Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 1-50 Anh em là những nhân

Thứ tư - 11/04/2018 22:50
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 1-50 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 1-50 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 1-50 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh
----------------
PS3-B1. Sống Lời Chúa - ĐAU KHỔ.. 2
PS3-B2. CSTM / 116- LÀM CHỨNG.. 4
PS3-B3. HRK / 319- VÂNG LỜI 6
PS3-B4. PV / 228- NGĂN CẢN.. 7
PS3-B5. PV / 231- TÌNH YÊU.. 9
PS3-B6. PV / 234- TÁI SINH.. 11
PS3-B7. SCĐ/212- CẢM NGHIỆM... 12
PS3 B8. SCĐ/217- CHỨNG NHÂN.. 13
PS3-B9. CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH.. 15
PS3-B10. Đức Giê-su hiện ra với các Tông Đồ – JKN.. 17
PS3-B11. CÓ CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI LÀ CÓ BÌNH AN.. 20
PS3-B12. NHÂN CHỨNG CHO SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA.. 22
PS3-B13. HÃY TIN VÀ LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH.. 25
PS3-B14. Chính anh em là chứng nhân - Huyền Đồng. 33
PS3-B15. Bình an cho các con - Lm. JB Nguyễn Minh Hùng. 35
PS3-B16. Anh em hãy đi rao giảng - Phan Hữu Lộc. 37
PS3-B17.  Đường lối của Thiên Chúa - Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 39
PS3-B18. SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KI-TÔ TRONG ĐỜI TA.. 42
PS3-B19. NGƯỜI NHÁT HƠN MA NHÁT ! 45
PS3-B20. NIỀM TIN PHỤC SINH.. 47
PS3-B21. Trở nên nhân chứng Đấng Phục Sinh. 49
PS3-B22. Chính anh em sẽ tiếp tục là những nhân chứng sống động của Thầy. 53
PS3-B23. Tín điều thứ Mười Hai 54
PS3-B24. Bẻ bánh. 57
PS3-B25. Ngài đã sống lại 59
PS3-B26. Bình an. 61
PS3-B27. Bình an cho các con. 63
PS3-B28. Chia sẻ sứ điệp Đức Kitô. 65
PS3-B29. Chúa Phục Sinh và ngân hàng tình yêu. 67
PS3-B30. Nhận biết Đức Giêsu. 70
PS3-B31. SLC – Loan báo. 79
PS3-B32. SNLC/269 – Didymo. 80
PS3-B33. CSTM/111 – Làm chứng. 82
PS3-B34. Anh em là chứng nhân. 84
PS3-B35. ĐƯỜNG LỐI VÀ Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA.. 85
PS3-B36. LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH.. 89
PS3-B37. NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG- ĐC Giue Ngô Quang Kiệt 92
PS3-B38. Trên con đường mòn của kiếp nhân sinh, hãy tiếp nhận Ngài 93
PS3-B39. Bình an cho các con. 98
PS3-B40. Cho họ xem tay và cạnh sườn. 100
PS3-B41. LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẢO VỆ BÌNH AN?. 102
PS3-B42. Sự Phục Sinh là Sự Sáng Tạo mới 106
PS3-B43. ĐỊNH VÀ ĐƯỜNG LỐI NHIỆM MẦU.. 108
PS3-B44. Đau khổ. 112
PS3-B45. Sự thử thách cho trọng tâm đức tin. 114
PS3-B46. Niềm tin thắng vượt sợ hãi 115
PS3-B47. Phiền muộn, bối rối, & bình an – Lm Nguyễn Trung Tây. 118
PS3-B48. Chúa hiện ra với các tông đồ - R. Gutzwiller 121
PS3-B49. Chú giải của William Barclay. 123
PS3-B50. Chú giải của Noel Quesson. 123

---------------------------------

 

PS3-B1. Sống Lời Chúa - ĐAU KHỔ

 

Chớ thì Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồ mới được vinh quang. Đức Kitô đã đi: PS3 B-1


Chớ thì Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồ mới được vinh quang. Đức Kitô đã đi con đường đau khổ để tiến tới vinh quang, đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh. Là môn đệ của Ngài, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường đau khổ và thập giá, nếu như chúng ta muốn được cứu độ.

Đúng thế, đã là người thì ai cũng phải đau khổ và thập giá không bao giờ thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Người xưa đã nói:

- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,

  Đời có vui sao chẳng cười khì.

Giáo lý nhà Phật thì diễn tả thân phận con người như một cánh bèo trôi dạt trên bể khổ.

Vậy thì đâu là những nguyên nhân gây nên đau  khổ ?

Trước hết, đau khổ có thể là bởi thiên nhiên.

Chẳng hạn như lụt lội, bão táp, hạn hán, mất mùa… Bất kỳ ở đâu và bất kỳ thời buổi nào cũng có. Khoa học và kỹ thuật chỉ làm giảm đi phần nào, chứ không thể chặn đứng được tất cả.

Tiếp đến đau khổ có thể do lòng gian tham độc ác của con người.

Đau khổ có thể do bởi người khác, chẳng hạn như bỏ vạ cáo gian, ăn trộm ăn cắp mà gây nên. Đau khổ còn có thể do bởi chính bản thân mình, chẳng hạn vì đam mê cờ bạc, rượu chè chơi bời mà sinh ra nghèo túng bệnh tật, vì bất cẩn trong lời nói và trong việc làm mà sinh ra tai nạn.

Và sau cùng đau khổ cũng có thể do chính Thiên Chúa.

Sở dĩ như vậy vì Ngài muốn thử thách để con người chúng ta được trưởng thành và đem lại những lợi ích siêu nhiên, như tục ngữ cũng đã bảo:

- Khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng họ những bông hồng, còn Thiên Chúa khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những đau khổ và thử thách.

Đúng theo kiểu:

- Yêu cho roi cho vọt,
  Ghét cho ngọt cho bùi.

Hẳn rằng trong chúng ta chẳng ai muốn cho mình bị đau khổ, chính Chúa Giêsu trong vườn cây dầu cũng đã cầu nguyện:

- Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.

Tuy nhiên nhiều khi chúng ta đã đề phòng cẩn thận mà vẫn không tránh khỏi tai ương. Trong những trường hợp như thế, chúng ta chỉ còn một cách, đó là cúi đầu chấp nhận. Nhưng làm thế nào để dễ dàng chấp nhận, để tìm được niềm an ủi trong những giờ phút đen tối   ấy ?

Trước hết hãy nhớ rằng không phải chỉ có một mình chúng ta bị đau khổ. Đang lúc chúng ta bị thử thách thì cũng có biết bao nhiêu người bị đau khổ.

Hãy vào một bệnh viện, giữa những tiếng rên la, chúng ta cảm thấy mình còn được hạnh phúc và may mắn hơn rất nhiều.

Nhất là hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy chính Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.

Khi phải đối mặt với những đau khổ, nếu chúng ta hậm hực tức tối, thì đau khổ vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích chi cả, nó còn là nguyên nhân gây nên những tội lỗi khác nữa.

Trái lại, nếu chúng ta can đảm chấp nhận và nhất là chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những đau khổ ấy sẽ đem lại lợi ích cho chúng ta. Biết đâu, nhờ những đau khổ mà chúng ta sẽ ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Thiên Chúa.

Đau khổ là một lưỡi kéo của người thợ, cắt tỉa những cành cây để nhờ đó chúng sẽ được sai trái hơn.  Đau khổ là như một nhát búa của người nghệ sĩ đập xuống cuộc đời chúng ta để biến nó trở nên một tác phẩm nghệ thuật.

Đau khổ là như một lưỡi cày, xới tung tâm hồn chúng ta để nó trở nên màu mỡ và dễ dàng hấp thụ ơn sủng của Thiên Chúa.
Đức Kitô đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh, thì chúng ta cũng vậy, muốn tiến tới vinh quang, chúng ta cũng phải tôi luyện trong đau khổ.

------------------------------------

 

PS3-B2. CSTM / 116- LÀM CHỨNG

 

Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện: PS3 B-2


Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.Cụ thể như câu truyện kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Diễn tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục sinh cho mọi người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Phục sinh thế nào ? Làm chứng là gì ?

Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện có thật mà chính mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.Hiểu như vậy, các tông đồ là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh. Phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực.

Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.Sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế… các tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: “Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.

Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: “Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo tôi gặp, họ không thực hiện bác ái Đức Kitô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự”. Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân cho Chúa không?

------------------------------------

 

PS3-B3. HRK / 319- VÂNG LỜI

 

Các bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng ta đặt: PS3 B-3


Các bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng ta đặt mình vào cương vị của Phêrô và của các tông đồ. Đó là sự can đảm rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, loan truyền giáo lý của Người bất chấp mọi đàn áp.Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tông đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do thái không cho, bắt các ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các ngài và bảo: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem”. Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.

Ôi ! Bài học quí giá đó của các tông đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế lực cố ý tiêu diệt, hạn chế gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các tông đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại, lòng các ngài cảm thấy hân hoan, vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, đường lối của các tông đồ thật rõ ràng.

Bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng lời Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản trở những bước chân rao giảng của các ngài. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Khi phải vâng lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em được tự do tôn thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Nhất là khi người đó lại là cáo già đội lốt cừu non đến cùng đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy trước. Trong công việc phụng thờ Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bị đàn áp, bị bách hại, người vâng lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi lòng. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.

Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là con người xây nhà mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế quốc của trần gian đều sụp đổ tan tành, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm như một vết nhơ bẩn thỉu của nhân loại. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không thể chống lại chương trình của Chúa. “Ai giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho người ấy”. Phần Thiên Chúa, Ngài luôn được chúc tụng, được danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn đời.

Bài Phúc Am đem lại cho chúng ta một hy vọng thật to lớn, đó là hy vọng vào quyền năng Phục sinh của Chúa biến đổi tất cả mọi sự, kể cả những việc mà chúng ta cho là tầm thường, để đem lại những kết quả giá trị. Thân xác hay chết của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể làm người đã được biến đổi thành thân xác vinh quang Phục sinh và với quyền phép, Người đã cho các tông đồ một mẻ lưới đầy cá to. Từ một việc tầm thường của người chài lưới, nhưng vì làm theo lời chỉ dạy của Chúa, các tông đồ đã bắt được rất nhiều cá. Hơn nữa, hành động đó còn có một ý nghĩa tiên tri cao quí hơn, đó là các tông đồ sẽ là những kẻ lưới người và công việc của các ngài sẽ được kết quả mỹ mãn, khi các ngài luôn tuân theo thánh ý của Chúa.

Sau cùng, chính thánh Gioan trong bài Phúc Am cho chúng ta một bài học quan trọng là nhìn vào kết quả của việc mình làm, không bao giờ tự hào do sức do tài của mình mà làm nên, nhưng nhận ra ngay sự hiện diện của Chúa. Khi thấy mẻ cá lạ lùng, thánh Gioan hiểu ngay sự hiện diện của Thầy và bảo cho các người khác biết rằng: “Chính Chúa đó!”. Biết được Chúa hiện diện trong đời sống mình và luôn truyền ban sự hiện diện đó cho mỗi người là bổn phận của chúng ta, những người có đức tin, những người môn đệ của Chúa.
Vậy, để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ để ý đến đời sống đức tin của tôi. Tôi sợ Chúa hay tôi sợ người đời? Tôi vâng lời Chúa hay tôi vâng lời người đời? Và tôi hãy nhìn vào đời sống của các tông đồ, của các thánh tử đạo để sống đức tin của tôi mọi ngày trong đời sống, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

------------------------------------

 

PS3-B4. PV / 228- NGĂN CẢN

 

Trong buổi tối ngày Chúa nhật Phục Sinh, các tông đồ tụ họp trong một căn phòng ở tầng trên, các: PS3 B-4


Trong buổi tối ngày Chúa nhật Phục Sinh, các tông đồ tụ họp trong một căn phòng ở tầng trên, các cánh cửa đều đóng kín. Trong căn phòng này, tâm hồn các ông đầy nỗi ám ảnh vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, và đầy những ký ức đắng cay – ngọt ngào về Người. Chính tại nơi đây, Vị Thầy đã rửa chân cho họ, và cử hành bữa Tiệc Ly với họ. Nhưng cũng chính tại nơi đây, họ đã thề hứa trung thành với Người, một sự trung thành mà thậm chí ngay trong đêm hôm đó họ đã vi phạm.

Các tông đồ đều bị thương tích theo tính cách cá nhân – do nỗi sợ hãi, hoài nghi, tội lỗi, đau khổ và thất vọng. Nhưng họ cũng bị thương tích theo tính cách tập thể nữa, bởi vì sự hiệp nhất giữa họ đã bị phá vỡ: có hai người trong số họ vắng mặt, một người bị chết (Giuđa), người kia thì đang bị khủng hoảng đức tin (Tôma). Giống như tất cả những người đang đau khổ, họ đã tạo ra một hàng rào chung quanh họ.

Đức Giêsu không chờ đợi họ đến với Người. Người đã đến với họ, trong khi họ vẫn còn đang sợ hãi và đầy tội lỗi (do sự hèn nhát và phản bội của họ). Bằng một động tác mạnh mẽ, Người đã bẻ gãy hàng rào đó, và đến đứng giữa họ. Người không la rầy, hoặc thậm chí quở trách họ, vì đã không làm tròn phận sự đối với Người. Ở đây không hề có cảnh la rầy, buộc tội. Người biết cảm giác của họ ra sao, do đó, Người không hề đụng chạm vào những vết thương của họ. Thay vào đó, Người đã mang lại cho họ điều mà họ cần một cách tuyệt vọng. Người nói với họ “Bình an cho anh em”. Người nói câu này không chỉ một lần, mà đến hai lần, để đảm bảo rằng câu nói đó thấm sâu vào tâm hồn họ. Trong khi đón nhận sự bình an của Người, thì họ cũng được đón nhận cả ơn tha thứ nữa.

Đột nhiên, một điều vĩ đại nhất và tuyệt vời của ơn bình an đánh động tâm hồn họ: cái chết, sự dữ và sự phản bội đã bị chế ngự. Lòng tốt, tình yêu, sự sống đã chiến thắng. Đức Giêsu khiêm tốn đã chiến thắng, vượt lên trên tất cả những sức mạnh của sự dữ đã từng dàn hàng chống lại Người. Một cuộc khởi sự tươi mới có thể diễn ra. Kết quả là tâm hồn họ được tràn đầy niềm vui.

Phương pháp của Đức Giêsu thật êm dịu. Nơi Người, không hề có nét khắc nghiệt. Đức Giêsu khiêm tốn, Đấng chiến thắng vượt lên trên cái chết, đã ban lòng can đảm cho các tông đồ hiện đang bị nghiền nát của Người, chữa lành những vết thương, đổi mới niềm hy vọng của họ, ban sự sống và sức mạnh cho họ. Từ tình trạng hoàn toàn sụp đổ và thất bại, xuất hiện một nét gì đó mới mẻ một cách và dứt khoát. Kết quả là họ không chỉ tin tưởng nơi Đức Giêsu, mà còn có lòng tự tin nữa. Thật là một niềm vui khi đồng thời vừa được nhận biết, vừa được yêu mến một cách trọn vẹn.

Biến cố Phục sinh không lấy đi nỗi đau khổ, hoặc loại trừ nỗi sợ hãi của chúng ta. Nhưng sự Phục sinh giới thiệu một yếu tố mới cho cuộc sống, đem lại ý nghĩa và soi sáng cho nỗi đau khổ của chúng ta bằng niềm hy vọng. Tất cả đều trở nên khác biệt, bởi vì Đức Giêsu đang sống động và nói những lời nói ban bình an cho chúng ta, giống như Người đã từng nói với các tông đồ. Khi bị sa ngã vì những thử thách và cám dỗ, chúng ta có thể rút ra được lời động viên từ câu chuyện các môn đệ của Đức Giêsu, tất cả họ đều đã từng bị sa ngã trong suốt cuộc khổ nạn của Người.

Do đó, giữa chúng ta có một niềm vui âm thầm và một cảm giác an bình, bởi vì chúng ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết.

------------------------------------

 

PS3-B5. PV / 231- TÌNH YÊU

 

Có một người đàn ông rất gắn bó với cha mình, vốn là một người lao công trong suốt cả cuộc: PS3 B-5


Có một người đàn ông rất gắn bó với cha mình, vốn là một người lao công trong suốt cả cuộc đời. Khi người cha qua đời, người con rất đau khổ. Trong lúc anh đứng yên nhìn vào cỗ quan tài mà người cha được đặt nằm tại đó, đôi bàn tay của cha anh làm cho đặc biệt xúc động. Ngay cả những điều thật nhỏ bé cũng có thể bộc lộ được nét chính yếu nơi cuộc đời của một con người. Sau này, anh nói:

“Tôi sẽ không bao giờ quên được đôi bàn tay già nua giãi dầu mưa nắng tuyệt vời đó. Chúng nói lên câu chuyện cuộc đời của một người nông dân, bằng loại ngôn ngữ hùng biện của những nếp nhăn, những mạch máu, những vết sẹo cũ và mới. Đôi bàn tay của cha tôi luôn luôn mang một số vết trầy xước hoặc vết cắt mới, giống như một loại đồ trang trí, do ông vừa mới vác một đống dây thép phế liệu, một ống sắt han rỉ, một bộ rễ cây cồng kềnh. Đến khi chết, đôi bàn tay của cha tôi vẫn không làm ai thất vọng, thậm chí ngay cả đối với những chi tiết nhỏ bé và có ích như vậy.

“Không phải chỉ những người con trai mới nhận biết tất cả mọi sự từ cha của họ. Nhưng trong trí nhớ của tôi, tôi đã từng nhìn thấy đôi bàn tay đó cung cấp chứng cứ về những nghĩa vụ mà cha tôi gánh vác, những giọt mồ hôi mà ông đổ ra, những việc làm đầy vinh dự mà ông đã thực hiện. Khi nhìn vào đôi bàn tay đó, bạn có thể đọc được một phần nào về tấm lòng của cụ già này”.

Đức Giêsu đã nói với các tông đồ “Hãy nhìn vào tay chân của Thầy… Cứ sờ tay vào Thầy và nhìn đi”. Rồi Người nói với Tôma “Hãy nhìn xem những vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn của Thầy. Đừng cứng lòng nữa, và hãy tin đi”.

Người ta có thể mong ước được nhìn thấy thân thể của Đức Giêsu sống lại trong sự toàn vẹn và không có một vết nhơ nào. Tuy nhiên, không những thân xác của Người vẫn còn dấu vết, mà chính nhờ những dấu vết đó, đã giúp cho các môn đệ nhận ra Người. Những dấu vết đó chính là những vết thương của Người cho các tông đồ. Tại sao lại là những vết thương của Người? Trước hết, những vết thương đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu sống lại cũng chính là Đấng đã chịu đóng đinh. Thứ hai, những vết thương đó là bằng chứng về tình yêu của Người. Trong suốt cuộc sống của mình, những ai chăm sóc người khác, thì hay bị nhiều vết thương. Có lẽ đó không phải là những vết thương lớn, mà chỉ là một loạt những vết thương nhỏ – những vết trầy xước, vết nhăn, và vết sưng.

Tuy nhiên, đó chỉ là những vết thương nhìn thấy được. Thế còn vô số những vết thương vô hình: những nếp nhăn để lại trong tâm trí và tâm hồn, do nỗi đau khổ, lo lắng và băn khoăn khắc khoải thì sao? Rồi còn những vết thương xuyên thấu, ảnh hưởng đến phần nhạy cảm nhất nơi con người chúng ta – trái tim – những vết thương lòng chẳng hạn như những nỗi thất vọng, vô ơn, phản bội. Nỗi đau tình cảm đánh vào tận tâm can bạn, và có thể còn khó giải quyết hơn, so với những vết thương về mặt thể lý. Nhưng những vết thương này không có gì khiến cho chúng ta phải xấu hổ cả. Chúng là bằng chứng về tình yêu của chúng ta. Liệu sẽ có người nào nhìn thấy những vết thương này, và tin tưởng vào tình yêu của chúng ta đối với họ không? Thậm chí nếu không ai nhìn thấy, thì Thiên Chúa nhìn thấy, và Người tự hào về chúng ta, bởi vì Người nhận thấy rằng chúng ta nên giống như Con của Người. Chúng ta không được chỉ nhìn vào thành tích của một người, mà còn phải nhìn vào những vết thương và vết sẹo trong tâm hồn của họ nữa.

Đức Giêsu không hề che giấu những vết thương của Người, bởi vì đó là bằng chứng về tình yêu của Người. Đó là những vết thương mà Chúa Chiên Lành đã chịu đựng, trong khi bảo vệ đàn chiên khỏi chó sói. Người mời gọi các tông đồ sờ tay vào những vết thương đó. Chính khi đụng chạm vào và được đụng chạm vào, mà họ được chữa lành khỏi bệnh cứng lòng tin của họ. Những vết thương của Người ban cho chúng ta niềm hy vọng trong những vết thương của chúng ta.

Đức Giêsu đã không trở nên cay đắng do những vết thương của Người. Chúng ta cũng nên giống như vậy. Sau khi đã mang lại bình an và chữa lành cho các tông đồ, Đức Giêsu giao phó cho họ sứ vụ ra đi và đem tin vui đến cho những người khác. Đức Giêsu mong muốn chúng ta trở nên những chứng nhân cho sự sống lại của Người. Một con người buồn bã, cay đắng là một chứng nhân nghèo nàn.

------------------------------------

 

PS3-B6. PV / 234- TÁI SINH

 

Có một tài xế xe lửa, mỗi ngày đều lái xe lửa đi tới đi lui trên cùng một đường ray. Ở cách đường: PS3 B-6 sẽ FB


Có một tài xế xe lửa, mỗi ngày đều lái xe lửa đi tới đi lui trên cùng một đường ray. Ở cách đường tàu một quãng ngắn, có một ngôi nhà tranh nhỏ bé xinh xắn. Những bức tường màu trắng của ngôi nhà tranh sáng bừng lên dưới ánh sáng mặt trời. Phía trước ngôi nhà tranh, có trồng những cây hoa hồng đẹp tuyệt vời, mà anh chưa bao giờ nhìn thấy. Ngôi nhà tranh này mang một nét gì đó, khiến cho người ta cứ tưởng tượng là chỉ tồn tại trong bức tranh của những tấm bưu thiếp mà thôi. Chẳng bao lâu, người tài xế đó cảm thấy yêu mến ngôi nhà tranh này.

Vào một buổi chiều, khi chạy ngang qua đó, anh nhìn thấy một cô bé gái đang chơi phía trước sân cỏ. Khi xe lửa chạy qua, cô bé vẫy tay với anh. Người tài xế đó bóp còi đáp lại. Chiều hôm sau, cũng xảy ra giống như vậy. Từ đó, bắt đầu có một tình bạn trong sáng và đẹp đẽ giữa anh và cô bé. Cứ mỗi buổi chiều, cô bé đều vẫy tay với anh, rồi anh lại bóp còi đáp trả. Đôi khi, còn có mẹ của cô bé cùng đi, và cả hai người cùng vẫy tay chào anh. Điều này khiến cho anh rất vui, và cũng làm cho cuộc hành trình buồn tẻ của anh dường như được rút ngắn lại.

Nhiều năm trôi qua, cô bé lớn lên. Hiện nay chỉ thỉnh thoảng, cô mới có mặt ở đó để vẫy tay với anh. Tuy nhiên, mối quan hệ của họ càng ngày càng thâm sâu thêm theo năm tháng vẫn còn nguyên vẹn, không hề bị sứt mẻ. Thế rồi người đàn ông đó về hưu, và đến sống tại một nơi thật xa. Nhưng ông không hề xua đuổi ra khỏi tâm trí mình hình ảnh của ngôi nhà tranh và hai người bạn của ông. Vì thế, một ngày kia, ông quyết định đến thăm viếng họ.

Khi đến đó, mọi sự đều rất khác biệt, so với những gì mà ông tưởng tượng. Nhưng bức tường của ngôi nhà tranh hầu như không có màu trắng như ông nghĩ. Những cây hoa hồng trông không đẹp rực rỡ như ông tưởng. Nhưng khi ông gặp người phụ nữ và cô con gái của bà, thì một nỗi thất vọng thấm thía nhất đến với ông.

Khi ông tự giới thiệu mình, thì họ cư xử rất lịch sự với ông. Họ mời ông đi vào một phòng khách tối tăm, để nói chuyện và uống trà. Nhưng ông cảm thấy không muốn ở đó. Vì thế, ông muốn ra về ngay khi ông có thể làm được điều đó một cách lịch sự. Ông cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng. Thế giới giấc mơ của ông đã bị tan rã. Tình bạn vốn đem lại rất nhiều ý nghĩa cho cuộc đời của ông đã bị phá hủy.

Chúng ta cảm thấy tiếc cho người tài xế xe lửa đó. Tuy nhiên, đó cũng là do lỗi của ông. Ông đã sống trong thế giới của giấc mơ. Ông theo đuổi một ảo tưởng.

Nhiều người theo đuổi ảo tưởng về một Đấng mêsia vinh quang, không thể đau khổ được. Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh, thì ảo tưởng đó bị phơi ra, và thế giới của họ bị sụp đổ. Họ phản ứng bằng cách tự cách ly mình phía sau những cánh cửa đóng kín.

Chỉ đến khi Đức Giêsu hiện ra với họ, và tâm trí của họ đến với một chân lý mới, thì giấc mơ của họ mới được tái sinh. Chân lý mới này là gì vậy? Chính thông qua nỗi đau và cái chết của Người, mà Người mới đi vào vinh quang. Phải mất một thời gian, họ mới thấm nhuần được điều này, nhưng sau khi đã thấm nhuần rồi, thì họ biết rằng ngay cả cái chết cũng không thể bẻ gãy được mối dây ràng buộc đã gắn bó giữa Đức Giêsu và họ trong suốt ba năm.

Biến cố Phục sinh mang ý nghĩa rằng Đức Giêsu vẫn đang sống, và chúng ta cũng có thể được gặp gỡ Người trong lòng tin. Chúng ta gặp gỡ Người một cách đặc biệt trong “việc bẻ bánh”, nghĩa là trong phép Thánh Thể. Người sẽ không cách ly chúng ta ra khỏi thực tế cuộc sống. Nhưng Người sẽ ở với chúng ta tại chỗ nào chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta biết mang ý nghĩa và nét đẹp đến cho cuộc sống của chúng ta, đặc biệt trong những lúc đau khổ và tối tăm. Và giống như các tông đồ, chúng ta cũng được Người giao phó sứ vụ mang Tin Mừng đến cho những người khác.

------------------------------------

 

PS3-B7. SCĐ/212- CẢM NGHIỆM

 

Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau: PS3 B-7


Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đó là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Nhưng đồng thời người kia còn có thể là bất cứ ai trong chúng ta. Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.

 “Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Ngài”: Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức Giêsu Phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến một lúc nào đó, nếu Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ quán, “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.

 Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức Giêsu Phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài? Cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau cho thấy nhờ hai điều: Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh: “Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh”. Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó: “Dọc đường khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao?”. Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.

Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không cháy bừng lên, và khi tham dự thánh lễ mắt chúng ta không mở ra ? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc với Đức Giêsu như hai môn đệ Emmau; và chúng ta dâng thánh lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài. Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu Phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.

------------------------------------

 

PS3 B8. SCĐ/217- CHỨNG NHÂN

 

Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi: PS3 B-8 FB


Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu tiến sĩ triết học. Ông làm Hiệu trưởng trường Đại học.

Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng tiến sĩ y khoa. Với ba bằng cấp tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có và nổi tiếng.

Thế nhưng, tiến sĩ Albert SchWeitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.

Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1953.

Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.

Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma túy làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng tạo hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.

Sự sống của Đấng Phục sinh: Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.

Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.

Đức Hồng Y Danielou có nói: “Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta”.

Cha Charles de Foucauld quả quyết: “Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động”.

Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội An Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Vậy lời rao giảng Tin Mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Schweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.

------------------------------------

 

PS3-B9. CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH


- Gm. VŨ DUY THỐNG

 

Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus: PS3 B-9


Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất cả. Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được. Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người. Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:

1. ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC ĐỒNG HÀNH CHIA SẺ

Bối cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát. Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới. Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong:.

Mà đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.

Vâng, Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ. Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa. Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hành chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.

2. ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG CỐ TIN YÊU

Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng. Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.

Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phái. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.

Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.

3. ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH BẺ RA CHO ĐỜI

Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc âm, đó phải là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đấng Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.

Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.

Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này. Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.

Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa. Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người  quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.

Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.

------------------------------------

 

PS3-B10. Đức Giê-su hiện ra với các Tông Đồ – JKN


Câu hỏi gợi ý:

 

Đặt mình vào địa vị các tông đồ khi gặp Đức Giêsu sống lại lần đầu tiên, bạn có dễ dàng tin rằng: PS3 B-10


1. Đặt mình vào địa vị các tông đồ khi gặp Đức Giêsu sống lại lần đầu tiên, bạn có dễ dàng tin rằng Ngài hiện diện thật sự trước mắt mình không? Hiện nay, bạn có tin rằng Ngài đang thật sự hiện diện bằng thần khí trong tâm hồn bạn không?

2. Đức Giêsu đang hiện diện ở trong tâm hồn ta có khả năng hoạt động, dạy dỗ, biến cải ta như Ngài đã từng hoạt động, dạy dỗ, biến cải các tông đồ ngày xưa không? Sự hoạt động của Ngài có lệ thuộc vào thái độ nội tâm của ta không?

3. Ta phải làm gì để được Ngài dạy dỗ, biến cải một cách hữu hiệu?

Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu mời gọi ta cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài

Sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra trước mắt các môn đệ, điều đó khiến các ông kinh ngạc, sợ hãi và không dám tin vào mắt mình nữa. Nhưng Đức Giêsu trấn an các ông và chứng tỏ Ngài hiện diện thật sự, bằng thân xác cụ thể chứ không phải bằng hình bóng theo kiểu một bóng ma. Ngài chứng tỏ điều ấy bằng cách cầm lấy và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông. - Hiện nay, Đức Giêsu đang thật sự hiện diện và hoạt động ngay trong bản thân chúng ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta - cũng giống như các tông đồ xưa - không dám tin vào điều ấy. Nếu có tin thì cũng chỉ tin rằng Ngài hiện diện một cách tượng trưng, bằng hình bóng của Ngài thôi. Nhưng hãy nghe Ngài nói: «Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?» - Ngài mời gọi chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện đích thực của Ngài bên trong chúng ta. Ngài mời chúng ta hướng vào bên trong để thấy Ngài nói và hoạt động trong bản thân chúng ta.

2. Hiện nay, Đức Giêsu có ở với chúng ta không? Ngài ở đâu?

Trước khi chịu khổ nạn và tử hình thập giá, Đức Giêsu đã sống giữa các tông đồ, để dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, thêm sức cho các ông, một cách rất cụ thể, hữu hình hữu tướng, bằng thể chất. Nhưng sau khi sống lại, Ngài không còn hiện hữu theo kiểu cũ, không thường xuyên ở bên cạnh các ông một cách hữu hình nữa. Thân xác của Ngài là một thân xác vinh quang, thoạt hiện thoạt biến, chỉ ở bên cạnh các ông một cách hữu hình trong giây lát. Phải chăng cách hiện hữu này khiến Đức Giêsu và các ông xa cách nhau hơn? Có phải sau khi về trời, Ngài không còn ở cùng các ông nữa không?

Không phải vậy. Trước khi về trời, nghĩa là trước khi thân xác Ngài vĩnh viễn rời khỏi các môn đệ, Ngài nói: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế» (Mt 28,20). Trong bối cảnh thầy trò sắp chia tay nhau như thế mà Ngài lại nói vậy thì thật là mâu thuẫn và nghịch lý! Đáng lẽ Ngài phải nói: «Thầy phải ra đi và không còn ở với anh em nữa cho đến tận thế. Hẹn gặp lại anh em vào ngày tận thế!» Có phải Ngài nói lộn, hay các thánh sử ghi sai lời Ngài?

Chắc chắn không phải như vậy! Tuy Ngài không hiện hữu bằng thân xác của Ngài, nhưng Ngài vẫn hiện hữu một cách thiêng liêng, bằng thần khí của Ngài, bên cạnh và bên trong chúng ta. Với cách hiện hữu này, Ngài có thể thân mật với chúng ta hơn, và chúng ta có thể gặp Ngài bất cứ lúc nào chúng ta muốn, một cách hết sức dễ dàng. Và Ngài vẫn có thể dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, ban bình an và sức mạnh cho chúng ta, miễn là chúng ta tin vững chắc sự hiện diện của Ngài bên trong chúng ta, thường xuyên ý thức và cảm nghiệm sự hiện diện ấy, đồng thời lắng nghe Ngài nói trong đáy lòng mình. Đây là một ý thức và khả năng mà bất kỳ người Kitô hữu nào cũng cần tập luyện. Và đây cũng là một bí quyết để có được bình an, sức mạnh và thăng tiến trong đời sống tâm linh.

3. Phục sinh Đức Giêsu trong ý thức và nội tâm ta

Đức Giêsu hứa với chúng ta: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế » (Mt 28,20). Ngài cũng nói với Chúa Cha: «Con ở trong họ và Cha ở trong con » (Ga 17,23). Thánh Phaolô nhắc lại sự hiện diện ấy: «Chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người » (Cl 3,11); «Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em » (Gl 4,6). Như vậy, theo lời Ngài đã hứa thì Ngài vẫn ở với và ở trong chúng ta. Nhưng sao chúng ta chẳng thấy Ngài hoạt động hay ảnh hưởng gì trên chúng ta, giống như xưa các tông đồ đã thấy Ngài hoạt động và ảnh hưởng trên các ông? - Sự hiện diện của Ngài trong chúng ta có tính hoạt động và có khả năng biến đổi ta hay không, điều đó còn tùy thuộc vào ý thức và sự tự do cộng tác của ta nữa. Nếu chúng ta không tin hoặc không ý thức sự hiện diện của Ngài trong chúng ta, thì sự hiện diện ấy chỉ giống như sự hiện diện của xác Ngài trong nấm mồ: một thân xác vô hồn, bất động, không có khả năng gì cả. Chính ý thức sống động của ta về sự hiện diện của Ngài trong bản thân ta làm cho Ngài «sống lại» trong ta và hoạt động hữu hiệu. Nếu ta không ý thức sự hiện diện ấy thì hãy coi chừng: ta chưa thật sự sống trong đức tin. Thánh Phaolô yêu cầu ta kiểm điểm lại đức tin của mình: «Anh em hãy tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem. Anh em chẳng nhận thấy có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?» (2Cr 13,5).

Vì thế, để lời hứa của Ngài - là ở với chúng ta - trở nên hiện thực, chúng ta phải tập luyện ý thức thường xuyên sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình. Ngài hiện diện trong chúng ta bằng thần khí của Ngài, chứ không phải bằng thể chất. Hiện diện dù bằng thần khí hay bằng thể chất, đều là hiện diện thật sự. Và sự hiện diện ấy là một hiện diện hoạt động chứ không bất động. Nếu ta để Ngài tự do hoạt động trong chúng ta, nghĩa là không để hoạt động của Ngài bị hạn chế bởi ý riêng của ta, lúc đó, ta sẽ nói được như thánh Phaolô: «Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi» (Gl 2,20). Nói cụ thể hơn là: bất kỳ điều gì tôi làm (suy nghĩ, ăn, nói, làm việc, đối xử, ngủ, nghỉ...) đều không còn phải là bản thân tôi làm nữa, mà chính là Đức Giêsu làm trong tôi. Ý thức thường xuyên về sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình chính là tâm trạng cầu nguyện, là tình trạng kết hợp liên lỉ với Đức Giêsu. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những bậc hiến thân sống đời tu trì, đều được mời gọi tập luyện sự ý thức thường xuyên này.

4. «Những gì ...đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm»

Khi chúng ta đã thường xuyên ý thức sự hiện diện hoạt động của Đức Giêsu trong bản thân ta, ta sẽ dần dần cảm nghiệm thấy «tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm» ngay trong bản thân chúng ta. Câu này cần được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm của tâm linh. Nghĩa là tất cả những lời hứa trực tiếp của Thiên Chúa với các tổ phụ, với Môsê (đất hứa, sự sung túc, con cháu đầy đàn), những lời hứa của Ngài đối với Dân Ngài qua các ngôn sứ, qua các lời Thánh Vịnh (sự thái bình, thịnh vượng…) đều được thực hiện tại thế ngay trong tâm hồn ta. Lúc đó ta sẽ cảm nghiệm được thế nào là bình an và hạnh phúc siêu nhiên, một thứ bình an hạnh phúc không tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài, nên «không ai lấy mất được» (Ga 16,22). Lúc ấy Bát Phúc trong bài giảng trên núi của Đức Giêsu sẽ trở nên hiện thực và cụ thể trong tâm hồn ta. Đây là tình trạng hạnh phúc của tâm hồn mà những vị thánh thường xuyên kết hợp với Thiên Chúa luôn luôn cảm nghiệm được. Chính nhờ cảm nghiệm được thứ hạnh phúc này, mà các ngài luôn luôn vui tươi khi gặp gian lao thử thách. Hạnh phúc mà các ngài cảm nghiệm được này đã bù đắp cho các ngài tất cả những hy sinh mất mát mà các ngài tự nguyện chịu. Hạnh phúc ấy, bất kỳ Kitô hữu nào ý thức được sự hiện diện của Đức Giêsu trong tâm hồn mình, và hoàn toàn sống với ý thức ấy đều có thể cảm nghiệm được.

Cầu nguyện

Lạy Cha, Đức Giêsu vẫn sống ở trong con, nhưng tâm trí của con không hề nghĩ đến Ngài, vì bận mải mê tìm kiếm những thứ ở bên ngoài. Điều đó đã làm cho sự hiện diện của Đức Giêsu trong con trở thành bất động, Ngài chẳng có thể làm được gì ích lợi cho con. Xin giúp con ý thức lại sự hiện diện của Ngài trong con, và thường xuyên sống với ý thức ấy, để làm cho Đức Giêsu trở thành sống động trong con, biến con trở nên một tâm hồn tốt đẹp và hạnh phúc. Amen.

------------------------------------

 

PS3-B11. CÓ CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI LÀ CÓ BÌNH AN


- Lm. Trần Bình Trọng

 

Lời chào đầu tiên mà Chúa thốt ra với các tông đồ sau khi Người sống lại từ cõi chết là lời chào: PS3 B-11


Lời chào đầu tiên mà Chúa thốt ra với các tông đồ sau khi Người sống lại từ cõi chết là lời chào bình an: Bình an cho các con (Lc 24:36). Tuy nhiên các tông đồ kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Chúa liền trấn an các ông bằng cách chứng minh cái căn tính của Chúa là có xương có thịt, chứ không phải ma. Tuy nhiên các ông vẫn chưa tin vì vui mừng mà bỡ ngỡ (Lc 24:41).

Mặc dầu Chúa đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người, các môn đệ vẫn chưa hiểu đường lối của Chúa. Mặc dầu sau khi sống lại Chúa đã hiện ra với Mađale-na và truyền cho bà đi loan báo tin mừng phục sinh cho các tông đồ, các ông vẫn cho rằng đó là chuyện tưởng tượng của đàn bà. Mặc dầu hai môn đệ thành Emmau vưà loan tin cho các ông là Chúa đã sống lại và hiện ra với các ông, các ông vẫn còn hồ nghi. Lý do là vì cái biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hy vọng của các ông, như hi vọng Chúa sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, hi vọng được một địa vị trong vương quốc của nước Chúa. Cái chết của Thày mình trên thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Vì thế hôm nay Chúa hiện ra lần nữa để củng cố đức tin của các ông.

Phải chăng chúng ta cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, và sợ hãi khác nhau. Chúng ta sợ mất công ăn, việc làm, sợ phải mang bệnh tật, sợ mất sức khoẻ. Chúng ta sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì chiến tranh. Hôm nay Chúa bảo ta: Thày đây, đừng sợ. Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là cái gì ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ nữa. Từ đó mới tìm đến Chúa.

Qua các môn đệ, Chúa cũng gửi đến ta lời chào bình an. Cái lời chào bình an của Chúa mang một ý nghĩa đặc biệt cho những người đặt tin tưởng vào Chúa. Ngày nay ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do Thái và gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đường giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do Thái khát vọng hoà bình như thế nào. Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa tự điển Webster có nghĩa là cái tình trạng, hay cái thời kỳ hoà hoãn, cái thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa là gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo tự điển Webster, hoà bình có nghĩa là cái trạng thái tĩnh, nghĩa là không động, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, một sự hoà hợp trong những mối tương quan và liên hệ của mỗi ngưòi.

Hoà bình theo nghĩa Thánh kinh là một ân huệ Chúa ban. Do đó hoà bình phải phát xuất từ tâm hồn mỗi người, phải được ăn rễ và phát triển trong tâm hồn. Hoà bình sẽ ngự trị trong tâm hồn ta, và xung quanh ta, nếu ta có bình an trong tâm hồn. Vì thế không thể nào có hoà bình thực sự trong thế giới loài người, nếu loài người không có bình an nội tâm.

Để có được sự bình an nội tâm, người ta cần làm hoà với Chúa qua Bí tích Cáo giải. Để có được sự bình an trong tâm hồn người ta cần sống theo đường lối của Chúa và tuân giữ giới răn Chúa.

------------------------------------

 

PS3-B12. NHÂN CHỨNG CHO SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA


 - Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

Trong một bài ca có tựa đề: “Trên đường Emmaus”, linh mục Thành Tâm Dòng Chúa Cứu Thế đã: PS3 B-12


Trong một bài ca có tựa đề: “Trên đường Emmaus”, linh mục Thành Tâm Dòng Chúa Cứu Thế đã viết những lời rút ra từ Kinh Thánh, gây rất nhiều ấn tượng cho giới trẻ và những người thích nhạc trẻ. Lời đó thế này: “Trên đường Emmaus hai người lữ khách bước đi bên nhau, mộng vàng tan mây, nhọc nhằn lê gót, chân buồn đường dài. Này ngài tiến đến về Emmaus tiến bước theo ngay bên. Họ không trông ai, Người lữ khách đó chính là Ngài”. Thật thế, các bài đọc và phụng vụ chúa nhật thứ ba phục sinh tiếp tục giới thiệu cho nhân loại về Chúa phục sinh và quá trình các môn đệ đến với Chúa sống lại.

Chúa Phục Sinh dưới ánh sáng của Kinh thánh

Đoạn Tin Mừng của thánh Luca 24, 35-48 cũng như đoạn Tin Mừng Chúa nhật phục sinh diễn tả cho nhân loại thấy về việc Chúa Sống lại dưới ánh sáng của Thánh Kinh và dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Với ánh sáng của đức tin và Tin Mừng, các môn đệ đã được Chúa phục sinh làm cho họ hiểu rõ về việc Ngài sống lại.Thật vậy, Tin Mừng ngày thứ nhất phục sinh và Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, chỉ trở thành dấu chứng đích thực của việc Chúa sống lại khi nó được soi chiếu dưới sự tác động và soi sáng của Thánh Thần.

Càng ngày khi đọc lại đoạn Tin Mừng này, nhân loại sẽ cho rằng các môn đệ cứng tin vì họ đã được loan báo trước về việc Chúa phục sinh, đã được nghe Maria Mácđala, Simon và các tông đồ khác, nhất là nghe hai môn đệ trên đường Emmaus tường thuật về việc họ đã gặp Chúa phục sinh như thế nào, nhưng khi Chúa sống lại đã hiện ra cho các ông, đã ban bình an cho các ông, các môn đệ vẫn hoảng hốt, sợ sệt, hoang mang, họ vẫn chưa mường tượng việc Chúa sống lại.

Chúa đứng giữa các ông, nhưng các ông vẫn tưởng là ma. Chúa phục sinh đã chỉ cho các ông thấy chân, tay, cạnh sườn và chân của Chúa Giêsu bị đóng đinh. Ngay lúc đó các ông vẫn chưa hoàn hồn và vẫn chưa tin Chúa sống lại. Chúa xin các ông cho Chúa ít bánh, ít cá và Ngài ăn trước mặt các ông. Cuối cùng Chúa phải dùng Thánh Kinh để mở trí cho các ông hiểu lời Kinh Thánh đã viết về Chúa Giêsu. Và Thánh Thần sẽ mở trí cho các môn đệ, để các Ngài cảm nghiệm sâu xa về Chúa sống lại và Ngài còn tiếp tục hiện diện nơi trần gian, giữa các ông.

Đoạn Tin Mừng Luca 24, 35-48 bao gồm cả lời rao giảng của các tông đồ được thuật lại trong sách Tông Đồ Công Vụ như việc xử dụng Thánh Kinh, rao giảng sự sám hối ăn năn và sứ mạng làm chứng Chúa phục sinh trao phó cho các tông đồ. Thánh Phaolô viết: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người…Thiên Chúa đã chọn những gì thế gian cho là điên dại, để hạ nhục những kẻ khôn ngoan”( 1Co 1, 25-27 ).

Xưa người Do Thái thường mong ước gặp một Đấng Mêsia là Vua vinh quang, đầy uy quyền, đầy dũng lực. Họ vỡ mộng khi Chúa nói Ngài sẽ đội mũ gai và phải chịu khổ hình. Các môn đệ sau khi đã thấy Chúa, đã hiểu Kinh Thánh, đã được Chúa Thánh Thần soi dẫn, họ đã nhận ra Chúa phục sinh và Phêrô đã có thể công khai rao giảng về một Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại. Điều quan trọng, Phêrô đã đặt Chúa sống lại vào chính lịch sử cứu độ. Thiên Chúa, Đấng đã can thiệp vào cuộc sống của Abraham, Isaac, Giacóp và vào lịch sử dân Chúa, đã tôn vinh Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Lịch sử cứu độ là lịch sử duy nhất. Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Đấng sống lại từ cõi chết và Ông còn khẳng định Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ gian trần.

Thế gian cho là khôn ngoan. Thiên Chúa cho là dại khờ.

Tin là cái gì xem ra nghịch lý: vì khi có đức tin, con người sẽ thấy được ánh sáng ngay trong bóng tối, tìm được sức mạnh ngay trong cái yếu đuối, tìm được sự sống ngay trong cái chết.” Hạt lúa mì rơi xuống đất, không thúi đi, nói sẽ không sinh nhiều hoa trái”( Ga 12, 24 ). “ Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Ta”. Đạo của Chúa Giêsu Kitô thiết lập là đạo thánh giá. Xem ra chấp nhận thập giá là một sự khờ dại vì rằng người Do Thái và ngay cả các môn đệ lúc đó vẫn cứ tưởng Chúa Giêsu sẽ đội vương miện vàng, ngờ đâu Ngài đội mạo gai và phải kinh qua cuộc đau khổ trên thập giá. Đây là nghịch lý của Tin Mừng vì theo đạo Chúa có nghĩa là chấp nhận thập giá. Chúa nói vác thập giá của mình mà theo Chúa, chứ không phải vác thập giá của người khác. Chấp nhận thập giá là đón nhận hy sinh, từ bỏ và yêu thương. Vậy, thập giá có nghĩa là yêu thương.

Tin Mừng của thánh Luca không chỉ đẹp về văn chương và mạch lạc về câu cú, cốt chuyện, nhưng Tin Mừng của Ngài toát lên niềm tin. Thánh Luca viết cho Théôphilê( Lc 1,11 )và qua Théôphilê, Ngài muốn gửi cho tất cả nhân loại, cho chúng ta. Niềm tin của Ngài là niềm tin vào Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Thánh Luca đã có được niềm tin ấy nơi Phaolô, Vị tông đồ dân ngoại, nơi Giáo Hội sơ khai, nơi lời chứng của những người đã được sống với Chúa, thánh Luca tin vì thấy sự yêu thương, hiệp nhất, bác ái của Cộng Đoàn Sơ Khởi, Ngài tin vì kinh nghiệm riêng cá nhân của Ngài. Rõ ràng đoạn Tin Mừng Luca 24, 35-48 là phần cuối của chương 24. Thánh Luca ở đây diễn tả một số yếu tố chính như việc Chúa Giêsu ăn một mình, chứng tỏ Ngài không phải là ma, việc Chúa giải thích Kinh Thánh, soi đường chỉ lối cho các môn đệ biết mầu nhiệm vượt qua: Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, mới đạt tới vinh quang phục sinh, mới chiến thắng khải hoàn. Đó là mầu nhiệm của thập giá. Thánh Luca lập đi lập lại điệp khúc:” Chúa Kitô phải chịu khổ hình, mới đạt tới vinh quang phục sinh”. Đây là cái cốt lõi của đạo công giáo. Muốn vinh quang phải trải qua khổ đau. Đây là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang: con đường khổ giá.

Đoạn Tin Mừng của thánh Luca 24, 35-48 đưa ta bắt gặp Tin Mừng của thánh Gioan ở hai điểm chính yếu: Chúa ban bình an cho các môn đệ, chỉ cho các ông thấy tay, chân của Chúa bị đóng đinh và cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua( Ga 20, 19-21 ) và xác nhận chân lý này: thập giá là nơi mạc khải vinh quang của Đức Kitô. “ Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất…Ai đnh mất mạng sống vì Ta thì sẽ tìm lại được…”. Cái nghịch lý là ở chỗ đó.Các môn đệ đã hiểu mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu Kitô nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, nhờ lời dẫn giải Kinh Thánh của Chúa phục sinh vì thế họ nhất loạt trở nên những chứng nhân kiên trung cho Chúa sống lại.

Và bài ca của linh mục Thành Tâm vẫn cất lên:” Biết mấy lúc chúng ta đi trong cuộc sống mọi ngày, đã gặp Ngài nhưng chẳng biết Ngài. Ay những lúc mắt ta không trông, không thấy được Ngài trong những kẻ nghèo đói “. Chúa phục sinh đang hiện diện nơi thế gian, nơi mỗi người và ở khắp chốn.

Lạy Chúa Giêsu Kitô xin cho mọi người chúng con xác tín rằng:” Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”( Lc 24, 46-47 ).

Gợi ý chia sẻ

1. Bạn hiểu sao về con đường thập giá ?
2. Bạn mến yêu thập giá không ?
3. Bạn nghĩ gì về câu:” Muốn vinh quang phải trải qua đau khổ” ?

------------------------------------

 

PS3-B13. HÃY TIN VÀ LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH


- Lm Đan Vinh

 

Bài Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra có lẽ là lần thứ ba: PS3 B-13


Tìm hiểu Lời Chúa

1) Ý chính: Hãy Tin và làm chứng về Mầu Nhiệm Phục Sinh.

Bài Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra có lẽ là lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp phải ma, bằng cách cho họ xem tay chân của Người bằng xương thịt, và còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mạng cho các ông là phải đi rao giảng sự ăn năn để được tha tội, và làm chứng nhân về các điều ấy.

2) Chú thích:

- Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em !” (Lc 24,35-36):

+ Còn hai ông: Đây là hai số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giêsu (x.Lc 10,1). Một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). Sau khi Đức Giêsu bị người Do Thái giết hại trên thập giá, hai ông đã vỡ mộng và quyết định trở về quê cũ là làng Emmau. Trên đường về làng, hai ông đã gặp được Đức Giêsu Phục Sinh như một khách bộ hành. Trong cuộc trao đổi nói chuyện dọc đường, Người đã giải thích những lời Kinh Thánh về cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Kết quả là các ông đang từ tâm trạng buồn chán thất vọng (x. Lc 24,17.20), đã lấy lại được niềm tin và đã nhận biết Người (x. Lc 24,25-27.31).

+ Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giêsu đã làm khi nhân bánh ra nhiều 2 lần 9x. Mt 14,19; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể 9x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ kia nhận ra người khách bộ hành chính là Đức Giêsu đã chết và giờ đây sống lại.

+ “Bình an cho anh em”: Đây là lời chào thông thường của người Do Thái (Sha-lom). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người hứa là ban sự bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).

- Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” (Lc 24,37-39):

+ Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng la thấy ma: Đây là thái độ thường tình của con người khi gặp một cuộc thần hiện. Trước đây, có lần vào lúc canh tư đêm tối, Đức Giêsu đã đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các môn đệ. Bấy giờ các ông cũng sợ hãi kêu la lớn tiếng: “Ma kìa!”. Và Đức Giêsu đã phải trấn an các ông: “Cứ yên tân, chính Thầy đây, đừng sợ!” (x. Mt 14,25-27).

+ Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!: Chân tay Đức Giêsu có những vết thương do đã bị quân lính đóng đinh tên cây thập tự (x. Lc 23,33).

+ Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?: Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Khi một người xắp chết, họ sẽ thở hắt ra và sẽ chết hẳn khi thân xác ngừng thở (x. St 35,18). Khi thân xác thở lại là dấu họ sống lại (1 V 17,21). Linh hồn người chết hiện về được gọi là hồn ma. Ở đây, Đức Giêsu Phục Sinh chứng tỏ Người không phải là hồn ma, khi chứng minh cho các môn đệ thấy Người có xương thịt như một người bình thường.

- Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không ?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông (Lc 24,40-43):

+ Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin mừng Gioan (x Ga 20,22), Đức Giêsu Phục Sinh đã đưa ra những dấu hiệu chứng tỏ người là Đấng bị đóng đinh, đã chết trên cây thập giá, mà nay sống lại và hiện đang ở trước mặt các ông.

+ Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ ngàng: Luca hay thêm vào các câu bào chữa khuyết điểm của các môn đệ. Chẳng hạn: Khi Đức Giêsu bị bắt, Luca viết: “ Người thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền” (Lc 22,45). Ở đây, Luca viết “ Vì mừng quá” và “còn đang ngỡ ngàng” để bào chữa cho sự cứng lòng chưa tin của các ông.

+ Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Xem ra các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giêsu đã sống lại, nên Người đã cho họ thêm một bằng chứng là Người thật chứ không phải hồn ma, bằng cách Người đã cầm lấy khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông.

- Rồi Người bảo: “ Khi còn ở với các anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24,44-45):

+ Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đức Giêsu cho các môn đệ thêm bằng chứng về việc Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời tiên báo mà giờ đây đã ứng nghiệm.

+ Sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Trước đó, khi thuật lại việc Đức Giêsu Phục Sinh giảng cho hai môn đệ làng Emmau, Luca viết: “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả các Sách Thánh” (Lc 24,27). Ở đây, Luca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh.

* Sách Luật Môsê: Năm cuốn đầu của Cựu Ước, được xếp thành bộ Ngũ Thư gồm 5 cuốn là: sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lêvi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. Người Do Thái gọi Ngũ Thư là Luật Môsê (Tôra), vì đây là nền tảng đời sống đức tin của Dân Chúa. Truyền thống Do Thái vẫn coi tác giả của Ngũ Thư là ông Môsê. Nhưng thực ra, việc biên soạn bốn cuốn đầu chủ yếu do các tư tế thuộc triều đại vua Đavít và Salomon. Riêng sách Đệ nhị luật: Gọi là “Luật thứ hai” vì Luật của Giao Ước Môsê đã được ghi trong ba cuốn Xuất hành, Lêvi, Dân số trước đó. Còn Đệ nhị luật là do các môn đệ của các Ngôn sứ và các Tư Tế biên soạn vào thời dân Do Thái đi lưu đầy ở Babylon và còn tiếp tục hoàn chỉnh sau thời lưu đầy. Nội dung sách này nhằm nhắn nhủ dân Chúa hồi tâm sám hối tội lỗi, trở về tôn thờ Một Thiên Chúa độc nhất và trung thành tuân giữ Giao Ước Xinai.

* Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến để thay Chúa mà nói với dân Người. Sứ mạng của các ngôn sứ là giúp dân Do Thái nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ trở về với Giao Ước, khuyên bảo, loan báo hình phạt. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mêsia (hay Thiên Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ Sách Ngôn Sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn Sứ lớn như Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và Đanien, và 12 Ngôn Sứ nhỏ như Hôsê, Giôen, Amốt, Ovađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi. Phân biệt Ngôn sứ lớn hay nhỏ là do độ dày của cuốn sách của các ngài.

* Thánh Vịnh: Là bộ sưu tập các bài ca vịnh được sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ thời Đavít đến thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh. Hội Thánh Công Giáo sử dụng các Thánh vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ và trong Phụng Vụ Lời Chúa.

- Và Người bảo: “Có Lời Kinh Thánh chép rằng:Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này (Lc 24,46-48):

+ Các câu 46-48: Trình bày tất cả các chủ đề về Đức Giêsu đã được tông đồ Phêrô và các tông đồ rao giảng trong Công Vụ Tông Đồ: Trưng dẫn Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, rao giảng sự sám hối và ơn tha tội, Nhóm Mười Hai được trao sứ mạng làm chứng nhân cho Đức Giêsu (x. Cv 2,14-41; 3,12-26; 13,16-43).

+ Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”: Khi Đức Giêsu giảng cho hai môn đệ trên đường Emmau, Luca cũng viết: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,25-27).

+ Rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem: Hoạt động truyền giáo của các tông đồ vừa theo một tiến trình ưu tiên nhất định là bắt đầu từ dân Do Thái, vừa có tính phổ quát. Từ đây, Giêrusalem trở thành điểm xuất phát để loan truyền Tin Mừng đi khắp nơi cho mọi dân tộc.

+ Kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội: Sám hối (tiếng Hy lạp là Me-ta-noe-ô), nói chung nghĩa là đổi ý, thay đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Theo ngôn sứ Giêrêmia, sám hối là thay đổi hướng đi, quay về với Thiên Chúa của Giao Ước, dấn thân bước vào đời sống mới. Sám hối là điều kiện để được ơn tha tội hay được hưởng ơn cứu độ.

+ Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là rao giảng Tin Mừng, là chứng thực về tất cả những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, từ khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt các ông phải sẳn sàng chịu chết để làm chứng những điều mình rao giảng là trung thực.

Học sống Lời Chúa

1) Chính anh em là chứng nhân của những điều này:

- Câu chuyện: Một chứng nhân sống động:

Trong quyển sách “Tôi tin” của tác giả Găng Típ (Grant Teaff), có thuật lại một câu chuyện về một cựu lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới tên là Biăng Tonbéc (Brian Sternberg) đã trở nên chứng nhân sống động của Đức Giêsu như thế nào.

Vào năm 1963, Biăng (Brian) lúc đó đang là sinh viên năm thứ hai trường đại học Washington. Anh vừa là lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới, lại vừa đoạt chức quán quân về nhào lộn của Mỹ Châu. Tác giả đã kể chuyện về nhà vô địch Biăng như sau: “Khắp trường đua, ai cũng biết Biăng là một lực sĩ trẻ đầy tài năng, nhưng phong cách của anh ta vừa có tính tự mãn lại vừa ích kỷ. Trong ngày đạt thành tích phá kỷ lục thế giới, khi tiến ra lãnh huy chương vàng, anh ta tỏ thái độ ngạo mạn khi cố ra vẻ nghiêm nghị và không thèm mỉm cười đáp lễ nhiều người đang hoan hô anh. Nhưng ngày hôm sau, báo chí đã đăng hàng tít lớn: “Nhà vô địch nhảy sào Biăng đã bị chấn thương !”. Số là hôm ấy, đang lúc một mình tập nhào lộn ba nhịp trên sàn tập, Biăng đã bị mất phương hướng để cho mình rơi ngay vào khung căng. Cổ anh bị va vào bờ khung căng làm cây gỗ khung căng bị gãy và Biăng té văng ra ngoài đệm mút, bị tê liệt hoàn toàn do chấn thương sọ não. Thân thể anh bây giờ chỉ có đôi mắt và cái miệng là còn cử động được thôi. Từ ngày đó, Biăng trở nên một phế nhân. Anh không thể tự mình làm điều gì, ngay cả những việc riêng cá nhân như ăn uống, vệ sinh, cũng phải nhờ người giúp đỡ. Anh cảm thấy chán nản và đau khổ. Từ đó, người ta không còn nhắc đến Biăng nữa.

Năm năm sau, tác giả có cơ hội gặp Biăng trong một hội nghị gồm các huấn luyện viên và lực sĩ đã đạt huy chương vàng, tại hội trường lớn của nhà thi đấu trong tiểu bang Côlôrađô. Hôm ấy, trước khi khai mạc hội nghị, đột nhiên hội trường bị tắt điện tối thui, rồi máy đèn chiếu lên màn ảnh một đoạn phim trong đó người ta thấy lực sĩ Biăng đang chạy trên đường băng và thực hiện cú nhảy sào phá kỷ lục thế giới. Rồi trên sân khấu ánh đèn tròn lại chiếu sáng tập trung vào một người cao lớn đang từ hậu trường bước ra sân khấu. Đó là cầu thủ bóng đá nổi tiếng Uet Uynmơ (Wes Wilmer). Anh ta đang cõng theo một hình nhân gầy đét với đôi tay rũ rượi và đôi chân dài, đu đưa hai bên sườn của Uynmơ. Hình nhân này không ai khác hơn là anh chàng cựu vô địch nhảy sào Biăng, cao 1 mét 90, nhưng chỉ nặng không tới 38 kilô. Sau đó, Uynmơ đặt anh chàng hình nhân ngồi trên ghế. Rồi hình nhân Biăng bắt đầu phát biểu với cử tọa như sau:

“Thưa các bạn, hôm nay tôi vui mừng được mời đến đây tham dự hội nghị các huấn luyện viên và các nhà vô địch. Ôi ! Tôi cầu xin Chúa để những gì xảy đến cho tôi sẽ không bao giờ xảy đến cho bất cứ người nào trong các bạn. Tôi cầu xin để các bạn không bao giờ phải nếm mùi nhục nhã hổ thẹn vì không thể tự làm lấy các việc của một người bình thường như ăn uống, vệ sinh, đi lại… Ôi ! Tôi cầu xin Chúa để các bạn sẽ không bao giờ phải nếm mùi thương đau mà tôi đang phải chịu đựng từng ngày. Trừ phi, đó là điều cần thiết để giúp các bạn chấp nhận Thiên Chúa là trọng tâm cuộc đời của các bạn giống như hoàn cảnh của tôi hôm nay”.

Những lời của Biăng đã gây chấn động mạnh nơi cử tọa đang hiện diện trong hội trường. Ai nấy đều xúc động và cảm thông với một tài năng đã sớm lụi tàn. Nhưng đồng thời cũng khâm phục về một con người tuy tàn nhưng không phế. Anh đã dành những hơi sức còn lại để làm chứng cho tình yêu của mình vào Đức Kitô.

- Suy nghĩ: Phải làm gì để làm chứng cho Đức Giê-su ?

+ Làm chứng cho Đức Kitô trước hết là thuật lại cho người khác biết về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này ai cũng có thể làm được !

+ Làm chứng cho Đức Giêsu là khẳng định rằng Đức Giêsu đã sống lại từ trong cõi chết như Maria Mácđala và một số phụ nữ viếng mồ Người đã làm. Nhưng thực tế cho thấy lời chứng ấy đã không đem lại kết quả bao nhiêu (x. Lc 24,8-11).

+ Làm chứng cho Đức Giêsu là dùng chính cuộc sống đã được đổi mới của mình để chứng tỏ quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh đã tác động và biến đổi chúng ta nên mới cách lạ lùng. Đó là điều mà Biăng đã làm trong câu chuyện trên.

+ Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người ngỏ lời với tha nhân qua con người đã được đổi mới của chúng ta. Là làm chứng rằng Đức Giêsu vẫn đang sống và hiện diện cụ thể nơi bản thân mình, và ta phải chia sẻ sự xác tín, niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được tông đồ Phêrô và nhóm mười một tông đồ áp dụng. Nhờ được Thánh Thần biến đổi nên Phêrô đã rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của Phêrô đã có kết quả là 3 ngàn người xin theo đạo (x. Cv 2,1-41).

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giêsu là sẵn sàng chịu chết vì đức tin, chứ không chịu bỏ đạo bước qua thập giá để được thả. Do đó, các vị tử đạo được gọi là các chứng nhân Đức Giêsu. Téc-tuy-li-a-nô nói: “Máu của các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh ra các Kitô hữu”.

Vậy mỗi tín hữu chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu ?

2) Hãy đi rao giảng Tin Mừng:

- Câu chuyện: Bác tài xế Tắc xi làm tông đồ:  Web

Có một vị linh mục, sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về, đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một tài xế tắc xi như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy hàng chữ như sau:

“Bạn có thể tìm thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”.

Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy độ một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân công giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường như thế nào…

Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế, cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:

- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không ?

- Ồ có chứ ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn cầm mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc các sách do bác giới thiệu ?

- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời !

*****

 Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau:

“Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn Thượng Lộ Bình An”.

- Suy nghĩ và quyết tâm: Bạn nhận xét thế nào về phương cách tặng sách truyện tranh ảnh Kinh Thánh, truyện của các thánh và những truyện sống đức tin trong đời thường của bác tài xế tắc xi trong câu chuyện trên ? Bạn sẽ chọn cách truyền giảng Tin Mừng nào đối với bạn học cùng trường hay cùng làm trong một cơ quan xí nghiệp hay nhà máy ?

Hiệp sống nguyện cầu

1) Lạy Chúa Giêsu, Hầu như trong mọi lần hiện ra, Chúa cũng đều dùng Kinh Thánh để giúp các môn đệ hiểu biết Thánh Ý Chúa Cha, giải thích cho các ông về mầu nhiệm “vào vinh quang ngang qua đau khổ”. Đồng thời cũng chứng minh Chúa đã thực sự sống lại đúng như các ngôn sứ đã tiên báo. Xin Chúa giúp chúng con hiểu biết giá trị của Kinh Thánh, hầu trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, chúng con biết tìm ra Thánh Ý Chúa. Xin cho chúng con siêng năng hiệp sống Lời Chúa, cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, chúng con sẽ ngày một sống tử tế tốt lành hơn và làm đẹp lòng Chúa hơn.

X).Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2) Lạy Mẹ Maria. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin của các tông đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh, ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại đòi họ phải làm chứng nhân cho Người. Xin Mẹ giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa, bằng việc sám hối và xa lánh dịp tội, làm nhiều việc lành như chia sẻ cơm áo tiền bạc cho những người nghèo, thăm viếng những người đau liệt… để chúng con nên nhân chứng tình thương của Chúa Giêsu.

X) Hiệp cùng mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

------------------------------------

 

PS3-B14. Chính anh em là chứng nhân - Huyền Đồng


Chúa Nhật 3 Phục Sinh = Third Sunday of Easter

Lời Chúa cho hôm nay: Chính anh em là chứng nhân

* You are witnesses of these things *

 

Diễn từ của thánh Phêrô cho người Do Thái: Giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết. PS3 B-14


* Bài đọc 1: Cvụ 3, 13- 15; 17- 19= Diễn từ của thánh Phêrô cho người Do Thái: Giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết.

The speech of St. Peter to the Jewish poeple: “I know you acted out of ignorance.

* Bài đọc 2: 1 Ga. 2, 1- 5= Tuân giữ giới răn của Chúa: Cách ta nhận biết Thiên Chúa là ta giữ các điều răn của Ngài.

Keep His commandments: The way we can be sure of our knowledge of God is to keep His commandments.

* Bài Tin Mừng (Gospel): Luca 24, 35- 48= Sự hiểu biết Kinh Thánh: Đức Giêsu đã mở trí cho các môn đệ hiểu biết Kinh Thánh.

Understanding the Scriptures: Jesus opened the minds of disciples to understanding of the Scriptures.

A. Bạn và tôi Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )

1/ Bài Tin mừng kể khi Đức Giêsu hiện ra với các tông đồ: “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng".? Theo bản tính con người bình thường, tôi vẫn cảm thấy sợ sệt và thiếu niềm tin trong cuộc sống. Nhưng nếu có sự cầu nguyện và đợi chờ tôi không còn sợ sệt và hoài nghi. Những biến cố xảy đến tôi làm gì? Kể một chứng từ cụ thể tôi đã gặp.

They thought...seeing a ghost. He said to them: Why are you disturbed? Why...ideas cross your mind? ( Lc. 24, 37- 38 )

2/ Đức Giêsu chỉ bảo các cho các Tông đồ như sau: “Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh...và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân...” Hôm nay, Đức Kitô vẫn khai mở cho bạn qua các lớp học hỏi Kinh Thánh, qua các bài giảng, học hỏi, tĩnh tâm...Chúa vẫn mời gọi các tín hữu đem Lời Chúa đến mọi người. Bạn đã quan tâm đến Kinh Thánh thế nào? Hãy đưa ra một việc đang làm cho gia đình.

He opened their minds to understand the Scripture...would be preached in His nameto all the nations... ( Lc. 24, 45- 47 )

3/ Trong bài giảng, thánh Phêrô đã nói với người Do Thái: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết...” Xưa kia, họ đã giết Đức Giêsu vì không biết Người là Đấng Mêsi-a, họ hành động vì mù quáng, thành kiến. Tôi đã biết Người thế nào? Nói lên vài hành động chứng tỏ tôi biết Ngài.

Now I know, brothers, that you acted out of ignorance, just as your leaders did. (Cvụ 3, 17 )

4/ Thánh Gioan đã khuyên trong bài đọc 2: thứ nhất là đừng phạm tội, thứ hai là tuân giữ các giới răn, nhat là Bác ái: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người đó là kẻ nói dối...” Bạn biết Chúa thế nào ? Tại sao bạn chưa chịu giữ giới răn Người? Dẫn chứng một việc làm cho tha nhân.

The man who claims: “I have known Him, without keeping His commandments, is a liar... (1 Ga. 2, 4 )

B. Câu Kinh Thánh đánh động tôi Sống Lời Chúa dạy tuần này: ( The Best GodỴs Word )

Chính anh em là chứng nhân của những điều này. ( Lc. 24, 48

You are witnesses of these things

C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để rao giảng Chúa cho anh em: ( So what am I doing / For action )

1/ Tôi có thể chọn trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.

2/ Bạn có thể tham gia một chương trình giúp người nghèo Việt-Nam hay Liên Đoàn Công giáo Hoa kỳ.

D. Bạn dựa vào Lời Chúa để cầu xin và Sống lời mình cầu nguyện: ( I pray and practice / Pray in Action)

a/ Lạy Cha, Đức Kitô đã khai mở cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh và phải nhân danh Chúa mà rao giảng cho muôn dân. Xin Cha dạy cho con biết đem Tin Mừng cho mọi người bằng đời sống chứng nhân.

b/ Thánh Gioan đã khuyên dạy con: Ai nói rằng mình biết Chúa mà không tuân giữ giới răn của Người là kẻ nói dối. Xin giúp con thực hành các điều răn của Chúa bằng những việc làm cụ thể cho nghèo khổ.

Hoa thơm cỏ lạ: Chúa dẫn dắt tôi qua Lời Ngài, để biết được ý muốn Ngài.  God has directed me through His Word, to know His will

Huyền Đồng

------------------------------------

 

PS3-B15. Bình an cho các con - Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

 

Ngày Con Thiên Chúa giáng sinh, các thiên thần hân hoan reo ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên: PS3 B-15


Ngày Con Thiên Chúa giáng sinh, các thiên thần hân hoan reo ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Và hôm nay, Con Thiên Chúa phục sinh, niềm bình an đến trên nhân loại, không còn do thiên thần báo tin nữa, nhưng đã trở nên lớn lao và quan trọng: Chính Ịấng Phục sinh trực tiếp trao ban. Trong các lần hiện ra cùng các môn đệ, lời đầu tiên của Chúa Giêsu Phục Sinh luôn luôn là lời chúc bình an. Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng: Trong khi các môn đệ còn bán tín, bán nghi về những lần những người trong nhóm họ nói là đã thấy Chúa Phục sinh, thì chính Người, Ịấng Phục Sinh ấy, bỗng dưng xuất hiện giữa họ. Lại một lần nữa, Chúa lên tiếng trớc hết: “Bình anh cho các con”.

Bình an, điều mà trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã từng rao giảng - Bằng chứng là trong Tám mối Phúc thật, thì Phúc thứ Bảy nói đến hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Hay ở một chỗ khác: “Thầy ban BÌNH AN CỦA THẦY cho các con. Thầy ban KHÔNG NHƯ THẾ GIAN ban tặng” (Ga 14, 27). Và còn nhiều những lần như thế.

Bình an có tầm mức quan trọng là thế. Không phải chỉ chờ đến lúc Chúa Giêsu nói, ta mới biết. Nhưng trong kinh nghiệm cuộc sống của từng người, ai mà không cảm nhận sự cần thiết vô cùng của sự bình an. Vậy mà có lần Chúa lại nói những điều xem ra rất khó nghe, rất chướng tai: “Ịừng tưởng Ta đến đem bình an cho trái đất. Ta đến không phải để đem bình an nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10, 34). Hóa ra, Chúa Giêsu tự mình mâu thuẫn với chính mình? Hay ở một khía cạnh khác, mang tầm mức xã hội hơn, rõ ràng Chúa Giêsu là một người hiếu chiến? Và nếu thế thì Chúa Giêsu là tay thực dân, là tên xâm lược, giống như thời nay vẫn xảy ra? Ịúng như thế hay ta còn phải hiểu thế nào về Lời của Chúa?

Từ cuộc sống của chính Chúa Giêsu, ta dám khẳng định một điều: Người không hề có bất cứ một mảy may mâu thuẫn nào dù là lời nói hay hành động! Trong đời giảng dạy- ba năm trường- Chúa Giêsu không dùng gươm giáo, không kêu gọi lật đổ chính quyền thực dân lúc đó. Người cũng không xâm chiếm lãnh thổ của ai, không cướp đất dành ranh giới của người nào. Nói cho cùng: Chúa Giêsu là người mang lại phúc cho đời, trước sau gì bản thân Người cũng vẫn là Phúc thật lớn nhất của nhân loại mà thôi.

Chẳng những không mâu thuẫn, dù lời của Chúa Giêsu có lẽ gay gắt, nhưng rất đúng: Vì chính Tin Mừng “bình an” này, chính mối Phúc thật thứ Bảy này gây nhiều xáo trộn, nhiều chia rẻ.

Trước hết cho chính bản thân: có ai muốn sống Lời Chúa, muốn chu toàn lề luật mà không bị giằn co, không phải chiến đấu với bản thân. Nhất là những lần đối diện với cám dỗ, với chính con người đầy yếu đuối, bất toàn của mình. Có ai sống Lời Chúa mà không thoát khỏi những lúc phải từ bỏ chính bản thân, hay phải chết đi cho những đam mê, cho khoái lạc, dục vọng thấp hèn& Và khi vượt qua để chiến thắng những gì là chưa tốt như thế, cũng có nghĩa là ta đã sống Lời Chúa. Chính lúc ấy, hơn ai hết, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận bình an, cảm nhận niềm vui chan chứa trong tâm hồn và trong từng ngày sống của ta.

Ịó là nơi bản thân. Trong tương quan với anh chị em, Lời Chúa có thể làm ta rơi vào sự thù oán, hay ít là ghen ghét, khi ta không cùng a dua, không “cùng hội cùng thuyền” với những người sống thiếu lương thiện, sống mà không kể gì đến Thiên Chúa. Từ ngàn xưa, Sách tiên tri Giêrêmia đã cho ta những bài học quí giá về một cuộc sống thiếu bình an khi phải sống Lời Chúa, khi phải giữ trọn lề luật của Người. Ta hãy nghe Giêrêmia tâm sự: “Kẻ gian ác nói: _Hãy đến đây, ta cùng nhau bàn mưu tính kế hại Giêrêmia. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết, thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo. Ịến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nóỴ” (Gr 18, 18). Vì phải sống và loan báo Lời Chúa, nhà tiên tri bị người đời ghét bỏ, chống đối, và thù hận đến mức có những lúc ông đau khổ một cách tuyện vọng, chỉ còn biết than thân trách phận: “Thật đáng nguyền rủa ngày tôi được sinh ra. Ngày mẹ tôi sinh ra tôi không đáng được chúc lành. Tại sao tôi lại không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi, và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi? Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải chăng chỉ để thấy toàn gian khổ buồn sầu, và thấy cuộc đời qua đi trong tủi hổ” (Gr 21, 14. 17 - 18).

Ịó là số phận của những người ngay lành, những người chỉ biết lấy Lời Chúa làm lẽ sống cho mình. Ịúng như Chúa đã nói: “Ta đến không phải đem bình an, nhưng đem gươm giáo”. Bởi thế bình an mà Ịấng Phục Sinh trao ban chỉ có thể là bình an của những người biết phó thác cuộc đời mình cho Chúa. Chỉ có phó thác, chỉ có đặt tất cả cuộc đời, tất cả lòng tin và sự sống trong tay Chúa, ta mới có bình an thật trong tâm hồn của mình, dẫu trên thân xác ta đầy vết tích, cuộc đời ta đầy thử thách, đường đời ta đi đầy chông gai.

Chúa Kitô đã chẳng phải như thế sao, khi chính Người đã bị cuộc đời vùi giập? Dẫu là đau đớn đến cùng cực, dẫu là cái chết bầm da, xé thịt, hay mọi đắng cay nhục nhã và ê chề đến đâu đi nữa, Chúa Giêsu vẫn một lòng phó thác chính bản thân Người cho thánh ý Chúa Cha, cho tình yêu của Chúa Chca. Lúc mà trên thân thể hằn lên nỗi đau bao nhiêu là chính lúc nhờ sự phó thác, Chúa Giêsu lại càng có được bình an tận tâm hồn bấy nhiêu.

Ta hãy xin Chúa ban bình an cho ta, không phải thứ bình an trên thân xác, càng không phải bình an do của cải, quyền thế, danh giá& mang lại, nhưng là bình an của tâm hồn để trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh của đời người, ơn bình an ấy sẽ giúp ta càng thánh thiện, càng trung thành với Chúa hơn, dẫu là lúc ta vui hay buồn, sướng hay khổ, dẫu làhoàng cảnh nào đi nữa.

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

-----------------------

 

PS3-B16. Anh em hãy đi rao giảng - Phan Hữu Lộc


Cv 3,11-26; 1 Ga 2,1-5a; Lc 24:35-48
Anh Em Hãy Đi Rao Giảng

 

Chương 24 là chương cuối cùng về Sách Tin Mừng của thánh Luca, nên người viết rất cẩn thận: PS3 B-16


Chương 24 là chương cuối cùng về Sách Tin Mừng của thánh Luca, nên người viết rất cẩn thận và như thu tóm cuộc đời và sứ mệnh của Chúa; vì thế cũng sẽ là sứ mệnh của các tông đồ về sau.

Nhưng Chúa Giêsu sống lại và sắp về trời rồi mà môn đệ thì đang còn sợ hãi, cửa đóng then cài (Ga 20:19), sau khi chôn cất Chúa. Đến nỗi khi Chúa Phục sinh hiện ra thì ỡcác ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy maữ (Lc 24:37) khi Chúa mở lời chào ỡBình an cho anh emữ (c.36) Lời chào trấn an, và cũng để cho các ông tin thật người đã sống lại, đã đến và nói chuyện với các ông, vì ỡsao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?ữ (câu 38)

Thánh Luca như che đỡ cho các ông, nên đã viết: ỡvì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ ngàngữ (c.41). Chúa một phen nữa, lại hỏi các ông có gì ăn không? Các ông đưa cho một khúc cá nướng (thực tế thay!) thì Chúa đã cầm ăn trước mặt các ông để cho thấy người có da có thịt, nên mới ăn uống như thế!
Nhưng chính những con người yếu hèn, kém lòng tin và quá vật chất như thế, mà Chúa đã nhắc đến sứ mạng của Đấng cứu chuộc muôn dân, như lời kinh thánh đã chép, và rồi cũng là sứ mạng của các ông: ỡĐấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính ANH EM là CHỨNG NHÂN của những điều này.ữ (c.46-48)

Nhưng Chúa nhắc nhở là tự sức anh em, anh em sẽ không làm nên trò trống gì, nên Người tiếp: ỡVà này đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha của Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuốngữ (Lc c.46-49).

Điều hứa đó đã thực hiện vào ngày lễ Ngũ Tuần nói trong Công vụ. Và một khi nhận được ơn Thánh Thần, những con người mộc mạc, yếu đuối tội lỗi ấy &đã trở nên những tông đồ nhiệt thành, hăng say rao giảng Nước Trời. Ngay bài giảng đầu tiên sau đó của ông Phêrô đã là một phép lạ: ỡAnh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần (...) Vậy, những ai đã đón nhận lời ông (Phêrô) đều chịu phép Rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng 3.000 người theo đạoữ (Cv 2:38,41)

Chúa Giêsu đã muốn nói lên cho ta biết Giáo hội Người lập, các Tông đồ kế vị Người để rao giảng không phải do tài đức loài người, do vũ khí sức mạnh trần gian mà vì các ngài được Thánh Thần hướng dẫn, có lòng tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Vì thế, lịch sử trần gian Giáo hội có những giai đoạn đen tối, đau lòng; có những Giáo hoàng, những giáo sĩ sa-sút, đôi khi sống không xứng đáng thiên chức của mình, nhưng Giáo hội luôn luôn được sức mạnh của Thánh Thần hướng dẫn, nên Hội thánh vẫn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống thiêng liêng để nối tiếp đức Kitô trong việc cứu rỗi loài người. Bài giảng đầu tiên của ông Phêrô nhắc đến trên đã là tiêu biểu.

Vì đức Kitô đã sống lại, đã thắng sự tội và sự chết và đã về trời, đem lại sự sống đời đời cho ai tin vào Thiên Chúa qua Giáo hội và qua các đấng kế vị của Người. Cho nên thánh Luca đã kết thúc Chương cuối cùng này bằng việc Chúa thăng thiên và các tông đồ bái lạy thần phục Người, rồi lòng hoan hỷ trở về Giêrusalem khởi sự cuộc đời rao giảng Tin Mừng cứu rỗi từ đó lan ra cho đến tận cùng trái đất!
 Phan Hữu Lộc

-----------------------

 

PS3-B17.  Đường lối của Thiên Chúa - Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

 

Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh mời chúng ta đọc lại và suy niệm những bài Thánh: PS3 B-17


Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh mời chúng ta đọc lại và suy niệm những bài Thánh Kinh liên quan tới Đấng Phục Sinh. Ngoài lời chứng của Tông đồ Phêrô và Gioan, chúng ta còn có lời chứng của các tông đồ và môn đệ khác nữa. Mục đích đầu tiên là để củng cố và tăng cường niềm tin của chúng ta. Mục đích kế tiếp là để chúng ta am hiểu đường lối của Thiên Chúa. Đường lối ấy không dễ hiểu chút nào, vì thường trái ngược với cách nghĩ cách làm của chúng ta. Và mục đích sau cùng là để chúng ta làm chứng cho Đấng Phục Sinh nhằm thuyết phục loài người tin vào Người như chúng ta. Đó chính là sứ điệp của Lời Chúa gửi đến cho chúng ta khi cử hành Phụng vụ hôm nay:

I. Lắng nghe Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Cv 3, 13-15.17-19
2. Bài đọc 2: 1 Ga 2,1-5a.
3. Bài Tin Mừng: Lc 24,35-48.

II. Tìm hiểu Lời Chúa

1. Bài đọc 1: Cv 3,13-15.17-19: Là lời chứng chân tình và tha thiết của Phêrô nói với đồng bào Ítraen ruột thịt của mình: Thiên Chúa của các Tổ Phụ đã tôn vinh Đức Giêsu là Tôi Trung của Người, bằng cách làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết, đúng như kế hoạch đã được hoạch định từ trước và đã được các ngôn sứ nhắc nhở nhiều lần. Phêrô đứng ra làm chứng về điều quan trọng ấy. Ông kêu gọi đồng bào sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa bằng cách nhìn nhận tội lỗi và tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.

2. Bài đọc 2: 1 Ga 2,1-5a: Gioan muốn các tín hữu thân yêu của mình hiểu ý nghĩa cao cả của cuộc Khổ Nạn Phục Sinh của Đức Giêsu: Nhờ chịu thương khó và chịu chết trên thập giá mà Đức Giêsu đã trở nên của lễ đền tội cho cả thế giới. Nhờ đó Người trở thành Đấng Bảo Trợ vô cùng “thần thế” cho các tội nhân là chúng ta, trước mặt Thiên Chúa Cha.

3. Bài Tin Mừng: Lc 24,35-48: Là tường thuật của Luca về cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh, liền ngay sau biến cố Emmau (Lc 24,13-34). Các chi tiết của cuộc hiện ra này cũng giống như trong bài Tin Mừng CN II Phục Sinh: Đức Giêsu cho các môn đệ thấy các dấu tích của cuộc Thương Khó còn in trên thân xác Người. Người còn đề nghị các ông đưa cho Người một món ăn để Người ăn trước mặt các ông, để các ông tin rằng chính là Người chứ không phải là ma quái hiện hình. Vẫn nét tinh tế đầy yêu thương của Đấng Phục Sinh mà chúng ta đã suy niệm tuần trước. Còn cái riêng của tường thuật Luca hôm nay là việc các Tông đồ được Đức Giêsu Phục Sinh mở trí để hiểu Thánh Kinh, cụ thể là hiểu cách hành động tức đường lối của Thiên Chúa: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”. Các tông đồ cũng được Đức Giêsu Phục Sinh mở trí để hiểu vai trò của mình: “Anh em là chứng nhân về các điều này” nên “phải nhân Danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” Và đó cũng là đường lối của Thiên Chúa.

4. Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay: Đi vào đường lối của Thiên Chúa

4.1 Đường lối của Thiên Chúa là: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”

Mãi mãi cuộc Thương Khó và Khổ Nạn thập giá của Đức Giêsu vẫn là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Dù chúng ta có nghiên cứu sâu sắc về bối cảnh lịch sử thời năm 30-33 Công nguyên để tìm ra các nguyên nhân xã hội-chính trị-tôn giáo đã khiến người Do Thái (hay đúng hơn là giới lãnh đạo Do Thái) cấu kết, đồng lõa với ngoại quyền (ngoại hiểu theo nghĩa kép: ngoại bang và ngoại đạo) để giết hại Đức Giêsu, thì chúng ta vẫn không hiểu được tại sao Thiên Chúa lại đặt Con Một Người vào trong hoàn cảnh như vậy. Trên lý thuyết mà nói, Thiên Chúa có thể cứu độ chúng sinh mà không cần phải mất mát nhiều như thế! Đúng là sự điên rồ của một Thiên Chúa mà bản chất là Tình Yêu. Chính vì thế mà nhà thần học người Đức, J. Moltmann đã viết trong cuốn Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá (Dieu cruxifié) rằng thập giá có ý nghĩa đối với Thiên Chúa trước, rồi mới có ý nghĩa đối với nhân loại sau.

Đối với Thiên Chúa thì thập giá là một mạc khải quan trọng nhất về Tình Yêu điên khùng của Thiên Chúa toàn trí, toàn năng, toàn ái. Còn đối với nhân loại thì thập giá có ý nghĩa là mọi người -dù tội lỗi đến đâu- đã được Thiên Chúa yêu thương và tha thứ trong Đức Giêsu Con Một Người, Đấng đã bị treo và chết trên cây thập giá như một người bị Thiên Chúa ruồng bỏ, chúc dữ và loài người nguyền rủa, loại trừ. Đó là con đường của Thiên Chúa đối với Con Yêu Dấu cũng như đối với kế hoạch cứu độ trần gian của Người. Điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta ở đây chắc không phải là chúng ta thấu hiểu được con đường hẹp này của Người (vì chúng ta không thể hiểu nổi) mà là chúng ta đón nhận con đường ấy như một lời mời, như một gợi ý. Nếu chúng ta đáp lại lời mời ấy và theo gợi ý ấy của Thiên Chúa thì chúng ta sẽ liên kết cuộc sống, cách sống của chúng ta với cuộc sống, cách sống của Đấng đã đi vào con đường thập giá ấy. Đó là con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho Con Một và cho tất cả mọi người con của Người là chúng ta.

4.2 Đường lối của Thiên Chúa còn là: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân&vì anh em là chứng nhân về các điều ấy”

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay còn là một trọng trách, mo vụ mà Đức Giêsu Kitô Phục Sinh đã giao cho các môn đệ và chúng ta. Trọng trách đó là làm chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô Chết trên Thập giá và Phục Sinh. Vì thế chúng ta phải rao giảng cho muôn dân Tình Yêu, Ơn Cứu độ và Đường lối Cứu độ của Thiên Chúa. Điều quan trọng nhất mà Thiên Chúa đòi hỏi ở mọi người là Lòng Sám hối. Nếu chúng ta đã sát hại Chúa như người Do Thái và cha ông họ, thì sám hối là chúng ta ăn năn hối hận về việc đã làm và từ bỏ tội lỗi, nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa. Nếu chúng ta không sát hại Chúa nhưng chỉ thờ ơ, không biết, không nhận Chúa thì sám hối là chúng ta đến với Chúa, đón nhận Chúa làm Vị Cứu Tinh của chúng ta.

Có thể nói việc Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh giao trọng trách hay sứ vụ chứng nhân cho chúng ta cũng chính là đường lối của Thiên Chúa đối với chúng ta. Để tham dự vào Sự Sống Thần Linh và Vĩnh Hằng của Thiên Chúa và giúp người khác được hạnh phúc như chúng ta, chúng ta không có cách nào khác mà chỉ có cách là đi vào đường lối của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ gặp phải sự ươn lười, nhát gan, vụng về, bất tài nơi ban thân mình khiến chúng ta ngần ngại thực thi việc làm chứng. Chúng ta sẽ gặp phải những gương mặt lạnh lùng, ác cảm, không tin, từ chối & nơi những người chúng ta muốn tiếp cận để chia sẻ Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả những khó khăn chủ quan và khách quan ấy sẽ khiến chúng ta chui vào vỏ ốc -và trên thật tế rất nhiều Kitô hữu sống trong vỏ ốc- không quan tâm đến việc sứ vụ làm chứng của mình, không muốn nghe lệnh truyền của Đấng Phục Sinh. Đó là nguyên nhân giải thích tại sao việc Truyền Giáo trên quê hương Việt Nam chúng ta chậm như vậy. Trong đầu óc của đại đa số giáo dân, việc giới thiệu Đức Giêsu Kitô, Giáo lý và Giáo hội của Người cho bà con lương dân là đồng bào ruột thịt của mình vẫn là việc riêng của các ông cha bà phước hay của những người có thời gian rảnh rỗi. Chúng ta còn đang sống dư âm của Đêm Thánh Vọng Phục Sinh với việc rửa tội các tân tòng, với việc nhắc lại lời hứa khi chịu Phép Thánh Tẩy. Nhưng chúng ta quên rất nhanh ý nghĩa của hai sự kiện quan trọng ấy. Chúng ta thử nhìn lại xem các giáo xứ chúng ta đã dành bao nhiêu quan tâm, chăm sóc, giáo dục, hướng dẫn, giúp đỡ cho các dự tòng và các tân tòng? Chúng ta có dám đặt ra một định mức, một chỉ tiêu số người trở lại cho giáo xứ, giáo phận của chúng ta từ Phục Sinh 2003 này đến Phục Sinh năm 2004 không? Tại sao không? Giáo phận Phan Thiết đang thực hiện điều này! Tại sao các giáo phận khác không bắt chước?

III. Sống Lời Chúa

Tôi sẽ quan tâm tận dụng mọi cơ hội tự nhiên mà Chúa Quan Phòng ban cho để tiếp xúc, gặp gỡ, chuyện trò, kết thân với người không công giáo. Tôi cũng sẽ quan tâm đến việc học hỏi tìm hiểu về sứ vụ làm chứng và cầu nguyện, góp sức, góp của vào công cuộc Truyền Giáo của Giáo hội Việt Nam nói chung và Giáo xứ của tôi nói riêng.

IV. Cầu nguyện với Lời Chúa

Lạy Thiên Chúa Cha toàn trí, toàn năng, toàn ái, chúng con cảm tạ Cha về Tình Yêu điên rồ của Cha trong kế hoạch cứu độ loài người. Xin Cha cho chúng con Ơn hiệp thông với Đức Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, Đấng đã vì vâng lời Cha và yêu thương con người, vui vẻ đi vào con đường thập giá là con đường hy sinh từ bỏ tột cùng.

Lạy Thiên Chúa Cha toàn trí, toàn năng, toàn ái, chúng con cảm tạ Cha về sứ vụ làm chứng cho Con Cha, Chúa chúng con mà Người đã giao cho chúng con. Xin Cha ban cho chúng con các ơn sức mạnh, hiểu biết, khôn ngoan, dũng cảm để chúng con chu toàn sứ sụ đã nhận.

Lạy Thiên Chúa Cha toàn trí, toàn năng, toàn ái, chúng con cảm tạ Cha về Tình Yêu và Ơn Cứu độ mà Cha dành cho hết mọi người, nhất là cho những ai chưa nhận biết, tin thờ Cha. Xin Cha ban cho anh chị em lương dân cơ hội gặp gỡ, khám phá Cha qua những con cái của Cha.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 

---------------------------

 

PS3-B18. SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KI-TÔ TRONG ĐỜI TA


1. Đức Giê-su mời gọi ta cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài

 

Sau khi sống lại, Đức Giê-su hiện ra trước mắt các môn đệ, điều đó khiến các ông kinh ngạc, sợ hãi và: PS3 B-18


Sau khi sống lại, Đức Giê-su hiện ra trước mắt các môn đệ, điều đó khiến các ông kinh ngạc, sợ hãi và không dám tin vào mắt mình nữa. Nhưng Đức Giê-su trấn an các ông và chứng tỏ Ngài hiện diện thật sự, bằng thân xác cụ thể chứ không phải bằng hình bóng theo kiểu một bóng ma. Ngài chứng tỏ điều ấy bằng cách cầm lấy và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông. (Lc 24,35-48)

Hiện nay, Đức Giê-su đang thật sự hiện diện và hoạt động ngay trong bản thân chúng ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta – cũng giống như các Tông Đồ xưa – không dám tin vào điều ấy. Nếu có tin thì cũng chỉ tin rằng Ngài hiện diện một cách tượng trưng, bằng hình bóng của Ngài thôi. Nhưng hãy nghe Ngài nói: “Sao lòng anh em còn ngờ vực ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” – Ngài mời gọi chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện đích thực của Ngài bên trong chúng ta. Ngài mời chúng ta hướng vào bên trong để thấy Ngài nói và hoạt động trong bản thân chúng ta.

2.      Hiện nay, Đức Giê-su có ở với chúng ta không ? Ngài ở đâu ?

Trước khi chịu khổ nạn và tử hình thập giá, Đức Giê-su đã sống giữa các Tông Đồ, để dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, thêm sức cho các ông, một cách rất cụ thể, hữu hình hữu tướng, bằng thể chất. Nhưng sau khi sống lại, Ngài không còn hiện hữu theo kiểu cũ, không thường xuyên ở bên cạnh các ông một cách hữu hình nữa. Thân xác của Ngài là một thân xác vinh quang, thoạt hiện thoạt biến, chỉ ở bên cạnh các ông một cách hữu hình trong giây lát. Phải chăng cách hiện hữu này khiến Đức Giê-su và các ông xa cách nhau hơn ? Có phải sau khi về trời, Ngài không còn ở cùng các ông nữa không ?

Không phải vậy. Trước khi về Trời, nghĩa là trước khi thân xác Ngài vĩnh viễn rời khỏi các môn đệ, Ngài nói: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20 ). Trong bối cảnh thầy trò sắp chia tay nhau như thế mà Ngài lại nói vậy thì thật là mâu thuẫn và nghịch lý ! Đáng lẽ Ngài phải nói: “Thầy phải ra đi và không còn ở với anh em nữa cho đến tận thế. Hẹn gặp lại anh em vào ngày tận thế !” Có phải Ngài nói lộn, hay các thánh sử ghi sai lời Ngài ?

Chắc chắn không phải như vậy ! Tuy Ngài không hiện hữu bằng thân xác của Ngài, nhưng Ngài vẫn hiện hữu một cách thiêng liêng, bằng thần khí của Ngài, bên cạnh và bên trong chúng ta. Với cách hiện hữu này, Ngài có thể thân mật với chúng ta hơn, và chúng ta có thể gặp Ngài bất cứ lúc nào chúng ta muốn, một cách hết sức dễ dàng. Và Ngài vẫn có thể dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, ban bình an và sức mạnh cho chúng ta, miễn là chúng ta tin vững chắc sự hiện diện của Ngài bên trong chúng ta, thường xuyên ý thức và cảm nghiệm sự hiện diện ấy, đồng thời lắng nghe Ngài nói trong đáy lòng mình. Đây là một ý thức và khả năng mà bất kỳ người Ki-tô hữu nào cũng cần tập luyện. Và đây cũng là một bí quyết để có được bình an, sức mạnh và thăng tiến trong đời sống tâm linh.

3.      Phục sinh Đức Giê-su trong ý thức và nội tâm ta

Đức Giê-su hứa với chúng ta: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28,20 ). Ngài cũng nói với Chúa Cha: “Con ở trong họ và Cha ở trong con” ( Ga 17, 23 ). Thánh Phao-lô nhắc lại sự hiện diện ấy: “Chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người” ( Cl 3, 11 ); “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em” ( Gl 4, 6 ). Như vậy, theo lời Ngài đã hứa thì Ngài vẫn ở với và ở trong chúng ta. Nhưng sao chúng ta chẳng thấy Ngài hoạt động hay ảnh hưởng gì trên chúng ta, giống như xưa các tông đồ đã thấy Ngài hoạt động và ảnh hưởng trên các ông ?

Sự hiện diện của Ngài trong chúng ta có tính hoạt động và có khả năng biến đổi ta hay không, điều đó còn tùy thuộc vào ý thức và sự tự do cộng tác của ta nữa. Nếu chúng ta không tin hoặc không ý thức sự hiện diện của Ngài trong chúng ta, thì sự hiện diện ấy chỉ giống như sự hiện diện của xác Ngài trong nấm mồ: một thân xác vô hồn, bất động, không có khả năng gì cả.

Chính ý thức sống động của ta về sự hiện diện của Ngài trong bản thân ta làm cho Ngài sống lại trong ta và hoạt động hữu hiệu. Nếu ta không ý thức sự hiện diện ấy thì hãy coi chừng: ta chưa thật sự sống trong Đức Tin. Thánh Phao-lô yêu cầu ta kiểm điểm lại Đức Tin của mình: “Anh em hãy tự xét xem mình có còn sống trong Đức Tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem. Anh em chẳng nhận thấy có Đức Giê-su Ki-tô ở trong anh em sao ?” ( 2 Cr 13, 5 ).

Vì thế, để lời hứa của Ngài – là ở với chúng ta – trở nên hiện thực, chúng ta phải tập luyện ý thức thường xuyên sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình. Ngài hiện diện trong chúng ta bằng thần khí của Ngài, chứ không phải bằng thể chất. Hiện diện dù bằng thần khí hay bằng thể chất, đều là hiện diện thật sự. Và sự hiện diện ấy là một hiện diện hoạt động chứ không bất động. Nếu ta để Ngài tự do hoạt động trong chúng ta, nghĩa là không để hoạt động của Ngài bị hạn chế bởi ý riêng của ta, lúc đó, ta sẽ nói được như Thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).

Nói cụ thể hơn là: bất kỳ điều gì tôi làm ( suy nghĩ, ăn, nói, làm việc, đối xử, ngủ, nghỉ... ) đều không còn phải là bản thân tôi làm nữa, mà chính là Đức Giê-su làm trong tôi. Ý thức thường xuyên về sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình chính là tâm trạng cầu nguyện, là tình trạng kết hợp liên lỉ với Đức Giê-su. Thiết tưởng tất cả mọi Ki-tô hữu, nhất là những bậc hiến thân sống đời tu trì, đều được mời gọi tập luyện sự ý thức thường xuyên này.

4.      “Những gì... đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”

Khi chúng ta đã thường xuyên ý thức sự hiện diện hoạt động của Đức Giê-su trong bản thân ta, ta sẽ dần dần cảm nghiệm thấy “tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm” ngay trong bản thân chúng ta. Câu này cần được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm của tâm linh. Nghĩa là tất cả những lời hứa trực tiếp của Thiên Chúa với các Tổ Phụ, với Mô-sê ( đất hứa, sự sung túc, con cháu đầy đàn ), những lời hứa của Ngài đối với Dân Ngài qua các Ngôn Sứ, qua các lời Thánh Vịnh ( sự thái bình, thịnh vượng... ) đều được thực hiện tại thế ngay trong tâm hồn ta.

Lúc đó ta sẽ cảm nghiệm được thế nào là bình an và hạnh phúc siêu nhiên, một thứ bình an hạnh phúc không tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài, nên “không ai lấy mất được” ( Ga 16, 22 ). Lúc ấy Bát Phúc trong Bài Giảng Trên Núi của Đức Giê-su sẽ trở nên hiện thực và cụ thể trong tâm hồn ta. Đây là tình trạng hạnh phúc của tâm hồn mà những vị thánh thường xuyên kết hợp với Thiên Chúa luôn luôn cảm nghiệm được. Chính nhờ cảm nghiệm được thứ hạnh phúc này, mà các ngài luôn luôn vui tươi khi gặp gian lao thử thách. Hạnh phúc mà các ngài cảm nghiệm được này đã bù đắp cho các ngài tất cả những hy sinh mất mát mà các ngài tự nguyện chịu. Hạnh phúc ấy, bất kỳ Ki-tô hữu nào ý thức được sự hiện diện của Đức Giê-su trong tâm hồn mình, và hoàn toàn sống với ý thức ấy đều có thể cảm nghiệm được.

Lạy Cha, Đức Giê-su vẫn sống ở trong con, nhưng tâm trí của con không hề nghĩ đến Ngài, vì bận mải mê tìm kiếm những thứ ở bên ngoài. Điều đó đã làm cho sự hiện diện của Đức Giê-su trong con trở thành bất động, Ngài chẳng có thể làm được gì ích lợi cho con. Xin giúp con ý thức lại sự hiện diện của Ngài trong con, và thường xuyên sống với ý thức ấy, để làm cho Đức Giê-su trở thành sống động trong con, biến con trở nên một tâm hồn tốt đẹp và hạnh phúc.

Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT

---------------------------

 

PS3-B19. NGƯỜI NHÁT HƠN MA NHÁT !

 

Trong kho truyện hài dân gian được gán cho Trạng Quỳnh có kể rằng khi được hỏi vẽ cái gì khó: PS3 B-19


Trong kho truyện hài dân gian được gán cho Trạng Quỳnh có kể rằng khi được hỏi vẽ cái gì khó nhất, Trạng đáp: ”Vẽ người khó nhất”; còn khi được hỏi vẽ gì dễ nhất, thì Trạng đáp: ”Vẽ ma dễ nhất”. Và Trạng đã đưa ra lời giải thích: người thì ai ai cũng thấy, vì thế vẽ cho giống, cho thật đẹp và có thần, thì thật là khó; còn ma là thứ mà mọi người đều chỉ nghe đồn, nghe kể, mà chưa ai thấy bao giờ, vì vậy muốn vẽ thế nào cũng chẳng ai dám chê ! Theo dân gian, ma mặc áo trắng, có thể đi xuyên tường vì không xương không thịt và thường hiện ra về ban đêm.

Tất cả những điều ấy dường như hội tụ đầy đủ nơi “cái bóng” bỗng nhiên xuất hiện giữa các ông, khi mười một Tông Đồ và hai môn đệ đang tranh nhau thuật lại những việc Chúa Giê-su sống lại đã làm với họ. Thần hồn nhát thần tính: dù có số đông, các ông vẫn hoảng hốt kinh khiếp. Cái nhát đảm lây lan nhanh hơn cả ánh chớp. Người nhát vẫn luôn đáng sợ hơn ma nhát vì xét cho cùng, ”ma” là sản phẩm do trí tưởng tượng được vẽ vời thêu dệt từ con người và được con người dùng để hù doạ nhau. Một chi tiết hài hước: Chúa Giê-su buộc phải dùng lối suy luận liên tưởng bình dân nhất, mới trấn an được các môn đệ của Người: ”Ma làm gì có thịt có xương như Thầy”.

Có khi nào chúng ta suy gẫm và giật mình khi thấy rằng: Cho tới ngày nay, sau hơn hai mươi thế kỷ, Chúa Giê-su Phục Sinh vẫn chỉ như lúc hiện ra hôm nay với các môn đệ, nghĩa là vẫn bị nhìn nhận như một bóng ma ? Và những người tiếp tay dùng bóng ma “Giê-su Sống Lại” như một nhãn mác, như một thương hiệu, để phô trương với tha nhân, lại là chính chúng ta, các Ki-tô hữu, những người cho rằng niềm tin của mình căn bản ở sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô ? Và vì thế, không chỉ những người chưa có Đức Tin, mà chính vợ chồng, con cái, người thân của chúng ta cũng tin Chúa sống lại, như tin sự hiện hữu của một... bóng ma: mơ hồ, đáng sợ, không ăn nhập gì với đời sống của con người, chẳng liên quan gì với sự cứu rỗi của nhân loại ?

Mà quả chẳng sai chút nào: với chúng ta, Chúa Giê-su vẫn là một người lạ, vẫn xa lạ, vẫn “ngàn trùng xa cách”, chỉ đủ để chúng ta “kính nhi viễn chi” và nói rằng: chúng ta tin có sự sống lại. Song niềm tin ấy cũng chẳng hơn bao nhiêu – nếu không muốn nói là có khi còn kém xa – so với niềm tin luân hồi ở các tôn giáo khác.

Nhiều lúc, mầu nhiệm Phục Sinh lại chỉ như một sự trấn an, để chúng ta không mang mặc cảm mình tin thờ một người thất bại, một người chết, dù người đó là Chúa Giê-su ! Lắm khi cách nghĩ, cách làm của chúng ta cho cảm tưởng dường như chúng ta thích duy trì tình trạng “bóng ma” hơn, bởi vì “một bóng ma” không gây phiền phức cho ai hết ! Nó giống như nếp nghĩ “ba phải” của không ít người Việt: “có thờ có thiêng, có kiêng có được” !

Người nhát hơn ma nhát ! Chúa Giê-su có làm những điều kỳ diệu, lạ lùng đến đâu đi nữa hoặc Giáo Hội có rao giảng đến rát hơi rát cổ, thì Chúa Giê-su vẫn là một bóng ma, vật vờ không được chờ đợi đón mời, nếu chính chúng ta vẫn không thấy phải đổi thay cuộc sống, đổi thay cách nghĩ, cách nói, cách làm ( và cả cách chết ) tốt đẹp hơn, cương quyết hơn, dấu chỉ của những người không chỉ tin tưởng, mà nắm chắc sự sống lại, bởi vì Đấng chúng ta đặt hết Tin Cậy Mến, chính là Đức Giê-su-Ki-tô, đã chiến thắng tử thần và vì tin cậy nơi Người, chúng ta cũng sẽ được sống lại vàđược sống đời đời.

Từ xác tín đó, chúng ta mới thấy hết bổn phận truyền giáo của mỗi Ki-tô hữu: làm sao để giới thiệu một Giê-su Ki-tô là Người Thật ( có xương có thịt ) và Thiên Chúa Thật ( đã sống lại hiển vinh ), để Chúa không bao giờ “chập chờn” như một bóng ma nữa. Nói “tin” ( kể cả thật sự “tin” ) không khó. Thể hiện niềm “tin” ấy bằng đời sống ( nghĩa là bằng hành động ), tức là tỏ cho mọi người thấy “Đức Tin bằng xương bằng thịt”, mới là điều cần thiết.

Nằm xen kẻ giữa Chúa Nhật LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG và Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH, những gì được nêu ra trong các bài đọc hôm nay, nhất là trong bài Tin Mừng, là những điều đòi buộc chúng ta phải nhận ra, phải xác tín và phải rao truyền: cho mọi người thấy lòng Chúa xót thương, để rồi tất cả sẽ quy tụ trong một đoàn chiên, trong một chuồng chiên, dưới sự yêu thương, gìn giữ, chăm sóc của một Chủ Chăn Nhân Lành, cũng là Cửa Cứu Rỗi duy nhất mà mọi con chiên phải đi qua. Thật khó cảm thông và tha thứ cho những tín hữu không thấy được lòng Chúa xót thương, không chia sẻ khát khao cứu rỗi muôn dân của Chúa Ki-tô và của Mẹ Hội Thánh, nhưng bằng cuộc sống của Người Dưng, của Kẻ Trộm, của Sói Dữ, ngăn cản anh em vào Chuồng Chiên của Mục Tử Nhân Lành !

 CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 150

---------------------------

 

PS3-B20. NIỀM TIN PHỤC SINH

 

Nối tiếp ý tưởng của Chúa Nhật tuần trước, các bài Kinh Thánh hôm nay đề cập đến quá trình: PS3 B-20


Nối tiếp ý tưởng của Chúa Nhật tuần trước, các bài Kinh Thánh hôm nay đề cập đến quá trình củng cố và phát triển niềm tin Phục Sinh.

Trong sách Tin Mừng Lu-ca, đoạn chúng ta vừa nghe tiếp vào câu chuyện Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra cho hai môn đệ làng Em-mau. Hai ông đã nhận ra Ngài khi cùng vào quán với Ngài và trông thấy Ngài bẻ bánh, trao cho các ông. Ngài vừa biến mất, hai ông vội trở lại Giê-ru-sa-lem cốt báo tin vui cho các Tông Đồ có lẽ chưa biết gì cả. Nhưng trước khi hai ông nói, các Tông Đồ kia đã lên tiếng trước, báo cho hai ông biết Đức Giê-su đã hiện ra cho Phê-rô, nghĩa là Ngài đã sống lại thật. Kế đó, hai ông mới thuật lại sự việc liên quan đến mình. Chính lúc đó, Đức Giê-su hiện đến. Vậy mà thật đáng ngạc nhiên, các Tông Đồ lại kinh hồn bạt vía, chẳng một ông nào hồ hởi vui mừng. Rõ ràng các ông vẫn chưa tin. Chúa thấy ngay hai nỗi khó của các Tông Đồ:

Một là khó tin có chuyện người chết sống lại. Có lẽ, cũng như nhiều người Á Đông chúng ta, người Do-thái và các Tông Đồ chỉ có một niềm tin lờ mờ về đời sau, họ quan niệm khi chết là con người đi vào kiếp khác, thỉnh thoảng hồn một số người chết hiện về. Tuyệt nhiên không bao giờ có người đã chết còn sống lại. Do đó khi Đức Giê-su hiện ra, các ông khiếp vía, chỉ tưởng đó là hồn của Ngài, hoặc đó là ma hiện. Để đánh tan nghi ngờ này của các ông, thuyết phục các ông và làm cho các ông tin, Ngài đã dùng những cách cụ thể: Ngài cho họ xem chân tay, xem thân mình bằng xương bằng thịt của Ngài và ăn thật sự trước mặt các ông.

Nhưng Ngài lại thấy nỗi khó thứ hai, các Tông Đồ chưa hiểu vì sao Ngài phải chịu thương khó rồi mới được Phục Sinh vinh quang, Ngài giải toả bằng cách nhắc lại các sách Cựu Ước, giúp các ông hiểu rằng suốt lịch sử Ít-ra-en, Thiên Chúa đã từng dày công dạy cho Dân Người đã tuyển chọn, biết con đường hy sinh, chịu gian khó, để được sống và đạt hạnh phúc. Chẳng hạn qua việc cho dân Ít-ra-en thấy giữ luật Người và trung thành với Giao Ước thì được hưởng bình an thịnh vượng, phản bội Giao Uớc, ưa sự thong dong, chiều theo các đam mê thì gặp khốn đốn hay bị lưu đầy, nhất là qua khuôn mặt của Người Tôi Tớ Thống Khổ, bị bắt bớ, phải ô nhục nhưng sẽ đạt vinh quang và thực thi Kế Hoạch Cứu Thế.

Vậy Chúa đã cố gắng đánh tan hai nỗi hoang mang nghi ngờ của các Tông Đồ và ân cần củng cố niềm tin Phục Sinh cho các ông.

Sở dĩ Ngài ân cần với các ông, chính vì Ngài ưu ái các ông, dành cho các ông một tình thương đặc biệt, và Ngài muốn sau khi vững tin, các ông sẽ trở nên những chứng nhân kiên cường, lên đường loan báo Tin Mừng, để tất cả nhân loại được biết Tin Mừng ấy và được cứu độ. Đó là mục tiêu chủ chốt Ngài nhắm. Có điều là khi hành động, Chúa tỏ ra dịu hiền, tế nhị, không rùm beng, không áp đặt, mà tôn trọng sự tự do phía các Tông Đồ cũng như phía mỗi người sau này.

Và ta thấy Chúa đã thành công: sau lúc đầu kinh hoàng nghi ngờ, các Tông Đồ đã tin thật và ít lâu sau, các ông được đầy Thánh Thần, sẽ hoàn toàn đổi thay: thánh Phê-rô mạnh dạn làm chứng và quả quyết: “Thiên Chúa đã tôn vinh Tôi Trung của Người“. Rồi cũng như Đức Giê-su Phục Sinh, Người sẽ giải thích cho những người dồng hương Do-thái hiểu đường lối lạ lùng của Thiên Chúa, từng khiến họ sai lầm, không nhận ra Đấng Thiên sai, còn ruồng rẫy Ngài và đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Nhờ tình thương của Chúa, niềm tin Phục Sinh được củng cố và được truyền đạt đến chúng ta.

Thái độ của chúng ta hôm nay trước hết là tạ ơn Chúa vì sự xác thực của Niềm Tin Phục Sinh. Nhờ Chúa hiện ra nhiều lần, mạc khải ngày càng rõ hơn và dùng nhiều cách thức chứng minh, thuyết phục, các thánh Tông Đồ đã đạt tới một đức tin vững vàng, có nền tảng chắc chắn. Do đó ta hãy tin vững, bám chắc Mầu nhiệm Phục Sinh. Rất nhiều người thời nay cho là niềm tin của ta có tính cách mê tín hoặc hoang đường, ta không việc gì khủng hoảng và mặc cảm. ta đã nhận lời chứng rõ ràng của các thánh Tông Đồ rồi. Phía ta cũng không lý luận theo lý sự của con người để nghi ngờ những tín điều trong Hội Thánh. đặt lại vấn đề về những điều mình đang tin. Trái lại, trước mọi chê bai, tấn công, thậm chí bách hại nếu có, ta hãy cứ vững như đồng trong niềm tin Phục Sinh.

Thái độ thứ hai là ta chấp nhận đường lối lạ lùng của Chúa đối với Hội Thánh hoặc đối với cá nhân ta. Khi hiện ra với các Tông Đồ, Chúa đã giúp các ông hiểu một điều khó chấp nhận là Ngài phải chịu thương khó và chết nhục nhã trên thập giá rồi mới được Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, nhiều lúc Hội Thánh bị chỉ trích, bị bắt bớ. Ta khó hiểu tại sao lại có sự kiện ấy. Hoặc trong đời ta, có khi Thiên Chúa cũng làm những điều khó hiểu, ví dụ gởi đến cho ta một cơn bệnh, một thất bại, một thua thiệt, ta khó chấp nhận rằng đó là những điều do Chúa an bài, và đó chính là những hồng ân Chúa ban. Rồi ta cũng khó chấp nhận anh chị em bên cạnh ta, những người ăn xin, những kẻ nghèo khó, lại chính là hiện thân của Chúa. Đó là những điều khó chấp nhận. Nhưng nhìn vào Chúa Giê-su, ta hãy hiểu cách hành động của Thiên Chúa, hãy nhớ lại Kinh Thánh và lịch sử Ít-ra-en, trong đó Thiên Chúa đã dạy con người suốt hàng ngàn năm trường, đã kiên trì giúp con người hiểu về con dường hẹp, đưa đến vinh quang, hiểu về tinh thần từ bỏ, khiêm nhường, hèn hạ, để ta bình tâm chấp nhận những điều khó hiểu do Thiên Chúa gởi đến.

Và cuối cùng, trong Năm Thánh Hóa Gia Đình, mỗi gia đình Công Giáo chúng ta hãy có chương trình và quyết tâm đọc và tìm hiểu Kinh thánh nhiều hơn, lắng nghe các bài Lời Chúa trong các Thánh Lễ một cách chú ý hơn, cũng như giúp mọi phần tử trong gia đình tập luyện tinh thần hãm mình, hy sinh, để hiểu về Chúa hiểu giá trị của đường lối và tinh thần Chúa và để nên chứng nhân cho Chúa trong thời đại ngày nay. Đó chính là cách chứng tỏ ta tin và sống mầu nhiệm Phục Sinh, ta hiểu và thể hiện tinh thần của Đấng Phục Sinh.

Lm. An-tôn TRẦN THẾ PHIỆT, DCCT

---------------------------

 

PS3-B21. Trở nên nhân chứng Đấng Phục Sinh


Lc 24, 35-48

Thưa quí vị,

 

Đời sống văn minh ngày nay với phản lực, nguyên tử, vi tính, xe hơi, nhà nhiều tầng, tàu hoả: PS3 B-21


Đời sống văn minh ngày nay với phản lực, nguyên tử, vi tính, xe hơi, nhà nhiều tầng, tàu hoả v.v& đã làm cho văn chương Kinh thánh trở nên lỗi thời, lạ lẫm. Các hình ảnh cổ xưa như thuyền gỗ bé xíu, bắt cá bằng tay, tung lưới, đi dép da cột dây, đường làng bụi bậm, nông dân vãi hạt, mục đồng lùa chiên gặm cỏ& chỉ còn thấy trong các nước chậm tiến, lạc hậu, gần như biến mất ở các nước tiên tiến. Cho nên độc giả tân thời khó mà hiểu hết nội dung của các câu truyện Phúc âm. Bước ra khỏi nhà là đã có xe hơi sang trọng đưa đón thì hiểu thế nào được phải đi bộ hàng trăm cây số? Mua bán bằng E-mail, vi tính thì hiểu thế nào việc gồng gánh? Thực phẩm, thịt cá, được sản xuất hàng tấn trong nháy mắt thì hiểu làm sao được các Tông đồ vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào? Tuy nhiên, có nhiều điểm vẫn chung cho dân bán khai và người tân thời. Đó là những lao khổ, lo lắng, vật lộn, yêu ghét, sống chết hàng ngày. Thuở xưa đã vậy, thời nay vẫn thế. Câu truyện Tin mừng Chúa nhật này nói rõ điều đó: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: Bình an cho anh em. Các ông kinh hồn, bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?” Trong các tình huống như vậy, cũng như người xưa, chúng ta tự hỏi: “Tại sao?”

Tôi nhất trí với thánh Luca khi ông ghi lại câu truyện các môn đệ nghi ngờ việc Chúa thật sự còn sống. Chính tôi cũng có nghi nan. Tin thế nào được mấy ông thuyền chài dốt nát, một chữ bẻ đôi không biết? Mấy mụ đàn bà còn ngu muội hơn? Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa ho, thánh nhân mô tả: “Các ông kinh hồn, bạt vía”. Phản ứng của tôi cũng y như thế, nếu tôi có mặt với họ. Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ đang gặp rắc rối khi trông thấy Ngài. Trường hợp của tôi có lẽ tương tự. Họ nghi ngờ thì tôi cũng có những câu hỏi trong lòng. Ông này đúng là Chúa? Cho nên tổ tiên chúng ta trong đức tin đã có phản ứng ra sao trước hoàn cảnh thì ngày nay chúng ta cũng vậy. Không thể làm khác. “Tôi cũng thế” là phản ứng đương nhiên trước hoàn cảnh. Thành thực mà nói, bụng tôi vui mừng khi nghe thánh sử, tổ tiên trong đức tin của chúng ta, thuật lại các mẩu truyện của lòng họ cho chúng ta ngày hôm nay. Trước những thực tế của cuộc sống, chúng ta cũng thấy nghi nan, phức tạp, cũng “kinh ngạc và hết hồn hết vía.”

Họ nói với chúng ta rằng: “Chúng tôi đã từng có khó khăn và ngờ vực, vâng, chúng tôi đã từng cảm thấy như đi trong bóng đêm, phải, sự chết đã mang đi hết thảy những thứ chúng tôi có, kể cả hy vọng, phải, Người đã hiện ra như một bóng ma. " Nhưng tiếp liền sau là những tin vui quan trọng: “Nhưng Ngài không phải bóng ma, Ngài vẫn còn sống, Ngài không phải là sản phẩm của tưởng tượng. Chúng tôi đã xem thấy Ngài ăn uống như chúng tôi. Ngài đúng là con người xương thịt như chúng tôi đã thấy xưa kia. Hơn nữa, Ngài đồng hành trên những con đường chúng tôi đi. Ngài đã từng thất vọng và đau thương như chúng tôi ! Hiện thời Ngài đang tiến bước trên khắp các nẻo đường thế giới, ban hy vọng và sức sống cho hết những nơi tưởng chừng như lãnh địa của tử thần." Cho nên thoáng nghe, các câu truyện trên chỉ là hoang đường, truyện của những người Galilêa “mộng du”. Kỳ thực không phải vậy. Chúng là những sự kiện rất thật và quan trọng. Chúng nói trực tiếp với trái tim và trí óc nhân loại về hy vọng và thất vọng, gian dối và chân lý, sự sống và cái chết. Chúng củng cố đức tin khi nghi nan ập tới. Chúng được các tín hữu tiên khởi truyền lại không những để chúng ta hoan hỉ mừng lễ mà còn khích lệ trong những giây phút khó khăn, tăm tối, khi mọi sự xem ra vượt khỏi tầm kiểm soát. Bởi lẽ, Thiên Chúa nói qua những thực tại đó lúc vui cũng như khi buồn. Các câu truyện Phúc âm được Chúa Thánh Thần mặc khải để soi sáng trong đêm thâu, để hướng dẫn khi lạc đường. Bây giờ xin bắt đầu từ bài đọc sách Công vụ.

Rõ ràng ông Phêrô đã hoàn toàn thay đổi. Sáng tinh sương Chúa nhật phục sinh, ông chạy ra mồ, thấy ngôi mộ trống, dây băng và khăn liệm còn đấy. Nhưng xác Chúa Giêsu biến mất. Người môn đệ “khác” cũng chứng kiến như vậy và đã tin Chúa phục sinh. Phêrô không phản ứng. Bài đọc một hôm nay mô tả một Phêrô khác hẳn. Ông rời mộ, mạnh dạn rao giảng Tin mừng phục sinh cho người Do thái. Trên đường lên đền thờ cầu nguyện, ông và Gioan gặp anh què ăn xin. Phêrô đã chữa lành anh què, và đám đông hiếu kỳ tuôn đến xem dấu lạ. Phêrô nắm lấy cơ hội rao giảng về Chúa Giêsu. Bài đọc hôm nay là khởi sự bài giảng đó. Tác giả Mary Catherine Hilkert, OP, đã dùng phép lạ này như điểm khởi đầu cho cuốn sách của dì về thần học giảng thuyết công giáo. Tôi xin mạn phép tóm tắt vài điểm như sau:

Kết quả thứ nhất của việc chữa lành và bài giảng của Phêrô về Chúa Giêsu phục sinh là ông và Gioan bị bắt do lệnh của các thế lực đền thờ: tư tế, lãnh binh, và nhóm Sađucêo. Hai ông bị tống ngục qua một đêm. Ngày hôm sau bị giải ra toà án tôn giáo Do thái. Phêrô lại có cơ hội rao giảng Chúa Giêsu phục sinh. Sự thông thái uyên bác của ông làm cho hội đồng ngạc nhiên. Công vụ ghi lại như sau: “Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và Gioan mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu" (4,13). Từ lúc nhìn vào mồ trống, Phêrô đã thay đổi. Kết quả thứ hai là nhiều thính giả đã tin vào sứ điệp của hai ông: “Nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng 5000.” (4,4) Trong một thành phố chỉ khoảng 40.000 dân thì số 5000 quả là ấn tượng. Tỷ lệ là 1/8. Tức cứ 8 người thì đã có một người tin theo lời của Phêrô và Gioan. Tỷ lệ này ngày nay chúng ta không thể đạt được. Thực sự việc Đức Kitô sống lại đã biến đổi các Tông đồ một cách ngoạn mục. Phêrô can đảm nói với đám đông: “Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh là Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Về điều này, chúng tôi xin làm chứng. "(3,14). Mới mấy ngày trước các ông còn run sợ người Do thái, đóng kín cửa khi hội họp cầu nguyện. Bây giờ tuyên bố mình là nhân chứng. Bài Tin mừng Luca cũng dùng từ “nhân chứng”:

“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (24,48). Khi hai môn đệ trở về từ Emmaus kể lại việc họ đã gặp Chúa sống lại và đã nhận ra Ngài lúc bẻ bánh và đang được mọi người nói cho hay Chúa cũng hiện ra với Simon thì bất ưng Chúa xuất hiện, cắt ngang câu truyện của họ. Mọi người ngạc nhiên, sửng sốt và sợ hãi. Chúa khiển trách họ cứng lòng tin. Ngài cho họ xem các thương tích để minh chứng Ngài đã sống lại và đang sống bằng thân xác mà họ đã thấy khi họ theo Ngài. Cũng thân xác ấy đã chịu đóng đinh. Tuy nhiên sự bất ngờ quá sức họ chịu đựng và hiểu được. Ngài thấy rõ tình thế, cho nên ăn một mẩu cá nướng để họ vững tin hơn: Chính Ngài chứ không phải bóng ma. Cuối cùng thì họ vui mừng vì được gặp lại Thầy. Cũng như trong trình thuật làng Emmaus, Chúa Giêsu đã giải thích Kinh thánh và bẻ bánh để mở mắt cho các ông. Cũng có bữa ăn để liên tưởng đến bữa cơm chiều tại Emmaus. Cử chỉ thân thiện trong bữa ăn khiến họ nhận ra Ngài. Chúa Giêsu sai họ đi làm chứng “về những điều họ mục kích”. Chúng ta vừa nghe thánh Phêrô trong bài đọc 1 xưng mình như nhân chứng về cái chết và sống lại của Chúa trước đám đông. Vậy thì một nhóm người, quê mùa, dốt nát, nhát đảm, đóng kín cửa vì sợ, bỗng nhiên trở nên mạnh dạn, liều thân làm chứng Chúa đã phục sinh, không phải là dấu chỉ hay sao? Từ thái độ ẩn trốn, rút lui, lúc này họ bước ra công khai và can đảm đó không phải là một sự thay đổi lớn hay sao?

Cho nên chúng ta phải tin rằng ở Giêrusalem, hơn hai ngàn năm trước, đã xảy ra một phép lạ, biến đổi các môn đồ Chúa Giêsu từ những người mà hội đồng Do thái tuyên bố là “không chữ nghĩa, thuộc tầng lớp bạch đinh” thành những con người can đảm và uyên bác. Họ đã mục kích quyền bính đền thờ loại trừ Thầy mình một cách nhục nhã và tưởng rằng: “Như thế là chấm dứt”. Hai môn đệ đã nhanh chóng rời Giêrusalem để về Emmaus. Trên đường họ gặp khách lạ cùng đi một hướng. Họ chia sẻ với người khách ý nghĩ chung của cả nhóm: “Chúng tôi hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel.” (Lc 24,21). Lòng đầy thất vọng các môn đệ phân tán, ẩn trốn. Bỗng tự nhiên họ bung ra rao giảng và ăn nói mạnh bạo, thông thái không kém các kinh sư, triết gia. Quyền năng họ nhận được ở “căn phòng trên lầu” thúc đẩy họ công bố sứ điệp biến đổi toàn thể loài người. Đức Giêsu đã chết, nay còn đang sống và ơn tha thứ được ban cho “mọi quốc gia”.

Ngay từ đầu sách Công vụ, thánh Luca đã cho chúng ta hay ơn Chúa sống lại đã hoàn toàn thay đổi nếp sống, nếp suy nghĩ của các Tông đồ. Thánh kinh trong suốt tuần lễ sau Phục sinh sẽ còn kể lại các hồng phúc mà Giáo đoàn tiên khởi nhận được từ Chúa sống lại. Điều này ảnh hưởng chúng ta ra sao, những kẽ sống cách xa biến cố hàng ngàn năm? Chúng ta có đủ can đảm rời bỏ nơi cư ngụ an toàn, sang trọng để bung ra rao giảng Chúa Phục sinh cho đồng bào vùng sâu, vùng xa đang đói khát Tin mừng? Chúng ta có dám từ bỏ sợ hãi, bất an lại sau lưng mà xung phong tới các nơi nguy hiểm để rao giảng danh Chúa? Xin lưu ý: Hội đồng Do thái gọi các Tông đồ Phêrô và Gioan là những đạo hữu phần đời, không thuộc vào hàng tư tế đền thờ. Do đó, công việc làm chứng cho Chúa sống lại không phải là đặc ân của hàng giáo sĩ, nhà tu. Nó là bổn phận chung cho hết mọi tín hữu. Thánh sử Luca đáp ứng quan điểm này. Ngài khai mở câu truyện bằng sự nhắc nhớ đến việc bẻ bánh của các Tông đồ. Chúa Giêsu hiện đến giải thích Thánh kinh cho họ, tất cả các phần chính của Kinh thánh Do thái, các Ngôn sứ, lề luật Môsê và Thánh vịnh. Như vậy ngày hôm chúng ta cũng sẽ được gặp gỡ Chúa Kitô Phục sinh trong hai hoạt động chính của cộng đoàn: đọc Thánh kinh và bẻ bánh. Điều mà chúng ta đang thực hiện trong ngôi thánh đường này. Chúng sẽ là nguồn sức mạnh để đi rao giảng Đức Ki-tô và làm chứng cho Ngài. Đúng như các tín hữu tiên khởi đã làm.

Chúng ta sẽ làm chứng khi hoàn toàn thay đổi lối sống và não trạng vô đạo. Gióng lên tiếng nói đức tin. Bài đọc hai gợi ý tình yêu là đặc điểm chính yếu của nếp sống theo Chúa Kitô: Chỉ khi nào tình yêu ngự trị giữa cộng đoàn, lúc ấy Chúa Giêsu hiện diện. Cuộc sống tín hữu luôn luôn được tăng cường, đổi mới nhờ việc đọc Thánh kinh, hội họp cầu nguyện và bẻ bánh yêu thương. Giống như thánh Phêrô và Gioan là nhân chứng phần đời của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng như vậy nhờ các sinh hoạt trên. Thế giới ngày nay đầy dẫy những lo âu, chiến tranh, hận thù: Iraq, Korea, Israel, lục địa Phi Châu. Xem ra lẽ phải thuộc về kẻ mạnh, người nhiều võ khí. Nhu cầu làm chứng cho Vua hoà bình, Đức Ki-tô Phục sinh ngày càng trở nên cấp thiết. Người nghèo khổ, già cả, yếu đau, lạc loài, trẻ nhỏ, càng cần được bảo vệ. Trái đất, môi trường sinh thái phải được chăm lo đúng mức để làm chỗ ở vui tươi lành mạnh cho mọi người. Chắc hẳn sứ điệp hoà giải của Chúa Phục sinh cũng hàm chứa các ý tưởng đó. Chúng ta hãy làm chứng cho Ngài bằng lối sống yêu thương hoà hợp với mọi thành phần nhân loại, mọi quốc gia và với Đức Ki-tô Phục sinh. Amen. Allêluia.

Lm. Jude Siciliano, OP.

---------------------------

 

PS3-B22. Chính anh em sẽ tiếp tục là những nhân chứng sống động của Thầy

 

Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại: phải nhân danh Người: PS3 B-22


“Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại: phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha đã không bắt tội chúng ta vì đã giết Con Một Thiên Chúa, vì đó là chương trình mầu nhiệm của thánh ý Thiên Chúa. Tất cả mọi sự đáng buồn đã được tiên báo đầy đủ trong các sách tiên tri; không có con đường nào khác hơn cho đức Giêsu lựa chọn hầu chu toàn được thánh ý của Chúa Cha ngoài con đường đau thương thập giá. Nhưng điều hết sức quan trọng là Ngài muốn chúng ta phải nhìn nhận sự lầm lạc tầy đình nơi mỗi tâm hồn của mình, rồi thật lòng ăn năn sám hối để nhận được ơn tha tội. Vì bản thân mỗi người chúng ta không có gì khá hơn nguyên tổ A-đam với E-và. Nên mỗi cá nhân cần phải doạn tuyệt với tính ngông cuồng cố chấp của mình, rồi tin nhận Ngài thật sự là Đấng ban ơn giải thoát cho ta.

Sám hối là một hành động diễn tả lòng khiêm nhường của ta trước mặt Thiên Chúa, vì nếu một người không thể chấp nhận khiêm nhường trước Thiên Chúa, thử hỏi rằng kẻ ấy còn có thể biết khiêm nhường là gì? Một người phàm trần nghèo nàn trống rỗng mà cứ cho mình là bề thế oai phong ngang bằng Thiên Chúa, thì còn có gì là ngông cuồng hơn cho được?! Sám hối giúp ta đi ngược lại tội lỗi đầu tiên của tổ tiên là kiêu ngạo, hầu giúp mình khử trừ tận căn cái gốc tội trong lòng mình. Việc Chúa Giêsu chịu chết và đến ngày thứ ba đã sống lại cần phải được rao giảng cho hết muôn dân. Chính anh em sẽ tiếp tục là những nhân chứng sống động của Thầy cho mọi thời ở khắp mọi nơi. Đức Kitô Con Một Thiên Chúa đã khai mở nguồn tình yêu vô tận nơi Thiên Chúa, giờ đây Tin Mừng này cần phải được long trọng công bố cho khắp bàng dân thiên hạ. Và Ngài tha thiết mời gọi từng người chúng ta hãy ra đi làm chứng cho Sự Thật cao cả này; đối với những ai tin vào đức Giêsu, thì công việc này là một vinh dự lớn nhất trong đời, đáng cho mình hy sinh tất cả hầu có thể làm chứng cho Tình Yêu của Ngài; trái lại với những ai không tin, thì đây là việc hết sức điên rồ của những kẻ mất trí! Và đó chính là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu đã nói đến.

Lm. Phêrô Trần Văn Trợ SJ

---------------------------

 

PS3-B23. Tín điều thứ Mười Hai


Luca 24,35-48

 

Có những người tin có sự sống đời sau, nhưng lại không tin xác loài người ngày sau sống lại: PS3 B-23


Có những người tin có sự sống đời sau, nhưng lại không tin xác loài người ngày sau sống lại. Trong bài Tin Mừng hôm nay xác định hai điều: đó là Chúa sống lại thật, và xác loài người ngày sau sống lại. Chúng ta cùng tìm hiểu bằng khả năng cảm nhận thông thường của con người, cũng như nghe sự diễn giải hợp lý -có thể chấp nhận được- của các Thánh về tín điều này.

Người ta thường nói “Quá tam, ba bận” để giải thích rằng muốn tin được một điều, thì ít nhất là điều đó phải xảy ra ba lần, hoặc có thể chứng thực được ít là ba lần. Trong Phúc Âm chỉ ghi lại bảy lần Chúa đã hiện ra sau khi sống lại. Riêng trong ngày hôm nay, Chúa đã hiện ra ba lần. Buổi sáng sớm Ngài đã hiện ra với Mađalêna; sau trưa Ngài hiện ra và đi chung với hai môn đệ (họ trong số 72 môn đệ) trên đường từ Jerusalem đến làng Emmau (khoảng 7 dặm). Và buổi tối Chúa hiện ra với các Tông đồ, trong lúc hai môn đệ ban chiều đang kể về việc Chúa đi cùng họ. Có một điểm hết sức đặc biệt là cả ba lần khi Chúa hiện ra trong ngày hôm nay, không ai có thể nhận ra Chúa ngay: Madalena thì tưởng là người giữ vườn; hai môn đệ đi Emmau, tuy đi chung và nghe Chúa Giảng dạy Kinh Thánh trong quãng đường cả chục cây số vẫn chưa nhận ra; các môn đệ đang bàn luận thì Chúa hiện ra ở giữa họ, họ tưởng là ma ! Tại sao vậy ? Phải chăng đã có sự biến đổi trong thân xác Chúa Kitô ? Vào thế kỷ 13, Thánh Thomas Aquinas (Tiến Sĩ Thiên Thần) được chỉ định để giải thích ý tưởng thần học của Kinh Tin Kính. Căn cứ từ Thư Thứ I Corinto 15, 42-44. của Thánh Phaolô Tông Đồ, Ngài đã nêu lên nhiều đặc tính sau khi sống lại. Bốn trong số đó là:

1/ Không bị chi phối bởi cảm xúc (Impassibilitas): Không biết đau đớn; không cần những nhu cầu cho thể lý như ngủ nghỉ, lương thực.

2/ Sự trong suốt sáng láng (Claritas): Sự trong suốt sáng láng hoàn hảo của linh hồn được thể hiện trên những nét đặc trưng của thân xác. (Có lẽ đây là lý do khiến không thể nhận ra Chúa ngay, đòi hỏi phải có thời gian mới quen mắt).

3/ Sự nhanh nhẹn (Agilitas): Có thể di chuyển nhanh như sự suy tưởng, nghĩa là nghĩ đến nơi nào là xuất hiện tại nơi đó tức thì. Chúa Kitô đã đến hoặc đi trong tích tắc.

4/ Tính huyền ảo (Subtilitas) Có khả năng đi xuyên qua các vật thể cứng mà không để lại dấu vết. Chỉ có Thiên Chúa mới biến đặc tính này thành phép lạ: đó là Ngài có thể ăn uống, đụng chạm đến người khác bằng xuơng bằng thịt thật sự.

Như thế, sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Kitô đã không còn hoàn toàn 100% như khi còn sống. Có sự khác lạ trên vóc dáng và giọng nói của Ngài. Có thể thân xác hay hư nát khi sống lại, biến thành thân xác vinh quang có những đặc tính mới. Nên đòi hỏi người đối diện một khoảng thời gian nào đó mới nhận ra người quen cũ của mình (vì người còn sống và kẻ được sống lại ở hai tầng số khác nhau). Dĩ nhiên Ngài muốn hiện ra cách nào, hoặc như thế nào cũng được, nhưng Ngài muốn chứng thực điều Ngài đã dạy về sự sống lại cho chúng ta. Có điều vì muốn thuyết phục các môn đệ mình cho nhanh, nên Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa xen vào Tính Huyền Ảo. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng: sở sĩ Chúa không để cho các môn đệ nhận ra Ngài ngay mà phải đợi đến khi đức tin của các Ông được vững mạnh mới nhận ra Ngài.

Nhân tiện xin nêu thêm một đặc điểm về tuổi tác khi sống lại. Thánh Thomas Aquinas viết:”Tất cả đều được sống lại ở độ tuổi hoàn hảo, lý tưởng, đó là tuổi ba mươi hai hai hoặc ba mươi ba. Bởi vì những ai chưa đạt đến độ tuổi này, tức là chưa có những đặc tính hoàn hảo, lý tưởng của độ tuổi đó, và những người già cả thì đã bị mất đi những đặc tính này. Do đó trẻ em và những người trẻ tuổi sẽ được bổ sung những đặc điểm họ thiếu, còn những người già cả sẽ được phục hồi những đặc tính đã mất:”Cho tới khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Eph.,4.13)”. Điều này đã được chứng minh mỗi lần Đức Mẹ hiện ra như ở Lộ Đức, Fatima và các nơi khác v.v& đều được chứng thực là một phụ nữ trẻ, đẹp (khi Đức Mẹ từ trần cũng đã già lắm chứ không còn trẻ đẹp).

Tóm lại, khi sống lại con người có những biến đổi nhất định, tuy nhiên bốn đặc tính trên chỉ dành cho thân xác vinh quang, thiêng liêng, hay nói cách khác đó là thân xác của những người đã được Chúa chúc lành, đã sung sướng thoát khỏi sự phán xét, hình phạt. Dĩ nhiên họ sẽ được vui hưởng sự sống vĩnh cữu -tín điều thứ mười ba là hệ quả tất yếu của tín điều thứ mười hai-. Ai cũng biết rằng muốn được một điều gì đó, thì phải hy sinh nhiều thứ khác, phải tốn nhiều công sức, đòi hỏi nhiều nghị lực may ra mới đạt được, mà nó cũng chỉ là hạnh phúc tạm bợ chóng qua của thế gian này. Muốn có một thân thể khoẻ mạnh, và một linh hồn minh mẫn ở đời này đã quá khó, đòi hỏi biết bao như sự giúp đỡ, dạy dỗ, cộng tác của người khác. Phương chi để đạt cho được sự sống vĩnh cữu, thành toàn, viên mãn sau khi sống lại, là một chuyện khó khăn biết mấy. Tuy nhiên, nếu có niềm xác tín vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhận ra những bí quyết để thành công, phương tiện đang dành sẵn cho từng người tín hữu, giúp cho chúng ta sự sống dồi dào ở đời này và kết quả ở đời sau. Nói cách khác là những điều chúng ta cần phải có như: sự dạy dỗ, giúp đỡ, cộng tác đang có sẵn, đang chờ chúng ta: Giáo Hội Công Giáo là nơi trực tiếp dạy dỗ, chỉ đường mở lối, ban phát ơn Thánh cho chúng ta (trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã trao sứ mạng rao giảng Nước Trời cho các Tông Đồ); Đức Mẹ Maria là người trợ lực, giúp đỡ chúng ta nhiều nhất, mà nói đến tín điều thứ mười hai là phải nói đến Đức Maria, vì Mẹ đã được đặc ân này, hơn nữa Mẹ là nguồn cảm hứng vô tận cho bất cứ ý tưởng thần học hay triết lý Thiên Chúa Giáo nào; và diễm phúc hơn cả đó là người đang cộng tác, đồng hành và cũng là thủ lãnh tối cao của chúng ta chính là Chúa Kitô Phục Sinh với năm vết thương.

Ngô Dallas

---------------------------

 

PS3-B24. Bẻ bánh

 

Khi viết về những gì đã xẩy ra trên đường đi Emmau và bữa tiệc tối hôm đó tại nhà hai môn: PS3 B-24


Khi viết về những gì đã xẩy ra trên đường đi Emmau và bữa tiệc tối hôm đó tại nhà hai môn đệ, Luca với cái nhìn phân tích của một y sĩ, và phong phú của một họa sĩ, đã ghi lại bằng những hình ảnh hết sức sống động và màu sắc. Đọc xong, ta có cảm tưởng như đang xem một đoạn phim trong đó có sự xuất hiện của ba nhân vật, và những mẩu đối thoại, cùng với cảnh vật bên đường. Đặc biệt là cảnh hoàng hôn và không khí thanh bình của một miền quê. Người đọc còn như bị thu hút bởi những lời mời mọc đượm tình người: “Xin ông ở lại đây vì trời đã xế chiều và ngày đã gần tàn” (Luc 29:24).

Đối với hai môn đệ, mỗi người đều đang theo đuổi một tâm sự riêng, và đang suy tư về biến cố Giêsu người Nagiarét, một tử tội đã bị hành quyết, đã được chôn táng, và đã có lời đồn đãi rằng con người ấy đã sống lại. Ai cũng mong có câu trả lời cho thắc mắc ấy. Và lời giải thích đã bùng nổ khi cả ba cùng ngồi vào bàn ăn. Qua nghi thức bẻ bánh, hay nói đúng hơn, là qua cung cách quen thuộc của hành động bẻ bánh, hai ông đã nhận ra người khách đó không ai xa lạ, mà là chính Chúa Giêsu, Người mà các ông đang hoài nghi và muốn tìm câu trả lời.

Luca đã tỷ mỷ ghi nhận phản ứng của hai ông. Bằng vào cung cách quen thuộc khi bẻ bánh, họ đã nhận ra Thầy của mình. Đây cũng là một hành động hết sức quan trọng và cần thiết đối với cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu. Làm thế nào để ta cũng có thể nhận ra Chúa bằng một đặc tính nào đó. Theo tâm lý học, khi yêu ai, mến ai hoặc thích ai, thì bao giờ người ta cũng ghi nhận một số những cử chỉ, thái độ, và tập quán quen thuộc của người ấy, và có thói quen bắt chước để làm như vậy. Lịch sử Dòng Phanxicô kể rằng thầy Brunô vì mến Thánh Phanxicô, nên cố gắng bắt chước Phanxicô từ lời ăn, tiếng nói, đến cả những hành động như vô nghĩa là hắt hơi, ho hắng, hoặc kịt mũi. Toma Aquinas thì nhận định: “Yêu là nên giống người mình yêu”. Khi yêu, người ta không những không dám làm mất lòng người mình yêu, mà hơn thế, còn muốn làm người yêu được vui, và hạnh phúc bằng cách bắt chước để làm đẹp lòng người mình yêu.

Trường hợp của hai môn đệ làng Emmau đã nhiều lần ăn uống với Chúa Giêsu, và hẳn là các ông đã quen với lối bẻ bánh của Ngài. Vì thế, khi các ông xem thấy là liền nhận ra Ngài ngay. Thần Linh đã soi động các ông khi Ngài giải thích Thánh Kinh cho các ông dọc đường: “Lòng chúng ta không nóng lên khi nghe Ngài cắt nghĩa Thánh Kinh lúc đi đường sao” (Luc 29:32). Nhưng phải đợi đến khi “bẻ bánh”, khi tác dụng hành động đi vào thực tế, lúc ấy “mắt họ mới mở ra, và họ nhận ra Chúa Giêsu” (Luc 29:31).

Nhiều lần khi nghe lời Chúa, ta cũng cảm thấy nóng nẩy và bị thu hút như trường hợp của hai môn đệ đây, nhưng vì đã không nhận ra Ngài lúc bẻ bánh, nên vẫn không được cảm hóa. Vậy làm sao để hành động bẻ bánh nhập tâm, và có tác dụng đi vào đời sống tâm linh của mỗi người. Đó là câu hỏi mà mỗi Kitô hữu nên hỏi mình, vì Chúa đã chẳng “bẻ bánh” trước mắt ta nhiều lần sao? Phải nhận rằng Ngài đã bẻ bánh rất nhiều lần và bẻ bánh mọi ngày trước mắt ta. Chỉ tiếc một điều là ta đã không nhận ra Ngài.

Cuộc đời ta, sự sống của ta chẳng phải là một chiếc bánh ân tình được nhào nặn bằng tình Chúa, tình thương cha mẹ, và tình người sao? Ta cảm được điều này trong rất nhiều trường hợp khi vui, khi buồn, khi hạnh phúc, và khi được mọi điều may mắn.

Vũ trụ bao la và phong phú này chẳng phải là một chiếc bánh khổng lồ mà mỗi ngày Thiên Chúa đều bẻ ra, ban phát cho từng người và toàn thể nhân loại sao? Khi trời mưa, lúc trời nắng. Khi giông bão, lúc tạnh ráo. Khi lạnh, khi nóng. Mỗi ngày và từng ngày, chiếc bánh này đều được bẻ ra và trao ban. Nước uống, khí trời để thở, sức nóng mặt trời, gió mát, trăng thanh, sương mai, và mưa sa. Tất cả đều được san sẻ đồng đều và vô điều kiện như những hồng ân của Thiên Chúa. Chỉ có những người thân thiết hoặc khách quí mới được mời ngồi đồng bàn trong một bữa tiệc. Đó là thực tế, và hợp lý, vì không ai mở tiệc rồi để đó, ai muốn đến ăn tùy ý. Bàn tiệc tình yêu, và bàn tiệc quan phòng Thiên Chúa vẫn mở ra mỗi ngày cho mọi người mà Ngài đã thương tạo dựng và đem vào thế gian này.

Bẻ bánh là một hình thức trao ban. Thiên Chúa đã chẳng trao ban cho nhân loại đến tận cùng điều Ngài có là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho nhân loại đó sao: “Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian, nên đã ban Con Một Ngài cho thế gian” (Gio 3:16). Chúa Giêsu đã chẳng trao ban Mình Máu Thánh Ngài cho ta mỗi ngày trong Thánh Thể sao: “Này là Mình Thầy hãy cầm lấy mà ăn” (Mt 26:26). Và: “Này là MáuTthầy hãy nhận lấy mà uống” (Mt 26:27).

Trao ban còn có nghĩa là nhận vào vòng thân thích những người mình trao tặng. Chúa Giêsu đã chẳng gọi ta là bạn hữu sao: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu” (Gio 15:15).

Trong những buổi tĩnh tâm hay cấm phòng, nhiều người đã khóc nức nở. Khóc như chưa bao giờ được khóc vì đã cảm được tình Chúa yêu thương. Quá khứ hiện về, hiện tại minh chứng cả một tình yêu thương chan hòa của Thiên Chúa bao phủ, tuôn trào trên mình. Như vậy thì làm sao không xúc động, nghẹn ngào. Chẳng những khóc thôi, mà còn trào dâng một tâm tình cảm mến biết ơn đến nỗi sẵn sàng thề hứa và đoan quyết đủ điều, hệt như thái độ của Phêrô khi ở trên núi Taborê: “Lậy Thầy, được ở đây thì thích lắm. Nếu Thầy muốn, tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen, và một cho Êlia” (Mt 17:4). Sung sướng vì được ở bên Thầy đến quên mình, nhưng khi xuống núi, theo Thầy đến vườn Cây Dầu, vào đến dinh Thượng Tế, thì lòng nhiệt thành ấy đã tan biến, và trở thành một sự phản bội, hèn nhát: “Tôi không biết người này là ai” (Mt 26:72).

Và câu hỏi được đặt ra ở đây là phải làm thế nào để ta có thể nhập tâm hình ảnh của Thầy mình, đến nỗi chỉ một tác động nhỏ như việc bẻ bánh, cũng có thể khiến ta nhận ra Ngài. Câu trả lời là:

1. Hãy mở to đôi mắt để nhìn vào vũ trụ quanh ta, và hãy để lòng mình cảm nhận những kỳ công tạo tác của Ngài.

2. Hãy để cho Thần Linh Chúa nói với ta về tình thương của Thiên Chúa, về những hồng ân bao la ấy.

3. Nhưng nhất là hãy làm như hai môn đệ làng Emmau là mời Chúa ở lại với ta: “Xin Thầy ở lại đây vì trời đã xế chiều và ngày đã gần tàn” (Luc 29:24).

Trích Dongcong.net - Ts.Trần Quang Huy Khanh

---------------------------

 

PS3-B25. Ngài đã sống lại

 

W. E. Sangster là một mục sư Anh Giáo. Ngày kia ông cảm thấy có cái gì bất thường trong: PS3 B-25


W. E. Sangster là một mục sư Anh Giáo. Ngày kia ông cảm thấy có cái gì bất thường trong cổ họng, và chân ông thấy như mệt mỏi. Ông đi bác sỹ khám nghiệm và kết quả cho biết là ông bị chứng bệnh liệt cơ bắp. Các bắp thịt trong cơ thể của ông đang dần dần yếu đi và ông sẽ không nói được, và sẽ không nuốt được.

Khi biết như thế, ông đã dồn hết tâm lực vào công việc mục vụ khi còn có thể; và ông nghĩ rằng khi ông không còn có thể đứng hay rao giảng được, ông vẫn còn có thể viết. Ông đã viết sách và viết nhiều bài trên báo chí. Ông tổ chức nhiều nhóm cầu nguyện trong nước Anh. Ông nói với người khác là ông mới chỉ đang ở trường nhi đồng của đau khổ.

Như bác sỹ đã tiên đoán, chân ông trở nên bại liệt; ông không còn nói được nữa; tay ông trở nên run rẩy nhưng vẫn còn viết được. Vào buổi sáng Lễ Phục Sinh, vài tuần trước khi chết, ông đã viết thư cho cô con gái. Trong lá thư ông nói, "Thật là một sự buồn thảm khi thức dậy vào buổi sáng Phục Sinh mà lại không có thể hô to lên "Ngài đã sống lại! Tuy nhiên điều đáng buồn hơn nữa là nếu một người có thể nói được và còn âm giọng để nói mà họ lại không la to lên để công bố Tin Mừng Phục Sinh" (Donald L. Deffner, Seasonal Illustra-tions: Lasting Joy, 56).

Đức Kitô Sống Lại

Bài tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ. Ngài đã giảng nghĩa cho họ hiểu rằng hết mọi lời đã ghi chép về Ngài trong luật Môisen, trong sách Tiên Tri và Thánh Vịnh, tất cả đều đã ứng nghiệm. Chính Ngài là Đấng Kitô phải chịu thương khó và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết. Ngài muốn họ hiểu rằng Ngài không phải là ma hay là thần thánh nào khác. Ngài thực sự đang hiện diện sống động trước mặt họ bằng xương bằng thịt. Ngài ăn bánh và ăn cá nướng trước mặt họ. Tuy nhiên mục đích Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không phải là chỉ muốn chứng minh cho họ biết là Ngài đã sống lại. Hơn thế, Ngài muốn họ hoàn toàn tin tưởng để trở nên nhân chứng đi công bố cho toàn thể nhân lọai về sự phục sinh của Ngài. Đức Giêsu muốn cho toàn thể nhân loại nhận biết rằng Ngài là Đấng Cứu Thế. Cái chết và sự sống lại của Ngài không những chỉ là một sự thực nhưng còn là con đường Thiên Chúa dùng để đem sự chữa lành và hòa giải cho thế gian.

Đức Kitô sống lại từ cõi chết đã là một sự thật trong lịch sử. Sự thật ấy đã được công bố và vẫn còn được Giáo Hội tiếp tục công bố cho toàn thể nhân loại. Thánh Phêrô trong bài đọc thứ nhất cũng đã xác tín rằng sự lạ ông làm không phải là do lòng đạo đức hay quyền lực riêng của ông. Nhưng là do bởi lòng tin tưởng nơi Đức Kitô Phục Sinh. Phêrô đã minh định với dân chúng rằng chính Đức Giêsu, "Đấng mà anh em đã nộp, đã chối bỏ trước Philatô, anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng công chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã cho người từ cõi chết sống lại." Tuy nhiên, Phêrô cũng đã chữa lỗi cho họ rằng họ đã hành động vì không biết. Điều quan trọng là họ cần phải ăn năn hối cải.

Ăn Năn Hối Cải

Sau khi đã chứng minh cho các môn đệ biết là Ngài thực sự đã sống lại, đi đứng và ăn uống trước mặt họ. Ngài đã truyền dạy các môn đệ phải "nhân danh Người rao giảng sự ăn năn hối cải để lãnh ơn tha tội cho muôn dân." Các môn đệ cần phải ăn năn hối cải vì họ đã không hoàn toàn nhận ra chân tính cứu thế của Ngài khi Ngài còn ở với họ nơi trần gian; họ đã hèn nhát trốn chạy hay chối bỏ Ngài. Những vị lãnh đạo trong dân cần ăn năn hối cải vì họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa nên đã quyết tâm khai trừ Ngài. Chính quyền đời cần ăn năn hối cải vì họ đã không nhận ra vương quyền thiêng liêng của Ngài; và họ đã không xét xử theo lẽ phải và lương tâm công chính. Toàn thể dân chúng phải ăn năn hối cải vì họ đã hùa theo đám đông để xin tha cho tên sát nhân Baraba và lên án và xử tử Đức Kitô. Tất cả cần ăn năn hối cải đặt niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh để lãnh nhận ơn tha thứ.

Trách Nhiệm Công Bố

Tinh thần ăn năn hối cải này vẫn cần phải được rao giảng cho toàn thể nhân loại ở mọi thời đại. Nhân loại vẫn còn chưa hoàn toàn nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế. Nhiều người, nhiều tập thể, nhiều quốc gia vẫn còn phạm tội, còn gây chiến tranh hận thù, còn chối bỏ đức Kitô và tinh thần của Ngài. Nhiều người còn sống và chủ trương sống thù nghịch với tinh thần của Đức Kitô Phục Sinh. Trách nhiệm công bố sự phục sinh của Đức Kitô và rao giảng ăn năn hối cải để được ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại không phải chỉ thuộc về các linh mục tu sỹ hay giới tu trì. Tất cả mọi Kitô hữu, những người đã nhận biết và tin tưởng nơi Đức Kitô Phục Sinh, đều có trách nhiệm phải công bố và rao giảng. Công bố và rao giảng không phải chỉ xẩy ra trong thánh đường và nơi tòa giảng. Chúng ta phải công bố Tin Mừng Phục Sinh và sự ăn năn hối cải ở mọi phương diện. Trong bài đọc hai, thánh Gioan chỉ cho chúng ta phương cách công bố Tin Mừng Phục Sinh: Thứ nhất, chúng ta đừng phạm tội và hãy khuyến khích những người khác đừng phạm tội. Nếu lỡ phạm tội thì khiêm tốn trông cậy vào công nghiệp của Đức Kitô. Thứ hai là chúng ta trung tín yêu mến tuân giữ giới răn mà Đức Kitô đã truyền dậy. Thánh Gioan quả quyết rằng: "Ai nói mình biết Đức Giêsu Kitô mà không giữ giới răn Người tức là kẻ nói dối."

NS. Trái Tim Đức Mẹ - Lm. Gioan Trần Khả 

---------------------------

 

PS3-B26. Bình an

 

Chúng ta cùng nhau nghe những lời suy niệm về sự bình an sau đây: Trong đên Giáng Sinh: PS3 B-26


Chúng ta cùng nhau nghe những lời suy niệm về sự bình an sau đây:

Trong đên Giáng Sinh, các Thiên Thần đã hòa ca Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho kẻ lòng ngay. Tại tội nguyên tổ đã khiến thế giới điên đảo, con người rối loạn, sống trong âu lo nên khi giáng trần Chúa Cứu Thế đã biếu nhân loại món quà quý là sự bình an, bình an là điều kiện cần để con người sống hạnh phúc.

Trước khi rời bỏ các bạn thân đã bao năm chung vui sẻ buồn, Ngài lại mang tâm trạng một con người đầy lưu luyến đến nỗi tìm ra mọi cách để ở lại cùng bạn hữu, Ngài lập các Bí Tích ban ơn thánh, Ngài ngự trong Bánh Thánh làm của ăn hàng ngày và cuối cùng khi từ giã về trời, Ngài còn ban nốt một kỷ vật nữa là sự Bình An của Ngài.

Nhìn lại lịch sử nhân loại ta thấy Bình An là lời chúc đầu tiên khi Ngài nhập thế và Bình An cũng là kỷ vật cuối cùng Ngài trao ban cho nhân loại khi về trời. Chắc chắn không phải Chúa nghèo vàng bạc để kỷ niệm, nhưng Ngài biết những thứ đó chẳng tạo được hạnh phúc cho tâm hồn. Ngài thấu rõ nhân tâm khát vọng của con người, nên chỉ món quà cho họ Bình An là độc đáo nhất Bình An cho các con, Thầy ban Bình An cho các con, chẳng phải như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng bối rối và lo sợ.

Thế gian cho bạn bè những niềm vui chóng qua, những thỏa mãn nhu cầu vật chất khiến họ tưởng rằng những thứ đó giúp họ được an lòng, nhưng thực ra trong lòng họ vẫn còn một khoảng trống mà vật chất trần gian không khỏa lấp được. Có một lần, một nữ minh thinh màn bạc đã thốt lên rằng:Tôi có tiền, có tài, có sắc, có danh vọng cao vời, đấng lý ra tôi phải là người hạnh phúc nhất đời, nhưng trái lại tôi thật khốn khổ, phiền muộn chẳng thấy an lòng lúc nào.

Nếu không có Bình An trong tâm thì chẳng ích lợi gì, con người vẫn tiếp tục là lữ khách cô đơn và lạc lõng. Trái lại cũng sống giữa trần gian như mọi người, Thánh Phanxicô nghèo vui mừng tràn đầy. Cha sở xứ Arc, cha Gioan Vianney an bình vui sống giữa bày chiên độc ghét. Ai được an vui hơn ông già bà già sống tuân ý Chúa ngày ngày khẩn nguyện Chúa là Cha.

Bình An thật không ở tại lắm của nhiều tiền, không ở tại danh cao quyền lớn, nhưng ở tại thiện tâm thiện ý, ở tại cõi lòng muốn hé mở đón nhận Chúa là Cha và thực hiện tình con cậy trông phó thác và mến yêu Chúa.

Các Mục Tử đêm Giáng sinh, các tông đồ của Tin Mừng hôm nay là những người thiện tâm. Tội lỗi, sợ hãi, lo âu không thể cướp được lòng ngay và thiện tâm của họ. Vì thế Bình An chủa Chúa tràn ngập lòng họ và cuộc đời trở thành êm nhẹ. Sách Gương Phúc có nói:Khi có Chúa hiện diện, mọi sự đều tốt đẹp cả và chẳng có gì xem ra khó khăn nhọc nhằn. Khi hết niềm cậy tin vào Chúa thì mọi sự trở nên đắng cay, lo âu, buồn phiền và đưa đến thất vọng. Sống mà không có Chúa khác gì môt cánh rừng hoa vu. Sống với Chúa Giêsu là một thiên đàng hạnh phúc (Gương Phúc II,7).

Chúng ta hãy nhìn vào bản thân mình để kiểm lại cuộc sống xem mình đang được an bình hay đang bối rối lo ấu, sợ sệt và hãy bày tỏ với Chúa những gì chúng ta muốn, những gì chúng ta cầu mong. Chớ gì sự Bình An chủa Chúa luôn tràn ngập lòng chúng ta.

Lạy Chúa, xin đến viếng thăm con và mang đến cho con nguồn Bình An cho tâm hồn mỗi khi sóng lòng chúng con nổi dậy (TV.105:4). Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con biết tìm kiếm sự Bình An trong lòng, Bình An thật của Chúa ban, để chúng con sống một đời hạnh phúc trong Chúa và vui với mọi người trong mọi nơi mọi lúc. (5-2003)

Trích Dongcong.net - Lm. Thu Băng, CMC

---------------------------

 

PS3-B27. Bình an cho các con

 

Theo dõi chu kỳ Phụng Vụ, từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: PS3 B-27


Theo dõi chu kỳ Phụng Vụ, từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sách Tông Đồ Công Vụ được trích đọc, trình bày cho chúng ta thấy Hội Thánh Chúa Kitô đã thiết lập từ những buổi sơ khai cho tới lúc trở thành một Tôn Giáo Quốc Tế, được lan tràn khắp các dân tộc, không phân biệt mầu da tiếng nói... Đó là công trình của Chúa Thánh Thần, "Đấng được sai đến để làm chứng về Chúa Kitô" (Jn 16:26).

I. Hãy hối cải để được thứ tha

Qua bài đọc I chúng ta vừa nghe, tường thuật lại phép lạ người què, vốn ngồi ăn xin của bố thí tại Cửa Đẹp Đền Thờ mà ai cũng biết, nay được chữa lành, khiến mọi người bỡ ngỡ, cảm phục và đổ xô đến với Phêrô và Gioan. Thánh Phêrô đã thẳng thắn tuyên bố với họ: "Tại sao anh chị em ngạc nhiên về việc đó, và tưởng như chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người què này đi được? Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacob đã làm vinh danh Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, Đấng anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha cho tên sát nhân, còn Đấng ban sự sống thì anh chị em lại giết chết. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Chính lòng tin vào Người đã chữa anh què này hoàn toàn được lành mạnh".

Sau khi Thánh Phêrô đã thẳng thắn nói cho người Do Thái biết tội lỗi của họ, ngài đã chữa lỗi cho họ và chân thành khuyên nhủ họ hối cải để lãnh nhận ơn tha thứ: "Hỡi anh chị em, tôi biết anh chị em đã hành động vì không biết. Nhưng Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các Tiên Tri báo trước: Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy hãy hối cải, để tội lỗi anh chị em được xóa bỏ" (Act 3:11-26). Hãy làm hòa với Chúa để anh chị em được lãnh ơn thứ tha.

II. Giáo lý và mẫu gương yêu thương

Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ luôn luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi loài người xúc phạm, phản bội Ngài; nếu loài người biết hối lỗi trở về làm hòa với Ngài. Chúa Kitô là Con Một Thiên Chúa, là Thiên Chúa chân thật, đã nhập thể làm Người sống nơi trần gian, cũng là để mặc khải lòng nhân từ, tình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Chính Người đã trở nên Đấng Cứu Chuộc rất nhân từ; suốt cuộc đời Người chỉ biết rộng tay ban phát mọi ơn lành cho nhân loại. Người luôn tha thứ cho những kẻ phản bội, kẻ vô ơn bội nghĩa, kẻ bách hại, bắt bớ, xỉ nhục và treo Người chết trên Thập Giá. Ngay cả lúc Người sắp tắt thở trên Thập Giá, Người còn xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ làm khốn Người: "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết việc mình làm" (Lc 23:34).

Trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô đã không ngừng truyền bá giáo lý Tình Thương của Chúa; dạy cho chúng ta biết lấy tình thương làm lẽ sống, làm kim chỉ nam hướng dẫn, điều khiển cuộc sống chúng ta trên trần gian này, để tiêu diệt hận thù, chém giết, chèn ép, bất công; ngõ hầu an bình, hạnh phúc được thống trị trên trần gian, quản trị các dân tộc, điều khiển các quốc gia, xây dựng các gia đình, nhất là làm cho các tâm hồn được hưởng niềm an bình hạnh phúc, thứ an bình hạnh phúc chân thật Chúa chỉ ban cho các con cái ngoan thảo của Chúa. Chính Chúa Kitô đã sống giáo lý tình yêu thương đó và đặt Mình làm gương mẫu cho chúng ta noi theo bắt chước, để chúng ta trở nên khí cụ xứng tiện Chúa dùng, hầu biến đổi trần gian này nên nơi hạnh phúc, nơi được Chúa Tình Thương thống trị.

III. Bình an là điều kiện hạnh phúc

Bình an là điều kiện để được hạnh phúc. Đó là báu tàng mà mọi người sống trên trần gian đều khao khát ước mơ; thiếu bình an người ta sẽ luôn lo âu, sợ hãi, khắc khoải, dù người ta có nhiều tiền của, lắm chức quyền, sống sang trọng mấy đi nữa... Người ta không thể có cuộc sống hạnh phúc thoải mái nếu không có sự bình an chân thật trong tâm hồn. Chính vì bình an là điều quan trọng và cần thiết như thế, nên sau khi sống lại từ cõi chết, mỗi lần Chúa Kitô hiện ra với các môn đệ, Người đều chào chúc các ông bằng lời: "Bình an cho các con!"

Vậy làm thế nào để được hưởng sự bình an chân thật? Muốn được hưởng sự bình an chân thật, cần phải có tâm hồn trong sạch, tâm hồn không bị quyền lực tội lỗi thống trị, tâm hồn có ơn nghĩa với Thiên Chúa, tâm hồn luôn biết tin tưởng phú thác nơi tình yêu thương của Người.

Ngày 8.10.1951, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành nhạc nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cáo cho "Ông Xếp" nhà ga hay tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa, chia nhau đi tìm kiếm dọc theo đường xe lửa, suốt 2 tiếng đồng hồ, mới phát giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi hành khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi, khi được hỏi thì anh ta trả lời ấp úng là không biết gì cả, nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật, nên người ta cũng bỏ qua.

Hai tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu Viện các Cha Dòng Benedictô xin nhập Dòng. Anh được nhận, sau 2 năm thử luyện, thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận anh vào Tập Viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập Viện, anh được phép về thăm gia đình 2 tuần lễ. Ngay ngày đầu tiên, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu, anh quì chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết, anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: "Tôi không thể chịu được nữa!" Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người ta đã quên đi vì không điều tra ra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói, là cô ta không biết gì đến anh nữa. Vì thế, anh ta đã nổi cơn điên, nên đã hành động độc ác như thế.

Kết luận

Câu truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện, cũng không trấn an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.

Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước.
Trích Dongcong.net - Lm.Minh Vận, CMC

---------------------------

 

PS3-B28. Chia sẻ sứ điệp Đức Kitô


Cv 3:13-15,17-19; 1 Ga 2:1-5a; Lc 24:35-48

 

Mùa Chay thực sự đã qua rồi. Chúng ta đang đắm chìm ngụp lặn trong Mùa Phục Sinh, mừng: PS3 B-28


Mùa Chay thực sự đã qua rồi. Chúng ta đang đắm chìm ngụp lặn trong Mùa Phục Sinh, mừng Đức Kitô chiến thắng cái chết. Thế mà những bài đọc hôm nay vẫn cứ tập trung vào chủ đề kêu gọi thống hối, hoán cải và xa tránh tội lỗi. Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn nhớ rằng để cùng chia sẻ cuộc sống mới của Đức Kitô Phục Sinh, trước tiên chúng ta phải chung phần cuộc sống của Đức Kitô chịu đóng đinh. Không có con đường tắt dẫn đến sự sống đời đời: nếu không có mão gai sẽ không có vương miện; nếu không có khổ hình thập giá sẽ không có vương quyền vinh hiển. Chết và sống lại phải diễn ra trong con người của chúng ta. Chúng ta phải chết cho chính mình để sống cho Thiên Chúa. Chúng ta phải tránh xa tội lỗi bất cứ giá nào, vì tội lỗi chia cách chúng ta với Thiên Chúa, và ngăn cản chúng ta đến với vinh quang mà Ngài đã dành sẵn cho chúng ta.

Phục Sinh không chỉ giới hạn vào một sự kiện lịch sử, vào một biến cố xảy ra cho Đức Chúa Giêsu cách đây 2000 năm. Mà việc sống lại ấy vẫn còn là một thực tại hiện thời, vẫn còn nóng hổi tính thời sự mà chúng ta có lẽ vẫn còn cảm nghiệm được. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết ý nghĩa sự sống đích thực ấy là gì cho đến khi sống cuộc sống ấy, dấn bước theo từng dấu chân Chúa. Phục Sinh không phải là một việc chúng ta có thể đắc thủ được trong một sớm một chiều, mà chính là một tiến trình biến đổi tiệm tiến diễn ra âm thầm trong lòng chúng ta. Đó là những khi chúng ta quay lưng lại với bóng tối mà sống vì Thiên Chúa, cho Thiên Chúa. Dần dà chúng ta sẽ tới chỗ nhìn cuộc đời này không phải bằng đôi mắt trần của chúng ta nữa mà là bằng cái nhìn của Đức Kitô.

Tin Mừng cho chúng ta biết Đức Kitô đã khai lòng mở trí các tông đồ như thế nào để các ông hiểu rõ ý nghĩa của Kinh thánh. Người đã giải thích cặn kẽ tại sao Người phải chịu khổ đau và sống lại từ cõi chết sau ba ngày. Hơn nữa các ông sẽ ra đi làm chứng cho Đức Kitô trước mọi dân nước, đồng thời rao giảng lòng thống hối để được thứ tha mọi lỗi lầm. Sáng nay chúng ta nguyện cầu Đức Chúa Giêsu đến với cuộc sống chúng ta ngõ hầu tâm trí chúng ta được khai mở thông thoán đón nhận Lời Thiên Chúa. Rồi đến phiên chúng ta ra đi làm chứng cho Tin Mừng và bộc lộ sức sống phục sinh mạnh mẽ của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Những môn đệ đầu tiên đã không ôm giữ khư khư Tin Mừng cho bản thân, nhưng đã hối hả chạy đi chia sẻ niềm vui đầy ắp trong lòng cho bất cứ ai lắng nghe. Cũng thế, mối tương quan thân thiết giữa chúng ta với Đức Kitô đòi hỏi chúng ta phải thông truyền tin vui Phục sinh đến với mọi người bằng thái độ, giá trị, và lối sống mình.

Sứ điệp Kitô hữu không bao giờ trở thành của chúng ta nếu chúng ta không chia sẻ nó với chính gia đình chúng ta, với bằng hữu, và những người khác chúng ta gặp gỡ trong đời. Mà nếu chúng ta muốn làm chứng cho tin mừng của Đức Kitô, chúng ta phải ngừng ngay lối sống nửa nạc nửa mỡ và phải mạnh dạn biểu lộ sức sống phục sinh ra cuộc sống chúng ta. Kết hợp với Đức Kitô nghĩa là đồng tâm nhất trí với Đức Kitô và cư xử như Đức Kitô. Đức Kitô phục sinh chỉ có thể tác động ảnh hưởng vào thế giới này một khi chúng ta biết kết hợp lời nói và hành động chúng ta để bộc lộ quyền năng của Người. Chúng ta được kêu mời dốc sức xả thân phục vụ Đức Kitô mà không giữ lại cho mình điều gì.

Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.

---------------------------

 

PS3-B29. Chúa Phục Sinh và ngân hàng tình yêu

 

Nhiều người quen cho rằng tôi hay “quậy”, mà tôi cũng thích quậy thật, có lẽ là do tôi sanh: PS3 B-29


Nhiều người quen cho rằng tôi hay “quậy”, mà tôi cũng thích quậy thật, có lẽ là do tôi sanh nhằm năm con khỉ. Khi muốn “quậy” một việc gì, dĩ nhiên tôi phải rủ thêm nhiều người. Có những người khi tôi rủ làm việc gì thường có nhiều lý do để khước từ, và lý do tôi thường được nghe là: Việc đó thấy xa vời, diệu vợi, đòi hỏi nhiều khả năng mà mình không có... Nhưng cũng có vài người chắc giống tôi, nên khi tôi rủ làm gì cũng vui vẻ nhận lời và còn kéo thêm bạn của họ vào nữa. Ngược lại, khi có ai rủ làm việc gì tôi cũng dễ nghe theo.

Thực ra thì chúng tôi chẳng có một chương trình làm việc gì đáng kể, mà chỉ làm vì thấy có nhu cầu và trong khi không ai chịu làm thì phe ta cứ việc trực chỉ, không sợ dẵm lên chân của ai hết. Đây chỉ là những công việc mà người ta gọi là công tác món, hay việc lặt vặt, như tổ chức tĩnh tâm, giờ cầu nguyện, họp mặt, văn nghệ bỏ túi, làm báo, v.v... Những công tác món này chỉ được thực hiện với tính cách nhất thời, có khi thành công ngoài dự tính và cũng nhiều lần thất bại. Duy có một điều chúng tôi nhận ra, là tình thân của chúng tôi nảy nở theo công việc và thời gian làm việc chung với nhau. Có lẽ vì chúng tôi có ít nhất một điểm giống nhau, là không những thích làm vì lợi ích chung cho mọi người tham dự, mà còn vì thấy mình được hưởng tình thân và sự thích thú do công việc đem lại, cho nên khi làm việc ít gặp mâu thuẫn, hoặc nếu có mâu thuẫn thì cũng giải quyết cách nhanh chóng để công việc được xúc tiến. Qua những công việc này mà chúng tôi có được một tình bạn chân thành, chứ trước đó chúng tôi là những kẻ xa lạ, nếu có chạm trán nhau ở nhà thờ thì đều lạnh lùng và còn có vẻ như hơi “kên”nhau nữa. Và cũng qua những công việc này, chúng tôi có dịp quen biết và thân thiện với rất nhiều người khác trong cộng đoàn.

Vì vậy tôi rất phục những người có can đảm và khả năng “quậy”những chuyện lớn hơn, những công tác xã hội có tầm vóc rất lớn, như giúp đỡ đồng bào và trẻ em nghèo khổ bên Việt Nam, những trại cùi, cô nhi viện, nạn nhân bão lụt, v.v... Những công việc này không những đem lại sự nâng đỡ về mặt vật chất, và sự ủi an tinh thần cho những người kém may mắn, mà còn đem lại niềm vui và tình thân cho những người đang cùng nhau dấn thân phục vụ nữa.

* * *

Trong mùa Phục Sinh 3 năm trước đây, tôi được đọc bài “The Resurection: How We Know ItỴs True” của Msgr. William H. Shannon đăng trong tờ Catholic Update. Msgr. Shannon nói rằng chúng ta “nhận ra một Đức Giêsu sống lại không phải bằng kinh nghiệm có được do quan sát, mà bằng một cảm nghiệm có được qua đức tin”. Sự sống lại của Đức Giêsu là một khởi đầu của đời sống vĩnh cửu, chứ không phải sự trở lại với sự sống của thân xác bình thường được kết thúc bằng sự chết như Ngài đã sống trước đó. Vị Monsignor này cho rằng sự sống lại này là một mầu nhiệm và Đức Giêsu chỉ mặc khải cho những ai được chọn mà thôi, chứ không phải là một sự kiện xảy ra mà ai cũng có thể thấy được, hoặc nghe qua người khác diễn tả, nhất là chẳng ai chứng minh được.

Bằng lối viết dí dỏm, Msgr. Shannon lý luận: “Chắc chắn là Đức Giêsu đã sống lại như một mầu nhiệm hơn là một sự kiện xảy ra cách bình thường như bao sự kiện khác trong đời sống. Vì nếu là một sự kiện như trăm ngàn sự kiện khác, thì Đức Giêsu đã cho mọi người đều thấy và tin ngay lập tức. Chẳng hạn như Người có thể hiện ra nơi dinh thự của Philatô, trong khi vợ chồng ông đang dùng bữa ăn sáng, để rồi bà vợ ông sau đó sẽ bảo chồng: “Thấy chưa, tôi đã bảo ông rằng đừng có đụng vào người này mà!”

Hoặc oai hùng hơn: “Đức Giêsu có thể bảo các môn đệ của mình tổ chức một cuộc rước, giống như cuộc rước họ đã làm trong ngày lễ Lá. Ngài sẽ tiến vào thành Giêrusalem, không phải trên lưng con lừa ốm yếu như lúc trước, mà trên lưng một con tuấn mã thuộc loại ngựa đua thắng giải ở tiểu bang Kentucky chẳng hạn, và chào đón mọi người khi Ngài rảo qua khắp thành trong khải hoàn.”

Tác giả còn đưa ra một tư tưởng độc đáo hơn nữa: “Tại sao Đức Giêsu lại không hiện ra với Tiberius Caesar ở Rome lúc đó? Ngài đã có thể ra lệnh để ông này loan báo Tin Mừng cho khắp đế quốc La Mã lúc bấy giờ. Điều này có nghĩa là đế quốc La Mã đã có thể trở thành Kitô Giáo cả 300 năm trước thời của Constantine. Thử nghĩ xem mọi việc đã dễ dàng hơn biết bao, nếu Đức Giêsu đã làm những điều này. Đâu cần phải có biết bao thánh Tử Đạo phải đổ máu. Phêrô đã không phải chịu đóng đanh ngược. Phaolô đã không bị chém đầu tại Tre Fontane ở ngoại thành La Mã. Các thánh Ignatius thành Antioch và Perpetua, Felicity, Agnes và Cecilia và còn biết bao thánh khác đã không bị ném cho thú dữ phanh thây nơi hí trường La Mã.”

Cũng theo lý luận của Msgr. Shannon, thì Thiên Chúa có thể tự làm mọi việc thật nhanh chóng và hoàn hảo, nhưng hình như Thiên Chúa muốn ưu ái để dành những công việc Rao Truyền Tin Mừng cho chúng ta, để chúng ta được góp phần vào sứ mệnh cứu chuộc của Ngài và được lãnh nhận nhiều ân sủng qua sự đóng góp ấy. Và nói theo cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận nơi chương 2 trong cuốn Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá, thì Thiên Chúa muốn giao cho ai việc gì, bao lâu, làm được tới đâu.. . là tùy thánh ý của Ngài. Vấn đề là chúng ta làm gì với những việc Ngài trao ban?

Theo hệ thống kinh tế tư bản, thì ngân hàng quốc gia cho các ngân hàng của tư nhân mượn tiền để rồi họ sẽ cho các xí nghiệp hoặc dân chúng vay mượn với mức lời cao hơn. Các xí nghiệp và dân chúng đến mượn tiền từ các ngân hàng này để kinh doanh, hoặc xử dụng cho những nhu cầu cấp bách và sẽ hoàn trả lại cho ngân hàng khi xong việc. Dù trở thành giàu có hay sạt nghiệp vẫn phải trả đầy đủ cả vốn lẫn lời, nhưng cũng may là có Chapter 11 để bảo vệ tài sản cá nhân khi vốn liếng làm ăn đã bay sạch. Dựa theo lý luận của Msgr. Shannon, theo quan niệm làm việc cho Chúa của Đức cố HY Thuận, và theo hệ thống ngân hàng của Mỹ, thì Chúa Giêsu đã giao cho cộng đồng Kitô hữu một số vốn kếch xù từ công cuộc cứu rỗi của Ngài, là Tình Yêu. Từ số vốn Tình Yêu này, các Kitô hữu tiếp tục đi khắp thế gian để “kinh doanh” rộng lớn, làm lời thêm bao nhiêu là Tình Yêu trong hai ngàn năm qua và mãi mãi& Và chắc Thiên Chúa cũng có cả chapter 11 nữa để tha sạch các món nợ nếu người Kitô hữu không trả nổi.

* * *

Như đã nói ở phần đầu về những công việc tôi làm chung với người khác, đó là những cơ hội “kinh doanh” do vốn liếng Tình Yêu từ ngân hàng của Thiên Chúa, và mức lời chúng tôi làm ra là tình thân ái giữa anh chị em mình và giữa mình với những người mình phục vụ. Ngân hàng của Thiên Chúa không những giúp cho chúng tôi có được những cơ hội làm ăn mà còn cấp thêm những vốn liếng cần thiết khác như thời giờ, sức khoẻ, khả năng,v.v... Giống như ngân hàng thường cho thân chủ vay mượn tuỳ theo mức độ tín dụng của họ, công việc phục vụ của một nhóm Kitô hữu có mức độ tín dụng được xét trên sự hiệp nhất và liên kết giữa mọi người. Mức độ hiệp nhất và liên kết càng cao, nhóm làm việc càng được cho mượn những số vốn tương đương để thực hiện những công việc có tầm vóc lớn hơn.

Tôi cũng đã nói ở trên, là cho tới nay nhóm chúng tôi chỉ làm được những việc có tính cách vụn vặt. Một vài lần tôi cũng đã liên hệ trong những việc lớn hơn, điển hình là việc tổ chức một phong trào Hướng Đạo và những sinh hoạt khác cho giới trẻ trong cộng đoàn của mình, nhưng đã chẳng đi đến đâu. Có lẽ vì chúng tôi còn nghĩ đến những thành công vẻ vang cho cá nhân của mình, hơn là nhắm vào việc tạo tình thân ái như món lời mà Thiên Chúa muốn chúng tôi phải làm ra. Tôi cũng đã chứng kiến những hội đoàn được phát triển mạnh mẽ, đem lại sức sống vui tươi cho giáo dân nơi nhiều cộng đoàn, trong khi có nhiều hội đoàn khác được khởi đầu nhưng đã không tồn tại được. Lại có những người lãnh đạo của các hội đoàn có lẽ đã quên mất rằng mình đang mượn tất cả vốn liếng từ Thiên Chúa, nên thường hành xử như mọi việc đã hoàn toàn thuộc về quyền sở hữu của mình, nhất định không cho ai nhúng tay vào, để rồi cuối cùng lời chẳng làm ra mà chỉ thấy lỗ vốn, vì đã không tạo được tình thân ái mà còn gây chia rẽ, khiến chẳng còn ai muốn cộng tác nữa.

Một điều nữa về công việc chung, là khi phải giao lại cho người khác chưa có kinh nghiệm, tự nhiên là tôi lo lắng không biết người đó có làm được như mình hay không. Sau này tôi nghĩ Chúa ban cho mình khả năng làm được thì Chúa cũng ban cho người khác như vậy. Trong một lần nói chuyện với vị director của chương trình Mục Vụ Giới Trẻ của Tổng Giáo Phận nơi tôi ở, tôi chia sẻ với ông rằng tôi quan niệm những công việc tập thể giống như những cuộc chạy đua tiếp sức (relay). Khi tới phiên mình thì tôi chạy hết sức mình, nhưng khi chiếc ba-toong đã trao vào tay người khác thì tôi nên đứng bên lề hò hét, cổ võ, chứ không thể lo lắng về việc người ta chạy ra sao. Ông ta rất thích và nói sẽ dùng ý tưởng này trong việc viết sách của ông. Ý tưởng này giống như điều cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã viết trong cuốn Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá:

“Nếu Chúa muốn, con hãy trao việc của Chúa lại trong tay Chúa,
Chúa xử dụng ai tiếp tục, mặc ý Chúa.
Có Chúa lo, mà Chúa lo thì muôn vạn lần hơn con lo.
Con hãy chọn một mình Chúa”.


Nguyễn Thị Kim Loan

---------------------------

 

PS3-B30. Nhận biết Đức Giêsu


I. Dẫn vào Thánh lễ

 

Trên cuộc lữ hành dương thế, chúng ta không phải là người độc hành cô đơn phải tự mình giải: PS3 B-30


Trên cuộc lữ hành dương thế, chúng ta không phải là người độc hành cô đơn phải tự mình giải quyết mọi vấn đề. Nhưng có Chúa cùng đi với chúng ta. Tuy vô hình nhưng Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Lời Ngài soi sáng tâm trí và sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe câu nói mà phụng vụ thường nhắc đi nhắc lại: "Chúa ở cùng anh chị em".

II. Gợi ý sám hối

* Đức Giêsu đã nói "Bình an cho chúng con". Nhưng bình an có đang thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng ta và trong môi trường chúng ta sống không?

* Đức Giêsu đã nói "Hãy ở trong Thầy". Nhưng chúng ta có thực sự ở trong Chúa khi cầu nguyện, khi lãnh nhận các bí tích và khi sống trong cộng đoàn Giáo Hội không?

* Đức Giêsu đã nói "Chúng con là nhân chứng của Thầy". Nhưng chúng ta có thực sự làm chứng cho Chúa qua lời nói, việc làm và cách sống không?

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 3, 13-15. 17-19

Sau khi Phêrô chữa lành một người què tại cửa Đền thờ, nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân cơ hội này, Phêrô giảng một bài:

* Trong phần đầu bài giảng, Phêrô xác nhận người què này được chữa lành không phải nhờ quyền năng hay đạo đức riêng của ông, mà chính là nhờ Danh Giêsu.

* Qua phần hai, Phêrô nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ông nói người Do Thái đã giết Đức Giêsu vì họ không "biết". Nay Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Việc này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đấng Messia. Vậy họ hãy sám hối và tin vào Ngài để được ơn cứu độ.

2. Đáp ca: Tv 4

Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng trông cậy phó thác: mặc dù đang ở trong cơn khốn khó, tín hữu vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình cho nên người tín hữu cảm thấy "thư thái bình an, vừa nằm tôi đã ngủ".

Đức Giêsu chính là người sống tâm tình này tuyệt hảo nhất: Ngài đã "nằm ngủ" bình an trong tay Thiên Chúa rồi được Thiên Chúa cho "thức dậy" qua cuộc phục sinh.

3. Tin Mừng: Lc 24, 35-38

Hai môn đệ Emmau đã theo Đức Giêsu bấy lâu nay, họ nghĩ rằng họ "biết" Ngài. Theo cái "biết" ấy thì Ngài chỉ là "một tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ" và họ "hy vọng Ngài sẽ cứu Israel".

Nhưng khi Đức Giêsu bị giết, họ mới ý thức rằng cái "biết" đó chỉ là cái họ "tưởng" chứ không phải là "biết" thật.

Đức Giêsu giúp họ "biết" thực sự, nhờ việc Ngài giảng giải Lời Sách Thánh và nhờ việc Bẻ bánh.

Khi đã "biết" Đức Giêsu, hai ông vội vã trở lại Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác "biết" nữa.

4. Bài đọc II: 1 Ga 2, 1-6a

Chịu ảnh hưởng của thuyết Ngộ đạo, các tín hữu cũng coi trọng sự "biết" và họ tự hào rằng mình đã biết Đức Giêsu.

Thánh Gioan tông đồ giải thích thế nào là "biết" thật: "Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình "biết" Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình "biết" Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối".

IV. Gợi ý giảng

* 1. "Biết" và được cứu độ

Vào khoảng cuối thế kỷ I, có một lạc thuyết nổi lên trong Giáo Hội, đó là thuyết Ngộ đạo. Thuyết này đề cao sự hiểu biết ("ngộ"): ai đã đạt đến trình độ hiểu biết cao sâu về Chúa thì sẽ bảo đảm được cứu độ. Ngày nay, có nhiều người cũng lầm tưởng rằng nếu "biết" giáo lý, "biết" lề luật, "biết" Thánh Kinh thì cũng bảo đảm được phần rỗi.

Bài Tin Mừng hôm nay xóa tan ngộ nhận ấy, cái "biết" có thể mang đến ơn cứu độ là cái "biết" do suy gẫm sách Thánh và kết hợp với Đức Giêsu Thánh thể. Bài trích thư thứ nhất Thánh Gioan cho thấy thêm một điều kiện nữa: không chỉ biết Chúa mà còn phải tuân giữ các giới răn của Ngài nữa thì mới được cứu độ.

* 2. Những cảm nghiệm Emmau

Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đó là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Ch. Perrot đã đoán lý do khác ấy là: "Người bạn của Clêôpát không được nêu rõ tên nhưng lại mang tên của mọi tín hữu". Nghĩa là, theo suy đoán của Ch. Perrot, Thánh Luca cố ý không nêu tên người môn đệ kia vì muốn coi người ấy là đại biểu của mọi tín hữu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể trải qua những cảm nghiệm của người môn đệ ấy.

Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.

1. "Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Ngài": Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức Giêsu phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến một lúc nào đó, nếu Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ quán, "mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài".

2. Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức Giêsu phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài? Cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau cho thấy nhờ hai điều:

* a/ Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh: "Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh". Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó: "Dọc đường khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao?".

* b/ Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể: "Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài".

Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.

****

Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh Thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không "cháy bừng lên", và khi tham dự Thánh Lễ mắt chúng ta không "mở ra"? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc với Đức Giêsu như hai môn đệ Emmau; và chúng ta dâng Thánh Lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài.

Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.

3. Cuộc sống mới của các môn đệ

Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ cũng chết luôn, chết về mặt tinh thần và về luân lý: nhóm 12 đã rã rời, vì Giuđa đã tự vẫn, Tôma đã bỏ đi do khủng hoảng đức tin, những người còn lại thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng.

Nhưng ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu phục sinh cũng làm cho họ sống lại: Ngài chủ động đến với họ chứ không chờ họ đi tìm Ngài, Ngài không nói một lời trách móc nhưng lại chúc bình an, Ngài ăn uống với họ để họ tin chắc Ngài vẫn sống, Ngài mở trí cho các ông hiểu ý nghĩa Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng cho muôn dân. Tất cả những việc làm tế nhị và yêu thương ấy đã giúp cho các môn đệ

* không còn sợ hãi
*không còn nghi ngờ
*không còn mặc cảm tội lỗi
*không còn buồn phiền
*không còn thất vọng

Con người cũ của các ông không còn, các ông như được sống lại trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.

4. "Hãy nhìn chân tay Thầy"

Một người con kia rất yêu thương cha mình. Người cha là một nông dân, suốt đời cần cù lao động để nuôi sống gia đình. Khi người cha chết đi, lòng người con rất buồn rầu. Anh cứ đứng gần thi thể của cha mà nhìn, nhất là nhìn đôi bàn tay của cha. Anh nói: "Nhìn đôi bàn tay sần sùi chai sạm ấy, tôi nhớ lại tất cả những cực nhọc khổ sở mà cha tôi đã chịu vì yêu thương tôi"

Khi hiện đến với các môn đệ, Đức Giêsu cũng bảo họ hãy nhìn chân tay Ngài, những chân tay không phải chai sạm mà đầy những thương tích. Nhìn không phải chỉ để xác nhận Đức Giêsu hôm nay cũng chính là Đức Giêsu hôm qua bị đóng đinh, mà còn để nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Ngài: "Không có tình thương nào lớn hơn tình của người thí mạng sống cho người mình thương".

Khi hiện ra với Tôma, Đức Giêsu cũng bảo ông hãy chạm đến các vết thương của Ngài, rồi Ngài nói: "Đừng hồ nghi nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20, 28). Tin gì? Không chỉ tin là Ngài đã sống lại, mà còn tin vào tình thương của Ngài.

Tình Chúa thương ta là một điều chắc chắn, đã được đóng dấu bằng những vết thương trên thân xác Ngài. Chúng ta hãy tin chắc như thế, không có gì lay chuyển được.

5. Biến cố làm đảo lộn lịch sử thế giới

Trong những ngày ấy, có hai người bước trên đường về Emau, một làng cách Giêrusalem vài cây số. Về Emau, có nghĩa là trở về hư vô, về cõi của những niềm hy vọng đã tan vỡ. Họ kiệt lực rồi, họ hết còn mơ mộng, họ cũng đã hết nhiệt tình. Trước đây, họ đã đi theo phong trào Giêsu với tất cả nhiệt huyết, họ cứ chắc mẩm rằng họ sẽ giải phóng thế giới khỏi cái ác, giải phóng dân tộc họ khỏi giới quí tộc Đền thờ và khỏi ách đô hộ La Mã.. Nhưng nay thì hết rồi Thầy đã chết, chết quá dễ dàng không một biểu hiện tự vệ. Các thủ lãnh phong trào Giêsu, những bạn đồng hành thân cận nhất của Thầy, những người mà Thầy tín cẩn, cũng đã lánh mặt vì khiếp nhược, vì thất vọng. Có người thậm chí còn bảo, anh Phêrô nhiệt tình là thế, bao giờ cũng tranh ăn trên nói trước, thế mà người ta bảo anh đã thề độc, đã chứng minh anh không hề quen biết Giêsu.

Thế là hết. Hai anh tưởng đã được tham dự vào một cuộc phiêu lưu độc đáo, khiến cho đời các anh có một ý nghĩa rực sáng, mở ra cho hai anh, mở ra cho mọi người một tương lai chan chứa niềm vui và niềm hy vọng. Vậy mà giờ đây họ chỉ còn những nuối tiếc, hận đời và dằn vật.

Một người khách lạ nhập bọn với hai anh, bảo hai anh kể cho ông ta nghe về những nỗi buồn và niềm bất hạnh của họ. Cái ông khách này là một người hiếm hoi, biết nghe người khác nói. Rồi ông ta giải thích cho hai anh nghe về lịch sử thế giới, bắt đầu bằng kể về ông Môisê và các ngôn sứ. Hai anh thấy lòng ấm dần lên, cởi mở dần ra. Đầu óc của hai anh, chậm hiểu hơn trái tim, chỉ nhận ra Ngài sau khi cùng Ngài chia sẻ bữa tối và sau khi Ngài khuất dạng.

Thế là hai anh quay lại, bước ra khỏi tăm tối và hư vô, trở về Giêrusalem. Những người các anh gặp lại ở Giêrusalem cũng đã từng trải qua những thất vọng não nề... Vậy mà những con người thảm hại ấy bỗng đứng lên, mạnh dạn tuyên bố rằng Đức Kitô đang sống, và bằng chúng thuyết phục nhất là chính họ đã thấy Ngài, thậm chí đã cùng ăn uống với Ngài.

Những điều họ nói, thật ra không phải một bằng chứng bằng chứng thuyết phục nhất là chính họ, những người thấp hèn, nhát gan, ít chữ nghĩa, nay dám đương đầu với mọi hiểm nguy và làm phục sinh lại phong trào Giêsu. Đến đâu họ cũng nhắc lại những lời yêu thương và giải phóng, những lời không hẳn được tất cả mọi người nghe theo, nhưng là những lời đã thay đổi lịch sử thế giới.

Vậy thì, trong những ngày ấy, đã có một biến cố xảy ra, như một vụ bùng nổ, làm xuất hiện niềm tin và thay đổi cuộc đời những người này. Đối với họ, biến cố đã xảy ra đó là, Đức Giêsu đang sống. Đức Giêsu đã phục sinh, và họ đã loan truyền cái tin ấy đến nỗi dám hy sinh cả mạng sống. Chẳng ai có thể đưa ra những bằng chứng để chứng tỏ điều đó. Ai cũng có quyền nghi ngờ. Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã rao giảng thì tôn trọng tự do của con người đến độ đẻ họ nghi ngờ và phủ nhận Ngài... Tuy nhiên, trong những ngày ấy, một biến bố đã xảy ra làm đảo lộn những người đàn ông, những người phụ nữ ấy, và đã làm đảo lộn thế giới.

Jacques Duquesne (Nhà văn Pháp)

6. Đời sống chứng nhân

Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.

Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.

Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.

Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.

Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.

****

Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.

Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.

Sự sống của Đấng Phục sinh: Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.

Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.

Đức Hồng Y Danielou có nói: "Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta".

Cha Charles de Foucauld quả quyết: "Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động".

Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói: "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr. 9, 16).

Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.

*Lạy Chúa,

Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi. Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.

Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.

Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và phải làm chứng về Chúa Phục sinh cho muôn dân. Ý thức trách nhiệm đó, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện:

1. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / luôn nêu gương khiêm tốn ăn năn sám hối về các thiếu sót lỗi lầm / và luôn kêu gọi mọi người ăn năn sám hối / để loại trừ bớt tội lỗi trong thế giới.

2. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết cộng tác với nhau để ngăn chặn chiến tranh / diệt trừ tội ác, khủng bố, giết người / và xây dựng một thế giới hòa bình hạnh phúc hơn.

3. Chúng ta cùng cầu xin cho những nạn nhân của bất công khủng bố / những người vô tội bị bách hại / những người nghèo đói bị khinh chê / những người yếu đuối bị áp bức / được Đức Giêsu Phục sinh nâng đỡ và ủi an.

4. Chúng ta cùng cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / luôn nhớ đến trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh cho mọi người chung quanh chúng ta.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhớ lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô là ăn năn sám hối và dùng tất cả đời sống làm chứng về Người, để chúng con thực sự là môn đệ của Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Đấng công chính nhưng đã hiến thân làm lễ vật đền tội cho loài người chúng ta. Chính vì công nghiệp của Ngài mà chúng ta dám thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta rằng: "Lạy Cha chúng con ở trên trời..."

- Chúc bình an: Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã "ở giữa các môn đệ và nói 'Bình an cho anh em". Hôm nay nguyện chúc bình an của Chúa cũng hằng ở cùng anh chị em.

- Trước rước lễ: Đức Giêsu phục sinh đã mời các môn đệ đụng chạm vào thân thể Ngài và hãy tin. Bây giờ Ngài cũng mời chúng ta kết hợp với Mình Máu Thánh Ngài. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây ĐấngẨ"

VII. Giải tán

Anh chị em đã biết rằng Đức Giêsu đã chịu nạn, chịu chết và sống lại để sinh on cứu rỗi cho loài người. Anh chị em phải làm chứng điều đó trước mặt mọi người. Chúc anh chị em về bình an.

Trích Nguoitinhuu.com - Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

---------------------------

 

PS3-B31. SLC – Loan báo

 

Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: mỗi khi nhận được một tin vui, chúng ta thường chạy: PS3 B-31


Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: mỗi khi nhận được một tin vui, chúng ta thường chạy đi nói cho người khác được biết, để cùng chia sẻ niềm vui ấy với chúng ta. Chẳng hạn như khi nhận được tin mình vừa mới thi đỗ, thế là lập tức, chúng ta vội chạy về nhà để loan báo cho những người thân yêu cùng biết.

Cũng vậy, trong phạm vi đức tin, việc Chúa sống lại là một tin mừng. Một khi đã đón nhận tin mừng Phục sinh thì chúng ta cũng có bổn phận phải loan báo tin mừng ấy cho những người chung quanh.

Trước hết, đây chính là ý muốn của Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại. Ý muốn này được Ngài nói lên qua những lần hiện ra.

Thực vậy, thiên thần đã nói với những người phụ nữ đi viếng mồ vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần rằng: Các bà đừng sợ chi cả, ta đã hiểu. Các bà tìm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Nhưng Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán. Hãy đến mà xem chỗ Ngài nằm. Vậy hãy về mau báo cho các môn đệ Ngài biết. Ngài đã sống lại, Ngài sẽ đến xứ Galilêa trước các ông. Nơi đây các ông sẽ xem thấy Ngài.

Rồi hôm nay, khi hiện ra với các môn đệ, Ngài cũng bảo: Có lời Kinh Thánh chép rằng Đấng Messia sẽ phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại. Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con sẽ làm chứng về những điều này.

Và sau cùng, trước khi về trời, Ngài cũng đã long trọng truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Cũng trong Phúc âm, chúng ta thấy: những người đã được diễm phúc đón nhận Tin Mừng Phục sinh, đã mau mắn thực hiện lệnh truyền của Chúa, đó là loan báo Tin Mừng ấy cho người khác.

Thực vậy, những người phụ nữ đã trở về loan báo cho các môn đệ hay: Chúa đã sống lại. Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng vậy, sau khi nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh, lập tức các ông đã chổi dậy, trở về Giêrusalem, và loan báo cho các môn đệ khác được hay: Chúa đã sống lại.

Và sau cùng, khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho mọi dân mọi nước. Và các ông sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng ấy. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đã làm được những gì để loan báo Tin Mừng Phục sinh cho những người chung quanh. Chúng ta đã làm được những gì để bản thân chúng ta trở thành chứng nhân cho tin mừng tuyệt vời ấy.

Hãy cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, biết dùng lời nói và việc làm, nhất là đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để loan báo tin mừng Phục sinh và trở nên những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.

---------------------------

 

PS3-B32. SNLC/269 – Didymo

 

Thánh Tôma, còn được gọi là Didymo, đã không hiện diện với các tông đồ khác khi Chúa Giêsu: PS3 B-32


Thánh Tôma, còn được gọi là Didymo, đã không hiện diện với các tông đồ khác khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Vì thế, khi các tông đồ khác nói với các ông rằng họ đã thấy Chúa hiện ra với họ, thì ông không tin. Ông Tôma nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Thánh Tôma giống như những người đời nay vẫn thường nói: “Khi nào thấy, tôi mới tin”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại hiện đến với các tông đồ một lần nữa ở Giêrusalem. Khi thấy Người, họ kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây”? Như vậy, Chúa Giêsu đang sống. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Người. Đức tin là lòng tin tưởng và phó thác. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã bị kết án tử hình và chịu đóng đinh nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại từ cõi chết.

Lòng tin của tôi vào Chúa Giêsu đã bị thử thách nhiều lần trong suốt mười năm tôi làm linh mục, nhưng cơn thử thách nặng nhất xảy ra khi tôi đã là linh mục được bảy năm.

Tôi thụ phong linh mục năm 1993, tại Maasim, tỉnh Sarangani. Trong bài giảng của lễ truyền chức linh mục cho tôi, Đức giám mục Gutierrez nói với dân chúng rằng trong các lễ truyền chức do ngài chủ phong thì chỉ lễ này là có đông phụ nữ tham dự như vậy. Mọi người nghe thế thì cười ồ lên. Đức Giám mục nói tiếp: “Vậy, những ai không muốn nghi thức truyền chức này được tiếp tục, xin hãy tiến lên đây và cho tôi biết lý do”. Một lần nữa mọi người lại cười ồ lên.

Sau nghi thức truyền chức linh mục, nhiều người vỗ tay chúc mừng tôi, tặng quà cho tôi, hôn bàn tay của tôi. Nhưng tháng 6/ 2000, nghĩa là bảy năm sau ngày chịu chức linh mục, những tiếng vỗ tay đã mờ nhạt đi. Người ta cư xử với tôi rất lạnh nhạt như thể tôi là thứ muối đã mất vị mặn, mặc dù tôi vẫn sống tốt, làm nhiều điều tốt. Rồi tôi đã đánh mất lòng nhiệt thành ban đầu. Thậm chí, đôi khi tôi đã nghĩ đến chuyện rời bỏ chức vụ linh mục.

Tuy nhiên, sau một cuộc hồi tâm phản tỉnh sâu xa, tôi nhận ra rằng sứ vụ linh mục của tôi không nên dựa vào những tiếng vỗ tay của dân chúng, những lời ca tụng và khen ngợi của họ. Điều cần nhất là phải dựa trên đức tin, lòng phó thác, sự vâng phục và tình yêu của tôi vào Thiên Chúa.

Tôi cũng nói điều này với bạn. Nếu bạn muốn phục vụ Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người thì bạn đừng làm vì những tiếng vỗ tay và những lời khen ngợi của dân chúng, nhưng hãy làm vì niềm tin và tình yêu của bạn đối với Chúa và chỉ vì bạn khao khát thực hiện thánh ý của Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết tập trung vào một mình Chúa mà thôi.

---------------------------

 

PS3-B33. CSTM/111 – Làm chứng

 

Việc Chúa sống lại không phải là một chuyện bịa đặt, một chuyện hoang đường, nhưng đâ: PS3 B-33


Việc Chúa sống lại không phải là một chuyện bịa đặt, một chuyện hoang đường, nhưng đây là một sự kiện lịch sử, vì có những chứng nhân bằng tai bằng mắt: lịch sử đã ghi lại việc Chúa chết thật và được tẩm liệm đàng hoàng, lịch sử đã ghi lại ngày Chúa Phục sinh, các thân hữu và cả những kẻ thù đã thấy mộ Chúa trống rỗng, lịch sử đã ghi lại sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần.

Nếu muốn biết chắc chắn, rõ ràng những điều đó, chúng ta hãy mở sách Tin Mừng, đọc kỹ đoạn 28 của thánh Matthêu, đoạn 16 của thánh Marcô, đoạn 14 của thánh Luca và đoạn 20 của thánh Gioan. Tất cả bốn thánh sử này cùng quả quyết: Chúa đã chết trên thập giá, đã được tháo xác xuống tẩm liệm, đã được táng trong mộ và trước cửa mộ được che bằng một tảng đá lớn, rồi tất cả đều quả quyết: ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Chúa nhật, Chúa đã sống lại.

Quả thực, Chúa Giêsu chết vào chiều Thứ Sáu, và ngày thứ bảy cuối tuần qua đi, rồi đến sáng sớm ngày đầu tuần lễ tiếp theo, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện ngôi mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong đó, ai cũng tưởng thi hài Chúa đã bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế, nhưng chính hôm ấy, Chúa đã đến gặp các ông khiến các ông sửng sốt và sợ hãi, không tin nổi là Chúa đã sống lại. Nhưng sự thực là như vậy, các ông đã nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay thân xác Phục sinh của Chúa, chẳng hạn như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng.

Trong khi các môn đệ còn đang hoang mang, lo lắng, tụ họp nhau trong phòng đóng kín, bàn tán về những chuyện đã xảy ra và đang xảy ra xoay quanh vấn đề Chúa chết và hiện ra với các phụ nữ và bà Maria Mađalêna vào sáng sớm hôm nay, tức là sáng sớm Chúa nhật Phục sinh, thì Chúa Giêsu hiện ra, đứng giữa các ông và chúc bình an cho các ông. Các ông hoảng hốt, sợ hãi, tưởng là ma. Cảnh Chúa hiện ra này không khác gì cảnh một thủ lãnh trước các đảng viên phản bội và đào ngũ, thế mà không một lời than phiền, không một lời trách móc, ngay cả một lời bóng gió ám chỉ sự hèn nhát của các ông cũng không nốt, Chúa vẫn chúc lành cho các ông. Hơn nữa, Chúa còn làm mọi cách để giúp các ông tin chắc là Ngài đã sống lại, Ngài đang ở giữa các ông, đó là ba bằng chứng sau:

Trước hết, Chúa thuyết phục các ông bằng cách cho các ông nhìn xem tay và chân Ngài còn mang vết đinh để các ông thấy đúng là Ngài đang đứng trước các ông chứ không phải ai khác, rồi Chúa còn bảo các ông sờ vào thân thể Ngài và nhìn cho kỹ để thấy rằng Ngài không phải là ma quái hiện hình hay là do ảo tưởng của các ông. Tiếp đến, Chúa đã đưa thêm bằng chứng để thuyết phục các ông. Ngài hỏi các ông có gì ăn không ? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mắt các ông. Với cử chỉ này, Ngài muốn họ tin chắc rằng: Ngài không phải là ma hiện hình. Sau cùng, Chúa thuyết phục các ông bằng một bằng chứng khác nữa, đó là lời Sách Thánh, Chúa nhắc lại cho các ông nhớ Sách Thánh đã báo trước: “Đức Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Thế nghĩa là những lời Sách Thánh đã nói đều ứng nghiệm nơi Ngài. Sau khi đã đưa ra tất cả những bằng chứng cần thiết chứng minh Ngài đã sống lại thật sự, Chúa bảo các ông hãy đi làm chứng về tất cả những điều ấy cho mọi người.

Như vậy, các tông đồ, các môn đệ đã có kinh nghiệm bản thân về cuộc đời cũng như về mầu nhiệm Phục sinh của Chúa, nên các ông là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về Chúa, nên Chúa bảo các ông hãy làm chứng về những điều ấy, tức là việc làm của Ngài đã hoàn tất, bây giờ đến lượt các ông phải nối gót Ngài hoàn thành công tác cứu chuộc nhân loại. Nhân loại cần được nghe biết và tin vào Chúa để đạt ơn cứu độ, các môn đệ phải làm chuyện đó và lịch sử đã cho thấy các ông đã thực thi vượt mức vai trò chứng nhân ấy.

Từ đó đến nay, luôn có những lớp chứng nhân mới, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không tin Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì chúng ta không phải là Kitô hữu, và một khi chúng ta đã tin thì đồng thời chúng ta phải loan báo cho người khác niềm tin đó nữa, đó là mục đích và lý tưởng cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.

Nói rõ hơn, chúng ta phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần đức tin, tinh thần Tin Mừng vào trong cuộc sống qua những việc làm hàng ngày, qua nghề nghiệp, qua các giao tiếp với người khác, và qua cả những lúc vui chơi, giải trí. Nói tóm lại, chúng ta phải làm chứng cho Chúa, cho đạo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả. Xin mỗi người hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa và cho đạo không ?

---------------------------

 

PS3-B34. Anh em là chứng nhân

 

Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma. Có lần: PS3 B-34


Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma. Có lần Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ, nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma. Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.

Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng. Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.

Khi các môn đệ yếu đức tin, họ coi Đức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi đức tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực.

Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa, vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ, giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược, hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau. Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến. Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài. Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.

Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ. Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại. Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời. Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.

Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế. Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.

Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết. Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động. Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người. Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ. Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không đâu. Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt, và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết. Họ phải là nguồn sống dồi dào, sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.

Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui. Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học. Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc. Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền. Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa, nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình, chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh, bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.

Chuyện Đức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì người ta có thể gặp đươc Đấng đang sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, người Kitô hữu phải làm gì để người khác tin rằng Chúa đã sống lại (phục vụ người nghèo, lạc quan giữa khó khăn, vui nhận những thiệt thòi...)?

Làm chứng cho Chúa bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay cả hay đều cần?

Cầu Nguyện

Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi."

Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.

---------------------------

 

PS3-B35. ĐƯỜNG LỐI VÀ Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA


CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM B (30.04.2006)

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ       

 

Ý nghĩa của phụng vụ Mùa Phục Sinh là làm cho người / cộng đoàn Kitô hữu “hiểu biết, yêu mến: PS3 B-35


 Ý nghĩa của phụng vụ Mùa Phục Sinh là làm cho người / cộng đoàn Kitô hữu “hiểu biết, yêu mến và sống theo đường lối và ý định của Thiên Chúa” đã được thể hiện trong lịch sử Cứu độ và nhất là trong cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa. Điều này rất quan trọng vì có như thế thì con người mới có thể đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa: hiệp thông trong tư tưởng và hiệp thông trong hành động.

        Các bài Thánh Kinh hôm nay trình bày về đường lối và ý định của Thiên Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô. Chúng ta hãy đọc chăm chú, lắng nghe và đón nhận sứ điệp của Lời Chúa để thực thi cho trọn tình trọn nghĩa.

           II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh

(1) Bài đọc 1: Cv 3, 13-15.17-19:

      (13) Hôm ấy ông Phêrô lên tiếng nói với dân chúng rằng: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. (14) Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. (15) Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.”  

  (17) "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. (18) Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. (19) Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em.”

(2) Bài đọc 2: 1 Ga 2,1-5a:

      (1) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính. (2) Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa. Điều kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái (3) Căn cứ vào điều này,chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. (4) Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. (5) Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.

(3) Bài Tin Mừng: Lc 24,35-48: Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ (Ga 20,19-20) và những lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ (Mt 28,16-20; Mc 16,14-18; Ga 20,21-23; Cv 1,6-8).

      (35) Bấy giờ hai môn đệ từ Emmau trở về, thuật lại những gì đã xẩy ra dọc đường và việc mình nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

    (36) Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!"  (37) Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. (38) Nhưng Người nói:  "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? (39) Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?" (40) Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. (41) Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không?" (42) Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. (43) Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.

   (44) Rồi Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." (45) Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (46) và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; (47) phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.  (48) Chính anh em là chứng nhân về những điều này. (49) "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?

(1) Bài đọc 1 (Cv 3, 13-15.17-19) là bài giảng của Tông đồ Trưởng Phêrô về Chúa Giêsu Kitô được Thiên Chúa tôn vinh sau khi Người bị người Do Thái giết hại. Thánh Phêrô cho rằng: vì không biết, không ý thức mà những người đồng hương đồng thời của ngài đã giết hại Đấng Thánh của Thiên Chúa. Nhưng để được Thiên Chúa thứ tha xóa bỏ tội lỗi của họ thì những người này cần phải ăn năn sám hối về những tội họ đã phạm và quay về với Thiên Chúa cũng như nhìn nhận Đức Kitô là Con Một Thiên Chúa. Từ đó chúng ta có thể kết luận được rằng: Thiên Chúa là Đấng từ bi lân ái, giầu lòng xót thương và thứ tha.

(2) Bài đọc 2 (1 Ga 2,1-5a) là một đoạn của thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ trong đó ngài nói rõ hai mục tiêu mà ngài nhắm tới khi viết bức thư này: (a) để con cái ngài không phạm tội mất lòng Chúa và (b) để họ tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn bác ái của Người. Vậy chúng ta có thể suy diễn ra điều này: Thiên Chúa của Gio-an là Đấng Thánh và là Tình Yêu. Là Đấng Thánh nên Thiên Chúa không thể yêu thích tội lỗi. Là Tình Yêu nên Thiên Chúa muốn cho mọi người được hạnh phúc nhờ việc tuân giữ lề luật hay giới răn của Người. 

(3) Bài Tin Mừng (Lc 24,35-48) là tường thuật của Thánh Luca vể lần hiện ra của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh với các tông đồ, trong đó chân dung Đức Giêsu Kitô Phục Sinh hiện rất rõ. Vẫn là một khung cảnh quen thuộc: cửa đóng kín, các môn đệ sợ sệt. bán tín bán nghi về chính Thầy của mình. Vì thế mà Đức Giêsu Kitô Phục Sinh mới hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không?" và Chúa đã ăn miếng cá mà các ông đưa cho ngài. Cũng vì thế mà Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cho các ông xem cạnh sườn và dấu vết cuộc thương khó. Tình thương và sự ưu ái của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh không dừng ở đó mà còn đi xa hơn: “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?    

      Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” Đó là đường lối và ý định của Thiên Chúa về Chúa Giêsu Kitô!

       Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay còn là: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.  Chính anh em là chứng nhân về những điều này”  Đó là đường lối và ý định của Thiên Chúa về các Kitô hữu, là tất cả và mỗi người chúng ta. 

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là mỗi người / mỗi cộng đoàn Giáo hội (giáo xứ, giáo phận, hội đoàn tông đồ, dòng tu) kiểm điểm cách sống của mình, xem:

a.  mình/cộng đoàn mình đã chấp nhận đường lối và ý định của Thiên Chúa về Chúa Giê-su Ki-tô như thế nào?

b.  mình/cộng đoàn mình đã chấp nhận đường lối và ý định của Thiên Chúa về sứ mạng và vai trò của mình/cộng đoàn mình như thế nào và đã thể hiện đường lối và ý định ấy của Thiên Chúa đến mức độ nào trong đời sống thường ngày?

IV. CẦU NGUYỆN 

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn trí, toàn năng, lời Thánh Kinh đã dạy: Trời xa đất bao nhiêu thì tư tưởng của Thiên Chúa cách xa tư tưởng của con người bấy nhiêu.
Đứng trước mầu nhiệm thập giá của Chúa Giêsu Kitô, Con Một Cha, chúng ta chỉ biết thinh lặng mà chiêm ngưỡng!

Khi suy nghĩ về sứ mạng mà Cha giao cho chúng con, chúng con chỉ biết ngỡ ngàng run sợ.

Vì chúng con vừa yếu đuối, vừa dốt nát và lại hèn nhát vô cùng!
Làm sao chúng con biết cách rao giảng nhân danh Chúa Kitô?
Làm sao chúng con biết cách làm chứng về mầu nhiệm chịu nạn chịu chết và phục sinh của Người?
Lạy Cha, thú thật chúng con chỉ có thể ấp úng và cứng họng mà thôi.
Xin Cha ban Thần Khí của Cha cho chúng con.
Xin Cha ban cho chúng con Ơn hiểu Thánh Kinh là Lời của Cha.
Xin Cha cho chúng con Ơn cảm nghiệm được sự hiện diện và hành động của Thần Khí Cha, cũng như sự đồng hành của Đấng Phục sinh, Con Cha.  
Chúng con xin vì Danh Chúa Giêsu Kitô! Amen.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

Sàigòn ngày 25.04.2006

-------------------------

 

PS3-B36. LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH


CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH, năm B

Lc 24, 35-48

 

Chúa Giêsu đã phục sinh. Người đang ở giữa nhân loại và đang củng cố niềm tin cho các: PS3 B-36


Chúa Giêsu đã phục sinh. Người đang ở giữa nhân loại và đang củng cố niềm tin cho các tông đồ. Chúa Giêsu sống lại đã hơn một lần bị ngộ nhận là ma. Lần này khi hai môn đệ trên đường Em-mau đang kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa họ và Chúa phục sinh cho các tông đồ khác” thì Chúa phục sinh hiện đến đứng giữa các ông. Các ông lo sợ, hồn vía lên mây, tưởng rằng thấy ma”( Lc 24, 40-42 ). Đức Giêsu phục sinh ban bình an cho các ông, rồi Ngài mời gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI, NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ MA MÀ LÀ THIÊN-CHÚA-Ở –CÙNG- NHÂN- LOẠI, Ở-CÙNG-CHÚNG-TA:

Thánh Phaolô viết: "Tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh, rồi Người được mai táng, và ngày thứ ba chỗi dậy, đúng như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Caipha, rồi nhóm Mười Hai” ( 1 Co 15,3-4 ). Đức Giêsu quả thực đã sống lại và tất cả những gì Kinh Thánh đã chép về Đức Giêsu đều phải được ứng nghiệm. Các tông đồ đã hoàn toàn bị chao đảo, hoàn toàn bị chấn động về cái chết của Chúa Giêsu vì họ chưa hiểu lời dậy của Thánh Kinh. Tin Mừng cho thấy các tông đồ ủ rũ ( Lc 24, 17 ) và sợ hãi ( Ga 20, 19 ). Do đó, các môn đệ không tin lời các phụ nữ đạo đức loan báo Chúa đã sống lại, các ông cho đó là những chuyện nhảm nhí, những chuyện trẻ con. Chúa Giêsu phục sinh hiểu rõ tâm trạng của các môn đệ. Nên, khi Người tỏ mình ra cho nhón Mười Một, chiều ngày phục sinh, Đức Giêsu "khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại” ( Mc 16, 14 ).

Chúa phục sinh hiện diện và đang đối diện với các môn đệ, các ông vẫn còn nghi ngờ ( Lc 24, 38 ) vì không tin rằng điều này có thể xẩy ra được, nên họ tưởng trông thấy ma ( Lc 24,39 ). Đức Giêsu phục sinh là Người thật, một con Người đã sống, đã giảng dậy, đã làm phép lạ trước mắt các tông đồ. Người đã phục sinh thật sự. Các môn đệ dù ngỡ ngàng, dù lo sợ nhưng dưới tác động của ơn thánh, các ông đã nhận ra Chúa phục sinh. Đức Giêsu phục sinh không phải là ma mà là Thiên-Chúa-ở-giữa-nhân-loại, ở-giữa-con-người để con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Quả thực Đức Giêsu đã trải qua con đường cứu thế với một cuộc hành trình lâu dài khởi đi từ biến cố nhập thể làm người, ấp ủ và lớn lên trong 30 năm ở làng quê Nagiarét. Người đã xây dựng làng quê của Người cách rất giản dị, Người sống bằng nghề thợ mộc, một cái nghề thánh Giuse Cha của Người đã sống.

Người lớn lên và thực hiện công trình cứu thế của Cha Người khi Người lên 30 tuổi. Ba năm rao giảng, làm phép lạ, huấn luyện các tông đồ, Người muốn xây dựng một thế giới hòa bình, một thế giới đầy ắp yêu thương, một thế giới công bình và bác ái. Cuối cùng, Người chấp nhận cái chết theo ý Thiên Chúa Cha để cứu độ loài người. Vì là Thiên Chúa, Đức Giêsu đã khước từ tất cả, khước từ làm ma: ma danh vọng, ma sắc dục, ma tiền tài do Satan hứa sẽ ban cho Người nếu Người thực hiện ba điều kiện của nó đề ra (Lc 4, 1-10 ). Chúa Giêsu đã khước từ quyền bính, danh vọng khi dân chúng muốn tôn Người làm vua (Mt 11, 1-11) Đức Giêsu phục sinh chính là con người tuyệt diệu, một con người tự hạ, một con người chỉ sống cho Cha và tuân phục ý Cha.

CÁC MÔN ĐỆ LÀ CHỨNG NHÂN VÀ CHÚNG TA CŨNG ĐƯỢC KÊU MỜI LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA PHỤC SINH:

Sau khi phục sinh, Đức Giêsu sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Người củng cố niềm tin cho các ông khi các ông còn đang hoang mang, sợ hãi, nghi ngờ. Người trao ban sứ vụ cho các môn đệ và sai các ông ra đi làm chứng cho Người. Trước khi lãnh nhận Thánh Thần, các môn đệ còn đang co cụm, lo âu, sợ chết. Nhưng khi Chúa phục sinh trao ban Thánh Thần cho các ông. Tất cả các môn đệ đều được biến đổi, các ông hăng say ra đi làm chứng cho Chúa phục sinh. Các tông đồ đã làm chứng cho Chúa phục sinh hết mình. Hầu hết các tông đồ đều đổ máu ra hy sinh mạng sống làm chứng cho Chúa phục sinh và để biểu lộ niềm tin của các ông vào Chúa phục sinh như lời Chúa phán dậy:” Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùnh anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 18-20 ). Chúa trao ban sứ vụ nhưng cũng là lệnh truyền cho các môn đệ cũng như cho Hội Thánh và từng người Kitô hữu. Mỗi người Kitô hữu hãy là chứng nhân cho sự sống mới của Chúa Giêsu phục sinh vì Đức Kitô phục sinh là biểu tượng cho sự an bình, cho hòa bình của nhân loại khi nhân loại đang sống trong nỗi chết. Thế giới nhiều nơi đang còn chiến tranh, chiến tranh sắc tộc, chiến tranh giữa các người anh em với nhau. Nạn khủng bố lan tràn, bệnh hoạn và những tiêu cực lớn của thế giới như sida, ma túy vv…Đây là nỗi ám ảnh của nhiều người. Chúa phục sinh đang có đó, đang hiện diện, Người sẽ xoa dịu những ám ảnh khủng khiếp của nhân loại, của con người khi con người có lòng tin biết làm chứng cho sự sống lại của Chúa và niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa sống lại đem đến cho nhân loại, cho mỗi người.

Chúa phục đang mời gọi mỗi người chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Người và mỗi khi chúng ta trao ban niềm vui, trao ban nụ cười, giúp đỡ những người cô đơn, bất hạnh là chúng ta đang làm chứng cho sự phục sinh của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh chúng con hãnh diện làm chứng cho Chúa và mọi người chúng con phải làm chứng cho Chúa sống lại không phải chỉ bằng lời nói mànhư Cha Charles de Foucauld quả quyết: "Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động”. Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban bình an cho chúng con.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

-------------------------

 

PS3-B37. NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG- ĐC Giue Ngô Quang Kiệt

 

Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Người rất nổi danh vì tài: PS3 B-37 FB


Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Người rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, Người đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho Người phải thất bại. Trong một vụ án mà Người thấy là đơn giản, dễ dàng, Người đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, Người thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.

Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, Thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, Người tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, Người nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, Người hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, Người đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, Người hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại, để đưa Người về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ, để huấn luyện Người trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ Người xuống trong danh vọng trần thế, để nâng Người lên trong vinh quang Nước Trời.

Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các Môn Đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giê-su đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giê-su. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an... Có lần Đức Giê-su cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.

Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các Môn Đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giê- su phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.

Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe doạ đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.

Khi Đức Tin các Tông Đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi Đức Tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giê-su là có thực. Đức Tin của các Tông Đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giê-su và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức Tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các Tông Đồ củng cố Đức Tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giê-su. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.

Hãy củng cố Đức Tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra Thánh Ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.

Lạy Đức Giê-su Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.

Gm. NGÔ QUANG KIỆT, Giáo Phận Lạng Sơn

-------------------------

 

PS3-B38. Trên con đường mòn của kiếp nhân sinh, hãy tiếp nhận Ngài


Chúa Nhật III Phục Sinh (B): Trên con đường mòn của kiếp nhân sinh, hãy tiếp nhận Ngài

Dẫn nhập đầu lễ:

Anh chị em thân mến,

 

Như chúng ta vẫn biết và vẫn tuyên xưng: Đại lễ Phục sinh hằng năm và Ngày Chúa Nhật hàng tuần chính: PS3 B-38


Như chúng ta vẫn biết và vẫn tuyên xưng: Đại lễ Phục sinh hằng năm và Ngày Chúa Nhật hàng tuần chính là cuộc “tưởng-niệm-tái-diễn” mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, là cuộc tái khám phá và đào sâu mầu nhiệm nầy để đem vào hiện thực cuộc sống. Chính vì thế, sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật III Phục sinh hôm nay dẫn dắt chúng ta vào mối tương quan liên vị của người Kitô hữu với chính Đấng Phục sinh, giữa cuộc sống đời thường với mầu nhiệm tuyên xưng; đó cũng chính là cách thể hiện, sống, tuyên xưng, rao giảng của thế hệ các Tông Đồ, các cộng đoàn Kitô hữu nguyên thủy.

Giờ đây, để xứng đáng gặp gỡ Đấng Phục sinh, xứng đáng cử hành Thánh lễ, chúng ta hãy sốt sắng cử hành Nghi thức Rảy Nước Thánh.

Giảng Lời Chúa:

Thưa ôngbà và anh chị em,

Chúng ta cử hành Chúa Nhật III PS hôm nay nhằm đúng ngày 30.04. Một thời điểm ghi dấu ấn quan trọng của lịch sử của Đất Nước, của Dân tộc của Giáo Hội Việt Nam và của rất nhiều cuộc đời đang hiện diện ở đây.

Thật vậy, 31 năm về trước, ngày 30.04, nói theo cách của ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt thì trong ngày nầy, có 1 triệu người vui mà cũng có 1 triệu người buồn. Người vui vì đó là chiến thắng, là kết thúc những chặng đường tăm tối của thương đau và chết chóc, xa cách và tối tăm, đói khát và hiểm nguy để hảnh diện vì “đường đi đã tới đích”…Người buồn vì khởi đi từ đó, tất cả đã sụp đỗ, đã trở thành người chiến bại, bắt đầu cuộc sống vô định và tối tăm ở tương lai, ngục tù và cay đắng, đói khát và đọa đày đang chuẩn bị trước mắt...

Để diễn tả cái khung cảnh đó, nếu ai thường hát nhạc Trịnh Công Sơn chắc không quên bài hát: “Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui”:

Ðêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui
Mẹ hãy ra xem đường phố ngập người
Ðêm nay hòa bình mắt mẹ buồn như kinh
Lời kinh đêm ru căn nhà lạnh
Ru me một mình
Ru mẹ một mình ôm bóng đêm…
Ðêm nay hòa bình tôi muốn đi
Tìm thấy em thơ trong nụ cười của chị
Tìm thấy me xưa trên môi nín của cha
Tìm gặp tên anh trong tình người vợ góa
Tìm thấy bạn bè trong nỗi nhớ của ta…

Một cách nào đó, cái khung cảnh của buổi chiều 30.04 năm nào với cái của “buổi chiều Ngày thứ Sáu” cách đây gần 2000 năm trước, chúng ta có thể hình dung có một chút gì na ná: Vâng, vào đúng cái buổi chiều định mệnh Thứ Sáu ấy, các ông tư tế Do Thái, các Luật sĩ ở Giêrusalem, các quân binh trong đội hành hình của Philatô…hỉ hả vui mừng vì mới “dứt điểm” một tên Giêsu quấy rầy, làm mất ổn định trật tự xã hội, tôn giáo, dẹp tan được một bè đảng phản động đe dọa sự tồn vong của cơ chế tôn giáo đang mang lại đặc lợi đặc quyền cho bao chức sắc như Anna, Caipha…. Trong khi đó, các môn đồ của Chúa Giêsu, các bà đạo đức đã từng theo Chúa từ Galilê đã buồn nẫu ruột, sợ hải và hoang mang cực độ trước một tai ương đang ập đến, trước một màn đêm tăm tối giăng mắc cả tương lai khi Đấng mệnh danh là Cứu thế đã nằm im trong huyệt đá !

Nhưng rồi, cái giá của hơn 30 năm huynh đệ tương tàn, máu chảy thành sông, xương chất thành núi đã được đền bù, cho dù chưa có là bao. Thanh bình hoàn toàn trở lại, giang sơn trở về một mối, đoàn tụ và gặp gỡ thay cho chia cách sầu thương. Trên khắp nẻo đường Đất Nước, tiếng chim hát reo ca mỗi độ xuân về thay cho những âm thanh gầm thét hờn căm của tiếng bom tiếng sung…

1. Phục sinh: Điểm đến của tin Mừng Cứu Độ

Đường đi của Tin Mừng Cứu độ cũng diễn tiến như thế. Ngày Thứ Sáu ảm đạm buồn tênh trong nổi sầu đau tang chế nhường chỗ cho Ngày Thứ Nhất trong tuần rạng rỡ hân hoan trong niềm vui đoàn tụ gặp gỡ. “Thập tự tủi nhục” đã trở thành “Thánh giá vinh quang”. Sự phục sinh của Đức kitô đã khai sinh một thế giới mới; và sự hiện diện của Đấng Phục Sinh đã làm thay đổi cõi lòng và cuộc sống, hướng đi và lựa chọn của biết bao nhiêu con người.

Vâng, cuộc họp mừng Lễ Tạ Ơn hôm nay, ở khắp nơi, mọi thời, chính là cuộc gặp gỡ thân mật và đích thật nầy giữa chúng ta và Chúa chúng ta, Đức Kitô phục sinh, giữa cộng đoàn chúng ta, gia đình giáo xứ chúng ta với Đấng Phục sinh đang trở về, đang có mặt, đang ban bình an, ban Lời chân lý và Bánh Trường Sinh, đang ủi an và chia sẻ tình yêu thân mật và hồn nhiên với “mẫu cá nướng và tảng mật ong” (TM), đang động viên và soi sáng để chúng ta mang lấy hành trang lời Chúa và tiến bước trên đuờng…Đó chính là niềm tin muôn nơi và muôn thuở của chúng ta, của mỗi người Kitô hữu, là ý nghĩa đích thực của cuộc họp mừng phục sinh, là nội dung cốt yếu của Tin Mừng phải được sẻ chia và làm chứng, như lời “lời chứng và chia sẻ của Thánh Phêrô” từ thuở khai sinh Giáo Hội mà BĐ 1 sách CVTĐ đã thuật lại hôm nay:

“Thiên Chúa đã cho người từ cõi chết sống lại, điều dó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi tin vào danh Người, nên Danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh nầy hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em”

2. Đức Kitô phục sinh mở cửa huyền nhiệm cuộc sống:

Quả thật nếu Đức Kitô không sống lại, thì không ai, không một ý thức hệ nào, một triết thuyết nào, một hiền nhân nào có thể giải mả được những “phi lý trong cuộc đời nầy”: phi lý như chuyện: tại sao ông Thầy Giêsu người Na-da-rét, uy tín trong lời nói việc làm, thánh thiện và công chính đến thế mà lại phải chết thảm ? Tại sao cuộc sống đang tươi đẹp hạnh phúc (như ….) bổng dưng phải từ giã cõi đời trong một tai nạn xe thảm khốc ? Và từ giã để sau đó đi đâu, về đâu ? Hay xa hơn một chút, sâu hơn một chút trong ý nghĩa của kiếp nhân sinh: Con người sinh ra để làm cái gì ? Thế giới nầy rồi sẽ kết thúc ra sao ? Đau khổ, bất hạnh, sự dữ, cái chết…có ý nghĩa gì không hay chỉ là một thứ “định mệnh” khắc nghiệt, một thứ trò chơi của quyền lực vô minh…? Có lẽ hai tông đồ trên đường Em-mau vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần cách đây 2000 năm, cũng đang hoang mang về những vấn nạn như thế, những phi lý như thế về Thầy Giêsu của mình, về cuộc tử nạn thảm thương của Thầy cách đó hai ngày. Nếu Đức Kitô sau buổi chiều thê lương Thứ Sáu cứ “bặt vô âm tín”, để sau đó xác thân từ từ thối rửa trong mộ đá… thì chắc chắn cho đến mãi hôm nay, vẫn còn những chàng trai, những cô gái, những cụ già, những em thơ…trên mọi nẽo đường trần thế cứ hoang mang hoài, cứ thắc mắc hoài, trăn trở hoài về những vấn nạn của cái sống và cái chết, của hạnh phúc và khổ đau, của hôm nay và vĩnh cửu…(như một đoạn bài thơ “Bài Ca của Người lữ hành”:

Và trên con đường mòn
Của kiếp nhân sinh muôn đời quen thuộc,
Ngài đã cho tôi
Tìm ra “ý nghĩa cuối cùng”
Của “những chuyện xảy ra”
Trên con đường mòn:
Đằng trước, đằng sau, chung quanh, khắp chỗ,
Người ta đánh nhau, dập đầu máu đổ,
Người ta yêu nhau, phản bội, hận thù.
Người ta đói, người ta no,
Người ta giáu, người ta khổ.
Người ta sinh ra một đời nặng nợ,
Người ta loay hoay cơm áo gạo tiền,
Người ta mù loà, què cụt, điếc, điên,
Người ta nằm xuống, một đời, ngôi mộ !...

Và Đức Kitô phục sinh đã đến, đã thỏ thẻ chuyện trò, đã khai lòng mở dạ, đã hong lại niềm tin, đã đốt lên sức sống cho họ cũng như cho bao nhiêu thế hệ con người. Biết bao nhiêu người đã cảm nhận được điều đó như cách cảm nhận của Luca khi tường thuật cuộc hiện ra hôm nay của Đấng Phục sinh nơi Nhà Tiệc Ly, hay trước đó với hai môn đệ trên đường Em-mau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?”

3. Hãy tiếp nhận Đức kitô phục sinh vào cuộc sống:

Nhưng không phải lúc nào niềm tin vào Đấng Phục sinh cũng chắc như “đinh đóng cột”. Sẽ có những lúc, Thiên Chúa, Đức Kitô, Giáo Hội, tín điều, các bí tích sẽ nhạt mờ như những “bóng ma”, như những thực tại ảo. Tin Mừng hôm nay đã khẳng định điều đó qua thái độ của các Tông đồ khi đối diện với Đức Kitô phục sinh vào chiều “Ngày Thứ Nhất” trong tuần. “Các ông kinh hồn bạt vía tưởng là thấy ma” (TM).

Nhưng “Chính Thầy Đây đừng sợ”. Chính sự tiếp nhận Đấng sống lại từ cõi chêt sẽ mang lại hoa trái của niềm vui và sự sống, của ánh sáng và hy vọng, cho dù một tiếp nhận tình cờ như kiểu Gia-kê, môt tiếp nhận “bất đắc dĩ” như Simon vác đỡ thánh giá, một tiếp nhận bắt buộc khi bị đánh ngã như Phaolô trên đường Damas, một tiếp nhận lúc đường cùng khi không còn gì để bám víu như Phêrô sau “những bước chân trên sóng”, một tiếp nhận đầy mắc cở thẹn thùng như “người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình”, hay sự tiếp nhận trong nổi đau ngút ngàn của Matta, Maria khi vừa mất em, hay sự tiếp nhận đầy niềm tin phó thác của người sĩ quan ngoại giáo: “Lạy chúa, con chẳng đáng Chúa ngự đến nhà con. Chúa chỉ cần phán một lời…”.

Quả thật, một khi đã có Đức Kitô hiện diện trong cuộc đời thì mọi sự sẽ biến đổi từ đó. Ngài sẽ biến đổi trái tim chai đá cứng tin của Tôma nên diệu hiền khiêm hạ, con người ba phải nhút nhát của Phêrô nên mạnh mẽ can trường, cố chấp thù nghịch như Phaolô trở nên nhà truyền giáo vĩ đại… hay như một Augustinô lầm lạc trác táng trở thành Giám Mục thời danh, một Phanxicô Assisi, một Phanxicô Xavie đam mê tham vọng… đã trở nên những thừa sai loan báo Tin mừng, một Têrêsa Calcutta, người nữ tu chân yếu tay mềm, khó nghèo đơn giản đã trở nên ân nhân của hàng triệu con người bất hạnh, đã trở thành đại thánh. Vâng tất cả đều có chung một bí quyết duy nhất: gặp gỡ Đức Kitô và để Ngài tham dự vào chính cuộc đời.

Chính vì thế, chúng ta hãy cầu nguyện như hai tông đồ Em-Mau: “Xin Thầy ở lại với chúng tôi vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn”, hay như một lời nguyện khác:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa,
Sự sống làm đời con mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
Bình an làm cho con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
Niềm vui làm kkhuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
Hy vọng làm cho con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen

(Manna năm B, trang 93)

LM. Giuse Trương Đình Hiền

--------------------------

 

PS3-B39. Bình an cho các con


CHỦ NHẬT III PHỤC SINH

Tin Mừng: Lc 24, 35-48

Anh chị em thân mến,

 

Lời đầu tiên hôm nay của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng cũng chính là “Bình an cho các con”, như: PS3 B-39


Lời đầu tiên hôm nay của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng cũng chính là “Bình an cho các con”, như thế cho chúng ta hiểu ra rằng: bình an chính là hạnh phúc của con người, mà con người mãi mê tìm kiếm, nhưng tìm mãi tìm hoài mà cũng không tìm thấy bình an đích thực, chỉ là những bình an giả tạo mà thôi. Hôm nay tôi xin chia sẻ với anh chị em một thực tại sống động mà chúng ta -những người Kitô hữu- đang thực hiện, đó chính là mỗi người trở nên chứng nhân về việc Chúa đã chết và đã sống lại qua ngôn hành của chúng ta trong cuộc sống.

1. Anh em có gì ăn không ? Ma quỷ thì không có thân xác nên không thể ăn được, chỉ những ai còn sống mới biết đói biết khát, chỉ những ai đói mới đòi ăn khát mới đòi uống, nhưng Chúa Giêsu thì không phải vì đói vì khát mà xin ăn, nhưng chính là để chứng minh cho các tông dồ thấy rằng: Ngài đã sống lại.

Chúa Giêsu hỏi có gì ăn không, để các tông đồ nhận ra Chúa chính là Thầy của mình đã chết và đã sống lại, một đòi hỏi của Tin Mừng: cho kẻ đói ăn.

Có rất nhiều người chung quanh chúng ta đang ngửa tay hỏi chúng ta: các anh chị có gì ăn không ? Họ xin ăn không phải để nói rằng họ đã từ cõi chết sống lại, nhưng là để cho chúng ta nhận ra Chúa Kitô phục sinh đang ở trong người của họ, để chúng ta nhận ra chính Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, chung quanh chúng ta, nơi những người đói khát, nghèo khó...

Các tông đồ đã mau mắn đem bánh lại cho Chúa ăn, các ngài vui mừng quá đổi vì Chúa đã sống lại.

Khi chúng ta mau mắn đưa cóm bánh cho người nghèo là chúng ta vui mừng vì được phục vụ Chúa Phục Sinh nơi người anh em nghèo khó, đó chính là niềm vui phục sinh, là cách làm chứng cho mọi người biết rằng Chúa Giêsu vẫn ngày ngày đang sống lại nơi mỗi một người Kitô hữu.

Ai có đói mới thấy quý từng mảnh vụn cóm bánh, ai có khát mới thấy từng giọt nước là quý, ai có ngửa tay nói: anh có gì ăn không, mới thấy giá trị của sự sống là cao quý vô cùng, mới thấy rõ thật giá trị của cóm thừa canh cặn, mới thấy rõ sự nhục nhã của kiếp ăn xin nghèo đói, do đó, chỉ cần một ánh mắt khinh bỉ họ, chỉ cần một lời nói bóng gió, chỉ cần một thái độ khinh khi là làm cho họ tâm hồn của họ thêm đau đớn...

Ai có cầm bánh đưa ra cho người nghèo đói ăn thì mới cảm nghiệm được niềm vui của tâm hồn, nó thanh thoát, nó toả lan đến những người chung quanh, bởi vì chính họ đã nếm được sự hạnh phúc của việc cho kẻ đói ăn tức là cho Chúa Phục Sinh ăn...

2. Anh em có gì ăn không ? Đây không còn là một lời xin, đây cũng không còn là một lời đòi hỏi của người nghèo đói, nhưng là môt câu hỏi thân thiết quan tâm lẫn nhau giữa người với người, giữa anh em với bè bạn.

Nếu mỗi ngày chúng ta gặp nhau mà hỏi: anh có gì ăn không, con cái anh có gì ăn không, để quan tâm và giúp đỡ, thì quả thật bình an của Thiên Chúa đang ở trong chúng ta. Một câu hỏi năm xưa của Chúa Giêsu Phục Sinh đã làm cho các tông đồ vui sướng như thế nào, thì hôm nay, một câu hỏi như thế của chúng ta đối với người anh em chị em, thì cũng khiến cho họ rất sung sướng và hạnh phúc, vì họ được biết có người luôn quan tâm đến họ và gia đình họ.

Nếu chúng ta ai cũng biết bỏ đi cái ích kỉ nhỏ nhen trong tâm hồn để nói với người hàng xóm đang chật vật vì miếng cóm: anh chị hôm nay có gì ăn không, thì chính họ đã nhận ra được Tin Mừng phục sinh nơi con người của chúng ta, bởi vì chỉ có những ai có một tâm hồn bình an, yêu thương, khiêm tốn mới có thể thật lòng quan tâm đến người khác cách vô vị lợi.

Chúa Giêsu không khách sáo khi nhận bánh nơi các môn đệ của mình, Ngài ăn ngay trước mặt các ông, cũng vậy, có những lúc chúng ta không cần hỏi anh em có gì ăn không, nhưng chúng ta vẫn có thể chủ động quan tâm giúp đỡ người anh em, đó chính là thái độ tích cực mà–có thể nói- chỉ có những Kitô hữu mới có thói quen tốt đẹp này...

Anh chị em thân mến,

Có lúc nào chúng ta hỏi người anh em nghèo đói bên cạnh nhà mình: anh em có cần gì không, tôi giúp đỡ ?

Có lúc nào chúng ta chủ động coi những người lân cận của mình hôm nay ai bị bệnh phải đi bệnh viện, ai già cả neo đơn, ai có con cái đông lo không xuể...?

Đó chính là chúng ta thay mặt Chúa Giêsu Phục Sinh quan tâm đến anh em, đem bình an và hạnh phúc của Ngài đến cho mọi người vậy.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

--------------------------

 

PS3-B40. Cho họ xem tay và cạnh sườn


Suy niệm CN III sau Phục Sinh:

 

Biến cố Đức Yêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố này các tông PS3-B40


Biến cố Đức Yêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố này các tông đồ, và qua các tông đồ đến các Kitô hữu, hiểu biết hơn về Đức Yêsu và về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời qua Đức Yêsu Kitô.

I. Đức Yêsu cố chứng minh cho các tông đồ Ngài thực sự đang sống

Theo tin mừng Luca hôm nay, trong khi hai môn đệ trên đường Emmau trở về đang loan báo tin mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, thì Đức Yêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Yêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc.24, 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Yêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (Lc.24, 40).

Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Yêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc.24, 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Yêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Yêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Yêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).

Thân phận con người, lúc này biết, lúc khác phân vân nghi ngờ. Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự hủy để nhập thể làm người, nên Ngài chấp nhận thân phận con người cách hoàn toàn, nghĩa là, cũng bị cám dỗ, và ngay cả không biết, hoặc lúc này biết lúc khác phân vân nghi ngờ. Vì vậy, Đức Yêsu sống lại, là điều rất mới đối với các tông đồ và con người. Tuy nhiên, một khi được ơn trở thành chứng nhân phục sinh, các tông đồ luôn loan báo tin mừng đặc biệt này, và đã đem chính mạng sống làm chứng cho tin mừng các ngài rao giảng.

II. Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh

Trong cuộc tranh luận với những người Do Thái, Đức Yêsu nói: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi… Vì nếu các ông tin Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga.5, 39.47). Kinh Thánh được một số người coi như lá thư Thiên Chúa viết cho tất cả mọi người qua trung gian dân tộc Do Thái. Đức Yêsu cũng có thể được coi là lá thư, là biểu hiện, biểu chứng, biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.

Đức Yêsu là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Qua Đức Yêsu, con người biết hơn về Thiên Chúa và cũng biết hơn về chính con người. Các tạo vật đều mặc khải Thiên Chúa ở một mức độ nào đó. Những nhân vật đáng kính trong lịch sử dân tộc Do Thái cũng như trong lịch sử những dân tộc khác, và nhất là trong những tôn giáo khác, cũng là chứng nhân của Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, nhưng Đức Yêsu là một con người đặc biệt, phản ánh Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa một cách tuyệt vời, bởi vì Ngài là chính Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Kinh Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, nhưng cũng là tác phẩm của con người. Người ta có thể đọc Kinh Thánh đơn thuần như một tác phẩm thuần túy nhân loại, và người ta có thể hiểu được phần nào con người và xã hội thời đó. Hôm nay, theo tin mừng Luca, các tông đồ đã được Đức Yêsu mở trí để hiểu Kinh Thánh. Kinh Thánh không được viết để dạy chân lý khoa học, nhưng để giúp con người biết hơn về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người biết hơn về Đức Yêsu là tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa cho con người.

iii. Thật sự biết Thiên Chúa hàm chứa tuân giữ lệnh truyền của Ngài

Niềm tin và cuộc sống phải đi liền với nhau. Niềm tin không chỉ là những điều một người chấp nhận và không liên hệ hay chi phối đời sống họ. Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc.2, 17). “Nếu nói mình biết Thiên Chúa mà không giữ các lịnh truyền của Thiên Chúa, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.2, 4).

Biết Thiên Chúa, không phải là chấp nhận một số mệnh đề phát biểu về Thiên Chúa, nhưng còn bao hàm chính thái độ sống và cuộc sống của mỗi người. Cái “biết sống động” này được diễn tả qua đời sống cầu nguyện, qua việc chọn lựa trong đời sống thường ngày, qua cách cư xử với người khác… Tuy vậy trong thực tế, có nhiều người “tin” nhưng không “sống”, những người này họ chưa thực sự biết Thiên Chúa, cái biết của họ mới chỉ trên bình diện chấp nhận một điều là đúng. Những ai giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, là những người biết Thiên Chúa thực sự.

Niềm tin vào Đức Yêsu Phục Sinh đã chi phối trọn vẹn đời sống các tông đồ. Các ngài đã ra đi rao giảng tin mừng Đức Yêsu Phục Sinh. Các ngài đã dám chết vì chính đạo. Niềm tin vào Đức Yêsu Phục Sinh đã biến đổi đời bao con người, đã biến đổi đời các tông đồ, đã làm bao người “bỏ thế gian” để sống dành riêng cho Thiên Chúa. Các ngài là những người biết Thiên Chúa thật sự.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, khi Đức Yêsu cố gắng làm cho các tông đồ thấy Ngài đang sống thực sự bằng cách cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, hàm chứa điều gì?
2. Theo bạn, đức tin Kitô hữu hàm chứa gì? Tại sao lại gọi là ơn? Có gì quý hoặc được lợi gì khi tin Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể?
LM Phạm Thanh Liêm, SJ

---------------------------

 

PS3-B41. LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẢO VỆ BÌNH AN?

 

Đọc những trình thuật Phục Sinh trong Phúc Âm của thánh Luca và Gioan, tôi thấy lần nào: PS3 B-41


Đọc những trình thuật Phục Sinh trong Phúc Âm của thánh Luca và Gioan, tôi thấy lần nào hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói với họ rằng: “Bình an cho anh em!”

Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”(Lk 24:37).

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " (Jn 20:19).

Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." (Jn 20:21).

Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." (Jn 20:26).

Nhưng trong những lần hiện ra với các phụ nữ, Chúa Giêsu Phục Sinh chỉ nói: “Chào chị em!” (Mt 28:9) và khi hiện ra với bà Mai Đệ Liên, Chúa Giêsu chỉ gọi tên của bà: “Maria!”(Jn 20:16). Ngài không hề ban cho các bà tí BÌNH AN nào cả. Tại sao vậy?

Tại sao Chúa Giêsu Phục Sinh chỉ ban BÌNH AN cho các ông mà lại không ban cho các bà?

Tôi nghĩ là bởi vì các ông lúc bấy giờ đã mất hết BÌNH AN rồi cho nên Chúa Giêsu mới ban BÌNH AN cho các ông để nhờ vậy họ mới có thể nhận ra được Ngài chứ! Bạn biết kẻ đã ăn cắp sự BÌNH AN của các môn đệ là tên nào không? SỢ HÃI đấy! Chính SỢ HÃI là tên ăn cắp tất cả BÌNH AN trong tâm hồn của các môn đệ cho nên mấy ông mới thiếu BÌNH AN trầm trọng như vậy!

Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. . . Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng (Mt 26:56; Mk 14:50-52 ). Có phải là họ SỢ phải không?

Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái (Jn 20:19). Rõ ràng là SỢ chứ còn gì nữa?

Đức Giê-su đứng giữa các ông …[Thì] các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Người nói: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? (Lk 24:36-38). Quá rõ!

Cũng giống như các môn đệ thuở xưa, sự BÌNH AN trong tâm hồn của tôi và của bạn cũng hay bị tên SỢ HÃI và tay chân thuộc hạ của hắn đánh cắp lắm? Những tên ăn cắp chuyên nghiệp này thì đông vô cùng, chúng đến quậy phá và đánh cắp đi sự bình an của chúng mình mỗi ngày!

Sợ nghèo, sợ đói, sợ bịnh tật, sợ … mập, sợ cao máu, sợ chết, sợ bão lụt, sợ động đất, sợ bị thất nghiệp, sợ bị đuổi việc…Sợ lập gia đình, sợ sanh con, sợ con cái hư hỏng, sợ con cái nghiện ngập xì ke ma tuý, rượu thuốc, sợ bị mất xe, sợ bị trầy xe, sợ bị đụng xe…

Sợ chiến tranh, sợ khủng bố, trộm cướp, không tặc, sợ máy bay rớt, sợ vũ khí hóa học…

Sợ bị phê bình chỉ trích, sợ bị khinh thường, sợ bị mất quyền, sợ mất tiếng, sợ mất uy tín…Sợ đi học, sợ thi rớt, sợ ra trường không kiếm được việc làm, sợ nền kinh tế tuột dốc không phanh không thắng, sợ đóng thuế, sợ INS, sợ cảnh sát phạt…

Thuộc hạ của tên SỢ HÃI này còn đông lắm, đếm không xuể đâu thưa bạn! Vấn đề mà tôi và bạn cần phải làm bây giờ là phải tìm ra phương cách để đối phó với bọn chúng. Bạn biết có diệu kế nào để chống lại bọn ác ôn này không? Tôi nghĩ có ba phương cách này, xin được chia sẻ với bạn:

Thứ nhất: Là phải trang bị cho căn nhà linh hồn của tôi những loại bóng đèn điện thật tốt, càng có nhiều bóng điện sáng bao nhiêu thì đám ăn trộm càng ngán bấy nhiêu. Để việc trang bị những bóng đèn chung quanh căn nhà tâm hồn được đúng tiêu chuẩn và được an toàn, tôi phải:

Ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối… Sống bác ái, hoan lạc, tha thứ, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín…(2 Cor 6:6-7; Ga 5:22).

Khi những bóng điện tuyệt hảo này chiếu sáng căn nhà linh hồn của ta suốt ngày đêm 24/24 như vậy thì bố bảo những tên ăn trộm và những thằng ăn cắp nhà họ SỢ cũng không dám bén mảng tới hay dở trò đạo chích vào chôm chỉa sự bình an của tôi được.

Thứ hai: Là phải trang bị cho căn nhà linh hồn của tôi những ổ khóa thật lớn, thật chắc, thật kiên cố bằng cách:

Siêng năng làm việc, sống tiết độ trong việc ăn uống, ngủ nghỉ, tránh những đam mê của rượu, của những thú vui xác thịt, cãi cọ, ghen tương, tham lam, trộm cắp … (Rom 13:1;, 1 Cor 5:11).

Khi căn nhà linh hồn của tôi được gắn những loại khóa cửa kiên cố và chắc chắn như vầy thì còn khuya mấy tên ăn cắp nhà họ SỢ mới bẻ gãy và đột nhập vào nhà để ăn cắp sự BÌNH AN của tôi được. Bảo đảm với bạn là như vậy!

Thứ ba: Là phải gìn giữ mối quan hệ thật tốt và liên lạc thường xuyên với Jesus Christ, là ông chủ của hãng sản xuất BÌNH AN để lỡ khi mấy thằng ăn cắp mang tên SỢ HÃI, LO ÂU, KHỦNG HOẢNG… đột nhập vào lấy mất đi sự BÌNH AN của tôi thì Ngài sẽ lập tức gửi đến cho tôi BÌNH AN để bù vào cái số bị mất cắp.

Jesus Christ, ông chủ hãng sản xuất BÌNH AN rất dễ thương, ông thường xuyên liên lạc với các khách hàng của ông qua những địa chỉ emails sau đây: thamdựthánhlễ@thườngxuyên.com, ViếngMìnhThánhChúa@mỗingày.org, Tíchcực@họcKinhThánh.org, Cầunguyện@liênlỉ.net.

Bạn thấy ba phương cách của tôi có được không? Nếu bạn thấy OK thì bạn thử áp dụng xem sao nhé!

Có một điều tôi xin bạn lưu ý dùm là hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại BÌNH AN giả mạo do các hãng MONEY, POWER và STATUS (TIỀN, QUYỀN LỰC và ĐỊA VỊ) sản xuất. Khi bạn bị mất bình an, thì chớ có dại dột đi tìm kiếm những thứ bình an giả tạo này đem về nhà. Tiền mất tật mang đấy!

Chỉ có duy nhất một nơi là hãng của Jesus Christ sản xuất ra loại BÌNH AN THẬT và cung cấp cho mọi người trên thế giới này mà thôi. Sản phẩm BÌNH AN của hãng Jesus Christ có chất lượng rất cao và sẽ không bao giờ vơi cạn bởi vì Ngài chính là nguồn bình an (Rom: 15:33; Is 45:7)

Hãng sản xuất BÌNH AN THẬT của Jesus Christ có rất nhiều ở các tổng đại lý mang tên NHÀ THỜ CÔNG GIÁO! Hàng ngày, tất cả các đại lý của bổn hãng đều có chương trình cung cấp miễn phí BÌNH AN THẬT của Jesus Christ cho những khách hàng đến trước tiên trong ngày, bạn hãy mau mau liên lạc với các đại lý để biết giờ mở cửa và các chương trình khuyến mãi của bổn hãng nhé! Good luck!.

phamtinh@yahoo.com
LM. Ansgar Phạm Tĩnh

-----------------------------

 

PS3-B42. Sự Phục Sinh là Sự Sáng Tạo mới


VietCatholic News (29/04/2006)

ROME>/b> (Zenit. Org).- Bài giải thích về đoạn Tin Mừng phụng vụ Chúa Nhật này, do Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ Giáo hoàng.

* * *

Chúa nhật III Phục Sinh-B

Chúa đã Sống lại thật!

 

Bài Tin Mừng cho phép chúng ta hiện diện tại một trong nhiều sự hiện ra của Chúa Sống lại. Các môn: PS3 B-42


Bài Tin Mừng cho phép chúng ta hiện diện tại một trong nhiều sự hiện ra của Chúa Sống lại. Các môn đệ thành Emmaus vừa mệt lã trở về Jerusalem và đang tường thuật điều gì đã xảy ra cho các ông dọc đàng, khi Chúa Giêsu đích thân hiện ra giữa các ông và nói:" bình an cho anh em!" Trước tiên là sợ vì dường như các ông thấy một thần linh; rồi tới sự kinh ngạc đến sự không tin; sau cùng là niềm vui. Còn hơn thế nữa, sự không tin và niềm vui xảy ra cùng lúc" "Và đang khi các ông còn không tin vì vui mừng, và sửng sốt."

Sư không tin của các ông là hoàn toàn đặc biệt. Đó là thái độ của một người tin (bằng không thì không có vui) nhưng không biết nhận thức điều đó cách nào. Như có ngưới nói: "Thật lạ lùng nếu đúng như vậy" Chúng ta có thể gọi điều đó, cách nghịch lý, là một đức tin hoài nghi. Để làm cho các ông xác tín, Chúa Giêsu hỏi các ông có gì ăn không, bởi vì không có gì bằng sự ăn chung hầu an ủi và tạo ra niềm hiệp thông.

Tất cả sự đó nói với chúng ta một diều quan trọng về sự Sống lại. Sự Sống lại không những là một phép lạ lớn, một luận cứ hay là một bằng chứng bênh đỡ sự thật về Chúa Kitô. Còn hơn điều đó, đó là một thế giới mới, người ta đi vào trong đó với đức tin kèm theo sự kinh ngạc và niềm vui. Sự sống lại của Chúa Kitô là một sự "sáng tạo mới."

Vấn đề không phải là tin Chúa Giêsu đã sống lại; vấn đề là được biết Đức Kitô, quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh" (Phil. 3:10).

Chiều kích sâu hơn nữa của Phục Sinh được anh em Chính Thống giáo chúng ta cảm nghiệm cách đặc biệt. Đối với họ, sự sống lại của Chúa Kitô là tất cả. Trong mùa Phục Sinh, khi gặp ai là họ chào nhau: "Chúa kitô đã phục sinh!", và người kia trả lời: "Người đã sống lại thật!"

Tập quán này đã ăn rễ sâu trong dân chúng đến nỗi giai thoại sau đây được nói đã xảy ra lúc bắt đầu Cách mạng Bôn-sơ - vích. Một cuộc tranh luận được tổ chức về sự Chúa kitô sống lại. Trước hết người vô thần nói, có ý đả phá vĩnh viễn đức tin Kitô hữu vào sự phục sinh.

Khi người ấy xuống thì vị linh mục Chính Thống giáo bước lên bục để nói bênh vực. Linh mục khiêm tốn đó nhìn xuống đám đông và nói cách đơn giản: "Chúa Kitô đã sống lại!" Trước cả sự suy nghĩ, tất cả mọi người đồng đáp lại: " Người đã sống lại thật!" Và vị linh mục xuống khỏi bệ trong thinh lặng.

Chúng ta biết rõ sự phục sinh được diễn tả cách nào trong truyền thống phương Tây, ví dụ, trong Piero della Francesca. Chúa Giêsu đi ra khỏi mồ giơ thánh giá lên như một tiêu chuẩn chiến thắng. Gương mặt của Người linh hứng sự tín thác và an ninh lạ lùng. Nhưng chiến thắng của ngài chỉ ở trên những kẻ thù bên ngoài, trần thế của Người. Các thẩm quyền đã đóng ấn trên mộ Người và đặt những lính canh để canh chừng, và trông kìa, các dấu ấn bị bẻ gãy và những lính canh ngủ mê. Những người nam hiện diện, chỉ như những chứng nhân bất lực và tiêu cực; họ không thật sự thông phần vào sự Sống lại.

Trong hình ảnh phương Đông, các khung cảnh hoàn toàn khác biệt. Khung cảnh đó không được diễn ra ngoài trời, nhưng dưới hầm đất. Trong sự phục sinh, Chúa Giêsu không đi ra nhưng đi xuống. Bằng nghị lực phi thường Người nắm lấy tay Adam và Eva, đang chờ đời trong lãnh vực những kẻ chết, và lôi kéo ông bà về với Người đến sự sống và phục sinh. Bên sau hai ông bà, một đoàn lũ vô số những người nam và nữ đã chờ đợi sự cứu chuộc. Chúa Giêsu chà đạp trên những cửa hỏa ngục mà chính Người đã phá vỡ và bẻ gãy. Chiến thắng của Chúa Kitô không ở trên những kẻ thù rõ rệt cho bằng trên những kẻ thù không thể thấy, là những kẻ thù xấu nhất: sự chết, sự tối tăm, sự âu lo, sự dữ.

Chúng ta được can dự trong cuộc trình diễn này. Sự phục sinh của Chúa Kitô cũng là sự phục sinh của chúng ta. Mọi người nam đứng nhìn, được mời hoà đồng với Adam, và mọi người nữ với Evà, và giơ tay mình ra cho Chúa Kitô nắm và kéo ra khỏi mồ. Đó là cuộc xuất hành Phục Sinh phổ quát mới. Thiên Chúa đã đến "với cánh tay hùng mạnh và bàn tay giương ra" hầu giải thoát dân Người khỏi cảnh nô lệ khắt nghiệt hơn và phổ quát hơn là cảnh nô lệ Ai Cập.

Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách

------------------------------

 

PS3-B43. ĐỊNH VÀ ĐƯỜNG LỐI NHIỆM MẦU


CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM B (26.04.2009)

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ       

 

Điều quan trọng nhất đối với Ki-tô hữu chúng ta là hiểu biết, mến yêu và sống phù hợp với ý định và đường lối: PS3 B-43


Điều quan trọng nhất đối với Ki-tô hữu chúng ta là hiểu biết, mến yêu và sống phù hợp với ý định và đường lối của Thiên Chúa đã được thể hiện trong lịch sử Cứu độ và nhất là trong mầu nhiệm Vượt Qua, -tức trong cái chết và sự phục sinh- của Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. Có như thế chúng ta mới có thể đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa: hiệp thông trong tư tưởng và hiệp thông trong hành động.

Các bài Thánh Kinh hôm nay giúp chúng ta nhận ra ý định và đường lối của Thiên Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Ki-tô.Chúng ta hãy chăm chú đọc các bài Sách Thánh ấy, lắng nghe và đón nhận sứ điệp của Lời Chúa để thực thi cho trọn tình trọn nghĩa với Thiên Chúa Tình Yêu.
          
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Bài đọc 1: Cv 3, 13-15.17-19: Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.

(13) Hôm ấy ông Phê-rô lên tiếng nói với dân chúng rằng: “Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. (14) Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. (15) Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.”  

(17) "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. (18) Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. (19) Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em.”

(2) Bài đọc 2: 1 Ga 2,1-5a: Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta và tội lỗi cả thế gian nữa.

(1) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính. (2) Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa. Điều kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái (3) Căn cứ vào điều này,chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. (4) Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. (5) Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.

(3) Bài Tin Mừng: Lc 24,35-48: Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.

 (35) Bấy giờ hai môn đệ từ Em-mau trở về, thuật lại những gì đã xẩy ra dọc đường và  việc mình nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

(36) Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!"  (37) Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. (38) Nhưng Người nói:  "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? (39) Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?" (40) Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. (41) Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không?" (42) Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. (43) Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.

(44) Rồi Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." (45) Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (46) và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; (47) phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.  (48) Chính anh em là chứng nhân về những điều này. (49) "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:

3.1.1 Bài đọc 1 (Cv 3, 13-15.17-19) là bài giảng của Tông đồ Trưởng Phê-rô về sự kiện Chúa Giê-su được Thiên Chúa tôn vinh sau khi Người bị người Do Thái giết hại. Thánh Phê-rô nói rằng: vì không biết, không ý thức mà những người đồng hương đã giết hại Đấng Thánh của Thiên Chúa. Nhưng để được Thiên Chúa thứ tha, xóa bỏ tội lỗi thì những người này phải biết ăn năn sám hối về những tội họ đã phạm, quay về với Thiên Chúa và nhìn nhận Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Một Thiên Chúa.

Vậy chúng ta có thể kết luận được rằng: Thiên Chúa là Đấng từ bi lân ái, giầu lòng xót thương và thứ tha. Người thực hiện ý định và đường lối cứu độ của Người trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của Người.

3.1.2 Bài đọc 2 (1 Ga 2,1-5a) là một trích đoạn của Thư thứ nhất của Thánh Gio-an Tông đồ trong đó ngài nêu rõ hai mục tiêu của Thư:

(a) một là để con cái ngài không phạm tội mất lòng Chúa và

(b) hai là để họ tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn bác ái là giới răn riêng của Thầy Giê-su.

Vậy chúng ta có thể quả quyết điều này: Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Tình Yêu. Là Đấng Thánh nên Thiên Chúa không thể yêu thích tội lỗi. Là Tình Yêu nên Thiên Chúa muốn cho mọi người được hạnh phúc nhờ việc tuân giữ giới răn yêu thương của Người. 

3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 24,35-48) là tường thuật của Thánh Lu-ca vể lần hiện ra của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh với các tông đồ, trong đó chân dung Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh được phác họa rất đậm nét. Vẫn là khung cảnh quen thuộc của các tường thuật Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ: cửa đóng kín, các môn đệ sợ sệt, bán tín bán nghi về chính Thầy của mình. Cảm thông với tâm trạng và hoàn cảnh đặc biệt ấy của các tông đồ, Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh đã tìm mọi cách để đánh tan mối nghi ngờ trong lòng các ông và giúp các ông nhận ra Người:

- Trước hết Người đã ăn miếng cá nướng mà các tông đồ đưa cho Người để chứng tỏ Người là người chứ không phải là ma.

- Kế đến Người đã cho các ông xem cạnh sườn và dấu tích của cuộc thương khó để chứng tỏ Người là Thầy Giê-su của các ông chứ không phải là ai khác.
- Sau cùng Người đã mở lòng, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh, để các ông hiểu và sống phù hợp với ý định và đường lối của Thiên Chúa. 

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”

Đó là ý định và đường lối của Thiên Chúa về Chúa Giê-su Ki-tô mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta đón nhận!

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay còn là: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.  Chính anh em là chứng nhân về những điều này” 

Đó là ý định và đường lối của Thiên Chúa về các Ki-tô hữu mà tất cả và mỗi người chúng ta được Thiên Chúa mời gọi sống sao cho phù hợp. 

IV. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là mỗi người / mỗi cộng đoàn Giáo hội (giáo xứ, giáo phận, hội đoàn tông đồ, dòng tu) kiểm điểm cách sống của mình, xem:

a. mình / cộng đoàn mình đã thấu hiểu ý định và đường lối của Thiên Chúa về Chúa Giê-su Ki-tô như thế nào?

b. mình / cộng đoàn mình đã thấu hiểu ý định và đường lối của Thiên Chúa về sứ mạng và vai trò rao giảng Tin Mừng và làm chứng của mình / cộng đoàn mình như thế nào?

c. mình / cộng đoàn mình đã sống phù hợp với ý định và đường lối ấy của Thiên Chúa như thế nào trong đời sống cá nhân và cộng đoàn?

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ NHÂN LOẠI

5.1 “Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha, vì Cha đã tôn vinh Đức Giê-su Con Cha ngay sau khi Người bị các người đồng hương giết hại một cách bất công. Chúng con nguyện xin Cha rủ lòng đoái thương đến chúng con là những kẻ vừa mê muội vừa hèn nhát mà tha thứ cho chúng con.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.  Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha về sứ mạng rao giảng Tin Mừng và làm chứng mà Con Cha đã giao cho Hội Thánh và cho mỗi người chúng con. Chúng con nguyện xin Cha ban ơn phù trợ cho Hội Thánh Cha, cách riêng cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và các Giám Mục, linh mục, phó tế và tu sĩ nam nữ, để các vị ấy chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho mọi người. 

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.3 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha, về quà tặng Thánh Thần mà Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh đã ban cho chúng con. Chúng con nài xin Cha ban cho tất cả mọi tín hữu, nhất là cho các anh chị em tân tòng, ơn biết đón nhận và sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để chúng con làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh trong xã hội ngày nay.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.4 “Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta.” Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì Cha đã đặt Chúa Giê-su Ki-tô làm Đấng Trung Gian, làm của lễ đền tội cho chúng sinh. Chúng con xin hiệp lòng, hiệp ý với Chúa Giê-su Ki-tô trên bàn thờ mà dâng mạng sống và cuộc đời của chúng con lên Cha như của lễ hèn mọn được Cha thương chấp nhận.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

------------------------------

 

PS3-B44. Đau khổ

 

Đang khi các tông đồ nghe hai môn đệ từ Emmaus trở về, say sưa kể lại sụ kiện gặp gỡ Đức: PS3 B-44


Đang khi các tông đồ nghe hai môn đệ từ Emmaus trở về, say sưa kể lại sụ kiện gặp gỡ Đức Kitô phục sinh, thì Ngài bỗng hiện ra và ở giữa họ. Chắc hẳn lúc bấy giờ các ông đã vô cùng sững sờ và ngạc nhiên đến nỗi tưởng như mình đã gặp phải một hồn ma nào đó. Khi ấy Chúa Giêsu mới ân cần làm cho họ nhận biết mình. Ngài nói chuyện với họ, khuyến khích họ sờ vào tay chân Ngài để họ không còn nghi ngờ chi nữa.

Dù vậy các ông vẫn còn e dè sợ sệt. Chúa Giêsu lại phải đưa thêm một bằng chứng khác nữa, đó là Ngài cùng ăn uống với họ. Hồn ma chỉ có thể tạo ra những ảo giác chứ không thể ăn uống như người thật. Các tông đồ đến lúc đó mới hết ngờ vực. Vả lại nhìn chung quanh các ông thấy ai cũng tin như thế, các ông mới yên lòng, vì nếu ảo tưởng thì chỉ có nơi một vài người lẻ tẻ, chứ không thể nào tất cả bằng ấy người lại cùng có một ảo tưởng.

Họ nhận ra Ngài như Ngài đã nói: Chính Thầy đây. Và họ tin chắc đó là Chúa Giêsu, người mà họ đã bước theo suốt ba năm dài, đã trở nên tông đồ, đã sống thân mật và gần gũi với Ngài. Ngài đã chịu nạn chịu chết và bây giờ đã sống lại.

Giờ đây, Chúa Giêsu cũng làm lại điều Ngài đã làm cho hai môn đệ tại Emmaus, đó là mở trí cho họ hiểu Kinh thánh. Bấy lâu nay Ngài đã nhiều lần và bằng nhiều cách dạy cho họ hiểu những lời tiên tri, thánh vịnh. Cố ý cho họ biết Ngài là Đấng Messia, sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết. Nhưng nào họ có chịu hiểu cho đâu, lại còn bực bội tức tối về điều đó nữa.

Chúng ta cũng thế. Biết bao nhiêu lần chúng ta vẫn quan niệm Giáo Hội như là một cơ chế quyền lực do Chúa thiết lập. Giáo Hội phải thành công rực rỡ trong mọi lãnh vực. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã đòi hỏi cuộc sống thiêng liêng và những hoạt động tông đồ của mình phải gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chúng ta không thể nào chấp nhận được chương trình và cách thức hành động của Thiên Chúa.

Giờ đây Chúa Giêsu mở lòng trí các tông đồ khiến họ phải hiểu qua con đường nào mới tiến đến được vinh quang Nước Trời. Thực tế, con đường của Chúa không đi đôi với vẻ hào nhoáng của những thành công sáng chói ở đời, nhưng đó là con đường nghịch lý mà Chúa Giêsu đã dạy trong tám mối phúc thật. Có thể thỉnh thoảng Chúa cũng ban cho chúng ta một vài thành quả nào đó, tuy nhiên những thành quả ấy phải được sử dụng để làm vinh danh Chúa và mưu cầu lợi ích cho anh em, chứ không phải là để kiếm chác những lợi lộc tư riêng theo kiểu vinh thân phì gia.

Cái định luật bất di bất dịch mà những người tin Chúa phải tuân theo, đó là hãy chấp nhận gian khổ, hãy vác lấy thập giá trên vai nếu như chúng ta muốn trở thành môn đệ Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.

------------------------------

 

PS3-B45. Sự thử thách cho trọng tâm đức tin

 

Để tránh sự mập mờ khó hiểu của một từ, mà theo ngôn ngữ thông thường ý nghĩa của nó: PS3 B-45


Để tránh sự mập mờ khó hiểu của một từ, mà theo ngôn ngữ thông thường ý nghĩa của nó đi từ sự khảo sát dĩ vãng theo con mắt khoa học, đến khái niệm về một truyện tích thần kỳ –ở đây chúng ta không muốn nói đến những “câu chuyện” thuật những lần Chúa hiện ra, mà chỉ bàn đến những đoạn tường thuật trong Phúc Âm. Ký sự của thánh Luca về lần Chúa hiện ra trong phòng Tiệc ly, nhấn mạnh sự việc các môn đệ nhận ra một người đang sống mà các ông tưởng là mãi mãi khuất bóng. Các ông tưởng nghĩ Chúa nằm yên trong mộ. Vậy mà Chúa cho các ông thấy Người đang sống. Chúa khẳng định: Chính là Ta đây. Sự kiện này quá vĩ đại, nên các ông chưa thể trong phút chốc chấp nhận thực tại trước mắt. Vì thế, Chúa đưa ra những bằng chứng về nhân dạng Người: Chúa muốn cho các ông chạm tay vào người Chúa, cho các ông nhìn những vết sẹo ở tay chân Người. Chúa lại dùng bữa trước mặt các ông.

Đoạn Phúc Âm có sức kích thích mạnh, cho thấy các Tông đồ đã sống sự kiện Phục Sinh, coi đó là một biến cố thật sự xảy đến cho Chúa, chứ không như một kinh nghiệm tôn giáo đơn giản. Nếu sự sống lại vì có tính cách phi thường cho nên phần nào ở ngoài vòng kiểm soát của khoa sử học với khả năng hạn hẹp của loài người- thì ở đây ta thấy sự Phục Sinh như là một sự kiện gây nền một niềm xác tín vững mạnh trong tập thể một nhóm người. Các ông xem sự Chúa sống lại như một biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố Thương Khó. Mặc dù vượt quá những khuôn khổ nhân loại của những sự kiện dĩ vãng được khoa sử học, khoa học khảo sát, sự Phục Sinh hiện diện như là một sự kiện được kiểm soát, dựa trên lời chứng của các Tông đồ. Người ta có thể trích dẫn ra đây một câu trong sách Công Vụ. Sau cuộc Thương Khó, Người cho họ thấy mình vẫn sống, với nhiều bằng chứng rành rành (1,3).

Để suy niệm, chúng ta giữ lại 2 điểm

1) Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được, và chỉ kinh ngạc. Chúng ta thích thú mà nhận thấy rằng ngay cả đối với các môn đệ, tin vào sự sống lại không phải là việc dễ. Tâm trí con người hiện đại rất khó chấp nhận sự sống lại của một kẻ chết. Chỉ cần thêm một chút tưởng tượng thôi, thì sự Phục Sinh chỉ là một huyền thoại đối với những người biết suy xét. Điều khó khăn ấy gây trở ngại cho niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta đứng trước sự thử thách về đức tin, vì chính đời sống Kitô hữu xây móng trên niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa. ta hãy gạt hết những gì là tưởng tượng khỏi tâm trí ta. Một cách rất đơn sơ, cùng với các Tông đồ, chúng ta đặt niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu từng bị đóng đinh, giờ đây đang sống. Nếp sống của Chúa đã thay đổi, nhưng đích thật Người –một Đấng vừa có thể xác, vừa có thiên tính- đã bằng sự Phục Sinh của Người, đóng dấu ấn lên công cuộc cứu rỗi của Người.

2) Nhân danh Người, phải được rao giảng việc hối cải để được tha thứ tội lỗi. Trong bối cảnh tổng quát của nền tư tưởng Kitô giáo, câu đó rất phong phú.

Sau đây là một quan điểm có một giá trị của nó. Tội lỗi làm cho con người mất quân bình, sinh ra lầm đường lạc lối, cho nên tội lỗi xô đấy con người đến chỗ hoặc làm Thiên thần hoặc làm giống thú. Tại sao? Vì lẽ con người là cơ thể và tâm trí hợp nhất, lẽ thứ hai là tội lỗi đem hỗn loạn vào cơ thể và tâm trí. Thế quân bình hoàn chỉnh giữa cơ thể và tâm trí được thực hiện trong Đức Kitô Phục Sinh. Chúa vừa có tính chất siêu nhân loại thần kỳ, vừa mặc một xác phàm cụ thể. Trong Chúa không có tội lỗi mà chỉ có nhân vị thành toàn và bản thể chính trực. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trở nên một thứ men phi thường cho sự thành toàn con người cả hồn lẫn xác. Đó là một sức mạnh thiêng liêng, nó loại bỏ tội lỗi và dẫn đưa con người tới sự thành toàn một số mệnh chung cho xác hồn.

------------------------------

 

PS3-B46. Niềm tin thắng vượt sợ hãi

 

Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niên tin giống như một: PS3 B-46


Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niên tin giống như một người yếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn câu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngưạ. Cậu con thường với vẻ do dự:

- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình. Nghe con nói như thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:

- Với đèn sáng này, thấy rõ đến đâu?

Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.

Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: từ đó con nhìn tới đâu nữa?

- Con nhìn tới cổng, cậu đáp.

Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:

- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.

Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.

Thưa anh chị em,

Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,47-50)

Chúng ta có thể đặt hai câu truyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự Phục Sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác Phục Sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.

Chúa đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ?” lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạn thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì?). rồi Ngài ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy”rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã Phục Sinh và đang sống với anh em.

Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn và thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.

Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.

Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?”… Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!

Người Kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Đức Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt được sợ hãi trước bóng tối của cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.

------------------------------

 

PS3-B47. Phiền muộn, bối rối, & bình an – Lm Nguyễn Trung Tây

 

Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh: PS3 B-47


Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.

Ngoài thất vọng, tuần Thánh và tuần Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi cũng là hai tuần lễ đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.

Bắt đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá và sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đức Giêsu.

Nhưng rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá nữa. Mà nếu xác Đức Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen tối (Ga 20,2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem.

Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giêsu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ của Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.

Cánh cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai người môn đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đã trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường dài mười một cây số.

Trong căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ, và hoang mang.

Không trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.

Suy Niệm

Trong ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.

Nhân loại ngày hôm nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.

Ngày hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.

Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.

Nhân loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.

Ngày hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhiều hơn, nhưng hạnh phúc và bình an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy. Khi hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của thành phố New York hóa ra tro bụi vào một buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, mọi người trên thế giới đã biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đóng kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài:

Lời Nguyện

Lạy Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong căn phòng đóng kín cửa. Lạy Chúa, những khi con thất vọng với chính con, với những sa ngã, với những lỗi lầm của con và của anh chị em con, xin ban cho con lời chúc bình an của Chúa năm xưa, để tâm hồn của con thôi lo lắng, buồn phiền, nhưng ngập tràn hạnh phúc, và bình an.

------------------------------

 

PS3-B48. Chúa hiện ra với các tông đồ - R. Gutzwiller


Trình thuật này gợi lên cho ta 3 ý tưởng:

1) Sự kiện Phục sinh

 

Chúa bỗng hiện ra đứng giữa các tông đồ. Họ lại khiếp đảm kinh sợ và không thể nào chấp nhận: PS3 B-48


Chúa bỗng hiện ra đứng giữa các tông đồ. Họ lại khiếp đảm kinh sợ và không thể nào chấp nhận nổi sự kiện, mặc dù họ đã được sứ điệp của các bà, của Simon báo trước, và rồi của hai môn đệ đi thành Emmau nữa. Họ không thể hiểu nổi sự kiện xảy ra đến nỗi Chúa Giêsu phải chính thức nhấn mạnh: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó: Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt xương như anh em thấy Ta đây’. Và hình như họ còn không tin và không dám nhìn thẳng vào thực tế trước mắt, nên Ngài hỏi ‘Ở đây các anh em có gì ăn không?’ Và Ngài đã ăn trước mắt họ. Khi ấy họ không nghi ngờ nữa. Ngài đó, Ngài đứng đó với xác thịt rành rành. Sự Ngài Phục sinh không chỉ là sự sống lại thiêng liêng mà thôi, nhưng còn là sự sống lại thể xác nữa.

Hơn thế nữa, những lời ‘Ngài cho họ nhìn xem tay chân Ngài’ cũng như Ngài nói: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó’ chứng tỏ rõ ràng rằng sau khi sống lại, những dấu của cuộc khổ nạn vẫn còn y nguyên. Vậy Đấng chịu khổ nạn đã sống lại với xác thân của Ngài. Khải huyền thơ nói Chúa biến hình dưới dạng một ‘con chiên bị đem đi sát tế’. Những dấu tích cho thấy rằng thân thể Ngài là thân thể của một tế vật và sự Phục sinh là hoàn tất hy tế đó. Đấy không phải là một biến cố lịch sử đơn giản, xảy ra trong một vài khoảnh khắc, nhưng là một biến cố lâu dài, bền bỉ, để lại kết quả lâu dài qua dòng thời gian.

2) Ý nghĩa Phục sinh

‘Đức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết quả riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.

3) Loan báo Phục sinh

‘Các anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhòa đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.

------------------------------

 

PS3-B49. Chú giải của William Barclay


TRÊN PHÒNG CAO (Lc 24,36-49)

 

Trong khi các môn đệ hội họp ở phòng cao thì Chúa Giêsu hiện ra. Trong đoạn này, một: PS3 B-49


Trong khi các môn đệ hội họp ở phòng cao thì Chúa Giêsu hiện ra. Trong đoạn này, một số chân lý đức tin Kitô giáo được tỏ rõ.

1) Sự Phục Sinh. Chúa Giêsu xuất hiện không phải như một bóng ma hay một ảo tưởng của tâm trí. Đây là một sự thật. Đấng đã chết nay đã sống lại. Kitô giáo không xây dựng trên căn bản các giấc mơ của những người loạn trí hay những ảo ảnh của những người loạn thị. Kitô giáo được xây dựng trên những sự kiện thực tế của lịch sử, đối đầu và chiến thắng tử thần và cuối cùng Phục Sinh.

2) Sự cần thiết của thập giá, toàn bộ Kinh Thánh đều hướng về thập giá. Thập giá không phải là một biện pháp áp đặt lên Chúa, cũng không phải là giải pháp cuối cùng khi mọi kế hoạch khác đều thất bại. Thập giá là chương trình định sẵn của Thiên Chúa. Thập giá là nơi duy nhất trên trần gian này cho ta thấy được tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa.

3) Sứ mạng khẩn cấp. Phải ra đi, kêu gọi mọi người hoán cải và tiếp nhận sự tha thứ của Chúa. Hội Thánh không thể ngồi yên tại phòng cao mãi, mà phải ra đi. Phải rời phòng cao mà thực hiện sứ mệnh của mình. Những ngày than vãn đã lui vào quá khứ. Giờ đây, ta phải đem niềm vui Phục Sinh chia sẻ cho mọi người.

4) Bí quyết của quyền năng. Họ phải chờ đợi tại Giêrusalem cho đến khi nhận được quyền năng từ trên cao. Có những lúc Kitô hữu dường như phí thời giờ chờ đợi trong sự thụ động mà không có chuẩn bị thì thất bại. Có khi ta phải bắt tay vào việc phục vụ Chúa, nhưng cũng có khi ta phải chờ đợi Chúa.

Khoảng thời gian yên lặng mà chúng ta chờ đợi Chúa không bao giờ uổng phí. Đó là khoảng thời gian mà chúng ta nghỉ các việc của đời này để chuẩn bị sức lực cho các công việc của Chúa.

------------------------------

 

PS3-B50. Chú giải của Noel Quesson

 

Hôm nay chúng ta đọc một phần bản văn Luca về “Trình thuật Phục sinh”. Theo Tin Mừng: PS3 B-50


Hôm nay chúng ta đọc một phần bản văn Luca về “Trình thuật Phục sinh”.
Theo Tin Mừng của ông, năm biến cố đã xảy ra trong ngày Phục sinh:

- Các phụ nữ đến viếng mộ vào buổi sáng và việc báo tin Chúa Phục sinh (24, 1-10).
- Phêrô cũng đến thăm mộ và thái độ bối rối của ông (24, 11-12).
- Chúa hiện ra với hai môn đệ làng Emmau (24, 13-35).
- Chúa hiện ra với mười một môn đệ, cùng buổi chiều hôm đó (24, 36-49).
- Đức Giêsu thăng thiên và việc Người được tôn dương trên trời (24, 50-53).

Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và chuyện mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói thì Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông.

Từ ba ngày qua, biết bao là biến cố bi thảm đã xảy ra cho con người đáng thương này? Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu vào tối thứ năm, cuộc vây bắt tại vườn Ghétsêmani, mọi người đều bỏ trốn, Phêrô chối Chúa, việc xét xử bêu nhục Chúa như kẻ phản đạo và phạm thượng, cái chết của Chúa trên thập giá ngoài cửa thành, việc treo cổ tự sát của Giuđa, một bạn hữu của họ. Nhóm Mười Hai trở thành nhóm Mười Một, do một người trong họ bỏ cuộc và đã chết!

Chính trong bối cảnh này mà cuộc "Phục sinh" xảy đến một cách bất ngờ và làm cho mọi người bàng hoàng sửng sốt.

Người nói với các ông: "Chúc anh em được bình an"

Đó là lời chào hỏi thông thường của Người Do Thái: “Shalom!" có nghĩa là "Bình an”.

Nhưng ta có thể nghĩ rằng, chiều hôm đó, lời chào chúc cổ truyền đó hẳn phải mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt: chính vào lúc vô cùng tuyệt vọng thì Chúa hiện đến trấn an các ông: "Anh em đừng sợ", "Hãy an tâm". Theo Thánh Gioan, trước khi bước vào cõi chết, hôm thứ năm vừa qua, Đức Giêsu đã hứa các tông đồ sẽ được bình an sau một 'thời gian khủng hoảng đớn đau’: "Thầy để lại sự bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy" (Ga 14,27). "Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô đơn”. “Thầy nói với anh em những điều ấy để nhờ kết hợp với Thầy, anh em được bình an” “Anh em can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,32-33). Hôm nay vào chiều tối Phục sinh, lời hứa đã được thực hiện.

Các ông sợ hết hồn hết vía, tưởng là thấy ma.

Rõ ràng, như các trình thuật khác đều đã nói cho ta. Nhóm "Mười Một" bắt đầu run sợ và nghi ngờ. Một lát nữa, Luca sẽ nhấn mạnh giúp ta lưu ý tới sự kiện Đức Giêsu phải "mở trí lòng" họ: họ còn không hiểu gì cả. Chỉ ngắm nhìn thì chưa đủ còn phải "mở trí lòng" tới mầu nhiệm.

Nhưng Người nói: "Việc gì mà hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như Thầy đây?"

Trong trình thuật tương song của Gioan, Đức Giêsu đã cho các tông đồ xem "tay và cạnh sườn" Người (Ga 20,20). Còn ở đây Luca lại ghi, Người cho họ xem "chân tay" Người? Ta biết rằng, đối với Thánh Gioan "cạnh sườn" rộng mở tượng trưng cho nguồn nước vọt ra từ đền thờ mới, theo lời tiên báo của ngôn sứ Êdêkien.

Những điểm cốt yếu của trình thuật vẫn là chung, đó nhằm minh chứng rằng chính Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, nay đã sống lại. Đối với những người Sêmít, này, là những người không có ý niệm phân biệt linh hồn và thể xác theo triết thuyết của Platon và Descartes, thì nếu Đức Giêsu đang sống động, chỉ có thể hiểu Người sống động với toàn diện con người mình. Đức Giêsu muốn quả quyết, Người không phải là một bóng ma như thế, Người phải có một thân xác, sự sống lại không thể giản lược vào nguyên một tình trạng "linh hồn bất tử". Do đó, mọi chi tiết trên đây đều diễn tả cách cụ thể: "Cứ rờ vào Thầy. Hãy xem chân tay Thầy. Hãy cho Thầy ăn".

Tuy nhiên, chúng ta không nên ảo tưởng. Cần phải vượt qua vẻ vật chất của ngôn từ diễn tả, để hiểu ý nghĩa sâu xa của công cuộc Phục sinh. Nhằm đề cao chân lý đó, chính Thánh Phaolô sau này sẽ xác quyết: "Chúa là thần khí”(2Cr 3,17-18). Ngài cũng nói về thân xác Phục sinh như một "thân-thể-thuộc-linh” (1Cr 15,44).

Các ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có ăn gì không" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.

Việc ám chỉ tới một bữa ăn như trên, gợi lại cử chỉ của Chúa tại làng Emmau, sau này Phêrô cũng tuyên bố: chính chúng tôi đã được cùng ăn, "cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10,41). Trong trình thuật của Luca trên đây, không có gì ám chỉ cách công khai tới Thánh Thể nhưng bầu không khí vẫn là khung cảnh của những "bữa tiệc thánh”, mà ở đó các môn đệ sẽ nhận ra một sự hiện diện mới của Đấng Phục sinh.

Rồi Người bảo: "Anh em hãy nhớ lại những lời Thầy đã nói, khi Thầy còn ở với anh em"

Công cuộc Phục sinh không thể dược hiểu như một thứ hiện tượng cách biệt, một thứ hành động ma thuật. Đức Giêsu cố gắng giúp cho người ta “hiểu” và dồn "tâm trí" vào sự kiện đó. Và bước đường đầu tiên mà Người gợi lên cho các tông đồ đi tới hiểu biết, đó là vận dụng "ký ức” Người đã báo trước cái chết và sự phục sinh của Người. Người mong muốn chúng ta khám phá ra sự liên tục giữa Đức Giêsu trước Phục sinh ‘và’ Đức Giêsu sau Phục sinh, Đức Giêsu lịch sử và Đức Giêsu vượt qua lịch sử, Đức Giêsu cụ thể và Đức Giêsu của lòng tin.

Về vấn đề này, chúng ta nên ghi nhận kiểu nói kỳ lạ của Đức Giêsu: khi Thầy còn ở với anh em ‘thuộc về quá khứ’ Nhưng, lạy Chúa Giêsu, lúc này Chúa đang hiện diện với chúng con mà! Các môn đệ đã có thể đáp lại với Chúa như thế. Đúng vậy, nhưng Người đâu có hiện diện cũng một cách thức như trước nữa: Vẫn chính là Người, nhưng không phải y như trước. Đây luôn là mầu nhiệm đức tin.

Tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh.

Các Sách Thánh loại nào? Đó là toàn bộ Cựu ước: Luật, Ngôn sứ và Thánh Vịnh. Đúng ra, Đức Giêsu là một người rất quen thuộc với Kinh thánh. Người đã đọc đi đọc lại cho riêng mình một số đoạn để ứng dụng vào số phận đời Người. "Kinh thánh đã nói về đời tôi!". Các bạn hãy đọc lại và sẽ thấy. Và chúng ta hình dung ra như Đức Giêsu, đang dạy một lớp giáo lý Kinh thánh, chú giải Kinh thánh. Công cuộc Canh tân Phụng vụ theo ý Công đồng Vatican II lại tạo điều kiện cho chúng ta đọc nhiều đoạn Kinh thánh hơn: mỗi Chúa nhật sẽ đọc ba bài đọc thay hai như cũ và được phân bổ trong ba năm để cung cấp cho ta một toàn bộ các văn bản đầy đủ hơn. Ta cũng có thể nhận thấy, công việc đó đã đi đúng hướng biết bao, như ý Đức Giêsu mong muốn. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, các Kitô hữu, biết đói khát Kinh thánh. Xin giúp chúng con đừng tới dâng lễ "trễ muộn", bỏ qua phần phụng vụ Lời Chúa, luôn vắng mặt trong phần đầu thánh lễ, thời gian mà "Chúa mở trí cho chúng con hiểu Kinh Thánh".

Người bảo có lời Kinh Thánh chép rằng: "Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ bỏ cõi chết chỗi dậy”.

Ôi! nếu như chúng ta có mặt ở đó thì thích biết bao, lúc mà Đức Giêsu bình luận lời ngôn sứ Isaia, sách Khôn ngoan và các Thánh Vịnh! Nhờ sách Công vụ Tông đồ, ta biết được những bản văn đặc biệt mà trong đó, Đức Giêsu "tự nhận ra mình" và nhờ đó Người mới quả quyết người ta đã nói về mình là những bản văn nào. Đó là những bản văn được trích dẫn Đệ Nhị Luật 18, 16-19 và 21,23; Hôsê 6,1, Isaia 52,13, Thánh Vịnh 2,22. Cựu ước hướng về Đức Giêsu. Mọi chương trình của Thiên Chúa, mọi công cuộc chuẩn bị đều nhằm đến "việc hoàn tất" này: đó là sự hy sinh vinh quang của Đức Giêsu vì tình yêu cứu độ. Những bài thơ về Người Tôi Tớ và nhiều Thánh vịnh đặc biệt đã minh chứng rằng, "đau khổ của người công chính, không phải là uổng công vô ích, nhưng luôn đạt tới một sự phong phú phi thường". Thực vậy người ta phải vượt qua giai đoạn đau khổ mới tới giây phút tạ ơn và thời gian loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa cho mọi dân tộc, "sứ vụ” truyền giáo cho khắp hoàn vũ như đã hiện diện trong các bản văn đó (Is 49,50).

Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.

Vâng, mối quan tâm truyền giáo đã tràn ngập tâm hồn Đức Giêsu. Người nhìn thấy trước hàng tỉ người nam nữ sẽ theo Người, sẽ yêu mến Người. Người nhìn thấy hàng tỉ tội nhân sẽ được tắm trong "nước tha thứ tội lỗi", sẽ được ghìm ngập trong tình yêu xót thương của Thiên Chúa, sẽ được thanh tẩy trong Thánh Thần, Đấng tha thứ và "ban sự sống". Thiên Chúa là tình yêu! ở đây chúng ta gặp lại điều mà Thánh Gioan đã nói trong Chúa nhật vừa qua: "Đức Giêsu thổi hơi để tha thứ tội lỗi!".

Và chúng ta đón nhận sứ điệp "Phục sinh" đó. Chúng ta có thể nói, Phục sinh làm gì? Để loan báo sự thay đổi, cuộc hoán cải, một "métanoia": Hãy đổi đời. Hãy phục sinh. Hãy sống động và cứ tiếp tục như thế. Phục sinh là một động lực sống! Nó luôn vận hành.

Phải rao giảng cho muôn dân, bắt đâu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối. Chính anh em làm chứng về những điều này.

"Sứ vụ của Giáo Hội" khởi sự từ công cuộc Phục sinh. Trong sức sống sinh động Phục sinh, cùng với “Đức Giêsu hằng sống" giữa các nhân chứng của Người, từ một điểm trung tâm của hành tinh chúng ta: đó là Giêrusalem! Thực vậy, đó là nơi có một không hai, mà người ta đã đào lỗ dưới đất để dựng cây thập giá lên, và từ đó đã trở nên trục của thế giới. Thành phố duy nhất này, nơi mà nhờ đó hành tinh đáng thương của chúng ta, thay vì là nghĩa địa mênh mông chứa chôn kẻ chết, đã trở thành nơi có "ngôi mộ trống", nơi của sự sống hiển thắng.

Lạy Chúa, xin ban cho con "sức mạnh" từ trời ban xuống đó (Lc 24,49) để con trở nên nhân chứng cho Chúa: Veni Creator Spiritus. Lạy Thần khí Tác sinh, xin hãy ngự đến.

------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây