Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 101-150 Anh em là những nh

Thứ năm - 12/04/2018 10:08
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 101-150 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 101-150 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 101-150 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh

-------------------------
PS3 B-101: ĐỨC TIN TRONG MẦU NHIỆM PHỤC SINH.. 2
PS3 B-102: “TA ƯỚC AO ĐẦU ĐỘI MŨ TRIỀU THIÊN…”. 4
PS3-B103: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT. ALLELUIA. 8
PS3-B104: SỐNG CHỨNG NHÂN CHO CHÚA KITÔ PHỤC SINH.. 11
PS3-B105: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH.. 13
PS3-B106: SỐNG CHỨNG NHÂN PHỤC SINH.. 15
PS3-B107: CHỨNG NHÂN CHO ĐỨC KITÔ.. 17
PS3-B108: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH.. 19
PS3-B109: HIỆN RA CHO CÁC TÔNG ĐỒ.. 21
PS3-B110: Có Chúa cùng đi. 23
PS3-B111: NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG.. 24
PS3-B112: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH.. 26
PS3-B113: Danh Chúa Giêsu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 27
PS3-B114:  Chia Sẻ Lời Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc. 30
PS3-B115:  Tình yêu - Tính vững bền và sự đòi hỏi 31
PS3-B116: Dấu chân – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 34
PS3-B117:  Giải mã Thánh Kinh – Lm. Phạm Quốc Hưng. 38
PS3-B118: ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ EMMAU.. 41
PS3-B119: Chúa giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh. 49
PS3-B120: BÌNH AN CỦA CHÚA PHỤC SINH ĐẾN VỚI HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAU. 52
PS3-B121:  Chứng nhân hiện đại – AM. Trần Bình An. 54
PS3-B122:  Tin vào Kinh Thánh là tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh. 57
PS3-B123:  Làm chứng về Thầy – ViKiNi 59
PS3-B124: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI 61
PS3-B125:  Có Chúa có bình an. 64
PS3-B126: Tìm gặp Chúa Giêsu hôm nay. 67
PS3-B127:  Chính Thầy đây, đừng sợ. 69
PS3-B128:  LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH.. 71
PS3-B129: Từ người bỏ cuộc trở nên Sứ giả Tin Mừng. 72
PS3 B-130: Làm chứng nhân – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa. 75
PS3-B131: TỪ NGỜ VỰC ĐẾN VỮNG TIN.. 77
PS3-B132: TỈNH NGỘ.. 78
PS3-B133: CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_B.. 82
PS3-B134: ĐỨC TIN TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN VÀ DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA.. 84
PS3-B135: NIỀM VUI CÓ CHÚA.. 86
PS3-B136: “VÀ CON TIM ĐÃ VUI TRỞ LẠI”. 88
PS3-B137: ĐƯỜNG EMMAUS. 91
PS3-B138:  "Chính anh em là chứng nhân của những điều này." (Lc 24,48) 93
PS3-B139: Đấng Phục Sinh ở giữa ta. 96
PS3-B140: Làm chứng về Thầy. 99
PS3 B-141: Mục sở thị 103
PS3 B-142: Nhãn tiền. 108
PS3 B-143: Bình an của Chúa Phục Sinh. 111
PS3 B-144: Niềm tin thắng vượt sợ hãi 113
PS3 B-145: Làm chứng cho biến cố Phục Sinh. 116
PS3 B-146: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 122
PS3 B-147: Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh. 125
PS3 B-148: Niềm tin vào sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. 128
PS3 B-149: Suy niệm của Lm. Alfonso. 130
PS3 B-150: Bình an đích thực. 132

-------------------------
 

PS3 B-101: ĐỨC TIN TRONG MẦU NHIỆM PHỤC SINH

 

Chúa Giêsu trong khoảng thời gian ít ỏi còn ở lại trần thế sau khi sống lại, Ngài đã lưu lại để: PS3 B-101


Chúa Giêsu trong khoảng thời gian ít ỏi còn ở lại trần thế sau khi sống lại, Ngài đã lưu lại để củng cố lòng tin, giải thích các mạc khải của Kinh Thánh, mở lòng khai trí và giao sứ mệnh cho các tông đồ. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi này ắt Ngài tiết lộ cho hậu thế nhiều bài học quí giá mà chúng ta cần khám phá, phân tích nhằm dẫn đường cho cuộc sống siêu nhiên – một cuộc sống mà chúng ta nhìn mọi sự vật hiện tượng dưới nhãn quan Đức Tin vào Chúa Phục Sinh.

1. Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ( Lc 24, 26 ).

Nếu trốn chạy khổ đau, chúng ta khó mong có thể nên Thánh. Thập giá là một con đường không thể thiếu trong hành trình thánh hóa của một Kitô hữu. Thập giá là những vất vả, nhọc nhằn về thể xác lẫn tinh thần vì chọn lựa Chúa Kitô là tâm điểm cuộc đời.

Cần nghiêm khắc xét mình để nhận rõ việc vác thập giá của mỗi cá nhân là do thời thế, do sự ẩn mình hay vì lòng yêu mến Ngài ? Đồng hành cùng Chúa Giêsu là đồng hành với thập giá vì tình yêu của chúng ta đối với Ngài. Cần khiêm hạ cầu xin và liên lũy cậy trông để Ngài chuyển hóa thập giá đường đời thành Thánh giá đường đạo. Không phải vác thánh giá trong nhẫn nhục mà là trong bình an. Không phải chọn lựa thánh giá trong cực đoan mà là trong khoa học thánh giá.

2. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ( Mt 28, 20 ).

Đây là câu nói thể hiện tính độc lập về sự hiện hữu của Chúa Giêsu theo thời gian lẫn không gian. Ngài là Chúa tể của vũ trụ. Ngài không chỉ hiện diện cách đây hơn 2011 năm, tại đất nước Do Thái xa tít mà còn luôn hiện diện bên cạnh ta. Con người luôn luôn có thể gặp Ngài ở bất cứ đâu, tại bất cứ thời điểm nào nếu chúng ta là môn đệ của Ngài. Câu nói này thể hiện một tình yêu bao la mà Chúa dành cho các người chọn Ngài làm Cha. Đúng là “Ta là alpha và omega, là khởi thủy và là tận cùng”. Tình yêu vô song này của Chúa Giêsu đã cụ thể hóa qua Bí Tích Thánh Thể, là chứng từ của tình yêu vô bờ bến. Bí Tích do Thiên Chúa lập nên để mời gọi chúng ta kết hợp với Ngài. Để mỗi cá thể là một chi thể được kết hợp với một thân thể trong Chúa Kitô như cành nho kết hợp với cây nho. Nhận thức sự hằng hữu của Ngài không chỉ giúp ta bình an trong thử thách mà còn nhận ra hình ảnh của Ngài che ẩn trong các tha nhân và nhắc nhở ta tránh các tội lỗi luôn rình rập chung quanh thể xác yếu đuối.

3. Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin ( Ga 21, 29 )

Người được hồng ân rồi mới tin không có phúc bằng người tin trước rồi nhận ân phúc sau. Đức Tin bằng cảm nghiệm thì phúc đức hơn Đức Tin bởi lí trí. Đức Tin người thứ hai cao hơn người thứ nhất. Người tin Chúa mà vẫn không nhận hồng ân từ Ngài sau những chuỗi nguyện cầu, nhưng vẫn nhất quyết đi theo Ngài là người phúc đức nhất vì họ hiểu rằng cách thức Chúa chọn lựa cho họ tốt hơn nhiều lần so với cái mà họ đang cầu xin. Đức Tin người thứ ba mạnh mẽ hơn người thứ hai.
Đức Tin mà thốt lên câu nói “một xin vâng theo ý Cha, đừng xin theo ý con” ( Mt 26, 39 ) là Đức Tin tuyệt kỹ.

4. Đây là những dấu lạ sẽ đi theo cho những ai có lòng tin ( Mc 16, 17 ).

Những ai có lòng tin sắc son vào Thiên Chúa sẽ được Ngài ban cho những ơn riêng biệt. Nhờ những ơn này mà chúng ta thấu hiểu các mầu nhiệm, nhận ra quyền năng, tình yêu vô biên của Đấng Chí Thánh để đủ trung kiên vác Thánh Giá Chúa đến cuối con đường. Nhờ các dấu lạ này chúng ta sẽ nhận thức rõ các câu nói “Không có Thầy các con sẽ chẳng làm được việc gì” ( Ga 15, 5 ) hay “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ bất xứng, chúng tôi đã chỉ thi hành những nhiệm vụ của mình đấy thôi" ( Lc 17, 10 ).

5. Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh ? Phần anh, hãy theo Thầy ( Ga 21, 22 ).

Khi đã đi theo Chúa, tuyệt đối không so sánh vị trí, công sức, tài năng, đức độ của mình với người khác. Đối với Thiên Chúa không có việc vĩ đại hay nhỏ bé, quan trọng nhất vẫn là tình yêu của chúng ta dành cho Ngài khi thực hiện các công việc ấy. Chính Chúa hay chọn những nơi hèn yếu để truyền tải tình yêu và quyền uy. Ngài chọn máng cỏ để giáng sinh; 30 năm nơi dương thế Ngài lại chọn Bác thợ mộc làm bố nuôi; 3 năm giảng dạy lại không có gối kê đầu; lúc tử nạn chọn thập giá để được treo lên; lúc an táng lại nhờ vào ngôi mộ của người khác. Người càng nhỏ bé, yếu hèn càng dễ được Chúa tuyển chọn. Và như thế mọi vinh quang điều qui về Đấng Chí Thánh. Thiên Chúa đã chọn và đặt mỗi người vào vị trí tối ưu nhất trong mắt Ngài. Phận con người là khiêm cung, trung thành, tín thác đi theo sự hướng dẫn của Ngài.

Con người làm việc mà Chúa giao ban chứ không làm việc mà ta mong muốn.

Lạy Chúa, từ việc nhận ra thân phận đầy tội lỗi đến việc dám trỗi dậy và không quay mặt lại với quá khứ ấy là một thử thách quá lớn lao đối với chúng con. Xin Ngài nâng đở để chúng con bền đỗ trong vai trò tôi tớ hèn mọn của Ngài dù chúng con còn nhiều bất xứng.

G. TUẤN ANH

-------------------------
 

 PS3 B-102: “TA ƯỚC AO ĐẦU ĐỘI MŨ TRIỀU THIÊN…”


“Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên

Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng.”

( dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử )
 

Ao ước ấy, nhà thơ nay không chỉ muốn đội mũ triều thiên thôi, mà còn tắm gội trong nguồn: PS3 B-102


Ao ước ấy, nhà thơ nay không chỉ muốn đội mũ triều thiên thôi, mà còn tắm gội trong nguồn sáng  Phục Sinh quang vinh như người nhà Đạo ở khắp chốn, vẫn rất tin.

Trình thuật theo Thánh Luca hôm nay nói về nguồn sáng Phục Sinh rất đặc trưng khiến đồ đệ tin Chúa đã đích thực trỗi dậy từ cõi hết. Cụm từ “đích thực” đây hàm ngụ một thắc mắc hỏi rằng: sao con người đã chết rồi lại có thể trỗi dậy từ cõi hết được như thế ? Trỗi dậy, là ngôn ngữ ít thấy có và cũng ít được sử dụng trong ngôn ngữ đời thường. Trỗi dậy, là sự kiện rất hiện thực xưa nay từng xảy đến với nhà Đạo. Sự kiện ấy, không đơn thuần là cảm nghiệm hoặc xác tín đính kèm món quà niềm tin gửi đến với đồ đệ, ngõ hầu các ngài có thể tư duy về Chúa Phục Sinh vốn trở thành sự thật từng xảy đến với Ngài.

Nhìn mặt ngoài, chừng như người đọc lại cứ nghĩ: trình thuật theo Tánh Luca xem ra có phần mâu thuẫn rất khó tin. Khó tin, là bởi không tác giả Tin Mừng nào lại nghĩ rằng Chúa đã Phục Sinh rồi Ngài lại phải đi vào cõi hết thêm lần nữa, để người người còn tin thêm cho chắc. Bởi lẽ, Chúa chết rồi, Ngài đâu cần chết thêm lần nào nữa, mà làm gì ? Do đó, trình thuật theo Thánh Luca ghi, là chỉ muốn diễn tả thân xác đã trỗi dậy của Chúa như vật thể ta đang nhìn và đã thấy, thậm chí còn có thể sờ chạm như xác phàm có da có thịt, có đủ mọi giác quan hiểu theo nghĩa phàm trần như ăn được, uống được.

Thật ra, Thánh Luca coi thân xác Chúa trỗi dậy là xác phàm có khả năng chết đi và sẽ chết như người thường, ở đời. Giống như mọi người, thánh nhân không nghĩ Thiên Chúa sẽ can thiệp vào bất cứ lúc nào để sự kiện Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi hết lại diễn ra thêm một lần. Với các thánh, xác phàm loài người và của Chúa sẽ không thể chết thêm lần nào nữa. Nhưng ở đây, sự việc “trỗi dậy” mang ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Vậy thì, ý nghĩa khác là khác đến độ nào ? Có thực không ?

Về thể lý, xác phàm tạo vật ở vũ trụ đều rữa nát và biến mất. Không ai có thể sống bằng xác phàm dù đã trỗi dậy để rồi mãi mãi đi vào chốn vĩnh hằng, sống cách khác. Con người không thể ép buộc Thiên Chúa đi vào hệ thống đầy những tắc nghẽn, hầu ngăn chặn thiên nhiên vạn vật sống đúng chức năng của mình. Giả như sau khi chết, con người lại mặc lấy cho mình cùng một thân xác như khi sống, thì đó cũng chỉ là kiếp đoạn trường của cuộc sống na ná như thế, chứ tuyệt nhiên không là trỗi dậy đích thực được.

Trình thuật hôm nay, Thánh Luca dàn dựng một số câu truyện về “nhận thức” cốt nhấn mạnh điều này: Đức Giêsu được công nhận là người thực chứ không phải hồn ma. Và, Ngài vẫn sống năng động theo thể thức nào đó, rất khác biệt. Như Thánh Máccô từng viết trước đó, Thánh Luca muốn nói rõ thêm rằng các Tông Đồ nhận ra Thầy mình đã chết nay lại hiện hình như thế, nên rất sợ. Điều, mà các thánh sợ nhất là không còn đủ thông minh sáng suốt để nhận ra được những điều đúng đắn nữa. Thế nên, câu nói đầu tiên khi các ngài nhận ra được Thầy, chỉ là câu nói bâng quơ, mơ hồ, chẳng có nghĩa. Và, càng nói các ngài càng để lộ chân tướng rằng: lâu nay mình cũng chẳng hiểu gì về Thầy hết. Có hiểu chăng, cũng chỉ bắt đầu từ lúc ất trở về sau thôi.

Nói cho cùng, Đức Chúa Phục sinh không là điều mà con người có thể hiểu bằng cảm tính hoặc kinh nghiệm xác phàm. Không vật thể nào trên đời lại cùng ở vào 5 trạng thái có tầm mức tư duy khác biệt được. Thêm vào đó, đây là sự thể đích thực xảy đến với những ai từng trỗi dậy cách thực thụ, chứ không là cảm nghiệm chủ quan riêng tư nằm sẵn trong con người từng tin vào chuyện mang tính xúc cảm hệt như thế. Thành thử, vấn đề ở đây là: sự thể xảy đến theo cung cách như thế mang tính đích thực đến độ nào ?

Trả lời vấn nạn này, có lẽ cũng nên tìm về với lập trường của các Thánh Tổ Phụ ở trời Đông thời Giáo hội tiên khởi, trong đó có thể kể đến các đấng bậc như Origen, thánh Gregorio thành Nyssa… Các thánh nói nhiều về “tính linh thiêng”, nhưng không bao hàm cảm giác sốt sắng đạo hạnh, mà chỉ nói lên nhận thức yêu thương về các sự thể mà não bộ thần kinh phía trái không biết gì về chuyện ấy. Nhận thức yêu thương này, ta “hình dung” ra được sự vật tuyệt đối không là chủ đề của loại hình xuất hiện như thế. Và, sở dĩ ta có làm thế, là để biến nó thành hiện thực như ta vẫn từng làm cho chính mình, mà tự thâm sâu, ta biết rõ sự thực theo cách vượt quá ảnh hình thể hiện ở nơi đó. Thế nên, có thể nói đó là sự siêu thăng. Là giòng chảy của sự sống rất kinh ngạc. Là sờ chạm được thế giới hiện nguyên hình từ đầu mà thông thường ta vẫn không muốn ở trong đó.

Để minh hoạ điều này, cũng nên về với lời thơ của thi hào John F. Dean người Ái Nhĩ Lan, sau đây:

Ngài làm ta kinh ngạc, hỡi Giêsu của mọi thời,

khi  Ngài lướt trên nước, vẫn lướt nhanh trên đó, chẳng nao núng;

Hãy nghĩ về sản sinh! Nơi tăm tối, từ đó ta bất chợt nhận ra

Ngài đang bước đi trên đất miền Palestin vừa hâm nóng, nhưng không giống

Bạn và tôi ta cũng cứ đi, bởi đằng sau Ngài mọi hoa màu đều nở rộ.

Và, thảm cỏ đầy hoa, nay thành hiện thực từ thảm cỏ đấng thánh hiền tên Gioan;

Cả ta nữa, cũng nhận ra Ngài đi xuyên suốt qua tường rào đầy ngăn cách
Từng xuất hiện với đồ đệ và đồng bào Ngài, cũng bất chợt.
Ngài ngồi đó, đợi chờ ta nhận ra Ngài.
Ôi kìa, Ngài lại đã đi vào không gian vũ trụ một lần nữa,                       
Bỏ lại đằng sau, đoàn ngũ môn đệ cứ dương cao nhìn Ngài thăng tiến
Lên cao lên cao mãi, tựa hồ thiên thể đang tiến vào
Cõi mông lung không hề thấy. Mãi sau này. Nhưng là người 
Ta không còn bị con mồi lừa dối nữa, bởi họ dám đứng lên đòi sinh mạng Ngài,
Rồi đóng đinh vào cây gỗ, khiến Ngài không còn lướt đi được nữa
Trên nước, dưới đất liền hoặc cả ở bầu khí quyển đã chôn vùi Ngài trong đất.
Rồi từ đó, mọi người nay sẽ bảo: Ngài lại lướt thắng thêm lần nữa,
Và hát lên bài ca chiến thắng cả sự chết, rất kinh ngạc.”

Nhận thức trên, rất gần với ý niệm “lửa ngọn” bừng bừng hâm nóng đời ta sống. Cuộc đời vẫn tiến bước về phía trước, để ta có được lửa ngọn dâng cao đến tầm mức rất mới mẻ. Và, khi có kinh nghiệm về tầm dâng cao mới mẻ của người vừa trỗi dậy, nhận thức này càng dấy lên lửa ngọn bừng bừng cháy ở trong ta. Và “nhận thức” là như thế. Thành thử, vấn nạn không còn là: phục sinh trỗi dậy diễn ra theo tầm mức đích thực chừng nào, mà là: làm sao để ta nhận ra được phục sinh, trỗi dậy của ai đó có là chuyện thực ở muôn nơi ? Đây mới là lời đáp trả cho phần nào câu hỏi đặt ra như thế.

Đó mới là lý do – để ta đáp ứng với Phục Sinh quang vinh của Chúa – mà các Thánh Tông Đồ thời tiên khởi đã phải sử dụng đến thi ca là thứ văn phong mà các ngài chưa bao giờ sử dụng ngõ hầu sờ chạm và tiếp cận Đức Chúa. Chính nhờ đó, các Thánh mới nhận ra được nhịp đập cùng đường gân/thớ thịt của Ngài, còn thương tích. Các thánh đích thực thấy Thầy mình bẻ bánh và đã ăn. Các ngài chẳng bao giờ quên được vị ngọt của tấm bánh. Từ phần thâm sâu, các ngài nhận ra Thầy mình cùng bẻ bánh và cùng ăn uống với người nghèo ở Galilê. Cả khi Ngài vẫn làm thế mãi về sau. Chính đó là lúc các ngài viết lên bài thơ rất mới để kể cho mọi người biết rằng Ngài có mặt ở đó với các thánh và cũng làm cử chỉ tương tự.

Chính đó là sự thể đích thực. Tuy nhiên, thật đáng buồn khi ta thấy phần đông tín hữu Đạo Chúa vẫn cứ hiểu nghĩa đen về sự thể thân xác Chúa trỗi dậy rất Phục Sinh. Làm như thể, sự việc chỉ xảy ra một lần rồi thôi. Thật cũng buồn, khi dân con Đạo Chúa không biết là Phục Sinh còn hơn thế nữa. Bởi thế nên, người người đã để luột mất đi điểm chính yếu đích thực của nhiệm tích này. Buồn hơn cả, là nhiều vị lại cứ lên án những ai sử dụng thi ca để diễn tả câu truyện dụ ngôn hoặc thể loại tương tự. Buồn hơn nữa, khi nhiều vị không cảm nghiệm được giòng nhạc đích thực ở nơi đó. Hoặc, chẳng thưởng thức được nhiệm tích đích thực là sự thực rất đích xác vẫn thực sự sống động cách minh nhiên.

Quả thực, Thầy Chí Thánh đã đích thực trỗi dậy để ta thực sự trở nên dân con của Ngài hơn bao giờ hết. Chính đó là sự thật rất đích thực kéo dài cả ngàn kiếp mãi về sau.

Trong chiều hướng nhận ra tính đích thực của một trỗi dậy, cũng nên ngâm tiếp lời thơ đã trích dẫn:

“Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng,
Lời văng xa truyền nhiễm đến vô song.
Bầu hạo nhiên lồng lộng một màu trong,
Không rung động bởi tơ huyền náo nức.”
( Hàn Mặc Tử – Ngoài Vũ Trụ )

Thi ca tuy “Ngoài Vũ Trụ”, vẫn là thi và ca để ta nhận ra Chúa Phục Sinh cách đích thực, như các thánh sử từng khẳng định qua Kinh thánh. Và, Chúa Phục Sinh nay vẫn là thi ca nhiệm mầu đầy hứng khởi để mọi người nhờ đó sẽ còn tin. Tin và yêu, như Chúa dạy vào mọi ngày. Mọi nơi. Trong đời.    

Lm. NGUYỄN ĐỨC VINH SANH, bản phỏng dịch của MAI TÁ

-------------------------
 

PS3-B103: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT. ALLELUIA.


Lc 24, 35-48

Nhưng các ông vẫn còn “nghi” hoài
 

Việc sống lại từ cõi chết là siêu nghiệm không chứng minh được từ những sự kiện cụ thể: PS3 B-103


Việc sống lại từ cõi chết là siêu nghiệm không chứng minh được từ những sự kiện cụ thể (lịch sử). Lúc ban đầu thì quá mới mẻ, xa lạ. Sự kiện mồ trống và vài lần hiện ra chớp nhoáng không chứng minh nổi, nên các tông đồ vẫn hoài nghi. Cho tới khi Chúa lên trới vẫn còn có người hoài nghi.

Ngày nay, sau hơn 20 thế kỷ, sự kiện xem ra còn xa vời hơn. Những cố gắng giải thích cũng vẫn còn để lại “hoài nghi”, vẫn lẩn quẩn trong não trạng tín điều với tiên kiến “Kinh Thánh phải được ứng nghiệm” hay phải được thực hiện, không có cách chứng minh nào thật sự thuyết phục. Phải hiểu đoạn Phúc Âm nầy của Luca thế nào? Trước hết chúng ta xem qua vài điểm chú giải.

- Chúa Giêsu đứng giữa các ông....các ông hoảng hồn tưởng là thấy ma: Cũng như chuyện nghe kể thấy “người chết hay ma hiện về” nên hoảng hốt là tự nhiên.

- Sao hoảng hốt, sao ngờ vực, nhìn chân tay Thầy đây, chính Thầy mà, rờ xem, ma đâu có xương thịt như Thầy đây, rồi người đưa tay chân cho các ông xem: Có lẽ không ai dám rờ. Sợ ma.

- Các ông chưa tin vì vui mừng quá và còn đang ngỡ ngàng: Vui mừng thì tin chứ. Ngỡ ngàng cũng tin chứ. Sao lại chưa tin? Vì tưởng thấy ma mà.

- Người hỏi “anh em có gì ăn không”? Các ông đưa cho người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Nhưng chợt đến chợt đi khi cửa vẫn đóng kín lại giống như ma. Và thật sự sống lại đâu cần ăn.

- Khi còn ở với anh em Thầy đã nói với anh em “Sách Luật Môsê, sách các tiên tri và các Thánhvị nh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”: Đức Giêsu đã thực hiện những gì được tiên báo.

- Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh: Là hoạt động của Đấng Phục Sinh. Đức Giêsu đã nói trước: Nguời sẽ ban Thánh Thần để đưa các môn đệ đến sự thật trọn vẹn, giúp các ông hiểu và nhớ những gì Ngưòi đã dạy. Và Người thực hiện bằng cách nầy.

- Phải nhân danh Người mà rao giảng sự sám hối để được ơn tha tội: Là mục đích chính của sự hiện ra. Nhưng để các ông chịu đi rao giảng và biết rao giảng những gì thì trước hết các ông phải TIN VÀ NHỜ TIN MÀ NHẬN ĐUỢC QUYỀN NĂNG TỪ ĐẤNG PHỤC SINH thì phải làm cho các ông tin Người đã thực sự sống lại.

Điều chủ yếu là tin Chúa đã sống lại thật và vinh quang thì mới đủ thẩm quyền sai đi và quyền năng của Đấng Phục Sinh  mới làm cho công việc các ông được sai làm có kết quả mỹ mãn. Các tông đồ có được điều nầy nên ngay lúc bắt đầu đã đạt kết quả lạ lùng. Sự việc đã xảy ra thế nào? Có lẽ cho đến gần đây sự việc mới được nhận biết rõ ràng. Các bằng chứng bên ngoài không bao giờ đủ chứng minh một sự kiện siêu nghiệm quá lớn lao, vượt xa mọi suy luận của lý trí con người. Phúc Âm không thể che dấu sự kiện “các ông vẫn hoài nghi, còn có người hoài nghi, các ông vẫn chưa tin”. Tôma nói khẳng khái “không tin”. Các ông khác thì ấm ớ, không dám nói ra.

Chỉ sự cảm nghiệm bản thân của mỗi người mới làm cho tin và cũng tuỳ sự cảm nghiệm ấy mà tin thế nào. Nó ở trong chính bản thân mình, là chính con người mình . Nó biến đổi con người mình cách lạ lùng thành mới hoàn toàn. Chẳng những chính bản thân nhận biết mà những người nghe rao giảng, được tiếp xúc với cũng nhận ra điều biến đổi ấy một cách thuyết phục “ngày đầu tiên rao giảng có ba ngàn người tin”. Quá ấn tượng. Là công trình của Đấng Phục Sinh. Chỉ những người cảm nghiệm được mới tin và tin theo như đã cảm nghiệm.

Bắt đầu là “lòng chúng ta đã chẳng nóng lên trong ta khi Người giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao”. Hai môn đệ đi về miền quê đã được Luca ghi lại như vậy. Tiếp theo Luca thêm “ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Đó là bắt đầu hoạt dộng của Đấng Phục Sinh nhờ Thánh Thần. Luca cũng cho biết thêm” Người ở lại bốn mươi ngày dạy dỗ các ông đủ mọi điều rồi mới lên trời. Mười ngày sau các ông hợp nhau cầu nguyện và Thánh Thần ngự xuống. Các ông mở cửa, xông ra gặp dân chúng và rao giảng Đức Giêsu mà các ông đã giết treo thập giá đã sống lại vinh quang. Chúng tôi làm chứng. Lời giảng thông minh, mạnh mẽ, can đảm. Mọi người ngạc nhiên và tin các ông vì các ông là bằng chứng

sống động trước mắt mọi người. Hôm đó có ba ngàn người tin và chịu phép rửa. Lòng tin vào Chúa sống lại chỉ được cảm nhận từ bên trong tâm hồn chứ không thể chứng minh từ bên ngoài. Các tông đồ trước hết vì các ông là những người được tuyển chọn, đã ở với Đức Giêsu từ ban đầu, được huấn luyện riêng cách đặc biệt, là chứng nhân nhản tiển mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu, được Đức Giêsu Phục Sinh  ban Thánh Thần của Người cho và Thánh Thần đã tác động biến đổi các ông, không đột biến nhưng tiệm tiến trong “40 ngày + 10 ngày”.

Các tông đồ đã làm ra công thức để rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh như sau :"Người vẫn sống, đang hiện diện và đang hoat động bằng THÁNH THẦN". Không thấy Đấng Phục Sinh (dù có thấy cũng chỉ một thoáng) nhưng thấy hoạt động vô cùng ấn tượng của Thần Khí của Người. Là bằng chứng không thể chối bỏ vì rõ ràng trước mắt và tồn tại kiểm chứng được.

Với con người được biến đổi và cùng với tác động của Thần Khí các ông giải thích những gì  Đức Giêsu đã làm và đã dạy và Kinh Thánh với công thức "Đức Giêsu là Tin Mừng, Người làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng và các sách Tân Ước khác cũng là Tin Mừng". Đức Giêsu là chìa khoá giải thích toàn bộ Kinh Thánh. Người đã thực hiện toàn bộ Kinh Thánh. Công thức thường dùng “để Kinh Thánh được nên trọn hoặc để Kinh Thánh được thực hiện” làm cho nghĩ rằng các thánh sữ lấy những đoạn Kinh Thánh Cựu Ước có liên quan đến Đức Giêsu ráp lại thánh những chuyện về Phục Sinh và cả về Giáng Sinh (không cần có xảy ra hay không ). Phải giải thích Kinh Thánh theo những gì Đức Giêsu đã thực hiện. Đức Giêsu là sự giải thích Kinh Thánh.

Các tông đồ rao giảng Đức Giêsu đã chịu đóng đinh chết thập giá, đã sống lại với niềm tin không gì lay chuyển dù hình khổ hay sự chết và những điều kỳ lạ các ngài làm được nhân danh niềm tin ấy đã tạo ra một cộng đoàn tín hữu ngày càng lớn mạnh rất nhanh dù ngay khi còn trong trứng nước đã bị thế lực hùng hạnh gấp ngàn lần lả Quyền lực của đế quốc Rôma cũng không quật ngả nỗi mà còn ngược lại làm cho lan rộng và tăng số nhanh hơn. Đây còn là dấu lạ lớn làm bằng chứng hùng hồn là CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT. ALLELUIA. Vậy mà ngày nay chúng ta còn chưa tin sao?

-------------------------
 

PS3-B104: SỐNG CHỨNG NHÂN CHO CHÚA KITÔ PHỤC SINH


Lc 24, 35 – 48
 

Lễ Phục sinh đã qua hai tuần lễ, nhưng chúng ta vẫn còn tiếp tục suy gẫm về sự sống lại của: PS3 B-104


Lễ Phục sinh đã qua hai tuần lễ, nhưng chúng ta vẫn còn tiếp tục suy gẫm về sự sống lại của Chúa Giêsu. Chúa nhật III Phục sinh hôm nay, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Kitô sống lại. Trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, Người nói với họ: "Mọi điều viết về Ta trong luật Môisen, tiên tri và thánh vịnh phải được ứng nghiệm". Người còn nói tiếp: "Có lời chép rằng: Đức Kitô phải đau khổ và đến ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết". Đức Giêsu muốn các môn đệ tuyệt đối chắc chắn là ch1inh Người đã sống lại thật!

Ai trong chúng ta đã không ít một lần sợ ma. Vì thế, có thể nói: Sợ ma không phải là chuyện của trẻ con mà đôi khi ngay cả người lớn cũng sợ ma. Thậm chí ngay cả các Tông đồ ngày xưa cũng sợ ma. Đoạn Phúc âm vừa kể lại, ngay trong buổi tối Phục sinh đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín. Bất chợt Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước kia, đang ở trên thuyền gặp sóng gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một bóng ma đi trên mặt nước. Các ông kêu lên "ma kìa", nhưng đã được trấn an ngay: "Thầy đây, đừng sợ!" (Mc ,47-50). Vậy mà Chúa Giêsu Kitô, Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách này đến cách khác để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh hoàng, để giúp cho các ông tin Thầy mình đã sống lại đúng như lời Ngài loan báo. Hiện ra cho các tông đồ lần này, Chúa Giêsu Kitô mời họ nhìn xem và chạm đến tay chân Ngài, để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.

Khi các Tông đồ nhìn thấy Chúa, và các ông tưởng là ma.  Có thể chúng ta không thể không thắc mắc vì sao các Tông đồ là những người môn đệ rất thân cận với Chúa, được Chúa Giêsu yêu mến, từng sống ba năm với Chúa Giêsu và hằng ngày đã trò chuyện với Chúa...vậy mà khi thấy Ngài, các ông tưởng là ma. Đáng lẽ ra khi gặp Ngài, các ông phải nhận ra ngay là Thầy mình chứ! Bởi vì các ông đang sống trong tâm trạng thất vọng thật ê chề, thất vọng bởi vì các ông theo Chúa đã hơn ba năm rồi, mà đến nay vẫn còn hai bàn tay trắng, một chút danh dự cũng không có, một chút danh vọng cũng chẳng thấy ở đâu...và rõ ràng trong mấy ngày qua, họ đã tận mắt thấy Chúa bị bắt, rồi bị người ta giết.

Thầy mình đã chết và đã được đem chôn rồi. Thế nên giờ đây họ khó mà tin được khi thấy ông Giêsu đó không có chết, mà ông ấy còn sống một cách thật khỏe mạnh nữa, và đang đứng trước mặt các ông đây. Có phải Thầy Giêsu đã sống lại thật? hay ông ấy là ma về nhát mình? Do đó, theo phản ứng tự nhiên, các ông phải buộc miệng kêu lên: Ma kìa ! Thế nên, khi hiện ra cho các Tông đồ, Chúa Giêsu bảo các ông hãy chạm vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rằng đây không phải ma hay hồn thiên hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt đã sống lại: "Ma làm gì có xương có thịt như anh em  sờ thấy thầy đây?". Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây các tông đồ sẽ là những chứng nhân mắt thấy tai nghe. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.

Như vậy, Chúa Giêsu Phục sinh hiểu rõ tâm trạng của các Tông đồ, và Ngài đến để gặp gỡ các ông, an ủi các ông, và củng cố đức tin cho các ông nữa. Còn chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày, có khi nào chúng ta bị thử thách về đức tin, hoặc có khi nào chúng ta nghi ngờ về Chúa hay không? Có khi nào chúng ta phải tin một cách miễn cưỡng về những điều chúng ta chưa từng thấy, và rất khó tin như có thiên đàng, có hoả ngục, có đời sau, như có thưởng có phạt. Hay như có Chúa hiện diện trong nhà thờ, hay trong một tấm bánh trắng quá tầm thường quá nhỏ bé như vậy mà chúng ta phải tin là Mình Thánh Chúa? Có lẽ phải có thôi, bởi vì trong cuộc sống của chúng ta, nhiều khi chúng ta đã từng gặp những giai đoạn bảo táp của cuộc đời, khiến đức tin của chúng ta dường như bị khủng hoảng, đôi khi chúng ta cầu nguyện tha thiết mà chẳng thấy Chúa nhậm lời, hoặc là khi chúng ta thấy bất mãn về một điều gì đó trong Giáo Hội, trong gia đình chúng ta? Và những bất mãn đó, những thử thách về đức tin đó nhiều khi nó lớn đến nỗi làm cho người đó phải bỏ đạo, phải chống đạo, chống Giáo Hội, phải xa Chúa và họ không còn tin Chúa nữa. Do đó, bài Phúc âm hôm nay giúp chúng ta thấy ý Chúa muốn nhắc nhở chúng ta. Nếu chúng ta muốn tìm lại được Chúa, nếu tôi muốn củng cố lại đức tin của mình, thì chúng ta cũng phải làm theo cách của các môn đệ Chúa Giêsu, đó là phải tìm Chúa trong Lời Chúa, phải siêng năng cùng cộng đoàn cử hành phụng vụ, các bí tích và nhất là Thánh Lễ. Thánh lễ hồi phục, củng cố và giúp chúng ta mạnh mẽ tin yêu Chúa Kitô phục sinh. 

Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Cho dù sau khi lên trời, các môn đệ không còn thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các tông đồ luôn được bình an và phấn khởi vui mừng. Phải, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là  cách trở. Nói khác đi cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta như là với các môn đệ ngày xưa, có khi gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cành của cuộc đời, đẻ với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những người chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Vì thế, mang thân phận là người Kitô hữu, chúng ta hãy sống đạo đích thực, hãy là người mang đầy niềm vui, niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta sẽ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết "Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian".

 Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tin Chúa đã Phục Sinh, Ngài đang ở bên chúng con. Chúng con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết can đảm sống và làm chứng cho Chúa giữa lòng đời. Amen.

-------------------------
 

PS3-B105: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH


Lc. 24 , 35 - 48 .

Anh chị em thân mến.
 

Nhiều năm trước đây, chắc anh chị em có xem vở kịch của cố soạn giả Lưu Quang Vũ. Vở kịch: PS3 B-105


Nhiều năm trước đây, chắc anh chị em có xem vở kịch của cố soạn giả Lưu Quang Vũ. Vở kịch nói lên tình trậng éo le của một người đã chết, bổng nhiên được sống lại, nhưng không phải với hình hài cũ của mình mà lại với một hình hài được vay mượn của người khác. Việc phục hồi sự sống của anh đã khiến cho những người thân có những phen vỡ khóc, vỡ cười. Vì thân xác của người nầy, mà tâm trí và phong cách thì của người khác. Chính bản thân anh ta cũng khổ sở vì sự phục sinh của mình. Đó là nội dung của vở kịch :"Hồn Trương Ba, Da hàng thịt."

Một sự sống mà có lẽ không ai trong chúng ta mong muốn. Sự sống vay mượn của
kẻ khác, sống không ra sống, sống mà không thể hiện được hết con người thật của mình. Sự sống chỉ đem lại toàn những đau khổ cho mình và cho người thân.
Các môn đệ Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên bở ngỡ vì sự phục sinh của Thầy mình. Các ông chưa ổn định tinh thần được trước bao nhiêu biến cố dồn dập đến với các ông trong những ngày qua. Niềm vui mừng quá sức, vì sự sống mới của Thầy đã mang đến cho các ông một sức sống mới hoàn toàn. Trước kia, các ông theo Thầy, mặc dù các ông vẫn mang một hình hài thể xác như thế, nhưng tâm hồn các ông hoàn toàn khác. Các ông theo Thầy, nhưng tâm tư mỗi người theo đuổi mục đích riêng tư của mình.

Các ông theo Thầy, nhưng tâm hồn các ông vẫn còn giữ lại cho bản thân mình. Các ông theo Thầy, mặc dù thân xác thì ở kề cận bên Thầy, nhưng tâm hồn thì ở tận mãi nơi đâu, nên những Lời Thầy dạy, chỉ bảo, thông báo trước, các ông nghe mà chẵng hiểu, thấy những việc làm của Thầy, các ông cũng không để tâm suy nghĩ. Chính vì thế. Các ông đã phải trải qua sự thất vọng, vì thần tượng mà các ông tự dựng lên cho mình đã hoàn toàn sụp đổ. Tâm hồn các ông còn bị bao vây bởi những thứ nặng nề khác, nên thân xác mặc dù đã kề cận bên Thầy, nhưng tâm hồn không thể thực hiện được những gì Thầy chỉ bảo. Đó là vì thân xác và tâm hồn không hòa hợp với nhau. Giờ đây các ông mới nhận được sự sống thật , sự sống không còn làm cho các ông phải đau khổ, thất vọng hay sợ sệt nữa.


Đó chính là sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh đã mang lại, nên các ông không thể ngồi yên bất động như con người cũ của bấy lâu nay. Nhưng giờ đây, các ông sống đúng với sự sống mới mà Chúa Kitô đã mang đến, sống đúng với niềm vui mừng mà các ông đang tận hưởng. Tâm hồn và thân xác các ông đã được hòa nhập cùng Một Sức Sống Mới. Chúng ta cũng được sự sống mới từ Chúa Kitô, do các Ngài chuyển đến. Chúng ta cũng có cùng sự sống với Các Ngài, chúng ta cũng có cùng niềm vui mà Các Ngài đã có. Nhưng sự sống của chúng ta có được hoàn toàn đỗi mới như Các Ngài hay không, chúng ta có nhìn thấy được niềm vui mà mình đang hưởng hay không , đó là do mỗi người.

Chúa Kitô đã phục sinh, các Tông đồ đã làm chứng và đã truyền lại. Chúng ta đã nhận được sự sống mới, chúng ta đang sống với sức sống mà các Tông Đồ đã vâng lời, làm chứng và truyền lại. Chúng ta đang tận hưởng niềm vui Phục Sinh. Nhưng sao dường như trong con người chúng ta có hai cách sống hoàn toàn khác biệt nhau : Có những lúc, chúng ta muốn mình là một người tốt, nên cũng cố gắng đỗi mới cuộc sống cho tốt hơn, giúp đỡ những người chung quanh, yêu thương mọi người, thi hành những việc đạo đức . . .

Nhưng cũng có những lúc, chúng ta sống hoàn toàn trái ngược với những gì mình đã tâm quyết, trái ngược với những điều lương tâm nhắc nhở. Lúc đó, đôi lần chúng ta cũng cảm thấy khó chịu khi có ai dám khuyên bảo.

Như thế, đời sống mới, đời sống của Chúa phục sinh lại phải ỏ nơi một thân xác chưa được đỗi mới. Như thế sự phục sinh, sự sống mới lại phải cư ngụ trong một thân xác như thân xác của các Tông Đồ trước khi Chúa chịu đóng đinh trên Thập Giá sao ? Như vậy, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ đã nói tiên tri thật chính xác về bản thân chúng ta rồi đó, và chúng ta thật sự là một con người, nhưng: Hồn thì của anh chàng Trương Ba tài hoa tế nhị, mà thân xác thì lại là một anh Hàng Thịt thô thiển. Như vậy việc Chúa chịu chết và sống lại, ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào, và chúng ta đã làm chứng về sự Phục sinh trong đời sống của mình ra sao.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết đỗi mới đời sống, để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.

-------------------------
 

PS3-B106: SỐNG CHỨNG NHÂN PHỤC SINH


Lc 24, 35 - 48
 

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một thấy cảnh tượng các Tông Đồ tụ họp nhau trong căn phòng: PS3 B-106


Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một thấy cảnh tượng các Tông Đồ tụ họp nhau trong căn phòng với tất cả các cánh cửa đều đóng kín, vì lo sợ, tâm hồn họ đã bị tổn thương kể từ khi Chúa Giêsu bị bắt và chịu chết. Nhưng Chúa Giêsu hiện ra, Ngài ban bình an và thổi một nguồn sống mới cho họ. Chúa Giêsu cũng làm như thế cho cúng ta, chúng ta hãy biết mở lòng ra để đón nhận quà tặng mà Chúa Phục Sinh gởi đến.

Trong bài đọc I, Phêrô đã thể hiện một sự can đảm lạ thường khi ông đối mặt với những người có liên quan đến cái chết của Chúa. Ông tuyên bố một cách xác tín rằng: họ đã được tha vì họ không biết việc họ làm. Ở đây, ông đã khơi gợi để họ nhớ lại lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho cúng vì chúng không biết việc chúng làm." Thánh nhân cũng thôi thúc, mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để được tha tội.

Trong Tin Mừng, thánh Luca nhấn mạnh rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh mà các Tông đồ xem thấy cũng chính là Chúa Giêsu ngày xưa đã từng chung sống với họ. Thân xác Ngài đã được Phục Sinh thật sự nhưng không phải trở về với cuộc sống trần thế, Chúa Giêsu Phục Sinh với một cuộc sống mới không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian, đặc biệt là cái chết.

Nhờ liên kết từ những đoạn khác nhau của sách các tiên tri mà người Kitô hữu hiểu và chấp nhận: Đấng Messia chịu đau khổ là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Vì thế thánh Luca đã viết, Chúa Phục Sinh đã giải thích Kinh thánh, mở lòng mở trí để các Tông Đồ hiểu lời Kinh thánh đã tiên báo về Người: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới bước vào vinh quang. Và Ngài cũng trao sứ điệp này cho các tông Đồ hãy đi kêu gọi mọi người sám hối để được tha tội. Và chính các ông làm chứng về Chúa Phục Sinh cho muôn dân.

Qua ba bài đọc trên, chúng ta có thể rút ra một bài học trong tuần III Phục Sinh: Chúa Giêsu phục sinh vẫn luôn mời gọi chúnng ta hãy làm chứng cho Ngài trước mặt thiên hạ trong cuộc sống hôm nay.

Giống như các Tông Đồ, chúng ta cũng lo lắng, sợ hãi nhiều điều. Có lẽ, điều làm cho mỗi người chúng ta sợ nhất trong cuộc sống hôm nay là: sợ hy sinh, sợ thiệt thòi... vì làm chứng cho Chúa thì tôi phải hy sinh, phải quảng đại và phải nhường nhịn người khác. Tại sao tôi phải sống vì người khác trong khi người ta chỉ biết sống cho riêng mình? Cái chết và sự Phục Sinh Chúa Giêsu là câu trả lời xác thực nhất.

Nhưng Chúa ở đâu mà tôi không cảm nhận được? Chúa không ở xa ta, nhưng ngài vẫn luôn bên cạnh dù giác quan ta không cảm thấy Ngài. Vì mắt chúng ta bị che khuất như hai môn đệ trên đường Emau. Nhưng Lời Chúa và Thánh Lễ sẽ mở mắt để chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sông và trong tha nhân.


Nếu chúng ta tin vào Chúa Phục Sinh thì cuộc đời chúng ta sẽ khác, sẽ thay đổi như các Tông Đồ và các môn đệ. Vì Chúa Phục sinh sẽ ban bình an cho ta và ngài sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi để chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Nhưng Tin Chúa thì phải giữ Lời Chúa. Như thánh Gioan đã nhắc chúng ta trong bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa đúng nghĩa là tuân giữ giới răn của Ngài.

Lạy Chúa! Chúa vẫn luôn hiện diện bên con mọi nơi, mọi lúc. Nhưng vì lòng tin con chưa đủ mạnh để nhận ra Chúa luôn đồng hành với con trong cuộc sống. Xin cho chúng con mỗi lần tham dự Thánh thể hay đọc Lời Chúa là chúng con gặp được Chúa giống như hai môn đệ trên đường Emau ngày xưa.

-------------------------
 

PS3-B107: CHỨNG NHÂN CHO ĐỨC KITÔ


Lc 24,35- 48
 

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể lại việc Đức Kitô phục sinh hiện ra với các môn đệ, chúng: PS3 B-107


1. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể lại việc Đức Kitô phục sinh hiện ra với các môn đệ, chúng ta dễ nhận ra hai phần : Phần thứ nhất, Đức Kitô dùng những lời nói và những hành động cụ thể để chứng minh Ngài đã thực sự phục sinh ; phần thứ hai, Ngài trao cho các ông sứ mệnh mới, đó là hãy rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và làm chứng việc Ngài đã phục sinh cho mọi người : "Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24,48). Không riêng một ai, mà Chúa mời gọi mọi Kitô hữu qua mọi thời hãy làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời mời gọi ấy?

2. Làm chứng là đứng ra xác nhận những gì mình đã chứng kiến, thí dụ làm chứng về một tai nạn giao thông...Người đứng ra làm chứng được gọi là chứng nhân. Chính vì để rao truyền Tin Mừng cho toàn thế giới mà Đức Kitô đã chọn các tông đồ và các môn đệ. Các ngài sẽ chứng thực trước mặt mọi người về những sự kiện đã xảy ra nơi Đức Giêsu, từ phép rửa thánh Gioan đến lúc Đức Giêsu về trời. Đặc biệt về sự phục sinh của Đức Giêsu, biến cố này chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa (Cv 1,22 ; 2,32).

Trong bài đọc I(Cv 3,11-26), Phêrô thay mặt cho các tông đồ lớn tiếng làm chứng cho dân chúng tại Giêrusalem về việc Đức Giêsu đã chịu đóng đinh, chịu chết và nhất là việc Chúa sống lại.


Không những bằng lời rao giảng lúc thuận tiện, mà chính Phêrô cũng như các tông đồ và nhiều môn đệ khác còn làm chứng cho Đức Kitô bằng chính đời sống của mình dù phải vất vả rao giảng, dù phải đòn vọt, tù ngục và ngay cả hy sinh mạng sống, các ông chấp nhận tất cả để làm chứng cho Đức Kitô.

3. "Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy", lời mời gọi làm chứng cho Đức Kitô vang dội nơi mỗi người chúng ta. Đức GH Phaolô VI đã nói : "Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân". Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng chỉ rõ : qua bí tích Thêm Sức, nhờ ơn Chúa Thánh Thần người Kitô hữu được tháp nhập thâm sâu vào Chúa Kitô, liên kết chặt chẽ với Hội Thánh và được mời gọi làm chứng đức tin Kitô giáo bằng cả cuộc sống (x.GLGHCG số 1316). Vậy mọi Kitô hữu được mời gọi làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ qua đời sống tốt đẹp của mình mọi nơi mọi lúc. Làm chứng cho tình yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa qua đời sống yêu thương tha thứ của mình. Làm chứng cho Đức Kitô phục sinh bằng cách hoán cải, canh tân đời sống như lời Chúa dạy trong đoạn Tin Mừng này, để rồi mai sau được hy vọng cùng phục sinh với Ngài.

Trong bài đọc II, thánh Gioan chỉ rõ cho chúng ta phương cách làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Kitô bằng những việc làm cụ thể : đừng phạm tội, hãy giữ các giới răn của Thiên Chúa, qua đó thể hiện lòng yêu mến Chúa.

4. Mang thân phận con người, nhất là trong thời đại này, người Kitô hữu cũng rất dễbị cám dỗ, ngụp lặn trong những giá trị vật chất như tiền bạc, danh vọng, quyền lực, lạc thú... Có thể không mất hẳn niềm tin vào Thiên Chúa, nhưng lắm khi mang danh Kitô hữu mà lại sống rất xa, rất khác biệt giới răn Thiên Chúa, lời Chúa dạy.

Nhưng đáng mừng thay, bên cạnh đó, qua mọi thời, mọi nơi không thiếu những Kitô hữu sống không hổ thẹn với các bậc tông đồ, họ đã trung thành làm chứng cho Chúa. Đó là những cá nhân, những gia đình, đoàn thể cố gắng sống xứng danh là người Công Giáo, cố gắng góp phần xây dựng Họ Đạo, xây dựng Hội Thánh. Họ thấy được giá trị của Tin Mừng, cho nên đã kiên vững trong thử thách cho dù phải thiệt thòi về quyền lợi, về vật chất... hay hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô.

5. Tại sao hai môn đệ trên đường Emmau này có được sức mạnh để quay ngay lại Giêrusalem, để làm chứng về sự gặp gỡ của họ với Đức Kitô phục sinh cho các tông đồ ? Thưa đó là nhờ được Chúa giải nghĩa Kinh Thánh, nhờ nhận ra Ngài qua nghi thức bẻ bánh. Đức Kitô tiếp tục nâng đỡ đời chứng nhân của các tông đồ, các môn đệ khi họ chuyên cần cầu nguyện, tham dự nghi thức bẻ bánh (Cv 1,14 ; Cv 2,42). Giờ đây, Ngài vẫn nâng đỡ đời chứng nhân của mọi người chúng ta qua việc cầu nguyện, lãnh các bí tích... nhất là việc tham dự thánh lễ và hiệp lễ.

6. Đức Kitô đã hứa nếu ta làm chứng cho Ngài trước mặt người đời, chính Ngài sẽ làm chứng cho ta trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, ước mong rằng mỗi người chúng ta luôn cố gắng bằng mọi phương cách trong đời sống của mình để đáp lại lời mời gọi vừa thân tình vừa là lệnh truyền của Chúa là đem Tin Mừng đến cho muôn dân "Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy (cho Thầy)".

-------------------------
 

PS3-B108: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH


Lc 24,35- 48
 

Khi nói về Khổng Tử, người ta có kể lại một giai thoại như thế này : Trong thời gian ở nước Tề: PS3 B-108


Khi nói về Khổng Tử, người ta có kể lại một giai thoại như thế này : Trong thời gian ở nước Tề, thầy trò của Khổng Tử đã gặp phải cảnh đói kém nhọc nhằn. Mỗi ngày một người chỉ ăn được một phần cơm nhất định mà thôi. Một ngày nọ, ông đang nằm đọc sách, chợt nghe có tiếng ai đó đang mở nắp nồi cơm.

Liếc mắt nhìn thì ông nhận ra đó là Nhan Hồi, người học trò thân tín của mình đang vốc từng nắm cơm cho vào miệng. Một lúc sau, khi cơm đã dọn xong, các môn sinh chắp tay mời thầy của mình dùng cơm. Nhưng rồi trước khi ăn , Khổng Tử ngõ ý muốn dùng một ít cơm trắng để gọi là dâng cúng cho cha mẹ. Ý kiến này được mọi người tán thành. Riêng cậu học trò Nhan Hồi thì im lặng, dáng vẽ lắng lo nghĩ ngợi. Khổng Tử điềm nhiên hỏi tiếp : " Ta không biết cơm này có sạch không ? " Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ Nhan Hồi mới lễ phép thưa : "

Dạ bẩm Thầy ! Nồi cơm này không được sạch. Bởi vì trong lúc thổi cơm, con đã vô tình để bụi rớt vào, và con định xới lớp cơm bẩn đó bỏ đi. Nhưng con nghĩ rằng : cơm nấu thì có giới hạn, nếu bỏ đi số cơm bẩn đó thì sẽ mất một phần ăn. Nên mạn phép Thầy, con đã ăn phần cơm bẩn đó, còn cơm sạch để Thầy và các anh em ăn. Mà nồi cơm đã được ăn trước rồi thì chúng ta không nên cúng nữa Thầy ạ ! " Nghe xong điều đó, Khổng Tử ngước mặt lên trời đấm ngực mà than rằng : trên đời này, có những việc chúng ta trông thấy rành rành trước mắt, mà còn hiểu không đúng sự thật, một tí nữa thì Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ rồi.


Thưa anh chị em ! Không chỉ riêng gì khổng Tử mà tất cả mọi người chúng ta thường có xu hướng dùng cái biết của mình để phê phán một vấn đề, hay là để đánh giá một sự việc nào đó. Kinh nghiệm cho thấy rằng chúng ta thường mắc phải sai lầm khi làm như thế. Bởi vì cái biết của mình chưa thấu đáo, cái hiểu của mình chưa tường tận, cái suy nghĩ của mình thường mang tính chủ quan.Và nó càng trở nên tối tăm lạc lõng khi chúng ta dùng cái biết nhân loại ấy, để suy diễn về các mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhất là mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh. Chính vì thế mà phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ Chúa nhật thứ ba phục sinh này, hướng chúng ta tới một sự nhận biết cách đúng đắn về Đức Kitô phục sinh.

Bài đọc thứ nhất thuật lại rằng : sau khi Phêrô chữa lành cho một người què tại cửa Đền thờ, thì có rất nhiều người lấy làm ngạc nhiên, bàn tán xì xầm. Nhân cơ hội đó, Phêrô dã nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ngài quả quyết rằng : Sở dĩ người Do thái bắt giết Đức Giêsu là bởi vì họ không biết. Hay nói đúng hơn là họ đã dùng chính cái biết hạn hẹp của mình, để suy diễn về mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người. Họ đã dùng chính cái biết nông cạn của một tạo vật để dò xét và lượng định tình thương của Đấng Tạo Hóa và cũng là Chúa của mình. Và rồi cuối cùng, họ đã dùng chính cái biết hời hợt đó để đóng đinh Chúa của mình vào thập giá.

Còn nơi bài phúc âm, qua hình ảnh của các môn đệ đang hoang mang lo lắng, nữa tin nữa ngờ về việc Chúa Giêsu sống lại, Thánh Luca cũng cho chúng ta thấy được sự hiểu biết của các môn đệ về Chúa Giêsu, thầy của họ. Với các môn đệ thì Đức Giêsu chính là một vị tiên tri có quyền năng trong lời nói và việc làm. Người có thể làm nhiều phép lạ lớn lao : chuyển núi dời non, cho kẻ chết sống lại, Tóm lại, với các tông đồ thì Đức Giêsu chính là một vị ngôn sứ vĩ đại, là một Đấng mà các ông hoàn toàn có đủ lý do để hy vọng rằng : Người sẽ đứng lên khôi phục lại vương quốc Israel. Và có lẽ chính vì thế mà mới có có chuyện là hai người con của ông Dêbêđê, được mẹ của mình dẫn tới Chúa Giêsu để xin cho một đứa được ngồi bên hữu, một đứa được ngồi bên tả, khi Người được lên làm vua.

Nhưng mãi cho đến giây phút cuối cùng, giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá, họ mới cảm thấy ê chề thất vọng khi nhận ra rằng : đó chỉ là cái tưởng, là cái biết giả, chứ không phải là cái biết thật, mà hai môn đệ trên đường về Emmaus là một bằng chứng cụ thể. Trong lúc hoang mang tủi buồn đó, Đức Giêsu phục sinh có mặt bên họ, và giúp đỡ họ có một sự hiểu biết đúng đắn về Chúa của mình bằng việc bẻ bánh và cắt nghĩa Thánh Kinh. Đành rằng sự kiện này Thánh Luca chỉ nhắc lại cách ngắn gọn ở ngay câu đầu tiên của bài Phúc âm mà chúng ta vừ nghe, nhưng cũng đủ để chúng ta hiểu được rằng : Lời Chúa và Bí tích Thánh thể đã giúp cho các môn đệ nhìn ra khuôn mặt đích thật của Đấng phục sinh.

Tại sao chúng ta dám quả quyết cách mạnh dạn như thế ? Thưa bởi vì chúng ta căn cứ trên sự biến đổi đời sống của các ngài. Rõ ràng là chính hai môn đệ này đã quay ngược trở lại : quay ngược lại trong hướng đi của cuộc hành trình, quay ngược lại trong tâm tình vui mừng của người chiến thắng. Những môn đệ kia thì vui mừng rạng rỡ sau khi được Chúa Giêsu chứng minh rằng Người sống lại là để ứng nghiệm những lời báo trước trong Thánh Kinh.


Ngày hôm nay, mặc dù Chúa phục sinh không hiện ra cho chúng ta giống như cho các môn đệ năm xưa nữa. Thế nhưng Người vẫn làm cho chúng ta những việc làm tương tự như Người đã từng làm cho các tông đồ ngày xưa. Nghĩa là người cũng giải thích Thánh Kinh, Người cũng thực hiện việc bẻ bánh, chỉ có điều là Người thực hiện những công việc đó qua Giáo hội của Người.

Nói khác đi là mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ, là mỗi lần chúng ta được Đấng phục sinh hiện diện qua Giáo hội của Người mà hướng dẫn dạy dỗ, để chúng ta có được một sự hiểu biết về Đấng phục sinh.

Hai môn đệ trên đường về Emmaus đã cảm thấy lòng mình bừng cháy lên sau khi nghe Chúa giải thích Thánh Kinh, đôi mắt tâm hồn họ mở ra khi nhìn thấy Chúa bẻ bánh. Các môn đệ kia đã vui mừng chăm chú như thế nào khi được Chúa soi sáng cho cuộc đời của họ bằng Thánh Kinh.

Còn chúng ta thì sao ? Nếu bây giờ ngồi nhớ lai, có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhớ được rằng mình đã bao nhiêu lần nghe đọc Lời Chúa, bao nhiêu lần tham dự Thánh lễ, nhưmg rồi tâm hồn chúng ta có mở ra được không, tấm lòng chúng ta có bừng cháy lên không ? Phải chăng là khi nghe Lời Chúa, chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện lịch sữ về Đức Giêsu chứ không nghe với Đức Giêsu như hai môn đệ trên đường Emmaus ? Phải chăng là chúng ta đến đây hiệp dâng Thánh lễ như thể là dâng cho Đức Giêsu, chứ không phải là cùng dâng với Đức Giêsu theo như lời tuyên xưng của Giáo hội : " Chính nhờ Người với Người và trong Người " .


Thưa anh chị em ! Chúng ta chỉ sống đạo một cách đầy đủ ý nghĩa khi chúng ta có một sự hiểu biết đúng đắn về Đấng phục sinh.Sự hiểu biết đó, chúng ta sẽ có được bằng sự chăm chú lắng nghe Lời Chúa và tích cực tham dự Thánh lễ.

Biết rằng có những lúc Lời Chúa đi ngược lại với những ước mơ và dự định của mình, có nhựng khi việc tham dự Thánh lễ đòi hỏi chúng ta một sự hy sinh rất nhiều. Thế nhưng đó chính là những bài học không bao giờ cũ cho những ai muốn tìm ý nghĩa cho cuộc đời mình ; đó là những cơ hội cần thiết để Chúa ban ơn thánh, vốn là điều rất cần cho đời sống chúng ta. Ngoài ra Thánh Gioan còn có thêm một gợi ý rất quan trọng nhằm giúp chúng ta thể hiện sự hiểu biết của mình về Chúa, đó là chu toàn các giới răn của Người : " Ai nói mình biết Đức Giêsu mà không giữ các giới răn của Người, thì người đó không sống trong sự thật. "

Nguyện xin Đức Kitô phục sinh đồng hành với chúng con luôn mãi. Đồng hành trong mỗi Thánh lễ chúng con cử hành, để chúng con mỗi ngày được hiểu biết về Chúa cách đúng đắn hơn. Đồng hành với chúng con trong suốt cuộc đời này, để chúng con sống niềm tin và làm chứng về niềm tin mà chúng con đang sống cho những người chung quanh chúng con. Amen

-------------------------
 

PS3-B109: HIỆN RA CHO CÁC TÔNG ĐỒ


Lc 24, 35- 48

Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc24,36).
 

Thánh Luca tiếp tục tường thuật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu phục Sinh, lần này Ngài: PS3 B-109


Thánh Luca tiếp tục tường thuật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu phục Sinh, lần này Ngài hiện ra cho các Tông đồ ở Giêrusalem. Mục đích của cuộc hiện ra này là Ngài muốn chứng minh rằng: Ngài vẫn là một con người như trước khi còn sống với các Tông đồ.

Dường như các môn đệ của Chúa thật mâu thuẫn và khó hiểu. khi hai môn đệ trên đường Emau trở lại Giêrusalem và gặp các ông. Các ông hay tin Chúa sống lại và hiện ra, các ông rất vui mừng và kể cho nhau: "Chúa đã chỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với ông Simon". Và hai môn đệ trên đường Emau xác nhận vì các ông cũng được Chúa đồng hành. vậy mà khi chính Đức Giêsu hiện ra thật sự, đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em" (Lc 24, 36), thì các ông hầu như chẳng thấy bình an chút nào, lại còn hoảng hốt và tưởng là ma.

Quả thật chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể hiểu được tâm trạng xem ra khá phước tạp và có nhiều mâu thuẫn nơi các Tông đồ. Và chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có đủ kiên nhẫn để hoá giải tận căn những mâu thuẫn trong thâm sâu nơi cõi lòng của các ông.

Do vậy, người Tông đồ đích thực không chỉ cố gắn trao dồi cho mình một số kiến thức và ảo tưởng là đủ. Nhưng người Tông đồ đích thực còn phải hiểu về Chúa cảm nghiệm về Chúa nữa. vì không ai có thể cho cái mà mình không thể có. Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống và hiện diện bên cạnh tôi. Đây không phải là một kiểu nói, không phải chỉ là một niềm tin, mà là một sự thật. chúa đang phục sinh hôm qua cũng như hôm nay, Ngài vẫn là một. tôi cần phải sống triệt để với niềm tin và xác tín ấy.

Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều hiểu lầm, nhiều trở ngại và ngay cả nhiều đau khổ tinh thần nữa. thế nhưng xét bên ngoài, nhiều kitô hữu, vì hèn nhát, tỏ ra ích kỷ hơn, hà tiện hơn, kiêu căn hơn, dâm ô hơn một số người không có niềm tin vào Chúa. Nhưng mọi kitô hữu điều biết rằng: Chúa Kitô phục sinh luôn muốn chúng ta sám hối và trở về với Ngài, Người muốn tha thứ tất cả và muốn cho ta được làm môn đệ đích thật của Người.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xưa Ngài hiện ra cho các Tông đồ nhằm để cũng cố đức tin của các ông và ban sức mạnh cho các ông. Thì nay xin Ngài cũng ban thêm niềm tin cho con, để con vững bước và thoát khỏi sự sợ hãi. biết cam đãm vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời để được lớn lên và trưởng thành trong vònh tay của Ngài. Amen.

-------------------------
 

PS3-B110: Có Chúa cùng đi.

 

Cứ mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi Chúa Giêsu cũng đi: PS3 B-110


Cứ mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi Chúa Giêsu cũng đi bên cạnh hai môn đệ trên đường Emmaus.

Hôm đó là ngày thứ ba kể từ bữa Chúa Giêsu bị đóng đinh. Các môn đệ cũng có ý chờ xem động tĩnh ra sao, vì trước đó Ngài có nói ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Sáng sớm có mấy người phụ nữ ra mồ, rồi trở về báo tin ngôi mộ trống rỗng. Sau đó, một vài anh em đã vội vã chạy đi kiểm chứng. Nhưng rồi cũng có hai người chán nản bỏ về làng cũ, tên là Emmaus. Không ngờ dọc đường có một người cùng bước đi với họ. Nghe họ giãi bày tâm sự và lấy Kinh Thánh giải thích cho họ hiểu Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Vì trời đã xế chiều, nên họ mời Ngài dừng chân với họ trong lữ quán. Đến lúc ngồi vào bàn ăn, họ mới nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nhưng Ngài đã biến đi. Lập tức họ hối hả chạy về Giêrusalem để báo tin cho các bạn. Thế nhưng, khi họ vừa đến nơi, chưa kịp nói gì thì người ta đã cho biết: Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon. Họ còn đang trao đổi, thì này Chúa Giêsu đã đứng giữa họ và nói: Bình an cho các con.

Đúng thế, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài có mặt ở khắp nơi, Ngài cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời, từ thành phố đến đồng quê, từ quán trọ đến gia đình. Đâu đâu cũng có Ngài hiện diện. Trước khi chúng ta ra đi, Ngài đã ở đó. Đang khi chúng ta rảo bước, Ngài đã có ngay bên. Rồi trước khi chúng ta đến nơi, Ngài đã đứng đợi và đang khi chúng ta nghỉ mệt, Ngài đã thăm hỏi. Lúc nào cũng có Ngài.

Xưa kia ở Palestine, là một công nhân, Chúa Giêsu đã lao động như chúng ta với nghề thợ mộc. Ngài đã trải qua những ngày tháng long đong không nhà không cửa, những ngày tháng đói nghèo như chúng ta. Ngài ở ngay bên chúng ta, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Không những chỉ chia sẻ, mà hơn thế nữa, là Thiên Chúa, Ngài còn có mặt ở đó để cứu giúp chúng ta.

Tại Cana, Ngài đã đến dự đám cưới với mọi người. Ngày nay Ngài cũng có mặt trong đám cưới của bất cứ đôi tân hôn nào, để họ được nối kết trong yêu thương. Rồi trong ngày tang tóc của gia đình Martha, Ngài đã đến thăm và làm cho Ladarô được sống lại. Hôm nay Ngài cũng đến trong gia đình chúng ta để an ủi khích lệ khi chúng ta gặp phải cánh đau buồn. Ngài đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi sống đám đông đi theo Ngài. Hôm nay Ngài cũng sẽ ban kết quả cho những lao công khó nhọc của chúng ta, để chúng ta có được những chém cơm, những manh áo.

Mục sư Richard Wurmbrand bị tù lâu năm chỉ vì là Kitô hữu. Có lúc ông đã chán nản tuyệt vọng, nhưng rồi ông lấy lại niềm cậy trông, khi nhớ tới lời hứa của Chúa: Đừng sợ, vì Ta ở với con. Rồi ông nói: Trong Đức Kitô có tất cả 365 chữ đừng sợ theo kiểu đó, nên tôi tự nhủ mỗi ngày chỉ sống một chữ cũng đủ rồi.

Hôm nay giữa mọi gian truân thử thách, Chúa cũng đang ở bên cạnh chúng ta để chia sẻ và nâng đỡ. Chúng ta có ý thức được điều đó hay không?

-------------------------
 

PS3-B111: NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG


Lc 24, 35 – 48
 

Có truyện kể rằng trước khi dâng mình cho Chúa, thánh An-phong-sô là một luật sư lỗi lạc. Người rất: PS3 B-111


Có truyện kể rằng trước khi dâng mình cho Chúa, thánh An-phong-sô là một luật sư lỗi lạc. Người rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, Người đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho Người phải thất bại. Trong một vụ án mà Người thấy là đơn giản, dễ dàng, Người đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, Người thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời. Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, Người quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, Người tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, Người nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, Người hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, Người đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dong Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, Người hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa Người về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện Người trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ Người xuống trong danh vọng trần thế để nâng Người lên trong vinh quang Thiên đàng.

Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Chúa Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an.

Có lần Chúa Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.

Hôm nay cũng thế. Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giê- su phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.

Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe doạ đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.

Khi đức tin các Tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Chúa Giêsu là có thực. Đức tin của các Tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Chúa Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh.

Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các Tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Chúa Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.

Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày.

Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.


+ TGM Giuse Ngô quang Kiệt

-------------------------
 

PS3-B112: CHÚA NHẬT III PHỤC SINH


Lc 24,35-48

ĐỊNH MỆNH
 

Có một nghề không cần tí vốn nào, chỉ cần một chút khéo nói, cộng với sự quảng cáo cho hay, là có thể: PS3 B-112


Có một nghề không cần tí vốn nào, chỉ cần một chút khéo nói, cộng với sự quảng cáo cho hay, là có thể sống được. Đó là nghề thầy bói. Có một điều lạ: Nghề này không chỉ có ở Việt Nam , mà ở khắp mọi nước, kể cả những nước Âu Mỹ văn minh. Ở đâu, nghề này cũng có đất sống. Sao lạ vậy? Lý do thật đơn giản: Đa số, người nào cũng muốn biết trước định mệnh đời mình. Và sự thật buồn cười cho thấy. Hễ thầy bảo, đời mình sắp sửa gặp may, số mình sắp sửa đỏ, thì trong người nghe phơi phới. Còn nghe thầy phán: Sắp sửa có những tai họa đổ xuống, thì lòng buồn nặng trĩu, vạn nỗi lắng lo.

          Không giống như mọi người, Chúa Giêsu lại khác hẳn thế, ngay từ lúc còn đi rao giảng, Ngài đã báo trước cho các môn đệ thấy về định mệnh đời Ngài: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, chịu chết và sẽ sống lại”. Một dịnh mệnh đau thương, không có gì là vui, và sự thật đã xảy ra như thế. Ít ngày trước đây, các môn đệ đã chứng kiến tận mắt những cảnh tượng kinh hoàng, nơi cuộc tử nạn của Chúa. Chìm ngập trong đau khổ, khiến tâm hồn người ta hoảng loạn. Cũng chính vì vậy, mà hôm nay, khi Chúa hiện ra với các môn đệ, Thánh Kinh nói: Các ông đã kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma.

          Vì thế, để trấn an, Chúa đã chúc và ban bình an cho các ông. Rồi sau đó, Ngài đã cho các ông xem tay bị đâm thủng của Ngài. Ngài muốn cho các ông đụng chạm, và rờ xem chân tay của Ngài, để các ông: Trăm nghe không bằng một thấy; trăm thấy không bằng một thử. Để các ông không còn hồ nghi, mà xác định rõ ràng. Đây là chính Thầy thật. Bàn tay này đây, cũng vẫn là bàn tay, đã quỳ xuống rửa chân cho mình hôm thứ năm vừa rồi. Và để nhấn mạnh hơn nữa, Ngài còn hỏi để xin các ông một miếng cá nướng, và Ngài đã ăn trước mặt các ông. Thế thì hết chuyện rồi. Không thể hồ nghi gì được nữa: Người trước mặt đích thực là Thầy nguyên vẹn, của những ba năm gần gũi yêu thương.

          Cái định mệnh đời Thầy là một con đường đã được Chúa Cha vạch ra và đặt để từ trước. Cho nên cuộc đời của Chúa, là một sự liên kết không thể cắt khúc: Rao giảng-đau khổ-chết-sống lại. Nếu các ông đã chung sống với Ngài, để chứng kiến đau khổ và cái chết bi ai của Ngài, thì việc sống lại của Ngài, cũng là điều không phải nghi ngờ nữa. Tất cả sự thật ấy, Ngài muốn các ông, là những chứng nhân hiện trường, đi khắp nơi và loan báo cho mọi người. Đây là một bản tình ca yêu thương nồng nàn: “Thiên Chúa đã yêu thương loài người; đến nỗi sai Con Một của Ngài là Ngôi Hai, xuống thế làm người. Ngài đã được sinh ra, lớn lên, đi giảng đạo, bị bắt, bị giết, đã sống lại, và lên trời”.

Gợi ý suy niệm:

1- Bạn có biết: Định mệnh của đời Chúa là gì?
2- Bạn có kêu ca, trách móc, khi thấy định mệnh của đời bạn có nhiều nỗi buồn?

 Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên

-------------------------
 

PS3-B113: Danh Chúa Giêsu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã thường sai các sứ thần, sứ giả, các tiên tri và các tổ phụ cha ông để : PS3 B-113


Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã thường sai các sứ thần, sứ giả, các tiên tri và các tổ phụ cha ông để truyền dạy về mầu nhiệm ơn cứu độ. Khi thời đã mãn, Thiên Chúa sai chính Con Một Ngài là Đức Giêsu xuống thế để mạc khải về Nước Trời. Đức Giêsu là Chúa, qua Ngài muôn loài được tạo thành. Danh thánh Chúa Giêsu là danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu: "Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ" (Pl 2,10). Danh Chúa Giêsu có quyền lực biến đổi và chữa lành mọi vết đau thương cả hồn lẫn xác. Trong tất cả các lời cầu nguyện chính thức của Giáo Hội đều kết thúc bằng lời cầu: Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

Sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết, các Tông đồ đã chứng kiến, gặp gỡ và cùng ăn uống với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã minh chứng rằng Ngài không phải là ma hay bóng hình, mà là người sống thật. Chúa Giêsu đã chỉ cho các ông thấy dấu đinh nơi tay chân và cạnh sườn bị đâm thủng. Chúa đã cùng đồng hành trên đường, đối thoại với hai môn đệ và bẻ bánh phân chia. Niềm xác tín vững vàng, các tông đồ đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng, cho dù đối diện với muôn vàn trở ngại khó khăn. Các Tông đồ đã nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân. Ông Phêrô nói với dân chúng: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38).

Qua thánh giá, Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù là tội lỗi và ma quỷ. Thánh giá là chìa khoá mở cửa để vào Nước Trời. Triều thiên vinh quang phải đi qua thánh giá. Chúa Giêsu đã giải thích cho các Tông đồ con đường thánh giá phải đi qua để vào Nước Chúa. Ngài trao ban cho các ông quyền lực để thắng vượt tội lỗi và sợ hãi. Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ hãy làm nhân chứng về sự sống lại của Ngài cho mọi người. Chúng ta nghe và đọc nhiều bài tường thuật rất đơn sơ, chân thành về sự kiện Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các bà, các tông đồ, môn đệ và nhiều người khác. Chúa hiện ra với mỗi người qua mỗi hình thức trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Mỗi lần Chúa hiện ra đều có ý minh chứng và củng cố thêm lòng tin của các môn đệ vào sự sống lại.

Các môn đồ sống với tâm hồn rất đơn sơ chất phác. Những thắc mắc, ngờ vực và lo âu của các môn đồ là rất thật. Sau khi Thầy của mình đã bị giết chết và chôn trong mộ đá, các môn đồ sống trong tinh thần hoang mang lo sợ và bỏ đi tản mác. Có những môn đồ chán nản bỏ về quê nhà. Trên đường về làng Emmaus, Chúa Giêsu phục sinh đã xuất hiện như người khách lạ cùng đồng hành với các ông để giải thích Kinh Thánh và mở con đường mới dẫn vào Nước Trời. Thật là nhiệm mầu, Chúa đã sống lại rồi, đâu ai có thể gây hại gì cho Chúa nữa. Đôi khi tôi tự hỏi: Sao Chúa không ra mặt công khai công bố tin vui và quy tụ mọi người về một mối? Chúng ta cũng nhớ rằng sứ mệnh rao truyền Tin Mừng của Đấng Messia thì âm thầm và ẩn giấu. Tư tưởng và đường lối của Chúa thì không phải của loài người.

Thiên Chúa rất kiên nhẫn đợi chờ. Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chúa muốn gặp gỡ với từng tâm hồn. Chúa mở lòng cho mỗi người có cơ hội để cảm nhận được tình Chúa. Nước Trời như hạt cải bé nhỏ được gieo trồng, đâm chồi nẩy lộc và phát triển. Lời giống Lời Chúa cứ tiếp tục tung gieo trên khắp cánh đồng. Những tâm hồn vui vẻ đón nhận và chăm nom vun tưới, hạt giống sẽ sinh hoa kết quả. Khởi đầu Giáo Hội, với con số rất khiêm nhường, chỉ có 12 tông đồ, trong đó một vị đã bỏ cuộc và cùng với 72 môn đệ, các bà đạo đức, một số người thân thiện cảm tình theo Chúa. Họ là nhóm nòng cốt. Chúa Phục Sinh đã trao quyền cho các vị ra đi làm nhân chứng và rao giảng Tin Mừng thống hối. Hầu hết các môn đồ đã lấy mạng sống mình để minh chứng niềm tin vào Chúa Kitô sống lại.

Thánh Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng sự thật: Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi. Và các tông đồ đã làm chứng rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Giờ đây các ông chỉ lấy danh Người mà làm các phép lạ chữa lành. Phêrô cũng thành thật chia sẻ rằng chúng tôi không dùng quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chính mình mà làm các sự lạ. Khi chữa lành cho anh què tàn tật, ông Phêrô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Tất cả năng quyền được trao ban cho các ông đều nhờ qua Danh Chúa Giêsu Kitô. Mọi sự đều phải quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Ngài là đầu của Nhiệm Thể.

Chúa Giêsu đã sai các Tông đồ ra đi làm nhân chứng và truyền rao ơn cứu độ. Các Tông đồ đã xả thân mình vì đức tin. Với một sức mạnh thúc đẩy nội tâm, các ông không còn rụt rè, sợ hãi nhưng kiên vững xác tín rao giảng về cuộc đời của Chúa. Chính Chúa là lẽ sống, là đá tảng và sức mạnh. Tất cả mọi quyền lực thế gian, áp đặt của kẻ thù, bắt bớ, tù tội, gươm giáo và chết chóc không làm lung lạc niềm tin. Các tông đồ vững mạnh tuyên bố rằng: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4,10).

Thánh Phaolô, vị Tông đồ sinh sau đẻ muộn trong Đức Kitô, cũng mạnh dạn tuyên xưng danh Chúa: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này! Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất” (Cv 16,18). Nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh, mọi quyền lực thế gian phải quỳ phục. Hãy tự vấn xem có khi nào chúng ta thực tình dùng Danh Thánh Chúa để chế ngự các nết xấu, xua trừ ma quỷ hay làm một việc gì tốt không? Nhiều lần chúng ta đã chối từ, lẩn tránh và ngại ngùng tuyên xưng danh Chúa. Rất thường chúng ta không dám tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô nơi công cộng. Đôi khi chúng ta không dám làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi nơi bàn ăn. Chúng ta giả vờ sống như những người không tin. Hoạ theo những thói tục hư đốn, truỵ lạc, đàm tiếu, gian dối và tỏ ra mình sành chơi, sành điệu không thua kém gì người không biết Chúa.

Nhìn vào cuộc sống của người Kitô hữu, chúng ta phải chân nhận rằng đã có quá nhiều lần chúng ta phân rẽ chi thể mầu nhiệm của Chúa. Chúng ta dựa vào niềm tin để đả phá, ghen ghét và xa tránh nhau. Lời của Thánh Phaolô nhắc nhở: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1,10). Sống tinh thần của Chúa Kitô Phục Sinh là sống tinh thần yêu thương trong an bình. Nhân danh Chúa Kitô, chúng ta là sứ giả của hoà bình, là nhân chứng của tình yêu và là môn đệ của sự khiêm nhường phục vụ.

Lạy Chúa, xin đoái nhìn đến đoàn con của Chúa. Nhờ Mầu nhiệm Vượt qua, Chúa đã biến đổi tâm hồn và thân xác chúng con. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô sống lại, để mai sau cùng chung hưởng vinh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
 

-------------------------
 

PS3-B114:  Chia Sẻ Lời Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc

 

Chúng ta có thể gồm tóm các bài Phụng vụ hôm nay vào trong hai chữ: BẺ BÁNH. Bẻ bánh là gì? Là: PS3 B-114


Chúng ta có thể gồm tóm các bài Phụng vụ hôm nay vào trong hai chữ: BẺ BÁNH. Bẻ bánh là gì? Là cầm bánh bẻ ra và chia cho người khác. Bẻ bánh là chia sẻ.

Trong một cuộc du ngoạn dưới nắng hè, chúng ta tìm một chỗ bóng mát, ngồi lại với nhau, cùng chia sẻ lương thực, thức ăn nước uống, để bồi bổ thể xác. Trong Giáo hội tiên khởi cũng như trong Giáo hội ngày nay, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, chúng ta họp lại với nhau để làm lại việc quan trọng là chia sẻ hay bẻ bánh Lời Chúa. Vì chia sẻ hay bẻ bánh Mình và Máu Thánh Chúa trong phép Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn.

Các bài đọc Phụng vụ hôm nay minh chứng cho chúng ta hai điều đó. Trong bài đọc thứ nhất chúng ta nghe Thánh Phêrô bẻ bánh Lời Chúa cho dân chúng. Bài giảng thật súc tích, ngắn gọn dựa trên các điểm sau đây: Chúa Giêsu Nagiarét chính là Con Thiên Chúa, nhưng anh em đã chối bỏ Đấng Công Chính, Đấng ban sự sống và giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Vậy anh em hãy trở lại để được ơn tha thứ. Đó là bài giảng đầu tiên và là khuôn mẫu cho các bài giảng thuyết.

Trọng tâm các bài giảng là mầu nhiệm Chúa đã chết, “Chính Ngài là của lễ đền tội không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế giới” (Gio 2-5… ) và Ngài đã Phục sinh sống lại. Giáo hội, theo Luca cho biết, đã ý thức ngay từ đầu việc Chúa Phục sinh, bằng ba lối dẫn nhập này: một là lời cung chứng của các Tông đồ. Các ông không bao giờ nghĩ tới sự việc sẽ xảy ra như vậy. Họ tỏ ra ngờ vực là khác. Luca nhấn mạnh đến thái độ của họ khi nhìn thấy Chúa hiển linh: “họ ngạc nhiên, bối rối lo sợ, nghi ngờ tưởng là bóng ma”. Nhưng rồi họ mới nhận thức đó là sự thật; hai là nhờ sự suy niệm Kinh Thánh, mà Chúa đã dạy cho họ trên đường Emmaus (24, 25-27) cũng như cho tất cả (24, 44-47); ba là nhờ thực hành nghi thức Thánh Thể. Hai môn đệ đã nhận ra Ngài khi bẻ bánh (24,35) và cộng đoàn tiên khởi ân cần tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể (Cv. 2,42 và Icor. 10,46). Ba lối dẫn nhập nhưng cùng đi về một hướng.

Giáo hội có bổn phận “bẻ bánh Lời Chúa” thì chúng ta người tín hữu có bổn phận nhận lãnh Lời Chúa, lắng nghe và thực hành. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ Lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa, qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài, hoặc giảng buồn ngủ. Thánh Vinh Sơn Ferrier giảng 20.000 ngàn bài và mỗi bài không dưới 3 tiếng đồng hồ. Thánh Phaolô xưa cũng giảng dài, vì Ngài tự cho là lỗi bổn phận: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Lời Chúa”. Tại Troy, Ngài giảng từ chiều tối đến nửa đêm. Có anh chàng ngồi trên cửa thành lầu cao, ngủ gật té chết, Ngài làm cho sống lại và tiếp tục giảng cho đến sáng. Anh em cũng hãy thông cảm với người rao giảng Lời Chúa. Thánh Phanxicô Balesiô sau bài giảng đầu tiên đã phải nằm liệt giường vì lo sợ. Nhưng rồi Ngài trông cậy Chúa và Ngài giảng với tất cả tâm hồn; Ngài định nghĩa “nhà giảng thuyết là người lấy tâm hồn mình và ném vào tâm hồn thính giả”. Giáo luật dạy Linh mục phải dọn kỹ càng, trình bày thích hợp với điều kiện thính giả và nhu cầu thời đại (GL 769) và buộc phải giảng lễ trong ngày Chúa nhật (GL. 767-2) thì Giáo dân có trách nhiệm phải lắng nghe và tuân giữ các điều mà chủ chiên tuyên giảng với tư cách là thày dạy đức tin (GL. 212-1).

Việc quan trọng thứ hai mà Phụng vụ gợi ý hôm nay là việc bẻ bánh Thánh và chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ. Ngày Chúa nhật là ngày mà Giáo hội dạy chúng ta đi tham dự Thánh lễ và kêu gọi chúng ta chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa, của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Hai phần ba thế giới đang đói vì thiếu của ăn thì có bao nhiêu người cũng đang đói Chúa. Thánh Lucianô, Giám Mục Nocomedia, bị bắt giam trong tù. Giáo dân lo lót lính canh và mang lễ vật vào thăm. Ngài khuyên họ can đảm giữ vững Đức Tin. giáo dân quây quần xung quanh Ngài và nói: Chúng con đói Chúa. Không có nơi thuận tiện làm lễ, Ngài liền nằm ngửa dưới đất, đặt của lễ trên ngực và làm lễ để cho giáo dân được rước Chúa.
“Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con” (Đáp ca).

-------------------------
 

PS3-B115:  Tình yêu - Tính vững bền và sự đòi hỏi


(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

Tình yêu như một đòi hỏi và phải mang tính bền lâu

“Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1 Ga 2,5).
 

Lá thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ vừa giúp khai sáng, nhưng lại vừa mang chở những tư  PS3 B-115


Lá thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ vừa giúp khai sáng, nhưng lại vừa mang chở những tư tưởng xem ra có vẻ khá rời rạc. Nội dung gồm chứa những huấn dụ mạnh mẽ, nhưng dường như những tư tưởng đó không được liên kết với nhau chặt chẽ cho lắm. Bài đọc ngắn trong phụng vụ hôm nay cho ta thấy điều này. Nó chất chứa nhiều tư tưởng nhưng đan nối với nhau có vẻ như không được khúc chiết và cũng chẳng mạch lạc. Tư tưởng thứ nhất, thánh tông đồ trình bày: Nếu chúng ta phạm tội, chúng ta có một Đấng Bào Chữa trước mặt Chúa Cha. Đó là Đức Giêsu Kitô - Đấng Công Chính. Sau đó, Thánh Gioan viết tiếp “Những ai không tuân giữ giới răn của Ngài, đó là kẻ nói dối”. Cuối cùng Ngài khẳng quyết “Ai giữ lời Ngài, tình yêu của Thiên Chúa sẽ thực sự nên trọn hảo nơi họ”. Đây là ba tư tưởng xem ra chẳng liên thông gì với nhau cả.

Khi tôi đọc luận văn của các sinh viên và thấy họ viết như thế, tôi sẽ nói các em phải viết lại, diễn nghĩa rõ hơn và nhất là phải nối kết những tư tưởng lại một cách rõ nét hơn.

Nhưng dường như Thánh Gioan tông đồ muốn chúng ta tự làm công việc này cho chính mình. Chúng ta sẽ dễ dàng đan nối các tư tưởng lại thành một hệ thống khi chúng ta nhận ra rằng, chủ đề chính yếu mà thánh Gioan muốn nói tới, chính là Tình yêu. Trong Tin mừng thứ tư, chúng ta thấy rất rõ điều này. Nền tảng thần học căn bản mà Thánh Gioan muốn diễn đạt, nằm trong lời tâm huyết của Đức Giêsu: “ Như thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng phải mến thương nhau” (Ga 13,24). Hãy yêu thương, nhưng phải sao chép lại chính tình yêu của Chúa Giêsu, và đó không phải là một việc giản đơn dễ thực hiện. Tác giả Dostoyevsky trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov cũng đã viết một tư tưởng giống như thế:“Tình yêu được thực hiện bằng hành động là một điều gì rất khó khăn và gian nan, không như tình yêu chỉ có ở trong mơ tưởng”. Tình yêu thực sự phải vươn tới một cấp độ cao hơn, và nó chạm tới chân lý tận sâu thẳm nơi hữu thể con người chúng ta: Bởi vì chúng ta được dựng nên, chính là để yêu thương. Vì lý do này, tình yêu là một huyền nhiệm rất cao đẹp và trong sáng. Chỉ trong tình yêu, chúng ta mới có thể tìm về căn tính và khám phá ra thiện ích đích thực ẩn sâu nơi mỗi người.

Vì vậy, tuân giữ Lời Chúa chính là chúng ta diễn bày tình yêu đối với Chúa, và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa được hiện thực tròn đầy nơi ta. Không tuân giữ giới răn của Chúa, chính là phủ nhận chân lý sâu xa ẩn tàng nơi mình, cũng như phủ nhận sự thật về mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện hữu trong thâm sâu cõi lòng của chính chúng ta.

Trên một bình diện, giới răn của Thiên Chúa được dàn trải qua nhiều dạng thức, từ việc sống ngay thật không gian dối như một nền tảng, đến việc thực hành những điều ngay chính trong cuộc sống đời thường. Nhưng trên một bình diện khác, tình yêu chỉ tóm kết vào một định thức giản đơn duy nhất: “Yêu mến là chu toàn lề luật”(Rm 13,8). Điều này dễ hiểu, bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Nơi nào vắng bóng tình yêu, nơi đó không có Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta cho dù bề ngoài xem ra có vẻ tốt lành, nhưng nếu tâm hồn cằn cỗi tình yêu, sự thật sẽ không có nơi chúng ta.

Vì vậy, thực hành tình yêu không phải là một công việc đơn giản. Đó là một mệnh lệnh, và mệnh lệnh đó chạm tới sâu thẳm hữu thể nơi con người mình. Tình yêu đích thực và tinh ròng không bao giờ là tình yêu nửa vời. Nhìn vào bản thân, chúng ta có thể nghiệm ra rằng trong khi tình yêu của Thiên Chúa rất mực hoàn hảo trong ta, thì nơi con người chúng ta, vẫn còn quá nhiều bất toàn và thiếu xót.

Tuy nhiên, khi chúng ta sa ngã, chúng ta không được tuyệt vọng và buông xuôi, để mặc cho sự dữ tung hoành. Bài đọc hôm nay trấn an và cho chúng ta biết rằng “Chúng ta có một trạng sư bào chữa trước mặt Chúa Cha”. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp, và Ngài sẽ là một luật sư “cãi hộ” cho chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm. Không phải thế đâu. Thánh Gioan muốn nói rằng Đức Giêsu đã tự nguyện hiến tế trên thập giá, và hiến tế đó diễn bày vai trò trạng sư của Ngài. Sự tự hủy ra không nơi Ngài là một quà tặng dâng lên Chúa Cha, thay cho chúng ta. Qùa tặng đó là cách thức diễn bày tình yêu của Chúa, một tình yêu vĩnh cửu và vững bền để cột trói chúng ta với Chúa Cha. Ơn cứu độ ở đây nói lên tính cách trạng sư biện hộ nơi Ngài, để phục vụ cho thiện ích của con người. Hiểu như vậy, chúng ta mới có thể khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện tròn hảo qua hy lễ thập giá. Tình yêu đó được ban trao, và chính Thiên Chúa gọi mời chúng ta đi vào trong quỹ đạo tình yêu của Ngài để sống chân lý sâu xa từ sâu tận trong tâm hồn chúng ta.

Cuộc sống anh hùng không phải là một cuộc sống với những hành động hiển hách được mọi người biết đến và vỗ tay ca ngợi. Song, sự anh hùng thực sự chính là khi chúng ta cho dù sống thầm lặng, nhưng luôn kiên trung trong một tình yêu bền vững.

Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã tôn phong Ngài tước hiệu tiến sĩ hội thánh. Cuộc sống của Ngài khá dung dị và thầm lặng, nhưng lại rất sâu sa. Ngài đã thuật lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn như sau: “Đây là cách thái mà cuộc sống tôi đã trải qua. Tôi chẳng biết làm những công việc phi thường, những chỉ thực hiện những điều rất bình thường tựa như kết dệt cuộc đời tôi bằng những bông hoa đơn sơ và nhỏ bé. Tôi không bỏ qua bất cứ sự hy sinh bé nhỏ nào mà tôi có thể làm được, từ ánh mắt, từ lời nói, hay cử chỉ. Và tôi luôn thực hiện những hy sinh nhỏ bé ấy bằng một tình yêu lớn lao dành trao cho Chúa.

-------------------------
 

PS3-B116: Dấu chân – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: "Dấu Chân", giai điệu slow nhẹ nhàng thiết tha, ca từ thấm: PS3 B-116


Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: "Dấu Chân", giai điệu slow nhẹ nhàng thiết tha, ca từ thấm đẫm chất thơ, bài ca lấp lánh niềm tín thác.

1. Hôm nao dưới nắng reo vui, mình tôi rong chơi trên bãi biển. Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đôi. Này là dấu chân to, và kìa là dấu chân nhỏ. Cả hai cùng chiều đi tới, tựa hình với bóng bước song đôi.

ĐK. Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ. Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa. Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi. Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi.

2. Hôm nao giữa bước chân đi, chợt nghe dâng mênh mang nỗi buồn. Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đơn. Lạ lùng dấu chân to, và nặng nề vết in đậm. Mà sao chỉ còn một dấu, lại chẳng thấy có dấu chân tôi?

Ca khúc được dệt nhạc từ truyện "Footprints".

Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.

- Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng... anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.

- Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu...anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.

Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: "Khi con thành công, hạnh phúc...Chúa lại đồng hành với con, đi với con...Nhưng khi con thất bại, đau khổ...những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?".

Chúa Giêsu trả lời: "Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con".

Câu chuyện gợi lên ý tưởng: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường trần thế. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.

Câu chuyện "Trên đường Emmau" là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết.

Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.

Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.

Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T: Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.

1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh

Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh "Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh". Người đã giải thích cho các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm" (Lc 24, 44). Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của "Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một". Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.

Thánh Giêrônimô đã nói: Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.

Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: "Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh" (MK21).

Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để "khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng" (MK 26).

2. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban thì hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới.

Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền" biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư "Mane Nobiscum Domine", số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).

Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.

Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.

3. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh

Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.

Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Chúa Giêsu Cứu Thế đã in dấu chân trên những nẻo đường truyền giáo "bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ". Chúng ta bước theo Chúa trên hành trình sứ vụ, mỗi ngày đã qua như một dấu chân trên cát, nối lại những dấu chân, cuộc đời sẽ thành đường dài của niềm vui và hy vọng.

-------------------------
 

PS3-B117:  Giải mã Thánh Kinh – Lm. Phạm Quốc Hưng

 

Nói rằng Thánh Kinh là Lời Chúa là đúng, vì Thánh Kinh là bộ sách được viết ra dưới sự hướng: PS3 B-117


Nói rằng Thánh Kinh là Lời Chúa là đúng, vì Thánh Kinh là bộ sách được viết ra dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhưng hiểu Lời Chúa chỉ được chứa đựng trong Thánh Kinh mà thôi là một quan niệm thiếu sót, hẹp hòi. Vì Lời Chúa chính là Ngôi Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, và một khi đã nhập thể làm người để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại Lời Chúa đã mang một tên gọi là Giêsu Kitô. Do đó, nơi chính con người, cuộc sống và giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô mà cao điểm là Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Người, Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu độ chúng ta và dạy chúng ta mọi sự. Đó là một trong những chủ đề được gặp thấy trong Phụng Vụ hôm nay.

Thánh Kinh Cựu Ước bao gồm mọi điều Thiên Chúa mạc khải cho Dân Do thái qua các tổ phụ và các tiên tri để giúp họ chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Qua cuộc sống được kết thúc bằng Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Người, Đức Giêsu Kitô đã hoàn tất những gì Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ và các tiên tri nơi Thánh Kinh Cựu Ước. Đó là nội dung lời chứng của Thánh Phêrô trong Tông Đồ Công Vụ nơi bài đọc một trong Phụng Vụ hôm nay, nhất là nơi câu: “Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước: Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình” (Cv 3:18).

Trong Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệsau khi ăn cá nướng và mật ong trước mắt họ, Chúa Giêsu đã vừa cho thấy sự xác thực của mọi lời Người từng nói với các ông vừa xác định Người chính là Đấng Kitô –Đấng Mêsia-là trung tâm của lịch sử ơn cứu độ mà Thánh Kinh Cựu Ước đã báo trước, vừa là Đấng giúp các môn đệ am hiểu Thánh Kinh. Thánh Sử Luca viết: “Đoạn Người phán: Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách các tiên tri và thánh vịnh. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh” (Lc 24:44-45).
Ngày nay, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích Thánh Kinh cho chúng ta qua Huấn Quyền của Hội Thánh luôn được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Việc ghi nhớ và hiểu biết đầy đủ giáo lý với các tín điều Hội Thánh dạy thật quan hệ trong việc giúp chúng ta hiểu đúng Thánh Kinh. Đức Thánh Cha Bênêđictô từng dạy rằng: “Các tín điều chính là lời giải thích Thánh Kinh chính thức của Hội Thánh”. Không có cùng trí ý với Hội Thánh, người ta không thể hiểu đúng Thánh Kinh.

Hơn nữa, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua-Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh-của Người chiếm vị thế trung tâm trong chương trình cứu độ. Như thế, toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước cũng như Tân Ước-phải được đọc và giải thích dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Đồng thời, Hội Thánh bao gồm các môn đệ đích thực của Chúa Kitô sẽ tiếp tục sứ mạng của Người khi rao giảng nhân danh Người và làm chứng về Người, mời gọi mọi người sám hối để lãnh ơn tha tội. Người phán: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24:46-48). Điều này cũng đã được Chúa Giêsu nói với hai môn đệ truớc đây, khi Người hiện ra và đồng hành với họ trên đường Emmau (Lc. 24:13-35).

Vì vậy, muốn hiểu đúng Thánh Kinh, chúng ta phải đón nhận sự khôn ngoan của mầu nhiệm Thánh Giá, phải chấp nhận bước đi trên Đường Thánh Giá, con đường của hy sinh từ bỏ, con đường của tình yêu xả kỷ vị tha, con đường chính Chúa Giêsu đã đi qua. Tác giả sách Gương Chúa Giêsu ngay ở chương đầu đã nhận xét: “Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc Âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa” (Q. I, Ch. 1). Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng kể rằng: “Bài giảng đầu tiên con nghe và hiểu được là bài giảng về Thánh Giá. Và từ đó, con nghe và hiểu được mọi bài giảng”.

Trong bài đọc hai trích thư thứ nhất của Thánh Gioan, chúng ta lại học biết rằng mục đích của Thánh Kinh chính là giúp chúng ta khỏi phạm tội; mà nếu chúng ta đã phạm tội thì sẽ được đón nhận ơn tha tội nhờ sám hối và tin vào Chúa Kitô là của lễ đền tội cho toàn thể nhân loại. Trên hết, Thánh Kinh hay Lời Chúa hoặc Luật Chúa là phương thế tuyệt hảo giúp chúng ta buớc vào và sống trọn liên hệ yêu thương với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa. Hơn nữa, việc nghe và giữ Lời Chúa còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.

Thánh Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn của Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ các giới răn của Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (1Ga 2:1-5a).

Câu nói thời danh của Thánh Giáo Phụ Tiến Sĩ Jerome dường như chỉ là một lời lập lại và tóm lược những lời trên của Thánh Gioan: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Các học giả Thánh Kinh còn đưa ra nhận xét độc đáo này: “Thánh Kinh được viết bởi những người tin, được viết cho những người tin, được viết để xây dựng và rao truyền đức tin”. Vì vậy, tin vào Chúa Kitô và Hội Thánh là cách chắc chắn nhất để học biết Thánh Kinh một cách đúng đắn.

Thật là thích đáng khi Hội Thánh dùng lời tung hô Alleluia trong Phụng Vụ hôm nay để dâng lên Chúa Giêsu lời nguyện chí thiết này: “Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con”.

Nếu Chúa Nhật tuần trước được dành để suy tôn Lòng Chúa Thương Xót, thì Chúa Nhật hôm nay có thể được dành để suy tôn Lời Chúa, suy tôn Thánh Kinh.

Lạy Mẹ Maria là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ để say mê việc đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa, dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong niềm hiệp thông vâng phục trọn vẹn với Hội Thánh. Amen.

-------------------------
 

PS3-B118: ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ EMMAU


(Luca 24,13-35 – Phục Sinh; CN III PS - A)

 1.- Ngữ cảnh
 

Sau khi các phụ nữ đã mang sứ điệp Phục Sinh đến cho cộng đoàn (23,55–24,12), tác giả Luca mô tả hai: PS3 B-118


Sau khi các phụ nữ đã mang sứ điệp Phục Sinh đến cho cộng đoàn (23,55–24,12), tác giả Luca mô tả hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh: Đức Giêsu cùng đi đường với hai môn đệ Emmau (24,13-35) và hiện ra giữa cộng đoàn (24,36-53).

Riêng cho giai thoại Emmau, chúng ta không có đoạn văn Nhất Lãm song song nào cả. Bản văn có ngữ cảnh sau: Sau khi các phụ nữ đã viếng (cả Phêrô: 24,12) ngôi mộ mở và trống của Đức Giêsu (24,2t), ta biết rằng Đức Giêsu đã sống lại và đang sống, nên không thể gặp Người giữa kẻ chết. Nhưng ta không biết là có thể gặp Người ở đâu và gặp Người cách nào. Chính Đức Giêsu đã lấy sáng kiến và hiện ra trong những hoàn cảnh khác nhau. 
 
2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Hai môn đệ đi về Emmau (24,13-14);
2) Đồng hành và đối thoại với Đức Giêsu (24,15-27);
3) Nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh (24,28-32);
4) Trở lại Giêrusalem (24,33-35).
 
3.- Vài điểm chú giải

- Emmau (13): Bản văn cho biết Emmau cách Giêrusalem 60 dặm (stadious), tức 11,5 cây số (một dặm = 192m). Đến nay người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn đây là làng nào: làng Amwas = Nicôpôli (176 dặm = 32,5cs; 1 Mcb 3,40.57: Ammaous), hay làng Kulonje (30 dặm = 5,5 cs; Phơlaviô Gioxép, Chiến tranh Do Thái VII 6,6 § 217: Ammaous), hoặc làng Kubêbe (64 dặm = 12cs; vào thời các thập tự quân: Castellum Emmaus)?

- (Và) xảy ra là đang lúc (15): Trong chương 24, có bốn lần tác giả Luca dùng cụm từ “kai egeneto en tô…”, mà Bản dịch CGKPV không dịch, còn cha NTThuấn thì dịch là “đang khi…”, “xảy ra là đang lúc…”, “và xảy ra là khi…”, “và xảy ra là đang khi…”. Tác giả dùng công thức này để dẫn vào những sự cố đặc biệt: hai chứng nhân xuất hiện (c. 4), Đức Giêsu đến cùng đi với hai môn đệ (c. 15), Đức Giêsu tỏ ra như là người chủ tọa bữa ăn (c. 30), và Đức Giêsu được đưa lên trời (c. 51). 

- trò chuyện và bàn tán (15): Homilein, “trò chuyện”; syzêtein, “tìm với nhau, tranh luận, tranh cãi; bàn tán”; động từ syzêtein lại được dùng trong Cv 15,7.10, là nơi nhắc đến những tranh cãi kịch liệt trong Hội Thánh tiên khởi về vấn đề cắt bì. Như thế, câu chuyện tỏ ra sôi nổi và dường như các ông không hoàn toàn đồng ý với nhau.

- vẻ mặt buồn rầu (c. 17): Skythrôpos do skythros, “buồn rầu” và ôps, “gương mặt”.

- chẳng hiểu gì (25): Anoêtos có nghĩa là “thiếu khả năng suy nghĩ; không có đầu óc; kém thông minh; ngu xuẩn” (x. Gl 3,1: ô anoêtoi Galatai, “hỡi những người Galát ngu xuẩn”). Sau này, ở 24,45, tác giả cho biết Đức Giêsu “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.

- lòng trí thật là chậm tin (25): dịch sát là “chậm (bradeis) về trái tim để tin”. “Trái tim” (kardia), trung tâm của ý chí, trí tuệ và tình cảm của con người (x. 24,25.32.38). Động từ pisteuein, “tin” (Mt 11x, Mc 14x, Lc 9x, Ga 98x) chỉ được Lc dùng ở đây (danh từ pistis, “đức tin”: Mt 8x, Mc 5x, Lc 11x, Ga 0x). Trong Lc, động từ này luôn quy về lời nói, ở đây là lời các ngôn sứ. “Tin” có nghĩa là cương quyết chấp nhận giá trị của lời nói.

- Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình (26): “Phải” đây là động từ dei ở thì vị hoàn (edei): động từ nay diễn tả một điều cần thiết thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa. Xem 9,22; 17,25; 22,37; 24,7.44. 

- trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ (27): “Ông Môsê” là Bộ Ngũ Thư; “các ngôn sứ” là các sách sử và các sách ngôn sứ; “tất cả Sách Thánh” là những sách còn lại của Cựu Ước. Xem cách chia Kinh Thánh Do Thái thành ba phần ở 24,44.

- giải thích (27): Diermêneuein có nghĩa là “giải nghĩa, giải thích, chú giải”. Động từ này chỉ được Lc dùng ở đây; ở Cv 9,36, động từ này có nghĩa là “dịch”, và ở 1 Cr 14,5.13.27, có nghĩa là “giải thích điều được nói bằng các tiếng lạ; giúp hiểu điều người ta không tự mình hiểu được; đưa đến chỗ hiểu biết”. Những công thức có nghĩa tương tự là: “giải thích (dianoigô tas graphas, “mở trọn vẹn, mở toang Kinh Thánh”) Kinh Thánh cho chúng ta” (24,32) và “Người mở trí (dianoigô ton noun, “mở rộng trí”) cho các ông hiểu Kinh Thánh” (24,45).

- Mắt họ liền mở ra (31): Dịch sát là “mắt họ đã được mở ra” (diênoichthêsan, aor. pass. của động từ dianoigô, “mở trọn vẹn”). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa.
 
4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hai môn đệ đi về Emmau (13-14)

Bản văn mở ra với “hai người trong nhóm môn đệ” đang bước đi và trò chuyện. Sau đó, ta được biết một người tên là Cơlêôpát (c. 18). Họ không thuộc về Nhóm Mười Một, nhưng thuộc về nhóm những người khác đang cùng ở với Nhóm Mười Một (x. 24,11). Qua lời họ kể (24,22-24), họ chứng tỏ họ biết tất cả những gì đã được kể ở 24,1-12; họ biết những gì cộng đoàn biết và sẽ góp phần làm cho sự hiểu biết này gia tăng thêm.

Về thời gian, đây “cũng ngày hôm ấy”, tức ngày thứ nhất trong tuần (24,1). Họ cho biết là họ chỉ ra đi khi đã kiểm chứng tất cả các sự cố của 24,1-12. Bây giờ họ đang tiến về một làng tên là Emmau, cách Giêrusalem khoảng mười một cây số.

Trong khi đi đường, họ trò chuyện sôi nổi với nhau. Đối tượng của cuộc bàn tán được mô tả tổng quát: “tất cả những sự việc mới xảy ra” (c. 14; x. c. 18) và ta hiểu nhờ những phần tường thuật trước đó của tác giả Tin Mừng.    
 
* Đồng hành và đối thoại với Đức Giêsu (15-27)

Hai môn đệ cùng đi với nhau, họ chia sẻ các tâm tình với nhau, nhưng dường họ cũng không đồng quan điểm với nhau; có chuyện gì đó đã xảy ra khiến họ bị chao đảo và họ vẫn chưa có thể đồng ý với nhau về chuyện ấy hoặc tìm lại được bình an. Đức Giêsu tiến đến cùng đi với họ, rồi hỏi họ (cc. 15-19a). Họ kể lại các sự cố đã xảy ra cho Đức Giêsu theo quan điểm của họ (cc. 19b-24). Sau đó, Đức Giêsu đã trình bày cho thấy là tất cả những gì đã xảy ra đều phù hợp với Kinh Thánh (cc. 25-27).

Sau khi Đức Giêsu đã trở thành bạn đồng hành của họ, dù họ vẫn không biết Người là ai (cc. 15-16), hai bên đã trao đổi ba câu hỏi (cc. 17-19a), đưa đến chỗ họ kể chuyện rõ ràng hơn. Tác giả nhắc lại rằng con người đến gần hai môn đệ và bắt đầu bước đi với họ đúng là Đức Giêsu. Chính tác giả đã kể lại rằng hành vi cuối cùng Đức Giêsu đã làm sau khi kêu lên với Chúa Cha (23,46) là “tắt thở”. Bây giờ các hành động mới của Người là: đến gần, cùng đi, hỏi, cho thấy rằng Người thật sự đang sống (x. 24,5) và quan tâm trước tiên đến các môn đệ Người. Rõ ràng Đức Giêsu đến như một người lữ khách bình thường, nhưng hai người môn đệ không nhận ra Người. Kế đó, Lc đưa vào ba câu hỏi (24,17.18.19). Câu thứ nhất là của Đức Giêsu, Người tham gia vào cuộc thảo luận của họ (c. 17).

Phản ứng đầu tiên của họ là dừng lại. Cho tới nay, chỉ toàn là chuyển động: đi đến (c. 13), cùng đi (c. 15), đi (c. 17). Việc dừng lại dường như là do sự ngạc nhiên được diễn tả trong câu hỏi tiếp sau (c. 18). Tác giả cho biết “vẻ mặt họ buồn rầu”. Phản ứng thứ hai là câu hỏi của một ông tên là Cơlêôpát (Kleopas là dạng tắt của Kleopatros). Ông này cho biết là trong những ngày này, người ta chỉ có thể nói về một chuyện duy nhất, nên một người lạ cũng phải biết; thế mà người bạn đồng hành này lại không biết! Tâm trí của Cơlêôpát còn đầy các biến cố vừa xảy ra. Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi thứ hai, rất ngắn: “Poia? (Những chuyện gì vậy?)”. Là nhân vật chính trong các biến cố ấy, Người lại tỏ ra như không biết. Người chứng tỏ sẵn sàng lắng nghe và đã tạo cơ hội cho họ diễn tả các tư tưởng và các mối bận tâm.

 Họ bắt đầu kể. Có thể nói phần tường thuật của họ là một bản tổng hợp hành trình của Đức Giêsu và của TM Lc. Phần tường thuật có chủ đề “Chuyện ông Giêsu Nadarét”, với mở đầu cô đọng nhưng càng lúc càng rõ hơn. Hoạt động công khai của Người (x. Lc 4–21) được tổng hợp trong câu nhận định: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (c. 19; x. Lc 7,16). Dân chúng đã nhận biết Người là  một ngôn sứ vĩ đại. Về cuộc Thương Khó của Người, hai ông nhắc đến các vị có trách nhiệm: “các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta” và diễn tả biến cố này bằng hai từ, “nộp” và “đóng đinh” (x. 24,7). Đến đây, họ ngưng phần kể truyện mà đưa vào một lời bình diễn tả nỗi thất vọng của họ: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en” (c. 21). Họ đã nghĩ đến một cuộc giải phóng dân tộc Do Thái mang tính chính trị. Ở c. 47, Đức Giêsu sẽ cho hiểu đây là cuộc giải phóng muôn dân khỏi tội lỗi.

Và cứ thế, họ đi đến giờ phút hiện tại: các sự việc xảy ra đã sang ngày thứ ba rồi (c. 21). Phải chăng họ đang gợi tới các lời tiên báo về Phục Sinh vào ngày thứ ba (9,22; 18,33; 24,7.46) và muốn ám chỉ rằng các lời ấy đã không thành sự? Phải chăng họ đang quy chiếu về niềm tin dân gian Do Thái cho rằng linh hồn vẫn ở gần thân xác cho đến ngày thứ ba, rồi mới vĩnh viễn tách ra? Dù thế nào, nhận xét ấy vẫn cho thấy nỗi thất vọng của họ.

Họ lại kể lại câu truyện và lần này kể rộng rãi hơn: đoạn 24,22-23 tương ứng với 24,2-11, còn đoạn 24,12 tương ứng với 24,24. Họ kể chi tiết kinh nghiệm của các phụ nữ: các bà này đến mộ từ sáng sớm, không thấy thi hài Đức Giêsu đâu cả, nhưng lại nói là đã thấy các thiên sứ hiện ra bảo rằng Người vẫn sống (x. 24,5t). Quả thật, các phụ nữ trở về, kể truyện, đã làm cho cộng đoàn sửng sốt. Họ kể lại sứ điệp của các phụ nữ (c. 24); rồi cũng cho biết có “mấy người trong nhóm chúng tôi” đã đến và thấy mộ trống, nghĩa là “thấy sự việc y như các bà ấy nói”. Để kết luận, họ nêu một nhận định cho đến nay chưa nói ra: “còn chính Người thì họ không thấy”. Trong khi họ nói ra điều này, họ nhìn Đức Giêsu  mà không nhận ra Người (x. c. 16). Rồi họ sẽ là những người đầu tiên thấy Người (c. 31). Trong cuộc hiện ra với các môn đệ, chính Đức Giêsu cũng nhấn mạnh trên việc thấy: ở 24,39, hai lần động từ idete, “hãy nhìn xem”, được dùng (Có thể dịch lại 24,39 như sau: “Hãy nhìn xem (idete) tay chân Thầy đi, vì chính Thầy đây mà! Hãy rờ Thầy và nhìn xem (idete) đi, vì ma đâu có thịt có xương như anh em thấy (theôreite) Thầy có đây ?”).

Kế đó, tác giả ghi lại giọng văn trực tiếp của Đức Giêsu, trước hết là một tiếng than   và một câu hỏi mang tính hùng biện (cc. 25-26), rồi cách thức Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh cho hai ông (c. 27). Trong khi các ông đã tóm các biến cố, Đức Giêsu lại cho thấy liên hệ của các biến cố ấy với Kinh Thánh, là nơi tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa.

Trong tiếng than, Đức Giêsu đã đánh giá hai ông là “chẳng hiểu gì và lòng trí thật là chậm tin”; đây là một lời trách: trí tuệ và trái tim của các ông không sao tin được tất cả những gì các ngôn sứ đã nói. Trong câu hỏi mang tính hùng biện, Đức Giêsu nhấn mạnh trên sự kiện là, thể theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất thiết Đức Kitô phải (dei) đi qua cuộc Thương Khó để vào vinh quang. Họ nói về Đức Giêsu như là vị ngôn sứ lớn (c. 19), Đức Giêsu lại nói về Đấng Kitô (cả 24,46): quả thật, trong cuộc xử cũng như khi chế giễu Đức Giêsu, người ta tập trung vào “Đấng Kitô” (22,67; 23,2; 23,35.39). Trong câu “chịu khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của Người”, cụm từ thứ hai đã thay thế động từ “trỗi dậy” trong những đoạn tương tự (x. 9,22;24,7.46): như thế, “trỗi dậy”, hay “sống lại”, có nghĩa là “đi vào trong vinh quang”, tức là đi vào sự hiện diện trực tiếp của Thiên Chúa và thông phần vào vinh quang của Người.

Sau đó, Đức Giêsu rảo qua toàn bộ Cựu Ước để giải thích cho hai môn đệ những điều liên quan đến Người: trong tư cách là “nhà chú giải” (diermêneuein, “giải thích, chú giải”), Đức Giêsu cho hai ông thấy Kinh Thánh đã nói về Người ở đâu và nói như thế nào. Câu 24,27 và 24,44 có cùng nội dung là “những gì liên quan đến Đức Giêsu”, nhưng câu đầu thì Đức Giêsu nói mà chưa được nhận ra, còn câu sau thì Người nói sau khi đã được nhận biết.
 
* Nhận ra Đức Giêsu khi Người bẻ bánh (28-32)

Trong phần đầu, hai môn đệ tha thiết thuyết phục Đức Giêsu ở lại với họ (24,28-29). Trong phần giữa, Đức Giêsu bẻ bánh, được nhận biết và biến mất (24,30-31). Cuối cùng là lời bình luận của hai môn đệ (24,32).

Ba người đã đến gần mục tiêu hai môn đệ nhắm tới (x. 24,13). Đức Giêsu làm bộ  (“làm ra vẻ, giả bộ”) muốn đi tiếp, nghĩa là Người tiếp tục tỏ ra như là người bạn đồng hành ngẫu nhiên. Họ tha thiết xin (“ra sức, ép buộc”) Người ở lại với họ và Người đã thuận theo lời họ xin. Họ viện lý do là trời đã xế chiều, nhưng sự khẩn khoản của họ chứng tỏ họ hết sức quý trọng người bạn đồng hành này. Những chi tiết được lặp đi lặp lại trong cc. 29 và 30 cho thấy có nguyện vọng được ở lại với nhau (“Mời ông ở lại với chúng tôi”: 24,29; “Người vào và ở lại với họ”: 24,29; “Khi đồng bàn với họ”: 24,30). Sự hiệp thông giữa ba người trở thành một sự hiệp thông trong bàn ăn (c. 30).

Trong bữa ăn, Đức Giêsu đã xử sự như người chủ tọa; Người đã làm bốn hành động: Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ta không thể không thấy Người xử sự y như trong Bữa Tối cuối cùng (Lc 22,19-20. So sánh 22,19 // 24,30), tuy ở đấy Đức Giêsu có nói một số lời và cho phân phát một chén rượu. Ta cũng thấy Người xử sự như thế khi nhân bánh và cá ra nhiều (9,12-17), chỉ có điều là ở đấy, sau khi cầm lấy, Người lại ngườc mắt lên trời (9,16). Các môn đệ đã nhận ra Người. Khó có thể cho rằng các ông đã nhận ra Người vì nhớ lại Bữa Tiệc cuối cùng, bởi vì các ông không có mặt ở đấy. Hợp lý hơn, có thể nói là vì các ông đã có mặt khi Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều hoặc đã thường thấy Đức Giêsu làm cử chỉ này. Còn một câu hỏi khác: Phải chăng Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai môn đệ Emmau?

Người ta thường trả lời là “không”, với các lý do: cử chỉ Đức Giêsu làm là mở đầu thông thường cho một bữa ăn Do Thái; Lc không ghi lại một lời giải thích nào của Đức Giêsu; thiếu việc trao một chén rượu; hai môn đệ này không có mặt trong Bữa Tiệc cuối cùng, vì chỉ dành cho các tông đồ (22,14). Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ nhận là có tương quan chặt chẽ giữa 24,30 và 22,19. Thế rồi, hai môn đệ ấy đã nói đến “việc bẻ bánh” của Đức Giêsu (24,35). Cụm từ ấy chỉ xuất hiện ở đây và ở Cv 2,42. Vậy không thể chứng minh được là Đức Giêsu đã ban Mình Người cho hai ông, nhưng 22,30.35 là những câu nhắc các độc giả Lc nhớ tới Bữa Tối cuối cùng và những buổi cử hành Thánh Thể của họ. Và hẳn là khi nghe hai ông kể lại kinh nghiệm vừa trải qua, Nhóm Mười Một cũng nhớ lại Bữa Tối cuối cùng, trong đó quả thật Đức Giêsu đã ban Mình Người cho các ông (22,14.19). Như thế, Bữa Tối cuối cùng, với tất cả ý nghĩa của nó, lại trở nên sống động trong tâm khảm của cộng đoàn.

Kết quả mà hành vi của Đức Giêsu tạo ra là tương quan của hai môn đệ với Người được đảo ngược: Trước kia, ở 24,16, mắt của các ông còn bị ngăn cản, nay ở 24,31, mắt các ông đã mở ra để nhận biết Người, nhưng thật ra là Thiên Chúa mở mắt cho các ông (thái bị động thay tên Thiên Chúa). Người ta không thể nhìn thấy và nhận ra được Đức Giêsu Phục Sinh bằng cặp mắt nhân loại; nhận ra Đức Giêsu hiện diện và chân tính của Người là một ơn Thiên Chúa ban. Hai ông đã hưởng nhờ ân huệ lớn lao từ cách xử sự của Đức Giêsu. Các ông đã kết thúc truyện kể ngược lại quá khứ với một nhận định buồn rầu: “còn chính Người thì họ không thấy” (24,24). Bây giờ họ là những người đầu tiên của cộng đoàn (nhưng x. 24,34) được ban cho ơn thấy Đức Giêsu Phục Sinh và đang sống. Và khi đã nhận biết Đức Giêsu đang sống, họ mới có thể nhận ra là Đức Giêsu đã làm gì cho họ, khi đi bên họ, giải thích Kinh Thánh và trao bánh cho họ. Nhưng cũng ngay khi đó, Đức Giêsu biến mất. Họ phải học biết rằng nay đã chấm dứt hình thái hiện diện của Người theo kiểu loài người và trần thế, mà họ đã quen.

Trong lời bình luận (24,32), hai ông đã nêu bật kinh nghiệm vừa trải qua với Đức Giêsu, khi Người giải thích Sách Thánh cho họ (24,25-27). Họ ghi nhận một sự thay đổi trong tim, vì bây giờ con tim họ bắt đầu nóng cháy lên.   
 
* Trở lại Giêrusalem (33-35)

Trong phần kết luận này, tác giả kể lại chuyến quay trở lại Giêrusalem của hai môn đệ (24,33), tại đó họ được loan tin là Chúa đã sống lại và đã hiện ra với Simôn (24,34). Rồi các ông cũng nói đến kinh nghiệm trải qua với Đức Giêsu Phục Sinh (24,35).

Vì giờ đã muộn, hai môn đệ đã xin người bạn đồng hành ở lại. Nay chính họ lại lên đường quay trở lại Giêrusalem. Chuyến đi được kể chi tiết (24,13-27), còn chuyến về chỉ  được nêu lên bằng sự kiện. Hai môn đệ hết sức ao ước được thông tin cho cộng đoàn, cho Nhóm Mười Một và những người khác đang cùng ở với các ông (x. 24,9), nhưng trước khi có thể nói ra, các ông đã nhận được một lời loan báo với hai thông tin: (1) “Chúa trỗi dậy thật rồi” (x. 24,6) (2) “và đã hiện ra với ông Simôn” (x. 1 Cr 15,5). Hành vi cuối cùng của Chúa (kyrios) mà Lc ghi lại là ở 22,51: “Chúa quay lại nhìn ông Phêrô; ông Phêrô sực nhớ lời Chúa đã nói với mình”. Sự thông cảm đầy yêu thương của Chúa đối với người tông đồ đầu tiên đã chịu thua sự yếu đuối, đã bắt đầu lại ngay sau khi ông chối Người (22,54-62) và được hoàn tất với cuộc hiện ra của Đức Chúa Phục Sinh (x. cả 5,8-l1; 22,31-32). Phêrô là chứng nhân đầu tiên thông tin cho cộng đoàn biết Đức Chúa đã sống lại và đang sống. Hai môn đệ Emmau có thể xác nhận. Hai ông có thể làm chứng về kinh nghiệm hai điểm của mình: (a) về những gì đã xảy ra cho họ trên đường (24,15-27); (b) về những gì họ đã trải nghiệm tại bàn ăn (24,28-32).

Sau khi hai môn đệ đã tường thuật, cộng đoàn có ba chứng từ về cuộc sống lại và về cuộc sống của Đức Giêsu.
 
+ Kết luận

Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu không sao đưa các môn đệ đến chỗ hiểu Kinh Thánh được (18,31-34). Chỉ trong tư cách là Đấng Phục Sinh, Người mới mở được ý nghĩa của Kinh Thánh ra cho họ (x. 24,32.45). Như thế, người ta chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khởi đi từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu. Chìa khóa giúp giải thích những gì Kinh Thánh nói về hành trình của Đức Giêsu chính là cuộc Phục Sinh của Người; Đấng giải thích là Đức Giêsu Phục Sinh.

Trong khi Đức Giêsu Phục Sinh giải thích Kinh Thánh, lòng các môn đệ đã nóng cháy (24,32), nhưng chỉ sau khi Người bẻ bánh, mắt họ mới mở ra (24,31). Hai hành vi này không đưa vào những yếu tố mới, nhưng nhắc lại những gì đã được ban cho các môn đệ, và bây giờ lại được ký thác cho họ theo cách mới. Từ nay, Đức Giêsu không ở trong những hoàn cảnh sống trần thế nữa. Do đó, họ phải đọc Kinh Thánh từ quan điểm của Đức Giêsu Phục Sinh. Khi đón nhận Mình và Máu Người, họ phải nhận ra tình yêu vô biên của Đức Giêsu  đối với các môn đệ Người.
 
5.- Gợi ý suy niệm

1. Qua những chia sẻ cho Đức Giêsu, hai môn đệ nói về “chúng tôi” bằng nhiều cách (“mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi”, “mấy người trong nhóm chúng tôi”): họ chứng tỏ là họ rất gắn bó với cộng đoàn. Cộng đoàn xuất hiện ra trong bài Tin Mừng này như là một điểm quy chiếu vững chắc và như là nơi quy tụ tất cả các chứng từ và kinh nghiệm. Các thành viên của cộng đoàn chưa được tiếp xúc trực tiếp với Đức Chúa Phục Sinh, nhưng cộng đoàn là nơi chuẩn bị cho họ nhận biết chính Đấng Phục Sinh khi Người hiện ra giữa họ (24,36-53).  

2. Lộ trình của hai môn đệ là “đi từ Giêrusalem về Giêrusalem”, hay “Giêrusalem-Emmau: chuyến đi khứ hồi”. Khi họ đi về Giêrusalem, họ đã rời bỏ cộng đoàn, Đức Giêsu đi bên họ mà họ không nhận ra Người. Khi họ quay trở lại Giêrusalem, họ muốn được liên kết trở lại với cộng đoàn, Đức Giêsu không còn đi với họ nữa, nhưng trái tim của họ chan hòa kinh nghiệm đã trải qua. Đã có một tiến trình đào sâu trong đó Đức Giêsu nổi bật hoặc như là đối tượng hoặc như là chủ thể. Kết quả là từng cá nhân và cộng đoàn đạt được một sự hiểu biết ngày càng sâu hơn về hành trình của Đức Giêsu và một sự nhận biết ngày càng chắc chắn hơn về sự Phục Sinh của Người.

3. Đọc truyện này, tôi cũng nhận ra được bố cục của một cuộc cử hành Thánh Thể: phần thứ nhất là Phụng vụ Lời Chúa: lắng nghe Lời Chúa và tìm hiểu ý nghĩa (Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh), phần thứ hai là Phụng vụ Thánh Thể (Đức Giêsu bẻ bánh). Chính Thánh lễ cũng sẽ đưa người tín hữu đến chỗ gắn bó với cộng đoàn hơn, làm chứng cho nhau để củng cố niềm tin, rồi lên đường tiếp tục chứng từ ấy giữa muôn dân.

4. Đức Giêsu đã làm một số hành vi: đến gần, cùng đi, hỏi, giải thích Kinh Thánh, bẻ bánh, mở mắt cho hai môn đệ, biến mất. Ba hành vi đầu có thể tóm lại bằng công thức “đi tìm con chiên lạc”. Hai môn đệ giống như con chiên trong bài dụ ngôn, đã bỏ đàn, và Đức Giêsu như người mục tử đi tìm con chiên lạc để đưa nó về đàn (x. 15,4-7). Trước khi tỏ mình ra cho toàn thể cộng đoàn (24,36-53), Đức Giêsu đã tìm lại được hai kẻ đã bỏ đi. Như thế, Đức Giêsu Phục Sinh cũng vẫn quan tâm đến những gì đã mất (đối với Phêrô cũng vậy: 22,61; 24,34).

5. Kinh Thánh như là Lời Thiên Chúa nói với dân Ngài là thẩm quyền cao nhất cho họ và là điểm quy chiếu mà mọi người đều biết. Khi cho thấy Sách Thánh nói về Người và về những biến cố chính của hành trình đời Người, Đức Giêsu giúp ta thấy rằng các biến cố ấy không phải là những biến cố xa lạ và phi lý, nhưng thuộc về tương quan và lịch sử của Thiên Chúa với dân Ngài. Khi đó ta mới vượt qua được chướng kỳ là Đức Kitô bị nộp và bị đóng đinh (23,35-39; 24,20-21).

5. Lời của hai môn đệ đúng là kêrygma: cho dù ở dạng không mấy minh nhiên (như ontôs êgerthê ho kyrios, “Chúa sống lại thật rồi”, Lc 24,34), kêrygma này có các yếu tố căn bản: ba ngày, các phụ nữ tại mộ, các thiên sứ, tin nói rằng Đức Giêsu vẫn sống. Nhưng ở đây kêrygma được kể ra như là một điều không hiểu được, một điều hẳn là không thể nào đã xảy ra và lại là một bi kịch cho tất cả những ai đã đặt tin tưởng vào Người. Các lời thì có đó, nhưng con tim thì không; phải nói là con tim chỉ đầy phiền muộn, thất vọng, khiến cho người nói cảm thấy cay đắng, và do đó không thuyết phục được người nghe. Cần phải nghe câu trả lời của Đức Giêsu, một câu trả lời diễn tả kêrygma đích thật. Đức Giêsu hành động như người loan báo Tin Mừng và như vị tôn sư; Người sử dụng khả năng nhà chú giải và huấn giáo viên để cung cấp lời giải thích các môn đệ đang chờ.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

-------------------------
 

PS3-B119: Chúa giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh


SUY NIỆM CHÚA NHẬT III PHỤC SINH – B

( Lc 24, 35 – 48 )
 

Sự kiến Chúa Giêsu phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Maria Mađalêna, bà Maria: PS3 B-119


Sự kiến Chúa Giêsu phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê  (x. Lc 24, 1 - 12), các bà về thuật lại cho các Tông Đồ ở Galilêa, hai môn đệ làng Emmaus trong nhóm các bà chẳng những chưa tin mà còn lo sợ (x. Lc 24). Chúa Giêsu Phục Sinh tiếp tục hiện ra dưới dáng dấp của một người lữ hành, tỏ ra không biết, rồi đồng cảm với hai ông, đã dùng Kinh Thánh để giải thích, bẻ bánh trước mặt hai ông, giúp lòng họ sốt sáng lên và làm cho mắt họ sáng ra để nhận ra Người (x. Lc 24, 13 - 35).

Trở lại Giêrusalem, hai ông thuật lại cho các Tông Đồ trong khung cảnh cửa đóng then cài. Đang lúc đứng bàn chuyện, Chúa Giêsu hiện đến với họ khiến họ kinh hoàng khiếp sợ "bối rối tưởng mình thấy ma" (Lc 24, 37).

"Bình an cho các con ! Thầy đây, đừng sợ" (Lc 24, 36). Đó là lời cầu chúc đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh, kèm theo là những chứng tích ở tay chân với những vết thương, họ "vẫn còn chưa tin" (Lc 24, 41). Chúa phải nghĩ đến cách ăn cá nướng và mật ong, trích dẫn luật Môisen, lời các tiên tri và Thánh Vịnh là những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh và cuộc sống mới của Chúa. Chính Chúa thực hiện những lời Sách Thánh đã chép, và tiếp theo bằng miệng : "Chính Thầy đây" (Lc 24, 39), đúng Thầy là sự thật và là sự sống. Đó là lý do tại sao các tông đồ, những người ban đầu nghi ngờ, thậm chí khi nhìn thấy cơ thể sống của Chúa cũng chưa tin đã trở nên những chứng nhân rao giảng về sự sống lại của Chúa cách hùng hồn (x. Cv 4).

Lời Chúa sưởi ấm con tim

Giả bộ khách đồng hành, tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của hai môn đệ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện, nghe họ bộc bạch về đau khổ và thất vọng cũng như đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngóm. Thấy họ buồn sầu như thế, Chúa nói chuyện với hai ông và  "giải thích" Kinh Thánh, "bắt đầu từ Môsê và các tiên tri", giúp họ hiểu rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ðấng Cứu Thế đã được thấy trước trong chương trình của Thiên chúa và được loan báo trước trong Thánh Kinh (x. Lc 24, 27). Như thế, Chúa đốt cháy lên trong con tim họ một ngọn lửa hy vọng. Khi đó hai mộn đệ cảm thấy một sức thu hút ngoại thường nơi con người bí mật ấy và mời Người ở lại với họ chiều hôm đó : "Mời ông ở lại với chúng tôi", lý do "vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn " ( Lc 24, 29 ).

Thánh Thể mở mắt đức tin

"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn" (Lc 24, 29 ). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Chúa Giêsu chấp nhận và cùng họ vào nhà và khi ngồi vào bàn Người làm phép và bẻ bánh, thì họ nhận ra Người, nhưng Người đã biến khỏi cái nhìn của họ, để họ lại đầy kinh ngạc. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi " bẻ bánh " đơn giản ( Lc 24, 35 ). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ " chỗi dậy trở về Giêrusalem " ( Lc  24, 33 ) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho " mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp " (Lc 24, 33).

Lời Chúa và Thánh Thể trong đời sống người tín hữu

Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Ðấng Phục Sinh.

Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về "làng Emmaus", quay lưng lại với chương trình của Thiên Chúa, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus, sau khi đã "nhận ra" Chúa trong việc bẻ bánh, thì mau mắn trở lại Giêrusalem lòng tràn đầy niềm vui, kể cho anh em mình tất cả những gì đã xảy ra. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.

Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta : " Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến" ( 1 Cr 11, 26 ). Như thế, chúng  ta phải nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Hãy để cho Lời Chúa sưởi ấm con tim và Thánh Thể Người mở đôi mắt đức tin của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng niềm hy vọng và tình bác ái, để chúng ta có thể đồng hành với các anh chị em buồn sầu và tuyệt vọng, sưởi ấm con tim họ với Tin Mừng, và bẻ bánh tình huynh đệ với họ.

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để  bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

PS3-B120: BÌNH AN CỦA CHÚA PHỤC SINH ĐẾN VỚI HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAU.


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH, năm B

Cv 3, 13-15.17-19    1 Ga 2, 1-5a   Lc 24, 35-48
 

 Các tường thuật Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của thánh Gioan đều nói về việc Chúa Giêsu phục: PS3 B-120


Các tường thuật Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của thánh Gioan đều nói về việc Chúa Giêsu phục sinh. Tất cả các trình thuật Tin Mừng đều làm nổi bật việc Chúa Giêsu sống lại theo như Kinh Thánh đã loan báo trước. Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay là một tường thuật cảm động nhất trong các tường thuật nói về các lần Chúa hiện ra sau khi Chúa sống lại. Chúa ban bình an cho các môn đệ là bảo chứng cho sự vững tin và mạnh mẽ của các ngài để các ngài làm chứng cho Chúa sống lại và tiếp tục công trình cứu độ của Chúa giữa thế gian.

 Thánh Luca là một lương y và là một nhà văn, do đó, Tin Mừng của thánh Luca có thể nói được là Tin Mừng đầy vẻ thi vị, văn chương được trau chuốt một cách kỹ càng. Tuy nhiên, không phải Luca chỉ chú trọng tới văn chương,trước hết ngài đã có niềm tin sâu xa nơi Đức Kitô, qua đó, ngài muốn truyền đạt đức tin cho Thêophilê ( Lc 1, 1 ), rồi qua Thêophilê, ngài truyền đạt đức tin cho tất cả chúng ta. Đức tin ấy là niềm tin vào Đức Kitô phục sinh mà ngài đã nhận lãng được nơi thánh Phaolô và nơi cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Như tất cả chúng ta, Luca không được thấy Chúa phục sinh giống các tông đồ, hoặc những người phụ nữ như Maria Magđala, Maria mẹ của Giacôbê hay bà Salomê, và những người phụ nữ đạo đức khác. Luca đã tin nhờ lời chứng của Phaolô và những người đã được sống với Chúa, đặc biệt qua cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ( Cv 2, 42-46; 4, 32-34 ). Chúng ta có thể nhận ra bố cục, kết cấu và nhận ra cách trình bày dựa vào Phụng Vụ để Luca viết nên bài tường thuật hai môn đệ trên đường Emmau. Thực tế, đoạn Tin Mừng của thánh Luca này cho chúng ta thấy rất rõ bố cục là bữa tiệc Lời Chúa và Bẻ Bánh. Quả thực trên đường về làng Emmau, Chúa phục sinh đã hiện ra với hai môn đệ, đồng hành với họ, giải thích Thánh Kinh cho họ, dùng lời Môsê, và các ngôn sứ để cho họ hiểu rằng :”

Chúa phải chịu đau khổ, chịu chết, rồi Người mới được vinh quang “, sau đó, Chúa cùng hai môn đệ vào quán trọ, và khi Chúa bẻ bánh cho hai ông, hai ông đã nhận ra Chúa phục sinh. Đúng đoạn Tin Mừng này có hai phần : Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể. Hai môn đệ Emmau đã trở về tường thuật cho 11 môn đệ việc các ông đã nhận ra Chúa như thế nào ! Bỗng Chúa lại hiện ra và ban bình an cho các môn đệ trong khi các ông đang hoang mang, sợ sệt hầu như thất vọng. Sự bình an này rất cần thiết để củng cố niềm tin cho các môn đệ. Sự bình an giúp các môn đệ vững tin vào Chúa và phó thác hoàn toàn nơi Chúa. Chính Chúa phục sinh biến đổi các môn đệ để các ngài hiên ngang, vững tin vào Chúa và sẵn sàng làm chứng cho Chúa sống lại bằng chính cái chết của mình. Chúa đã giải thích cho các môn đệ hiểu bí quyết của mầu nhiệm Vượt Qua là Đấng Mêsia phải chịu cực hình, rồi mới tiến vinh quang phục sinh. Thánh Luca có ý nhấn mạnh cho chúng ta thấy :” chịu khổ hình…” là điều kiện bắt buộc phải có, rồi mới tiến tới vinh quang phục sinh được. Vâng, không có một con đường nào khác ngoài con đường khổ giá, con đường thập giá mới đưa con người tới vinh quang. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cho chúng ta thấy rõ hai điểm : Chúa phục sinh chúc bình an cho các môn đệ, cho các ông thấy vết đinh ở tay chân của Người và cạnh sườn Người và khẳng định : Thập giá là nơi mặc khải vinh quang của Đức Kitô.
 
Linh mục Gilles Aizo đã viết :” Có một ánh sáng huyền diệu cho những người lữ hành của niềm tin này là chính chúng ta.Trên những con đường Emmau, nơi những chất vấn về cuộc sống, làm cho màn đêm nghi ngờ ập đến, Chúa Giêsu thường nhập bọn với chúng ta cách nhiệm mầu và bất ngờ.Sự  hiện diện kín đáo và nâng đỡ của Người mở ra cho chúng ta ý nghĩa náu ẩn của các biến cố, và cho mắt chúng ta mở ra trên cái vô hình.Nhưng Chúa Giêsu chỉ có thể được nhận ra trong một lần chăm chú đọc lại Lời Chúa và trong dấu chỉ : Dấu chỉ của người anh em được tiếp đón và dấu chỉ của tấm bánh được bẻ ra “.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu không phải đau khổ nào cũng đưa tới vinh quang, mà chỉ có đau khổ vì tình yêu, hy sinh, chết vì tình yêu :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ) mới đưa chúng ta tới vinh quang.Xin Chúa phục sinh ban bình an cho chúng con như Chúa đã ban cho các tông đồ khi các ngài đang hoang mang, hầu như xáo trộn và thất vọng. Xin cho chúng con hiểu được giá trị của Lời Chúa để chúng con luôn học hỏi và sống Lời Chúa trong suốt đời sống chúng con.Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
 
1.Tại sao hai môn đệ lại trở về Emmau ?
2.Chúa sống lại đã làm gì với họ ?
3.Hai môn đệ đã nhận ra Chúa phục sinh lúc nào ?
4.Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay có mấy phần, dựa vào đâu để ngài bố cục đoạn Tin Mừng này ?
5.Tin có giống kết luận của khoa học không ?

-------------------------
 

PS3-B121:  Chứng nhân hiện đại – AM. Trần Bình An

 

Linh mục Gioan Lee Tae-seok sinh năm 1962, là con thứ 9 trong 10 người con. Cha mẹ ngài là người PS3 B-121


Linh mục Gioan Lee Tae-seok sinh năm 1962, là con thứ 9 trong 10 người con. Cha mẹ ngài là người Công giáo khiêm nhường, sống ở TP Busan, Nam Hàn. Gioan mồ côi cha lúc 9 tuổi, mẹ ngài phải nuôi cả gia đình bằng nghề thợ may. Gioan học rất giỏi, rất ấn tượng với tiểu sử của Albert Schweitzer và ước muốn làm bác sĩ.

Nhưng khi ngài thấy người anh đi tu dòng Phanxicô, ngài cảm thấy có ơn thiên triệu. Tuy nhiên, mẹ ngài muốn ngài học nghề thuốc trước. Một phần vâng lời mẹ, ngài đã làm bác sĩ. Ngài là bác sĩ phẫu thuật trong quân đội Hàn quốc. Nhưng ngài vẫn cảm thấy ơn gọi làm linh mục. Thấy con trai muốn vậy, người mẹ chiều theo ý con. Ngài tu Dòng Salêdiêng, sang Sudan phục vụ.

Tại Tonj, ngài xây dựng một bệnh viện điều dưỡng. Mỗi ngày ngài điều trị khoảng 300 bệnh nhân. Ngài có chiếc xe Jeep để có thể tự lái đi đến các bệnh nhân chưa bao giờ đến gặp ngài. Ngài đích thân tìm kiếm các bệnh nhân. LM Gioan lớn lên trong cảnh nghèo khổ và không bao giờ xa cách người nghèo ở Tonj.

ĐGM Choi Duk-ki quyết định đến Tonj để tận mắt chứng kiến LM Gioan bằng xương bằng thịt. Thấy tỏ tường, ĐGM nói LM Gioan “như một vị thánh”. ĐGM nói rằng kinh nghiệm giống như “đồng hành với LM Damian ở Molokai, đồng hành với Chúa Giêsu”. LM Gioan làm cho tình yêu Chúa Kitô là ánh sáng dẫn đường trong mọi nỗ lực của ngài dành cho người phong cùi và cho thấy rõ ràng là “chúng ta phải đối xử với nhau như Chúa Giêsu”.

Tính cách và nụ cười của ngài đã thu hút giới trẻ. Giáo dân đến xưng tội thường gọi ngài bằng biệt danh “Cha Jolly” (Cha Vui vẻ). Ngài xây trường học với sự trợ giúp của các học sinh mà ngài dạy toán và nhạc. Ngài còn lập ban kèn đồng Don Bosco và thấy giới trẻ phấn khởi vì họ sống trong cảnh khốc liệt.

Nhưng có lần ngài đi nghỉ ở Seoul. Ngài có thói quen kiểm tra sức khỏe tổng quát, ngài được chẩn đoán bị ung thư đại tràng và ung thư gan. Đầu tiên ngài được hóa trị, nhưng trong vài tháng cuối đời, bệnh ngài sa sút mau chóng và qua đời ngày 14/1/2010, khi mới 47 tuổi.

Tài liệu của đài truyền hình Hàn quốc về cuộc đời LM Gioan ở Tonj đã được chuyển thành phim “Đừng Thương Tiếc Ngài Sudan” (Don’t Cry For Me Sudan). Chỉ xem phim 10 phút là ai cũng sụt sùi cảm động. (Theo Trầm Thiên Thu, Thánh Nhân của Thế kỷ 21, Catholic Herald.co.uk)

Trong Tin Mừng Chúa Nhật 3 Phục Sinh hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, các Kitô hữu trở nên chứng nhân của Người. LM Gioan Lee Tae-seok đã thực sự vâng theo, trở nên nhân chứng hiện đại và đích thực, đem tình yêu đến sưởi ấm những thân phận đau khổ bất hạnh. Làm chứng là đứng ra chứng thực, xác nhận, việc đã xảy ra theo sự thấy biết. (Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Việt Nam Tự Điển)

Thấy biết có thể không thấy trực tiếp qua ngũ quan, nhưng có thể gián tiếp qua tâm hồn bén nhạy, qua con tim tràn đầy tình yêu. Thánh Gioan Tông Đồ nhận biết Chúa Giêsu sống lại qua tình yêu Chúa nồng nàn, khi chỉ nhìn thấy các băng vải cuộn lại và khăn che đầu không để lẫn, mà xếp riêng ra. Ông đã thấy và đã tin.

Chứng nhân tình yêu

Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm tình yêu vĩ đại, vô song mà Đức Chúa Giêsu, Ngôi Hai Nhập Thể, dành cho nhân loại. Vì quá yêu thương loài người, Thiên Chúa Cha đã hiến tế Con Một, chịu tội thay cho mọi người, để được cứu khỏi cái chết muôn đời.

Cũng vì yêu thương, Đức Giêsu đã tình nguyện hy sinh Máu và Thịt trở nên Thánh Thể, Lương Thực hằng ngày, dưỡng nuôi con người trường sinh. Hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Giêsu, khi Ngài bẻ bánh, đều là những chứng nhân tình yêu cho các môn đệ khác, cũng như cho toàn thể Kitô hữu. “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc trụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra người, nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 30-31)

Tình yêu Thiên Chúa không chỉ nhắm vào số đông, không chỉ dành cho 99 con chiên ngoan, mà còn dành ưu ái đặc biệt cho một con đi hoang, ngộ nạn, lạc bầy. “Tìm được rồi, ngưới ấy mừng rỡ vác lên vai...Vậy tôi cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối, ăn năn.” (Lc 15, 4-7)

Cũng như Người luôn quan tâm, thương xót đến những thân phận khó khăn, đơn côi, bệnh hoạn, bị xã hội gạt ra bên lề, như người phung, người quỷ ám,.. Chứng nhân tình yêu là sống đức bác ái, là thực hành đức Mến thật sự trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh và mọi lúc.

Chứng nhân phục vụ

Hơn nữa, chính Đức Giêsu còn hóa thân, mặc lấy những thân phận bần hàn. Nên phục vụ những kẻ hẩm hiu, xấu số chính là tận tụy phục vụ Chúa qua tha nhân, vì Người công khai xác nhận: “xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” (Mt 25, 35-36)

Trong bữa Tiệc Ly, bất ngờ Đức Giêsu đã đứng dậy, rời bàn ăn, cới áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, một hành động khiêm nhường, hầu hạ của kẻ tôi tớ phục vụ, như Người đã phán: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người." (Mc 10, 45) Người còn khẳng định: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22, 27)

Muốn thật sự phục vụ tha nhân thì tiên quyết bỏ mình, thoát khỏi cái tôi hẹp hòi, vị kỷ, mới có thể khiêm tốn, hạ mình, hoàn toàn xả kỷ, vị tha, nhìn đến người khác với những nhu cầu cấp bách, khó khăn, hoạn nạn, bệnh tật, cô đơn, thấp cổ bé họng. Phục vụ tha nhân vì tin chắc chắn rằng, họ chính là Đức Kitô đã bị bỏ rơi trong vườn Giêtsimani đêm khuya và trên núi Canve chiều hoang. Đức tin biến thành hành động cụ thể và hữu hiệu, đức tin mới khỏi xơ cứng chết đi, như Thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên bảo.

Chứng nhân hy vọng

Lời nói gần cuối ở Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu căn dặn: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24, 46-48)

Người mong muốn các Tông Đồ trở nên chứng nhân hy vọng. Đồng cảm, Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônica thư thứ nhất giải thích khá cặn kẽ: “Chúng ta thuộc về ban ngày (sự sáng), nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ.”

Hy vọng là hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Phó thác tất cả niềm vui lẫn nỗi khổ đau cho Chúa, để được chia sẻ và an ủi, thêm nghị lực đi về Nước Chúa. Đức Cậy không thế thiếu với bất cứ ai nhận mình là Kitô hữu.

“Con hãy làm cho người Công giáo tin tưởng ở ơn thiên triệu Kitô hữu, ơn thiên triệu gia đình, ơn thiên triệu vợ chồng, ơn thiên triệu nghề nghiệp. Họ sẽ hết chán nản, họ sẽ tràn đầy hy vọng, vì họ ý thức rằng, Đấng đã gọi sẽ đưa họ đi đến cùng đích.” (Đường Hy Vọng, số 969)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, kính xin phục hồi ba nhân đức Tin, Cậy, Mến trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn biết sám hối, ăn năn trở về, luôn canh tân đổi mới, yệu thương, phục vụ và hy vọng, để thực sự trở nên chứng nhân hiện đại.

Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ đồng hành với chúng con trên con đường chứng nhân, như xưa Mẹ đã luôn đồng hành cùng Con Mẹ suốt ba năm rao giảng, tới tận chân thập giá trên đồi Canve. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn trung thành sứ vụ chứng nhân của Con Mẹ đến suốt đời. Amen.

-------------------------
 

PS3-B122:  Tin vào Kinh Thánh là tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh


CHÚA NHẬT III PHỤC SINH

 Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Lu-ca 24:35-48)
 

Khi viết về sự kiện Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, các thánh sử không nhắm đến việc chứng minh: PS3 B-122


Khi viết về sự kiện Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, các thánh sử không nhắm đến việc chứng minh Chúa sống lại, nhưng là trình bày đức tin của các môn đệ vào Chúa Phục Sinh.  Đức tin ấy có thể khởi đầu từ những điều mắt thấy tai nghe, thí dụ người môn đệ Chúa Giê-su thương mến đã bước vào trong mộ Chúa, rồi “ông đã thấy và đã tin”.  Nhưng quan trọng hơn, đức tin phải dựa vào những gì Thiên Chúa mặc khải trong Kinh Thánh.  Do đó, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy các sách Tin Mừng nhấn mạnh đến việc ứng nghiệm của lời Kinh Thánh trong cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Giê-su.  

Khi thuật lại biến cố Phục Sinh, các thánh sử đều nói đến ngôi mộ trống của Chúa, một chứng từ rõ ràng để các môn đệ tin là Chúa đã sống lại.  Còn thánh sử Lu-ca, khi thuật lại việc Chúa Giê-su hiện ra với hai môn đệ đi Em-mau và hiện ra với các môn đệ khác, ngài nhấn mạnh đến vai trò của Kinh Thánh khẳng định Chúa Giê-su phải sống lại từ kẻ chết.  Nói với hai môn đệ đi Em-mau, Chúa Giê-su “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lu-ca 24:27).  Sau khi đã tỏ mình cho hai môn đệ đi Em-mau, Chúa Giê-su còn hiện ra với các môn đệ.  Người bảo họ rằng khi còn ở với họ, Người đã cho họ biết tất cả những điều sách Luật, các sách Ngôn sứ và Thánh Vịnh nói về Người đều phải được ứng nghiệm.  Vậy những điều trong Kinh Thánh đã được ứng nghiệm, đó là:  “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”.

Được Chúa Giê-su mở trí để hiểu Kinh Thánh, các tông đồ đã căn cứ vào sự ứng nghiệm “tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy (Giê-su)”, để tin vào Chúa và vâng lệnh Người làm chứng rằng Người đã sống lại từ cõi chết.  Một trong các chứng nhân tông đồ là ông Phê-rô.  Trong bài giảng cho dân chúng Giê-ru-sa-lem (bài đọc 1),  ông Phê-rô đã nói với họ về sứ mệnh, cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su. Ông cho họ biết Chúa Giê-su chính là Người Tôi Trung đã được sách I-sai-a nói đến.  Ông cũng nhắc tới việc người Do-thái đã nộp Chúa Giê-su cho dân ngoại, xin Phi-la-tô cho đem Người đi đóng đinh thập giá, là những điều đã được Kinh Thánh tiên báo, và sau cùng ông xin làm chứng Người đã sống lại từ cõi chết.  Ông đã thuyết phục được đồng bào Do-thái là những người cùng tin vào Kinh Thánh giống như ông, để họ nhận biết con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su.  Người quả thực là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa.  Như vậy, Chúa Giê-su đã cho các tông đồ và môn đệ biết Người đã làm trọn những điều Kinh Thánh nói về Người.  Đến lượt các tông đồ và môn đệ là chứng nhân, các ngài cũng nói cho dân chúng biết rằng những gì họ đọc trong Kinh Thánh và tin, đều nói về con người và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su.

Cùng với thánh Phê-rô, tông đồ Gio-an thì nói thẳng đến sứ mệnh của Chúa Giê-su làm Đấng Bảo Trợ cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha (bài đọc 2).  Ngài khuyên chúng ta đừng phạm tội.  Nhưng nếu vì tính yếu đuối nên sa ngã thì chúng ta hãy tin tưởng vào sự bảo trợ ấy, vì Chúa Giê-su “là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (2 Gio-an 2:2).

Sống sứ điệp Tin Mừng

Thánh Giêrônimô dạy rằng:  Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô.  Ngày nay, muốn biết về một nhân vật lịch sử hay danh lam thắng cảnh nào, chúng ta có thể mở trên mạng Google hay đọc sách hướng dẫn du lịch.  Vậy mà muốn biết Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta lại không chịu đọc, học hỏi và suy niệm Kinh Thánh!  Không có hướng dẫn nào tốt hơn để chúng ta biết Chúa cho bằng đọc và suy niệm Kinh Thánh.  Nhờ Kinh Thánh, không những chúng ta biết Chúa Giê-su bằng đầu óc, mà còn biết Người bằng trái tim nữa.  Không những chúng ta đọc những điều viết về Chúa Giê-su, mà còn đọc chính lời giảng dạy của Người nữa.  Kinh Thánh giúp cho đức tin chúng ta phát triển, hay nói khác đi, Kinh Thánh làm cho mối tương quan chúng ta với Chúa được sâu xa thêm mãi!

             Lm. Đa-minh Trần đình Nhi     

-------------------------
 

PS3-B123:  Làm chứng về Thầy – ViKiNi


(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
 

Muốn làm chứng đầy đủ về ai, người ta thường kể tiểu sử nhân vật đó từ khi sinh đến khi chết. Về các PS3 B-123


Muốn làm chứng đầy đủ về ai, người ta thường kể tiểu sử nhân vật đó từ khi sinh đến khi chết. Về các anh hùng, danh nhân, sử sách thường ghi những chiến công, những thành tích siêu quần bạt chúng: Hưng Đạo với chiến thắng oai hùng Bạch Đằng, Quang Trung với chiến thắng thần tốc Đống Đa.

Đức Giêsu làm chứng mình đã sống lại thật, bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các tông đồ tin, Người đã làm hết mọi cách, từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.

Về tâm lý: Người chúc lành cho các ông: “Chúc anh em được bình an”. Bình an là trạng thái hòa hợp lành mạnh trong tâm trí, trong cơ thể và trong tương giao với người khác. Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Cần thiết Chúa phải ổn định tinh thần các ông, làm cho tâm trí các ông bình tĩnh, lành mạnh, yên hàn, các ông mới sáng suốt nhận định rõ ràng. Khi các ông được bình an, Chúa mới chỉ cho các ông thấy về thể lý bên ngoài.

Về thể lý: Người bảo các ông phải phân biệt rõ ràng Thầy khác với bóng ma hiện về: Người chết hiện về, chỉ là bóng ma không rờ xem xương thịt được. Còn Thầy: Thầy đưa chân tay, xương thịt cho các ông rờ xem. Các ông đã nhìn tận mắt, xỏ tận lỗ đinh chân tay Thầy. Ma không ăn uống như người sống, còn Thầy, Thầy cầm lấy khúc cá nướng do chính các ông đưa và Thầy ăn trước mặt các ông.

Về lịch sử: Khi các ông đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi Thầy mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môisê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.

Đó là những sách người Do thái đọc mỗi ngày Sabbat trong các hội đường. Họ thấy rõ toàn bộ Kinh thánh diễn tả toàn bộ lịch sử dân tộc hướng về Đấng Cứu Thế. Mỗi một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc đều là một điển hình chỉ về Đấng Cứu Thế, như: Noe, Abraham, Giacóp, Giuse, Môisê, Giosuê, David, Salômon … Nhưng không một vĩ nhân nào hội đủ mọi tư cách của Đấng Cứu Thế. Đời sống mỗi vị đó chỉ diễn tả được vài tư cách đặc sắc của Đấng Cứu Thế. Chỉ có Đức Giêsu, Đấng độc nhất, hội đủ mọi nhân cách và hoàn thành mọi ưu điểm của Đấng Cứu Thế, vì chính Người là Đấng Cứu Thế. Mỗi một tiên tri cũng chỉ loan báo một vài mầu nhiệm về Đấng Cứu Thế, dù vĩ đại như Êlia, Êlisê, Isaia, Giêrêmia hay Êzêkiel cũng không thực hiện được đầy đủ lời Thiên Chúa mặc khải cho họ. Các vị ấy đều thấy mình bất xứng như tiên tri Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi là người môi miệng nhơ bẩn, ô uế” (Is. 6, 5).

Chỉ mình Đức Giêsu là Đấng thực hiện mọi mầu nhiệm làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (Mc. 1, 11).

Đức Giêsu nói cho các tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Người. Nếu Kinh thánh không ứng nghiệm về Người, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Kinh thánh loan báo về Đấng Cứu Độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv. 4, 12). Để thấy rõ như thế Người đã “dẫn giải cho các ông những điều viết về Ngài trong toàn bộ Kinh thánh” (Lc. 24, 27 theo Nguyễn thế Thuấn dịch). Để có thời gian giải thích, chắc Người phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là bốn mươi ngày được ghi rõ trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” (Cv. 1, 3).

Thời gian bốn mươi ngày đã quá đủ để các tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.

Đến lượt các tông đồ được Người trao cho sứ mạng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em làm chứng về những điều này”.

Trong bài đọc một, Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv. 2, 41).

Bài đọc hai, Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.

Đức Kitô đã làm chứng về Người đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Người.

Chúng ta không làm chứng về Đức Kitô, chúng ta là người không có lòng mến Thiên Chúa và biết được mình không ở trong Đức Kitô, thì chúng ta không thể được sống lại vinh quang với Người.

Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho chúng con biết làm chứng về Đức Giêsu Kitô bằng đưa bình an đến cho mọi người, bằng hy sinh chịu thương khó phục vụ mọi người, bằng học hỏi và loan truyền lời Chúa và nhất là thực hiện sống đúng với lời mình nói. Như Chúa Giêsu đã thực hiện đúng với lời Thánh Kinh và lời Người loan báo: “Con Người phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, sẽ từ cõi chết sống lại”.

-------------------------
 

PS3-B124: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI


Thiếu nhi chúng con yêu quí.
 

Lại một lần nữa chúng ta được nghe câu chuyện về Chúa Phục sinh. 1. Câu chuyện hôm nay thật đẹp PS3 B-124


Lại một lần nữa chúng ta được nghe câu chuyện về Chúa Phục sinh.

1. Câu chuyện hôm nay thật đẹp và mang nhiều ý nghĩa. Câu chuyện như thế nào thì chúng con đã được nghe và còn được xem qua video clip nữa.

Đúng là một câu chuyện đẹp thật. Đẹp như mơ.

Cha hỏi chúng con: Qua câu chuyện này Chúa muốn nói với mọi người điều gì?
Câu trả lời cha nghĩ là không khó lắm.

Theo cha thì lại một lần nữa Chúa muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng Đức Giêsu Phục sinh đang đứng ở trước mặt họ cũng chính là Đức Giêsu đã sống với họ trước kia.

Để làm đó, Chúa mời họ kiểm chứng về việc Ngài.

Cha hỏi chúng con muốn biết được cái gì là có thật thì con người  phải làm thế nào?

- Thưa phải dùng những phương tiện Chúa ban.
- Thế Chúa ban cho con người phương tiện gì nào?
- Thưa Chúa ban cho con người ngũ quan
- Ngũ quan nào?
- Thưa thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác.
- Chúng con giỏi quá. Cha khen chúng con.

Đây cha cắt nghĩa cho chúng con.

Chúng con thấy trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa cho con người sử dụng tất cả các phương thế đó để kiếm chứng về Chúa.

Chúa cho các môn đệ XEM  thấy Chúa.(Thị giác)

Chúa nói và các môn đệ đã nghe thấy Chúa (Thính giác)

Chúa cho các môn đệ Rờ vào Chúa (Xúc giác)

Rồi Tin mừng bảo Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.Chúa ĂN trước mặt các môn đệ, ăn với cá các môn đệ đưa cho Chúa.(Vị giác)

Và cha chắc rằng khi được gần Chúa như thế. Các môn đệ sẽ ngửi thấy mùi người của Chúa. (Khứu giác). Gần đây cha thấy Đức Thánh cha Phanxicô hay nói với các người chăn chiên là họ phải có mùi chiên.

Thế là Chúa đã dùng đủ cách để cho các môn đệ kiểm chứng về con người của Ngài.

Chúa làm thế để họ tin: Tin rằng Chúa của họ đang sống. Cuộc sống của Chúa chỉ khác với cuộc sống của con người ở chỗ thân xác của Chúa không còn bị chi phối bởi định luật về thời gian và không gian, để từ đó một lúc Chúa có thế có mặt ở nhiều nơi như chúng ta đã thấy, nhất là trường hợp của Bí tích Thánh thể.

2. Cha hỏi chúng con, Chúa muốn điều gì sau khi Chúa làm thế?

Câu trả lời rất dễ. Chúng con hãy nghe Lời Chúa nói: "Chính anh em là chứng nhân của những điều này".

Các tông đồ của Chúa ngày xưa sau khi đã được gặp Chúa Phục sinh, các ngài đã lên đường làm chứng. Các ngài đã làm chứng bằng việc rao giảng, bằng cuộc sống và nhất là bằng cả cái chết nữa. Mười một tông đồ còn lại sau khi Chúa Phục sinh thì đã có 10 người chết để làm chứng cho Chúa rồi.

Ngày nay Chúa cũng muốn mọi người biết làm chứng cho Chúa như thế.

Chúng con hảy nghe câu chuyện này:

Một buổi họp mặt sống động được tổ chức trong một ngôi nhà thờ làng. Qua những buổi họp mặt, nhiều người đã được ơn giải thoát.

Một lần kia, sau khi giảng, vị linh mục nói:

- Ở đây có người nào gây ảnh hương nhất cho anh chị em trong việc trở thành một người Kitô hữu không? Có thể đó là bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người hàng xóm của anh chị em. Tôi mong rằng bây giờ anh chị em sẽ đứng lên và tiến đến bắt tay người  nào có ảnh hương nhất đối với anh chị em trong việc chấp nhận Đức Kitô như là Đấng Cứu Độ của mình.

Ngồi bên phải vị linh mục là một bà cụ đã ngoài 75 tuổi. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một nhà giảng thuyết, hoặc một người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng ngày mà thôi .

Thế mà cả một chuỗi dài người cứ nối tiếp nhau tiến đến bắt tay cụ, họ nói:

- Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Đức Kitô đã đưa dẫn chúng tôi đến với Đức Kitô Đấng Cứu Dộ.

Thật là một đời sống tươi đẹp, thánh thiện, mà nhờ đó qua bao năm tháng, người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Đấng Cứu Độ.

Phần chúng con, chúng con có thể làm chứng không?

Chắc là có chứ.

Một ngày Chủ nhật nọ, có một người đàn ông đã từng sống một đời sống vô cùng lạnh nhạt, khô khan về việc đạo. Tình cờ ông đi ngang qua nhà thờ giáo xứ Churning, ông gặp một cô bé đang vào nhà thờ với các em nhỏ khác. Ông dừng lại quan sát thái độ tử tế khác lạ của cô và ông đã theo cô vào nhà thờ lúc nào không hay. Trong nhà nguyện chật chội và nghèo nàn đó, ông thấy cô ngoan ngoãn quì xuống đất, chắp tay ngước mắt nhìn Chúa Giêsu trong Nhà Tạm với tất cả lòng tin yêu cung kính như khi ta đến trước mặt người có chức tước đáng quí trọng. Tới lúc vị linh mục dâng thánh lễ, ông cũng quì gối để dễ bề quan sát thái độ của cô. Ông cảm động khi thấy gương mặt của cô tươi đẹp như người xuất thần với đức tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa trong phép Thánh Thể. Cảm động, ông trở về nhà và từ đó ông ăn năn trở lại sống đời giáo hữu thật sốt sắng.

Cô bé đó chính là Laura Diconia. Có lẽ cô không nhận ra hiệu lực của lòng sốt sắng nơi mình, nhưng chính hành vi và lẽ sống của cô đã làm chứng cho đức tin và tình yêu đối với Chúa. Cử chỉ bên ngoài của cô tuy rất tầm thường và đơn sơ nhưng chính sự trịnh trong của tâm hồn và tình yêu sâu đậm của con tim đã mặc cho cô những cử chỉ bên ngoài một vẻ sâu xa khác thường khiến cho người ta cảm thấy ngay sự hiện diện của Chúa.

Chúng con cũng hãy làm chúng cho Chúa như thế.

Hãy sống thế nào để cho mọi người nhìn vào cuộc sống của chúng con mà biết chúng con đang tin vào Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu đang sống như Chúa sống với các tông đồ của Chúa hôm nay. Làm được như thế là chúng con đạ làm chứng cho Chúa rồi. Amen.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

-------------------------
 

PS3-B125:  Có Chúa có bình an


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
 

Điều mà con người mong mỏi khao khát nhất, không hẳn là cơm áo gạo tiền mà là sự bình an. Bình  PS3 B-125


Điều mà con người mong mỏi khao khát nhất, không hẳn là cơm áo gạo tiền mà là sự bình an. Bình an trong tâm hồn. Bình an khỏi mọi sự dữ. Bình an trong công việc được êm xuôi. Sự khao khát bình an biểu lộ nơi mọi người. Nơi kẻ lữ hành mong thương lộ bình an. Nơi kẻ ở nhà cũng mong đừng bị quấy phá. Thế nhưng, cuộc đời đau mấy khi bình yên. Trắc trở khó khăn cứ dồn dập khiến con người luôn bất an lo sợ. Cuộc đời đâu mấy khi được hưởng sự bình an trọn vẹn nơi tâm hồn và cuộc sống.

Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin, còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là “Ma”.

Chuyện kể rằng có một người đi uống rượu về ban đêm. Bước tới sân nhà anh thấy một con rắn nằm vắt ngang giữa sân. Sợ hãi anh đã chạy vào bếp lấy một con dao băm con rắn ra thành nhiều mảnh rồi yên tâm vào nhà ngủ. Sáng ra, tỉnh dậy tính thu dọn con rắn ai dè không phải đêm qua chém rắn mà chém nát ống nước tưới cà-phê mà vợ chưa kịp dọn.

Các tông đồ sau khi tin vào Chúa Phục sinh thì các ông không còn cái nhìn sợ hãi. Các ông đã hết sợ nghi nan. Các ông không sợ người Do Thái đến bắt. Các ông không sợ đối diện với công quyền. Các ông chỉ còn lo một việc là nói về sự phục sinh của Chúa cho muôn dân.

Như thế, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.

Thế nên, gia đình nào có Thiên Chúa thì chắc chắn có bình an. Người ta nói trời có lúc mưa lúc nắng. Đời có lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt. Những thay đổi này càng đúng trong đời sống hôn nhân. Tình yêu thì đòi bền vững nhưng con người lại hay thay đổi. Tình yêu thì đòi hâm nóng mỗi ngày nhưng con người lại hay “chê cơm thèm phở”. Có lẽ vì vậy mà gia đình nào cũng có vấn đề, gia đình nào cũng có khó khăn.

Tại tiệc cưới Cana, đám cưới chỉ mới bắt đầu mà đã có vấn đề! Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì mất mặt qúa! Không chừng cô dâu chú rể sẽ lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào... Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương. Vấn đề của họ là rượu đã hết thì niềm vui chưa trọn vẹn, hay có thể nói là tiệc mất vui.

Rất may cho họ hôm đó đã mời Chúa Giê-su. Có Chúa thì họa biến thành may. Có Chúa thì không có gì mà Ngài không làm được. Có Chúa thì mọi sự sẽ êm xuôi. Thế nên, mỗi gia đình hãy mời Chúa đến trong tiệc cưới và trong từng gia đình mình. Thiếu rượu, tiệc cưới mất vui. Thiếu tình yêu, gia đình không hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa biến đổi nước lã là cuộc sống vô vị, chán ngắt, nặng nề trong gia đình thành rượu tình yêu nồng nàn hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa đong đầy ân sủng bình an vào trong gia đình. Do đó, điều nhất thiết là chúng ta phải mời Chúa đến trong gia đình. Có Chúa gia đình không còn sợ đói, sợ khổ, sợ chia ly. Có Chúa với cánh tay quyền năng Ngài sẽ che chở gia đình được bình an.

Ước gì các đôi hôn phối biết mời Chúa Giê-su đến chúc lành cho ngày vui của mình. Ước gì các gia đình hãy mời Chúa Giê-su vào nhà mình để Chúa đong đầy ân sủng và bình an cho gia đình. Xin Chúa Giêsu phục sinh đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, xin cũng đồng hành với các gia đình chúng ta hôm nay. Amen.
 

-------------------------
 

PS3-B126: Tìm gặp Chúa Giêsu hôm nay


– Lm. Mark Link

Chủ đề: "Ngày hôm nay phải tìm gặp Chúa Giêsu trong Hội Thánh Ngài qua nghi thức bẻ bánh."
 

Regina Riley có kể một câu chuyện mà nhiều bậc cha mẹ cần lưu tâm tới. Trong nhiều năm trời bà PS3 B-126


Regina Riley có kể một câu chuyện mà nhiều bậc cha mẹ cần lưu tâm tới. Trong nhiều năm trời bà đã từng cầu nguyện cho hai cậu con trai trở về với đức tin... Thế rồi một buổi sáng Chủ Nhật nọ, ngay trong nhà thờ, bà không thể nào tin vào mắt mình nổi khi thấy hai đứa con bà bước vào nhà thờ ngồi vào hàng ghế đối diện bà. Sau đó bà liền hỏi hai cậu con rằng điều gì đã thôi thúc chúng trở lại với đức tin. Cậu nhỏ liền kể lại câu chuyện sau đây:

Vào một buổi sáng Chủ Nhật, vào thời gian nghỉ hè tại Colorado, hai cậu lái xe đổ xuống một con đường ở dốc núi, lúc đó trời đang mưa tầm tã. Bỗng nhiên họ gặp một cụ già không dù che, người ướt sũng đang bước đi dáng điệu khập khễnh. Dù mưa to, cụ vẫn hăng hái tiến bước trên đường. Hai anh em liền dừng xe mời cụ lên. Thì ra ông cụ đang trên đường đi lễ tại một nhà thờ ở cuối con đường cách đó ba dặm (quãng 5km). Hai anh em liền lái xe đưa cụ đến đó. vì trời mưa vẫn còn nặng hạt và chẳng bíêt làm gì hay hơn, nên hai anh em quyết định chờ đợi cụ già để mang cụ về lại nhà sau khi lễ tan. Nhưng ngay sau đó hai cậu liền nghĩ nếu thế thì nên vào luôn trong nhà thờ hơn là ngồi đợi ngoài xe, thế là trong khi hai anh em lắng nghe các bài đọc Thánh Kinh và tham dự việc bẻ bánh thì có một điều đã làm họ xúc động sâu xa. Về sau họ chỉ có thể cắt nghĩa với bà mẹ như thế này: "Mẹ ơi! Mẹ biết không, lúc bấy giờ giống như là chúng con trở về nhà sau một chuyến đi dài đằng đẵng đầy mệt mỏi".

Câu chuyện về hai anh em và việc họ gặp gỡ cụ già xa lạ trên con đường vùng Colorado nêu bật được nét tương đồng sâu sắc chứa đựng trong bài Phúc Âm hôm nay.

Hai người môn đệ trên đường Emmau, đã từng một thời theo Chúa Giêsu với bao niềm hy vọng và nỗi vui mừng. Họ thực sự tin rằng Ngài được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Vương quốc Thiên Chúa. thế rồi những giờ phút bão tố của thứ sáu tuần thánh đã xảy đến. Mọi niềm hy vọng và mộng mơ của họ tan thành ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ cô quạnh và trở về nếp sống trước kia. Chính trong bối cảnh này, họ đã gặp người khách lạ trên đường đi Emmau vào buổi sáng Phục Sinh. Các môn đệ lắng nghe vị khách ấy, chăm chú nhìn vị này bẻ bánh và một điều gì đó xảy ra đã khiến họ xúc động sâu xa. Vị khách lạ này có xa lạ tí nào đâu mà chính là Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống động trước mắt họ.

Hầu như một chuyện giống y như vậy đã xảy ra cho hai anh em nọ trên đường ở Colorado. Có một thời gian họ đã từng theo Chúa Giêsu mật thiết, từng tin thực Ngài là Con Thiên Chúa, được Chúa phái đến cứu chuộc thế gian. Thế rồi những ngày giông bão của tuổi thanh niên đã đến. Mọi hy vọng và mộng mơ của họ cũng tan thành ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng, họ bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ hiu quạnh để bước đi theo lối riêng của mình. và chính trong bối cảnh này họ đã gặp cụ già xa lạ trên con đường ở Colorado vào buổi sáng Chủ nhật trời mưa nọ. Cụ già đã nói với hai anh em về Chúa Giêsu không phải bằng lời mà bằng một hành vi gương mẫu đầy anh hùng. Ngay khi hai anh em lắng nghe, tâm hồn họ bắt đầu bừng cháy lên từ bên trong. Thế rồi trong lúc bẻ bánh nơi giáo đường, họ đã khám phá ra Chúa Giêsu mà họ đã đánh mất.

Câu chuyện các môn đệ trên đường Emmau và câu chuyện của hai anh em nọ trên đường Colorado cũng chẳng khác gì câu chuyện riêng của chúng ta. Chúng ta cũng từng gặp những giai đoạn bão táp trong đời khi mà đức tin chúng ta bị tan thành ngàn mảnh vụn. Trong những giai đoạn giông bão này, có lẽ chúng ta đã phạm tội chống lại Hội Thánh, có lẽ chúng ta đã hoàn toàn thất vọng đối với Hội Thánh, thậm chí còn đã từ bỏ Hội Thánh. thế nhưng một ngày nọ chúng ta gặp được một kẻ nào đó... Có thể là một khách lạ -- và qua người khách lạ này chúng ta tìm lại được Chúa Giêsu giữa lòng Hội Thánh Ngài trong nghi thức bẻ bánh.

Và như thế bài Phúc âm hôm nay chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta ngày nay -- đặc biệt đối với những người đang tìm kiếm hoặc những người đã đánh mất Chúa Giêsu.

Thỉnh thoảng chúng ta nghe có người nói: "Tôi tin vào Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu, nhưng tôi không tin vào Giáo hội". bất cứ lúc nào nghe lời nói này, chúng ta hãy nhớ lại vị khách bộ hành khác đang cùng đồng hành với chúng ta trên đường. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp thánh Phaolô trên đường đi Damas. Sách Công vụ tông đồ ghi lại : "Bỗng nhiên một tia sáng từ trời loé lên quanh ông. Ông liền té xuống đất và nghe có tiếng nói: "Saolô, Saolê, tại sao người bắt bớ Ta?". Phaolô liền hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Tiếng nói liền đáp lại: "Ta là Giêsu mà ngươi đang truy nã" (Cv 9: 3-5). Phaolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi! Thế rồi Phaolô chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài là một. Cái này ở đâu thì cái kia ở đó giống như đầu và thân mình. chia cắt Chúa Giêsu khỏi Hội Thánh Ngài, tức cộng đồng các môn đệ Ngài, thì cũng giống như tách rời chiếc đầu ra khỏi thân mình vậy.

Nhiều năm sau, Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm này trong thư gởi tín hữu Côlôsê như sau: "Chúa Giêsu là đầu thân thể Ngài, tức Hội Thánh, Ngài là nguồn sống cho thân thể" (Cl 1: 18). Ngày hôm nay, nếu chúng ta muốn tìm gặp Chúa Giêsu Phục Sinh thì chúng ta phải tìm Ngài theo lối các môn đệ đã tìm được gặp Ngài trên đường Damas, theo lối hai anh em nọ tìm được Ngài trên con đường Colorado tức là tìm gặp Ngài giữa lòng Hội Thánh, tìm gặp Ngài trong nghi thức bẻ bánh.

Lạy Chúa Giêsu, xin nhân từ nhìn đến những kẻ đã bỏ Ngài chết mặc nơi nấm mồ hiu quạnh.

Xin đến với họ như Ngài đã đến với các môn đệ trên đường Emmau.
Xin cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ lần nữa,
Xin khơi dậy ngọn lửa đức tin vẫn còn leo lét trong tim họ.
Xin ngồi xuống đồng bàn với họ,
Xin biểu lộ Ngài ra cho họ lần nữa, giữa lòng Hội Thánh Ngài, và trong nghi thức bẻ bánh.

-------------------------
 

PS3-B127:  Chính Thầy đây, đừng sợ


(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
 

Sợ hãi, đó là điều hầu như không ai tránh khỏi. Bản tính tự nhiên con người “tham sống sợ chết” nên PS3 B-127


Sợ hãi, đó là điều hầu như không ai tránh khỏi. Bản tính tự nhiên con người “tham sống sợ chết” nên lo sợ đủ điều. Có người sợ sâu bọ, sợ gián sợ chuột. Có người sợ rắn rết, hổ sói. Có người sợ bóng đêm, sợ yêu ma quỷ quái. Nói chung, sợ hãi xuất hiện khi ta cảm thấy nguy hiểm. Sợ hãi có thể xem là một bản năng sinh tồn, nó khiến ta cảnh giác hơn. Nếu xét trong đời sống tự nhiên, có thể nói, sợ hãi là một người bạn tốt cần được đối xử tử tế.

Theo Thánh Kinh, do sự bất phục tùng của Adam tội đã đột nhập vào nhân loại (x. Rm 5, 12-19). Tội đã truyền lan tới tất cả mọi người, không trừ một ai, đã gieo rắc kinh hoàng và lôi kéo tất cả vào sự chết vĩnh viễn tách lìa với Thiên Chúa. Con người từ đó bị tước đoạt khỏi sự sống, bị đặt dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết (x Rm 7, 24-26). Bị tội lỗi và cái chết chiếm đoạt, khủng bố, con người mất đi bình an nội tại, chỉ còn là hoang mang, sợ hãi.

Thế nhưng, Chúa Giêsu Kitô đã sống lại, Ngài đã đánh bại thần chết, giải thoát con người khỏi ách thống trị tội lỗi và cái chết. Qua sự Phục Sinh của Chúa, kinh hoàng sợ hãi và sự chết từ nay đã bị khử trừ, bình an và sự sống mới được trao ban lại cho con người. Tin mừng hôm nay, Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Phục Sinh (Lc 24,35-48), thánh Luca thuật lại rất rõ ràng, Chúa Giêsu Phục Sinh khi hiện ra với các tông đồ, Ngài đã trao ban bình an cho các ông. Chúa Giêsu nói: “Bình an cho anh em”(Lc 24, 36). Và để trấn an Chúa Giêsu nói tiếp: “Chính thầy đây mà, hãy sờ xem” (Lc 24, 39). Rồi để chứng minh Chúa Giêsu cho các ông xem tay chân Người.

Hôm nay mỗi người chúng ta hãy vui mừng hân hoan! Vui mừng vì Chúa đã sống lại. Vui mừng vì Chúa Phục Sinh đang đến với ta. Ngài đến đem lại bình an và sự sống mới cho ta. Dường như nhiều người trong chúng ta chưa nhận thấy vì còn chậm tin. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ các ông sợ hãi vì tưởng thấy ma! Chúa nói: “Sao anh em lại hoảng hốt?” (Lc 24, 38). Cũng như các tông đồ, chúng ta còn sợ hãi là tại vì chúng ta còn ngờ vực, tối dạ, chưa tin Chúa. Chúng ta còn bất an là vì cuộc đời chúng ta thiếu vắng Chúa.

* * *

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tăng cường và củng cố niềm tin cho chúng con. Thánh Gioan tông đồ, ngay từ giây phút đầu tiên khi nhận thấy ngôi mộ trống đã tuyên xưng rằng mình đã thấy và đã tin. Thánh nhân muốn truyền lại cho chúng con nguyên tắc nền tảng trong quan hệ với Chúa Phục Sinh, đó là tin để thấy. Xin cho chúng con tin tưởng vững vàng Chúa đã sống lại để chúng con cảm nghiệm và thấy Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng con.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin loại bỏ trong chúng con nỗi sợ hãi hoang mang. Xin ban bình an của Ngài cho chúng con. Chúng con còn tham lam ích kỷ, thích hưởng thụ an nhàn, nên chúng con đã cấu xé lẫn nhau, tranh giành nhau, làm khổ cho nhau. Xin cho chúng con đừng sợ bị thua thiệt, nhưng giúp chúng con đủ cao thượng để hy sinh nhường nhịn kẻ khác. Xin cho chúng con đừng sợ lỗ lã mất mát nhưng giúp chúng con dũng cảm giữ đức công bằng. Xin cho chúng con đừng sợ khổ, nhưng biết đón nhận thập giá mình mỗi ngày mà theo chân Chúa, vì có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại” (Lc 24, 46).

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con cũng biết trở thành chứng nhân sự Phục Sinh của Chúa như chính Chúa mời gọi: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 48). Xin Ánh Sáng Phục Sinh phá tan mọi u mê tối tăm, sai lầm. Xin cho chúng con tin tưởng vào Chúa, trông cậy vào Chúa, và luôn cảm nhận được sự hiện diện tình yêu của Chúa trong cuộc đời, để chúng con không còn lo sợ nhưng can đảm loan truyền việc Chúa sống lại cho những người chúng con gặp gỡ hằng ngày. Amen.

-------------------------
 

PS3-B128:  LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH, năm B

Cv 3,13-15, 17-19   1 Ga 2,1-5     Lc 24,35-48
 

Đức Giêsu sống lại chia sẻ quyền năng phục sinh của Ngài cho nhân loại, cho thế giới, cho mỗi người PS3 B-128 Dalat


Đức Giêsu sống lại chia sẻ quyền năng phục sinh của Ngài cho nhân loại, cho thế giới, cho mỗi người chúng ta, và cho nhiều người khác nữa qua mỗi người chúng ta.Các bài đọc Chúa nhật thứ 3 Phục Sinh vẫn tiếp tục giới thiệu cho chúng ta về Chúa Phục Sinh và quá trình các môn đệ đến với Chúa Phục Sinh.

Thánh Luca trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay và đoạn Phúc Âm Chúa nhật Phục Sinh tường thuật lại việc Chúa sống lại theo nhãn giới Thánh Kinh và dưới sự tác động, soi sáng của Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Chúa thực sự đã sống với Chúa Giêsu, đã được Ngài loan báo trước về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Tuy nhiên sự việc xẩy ra, Chúa Giêsu bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh trên cây Thập giá. Rồi Ngài được táng xác trong mộ, sau ba ngày Ngài đã sống lại đúng như lời Ngài đã nói. Bà Maria Mađalêna đã được Chúa Phục Sinh hiện ra và bà được diễm phúc nhận ra Chúa sống lại, khi Ngài gọi tên bà…Simon Phêrô và Gioan đã nhận ra Chúa, đã tin vào Chúa Phục Sinh. Tuy nhiên khi bà Maria Mađalêna, Simon Phêrô, Gioan và hai môn đệ trên đường Emmaus tường thuật lại sự việc của Chúa Phục Sinh, các môn đệ vẫn cứng lòng không muốn tin vì tưởng Chúa là ma :” Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ?...”.Các môn đệ sợ sệt, lo âu vv…Chúa Phục Sinh đã mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh và Người nói :” Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại…”.Chúa Phục Sinh cho các môn đệ thấy vinh quang Phục Sinh của Ngài. Bởi vì, trước đó các môn đệ vẫn còn mù mờ, sợ hãi và chưa hoàn toàn tin tưởng vào Chúa sống lại. Đức Kitô Phục Sinh đến với các môn đệ, nâng đỡ, ủi an và củng cố đức tin cho các ông. Và rồi Chúa Phục Sinh cho các thấy, hiểu về sứ vụ của các ông là làm chứng cho Chúa sống lại và cho các ông thấy vinh quang Phục Sinh thật vĩ đại, thắp sáng niềm tin, niềm hy vọng cho các ông để các ông can đảm bước theo chân Người.

Khi các môn đệ nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, các ông vui mừng và với sự tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Phục Sinh.  Chúa Phục Sinh cũng mời gọi chúng ta làm chứng cho Người, trở nên những chứng nhân cho tình yêu của Người giữa dòng đời, giữa lòng thế giới. Giữa cuộc đời đầy tâm tối, u sầu, chán chường, thử thách, thất vọng có khi đi đến tuyệt vọng, Chúa sống lại vẫn cho chúng ta ánh sáng hy vọng để dọi chiếu vào thế gian tăm tối. Do đó, làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh là dùng chính đời sống mình để chứng tỏ cho mọi người, cho thế giới biết quyền năng Đức Kitô Phục Sinh đã tác động và biến đổi chúng ta. Đó chính là để cho Đức Kitô nói với tha nhân qua con người chúng ta. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cho chúng ta bắt gặp sự ăn ý giữa Tin Mừng của thánh Gioan:” Chúa ban bình an và minh chứng Chúa đã sống lại thật; đồng thời cho chúng ta hiểu vinh quang của Thập giá “. Thực vậy, có đau khổ mới có vinh quang. Có cái chết chiều Thứ Sáu Tuần Thánh mới có buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu là trao ban ánh sáng phục sinh cho người khác, cho nhân loại còn đang sống trong âm u, tối tăm và tội lỗi.

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi chúng con, xin ban cho chúng con một quả tim mới, cái nhìn mới, sự suy nghĩ mới để chúng con biết phân định đâu là chân lý, đâu là sự giả trá, để chúng con trở thành những chứng nhân cho Chúa Phục Sinh giữa lòng thế giới hôm nay. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao Chúa Phục Sinh lại ban bình an cho các môn đệ ?
2.Ánh sáng phục sinh là gì ?
3.Làm chứng cho Chúa sống lại là làm sao ?
4.Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên gì ?

-------------------------
 

PS3-B129: Từ người bỏ cuộc trở nên Sứ giả Tin Mừng


SUY NIỆM CHÚA NHẬT III PHỤC SINH – B

( Lc 24, 35 – 48 )
 

Tin Mừng Chúa nhật III Phục sinh tập trung vào hai môn đệ rời Giêrusalem mang theo sự buồn PS3 B-129


Tin Mừng Chúa nhật III Phục sinh tập trung vào hai môn đệ rời Giêrusalem mang theo sự buồn sầu thất vọng về làng Emmaus. Quả thật, chính tại Giêrusalem hai ông đã chứng kiến các biến cố dẫn đến cái chết của Chúa Kitô như lời hai ông kể cho vị khách (Không Hay Biết) : "Có một người tên là Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi" (Lc 24, 19 - 21). Đúng là mấy phụ nữ rằng thuật lại rằng Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng đó là một tin lạ lùng không thể tin được, các bà chẳng những không củng cố được lòng tin cho các ông mà còn làm các ông "khiếp sợ" (x. Lc 24, 22), sợ đến nỗi bỏ cuộc, rời Giêrusalem, nơi mà "giấc mơ" của họ bị vỡ tan vì Thập Giá.

Và dĩ nhiên, dưới dáng dấp của người đồng hành, Chúa Giêsu đã hiện ra cùng đi với họ. Trên đường, với hai ông, Chúa chỉ là Vị Khách lạ, "người không hay biết". Nhưng chính "người không hay biết" ấy đã làm cho các ông vơi đi nỗi buồn. Sự thất vọng mà họ có không cho phép họ tin rằng Thập Giá của Chúa Kitô là chìa khóa để mở cửa bước vào nhà Cha.

Với sự thẳng thắn và yêu thương, "người không hay biết" than : "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người" (Lc 24, 25-27).

Vị Khách đã mở lòng mở trí cho hai ông, hai ông lắng nghe và cảm thấy có một sức thu hút ngoại thường khiến các ông cất lơi : "Mời ông ở lại với chúng tôi", lý do "vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn" ( Lc 24, 29 ). Với lời mời thịnh tình ấy, Chúa Giêsu đáp lại bằng một cử chỉ chia sẻ khi đồng bàn với họ : "Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông" (Lc 24, 30). Cử chỉ Thánh Thể này giúp cho "hai kẻ bỏ cuộc" nhận ra Chúa.

"Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào" (Lc 24, 13-35). Câu này kết thúc trình thuật kinh nghiệm phục sinh của hai môn đên trên đường Emmaus, tổng hợp cách kỳ diệu ý nghĩa về sự hiện hữu Kitô của người môn đệ Chúa Kitô. Đâu là tính mới lạ của Kitô giáo nếu không phải là sống cái chuẩn mực của đời sống, với niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và thất vọng? Cuộc hành trình của hai môn đệ trên đường Emmaus với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống của họ cũng như chúng ta : "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" (Lc 24, 32)

Trên con đường đến Emmaus, chúng ta có thể nhận ra con đường đức tin của chính mình, thay vì quán trọ, thì có Giáo Hội. Thánh Lễ cung cấp cho chúng ta Lời Chúa và Thánh Thể, những yếu tố không thể thiếu cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Nếu chúng ta ra khỏi nhà với những khó khăn, lo toan, với tinh thần của hai môn đệ làng Emmaus, chúng ta hay đến nhà thờ, ít là Chúa nhật, nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, nơi mà Lời Chúa được giải thích ban cho chúng ta sự an ủi, Bánh Hằng Sống được trao ban để phục hồi, chữa lành, chăm sóc chúng ta và ban cho chúng ta niềm vui.

Con đường của hai môn đệ của Emmaus là con đường của tất cả chúng ta. Nếu trên đường đi, lòng chúng ta không còn bị khép kín vì buồn bã, chúng ta có thể gặp Đấng Phục Sinh trong Ngôi Lời làm cho lòng chúng ta nóng lên, và trong Bánh Thánh làm cho mắt chúng ta sáng lên. Trong Lời Chúa và Thánh Thể, chính chúng ta đang đi từ cõi chết đến cõi sống và chúng ta nhận ra sự thật về điều mà các nhân chứng đầu tiên đã truyền cho chúng ta: chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại vì chúng ta cũng đã gặp Người. Chúng ta được sống lại với cuộc sống mới trong tình yêu.

Chúa Kitô loan báo Tin Mừng về sự sống lại của Người cho chúng ta trên đường đi, như các môn đệ. Người nói với chúng ta về câu chuyện tình của Thiên Chúa với dân Ngài, Người nhắc nhở chúng ta về sự trung tín không ngừng của Thiên Chúa, Đấng đã ký kết giao ước đời đời với chúng ta. Chúa Kitô nói với chúng ta và mở lòng chúng ta hiểu Kinh Thánh. Như thế, Người mạc khải cho chúng ta sự sâu thẳm của Trái Tim đầy yêu thương, Người "phải" chịu đau phiền và phải chết. Người không thể làm gì khác ngoài yêu chúng ta cách tuyệt đối và vô hạn vượt qua mọi rào cản của cái chết và thân xác.

Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống, khiến họ đang là kẻ bỏ cuộc trở nên người loan báo Tin Mừng về Đức Kitô tử nạn và phục sinh.

Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về "làng Emmaus", rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và khẩn cầu Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, ngõ hầu trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng Chúa sống lại cho mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
 
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
-------------------------
 

PS3 B-130: Làm chứng nhân – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa


“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).
 

Những điều này là những điều gì đây? Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “Có lời Kinh Thánh PS3 B-130


Những điều này là những điều gì đây? Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).

Phải nhìn nhận rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô la một chủ đề chính của lời rao giảng của các tông đồ. Đã có lúc, có nhiều đấng vì muốn nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục sinh nên thích chưng ảnh tượng Chúa Phục sinh trong cung thánh Nhà thờ, thế mà Hội Thánh vẫn không chuan nhận. Theo luật hiện hành thì phải chưng ảnh tượng Chúa chịu nạn (Crucifix), dù rằng mầu nhiệm Chúa Phục sinh chính là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo, vì như lời thánh Phaolô Tông đồ rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lai thì Kitô hữu là những người khốn khổ nhất.

Cả hai mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh luôn song hành với nhau, không thể tách rời. Mầu nhiệm Phục sinh khẳng định rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm chủ sự sống và sự chết. Mầu nhiệm Tử nạn lại mạc khải cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yeu (x.Ga 15,13). Cũng như các Tông đồ xưa, Kitô hũu chúng ta mọi thời cần phải làm chứng rằng Đấng tử nạn đã phục sinh đồng thời phải làm chứng rằng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn.

Đấng tử nạn đã phục sinh: Khi tuyên bố chân lý này, chúng ta tuyên tín rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật. Người đã phục sinh như lời Người đã tiên báo. Nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa có nghĩa là kính dâng lên Người sự thần phục của chúng ta. Khong chỉ chúng ta mà mọi vật mọi loài cần phải suy phục Đấng đã phục sinh như là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Cùng với thánh Phaolô chúng ta tuyên xưng: “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người…” (Col 1,16).

Sự suy tôn, thần phục không chỉ thể hiện bằng việc nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có, đều do bởi Đấng đã phục sinh mà còn thể hiện bằng việc gắn bó với Người và hết tâm hết lòng tuân giữ lời Người phán dạy. Thánh Gioan khẳng định qua bài đọc thứ hai:“Can cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…”(1 Ga 2, 4). Các Tông đồ xưa đã thực thi điều này khi khẳng khái trước mặt quan quyền rằng: Phải vâng lơi Chúa hơn là vâng lời phàm nhân (x.Cvtđ 4,19).

Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn: Chân lý này gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, khi cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Vì yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban chính Con Một (x.Ga 3,16). “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đa đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Col 1,19-20).

Tuyên xưng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn thì cũng là nhìn nhận tội ác của con người, của chính mỗi người chúng ta. Vì chúng ta, Đức Kitô đã chịu nộp, chịu khổ hình thập giá. Như thế lời tuyên xưng này luôn bao hàm lời mời gọi hoán cải ăn năn để được ơn tha tội. Thiên Chúa đã rộng ban ơn tha thứ, sự giải hòa, qua cái chết của Đức Kitô. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng chúng ta có nhận được sự thứ tha hay không, vẫn còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Nói như thánh Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi, không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Và sự sám hối, ăn năn chính là một cách thế căn bản để đón nhận hồng ân tha thứ, hồng ân cứu độ.

Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Lời truyền của Đấng Phục sinh năm xưa vẫn còn vọng vang đến những người tin là các Kitô hữu. Ước gì bà con lương dân, anh chị em khác đạo không chỉ nghe các bài ca “Hallêluia, Chúa đã sống lại”, mà còn nhìn thấy các Kitô hữu, cách riêng các mục tử trong Hội Thánh biết sám hối ăn năn, thay đổi đời sống. Các Tông đồ xưa, đã làm chứng nhân trước hết bằng việc dứt bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quang đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các Ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính giá máu… Xin lỗi Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI, không chỉ hôm nay ma cả trước đây lẫn sau này người ta vẫn thích nghe theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Cha ông dân Việt đã từng cảm nghiệm rằng: “lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”.

----------------------------
 

PS3-B131: TỪ NGỜ VỰC ĐẾN VỮNG TIN


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
 

Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy rõ một điều: sự kiện Chúa Giêsu sống lại ban đầu đều bị các môn đệ khước PS3 B-131


Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy rõ một điều: sự kiện Chúa Giêsu sống lại ban đầu đều bị các môn đệ khước từ, tức là các ông không tin. Nhân chứng đầu tiên của Đấng Phục Sinh là bà Maria Mađalêna. Với tâm lý của người phụ nữ, rất thích là người đầu tiên loan báo một tin sốt dẻo, bà đã vội chạy đi báo tin cho các môn đệ. Theo Thánh Luca, khi đón nhận tin này, nhóm Mười Một cho đó là chuyện vớ vẩn (x. Lc 24,11). Cả hai môn đệ trên đường đi Emmaus cũng cùng chung một ý nghĩ (x. Lc 14,13-35). Kể cả khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các ông, các ông vẫn chưa tin, lại còn tưởng là ma (x. Lc 24,37). Điển hình là trường hợp Tôma, ông thách thức chỉ khi nào được thọc tay vào cạnh sườn Chúa và xỏ ngón tay vào lỗ đinh thì mới tin. Chúa Giêsu đã hiện đến để đáp lại thách thức của Tôma (x. Ga 20, 26-27).

Sự cứng lòng của các môn đệ trước sự kiện Phục Sinh là điều dễ hiểu. Bởi lẽ, kinh nghiệm cuộc sống cho thấy chẳng có ai đã chết mà sống lại. Đàng khác, các ông đang sợ hãi và bị ám ảnh bởi biến cố thập giá. Trước sự đắc thắng của các kỳ mục Do Thái, các ông thấy cần phải dè dặt, cho nên đóng kín cửa vì sợ người Do Thái (Ga 20-19). Sự kiện các ông ngờ vực trước lời báo tin của mấy người phụ nữ cũng cho thấy sự cẩn trọng của những người có trách nhiệm. Đây là điều sau này chúng ta gọi là sự khôn ngoan của các vị lãnh đạo Giáo Hội trước những quyết định quan trọng có liên quan đến chân lý Đức Tin.

Nếu lúc ban đầu, các ông nghi ngờ sự kiện Phục Sinh, thì sau này, các ông lại sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự kiện ấy. Chúng ta có thể phân biệt hai giai đoạn: giai đoạn trước và sau gặp Đấng Phục Sinh. Cuộc gặp gỡ với Đấng Sống lại đã tiếp sức cho các môn đệ. Từ những người sợ hãi nhút nhát đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, các ông trở nên những chứng nhân can đảm, sẵn sàng loan báo Chúa đã sống lại, và còn hân hoan vì được xứng đáng chịu đau khổ vì Chúa (x. Cv 5,41). Sau này, tất cả các tông đồ đã chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng về điều họ đã được xem thấy. Điều họ xem thấy là gì? Là Đấng đã từ cõi chết sống lại.

“Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào các ngôn sứ!” (Ga 20,25). “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Chính Thầy đây!” (Lc 24,38-39). Đó là những lời quở trách thái độ chậm tin của các tông đồ. Hai mươi thế kỷ đã qua, sứ điệp Phục Sinh vẫn đang tiếp tục loan báo cho nhân loại. Đó là sứ điệp của niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy bi quan tăm tối. Có thể ngay trong các cộng đoàn tín hữu, vẫn còn nhiều người chưa thực sự xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh. Có thể những anh chị em lương dân chưa nhận ra Đấng Phục Sinh, bởi vì những cộng đoàn Đức Tin chưa phản ánh được sự hiện diện của Người. Làm sao người tin Chúa có thể chứng minh Chúa Giêsu phục sinh đang hiện diện, khi đời sống của họ vẫn còn đầy tội lỗi, ghen ghét, hận thù và chia rẽ? Làm sao họ có thể tin vào Đức Giêsu phục sinh, khi những người tin Chúa lại không thực hiện giáo huấn của Người?

“Chính anh em là những nhân chứng về những điều này”. Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh đã trao cho các ông sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa. Các ông đã nhiệt thành chu toàn sứ mạng ấy và nhờ vậy, Tin Mừng đã được loan truyền khắp thế giới.

Ý tưởng “chuộc tội”, “đền bù tội lỗi”, “ơn tha tội” rải rác trong cả ba bài đọc của Phụng vụ hôm nay. Trong niềm vui hân hoan của lễ Phục Sinh, nhiều người đặt câu hỏi: “Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu có tác động và liên hệ gì đến chúng ta? Thánh Gioan tông đồ đã trả lời: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (Bài đọc II). Như thế đã rõ, lễ Phục Sinh không nhằm kỷ niệm một sự kiện đã qua, nhưng để giúp con người lãnh ơn tha tội, và nhờ đó, họ được cứu rỗi. Thập giá Đức Kitô và sự phục sinh của Người là cội nguồn ơn cứu độ.

“Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để người xóa tội anh em” (Bài đọc I). Lời kêu gọi của thánh Phêrô trong bài giảng ở cửa Đền thờ Giêrusalem đã khẳng định Đức Giêsu là Đấng có quyền tha tội. Trong Người, Thiên Chúa đã thiết lập một kỷ nguyên mới. Cây thập giá chính là cờ hiệu của kỷ nguyên ấy. Đó là kỷ nguyên của tình yêu thương, khởi đi từ sự tự hiến chính thân mình của Đức Giêsu.

-------------------------
 

PS3-B132: TỈNH NGỘ


Trầm Thiên Thu
 

Cuộc đời là bến mê lầm. Sai một ly, đi một dặm. Phải luôn cố gắng tỉnh thức để thoát khỏi mọi cạm PS3 B-132


Cuộc đời là bến mê lầm. Sai một ly, đi một dặm. Phải luôn cố gắng tỉnh thức để thoát khỏi mọi cạm bẫy. Thoát ly như vậy là tỉnh ngộ – thoát khỏi ngu muội. Điều này vô cùng cần thiết, vì chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38).

Phật giáo dùng từ “giác ngộ” (zh. 覺悟, sa., pi. bodhi). Danh từ này được dịch nghĩa từ chữ “bodhi” (bồ-đề) trong Phạn ngữ. Từ ngữ này chỉ trạng thái tỉnh thức, lúc con người bỗng nhiên trực nhận tính KHÔNG, bản thân nó là “không” như toàn thể vũ trụ cũng là “không” vậy.

Và chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được “thể tính mọi hiện tượng”. Tính “không” ở đây KHÔNG phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên, không thể dùng suy nghĩ hoặc cảm nhận để đo lường, vì điều đó nằm ngoài cặp đối “có – không”. Tính “không” này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận, vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Do đó, giác ngộ là một kinh nghiệm không thể giãi bày.

Kinh Thánh nhắc lại Người Tôi Tớ Đau Khổ và cũng “chạm” vào ký-ức-buồn của chúng ta, tức là sự ngu muội của chúng ta: “Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3:13-15).

Thánh Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Giêsu Kitô và thông cảm với sự ngu muội của chúng ta: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Thiên Chúa nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài chỉ cần chúng ta hối hận thật lòng thì Ngài sẽ tha thứ ngay. Điều này đã được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa rồi: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Và chính tướng cướp Diasmas đã được hưởng lời hứa đó ngay trên Núi Sọ: Theo Chúa Giêsu vào thẳng Thiên Đàng (Lc 23:43), dù “đại ca” này chưa hề biết gì về Chúa Giêsu và chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội.

Thiên Chúa quá đỗi nhân lành, nhất là với những người thành tâm sám hối: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Ngoài Thiên Chúa, chắc chắn chẳng có thần linh nào hoặc phàm nhân nào khả dĩ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc. Hãy cầu nguyện liên lỉ, hãy không ngừng nài xin: “Lạy Chúa, xin toả ánh tôn nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7).

Khi có Ngài rồi thì cứ “vô tư” mà sống. Chả lo lắng chi cho già người đi. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã chia sẻ kinh nghiệm thoải mái này: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4:9). Mèn ơi! Thế thì thật là hạnh phúc, sướng ơi là sướng!

Thánh Gioan muốn chúng ta tỉnh ngộ nên đã nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính“” (1 Ga 2:1). Không nên phạm tội, đó là điều chính đáng, nhưng tay lỡ “nhúng chàm” thì lại được Luật Sư uy tín biện hộ cho chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu. Thế thì còn gì sướng hơn nữa chứ?

Thánh Gioan cho biết: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Trên cả tuyệt vời, vì chính Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Mọi diễn biến từ Cựu Ước tới Tân Ước đều lô-gích, chính xác, không chút sai lệch. Thật là mầu nhiệm biết bao!

Điều kiện thứ nhất là “đừng phạm tội”, điều kiện thứ hai là “tuân giữ các điều răn” – nhất là điều răn bác ái. Đức ái là một trong ba đức đối thần, nhưng là nhân đức quan trọng nhất. Tại sao? Vì đức mến còn mãi mãi, trên Thiên Đàng chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy (hy vọng).

Thánh Gioan phân tích: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:3-5). Thánh Phaolô cũng nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:8-10). Người biết yêu mến là người chu toàn lề luật của Thiên Chúa, đó là người mặc lấy con người mới, sống niềm vui phục sinh, tức là đã tỉnh ngộ.

Sau khi phục sinh, một hôm ở trên đường Emmaus (*), Chúa Giêsu gặp hai môn đệ và giải thích cho họ những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Họ không hề biết đó là Chúa-Giêsu-phục-sinh. Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ đã mở ra, tỉnh ngộ, và nhận ra Ngài, thế nhưng Ngài lại biến mất (Lc 24:27-30).

Lần khác, khi các môn đệ còn đang nói, chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Các ông kinh hồn bạt vía, cứ tưởng là thấy ma. Tá hỏa tam tinh. Run sợ thật đấy! Nhưng Ngài cười và bảo: “Này các cậu, sao lại hoảng hốt thế nhỉ? Sao lòng anh em còn ngờ vực chứ? Này, nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-48). Rồi Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ừ nhỉ! Ma đâu có thế này, đúng là thần hồn nhát thần tính. Chán thật!

Các ông còn bán tín bán nghi, chưa dám tin thật, phần vì mừng quá, phần vì ngỡ ngàng. Chúa Giêsu thấy mắc cười lắm, Ngài hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không nào? Đem ra đây cho Thầy ăn!”. Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt các ông. Mấy ông nhéo nhau, ai cũng la oái, thế thì không phải mơ, tỉnh thật đấy.

Rồi Ngài ôn tồn: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Bấy giờ Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Ngài nhấn mạnh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:46-48).

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở lòng trí chúng con để chúng con đủ sức hiểu rõ lời Kinh Thánh, xin giúp chúng con biết tỉnh ngộ để chúng con chân tín Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ chúng con, đồng thời cũng luôn biết sống yêu thương và can đảm làm chứng về Đấng Phục Sinh. Ngài là Đấng hằng sinh và hằng hữu, hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
---------------------
(*) Emmaus là viết theo tiếng Latin, tiếng Hy Lạp là Ἐμμαούς, tiếng Ả Rập là عِمواس‎ (Imwas), tiếng Do Thái là חמת‎ (Hammat), có nghĩa là “mùa xuân ấm áp”. Emmaus cách Giêrusalem 7 dặm, khoảng 11 km.

-------------------------
 

PS3-B133: CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_B


Lm. Antôn
 

Ông bà anh chị em thân mến. Nếu một người ngoại đạo, hay một người không có đức tin đặt ra cho PS3 B-133


Ông bà anh chị em thân mến. Nếu một người ngoại đạo, hay một người không có đức tin đặt ra cho chúng ta những câu hỏi như “Chúa Giê-su Ki-tô có thật sự sống lại không?” “Có ai làm chứng cho sự kiện Chúa Giê-su sống lại không?” “Có phải câu chuyện sống lại do người Ki-tô đặt bịa ra không?”

Những câu trả lời cho những câu hỏi trên rất quan trọng, vì nó sẽ xác định niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa như thế nào, và cũng sẽ quyết định cuộc sống vĩnh cửu đời sau của chúng ta. Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta sẽ ra vô ích.” Vậy làm sao chúng ta biết Chúa Giê-su Kitô đã sống lại thật? Chúng ta nhận thấy sự kiện ngôi mộ trống với khăn niệm để bên cạnh không đủ bằng chứng để tin Chúa Giê-su đã sống lại, vì sao? Vì người khác có thể đánh cắp xác Chúa và phao tin đồn thất thiệt như người Do-thái đã làm, và chúng ta thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đã nghi ngờ. Cho nên chúng ta cần có thêm những bằng chứng khác, và các bài đọc Kinh thánh hôm nay cho chúng ta 3 bằng chứng hùng hồn, rõ ràng và xác quyết về việc Chúa sống lại.

Thứ nhất, Tin mừng thánh Luca hôm nay tường thuật cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệ. Sau khi ban bình an cho các ông, Chúa mời họ chạm, rờ vào thân hình của Ngài, và ăn khúc cá nướng trước mắt các ông, để chứng tỏ Ngài đã sống lại thật. Ngoài lần hiện ra hôm nay, các sách Tin mừng cũng đã tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ nhiều lần như với bà Mary Ma-đa-lê-na, với các phụ nữ trên đường về từ ngôi mộ, với hai môn đệ trên đường Em-maus, với 10 tông đồ không có Tô-ma, với 11 Tông-đồ có cả Tô-ma, với các tông đồ đi đánh cá, tổng cộng tất cả có ít nhất là 7 lần Chúa đã hiện ra.

Thứ hai, cũng như bài Tin mừng, chúng ta thấy trong bài đọc I, các tông đồ cũng như Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết, hãy đọc lại những lời Kinh Thánh và những gì Ngài đã dạy dỗ và báo trước, để biết chính Kinh thánh đã làm chứng cho Chúa. Chẳng hạn như Kinh thánh Cựu Ước nói rằng Đấng Thiên Sai sinh ra từ giòng dõi Da-vít tại Bethlehem (Mic 5:4). Thánh Thần Chúa xức dầu tấn phong và sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành những người bệnh, phóng thích kẻ bị giam cầm (Isa 61:1). Đấng Thiên Sai phải chịu nhiều đau khổ để gánh tội cho con người (4 Bài ca về Người Tôi Trung trong sách ngôn sứ I-sa-i-a). Và Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu chết và ngày thứ ba Người sẽ sống lại (Hos 6:2).

Và thứ Ba cuối cùng, trong Bài Đọc 1 và 2, chúng ta thấy các tông đồ và các tín hữu đã can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã nhân danh Chúa Giê-su Kitô rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh. Vì đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, họ có cuộc sống cộng đoàn trong tình hiệp nhất yêu thương, và thành tâm bỏ mọi sự làm của chung để xây dựng để có phương tiện rao giảng Tin mừng, và làm sáng danh Chúa. Cuối cùng, chúng ta thấy sự phát triển và vững bền của Giáo Hội hơn 2,015 năm qua, với hàng triệu người đã chịu tử vì đạo làm chứng cho Chúa, trong đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông, tổ tiên chúng ta, đã can đảm chịu những cực hình và đổ máu đào để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh. Thêm vào đó, mỗi năm hàng ngàn các anh chị em tân tòng gia nhập đạo.

Với 3 bằng chứng trên đây và với hàng triệu các nhân chứng, việc Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh sống lại là điều chắc chắn đã xảy ra, và niềm hy vọng sẽ được cùng sống lại vinh hiển với Ngài của chúng ta được đặt trên một nền tảng vững vàng, chắc chắn hơn xây nhà trên đá. 

Ông bà anh chị em thân mến. Nếu những người không có đạo, không có đức tin đặt một câu hỏi tiếp theo cho chúng ta “Vậy ông bà, anh chị em nói và tin Chúa Giê-su Ki-tô đã phục sinh, nhưng điều đó có ảnh hưởng gì trong cuộc sống của ông bà, anh chị không?” Tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta không dễ trả lời câu hỏi này, nếu cuộc sống của chúng ta không có gì khác biệt hơn, không tốt lành hơn, không bác ái hơn, không ngay thẳng hơn, hoặc không có điều gì nổi bật hơn cuộc sống của những người chung quanh, hay của những người vô thần, không có đạo, không có đức tin. Vậy thì mầu nhiệm Chúa Giê-su Ki-Tô Phục sinh mời gọi chúng ta sống như thế nào?

Chúng ta biết trong xã hội ngày này muốn sống hay thể hiện đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, hay trở thành chứng nhân cho Chúa Giê-su Kitô, không phải dễ. Nếu chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh và muốn được sống lại với Ngài, thì chúng ta phải chấp nhận những sự hy sinh và thiệt thòi, phải khiêm nhường chấp nhận những đau khổ, khó khăn và thập giá như Ngài. Chúng ta cũng phải sống lời Chúa dạy và có lòng bác ái, quảng đại. Thật vậy, khiêm nhường, hy sinh, quảng đại và làm chứng nhân cho Chúa ở thời đại ngày nay thật là khó khăn, khó thực hiện.

Nhưng, ông bà anh chị em thân mến, chúng ta không thể nào sống như những người không có đức tin hay vô thần, hay chúng ta không thể nào có cuộc sống cá nhân, ích kỷ và nguội lạnh như những người không thuộc cộng đoàn dân Chúa, hay không được kết hợp trong Thân Thể Chúa Ki-tô, và không tin vào sự sống lại, không tin vào đời sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Khi chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giê-su Kitô, thì chúng ta cũng phải tin Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của chúng ta, tin những gì Ngài dạy dỗ và tuân giữ, sống các giới răn của Ngài dạy chúng ta.

Từ lễ kính Chúa Giê-su Phục Sinh đến nay, chúng ta đã nghe nhiều đoạn Tin Mừng kể lại những lần Chúa hiện ra với các môn đệ của Ngài sau ngày Ngài phục sinh. Ngài đã hiện ra với nhiều người nhiều lần để minh chứng cho họ biết là Ngài đã sống lại từ cõi chết như lời Ngài đã hứa, và để củng cố niềm tin và sai họ đi làm chứng cho Chúa. Chúng ta hôm nay tin vào sự phục sinh của Chúa và không bao giờ để báo chí, dư luận, và cám dỗ thế gian, làm lung lay niềm tin của chúng ta vào sự phục sinh của Chúa Giê-su Kitô, và vào sự sống vĩnh cửu đời sau, vì chúng ta đã có quá nhiều bằng chứng và nhân chứng về niềm tin này. Chúng ta cầu xin cho mỗi gia đình và cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết sống hòa hợp, đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi công việc, để xây dựng và làm sáng danh Chúa. Xin Chúa cũng luôn hiện diện giữa chúng ta, hướng dẫn và ban bình an hạnh phúc cho chúng ta.

-------------------------
 

PS3-B134: ĐỨC TIN TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN VÀ DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA


Lm. Giuse Dương Hữu Tình
 

Nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một câu “dở dang”, đòi phải PS3 B-134


Nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một câu “dở dang”, đòi phải trở lại những câu ở phần trên thì mới hiểu được toàn bộ câu chuyện. Bài Tin Mừng bắt đầu như sau: “Hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”.

Đối với những người hiểu biết Kinh Thánh, họ sẽ biết ngay phần trên của câu chuyện là gì và hai ông này là ai. Nhưng có thể có người không biết rõ câu chuyện ở phần trên và hai ông này là ai, vì thế chúng ta phải nói rõ thế này: đây là hai môn đệ đã gặp Chúa trên đường trở về Em-mau mà thánh sử Luca đã ghi lại (24,13-35). Ngài còn nói rõ một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát. Sau khi được Chúa đồng hành và giải thích Kinh Thánh, được Chúa đồng bàn và bẻ bánh để rồi nhận ra Chúa, các ông đã vội vã trở lại Giê-ru-sa-lem để gặp Nhóm Mười Một (phần này được suy ngắm ở năm A theo chu kỳ năm phụng vụ). Khi đã gặp họ, “hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”. Đây chính là phần đầu dẫn vào bài Tin Mừng hôm nay.

Thánh sử Luca kể tiếp: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”. Và rồi ta sẽ thấy sự kiên trì của Đấng Phục sinh khi Người cố gắng củng cố niềm tin cho các tông đồ, môn đệ. Các ông “hoảng hốt” và “ngờ vực”, Chúa Phục sinh phải cho các ông xem chân tay mình. Các ông vẫn “còn chưa tin”, Người phải “cầm lấy và ăn trước mặt các ông”. Xem ra chưa đủ, Chúa lại phải nhắc tới Kinh Thánh, rồi còn “mở trí cho các ông hiểu”. Không biết như thế đã đủ cho các ông chưa, thánh sử Luca sau đó nói đến việc hứa ban Thánh Thần: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (24,49).

Khi kể lại tất cả các sự kiện trên, thánh sử Luca dường như muốn nói cho chúng ta hay rằng: biến cố phục sinh ngay từ đâu không phải là một điều dễ tin, dễ chấp nhận. Đó là một sự kiện hết sức mới mẻ, vượt mọi dự tính, suy đoán và hiểu biết của con người. Và để có được một niềm xác tín vào Đấng Phục sinh, đòi hỏi hết mọi người tín hữu phải sẵn lòng để Chúa Phục sinh kiên trì dạy dỗ và giải thích cho mình. Có hai môi trường và hoàn cảnh thuận lợi cho việc Chúa Phục sinh hiện diện và dạy dỗ chúng ta, đó là đời sống cộng đoàn và Lời Chúa. Hai môn đệ đã được gặp Chúa dọc đường, các ông lại được gặp Chúa lần nữa khi trở về với Nhóm Mười Một. Lòng các ông đã chẳng “bừng cháy lên” khi được Chúa nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho đó sao! Nhất là khi các ông được Chúa “mở trí” cho để am hiểu Kinh Thánh.

Với cuốn Tông Đồ Công Vụ, người ta hiểu thánh sử Luca là một vị thánh sử rất lưu tâm tới đời sống cộng đoàn. Tông Đồ Công Vụ là cuốn sách ghi lại sinh hoạt của Giáo hội tiên khởi, một cộng đoàn gương mẫu cho đời sống của tất cả những ai tin vào Đấng Phục sinh. Khi ghi lại sự kiện Đấng Phục sinh “đến” và kiên trì giáo huấn và củng cố niềm tin cho các tông đồ, môn đệ, ngài cũng muốn kể lại kinh nghiệm ngay từ thuở đầu của Giáo hội. Đó là một Giáo hội có tính cách cộng đoàn và sống Lời Chúa. Chỉ khi nào chúng ta ở trong bầu khí của cộng đoàn Giáo hội, chỉ khi nào chúng ta siêng năng lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa, niềm xác tín của chúng ta vào Đấng Phục sinh mới chắc chắn và vững vàng. Sự xa rời cộng đoàn, sự trễ nải trong việc lắng nghe Lời Chúa là những lý do làm cho đời sống đức tin của chúng ta sa sút và yếu kém.

Bài Tin Mừng hôm nay như một lời nhắc nhở chúng ta tự kiểm điểm lại đời sống đức tin của mình. Đức tin của chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng gì và trong môi trường nào?

Chúng ta có để Đấng Phục sinh tiếp tục kiên trì đến với chúng ta, dạy dỗ chúng ta không, nhất là mỗi khi chúng con họp nhau tham dự “lễ bẻ bánh” và cùng nhau chia sẻ Lời Chúa. Amen.

-------------------------
 

PS3-B135: NIỀM VUI CÓ CHÚA


Lm. Jos.DĐH
 

Trong khi giới trẻ hằng mơ mộng được sở hữu những công nghệ “hot” nhất, “xi-tin” nhất; các bậc


Trong khi giới trẻ hằng mơ mộng được sở hữu những công nghệ “hot” nhất, “xi-tin” nhất; các bậc làm cha mẹ vẫn một ước mơ truyền thống : gia đình hạnh phúc không cần phải xây dựng dựa trên những cái nhất. Biết bao người đau bệnh vì quá tải với công việc, nhưng họ bất lực không thể truyền lại kinh nghiệm cho con cháu, người thân, đang quá hăng say tìm kiếm lợi nhuận vật chất. Chung quanh chúng ta nhiều người vui vì đạt được thành tích, gfdsađược danh hiệu, được thừa hưởng khối tài sản của tiền nhân, nhưng vui vì được bình an tâm hồn, thường ít ai nhắc tới.

Niềm vui có tiền, có chức danh, niềm vui ấy xã hội coi là thực tế hơn cả; niềm vui nơi mọi thành viên gia đình biết quan tâm yêu thương, xã hội đất nước thái bình, vẫn bị gọi là thiên đàng trong mơ. Niềm vui có Chúa, ý niệm về sự thật, việc thật, người tốt, việc tốt, chúng ta đã có sẵn trong tâm trí từ khi có trí khôn, còn tự do hành động hay thể hiện là thuộc về mỗi người. Có nhiều người tìm kiếm sức khoẻ, địa vị, vì đã quá đủ về vật chất, theo cái nhìn tích cực, họ đang được qui hướng về điều tốt nhất, đang khao khát một hạnh phúc thật, niềm vui cao hơn.

Đấng Phục Sinh đã nhìn biết các tông đồ như là các học trò đáng thương, cần được khích lệ, cần được quan tâm, nhờ vậy, các ông mới đủ trưởng thành trong đức tin và đức mến. Sở dĩ các tông đồ cần được yêu thương, vì trước khi Chúa sống lại, các ông xa lạ với Đấng Phục Sinh, các ông không có kinh nghiệm với thế giới siêu nhiên. Nhưng do luôn chân thành, gần gũi với tình yêu mến, nên các ông dễ cảm nhận được ơn bình an, niềm vui, từ lời chào chúc của Đấng Phục Sinh.

Khi đã hiểu, đã cảm nhận được niềm vui và sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, các ông có một sự biến đổi khác thường đó là can đảm, mạnh mẽ không nhút nhát, không sợ thế lực trần gian nào nữa. Bài trích sách Công vụ hôm nay, chứng minh Phêrô đã mạnh dạn tố giác sự sai lầm chết người của các thượng hội đồng Do-thái, ông nói mọi người cần phải sám hối nhận ra lỗi lầm của mình để được tha thứ.

Tính chất mới mẻ nơi các học trò sau khi có Đấng Phục Sinh, các ông không còn hoài nghi về thập giá vinh quang, không sống trong mơ hồ ảo tưởng, theo Thầy Giêsu để được hưởng bổng lộc trần gian này. Nơi bài đọc 2, bằng kinh nghiệm về sự tha thứ của Đấng Phục Sinh, Thánh Gioan tông đồ khuyên tất cả mọi người lỡ có phạm tội, đừng nản lòng, nhưng hãy thật tình sám hối trong tin tưởng vào tình yêu Đức Kitô. Chúa Phục Sinh đến với các tông đồ, tình yêu tha thứ đã hàn gắn lại tình nghĩa Thầy trò, tình yêu ấy sẽ còn tiếp tục mở lòng trí, để những ai sống tin yêu sẽ còn là chứng nhân của “Tin Mừng Phục Sinh”.

Với người Kitô hữu chúng ta hôm này, tội lỗi làm cho con người mất quân bình, dễ nghi ngờ, lo sợ đủ điều, dễ mất phương hướng, mất cả tình yêu thương. Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng trí lòng cho các tông đồ hiểu Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng làm chứng về những điều các ông đã nghe, đã thấy cho muôn dân. Hôm nay, khi hiện đến với các đồ đệ, Đức Giêsu cho các ông nhìn xem chân tay Thầy, chân tay Thầy không hề đeo vàng bạc châu báu…. mà đeo đầy những thương tích, dấu chứng tình yêu.

Bằng mắt phàm trần, các tông đồ quá sung sướng khi được chiêm ngắm, được nhận ra Đấng Phục Sinh, bằng mắt đức tin, các ông hiểu Đức Giêsu mấy ngày trước bị đóng đinh, chính là Đấng Phục Sinh lúc này đem niềm vui và bình an đến cho các ông. Cuộc đời của chúng ta hôm nay, hình ảnh Chúa Phục Sinh vẫn đang ở mỗi gia đình, mỗi tâm hồn, khi ta đủ niềm tin, nỗi ưu tư sợ hãi mới được tan biến. Có Chúa hiện diện là có niềm vui, có sự biến đổi, có tình yêu và ơn tha thứ, dù bản chất và cách sống của ta còn đầy thiếu xót.

Ơn bình an của Đấng Phục Sinh, không bị giới hạn ở nơi chốn hay khung cảnh địa lý, ơn Phục Sinh còn tiếp tục là hồng ân kỳ diệu, giúp những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa sẽ khám phá ra ơn gọi làm chứng nhân của mình. Trong đời sống tự nhiên người ta cho rằng : một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Trong ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô, niềm vui Phục Sinh là điều kiện giúp những ai tin theo Chúa có được sự sáng suốt, khôn ngoan, biết sống chứng nhân Tin mừng. Biến cố Phục Sinh thay đổi nhận thức nơi các tông đồ về sứ mạng của Thầy Giêsu, Đấng chiến thắng cả sự chết, Ngài đang sống; và bằng niềm tin yêu, tất cả những ai tin theo Chúa sẽ gặp Đấng Phục Sinh đang sống trong cuộc đời của mình. Chúng ta gặp gỡ Chúa Phục Sinh một cách đặc biệt trong “lần bẻ bánh”, nghĩa là nơi phép Thánh Thể nơi mỗi ngày sống của mình.

Người mạo hiểm là người dám sống câu châm ngôn : được ăn cả ngã về không ! kẻ lười biếng trong công việc, lại dễ bị mặc cảm tự ti vì mình không may mắn, thiếu tài, thiếu đức. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, các ông lại vui mừng biết bao khi được gặp Đấng từ cõi chết sống lại. Nếu các môn đệ âu lo vì sợ người ta đã giết Thầy, họ sẽ bắt luôn cả trò, các ông lại có trọn niềm hân hoan khi nhìn tận mắt Thầy sống lại, cho các ông xem tay chân và cạnh sườn. Nếu người Kitô hữu có Chúa trong tâm hồn của mình, ta sẽ thoát ra khỏi nỗi lo lắng vu vơ; tâm hồn sẽ tràn đầy niềm vui hạnh phúc hiện tại cũng như tương lai. Nếu chúng ta biết mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, hẳn chúng ta đang công bố Tin Vui Phục Sinh. Xưa kia, vì cần xóa đi mọi nghi ngờ cho các học trò, Đấng Phục Sinh ăn uống trước mặt các môn đệ, khoảnh khắc đầy ấn tượng đó, Chúa kêu gọi chúng ta đừng ngần ngại sống thân tình với nhau. Điều gì đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời theo Chúa làm môn đệ của ta ? Thưa, có Thiên Chúa hiện diện, chúng ta hết buồn sầu, và sẽ tìm được lối sống mới trong an vui, hạnh phúc thật. Amen.

-------------------------
 

PS3-B136: “VÀ CON TIM ĐÃ VUI TRỞ LẠI”


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
 

Có lẽ nhiều người đã từng nghe hoặc từng hát bài “Và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy. Lời bài hát PS3 B-136


Có lẽ nhiều người đã từng nghe hoặc từng hát bài “Và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy. Lời bài hát nói lên tâm trạng của một người lầm lũi bước đi, tìm kiếm cho mình một tương lai. Anh lao vào những cuộc vui của xã hội, nhưng chỉ tìm thấy chán nản, thất bại, bế tắc. Chỉ khi một luồng sáng từ trên cao chiếu rọi vào tâm hồn và chỉ cho anh một con đường phải đi, tác giả mới tìm lại được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Anh đã tâm sự : Tìm một con đường, tìm một lối đi, ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi, lạc loài niềm tin, sống không ngày mai, sống quen không ai cần ai, cứ vui cho trọn hôm nay. Rồi cuộc vui tàn, mọi người bước đi, một mình tôi về, nhiều lần ướt mi, chợt tình yêu đến trong ánh nắng mai, xóa tan màn đêm u tối, cho tôi biến đổi tâm hồn, thành một người mới. Và con tim đã vui trở lại, tình yêu đến cho tôi ngày mai, tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, tôi hy vọng được ơn cứu rỗi, và con tim đã vui trở lại, và niềm tin đã dâng về người, trọn tâm hồn nguyện yêu mãi riêng người mà thôi… Và bây giờ, ngày buồn đã qua, mọi lỗi lầm, cũng được thứ tha, tình yêu đã đến trong ánh nắng mai, xóa tan màn đêm u tối, cho tôi biến đổi tâm hồn, thành một người mới. Và con tim đã vui trở lại … Dẫu như tôi phải đi qua vực sâu tối, tôi vẫn không sợ hãi gì, vì người gần bên tôi mãi.

Có thể so sánh niềm vui của tác giả Đức Huy tìm lại được một hướng đi giống với niềm vui của hai môn đệ trên đường Emaus và của các Tông đồ sau ngày Chúa Phục Sinh. Quả thật, với cái chết của Thầy Giêsu, cánh cửa tương lai của các Tông đồ như bị đóng lại. Trước mắt các ông chỉ còn là một màu đen tối, u buồn, sợ hãi lẫn thất vọng. Có nhiều người trong họ đã buông xuôi và tính đến việc bỏ về quê như hai môn đệ Emaus, có người bỏ đi một nơi nào đó như Tôma. Các Tông đồ khi đi theo Chúa, họ đã đặt biết bao hy vọng và niềm tin vào Thầy mình, giờ đây họ như bị bế tắc.

Đang lúc các ông rơi vào tình trạng chán nản, thất vọng như thế, chính Chúa Giêsu đã chủ động và tìm cách lấy lại tinh thần cho các ông. Ngài đã lần lượt hiện ra với các phụ nữ, với các Tông đồ, với hai môn đệ trên đường Emaus để an ủi và giúp các ông lấy lại được thăng bằng cho cuộc sống. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra sau khi Chúa Phục Sinh đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emaus. Ngài giải thích Kinh Thánh để củng cố đức tin và an ủi họ, cho họ nhận ra Ngài lúc bẻ bánh. Hai môn đệ đã vô cùng phấn khởi trở lại Giêrusalem để thuật lại kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục sinh cho các Tông đồ khác.

Khi các ông còn đang nói thì chính Chúa Giêsu đứng giữa các ông và bảo : Bình an cho các con ! Bình an chính là món quà mà Chúa Phục Sinh trao tặng cho các Tông đồ và là món quà thích hợp nhất cho các ông lúc này. Chúa Giêsu đã thấu hiểu tâm trạng của các Tông đồ. Các ông dường như chưa hoàn hồn, chưa hết đau đớn về cái chết của Thầy cộng thêm nỗi sợ vì liên lụy tới Thầy Giêsu. Có lẽ điều khiến các Tông đồ dù nghe thấy những người kia kể lại về việc họ đã gặp Chúa, nhưng vẫn không tin, là vì họ đã chôn vùi cả tinh thần, ý chí và niềm tin của mình trong ngôi mộ của Thầy. Vì vậy, khi Chúa hiện ra đứng trước mặt, các ông kinh hồn bạt vía vì tưởng là bóng ma.

Chúa Giêsu đã phải trấn tĩnh, thuyết phục các ông và tìm cách chứng minh Ngài chính là Thầy của họ, Đấng đã chết và đã sống lại thật : Sao anh em lại nghi ngờ ? Cứ sờ mà xem, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy đây. Rồi Ngài cho các ông xem dấu vết nơi tay chân Ngài. Dường như ánh mắt nghi ngờ vẫn còn nơi các Tông đồ. Chúa Giêsu đã phải cho các ông thấy một dấu chứng khác khi hỏi các ông : Anh em có gì ăn không ? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Người ăn trước mặt các ông. Chắc chắn thân xác phục sinh của Chúa Giêsu không cần phải ăn uống, nhưng Ngài vẫn ăn trước mặt các Tông đồ, để các ông tin Ngài đã sống lại thật trong thân xác thật chứ không phải là ảo ảnh hay nằm mơ.

Dù thuyết phục các Tông đồ bằng các dấu chứng như thế, Chúa Giêsu vẫn muốn xây dựng đức tin của các Tông đồ trên nền tảng vững chắc hơn, đó là dựa trên Thánh Kinh. Ngài nhắc lại cho các ông tất cả các sách Luật, các Ngôn Sứ và Thánh Vịnh đã chép về Ngài phải được ứng nghiệm. Khi nhắc đến Môse và các Ngôn Sứ tức là nhắc đến toàn bộ Thánh Kinh đã nói trước về cuộc tử nạn phục sinh và ơn Cứu độ mà Đấng Cứu Thế sẽ thực hiện để cứu chuộc nhân loại. Tác giá Luca còn nhấn mạnh : Bấy giờ, Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Được Chúa mở trí tức là được Chúa phá đi màn đêm u tối, cho tâm hồn biến đổi thành một người mới.

Chúa Giêsu nhắc lại cho các Tông đồ những đoạn Kinh Thánh nói về Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại. Điều này chứng tỏ rằng : Để đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh và trở thành người loan báo về mầu nhiệm Phục Sinh cần phải đọc lại Kinh Thánh và tin vào những gì Kinh Thánh đã nói về Chúa Giêsu. Đây chính là nền tảng cho đức tin của chúng ta, vì ngày nay, chúng ta không được thấy Chúa Phục Sinh hiện ra, cũng không thấy ngôi mộ trống, nhưng chúng ta vẫn có thể tin và đón nhận Chúa Phục Sinh nhờ lời minh chứng của Kinh Thánh và của Giáo Hội.

Thánh Phêrô sau khi đã chứng kiến ngôi mộ trống, những lần Chúa hiện ra và đọc lại Kinh Thánh, ông đã tin. Niềm tin vào sự Phục Sinh đã biến đổi hoàn toàn con người của ông. Từ một con người nhát sợ, ông trở thành can đảm ; từ một người trốn tránh, nay ông dám đứng ra để nhận trách nhiệm làm chứng về Chúa Phục sinh. Bài đọc một cho thấy Phêrô đã trích lời Kinh Thánh và nhắc đến việc Thiên Chúa hứa với các Tổ phụ rằng sẽ ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Tuy nhiên, những thế hệ con cháu của các tổ phụ đã từ chối và đã đóng đinh Ngài trên cây thánh giá. Thiên Chúa quyền năng đã tôn vinh Đức Giêsu và làm cho Ngài từ cõi chết sống lại. Điều quan trọng lúc này là hãy sám hối về hành động ấy, quay trở lại với Thiên Chúa và tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô.

Cùng với việc tin Chúa Giêsu Phục Sinh thì cũng đồng thời phải nhân danh Người rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều đó. Đây là trách nhiệm Chúa trao cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa Phục sinh khi ta tin Ngài và đã gặp Ngài, vì nếu chúng ta chưa xác tín hoặc chưa gặp Ngài, lời chứng của chúng ta sẽ không đủ xác tín và thiếu thuyết phục. Như vậy, để trở thành chứng nhân về việc Phục sinh, chúng ta phải đọc và gẫm suy lời Kinh Thánh mỗi ngày. Kinh Thánh sẽ củng cố đức tin cho chúng ta. Giống như hai mộn đệ trên đường Emaus, cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình cũng có những lúc thăng trầm, sóng gió. Có nhiều khi toan tính, dự định không thành, làm ăn thất bại ; nhiều khi vì áp lực của xã hội khiến cho cuộc sống căng thẳng, mệt mỏi. Chúng ta tin rằng, Chúa Phục sinh không bao giờ để chúng ta thất vọng, Ngài luôn đồng hành bên ta để giúp ta tìm lại niềm vui cho cuộc sống. Chúa Giêsu cũng sẽ dùng Lời Kinh Thánh để an ủi, nâng đỡ mỗi người. Ngài sẽ cho chúng ta nhận ra Người trong bữa tối khi chúng ta cố mời ép Người vào cư ngụ trong gia đình, trong tâm hồn. Ngài hiện diện nơi Bí tích Thánh Thể để những ai đến với Ngài sẽ nhận ra sự hiện diện quyền năng của Ngài.

Tin và loan truyền Chúa Phục Sinh, chúng ta không thể để mình sống trong ủ dột, buồn chán, bi quan, thất vọng ; ngược lại, chúng ta phải sống trong niềm vui. Dân ngoại sẽ không thể đón nhận Tin Mừng chúng ta loan báo khi chúng ta mang trên mình gương mặt buồn bã, tinh thần uể oải. Niềm vui của Tin Mừng không phải là niềm vui ồn ào bên ngoài, mà là niềm vui phát xuất từ trong tâm hồn vì tin rằng chúng ta đã được cứu độ và trở nên con của Thiên Chúa. Niềm vui ấy sẽ phải lan tỏa ra cho mọi người, qua lời nói qua cử chỉ và qua cách sống đẹp của mỗi Kitô hữu nơi gia đình, nơi chòm xóm và nơi mỗi người đang làm việc.

Xin Chúa cho mỗi người cảm nhận được niềm vui Phục sinh và trở thành người loan báo tin vui Phục sinh cho anh chị em. Amen.

-------------------------
 

PS3-B137: ĐƯỜNG EMMAUS


Lm Giuse Hoàng Kim Toan
 

Con đường này không dài cũng không ngắn. Con đường dài hay ngắn của mỗi người vẫn tùy thuộc PS3 B-137


Con đường này không dài cũng không ngắn. Con đường dài hay ngắn của mỗi người vẫn tùy thuộc việc rất cụ thể: “Mắt họ mở ra” (Lc 24, 31). Việc được mở mắt trở nên việc cần thiết để nhận ra ý nghĩa cuộc đời mình.

Đường đi mỗi người.

Có những con đường đi mỗi ngày, đi rồi đến, đến rồi đi. Ngày nào cũng thế, một hành trình lập đi lập lại, đến quen thuộc, đến nhàm chán. Con đường đi, nhiều hôm phải tắc nghẽn, tiến lên chậm chạp, khói xe, hơi nóng, mồ hôi quện vào nhau, như chẳng còn muốn đi mà vẫn phải đi. Những con đường ấy biết bao người vẫn đang đi, vẫn phải bươn trải để sống, để tồn tại. Câu chuyện của họ thường ngày vẫn là những cực khổ, lao nhọc, cố nhích từng tý để vươn tới, nhưng vẫn xa.

Câu chuyện ấy, ngày xưa Thánh Luca thuật lại việc hai môn đệ trên đường Emmaus. Không biết danh tính họ là ai, điều này cũng có thể chỉ đến những con người ngày hôm nay vẫn phải ra đường ngày hôm nay, dù chật chội, dù có nhích lên từng bước. Những bước chân mỏi mệt của hai môn đệ không phải vì đường xa mà vì thất bại trở về u sầu. Những con đường đi của mỗi người đôi khi cũng thế, cố gắng năm này qua năm khác, biết bao công sức, rồi cả những ngày đau khổ thể xác, tinh thần, cuối cùng vẫn buồn chán vì thất bại trở về khi đi tìm những gì ngoài Thiên Chúa.

Trên con đường trở về có người khách lạ cùng đường đi. “Khi các cánh cửa ra vào đều đóng kín, Thiên Chúa sẽ mở một cánh cửa sổ làm lối thoát”. Đó là kinh nghiệm của Thánh Nữ Têrêsa hài Đồng Giêsu. Trưởng thành trong đức in là đóng lại các lối quan niệm cũ, những kiếm tìm lạc hướng, những gì còn bụi trần, để mở ra con đường mới. Khép lại quá khứ, nhìn ra những thiếu sót, riêng con người cũng khó nhận ra. Hai môn đệ được giải thích Thánh Kinh trên đường đi, người khách bộ hành đã dần dần khép lại lối cũ và mở ra hướng nhìn mới. Kinh nghiệm trên đường đi mỗi người là rà lại đời sống của mình theo Thánh Kinh, Thiên Chúa sẽ cho thấy nguyên nhân của thất bại và dẫn đến cái nhìn mới.

Mắt họ mở ra.

Cụm từ “mắt họ mở ra” nói lên nhiều điều.

Trong việc nhận ra Chúa Giêsu lúc Người bẻ bánh, Thánh Luca muốn nhấn mạnh đến điều quan trọng của đời sống người Kitô hữu về việc tham dự Thánh Lễ để gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Bữa tiệc, bàn ăn, ở lại, là những từ ngữ biểu hiện của tình yêu. Mở mắt ra vì thấy mình được yêu thương hơn mình tưởng, là kinh nghiệm của nhiều người khi nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi đồng bàn với Chúa, con người phàm nhân mới nhận ra: “thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8, 5).

Mắt mở ra vì nhận ra cái tôi ích kỷ của mình đã kềm hãm biết bao điều tốt đẹp bị bỏ qua. Tiến trình khai mở về cái tôi là một cần thiết để mở ra. “Mời ông ở lại với chúng tôi”. Mở lòng ra sẽ đón nhận nhiều điều tốt đẹp ở lại, nhất là khi mời Chúa đến cư ngụ trong tâm hồn. Đối thoại với Chúa, chia sẻ được nỗi lòng là đã tiến hơn một bước trong tình bạn với Chúa. Chúa đã mở mắt cho người mù, mở những tâm hồn cô quạnh để gặp gỡ, Chúa cũng sẽ mở mắt để nhận ra sự sống mới của Người và phục sinh có nghĩa là sống đời sống mới, một đời sống tươi vui trong Chúa.

Trở về với bạn hữu.

Thường sau khi giác ngộ là trở về với đời sống thật. Cây đích thực là cây, người đích thực là người. Phân định rõ ràng thực ảo giữa đời sống hằng ngày là một sự trở về đích thực. Sau khi nhận ra Chúa lúc Người bẻ bánh, hai môn đệ quay trở về lập tức. Mắt đã sáng, bóng tối không còn che khuất, niềm tin không còn nghi ngờ, hành trình trở về mau mắn, tất cả là kết quả của hành trình tìm kiếm và gặp gỡ.
Gặp gỡ Chúa theo Thánh Gioan là hoán cải, thay đổi cuộc đời của mình. Với Thánh Luca gặp gỡ Chúa Phục sinh là hăng hái trở về gặp gỡ anh chị em, sống với anh chị em, xây dựng đời sống cộng đoàn cầu nguyện và chứng nhân Tin Mừng.

Hành trình Emmaus có thể thấy, đó là hành trình mỗi ngày của cuộc sống. một hành trình, có Chúa đi bên cạnh. Chỉ cần lắng nghe Chúa nói, giảng giải Thánh Kinh. Lòng rộn rã, việc bỏ lại con người cũ trở nên dễ dàng để kết bạn với Chúa, mời Người ở lại và tham dự Thánh Lễ chính Người bẻ bánh. Ơn lành cuộc sống mới tuôn chảy và lòng hân hoan sống với anh chị em, hòa hợp trong sự khác biệt, xây dựng cộng đoàn đức tin và loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho người khác.
Xin cho chúng con được gặp gỡ Chúa để đổi mới chúng con.

-------------------------
 

PS3-B138:  "Chính anh em là chứng nhân của những điều này." (Lc 24,48)


lm.Đinh Tất Quý

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH

Lc 24,35-48
 

Nếu chúng ta đọc kỹ Tin Mừng hôm nay chúng ta sẽ thấy Luca đã chép lại những việc xẩy ra chung PS3 B-138


Nếu chúng ta đọc kỹ Tin Mừng hôm nay chúng ta sẽ thấy Luca đã chép lại những việc xẩy ra chung quanh việc Chúa phục sinh từ cõi chết, không những theo quá trình diễn tiến của thời gian mà còn theo cả thứ tự luân lý nữa.

I. SỰ KIỆN

Sự kiện ngôi mộ trống sẽ thật khó mà giải thích nếu không chấp nhận việc Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ. Thế nhưng đó chẳng qua cũng chỉ mới là một bằng chứng tiêu cực.

Thêm vào đó là việc Chúa Giêsu xuất hiện rõ ràng cho hai môn đệ trên đường Emmau cũng thế. Những bằng chứng này quả cũng vẫn chưa đủ. Có thể có người sẽ cho rằng sự kiện ấy chỉ là một dị tượng, một bóng ma hoặc bóng dáng của một vị thần nào đó.

Chính vì thế mà hôm nay khi kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một tông đồ lúc đêm xuống, Luca đã cố ý nhấn mạnh vào việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Người.

Vâng Chúa đã hiện ra cho các môn đệ với một thân thể vật chất còn in những dấu đinh độc ác, một thân thể có thể ăn được, một thân thể có thể đụng vào và cảm nhận được.

Hơn nữa Người còn trang nghiêm tuyên bố rằng Người không phải là thần linh không có thể xác. Người còn chỉ cho họ thấy những vết thương ở tay và chân và Người quả quyết với họ rằng thần linh thì chẳng có xương thịt như họ thấy Người đang có.

Rồi cuối cùng để đánh tan mối nghi ngờ hãy còn sót lại, Người cầm lấy một miếng cá nướng và ăn trước mặt các môn đệ. Có lẽ chẳng còn hình thức nào có thể minh chứng về Người mà Người đã không sử dụng để làm cho các môn đệ tin và từ niềm tin đó Ngài biến họ thành những nhân chứng cho Người sau đó.

Tóm lại, qua những lần Chúa Giêsu hiện ra và biến đi sau khi Người sống lại từ cõi chết chúng ta có thể coi đó như là những phép lạ chẳng khác gì những phép lạ Người làm lúc còn sống với các môn đệ trong cuộc đời công khai của Người vậy.

II. BÀI HỌC.

Chúng ta có thể rút ra được bài học nào?.

1. Niềm tin vào Sự Phục Sinh của Chúa.

Chúa Giêsu xuất hiện không như một bóng ma, hoặc là một ảo tưởng của tâm trí. Đây là một sự thật: Đấng đã chết nay sống lại. Kitô giáo không xây dựng trên nền tảng các giấc mơ của người hoại trí hay ảo ảnh của những người loạn thị. Kitô giáo xây dựng trên những sự kiện thực tế của lịch sử: Đức Giêsu một con người đã đối đầu và chiến thắng tử thần và để rồi cuối cùng đã phục sinh để trở thành Cứu Chúa cho muôn loài. 

Trước đây người ta có cho trình chiếu một cuốn phim. Cuốn phim mang tựa đề là "Thế giới trong tối tăm". Nội dung câu chuyện nói về việc một nhà khảo cổ danh tiếng đã tổ chức một cuộc khai quật ở Giêrusalem và tìm được xác của Chúa Giêsu.

Vâng! Sau bao công khó đào bới, một ngày kia nhà khảo cổ đã dõng dạc tuyên bố:

- Tôi đã tìm ra được xác ông Giêsu.

Thế rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ qui tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày đào bới và khảo cứu vất vả.

Trong cuộc họp báo này, nhà khảo cổ đã trưng ra trước mắt mọi người một xác người đã khô đét nhưng còn có thể nhận ra là tay, chân của người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu.

Cuốn phim đang quay lại cảnh mọi người đang im lặng, chăm chú theo dõi lời thuyết trình của nhà khảo cổ về cái xác mà ông bảo là xác của ông Giêsu thì tình cờ có một phụ nữ đứng lên phát biểu lớn tiếng.

- Đây là một sự thật hiển nhiên rồi. Ông ta đã bị đóng đinh, đã chết và đã được mai táng.

Và nhà khảo cổ tiếp lời:

- Vâng đúng thế, bị đóng đinh, chết và được mai táng, và bây giờ chúng tôi khám phá ra xác của ông ấy đây, vì thế làm gì có chuyện ông ấy phục sinh?

Tiếp ngay sau đó cuốn phim cho thấy hậu quả của việc tìm ra xác ông Giêsu: đó là không còn chỗ nào và không còn ai mừng lễ Phục Sinh nữa. Những ngọn đèn chầu trong các nhà thờ tắt ngúm. Nhà thờ đóng cửa. Chuông nhà thờ im tiếng. Thánh giá trong các nhà thờ bị hạ xuống! Thế giới đắm chìm trong một màn đêm dày đặc. Thật là một cảnh kinh khủng!

Rồi sau đó điều gì sẽ xảy ra? Cuốn phim trình chiếu cận cảnh cảnh hấp hối của nhà khảo cổ. Và đây mới là điều đáng ghi nhớ: Trước khi trút hơi thở cuối cùng ông ta đã đau đớn thú nhận:

- Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm ra cái xác giả của ông Giêsu rồi bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước, trước khi khởi sự công việc đào bới tìm xác ông.

Sau lời tuyên bố đó của nhà khảo cổ, cuốn phim lại quay lại cảnh hàng ngàn người tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như người ta thường thấy trong những dịp Tuần Thánh.

Những ngọn nến lại được thắp lên và những tín hữu, tay mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng để soi sáng cho những con đường đang chìm ngập trong bóng đen của hận thù, của chán nản thất vọng .

Chuông các nhà thờ lại đổ để báo tin Chúa Giêsu đã phục sinh để nói với mọi người rằng: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi, sự sống mạnh hơn sự chết.

Vâng! cuộc phục sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, lòng tin và niềm hy vọng của chúng ta nữa.

2. Sứ mạng khẩn cấp loan báo Tin mừng.

Phải ra đi, kêu gọi mọi người ăn năn để tiếp nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Hội Thánh không thể ngồi yên tại phòng họp mãi mà phải ra đi. Phải lìa phòng họp mà nhận lấy sứ mạng của mình. Hãy để cho những ngày than vãn lùi vào quá khứ. Giờ đây, ta phải đem niềm vui mừng Phục sinh chia sẻ cho mọi người.

Hãy chứng tỏ cho thế giới biết về một Đức Giêsu hằng sống. Người đang hiện diện giữa cuộc sống của mọi người.

Có rất nhiều cách để làm chứng, nhưng cách hay nhất và hữu hiệu nhất vẫn là chính cuộc sống thánh thiện, đầy tình yêu thương của mỗi người.

Từ một chàng thanh niên không biết Chúa, sau khi bị trận mạc cướp đi hai cánh tay và hai con mắt, Jacques Lebreton thay vì thất vọng, hận đời, anh đã tìm về với Chúa. Sau đó anh lao đầu vào việc học để được hiểu biết Chúa nhiều hơn. Khi thấy hành trang đã tạm đủ, anh quyết lên đường để làm chứng.

Trong buổi lễ phong chức phó tế cho anh, Đức Giám Mục địa phận Beauvais đã nói: "Thầy Jacques nay cụt cả hai tay, nên sẽ không thể giúp lễ và rửa tội. Thầy Jacques nay mù cả hai con mắt, nên sẽ không thể đọc Sách Thánh được. Nhưng Thầy còn tiếng nói và với tiếng nói Thầy sẽ có thể rao giảng  niềm vui của cuộc sống"

Vâng quả thực Thầy đã làm cho mọi người phải ngỡ ngàng ngạc nhiên. Thầy đã giảng hơn kém 200 bài giảng mỗi năm. Ngoài thời giờ giảng về niềm vui của cuộc sống có Chúa, Thầy còn để hết tâm lực vào việc giúp đỡ những bệnh nhân, giúp họ cũng có được niềm vui như thầy.

Có lần người ta hỏi: "Nếu phải chọn một từ nào để rao giảng thì Thầy sẽ chọn từ nào.?

Thầy trả lời ngay, không một chút suy nghĩ: "Tình yêu" Rồi Thầy nói tiếp: "Tật bệnh nặng nhất chính là không còn yêu thương và không được yêu thương"
Một con người cụt cả hai tay, mù cả hai con mắt thế nhưng vẫn thấy cuộc đời của mình hạnh phúc và muốn chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Còn chúng ta, chẳng lẽ chúng ta lại không tìm được niềm vui nào với cuộc sống của một người tin Chúa hay sao!

Vâng chúng ta hãy đi làm chứng cho mọi người biết về một Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Amen.

-------------------------
 

PS3-B139: Đấng Phục Sinh ở giữa ta


(Suy niệm của Huệ Minh)

Những lời mà Chúa hứa nay đã thành sự thật!

Ta bắt gặp tâm trạng buồn rầu của hai môn đệ trên con đường Emmau như thế nào?

Buồn rầu, chán nản vì chỗ dựa vững chắc nhất đời mình là cái ông mang tên Giêsu mà bấy lâu nay mình tin tưởng, mình tín thác, mình đi theo nay đã chết! Chết coi như là hết, coi như là chấm dứt niềm hy vọng và rồi hai ông bỏ về quê sống với cái nghề cũ trước khi đi theo ông Giêsu.

Thế nhưng, ta thấy đang trên đường về làng quê, vào cái lúc trời xế chiều thì lòng buồn thêm. Không thể đi tiếp được nữa vì không có trăng mà cũng chẳng có đèn. Thế là hai ông bèn mời người khách cùng đi với hai ông trên một đoạn đường vào quán trọ!

Ngạc nhiên chưa! Khi vào quán hai ông lại nhìn ra chính người khách bộ hành trên đoạn đường dài đó chính là Chúa Giêsu.

Trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh của hai môn đệ quay lại Giêrusalem và đã tường thuật lại cho các bạn của các ông biết về Đấng Phục Sinh mà hai ông đã gặp trên đường.

Đang tám chuyện với nhau thì rồi Đức Giêsu hiện đến giữa họ. Lần này, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các ông: "Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ". Ta thấy phản ứng tự nhiên của các ông đó là hoảng sợ vì lẽ Thầy đã chết nay đã quá 3 ngày rồi. Thế nhưng, Thầy lại nói với các ông: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây".

Không chỉ nói, để chứng minh là Thầy thật sự đứng giữa các ông nên Thầy đã đưa chân tay của Thầy cho họ xem.

Thật ra mà nói, các môn đệ đã rơi vào tâm trạng chẳng đặng đừng: không tin cũng không được mà tin cũng không xong. Tâm trạng này cũng dễ hiểu bởi lẽ các ông đang sống trong tâm trạng hoang mang bối rối.

Một lần nữa, để chứng minh Thầy đang hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt thật sự thì Thầy xin các ông cho ăn. Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ.

Và sau đó, ta thấy Chúa Giêsu Phục Sinh đã không ngần ngại nói thêm để các ôn tin. Không những thế, Chúa Giêsu còn mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.

Chuyện đã quá rõ không còn phải ngờ vực nữa.

Thật ra những gì Chúa Giêsu cũng như các ngôn sứ loan báo về sự phục sinh của Chúa Giêsu nay trở thành ứng nghiệm. Thế nhưng, do cứng lòng tin hay do không cảm nhận được sự gần gũi, giản đơn của Chúa trong đời thường nên cũng chẳng thể nào trách được lòng cứng tin của các môn đệ.

Ngay như lúc đặt chân vào trần gian này, Chúa Giêsu đã hiện thân nơi một hài nhi bé bỏng. Và rồi Hài Nhi đó lớn lên ở cái làng quê nghèo và có cha mẹ là hai vợ chồng nghèo. Chẳng ai có thể tin được Đấng Cứu Độ trần gian đến trong trần gian này lại như thế!

Và, trong hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng có đôi lần làm điều này làm điều kia làm cho người ta sửng sốt. Thế nhưng lòng chai dạ đá cứng tin ăn sâu vào trong lòng người ta để rồi người ta cứ mãi ngời vực.

Đỉnh điểm của niềm tin vào Đấng Cứu Thế mà được loan báo từ trước đã vụt tắt khi cái anh chàng 33 tuổi mà người ta bỏ mọi sự đi theo đó chịu chết treo nhục nhã trên cây thập giá. Cũng đâu yên với cái anh chàng trộm cướp. Cùng mang bản án tử hình nhưng anh ta đã thách thức con người vô tội cùng chịu chết treo với anh. Nhục nhã vô cùng cho đến giờ phút cuối cùng trên thập tự giá.

Tất cả những người xưa nay từng hưởng ân lộc không ít thì nhiều từ cái con người chịu treo trên thập giá đó cũng đã bỏ đi hết. Họ theo Con Người ấy không phải vì niềm tin vào Con Người ấy, vào quyền năng của Con Người ấy nhưng họ theo vì những lợi lộc mau qua.

Chúa Giêsu đấng chịu chết treo trên thập giá do bàn tay của những con người ác đó ngày ngày vẫn sống giữa họ, vẫn đồng hành với họ nhưng chẳng ai can đảm nhận ra Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian. Chính vì lẽ đó, khi phục sinh, Đấng Cứu Độ trần gian có hiển hiện giữa họ họ cũng chẳng nhận ra bởi lòng chai dạ đá. May thay có những môn đệ được chính Chúa Giêsu phục sinh cùng đồng hành, cùng hiện diện, cùng ăn, cùng uống với họ và họ đã tin.

Đức Giêsu là như vậy! Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi cũng là một và Ngài là như thế! Ngài đến thế gian, Ngài sống giữa kiếp người khi loan báo Tin Mừng và ngài vẫn sống giữa kiếp người sau khi sống lại từ cõi chết.

Chúa Giêsu Phục Sinh không còn hiện diện bằng xương bằng thịt như xưa nữa nhưng Ngài rất gần và vẫn ở bên đời ta. Chuyện quan trọng là ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời ta hay không mà thôi.

Có khi Giêsu hiện diện nơi trẻ thơ nhỏ bé chưa kịp cất tiếng khóc chào đời.

Có khi Giêsu hiện diện nơi người công nhân quét rác ngay đầu ngõ nhà ta.

Có khi Giêsu hiện diện nơi bác công nhân ngâm mình dưới dòng nước cống đen xì trong ngõ nhà ta để khơi dòng nước thải.

Có khi Giêsu hiện diện nơi người phu xe chở ta đi đây đi đó khi ta cần.

Và, đặc biệt, có khi Giêsu hiện diện ngay trong chính gia đình nhỏ bé của ta nơi người vợ, người chồng, người con. Có khi đó chính là cha mẹ già của ta. Có khi cũng là những người kém may mắn sống bên cạnh ta.

Chúa Giêsu là như vậy đó! Ngài luôn luôn và thích hiện diện nơi những con người nghèo, những người cô thế cô thân ngay bên cạnh ta. Liệu rằng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài hay không mà thôi.

Ta đã mừng bao nhiêu mùa Phục Sinh nhưng ta có cảm nghiệm gì về một Đức Giêsu Phục Sinh ngay bên đời ta hay không đó mới là điều quan trọng.

Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta như mời gọi các môn đệ khi trò chuyện, ăn uống với các ông: "Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy"..

Chứng nhân về Thầy, chứng nhân về Đấng Phục Sinh không chỉ là nơi miệng ta khi ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ Chúa nhật hay lễ trọng. Chứng nhân về những điều ấy cần lắm được diễn tả ngay trong đời sống thường nhật của ta. Ta có biết yêu thương, ta có biết chia sẻ, ta có biết quan tâm một Giêsu nhỏ bé nghèo hèn ngay bên cạnh ta không vẫn là lời mời gọi và thách thức niềm tin của ta vào Đấng Phục Sinh.

Xin Chúa Giêsu Phục Sinh thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn luôn nhận ra Ngài hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh, thời gian và không gian của cuộc đời. Và, hơn thế nữa là chúng ta luôn biết diễn tả tình yêu thật sự nơi những người nhỏ bé quanh ta đó. Chính khi ta sống như thế ta mới trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu về mầu nhiệm Phục Sinh mà chúng ta hằng tuyên tín.

-------------------
 

PS3-B140: Làm chứng về Thầy


(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin Mừng Lc 24: 35-48:
 

Niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống lại đó, nó phải diễn tả trong đời thường PS3-B140


Niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống lại đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta.

Có thể nói vấn nạn lớn nhất của người Kitô Hữu đó là niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Là con người, ai ai cũng phải giới hạn bởi sự chết. Và đối diện với cái chết, khi con người nhắm mắt xuôi tay rồi, không ai có thể sống lại được. Rõ ràng rằng, trong cuộc đời mỗi người chúng ta, những người đã chết chúng ta thấy chẳng ai sống lại cả. Và ngay cả Lazarô chết, được Đức Kitô cho phục sinh nhưng rồi sau đó Lazarô cũng phải chết.

Thế nhưng rồi, nơi Đức Kitô Ngài đã phục sinh. Ngài đã dùng nhiều cách để bày tỏ cho các môn để biết rằng: Ngài đã sống lại.

Sự kiện mà cái Ngôi Mộ trống đó chưa phải là bằng chứng của Đức Kitô đã phục sinh. Nhưng rồi, sự kiện mà ngôi mộ trống đó đã mời gọi mỗi người chúng ta suy nghĩ về niềm tin của mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra cho Maria Madalena, với 11 môn đệ, và cho đám đông 500 người còn sống.Và như thế, chúng ta không thể nào gọi là ảo giác, bởi vì tất cả những người đó đã thấy được Đức Kitô phục sinh.

Và thánh Luca thuật lại, thì các ông tưởng thầy mình là ma. Chúng ta thấy ma làm gì có xương có thịt. Và đặc biệt, Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho các môn đệ, Ngài đã cho các môn đệ xem thương tích nơi tay chân để chứng tỏ Ngài có xương có thịt, chứ không phải là một Oan Hồn hay là một Vong Hồn.

Và rồi hình như các môn đệ vẫn nghi ngờ và Người lại đề nghị cho họ sờ chân tay để kiểm chứng và thấy họ hoài Chúa Giêsu lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để chứng tỏ cho họ thấy rằng Ngài đã phục sinh. Thật sự nếu mà làm là ma nếu mà là vong hồn thì không thể nào mà nhai, nuốt như vậy! Cách diễn tả như thế để cho chúng ta thấy rằng: một Đức Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ. Đức Kitô Phục Sinh đã khắc niềm tin nơi các ông: Cho xem cạnh sườn luôn! bởi vì cạnh sườn bị dấu đinh đóng là cái kết quả của sự gian ác của con người và rồi chúng ta thấy:

Với Máccô khi nói về các lầm lỗi của các môn đệ thì Ông chẳng che giấu và nói toạc móng heo. Thánh Luca thì luôn luôn bênh vực các môn đệ. Những lỗi lầm của các môn đệ thì Luca luôn tìm cách để che đậy! Ở đây cũng vậy, Luca luôn luôn bao che cho các môn đệ, lý do rằng các ông chưa tin Chúa Giêsu phục sinh là vì các ông mừng quá đấy thôi! chứ không phải các ông yếu tim.

Thế nhưng mà, chúng ta thấy tâm tình quý trọng các môn đệ nơi thánh Luca rất là đặc biệt. Và ngày hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đã phục sinh thực sự.

Và lời mời gọi của Chúa Giêsu phục sinh ngày hôm nay rất tuyệt vời cụ thể nơi bài đọc thứ nhất. Thánh Phêrô kể ra một cách cụ thể để mà làm chứng Đức Giêsu phục sinh đó là cái cách chúng ta Sám Hối:

“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng ngôn sứ mà báo trước, Đức Kitô của Người đã chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu anh em được xóa bỏ tội lỗi”

Sự thật rõ ràng là: tôi đã làm chứng. chúng ta đánh mất một đức tin nơi Thiên Chúa, nơi Đức Kitô phục sinh. Vì thế, chính vì tội đã làm cho con người ta không còn tin vào Chúa nữa. Và vì thế cần phải ăn năn sám hối, để chừa bỏ tội lỗi chứ thường thì, những người quen phạm tội thì dần dần mất đức tin, và nếu còn đức tin thì rất yếu ớt khi gặp sóng gió giữa cuộc đời. Do đó Câu hỏi đặt ra lúc đầu về sự nghi ngờ về Đức Kitô phục sinh và sự Phục Sinh Của Đức Kitô không phải là không có lý do vậy Muốn nhìn thấy niềm tin của mình còn vững chắc hay không thì theo Thánh Phêrô xét xem mình có phạm tội hay không và biết ăn năn sám hối hay không?

Sám hối là gì? Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh là Đấng công chính mà tha cho kẻ sát nhân.

Sám hối là chúng ta thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu. Từ đóng đinh, giết chết, treo trên thập giá mà nay chúng ta phải tin Ngài là Đấng Công Chính chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu, thay đổi cái đời sống chúng ta.

Và rồi chúng ta được mời gọi rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, là trước hết chúng ta phải Sám Hối. Bản thân của chúng ta Sám Hối, bản thân của chúng ta thay đổi về cái nhìn của Chúa Giêsu phục sinh.

Cùng với Chúa Giêsu phục sinh chúng ta thay đổi về cái nhìn của giá trị, tận tâm can của chúng ta. Nó thực tế, vì trong kinh Tin Kính chúng ta đọc: " Tôi tin xác loại người ngày sau sống lại." Tuyên xưng như vậy có rất nhiều câu hỏi nơi mỗi người chúng ta.

Và cái niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta. Và rất, rất khó khăn, bởi vì ngày hôm nay, giữa một cái trào lưu của một thế giới hưởng thụ, văn minh lên cao; con người thích lợi nhuận, thích tìm những việc thực tế, con người ưa thực dụng hơn là suy nghĩ động não, thì Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy làm chứng cho Người.

Chúng ta làm chứng cho Đức Kitô là: chúng ta giới thiệu một Đức Kitô đã sống lại và đang hiện diện với con người, với nhân loại. Và làm chứng rằng cho thế giới biết rằng: Chúa Giêsu phục sinh không đòi hỏi lợi nhuận tiền bạc, nhưng chúng ta sống bằng chính cái đời sống đức tin của chúng ta. Và đặc biệt, đó là sống cái niềm tin của chúng ta bằng đời thường, bằng lòng mến, bằng lòng bác ái của chúng ta.

Thì chúng ta nhìn vào các môn đệ, chính các môn đệ đã chấp nhận đòn roi khổ cực, tù ngục và sẵn sàng chết vì Đức Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta không phải đối diện bằng những cái chết tử đạo, bách hại đạo như các thánh tử đạo ngày xưa, nhưng chúng ta được mời gọi loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh bằng đời sống yêu thương, bằng đời sống tha thứ, bằng những việc làm cụ thể. Đức Cố giáo hoàng Phaolô 6 nói: ngày hôm nay, người ta cần những chứng nhân chứ không cần những thầy dạy nữa!

Mà quả thật những thầy dạy nghiên cứu về thánh kinh về thần học, về triết học về khoa bảng quá nhiều! Ngày hôm nay những người làm chứng về Chúa Kitô phục sinh bằng đời sống của mình rất hiếm. Nhưng mà «hiếm», nhưng mà có! chứ không phải không!

Chúng ta hãy nhìn nơi gương của Mẹ Têrêsa Calcutta, một người phụ nữ tiều tụy ốm yếu, đau khổ, nhưng mẹ đã có một trái tim của Giêsu, mẹ mang trong mình trái tim của Giêsu: một trái tim yêu thương.

Chúng ta nhìn vào gương của một Phanxicô khó khăn, đã chấp nhận, đã từ bỏ tất cả sự giàu có vinh hoa phú quý của gia đình, để sống nghèo, để yêu thương và lo lắng cho người nghèo. Hay đơn giản, chúng ta có thể nở một nụ cười, nở một nụ cười như Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất. Và đặc biệt gương của lòng tha thứ gương của sự vị tha còn đó nơi Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, cái sự tha thứ đã làm nên khuôn mặt của ngài, ngài đã yêu thương đã diễn tả lòng thương xót.

Tất cả những chứng nhân đó tất cả những vị thánh đó làm chứng cho một Đức Kitô Phục Sinh. Thật sự ra, nơi con người của chúng ta vẫn là những con người yếu đuối, chúng ta vẫn mang trong mình cái phận người. Nói yêu thương, nói tha thứ, không phải là chuyện đơn giản. Đó là những cái thách đố của cuộc đời chúng ta.

Thế nhưng, không phải là không làm được! và không bao giờ làm được! Làm được, Nếu có ơn Chúa! Đặc biệt chúng ta biết kết hợp vào với Đức Kitô Phục Sinh, nơi mỗi thánh lễ chúng ta tham dự. Khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta rước Đức Kitô Phục Sinh vào trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Để rồi khi CHÚA ở trong ta, ta ở trong CHÚA. Chúng ta kết hợp với Đức Kitô, thì chính khi ấy Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa.

Nhờ vào ơn Chúa chúng ta sẽ diễn tả cái đời sống Yêu Thương, bác ái đó cho anh chị em chúng ta, nơi những người chúng ta gần gũi.

Có thể chúng ta còn nghèo, có thể chúng ta không có tiền bạc, có thể chúng ta không có tài sản; nhưng mỗi người chúng ta vẫn có một nụ cười. Mỗi người chúng ta vẫn có một lòng vị tha. Mỗi người chúng ta vẫn có ánh mắt nhân từ, để tha thứ cho anh chị em những người làm tổn hại chúng ta, những người sát hại chúng ta và những người gây đau khổ cho chúng ta.

Thế đấy, một Đức Kitô Phục Sinh đã, đang, và đã sống lại, và mời gọi chúng ta hãy lên đường làm chứng về Thầy, làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Là người Môn Đệ của Đức Kitô, chúng ta luôn luôn được mời gọi để sống Tin Mừng Phục Sinh đó, trong cuộc đời của chúng ta.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để đặc biệt, trước hết, chúng ta sám hối về tội lỗi của chúng ta. Vì chúng ta đã đóng đinh Đức Kitô vào thập giá, và chúng ta lại lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh đã yêu thương chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Chúng ta lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh yêu thương, và tha thứ cho những người xúc phạm, cho những người giết hại mình, bằng chính đời sống Yêu Thương, phục vụ và tha thứ, là chính lúc chúng ta tuyên bố Đức Kitô Phục Sinh rõ nét nhất trong cuộc đời chúng ta.

Xin Đức Kitô Phục Sinh đến, ở lại với mỗi người chúng ta. Và xin cho chúng ta luôn luôn biết kết hợp với Đức Kitô Phục Sinh để chúng ta diễn tả đời sống của một Đức Kitô Phục Sinh trong lời ăn, tiếng nói, trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Amen.

----------------------
 

PS3 B-141: Mục sở thị


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
 

Mục Sở Thị nghĩa là “nhìn tận mắt”, đó là cách nói rút gọn của câu “thực mục sở thị”. Từ điển PS3 B-141


Mục Sở Thị nghĩa là “nhìn tận mắt”, đó là cách nói rút gọn của câu “thực mục sở thị”. Từ điển Hán Nôm giải thích: MỤC là con mắt; SỞ là rõ ràng, minh bạch; THỊ là thân cận, gần gũi. Người ta cũng dùng chữ “mục kích” (mục: mắt, kích: đập vào). Cách nói phổ biến là “nhãn tiền”. Chữ “nhãn tiền” (nhãn: mắt, tiền: trước – ý nói “thấy trước”) do câu “quả báo nhãn tiền”, ý nói về điều không tốt, nhưng ngày nay chữ này cũng được dùng khi nói về điều tốt.

Tình yêu thương là hiện thân của Thiên Chúa (1 Ga 4:8 và 16). Tình yêu đó cũng chính là Lòng Thương Xót của Ngài. Lòng Chúa Thương Xót luôn được nhắc đến suốt Năm Phụng Vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh – cách riêng là Chúa Nhật II Phục Sinh. Chẳng phải mới đây mà từ thuở khai thiên lập địa, Kinh Thánh đã nói đến tình yêu thương. Đây là vài câu cụ thể trong sách Sáng Thế:

St 19:19 – “Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!”

St 24:14 – “Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ TÌNH THƯƠNG đối với chủ con”.

St 24:27 – “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ TÌNH THƯƠNG và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi”.

St 33:10 – “Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG với tôi”.

Bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16) – cách định nghĩa của Thánh Gioan, thế nên Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu Thương. Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một – có thể rút gọn còn một từ YÊU. Phàm ngôn có nhiều cách gọi, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót, đó là cách rút gọn của cách nói “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”. Đôi khi Việt ngữ dễ gây hiểu lầm do cách “rút gọn” văn phạm! Cuộc sống đời thường có nhiều loại thực tế, cuộc sống tâm linh cũng vậy.

THỰC TẾ TỘI LỖI

Có lẽ không thực tế nào buồn và đáng sợ bằng thực tế tội lỗi. Nó không chỉ khiến người ta sa sút về tinh thần, nguy hiểm về phần rỗi, mà còn gây yếu đuối cả về thể lý.

Tội lỗi liên quan ma quỷ, nghĩa là đối lập với Thiên Chúa. Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã NỘP và CHỐI BỎ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã CHỐI BỎ ĐẤNG THÁNH và ĐẤNG CÔNG CHÍNH, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết ĐẤNG KHƠI NGUỒN SỰ SỐNG, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”. Tội to lắm!

Và rồi với “kinh nghiệm đau thương” về việc này (tội chối Thầy) nên vị giáo hoàng tiên khởi đã chân thành kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì KHÔNG HIỂU BIẾT, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy SÁM HỐI và TRỞ LẠI cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Ông Phêrô đã sám hối và được Thầy Giêsu xót thương. Tấm gương sám hối đáng để chúng ta noi theo mỗi khi sảy bước sa chân.

Từ ngàn xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, bởi vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói chính mình là Con Thiên Chúa. Nếu lúc đó chúng ta nghe được điều đó, chắc chắn chúng ta cũng thấy “chói tai” lắm đấy! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết – bởi vì chúng ta được dạy quá nhiều rồi.

Thế thì làm sao? Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi thì chúng ta phải biết thành tâm sám hối, chân thành trở lại, tin tưởng và khẩn cầu LCTX: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Nên biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngài luôn nghe lời. Có thể chính chúng ta cũng đã bao lần thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Chính trong câu hỏi đó đã mặc nhiên có câu trả lời – nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).

Cầu nguyện là khiêm hạ và hạnh phúc, chính lúc cầu nguyện là lúc chúng ta trở nên vĩ đại, bởi vì được thưa chuyện với Thiên Chúa và được Ngài lắng nghe chúng ta trút mọi nỗi niềm. Có ai như Thiên Chúa của chúng ta? Chắc chắn là không! Đó chính là thực tế về ân sủng.

THỰC TẾ HỒNG PHÚC

Thiên Chúa vô cùng đại lượng và hào phóng, hằng ngày Ngài luôn ban muôn vàn hồng ân cho chúng ta – từng phút, từng giây. Đơn giản nhất mà lại cần thiết nhất chính là KHÔNG KHÍ – vì thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa – dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.

Chưa nói được lời tạ ơn thì cũng đừng đối kháng. Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Thật quá tuyệt vời!

Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi LCTX: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”. Tha thiết lắm, Thiên Chúa không nỡ làm ngơ đâu!

Một thực tế khác: Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Thực tế thế thôi!

Chiều Chúa Nhật Phục Sinh, sau khi hai môn đệ nhận ra Sư phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ vội vã trở lại Giêrusalem và thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó – và ban cho cả chúng ta ngày nay.

Vừa dứt lời, và để các môn đệ thấy thực tế minh nhiên, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, có lẽ một phần vì quá vui mừng, một phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) cũng nói thật chứ không hề “nổ” hoặc “xạo” chút nào. Và cũng là để cho “chắc cú”, Ngài hỏi rất thực tế: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Thế thì trên cả tuyệt vời luôn rồi!

Sau khi ăn khúc cá nướng, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Một thực tế minh nhiên và các môn đệ cũng đã “thực mục sở thị”. Rõ ràng và rạch ròi rồi.

Tất nhiên Chúa-Giêsu-phục-sinh biết rõ chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài cũng luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có được hai điều đó thì LCTX luôn chan hòa trên chúng ta. Và chính Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Bổn phận và trách nhiệm không của riêng bất kỳ ai!

Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa hẹn vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta mãi cho tới khi niên tận thế cùng.

Lạy Thiên Chúa chí tôn chí thánh, xin thánh hóa và gia tăng ba đức đối thần cho chúng con, và cũng ban các đức đối nhân để chúng con làm người xứng đáng. Xin Ngài luôn ban Thần Khí để chúng con can đảm làm chứng về Lòng Thương Xót của Ngài và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-----------------------
 

PS3 B-142: Nhãn tiền


(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
 

Chúng ta vừa mừng Đại lễ Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) vào Chúa Nhật tuần trước – Chúa Nhật II PS3 B-142


Chúng ta vừa mừng Đại lễ Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) vào Chúa Nhật tuần trước – Chúa Nhật II Phục Sinh. LCTX luôn được nhắc đến suốt năm Phụng vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh. Ngay từ thuở hồng hoang, thuở khai thiên lập địa, Kinh thánh đã nói đến lòng yêu thương:

– Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất! (St 19:19);

– Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ tình thương đối với chủ con (St 24:14);

– Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ tình thương và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi (St 24:27);

– Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ lòng thương với tôi (St 33:10).

Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu thương, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4::8 & 16). Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một. Cách gọi khác theo ngôn ngữ, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót. Khi chúng ta nói “Lòng Thương Xót Chúa” tức là “Lòng Thương Xót của Chúa”. Thực ra vẫn giống nhau, chỉ vì Việt ngữ không rõ ràng do “rút gọn” văn phạm, và dễ gây hiểu lầm!

TỘI LỖI NHÃN TIỀN

Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”.

Giáo hoàng tiên khởi đã có “kinh nghiệm đau thương” về việc này nên kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19).

Ngày xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói là Con Thiên Chúa, “khó nghe” thật! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết.

Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi nhãn tiền thì chúng ta phải biết sám hối, trở lại, và khẩn cầu LCTX: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Chúng ta phải biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngãi Chúa luôn nghe lời. Biết bao kẻ từng thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Trong câu hỏi đó đạ mặc nhiên có câu trả lời, nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).

HỒNG ÂN NHÃN TIỀN

Chúa luôn ban vô vàn hồng ân hằng ngày. Đơn giản nhất mà lại cần nhất là không khí – thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa – dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.

Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Quá tuyệt vời! Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi LCTX: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”.

Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ.

Sau khi hai môn đệ nhận ra Sư phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó và chúng ta ngày nay.

Nói xong, để các môn đệ thấy nhãn tiền, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, phần vì mừng quá đỗi, phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) nói thật chứ không… “xạo”. Và để cho “chắc cú”, Ngài hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Trên cả tuyệt vời luôn!

Ăn cá xong, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47).

Ngài biết chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có hai điều đó thì LCTX luôn đổ tràn trên chúng ta. Và Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48).

Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin luôn ban Thần Khí Chúa cho chúng con để chúng con can đảm làm chứng về LCTX và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

------------------------
 

PS3 B-143: Bình an của Chúa Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
 

Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ đến độ làm cho con người luôn bất an và lo sợ. Chẳng hạn PS3 B-143


Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ đến độ làm cho con người luôn bất an và lo sợ. Chẳng hạn, thất bại, rủi ro, mất an ninh, nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp hay thất tình... Những nỗi lo sợ này làm ta "ăn không ngon, ngủ không yên" và cũng có thể làm ta tuyệt vọng, thậm chí đánh mất niềm tin nơi bản thân hay tha nhân, thậm chí Thiên Chúa nữa.

Tâm trạng của các tông đồ hôm nay cũng buồn sầu và lo sợ sau cái chết của Thầy Giêsu. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi "nhìn cò ra quạ", nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma. Cho nên, điều đầu tiên Chúa phục sinh hiện đến với các ông là chúc bình an cho các ông và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với các ông. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Từ đó, các ông trở thành những chứng nhân về niềm tin bình an của Chúa Phục sinh cho thế giới một cách kiên cường và bất khuất.

Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, sự bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn ở lại trong chúng ta mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ và Rước Mình Thánh Ngài. Như vậy, sự bình an của Chúa luôn ngự trị nơi tâm hồn chúng ta, có nghĩa rằng chúng ta luôn có Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.

Cho nên, khi ngỏ lời với các tín hữu trong Sứ điệp Phục sinh năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở rằng sức mạnh của người Kitô hữu đến từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và kêu gọi họ trở thành chứng nhân của hoà bình và công lý, nhất là cho những người ngày nay đang phải đau khổ tại những khu vực xảy ra bạo lực và khủng bố khốc liệt. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha kêu gọi hướng đến những người đang đau khổ: “những người thiệt thòi, người bị giam cầm, người nghèo và những người di dân thường bị từ chối, ngược đãi và loại trừ, người bệnh tật và người đau khổ, các trẻ em, đặc biệt những người là nạn nhân của bạo lực”. Ngài kêu gọi họ hãy lắng nghe những lời đầy an ủi của Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy đã sống lại và sẽ luôn ở với anh em”. Và trong sứ điệp, Đức Thánh Cha quả quyết rằng: “Người Kitô hữu, nhờ ân sủng của Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, là những hạt giống của một nhân loại khác, trong đó chúng ta tìm cách sống phục vụ lẫn nhau, không ngạo mạn, nhưng tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Ân sủng ấy là sức mạnh, chứ không phải sự yếu đuối. Nhưng, “những ai mang trong mình quyền năng của Thiên Chúa, tình yêu và công lý của Người thì không cần dùng đến bạo lực; họ nói và làm bằng sức mạnh của chân lý, của vẻ đẹp và tình yêu”.

Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có sự dữ nhưng hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.

Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.

-----------------------------
 

PS3 B-144: Niềm tin thắng vượt sợ hãi


(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Tin Mừng Lc 24: 35-48:
 

Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một PS3 B-144


Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh.

Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người thiếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn, càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngựa. Cậu con thưa với vẻ do dự:

- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.

Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:

- Với đèn sáng này, con thấy rõ đến đâu ?

Cậu trả lời: Con thấy rõ tới nữa đường ra cổng.

Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: Từ đó con nhìn tới đâu nữa ?

- Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.

Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:

- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.

Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.

Thưa anh chị em,

Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối phục sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một "bóng ma" đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên "ma kìa!", nhưng đã được trấn an ngay: "Thầy đây, đừng sợ!" (Mc 6,47-50).

Chúng ta có thể đặt hai câu chuyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự phục sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác phục sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.

Chúa đã quở trách các tông đồ: "Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ ?" Lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạng thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: "Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ" (Có Thầy đây mà còn sợ gì)?. Rồi Ngài đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã "thức dậy" rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã phục sinh và đang sống với anh em.

Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: "Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây ?". Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.

Anh chị em thân mến,

Chúa Phục sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác phục sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các ông luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.

Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này, thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gủi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. "Đừng sợ, hãy tin!" "Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin ?" "Thầy đây, đừng sợ!" "Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai ?" "Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế ? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin ?"…Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: Chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!

Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết "Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian".

-----------------------------
 

PS3 B-145: Làm chứng cho biến cố Phục Sinh


(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP
 

Đức Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã báo trước, nhưng nhiều nguời còn hoài nghi. Sự kiện ngôi PS3 B-145


Đức Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã báo trước, nhưng nhiều nguời còn hoài nghi. Sự kiện ngôi mồ trống chưa thể xác quyết được việc Chúa sống lại từ cõi chết. Ngày thứ nhất trong tuần, chính Đức Giêsu đã hiện ra với bà Maria Madalena từ sáng sớm, với hai môn đệ đi làng Emmau vào buổi chiều và với mười Tông đồ tại nhà Tiệc ly vào buổi tối, để chứng minh là Ngài đã sống lại thật.

Sau khi đã được thấy cả con người Phục sinh của Chúa với những lỗ đinh ở chân tay cùng với cạnh sườn, cũng như thấy Ngài cùng ăn với các ông, lúc đó các ông mới xác tín rằng Chúa đã sống lại. Các ông đã trở nên những chứng nhân trung thành của Chúa phục sinh, và từ đó, các ông đi loan truyền cho mọi người biến cố Phục sinh của Chúa.

Chúng ta không được diễm phúc trông thấy Chúa sống lại như các Tông đồ, nhưng nhờ Thánh kinh, chúng ta tin vững chắc Chúa đã sống lại. Việc Phục sinh của Chúa sẽ là nền tảng cho đời sống Kitô hữu chúng ta. Và từ nền tảng này, chúng ta sẽ loan báo Chúa Phục sinh cho những người chung quanh bằng cuộc sống thường ngày của chúng ta.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Cv 3,13-15.17-19

Thánh Phêrô đã làm phép lạ chữa lành người què ở cửa Đền thờ, điều này làm cho nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân dịp này, thánh Phêrô đã giảng cho người Do thái một bài rất hùng hồn. Ngài cho biết rằng phép lạ ngài làm cho người què đi được, không phải do quyền năng hay đạo đức riêng của mình, mà chính do nhân danh Đức Giêsu Kitô mà ông đã chữa lành. Đức Giêsu chính là người mà dân Do thái đã giết đi, nhưng nay Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết.

Sở dĩ người Do thái giết Đức Giêsu là Đấng Messia vì họ không biết. Vì vậy, họ hãy sám hối, từ bỏ tội lỗi và tin nhận Ngài để được ơn cứu độ.

+ Bài đọc 2: 1Ga 2,1-5

Khi hiến mình làm lễ vật hy sinh, Đức Kitô đã trở nên Đấng can thiệp rất thần thế cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha. Nhiều người cho rằng mình đã “biết” Đức Giêsu, nhưng họ đã biết như thế nào? Thánh Gioan Tông đồ giải thích cho chúng ta thế nào là “biết” thật: ”Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình “biết” Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình “biết” Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối”.

+ Bài Tin mừng: Lc 24,35-48

Khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu đã hiện ra trước hết với Maria Madalena, rồi với hai môn đệ đi làng Emmau và với các tông đồ tại nhà Tiệc ly. Những lần hiện ra này là bằng chứng rõ ràng về sự kiện Ngài đã từ cõi chết sống lại. Chính nhóm Mười Một không tin Ngài sống lại, họ còn tưởng Đấng Phục sinh là một hồn ma. Đức Kitô đã phải để cho họ sờ tay chân Ngài và ăn một khúc cá nướng trước mặt họ để họ nhận ra Ngài.

Mối quan tâm đầu tiên của thánh Luca là chứng tỏ rằng Đức Giêsu Phục sinh chính là người mà các Tông đồ đã biết trước, khi Ngài chịu đóng đinh. Thánh nhân nhấn mạnh rằng sự sống lại về mặt thể xác của Đức Giêsu là có thật, nhưng lại giải thích rõ ràng rằng sự sống lại của Ngài không phải là cuộc trở lại với đời sống trần thế. Đức Giêsu đã sống lại với sự sống mới ở bên ngoài cái chết.

Vì thế, tất cả niềm tin của người Kitô hữu dựa trên biến cố Phục sinh này. Các Tông đồ đã chứng kiến tận mắt, nên lời chứng của các ngài rất đáng tin. Đồng thời Chúa cũng trao cho các ông sứ mệnh rao giảng Tin mừng Phục sinh cho muôn dân, để họ sám hối và được ơn tha tội, bởi vì “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24.48).

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Làm chứng cho Chúa Phục sinh

I. ĐỨC GIÊSU LÀM CHỨNG VỀ MÌNH

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Biến cố này, Gioan cũng thuật lại trong Ga 20,19-23.

Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người: Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với mức độ khác nhau.

Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng mình đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.

Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn Ngài hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất hay linh thiêng, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ vào được.

Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.

Khi các Tông đồ đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi, Chúa mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử:”Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Maisen, các sách tiên tri và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.

Đức Giêsu nói cho các Tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Ngài. Nếu Thánh kinh không ứng nghiệm về Ngài, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Thánh kinh loan báo về Đấng cứu độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4,12). Để thấy rõ như thế, Ngài đã “dẫn giải cho các ông những điều viết về Ngài trong toàn bộ Thánh kinh”(Lc 24,27). Để có thời gian giải thích, chắc Ngài còn phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là 40 ngày được ghi rõ trong sách Công vụ tông đồ:”Ngài lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”(Cv 1,3). Thời gian 40 ngày đã quá đủ để các Tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.

II. CÁC TÔNG ĐỒ LÀM CHỨNG VỀ CHÚA

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ khi Ngài sống lại:”Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,47-48).

Trong bài đọc một, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Đức Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Ngài và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử không thấy tội gì. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi đã phạm, họ đã ăn năn sám hối:”Hôm ấy đã có thêm khoảng 3000 người theo đạo”(Cv 2,41).

Trong bài đọc hai, thánh Gioan đã làm chứng về “ Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cho cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.

Nhìn vào lịch sử truyền giáo, chúng ta thấy các Tông đồ, những chứng nhân trung thực, đã đi rao giảng Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cho muôn dân, nghĩa là sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu thế... các Tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.

Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực nào hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố:”Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước toà án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khảng khái thưa:”Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.

Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chịu chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 Tông đồ, lại có biết bao lớp Tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.

III. CHÚNG TA LÀM CHỨNG VỀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH

Đức Kitô đã làm chứng về Ngài đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các Tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Ngài.

1. Giáo huấn của Hội thánh

Trong sắc lệnh Tông đồ giáo dân của công đồng Vatican II, Hội thánh nhắc nhở cho các tín hữu nhiệm vụ làm tông đồ và làm chứng nhân bởi vì nhiệm vụ này phát xuất từ bí tích Thánh tẩy:

“Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến. Đó là dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại chúng ta để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín hữu của Người. Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết người giáo dân rao giảng Chúa Kitô cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Người tùy theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi người, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Người nữa”.

(Sác lệnh tông đồ giáo dân, số 16)

2. Làm chứng là gì?

Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh qua hay đã kinh nghiệm. Hay nói cách khác, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã nghe, đã trải qua. Ở toà án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều mắt thấy tai nghe, và phải nói đúng sự thực như mình đã thấy. Chứng nhân càng có uy tín thì lời chứng của mình càng có giá trị, khiến người khác dễ bị thuyết phục. Ngược lại, những người không có uy tín thì khiến những lời nói của mình không có tính thuyết phục, đôi khi lại trở nên phản chứng.

3. Làm chứng như thế nào?

Làm chứng cho Đức Giêsu đâu có phải là chỉ kể lại cho kẻ khác về đời sống của một vĩ nhân đã sống cách đây 2000 năm. Ai cũng có thể làm được điều này. Làm chứng cho Đức Giêsu đâu phải chỉ là xác nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại. Đám lính cánh gác mồ cũng đã làm như thế. Làm chứng cho Đức Giêsu chính là dùng chính cuộc sống của mình để chứng tỏ rằng quyền năng của Đức Giêsu sống lại đã tác động và biến đổi chúng ta một cách lạ lùng nhất, có thể tưởng tượng được. Làm chứng nhân cho Đức Giêsu là để cho Ngài ngỏ lời với tha nhân ngang qua chúng ta, nghĩa là dùng chúng ta để nói với kẻ khác.

Truyện: Làm chứng bằng đời sống.

Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài” Truyền giáo năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị phải xử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hoà hợp.

Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu:”Tại Phi châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở, báo chí, phim ảnh, chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình công giáo tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo.

(R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 208)

Thánh Phaolô nhận thấy mình có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, nếu không là một điều có lỗi lớn:”Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Nếu muốn rao giảng Lời Chúa thì mỗi người có trách nhiệm phải lắng nghe và thực hành lời Chúa vì không nghe thì làm sao mà biết, không biết thì làm sao có thể rao giảng Lời Chúa bằng cách này hay cách khác cho những người chung quanh. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài bài ngắn, bài hấp dẫn bài buồn ngủ...

Vào giây phút cuối cuộc đời, văn sĩ John Bayern đã nói những lời từ giã người vợ thân yêu như sau:”Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.

“Trong gương mặt của mình tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa”. Mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống như thế nào, để anh em chung quanh có thể nói tương tự: ”Trong gương mặt của anh, tôi có thể nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn bạn vô cùng”. Đó là ơn gọi cao cả của mỗi người Kitô hữu được gọi trở nên giống Chúa, và làm cho những người khác nhìn thấy Chúa như trong Tin mừng theo thánh Matthêu. Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ:”Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của người Kitô hữu đến độ Chúa so sánh cuộc sống của họ như đèn sáng: ”Các con là anh sáng thế gian”. Ánh sáng đó cần phải chiếu sáng trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. (Hạt giống âm thầm, tr 178)

Ta hãy suy nghĩ về đoạn văn trích từ lá thư mục vụ của Giám mục Duval của Pháp:

“Dù có phát biểu khéo léo đến đâu, những tư tưởng trừu tượng cũng khó mà cảm động được lòng người. Nhưng những con người sống động, có khả năng làm cảm động lòng người, những người đó hãy xung phong bước ra. Hãy để cho chân lý trào ra từ cuộc sống của mình, và hãy làm cho quyền năng của mình tương xứng với món quà mà mình trao tặng bằng tình yêu. Lúc đó mọi người sẽ lắng tai nghe, và bình minh của những ngày tươi sáng sẽ bừng lên trên bầu trời của chúng ta”.

Truyện: Gương lành lôi kéo.

Một nhà truyền giáo Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên cạnh, để nuôi dạy ông học tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như sau:

- Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.

Nhà truyền giáo trả lời:

- Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ phải trở lại đạo Chúa.

Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:

- Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không ai có thể sống bên cạnh ngài lâu, mà không bị ngài cảm hóa tin theo Chúa. Tôi không thể dạy ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô hữu.

Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô, đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ (Sđd, tr 179).

-----------------------
 

PS3 B-146: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ. Lần PS3 B-146


Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ. Lần hiện ra đặc biệt này, Ngài ban cho các ông ơn bình an, soi sáng cho các ông am hiểu Kinh Thánh và ra lệnh cho các ông phải làm chứng nhân về sự chết và sự phục sinh của Ngài.

1. Đức Kitô Phục Sinh ban bình an cho các Tông đồ

Sau khi Đức Giêsu bị bắt, các Tông đồ hoang mang lo sợ. Vì thế, hầu hết các ông đều bỏ trốn. Phêrô chối Thầy ba lần. Trên đồi Canvê chỉ còn lại Thánh Gioan, Đức Mẹ và một số phụ nữ. Nỗi hoang mang lo sợ càng gia tăng khi Thầy đã chết và được táng trong mộ. Cụ thể, các ông vào phòng đóng kín cửa lại. Một vài môn đệ thì bỏ về quê. Cũng vì hoang mang lo sợ nên khi thấy Thầy hiện ra thì họ lại tưởng là ma. Đức Kitô Phục Sinh thấu hiểu tình trạng sợ hãi lo lắng của các ông, nên lần hiện ra này Ngài đã ban bình an cho các ông. Ngài nói: “Bình an cho các con.” Được ban ơn bình an của Đức Kitô Phục Sinh, các ông không còn sợ hãi gì nữa. Từ nay các ông mạnh dạn rao giảng và làm chứng cho Ngài dù phải bắt bớ tù tội và chết chóc.

Ngày hôm nay, Đức Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục ban ơn bình an cho chúng ta. Nhưng để lãnh nhận ơn bình an của Ngài, chúng ta phải giữ mình sạch tội, nhất là tội trọng. Và khi đón nhận bình an của Chúa Phục Sinh, chúng ta phải có trách nhiệm trao ban bình an cho những người xung quanh.

2. Đức Kitô Phục Sinh soi sáng cho các Tông đồ am hiểu Kinh Thánh

Trong suốt ba năm đi theo Thầy, các Tông đồ đã được Đức Giêsu giảng dạy rất nhiều điều, nhưng hầu như các ông chưa hiểu được bao nhiêu. Có những lần, nghe giảng xong, các ông lại xin Thầy giải thích thêm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu giảng xong dụ ngôn người đi gieo giống, “các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì.” (Lc 8,9). Đức Giêsu đã giải thích cho họ một cách rõ ràng. Khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài, các ông không hiểu nên Thánh Phêrô đã can ngăn Ngài. Vì thế, hôm nay Ngài nhắc lại và mở trí cho các ông hiểu: “Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh.” Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Người lại nói: “Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại.”(Lc 24, 44-45)

Cũng vậy, khi Đức Giêsu bảo rằng: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Các ông không hiểu lời Ngài nói, nên Người Do Thái mới nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?”Nhưng sau này các ông mới hiểu, chính Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói.” (x. Ga 2,19-21)

Ngoài những vấn đề được đề cập trên, còn rất nhiều vấn đề khác, các Tông đồ chỉ hiểu sau khi Đức Kitô Phục Sinh soi lòng mở trí cho họ. Nhờ đó, bốn thánh ký đã ghi lại những lời Đức Giêsu đã nói và những việc Ngài đã làm, đồng thời các ông mạnh dạn giải thích Kinh Thánh cho mọi người.

3. Đức Kitô Phục Sinh mời gọi các Tông đồ làm chứng về sự chết và phục sinh của Ngài.

Sau khi ban bình an và soi sáng cho các Tông đồ hiểu Kinh Thánh, nhất là tin nhận về sự chết và phục sinh của Ngài, Đức Giêsu mời gọi các ông làm chứng về những sự việc đó. Các ông đã vâng nghe lời Đức Giêsu và ra đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Bài đọc I hôm nay cho chúng ta biết, khi thấy dân chúng ngạc nhiên và bàn tán với nhau về phép lạ chữa lành cho người què, Thánh Phêrô giải thích cho họ biết: Phép lạ Ngài làm không phải do quyền năng của mình nhưng là do quyền năng của Đấng Phục Sinh ban cho. Rồi Ngài làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh rằng: “Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.”(Cv 3,13-15). Sau những lời giảng dạy hùng hồn như thế, Ngài mời gọi dân Do thái: “Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ.”(Cv 3,17-19). Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút được khoảng 3000 người trở lại.

Trong bài đọc thứ II, Thánh Gioan cũng làm chứng cho Đức Kitô là Đấng công chính, làm trạng sư cho chúng ta nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta làm chứng cho Ngài bằng cách giữ các giới răn của Người vì “Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý.”(1 Ga 2,4)

Mặc dầu các Tông đồ gặp nhiều cấm cách, bắt bớ, tù tội khi đi rao giảng và làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh nhưng các ông luôn luôn can đảm không hề cảm thấy sợ hãi. Chính thánh Phêrô và các Tông đồ khác khẳng định rằng: “phải vâng lời Thiên Chúa còn hơn là vâng lời người đời.” (Cv 5,29). Thực sự như thế, hầu hết các môn đệ đã lấy cái chết của mình để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Sự can đảm làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh của các Tông đồ cũng là động lực giúp chúng ta chu toàn sứ mạng rao giảng Tin mừng cho mọi người trong thời đại hôm nay.

4. Đức Kitô Phục Sinh muốn gì nơi chúng ta?

Chúng ta không được vinh dự gặp Đức Kitô Phục Sinh hiện ra, nhưng qua Kinh Thánh chúng ta tin thật Đức Kitô đã phục sinh. Mặt khác, qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được Đức Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần. Nhờ thế, Chúa Thánh Thần luôn soi sáng cho chúng ta am hiểu Kinh Thánh. Ngoài ra, Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta và sẵn sàng ban ơn Bình an của Ngài cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta cũng có trách nhiệm làm chứng về sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô bằng lời nói và bằng chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin ban bình an cho chúng con, xin soi sáng cho chúng con để chúng con am hiểu Kinh Thánh để từ đó chúng con can đảm làm chứng cho Chúa khắp mọi nơi. Amen.

------------------------------
 

PS3 B-147: Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh


Tin Mừng Lc 24:35-48:
 

Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào PS3 B-147


Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể.

Theo số liệu thống kê của Giáo Hội Công Giáo tính đến cuối năm 2012 số người Công giáo trên toàn thế giới là 1,228 tỷ, Người Công giáo chiếm khoảng 17,5% dân số thế giới, như vậy còn 82,5% chưa nhận biết Chúa Kitô, mặc dầu Giáo Hội đã nỗ lực chu tất sứ vụ loan truyền của mình. Tại sao? Có thể những người Kitô hữu chúng ta chưa loan truyền đúng vè Đức Kitô Phục sinh

Có nhiều người Kitô hữu hiểu rằng, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng là một nhiệm vụ được thêm vào, vì thế có người thơ ơ với nhiệm vụ nầy, có người thì coi nhiệm vụ loan báo đơn giản như một việc chỉ đường, hoặc quá khích hơn, người ta coi Tin Mừng như một món hàng đắt giá, để rồi ra sưc quảng cáo với một mục đích là chiêu dụ tín đồ, có người còn giới thiệu Tin Mừng bằng những lời hứa hẹn về một phần thưởng, hay đưa lời ngăm đe bằng những hình phạt… Và vì thế nhiều người khi nghe đến Tin mừng vội vàng quay lưng.

Quả thật, việc loan báo Tin Mừng không là nhiệm vụ được thêm vào nhưng thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu, có nghĩa là, khi được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Kitô qua bí tích Rửa tội, người tín hữu liền được dự phần vào sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó cho Giáo Hội mà không cần bất cứ một sự giao phó nào nữa. Vì thuộc bản chất nên mọi sinh hoạt đời sống của người Kitô hữu đều là lời loan báo Tin Mừng. Nhưng phải loan báo Tin Mừng Phục sinh như thế nào, để mang lại tính khả tín hầu người nghe có thể tin theo?

Tin Mừng Phục sinh đã tường thuật lời của Chúa Giêsu: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Việc loan báo Tin Mừng Phục sinh không là giới thiệu một Đức Kitô viễn vông, mơ hồ, mà ngày nay người ta gọi là “một con người ảo”, nhưng phải là một Đức Kitô phục sinh “có xương, có thịt”. Vâng, trong một thế giới mà sự phát triển khoa học kỹ thuật đang làm mưa làm gió, thì việc sống với thế giới ảo đang là một nhức nhối cho xã hội hôm nay. Có người đã chia sẻ: Tôi có một cô bạn. Cuộc sống trên Facebook của cô ấy cực kỳ hoàn hảo. Cô xinh đẹp, đi du lịch nhiều nơi. Cô share rất nhiều bài viết mang đậm hơi thở chính luận của các nhà báo nổi tiếng. Cô post lên Facebook hàng chục bài phát biểu của các chính trị gia, với caption đều bằng tiếng Anh. Hôm 2/9/2017 , cô được mời đến nhà chồng sắp cưới dùng cơm, nhân tiện bàn luôn chuyện cưới hỏi. Buổi gặp mặt rất được kỳ vọng ấy biến thành cơn ác mộng khi cô phát hiện ra bố mẹ chồng tương lai hóa ra đều là giảng viên của 2 trường đại học rất lớn. Họ trẻ trung, họ đều dùng Facebook và họ đều đọc tất cả những gì cô đưa lên Facebook. Trong lúc trà dư tửu hậu, họ nghĩ rằng cô quan tâm tới lũ lụt, tới nước mắm thạch tín, tới startup, tới những bài phát biểu truyền cảm hứng của ông tổng thống Hoa Kỳ và họ hào hứng kéo cô vào cuộc trao đổi. Nhưng cô không biết gì cả. Đúng nghĩa đen của từ "không biết gì". Cô chỉ share lên Facebook làm màu. Cô chưa từng nghe ông Tổng thống Hoa kỳ phát biểu. Buổi gặp gỡ ấy kết thúc bằng cái lắc đầu ngán ngẩm của bà mẹ người yêu và cô đủ thông minh để hiểu rằng, sẽ không có thêm buổi gặp gỡ nào nữa. Vâng, sống ảo biến cư dân của nó thành những xác chết biết đi, vô hồn. Vào nhà hàng gọi một món ăn và thay vì mời bố mẹ - những người đang ngồi ngay trước mặt – chúng ta phải chụp ảnh, post Facebook để "mời 500 anh em ăn cùng cho vui". Thật là nực cười.

Tin mừng Phục sinh cần được loan báo, nhưng sự loan báo không là những thông tin chỉ dẫn trên các phương tiện truyền thông, không dừng lại nơi việc cử hành các nghi thức hoành tráng, trái lại việc loan báo phải được cụ thể hoá qua chứng nhân hiện thực cụ thể. Vâng, Tin mừng Phục sinh không là những lời nói trống rỗng, nhưng phải được trình bày sống động nơi những con người có xương có thịt, qua hoàn cảnh sống “nơi những cha mẹ nuôi nấng con cái họ với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ làm việc chăm chỉ để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà không bao giờ mất nụ cười của họ” nói như Đức Phanxicô trong tông huấn Gaudete et Exultate.

Vào ngày 23-3-2018 tại cửa tạp hoá Trebes một thị trấn nhỏ ở miền Nam nước Pháp, một tay súng 25 tuổi người Hồi giáo Redouane Lakdim đã giết nhân viên một siêu thị, một dân thường đang mua đồ trong siêu thị và bắt giữ nhiều con tin. Sau khi nhiều con tin được giải cứu duy chỉ còn người phụ nữ bị tay súng giữ lại, và chính Trung tá Arnault Beltrame, một người công giáo, đã đề nghị đổi chỗ làm con tin thay cho người phụ nữ trên, cuối cùng viên sĩ quan đã bi tên khủng bố bắn trọng thương cuối cùng ông qua đời tại bệnh viện. Viên sĩ quan đã ngã xuống, và sự hy sinh của viên sĩ quan là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin vào sự Phục sinh của Đức Kitô. Không có lời loan báo hùng hồn nào về Tin Mừng Phục sinh cho bằng sự hy sinh của viên sĩ quan.

Quả thậy, Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể.

Lời loan báo Tin Mừng không chỉ là lời thốt ra từ môi miệng, nhưng được bày tỏ cách trọn vẹn trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, để có thể nói được rằng, niềm hy vọng Phục sinh đã được minh chứng cách cụ thể qua đời sống của nguòi tín hữu. một đời sống được tôi luyện bằng những chiến đấu liên tục, cuộc chiến không chỉ đơn thuần chống lại “thế giới và não trạng thế gian" hay "chống lại các yếu đuối và xu hướng của con người chúng ta... Mà còn là một cuộc chiến đấu liên tục chống lại ma quỷ, hoàng tử của sự ác" (Đức Phanxicô). Chúng ta phải chiến đấu, để công việc loan báo Tin Mừng về sự sống không bao giờ bị dập tắt, trái lại nó được đâm rễ sâu vào trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, một cuộc sống thấm đẫm tình yêu thương được đúc nén từ việc kết hợp mật thiết với Đức Kitô, Đấng gần gũi với mọi hoàn cảnh của cuộc sống nhân gian, với những kẻ bị bỏ rơi, nghèo đói, và như thế người ta sẽ không còn cảm thấy xa lạ khi nghe về Tin Mừng, nhưng hơn hết người ta gặp gỡ được một Đức Giêsu thật gần gũi, thật dễ mến qua những con người cụ thể là chính chúng ta người Kitô hữu. Amen.

------------------
 

PS3 B-148: Niềm tin vào sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Lc 24:35-48: Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly.
 

Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các môn đệ khó chấp nhận việc Chúa sống lại, cũng PS3 B-148


Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các môn đệ khó chấp nhận việc Chúa sống lại, cũng như trước đây khi nói về việc lên Giêrusalem, các môn đệ cũng khó chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Chúng ta còn nhớ rõ lắm khi Chúa Giêsu nói Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô đã phản ứng quyết liệt: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Chúa muốn Phêrô hãy trở lại vị trí của mình là môn đệ của Chúa. Là môn đệ thì phải theo sau sư phụ. Sư phụ đi trước, đệ tử theo sau. Nhưng ở đây Phêrô lại cả gan dẫn dắt Chúa, chứ không để Chúa dẫn dắt mình, nên Chúa đã phải nói: "Phêrô hãy lui về đàng sau Ta...

Phản ứng quyết liệt của Phêrô cho chúng ta thấy Phêrô không muốn chấp nhận cái chết của Chúa. Rồi chúng ta còn thấy gì nữa nơi hai môn đệ trên đường Emmau. Hai ông buồn lắm, bởi vì ba năm theo Chúa, bây giờ công toi. Chán nản thất vọng, trở về quê nhà. Tất cả đều muốn nói với chúng ta là các môn đệ không muốn chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết thê thảm, một cái chết ô nhục. Một cái cái chết làm tiêu tán tất cả mọi hy vọng trong ba năm theo Chúa.

Rồi trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy gì?

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người:
Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông Đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với những mức độ khác nhau.

Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng Chúa đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông Đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến thể lý, từ lịch sử đến việc chứng minh được thực hiện đúng lời đã hứa.

Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông Đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn ma hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ mó được. Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.

Rồi chúng ta còn thấy gì nữa? Tôma nhất định không tin việc Chúa sống lại và Tôma nói rằng "nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng có tin. (Ga 20,25)

Tất cả những điều trên muốn nói với chúng ta rằng: thật khó mà chấp nhận sự kiện Chúa Giesu sống lại. Nhưng cuối cùng, các tông đồ đã chấp nhận cái chết và Phục Sinh của Chúa.

Nhìn lại đức tin của các tông đồ và đức tin của chúng ta có một sự khác biệt rất lớn.

Có thể nói chúng ta dễ chấp nhận cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng cái mà chúng ta gọi là đức tin đó chẳng ăn nhằm gì tới cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đã nghe, đã đọc rất nhiều lần về cái chết và phục sinh của Chúa, nhưng chúng ta cũng chỉ đọc như đọc một tiểu sử danh nhân nào đó. Chúng ta chỉ có một chút thán phục và sau đó chẳng còn một chút nào dính dáng đến cuộc sống của chúng ta.

Chúng ta tin, nhưng chúng ta không cảm nhận thấy một cái gì liên hệ đến chúng ta. Ở đây chúng ta thấy rất rõ, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống của các ngài, nên không dễ gì cácngài chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Nếu đã không chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu thì làm sao tin được sự sống lại của Chúa.

Ấy thế mà cuối cùng các tông đồ đã chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, chính vì vậy các tông đồ đã được đi vào vinh quang phục sinh của Ngài.

Còn chúng ta như thế nào?

Nhà thần học Paul Tillich nói: "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin đích thực".

Ở đây, có thể nói chúng ta chẳng nghi ngờ gì cả. Chính ở điểm này làm chúng ta phải suy nghĩ: một đức tin quá dễ dàng cũng đồng nhĩa với một đức tin hời hợt, một đức tin hời hợt chắc chắn sẽ chẳng có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của chúng ta và như vậy chẳng bao giờ chúng ta được chung hưởng vinh quang phục sinh với Chúa Giêsu. Một cảnh báo vô cùng quan trọng cho mỗi người chúng ta để nhìn lại đức tin của chúng ta.

------------------------------
 

PS3 B-149: Suy niệm của Lm. Alfonso


Tin Mừng Lc 24: 35-48: Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cũng cho biết nhóm Mười Một đang rất hoang mang, họ tụ họp trong cửa nhà đóng kín vì sợ người Do Thái bắt bớ.
 

Trong cuộc sống của chúng ta, chắc hẳn có rất nhiều nỗi sợ làm chúng ta lo lắng. Từ khi sinh PS3 B-149


Trong cuộc sống của chúng ta, chắc hẳn có rất nhiều nỗi sợ làm chúng ta lo lắng. Từ khi sinh ra đã bị nhát không chịu ăn ngủ thì “ông kẹ” bắt. Lớn lên một chút, tới trường lớp thì sợ thi rớt. Trưởng thành thì sợ không có người yêu. Bước ra đời thì sợ thất nghiệp. Và khi già thì sợ cái chết đến với mình. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cũng cho biết nhóm Mười Một đang rất hoang mang, họ tụ họp trong cửa nhà đóng kín vì sợ người Do Thái bắt bớ.

Và trong nỗi bối rối của các môn đệ Chúa, thánh sử Luca đã tinh tế gom các sự kiện về những dấu chỉ Chúa Phục sinh trình bày vào chung một ngày, “ngày thứ nhất trong tuần” như là một sự củng cố đức tin nơi cộng đoàn. Có thể nói, tác giả Tin mừng thứ ba này đã nêu cao tầm quan trọng của chiều kích Giáo hội. Cụ thể, Luca cho biết rằng sau khi hai môn đệ trên đường Emmaus được Chúa mặc khải về việc Người đã phục sinh, thì liền lúc ấy, họ quay về Giêrusalem, tìm tới nơi các tông đồ đang tụ họp. Hai ông phải có mối liên hệ thân thiết với nhóm Mười Một lắm nên mới biết tìm họ đang lẩn trốn ở đâu. Và dấu chỉ mà hai môn đệ kể lại đã củng cố kinh nghiệm của cộng đoàn về sự kiện Chúa Phục Sinh.

Trong khi các môn đệ vẫn còn hoang mang, Chúa Giêsu cảm thương và bất ngờ hiện ra giữa các ông. Người minh chứng cho họ biết hiện diện trước mặt họ không phải là một ảo ảnh hay vong hồn, nhưng Người đã phục sinh. Chúa phục sinh với một thân thể bằng xương bằng thịt hẳn hoi, như trước kia khi Người sống giữa các môn đệ, cùng ăn uống với họ hàng ngày, và thậm chí còn có cả những dấu đinh nơi tay chân là dấu chứng của việc Người đã chịu khổ nạn. Nhưng thân thể ấy cũng hoàn toàn khác vì đã được biến đổi, nên mới có thể bước vào trong lúc cửa phòng đóng kín. Chúa Giêsu phục sinh vẫn trong mầu nhiệm Ngôi hiệp nhưng giờ đây chỉ được nhận ra nơi những ai được mở lòng trí, được khai sáng, được củng cố đức tin.

Chúa Giêsu từng bước soi lòng mở trí cho các môn đệ quy tụ ở Giêrusalem về những lời trong Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, “cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Người trong luật Môisen, trong sách Tiên tri và Thánh vịnh”. Chúa Giêsu đã dùng mọi hình thức có thể minh chứng về sự phục sinh của Người để giúp các môn đệ tin. Và từ niềm tin ấy, Người biến họ thành những chứng nhân cho Người.

Vâng, người môn đệ chỉ có thể trở thành những chứng nhân, mạnh dạn bước ra khỏi cửa nhà đóng kín, khỏi sự sợ sệt của việc bị bắt bớ khi và chỉ khi họ có được bình an thật sự. Đó là sự bình an đến từ Thiên Chúa, bình an của nỗi vui mừng và niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Và vào ngày 23/3/2018 vừa qua, một sự kiện làm cả thế giới hướng về nước Pháp không phải là cuộc khủng bố cho bằng một hành động anh hùng của viên trung úy cảnh sát Cal Arnaud Beltrame là một người Công Giáo rất ngoan đạo. Hợp cùng các nhà lãnh đạo thế giới chia buồn với nước Pháp, Đức Thánh cha Phanxicô viết trong điện văn gởi đến Đức Giám Mục Jean Planet của Carcassonne và Narbonne: “Tôi ghi nhận đặc biệt hành động quảng đại và anh hùng của Trung úy Beltrame Arnaud, người hiến mạng sống mình vì mong muốn bảo vệ người dân”. Một người tên Redouane Lakdim, tự nhận thuộc phần tử cực đoan, trong phút chốc đã hạ sát nhân viên bán thịt và một khách hàng đang mua sắm trong siêu thị tại Trebes. Tên khủng bố tiếp tục bắt giữ một phụ nữ để làm bia đỡ đạn cho mình. Trong tình huống nguy cấp ấy, trung úy Beltrame 44 tuổi, đề nghị thế chỗ cho người phụ nữ này. Anh mở điện thoại di động của mình và cố ý để lại trên bàn. Nhờ vậy, bên ngoài, cảnh sát có thể nghe thấy những gì đang diễn tiến bên trong. Khi nghe nhiều tiếng súng nổ, cảnh sát lập tức xông vào siêu thị, và phát hiện Beltrame đã bị trọng thương. Anh đã trút hơi thở vài giờ sau đó tại bệnh viện. Khi tổ chức thánh lễ cầu nguyện cho viên sĩ quan, Đức cha Planet đã ví Beltrame với Thánh Maximilian Kolbe, người đã qua đời tại trại tử thần Auschwitz của Đức Quốc xã sau khi tình nguyện chết thế cho một tù nhân khác.

Ngày nay, không thiếu những cách khác nhau để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Bằng chính đời sống Kitô hữu, chúng ta hãy chứng tỏ về đời sống của người “có Chúa Giêsu sống trong tôi”. Và cách hữu hiệu nhất vẫn là bằng cuộc sống tốt lành và đầy nhân ái với anh chị em xung quanh. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta can đảm dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của mình. Amen.

-------------------------
 

PS3 B-150: Bình an đích thực



(Suy niệm của Lm John Nguyễn Tươi)
"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy" (Ga 14,23)
 

Cuộc sống con người ngày nay có quá nhiều nỗi sợ hãi và bất an. Sợ vì bị thất nghiệp, sợ vì PS3 B-150


Cuộc sống con người ngày nay có quá nhiều nỗi sợ hãi và bất an. Sợ vì bị thất nghiệp, sợ vì chiến tranh, sợ bệnh tật, sợ nợ chồng chất, sợ mất nhà cửa, sợ mất người yêu, sợ bị kẻ thù hãm hại...Từ những sợ hãi đó, con người phải tự vệ, bạo động và đấu tranh để tìm kiếm sự yên ổn và hòa bình.Thế nhưng, đó có phải là cách thế để mang lại cho chúng ta sự bình an và hòa bình đích thực, hay chỉ là một thứ bình an giả tạo chóng qua.?

Câu truyện "Em bé napalm"- Phan Thị Kim Phúc đã làm rung động hàng triệu trái tim, do nhiếp ảnh gia Nick Út ghi lại khoảng khắc đau thương của một bé gái Việt Nam, 9 tuổi, trần truồng đang chạy hoảng loạn sau trận bom đổ xuống tại Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Theo lời chị thuật lại: "Lúc đó là khoảng 2 giờ chiều một ngày tháng 6.1972, làng Trảng Bàng bùng cháy với những đợt bom napalm giội xuống. Tôi cùng những đứa trẻ khác cố chạy thoát, nhưng hai người anh sinh đôi của tôi đã chết tại chỗ… Rất đau lòng. Tôi nghe thấy tiếng bom nổ, rồi đột nhiên lửa bùng lên quanh tôi. Quần áo tôi bị lửa thiêu trụi. Tôi bỏ chạy trên đường và lọt vào ống kính của chú Út. Tôi được chú Út đưa đến một bệnh viện nhi đồng của Mỹ cứu chữa....” Năm 1992, chị và chồng rời Cuba đến định cư ở Canada. Tại đây, tổ ấm của họ đã được vun đắp và chào đón hai cậu con trai.

Khi hỏi chị về ký ức “Em bé năm xưa” và những ngày đau đớn do bị bỏng bom napalm, chị Kim Phúc trải lòng: "Đừng nghĩ rằng cô bé khóc vì đau và sợ hãi mà hãy nghĩ rằng, cô ấy đang khóc vì khát vọng hòa bình. Kim Phúc cho biết thêm, khó khăn nhất đối với chị không phải là vượt qua những đau thương, mà chính là tha thứ cho những người đã bỏ bom ngôi làng và gây ra cho chị nhiều nỗi khổ đau. Chị nói: "Mọi người cũng muốn biết tôi sẽ trách cứ những ai và với những gì đã gây ra cho tôi, nhưng tôi không thể giữ mãi hận thù trong lòng. Cuộc sống đã dạy tôi hiểu rằng, tha thứ còn mạnh hơn bất kỳ vũ khí chiến tranh nào”.

Năm 2008, chị đã có bài phát biểu ấn tượng trên Đài phát thanh quốc gia Canada có tên là " Đường dài tới sự tha thứ", chị nói: "Tôi vẫn còn nhiều vết sẹo trên cơ thể và mỗi ngày vẫn đau đớn vô cùng, song trái tim tôi đã được chữa lành. Bom napalm công phá mạnh mẽ, nhưng lòng tin, sự tha thứ và tình yêu còn lớn hơn thế. Chúng ta sẽ chẳng có chiến tranh nếu mọi người đều có thể học cách sống với tình yêu chân thành, hy vọng và sự tha thứ. Tôi luôn biết ơn những người đã cho tôi sự sống, giờ tôi có thể chấp nhận bức ảnh đó, như là một món quà đầy sức mạnh. Tôi có thể làm việc với nó vì hòa bình".

Từ trải nghiệm đau thương và mất mác của Kim Phúc, chúng ta có thể xác nhận với nhau rằng, bình an đích thức chính là sự tha thứ. Như lời Chúa dạy chúng ta" Các con hãy tha thứ cho những kẻ làm hại mình, hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ anh em" (Mt 5, 44). Bởi lẽ, chúng ta khó có thể tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, vì chúng ta chỉ nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác, để rồi kết án người khác. Hơn nữa, chúng ta thường mắc phải bởi tính tự mãn, tự kiêu, tự tôn và tự cho mình là người công chính và hoàn thiện.

Nếu chúng ta khiêm tốn đặt mình dưới ánh sáng Lời Chúa, thì chúng ta sẽ nhận ra con người thật của mình, nhờ đó ta có thể dễ dàng tha thứ cho người khác. Và trên hết mọi sự, tha thứ đòi hỏi phải có lòng yêu thương, bác ái và muốn người khác trở nên hoàn thiện. Tha thứ là cánh cửa mở ra sự bình an và cho Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn. Chúa Giê-su nói: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy." Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta bình an đích thực khi Ngài ban bình an của cho các tông đồ, để có đủ can đảm ra đi trước những sợ hãi lo âu. Đó là lời chúc duy nhất khi Ngài về cùng Thiên Chúa Cha. Ngược lại, ở đâu không có Thiên Chúa là ở đó không có bình an đích thực. Bình an của Chúa không theo kiểu thế gian ban tặng, nhưng bình an đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ biến đổi tâm hồn chúng ta, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tránh chấp...Vì ai cầm gươm sẽ chết vì gươm.

Như lời cố Đức Giáo hoàng Phao-lô II, vào ngày 22-10-1978, lần đầu tiên khi ngài ra mắt công chúng trước tiền đường Thánh Phê-rô, ngài lập lại lời Chúa Giê-su nói: " Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ ". (Mt 14:27). Chúng ta chưa có bình an trong tâm hồn vì chúng ta còn bám víu nhiều thứ của cải thế gian. Tâm hồn ta vãn nặng trĩu nỗi lo âu, buồn rầu, vì chúng ta muốn có được nhiều hơn là mất đi, nên đời ta cứ mãi đắm chìm trong đam mê, tìm kiếm bởi của cải, quyền lực và lạc thú giả của thế gian, cho nên bình an của Chúa không có chỗ nơi tâm hồn trống rỗng và đầy thương tích tội lỗi.

Giờ đây, xin Chúa cho mọi người chúng ta biết tìm kiếm nơi Chúa là nguồn bình an đích thực: "Thầy sẽ ban bình an cho anh em". Nước Trời là sự bình an, vui tươi và hạnh phúc, thì chính giây phút hiện tại khi chúng ta tha thứ và hòa giải cho nhau, đó là Nước Trời, và nơi đó có Thiên Chúa hiện diện và ban bình an cho chúng ta. Amen.

----------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây