùng của Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn. “Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em…” (Ga 14, 17). Câu Đức Giê-su nói với tông đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29) đang lộ rõ nội dung cụ thể, phong phú và thâm sâu nhất của nó, có giá trị cho hết mọi thời, tới tận thời đại chúng ta hôm nay.
Mừng Chúa Thăng Thiên là như thế; không phải mừng vì Đức Ki-tô được vinh thăng, mà thực chất là mừng cho người môn đệ là mỗi chúng ta được cất nhắc lên cách kỳ diệu. Niềm vui đó ta có được không phải vì chăm chú nhìn lên trời, cho dầu đó là thiên đàng đi nữa, để mà mơ ước và chờ đợi, nhưng vì đi xâu vào nội tâm, nơi Thần Khí Đức Ki-tô Giê-su hiện diện và tác động, để nghiệm thấy tình yêu mạnh mẽ của Người, và sẵn sàng để cho tình yêu đó thúc đẩy ta lên đường công bố niềm vui phục sinh cho mọi tạo vật.
“Hãy đi vì có Thầy luôn ở cùng!”
Lạy Chúa Thăng Thiên vinh hiển, con xin được ca ngợi Chúa đã lên trời trong âm thầm lặng lẽ hơn là trong hoành tráng phô trương. Con cảm tạ Chúa đã ra đi vĩnh viễn để niềm tin con tập trung hơn vào Thần Khí đã được Người sai đến và đang ngự trị trong thâm sâu cõi lòng con. Do đó xin cho con luôn xác tín rằng: Chúa hằng ở cùng con, và sức mạnh tình yêu của Thần Khí Người luôn thôi thúc con lên đường. A-men.
Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm LênTrời ABC-323
Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm gì? tôi sẽ về đâu sau cái chết? chắc hẵn ai trong chúng ta cũng muốn mình được bình an, hạnh phúc, được chết lành và được phần thưởng thiên đàng sau khi chết. Nhưng ai có thể bảo đảm cho ta rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau? Lời Chúa tuần này Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn… nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.
Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta , đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi…. để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.
Lễ Chúa Thăng Thiên muốn nhắn gởi cho chúng ta một thông điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết sống và đem Đức Kitô đến với hết tất cả mọi người đang vác thập giá để họ cũng biết biến thập giá thành thánh giá như Đức Kitô, để mai sau cũng được lãnh nhận phần thưởng vinh phúc đời sau mà Chúa hứa ban cho những ai trung tín bước theo Ngài. Amen.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng về biến cố Chúa Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha LênTrời ABC-324
Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng về biến cố Chúa Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha sau khi hoàn tất công việc cứu độ nhân loại qua sự chết và sự Phục Sinh của Người. Ơn cứu độ có tính phổ quát, Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người. Vì thế trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc của Người là rao giảng Tin mừng cho muôn dân: “Anh em hày đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin mừng x cho mọi loài thụ tạo”. Vì thế, qua bài Tin mừng, chúng ta thấy viễn tượng Truyền Giáo của giáo hội.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay giáo hội muốn chúng ta xác tín vào sự sống đời sau, vào quê hương Nước Trời, hạnh phúc Thiên Đàng là nơi các Thánh được hưởng hạnh phúc trong Thiên Chúa, nơi dành riêng cho những người được Thiên Chúa ân thưởng: “Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà, là quê hương của ta” (GLHTCG 2795). Quê trời là nơi vĩnh cửu, diễm phúc mà con người hướng tới trong khi chu toàn trách nhiệm xây dựng và phát triển quê hương trần gian (GLHTCG 373).
Như thế theo sách GLHTCG, thì Thiên Đàng là quê hương vĩnh cửu của chúng ta, nhưng trần thế là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Quê hương Thiên Đàng tùy thuộc vào cuộc hành trình trần thế của người Kitô hữu. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng, thì có lẽ là không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn nhiệm vụ của mình ở đời này, thực hành lời Chúa, sống bác ái yêu thương, giúp đỡ những người nghèo khổ… Bài đọc 1, sách Cv đã ghi lời sứ thần: “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng đó mà nhìn trời”. Các thiên thần nhắc các tông đồ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, đó là việc ra đi loan báoTin mừng cho muôn dân để tất cả mọi loài thọ tạo đều được hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hoàn thành các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng vinh phúc tuyệt hảo và vĩnh viễn (GLHTCG 1024). Như thế, Thiên đàng là mục đích, cứu cánh của con người, nơi mà tất cả chúng ta phải hướng tới là quyết tâm phấn đấu đạt được quê hương nước Trời. Nếu kết thúc cuộc sống trần gian chúng ta không đạt được Thiên đàng, thì chúng ta là người bất hạnh nhất. Chúa Giêsu đã có lần nói: “Lời lãi cả thế gian này, mà thiệt mất linh hồn thì được ích lợi gì”.
Ngày nay trong một xã hội văn minh, kinh tế thị trường, của cải vật chất phong phú, người ta chủ trương hưởng thụ, tục hóa, muốn loại bỏ Thiên Chúa, không tin có sự sống đời sau… Họ không muốn ngước mắt nhìn trời vì quá mỏi cổ, vì mải mê thực tại trần gian: tiền tài, danh vọng, địa vị, thú vui vật chất. Họ muốn xây dựng một thiên đàng tại thế. Nhiều người kitô hữu hôm nay cũng có thái độ vô thần, thờ ơ bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, có thái độ duy vật coi của cải trần gian là mục đích cuộc đời, chết là hết!
Biến cố Chúa lên trời là câu trả lời cho con người trong xã hội hôm nay: chúng ta sẽ được lên trời hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời trong nhà Cha nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa và thực thi lời Chúa.
Những ngày sống lữ hành trần gian là để đi vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng phấn đấu đạt cho bằng được, luôn đi tới đích. Đường vào Nước Trời thiên niên vạn nạn. Kinh thánh nói: “Người ta phải dùng sức mạnh, và chiếm lấy Nước Trời. Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”. Tất cả mọi thành công, hạnh phúc trên đời đều phải trả giá rất mắc, đòi hỏi nhiều cố gắng, công lao, vất vả…
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên nhắc nhở chúng ta: luôn hướng về quê hương thật là Nước Trời và sống đạo thật tốt để sau này được về nhà Cha hưởng hạnh phúc Thiên đàng. Đồng thời mời gọi chúng ta đi sâu vào thế giới loan báo Tin mừng cho mọi người bằng cuộc sống chứng nhân, bằng cuộc sống lương thiện, cuộc sống tốt đẹp của mình trong xã hội hôm nay.
CHÚA VỀ THIÊN QUỐC SÁNG NGỜI VINH HIỂN. CON Ở THẾ TRẦN KIÊN VỮNG CHỨNG NHÂN LênTrời ABC-325
CHÚA VỀ THIÊN QUỐC SÁNG NGỜI VINH HIỂN CON Ở THẾ TRẦN KIÊN VỮNG CHỨNG NHÂN
Thật kỳ diệu, như được Thiên Chúa đã “mặc định”, có nhiều thứ trái ngược mà không đối lập, giống như dạng bổ túc lẫn nhau vậy: Xuôi – Ngược, Phải – Trái, Trên – Dưới, Dọc – Ngang, Nam – Nữ, Trẻ – Già, Cao – Thấp, Nắng – Mưa, Trời – Đất,…
Đất trời có tám hướng, mười phương. Cuộc đời có nhiều hướng, như cây có nhiều nhánh, chủ yếu là hai nhánh chính – như hình Thập Giá: hướng lên với Thiên Chúa (nhánh dọc) và hướng đến với tha nhân (nhánh ngang). Sống theo “chiều ngang” để xoay theo “chiều dọc” – mục đích cuối cùng: VỀ TRỜI.
Sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để loan báo Tin Mừng về Đức-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh, làm chứng về Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót bao la của Ngài. Chúa Giêsu về trời là bảo chứng chắc chắn chúng ta cũng sẽ được về trời. Với niềm hy vọng dạt dào đó, chúng ta có thể can đảm và kiên trì vượt biển-đau-khổ-trần-gian để cặp Bến Bình An Thiên Quốc.
Sách Công vụ Tông đồ (trình thuật Cv 1:1-11), Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông đồ mà Ngài đã tuyển chọn qua tác động của Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy NGÀI VẪN SỐNG SAU KHI ĐÃ CHỊU KHỔ HÌNH: Trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Trời. Đó là Ngài củng cố niềm tin cho những người còn tại thế. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hứa: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3). Để chúng ta an tâm, Ngài còn xác định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
NHÁNH DỌC – HƯỚNG THƯỢNG
Phụng Vụ Mùa Phục Sinh sử dụng sách Công Vụ rất nhiều, Giáo hội muốn chúng ta biết công việc của các tông đồ làm sau khi đã đủ tin vào Thầy Giêsu. Kinh Thánh cho biết:
Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là “ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó tò mò hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Chắc là các ông cũng muốn “thơm lây” gì đó, vì con người vẫn nuôi hy vọng “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).
Vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, khiến các ông chưng hửng và ngơ ngẩn. Lúc đó có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Ui da, sao thế nhỉ? Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, ngơ ngác hướng về phía Ngài vừa bay đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1:11). Chúa Giêsu đã đến thế gian và đã về trời thật, rồi Ngài chắc chắn sẽ lại đến – tái lâm trong Ngày Tận Thế.
Chắc hẳn các môn đệ buồn lắm vì Sư Phụ đi xa rồi, và cũng có thể “trách yêu” là sao Thầy đi mà không nói trước. Quá đỗi bất ngờ! Các ông cũng có thể buồn vì từ nay không còn Sư Phụ thì không biết xoay xở thế nào. Con người là thế! Đại Sư Giêsu biết lắm, thế nên Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần để đủ tự tin mà hành động vì Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Tất nhiên, Ngài hứa gì thì luôn thực hiện đúng – đúng chi tiết từng phẩy, từng chấm.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài không còn nhân tính mà chỉ còn thiên tính. Ngài ẩn hiện thoăn thoắt, vì không còn lệ thuộc thân xác. Nay Ngài lại về trời, nghĩa là chúng ta cũng chắc chắn sẽ được sống lại và về trời với Ngài – mục đích cuối cùng của kiếp người. Vì thế, Thánh Vịnh gia mời gọi chúng ta cùng hợp xướng: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Đồng thời, chúng ta “hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!” (Tv 47:7). Thật vậy, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu”, nên chúng ta phải “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ”. Tất nhiên những gì là tuyệt vời nhất thì phải được dành cho Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:9), toàn năng và toàn trí.
Sự vui mừng là biểu hiện có Chúa trong tâm hồn, nghĩa là chúng ta đang được Chúa Thánh Thần không ngừng tác động, được tràn đầy ơn Thánh Linh, đủ can đảm đi giữa bầy sói mà không hề run sợ… Thật tuyệt vời!
NHÁNH NGANG – DẤN THÂN
Lời nói phải được chứng mình bằng việc làm, không thể khác hơn. Mến Chúa thì phải yêu người, không thể nói suông, nếu không chỉ là “bà con ruột” với nhóm Biệt Phái. Đức ái là nhánh ngang của Thập Giá, như đôi tay dang rộng choàng lấy mọi người, bất kể đó là ai – quen hay lạ, bạn hay thù.
Rất chân thành, Thánh Phaolô xác định: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (Ep 4:1a). Tự nhận là “tù nhân của Chúa” nên Thánh Phaolô không ngại nói: “Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em. Anh chị em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4:1b-3). Ai cũng được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người mỗi trách nhiệm, mỗi người một loại “nén”, vấn đề là dùng những “nén” đó bằng cách nào và với mục đích gì. Không ai có quyền tự mạo nhận rằng “nén” của mình “có giá” hơn “nén” của người khác. Trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều bình đẳng, chẳng ai hơn ai. Tại sao? Bởi vì ai cũng là tội nhân mà thôi!
Bình đẳng ư, bằng nhau ư? Đúng vậy! Lý do minh nhiên: “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34). Vả lại, như Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4:4). Đặc biệt là “chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa” (Ep 4:5). Thế thì sao không bình đẳng? Đúng là “chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”, nhưng “mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4:7). Đó là điều mầu nhiệm, trí tuệ loài người không thể phân tích hoặc giải nghĩa thấu tình đạt lý đúng mức, chỉ tương đối mà thôi.
Rất lạ với cách dẫn chứng của Thánh Phaolô: “Có lời Kinh Thánh nói: Ngài đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Ngài đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4:8). “Đám tù” đó là chúng ta chứ còn ai trồng khoai đất này nữa, vì chúng ta đều là những tử tù được Đức Kitô chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi chốn-lao-tù-tội-lỗi-trầm-luân. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Ngài đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Ngài đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4:9-10). Hai động thái trái ngược là “lên” và “xuống”, nhưng hai động thái đó đều do chính Đấng-đã-chết-và-sống-lại thực hiện.
Ôi, Thánh Ý Thiên Chúa quá đỗi mầu nhiệm: “Chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:11). Vì thế mà tạo nên xã hội, cộng đoàn, nhóm,… Ai cũng làm giám đốc thì lấy ai là công nhân? Ai cũng làm tổng thống thì lấy ai là nhân dân? Nếu vậy, ơn gọi “làm nhỏ” có khi còn quan trọng hơn ơn gọi “làm lớn” đấy. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai MUỐN làm người đứng đầu thì PHẢI làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Ngài luôn bảo người ta “làm nhỏ” chứ không khuyên ai “làm lớn”, nhưng người ta lại luôn thích làm ngược lại. Con người bướng bỉnh và ngang tàng, khoái “đi ngược chiều” lắm. Thế nên cần cảnh giác cao độ và cố gắng chấn chỉnh. Chớ có khinh suất hoặc ảo tưởng!
Thánh Phaolô giải thích: “Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới SỰ HIỆP NHẤT TRONG ĐỨC TIN và trong SỰ NHẬN BIẾT CON THIÊN CHÚA, tới TÌNH TRẠNG CON NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH, tới TẦM VÓC VIÊN MÃN CỦA ĐỨC KITÔ” (Ep 4:12-13). Đó là cả một chu-trình-vào-đời của bất kỳ ai. Nói dễ, làm khó. Luôn phải tự thúc giục cả ngày cả đêm!
Chính Chúa Giêsu trao “bài sai vào đời” cho mọi người khi Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16:15-16). Rất rõ ràng, rất rạch ròi! Ai thật và ai giả cũng được Ngài nói trước: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18). Có Chúa và nhân danh Chúa thì có thể làm được những việc “khác thường”, và đó là “phép lạ” Chúa làm qua những người thành tín.
Trình thuật Tin Mừng của Thánh Máccô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Và cho đến ngày nay, nhiều người cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…
Chúa Giêsu về Trời, chúng ta muốn về Trời thì phải vào đời. Hai nhánh cuộc đời phải luôn gắn kết với nhau. Chắc chắn như vậy. Một trong những “nhánh nhỏ ra khơi” là sống theo lời khuyên thấu tình đạt lý của Thánh Mark khổ tu:
“Anh em HÃY đọc hiểu những lời Thánh Kinh bằng hành động; ĐỪNG ham hố ngôn từ rồi hợm mình vì những ý tưởng lý thuyết suông. Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta NÊN dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ƯU TIÊN cho việc cầu nguyện, nhất là NÊN dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa.
Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu… để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy THỪA NHẬN thực trạng, TỐ CÁO sự ấu trĩ của mình, và HÃY hết sức vươn lên”.
Hôm nay cũng là Ngày Hiền Mẫu hoặc Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day, Chúa Nhật thứ hai trong Tháng Năm), không chỉ chúc mừng những người mẹ mà quan trọng là cầu nguyện cho họ, nhưng người đã hy sinh cả đời vì con cái.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, xin ban thêm cho chúng con ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các đức đối nhân để chúng con làm hành trang vào đời theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Xin giúp chúng con kiên trì sống theo mệnh lệnh của Đức Kitô để có thể hân hoan về Trời mai sau. Chúng con cầu xin nhân danh Đại Sư Phụ Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh Chúa trên khắp hoàn cầu, chúng ta hân hoan mừng Chúa Giê-su LênTrời ABC-326
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh Chúa trên khắp hoàn cầu, chúng ta hân hoan mừng Chúa Giê-su lên trời vinh hiển. Sự kiện Chúa lên trời chứng tỏ cho chúng ta biết trần gian chỉ là quán trọ còn quê thật của chúng ta ở trên thiên quốc.
Chúa Giê-su lên trời để dọn chỗ cho chúng ta như lời Ngài nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3).
Chết là bước vào đời sống mới
Có người cho rằng: Chết là hết, không có sự sống đời sau, không còn gì hết.
Tuy nhiên, theo giáo huấn của Hội thánh Công giáo: Chết không phải là chấm dứt nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới.
Đời nầy và đời sau là hai giai đoạn của một cuộc sống
Hôm nay, con lăng quăng ngo ngoe trong vũng nước, nhưng mai đây nó sẽ hoá thành muỗi, giã từ vũng nước và bay sang môi trường khác.
Hôm nay, con sâu còn nằm yên trong tổ kén; mai đây, nó hoá bướm bay lượn đó đây.
Hôm nay, hạt lúa bị chôn vùi trong bùn đất, tưởng sẽ mục nát đi, ai ngờ mấy tháng sau nó hoá thành bụi lúa sum suê mang nhiều bông hạt…
Con lăng quăng mạt hạng kia, con sâu tí ti hèn hạ kia hay hạt lúa bé nhỏ kia… còn có đời này và đời sau, không lẽ con người là tác phẩm tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại chỉ có đời này mà chẳng có đời sau?
Thực ra, hôm nay, con người ở trọ trên mặt đất, nhưng mai đây sẽ từ giã nhà trọ trần gian để bước vào một thế giới khác.
Như thế, chết không phải là bị tiêu diệt, nhưng là biến đổi. Thánh Phaolô viết:“Chúng ta sẽ không chết, nhưng hết thảy chúng ta sẽ được biến đổi… vì chưng cái hư hoại nầy sẽ mặc lấy bất hoại, đồ chết dở nầy sẽ mặc lấy trường sinh bất tử” (I Cor 15, 51. 53).
Chúa Giê-su dạy có sự sống đời sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giê-su về cuộc sống đời sau, Chúa Giê-su khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giê-su cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Như thế, Chúa Giê-su khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giê-su còn lấy cả cuộc đời của Ngài để minh chứng có cuộc sống đời sau.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su chứng tỏ có sự sống đời sau
Sở dĩ Chúa Giê-su nộp mình chịu khổ nạn, chịu chết trên thập giá cách đau thương tủi nhục là để đền tội và chết thay cho muôn dân, nhờ đó nhiều người được hưởng hạnh phúc mai sau trên thiên đàng.
Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng, hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su là hoàn toàn vô ích; cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?
Chính vì để mang lại cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau cho muôn người, Chúa Giê-su đã không ngại nộp mình chịu chết để cứu muôn người được sống. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa lên trời là để dọn chỗ cho chúng con, để bày tỏ cho chúng con biết đời này chỉ là quán trọ và đời sau mới là chốn định cư muôn thuở muôn đời.
Xin cho chúng con luôn bước theo đường lối Chúa, tức là sống theo lệnh Chúa truyền, nhất là tuân giữ cho trọn luật yêu thương, để mai đây được đoàn tụ vĩnh viễn với Chúa trên thiên quốc.
Có những niềm vui vỡ oà, nước mắt cứ rơi, mà tuôn rơi hoàn toàn vì sung sướng. Tại phòng cách LênTrời ABC-327
Có những niềm vui vỡ oà, nước mắt cứ rơi, mà tuôn rơi hoàn toàn vì sung sướng. Tại phòng cách ly ở sân bay, rất nhiều cuộc chia tay: đi định cư, đi đoàn tụ gia đình, đi du học, dù tương lai rực sáng đầy hứa hẹn, ấy vậy mà lệ vẫn trào tràn đến khó hiểu. Khóc hay cười, vui hay buồn, đó có phải là cảm xúc chung của những ai mang trái tim bằng thịt, trái tim biết rung nhịp yêu thương ? Cuộc sống có khổ đau, có hạnh phúc, có những lúc đi xa, có những ngày đoàn tụ, có nước mắt nụ cười, không làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì tương quan yêu thương của chúng ta với gia đình, quê hương, bao giờ cũng quan trọng. Vì chưa khôn ngoan, hay do chưa đặt tình yêu vào việc bổn phận, nhiều người đang sống theo một lập trình cứng ngắc, họ thường bị xếp vào loại rô-bốt không hồn ; nếu làm việc tuỳ hứng, không lưu tâm đến kết quả, lại bị suy xét là kẻ thiếu trách nhiệm.
Tình yêu thương giữa Đấng phục sinh và các học trò, không phải là có hay không, nhiều hay ít, dù các môn đệ lúc đó chưa hiểu cảnh biệt ly rồi sẽ ra sao, nhưng các ông có quyền hy vọng vào tình yêu của Đấng đã sống lại từ cõi chết. Thông thường, chúng ta vẫn cho rằng người khôn ngoan là người biết tận dụng thời giờ, công sức của mình cách hiệu quả nhất ; người cơ hội là người biết đối phó theo từng hoàn cảnh: gió chiều nào theo chiều đó. Người môn đệ theo Đức Kitô, ngoài việc sống có kỷ luật, làm việc có khoa học, có mục đích, họ còn phải sống đức yêu thương, hiệp thông. Không biết nhờ kinh nghiệm, hay do muốn khích lệ con cháu sống lạc quan hơn, cha ông chúng ta có câu: trai khôn lắm nước đái, gái khôn lắm nước mắt.
Sinh ra làm người, ai cũng có gia đình, có quê hương tổ quốc, sinh ra trong Hội thánh, người tín hữu luôn được ý thức quê hương thật phải là nơi không còn đau khổ, là nơi hạnh phúc. Mừng Chúa về trời, trở về quê hương, là dịp để người kitô hữu xác thực rõ hơn về ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô, ơn gọi đặc biệt không có chia tay, không có nước mắt, ơn gọi thuần tuý là tình yêu và hiệp thông. Về trời, về bên Chúa Cha, không phải như một quan chức “mãn nhiệm”, không phải như vận động viên hết tuổi thi đấu, Đức Giêsu cho thấy: có một quê hương thật. Tuy chúng ta không còn thấy Đấng phục sinh hiện diện cách hữu hình, nhưng tình yêu và sứ mạng mới của Đức Kitô lại rõ ràng cụ thể nơi những ai đang sống tinh thần môn đệ của Ngài. “Các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng các phép lạ kèm theo”.
Quê hương mà hôm nay Đức Giêsu trở về có phải là vương quốc không phân biệt giai cấp, không còn cảnh giầu nghèo bổng lộc nhiều hay ít, không còn quy định: con vua thời lại làm vua ? Khác với truyền thống: tre già măng mọc, con chị nó đi, con dì nó lớn, Đức Giêsu không cắt đặt, bổ nhiệm, một vài đối tượng theo cảm tính, thay mặt Ngài lên làm vua làm chúa. Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền: “các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ”. Tất cả những ai tin và ở trong Đức Giêsu đều trở thành kitô hữu, trở nên môn đệ, được gọi là thần dân của Nước Trời, của quê hương thật, nếu họ cùng hiệp thông và sống giáo huấn của Đức Kitô.
Quê hương là gì hả mẹ, mà cô giáo dạy phải yêu, quê hương là gì hả mẹ, ai đi xa cũng nhớ nhiều. (Đỗ Trung Quân). Nhà thơ dạt dào tình cảm, ông đặt lời yêu và nỗi nhớ nơi tình mẹ con, tình thầy trò, ông đã thành công, đã mang lại nhiều cảm xúc cho nhiều đối tượng, dù tác giả chỉ hướng độc giả tới quê hương trần gian. Hôm nay đây và mai sau, người kitô hữu chúng ta còn hướng tới quê hương thật, hạnh phúc thật, và còn mơ ước đạt tới quê hương thật. Đức Giêsu hôm xưa không hỏi, không mong các học trò trả lời quê hương thật là gì, Ngài cũng không nói quê hương thật chỉ có tình yêu và nỗi nhớ. Dù có hứa hẹn về phép lạ cho những người đã tin: “nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói được các thứ tiếng mới lạ”. Tuy nhiên đời sống và sứ mạng tông đồ của những người tin luôn là một khám phá mới, thế nào là quê hương thật.
Chúa về trời, hay Chúa về quê hương thật, là cuộc chiến thắng thế gian, là vinh quang của Đấng Kitô, nhưng cũng là niềm tin, là khởi đầu, là mệnh lệnh lên đường cho tất cả những ai muốn được là môn đệ Đức Kitô. Tình yêu thật, quê hương thật, hạnh phúc thật, chỉ rõ ràng khi mỗi người tín hữu: tin và sống trọn vẹn với tình hiệp thông mà từng giây phút trong ngày chúng ta hằng tuyên xưng: nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Chúa thăng thiên, Chúa trở về quê hương thật, sự ly biệt hôm đó cho thấy người đi kẻ ở không có nước mắt, tất cả như muốn nói tình yêu không có xa mặt cách lòng, không vô cảm, tình yêu thật sẽ tồn tại và sống động khi các học trò tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Amen.
Qua thời gian hơn một tháng, chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô, đã ca tụng Đức Kitô LênTrời ABC-328
Qua thời gian hơn một tháng, chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô, đã ca tụng Đức Kitô là ánh sáng thế gian, đã thắp lên cây nến phục sinh bằng những tiếng hát Alleluia, đã nghe các chứng nhân thuật lại những lần hiện ra của Đấng Phục sinh. Cây nến phục sinh rồi sẽ cất đi, những bài hát alleluia sẽ ít được nghe hơn. Đúng là lễ Thăng Thiên có một chút u buồn và luyến tiếc: “ Hỡi những người Galilê, sao còn đứng đó nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến như các ông đã thấy Người lên trời.” ( Cv 1: 11) . Thôi, đừng đứng đó mà tiếc nuối, u sầu! Hãy trở về thực tại với nhiệm vụ mới.
Ngày Đức Giêsu được rước lên trời, không phải là ngày chấm dứt nhiệm vụ ở trần thế để về nơi Ngài đã ra đi. Sau một thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng môt nền móng đạo đức dựa trên tình yêu và bác ái công bằng và sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa Cha với quyền cai trị vũ trụ, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Đức Giêsu lên trời, đánh dấu sự kết thúc giai đoạn thi hành sứ vụ ở trần thế và mở ra một giai đoạn mới qua vai trò của Giáo Hội đưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh thần, một giai đoạn chuyển tiếp giữa thế giới hữu hình và vô hình, từ một vùng đất nhỏ hẹp với một thế giới rộng lớn, từ một dân tộc với một cộng đồng nhân loại.
Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài hết hiện diện nơi trần gian, nhưng là một sự thay đổi. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước kia, nhưng hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Ngài không còn bị lệ thuộc về không gian và thời gian.
Sự kiện Đức Giêsu lên trời chứng tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của cuộc hành trình trên dương thế của chúng ta sẽ đi về đâu. Ngoài trái đất, còn có một thế giới linh thiêng, ngoài cuộc sống trần gian chóng qua còn có cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu về trời cho chúng ta một niềm hy vọng vào cuộc sống mai sau như lời Ngài đã nói: Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy.Ngài về trời nhưng Ngài không để con người mồ côi. Ngài hứa sẽ ban Đấng Phù trợ đến và quyền năng để cùng con người hành động và lướt thắng trở ngại.
Nhưng để được ở với Thầy,được vào trời mới, đất mới, thì việc trước tiên chúng ta phải làm là hoàn tất những công việc được giao phó. Nhiệm vụ đó là loan báo Tin Mừng, làm chứng về tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người. Con người là cánh tay nối dài của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người.Vì thế, trước khi về trời, Ngài đã truyền lệnh cho các môn đệ: “ Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” ( Cv 1: 8)
Việc Thầy Giêsulên trời không làm cho các môn đệ buồn sầu, chán nản; ngược lại, các ông lại vui mừng phấn khởi vì các ông tin rằng có Chúa cùng đồng hành và cùng hoạt động với họ. Các ông được trang bị sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm những dấu lạ như sẽ trừ được qủy, nói được những tiếng mới lạ, sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, cũng chẳng sao, và nếu đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được khỏe mạnh.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời cũng là dịp Giáo hội nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho hết mọi người, mọi nơi. Chúa sẽ cùng đồng hành, cùng hoạt động với chúng ta. Chúa Giêsu, sau khi hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian, Ngài đã về trời. Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng phải nổ lực hòan tất nhiệm vụ Chúa đã giao phó cho hết mọi người, mọi nơi bằng chính cuộc sống của mình “ cho đến tận cùng trái đất” để rồi chúng ta cũng sẽ được rước lên trời trong vinh quang của Thiên Chúa.
Suy niệm Lời Chúa lễ Chúa thăng thiên (CN VII.PS-B: Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23. Mc 16, 15-20), thấy LênTrời ABC-329
Suy niệm Lời Chúa lễ Chúa thăng thiên (CN VII.PS-B: Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23. Mc 16, 15-20), thấy tình hình các môn đệ bộc lộ tinh thần hoang mang lo lắng, cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi” (Cv 1, 10). Tâm trạng băn khoăn đó khiến kẻ viết bài này bỗng nhớ lại bữa Tiệc Ly, khi Đức Giê-su nói với các môn đệ về vấn đề Người phải chịu khổ hình chết treo trên thập giá đến ngày thứ ba thì sống lại và đi về với Chúa Cha trên thiên quốc. Không chỉ người Do Thái thắc mắc và được Đức Ki-tô trả lời “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”; mà còn khiến ông Phê-rô tò mò: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga 13, 33-36).
Lời tiên báo của Đức Giê-su đã trở thành hiện thưc: Tháng 8 năm 64, hoàng đế Nero bắt đầu bách hại Đạo Chúa, Phê-rô bị bắt và bị kết án đóng đinh ở Rô-ma. Vào khoảng tháng 10/64, đang khi chạy trốn để tránh khỏi nhục hình, ngài đã gặp Chúa Giê-su và hỏi: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu?” (“Quo vadis, Domine?”), Chúa Giê-su trả lời: “Thầy vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một lần nữa”). Hiểu được ẩn ý của Chúa, Phê-rô đã quay trở lại thành Rô-ma để chịu kết án (chịu hình phạt “đóng đinh ngược” và tử nạn vào khoảng tháng 12/64 – Giáo hội ấn định lễ kính vào ngày 28/12; mãi tới năm 248, Giáo hội quyết định chính thức lễ kính 2 thánh Phê-rô và Phao-lô vào ngày 29/6).
Tâm trạng Thánh Phê-rô cũng là tâm trạng chung của các Tông đồ và rộng ra là của các Ki-tô hữu, của loài người. Nếu có khác chăng là khác ở cách ứng xử. Như Thánh Tô-ma thì cũng dịp này ngài hỏi lại Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 5); nhưng đến sau Phục Sinh, ông vẫn không tin Thầy mình đã sống lại (“nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không có tin” – Ga 20, 25), chỉ đến tám ngày sau đó, Người hiện ra và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27), Tô-ma mới thực sự tin. Riêng Thánh Phê-rô tuy có hay thắc mắc, nhưng khác người ở một điểm là trong lòng nghĩ sao thì nói ra như vậy, không hề giấu giếm, che đậy. Và nhất là khi được Thầy giải thích thì ngay lập tức Thánh Phê-rô tin tưởng và làm theo Lời dạy của Người.
Xin được trở lại với các bài đọc hôm nay: Bài đoc 1 (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức Giê-su Ki-tô dặn bảo các Tông đồ xong, thì Người được cất lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Tâm trạng các môn đệ hẳn nhiên là hoang mang lo sợ, bởi Người Thầy – mà cho đến giờ phút này các ông vẫn còn bán tín bán nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” – Mt 28, 17) – lại một lần nữa nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.
Tâm lý thông thường của con người là vậy, cũng chẳng có gì đáng trách. Sống bằng và sống với giác quan: phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình cho đến ngày tận thế, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là lo sợ, đau đớn, buồn rầu. Chính vì thế nên các ngài chỉ lo nhìn theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).
Người đời vẫn thường nói: Có tin thì mới theo và có theo thì mới biết tỏ tường để niềm tin được củng cố vững vàng hơn. Các Tông đồ đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô nên khi được mời gọi thì lập tức đi theo, bỏ cả cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Cứ nhìn vào hình ảnh anh chàng thanh niên giàu có, thì đủ hiểu đức tin quan trọng như thế nào. Anh ta muốn theo Đức Ki-tô, nhưng vì vẫn chưa tin tưởng cho lắm nên khi nghe Người bảo về bán hết của cải chia cho người nghèo thì ỉu xìu như mèo bị cắt tai, bỏ đi một nước. Và vì thế “Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 16-24).
Đến như các Tông đồ đã tin mới đi theo Thầy, vậy mà ròng rã 3 năm theo Thầy đi khắp đó đây, chứng kiến biết bao nhiêu việc làm và nhất là những phép lạ chứng tỏ Thầy là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thậm chí còn tuyên xưng, còn đấm ngực thề không chối Thầy, vậy nhưng đến cơn thử thách thì lại hoài nghi, lại nửa tin nửa ngờ, lại chối Thầy tới 3 lần trong một đêm (Mc 14, 66-71). Hoá cho nên mới có vụ một Tô-ma khi nghe Thầy nói: “Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” thì thắc mắc liền: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 4-5). Thêm một Phi-líp-phê đặt một câu hỏi bộc lộ rõ tâm trạng chưa tin tưởng Thầy mình là Con Thiên Chúa, nên khi nghe Thầy nói: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” Phi-líp-phê mới thưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” (Ga 14, 6-7).
Ở Việt Nam xưa có câu “nhìn lên chẳng bằng ai, nhìn xuống cũng còn chán vạn kẻ không bằng mình”, ý nói nhìn lên thì thấy thua kém nhiều người dễ sinh thất vọng, nhưng nhìn xuống thì lại được an ủi vì thấy còn nhiều người thua kém mình. Nòi cách khác, đây là một châm ngôn sống: Có nhìn lên thì cũng cần nhìn xuống. Nhìn lên thấy thua kém sẽ hun đúc chí tiến thủ (chớ đừng thất vọng), nhìn xuống để mà sống (tránh khỏi thất vọng). Nhưng nếu cứ nhìn lên hoài thì chắc chắn từ thất vọng sẽ đi tới tuyệt vọng, hết sống nổi; mà giả thử cứ nhìn xuống không thôi, thì sẽ trở thành tự kiêu tự mãn, rồi cũng không thoát khỏi tội đầu tiên trong 7 mối tội đầu (kiêu ngạo). Trường hợp các Tông đồ cứ mải miết nhìn lên mãi với nỗi thất vọng Thầy đã bỏ đi, thì liệu các ngài sẽ ra sao? Thiên sứ đã can thiệp đúng lúc, nhắc nhở các ngài đừng nhìn lên trời nữa mà hãy nhìn xuống (nơi các ngài đứng là trên đỉnh núi), để thấy được còn biết bao nhiêu sinh linh đang trông chờ được như các ngài (một cách khéo léo nhắc nhở các ngài nhớ lại Lời Thầy truyền dạy mà đến với muôn dân).
Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Người được cất lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng như thế không có nghĩa là Người rời bỏ các môn đệ – những bạn hữu của Người – mà là “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nghe Lời dạy này, không phải chỉ các Tông đồ tiên khởi nghĩ rằng Chúa Giê-su sẽ ở cùng các ngài một cách cụ thể như thời gian trước khi bước vào cuộc khổ nạn; mà ngay đến cả chúng ta hiện nay cũng vẫn cho rằng đó chỉ là lời an ủi suông. Chúng ta đã quên mất một điều là khi suy niệm về Thánh Kinh, cần chú ý đến cả hai phương diện: “nghĩa chiểu tự” và “nghĩa thiêng liêng”. Trong “nghĩa thiêng liêng” lại cần chú ý đến “nghĩa ẩn dụ”, “nghĩa luân lý” và “nghĩa loại suy” (xc. Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” ” (1).
Vâng, hãy nhìn lên dõi theo con đường Giê-su, cố gắng hiểu cho được việc làm của Đức Ki-tô (nghĩa chiểu tự: biến cố “thăng thiên”); để từ đó tin vào mầu nhiệm cứu chuộc (nghĩa ẩn dụ) qua Lời Chúa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4). Và hãy nhìn xuống bản thân mình cùng với anh em mình để mà thực thi sứ vụ do chính Người Thầy Chí Thánh truyền dạy trước khi về trời (nghĩa luân lý). Chỉ có như thế mới mong vươn tới cứu cánh Nước Trời (nghĩa loại suy) là mục đích cuối cùng của hành trình thực thi sứ vụ một Ki-tô hữu.
Tuy nhiên, cũng rất cần phải ghi nhớ lời dạy của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI: “Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống.” (“Tông huấn Lời Chúa”, mục “Cần phải vượt quá “chữ viết”). Như vậy, có thể nói mầu nhiệm thăng thiên nhắc nhở mọi Ki-tô hữu 2 điều: 1- Chúa Giê-su về trời – 2- Chúng ta phải làm sao để được về trời với Chúa, vì đấy mới là quê hương đích thực. Vâng, hãy nhìn lên và cầu nguyện để hiểu được mầu nhiệm thăng thiên, và hãy nhìn xuống để sống Lời Chúa cách cụ thể với mục đích tối hậu là chiếm hữu và giúp anh em cùng chiếm hữu Nước Trời. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỉ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.
———————————
Chú thích: (1) Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, PHẦN MỘT: LỜI CHÚA – Mục “Nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (số 37) đã giải thích rõ ràng: “Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng thời các giáo phụ và thời trung cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức chiểu tự, cũng đều được tiến hành trên căn bản đức tin, mà không nhất thiết phải phân biệt giữa nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng. Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria,/ Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; Ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; Loại suy nói về số phận ta).” (xc thêm GL/HTCG số 115, 116 và 117).
TIN MỪNG: Mc 16,15-20. (15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho LênTrời ABC-330
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, để ai tin và chịu phép rửa thì được trở nên con Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án là bị loại khỏi Nước Trời. Chúa còn hứa hỗ trợ các tông đồ bằng việc ban quyền làm phép lạ Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời. Còn các Tông đồ thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.
CHÚ THÍCH: – C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người lại trao sứ mạng phổ quát “loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là “chính Tin Mừng được Đức Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ tạo: Mọi loài thọ tạo mang ý nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi mọi tạo vật nên Trời Mới Đất Mới vào ngày Tận Thế (x. Kh 21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên con người mới và nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời.+ Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên bị khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời (x. Ga 15,5-6). +Còn những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố tình theo phe ma quỷ làm điều gian ác và không chịu hồi tâm sám hối thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa ngục được lập ra để dành cho ma quỷ và những kẻ đi theo chúng (x. Mt 25,41).
– C 17-18: +Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giê-su lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông. +Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), Thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện. Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv 14,8-10); Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
– C 19-20: +Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa. +Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14), được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22).
+ Thiên Đàng là gì? Thiên Đàng ở đâu? Ta phải làm gì để được lên Thiên Đàng?:
** Thiên Đàng hay Địa Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) có nghĩa là Hoa viên hay vườn đầy hoa tươi cỏ lạ (x St 2,8). Địa đàng là một khu vườn hoan lạc nơi mà con người được sống trong hạnh phúc. Nhưng nguyên tổ lòai người là ông Ađam và bà Evà đã liên kết với nhau phạm tội kiêu ngạo, cãi lệnh Chúa mà ăn quả cây bị cấm, nên hai ông bà đã bị đuổi ra khỏi Địa đàng, bị lọt vào trần gian là thung lũng đầy nước mắt, gai góc và đau khổ (x. St 3,7.16-19). Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến khôi phục lại tình trạng nguyên thủy cho con người (x. St 3,15). Ngài sẽ biến nơi đau khổ lưu đầy này thành Thiên đàng hoan lạc và hạnh phúc như thuở ban đầu (x. Ed 36,35 ; Is 51,3).
+ Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). + Có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần cho Hội thánh để tha tội cho người ta giống như Người đã làm (x Ga 20,21-22). Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn hơn Người là đi rao giảng cho các dân tộc nhờ Thánh Thần (Ga 14,12).
CÂU HỎI: 1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi? Các Tông đồ được Chúa sai đến với những ai? 2) Tin Mừng Đức Giê-su có những nghĩa nào? 3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su? 4) Những ai chắc chắn sẽ bị kết án sa hỏa ngục? Những người chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được hưởng ơn cứu độ không? 5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền nào? 6) Trước khi về trời, Đức Giê-su đã trao sứ mệnh loan Tin Mừng cho các Tông đồ kèm theo những dấu lạ nào? 7) Lời Chúa phán về các dấu lạ kèm theo lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng nghiệm thế nào thời Giáo Hội Sơ Khai? 8) Thời Cựu Ước, ngôn sứ nào được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa Giê-su thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao? 9) Một người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết thì có được hưởng ơn cứu độ không? 10) So sánh lời Chúa Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”(x Mt 28,19) với Lời Chúa được ghi trong sách Công Vụ “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau ra sao? 11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn ở với Hội thánh nữa không? 12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh để làm gì? II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Chúa Giê-su được rước lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19): CÂU CHUYỆN: 1) GIÁ TRỊ CỦA NIỀM TIN VÀO MỘT CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU:
Một vị Tù trưởng của một bộ tộc Phi Châu đau nặng gần chết. Ông cho gọi ba người con có khả năng nắm giữ chức vụ tù trưởng của ông đến bên giường và nói:
– Một trong ba người chúng con sẽ kế vị ta. Để biết xem ai xứng đáng, các con hãy lên đỉnh núi thiêng của bộ tộc chúng ta tìm mang về một linh vật nào quý giá nhất.
Mấy ngày sau người con thứ nhất trở về mang theo một bức tượng bằng vàng ròng.
Người con thứ hai cũng mang về một viên ngọc to quý có giá trị lớn.
Còn người con thứ ba thì trở về với hai bàn tay không.
Ngạc nhiên, viên tù trưởng hỏi anh ta: “Linh vật quý giá nhất con mang về đâu?”
Anh ta bình tĩnh trả lời:
– Thưa cha. Khi leo lên tới đỉnh núi thiêng và đi tìm kiếm báu vật như cha căn dặn, thì con đã khám phá ra phía sau rặng núi thiêng có một rặng núi khác. Con vượt qua thì đã tìm thấy một miền đất mới rất phì nhiêu mầu mỡ, có suối nước trong, cây cỏ xanh tươi với nhiều loài thú sinh sống. Theo con nghĩ nếu bộ tộc chúng ta sống ở miền đất này thì sẽ trở nên hùng cường.
Nghe vậy viên tù trưởng rất vui và nói:
– Cha rất mừng khi đã tìm ra người thừa kế chức vị tù trưởng bộ tộc là con. Con đã đem về cho chúng ta báu vật vô giá chính là niềm hy vọng vào một tương lại tươi đẹp về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Không ai biết trước cuộc sống của mình ra sao sau khi chết. Chỉ mình Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, mới mạc khải cho chúng ta biết quê hương thực sự của chúng ta là nước trời đời sau: Một Trời mới Đất mới như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21,1-4).
2) THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?
Ngày 5-9-1961, Liên Xô đã phóng một phi thuyền mang theo một người lên không gian và bay được ba vòng chung quanh trái đất. Sau đó trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev đã nói với ký giả của tờ New York Time của Mỹ như sau: ” Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung là: YOURI GARARINE. Anh ta đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc, không thấy Thiên đàng ở đâu cả. Sau đó chúng tôi lại gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh ta: “Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên đàng vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”. Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của Gagarine là sự thật: “Hư vô! Chỉ có Hư vô!” Rồi sau đó Krouchev kết luận: “Vì thế chúng tôi không tin có đời sau”.
Đó là cái nhìn của một người vô tín theo chủ nghĩa duy vật. Cái nhìn đó không phải là cái nhìn của người có đức tin như chúng ta.
Trong kinh Tin Kính các tín hữu chúng ta cũng tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su và cuộc sống Thiên đàng, về một Nước Trời hằng sống như sau: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.
3) THIÊN ĐÀNG Ở NGAY TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG:
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! hay “Ở kia kìa! , vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17,20-21).
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.
4) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP LÊN NGON ĐÈN YÊU THƯƠNG TRONG LÒNG NGƯỜI:
Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta vốn là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy những người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ờ ngoài lề đường. Sau khi chết xác liền bị quẳng vào đống rác như một con vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình sống chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người sống đói khát không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày. Mẹ Tê-rê-sa đã lăn xả vào việc phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: “Ô, cây đèn đẹp quá”. Ông già nói: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa”. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa liền đề nghị: “Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không?” Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn cháy sáng ấm áp trong căn lều. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đến thăm mọi người và được mọi người đến thăm. Cuộc đời của ông đã vui trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng và mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ đi soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận ra nhau là anh em.
SUY NIỆM: 1) Đức Giê-su nhiều lần nói đến trời cao: Trời hay Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Chẳng hạn : Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha là Đấng ngự trên trời (x. Mt 6,9) ; Người cũng dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16.45).
2) Đức Giêsu đã từ trời mà đến: Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống để rồi lại trở về trời (x. Ga 3,13 ; 6,62). Người là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, là bánh đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6,33).
3) Đức Giê-su đã được rước lên trời: Sau khi sống lại, Đức Giê-su tuyên bố Người đã được ban “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (x. Mt 28,18), “Người là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời, để giờ đây đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Qua hình ảnh được rước lên trời, Chúa Phục Sinh sẽ không còn hiện ra với các tông đồ như trong thời gian 40 ngày qua. Từ đây, Người sẽ hiện diện cách thiêng liêng, không bị lệ thuộc vào thời gian và không gian như Người đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
4) Niềm hy vọng lên Trời của chúng ta: Chúa Giê-su lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại lần thứ hai để đem họ về với Người (x. Ga 14,2-3). Thiên đàng là nơi trú ngụ của Thiên Chúa mà thánh Phao-lô đã cảm thấy vui thoả khi được chiêm ngắm những thực tại khôn tả (x 2 Cr 12,4); Là Vương Quốc dành cho những người công chính được hưởng hạnh phúc muôn đời (x. Mt 25,34.46). Đây là Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập ở trần gian và sẽ phát triển cho tới tầm mức viên mãn vào ngày Tận Thế khi Người tái lâm, trở lại lần thứ hai trong uy quyền vinh quang. Thiên Đàng còn là nơi dành cho tội nhân có đức tin vào Chúa Giê-su và có lòng sám hối cậy trông vào lòng thương xót của Đức Giê-su, như kẻ trộm lành cùng chịu chết với Chúa trên cây thập giá khi xưa (x. Lc 23,43).
5) Để được vào Thiên đàng với Đức Giê-su sau này, các tín hữu phải làm gì ngay từ hôm nay?
-MỘT là tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và được tái sinh bởi nước và Thánh Thần trong phép rửa tội.
-BA là phải sống giới răn yêu thương là mến Chúa yêu người bằng cách năng nghĩ đến tha nhân, khiêm tốn phục vụ, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người bệnh tật nghèo đói để trở nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su.
-BỐN là phải đi con đường hẹp và leo dốc, từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Thiên Chúa, sẵn sàng vác thập giá là các tai nạn gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
-NĂM là phải biết dùng của cải vật chất Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân hầu mua lấy Nước Trời đời sau.
-SÁU là phải chu toàn sứ mệnh tông đồ truyền giáo, nghĩa là làm chứng cho Chúa bằng đời sống gương sáng ngay từ trong gia đình và ra ngoài xã hội.
NGUYỆN CẦU LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con mừng đại lễ Thăng Thiên. Chúng con thật vui mừng và hãnh diện tuyên xưng Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Chúa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mở đường về trời cho chúng con, để dọn chỗ cho chúng con và đến ngày tận thế Chúa sẽ trở lại để đem chúng con lên trời với Chúa. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Quê hương chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, để dù đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian. Xin cho chúng con biết dùng của cải đời này để sắm cho mình kho báu thiêng liêng trên trời, bằng việc chia sẻ cơm bánh cho những người đói khát, quần áo cho những kẻ rách rưới, chữa lành các bệnh nhân đau liệt, thăm viếng an ủi những người đau khổ thể xác cũng như tâm hồn, giúp tội nhân ăn năn sám hối trở về với Chúa… như kinh “thương người” đã dạy.
Tuần này, cùng với mọi người sống trên đất nước Hoa kỳ này, chúng ta mừng Ngày Hiền Mẫu hay LênTrời ABC-331
Tuần này, cùng với mọi người sống trên đất nước Hoa kỳ này, chúng ta mừng Ngày Hiền Mẫu hay Ngày Của Mẹ. Một ngày thật đặc biệt để ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục “bao la như biển Thái bình” của người mẹ trong gia đình. Xin chân thành chúc mừng những người mẹ hiện diện trong nhà thờ hôm nay một ngày thật vui. Xin Chúa, qua lời cầu bầu của Hiền Mẫu Maria và Thánh cả Giuse, ban nhiều ơn lành xuống cho tất cả các bà mẹ.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hay còn gọi là lễ Chúa Thăng Thiên. Sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc nhân loại mà Thiên Chúa Cha đã trao phó, và sau khi đã trao sứ mệnh này lại cho các môn đệ tiếp tục như chúng ta nghe trong bài Tin mừng, Chúa Giê-su từ biệt họ lên trời trở về Thiên Đàng với Thiên Chúa Cha.
Sách Tông đồ Công vụ diễn tả sự kiện lên trời của Chúa một cách linh động và có thể hình dung một cách dễ dàng, nhưng không làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn, đó là biết được sự gì xảy ra sau khi “đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.” Đám mây cho chúng ta biết sự thăng thiên còn có những sự kiện mà bây giờ chúng ta chưa hiểu biết, lãnh hội hết được. Thật vậy, Lời Chúa luôn chứa đựng nhiều việc lạ lùng, nhiều mầu nhiệm cho đến khi chúng ta tự đối diện, tự chứng kiến và kinh nghiệm. Nhưng những thư của thánh Phao-lô và các sách khác trong Tân ước đã cố gắng diễn tả nhiều lần cho chúng ta biết những gì sau đám mây đó. Thí dụ Bài đọc hai hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha “đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau.” Có nghĩa là Chúa Giê-su cao trọng nhất và trên hết mọi loài. Dù là Con Thiên Chúa và là một con người nhưng Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang đời đời. Sự vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu này vượt trên hết mọi sự mà chúng ta chứng kiến ở đời này và hy vọng sẽ được chia sẻ với Ngài đời sau trên Thiên đàng.
Sự kiện Chúa lên trời củng cố niềm xác tín của chúng ta về Quê Trời, Nước Chúa hay Thiên đàng và cũng là ước mơ của người Ki-tô hữu chúng ta. Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta Thiên đàng là phần thưởng Chúa Cha dành cho người công chính. Vì thế, ngày lễ hôm nay không những mừng kỷ niệm Chúa Giêsu lên trời mà còn nhắc nhở chúng ta về hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên đàng. Để được hưởng hạnh phúc Thiên đàng, chúng ta cần phải chuẩn bị hành trang. Hành trang đó được thể hiện qua những việc làm cụ thể sau đây.
Thứ nhất, chúng ta phải luôn sống gắn bó với Chúa. Mặc dầu Chúa Giêsu đã lên Trời nhưng Ngài vẫn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúa hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Ngài hiện diện qua Giáo hội nơi các vị đại diện của Ngài ở trần gian, đó là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các linh mục. Chúa hiện diện qua Lời Chúa được viết lại trong cuốn Kinh Thánh. Trong Thánh lễ, chúng ta đọc và suy niệm Lời Chúa. Lời Chúa là sự sống và là ánh đèn soi hành trình đức tin của chúng ta về Quê Trời. Chúa hiện diện qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể để chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa, và để Chúa ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Ngài. Chúa hiện diện qua những người nghèo khó. Ngài hiện diện khi chúng ta họp nhau cầu nguyện và thờ phượng. Vì thế, muốn được hưởng hạnh phúc Thiên đàng, chúng ta cần phải sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa.
Thứ hai, chúng ta phải biết chu toàn bổn phận Ki-tô hữu như làm gương sáng, hy sinh phục vụ và quảng đại để xây dựng và làm sáng danh Chúa và để Nước Chúa lan rộng khắp nơi. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Người Tôi Tớ của Chúa, đã nói: “Bổn phận là giấy ‘thông hành’ để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27).
Thứ ba, chúng ta phải biết loan báo Tin mừng.Trước khi về trời, Chúa Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15). Chúng ta loan báo Tin mừng bằng đời sống chứng tá của mình, trung thành với đức tin, với Giáo hội, với ơn kêu gọi, và can đảm sống giáo huấn Lời Chúa và Giáo hội dù phải hy sinh, chịu thiệt thòi và đau khổ.
Thứ tư, chúng ta phải sống bác ái yêu thương. Vì trong ngày phán xét, mỗi người chúng ta sẽ chịu phán xét về bổn phận yêu thương. Vị Thẩm phán sẽ dựa vào việc chúng ta làm hay không làm đối với những kẻ bé mọn để thưởng hay phạt chúng ta. Ngài đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn.
Nếu chúng ta biết chuẩn bị như thế, hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời sẽ ở trong tầm tay của chúng ta. Ngược lại, nếu không biết chuẩn bị thì chúng ta có nguy cơ mất hạnh phúc Nước Trời.
Có câu truyện được kể sau đây. Một thương gia giàu có, đầy quyền thế danh vọng bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Công nhân và thân nhân ai nấy đều bỡ ngỡ và rất xúc động. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của thương gia giàu có này. Nhân công tranh cãi và thắc mắc hỏi nhau: “Ông chủ sẽ đi về đâu?” Mấy người nói: “Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.” Người tổng giám đốc thì nói: “Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời” Tất cả mọi nhân công đều ngạc nhiên hỏi: “Làm sao ông tổng giám đốc biết là ông chủ không lên trời?” Ông tổng giám đốc trả lời: “Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước, thành phố hay chỗ sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình đề cập hay nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!”
Thái độ thiếu khôn ngoan, lạnh nhạt và thờ ơ của người thương gia giàu có trong câu chuyện trên đây cũng có thể là thái độ của mỗi người chúng ta. Chuáng ta chuẩn bị thật nhiều tiền, thời giờ để đi du lịch, nghỉ hè ở những nơi đẹp, tiện nghi và thoải mái. Vậy trong ngày lễ hôm nay mỗi người chúng ta tự hỏi: “Tôi có bao giờ nói, đề cập đến hay nghĩ gì về Thiên đàng, Nước Trời không?” “Thiên Đàng có phải là niềm ước mơ của tôi không?” “Tôi có chuẩn bị gì không?”
Chúa Giê-su về trời sau khi đã chu toàn sứ vụ trần thế. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời bằng cách chu toàn những bổn phận của mình, nhất là bổn phận loan báo Tin mừng.
Một lần nữa, xin chúc tất cả các bà mẹ, trong Ngày Của Mẹ hôm nay, một ngày thật vui mừng và tràn đầy ơn lành của Chúa.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn những lời cuối cùng như một di chúc để lại cho các LênTrời ABC-332
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn những lời cuối cùng như một di chúc để lại cho các môn đệ thân thương, Người muốn các môn đệ của mình xác tín một điều: muốn được thông phần vinh quang với Người, họ phải chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, của thập giá. Chính Người đã đi trên con đường ấy trước và mời gọi họ bước theo: "Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại"( Lc 24, 46). Thập giá là nơi duy nhất cho chúng ta thấy tình yêu vĩnh cữu của Thiên Chúa. Qua thập giá, Chúa Giêsu mở ra một con đường hạnh phúc thật, hạnh phúc bất diệt cho chúng ta. Và Người muốn những ai theo Người cũng được hưởng niềm hạnh phúc ấy.
"Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24, 49). Các tông đồ phải là chứng nhân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Là nhân chứng, các tông đồ không thể ngồi yên một chỗ mà phải ra đi, phải thắng vượt tính nhút nhát, phải hy sinh và can đảm hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, phải tuyên xưng niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Các ông thi hành sứ mạng chứng nhân cho Đấng phục sinh là xây dựng thế giới yêu thương, công bằng xứng với trời mới đất mới mà Chúa Giêsu đã cứu chuộc. Các ông làm chứng về Người bằng một đời sống yêu thương phục vụ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá như Người đã làm.
Như thế, Chúa Giêsu muốn các ông là cánh tay nối dài sứ mạng cứu độ của Người trong thế giới. Về trời không phải là Người không còn hiện diện nhưng Người vẫn hiện diện qua các tông đồ, qua Giáo Hội. Và sứ điệp ngày xưa Người trao cho các tông đồ thì ngày nay vẫn đang được thực hiện qua mỗi người chúng ta. Về trời nhưng chương trình cứu độ của Người vẫn phải được tiếp tục nơi thế gian này, qua Hội thánh, và qua mỗi người chúng ta. Sứ mạng cứu độ này cần phải được thực hiện bằng lời nói và bằng những hành động cụ thể bên ngoài.
Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động giữa chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho mọi người sống chung quanh chúng ta và thế giới này nhận ra được sự hiện diện đó. Do đó, đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Người bằng đời sống Kitô hữu của mình. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng "cái có" của bản thân mình. Chúng ta phải có Người trong cuộc sống của mình, có kinh nghiệm và cảm nghiệm thực tế về Người trong đời sống mình, có đi lễ có đọc kinh, có rước lễ và nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể, có kinh nghiệm suy niệm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Hơn nữa, chúng ta phải có tình yêu Chúa trong cuộc sống được thể hiện qua những cử chỉ yêu thương, giúp đỡ, quan tâm đến tha nhân, chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, kinh nghiệm về bí tích hoà giải, kinh nghiệm cần lòng thương xót của Chúa,...Khi có Chúa trong lòng, khi chúng ta đã cảm nghiệm về Chúa, chúng ta dễ dàng đem Chúa đến cho thế giới, chia sẻ kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ thân mật và chân tình với Người cho thế giới, cho anh chị em chung quanh chúng ta. Đồng thời, chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho đời (Mt 5,13-16) nghĩa là cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một tấm gương phản chiếu được tình thương của Thiên Chúa đến với mọi người xung quanh. Mỗi người chúng ta phải là một dấu chỉ cho người khác. Chúng ta dù bé nhỏ nhưng sức mạnh đức tin của chúng ta là Chúa Thánh Thần sẽ bù lại cho tình trạnh mong manh của chúng ta. Được như thế, chúng ta đang làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.
Sống mầu nhiệm Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quang mình. Sống chứng nhân là xây dựng nước trời ngay trong cuộc sống này, trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám bước theo Chúa, can đảm sống đức tin, chấp nhận hy sinh, dám sống yêu thương để làm chứng cho Chúa giữa mọi người để mai sau chúng con cũng được vào Nước Trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.
--------------------------------
LênTrời ABC-333: Chứng nhân
– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi LênTrời ABC-333
Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi xem anh đọc gì? Anh đáp: Đọc Kinh Thánh. Nhà buôn cười cười nói: Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Người Phi Châu đáp: Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi.
Kinh Thánh là lời mạc khải của Thiên Chúa ban cho con người. Đọc Kinh Thánh giúp cho chúng ta nhận biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa chọn lựa, cưu mang và phát triển là để đón nhận Đấng Cứu Thế. Sự hình thành của Kinh Thánh Cựu Ước kéo dài cả mấy ngàn năm đón chờ. Tuy dù dân tộc Do-thái được chuẩn bị cách rất cẩn thận qua Kinh Thánh mạc khải, qua các dấu chỉ và qua các lời tiên tri loan báo, nhưng nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đấng mà cha ông bao năm mong chờ. Bởi lẽ các vị lãnh đạo tôn giáo như các Thượng tế, Thầy cả, Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái, Nhóm Sađucêô và các Đầu mục, Kỳ lão đã dẫn dân đi lạc vào ngõ khác. Chúa Giêsu đã đến hoàn tất mọi lời Kinh Thánh loan báo về Ngài. Chúa đến không phải để hủy phá lề luật, nhưng làm cho nên trọn. Chúa Giêsu là phiến đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường. Ngài chính là cột trụ trung tâm duy nhất của mọi niềm tin.
Cuộc lữ hành trần thế của dân Do-thái tiến bước dần đến ơn cứu độ. Suy tư và não trạng chung của nhiều người vẫn còn bám víu vào những truyền thống và tục lệ cha ông. Vì thế, họ không dễ dàng mở cửa đón nhận những làn gió mới. Đạo Do-thái với những sinh hoạt tôn giáo, những hệ thống thần học, những luật lệ và những thực hành sống đạo đã ăn rễ sâu trong niềm tin. Một hệ thống tôn giáo quá nặng về phần tổ chức, sống vị luật và chú tâm hình thức. Tâm hồn họ dần rời xa cốt lõi của niềm tin là đời sống nội tâm. Nhiều người chỉ còn tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng họ lại rời xa. Chúa Giêsu xuất hiện như cai gai trước mắt nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời. Chúa công khai giảng dạy tại trung tâm tôn giáo ở Giêrusalem. Chúa đã gặp gỡ mọi thành phần trong dân và đối diện với các nhóm lãnh đạo chuyên biệt. Chúa Giêsu tìm đưa dẫn họ về với căn cốt của đạo. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sống đạo nội tâm. Sống đạo trong yêu thương, bác ái và vâng phục.
Chúa Giêsu đến để rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa mời gọi mọi người sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Thời gian đã viên mãn. Chúa thực hiện một cuộc vượt qua mới trong tinh thần mới. Chiếc xe thời gian đã đến, ai không bước lên, sẽ bị tụt lại sau. Mặc dầu có nhiều sự chống đối và chối từ, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh hy sinh cứu độ. Chúa hiến thân chịu chết và đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã trở thành niềm hy vọng tuyệt đối cho nhiều người. Có rất nhiều người cùng đồng hành chia sẻ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Chúa không dấu diếm hay lừa dối những người tin theo Chúa, nhưng Chúa đã báo trước những sự khó khăn, sự bách hại, xua đuổi và chịu hy sinh đau khổ. Qua thánh giá khổ đau mới có thể bước vào vinh quang sự sống. Stêphanô là hoa qủa đầu mùa của niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh đã lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Người ta thù ghét cả những người tin vào Chúa Kitô sống lại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo là những người đầu tiên lên tiếng phủ nhận, phản đối và bách hại. Tác giả sách Tông Đồ công Vụ kể rằng trước khi bị ném đá cho chết, Stêphanô được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa."(Tđcv 7, 56). Stêphanô đã tuyên xưng đức tin một cách can đảm, dầu phải đối diện với sự đau khổ và sự chết kề bên. Ông đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Stêphano hiểu ý nghĩa lời dạy: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước trời là của họ. Nhưng những người đồng hương không thể chấp nhận một giáo lý mới của một người đã bị kết án tử hình: Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô (Tđcv 7, 57-58).
Stêphanô thấm nhuần Tin Mừng của Chúa: Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này." Nói thế rồi, ông an nghỉ (Tđcv 7, 60). Chúng ta biết máu của các vị thánh tử đạo là hạt giống ươm mầm đức tin. Thật vậy, sau cái chết của Stêphanô, ông Saolô đã được ơn trở lại. Saolô cùng đồng cảnh, đồng thuyền với nhóm đồng hương nhân danh đạo giáo để kết án ném đá Stêphanô. Chúa Giêsu phục sinh đã mở đường đưa dẫn ông Saulô trở về làm nhân chứng cho Ngài. Ông Saulô đã đổi đời và đổi tên thành tông đồ Phaolô. Phaolô trở thành một nhân chứng nhiệt thành. Không sợ gian nan, đau khổ và bách hại, ông đã sống chết cho niềm tin. Cả cuộc đời còn lại Phaolô đã không ngừng rao giảng Chúa Kitô phục sinh cho nhiều người. Ngài cũng đã chịu tử vì đạo và lấy máu đào chứng minh cho niềm tin sắt son.
Chúa Giêsu là kiên thuẫn, là đá tảng và là nơi nương náu cho những tâm hồn tìm kiếm Chúa. Chúa mời gọi mọi người lắng nghe và thực hành lời Chúa, họ sẽ được chia phần vinh quang hạnh phúc: Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một (Ga 17, 22). Chúa Giêsu yêu mến những người Chúa đã chọn và tất cả những ai thuộc về Chúa. Ngài muốn ấp ủ chúng ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24).
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy sách tội xưa và cùng được tham dự vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là chỉ thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa trong một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Chúa cầu nguyện để mọi người nên một trong Chúa. Trở nên một trong ý nghĩa phổ quát. Không phải nên một với người này, người kia hay nhóm này, nhóm nọ. Chúng ta nên một với Chúa Kitô để cùng tôn thờ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cùng chia sẻ một niềm cậy trông và một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu ngày sau. Chúng ta tuyên xưng chỉ có một Chúa, một đức tin và một phép rửa. Chúng ta tin nhận Chúa Kitô: Là An-pha và Ômêga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22, 13).
Trong cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng có rất nhiều tổ chức các tôn giáo khác nhau. Tuy các tôn giáo có khác nhau về cơ cấu, tổ chức và thực hành sống đạo nhưng cùng quy hướng về sự tôn thờ một Thiên Chúa và hy vọng cuộc sống vĩnh cửu ngày sau. Chúa Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Con đường dẫn lối vào Nước Trời tuy hẹp nhưng Chúa Giêsu đã đi trước và mở lối đưa đường. Chúa Giêsu phán: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Chúa Kitô là trung tâm điểm qui tụ mọi niềm tin về một mối để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận hạt giống đức tin qua Bí tích Rửa Tội, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm sống niềm tin và hăng say làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen. ---------------------------
Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: "Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc LênTrời ABC-334
Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: "Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô". Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.
Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.
Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.
So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.
Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: "Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ". Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: "Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.
Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.
Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.
Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.
Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.
Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.
Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.
Hôm nay, Chúa chúng ta lên Trời, chúng ta không làm trái đất rung động, nhưng hướng tâm hồn LênTrời ABC-335
Hôm nay, Chúa chúng ta lên Trời, chúng ta không làm trái đất rung động, nhưng hướng tâm hồn lên Đức Kitô và trông đợi Ngài đến như lời Ngài đã hứa trước khi về Trời, để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Tuy nhiên, cần phải biết rõ rằng lòng tự cao, tự đại, hà tiện, dâm ô là những thói hư tật xấu, tội lỗi lôi kéo, giam hãm chúng ta trong tội lỗi... Hãy hướng về Trời, hướng lòng lên thật cao, kết hợp với Chúa. Sự Phục sinh của Chúa là chính niềm hy vọng của chúng ta, sự kiện Chúa lên Trời là vinh quang của chúng ta. Vậy nếu chúng ta cử hành lễ Chúa về Trời với lòng trung thành và sùng kính, thánh thiện và đạo đức, chúng ta về Trời với Chúa và vươn tâm hồn lên tới Chúa.
* Phụng vụ Lời Chúa
- Tđcv 1, 1-11: Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta lên Trời - Tv 47, 2: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng - Êph 1, 17-23: Đức Kitô thống trị địa cầu
Hoặc - Êph 4, 1-13: (trừ Năm B)
Hoặc – Dt 9, 24-28 ou 10, 19-23: ( trừ Năm C)
- NĂM A - Mt 28, 16-20: Hãy đi giảng dạy muôn dân - NĂM B - Mc 16, 15-20: Chúa Giêsu ban những lời cuối cùng cho các Tông Đồ - NĂM C - Lc 24, 46-53: Những lời sau hết và sự lên Trời của Đức Giêsu
"Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Allelui ! Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời", Alleluia! Alleluia! Alleluia! "(Ca nhập Lễ trong ngày)
Hôm nay, Đức Kitô Phục sinh vinh quang và yêu dấu, Đấng sống lại từ trong cõi chết bởi quyền năng Thiên Chúa, sau khi đã được an táng trong mồ, tức là Đền thờ người Do thái phá hủy, kết thúc bốn mươi ngày thánh và trước sự kinh ngạc của các Tông Đồ, "đã được cất nhắc lên cao trước mắt các ông và một đám mây che khuất Ngài khỏi tầm nhìn các Tông Đồ" (Tđcv 1,9).
Hành động cuối cùng này của Chúa Giêsu có hai ý nghĩa. Trước hết, khi lên trời, Ngài mạc khải cách rõ ràng thần tính của Ngài: sau khi đã chu toàn sứ mạng của mình trên trần gian, nay Chúa trở về nơi mà từ đó Ngài đã đến trong thế gian, nơi đó là cung lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, Đức Giêsu về Trời cùng với nhân tính mà Ngài đã lãnh nhận và đã làm cho sống lại từ cỏi chết. Nhân tính đó là nhân tính của chúng ta, được thanh luyện, thần thiêng hoá, và được trở nên đời đời. Chúa về Trời mạc khải "ơn gọi cao cả nhất" của mỗi người: con người được gọi đến hưởng sự sống đời đời trong Nước Chúa, nước của tình thương, của ánh sáng và hòa bình.
Đức Kitô Phục sinh, với thời gian, bằng sự hiện diện của mình và các chứng từ cần thiết đã gia tăng niềm tin nơi con người vào Đấng sống lại. Cái chết của Chúa Kitô, trong thực tế, đã làm cho lòng trí các môn đệ rối bời. Tâm trí các ông nặng trĩu với nỗi buồn da diết khi chứng kiến Thầy bị đóng đinh, thở ngắn thờ dài và sau cùng là trút hơi thở cuối cùng, thân xác bất tỉnh, chết và mai táng trong mồ. Một sự thẫn thờ sinh ra từ sự thiếu lòng tin đã gieo vào tâm trí các các môn đệ. Cái chết đau thương trên thập giá đã làm các thánh Tông Đồ, các môn đệ Chúa và nhiều người khác run sợ khi tin vào Chúa phục sinh. Đức Kitô Phục sinh lên trời cao là chân lý hiển nhiên đã củng cổ niềm tin của các ông do nỗi buồn sâu thẳm và làm cho tâm hồn các ông tràn ngập niềm vui.
Thật tuyệt vời và khôn tả được nguyên nhân niềm vui của họ! Đức Giêsu về Trời ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang, báo trước quê hương chúng ta đích thực là quê Trời. Chúng ta là chi thể của Ngài, Đầu đã về Trời, đây là niềm hy vọng lớn lao cho cả thân xác. Khi lên trời, Đức Giêsu đã mở ra lại con đường dẫn về quê hương thật của chúng ta, là thiên đàng. Giờ đây, với sức mạnh Thánh Thần của Ngài, Ngài nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành hằng ngày trên trần gian.
Tất cả chúng ta cùng vui mừng với niềm vui thánh thiện và tạ ơn Ngài. Hôm nay, chúng ta không chỉ vững tin và nắm chắc thiêng đàng, mà còn cùng với Chúa Kitô tiến vào chốn Trời cao nhờ ơn khôn tả của Chúa Kitô, chúng ta có được hơn là chúng ta mất do sự thù ghét của ma quỷ.
Sau khi Chúa đã được cất nhắc lên Trời, các đồ đệ quy tụ lại với nhau trong lời cầu nguyện, ở phòng Tiệc Ly, cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. (x. Tđcv 1,14), vừa cùng nhau khẩn xin Chúa Thánh Thần, Đấng có thể ban cho họ quyền năng để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh (x. Lc 24,49; Tđcv 1,8). Ngày này, chúng ta hướng về Mẹ Maria là "Nữ Vương Thiên Đàng", xin Mẹ bảo vệ gìn giữ Hội Thánh, cách riêng mỗi người húng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền ban, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Đức Giêsu và với Mẹ vui hưởng tôn nhan Chúa muôn đời. Amen.
Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:
Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được LênTrời ABC-336
"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất".
Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"
Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: "Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."
Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em."
Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.
Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".
Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
Hôm nay chúng ta đọc hai trình thuật của Thánh Luca diễn tả cùng một thực tại: Chúa Giêsu Thăng LênTrời ABC-337
Hôm nay chúng ta đọc hai trình thuật của Thánh Luca diễn tả cùng một thực tại: Chúa Giêsu Thăng Thiên.
Tuy nhiên, hai trình thuật này lại có nhiều điểm xem ra không dễ dung hòa với nhau, nhất là về phương diện lịch sử. Trong Tin Mừng (Lc 24,50-51), tác giả Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay buổi chiều ngày Phục Sinh. Nhưng trong Công Vụ Tông Đồ, ông lại xác định biến cố Thăng Thiên vào thời điểm kết thúc “40 ngày” (Cv 1,3). Tại sao lại có sự khác biệt đó?
Trong Tin Mừng Lc, biến cố Thăng Thiên là biến cố kết thúc sách Tin Mừng. Tác giả không cung cấp những yếu tố thời gian rõ ràng, nên nhiều người hiểu rằng ông kể lại biến cố đó như thể đã xảy ra ngay chiều ngày Phục Sinh và diễn ra trong một cách thức long trọng: Chúa Giêsu giơ tay chúc lành cho các đồ đệ, “và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24,51).
Trong Cv, điều Thánh Luca bận tâm và cố ý nhấn mạnh là công trình của Hội Thánh không được khởi sự chỉ với các đồ đệ của Chúa, mà là với chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính Người hiện ra với họ, đồng hành với họ, thăm viếng họ suốt 40 ngày. Do đó, công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh không phải là công trình của nhân loại, mà là công trình do chính Chúa Phục Sinh ấn định, khởi xướng, dẫn dắt. Vì thế, biến cố Thăng Thiên được đặt ở lúc kết thúc “40 ngày”.
Trình thuật trong sách Cv dài hơn và có nhiều chi tiết hơn trình thuật trong Lc: “Trong bốn mươi ngày, Đức Giêsu đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Người truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không? " Người đáp: "Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất." Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: "Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,3b-11).
Điểm đặc biệt đáng chú ý nhất trong trình thuật này là tác giả đã không sử dụng bất cứ một chi tiết ly kỳ nào để miêu tả chính biến cố Thăng Thiên, cũng không nói gì về tâm tình hay cảm xúc của những người chứng kiến. Trình thuật chỉ kể đơn giản rằng: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9). Đám mây quyên lấy Người, khiến cho không ai có thể kể lại là Người đã đi vào cõi Trời như thế nào. Rõ ràng tác giả cố tránh những chi tiết ly kỳ.
Điều này làm cho trình thuật khác hẳn tất cả những câu chuyện truyền kỳ và hoang đường đương thời. Tác giả không mô tả chính việc Đức Giêsu lên trời, cho bằng trách cứ thái độ của các đồ đệ cứ đăm đăm nhìn lên trời, phía Đức Giêsu đã đi. Đó là thái độ đặc trưng của những người mong cuộc tận thế sẽ mau xảy đến. Thánh Luca là một người công bố Tin Mừng. Điều ông quan tâm là giúp các tín hữu thời đại ông sống sứ mạng của họ theo thánh ý Thiên Chúa. Ông không bận tâm đến thái độ và phản ứng của các đồ đệ chứng kiến cuộc Thăng Thiên, mà chú ý đến việc Hội Thánh phải lấy lập trường đức tin như thế nào đối với mầu nhiệm Thăng Thiên và mầu nhiệm Cánh Chung. Điều chính yếu là lập trường căn bản mà Hội Thánh phải có đối với mầu nhiệm Cánh Chung. Vì thế, ông nhấn mạnh rằng Hội Thánh phải từ bỏ những sự tính toán ngày tháng (Cv 1,7), và phải tin rằng chính Đức Chúa, trong hiện tại của Hội Thánh, đang điều khiển lịch sử của thế giới và công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
Liên quan đến mầu nhiệm Thăng Thiên mà chúng ta cử hành hôm nay, cứ theo những gì Kinh Thánh trình bày, chúng ta có thể nói: đây là một thực tại có hai khía cạnh. Một bên là mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh vào trong cõi của Thiên Chúa một cách vô hình, còn bên kia là biến cố Người từ giã thế gian này một cách hữu hình. Khía cạnh thứ nhất trình bày cuộc tôn vinh Chúa Phục Sinh trên cõi trời, mang đậm chiều kích thần học, vượt quá giác quan và chỉ có thể chấp nhận nhờ lòng tin và nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Khía cạnh thứ hai là một sự kiện xảy ra trong lịch sử, thuộc phạm vi của những thực tại có thể kinh nghiệm được.
Khía cạnh thứ nhất, khía cạnh mầu nhiệm, là điều chính yếu và thuộc về nội dung căn bản của lòng tin. Còn việc Đức Giêsu chia tay các đồ đệ sau 40 ngày là một biến cố xảy đến như một ân huệ Thiên Chúa thương ban cho chúng ta vì bản tính yếu đuối của con người có giác quan. Vậy sự kiện xảy ra vào lúc kết thúc “40 ngày” không thể diễn tả trọn vẹn, đầy đủ và tương xứng chính mầu nhiệm đức tin thâm sâu vượt quá giác quan con người.
Chính vì thế, khi mô tả biến cố Thăng Thiên, cả trong Tin Mừng lẫn trong Cv, ta thấy Thánh Luca luôn cố ý giữ gìn một tâm tình kính cẩn trước mầu nhiệm. Ngài tránh mọi chi tiết mang tính huyền thoại, chỉ giữ lại ở mức tối thiểu những hình ảnh văn chương không thể không dùng để diễn tả mầu nhiệm. Để trình bày ý tưởng Đức Chúa Phục Sinh đã siêu vượt thế giới hư nát này và đi vào vinh quang Thiên Chúa, Kinh Thánh buộc phải dùng lối nói “lên trời”. Đó là hình ảnh có giá trị tượng trưng mà chúng ta buộc phải chấp nhận để diễn tả mầu nhiệm.
Vậy khi chúng ta nói Đức Giêsu lên trời, điểm cốt yếu phải tin là Chúa Kitô đã sống lại và siêu vượt khỏi cái thế giới tù túng, tội lụy, hay thay đổi và đầy đau thương này. Với thân xác phục sinh, Người đã đi vào một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Thế giới đó là thế giới xác thực, thiêng liêng, mới mẻ và siêu việt. Chỉ trong thế giới đó mới có sự sống đích thực. Thế giới đó siêu việt (chứ không xa cách) thế giới chúng ta đang sống. Đó là một thế giới khác biệt hẳn về phương diện thực hữu, chứ không phải về phương diện không gian xa gần hay rộng hẹp. Chúng ta có thể “sờ đụng” vào thế giới đó trong lòng tin và nơi các bí tích cứu độ. Đó là một sự “tiếp cận” một thực tại mầu nhiệm nhưng đồng thời rất thật, rất gần, thật và gần hơn cả cái thế giới phàm tục mà ta đang sống đây.
Vì thế, nói theo một nghĩa nào đó, mầu nhiệm Thăng Thiên cũng chính là mầu nhiệm mà Hội Thánh đang mời gọi chúng ta sống hằng ngày, ngay trong cái hôm nay của cuộc đời chúng ta.
Người đàn bà có biệt danh là "bà lom khom" đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những LênTrời ABC-338
Người đàn bà có biệt danh là "bà lom khom" đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là "bà-lom-khom" vì hình như mắt bà rất kém, phải khom gập người xuống mới có thể thấy được những đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần cù, như con ong kiên nhẫn nhất.
Vì lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ, dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.
Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!
* * *
Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà đánh mất thế giới thiêng liêng.
Với tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng quên hạnh phúc đời đời... Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!
Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:
"Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì".
Như thế, đối với người không tin thì sống là hành trình tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành trình tiến về thiên quốc.
Viễn tượng mới
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.
Như con ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống đời sống mới.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:
"Quê hương chúng ta ở trên trời" (Philip 3, 20)
Thế nên: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới" (Col 3, 1-4)
Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì vô cùng tai hại.
Kinh Nghĩa Đức Tin mà chúng ta đọc mỗi ngày Chúa Nhật, là tóm kết tất cả những điều chúng ta LênTrời ABC-339
Kinh Nghĩa Đức Tin mà chúng ta đọc mỗi ngày Chúa Nhật, là tóm kết tất cả những điều chúng ta phải tin và những việc chúng ta phải làm để thể hiện đức tin của chúng ta. Trong niềm tin đó có việc Chúa Giêsu chịu chết, sống lại, khỏi 40 ngày lên trời. Còn trong Kinh Tin Kính cũng có đoạn nói về sự việc này là Chúa Giêsu sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trong những tuần vừa qua, nếu có đi lễ ngày thường chúng ta sẽ được nghe diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu, có nghĩa là những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Ngài cho các môn đệ biết là Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Cụ thể trong những bài đọc hôm nay cũng có nhắc đến việc Chúa Giêsu lên trời: “Nói xong Người được cất lên ngay trước mắt các ông”. Còn Tin Mừng Maccô trong Chúa Nhật năm B thì sẽ có tường thuật giống như sách Tông Đồ Công Vụ: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Vì thế việc Chúa Giêsu “lên trời” là một sự thật. Tuy nhiên Chúa Giêsu lên trời có phải là Ngài không còn ở với chúng ta nữa hay không? Chúng ta phải hiểu “lên trời” nghĩa là gì? Việc “lên trời” của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì trong cuộc sống chúng ta? Và cuối cùng là chúng ta phải làm gì khi nghe những lời sau cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời?
I/ BIẾN CỐ LÊN TRỜI CỦA CHÚA GIÊSU
1/ Lên trời nghĩa là gì?
Đức Kitô Phục Sinh đã vào trong vinh quang, đó là một tín điều. Nhưng đó còn là một mầu nhiệm vượt quá kinh nghiệm giác quan, và có lẽ không chỉ hạn hẹp nơi ngọn núi ở Galilê mà Chúa Giêsu hẹn gặp các môn đệ hôm nay. Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Tình trạng tốt đẹp, khá hơn thì gọi là “lên” (gặp một người làm ăn khá giả mình nói: “lúc này lên hương rồi hé!”). Tình trạng lùi lại, xấu hơn thì gọi là “xuống” (Lâu ngày gặp lại một người bạn ốm nhom, hốc hác, mình nói: “sao lúc này xuống dữ vậy!”). Ngày xưa khi Ngài nhập thế thì gọi là “xuống trần”. Hôm nay Ngài trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là “lên trời”. Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi, nhưng đó là tình trạng Ngài đã lấy lại vinh quang. Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, vì Ngài đã nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Hiểu như vậy để chúng ta đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu lên trời là Ngài rời bỏ chúng ta, không còn ở với chúng ta. Nhưng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời là chúng ta mừng vinh quang của Chúa, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên Ngài không còn hiện diện một cách hữu hình với con người nữa, hay nói cách khác: xác phàm của con người không thể thấy được vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.
2/ Biến cố “lên trời” trong đời sống kitô hữu
Khi lần chuỗi với mầu nhiệm năm sự mừng, chúng ta đọc: “Thứ hai ĐGS lên trời. Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”. Thánh Phêrô thì khuyên các tín hữu của mình: “Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em cũng phải tìm kiếm những thực tại cao siêu ở trên trời”. Còn trong Hiến Chế về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II thì xác quyết: “Giáo Hội trần thế là một cuộc lữ hành về quê hương trên trời”. Vì thế, tuy sống ở đời này, nhưng chúng ta phải lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau. Thánh tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh đã nói trước khi bị hành hình: “Thân xác tôi đây các ông muốn làm gì thì làm đi, nó sẽ chết nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Không cần ở đâu xa, ngay tại họ đạo Tắc Sậy của Giáo Phận Cần Thơ cũng có một con người biết qu#ý trọng thực tại cao siêu ở trên trời nên đã sẵn sàng từ bỏ những thứ chóng qua ở đời này để đổi lấy hạnh phúc đời sau. Người đó không ai khác hơn là cha Px. Trương Bửu Diệp.
3/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu
Điểm thứ 3 mà chúng ta cần lưu ý qua biến cố Chúa Giêsu lên trời là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đây là mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem vừa là thủ đô, vừa là cái nôi của Kitô giáo để gặp gỡ các môn đệ, nhưng Ngài chọn Galilê là vùng đất bị người Dothái loại trừ, là biểu tượng của dân ngoại. Ngài không chọn vùng đồng bằng để tâm sự với các ông, nhưng lại chọn ngọn núi cao vốn là nơi mặc khải của Thiên Chúa, để từ nơi cao đó các ông sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh phải tỏa rạng vinh quang của Thiên Chúa. Vì vậy những lời sau cùng của Chúa Giêsu, cách thức gặp gỡ của Ngài muốn nhắc nhở các môn đệ sứ mạng truyền giáo, bằng cuộc sống tỏa sáng cho mọi người noi theo.
II/ CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời với 3 sự thật về ý nghĩa của việc lên trời, về việc Chúa lên trời trong đời sống của người kitô hữu và mệnh lệnh truyền giáo của Chúa, chúng ta phải sống những điều đó như thế nào đây?
1/ Chúa lên trời nhưng vẫn ở với con người
Trước hết chúng ta đã biết lên trời là tình trạng vinh quang của Chúa Giêsu. Vì vậy nhờ vinh quang mà Ngài càng có thể ở cạnh con người, càng giúp đỡ con người một cách đắc lực hơn. Cho nên chúng ta hãy nhớ rằng Chúa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để chúng ta sống là sống cho Chúa, sống trong Chúa và sống với Chúa. Mọi sự bất toàn nơi con người chúng ta là do không y thức sự hiện diện của Chúa. Nếu chúng ta biết và nhớ rằng Chúa luôn ở bên cạnh tôi thì làm sao chúng ta có thể làm những điều xấu được. Vì vậy làm sao để chúng ta ý thưc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta đây? Chúng ta hãy dựa vào những phương thế siêu nhiên mà Chúa và Giáo Hội đã dạy chúng ta. Đó là năng đọc và suy niệm lời Chúa; lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Giải Tội; siêng năng lần chuỗi mân côi; đọc lời nguyện tắt, có nghĩa là chọn một câu nào đó mình thích để lặp đi lặp lại suốt ngày trong đời sống chúng ta. Ví dụ: “Lạy Chúa Giêsu xin thương xót con”, hay: “Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa”. Chúng ta hãy nhớ rằng tự sức chúng ta và những phương thế tự nhiên không thể nào thắng được ba thù: thế gian, ma quỷ và xác thịt đâu; chỉ có ơn Chúa và phương thế siêu nhiên mới có thể giúp sức cho chúng ta mà thôi.
2/ Hướng lòng lên trời
Từ việc Chúa lên trời cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Chuẩn bị cho cuộc sống mai sau có nghĩa là chúng ta phải biết rằng cuộc sống này chỉ là tạm bợ, chóng qua, để chúng ta không bám víu vào mà chỉ lo tìm kiếm những thứ thuộc về đời này, những thứ mà Chúa Giêsu gọi là thuộc về thế gian. Đồng thời chúng ta phải sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này. Mà thực tại Nước Trời là gì nếu không phải là tình yêu thương. Do đó dấu hiệu để chúng ta biết mình sống ở đời này mà có lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau hay không chính là việc chúng ta có thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống hay không.
3/ Thực hiện lệnh truyền giáo
Cuối cùng, chúng ta phải thực hiện di chúc của Chúa Giêsu, đó là “anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó cũng là ước nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu, muốn cho mọi người được vào Nước Trời với Chúa. Vì vậy bổn phận của chúng ta là phải đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa, hay còn gọi là truyền giáo. Truyền giáo là làm sao? Chúng ta khoan hãy nghĩ đến chuyện lôi kéo nhiều người vô đạo, làm sao cho càng có nhiều người được rửa tội càng tốt… đó là cách thức của việc truyền giáo. Nhưng trước hết chúng ta hãy nghĩ đến nội dung truyền giáo, có nghĩa là Tin Mừng mà chúng ta muốn truyền đạt là như thế nào; có hấp dẫn người ta mới theo, có đáng tin người ta mới vào. Điều đó đòi hỏi bản thân chúng ta trước hết phải cảm nhận được điều mình muốn truyền đạt. Mình phải cảm thấy niềm vui, hạnh phúc trong đời sống đạo thì mình nói người ta mới tin. Khi đã có nội dung của Tin Mừng rồi thì phần còn lại là cách chúng ta trình bày cho người khác bằng lời rao giảng, bằng cách sống đạo, bằng lời cầu nguyện… Lúc đó người ta tin chúng ta không phải vì lời rao giảng, không phải vì những việc chúng ta làm, nhưng vì hạnh phúc chúng ta đang cảm nhận, niềm vui chúng ta đang có, và hy vọng chúng ta đang mong chờ.
Tóm lại, Phụng Vụ Lời Chúa trong lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay cho chúng ta biết rằng việc lên trời của Ngài là trở lại tình trạng vinh quang thuở ban đầu, nên Ngài vẫn hiện diện và càng ở bên cạnh để ban ơn giúp sức cho chúng ta. Nhờ Chúa Giêsu lên trời mà chúng ta tuy sống ở đời này nhưng vẫn hướng lòng về trời cao để sống giá trị của Nước Trời ngay tại thế này để hy vọng một ngày nào đó cũng được về trời với Chúa. Cuối cùng vì niềm tin vào việc chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa nên chúng ta có bổn phận làm cho người khác cũng được vào Nước Trời, bằng cách phải cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì tôi là người kitô hữu, từ đó lời rao giảng của chúng ta mới có sức mạnh lôi kéo người khác. Lạy Chúa, xin cho con lòng ái mộ những sự cao siêu ở trên trời.
Sau khi sống lại 40 ngày, và sau những lần gặp gỡ với các môn đệ, Đức Giêsu đã thực hiện lời LênTrời ABC-340
Sau khi sống lại 40 ngày, và sau những lần gặp gỡ với các môn đệ, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người đã nói trước, người đã từ biệt các ông và lên Trời.
Nhưng tại sao Đức Giêsu dạy các môn đệ làm phép Rửa đã, sau đó mới giảng dạy cho họ? Tại sao không nói Chúa về Thiên đàng mà lại lên Trời, dễ làm người ta hiểu lầm ở một điểm nào trên không gian? Tại sao cho đến lúc này vẫn có những môn đệ còn hoài nghi? Theo Matthêu thì Đức Giêsu lên Trời tại Galilêa, vậy tại sao thánh Luca (Lc 24,50-53) lại nói Chúa lên Trời ở Bêtania?
1. Galilêa
Matthêu không có ý nhấn mạnh tới địa danh nơi Chúa lên Trời, nhưng tác giả muốn nhấn những sự kiện có liên quan tới công trình cứu thế của Đức Giêsu tại Galilêa:
Galilêa là một địa danh rộng lớn thuộc phía bắc It-ra-en, nơi có đủ các thứ dân sinh sống. Đây là khu vực mà người It-ra-en ở Giê-ru-sa-lem coi khinh, cho là vùng đất của dân ngoại. Nơi đây được coi như trung tâm của các giao tiếp, sắc tộc, ngôn ngữ, thương mại, hoà trộn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng.
Galilêa được coi là điểm hẹn lí tưởng giữa Thiên Chúa và con người: Trên núi Sinai, nơi Môi-sen đã ở trên đó 40 ngày đêm và được Thiên Chúa mạc khải cho 10 điều răn. Ngôn sứ Isaia và sau này là thánh Matthêu nhắc tới địa danh Galilêa như một điểm sáng: “Hỡi Galilêa miền đất của dân ngoại, những dân đang ngồi trong bóng tối tử thần được nhìn thấy ánh sáng” (Is.9,1).
Galilêa gắn liền với sứ vụ của Đức Giêsu: Na-da-ret nằm trong vùng đất Galilêa, nơi gia đình Đức Giêsu sinh sống, lớn lên và làm việc. Trên núi Ô-liu, nằm phía đông Giê-ru-sa-lem, là nơi Đức Giêsu thường xuyên đến để cầu nguyện. Tại đây còn có vườn Giêt-si-ma-ni, có làng Bêtania, nơi Người đã cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại, có ngọn núi Bet-pha-giê nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giê-ru-sa-lem và tiên báo thành này bị tàn phá không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.
Galilêa còn là dấu chỉ hẹn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ: Cũng có mây mù che phủ, như đã từng che phủ Môi-sen trên núi Si-nai, cũng như Đức Giêsu với ba môn đệ yêu dấu ở Ta-bo-rê; cũng con số 40 kì diệu: 40 ngày trên núi Si-nai của Môi-sen hay 40 ngày chay tịnh của Chúa; 40 ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Người đã gặp gỡ lần cuối với các môn đệ như đã chỉ định trước: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ rằng người đi Galilêa trước các ông” (Mt.28,7).
Như vậy Galilêa là nơi Chúa Giêsu đã sống gương mẫu, rao giảng chân lí, thành lập Giáo Hội và tuyển môn đệ. Đức Giêsu đã làm xong nhiệm vụ và đi trước để dọn chỗ cho những ai tiếp tục sứ mệnh Người giao phó.
2. Cõi Trời
Chúa Giêsu về Trời, là về nơi Người phát xuất: Ngài đã hoàn thành nhiệm vụ của Người ở trần gian, Người cần được hưởng vinh quang với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mười một Tông đồ đã đến điểm hẹn, có một số còn hoài nghi. Thực ra tất cả các môn đệ đều khởi đầu từ chỗ hoài nghi rồi đến tin tưởng, và dám đổ máu mình ra để chứng tỏ niềm tin đó. Các ngài vẫn còn những hạn chế của con người, như Phê-rô, Tô-ma, hay hai môn đệ Emmau; các ngài còn phải được học hỏi các màu nhiệm mặc khải, các ngài phải được thử thách đủ, trước khi làm nhiệm vụ. Các Tông đồ còn được chứng kiến Thầy mình về Trời để các ông hi vọng. Chỉ có sự thật mới thuyết phục được các ngài theo Chúa; tất cả nói lên rằng, Đức tin là một hành động hoàn toàn tự do dành cho con người.
Chúa lên Trời là đi từ chỗ hữu hình vào nơi vô hình: Nói Chúa lên Trời, là nói theo kiểu thế gian. Người ta thường quan niệm trời là tất cả không gian ngoài trái đất, trời là nơi Đấng Tạo Hoá ngự trị và điều khiển muôn loài. Tuy nhiên, Trời đây không phải là một điểm nào, không phụ thuộc chiều cao của không gian vật lý, không phụ thuộc vào quy luật của vũ trụ, thời gian, có thể cân đong đo đếm. Chúa lên Trời không phải là lánh xa trái đất, đến ngự trị trong một vì tinh tú hào quang, Chúa lên Trời là thay đổi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái siêu nhiên. Trời hay Thiên đàng là một, Người hiện diện khắp mọi nơi.
Đức Giêsu về Trời để nhận nhiệm vụ mới: Người duy trì sự hiện diện của Người nơi nhân loại: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế"(Mt 28,20). Đức Giêsu được trao toàn quyền trên trời, dưới đất, vũ trụ hữu hình và vô hình. Người đánh bại cái chết, Người làm Vua vũ trụ, Đấng sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, không có gì nằm ngoài quyền của Người.
3. Thế gian
Đức Giêsu đã về Trời và trao lại nhiệm vụ cho Giáo Hội. Người đã lệnh cho mọi người trên trái đất phải thi hành chỉ thị của Người:
Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân và làm cho họ trở thành môn đệ Thầy. Môn đệ đây được hiểu là các Kitô hữu. Đức Giêsu gọi các môn đệ và muốn họ nhân rộng ra, tăng mạnh lên. Chúa tạo dựng con người và muốn cho họ hưởng hạnh phúc. Các Tông đồ được coi là người kế nghiệp Chúa Ki-tô, là những thợ gặt lành nghề. Họ phải biết đưa mọi người vào Nước Chúa. Chúa từ chối Sa-tan với tất cả vinh hoa của nó, Người muốn các Tông đồ tiếp tục chinh phục toàn thể vũ trụ để đưa mọi người vào Nước Trời hạnh phúc mà Người đi trước dọn chỗ, để mọi người có thể tận hưởng muôn đời.
Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thâu nạp nhiều môn đệ qua phép Thanh Tẩy. Người đã thánh hoá nước, để nước có sức thánh hoá nhờ Thánh Linh. Người muốn họ nối kết với nhau trong một tập thể, mà Ba ngôi Thiên Chúa là mối dây, là tình yêu liên đới, là sức sống sung mãn dồi dào trong toàn thể, cũng như từng cá nhân. Không thể nhân danh cá nhân nào, không nhân danh thụ tạo nào, thần thánh nào, mà là nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, để họ được gia nhập vào gia đình thánh thiện của Chúa.
Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Việc Đức Giêsu đặt nhiệm vụ này cuối cùng, không phải là Người dạy họ phải làm theo thứ tự như vậy, đó chỉ là câu nói nhằm mục đích kêu gọi môn đồ. Người muốn họ phải hiểu biết đầy đủ, để chia sẻ Lời dạy của Chúa, phải biết được giá trị của việc làm, để thực thi nhiệm vụ của một môn đệ
Nhiệm vụ Chúa giao phó cho các Tông đồ cũng là nhiệm vụ của chúng ta. Chúa không muốn riêng ai quản lí màu nhiệm Mạc khải, Chúa ra lệnh mỗi người phải mạnh dạn ra đi rao giảng và làm chứng về Người, hầu được hưởng phúc Nước Trời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
***
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con tin bằng trái tim, tuyên xưng bằng miệng và bày tỏ bằng việc làm, rằng Chúa ngự trong chúng con ngõ hầu nhân loại thấy rõ những việc lành chúng con làm mà tôn vinh chúc tụng Cha chúng con trên trời. Vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, Đấng muôn đời vinh hiển. Amen! (Origênê)
“Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta.”
1.- Ngữ cảnh
Chương 24 của TM Lc được xây dựng thành 3 đoạn và một kết luận (xem bài trước). Bản văn LênTrời ABC-341
Chương 24 của TM Lc được xây dựng thành 3 đoạn và một kết luận (xem bài trước). Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay lấy một vài câu của phần ba và đoạn kết luận.
Khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu cho thấy Người chính là Đức Kitô đã chịu đóng đinh, Người cũng không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù ghét, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng cũng chính Đấng chịu đóng đinh là Đấng Phục Sinh. Người đã bị điệu đi đến cái chết trong tình trạng thê thảm và tàn bạo, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng đang sống đã thắng vượt cái chết và không thể chết nữa. Rồi Người cho các môn đệ hiểu rằng các ông chẳng những không phải sợ là bị hủy diệt hoàn toàn, mà còn có thể và phải đi làm chứng về biến cố trọng đại này. Đức Giêsu đã dựa vào Kinh Thánh để trình bày cuộc Thương Khó – Phục Sinh, rồi xác định sứ mạng của các môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (24,46-49); 2) Đức Giêsu lên trời (24,50-53). 3.- Vài điểm chú giải
- bắt đầu từ Giêrusalem (47): Câu này là câu chuyển tiếp đưa sang tập thứ hai của tác phẩm Lc (= Sách Cv).
- Chứng nhân (48): Tại đây, tác giả Lc đã nói trước điều ngài sẽ triển khai trong sách Cv, bắt đầu ở Cv 1,21-22. Ngoài TM IV, sách Cv là quyển sách thuộc Tân Ước trong đó từ này và các từ phái sinh (làm chứng, chứng tá, chứng từ) được sử dụng nhiều nhất: 29 lần. Lý do là vì quyển sách này là sách về chuyên việc làm chứng. Như thế, từ martys, “chứng nhân”, cũng có một tầm quan trọng đặc biệt. Đặc biệt không được lẫn lộn từ này với tư cách “mục chứng”: Hy ngữ cổ điển, và chính Lc (Lc 1,2) dùng từ autopês, “người chứng mắt thấy”. Vai trò của một autopçs khá thụ động, và tư cách này thực ra chỉ là một tình trạng thực tế: autopês là người có cơ hội chứng kiến một biến cố nào đó; do đó, nếu cần phải làm chứng hoặc toà án buộc làm chứng, người ấy có thể trình bày những gì mình đã thấy, như mình đã thấy. Còn chứng nhân (martys) có một vai trò tích cực hơn nhiều, có một sứ mạng phải hoàn tất: đó là không những công khai công bố những gì mình đã chứng kiến, mà còn xác định ý nghĩa, tầm mức của biến cố ấy nữa. Là người đi qua biến cố, “chứng nhân” trở thành người tuyên cáo (trong bối cảnh tôn giáo, thần học) sứ điệp đã được hàm chứa trong biến cố ấy.
Câu truyện tuyển chọn ông Mátthia thay thế cho Giuđa minh hoạ điểm phân biệt này (Cv 1,15-26). Bởi vì trong thực tế, ta khó mà hiểu được vì sao lại phải đi tới một tuyển chọn, thậm chí một sự chuẩn nhận để cắt đặt một chứng nhân nếu người này chỉ cần có một điều kiện là hiện diện thể lý trong một biến cố thuộc quá khứ. Trái lại, ta hiểu là cần có một cuộc tuyển chọn (rút thăm) nếu vai trò người được chọn vượt quá khung cảnh chật hẹp này, nếu cùng với việc công bố biến cố, người ấy còn phải biết minh giải đúng đắn biến cố ấy. Vậy các chứng nhân mà Cv sẽ nói tới trong cả sách, là những nhà thần học về các hoạt động cứu độ của Chúa.
Muốn làm chứng về sự sống lại của Đức Chúa (Cv 4,33), thì phải công bố chân tính và toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu. Công viẹc làm chứng này của các tông đồ được mô tỏ rõ ràng trong các bài diễn từ (Cv 2,22-36; 3,12-16; 4,8-12; 5,29-32; 10,34-43; 13,26-41; 17,30-31).
- điều Cha Thầy đã hứa (49): dịch sát là “lời hứa của Cha Thầy”, là Thánh Thần, như Cv1,4b.5b sẽ diễn tả rõ. Thánh Thần sẽ là nguồn của “quyền năng” trong câu tiếp theo.
- giơ tay (50): Đây là cách chúc lành của tư tế (xem Aharon trong Lv 9,22), hoặc của vị thượng tế (xem Simôn II trong Hc 50,20-21). Điều mà Dacaria (Lc 1,21-22) đã không thể làm được, thì Đức Giêsu đang làm cho người đang đi theo Người. Mặc dù tác giả Lc mô tả Đức Giêsu thực hiện một hành vi tư tế, nền thần học của ngài không hề đề cập đến Đức Giêsu như là tư tế.
- được đem lên trời (50): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa (x. Cv 1,9.11.22). Các câu 50-53 dường như mâu thuẫn với Cv 1,3-11. Theo Cv, Đức Giêsu “còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1,3). Trong khi đó, bản văn TM dường như lại bảo rằng tất cả những gì tác giả Lc kể trong ch. 24 đã xảy ra trong ngày Phục Sinh, rằng di chúc của Đức Chúa đang rời xa thế gian này (cc. 41-49) và cuộc Lên trời của Người (cc. 50-53) theo liền ngay sau cuộc hiện ra vào chiều ngày Phục Sinh.
Dường như Lc đã có những ý hướng Phụng vụ khi trình bày các biến cố: mỗi ngày chúa nhật của cộng đoàn Kitô hữu là một lễ Phục Sinh, một ngày Phục Sinh. - các ông bái lạy Người (52): Các môn đệ làm một cử chỉ nhận biết Đức Kitô. Họ thinh lặng bái lạy để thờ phượng Người, như người Do-thái đã làm trước mặt thượng tế Simôn (Hc50,22) để nhận phúc lành của ông.
- trở lại Giêrusalem (52): Như vậy, TM Lc kết thúc tại nơi nó đã bắt đầu (1,5). Giêrusalem đã là mục tiêu của hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu (23,5); bây giờ Giêrusalem lại được nêu ra như điểm nhắm. Nhưng rồi, điểm nhắm lại trở thành khởi điểm khi “lời” lan tỏa đến tận cùng trái đất (Cv 1,8).
- lòng đầy hoan hỷ (52): dịch sát là “với niềm vui lớn lao”. Đây là niềm vui của những người không những đã được thấy Đấng Phục Sinh, mà còn đã đặt sự Phục Sinh của Người liên hệ với cuộc ra đi của Người và đặt cuộc ra đi này liên hệ với lời hứa Thánh Thần. Lời nhắc đến “niềm vui lớn lao” khiến ta hiểu rằng biến cố Lên Trời chấm dứt thời gian Đức Giêsu ở tại trần thế, mà cũng là hoàn tất cuộc Phục Sinh của Người, là khởi đầu của thời gian Giáo Hội. Niềm vui này của những người chứng kiến cuộc Lên Trời là tiếng vọng và sự hoàn tất của niềm vui mà sứ thần hứa cho tư tế Dacaria và cho một số đông vào ngày Gioan Tẩy Giả chào đời (Lc 1,14). Nhưng nhất là niềm vui này thể hiện trọn vẹn niềm vui lớn lao mà sứ thần hứa cho các mục đồng, “một niềm vui cho toàn dân” (2,10). Ở đây cũng vậy, khởi đầu và kết thúc gặp nhau.
- hằng ở trong Đền Thờ (53): Như vậy, tác giả Lc bắt đầu mô tả đời sống cộng đoàn của Hội Thánh phôi thai (x. Cv 2,46; 3,1; 5,42). Ở đây lại nổi bật tầm quan trọng của Đền Thờ theo hướng nhìn của Lc.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (46-49)
Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc Phục Sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x.Cv 1,21t). Mỗi lời loan báo đều phải phát xuất từ các chứng nhân này, nghĩa là không dựa trên những suy diễn, những ý tưởng hoặc ý kiến cá nhân, nhưng trên các biến cố lịch sử và trên những giáo huấn do Đức Giêsu ban cho. Do đó, lời loan báo chỉ có thể phát xuất từ những người đã tháp tùng và lắng nghe Đức Giêsu, đã hiểu ý nghĩa của cuộc đời Người nhờ được Người giải thích.
Các môn đệ không thể hiểu nhiệm vụ bao la này bằng sức riêng. Do đó, Đức Giêsu báo cho các ông là Người sẽ gửi cho các ông điều Chúa Cha đã hứa, tức là Thánh Thần. Chính Thánh Thần, là quyền lực của Thiên Chúa, sẽ giúp cho các ông có khả năng loan báo với xác tín và can đảm công trình và sự Phục Sinh của Đức Giêsu (x. Cv 2,22-36).
* Đức Giêsu lên trời (50-53)
Sau khi đã dùng nhiều cách để làm cho các môn đệ tin chắc vào sự sống lại của Người và sau khi đã chuẩn bị các ông đi vào nhiệm vụ, Đức Giêsu từ biệt các ông. Người sẽ không hiện diện bên các ông theo kiểu hữu hình nữa. Nhưng Người sẽ cùng đi với các ông trên mọi nẻo đường. Người giơ tay lên để từ biệt các ông. Trong khi Người đi xa dần khỏi mắt các ông, Người chúc lành cho các ông. Người gửi đến cho các ông sức mạnh của hành vi chúc lành của Người, để sức mạnh này ở lại với các ông và nâng đỡ các ông suốt đời trong mọi hoạt động.
Chỉ đến lúc này, tác giả mới nhắc đến niềm vui của các môn đệ và việc các ông chúc tụng Thiên Chúa. Dacaria (Lc 1,64.68-79) và ông Simêôn (2,28-32) đã chúc tụng Thiên Chúa. Lời chúc tụng Thiên Chúa liên tục vang lên khi dân chúng chứng kiến những hành vi quyền lực của Đức Giêsu (7,16; 13,13; 17,15; 18,43). Sau khi đã trải nghiệm qua Đấng Phục Sinh hành vi quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, nghĩa là sự Phục Sinh của Đức Giêsu, các môn đệ chỉ có một câu trả lời đúng đắn: ca ngợi trong niềm hoan hỷ và chan hòa tâm tình biết ơn đối với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tác giả Lc đã bắt đầu tác phẩm với việc Dacaria dâng hương và dân chúng cầu nguyện trong Đền Thờ (Lc 1,8-10), để xin Thiên Chúa nhớ lại dân Ngài và tỏ lòng nhân ái. Bây giờ tác giả kết thúc Tin Mừng với việc các môn đệ của Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Các ông đã cùng đi với Đức Giêsu cho đến khi Người lên trời, các ông đã biết hơn bất cứ ai rằng Thiên Chúa đã nhớ đến dân Ngài thế nào. Và tất cả những ai nhờ chứng tá của các môn đệ và qua tác phẩm Lc mà trải nghiệm lòng từ bi cao cả của Thiên Chúa, thì không thể làm gì hơn là tham gia vào việc ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay là Chua Giêsu lên trời. Khi mừng đại lễ này, chúng ta tưởng niệm lần cuối cùng Đức Giêsu tỏ mình ra hữu hình với các môn đệ. Người chọn một cách thức hiện diện khác để hỗ trợ các môn đệ trong hoạt động truyền giáo. Từ nay, Người sẽ đồng hành với họ, sẽ hiệp thông với họ khi chia sẻ bữa ăn, sẽ sống động khi họ giải thích Sách Thánh và khi họ ý thức rằng họ đang được đón nhận sự sống viên mãn của Người. Người bỏ cách hiện diện trước đây bằng thân xác, để từ nay hiện diện mãi mãi với mỗi môn đệ.
2. Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta. Nếu chúng ta xác tín rằng chúng ta thuộc về “trên cao”, thì chúng ta sẽ phải quy hướng trọn cuộc sống chúng ta về đó. Chúng ta vẫn sống giữa các thực tại trần gian, chúng ta vẫn phải sử dụng các yếu tố trần gian, nhưng không bám víu vào các phương tiện ấy, trái lại, biết dùng chúng cách tích cực mà chuẩn bị cho mình và người khác đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Trước ngày đi chịu chết, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm nhưỡng vinh quang của con” (Ga 17,24).
3. Thánh Thần, là quyền năng của Chúa Cha và của Đức Giêsu, luôn ở với Hội Thánh để hỗ trợ Hội Thánh trong sứ mạng đã nhận từ Đức Giêsu. Đọc sách Cv, chúng ta nhận ra được sức năng động của Thánh Thần.
4. Nếu các tín hữu gắn bó mật thiết với Đức Giêsu, họ nhận ra quyền lực vô song của Thiên Chúa trong viẹc cho Đức Giêsu sống lại. Khi đó, họ chỉ có thể cảm thấy tưng bừng hoan hỷ và lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa sẽ hồn nhiên từ đáy lòng trào dâng lên môi miệng họ. Và trọn cuộc sống của họ là một chứng từ về quyền lực cứu độ của Thiên Chúa mà họ đã trải nghiệm.
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông: LênTrời ABC-342
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói: Ta phải chọn một người kế vị. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không. Ngạc nhiên vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu ? Anh điềm tĩnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia môt vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Tù trưởng nói: Ngươi sẽ kế vị ta vì ngươi đã mang về món quà quý giá nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp cho cả bộ tộc.
Chúa Giêsu về Trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp, đó là hạnh phúc Thiên Đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người. Chúa Giêsu Lên Trời
Hôm nay, Giáo Hội mừng Lễ Chúa Giêsu lên Trời. Người trở về Nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” ( Mc 16, 19 ).
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.Trên trời cao, các thiên thần và triều thần Thiên Quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn.
Tác giả Thánh Vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai ? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai ? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các Thánh thời Cựu Ước, các Tổ Phụ, các Ngôn Sứ, các người công chính… đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có Thánh cả Giuse, Thánh Gioan Tiền Hô, Tổ Phụ Abraham, Giacóp, Môsê, Thánh Gióp, vua Đavít, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về Thiên Quốc.
Trên núi Cây Dầu, cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” ( Tv 47, 2-3, 6-9 ).
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” ( Ga 3, 13 ). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người. Hiện diện mới
Chúa về Trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về Trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14, 23 ).
Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5 ).
Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học. Trao Sứ Vụ
Chúa về Trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông Đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”.
Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông Đồ, qua các Tông Đồ rồi đến các Môn Đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta: “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế Giới Truyền Thông ( World Communications Day ). Ngày Lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” ( Mt 28, 19 ). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Hội Thánh được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Hội Thánh.
Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận Đức Tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” ( 1Ga 1, 3 ) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa.
Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông Công Giáo. Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông Công Giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống Đức Tin.
Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngày nay các phương tiện truyền thông hiện đại, vốn là một phần thiết yếu của cuộc sống, cách riêng đối với những người trẻ” ( Sứ điệp Truyền Thông lần thứ 49, năm 2015 ).
Trong Sứ điệp Truyền Thông lần thứ 50, năm 2016, ngài viết: “Truyền thông có sức mạnh bắc những nhịp cầu, thúc đẩy gặp gỡ và hoà nhập, làm cho xã hội được phong phú. Đẹp biết bao khi thấy mọi người thận trọng lựa lời và cử chỉ, để vượt qua những hiểu lầm, để chữa lành những ký ức đau thương và xây dựng hoà bình và hoà hợp. Lời nói có thể bắc những nhịp cầu nối giữa các cá nhân, các gia đình, các nhóm xã hội và các dân tộc với nhau. Điều này là có thể được, cả trong thế giới vật chất và thế giới kỹ thuật số… Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội”.
Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông Đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các Môn Đệ, Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông Đồ, các Môn Đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin Mừng Cứu Độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” ( Sứ điệp Truyền Thông lần thứ 50 ).
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với Đức Tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đến Albania vào Chúa Nhật 21.9.2014, bất chấp lời cảnh báo trước LênTrời ABC-343
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đến Albania vào Chúa Nhật 21.9.2014, bất chấp lời cảnh báo trước đó của đại sứ Iraq tại Toà Thánh rằng, ngài có thể bị những kẻ thánh chiến Nhà Nước Hồi Giáo nhắm mục tiêu tấn công. Dù vị trí địa lý ở ngay sát bên thủ đô của Giáo Hội Công Giáo, Albania là một quốc gia CS tồi tệ nhất tại Âu Châu, là nước vô thần đầu tiên trên thế giới. Điều 37 trong Hiến Pháp 1967 của CS tuyên bố: “Nhà Nước không công nhận tôn giáo nào, ủng hộ và thực thi chính sách tuyên truyền vô thần nhằm kiến tạo một thế giới tương lai khoa học và duy vật.”
Các nhà lãnh đạo Giáo Hội bị bắt, bị giam cầm trong các trại cải tạo, bị giết, có cả những Giám Mục và linh mục bị xô xuống từ những tầng lầu cao, bể sọ chết… Tất cả 2.167 Nhà Thờ và các cơ sở của Giáo Hội bị tịch thu, nhiều đền thờ lâu đời, như Vương Cung Thánh Đường ở Shkodër, bị biến thành một vận động trường. Trước sự tàn bạo của CS Albania, chỉ một phần tư thế kỷ trước không ai dám nghĩ có một ngày người dân được hưởng chút tự do tôn giáo. Chuyện một vị Giáo Hoàng đến thăm Albania có lẽ nằm mơ cũng không dám nghĩ tới.
Cha Ernest Simoni, 84 tuổi ( Ảnh bên trái ), từng bị kết án tử hình, nhưng rồi được giảm xuống còn 27 năm lao động khổ sai trong các trại lao động khác nhau. Cha bị nhà nước CS bắt giam từ lễ Giáng Sinh năm 1963, bị kết án tử hình vì đã cử hành 3 lễ cầu nguyện cho Tổng Thống Kennedy của Mỹ bị ám sát chết một tháng trước đó. Cha bị tra tấn và đối xử vô nhân đạo. Sau đó, án tử hình được biến cải thành 18 năm tù, trong đó có nhiều năm lao động khổ sai, và sau khi được trả tự do một thời gian, cha lại bị bắt trở lại, tổng cộng là 27 năm tù đày. Trong thời gian đó, cha vẫn cử hành Thánh Lễ thuộc lòng bằng tiếng Latinh, giải tội và bí mật phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. Ngày 5.12.1990, cha được thả tự do, và bắt tay ngay vào các hoạt động mục vụ của mình, việc mà cha chưa bao giờ ngừng ngay cả khi ở trong tù. Điều đầu tiên cha làm là khẳng định tha thứ cho những người đã hành hạ mình. “Tôi luôn xin Chúa thương xót họ.”
Khi đươc hỏi cha đã đấu tranh thế nào để chịu đựng sự hành hạ như thế mà không bỏ cuộc, thì cha mỉm cười và tiết lộ bí mật: "Tôi chẳng làm gì phi thường cả, thật đấy, chỉ là tôi luôn luôn cầu nguyện với Chúa Giêsu, luôn luôn nói chuyện với Chúa Giêsu.” Khi cha Simoni dứt lời, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiến đến ôm vị Linh Mục thật lâu và cảm động khóc. Sứ thần Tòa Thánh tại Albania, Đức Tổng Giám Mục Ramiro Moliner Inglés, nhận định chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô đến đất nước Albania, muốn nhấn mạnh rằng, sự thiện cuối cùng đã chiến thắng cái ác.
Theo hãng tin AFP, cuộc du hành một ngày qua Albania của Đức Phanxicô vào ngày 21.9.2014, nhằm đề cao nước này như một kiểu mẫu của hoà hợp liên tôn, giữa lúc ở Trung Đông đang có rối loạn và tại Âu Châu làn sóng bất khoan dung đang dâng cao. Tháng 8 năm 2015, Đức Phanxicô cho biết: Albania đã thành công trong việc tạo ra một “chính phủ đoàn kết quốc gia gồm người Hồi Giáo, Chính Thống Giáo và Công Giáo, với một hội đồng liên tôn rất có ích và cân bằng” và nói thêm: sự hiện diện của ngài “sẽ là một cách nói với mọi người rằng: quý vị xem, tất cả chúng ta đều có thể làm việc với nhau !”
Albania là một quốc gia tại Đông Nam Âu với Montenegro ở phía Bắc, Serbia ở phía Đông Bắc, Cộng Hoà Macedonia ở phía Đông, và Hy Lạp ở phía Nam. Dân số chỉ 3.581.655 người. Những người cộng sản lên nắm quyền sau Thế Chiến II. Sau sự sụp đổ của chính phủ CS, Albania theo mô hình Cộng Hoà Nghị Viện. Công Giáo đã bắt đầu có mặt tại Albania vào giữa thế kỷ thứ nhất khi đó còn thuộc Đế Quốc Rôma. Albania từng là nước có số tín đồ Công Giáo ưu thế, với mười tám Tòa Giám Mục, một số chúng có lịch sử liên tục từ khi bắt đầu có Cơ Đốc Giáo cho tới ngày nay. ( Lữ Giang, Đức Giáo Hoàng đến thăm Albania, Vietcatholic ).
Ông Mimmo Muolo, nhà báo Công Giáo người Ý, đã viết một quyển sách về cha Simoni. Ông cho biết: “Cha Simoni đã chịu hơn 11.000 ngày tra tấn và lao động cưỡng bức.” Hôm Thứ Tư, 20.4.2016 vừa qua, trong buổi tiếp kiến chung, cha Ernest Simoni đã đến gặp và trao quyển sách này cho Đức Giáo Hoàng. Và ngài đã chào đón cha bằng cách hôn tay đầy kính trọng.
Cha Simoni cho biết: “Tôi chịu bách hại, bắt đầu từ Đêm Giáng Sinh 1963, khi bị bắt và biệt giam, tra tấn và tuyên án tử hình, đơn giản chỉ vì tôi là Linh Mục.” Bạn cùng phòng giam với cha cho biết, đáng ra vị Linh Mục này hẳn sẽ căm thù chế độ, nhưng cha Simoni chẳng làm gì ngoài cầu nguyện và tha thứ cho những người hành hạ mình. Rồi bản án của cha được đổi thành 25 năm lao động khổ sai, tại hầm mỏ và cống rãnh ở vùng Scutari. ( Bản dịch của J.B. Thái Hòa, Vatican Insider 20.4.2016 ).
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Thăng Thiên hôm nay, Đức Giêsu trao cho các môn đệ sứ vụ cấp bách và quan trọng cần phải thực thi: “Ðức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba thì sống lại từ cõi chết; và nhân danh Ngài, phải được rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi – khởi từ Giêrusalem. Về các điều ấy, các ngươi là chứng nhân." Người mong tất cả Kitô hữu, những ai tin và theo Người, đều là những nhà truyền giáo mọi thời và mọi nơi, đồng thời cũng trở thành chứng nhân cho chính niềm tin vào Đức Giêsu.
Cha Ernest Simoni đã và đang là chứng nhân thời đại của Chúa Giêsu, giữa một thế giới thực dụng, tôn sùng vật chất, đang ra sức chối từ Thiên Chúa. Ngài vẫn không hề lùi bước, không chán nản lội ngược dòng đời, vẫn tiếp tục dũng cảm thảo nên những chứng từ cụ thể, khả tín, hết sức thuyết phục, mà không ai có thể công kích, có thể phủ nhận hay phản bác.
Chứng từ khổ giá
Theo Chúa tiên quyết phải bỏ mình, vác thập giá mà bước theo chân Chúa. Điều kiện tưởng chừng thật dễ dàng và đơn giản, nhưng thực hiện không dễ và cũng chẳng giản đơn như ngộ nhận. Tuy nhiên, có thể tóm tắt và diễn giải điều kiện đó, là từ bỏ ý riêng, để hoàn toàn nói “Fiat” theo Thánh Ý Chúa, cùng chấp nhận tất cả sự khốn khó xảy đến vì danh Chúa.
Từ bỏ mình là không lấy bản thân mình làm tâm điểm, chẳng quy về mình, cũng chẳng kiếm lợi cho mình. Nhưng lấy Đức Giêsu làm tâm điểm cuộc đời, làm kim chỉ nam, làm cùng đích tại thế. Tất cả suy nghĩ, tư tưởng, nói năng, hành động, ứng xử, đều quy hướng về Chúa làm chuẩn mực, gương mẫu. Nếu Chúa cũng ở vào hoàn cảnh như mình, sống trong môi trường xã hội hiện nay, gặp những vấn đề nan giải, phức tạp, đau khổ, thì Chúa sẽ nghĩ sao ? Người sẽ nói gì ? Người sẽ hành động ra sao ? Người sẽ ứng xử thế nào ? Thánh Kinh, Tông truyền, Giáo truyền, các Chủ Chăn, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân tốt lành, luôn sẵn sàng trả lời chính xác. Nhất là dành cho những ai tha thiết tìm hiểu Thánh Ý, trước tất cả biến cố trong đời người.
Khi từ bỏ mình, xả kỷ, sẵn sàng chấp nhận những khổ giá, thách đố, đau thương, nhục hình vì danh Chúa, cũng là lúc Kitô hữu viết nên những chứng từ minh bạch và thuyết phục nhất. Điển hình như Cha Ernest Simoni đã viết chứng từ bằng 11.000 ngày tra tấn và lao động cưỡng bức. Mặc dầu, có thể bị coi là khờ khạo, dại dột, ngu dốt, không thức thời, dưới mắt thực dụng của người đời. Nhưng “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” ( 1Cr 1, 27 ).
Chứng từ tình yêu
Trên thập giá, Đức Giêsu không chỉ tha thứ cho những người âm mưu và sát hại Người, mà còn khoan dung, thân thương cầu nguyện cho họ, như chính lời Người đã dạy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” ( Lc 23, 34 ). Vậy tha thứ chính là đỉnh cao của tình yêu. Làm chủ bản thân, không nhương bộ bản năng, không chiều theo ham muốn, không chịu khuất phục bởi dục vọng, sẵn sàng chịu đóng đinh vào thập giá, đành cam chịu chết đi, mới có thể sẵn lòng khoan dung, tha thứ cho kẻ hại mình.
“Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.” ( Mt 5, 44-46 ). Cha Ernest Simoni đã thực hành trung thực Lời Chúa, khi tha thứ và cầu nguyện cho những người hành hạ, đày ải: “Tôi luôn xin Chúa thương xót họ.”
Chứng từ tín thác
Chứng nhân còn là người luôn liên lỉ trông cậy vào Thiên Chúa qua cầu nguyện và Thánh Thể. Noi gương Đức Giêsu hằng sáng tối chuyên chủ cầu nguyện, để kếp hợp chặt chẽ với Thiên Chúa Cha, người Kitô hữu cũng cần luôn cầu nguyện, để lắng nghe tiếng Chúa, Thánh Ý, cũng như tâm sự mọi sự với Người. Kể cả những thất bại, những đau khổ, hoạn nạn, những ân oán, oan ức, nhục mạ, ganh ghét, tị hiềm, những lời thị phi đố kỵ. Người sẽ luôn lắng nghe, sẽ luôn thấu hiểu, luôn an ủi, nâng đỡ, chở che.
Như vậy, cầu nguyện là hoàn toàn tín thác vào Lòng Thương Xót, cũng như là chứng từ đặc biệt, để được cứu rỗi khỏi mọi gian nguy, nhất là khỏi phải chết đời đời.
“Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh ? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có một lý do chính: họ bỏ cầu nguyện từ lâu.” ( Đường Hy Vọng, số 125 ).
Khi hỏi về bí quyết chịu đựng sự hành hạ, bạc đãi, tù đầy với niềm tin vững mạnh, trung kiên vào Thiên Chúa, Cha mỉm cười tiết lộ: ”Tôi chẳng làm gì phi thường cả, thật đấy, chỉ là tôi luôn luôn cầu nguyện với Chúa Giêsu, luôn luôn nói chuyện với Chúa Giêsu.” Hơn nữa, Cha còn được bổ sung, tăng thêm sức chịu đựng nhờ âm thầm dâng Thánh Lễ hằng ngày trong nhà tù. Thánh Thể là nguồn sinh lực vô biên cho những ai trân trọng đón rước.
“Đèn không sáng nếu hết dầu, xe không chạy nếu cạn xăng, hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến vói Thánh Thể: "Ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời." ( Đường Hy Vọng, số 360 ).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin luôn dạy chúng con biết rao giảng, làm tông đồ, làm chứng nhân, không phải chỉ bằng lời nói suông, nhưng chính bằng những chứng từ khổ giá, chứng từ tình yêu khoan dung với tha nhân, cùng chứng từ tín thác vào Lòng Thương Xót vô ngần.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết vinh danh Chúa qua việc chu toàn bổn phận, trách nhiệm trong đời sống thường nhật. Đó cũng chính là vâng theo Thánh Ý Chúa trong từng phút giây hiện tại, như Mẹ từng vâng phục. Amen.
Định hướng là việc cần làm trong cuộc sống. Lĩnh vực nào cũng cần được định hướng đúng đắn LênTrời ABC-344
Định hướng là việc cần làm trong cuộc sống. Lĩnh vực nào cũng cần được định hướng đúng đắn để khả dĩ có kết quả tốt nhất. Về tâm linh, Chúa Giêsu đã định hướng cho những ai muốn thuộc về Ngài: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ). Đặc biệt hơn, Ngài định hướng sống cho chúng ta qua Điều Răn Mới: Yêu thương nhau ( Ga 13, 34-35; Ga 15, 12 và 17 ). Thật kỳ lạ là yêu thương khả dĩ “che phủ muôn vàn tội lỗi” ( 1Pr 4, 8 ).
Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã định hướng cách sống cho chúng ta để chúng ta cố gắng sống tốt, chờ Ngài trở lại đón chúng ta. Ngài về Trời trước để dọn chỗ cho chúng ta ( Ga 14, 2-3 ), nhưng Ngài vẫn ở bên chúng ta cho tới tận thế ( Mt 28, 20).
Chúa Giêsu về trời, chúng ta ở lại. Đó là cuộc chia tay đầy ý nghĩa. Tất nhiên cuộc chia tay nào cũng đầy lưu luyến, bịn rịn, đôi khi còn buồn thảm. Nhưng cũng có những cuộc chia tay khiến người ta vui mừng và hy vọng, đặc biệt nhất là cuộc chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào ngày Ngài về trời. Chúng ta vui mừng và hy vọng, không hề mồ côi, vì chính Ngài đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” ( Ga 14, 26 ).
Vương Quốc Thiên Chúa không phải ở thế gian này, nhưng người ta lại tưởng Chúa Giêsu là nhà cách mạng lỗi lạc, chính trị gia đại tài, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Do đó, người ta đã hỏi dò Ngài: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không ?” ( Cv 1, 6 ). Nhưng Ngài đã thẳng thắn xác định: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” ( Cv 1, 7 ).
Vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt họ, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn, không biết vì tiếc Chúa hay tiếc cảnh lạ nữa. Đang lúc họ còn đăm đăm nhìn lên Trời phía Ngài đi mất hút, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời ? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên Trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” ( Cv 1, 11 ). Hoàn hồn. Nhéo tay thấy vẫn đau lắm.
Quả thật là lạ lùng và kỳ diệu, phàm ngôn không thể diễn tả ! Nói cho ngay thì cũng thấy buồn khi Ngài đi xa, nhưng chúng ta vẫn tràn trề hy vọng, vì chúng ta không hề bị bỏ rơi, không như kẻ lang thang vô định. Như Ngài nói, Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài còn gởi Chúa Thánh Thần đến nâng đỡ chúng ta từng ngày. Lợi ích nhân đôi đấy !
Thật là vui mừng, và trong niềm hy vọng đó, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo ! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” ( Tv 47, 2-3 ). Thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như vậy.
Niềm vui mừng nối tiếp, niềm hy vọng được kéo dài và lan tỏa: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” ( Tv 47, 6-9 ).
Rất rạch ròi, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh” ( Dt 9, 24-25 ).
Tại sao vậy ? Thánh Phaolô giải thích: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” ( Dt 9, 26-28 ).
Vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” ( Dt 10, 19 ). Chúng ta vô cùng hạnh phúc vì được Chúa trao ban cho quyền đó, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Và còn hơn thế nữa, chính “Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa” ( Dt 10, 20-21 ). Vì thế, Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một Đức Tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” ( Dt 10, 22-23 ).
Sống Đức Tin và thực thi lòng thương xót là việc làm cần thiết, nhưng phải kiên trì và không ngừng canh tân. Thật vậy, có thể nói rằng sống Đức Tin là mối phúc thứ 9 mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” ( Ga 20, 29 ). Về phương diện này, chúng ta phải cảm ơn Tông Đồ Tôma, vì nếu lòng tin của ông cũng “mềm” như người khác thì làm gì có mối phúc này!
Sống Đức Tin là thể hiện Đức Tin một cách sống động và cụ thể. Sống Đức Tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ chút nào và phức tạp lắm, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát.
Chúa Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” ( Lc 24, 46-47 ). Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà vắng bóng đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu khoảng buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, thế thì chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo.
Sống đạo là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã truyền lệnh cho mỗi chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” ( Lc 24, 48 ).
Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để về Trời, cuộc chia tay không buồn thảm mà lại chứa chan niềm hy vọng: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” ( Lc 24, 49 ). Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêthania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên Trời.
Thánh Luca tường thuật rõ ràng: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” ( Lc 24, 52-53 ). Đức Kitô chịu chết nhưng phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hy vọng thật và niềm hạnh phúc khôn tả !
Như một bài luận có ba phần – nhập đề, thân bài và kết luận. Tương tự, cuộc đời cũng có ba khoảng – tuổi thơ, tuổi trẻ và tuổi già. Có thể có người chỉ có tuổi thơ mà không có tuổi trẻ và tuổi già, có người có tuổi thơ và tuổi trẻ mà không có tuổi già. Tuy nhiên, ai cũng có ba khoảng này: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Nhân vô thập toàn. Vì vậy, đừng quay lại quá khứ mà nuối tiếc hoặc tự trách mình thái quá, hãy hướng tới tương lai để vươn lên. Ai nghĩ gì, mặc họ. Hãy cứ là chính mình. Đừng đếm những gì đã mất, hãy quý trọng những gì hiện đang có, và định hướng mới về những gì khả dĩ đạt được trong tương lai. Tại sao ? Quá khứ không bao giờ trở lại, nhưng tương lai có thể bù đắp cho những gì đã mất mát.
Thiên Chúa chí công, không thiên vị bất kỳ ai ( Gl 2, 6; Cv 10, 34 ). Cửa này khép lại thì sẽ có cửa khác mở ra. Hãy vững tin vào Ngài. Thánh Gioan Kim Ngôn ( cũng gọi là Kim Khẩu, 347-407, Ioannes Chrysostomos ) xác tín: “Thiên Chúa lượng định đau khổ theo mức cần thiết cho chúng ta”. Cứ an tâm, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định, nghĩa là Ngài đã định hướng riêng từng người. Đừng chê trách hoặc đề cao bất cứ ai. Mỗi người đều có vị trí nhất định theo Thánh Ý Chúa, với mục đích là để làm vinh danh Ngài.
Lạy Thiên Chúa nhân từ và giàu lòng thương xót, xin cảm tạ Ngài đã định hướng cho chúng con, xin giúp chúng con can đảm sống đạo và thể hiện Đức Tin trong từng hơi thở của cuộc đời chúng con trên thế gian này. Nhờ đó, chúng con không chỉ hy vọng mà còn định hướng sống là về trời với Đức Kitô, sau khi chúng con hoàn tất cuộc hành trình Đức Tin trên trần gian này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Với bài đọc cuối cùng trích thư I Gio-an nói về tình yêu của Thiên Chúa, Phụng vụ Lời Chúa dẫn LênTrời ABC-345
Với bài đọc cuối cùng trích thư I Gio-an nói về tình yêu của Thiên Chúa, Phụng vụ Lời Chúa dẫn chúng ta vào tận tâm điểm của mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta được sống đời sống đức tin vì Chúa Con đã thực sự cứu chuộc chúng ta. Chúng ta được sống đời sống đức ái vì chúng ta được chia sẻ Thần Khí của Thiên Chúa. Đời sống tin yêu ấy mở đường cho chúng ta đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa, cho dù chưa bao giờ chúng ta nhìn thấy Người. Tuyệt đỉnh của suy niệm về tình yêu Thiên Chúa phải là đưa chúng ta về với chính tình yêu ấy, tình yêu được biểu lộ qua sinh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói khác đi, để kết thúc cho loạt bài suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, Phụng vụ Lời Chúa muốn trình bày một cuộc hành trình đưa chúng ta đến với Thiên Chúa và “ở lại” với Người. Khởi đầu cuộc hành trình đến với Thiên Chúa: phải xác tín tình yêu của Thiên Chúa
Muốn đến đâu, chúng ta cần phải biết vị trí của địa điểm mình tới và phương tiện mình sử dụng để tới. Với phương tiện “tìm bản đồ” trong mạng lưới hôm nay, việc xác định địa điểm chúng ta muốn tới quả thực rõ ràng. Chỉ cần bấm máy vi tính ra là chúng ta có ngay một tấm bản đồ đầy đủ chi tiết. Văn minh hơn nữa, hệ thống “chỉ đường” còn được gắn ngay trên xe, cứ việc vừa lái xe vừa theo lời của “người” chỉ đường vô hình! Nhưng có bản đồ nào giúp chúng ta tới với Thiên Chúa không? Thánh Gio-an cung cấp cho chúng ta một bản đồ sống động: cứ theo con đường tình yêu mà đi. Vậy tình yêu ở đâu?
Tự bản chất, Thiên Chúa là Đấng siêu việt, thụ tạo không thể tự mình đến với Người được. Có những kẻ vỗ ngực tự cho mình là những người có trực kiến, có sức đạt tới Thiên Chúa được. Nhưng thánh Gio-an khẳng định nhiều lần: Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ (Ga 1:18; 5:37 và 6:46). Không phải là con người đến với Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa đến với con người. Chẳng những Người đã đến, mà còn “ở lại” nữa! Thiên Chúa đã “ở lại” với con người qua dạng thức tình yêu. Trước hết qua Tình yêu Nhập thể, là Con Một Người đã được trao ban cho nhân loại (Ga 3:16). Đâu cần phải lên trời, xuống biển hoặc đến tận chân trời mà tìm kiếm Chúa nữa. Nhưng chính “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Qua Đức Giê-su, Thiên Chúa đã ôm nhân loại vào lòng, đã sờ vào những người phong cùi bệnh tật, đã bênh vực kẻ yếu đuối, đã đón nhận kẻ tội lỗi... Cụ thể nhất, khi tông đồ Phi-líp-phê xin Người tỏ cho biết Chúa Cha, Đức Giê-su trả lời: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9).
Khi Đức Ki-tô, Tình yêu Nhập thể, không còn hiện diện bằng thể xác ở giữa loài người nữa, thì Người lại hiện diện bằng Thần Khí giữa nhân loại. Thiên Chúa luôn luôn muốn “ở lại” với con người. “Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” cũng giống hệt như “Người đã ban Con Một.” Cả hai việc trao ban để “ở lại” với con người đều do cùng một động lực là Tình yêu. Như thế, mầu nhiệm Thiên Chúa đã được biểu lộ và “hoạt động” của Ba Ngôi: Cha, Con và Thần Khí, đã giúp con người nhận ra “nơi chốn” của Thiên Chúa. Yêu thương anh chị em là phương tiện đưa chúng ta đến với Thiên Chúa Sau khi xác định địa điểm phải tới, chúng ta cần sử dụng phương tiện di chuyển. Thiên Chúa “ở lại” trong chúng ta. Người là sự sống dấu ẩn trong tâm hồn chúng ta và lúc nào cũng chờ đợi được biểu lộ qua sinh hoạt. Sinh hoạt ấy chính là “Nếu chúng ta yêu thương nhau.” Chúng ta sẽ gặp được Người ngay tại cõi lòng mình nếu chúng ta đến với anh em. Đến với anh em trong yêu thương chính là phương tiện chuyên chở Thiên Chúa đến với tha nhân và biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta theo cùng một cách thức sinh hoạt của Ba Ngôi khi đến với nhân loại để tỏ cho nhân loại biết Người là Đấng nào. Thần Khí sinh động của Người đã làm cho mối tình của Thiên Chúa đối với nhân loại (“Thiên Chúa yêu thế gian”) được thể hiện (“đã ban Con Một”). Cũng vậy, Thần Khí được ban cho chúng ta (1 Ga 4:13) để thúc giục và hướng dẫn chúng ta sống tinh thần con Thiên Chúa qua sinh hoạt “yêu thương nhau.” Vai trò của Thần Khí là giúp cho tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta nên hoàn hảo. Thánh Thần khơi lên lòng tin của chúng ta vào Chúa Giê-su (Tình yêu Thiên Chúa) và thúc giục chúng ta sống tình yêu ấy qua việc yêu thương nhau. Tin và Yêu là hai hành động không thể tách rời. Chúng ta nhận ra Đức Ki-tô là dấu chỉ Tình yêu Thiên Chúa (tin) và chúng ta tuân giữ giới răn yêu thương anh em như Người đã dạy (yêu). Đó là con đường đưa chúng ta tới Thiên Chúa. Kinh nghiệm bản thân của Gio-an
Với tư cách là người cha của một cộng đoàn Ki-tô, thánh Gio-an chia sẻ chính cảm nghiệm cá nhân về con đường tình yêu ngài vừa đề cập tới. “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” Thế nào là chiêm ngưỡng và làm chứng? Thưa là tin vào Tình yêu Thiên Chúa và sống Tình yêu Thiên Chúa. Đó cũng là điều mỗi Ki-tô hữu chúng ta phải thể hiện trong cuộc sống mỗi ngày, để mỗi ngày chúng ta có thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa rõ ràng hơn. Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Ý tưởng của thánh Gio-an hôm nay có giúp tôi liên kết lòng mến Chúa với yêu thương anh em không? Sự liên kết ấy được ngài diễn tả như thế nào?
Từ “ở lại” thánh Gio-an sử dụng ở đây nói gì với tôi về Chúa và về chính tôi?
Có lẽ vai trò của Thần Khí trong đời sống Ki-tô hữu của tôi ít được lưu ý. Tôi phải làm gì để giúp cho mình ý thức hoạt động của Thánh Thần nơi tôi? Nhất là trong những sinh hoạt biểu lộ tình yêu đối với anh chị em?
Mỗi ngày tôi có xét mình để thấy “tình yêu của Thiên Chúa nơi tôi nên hoàn hảo hơn” không? Xét làm sao? Cầu nguyện kết thúc
Sau những lời nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài ca ngợi Thiên Chúa là Tình Yêu, hoặc bài “Đâu có tình yêu thương...”
Chúa Giêsu về với Thiên Chúa Cha sau khi hoàn tất sứ mạng Cha trao. Bước chân của Ngài và LênTrời ABC-346
Chúa Giêsu về với Thiên Chúa Cha sau khi hoàn tất sứ mạng Cha trao. Bước chân của Ngài và của các môn đệ mới chỉ rảo khắp xứ Palestina bé nhỏ và những vùng phụ cận chung quanh. Cả một thế giới còn mênh mông, bao la với nhiều dân tộc khác nhau đang chờ đón bước chân thừa sai của nhiều người. Chúa Giêsu muốn chúng ta làm chứng nhân cho Ngài cho đến tận cùng thế giới. Hôm nay, Chúa Giêsu phục sinh được siêu thăng về Nước Trời như lời Kinh Thánh nói:” …Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời “ ( Lc 24, 50-51 ).
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ nhiều lần, Ngài ở với các ông bốn mươi ngày bốn mươi đêm để củng cố đức tin của các ông và minh chứng rằng Ngài đã sống lại thật. Sứ vụ dưới đất, Thiên Chúa Cha trao cho Ngài, Chúa Giêsu đã hoàn tất một cách anh hùng.Kế hoạch cứu rỗi nhân loại đã được Chúa Giêsu thực hiện theo ý Chúa Cha cách hoàn hảo. Hôm nay, Ngài được siêu thăng về trời giữa tư thế Ngài đang chúc lành cho các môn đệ, cho thế giới và cho trái đất. Sứ mạng của nhân loại, của Giáo Hội là phải làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Trách nhiệm và bổn phận của Giáo Hội còn rất nặng nề bởi vì mới có một phần tám nhân loại biết Chúa. Do đó, việc Chúa thăng thiên nghĩa là được siêu tôn trong tư thế Ngài đang chúc lành cho thế giới, cho mọi người là một hồng ân cao quí tuyệt vời bởi vì như lời thiên thần nói:” Hỡi người Galilêa, tại sao cứ đứng nhìn trời ? “, nhân loại còn quá nhiều việc phải làm ở dưới đất. Biết bao người chưa được nghe lời của Chúa, chưa nhận biết Chúa ! Biết bao nhiêu người còn đang đợi được lắng nghe lời của Chúa, được nghe rao giảng Tin Mừng. Nhân loại phải nhiệt tình bảo vệ môi trường, xây dựng vũ trụ, làm đẹp trái đất. Việc sống nhân ái, sống tình thương hiệp nhất đòi hỏi chúng ta không được mải mê nhìn trời, chúng ta không được khoanh tay ngó nhìn để mặc kệ ai muốn làm gì thì làm. Nhân loại, con người phải tích cực, quảng đại, chia sẻ và nhiệt tình xây dựng văn minh tình thương chờ ngày Chúa trở lại.
Chúng ta đầu đội trời, chân đạp đất, xây dựng nước đời nhưng lòng phải hướng về trời, hướng lên cao để xin ơn từ trên cao đổ xuống bởi vì xây dựng thế giới mà không biết hướng về trời, không biết cầu khẩn ơn trên, thì sẽ không tìm được giải đáp tối ưu cho công việc. Cần có ơn trên, cần có sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhân loại, con người chúng ta mới tránh được những ung nhọt đang xói mòn nhân loại, đang làm tan rữa con người như tệ nạn ma túy, sì ke, HIV, cờ bạc, trai gái, rượu chè sau sưa, tứ đổ tường vv…Con người dễ bám chặt vào những ảo ảnh chóng qua của thế gian. Con người đang sống trong một thế giới văn minh tột bậc với internet tốc độ siêu cao, với muôn cám dỗ làm lung lạc đức tin con người. Chúa về trời với Thiên Chúa Cha trong tư thế đang chúc lành để nói rằng:” Ngài luôn chúc lành, luôn đổ muôn vàn hồng ân xuống cho nhân loại “. Quê hương của chúng ta không phải ở đời này nhưng là ở trên cao, nơi vĩnh hằng ( Pl 3, 20) Thế giới chúng ta đang sống là nơi tạm bợ, mọi sự đều sẽ qua đi, ngay cả mạng sống con người.
Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng của năm phụng vụ.Do đó, Giáo Hội mừng lễ này cách đặc biệt. Vâng, cách đây 2016 năm, Chúa Giêsu
đã về với Chúa Cha và trao cho các môn đệ, trao cho Giáo Hội sứ mạng loan truyền Tin Mừng cho toàn thế giới.
Chúa Giêsu đã phán:” Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được; nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một thành phố xây trên ngọn đồi nên không thể giấu được…
Cũng thế, ánh sáng chúng con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời “ ( Mt 5, 13-16 ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời nhưng đã hứa không để chúng con mồ côi…Xin sai Thánh Thần đến để Ngài đổi mới mặt địa cầu. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa về với Chúa Cha, Ngài có bỏ rơi con người không ? 2.Ai sẽ sai Thánh Thần đến thế gian ? 3.Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ có quan trọng của năm phụng vụ không ? 4.Sứ mạng của Giáo Hội là gì ?
Làm chứng Chúa Ki-tô chết và sống lại Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 24:46-53)
Nhiều lần chúng ta nghe Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta làm chứng nhân cho Người bằng cách thực LênTrời ABC-347
Nhiều lần chúng ta nghe Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta làm chứng nhân cho Người bằng cách thực thi những điều Người truyền dạy, nhất là làm chứng Người đã sống lại từ kẻ chết. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su lập lại lời kêu gọi ấy với các môn đệ. Người trích dẫn lời Kinh Thánh nói về Người, rồi ban cho họ mệnh lệnh: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Vậy những điều này về Chúa Giê-su là gì và chúng ta phải làm chứng thế nào?
Trước hết Chúa Giê-su nêu lên điểm chính các Sách Thánh nói về Người: “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”. Người không lập lại nguyên văn những lời các ngôn sứ, nhất là I-sai-a, đã nói về Người. Người chỉ muốn nhấn mạnh đến hai điều thuộc sứ mệnh của Đấng Ki-tô là chịu khổ hình và sống lại từ kẻ chết. Đây là ý niệm các môn đệ thường không hiểu hoặc cố tình không hiểu. Nhưng lại sắp đến lúc họ phải đi rao giảng Chúa Ki-tô rồi! Nếu họ nhất định không hiểu đúng về Người, thì làm sao họ có thể rao giảng được? Do đó, họ phải nắm vững cốt lõi của sứ điệp cần rao giảng. Sau này, hơn ai hết, chính thánh Phao-lô, vị tông đồ “sinh non”, đã xác tín sứ mệnh của ngài là rao giảng Chúa Giê-su Ki-tô, mà phải là Chúa Ki-tô chịu đóng đinh thập giá (1 Cô-rin-tô 2:1-2). Tại sao rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh thập giá? Bởi vì cuộc Thương khó và cái chết của Chúa Giê-su có một chỗ đứng vô cùng quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Cuộc khổ hình và cái chết ấy đã là cái giá để Người chuộc lại lỗi lầm của nhân loại, nhất là giải hòa Thiên Chúa với con người và phục hồi cho con người chức phận làm con cái Thiên Chúa.
Cũng quan trọng giống như cuộc khổ hình và cái chết của Chúa Giê-su, đó là sự sống lại của Người. Nếu khổ hình thập giá và cái chết của Chúa Giê-su chuộc được tội lỗi nhân loại, thì sự sống lại của Người lại chiến thắng vĩnh viễn trên tội lỗi và sự chết là hậu quả nó đã gây ra cho nhân loại. Nếu Chúa Ki-tô không sống lại thì tội lỗi và sự chết vẫn không bại trận. Một lần nữa, cũng chính thánh Phao-lô đã nói lên tầm quan trọng của việc Chúa sống lại. Sự Phục Sinh là tột đỉnh của đức tin vào Chúa Ki-tô. Do đó, thánh Phao-lô khẳng định: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cô-rin-tô 15:14tt).
Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Phục Sinh muốn chắc chắn rằng các môn đệ Người phải xác tín tầm quan trọng của cuộc Thương khó, cái chết và sự Phục sinh của Người, trước khi họ được sai đi để làm chứng nhân về những điều xác tín ấy. Thánh sử Lu-ca kể lại rằng sau khi Chúa Giê-su trao cho các môn đệ trách nhiệm làm chứng nhân cho Người, Người còn cẩn thận lập lại lời hứa ban Thánh Thần cho họ. Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ trong sứ mệnh làm chứng nhân. Cuối cùng, đang khi lên trời, Chúa Giê-su đã chúc lành cho họ. Quả thực là một khung cảnh hết sức cảm động. Như thế, chia ly đâu phải là nước mắt hay là chết trong lòng một ít, nhưng các môn đệ đã bái lạy Chúa, trở lại Giê-ru-sa-lem mà “lòng đầy hoan hỷ”!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta có để ý các môn đệ Chúa đã làm gì khi Chúa “rời khỏi các ông và được đem lên trời” không? Phải, các ông “bái lạy Người, trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ và cầu nguyện trong Đền Thờ”. Đó chính là phong cách của người làm chứng cho Chúa Ki-tô. Chúng ta “bái lạy Chúa”, tức là tin vào con người và sứ mệnh Đấng Ki-tô của Chúa Giê-su. Chúng ta “trở lại Giê-ru-sa-lem” để gặp Chúa Giê-su đã chịu cuộc Thương khó và sống lại ở đấy. Rồi chúng ta “lòng đầy hoan hỷ” vì chúng ta đi loan báo Tin Mừng. Mà đã là Tin Mừng thì sao lại có thể buồn sầu được! Sau hết, giống như các môn đệ Chúa hằng sốt sắng cầu nguyện chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ, chúng ta cũng có đền thờ để gặp gỡ Chúa, đó là đời sống cầu nguyện của chúng ta, để làm cho tương quan chúng ta với Người được sống động hơn. Làm chứng cho Chúa không giống như làm chứng ngoài tòa án, mà là chia sẻ với người khác chính tâm tình và lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa vậy!
Lễ Chúa Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng của năm phụng vụ.Bởi vì, qua lễ này LênTrời ABC-348
Lễ Chúa Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng của năm phụng vụ.Bởi vì, qua lễ này, chúng ta mỗi Kitô hữu đều ý thức vai trò, nghĩa vụ và bổn phận của chúng ta là làm chứng cho Chúa sống lại. Khi Chúa về trời thì cũng là lúc, thời điểm các tông đồ, môn đệ ra đi khắp nơi. Ra đi tuyên xưng của các Ngài về một Giêsu mà người ta cho rằng đã tiêu diệt được cái trên Thập giá. Các Ngài tuyên xưng Đức Giêsu Kitô đã chết và đã phục sinh.Người đã chiến thắng tử thần, Người từ Cha mà đến, nay trở về cùng Cha.
Chúa Giêsu về trời và lúc đó cũng là lúc các môn đệ, các tông đồ phải trở về với cuộc sống thực tế. Các Ngài xuống núi nghĩa là không còn ngây ngất trong vinh quang của núi Tabôrê khi Chúa tỏ mình ra cho ba môn đệ thân tín.Các Ngài ra đi xây dựng trời mới đất mới, xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, hiệp nhất, xây dựng một thế giới công bình, huynh đệ, văn minh, tiến bộ. Các tông đồ đã làm theo lệnh truyền của Chúa về trời:” Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng…” hoặc “…Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con làm chứng về những điều này” ( Lc 24, 47 ). Các tông đồ nhất nhất đã hăng say rao giảng, làm chứng cho Chúa và dám hy sinh cả mạng sống để loan báo cho Chúa phục sinh, làm chứng cho Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Mọi Kitô hữu đều có có sứ mạng và vinh dự tiếp nối sứ mạng của các tông đồ đi loan báo Lời Chúa, rao giảng chân lý, làm chứng cho Chúa sống lại.Tuy nhiên, đây cũng là một việc rất khó khăn, nặng nề vì còn 80% số người trên thế giới này chưa đón nhận Tin Mừng. Và thật sự, việc loan báo Tin Mừng, giới thiệu Đức Kitô là một thách đố lớn lao cho mọi người có lòng tin.
Chúa đã về trời cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng thực tế rất nhiều người chưa nhận ra Tin Mừng phục sinh. Chúng ta có thể đặt vấn đề như thế này: Tại sao Chúa đã sống lại từ lâu nhưng nhiều người lại chưa nhận ra Chúa phục sinh ? Phải chăng chúng ta quên đi, Chúa phục sinh nhưng Ngài vẫn hiện diện sống động giữa chúng ta, Ngài đang muốn chúng ta chia sẻ cho những người khác sự sống của Ngài. Chúa đã sống lại, Ngài vẫn ở với chúng ta, Ngài đang hoạt động nơi thế giới, nơi con người. Chúng ta phải giới thiệu Ngài bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ngày hôm nay, thế giới này, thích sống chứng nhân hơn chứ không muốn nghe những lời rao giảng suông. Cuộc sống hy sinh, xả thân, phục vụ vô vị lợi, bác ái, yêu thương là cuộc sống chứng nhân hùng hồn hơn biết bao lời nói hoa mỹ nhưng chỉ là những lời trên môi miệng.
Cha Pierre Emonet, s.j đã viết một đoạn khá ấn tượng, Ngài nói:” Sự hiệp nhất nơi các tông đồ xác thực sứ vụ của Đức Giêsu. Họ chịu trách nhiệm về đức tin của thế gian. Dường như chưa bao giờ Đức Giêsu đã phải giao một trách nhiệm nặng nề như vậy cho cho những người đi theo và nói về Người. Từ giờ trở đi, công việc của họ là làm cho người ta tin vào Chúa. Và thách thức vượt quá sức của họ đến nỗi, đó chỉ là tác phẩm của Thiên Chúa. Đó là điều tại sao Đức Giêsu cầu nguyện để gửi gắm mọi sự cho Chúa Cha. Từ bây giờ, một điều nguy hiểm đang rình chờ các môn đệ: đó là xuyên tạc về Thiên Chúa. Bằng việc hướng đến những giới hạn hiệp nhất mà Chúa muốn, họ lại có nguy cơ bộc lộ sự nhỏ nhen của sứ vụ. một cách tỉ mỉ, thận trọng, như người biết con đường duy nhất của sự trung thành, các môn đệ có ý định chuyên tâm tạo nên một lộ trình bắt buộc của Chúa. Từ đó, những cấu trúc được luân phiên với cuộc sống và sự đồng nhất thay thế cho sự hiệp nhất. Bằng cách đưa ra bốn cách tiếp cận khác nhau về cuộc đời và giảng dạy của Đức Giêsu, các Thánh sử tự mình lấy khoảng cách với sự cám dỗ này. Họ khẳng định rằng hiệp nhất mà Đức Giêsu cầu xin làm nên từ sự đa dạng. Hiệp nhất trở nên có thể khi một người hoặc một lời khẩn cầu có thể vượt qua chính mình để ý thức về một nửa khác của bản thân mình “.
Để kết luận, chúng ta hãy dùng lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng thánh Matthêu 5, 13-16 soi sáng chúng ta:” Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là ánh sáng cho thế gian, là một thành phố xây trên đồi không thể giấu được…Cũng thế ánh sáng của chúng con cũng phải tỏa sáng trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời “.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con sẵn sàng và mạnh dạn loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa phục sinh. Amen. ---------------------------
(46) Khi ấy Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và bảo: “Có lời Kinh thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại. (47) Và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. (49) Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống. (50) Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. (51) Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. (52) Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, (53) và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
2. Ý CHÍNH:
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su sau khi phục sinh đã hiện ra với các môn đệ vào LênTrời ABC-349
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su sau khi phục sinh đã hiện ra với các môn đệ vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, nhằm mục đích dạy các ông hiểu Người trải qua cuộc tử nạn và phục sinh đúng như lời Thánh kinh, và các ông có bổn phận làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe ấy. Người cũng hứa sẽ ban Thánh Thần đến giúp đỡ các ông. Sau đó, Đức Giê-su lên trời đang khi giơ tay chúc phúc cho các ông gần làng Bê-ta-ni-a. Rồi các ôing trở về Giê-ru-sa-lem cầu nguyện đón nhận ơn Thánh Thần.
3. CHÚ THÍCH:
- C 46-48: + Khi ấy Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ: Về con số môn đệ được chứng kiến việc Chúa Giê-su lên trời thì Tin mừng Lu-ca không nêu rõ, đang khi Tin mừng Mát-thêu và Mác-cô nói là 11 ông (x Mt 28,16; Mc 16,15). Về nơi Chúa lên trời thì các tác giả không thống nhất: Lu-ca cho biết ở gần làng Bê-ta-ni-a (x Lc 24,50), Mát-thêu xác định là xứ Ga-li-lê, tại quả núi đã được Người chỉ định trước (x. Mt 28,16). Sách Công vụ thì cho biết Đức Giê-su lên trời tại núi Ô-liu gần thành Giê-ru-sa-lem (x Cv 1,12) + Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem: Lu-ca luốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của Giê-ru-sa-lem. + Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Các Tông đồ được sai đi nói cho mọi người biết về Đức Giê-su, dựa theo những điều mắt thấy tai nghe tay sờ, sau khi Người đã từ cõi chết sống lại (x. Ga 21,24; Cv 3,15).
- C 49-50: + Chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa: Đức Giê-su tiên báo điều Chúa Cha đã hứa là gửi Chúa Thánh Thần đến với các Tông đồ sau khi Người bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha (x Cv 1,8). + Cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống: Quyền năng này chính là sức mạnh của Thánh Thần. Trong Tân ước, Chúa Thánh Thần và quyền năng luôn gắn liền với nhau. Chẳng hạn trong biến cố truyền tin, sứ thần đã nói với Trinh nữ Ma-ri-a: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Sau khi chiến thắng Xa-tan cám dỗ, Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê trong quyền năng Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ (x. Lc 4,14-19). Giờ đây, Đức Giê-su lại sắp trao cho các Tông đồ quyền năng Thánh Thần sau cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Từ đây, các Tông đồ đã cố gắng chu toàn sứ vụ làm chứng về mầu nhiệm Chúa Giê-su đã chết và sống lại (x. Cv 4,33). Các ông không dùng sức riêng làm các phép lạ, nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa và nhờ Danh Đức Giê-su Ki-tô (x Cv 3,16; 4,7-10). + Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a: Với tư cách là Vua Mê-si-a, Đức Giê-su đã khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem, bắt đầu từ làng Bê-ta-ni-a (x. Lc 19,28-29). Giờ đây với tư cách là Đấng Phục Sinh chiến thắng tử thần, Đức Giê-su cũng khải hòan về trời từ làng Bê-ta-ni-a này (x. Lc 24,50). + Rồi giơ tay chúc lành cho các ông: Thời Cựu ước, các Tổ phụ dân Ít-ra-en thường chúc lành cho con cháu trước khi chết như: I-xa-ác chúc lành cho Gia-cóp (x. St 27,23-29) ; Gia-cóp chúc phúc cho 12 con trai (x. St 49,28) ; Mô-sê chúc phúc cho con cái Ít-ra-en (x. Đnl 33,1). Ở đây, trước khi về trời, Chúa Giê-su cũng chúc lành cho các Tông đồ. Ngày nay, vào cuối Thánh lễ, linh mục chủ tế cũng chúc lành cho các tín hữu trước khi giải tán họ.
- C 51-52: Người rời khỏi các ông và được rước lên trời: Qua sự kiện lên trời ở đây, tác giả Tin mừng Lu-ca muốn cho thấy hai mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên luôn gắn bó mật thiết với nhau. Trong sách Công vụ (1,6-11), tác giả Lu-ca coi việc Thăng Thiên như kết thúc các lần Chúa hiện ra với các môn đệ, khởi đầu sứ vụ làm chứng cho Người tại Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng thế giới (x. Cv 1,8).
4. CÂU HỎI:
1- Chúa Giê-su đã lên trời ở nơi nào? Bao nhiêu môn đệ đã được chứng kiến Người lên trời?
2- Theo Tin mừng Lu-ca, Giê-ru-sa-lem có vai trò gì trong công cuộc cứu độ của Đức Giê-su?
3- Các Tông đồ phải làm gì để thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Đức Giê-su?
4- Đức Giê-su hứa ban quyền năng từ trên cao xuống trên các Tông đồ. Vậy các ông đã nhận được quyền năng ấy khi nào?
5- Tin mừng Lu-ca cho thấy hai mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên có liên quan với nhau ra sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,47-48).
2. CÂU CHUYỆN: CHỨNG NHÂN BÁC ÁI - PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HIỆU QUẢ.
Một tân tòng gặp một anh bạn vô tín. Người vô tín này hỏi thăm về việc theo đạo của anh như sau:
- Nghe nói anh mới theo đạo Công giáo phải không ? - Vâng, đúng hơn là tôi mới theo làm môn đệ Chúa Giê-su. - Thế thì chắc anh đã phải biết rõ về ông ta. Vậy hãy cho tôi biết ông Giê-su sinh ra ở đâu ? - Tôi đã học rồi, nhưng rất tiếc bây giờ tôi lại quên mất. - Thế ông Giê-su sống ở trần gian bao nhiêu năm ? - Tôi không nhớ rõ lắm. - Vậy anh có biết ông ta đã giảng bao nhiêu bài, làm bao nhiêu phép lạ, có bao nhiêu tác phẩm viết về ông ta ?...Nói chung, sự nghiệp của ông ta như thế nào ? - Tôi cũng không rõ. - Như vậy là anh đã biết quá ít về ông Giê-su. Vậy tại sao anh lại theo đạo của ông ta ? - Anh đã nói đúng.
Tôi rất xấu hổ vì mới chỉ biết qúa ít về Đức Giê-su. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ nần chồng chất. Gia đình lâm vào tình trạng bất hạnh. Vợ con đều buồn giận và không muốn nhìn mặt tôi. Tôi chán nản tuyệt vọng thậm chí muốn đâm đầu vào xe lửa để chết quách đi cho xong. Nhưng một hôm tôi đã gặp được Đức Giê-su qua một người bạn công giáo. Anh này đã đưa tôi đến gặp một vị linh mục và tôi được vị linh mục khuyên chừa bỏ thói hư, được giới thiệu công ăn việc làm và được ghi tên học giáo lý công giáo. Sau một năm tôi đã trả hết được nợ nần, đã chừa bỏ được tật say sỉn, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Mỗi chiều vợ con tôi đều vui vẻ chào đón tôi về nhà sau giờ tan sở. Sở dĩ tôi được hạnh phúc như ngày nay, tất cả đều bắt nguồn từ tin vào Đức Giê-su. Và đó là tất cả những gì tôi biết rõ về Người.
3. SUY NIỆM:
1. Quê hương chúng ta ở trên trời: Trước cuộc tử nạn, Đức Giê-su dã khích lệ các môn đệ như sau:”Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi. Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,1-3). Thánh Phao-lô cũng khẳng định: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20).
Trong thực tế, phải thừa nhận như lời thánh Phao-lô: “có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Ki-tô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này” (Pl 3,17). Có nhiều tín hữu đã quá bám víu vào các thực tại trần gian là cái nay còn mai mất, như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, chức quyền… Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê, cũng là khuyên chúng ta hôm nay: Quê hương của chúng ta không phải ở trần gian, nhưng trên trời. Như dân Ít-ra-en xưa đã đi qua sa mạc bốn mươi năm để được thanh luyện, trước khi được vào trong miền Đất mà Đức Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời, thì trần gian hôm nay cũng là một chặng đường mà chúng ta phải trải qua, trước khi về tới quê trời vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. 2. Điều kiện để được lên trời: Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến để thiết lập Nước Trời, là Thiên đàng, xưa đã bị A-đam E-và đánh mất do phạm tội không vâng phục và bị phạt xuống trần gian là thung lũng đầy nước mắt. Đức Giê-su đã được Chua Cha sai đến trần gian cứu độ lòai người. Người đã thiết lập Nước Trời, và làm cho Nước ấy sẽ ngày một triển nở biến thành một Trời Mới Đất Mới viên mãn vào ngày tận thế. Để được vào Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập, cần phải vâng theo thánh ý Thiên Chúa là tuân giữ các giới răn “mến Chúa yêu người” như Đức Giê-su dạy: ”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta” (Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27). Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai làm theo thánh ý Chúa.
3. Sứ vụ làm chứng cho Chúa: Khi Chúa lên trời, các môn đệ cứ đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì kìa có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh họ và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,10-11). Từ đây, sứ vụ của các ông là phải ra đi rao giảng tin mừng Nước Trời, làm chứng về sự chết và sống lại của Đức Giê-su (Cv 1,8b).. Từ đây các ông phải xuống núi, chu toàn sứ vụ xây dựng môi trường mình đang sống trở thành một Trời Mới Đất Mới đầy công bình yêu thương và bình an (x Kh 21,1.4).
Cách đây ít lâu, tờ “Lơ Fi-ga-rô” (Le Figaro) đã có đăng một bài báo phỏng vấn Tổng thống Nga Pu-tin nội dung như sau: Khi được hỏi trong chuyến đi Giê-ru-sa-lem của ông mới đây, người ta đã thấy ông đến cầu nguyện tại mồ Đức Giê-su và tay ông cầm cây thánh giá. Vậy ông có cảm thấy mâu thuẫn giữa việc trước đây đã từng là cựu sĩ quan của tình báo KGB với việc bày tỏ đức tin hiện nay hay không?” Tổng thống Pu-tin đã trả lời như sau: “Cuộc sống được tạo nên bằng những điều mâu thuẫn. Chỉ khi nào chết thì người ta mới hết mâu thuẫn... Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại ngạc nhiên khi thấy tôi cầm cây thánh giá mà cầu nguyện tại ngôi mộ của Chúa Giê-su? Tôi tự hào là một tín hữu... Niềm tin của tôi đã cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
4. Làm chứng cho Chúa bằng cách nào ?: Chứng nhân là người nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại cách trung thực cho người không thấy, là người sống và hành động theo điều mình hiểu biết và xác tín. Còn làm chứng là dùng lời nói hành động quả quyết về một sự việc đã thực sự xẩy ra mà chính mình đã chứng kiến hay đã trải nghiệm. Đức Giê-su đã đi giảng đạo gần ba năm và được mười một Tông đồ, bảy mươi hai môn đệ và dân chúng đương thời chứng kiến và có thể làm chứng, như Ngừơi đã nói với thượng tế Cai-pha: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Ðền Thờ, nơi mọi người Do thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Ðiều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì" (Ga 18,20-21).
Đức giáo hòang Phao-lô VI đã nói:”Mỗi ngưởi giáo dân, tự bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi lãnh nhận phép rửa tội và Thêm sức, chúng ta đã được Đức Giê-su trao cho sứ vụ làm chứng cho Người. Các tín hữu chúng ta hôm nay tuy không thấy, không gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp với Chúa như các Tông đồ hay dân Do thái xưa, nhưng chúng ta nhờ đức tin, vẫn có thể suy niệm và thực hành Lời Chúa và được ơn Thánh Thần biến đổi nên con người mới giống Đức Giê-su. Cách thức làm chứng tốt nhất là quên mình vị tha bác ái theo gương Người làm và lời Người dạy.
Tóm lại: Làm chứng cho Chúa là công khai nhận mình là người tin Chúa, sống theo đức tin và sẵn sàng tuyên xưng đức tin ấy trước mặt người đời bằng lời nói cũng như hành động.
4. THẢO LUẬN:
1- Con người ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn các bậc thầy dạy, thích nhìn thấy những gương sáng hơn nghe lời giảng suông, như Ba-banh (Babin) đã nói: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Giê-su, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ đi loan báo Người”. Bạn có đồng ý với các nhận định nói trên hay không? Tại sao?
2- Trong quá khứ, bạn đã làm được việc nào tâm đắc nhất để làm chứng cho Chúa? Bạn quyết tâm sẽ làm chứng cho Chúa thế nào trước mặt bạn bè, đồng nghiệp hay người xa lạ trong những ngày sắp tới?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tuy là Con Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương nhân lọai mà Chúa đã vâng lời Chúa Cha, từ trời xuống thế làm người. Chúa đã tình nguyện mang thân phận một người phàm. Chúa đã nên giống như chúng con mọi đàng ngoại trừ không phạm tội. Chúa đã biểu lộ một tình yêu tột đỉnh khi sẵn sàng chấp nhận mọi nỗi đau khổ và cả cái chết nhục nhã trên cây thập giá, để đền tội thay cho chúng con và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con.
- LẠY CHÚA. Hôm nay mừng ngày Chúa về trời. Xin cho chúng con nhớ rằng: “Quê hương chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc” là Chúa. Xin giúp chúng con chu toàn bổn phận làm con Chúa Cha và làm anh em của mọi người. Xin cho chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng thế giới này ngày một tươi đẹp hạnh phúc hơn, công bằng nhân ái hơn. Xin cho chúng con ý thức rằng: tuy sống giữa thế gian nhưng chúng con không thuộc về trần gian. Xin đừng để chúng con quá quyến luyến với những của cải vật chất nay còn mai mất, nhưng luôn biết phó thác cậy trông, và quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo, an ủi giúp đỡ những người đau khổ ... để sau này chúng con cũng được về trời với Chúa.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 24:46-53)
Chúa Giê-su lên trời, về cùng Chúa Cha, nhưng chưa hoàn tất sứ mệnh mà là mở ra những khởi đầu LênTrời ABC-350
Chúa Giê-su lên trời, về cùng Chúa Cha, nhưng chưa hoàn tất sứ mệnh mà là mở ra những khởi đầu mới. Những lời cuối cùng trước khi Người từ giã môn đệ tại Bê-ta-ni-a là những lệnh truyền đã nói lên khởi đầu sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Đó cũng là ý nghĩa đích thực của biến cố chúng ta mừng kính hôm nay.
Biến cố Chúa Giê-su lên trời là một khởi đầu mới với những hoạt động do Thánh Thần của Người và các môn đệ là chứng nhân của Người. Trước hết, đây là thời điểm bắt đầu thể hiện “điều Cha Thầy đã hứa”, tức là việc Chúa Giê-su ở cùng chúng ta cho đến ngày tận thế (Mát-thêu 28:20) qua sự hiện diện của Chúa Thánh Thần được sai đến với chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn các môn đệ Chúa Giê-su đến “chân lý trọn vẹn”, dạy họ mọi điều và giúp họ nhớ lại mọi điều Chúa Giê-su đã dạy họ (Gio-an 14:26). Chúa Thánh Thần sẽ giúp họ hiểu sứ điệp về Đấng Ki-tô: Tại sao Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết? Ý nghĩa cuộc Thương Khó, sự chết và Phục sinh của Đấng Ki-tô phải là cốt lõi của sứ điệp tình yêu Thiên Chúa muốn nói với nhân loại: Thiên Chúa đã yêu nhân loại đến nỗi sai Con Một là Đấng Ki-tô đến, để ai tin vào Con Thiên Chúa thì sẽ được cứu độ.
Nếu Chúa Giê-su đã khởi đầu cho công cuộc truyền giáo nhờ hoạt động của Thánh Thần, thì Người cũng truyền lệnh cho các môn đệ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, phải bắt đầu rao giảng cho muôn dân và kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Vậy điều bắt đầu thứ nhất là khi rao giảng cho muôn dân, môn đệ Chúa Giê-su phải nói cho người ta biết cái chết và sự phục sinh của Đấng Ki-tô đã chứng minh Thiên Chúa yêu nhân loại đến mức nào. Đấng Ki-tô đã hiến mạng sống để cứu nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và đem lại cho họ đời sống mới được làm con cái Thiên Chúa. Điều bắt đầu thứ hai của các môn đệ là kêu gọi người ta sám hối để được ơn tha tội. Đúng vậy, đáp lại tình yêu Thiên Chúa không phải là việc ở ngoài tầm tay chúng ta, trái lại, chúng ta chỉ cần sám hối, quay về với Thiên Chúa để được giải hòa và để nhận lại chức phận làm con mà họ đã bị tước đoạt do tội lỗi. Còn điều bắt đầu thứ ba, làm chứng nhân cho Chúa Giê-su, là phương thức người môn đệ rao giảng và kêu gọi người ta sám hối. Người môn đệ đã chứng kiến Chúa thi hành sứ vụ rao giảng và cứu độ. Họ đã được Chúa Phục Sinh hiện ra nhiều lần. Lại nữa, họ được Thánh Thần soi sáng, hỗ trợ và dẫn dắt trong sứ mệnh mới. Đó là tất cả những điều kiện một chứng nhân cần phải có để thi hành lệnh truyền giáo Chúa Giê-su ban cho họ.
Tuy nhiên còn một khởi đầu rất quan trọng, đó là “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”. Các môn đệ Chúa được lệnh “ở lại trong thành”. Với biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, họ đã thực sự nhận được quyền năng từ trời cao. Quyền năng ấy không chỉ biến đổi con người họ, mà còn “đổi mới bộ mặt trái đất” nữa!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Những khởi đầu mới Chúa Giê-su truyền lệnh cho các môn đệ thi hành trước khi Người lên trời cũng là những khởi đầu của chúng ta hôm nay. Đối với Chúa, thời gian không tính bằng năm tháng, như là bằng những cơ hội. Nếu ông già Si-mê-ôn hoặc bà già An-na đã có một khởi đầu mới khi gặp được Hài Nhi Giê-su trong Đền Thời, thì tại sao chúng ta lại không có một khởi đầu mới mỗi ngày khi chúng ta rước Chúa trong Thánh lễ?
Riêng trong Năm Đức tin này, Tân Truyền giáo chính là lời Giáo Hội mời gọi mỗi người Ki-tô hữu làm một cuộc khởi đầu mới trong việc sống và truyền bá đức tin. Đáp lời kêu gọi của Giáo Hội về công cuộc Tân Truyền giáo, chúng ta sẽ “tái khám phá niềm vui Đức tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu… sẽ nhận được sức mạnh và tinh thần hăng hái qua việc hằng ngày nhận ra tình yêu của Thiên Chúa” (Cửa Đức tin, số 7). Ước mong mỗi người chúng ta hãy lấy cột mốc Chúa Giê-su lên trời làm khởi đầu mới cho hành trình đức tin của mình.