Chúng ta khó biết được mức sâu đậm của chất “thực” ẩn dưới hình ảnh “chủ chiên” trong: PS4-B51
Chúng ta khó biết được mức sâu đậm của chất “thực” ẩn dưới hình ảnh “chủ chiên” trong sự so sánh của Chúa Giêsu. Ngày nay không còn thấy cảnh những mục đồng hòa mình với đàn chiên nữa. Đám đông nghe Chúa giảng dạy có một não trạng thấm nhuần lịch sử tổ tiên họ. Abraham và những tổ phụ khác sống một đời du mục bị chi phối bởi sự tìm kiếm đồng cỏ gia súc, các ông sống giữa đàn chiên mình, biết rõ từng chiên một, và chiên cũng biết rõ chủ của chúng. Khi xưng mình là Chúa chiên lành, Chúa Giêsu biết rằng đám đông hiểu Người. Chúa đưa ra một sự so sánh hoàn toàn phù hợp với tâm lý thính giả. Nền văn mình chúng ta biết đến một loại bầy lũ khác, đó là bầy xe hơi vô trật tự, là lũ người đông như kiến trong các thành thị. Giả sử Chúa sống ở thế gian ngày nay, chắc hẳn là Người sẽ dùng một hình ảnh so sánh khác để nói với chúng ta, nhưng giáo huấn của Nguòi cũng sẽ như xưa mà thôi. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì?
1) Trước hết, dạy chúng ta biết đến một sự hiện diện. Chúa hiện diện giữa thế giới như người chủ chăn sống lẫn với đàn chiên mình. Một trong những đặc tính của chủ chăn là tham gia đời sống đàn chiên, chủ và chiên nên như một: Chủ chiên không đứng ngoài đàn, nhưng dẫn đầu đàn chiên. Xuyên qua sự so sánh Chúa muốn cho người ta hiểu rằng Người có mặt trong nhân loại và dẫn dắt nhân loại. Không một ai ở bất cứ thời nào lọt ra ngoài cặp mắt cảnh giác chăm nom của Đấng muốn chăn dắt y tới chốn mà y sẽ tìm ra lương thực và an toàn. Lương thực cho tâm trí, cho trí tuệ và ý chí, cho cơ thể nữa –đó là mối quan tâm chiếu cố luôn luôn sẵn sàng của Chúa đối với con người ngày nay. Tuy nhiên muốn được chăm nom thì phải thỏa mãn một điều kiện: con người phải chấp nhận làm thành viên, nhất là do đức tin, của “bày chiên” mà Đức Kitô là Chúa chiên lành.
2) Ta biết chiên Ta… như Cha biết Ta. Ở đây chúng ta vào một lĩnh vực của linh hồn trong đó ẩn náu cái nhu cầu sâu kín nhất của con người. Thật vậy, bởi đâu con người đau khổ nhất? Đau khổ vì cảm thấy mình cô đơn: Không một tình thương mến nào, không một trực giác nào, không một sự chăm sóc nào có thể đi vào tâm khảm của bản thể chúng ta. Trong lương tri chúng ta có một trung khu, nơi đây không một ai (kể cả chính ta nữa) được quyền vào sâu, và ở trong trung khu đó, chúng ta cảm thấy lẻ loi cô quạnh. Những ngành khoa học nhân văn, nhất là khoa tâm lý học, cố gắng tìm hiểu những cơ chế âm u của vô thức. Cho dù những khoa đó đạt được kết quả thì vẫn còn đó cái lối cá biệt không sao phân tích được, trong cái nhân ấy con người cảm thấy vấn đề của mình –với số mệnh mình. Con người đau khổ và không được ai hiểu biết mình đến tận cùng nội tâm.
Thế mà, này đây Chúa nói Chúa hiểu biết con người như Cha hiểu biết Con. Như Cha biết Ta, nghĩa là Chúa biết rõ con người bằng một sự hiểu biết trực tiếp vào sâu tới chỗ tận cùng tâm khảm giữa Cha và Con có một sự hiểu biết tương giao toàn diện, hiểu tới tận cùng. Chúa hiểu biết tới đáy lòng con người. Chúa làm cho con người hết lẻ loi. Nếu tôi tự hỏi lòng thì tôi biết rằng có một Đấng biết rõ tâm khảm tôi, vào sâu trong tôi, hiểu tôi, và –đây là một niềm an tâm tuyệt đỉnh- Người xét đoán tôi, không phải để lên án, nhưng là để cứu vớt tôi, vì Người thương tôi.
Có một hệ quả (trong số biết bao hệ quả): chúng ta có nhậy cảm không, đối với nỗi cô đơn của những người anh em ở quanh ta? Họ sẽ cảm thấy được chúng ta hiểu biết họ đôi chút, do đó thấy vơi đi được một ít nỗi buồn lẻ loi cô quạnh. Nếu như chúng ta cố hiểu họ như Chúa hiểu họ, nghĩa là nếu chúng ta đứng vào đúng trục nhìn của đôi mắt yêu thương Chúa Giêsu hướng thẳng về họ.
Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương: PS4-B52
Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của ngài có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận ngài chăm sóc.
Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Kinh Thánh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Kinh đã hát lên:
“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì… Dầu qua lũng âm u, Tôi sợ gì nguy khốn, Vì có Chúa ở cùng..”
Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israel đã bị thoái hoá. Vào thời kỳ ấy, Ngôn sứ Ezekiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các vị mục tử này: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi: các người chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó những bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm hững con lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tế Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên cho một Vị Vua, giống như Đavít, tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn chiên” (Ez 34,2-4,9-10.23).
Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhân vật mà Ngôn sứ Ezêkiel đã tiên báo. Giống như Đavít, người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc đường. Hơn nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa, Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống Phục Sinh của Ngài cho đàn chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu thoát mà còn được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa nữa”. Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: “Không có Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dười bầu trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác”.
Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng Ngài, đi theo Ngài, thì “ không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi tay Ngài được”(Ga 10,28).
Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chúa Kitô chăn dắt. Như thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng mọi tín hữu cũng là “mục tử” theo gương người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và do đó, chúng ta là “mục tử” trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái; các thành viên trong gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở trường, lớp. Các viên chức từ xã đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm vơí mọi người trong họ đạo, gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nữ phụ trách các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong giáo phận của ngài. Đức Giáo Hoàng có trách nhiệm trên toàn thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề!
Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh em theo gương người Mục Tử nhân lành, như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của ngài. Với ý thức trách nhiệm mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép mưu lợi cho cá nhân mình nữa. Là Kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn toàn.
Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.
NGƯỜI CHĂN CHIÊN ĐÍCH THỰC VÀ NGƯỜI CHĂN THUÊ (Ga 10,11-15)
Đoạn này đưa ra những nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung: PS4-B53
Đoạn này đưa ra những nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung tín và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên. Nếu có chuyện gì xảy ra cho chiên, người ấy phải có bằng chứng để chứng minh mình không có lỗi. Amos có nói đến việc người chăn chiên gỡ được hai giò hay một tai của chiên ra khỏi hàm sư tử (3,12). Luật quy định: “Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người chăn phải có bằng chứng” (Xh 22,13). Ở đây muốn nói là kẻ chăn phải đem về một dấu chứng nào đó để chứng minh chiên ấy đã chết, và người ấy đã không thể ngăn chặn được cái chết ấy. Đavít kể cho Saul nghe ông chăn chiên cho cha mình, đã đánh đuổi được sư tử và gấu (1Sm 17,34-36). Isaia đề cập đến việc kẻ chăn chiên được gọi ra để bảo vệ đoàn chiên là điều rất tự nhiên. Lắm khi họ phải làm nhiều hơn thế nữa để cứu chiên, đó là phải liều bỏ mạng sống mình vì chiên. Trong quyển Xứ Thánh và Kinh Thánh, Thompson viết: “Tôi thích thú nghe họ thuật lại một cách sinh động về những trân đánh nhau quyết liệt và tuyệt vọng với đám thú dữ đó. Rồi khi bọn trộm đến, người chăn trung tín thường phải liều mạng để bảo vệ đoàn chiên. Tôi được biết có nhiều trường hợp người chăn thật sự hy sinh mạng sống mình trong cuộc chiến đấu. Mùa xuân vừa rồi, ở khoảng giữa Tibêriat và Tabo, tội nghiệp một người chăn trung tín, thay vì bỏ chạy, đã ở lại chiến đấu với ba tên cướp du mục, cho đến khi anh bị băm vằm ra từng mảnh, nằm chết giữa bầy chiên mà anh bảo vệ”. Người chăn thật chẳng bao giờ ngần ngại liều mạng, ngay cả khi phải hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên.
Nhưng mặt khác, cũng có kẻ chăn thuê, bất trung. Chỗ khác nhau là: Người chăn thật là kẻ vốn được sinh ra để làm công việc này. Anh được sai đến với bầy chiên lúc vừa đủ tuổi có thể chăn chiên được, anh lớn lên trong tiếng gọi trở thành người chăn chiên, và chiên trở thành bạn chung sống với anh, anh lo nghĩ cho chiên trước khi lo nghĩ cho mình. Nhưng kẻ chăn thuê nhận việc không do tiếng gọi, mà vì muốn kiếm tiền. Anh hành nghề chỉ bởi đồng lương. Cũng có thể anh ta phải ra đồng lên núi chăn chiên chỉ vì thành phố quá chật chội, nóng bức. Anh ta không hề có một ý thức cao, một tinh thần trách nhiệm đối với công tác, anh chỉ là một kẻ làm thuê ăn lương.
Chó sói là mối đe dọa cho chiên. Chúa Giêsu đã bảo với các môn đệ là Ngài sai họ đi như chiên vào giữa bầy sói (Mt 10,16). Phaolô cảnh báo các kỳ mục tại Êphêxô là sói dữ sẽ tấn công, không dung tha đoàn chiên (Cv 10,19). Nếu những con sói này đến tấn công, thì những kẻ chăn thuê sẽ chẳng còn nhớ gì ngoài mạng sống của họ và tìm cách bỏ chạy. Dacaria nhấn mạnh điều đó như đặc tính của kẻ chăn thuê, và bảo rằng hắn chẳng làm gì cả để tập hợp những con chiên bị tản lạc lại (Dcr 11,16). Thân sinh của Carlyly có lần đã đưa hình ảnh đó ra trong một bài phát biểu của ông. Thời ấy, tại Ecclefechan, họ gặp rắc rối và nói với giọng cay đắng: “hãy trả tiền công cho người chăn thuê, và để ông ta đi đi”.
Điều Chúa Giêsu muốn nói là người làm việc chỉ mong được khen thưởng sẽ nghĩ đến tiền trên hết, còn người làm việc vì yêu thương thì nghĩ ngay đến những người mà mình muốn phục vụ hơn bất cứ điều gì khác. Chúa Giêsu là người chăn chiên nhân hậu, yêu mến chiên đến độ liều mạng sống vì chiên, đến một ngày, Ngài hy sinh mạng sống Ngài cho đoàn chiên.
Trước khi kết thúc phần này, chúng ta có thể ghi nhận thêm hai điểm. Thứ nhất, Chúa Giêsu tự mô tả Ngài là người chăn chiên nhân hậu. Trong tiếng Hy Lạp có hai từ “tốt”. Chữ agathos mô tả phẩm chất đạo đức của một vật nào đó; và chữ kalos cũng nói đến các phẩm chất tốt, nhưng còn có ý là trong cái tốt đó có một cái gì thu hút, hấp dẫn, khiến người hoặc vật ấy đáng yêu mến, đáng ưa chuộng. Khi Chúa Giêsu được mô tả là người chăn chiên nhân hậu (có bản Việt ngữ dịch là hiền lành), thì từ được dùng là kalos. Trong Chúa Giêsu có một cái gì vượt hẳn con người tháo vát thành công, con người trung tín tận tụy, trong Ngài còn có vẻ đáng yêu, đáng mến nữa. Thỉnh thoảng người ta đề cập đến một lương y, gọi thế, chẳng những người ta ngụ ý đó là vị bác sĩ tài ba, mà còn nghĩ đến thái độ ưu ái, dịu hiền, tận tụy gắn liền với con người ông, khiến ông được lòng mọi người. Trong bức tranh về Chúa Giêsu ở đây với tư cách Người chăn chiên nhân hậu, Ngài chẳng những đầy sức lực, quyền năng, mà còn hiền lành và đáng yêu, đáng kính nữa.
Điểm thứ hai, trong dụ ngôn này, đoàn chiên chỉ về Hội Thánh của Chúa Giêsu. Đoàn chiên dễ gặp hai điều nguy hiểm. Nó dễ bị muông sói và bọn trộm cướp tấn công từ bên ngoài, và có thể bị kẻ chăn thuê làm hại từ bên trong. Thật là thảm họa cho đoàn chiên khi gặp kẻ lãnh đạo xấu, những kẻ chăn xem công việc của họ như một thứ nghề chứ không là cơ hội để phục vụ. Cái thứ nguy thứ hai này tệ hại hơn nhiều. Vì nếu có được một người chăn tốt, trung thành, sẽ có một công cuộc phòng thủ vững chắc đối lại những tấn công từ bên ngoài. Nhưng nếu là kẻ chăn bất trung, chăn thuê, thì những kẻ thù bên ngoài rất dễ xâm nhập và phá hoại đoàn chiên. Điều quan trọng nhất trong Hội Thánh là cấp lãnh đạo phải noi theo gương Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành.
SỰ HIỆP NHẤT TỐI HẬU (Ga 10,16)
Một trong những điều khó hủy nhất trên đời là hủy bỏ đặc quyền. Khi một dân tộc hoặc một nhóm người đinh ninh họ được đặc quyền, khác với những người chung quanh, thật khó cho họ để chấp nhận những đặc quyền mà họ tưởng chỉ thuộc riêng về họ, thật ra cũng mở rộng cho mọi người. Đó là điều mà Do Thái chẳng bao giờ chịu học biết. Họ tin mình là dân ưu tuyển của Chúa, chẳng bao giờ Chúa dùng một dân tộc hoặc một quốc gia nào khác. Họ tin các dân tộc khác may lắm thì được dùng làm nô lệ cho họ, còn tệ hơn, thì bị bác bỏ hoặc xóa sạch khỏi mặt đất. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu bảo có một ngày, mọi người sẽ nhận biết Chúa Giêsu là mục tử của họ.
Cựu Ước cũng hé mở cho thấy ngày đó. Ngôn sứ Isaia được thấy trước điều đó. Ông tin rằng Chúa dùng dân Israel làm ánh sáng cho các dân ngoại (Is 42,6; 49,6; 56,8). Lúc nào cũng có những tiếng nói nhấn mạnh, Chúa không phải là sản nghiệp riêng của dân Israel, nhưng Israel được lập nên để bày tỏ cho mọi người biết Chúa.
Thoạt nhìn dường như trong Tân Ước có hai tiếng nói khác hẳn nhau về vấn đề này. Một vài đoạn của Tân Ước khiến chúng ta hơi bối rối và thắc mắc. Chẳng hạn Matthêu kể chuyện lúc Chúa Giêsu sai các môn đệ, Ngài dặn họ rằng: “Đừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Samari, song hãy đi đến cùng những con chiên lạc của nhà Israel” (Mt 10,5.6). Khi người đàn bà Syrô Phênixi khẩn cầu Chúa Giêsu cứu giúp, thoạt tiên Ngài nói Ngài chỉ được sai đến cho những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi (Mt 15,24). Nhưng cũng có nhiều việc khác, chính Chúa Giêsu đã ở lại và dạy dỗ tại Samari (Ga 4,40). Ngài tuyên bố, dù là con cháu của Abraham cũng không được bảo đảm là sẽ vào thiên đàng (Ga 8,39). Ngài bảo với một đội trưởng người Rôma rằng Ngài chưa từng thấy người nào trong Israel có đức tin như vậy (Mt 8,10). Chỉ có một người phong cùi là dân Samari quay lại cám ơn Chúa mà thôi (Lc 17,19). Chính một du khách Samari đã tỏ lòng nhân từ thương xót mà mọi người phải noi theo (Lc 10,27). Nhiều người sẽ từ Đông, Tây, Nam, Bắc đến ngồi vào bàn tiệc trong Nước Trời (Mt 8,11; Lc 13,28). Chúa Giêsu không chỉ là ánh sáng cho dân Do Thái, nhưng còn là ánh sáng cho cả thế giới (Ga 8,12).
Tại sao lại có sự khác nhau như vậy? Phải hiểu thế nào về những câu nói dường như giới hạn sứ mệnh của Chúa Giêsu chỉ cho người Do Thái mà thôi? Thật ra lời giải thích rất đơn giản. Mục tiêu tối hậu của Chúa Giêsu là cả thế gian. Nhưng bất cứ một nhà chỉ huy giỏi nào lúc đầu cũng phải biết giới hạn các mục tiêu. Nếu cùng một lúc, tấn công khắp mọi nơi trên một mặt trận quá rộng, chỉ làm phân tán lực lượng, suy giảm sức mạnh mà chẳng đạt được thành công. Muốn thắng lợi hoàn toàn, người chỉ huy phải tập trung lực lượng vào một số mục tiêu giới hạn và chọn lọc nào đó. Đây là việc Chúa Giêsu đã làm. Khi chính Ngài đích thân đi hay phái các môn đệ đi, Ngài cố ý chọn lựa một mục tiêu giới hạn. Nếu Ngài cứ đi đây, đi đó bất luận chỗ nào, nếu Ngài cứ sai các môn đệ đi mà không giới hạn phạm vi hoạt động của họ, chắc đã chẳng thành đạt được như thế. Trong lúc này, Ngài cố ý tập trung vào dân Do Thái, thế nhưng mục tiêu tối hậu là thâu góp cả thế gian vào tình thương của Ngài. Trong đoạn này có ba chân lý quan trọng.
1) Chỉ trong Chúa Giêsu thế gian mới hiệp nhất được. Egerton Young là nhà truyền giáo đầu tiên cho người Da Đỏ. Tại Saskatchwan, ông nói cho họ biết về tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Với người Da Đỏ, đó là một phát giác mới mẻ. Sau khi vị giáo sĩ giảng xong, người tù trưởng già hỏi: “Khi ông gọi Ngài là “Cha chúng tôi” phải không?. Ông Young trả lời; “Phải”. Cụ tù trưởng nói: “Quả thật đó là điều mới mẻ và thú vị đối với chúng tôi. Chúng tôi chẳng bao giờ dám nghĩ đến vị Thần linh vĩ đại ấy là “Cha chúng tôi”, vậy như vầy thật là vô cùng đẹp đẽ đối với chúng tôi”. Ngưng một chút, rồi cụ già tiếp tục nói với vẻ mặt bừng sáng: “Thưa, có phải ông bảo vị Thần vĩ đại là Cha của ông không?”. Vị giáo sĩ đáp: “Phải đấy, thưa Cụ”. Cụ tù trưởng tiếp: “Vậy có phải ông nói Ngài cũng là Cha của người Da Đỏ chúng tôi phải không?”. Vị giáo sĩ: “Đúng vậy”. Cụ tù trưởng như bừng lên trong vui mừng: “vậy thì ông với tôi là anh em”.
Loài người chỉ có thể hiệp nhật với nhau trong tư cách là con Chúa. Trên thế giới, có sự chia rẽ giữa dân tộc này với dân tộc khác. Trong một quốc gia, có sự chia rẽ giữa giai cấp này với giai cấp nọ, sẽ chẳng bao giờ có được một giai cấp duy nhất. Chỉ có Phúc Âm của Chúa Giêsu mới đưa con người về một Cha chung là Thiên Chúa, tại đó mọi hàng rào cách biệt, mọi kỳ thị giữa con người với nhau được xóa sạch.
2) Câu nói này của Chúa Giêsu cũng cho từng cá nhân, đó là giấc mơ mà mỗi cá nhân có thể góp phần giúp Chúa Giêsu thực hiện. Người ta không thể nghe đạo nếu không có người rao giảng. Những chiên khác không thể tập họp được nếu không có người đi thâu đem chúng về. Công tác truyền giáo trọng đại của Hội Thánh đã được đặt ra trước chúng ta. Chúng ta không nên chỉ nghĩ theo nghĩa “truyền giáo hải ngoại”. Nếu ngay tại đây, vào lúc này, nếu chúng ta biết một ai đó đang ở ngoài tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta có thể đi tìm người ấy đem về cho Ngài. Giấc mơ của Chúa Giêsu tùy thuộc vào chúng ta. Chính chúng ta là những người có thể giúp Ngài làm cho thế gian này trở thành một đoàn chiên duy nhất, mà Ngài là Người Chăn.
LỰA CHỌN CỦA TÌNH YÊU (Ga 10,17-18)
Có một ít đoạn trong Tân Ước rất ngắn, nhưng lại nói cho chúng ta rất nhiều về Chúa Giêsu.
1) Hai câu Kinh Thánh này cho chúng ta biết Chúa xem cả cuộc đời Ngài như một hành động vâng phục Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha đã giao cho Ngài một công việc phải làm, và Ngài sẵn sàng thực hiện công việc ấy đến cùng, cho dù phải chịu chết. Chúa Giêsu vốn có mối liên hệ độc nhất vô nhị với Chúa Cha. Chúng ta chỉ có thể mô tả mối liên hệ ấy bằng cách nói Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng mối liên hệ ấy không cho Ngài quyền làm bất cứ việc gì Ngài muốn. Mối liên hệ ấy tùy thuộc vào việc Ngài vâng phục ý muốn của Chúa Cha bằng mọi giá. Với Ngài cũng như với chúng ta, làm con là phải vâng lời.
2) Chúa Giêsu luôn luôn thấy thập giá và vinh quang đi đôi với nhau. Ngài không hề nghi ngờ về việc Ngài phải chết, và cũng không chút nghi ngờ việc Ngài sẽ sống lại. Chúa Giêsu tin như vậy vì Ngài hoàn toàn tin cậy Chúa Cha, Ngài chắc chắn Chúa Cha chẳng bao giờ bỏ Ngài. Cả cuộc sống con người đều dựa trên một thực tế là những gì đáng giá thì phải chịu khó, chịu khổ mới tạo được. Muốn được bất cứ cái gì cũng phải trả giá. Muốn thành học giả phải khổ công học hỏi, nghiên cứu. Muốn khéo tay, thành thạo trong nghề thủ công hay kỹ thuật phải chịu khó thực hành. Muốn nổi bật trong bất cứ môn thể thao nào cũng phải cố công luyện tập và chịu kỷ luật. Thế gian đầy dẫy những con người đánh mất mục tiêu của đời sống, chỉ vì không chịu trả giá. Chẳng ai chọn con đường khó đi mà không đạt được danh thơm tiếng tốt.
3) Các câu Kinh Thánh này cũng cho chúng ta biết cách chắc chắn sự chết của Chúa Giêsu hoàn toàn tự nguyện. Chúa Giêsu nhắc đi, nhắc lại điều này nhiều lần. Trong vườn Giệt-si-ma-ni, Ngài đã truyền cho người muốn bảo vệ Ngài hãy xỏ gươm vào bao, vì nếu muốn thì Ngài đã gọi các đạo binh Thiên thần trên trời xuống bảo vệ Ngài rồi (Mt 26,53). Trước mặt Philatô, Ngài tuyên bố hết sức rõ ràng, ông không thể kết án Ngài được, nhưng chính Ngài đã chấp nhận chịu chết (Ga 19,9-10). Chúa Giêsu không phải là nạn nhân của hoàn cảnh, Ngài không phải như một con chiên bị kéo đi làm sinh tế ngoài ý muốn và chẳng hiểu gì. Chúa Giêsu đã tự nguyện phó mạng sống mình.
Người ta kể trong Thế Chiến thứ nhất, có một người lính Pháp dũng cảm bị thương nặng, cánh tay anh bị giập nát đến độ phải cưa đi. Vị bác sĩ giải phẫu rất buồn vì anh sẽ phải chịu tàn tật, ông túc trực bên giường để khi anh tỉnh dậy, báo cho anh biết tin đó. Khi thanh niên mở mắt, bác sĩ nói: “Tôi rất buồn mà báo cho anh biết anh đã mất một cánh tay”. Cậu thanh niên trả lời: “Thưa Ngài, tôi có mất nó đâu, tôi đã hiến nó cho nước Pháp đấy ạ”.
Chúa Giêsu không bị trói buộc vào một hoàn cảnh mà Ngài bất lực, không thể thoát ra được. Ngoài quyền phép và trợ giúp của Thiên Chúa, Ngài có thể kêu gọi, Ngài có thể quay lại để tự cứu lấy mạng sống mình. Ngài không đánh mất đời sống, nhưng Ngài đã hiến dâng. Thập giá không bị áp đặt lên vai buộc Ngài phải vác, nhưng Ngài đã tự nguyện nhận lấy nó, vì chúng ta.
Dụ ngôn về vị mục tử và đoàn chiên gợi nhớ đến Lc 15,3-7 và Mt 18,12-14. Tuy nhiên nơi: PS4-B54
Dụ ngôn về vị mục tử và đoàn chiên gợi nhớ đến Lc 15,3-7 và Mt 18,12-14. Tuy nhiên nơi Gioan điều lý thú tập trung trước tiên vào Chúa Kitô: Vị Mục Tử nhân lành đối nghịch với kẻ trộm cướp (c.1) và người lạ (c.5). Ở đây được miêu tả các mối tương quan liên kết mục tử với đoàn chiên của mình. Khác với những kẻ làm thuê, Chúa Giêsu là mục tử đích thực (nhân lành) vì hai lý do: trước tiên Người liều mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên; và nhất là Người duy trì với các chiên mối tương quan hiểu biết duy nhất bởi vì được ăn rễ sâu trong sự hiểu biết Chúa Cha của Người (như Chúa Cha biết Tôi).
Dụ ngôn, lúc đầu bóng bẩy, ám chỉ rõ ràng cái chết của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (10,15); cũng một giới từ như trong Mc 14,24 (máu đổ ra cho muôn người) và trong Lc 22,19 (mình Thầy hy sinh cho anh em).
Khi đối chiếu Chúa Giêsu với kẻ làm thuê, có một điều chắc chắn được xác định về Chúa Giêsu: người làm thuê bỏ chiên mà chạy (“Thầy sẽ không để anh em mồ côi” 14,18); lúc bấy giờ sói có thể vồ lấy chiên (“không ai cướp được các chiên của Tôi khỏi tay Tôi” 10,28) và làm cho chúng tán loạn (Chúa Giêsu chịu chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” 11,52).
Kể từ câu 16, diễn từ vượt quá tình huống lịch sử của Chúa Giêsu để thâu gom tất cả mọi tín hữu đến từ thế giới ngoại giáo và nhờ qua trung gian các môn đệ, sẽ tin vào Người (17,20). Việc quy tụ các tín hữu, mong đợi vào thời cuối cùng, sẽ được thực hiện chung quanh Chúa Giêsu và lời của Người. Sự hiệp nhất hằng mong đợi này được trao ban trong cái chết của Chúa Giêsu (11,52); nó ăn rễ sâu trong sự hiệp nhất hằng hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đây là một cuộc chinh phục thiết yếu đầy khó khăn mà Chúa Giêsu phải cầu xin trước khi Người trở về cùng Chúa Cha (17,21).
Kể từ câu 17, Chúa Giêsu bày tỏ tình thân mật của Người với Chúa Cha, ở đó sự sống và sự chết của Người đều có ý nghĩa. Nhịp điệu của bài diễn từ với nhiều lần lặp lại, đối chiếu và tương hợp, mở rộng ý nghĩa như bản trình bày dưới đây cho thấy:
Chúa Cha yêu mến Tôi là vì Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại không ai lấy đi được mạng sống của Tôi chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy đó là mệnh lệnh mà Tôi nhận đã nhận được từ Cha Tôi.
Được đặt ở đầu và ở cuối, Chúa Cha tỏ hiện như khởi nguyên và cùng đích mọi hành động của Chúa Giêsu. Mọi sự đều xuất phát từ Người: mệnh lệnh không gì khác hơn là cách diễn tả tình yêu. Theo động lực riêng biệt của Gioan, sự chết được trình bày như một hành động hoàn toàn tự do trong đó hoàn thành mệnh lệnh yêu thương của Chúa Cha. Ngay trong lúc chết, thời điểm theo thường tình con người không còn làm chủ sự sống của mình nữa, Chúa Giêsu vẫn là Chúa Tể bởi vì Người hoàn thành điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, đã muốn mang sự sống đến cho mọi người. Việc suy niệm thần học về cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu ở đây, khá cách biệt với cách trình bày bi thảm trong Tin Mừng Maccô, giúp chúng ta hiểu được cuộc Thương Khó như sự tự nguyện hoàn thành chương trình của Chúa Cha.
Lời nói của Chúa Giêsu gây nên chia rẽ. Sự chia rẽ này liên quan đến những kẻ từng chứng kiến việc chữa lành người mù, cũng như những người nghe dụ ngôn và các người sẽ đọc lời giảng dạy này. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu “bị quỷ ám” và đạo lý của Người chỉ có thể là dấu chỉ của ma quỷ và của sự điên khùng (cả hai thứ thường liên kết với nhau trong thế giới cổ xưa). Kẻ khác nhận biết nơi lời Người và trong hành động của Người dấu chỉ của Thiên Chúa.
Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: "Tôi là" các bạn hãy đặt hai chữ này lên môi miệng: PS4-B55
Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: "Tôi là" các bạn hãy đặt hai chữ này lên môi miệng Chúa Giêsu. Vấn đề lớn được đạt ra đối với Chúa Giêsu đó là lai lịch của Người: Người là ai? Tất cả những ai đã đến gần Người đều phải ngạc nhiên vì sự bí mật về bản thân của Người. Người đã có những hành vi lạ lùng, Người đã nói "nói như chưa có ai đã nói như thế bao giờ". Đôi khi Người như có vẻ chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Vì thế, Người đã nhiều lần dùng những cách nói, những công thức mà nghe lướt qua, chúng ta không hiểu hết ý nghĩa.
“Ta là Bánh ...". -"Ta là ánh sáng trần gian...". -“Ta là cửa ...". -"Ta là Đấng chăn chiên lành ...". -“Ta là cây nho...". "Ta là sự Phục sinh và là sự sống...".
Tất cả những kiểu nói ấy bắt đầu bằng 2 chữ Hy Lạp “Ego eimi", có nghĩa "Tôi là".
Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã phát âm những từ này theo tiếng "Aramên", ngôn ngữ giống như tiếng Hêbơrơ và danh từ riêng "Thiên Chúa” là nhóm chữ không quên được “YHWH", từ bốn chữ này không ai đã dám đọc lên và có nghĩa là "Ta là" (Xuất hành 3-14). Trước bụi gai bốc lửa trong sa mạc, Môsê đã hỏi Thiên Chúa: "Tên của Người là gì? Và câu trả lời bí nhiệm từ lửa đã thốt ra: "Ta là Đấng Hằng Hữu”, bằng tiếng Hêbơrơ, có 4 phụ âm mà người Do Thái không bao giờ đọc lên, và trong những bản Thánh Kinh của chúng ta ngày nay, vì tôn trọng tính trung thực của các từ ngữ đó (Thiên Chúa khó diễn tả), đôi lúc người ta đã giữ nguyên hình thức ban đầu: Để mắt nhìn, thì hiểu là "Yahweh” nhưng thực sự đọc lên thì phải thốt ra là "Đức Chúa".
Không tự xưng danh rõ ràng, nhưng qua những lời này Chúa Giêsu đã dám tuyên bố rằng Người là "Đấng Cứu Độ duy nhất cho con người”, loại trừ tất cả những vị Chúa giả hiệu, những Đấng Cứu Độ không chính danh, những lãnh tụ sai lạc của nhân loại, người là "Đấng chăn chiên" duy nhất.
Tôi chính là người mục tử nhân lành, người chăn chiên thực sự.
Biểu tượng "người mục tử dẫn đàn chiên" đã có từ lâu trong khắp miền phương Đông ngày xưa, để mô tả những "Thần Thánh" và "Vua Chúa".
Trong Thánh kinh cũng vậy, biểu tượng này cũng được áp dụng cho Chúa: "Chúa là mục tử của tôi, tôi không còn thiếu thốn chi" (Tv 22,1). "Giờ đây, chính Ta sẽ chăm sóc cho con chiên của Ta" Chúa đã nói (Ed 34). "Giờ đây Chúa của các ngươi đến. Như một người mục tử, Người cho đàn chiên ăn cỏ - Với cánh tay quyền lực của Người, Người tập họp chiên lại, Người ôm vào ngực những chiên con, Người mang đến sự tươi mát cho những chiên cái còn cho con bú” (Is 40,11).
Chúng ta đừng bao giờ quên những trích dẫn này trong Kinh thánh mà bất cứ người Do Thái nào, nhất là Chúa Giêsu, cũng phải nhớ luôn luôn. Đối với những hình ảnh của Chúa Giêsu, lời tuyên bố này đã có một ý nghĩa “thần học" rõ ràng: Người nói Người là "Đấng Mêsia", "sứ giả của Thiên Chúa" để dẫn đắt loài người đến với cuộc sống thật. Câu trước liền câu này, (rất tiếc là sách "bài đọc” đã không bắt đầu trước một câu) đã được chính môi miệng Chúa Giêsu nói ra như tóm tắt hoàn hảo nhất của bộ Tin Mừng, và sứ mệnh mà Người đảm nhận: "Ta đã đến cho loài người, có được cuộc sống, và cho loài người có cuộc sống dồi dào" (Ga 10,10).
Chúng ta cũng biết loài người cần đến những người chỉ đạo như thế nào, những Đấng do Chúa sai đến, có khả năng phân tách tình hình, dự đoán tương lai, trừ khử những hiểm nguy đang hăm dọa và mang đến sự an toàn. Cá nhân tôi rất chán ghét những điều ngu xuẩn mà các đài phát thanh và truyền hình thường phổ biến ào ạt. Khi một số nhân vật, chỉ là những "con người" như chúng ta đã tỏ ra dường như nắm được chân lý, biết những gì sẽ xảy ra, những gì phải làm: Chỉ cần loại bỏ điều này, điều kia và mọi việc sẽ ổn, chỉ cần làm thế này hoặc sai lạc ở chỗ này, chỗ kia.
Lời khẳng định sau đây của thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay vang lên như một lời cảnh tỉnh trong bối cảnh hư hỏng và phá sản những giá trị thiêng liêng: "Chúa Giêsu chính là viên đá mà các người tự xưng là những người xây dựng thế giới đã chê bỏ, nhưng Người đã trở nên viên đá góc. Ngoài Người ra, không có sự cứu rỗi nào cả".
Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và không có chiên thuộc về riêng mình, nên thấy sói đến là bỏ chiên mà chạy.
“Người chăn chiên lành" ở đây được Chúa Giêsu giới thiệu để đối lại với các "vị câu thế" giả hiệu, những người này hứa hẹn toàn "những điều kỳ diệu”. Giờ nguy hiểm là giờ sự thật: Người chăn chiên giả hiệu, "người làm thuê" chỉ làm công việc để kiếm tiền, và tìm lợi riêng. Anh ta không cần gì đến đàn chiên, và đôi khi anh ta sẵn sàng phụ lực với chó sói để tru lên. Trong mọi trường hợp, anh ta sẽ không liều mạng sống của mình, nhưng trước hết anh ta sẽ tự cứu chính mình. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. Còn người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên.
Trong trang này, bốn lần Chúa Giêsu nói: "Người hy sinh mạng sống của chính Người". Chúng ta không nên dừng lại ở những hình ảnh thôn dã điền viên, những "chuồng chiên" lãng mạn này. Bầu khí bây giờ thật bi thảm: "Chúa Giêsu đang nghĩ đến người mục tử chịu chết để cứu đàn chiên của mình. Hình ảnh lạ lùng, khác thường quá. Chúng ta thường nghĩ rằng: Khi một người chăn chiên chết, anh ta không thể bảo vệ đàn chiên được nữa. Nhưng Chúa Giêsu nói: Nhờ cái chết của Người, Người sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu mạc khải điều này trong hoàn cảnh: Sự thù địch của những lãnh tụ tôn giáo càng lúc càng tăng, sau khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (Ga 9).
Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.
Đối với Chúa Giêsu, cái chết không phải là một sự bất ngờ, cũng không phải là một ép buộc phải chịu, hay phải chấp nhận. Người đã làm cho cái chết trở thành một sự hiến dâng hoàn toàn ý thức và tự do. Cái chết của Người là một "tác động" yêu thương, yêu thương đến cùng. "Không có tình yêu nào cao cả hơn là cho những người tự hiến chính mạng sống của mình" (Ga 13,1; 15,13).
Bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Thánh Gioan ở đây mạnh nghĩa hơn là những bản dịch có thể diễn tả. Nguyên văn có những từ sau đây: "Ta tháo gỡ linh hồn Ta ra". "Ta hiến dâng mạng sống của Ta". Cách nói khác thường này cũng ám chỉ trực tiếp bài thơ thứ IV của người đầy tớ (Is 53,10), người này hiến dâng mạng sống của mình để hy sinh cho quần chúng. Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta sẽ giữ lại mạng sống và cái chết của chúng ta "cho chính chúng ta?". Chúng ta sẽ hiến dâng cái chết của chúng ta cho ai? Chúng ta có yêu thương người khác đủ để có thể thực hiện sự dâng hiến - tối thượng này không?
Tôi chính là người mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi.
Khác với người làm thuê, "không thiết tha gì đến những con chiên”. Nhân loại, tất cả mọi người, đều có giá trị dưới mắt Chúa Giêsu, cho đến độ Người có thể liều mạng sống của Người cho mỗi một người trong chúng ta. Lạy Chúa, Chúa đã liều mạng sống của Chúa vì con sao?
Đúng, Ta đã yêu thương con thật tình, không phải chuyện đùa giỡn.
Qua những lời thắm thiết nồng nàn "Ta biết chiên của Ta" chứng tỏ tình yêu đã tiến rất xa. Động từ ‘biết’ trong Kinh thánh không chỉ có nghĩa là biết bằng tri thức mà là sự ‘biết’ của một người thương yêu một người khác đến độ như đã cộng sinh ra với người đó và dấn thân hoàn toàn vì người đó; như một người chồng nói về vợ mình: "Bây giờ anh biết em, anh trở thành một tạo vật mới, đấy là sự hy sinh ra lần thứ hai". Sự hiện diện mật thiết của người này trong người kia, một sự cảm thông hỗ tương, một sự hiệp thông trong tư tưởng và tâm hồn. Đấy là “cùng sống với người đó" và "dấn thân vì người đó".
Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.
Đấy là một gương mẫu. Sự thương yêu mật thiết và sống động giữa Ngôi Cha và Ngôi Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Sự mật thiết giữa Chúa Giêsu và những người Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người, những người mà Chúa cho sinh ra nhờ cái chết của Người. Đó cũng chính là sự kết hợp mật thiết hiện có giữa các ngôi vị Thiên Chúa. Vâng chúng ta hãy nói về sự mật thiết sâu sa này: Khi nghe gọi "Maria", Mađalêna đã nhận ra ngay đó là tiếng nói của Chúa Giêsu Phục sinh (Ga 20,16). Tôi cũng thế, tôi cũng được Chúa biết rõ tên riêng của tôi. Tạ ơn Chúa, vì tình thương này.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về, chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên, và một người mục tử.
Trái tim Chúa Giêsu yêu thương mọi người. Tương quan sống động, việc hiệp thông sự sống giữa người mục tử và những con: chiên, "sự quen biết riêng” với từng con chiên, Chúa Giêsu xác quyết rằng sự "quen biết" này sẽ lan ra đối với tất cả mọi người không ngoại trừ ai cả. Sứ mệnh cứu độ của Người phải vươn tới tầm mục hoàn cầu. Chữ "Oicouménè" Hy Lạp có nghĩa là "toàn địa cầu có người ở”. Một lần nữa, đây là cách nói bí nhiệm của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta tự hỏi: "Người là ai, mà có những tham vọng như thế? Người có "hơn" Người thợ mộc khiêm nhường ở Nagiarét không? Xét theo bề ngoài dường như Chúa Giêsu sắp chết trong sự thất bại hoàn toàn, bằng một cái chết nhục nhã và bị chế nhạo, một cái chết "vô ích"? Ở thế kỷ II, có một lời ghi trên một phần mộ, ký tên Abercius: "Tôi là môn đệ của một thánh Mục Tử có mắt rất to, nhìn thấy khắp nơi". Chúa Giêsu cũng vậy, Người có mắt rất to: Mỗi người một ngày nào đó, dù hư hỏng đến đâu, cũng sẽ nghe "tiếng của Người" và sẽ tự cảm thấy được Chúa thương yêu và "đoái nhìn đến", chúng ta chỉ thấy có một phần nhỏ đàn chiên của Người, Công đồng Vatican nói: Đàn chiên nhỏ, đám đông vô tận.
Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Tôi, chính vì Tôi hy sinh mạng sống. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được.
Người thí bỏ mạng và lấy lại mạng sống của Người đễ dàng như "tháo cởi và mặc lại" áo quần. Chính những từ này đã được dùng chiều thứ Năm Tuần Thánh trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 13,4-12.
Chúng ta đang trong bối cảnh lễ Lều, với 2 nghi lễ độc đáo: thắp sáng Đền Thờ và rước đuốc: PS4-B56
Chúng ta đang trong bối cảnh lễ Lều, với 2 nghi lễ độc đáo: thắp sáng Đền Thờ và rước đuốc ban đêm; đoàn rước các tư tế tới múc nước ở giếng Siloê về đổ trên bàn thờ trong Đền Thờ.
Chính trong khung cảnh lễ này mà Đức Giêsu đã chọc giận các đối thủ đang tìm bắt Người, khi tự giới thiệu là người được Thiên Chúa sai đến thực hiện nơi bản thân điều mà nghi lễ loan báo: Khi lễ Lều kết thúc, Đức Giêsu đã tuyên bố: "Ai khát hãy đến cùng Ta và hãy uống" (7,37-38). Kế đó, Người nói với người Do Thái: "Ta là ánh sáng trần gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ được ánh sáng cho cuộc đời" (8,12).
Ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu gặp trên đường một người mù từ mới sinh. Người truyền cho anh: "Hãy đi rửa ở suối Siloê”?
Người mù đi rửa và anh đã nhìn thấy. Bị những người Biệt phái làm khó dễ, nguyền rủa, sau cùng, bị trục xuất khỏi Hội đường, người mù đã sáng lại gặp Đức Giêsu, anh nhận ra Người là Con Người: "Lạy Thầy, tôi tin”. Anh quỳ xuống trước mặt Người mà tuyên xưng. Anh giống như con chiên đầu tiên của đoàn chiên mới được vị Mục Tử Tốt Lành qui tụ lại (9,35-38).
2. Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử cứu thế
Đức Giêsu vẫn đang nói với người Biệt phái. Người đã đối chiếu "trộm cướp”, chúng theo ngã khác leo vào chuồng chiên, với “vị mục tử đích thực”: theo cửa chính mà vào, gọi tên từng con và cho chúng ra ngoài (10,1-6). Đối với các thính giả tìm lương thực nơi Kinh Thánh, hình ảnh về người mục tử cứu thế được Thiên Chúa sai đến, dẫn đầu đoàn chiên trong cuộc Xuất hành mới thật là dễ hiểu.
Trước sự chậm hiểu của những người Biệt phái, Đức Giêsu tự nhận là "cửa chuồng chiên" (10,7-10) trước khi tuyên bố công khai: "Ta là mục tử tốt lành (người chăn chiên đích thực)!" không phải theo nghĩa nhẹ nhàng, bóng bẩy, mà theo nghĩa trọn vẹn của chức năng, thể hiện trọn vẹn sứ mệnh mục vụ.
- Người “chăn thuê”, chẳng khi nào chịu liều mình cho đoàn chiên vì chiên đâu phải của họ: vừa có biến là họ đào tẩu bỏ mặc đàn chiên không ai bảo vệ. Đức Giêsu, "vị mục tử tốt lành”, cũng giống như chàng mục tử Đavid nhỏ nhắn ngày xưa dám cống hiến cả mạng sống để bảo vệ đàn chiên của cha già Jessê (1Sam 17,31 ), không sợ "nguy nan" hay "thiệt mạng”.
Khác với người “chăn thuê”, Đức Giêsu, vị "mục tử tốt lành”, "biết chiên và chiên biết Người, như Cha biết Người và Người biết Cha”. Người gắn bó với họ bằng sợi dây yêu thương theo khuôn mẫu và khơi nguồn từ tình yêu trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con.
3. Đến qui tụ đoàn chiên vượt qua mọi biên giới.
- Bỗng chốc chân trời mở rộng vượt khỏi những giới hạn chật hẹp của “chuồng chiên Do Thái, vươn tới những con chiên khác" mà Đức Giêsu phải dẫn đưa về, để chỉ còn "một đàn chiên và một chủ chiên".
A.Marchadour chú giải: lời Đức Giêsu phá vỡ hoàn cảnh lịch sử, bao gồm cả những tín hữu đến từ thế giới dân ngoại, nhờ các tông đồ mà tự nhận Người (17,20). Thời sau hết, mọi tín hữu sẽ qui tụ chung quanh Đức Giêsu và lời Người. Sự hiệp nhất đáng mong ước này được trao ban trong cuộc Tử Nạn của Đức Giêsu (11,52); sự hiệp nhất ấy có nguồn gốc nơi sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đó là một cuộc chinh phục đầy gian nan mà Đức Giêsu đã quan tâm cầu khẩn trước khi Người về cùng Cha (17,21) (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion, trang 144).
- Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng một câu nói lên sự viên mãn đến lạ lùng, qua đó, dưới ánh sáng của mối thân tình giữa Người và Chúa Cha, Đức Giêsu bộc lộ ý nghĩa của đời sống và cái chết của Người. Khi trao ban mạng sống của Người, đúng hơn "phó thác mạng sống" trong một hành vi vừa tự do tuyệt đối ("Mạng sống Ta... không ai lấy được: chính Ta tự trao ban") vừa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha ("Đây là lệnh truyền Ta đã nhận từ Cha"), Đức Giêsu, Chúa Con, bày tỏ ở mức hoàn hảo nhất tình yêu của Chúa Cha muốn cứu độ toàn thể nhân loại.
A. Marchadour nhận xét: "Được đặt ở khởi đầu và kết thúc, Chúa Cha xuất hiện như nguồn mạch và cùng đích cho mọi hoạt động của Đức Giêsu. tất cả đến từ Người: lệnh truyền chẳng gì khác hơn là sự bày tỏ tình yêu. Cái chết, dưới ngòi bút sống động của Gioan, được trình bày như một hành vi tuyệt đối tự do trong đó Đức Giêsu hoàn tất lệnh truyền yêu thương của Chúa Cha. Ngay cả trong cái chết, giờ phút mà con người thường bị truất quyền làm chủ mạng sống, Đức Giêsu vẫn làm chủ, vì Người hoàn tất điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu, muốn để đem sự sống đến cho con người" (Sđd, trang 144-145).
BÀI ĐỌC THÊM
1) Dung mạo đích thực của Giáo Hội
"Ta còn những chiên khác chưa thuộc đàn này”.
Đó là dung mạo đích thực của Giáo Hội. Giáo Hội là truyền giáo. Nếu không Giáo Hội sẽ chẳng còn là Giáo Hội nữa. Hoặc sẽ là Giáo Hội của những Người được sai đi (Tông đồ) hoặc sẽ chẳng còn là Kitô hữu nữa. Chúng ta, bạn và tôi, hôm nay, phải thi hành điều mà các Tông đồ đã làm vào thời các ngài. Các ngài đã để Mầu Nhiệm Phục Sinh biến đổi mình. Các ngài đã hiểu rằng, nhờ Bí tích Thánh Thể và qua các ngài, nhân tính Chúa lại hiện diện nhiều hơn nữa. Các ngài đã hiểu rằng Người muốn nhờ các ngài đem đến cùng tận địa cầu, cũng như nhờ chúng ta đem đến tận cùng thời gian, ơn cứu độ mà trong 33 năm, Người đã đem tới cho những người sống cùng thời với Người. Từ nay, chính nhờ đôi mắt ta mà Đức Kitô có thể nhìn thấy những khổ đau của nhân loại, chính nhờ đôi chân ta mà Đức Kitô có thể đi đến gặp gỡ con người trong đau thương hay trong lầm lạc, chính nhờ trái tim ta mà Người có thể yêu thương thế giới hiện đại. Chính qua bản thân ta mà Đức Giêsu Cứu Thế muốn trao ban sự sống của Người, sự sống của ta. Như thế, trở về chuồng chiên không còn là cứ giữ nguyên lốt chiên, nhưng là trở nên, qua ơn gọi, chính Vị Mục Tử Tốt Lành đi tìm con chiên lạc đàn .
Nói về ơn gọi là nói về cuộc chuyển hoán, cuộc đổi đời quyết liệt của tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Ơn gọi này đòi buộc ta phải giã từ thân phận của những kẻ tiêu thụ thuần tuý, chỉ biết đòi hỏi trong Giáo Hội. Ta phải trở nên thân thể Đức Kitô. Ta phải là bóng hình của Người. Mỗi người ở địa vị mình, đều được kêu gọi vào những công việc khác nhau, để thực sự trở thành những Mục tử Tốt lành cho con người thời nay".
2. "Tình yêu, con đường duy nhất để đến vơi thế giới bất tin" (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu dành cho ngày ơn thiên triệu).
"Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấn thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại, mà con người đã khước từ Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu, mọi linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu. (…) Thánh Phanxicô đệ Salê đã nói: "tất cả đều dành cho tình yêu đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu, và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo Hội”. Nhưng cái chân lý cao cả ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chặn. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính chị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phu. "Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”; thế là đã rõ, một xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (...).
Thánh nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Công Đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc ''Giáo Hội thời Công Đồng đã làm gì? Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14/9/1965: “Giáo Hội yêu, Giáo Hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đã kêu, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người, kể cả những người bắt bớ Giáo Hội”. Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: “Giáo Hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu”. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm linh mục trên khắp thế giới. Những linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo Hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các linh mục, đặc biệt là những linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo Hội (...).
Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo. Trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (...).
Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa: "Chị nói gì với Đức Giêsu?” Chị thánh trả lời: "Em không nói gì hết, em yêu Người”? Chỉ tình yêu là quan trọng.
3. “Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”.
(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Uỷ ban quốc gia về ơn thiên triệu)
"Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ... tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy... Đức ái đã cho con chìa khoá ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Giáo Hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là TRÁI TIM, và TRÁI TIM đó cháy đỏ TÌNH YÊU. Con hiểu rằng chỉ có Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Giáo Hội hoạt động, và nếu Tình Yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin Mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu... Con hiểu rằng TÌNH YÊU phủ trùm lên mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian... Tắt một lời, Tình Yêu là vĩnh cửu!
Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên: "ôi Giêsu, Tình Yêu của con, ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là TÌNH YÊU.
Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, Ôi lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con, trong trái tim Giáo Hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình Yêu, như thế con sẽ là tất cả, như thế giấc mơ của con đã thành hiện thực!”
Thí mạng sống mình vì chiên": nguyên ngữ: "để tâm hồn mình cho"; nên đối chiếu thành ngữ với: PS4-B57
“Thí mạng sống mình vì chiên": nguyên ngữ: "để tâm hồn mình cho"; nên đối chiếu thành ngữ với công thức "thí mạng sống" của Mc 10,45 là tiếng xem ra phát xuất từ Is 53,12 (Bài ca Người Tôi tớ).
“Ta biết chiên Ta": Theo truyền thống Thánh kinh, sự hiểu biết giữa người với người bao hàm tình yêu. Sự hiểu biết liên kết Chúa Giêsu với thân thuộc Người bắt nguồn và tìm được sự sung mãn trong tình yêu nối kết Con với Cha.
"Ta còn những chiên khác không thuộc về ràn này”: Ràn này là ràn của Hội đường, của Israel, ám chỉ rõ ràng, đến tất cả dân ngoại sẽ tin vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu gọi họ là chiên của Người trước, vì họ đã thuộc về Người rồi do sự tiền định và do ý hướng tốt của tâm hồn họ. Vì thế, "họ sẽ nghe tiếng Người" khi Tin mừng được rao giảng cho họ.
“Ta thí mạng sống Ta": Ba lần (cc.11.15.17) Chúa Giêsu lặp lại công thức vừa nói (nguyên ngữ: Ta để hay gởi mạng sống Ta). Qua văn mạch ta thấy từ ngữ này, thuộc riêng về Gioan, tương đương với các từ ngữ gặp được trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 20,28; Mc lo,45). Ở đây Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tính cách bộc phát và tự do của việc Người hy sinh. Dù chết vì vâng lệnh Cha (c.18), Người vẫn hoàn toàn độc lập với những tác giả gây nên cái chết cho người. Giuđa, các thủ lãnh Hội đường, Philatô, các lý hình chỉ bắt buộc được điều Người muốn chịu và khi đến giờ của Người thôi (13,1).
"Đó là lệnh truyền Ta đã nhận nơi Cha Ta": Các thần học gia không đồng ý với nhau về bản chất thánh ý này của Chúa Cha, được biểu lộ ra cho Chúa Con xét như là người: phải chăng đó là một mệnh lệnh hay là một ý thích của Chúa Giêsu Kitô? Dù người ta bảo thế nào, thì rõ ràng thánh Phaolô, với những từ ngữ minh xác nhất, vẫn nói đến sự "vâng phục của Chúa Kitô" trong công cuộc cứu chuộc thế gian nhờ chết trên thập giá (Rm 5, 19; Pl 2,8; Dt 5,8).
"Và có quyền lấy lại": Quyền Phục sinh là quyền hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, và vì thế đồng nhất trong Ba Ngôi. Bởi vậy Luca (Cv 2,24; 3,15; 4,10 v.v...) và Phaolô (2Cr 4,14 ...) gán nó cho Chúa Cha và cho cả Thánh Thần; còn Gioan ở đây lại gán cho Chúa Con.
KẾT LUẬN
Chỉ có vài trang Tin Mừng thôi mà Gioan cũng diễn tả một cách không kém mạnh dạn và đơn sơ cái hồng ân được có Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, như là sự mặc khải về nguồn tình yêu, sự sung mãn của ơn cứu rỗi và cả trung tâm xuất phát ánh sáng cùng sự sống. Nơi con người của Chúa Giêsu, chủ đề Thánh Kinh cổ xưa về Thiên Chúa Mục tử xuất hiện cách trẻ trung kỳ lạ và được hoàn tất ngoài sức hy vọng của loài người.
Ý HUỚNG BÀI GIẢNG
1) Nền văn minh chúng ta không còn biết đến những đàn chiên nữa. Chỉ biết đến một loại đàn khác là đàn xe, đàn người vô danh đông đảo trong các thành phố lớn. Ngày nay, để nói với chúng ta, chắc rằng Chúa Giêsu cũng sẽ lấy những hình ảnh rút ra từ cuộc sống thành thị hiện đại, nhưng giáo huấn Người vẫn như xưa. Và điều Người dạy chúng ta, là Người vẫn luôn hiện diện giữa thế giới chúng ta hôm nay, cũng trà trộn vào thế giới chúng ta như xưa mục tử trà trộn với đoàn chiên mình. Một trong những đặc điểm của mục tử là tham dự vào cuộc sống của đàn chiên, hợp làm một với chúng. Ông không ở ngoài, nhưng đứng đầu đàn chiên qua sự so sánh này, Chúa Giêsu muốn dạy rằng Người hiện diện trong nhân loại và đứng đầu nhân loại. Không một ai trong thời đại nào thoát ra khỏi sự chăm sóc của Đấng muốn dẫn dắt mọi người đến nơi gặp được hạnh phúc đích thực cả. Chỉ cần một dữ kiện, là con người phải chấp nhận, nhất là nhờ đức tin, trở thành phần của "đàn chiên" mà Chúa Kitô là mục tử tốt.
2) "Ta biết chiên Ta... như Cha biết Ta”. Chúng ta đi vào một vùng của tâm hồn, nơi có nhu cầu sâu xa nhất của con người đấy. Thật vậy, con người đau khổ vì cái gì nhất? Thưa vì cảm thấy cô đơn. Không một cảm tình, một trực giác, một chú ý nào có thể tiến vào chốn thâm tâm của hữu thể chúng ta cả. Có một trung tâm của ý thức chúng ta mà không ai (ngay cả chúng ta) có khả năng vào được; và chính ở trung tâm ấy, chúng ta cảm thấy cô đơn. Các khoa học nhân văn, nhất là tâm lý học, cố gắng làm cho nổi lên trình diện tri thức khoa học những cấu tạo bí ẩn của vô thức. Dầu chúng ta thành công hay không, thì luôn luôn vẫn còn có một trung tâm bất khả giản lược, nơi con người cảm thấy cô đơn đối với chính mình, với các vấn đề và định mệnh của mình. Con người đau khổ vì không được ai biết rõ mình. Thế mà đây Chúa Giêsu lại nói Người biết rõ con người như Chúa Cha biết Chúa Con. "Như Cha biết Ta", điều này muốn bảo Chúa Giêsu biết con người với một tri thức trực tiếp đi đến tận đáy sâu của họ. Và tri thức này đầy tình yêu mến. Như thế Chúa Giêsu làm cho con người không còn cô đơn. Đấng đã biết rõ con người thì không kết án nó, nhưng ngược lại sẽ thương yêu nó với một tình yêu hoàn toàn và có tính cách cứu chuộc.
3) Chúng ta có nhạy cảm trước nỗi cô đơn của người anh em ở chung quanh ta không họ sẽ cảm thấy phần nào được chúng ta biết đến, và do đó phần nào được thoát khỏi nỗi cô đơn của họ nếu chúng ta cố gắng biết họ như Chúa Giêsu đã biết họ. Nghĩa là nếu chúng ta đặt mình trong cái nhìn đầy yêu mến của Chúa Giêsu đối với họ.
4) Dù là gì đi nữa: linh mục, giáo chức, cha mẹ hay chỉ là anh em của những người anh em, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những kẻ chung quanh, và do đó là mục tử trong mức độ trách nhiệm của chúng ta. Và vì là mục tử, chúng ta phải yêu thương anh em chúng ta đến độ sẵn sàng hiến mạng sống mình cho họ theo gương Chúa Giêsu.
5) Hy tế Thánh lễ, việc tái diễn theo nghi thức hy tế thập giá, dẫn đưa chúng ta một cách hiện thực vào mầu nhiệm chết vì đàn chiên của Mục tử tốt. Việc gặp gỡ có tính cách cộng đồng và cá nhân giữa chúng ta với Người phải tăng thêm sự thân tình với Mục tử của chúng ta và dần dần biến đổi chúng ta thành những mục tử tốt, hoàn toàn hiến thân cho anh em Có như vậy, chúng ta mới tìm được hạnh phúc đích thực, hoàn toàn.
Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của: PS4-B58
Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ:”Ta là Mục tử nhân lành”(Ga 10,14). Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta như mục tử ở giữa đàn chiên. Sự hiện diện của Ngài không phải là sự hiện diện của một người lãnh đạo đầy tham vọng, cũng không phải là sự hiện diện của một người cầm đầu mong được tung hô, nhưng là sự hiện diện của một người mục tử sống chỉ vì đoàn chiên và chỉ lo cho đoàn chiên được nuôi sống và được sống dồi dào.
Chúa Giêsu là mục tử nhân lành tối cao, Ngài lo cho mọi con chiên, nhưng Ngài cũng muốn dùng con người làm mục tử thay mặt Ngài mà săn sóc cho đàn chiên như khi Ngài nói với thánh Phêrô:”Hãy chăm sóc các chiên của Thầy”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Cv 4,8-12.
Sau khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì việc ấy đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào đền thờ.
Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.
Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu: Ngài là viên đá bị những người thợ xây loại bỏ , nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.
+ Bài đọc 2: 1Ga 3,1-2.
Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa đã bầy tỏ cho chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta trở nên những con cái của Ngài. Tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức Giêsu vinh quang. Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 10,11-18.
Trong những người nghe Đức Giêsu giảng, có nhiều thính giả là người chăn chiên. Đức Giêsu muốn giới thiệu mình là mục tử nhân lành đối với đàn chiên. Ngài muốn so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê.
* Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này:
a) Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
b) Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được các chiên biết.
c) Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các chiên khác về
cùng một đàn và cùng một chủ chiên.
* Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, gặp nguy hiểm thì bỏ chạy, họ
chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan tác.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ta là Mục tử nhân lành.
I. MỤC TỬ TRONG THÁNH KINH.
1. Trong Cựu ước.
Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh vịnh đã hát lên:
Đức Giavê là Mục tử tôi, Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đen Tôi cũng không hề lo sợ. (Tv 23,1-4)
Đức Giavê là Chúa chăn dắt Israel. Đây là một hình ảnh được thành hình do kinh nghiệm đời sống du mục từ thời tổ phụ của Israel. Hình ảnh người chăn chiên đưa ra hai liên lạc giữa Giavê và Israel: Ngài vừa là Thủ lãnh của Israel, nhưng đồng thời lại là Bạn. Ngài có đủ uy quyền với Israel, và đủ quyền lực để bảo vệ Israel, nhưng đồng thời Ngài đối xử với Israel một cách hết sức nhân từ và tế nhị. Chính Ngài lo liệu việc chăm sóc đó (x. Tv 23).
Từ đó những nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Nhưng tiếc thay, có một số thủ lãnh thay vì lo cho đàn chiên, lại tác hại chúng, lợi dụng chúng cho mục đích riêng tư, làm cho chúng tan tác đáng thương hại. Khi điều này xẩy ra, tiên tri Ézéchiel đã nhân danh Chuá nói lên:
“Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi ! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng”(Ez,2-4,9-10,23).
2. Trong Tân ước.
Đứng trước bối cảnh này, Đức Giêsu đã thổ lộ tâm tình khi Ngài nói:”Ta thương dân này, vì chúng như đàn chiên không người chăn dắt”(Mt 9,36; Mc 6,34). Vậy chúng ta phải đọc bài Tin mừng hôm nay trong bối cảnh này để hiểu lời tuyên bố của Đức Giêsu:”Ta là Mục tử nhân lành, sẵn sàng liều mạng vì đàn chiên... Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên”.
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà tiên tri Ezéchiel tiên báo. Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con chiên lầm đường lạc lối. Nhưng Đavít chỉ là hình ảnh một người chăn chiên khác hoàn hảo hơn. Đó là Đavít mới (Gr 3,15; Ez 34,23t). Người chăn chiên hoàn hảo Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu Kitô.
II. ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH.
Người Do thái thời Đức Giêsu thường có thái độ nghi ngờ về thân thế , việc làm, uy quyền và sứ mạng của Đức Giêsu. Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên nhân lành để họ thấy rõ uy quyền đích thực của Ngài. Ngài khẳng định:”Ta là Mục tử nhân lành”
Ta thấy có sự khác biệt giữa người chủ chăn và người chăn chiên thuê:
1. Người chăn chiên thuê:
Người chăn chiên thuê không phải là chủ đàn chiên nên không mấy tha thiết với đàn chiên, họ không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên khi gặp nguy hiểm. Vì không có tình yêu tha thiết với đàn chiên nên họ cũng không sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả, họ trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng.
Đức Giêsu gọi những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái là những kẻ chăn thuê, họ chỉ lo lắng đến các tư lợi do chức vụ đem đến, chứ không tha thiết gì đến đàn chiên, vì vậy khi gặp nguy hiểm là họ chạy trốn để đàn chiên tản mát.
2. Người chủ chăn.
Trái lại, người chủ chăn thương yêu đàn chiên, tha thiết với đàn chiên, không nghĩ đến ích lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh cho đàn chiên bất chấp nguy hiểm. Người chủ chăn có ba đặc điểm sau đây:
Hiệp thông với đàn chiên:
Người chủ chiên biết các chiên, biết từng con một, và ngược lại chiên biết chủ. Đây là hành động hỗ tương. Biết một cách riêng biệt, từng con chiên một với các hoàn cảnh , nhu cầu, khát vọng của con chiên. Con chiên biết nhận ra tiếng của chủ chăn. Thật là những người bạn tri âm. Như thế sự biết hỗ tương này sẽ đưa đến một cuộc sống thân mật giữa hai bên. Đúng thế, chữ “Biết” của Gioan, không những bao hàm nghĩa trí tuệ, nhưng còn là sự hiệp thông cuộc sống dựa trên tình yêu và lý trí. Sự thông hiệp này đã có nơi Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu cũng sánh ví sự hiệp thông như thế giữa Ngài và các con chiên.
Truyện: Con mắt của vị hoàng đế.
Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một hôm khi còn là thiếu úy, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xoá tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Như người Mục tử nhân lành, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi, và nhìn chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn chiên trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Ngài đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.
(Cử hành Phụng vụ CN và Lễ trọng, tr 136)
b) Qui tụ và hợp nhất đàn chiên.
Người chủ chăn mở đường tìm lối cho những con chiên lạc trở về một đàn vì có những con chiên lầm đường lạc lối. Ngoài ra, còn muốn thu thập các con chiên khác qui tụ lại trong đàn chiên này là dân Israel, ám chỉ Giáo hội sau này, nói lên tính cách phổ quát của Giáo hội. Biểu tượng người chăn chiên nhân lành là một dịp để Chúa quảng diễn vai trò của Ngài hướng dẫn cả thế giới:”Ta còn những con chiên khác không thuộc về đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn... và sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Tất cả mọi người là con chiên của Chúa, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và một Giáo hội duy nhất.
Truyện: Pho tượng Chúa chiên lành.
Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng:”Ta là môn đệ của một Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới.. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.
(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm B, tr 70-71)
c) Thí mạng để bảo vệ đàn chiên.
Đoạn Kinh thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung thành và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có sự gì xẩy ra cho chiên, người ấy phải trưng bầy bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi. Luật pháp qui định:”Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng”(Xh 22,12). Ở đây muốn nói la kẻ chăn phải mang về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy.
Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên. Lắm khi họ còn phải làm nhiều điều hơn thế nữa để cứu chiên.
Truyện: Liều mạng cứu chiên.
Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.
III. KITÔ HỮU CŨNG LÀ MỤC TỬ.
1. Sứ vụ của Đức Giáo hoàng.
Đức Giêsu đã trao phó trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Chúa khi Chúa nói với ông Phêrô tới ba lần:”Hãy chăm sóc chiên của Thầy”(Ga 21,15-17). Và sau khi Chúa về trời, thánh Phêrô trở nên vị lãnh tụ tối cao trong Giáo hội, vị Giáo hoàng đầu tiên đặt ngai tòa tại Rôma, các tông đồ và mọi tín hữu phải qui phục quyền hướng dẫn của Ngài. Giáo hoàng là vị đại diện Thiên Chúa ở trần gian.
Truyện: Quo vadis ?
Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin ? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao ? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine ? Thưa Thầy, Thầy đi đâu ? Chúa Giêsu trả lời: - Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa. Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên. 2. Sứ vụ các Giám mục, Linh mục.
Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một số ít người trong dân Chúa được gọi, được chọn để đóng vai người mục tử của cộng đoàn. Đó là các Giám mục. Linh mục tức các thừa tác viên có chức thánh. Công việc được giao cho các vị, chính là việc chăn dắt, chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa. Tác vụ của các vị là làm sao cho đoàn chiên chẳng những được an toàn mà còn được ăn uống no nê, béo tốt. Trách nhiệm ấy thật cao cả nhưng cũng thật khó khăn và nặng nề. Cao cả vì các vị phải hiện-tại-hoá tấm lòng và cách sống yêu thương và hy sinh xả kỷ của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa đối với cộng đồng anh chị em được giao phó cho các vị. Khó khăn và nặng nề vì các vị vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.
Nhìn vào thực tế, một thực tế không thể chối cãi được và cũng rất bình thường, chúng ta thấy các vị chủ chăn có một vai trò quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng thấy rõ là không phải tất cả các vị chủ chăn đều có được tấm lòng yêu thương và cách sống hy sinh quên mình vì đoàn chiên. Vẫn còn đó, những ích kỷ, nhưng vụ lợi, những hưởng thụ không chính đáng ! Vẫn còn đó, những lạm dụng danh nghĩa, những tự tôn tự đại ! Vẫn còn đó những ngại hy sinh, những cách phục vụ nửa chừng nơi các vị chủ chăn của chúng ta.
Nhưng cũng không thiếu gì những vị mục tử hy sinh vì đàn chiên, những gương lành sáng chói còn ghi trong sử sách. Một Gioan Vianney đã tô điểm sáng chói cho khuôn mặt vị Mục tử nhân lành tối cao ! Chính vì thế mà Giáo hội mới tha thiết mời gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị, để các vị trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành. Không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, không ai làm được những chuyện “ngược đời” mà Phúc âm đòi hỏi.
3. Sứ vụ của mọi Kitô hữu..
Mọi người đã được chịu phép Thánh tẩy đều được tham gia vào ba chức năng của Chúa Kitô, đó là: chức năng tư tế, chức năng tiên tri và chức năng cai trị. Nhưng theo tư tưởng của Đức Kitô thì “Cai trị là phục vụ”. Ai mà không có quyền phục vụ ? Ai có thể nói là mình không thể phục vụ được trong bất cứ một lãnh vực nào hay một hoàn cảnh nào ?
a) Trong đời sống Kitô hữu nói chung.
Nhìn sâu hơn nữa vào tinh thần Phúc âm, chúng ta phải quả quyết rằng: không chỉ có các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Kitô hữu lớn nhỏ, nam nữ đều được tham gia vào sứ vụ chăm sóc của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, bí tích Thánh Tẩy đã khiến chúng ta thành chi thể của Thân Mình Mầu nhiệm mà Chúa Kitô là Đầu. Là chi thể, chúng ta mang trong mình tư cách, tính chất, sứ vụ của Đầu. Nếu Đức Giêsu là Mục tử thì mọi Kitô cũng đều là người chăm lo cho anh em là chi thể của Thân mình
b) Trong đời sống gia đình nói riêng.
Gia đình được gọi là Hội thánh tại gia. Trong Hội thánh lớn hay nhỏ đều phải có tổ chức, phải có đầu có cuối như người ta thường nói:”Kim chỉ phải có đầu”. Chúa Kitô đã trao cho thánh Phêrô nhiệm vụ coi sóc Hội thánh toàn cầu, thì Ngài cũng trao cho các Giám mục, rồi đến Linh mục nhiệm vụ chăm sóc Hội thánh tại địa phương là Giáo phận, giáo xứ.
Như vậy, Chúa cũng trao cho cha mẹ nhiệm vụ chăm sóc gia đình – một Hội thánh tại gia – để cha mẹ thi hành sứ vụ mục tử đối với con cái cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ; vợ có sứ vụ mục tử đối với chồng và chồng có sứ vụ mục tử đối với vợ; anh em chị em có sứ vụ mục tử đối với nhau và cứ thế mà rộng ra toàn xã hội và thế giới: mọi người có sứ vụ chăm lo cho nhau, vì mọi người là con cái của Thiên Chúa, đều là anh chị em của nhau, đều thuộc về một ràn chiên duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.
4. Sứ vụ hiệp nhất của Kitô hữu.
Đức Giêsu muốn qui tụ tất cả các chiên vào trong một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của một Chúa chiên. Nỗi thao thức của Đức Giêsu trước khi vào cuộc tử nạn là cho mọi người hiệp nhất nên một. Tâm tình này đã được Đức Giêsu thổ lộ trong bữa Tiệc ly:”Xin cho chúng hiệp nhất nên một”(Ga 17,23). Nhưng sau khi Chúa về trời rồi, Hội thánh vẫn còn chia rẽ. Hội thánh được ví như một tấm vải bị xé ra nhiều mảnh, cần phải được nối kết lại.
Công đồng Vatican II tha thiết mong mỏi tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, nên muốn cung ứng cho mọi người Công giáo sự trợ lực, đường lối và phương sách để họ có thể đáp ứng lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa (Sắc lệnh về hiệp nhất, số 1).
Hàng năm Giáo hội tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất từ ngày 18-25 tháng giêng. Tuần lễ hiệp nhật này là sáng kiến của một mục sư Anh giáo ở New York, ông Wattson và người bạn của ông là ông Spencer Jones ở Luân đôn. Kết quả đầu tiên của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất này là sự trở lại Công giáo của chính mục sư Wattson, sau là Linh mục Paul Francis, đồng thời cả cộng đoàn (Association de Réparation) của ông lập cũng trở lại Công giáo. Đức Piô X đã chấp thuận tuần lễ hiệp nhất này trong Giáo hội.
Bài Diễn từ về Cửa chuồng chiên và người Mục tử (Ga 10,1- 21) vừa chấm dứt các Diễn từ dịp Lễ: ]PS4-B59
Bài Diễn từ về Cửa chuồng chiên và người Mục tử (Ga 10,1- 21) vừa chấm dứt các Diễn từ dịp Lễ Lều vừa đưa vào Diễn từ dịp Lễ Cung hiến Đền Thờ.
Bản văn có thể được phân bố tổng quát như sau:
1) Các dụ ngôn (10,1-5); 2) Phản ứng của người Do-thái (10,6); 3) Các giải thích:
a) Cửa (10,7-10), b) Người mục tử (10,11-18);
4) Phản ứng của người Do-thái (10,19-21).
Hôm nay, chúng ta đọc phần giải thích Diễn từ về Người mục tử (10,11-18).
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Người mục tử đích thật (10,11-13); 2) Người mục tử ưu việt (10,14-18).
III. Vài điỂm chú giẢi
- nhân lành (11): Hy-ngữ có hai từ để nói là “tốt”: (1) agathos mô tả đức tính luân lý của một cá nhân được coi là tốt; (2) kalos, cũng có thể dịch là “đẹp”, thêm vào yếu tố “tốt” một nét nói lên sự thu hút và đồng cảm. “Từ “nhân lành” hay “tốt” ở đây là tính từ kalos.
- hy sinh mạng sống (11): Dịch sát là “đặt/hạ mạng sống xuống” (cc. 11.15.17). Đây là công thức của Gioan (13,37; 15,13; 1 Ga 3,16). Theo ngữ cảnh, công thức này tương đương với các công thức của Tin Mừng Nhất Lãm, “hiến mạng sống” (Mt 20,28; Mc 10,45).
- chiên của tôi (14): Đức Giêsu có thể nói các con chiên là của Người vì Chúa Cha đã ban họ cho Người (x. 6,37.44.65; 17,6-7).
- một đoàn chiên và một mục tử (16): Ghi chú một chọn lựa thú vị của cha R.E. Brown trong bản dịch Anh ngữ: có thể dịch “một đoàn chiên” là “a flock of sheep”, nhưng cha Brown dịch là “one sheep herd” đi với “one shepherd” để giữ cho tương ứng với poimnê (sheep herd, flock) và poimên (shepherd).
- Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy (18): Chúng ta ghi nhận cách viết của tác giả nhằm nhấn mạnh: từ “quyền” được dùng hai lần và đặt ở đầu câu, tạm dịch là “quyền tôi có / để hy sinh mạng sống, và quyền tôi có / để lấy lại mạng sống”.
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
Trong truyền thống Cựu Ước, hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Ngài tuyển chọn, tức Israel. Người nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (cc. 11.14). Lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (5 lần: cc. 11.15.17.18 [2x]). Giữa Người và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Đức Giêsu và đoàn chiên (c. 14) cũng như giữa Đức Giêsu cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).
Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt Qua và sự hy sinh chính bản thân Người.
* Người mục tử đích thật (11-13)
Đức Giêsu là “Mục tử nhân lành”, cũng có nghĩa là “Mục tử xinh đẹp”. Điểm này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành) nhưng Người còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách Mục Tử nhân lành của Người chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.
Người có một cảm thức về trách nhiệm: “các chiên thuộc về Người” (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói “nghề chăn chiên” là một “ơn gọi” chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chỉ vì chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là “người làm thuê” (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ở đâu có cảm thức về sự “thuộc- về”, ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta ui sướng làm việc dù không được trả công.
Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng thâm chí hy sinh cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).
Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sự sống: “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Người làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho chúng ta.
* Người mục tử ưu việt (14-18)
Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.
Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): “Như Chúa Cha biết tôi…” (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. “Tôi biết chiên của tôi…” (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu với chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, bừng cháy. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: “chiên của tôi biết tôi” (c. 14b). Tác giả nói đến “biết” thay vì tình yêu, bởi vì “tình yêu” hệ tại việc “biết” riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta, nghĩa là tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiệp thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, “Giêsu” không được chỉ đơn giản là một cái tên; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như “những con chiên tốt, đẹp”, và phát triển một tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.
Tương quan với Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.
Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu của Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có “hiểu biết”, nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hiệp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì “kết hợp”.
Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu-mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là để cho mọi dân tộc. “Đoàn chiên duy nhất” này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết quá khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai); và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những người không tin.
Qua Đức Giêsu, là Mục Tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị Mục Tử duy nhất. Tính chất cao quý của mỗi mục tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hiệp nhất tại nơi người ấy hiện diện – một sự hiệp nhất không tập trung quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.
Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hiệp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về “mầu nhiệm Vượt Qua”. Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hiệp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời “tôi hy sinh mạng sống” để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất; rồi mở đầu c. 18, lại có lời “tôi tự ý hy sinh mạng sống”. Đây là cấu trúc “đóng khung” để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được “sự hiệp nhất vĩ đại” này. Bởi vì Người chết chắc chắn “không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha “đóng khung” các câu 17 và 18: “Chúa Cha yêu mến tôi …” và “đó là mệnh lệnh của Cha mà tôi đã nhạân được”, trong đó nói ba lần đến việc “hy sinh mạng sống”. Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là người mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi “hiến tặng [hy sinh]” và “đón nhận [lấy lại]”, trong sự “tự chủ” (tôi có “quyền”) và “trách nhiệm” (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: “tôi đã nhận được”).
Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”, rồi Người nói tiếp: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Nói cho cùng, “quyền” của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là “hiến mình”. Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu mến). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng “sự sống dồi dào” cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.
+ Kết luận
Bản văn này, với giọng văn đơn giản nhưng chắc nịch, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục Tử của Cựu Ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mong ước mong.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Nói tới “mục tử” là nói tới tương quan. Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên các sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v. Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh Thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác.
2. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Người với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng ngôn sứ Êdêkien (ch. 34).
3. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên. Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm. Người mục tử bên Paléttina hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh Thánh: Am 3,12; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục sống hoàn toàn cho con chiên, anh chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1 Sm 17,34-35).
4. Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Tv 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh Thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Người, sự quan tâm, tình yêut hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4; Ed 34,16).
5. “Tôi biết chiên của tôi …, như Chúa Cha biết tôi”. Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.
CẦu cho ơn thiên triỆu linh mỤc tu sĩ Lm. Augustine, SJ
Hình ảnh người chăn chiên vùng Trung Ðông
Hình ảnh người chăn chiên của làng ấp vùng Trung Ðông thật là quen thuộc và dễ thương thời Ðức Giêsu. Cứ: PS4-B60
Hình ảnh người chăn chiên của làng ấp vùng Trung Ðông thật là quen thuộc và dễ thương thời Ðức Giêsu. Cứ sáng sáng anh dẫn đàn chiên đi ăn cỏ, và chiều chiều lại dẫn chúng về uống nước nơi suối nước cũng là nơi anh giao chiên lại cho chủ.
Chủ chiên thực ra có thể là một tiểu nông tự mình chăm sóc đàn vật (Xh 34,15), hoặc giao chúng cho những người con trai (St 37,2) hoặc con gái (St 37,2) hay cho con rể (St 30,29.31.36.38.40; Xh 3,1).
Trường hợp đàn chiên đông đảo hoặc vì hoàn cảnh bó buộc, người ta sẽ phải thuê người chăn chiên (1Sb 27,29-31). Người này sẽ được trả công bằng tiền (Dcr 11,12), hoặc bằng một phần của sản phẩm do đàn vật mang lại (St 30,28-43; 1Cr 9,7).
Bổn phận người chăn chiên là tìm cho đàn vật được giao đồng cỏ để chúng tới gặm cỏ và suối nước để chúng tới uống (Tv 22,2-3). Ðiều quan trọng là phải bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ và khỏi kẻ trộm (1Sm 17,34-37; Ga 10,12). Do đó người chăn chiên phải mang sẵn cây trượng (Tv 22,4; Mi 7,14), cái chùy và cái ná (1Sm 17,41-50).
Thử hỏi trước hình ảnh hiện thực đó về người chăn chiên, Ðức Giêsu muốn nói gì khi tự xưng là Mục Tử nhân lành? Vì lý do gì Ðức Giêsu tỏ ra gay gắt với người chăn chiên thuê như kẻ chẳng thiết gì đến tính mạng của đàn vật trước sự xông đánh của thú dữ (c.13)?
Quả thật, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ là chuyện nhắc lại hình ảnh của người chủ có tới 100 con chiên, thế mà chỉ có một con đi lạc, người ấy cũng sẵn sàng bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm chiên lạc đó (Mt 18, 12-13). Ta cũng không thấy ở đây hình ảnh một chủ chăn đã tìm thấy chiên lạc rồi nên mừng rỡ vác nó lên vai và mời hàng xóm láng giềng tới chung vui với mình như Luca kể lại (15,4-6). Ta thấy ở đây một Ðức Giêsu quyết liệt bảo vệ đàn chiên bằng chính mạng sống mình (cc.15.16 và 17).
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần thuộc chương 10 của Tin Mừng Gioan, chủ yếu nói về vị Mục Tử nhân lành. Tại sao chương sách này được đặt liền sau trình thuật người mù từ khi mới sinh được Ðức Giêsu chữa lành? Xem ra không có gì liên lạc giữa câu chót của Gioan chương 9 và câu đầu của Gioan chương 10. Ðề tài vị Mục Tử nhân lành xem ra xuất hiện một cách đột ngột sau trình thuật về người mù được chữa lành, đến nỗi một số học giả muốn đặt nó vào một nơi khác của Tin Mừng Gioan. Nhưng nếu câu đầu của chương 10 không có liên lạc gì với người mù được chữa lành ở chương 9, thì câu 21 của chương 10 lại cho thấy mối liên lạc nổi bật với phản ứng của người Do thái khi nói: "Người bị quỉ ám đâu có nói được như vậy! Quỉ có thể mở mắt cho người mù được sao?"
Ðiều quan trọng hơn mối giây liên lạc vừa nói là sự đối chọi giữa Vị Mục Tử nhân lành và giới lãnh đạo Do thái giáo mù quáng và vô trách nhiệm đối với người mù được Ðức Giêsu chữa lành. Họ không những tỏ ra mê muội không nhìn nhận Ðức Giêsu là hiện thân của ánh sáng mà còn cố chấp trục xuất người được Ðức Giêsu ban cho sự sáng, là người mù được Người chữa lành. Do đó mới có lời nhận xét rằng: "Ðức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó, nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ." (Ga 10,6)
Vị Mục Tử được Cựu Ước loan báo
Ðiều thiết yếu cho việc phát hiện ý của tác giả là nhận ra ông có ý viết về Ðức Giêsu theo sách ngôn sứ Eâdêkiên chương 34. Trong chương sách này, ngôn sứ Eâdêkiên được linh ứng quở trách giới cầm quyền thời ông một cách thậm tệ. Họ đã trở nên những kẻ vô trách nhiệm, không những không lo chăm sóc dân mà còn trở nên những kẻ cướp bóc dân. Vậy Giavê Thiên Chúa sẽ cách chức họ. Chính Người sẽ đứng ra chăm lo cho dân Người. Cuối cùng Người sẽ cắt cử một Vị Mục Tử theo gương vua Ðavít xưa. Tất cả những điều tiên báo trong sách Eâdêkiên đều trở nên hiện thực nơi Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu vừa là vị Thiên Chúa Mục Tử, vừa là vị cứu tinh Mêsia, vừa là Con Vua Ðavít. Vậy bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một Ðức Giêsu dứt khoát đứng ra bảo vệ đoàn chiên. Người sẵn sàng hy sinh cho chúng. Hình ảnh ngược hẳn lại với hình ảnh mà Gioan chương 9 cho thấy về giới lãnh đạo Do thái giáo. Những người này đã tỏ ra thô bạo một cách mù quáng đối với kẻ thấp cổ bé miệng là người ăn xin nơi vệ đường, được Ðức Giêsu chữa cho khỏi mù.
Gioan chương 10 năng nhắc tới chiên được dễ dàng nhận ra là đoàn chiên được Ðức Giêsu dẫn tới đồng cỏ xanh tươi (c.9). Ðó là những chiên được Ðức Giêsu biết tên từng con một. Chúng nhận ra tiếng của Người (cc.3-4.14). Người đứng ra bảo vệ chiên khỏi bị trộm cướp quấy phá (cc.1.8.10). Người có ý quy tụ tất cả các chiên nghe tiếng Người gọi để thành một đoàn chiên dưới sự dẫn dắt của một chủ chiên. Tất cả những điều vừa nói đều cho thấy Ðức Giêsu quả là VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (cc.11.14), vị mục tử được CHA yêu mến vì sẽ hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Hành vi hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, là điểm trung tâm được nhắc đi nhắc lại trong Gioan chương 10: trước hết ở câu 11 khi danh xưng Mục Tử nhân lành được giới thiệu; kế đến ở câu 15 và 17, cả hai lần đều cho thấy việc Ðức Giêsu hy sinh mạng sống cho đoàn chiên liên quan tới tương quan sâu thẳm giữa Chúa Cha và Ðức Giêsu: "Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên? Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại." Câu 18 còn nhắc lại hai lần nữa việc Ðức Giêsu tự ý hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Cái mới nơi vị mục tử Giêsu là hy sinh mạng sống cho đoàn chiên
Vậy mặc dầu hình ảnh chủ chiên trong tương quan với đoàn chiên là hình ảnh không xa lạ với Kinh Thánh Cựu Ước, nhất là trong Eâdêkien chương 34, hình ảnh ấy trở nên hoàn toàn mới nơi Ðức Giêsu là Ðấng tự ý hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người là Mục Tử nhân lành chủ yếu vì lý do đó.
Trong những ngày sau tết Con Trâu Ðinh Sửu, câu truyện sôi động trên báo chí thành phố Sài Gòn là: "Bà mẹ gần 70 tuổi bán từng cọng rau để nuôi 4 người con điên!" Ðó là bà Nguyễn thị Tiền ở số nhà 1709.9A Hoàng văn Thụ, phường 9, Phú Nhuận. Bốn người con của bà đều mắc bệnh tâm thần: anh Dương 46 tuổi, chị Thanh 44 tuổi, anh Sơn 37 tuổi, và anh Dũng 34 tuổi. Hơn 30 năm về trước khi bà vừa sinh đứa con sau cùng là Dũng, thì chồng bà đã bỏ cả mẹ con bà mà đi, để mặc người vợ chưa đầy 40 tuổi ấy một mình nuôi năm đứa con. Người con gái lớn nhất là người duy nhất bình thường đã lấy chồng tuy cũng sống trong cảnh túng thiếu. Bà Tiền làm đủ mọi thứ việc: ở đợ, giặt đồ mướn, buôn gánh bán bưng? cốt chỉ để cho các con ăn học. Kết quả là năm 1975, chị Thanh đã đỗ bằng tú tài và đã là sinh viên trường đại học Văn Khoa. Nào ngờ, khoảng sáu bảy năm sau thì "tự nhiên sao chúng nó điên hết!" như bà kể lại với nét kinh hoàng còn hiện trên nét mặt của người mẹ đã gần 70 tuổi mà còn phải đi bán từng cọng rau để nuôi bốn người con điên!
Thực ra đã có lần bà Tiền đã mua mấy gói thuốc chuột, định bụng nấu nồi cháo cho mẹ con ăn lần chót. Nhưng sau nghĩ lại, bà Tiền đã vứt mấy gói thuốc ấy đi, để can đảm lao mình vào cuộc đời tần tảo nuôi con mò mẫm theo một đường hầm không tia sáng ở phía trước. Nay nhờ phóng viên Hoàng Chức Nguyên ánh sáng bỗng bật lên khiến nhiều người xúm lại giúp đỡ bà. Tính đến ngày 21.2.1997 bạn đọc báo Tuổi Trẻ đã giúp bà Tiền trên 90 triệu đồng.
Bài Tin Mừng hôm nay tựa như một thiên phóng sự làm bật sáng lên sự hy sinh cao cả của Ðức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành không hề sợ hy sinh cho đoàn chiên khi nói "Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống tôi" cho đoàn chiên (Ga 10,18). Do đó đoàn chiên của vị Mục Tử Giêsu mỗi ngày một đông, nay đã lên tới con số 1,445,800,000 Kitô hữu, gồm Công Giáo, Chính Thống Giáo và Tin Lành (theo thống kê của QIUD 1995).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn hãy so sánh sự hy sinh của bà Tiền cho bốn người con điên và sự hy sinh của Ðức Giêsu cho gia đình nhân loại mà bài Tin Mừng hôm nay gợi ý cho thấy.
2. Bạn nghĩ sự hy sinh của Ðức Giêsu đụng chạm tới sự sống của bạn như thế nào? Làm thế nào để bài Tin Mừng hôm nay như một thiên phóng sự làm bật sáng lên ý nghĩa của tình yêu liên đới giữa bạn là người Kitô hữu và mọi người trong gia đình nhân loại?
Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay có chung cùng một chủ đề: Đức Giê-su Ki tô là Đấng cứu: PS4-B61
Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay có chung cùng một chủ đề: Đức Giê-su Ki tô là Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta.
Cv 4: 8-12
Khi bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, thánh Phê-rô giải thích cho họ, những người đã kết án tử Đức Giê-su trước đây, rằng họ đã loại bỏ Đấng, chỉ ở nơi Ngài con người có thể được ơn cứu độ.
1Ga 3: 1-2
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở rằng, được liên kết với Đức Giê-su, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và được đảm bảo dự phần vào số phận vinh quang của Ngài.
Ga 10: 11-18
Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn chúng ta vào ràn chiên của Thiên Chúa, vì Ngài hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên.
BÀI ĐỌC I (Cv 4: 8-12)
Việc thánh Phê-rô bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng là kết quả của biến cố mà chúng ta đã đọc câu chuyện vào Chúa Nhật vừa qua: sau khi chữa lành một người què trước cửa Đền Thờ, vị lãnh đạo của các Tông Đồ đã ngỏ lời với đám đông đầy kinh ngạc.
Những lời phát biểu của thánh nhân đã làm xao xuyến các vị lãnh đạo Giê-ru-sa-lem và chắc chắn làm bực tức nhóm Sa-đu-xê-ô.
Chúng ta biết rằng nhóm Sa-đu-xê-ô không tin vào sự phục sinh của thân xác; họ cho rằng quan niệm nầy xuất hiện rất muộn thời trong những tín ngưỡng của Ít-ra-en. Theo họ, sự tinh tuyền đạo lý đòi buộc người ta gắn bó với niềm tin tiền lưu đày; vì thế, họ cảm thấy chướng tai khi nghe nói về cuộc phục sinh của Đức Giê-su.
Thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt cùng nhau ở Cửa Đền Thờ khi lên Đền Thờ cầu nguyện và chữa lành người què. Họ là hai người bạn đồng hành gắn bó cùng nhau trong thời gian đầu tiên của các Tông Đồ, và cũng là như vậy trong thời gian sau cùng của sứ mạng Đức Giê-su: chính hai người được sai đi chuẩn bị lễ Vượt Qua; chính hai người, sau khi trốn chạy vào lúc Đức Giê-su bị bắt, trấn tỉnh lại và đi theo Ngài xa xa cho đến dinh thượng tế Cai-pha; cũng chính hai người cùng nhau chạy đến ngôi mộ vào sáng sớm Phục Sinh, vân vân). Họ qua đêm trong tù. Sáng hôm sau, họ bị điêu ra trước Thượng Hội Đồng, tức tòa thượng thẩm của Ít-ra-en, để bị tra hỏi.
1. Nơi diễn ra phiên tòa.
Hai vị Tông Đồ bị điệu ra trước những quan tòa mà, trước đây vài tuần, đã kết án Đức Giê-su: Thượng Tế đương nhiệm Cai-pha chủ trì Thượng Hội Đồng; Cựu Thượng Tế Kha-nan, bố vợ của ông Cai-pha, những kỳ mục và những kinh sư.
Phiên tòa diễn ra cũng một nơi trước đây đã xử Đức Giê-su. Vào lúc Đức Giê-su bị bắt, trời đã tối nên các thành viên Thượng Hội Đồng tụ họp vội vàng trong dinh Thượng Tế Cai-pha. Dinh Thượng Tế Cai-pha có lẽ đã nhắc nhở thánh Phê-rô một kỷ niệm đau buồn. Nhưng thật là khác biệt biết bao giữa thái độ của người môn đệ sợ hãi của đêm bi thảm chối thầy mình, và vị Tông Đồ được ơn soi sáng của Biến Cố Phục Sinh và được đầy tràn Thần Khí của lễ Ngũ Tuần.
Chứng từ của thánh Phê-rô trước Thượng Hội Đồng.
Giờ của sự thật đã điểm. Thánh Phê-rô phục quyền Đức Giê-su mà họ đã kết án trước đây, buộc tội những kẻ giết Ngài và công bố sự phục sinh của Đấng chịu đóng đinh. Thánh nhân phát biểu bằng giọng nói dạn dĩ: "Vậy, xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng".
Thật ra, người ta tra hỏi các ngài là nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà hai vị đã chữa lành người què nầy. Thánh Phê-rô quả quyết rằng chính nhờ danh Đức Giê-su Ki tô, người Na-da-rét. Thánh nhân chủ ý dùng thuật ngữ có một âm vang tiêu cực nầy như câu thành ngữ: "Từ Na-da-rét, làm sao có gì hay được?” (Ga 1: 46). "Chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người đứng trước mặt quý vị đây được lành mạnh". Và vị Tông Đồ còn cất cao giọng hơn nữa: "Chính Đấng ấy là viên đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường".
Thật tốt đẹp biết bao khi sứ điệp về sự Phục Sinh được công bố trước hội đồng nầy, hội đồng đã lăng nhục và bêu xấu Đức Giê-su; thật tốt đẹp biết mấy khi những người đại diện chính thức của dân Chúa chọn nghe trực tiếp lời loan báo ơn cứu độ từ nay đạt được nhờ Đấng mà họ đã giết chết. Khi trích dẫn Kinh Thánh (Tv 118), vị Tông Đồ chứng minh rằng chân lý thuộc về phía của mình bởi vì các ngôn sứ đã báo trước rằng chính họ, những người thợ xây nhà Ít-ra-en đã loại bỏ đá tảng góc tường nầy.
Hơn nữa, sự hiện diện của người què được chữa lành trước tòa án nầy không phải là lời chứng hùng hồn rằng Đức Giê-su là căn nguyên của ơn cứu độ sao? Chính sự hiện diện của người què được chữa lành nầy cũng đã cứu hai vị Tông Đồ: hai ông được thả ra, vì Thượng Hội Đồng sợ đám đông dân chúng "tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra" (4: 21).
Nhưng chẳng bao lâu sau, bị bắt một lần nữa, thánh Phê-rô và thánh Gioan, lần nầy, bị đánh đòn và cấm không được nói đến danh Đức Giê-su; nhưng các ngài không thể nín lặng được và sẽ không bao giờ nín lặng.
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-2)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan hôm nay tập trung vào một chủ đề duy nhất: ơn làm con cái Thiên Chúa. Người Ki tô hữu là con cái Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha. Nhưng ơn nghĩa tử nầy sẽ thăng hoa viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống hoàn toàn với Con của Ngài vào ngày Ngài trở lại trong vinh quang.
1. Ơn làm con cái Thiên Chúa:
Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: Chúa Cha yêu thương chúng ta và gọi chúng ta là con cái của Ngài. Đó không chỉ là tước hiệu mà Ngài ban tặng cho chúng ta, nhưng một thực tại thâm sâu: "Anh em hãy xem Thiên Chúa yêu chúng ta dường nào: Người yêu chúng ta đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Theo văn hóa Do thái, một danh xưng diễn tả sự thật thâm sâu của con người: như vậy, Chúa Cha yêu thương chúng ta đến mức Ngài liên kết chúng ta vào Người Con của Ngài khi gọi chúng ta là con cái của Ngài. Phẩm vị nầy làm cho chúng ta khác với thế gian. "Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người". Những từ ngữ nầy vang dội lại những lời của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài, được tường thuật chính xác trong Tin Mừng Gioan: "Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em" (Ga 15: 18).
Toàn bộ bức thư nầy được cấu trúc theo lối phản đề; cuộc sống người Ki tô hữu đối lập với cuộc sống của những kẻ cứng tin hay những người lạc giáo. Ở đây, lối phản đề bao phủ một vùng rộng lớn: đó là thế gian, được hiểu theo nghĩa tiêu cực, thế giới của tội lỗi, bởi "vì thế gian đã không biết Thiên Chúa".
2. Sự biến đổi trong tương lai.
Đoạn trích nầy có thể được đặt nhan đề: "Từ phép rửa đến sự biến đổi". Thật ra, từ ngữ không nói lên điều nầy, nhưng chính chuyển động của tư tưởng.
Chúng ta đã được biến đổi rồi bởi cuộc sống làm con cái Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu tiên. Ơn làm con cái Chúa được hoàn thiện chỉ khi chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài; điều nầy sẽ chỉ xuất hiện vào thời chung cuộc. Bản văn có vẻ như muốn nói rằng được ngắm nhìn Con của Ngài trong vinh quang sẽ biến đổi chúng ta. Thật ra, đây không là ý tưởng mà thánh Gioan thật sự muốn diễn tả, vì sự biến đổi của chúng ta được ươm mầm rồi ở nơi phẩm tính con cái Thiên Chúa của chúng ta.
Lời khẳng định của vị Tông Đồ là một lời khẳng định của đức tin, nhưng cũng dựa trên kinh nghiệm: thánh Gioan đã là nhân chứng của biến cố Biến Hình. Thánh nhân dường như ám chỉ đến kinh nghiệm nầy trong Tựa Ngôn: "Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy trần ân sủng và sự thật" (Ga 1: 14).
Thánh Phao-lô cũng gợi lên sự biến đổi tương lai nầy trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp: "Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người" (Pl 3: 20-21).
TIN MỪNG (Ga 10: 11-18)
Trong cả ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật "Chúa Chiên Lành". Mỗi năm Phụng Vụ chúng ta đọc một đoạn trích bài diễn từ của Đức Giê-su về “Người Mục Tử nhân lành” của chương 10 Tin Mừng Gioan. Vào năm A, chúng ta đã đọc phần đầu (10: 1-10); vào năm B nầy, chúng ta đọc phần tiếp theo (10: 11-18).
Bài diễn từ nầy được Đức Giê-su công bố ở Giê-ru-sa-lem sau khi Ngài cho một anh mù được sáng mắt. Trong bài diễn từ nầy, Đức Giê-su tự nhận mình là người mục tử đích thật. Bài diễn từ nầy được ghi nhận trong cuộc xung đột giữa Đức Giê-su và các đối thủ của Ngài: họ là "quân trộm cướp", "những kẻ tiếm quyền mục tử". Những người Biệt Phái nầy đã trục xuất con chiên lẽ loi cô độc khỏi ràn chiên, tức là anh mù được sáng mắt. Đức Giê-su đã thu nhận anh, soi lòng mở trí cho anh vào ánh sáng đức tin…Như vậy chân dung của người mục tử nhân lành được nêu bật bởi sự đối lập nầy.
Mặt khác, các vị lãnh đạo Ít-ra-en đặt vấn đề về Đức Giê-su và uy quyền của Ngài khi đòi hỏi Ngài thực hiện những điềm thiêng dấu lạ. Đức Giê-su gián tiếp trả lời cho họ khi tự nhận cho mình tước vị Mê-si-a Mục Tử mà các ngôn sứ đã loan báo.
1. Hình ảnh người mục tử:
Hình ảnh người mục tử rất quen thuộc với một dân tộc không quên rằng cha ông của họ đã từng sống kiếp sống du mục và chăn nuôi. Kinh Thánh đã phác họa Đức Chúa là vị mục tử lý tưởng. Ẩn dụ cho phép diễn tả hai khía cạnh của mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài: uy quyền nhưng từ bi nhân hậu. Nhưng tước hiệu mục tử nầy được dành riêng đặc biệt hơn cho Đấng Mê-si-a tương lai. Nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en – vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên – vào thời điểm tai họa lớn lao (Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon chiếm, Đền Thờ bị phá hủy, và dân chúng bị đưa đi lưu đày) đã tiên báo rằng rồi đến một ngày Thiên Chúa sẽ đòi lại đàn chiên của Ngài khỏi những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên để giao lại cho Tân Đa-vít, không là vua, nhưng mục tử đích thật, tận tâm tận lực chăn dắt chúng (Ed ch. 34). Chính ở trong hàng dụ ngôn của vị ngôn sứ nầy mà dụ ngôn của Đức Giê-su được định vị.
2. "Tôi là Mục Tử nhân lành".
Trong phần thứ nhất của dụ ngôn (Ga 10: 1-10), Đức Giê-su đã phác họa những nét tiêu biểu của người mục tử nhân lành, nhưng chúng ta không thể ngộ nhận, chính là chân dung của Ngài.
Phần thứ hai (10: 11-18), mà chúng ta đọc hôm nay, đưa chúng ta vào trọng tâm của sứ điệp: Đức Giê-su công khai tuyên bố Ngài là Mục Tử Nhân Lành, nhân lành không chỉ vì Ngài chứa chan lòng nhân ái đối với đàn chiên của mình nhưng vì Ngài là mục tử đích thật, vị mục tử duy nhất mà dân chúng mong đợi. Khi Đức Giê-su công bố: "TÔI LÀ", Ngài cho lời quả quyết nầy một giá trị tuyệt đối, loại trừ tất cả người khác: "Tôi là Đường, Sự Thật và Sự Sống", “Tôi là ánh sáng thế gian", "Tôi là cây nho đích thật", vân vân. Và luôn luôn những "tôi là" nầy mở ra một mặc khải liên quan đến con người của Ngài, chưa nói đến “TÔI LÀ” đứng một mình quy chiếu đến Thần Tính của Ngài.
Khi tuyên bố mình là MỤC TỬ NHÂN LÀNH, Đức Giê-su thủ đắc cho riêng mình tước hiệu Mê-si-a. Và chính Ngài xác định vai trò Mê-si-a của Ngài:
hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên;
thiết lập những mối tương giao mật thiết giữa Thiên Chúa và con người;
quy tụ tất cả những ai tin vào Ngài để chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.
3. “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”:
Đây là mặc khải cốt yếu gây xôn xao; mặc khải nầy mở ra và đóng lại toàn bộ đoạn văn nầy như kỷ thuật đóng khung.
Đức Giê-su loan báo cái chết của Ngài và ý nghĩa của cái chết nầy với một sự trang trọng hết mức. Cũng chính sự trang trọng nầy mà Ngài sẽ bày tỏ trong suốt cuộc Khổ Nạn của Ngài và thánh Gioan sẽ nhấn rất mạnh trong bài tường thuật của mình.
Đức Giê-su nghiêm túc đối mặt với cái chết nhưng cũng hoàn toàn độc lập đối với những kẻ gây ra cái chết của Ngài: các vị lãnh đạo Ít-ra-en hay viên Tổng Trấn Rô-ma: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”. Nếu Ngài phải chịu như vậy, chính vì Ngài muốn như thế. Đó cũng là lời mà Ngài nói với thánh Phê-rô vào lúc bị bắt: “Anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần!” (Mt 26: 53).
Đức Giê-su dự kiến trước tất cả những giải thích sai lầm mà người ta có thể có về cái chết của Ngài: cái chết nầy sẽ không là hậu quả tất yếu của một sứ điệp gây xáo trộn, như cái chết của biết bao ngôn sứ, nhưng do ý muốn của chính Ngài. Đây là một sự tự nguyện hiến dâng với sự đồng thuận của Cha Ngài, trong một tình yêu nên một đối với đàn chiên trần thế. Đức Giê-su vén mở cho chúng ta một khía cạnh sâu xa của mầu nhiệm nầy: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình”. Vì thế, khi Chúa Cha bỏ mặc Con Ngài trong sự khốn cùng, chính lúc đó mà Ngài yêu Con Ngài nhất…
Nhưng Đức Giê-su cũng loan báo cuộc Phục Sinh của Ngài: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Những lời nầy âm vang biết bao trong thời gian sắp đến. Đức Giê-su đã lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Lều, lễ diễn ra vào mùa thu. Vào mùa xuân sang năm, lễ Vượt Qua sẽ là lễ Vượt Qua của Ngài, từ Tử nạn đến sự Phục Sinh…
4. “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”.
Sự kiện người mục tử và đàn chiên quen hơi bén tiếng với nhau chiếm một chỗ quan trọng trong phần thứ nhất của dụ ngôn, ở đó Đức Giê-su nhấn mạnh: “Người giữ cửa cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ…” (10: 3-5). Việc quen hơi bén tiếng nầy cấu thành niềm tin tưởng và tình yêu.
Trong phần thứ hai nầy, Đức Giê-su cho chúng ta nguyên mẫu của việc quen hơi bén tiếng nầy, chính sự hiểu biết nên một lòng một ý giữa Cha và Con. Đây là khuôn mẫu của những mối liên hệ mà Đức Giê-su muốn thiết lập giữa Ngài và con người. Thực hiện một mối tương giao sâu thẳm như thế là công trình của Ngài và giá máu của Ngài. Đây là ý nghĩa căn bản của dụ ngôn.
5. Chỉ có một đàn chiên và một mục tử.
Một niềm hy vọng lớn lao chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: giờ của Đấng Mê-si-a sẽ là giờ hiệp nhất dân Thiên Chúa. Các ngôn sứ đã ôm ấp giấc mơ nầy sau khi dân Do Thái bị phân chia thành hai vương quốc (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên). Những người lưu đày ở Ba-by-lon (thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên) đặt mọi niềm hy vọng của mình vào sự can thiệp của Đấng Mê-si-a, Đấng đến thực hiện công việc khó khăn, đó là quy tụ mọi con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a hứa: “Đức Chúa sẽ quy tụ đoàn chiên của Ngài còn sót lại từ khắp mọi miền” (23: 3). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng hứa: “Sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy” (37: 24). Sự hiệp nhất sẽ là dấu chỉ của kỷ nguyên Mê-si-a và như bước khởi đầu của sự quy tụ cánh chung vĩ đại, vào thời sau hết, khi muôn dân muôn nước đều nghe tiếng gọi của Đức Chúa, vì Ít-ra-en là ánh sáng muôn dân.
Đối với Đức Giê-su đây là một cách thế mới để khẳng định mình là Đấng Mê-si-a khi công bố mình là Đấng kiến tạo sự hiệp nhất của đàn chiên. Nhưng Đức Giê-su không chỉ nghĩ đến những con chiên của nhà Ít-ra-en chưa nhận ra Ngài, Ngài còn nghĩ đến cuộc hoán cải của thế giới lương dân. Khía cạnh Giáo Hội được diễn tả rất rõ rồi trong phần thứ nhất của dụ ngôn với hình ảnh ràn chiên. Trong phần thứ hai nầy, hình ảnh rộng mở; không còn một ràn chiên được rào chắn chung quanh với cửa đóng then cài, nhưng toàn thể thế giới. Chính Giáo Hội có sứ mạng hiệp nhất đàn chiên trong cùng một ràn chiên và dưới cùng một vị mục tử, Đấng đã sinh ra trong hang lừa máng cỏ và đã hiến dâng mạng sống mình cho đàn chiên.
Hình ảnh mục tử sống giữa đàn chiên là hình ảnh rất thân quen đối với dân Do-Thái ngày: PS4-B62
Hình ảnh mục tử sống giữa đàn chiên là hình ảnh rất thân quen đối với dân Do-Thái ngày xưa chuyên sống đời du mục. Hình ảnh nầy được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng nhiều lần để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dùng lại hình ảnh nầy như một biểu tượng cao đẹp để diễn tả tình thương cao vời Người dành cho nhân loại với những nét lớn sau đây:
1. Thiên Chúa muốn sống hoà mình thân mật với chúng ta
Thiên Chúa là Chúa Tể càn khôn, là Tạo Hoá quyền năng cao cả, còn loài người chỉ là tạo vật thấp hèn. Cách biệt giữa Thiên Chúa và loài người thật quá bao la.
Thế nhưng Thiên Chúa muốn vượt qua mọi cách biệt để sống chan hoà với con người. Người không muốn duy trì quan hệ đẳng cấp kiểu vua-tôi, chủ-tớ với con người nhưng muốn sống hài hoà thân mật với hết thảy chúng ta.
Để diễn tả tình thân nầy, Chúa Giê-su tự ví mình như mục tử nhân lành sống giữa đoàn chiên nhân loại.
Đẹp thay hình ảnh người chăn chiên hiền lành đang ngồi giữa bầy chiên đông đúc: có chiên thì được ẵm vào lòng; có chiên thì được khoác lên vai; còn những chiên khác thì quấn quýt chung quanh, hếch những chiếc mõm hồng hồng dễ thương và giương những cặp mắt ngây thơ nhìn người mục tử.
Qua biểu tượng mục tử với đàn chiên, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Thiên Chúa muốn vui sống giữa loài người và tương quan giữa đôi bên hết sức thân mật không còn khoảng cách.
2. Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta cách chu đáo
Thánh vịnh 23 phác hoạ chân dung Thiên Chúa như Vị Mục Tử nhân lành tận tình nuôi dưỡng đoàn chiên cách chu đáo, chẳng để chiên phải thiếu thốn điều gì.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi” (Tv 23, 1-3)
Các mục tử trên đời nầy nuôi chiên nhằm khai thác chiên: xén lông, xẻ thịt hoặc bán chiên lấy tiền, còn Mục Tử Giê-su thay vì khai thác trục lợi đoàn chiên thì lại hiến thân mình làm lương thực để chiên được dồi dào sức sống: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào” (Gioan 10, 10)
Người chấp nhận trao ban chính mình làm bánh nuôi sống nhân loại đang lầm than đói khát: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Gioan 6, 35),
3. Chúa là Đấng chăm sóc chúng ta tận tình
Qua miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa tỏ cho thấy Người chăm lo săn sóc từng người chúng ta rất ân cần: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh” (Edekien 34, 15-16)
Qua dụ ngôn người mục tử bỏ 99 con chiên nơi hoang địa để đi tìm con chiên lạc, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Thiên Chúa chăm sóc chi li từng người một, không muốn bất kỳ một ai phải hư vong. (Luca 15, 4-7)
4. Chúa là Đấng hy sinh mạng sống để bảo vệ chúng ta
Khác xa người chăn thuê cao chạy xa bay khi thấy đàn sói hung tàn xông tới vồ xé bầy chiên, Mục tử Giê-su chấp nhận hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đến cùng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành... tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Gioan 10, 11-15)
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Mục tử có một không hai trên đời:
Chúa sống hoà mình thân mật với chiên, nuôi dưỡng chiên chu đáo, chăm sóc chiên tận tình, và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Xin cho gương sống tuyệt vời nầy sẽ mãi mãi là lời mời gọi và là động cơ thúc đẩy chúng con trở nên mục tử nhân lành như Chúa.
Xin thương giúp cho các bậc cha mẹ trở thành mục tử tốt trong gia đình, các linh mục trở thành mục tử nhân lành trong giáo xứ, Thầy Cô trở thành mục tử cao quý ở trường học… để mỗi người chúng con tuỳ theo chức phận mình, biết tận tình nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên Chúa trao cho chúng con theo gương người Mục Tử nhân lành là chính Chúa. Amen.
Trong Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh (năm B), bài Phúc Âm (Gioan 10, 11-18), Bài Đọc I: PS4-B63
Trong Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh (năm B), bài Phúc Âm (Gioan 10, 11-18), Bài Đọc I (Cv. 4, 8-12), và Bài Đọc II (1 Gioan 3, 1-2) đều gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân Lành. Bài Phúc Âm và các Bài Đọc trong năm A và C cũng vậy; vì thế, Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Nhân Lành.
Chúa Giêsu Kitô chính là CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH. Ngài đã vâng lời Đức Chúa Cha, và xuống thế làm người, mặc lấy thân phận một người hèn mọn, sống khiêm nhường trong gia đình nghèo khó Nagiaret. Trong thời gian ra đi rao giảng, Ngài đã luôn tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương, chấp nhận mọi khó khăn, mệt nhọc, mọi phản ứng chống đối, và sẵn sàng chấp nhận cả cái chết nhục nhã trên Thánh Giá để cứu chuộc đoàn chiên: “Ngài đã vâng phục cho đến chết, và chết trên Thánh Giá…” (Phillip 2, 6-8).
Cuộc đời và những lời rao giảng của Chúa Giêsu phác họa cho chúng ta hình ảnh Người Chăn Chiên Nhân lành:
Người Chăn Chiên Nhân Lành hy sinh tận tụy rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người.
Người Chăn Chiên Nhân Lành săn sóc đoàn chiên với lòng yêu thương, nhân hậu; biết lưu ý đến từng con chiên một, tìm hiểu hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi người, lắng nghe tiếng nói của mọi người, và yêu thương, khiêm tốn phục vụ mọi người trong những hoàn cảnh khác nhau. Với những con chiên xa lạc, Người Chăn Chiên Nhân Lành hy sinh đi tìm, và vui mừng khi tìm thấy, không giận dữ, không la mắng, nhưng âu yếm vác lên vai và mang trở về đoàn.
Người Chăn Chiên Nhân Lành cũng luôn là ngọn đèn cháy sáng để chiếu soi ánh sáng chân lý tình thương của Chúa cho mọi người.
Đời sống đạo đức sâu xa, âm thầm cầu nguyện và lòng nhiệt thành của vị Chủ Chăn luôn như muối men ướp cho đời sống Dân Chúa được mặn nồng sốt sáng.
Trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, cũng như trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy cùng nhau dâng nhiều hy sinh, hãm mình để xin Chúa ban ơn thánh hóa Đức Giáo Hoàng và các vị Chủ Chăn trong toàn thể Giáo Hội, trong đó có các vị Chủ Chăn tại quê hương Việt Nam, nhất là các vị đang bị tù đày, các vị đang gặp nhiều khó khăn thử thách tại những nơi mà Giáo Hội đang bị bách hại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn hăng hái nhiệt thành cộng tác với các Chủ Chăn trong công việc chăn dắt đoàn chiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ cũng là ‘các chủ chăn’ của đoàn chiên trong các gia đình của mình, nên cũng cần cầu nguyện nhiều để xin Chúa giúp chúng ta biết sống làm gương sáng và dẫn dắt con cháu chúng ta trung thành giữ vững Đức Tin trong sự hòa hợp yêu thương phục vụ lẫn nhau.
Hôm nay cũng là ngày “Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Linh Mục và Tu Sĩ.” Chúng ta cũng hãy hy sinh, hãm mình, dâng lời cầu nguyện xin Chúa ban cho giới trẻ, con cháu chúng ta, được Chúa thương gọi và chọn để dâng hiến cuộc đời làm Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ phục vụ trên cánh đồng truyền giáo bao la và đa dạng trong thế giới ngày nay.
Ga 10:11-18: 11 Tôi chính là Mục Tử tốt lành. Mục Tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn,13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi,15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 16 Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.17 Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại.18 Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.
Chương 10 gồm hai phần: diễn từ về mục tử tốt lành (10:1-18) và đối thoại giữa Chúa Giêsu và người do: PS4-B64
Chương 10 gồm hai phần: diễn từ về mục tử tốt lành (10:1-18) và đối thoại giữa Chúa Giêsu và người do thái (10:22-39). Đoạn 10:1-18 gồm: ẩn dụ về mục tử và lời giải thích về hình ảnh cửa chuồng chiên (10:1-10), và diễn từ về mục tử tốt lành (10:11-18) như là cao điểm của đoạn nầy. Những hình ảnh được dùng trong chương 10 nầy: cửa chuồng chiên (cc. 1-3a), hình ảnh sinh hoạt của người chăn chiên và đàn chiên (cc. 3b-5), hình ảnh cánh cửa dẫn đến đàn chiên (cc. 7b-10), hình ảnh người mục tử tốt lành (cc. 11-15), hình ảnh tương quan yêu thương của Chúa Cha và Chúa Con (cc. 17-18). Bên cạnh đó, còn có hình ảnh và hoạt động của kẻ lạ (c. 5), kẻ trộm, kẻ cướp (c. 8) và người chăn thuê (cc. 12-13).
Cấu trúc của đoạn 10:11-18 gồm: 1- Chân dung mục tử tốt lành tương phản với người chăn thuê liên quan đến đàn chiên (10:11-13); 2- Tương quan Chúa Giêsu với đàn chiên (10:14-16); 3- Tương quan Chúa Giêsu với Chúa Cha (10:17-18). Chủ đề chính của đoạn nầy là Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, hiến mạng sống cho đàn chiên. Cả ban đoạn đều có cụm từ “ban sự sống (của tôi)” (cc.11.15.17). Hãy suy nghĩ tương quan giữa cụm từ nầy trong ngữ cảnh của mỗi đoạn.
Thêm một lần nữa cụm từ “Tôi là” được dùng với một hình ảnh đời thường để áp dụng cách ẩn dụ cho Chúa Giêsu (x. Tôi là bánh ban sự sống 6:35; ánh sáng trần gian 8:12; 9:5; cửa chuồng chiên 10:7; cửa dẫn vào sự cứu độ 10:9; mục tử tốt lành 10:11.14; sự sống lại và là sự sống 11:25; đường, sự thật và sự sống 14:6; cây nho thật 15:1.5). Tính từ “tốt lành” bổ nghĩa cho từ “mục tử” chỉ được dùng cho Chúa Giêsu (10:11.14). Không ai được gọi là mục tử tốt lành ngoại trừ Chúa Giêsu. Mục tử tốt lành được định nghĩa là người hiến mạng sống cho đàn chiên (x. 15:13), trong khi người chăn thuê hành động ngược lại. Họ bỏ chiên và chạy trốn khi thấy sói đến, vì họ không phải là mục tử và đó không phải là đàn chiên của họ (cc. 12-13). Phần con sói, nó là thù địch với chiên (Cn 13:17; Is 11:6). Nó vồ lấy chiên và làm chiên tản mác (c. 12). Vậy ban sự sống của mình cho đàn chiên là bản tính của mục tử tốt lành.
Tương quan của mục tử tốt lành với đàn chiên được nói thêm trong đoạn 10:14-16: nhận biết (c. 14), ban sự sống (c. 15) và dẫn dắt những chiên khác về một đàn (c. 16). Tương quan nhận biết nhau giữa mục tử và đàn chiên được xây dựng trên tương quan giữa Chúa Giêsu và Cha của Người. Câu 14 và 15 được cấu tạo theo kiểu đối đảo (chiastic): “Tôi biết đàn chiên - đàn chiên biết tôi như Chúa Cha biết Tôi - Tôi biết Chúa Cha”. Vượt quá sự so sánh, chữ “như” cho tương quan nhận biết một lý do hiện hữu (x. 6:57; 15:9-10.12; 17:11.18.21; 20:21). Nhận biết nhau là tương quan của tình yêu giữa mục tử và đàn chiên, cả những chiên chưa thuộc một đàn dưới sự dẫn dắt của một mục tử. Vậy ban sự sống mình cho đàn chiên là hành động rất tự nhiên của tình yêu (15:13), nhất là để đàn chiên được sự sống và quy tụ về một mối (x. 11:52; 12:32).
Ban sự sống là lệnh truyền của Chúa Cha (10:18). Trong đoạn 10:17-18 nầy, sự sống của Chúa Giêsu vừa được đặt trong tương quan với Người và với Chúa Cha. Sự sống ấy nằm trong tay của Người và tùy thuộc vào Người. Tuy nhiên, Người đã tự nguyện ban sự sống của Người cho đàn chiên vì muốn thực hiện ý của Chúa Cha. Vì làm như thế, nên Người được Chúa Cha yêu thương.
Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một mục tử tốt lành mà Người đã hứa trong sách các ngôn sứ Giê 23:1-8; Ez 34:11-16.23; 37:24; Zc 11 và 13.
Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh kinh, khiến: PS4-B65
Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh vịnh đã hát lên:
Đức Giavê là Mục tử tôi, Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đen Tôi cũng không hề lo sợ. (Tv 23,1-4)
Đức Giavê là Chúa chăn dắt Israel. Đây là một hình ảnh được thành hình do kinh nghiệm đời sống du mục từ thời tổ phụ của Israel. Hình ảnh người chăn chiên đưa ra hai liên lạc giữa Giavê và Israel: Ngài vừa là Thủ lãnh của Israel, nhưng đồng thời lại là Bạn. Ngài có đủ uy quyền với Israel, và đủ quyền lực để bảo vệ Israel, nhưng đồng thời Ngài đối xử với Israel một cách hết sức nhân từ và tế nhị. Chính Ngài lo liệu việc chăm sóc đó (x. Tv 23).
Từ đó những nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Nhưng tiếc thay, có một số thủ lãnh thay vì lo cho đàn chiên, lại tác hại chúng, lợi dụng chúng cho mục đích riêng tư, làm cho chúng tan tác đáng thương hại. Khi điều này xẩy ra, tiên tri Ézéchiel đã nhân danh Chuá nói lên:
“Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi ! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng”(Ez,2-4,9-10,23).
2. Trong Tân ước.
Đứng trước bối cảnh này, Đức Giêsu đã thổ lộ tâm tình khi Ngài nói:”Ta thương dân này, vì chúng như đàn chiên không người chăn dắt”(Mt 9,36; Mc 6,34). Vậy chúng ta phải đọc bài Tin mừng hôm nay trong bối cảnh này để hiểu lời tuyên bố của Đức Giêsu:”Ta là Mục tử nhân lành, sẵn sàng liều mạng vì đàn chiên... Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên”.
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà tiên tri Ezéchiel tiên báo. Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con chiên lầm đường lạc lối. Nhưng Đavít chỉ là hình ảnh một người chăn chiên khác hoàn hảo hơn. Đó là Đavít mới (Gr 3,15; Ez 34,23t). Người chăn chiên hoàn hảo Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu Kitô.
II. ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH.
Người Do thái thời Đức Giêsu thường có thái độ nghi ngờ về thân thế , việc làm, uy quyền và sứ mạng của Đức Giêsu. Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên nhân lành để họ thấy rõ uy quyền đích thực của Ngài. Ngài khẳng định:”Ta là Mục tử nhân lành”
Ta thấy có sự khác biệt giữa người chủ chăn và người chăn chiên thuê:
1. Người chăn chiên thuê:
Người chăn chiên thuê không phải là chủ đàn chiên nên không mấy tha thiết với đàn chiên, họ không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên khi gặp nguy hiểm. Vì không có tình yêu tha thiết với đàn chiên nên họ cũng không sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả, họ trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng.
Đức Giêsu gọi những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái là những kẻ chăn thuê, họ chỉ lo lắng đến các tư lợi do chức vụ đem đến, chứ không tha thiết gì đến đàn chiên, vì vậy khi gặp nguy hiểm là họ chạy trốn để đàn chiên tản mát.
2. Người chủ chăn.
Trái lại, người chủ chăn thương yêu đàn chiên, tha thiết với đàn chiên, không nghĩ đến ích lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh cho đàn chiên bất chấp nguy hiểm. Người chủ chăn có ba đặc điểm sau đây:
a) Hiệp thông với đàn chiên:
Người chủ chiên biết các chiên, biết từng con một, và ngược lại chiên biết chủ. Đây là hành động hỗ tương. Biết một cách riêng biệt, từng con chiên một với các hoàn cảnh , nhu cầu, khát vọng của con chiên. Con chiên biết nhận ra tiếng của chủ chăn. Thật là những người bạn tri âm. Như thế sự biết hỗ tương này sẽ đưa đến một cuộc sống thân mật giữa hai bên. Đúng thế, chữ “Biết” của Gioan, không những bao hàm nghĩa trí tuệ, nhưng còn là sự hiệp thông cuộc sống dựa trên tình yêu và lý trí. Sự thông hiệp này đã có nơi Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu cũng sánh ví sự hiệp thông như thế giữa Ngài và các con chiên.
Truyện: Con mắt của vị hoàng đế.
Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một hôm khi còn là thiếu úy, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sống và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xoá tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Như người Mục tử nhân lành, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi, và nhìn chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn chiên trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Ngài đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.(Cử hành Phụng vụ CN và Lễ trọng, tr 136)
b) Qui tụ và hợp nhất đàn chiên.
Người chủ chăn mở đường tìm lối cho những con chiên lạc trở về một đàn vì có những con chiên lầm đường lạc lối. Ngoài ra, còn muốn thu thập các con chiên khác qui tụ lại trong đàn chiên này là dân Israel, ám chỉ Giáo hội sau này, nói lên tính cách phổ quát của Giáo hội. Biểu tượng người chăn chiên nhân lành là một dịp để Chúa quảng diễn vai trò của Ngài hướng dẫn cả thế giới:”Ta còn những con chiên khác không thuộc về đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn... và sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Tất cả mọi người là con chiên của Chúa, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và một Giáo hội duy nhất.
Truyện: Pho tượng Chúa chiên lành.
Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng:”Ta là môn đệ của một Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới.. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm B, tr 70-71)
c) Thí mạng để bảo vệ đàn chiên.
Đoạn Kinh thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung thành và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có sự gì xẩy ra cho chiên, người ấy phải trưng bầy bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi. Luật pháp qui định:”Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng”(Xh 22,12). Ở đây muốn nói la økẻ chăn phải mang về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy.
Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên. Lắm khi họ còn phải làm nhiều điều hơn thế nữa để cứu chiên.
Truyện: Liều mạng cứu chiên.
Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.
III. KITÔ HỮU CŨNG LÀ MỤC TỬ.
1. Sứ vụ của Đức Giáo hoàng.
Đức Giêsu đã trao phó trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Chúa khi Chúa nói với ông Phêrô tới ba lần:”Hãy chăm sóc chiên của Thầy”(Ga 21,15-17). Và sau khi Chúa về trời, thánh Phêrô trở nên vị lãnh tụ tối cao trong Giáo hội, vị Giáo hoàng đầu tiên đặt ngai tòa tại Rôma, các tông đồ và mọi tín hữu phải qui phục quyền hướng dẫn của Ngài. Giáo hoàng là vị đại diện Thiên Chúa ở trần gian.
Truyện: Quo vadis ?
Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin ? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao ? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine ? Thưa Thầy, Thầy đi đâu ?
Chúa Giêsu trả lời:
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên.
2. Sứ vụ các Giám mục, Linh mục.
Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một số ít người trong dân Chúa được gọi, được chọn để đóng vai người mục tử của cộng đoàn. Đó là các Giám mục. Linh mục tức các thừa tác viên có chức thánh. Công việc được giao cho các vị, chính là việc chăn dắt, chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa. Tác vụ của các vị là làm sao cho đoàn chiên chẳng những được an toàn mà còn được ăn uống no nê, béo tốt. Trách nhiệm ấy thật cao cả nhưng cũng thật khó khăn và nặng nề. Cao cả vì các vị phải hiện-tại-hoá tấm lòng và cách sống yêu thương và hy sinh xả kỷ của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa đối với cộng đồng anh chị em được giao phó cho các vị. Khó khăn và nặng nề vì các vị vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.
Nhìn vào thực tế, một thực tế không thể chối cãi được và cũng rất bình thường, chúng ta thấy các vị chủ chăn có một vai trò quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng thấy rõ là không phải tất cả các vị chủ chăn đều có được tấm lòng yêu thương và cách sống hy sinh quên mình vì đoàn chiên. Vẫn còn đó, những ích kỷ, nhưng vụ lợi, những hưởng thụ không chính đáng ! Vẫn còn đó, những lạm dụng danh nghĩa, những tự tôn tự đại ! Vẫn còn đó những ngại hy sinh, những cách phục vụ nửa chừng nơi các vị chủ chăn của chúng ta.
Nhưng cũng không thiếu gì những vị mục tử hy sinh vì đàn chiên, những gương lành sáng chói còn ghi trong sử sách. Một Gioan Vianney đã tô điểm sáng chói cho khuôn mặt vị Mục tử nhân lành tối cao ! Chính vì thế mà Giáo hội mới tha thiết mời gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị, để các vị trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành. Không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, không ai làm được những chuyện “ngược đời” mà Phúc âm đòi hỏi.
3. Sứ vụ của mọi Kitô hữu..
Mọi người đã được chịu phép Thánh tẩy đều được tham gia vào ba chức năng của Chúa Kitô, đó là: chức năng tư tếá, chức năng tiên tri và chức năng cai trị. Nhưng theo tư tưởng của Đức Kitô thì “Cai trị là phục vụ”. Ai mà không có quyền phục vụ ? Ai có thể nói là mình không thể phục vụ được trong bất cứ một lãnh vực nào hay một hoàn cảnh nào ?
a) Trong đời sống Kitô hữu nói chung.
Nhìn sâu hơn nữa vào tinh thần Phúc âm, chúng ta phải quả quyết rằng: không chỉ có các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Kitô hữu lớn nhỏ, nam nữ đều được tham gia vào sứ vụ chăm sóc của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, bí tích Thánh Tẩy đã khiến chúng ta thành chi thể của Thân Mình Mầu nhiệm mà Chúa Kitô là Đầu. Là chi thể, chúng ta mang trong mình tư cách, tính chất, sứ vụ của Đầu. Nếu Đức Giêsu là Mục tử thì mọi Kitô cũng đều là người chăm lo cho anh em là chi thể của Thân mình
b) Trong đời sống gia đình nói riêng.
Gia đình được gọi là Hội thánh tại gia. Trong Hội thánh lớn hay nhỏ đều phải có tổ chức, phải có đầu có cuối như người ta thường nói:”Kim chỉ phải có đầu”. Chúa Kitô đã trao cho thánh Phêrô nhiệm vụ coi sóc Hội thánh toàn cầu, thì Ngài cũng trao cho các Giám mục, rồi đến Linh mục nhiệm vụ chăm sóc Hội thánh tại địa phương là Giáo phận, giáo xứ.
Như vậy, Chúa cũng trao cho cha mẹ nhiệm vụ chăm sóc gia đình – một Hội thánh tại gia – để cha mẹ thi hành sứ vụ mục tử đối với con cái cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ; vợ có sứ vụ mục tử đối với chồng và chồng có sứ vụ mục tử đối với vợ; anh em chị em có sứ vụ mục tử đối với nhau và cứ thế mà rộng ra toàn xã hội và thế giới: mọi người có sứ vụ chăm lo cho nhau, vì mọi người là con cái của Thiên Chúa, đều là anh chị em của nhau, đều thuộc về một ràn chiên duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.
4. Sứ vụ hiệp nhất của Kitô hữu.
Đức Giêsu muốn qui tụ tất cả các chiên vào trong một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của một Chúa chiên. Nỗi thao thức của Đức Giêsu trước khi vào cuộc tử nạn là cho mọi người hiệp nhất nên một. Tâm tình này đã được Đức Giêsu thổ lộ trong bữa Tiệc ly:”Xin cho chúng hiệp nhất nên một”(Ga 17,23). Nhưng sau khi Chúa về trời rồi, Hội thánh vẫn còn chia rẽ. Hội thánh được ví như một tấm vải bị xé ra nhiều mảnh, cần phải được nối kết lại.
Công đồng Vatican II tha thiết mong mỏi tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, nên muốn cung ứng cho mọi người Công giáo sự trợ lực, đường lối và phương sách để họ có thể đáp ứng lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa (Sắc lệnh về hiệp nhất, số 1).
Hàng năm Giáo hội tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất từ ngày 18-25 tháng giêng. Tuần lễ hiệp nhật này là sáng kiến của một mục sư Anh giáo ở New York, ông Wattson và người bạn của ông là ông Spencer Jones ở Luân đôn. Kết quả đầu tiên của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất này là sự trở lại Công giáo của chính mục sư Wattson, sau là Linh mục Paul Francis, đồng thời cả cộng đoàn (Association de Réparation) của ông lập cũng trở lại Công giáo. Đức Piô X đã chấp thuận tuần lễ hiệp nhất này trong Giáo hội.
Bài đọc 1: Cv 4,8-12: Là lời chứng hùng hồn của Phêrô trước Thượng Hội đồng Do Thái gồm các PS4-B66
Bài đọc 1: Cv 4,8-12: Là lời chứng hùng hồn của Phêrô trước Thượng Hội đồng Do Thái gồm các thủ lãnh và kỳ mục trong dân. Phêrô quả quyết chính nhờ Danh Đức Giêsu Nadarét mà ngài đã chữa lành người què. Đấng mà Phêrô nhân danh để làm phép lạ chính là Đức Giêsu Nadarét mà giới lãnh đạo Đền thờ đã giết hại bằng cách kết án trên cây thập tự. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết để minh oan cho Người, để siêu tôn Người và trả lại cho Người tất cả quyền năng mà Người đã tự ý khước từ khi nhập thể làm người. Cái chết hy sinh trên thập giá của Đức Giêsu chứng tỏ Người là Vị Mục tử nhân lành trong Tin Mừng Gioan.
Bài đọc 2: 1 Ga 3,1-2: Gioan muốn các tín hữu tin vào Lòng Yêu Thương vô bờ vô bến của Chúa Cha. Bằng chứng Thiên Chúa Cha đã làm cho mọi người nên con của Người, trong và nhờ Đức Giêsu Kitô Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng: Ga 10,11-18: Là lời khẳng định long trọng của Đức Giêsu với người Do Thái: “Chính tôi là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Mối liên hệ giữa Mục tử và đoàn chiên là gắn bó, mật thiết, sống động: đoàn chiên thuộc về Người, biết Người, nghe tiếng Người. Còn Người, Người biết rõ từng con chiên một và Người hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên. Người tự nguyện, tự ý hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, nên càng được Chúa Cha yêu thương quí mến. Người còn có rất nhiều chiên khác chưa tập trung cùng đàn mà còn tản mác khắp chốn khắp nơi, nên trong lòng Người còn nặng nỗi bức xúc phải tập hợp tất cả mọi con chiên thành một đàn duy nhất.
Chúa nhật IV Phục Sinh, Lễ Chúa Chăn Chiên Lành, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Chúa Giêsu Mục tử nhân lành chính là mẫu gương tuyệt hảo cho mọi Ơn Gọi Phục Vụ.
1. Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành
Từ Abraham cho đến Môisen, Đavit, biết bao Tổ Phụ Do thái đã từng là những người chăn chiên. Từ kinh nghiệm của nghề chăn chiên, họ đứng ra lãnh đạo dân tộc. Quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng dựa trên kinh nghiệm đó nên họ gọi Thiên Chúa là Mục tử và coi mình là đoàn chiên của Ngài.
Các Ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để nói về tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và dân của Người. Nhất là trong Ed 34, Sách Giôna chương cuối và TV 23. Đặc biệt chương 10 Phúc âm Thánh Gioan: Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất đẹp gắn liền với dân du mục. Khác với hình ảnh những đứa trẻ chăn trâu, chăn bò ở làng quê Việt nam, chúng đi sau đàn vật. Người mục tử đi trước đàn chiên, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, tìm suối mát cho chiên, dẫn về đàn những con chiên lạc, bảo vệ chiên khỏi thú dữ, biết từng con chiên một.
Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những Mục Tử Nhân Lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất:
- Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: "Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" ( Is 40, 11 ).
- Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: "Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc" (Mt 18, 12-13 ).
- Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: "Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ" ( Ed 34, 14 ).
- Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: "Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì" ( Tv 23, 1 ); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: "Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm" ( 23, 4 ).
- Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: "Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng" ( Ed 34, 16 ).
- Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: "Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên" ( Dc 9, 16 ).
Người Mục Tử tốt thật sự yêu thương đàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên.
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, mọi Kitô hữu là đàn chiên của Chúa. Chúa ban cho đàn chiên sự sống cách dồi dào, đó là sự sống đời đời. Mỗi con chiên đều quý giá vô ngần đối với Chúa.
Chúa Giêsu là người Mục Tử tuyệt vời nhất: "hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên", "tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi... chúng sẽ nghe tiếng tôi".
Biết chiên:
Khi dùng từ “biết” ở đây, Chúa Giêsu muốn nói cái biết theo nghĩa Kinh Thánh, nghĩa là cái biết tận bên trong, thân mật, thắm thiết. “Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha”. Ðó là “Cái biết” khiến cho Ba Ngôi trở nên Một.
Là Mục Tử tốt lành, Chúa Giêsu thấu rõ mỗi con người như lời tác giả Thánh vịnh: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, … Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con... Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?” (Tv 139, 1-7).
Thí mạng vì chiên:
Người Mục Tử tốt lành sẵn sàng “thí mạng sống vì chiên”. Chúa Giêsu đã hết lòng yêu thương, chăm sóc đàn chiên, sẵn sàng thí mạng mình cho đàn chiên. Chúa Giêsu Mục Tử đã chết và Phục Sinh để cho tất cả chúng ta, những kẻ đã cùng chết với Ngài nhờ bí tích Rửa tội, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là “Abba, Cha ơi!” (x. Rm 8, 15-17)
2. Chúa Giêsu vị Mục tử hết mình phục vụ đoàn chiên
Cả cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể làm người đến Tử Nạn Phục Sinh có thể tóm tắt cách đơn giản là phục vụ đoàn chiên vì yêu thương. Đỉnh cao phục vụ là thí mạng vì đoàn chiên. Việc gặp gỡ Người, kết hợp với Người sẽ dần dần biến đổi chúng ta trở nên những người phục vụ. Mỗi người Kitô hữu đều có trách nhiệm phục vụ anh chị em mình trong tư cách tham dự vào trách nhiệm Mục tử của Chúa Giêsu.
Trong sứ điệp “ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu” năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn chủ đề Ơn Gọi Phục Vụ. Khởi đi từ Đức Kitô: Người không đến để phục vụ,” nhưng để phục vụ và trao ban mạng sống để cứu chuộc nhiều người” ( Mt 20,28). Người đã rửa chân cho các môn đệ và tuân phục chương trình của Chúa Cha cho đến chết, chết trên thánh giá ( x.Pl 2,8). Vì thế, Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu mới và đặt Người làm Chúa trên trời dưới đất ( x Pl 2,9-11). Đức Thánh Cha xác định: Một cách huyền nhiệm, ơn gọi phục vụ luôn là một ơn gọi thông phần một cách rất riêng tư vào trong sứ vụ cứu độ” ( số 2). ”Ơn gọi linh mục hoặc ơn gọi tu trì, bởi chính bản chất của nó, luôn là những ơn gọi để quãng đại phục vụ Thiên Chúa và người lân cận”(số 3).
Đức Thánh Cha đã từng nói rằng ”Trong thời đại chúng ta, một thời đại tuy đã bị tục hoá, giải thiêng nhưng vẫn được thúc đẩy đi tìm sự thánh thiện;một thời đại rất cần có những vị thánh làm sáng tỏ sự hiện diện đầy yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa.Nhân loại đang cần có những linh mục thánh thiện và những tâm hồn được thánh hiến,họ là những người ngày ngày sống hết mình cho Thiên Chúa, cho tha nhân,họ là những bậc cha mẹ sống chứng nhân ngay trong bầu khí gia đình nhờ ân sủng của bí tích hôn nhân,họ là những người trẻ có kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô và được Người thu hút để hướng dẫn anh chị em đồng loại tới cội nguồn tin mừng”( Sứ điệp ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu lần thứ 36).
Ngài gởi lời mời gọi thiết tha đến các bạn trẻ “ cha hy vọng các con có thể biết cách lắng nghe tiếng Thiên Chúa mời gọi các con phục vụ.Đó là con đường mở ra biết bao hình thức của sứ vụ vì lợi ích của cộng đoàn: từ các tác vụ được phong cho đến các tác vụ khác nhau được thiết lập và được nhìn nhận là những thừa tác vụ,như dạy giáo lý,linh hoạt phụng vụ,giáo dục giới trẻ và những diễn tả khác nhau về đức ái” ( Số 4)
3. Ai phục vụ Thầy, người ấy phải theo Thầy
Một xã hội thiếu bóng dáng những người sống đời tận hiến là một xã hội thiếu lòng quãng đại,một xã hội bị khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống.Chính sự có mặt của những người sống đời tận hiến phục vụ như là một nhắc nhở rằng, con người có khả năng sống yêu thương, phục vụ như Đức Kitô và sống quãng đại hy sinh dấn thân cho người khác.
Những người trẻ lớn lên thường lập gia đình,điều đó thật tốt đẹp.Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số người trẻ dâng hiến đời mình cho Chúa,ở bên Chúa cách đặc biệt để được sai đi.Vì thế Đức Thánh Cha nhắn nhủ những người trẻ ”Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng ngày hôm nay “Nếu ai phục vụ Thầy,người ấy phải theo Thầy” (Ga 12,26).Đừng e ngại đón nhận lời mời gọi này.Chắc chắn các con sẽ gặp phải những khó khăn hy sinh,nhưng các con sẽ hạnh phúc khi phục vụ,các con sẽ là chứng nhân của niềm vui mà thế gian không thể ban tặng.Các con sẽ là những ngọn lửa sống động của một tình yêu vô biên và vĩnh cửu.Các con sẽ nhận biết những phong phú thiêng liêng của chức vụ linh mục, quà tặng và mầu nhiệm thần linh” (Số 5).
Người sống đời tận hiến chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm.Họ dâng tình yêu lứa đôi cho một tình yêu cao hơn trong ơn gọi tu trì để có thể yêu mãnh liệt và bao la hơn. Đức Thánh Cha khẳng định “Họ không tìm kiếm những lợi lộc vị kỷ,nhưng hiến mình cho kẻ khác,khi cảm nghiệm niềm vui của tính nhưng không qua việc hiến tặng bản thân”.
Người đi tu là người muốn nên trọn lành,muốn đạt đến đỉnh cao của sự toàn thiện. Đó cũng tựa như người leo núi.Muốn có ánh sáng thì phải lên cao.Để lên cao phải vất vả, nhiều khi phải leo lên những sườn dốc cheo leo.Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ.Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo và nhất là sự can đảm.Đời sống tu trì cũng vậy.Nó đòi hỏi một sức khoẻ tinh thần, thể xác,sự khôn ngoan, nhẫn nại, lòng can đảm, sức chịu đựng bền bỉ.Nếu không người ta sẽ sợ hãi chóng mặt, dừng lại và rút lui. Đổi lại,người leo núi được hưởng những niềm vui mà người khác không biết đến. Đó là, được ở trong ánh sáng không bao giờ tắt, được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ, cảnh mây bay lững lờ tận dưới xa chân mình, càng leo những núi cao càng khám phá ra muôn vàn những đỉnh núi khác.
4. Cầu nguyện cho những người Mẹ
Ơn gọi tu trì là ân huệ đến từ Thiên Chúa. Gia đình là chủng viện đầu tiên, dòng tu đầu tiên ươm mầm ơn gọi phát triển. Các bậc cha mẹ là những người phát hiện và vun trồng cho ơn gọi lớn lên, trổ sinh hoa trái.
Hôm nay giáo hội cũng cầu nguyện đặc biệt cho các người Mẹ.Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với đàn con cái.Người Mẹ yêu thương chăm sóc từng đứa con, tuỳ tính tình mỗi đứa để có cach giáo dục thích hợp. Không gì mà người Mẹ không làm để bảo vệ con khỏi nguy hiểm. Bà sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối trở về.
Ơn gọi tu trì thường do người Mẹ phát hiện và dìu dắt từng bước.Hầu như linh mục nào cũng giống Mẹ và rất kính yêu Mẹ của mình.Tấm lòng người Mẹ bao la như biển cả. Trái tim người Mẹ nhân hậu bao dung như đất trời. Bởi vậy ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu cũng cần dành lời cầu nguyện đặc biệt cho mọi người Mẹ trên thế giới. Xin cho mọi người Mẹ luôn sống vai trò mục tử nhân lành với con cái và luôn biết quãng đại dâng con mình cho Chúa, cho Giáo hội trong Ơn Gọi Phục Vụ.
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi” (Tv 23, 2-3).
Tâm tình của thánh vương Đavít diễn tả qua thánh vịnh trên thật thích hợp cho Lời Chúa hôm nay- ngày: PS4-B67
Tâm tình của thánh vương Đavít diễn tả qua thánh vịnh trên thật thích hợp cho Lời Chúa hôm nay- ngày mà Giáo hội muốn con cái mình chiêm ngắm Chúa Kytô dưới tước hiệu vị mục tử nhân lành như thánh vương Đavít đã từng chiêm ngắm và cất tiếng ngợi ca. Vị mục tử đó yêu thương, ân cần chăm sóc từng con chiên và cuối cùng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên.
Hình ảnh con chiên, con cừu có vẻ ít quen thuộc với chúng ta nhưng với người Do thái - vốn là dân du mục chuyên chăn chiên, thì không hề xa lạ. Sống trong môi trường đó, cách tốt nhất mà Chúa Giêsu đã làm, là lấy lại hình ảnh này để nói với người Pharisêu về vai trò đích thực của người chăn chiên.
Chúng ta thấy người chăn chiên đích thực khác xa với kẻ chăn chiên thuê. Người chăn chiên xét theo tính chất của nghề này phải là một con người lực lưỡng, khoẻ mạnh, có tài điều khiển cả đàn chiên; bên cạnh đó người chăn chiên cần phải có lòng yêu thương chiên, nâng niu và bảo vệ, liều mình chiến đấu với thú dữ mỗi khi chiên bị tấn công, săn sóc chúng mỗi khi chúng bị thương; người chăn chiên còn là một người bạn của chiên nữa để có thể hướng dẫn chiên theo những hiệu lệnh riêng.
Sở dĩ phải như thế bởi chiên là một loài vật rất đặc biệt. Chúng hiền lành và sống theo chủ chăn của mình. Và vì thế, mỗi một con chiên đều thân thuộc với chủ chăn để quen với những “tín hiệu” riêng của chủ. Điều này rất quan trọng. Vì dân du mục ngày xưa họ không có chuồng trại riêng cho mỗi gia đình mà tất cả đàn chiên bất kể của ai tối đến đều tụ về trong một trang trại lớn mà người ta gọi là ràn chiên. Trong ràn chiên có nhiều đàn chiên. Mỗi đàn chiên thuộc một chủ chiên. Thế nên sáng ra, tất cả các chiên trong một đàn sẽ nghe theo tín hiệu riêng của chủ và lần lượt đi theo mà không sợ lạc mất (đi lộn qua đàn khác hoặc chủ khác). “Chiên ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” là vì vậy. Còn kẻ chăn chiên thuê thì sao? Dĩ nhiên họ không quan tâm tới chiên, không yêu thương bảo vệ và săn sóc chiên, gặp thú dữ thì bỏ chạy mặc cho chiên muốn ra sao thì ra. Vì là kẻ chăn thuê, nên cái họ cần là công nhật, là tiền công của chủ chứ không phải vì những con chiên đáng ghét kia.
Thế nên, Chúa Giêsu đã sánh ví mình như Vị Mục tử nhân lành, vị mục tử đích thực vì sự an toàn và tính mạng của đàn chiên. Khuôn mẫu của vị mục tử đó là gì? Người mục tử nhân lành trước hết phải là người Mục tử hội đủ những điều kiện của người chăn chiên đích thực chứ không phải kẻ chăn chiên thuê. Từ hình ảnh của một người chăn chiên tốt lành - một hình ảnh đã được Cựu ước dùng để chỉ Thiên Chúa như Ngôn sứ Isaia đã từng ví Thiên Chúa là người chăn chiên tốt lành, bồng ẵm chiên, ấp ủ vào lòng, vác trên vai và dẫn chiên tới nơi nghỉ ngơi (x. Is 40,11). Chúa Giêsu dùng lại hình ảnh đó như là thước đo để nhận ra đâu là người mục tử nhân lành.
Đích thực thôi chưa đủ. Người mục tử đó cần phải yêu thương chiên đến cùng. Chúa Giêsu đối chiếu người mục tử chăn chiên với đàn chiên cũng giống như Chúa Cha với Chúa Con thông qua động từ “biết”: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi cũng như Chúa Cha biết Tôi và Tôi biết Chúa Cha”. Biết ở đây có nghĩa là gì? Biết chính là yêu mến, thương yêu bằng tình yêu hết sức thâm sâu. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha vô cùng thì Người cũng yêu đàn chiên của Người hết sức đến nỗi Người săn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
Cuối cùng, người mục tử nhân lành phải là người hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Vì yêu mến đàn chiên, Chúa Giêsu đã tự nguyện hy sinh chính mạng sống mình khi chấp nhận vâng theo Thánh ý Chúa Cha, chịu khổ hình, chịu chết để rồi Phục sinh hầu đem đến ơn cứu thoát cho muôn người.
Chúng ta tự hỏi nếu một vị mục tử hội đủ những điều kiện mà Chúa Giêsu đưa ra - đích thực, yêu mến và hy sinh- vậy có thể nói vị mục tử đó đã hoàn thành xuất sắc công việc của mình hay còn thiếu một chút gì đó chưa thật hoàn mỹ? Thật ra nếu nghĩ như vậy, chúng ta sẽ thấy vị mục tử đó dễ bị “ru ngủ” trong ánh hào quang và tự mãn. Chúa Giêsu không muốn các vị mục tử chỉ dừng lại ở đó. Chúng ta thấy Chúa Giêsu tuy chăm lo cho đàn chiên này nhưng vẫn không quên hướng đến những đàn chiên khác.
“Tôi còn những chiên khác chưa thuộc ràn này”. Đây chính là dung mạo đích thực của Giáo hội, của những vị mục tử đích thực. Chúng ta biết, bản chất của Giáo hội là truyền giáo, chính vì thế, hơn bao giờ hết chúng ta hãy nói về ơn gọi truyền giáo của Giáo hội. Ơn gọi là một cuộc chuyển hoán, một cuộc đổi đời cách quyết liệt của tất cả mọi người khi nhận lãnh bí tích Thánh tẩy. Với ơn gọi này, chúng ta không được phép cho mình là người có quyền hưởng thụ, có quyền đòi hỏi Giáo hội phải làm cái này làm cái khác cho mình; trái lại chúng ta phải trở nên một “Kytô khác”, phải trở nên hình bóng của Chúa Kytô để mỗi người trở nên những mục tử nhân lành, thánh thiện cho thế giới hôm nay. Yêu mến Giáo hội cũng chính là yêu mến Chúa Kytô. Trăn trở và thao thức với những khó khăn của Giáo hội cũng chính là lúc chúng ta cùng trăn trở và thao thức với Chúa Kytô, để rồi cuối cùng, tất cả chúng ta cùng thốt lên như Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu: “Trong trái tim Giáo hội, con sẽ là Tình yêu”.
Tạ ơn Chúa vì Người thương ban cho chúng ta được sống trong một đoàn chiên duy nhất là Giáo hội với Vị Mục tự nhân lành là chính Đức Kytô. Xin cho mỗi người Kytô hân hoan bước theo Vị Mục tử nhân lành đó để không ngừng loan báo tình yêu vô bến bờ mà Vị Mục tử Giêsu đã hy sinh chính mạng sống mình vì đàn chiên.
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: “Vàng thau lẫn lộn”. Hàng thật hàng: PS4-B68
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: “Vàng thau lẫn lộn”. Hàng thật hàng già đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn.Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừa đến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốt đời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giả nhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn cỏn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện “Anh phải sống” của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.
Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dỏng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: “anh phải sống để nuôi nấng đàn con”.
Tác phẩm “Anh phải sống” đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì gia đình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nay được cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dủng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được căn nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giê-su đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không ai được phép bàng quan trước sự dữ dang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì giòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánh đỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiên đàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì “ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.
Nguyện xin Chúa Giê-su mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen
Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin của họ và truyền cho họ làm: PS4-B69
Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin của họ và truyền cho họ làm chứng nhân cho Người. Cuộc đời của các thánh Tông đồ là làm chứng Chúa Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, vì họ đã gặp Người trong những lần hiện ra. Khi các ngài rao giảng trước mặt dân Do-thái là những kẻ đã can dự vào cái chết của Chúa Giê-su, các ngài quả quyết Thiên Chúa đã cho Đức Ki-tô trỗi dậy và kêu gọi họ “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa”. Viết cho mọi tín hữu về Chúa Phục Sinh, thánh Gio-an Tông đồ gọi việc làm chứng này là “biết Thiên Chúa”, nhìn nhận “Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta”. Vậy ta hãy đi vào những hướng phụng vụ này để chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô và ý thức bổn phận làm chứng nhân cho Người.
1.Chúa Giêsu củng cố đức tin của các môn đệ (bài Tin Mừng – Lc 24:35-48)
Các bài Tin Mừng Phục Sinh vẫn tiếp tục đề tài Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Tuy nhiên, mỗi lần đề tài lại được trình bày theo một khía cạnh đặc biệt. Thánh Lu-ca cũng ghi lại những lần Chúa hiện ra, nhưng dưới cái nhìn của vị thánh sử kiêm y sĩ, tường thuật không những nhấn mạnh đến chứng lý Kinh Thánh như Chúa Giê-su đã dạy, mà còn có những chứng lý về giác quan thật sống động.
Trước hết trong câu truyện Tin Mừng, thánh Lu-ca ghi lại một phản ứng thật tự nhiên và tâm lý của các môn đệ khi Chúa hiện ra. “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24:37). Ta cứ tưởng tượng một nhóm đàn ông, trong đó nhiều người đã từng vào sinh ra tử với nghề chài lưới, thế mà giờ đây lại quá sợ hãi trước một bóng người thân thương trở về với họ. Mặc dù Chúa đã lên tiếng trước và chào bình an với họ, họ vẫn không bình tĩnh nổi. Phản ứng trước sự Phục sinh như thế có đúng và đáp lại mong mỏi của Chúa Ki-tô không? Trên phương diện tâm lý bình thường, ta có thể hiểu và chấp nhận phản ứng của họ. Tuy nhiên cần phải vượt qua cái tâm lý bình thường ấy để tiến tới phạm vi đức tin, môi trường của quan hệ tình yêu giữa Chúa với họ.
Đối với phản ứng ấy, Chúa Giê-su không buồn giận trách móc. Trái lại, Người nhân từ và kiên nhẫn dẫn dắt họ qua giây phút hoảng hốt ấy để họ được tràn đầy niềm vui Phục sinh. Người bắt đầu từ chính tâm lý hoảng sợ của họ. Họ “tưởng là thấy ma” thì Thầy sẽ cho họ thấy Thầy không phải là ma. Ma nào lại có tay chân, xương thịt, có thể ăn uống bình thường! Rồi sau khi Thầy cho họ được nắm lấy tay Thầy, bàn tay từng chăm sóc họ, họ hết hoảng sợ và bước sang tình trạng “còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng”. Tiếp đến, Chúa dùng những sinh hoạt thường ngày Người đã từng có với họ như việc ăn uống, giúp họ nhận biết Người vẫn là chính vị Thầy của họ.
Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ. Mục đích Người hiện ra với họ là phải đem họ đến bình diện đức tin. Do đó, Người sử dụng Kinh Thánh để giải thích cho việc Phục sinh của Người. Họ không đủ trình độ hiểu được Kinh Thánh, thì Người “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Người muốn họ hãy nhìn lại những ngày tháng Người đã từng sống với họ, nhất là những ngày kinh hoàng cuối đời của người, để đi tới xác tín: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24:45-46). Tin Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, đó là cốt lõi của đức tin. Đức tin không phải là quà tặng giữ trong tủ sắt cho kỹ, nhưng là sinh hoạt yêu thương phải được biểu lộ. Tin Chúa Ki-tô và Tin Mừng của Người thì “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Chúa còn dặn họ hãy bắt đầu rao giảng “từ Giê-ru-sa-lem”. Điều này thật có ý nghĩa đối với ta. Ta tiếp nối việc rao giảng Tin Mừng, nhưng không phải “từ Giê-ru-sa-lem” bên nước Do-thái, mà là từ Giê-ru-sa-lem của gia đình, nhóm, xứ đạo ta. Thực vậy, thiếu gì người không bắt đầu rao giảng từ chính mình hoặc gia đình, nhưng chỉ thích ồn ào rao giảng ở những nơi người ta thấy được bóng dáng họ. Đúng là việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng, chưa lo tu thân tề gia mà cứ muốn bình thiên hạ!
Tóm lại, qua câu truyện Chúa Phục sinh hiện ra như Lu-ca kể lại, ta nhận biết vai trò chủ động của Chúa trong việc củng cố đức tin của ta quan trọng biết chừng nào. Chẳng vậy mà ông Phê-rô đã phải thay mặt anh em nài xin Chúa: Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con.
2. Bài giảng thứ hai của thánh Phê-rô tuyên xưng Chúa Ki-tô xóa bỏ tội lỗi của ta (bài đọc Tân Ước – Cv 3:13-15.17-19)
Ông Phê-rô luôn luôn đi đầu trong mọi việc, từ tuyên xưng Chúa trong Nhóm Mười Hai cho đến rao giảng cho dân chúng. Bài giảng này nhắm thẳng vào đám thính giả quen thuộc với các Tông đồ. Dân chúng hôm nay đa số là người dân Giê-ru-sa-lem, những người đã tham dự hoặc chứng kiến cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô. Nói với họ, ông Phê-rô đã nói thẳng nói thực. Ông không tránh né nói đến việc làm sai trái của họ là “đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân, đã giết Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3:14-15).
Tuy nhiên vạch lỗi không phải là tiêu cực chống đối, nhưng là để mở ra cho người có lỗi một lối thoát. Thánh Phê-rô đã cho thính giả của ngài một tia hy vọng: “Giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em” (Cv 3:17). Và niềm hy vọng ấy phải tiếp tục đưa họ tới đích điểm, tức là “Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa” (Cv 3:19). Niềm tin họ cần được dẫn tới chính là Chúa Ki-tô, vì “Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Người chỗi dậy để giúp anh em [Do-thái] trước tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng cách làm cho mỗi người trong anh em lìa bỏ những tội ác của mình” (Cv 3:26).
Mục tiêu Chúa Ki-tô được sai đến trần gian là để chiến thắng tội lỗi và giúp nhân loại chia sẻ chiến thắng ấy. Chúa Ki-tô đã chiến thắng tội lỗi không phải bằng vũ khí của trần gian là quyền lực, giàu sang…, nhưng bằng chính những khí giới của con cái Thiên Chúa mà loài người đã từ bỏ, đó là vâng lời và yêu mến. Đức vâng phục và lòng mến của Đức Ki-tô đã khiến người chấp nhận chết nhục trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi ta, nhưng cũng chính là lý do để Thiên Chúa cho Người sống lại. Phục sinh là dấu chỉ Chúa Ki-tô đã chiến thắng tội lỗi. Để tham dự vào cuộc chiến với tội lỗi và chiến thắng của Chúa Ki-tô, bước đầu tiên hành trình của ta là “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa”. Lời giảng về Đấng Ki-tô phục sinh đã giúp bao người cất bước đầu tiên của hành trình đức tin ta cần đón nhận với tất cả tâm hồn và quyết tâm. Do những tội lỗi của ta, chính ta “đã giết Đấng khơi nguồn sự sống”, cho nên ta “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho ta”.
3. Tuyên xưng Chúa Ki-tô Phục sinh có nghĩa là “tuân giữ các điều răn của Người” (bài đọc Tân Ước – 1 Ga 2:1-5a)
Rao giảng Đấng Ki-tô phục sinh có nhiều cách. Thánh Phê-rô anh dũng đứng trước sân Đền thờ Giê-ru-sa-lem nói với dân chúng về Đấng chính họ đã giết chết. Các Tông đồ rao giảng đã “rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem”. Thánh Gio-an khi đã về già không di chuyển nữa thì rao giảng qua những “thư gửi các con”. Qua bài đọc hôm nay, ngài đã giảng cho chúng ta, “những người con bé nhỏ” của ngài.
Đối với ngài, rao giảng hay sống mầu nhiệm Phục sinh là phải sống phù hợp với mục đích của sự Phục sinh. Chúa Ki-tô sống lại là để cho thấy Người đã chiến thắng tội lỗi. Do đó, ta phải sống làm sao như những người chiến thắng tội lỗi bằng cách “đừng phạm tội” (1 Ga 2:1). Khai triển tư tưởng “ đừng phạm tội”, thánh Gio-an trở lại với lịch sử cứu độ, đó là “Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta và tội lỗi thế gian”. Người giúp ta “biết Thiên Chúa”, nghĩa là đưa chúng ta trở lại trong mối yêu thương với Thiên Chúa. Nhưng muốn duy trì và phát triển được mối yêu thương ấy, cách cụ thể nhất tức là “tuân giữ các điều răn của Người”. Đấy là lối lý luận tài tình và hết sức thực tiễn của vị cha già nhắn nhủ những người con nhỏ bé của ngài. Người cha ấy không muốn con nhỏ là “kẻ nói dối”, nói một đàng làm một nẻo. Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa là cách duy nhất giúp ta “biết Thiên Chúa”, là cách ta tỏ lòng yêu mến Chúa là cách ta làm cho “tình yêu Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo” nơi ta và những người chung quanh ta.
4. Sống Lời Chúa
Tin Chúa sống lại và sống đức tin Phục sinh là đề tài chính của mùa Phục Sinh. Chúa Ki-tô đã hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại là để đức tin của họ được củng cố và họ trở nên những chứng nhân của người. Bí tích Rửa tội đã cho ta được sống lại trong con người mới, để cùng chia sẻ niềm vui Phục sinh và được sai đi làm chứng cho Chúa Ki-tô. Thánh Gio-an cho ta một phương thức cụ thể và hữu hiệu giúp ta thực hiện tốt đẹp sứ mệnh làm chứng cho Chúa, là ta hãy tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa mà làm cho tình yêu Thiên Chúa phát triển tột độ nơi ta. Tuân giữ các điều răn Thiên Chúa như thế nào, ta hãy nhìn vào tấm gương của Chúa Giê-su Ki-tô, người Con Yêu Dấu của Cha trên trời đã được sai đến để dạy dỗ và dẫn dắt ta cùng về nhà Cha với Người.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su truyền cho các môn đệ phải ra đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem. Vậy tôi sẽ rao giảng Tin Mừng ấy như thế nào? Và đối với tôi, đâu là “từ Giê-ru-sa-lem”, khởi điểm của hành trình rao giảng?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã làm cho tâm hồn chúng con tươi trẻ lại, và chan chứa niềm vui vì được làm con Chúa. Xin cho chúng con hằng giữ mãi niềm vui Chúa ban, và nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III Phục Sinh).
Mục tử nhân lành là một hình ảnh rất đẹp ở xứ Palestin. Danh xưng mục tử nhân lành không: PS4-B70
Mục tử nhân lành là một hình ảnh rất đẹp ở xứ Palestin. Danh xưng mục tử nhân lành không phải là tôn danh người ta gán cho Chúa Giêsu để ca tụng Ngài, nhưng đây chính là mạc khải của Chúa Giêsu cho biết Ngài là ai. Ngài là mục tử thứ thiệt, mục tử chính hiệu, mục tử nhân lành đúng nghĩa.
Mục tử nhân lành là mục tử biết rõ đàn chiên:
Ngài biết rõ từng con chiên. Biết theo nghĩa Thánh kinh, tức là không phải chỉ biết trên lý thuyết, biết theo con số, nhưng là biết tường tận từng đặc điểm, từng tính cách của mỗi con chiên và Ngài có thể gọi tên từng con một, dẫu đàn chiên của Ngài là vô cùng đông đảo. Tương quan giữa Ngài và đàn chiên là rất gần gũi và mật thiết. Đàn chiên trở nên lẽ sống của Ngài.
Ngài gọi tên rồi đi trước dẫn đường cho đàn chiên theo sau. Ngài đi trước chứ không phải đi sau để “lùa”. Chiên đi sau cũng có nghĩa là chúng được Ngài cho tự do để có thể theo hoặc không theo Ngài. Ngài đi trước bằng lời nói, bằng việc làm. Ngài đi trước bằng gương sáng phục vụ cách tận tuỵ.
- Mục tử nhân lành là mục tử yêu thương đàn chiên:
Ngài không chăn dắt bằng quyền uy và bạo lực như những mục tử trong Cựu Ước. Ngài cũng không chăn dắt kiểu tắc trách, gặp chăng hay chớ như những kẻ chăn thuê. Ngài chăn dắt hoàn toàn bằng tình yêu và trách nhiệm. Tình yêu được thể hiện đặc biệt ở chổ: đối với những con chiên đau yếu, Ngài tận tuỵ chạy chữa; những con chiên thương tích, Ngài tận tình băng bó; những con chiên lạc đàn, Ngài tận lực kiếm tìm; những con chiên có nguy cơ làm mồi cho sói hùm, Ngài tận trung canh giữ... Ngài chưa thể an giấc, bao lâu còn những con chiên bị yếu đau, thương tích. Ngài chưa thể an phận, bao lâu còn những con chiên ngơ ngác lạc đàn. Ngài chưa thể an tâm, bao lâu còn những con chiên hoang đàng đùa giỡn trước nanh vuốt của ác thú. Mục tử nhân lành là thế, và nhất là Ngài còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
- Mục tử nhân lành là mục tử hiến mạng vì đàn chiên:
Thường tình thì chủ chiên bắt các con chiên hiến lông, hiến thịt, hiến sữa và cả hiến mạng cho mình. Hiếm có trường hợp ngược lại. Đây là điểm khác biệt rõ nét giữa mục tử nhân lành và người chăn thuê. Chỉ có mục tử chính hiệu Giêsu nhân lành mới sẵn sàng tự nguyện hiến mạng cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để bảo vệ sự hiệp nhất cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Nói cách khác để đàn chiên có được sự hệp nhất và sự sống sung mãn, Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính giá máu của mình. Đây là đỉnh cao của tình yêu mà Ngài dâng hiến cho đàn chiên.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên những con chiên tốt lành của Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, mục tử chính hiệu. Trở nên tốt lành qua hai tương quan tình yêu:
- Tương quan với người mục tử: biết – nghe – đi theo. Biết mục tử của mình là Đấng đã yêu thương và hiến mạng sống vì mình. Biết qua Lời của Chúa, qua Phụng vụ các Bí tích, qua cầu nguyện…. Nghe theo tiếng người mục tử, tiếng mang lại hạnh phúc đời đời, chứ không nghe tiếng người lạ. Đi theo mục tử của mình, chứ không đi theo người lạ, kẻ trộm hay sói dữ. Nếu chiên mà nghe và đi theo người lạ thì sẽ bị lạc; nghe và đi theo kẻ trộm sẽ bị bắt; nghe và đi theo sói dữ sẽ bị ăn thịt. Chỉ khi biết nghe và đi theo chủ mình thì mới có sự sống đích thực. Vì chỉ có chủ chiên mới đưa đàn chiên tới những nơi có đồng cỏ xanh tươi, có suối nước mát lành.
- Tương quan với các con chiên khác: hiệp nhất trong yêu thương, phục vụ trong quên mình. Biết, nghe và đi theo chủ chiên, con chiên cũng phải biết yêu thương hiệp nhất trong đàn chiên nữa. Chiên không thể cấu xé nhau, hay mạnh con nào con đó sống. Trái lại các con chiên khoẻ mạnh phải biết phục vụ nâng đỡ các con chiên ốm yếu theo gương của chủ mình. Sẽ không thể nào có một đàn chiên duy nhất, nếu các con chiên không hoà hợp với nhau, không yêu thương nâng đỡ nhau. Sẽ không thể nào trở nên gương sáng cho các con chiên khác không thuộc về đàn noi theo, nếu đàn chiên không biết hy sinh phục vụ lẫn nhau theo tinh thần của người mục tử nhân lành.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân được thuộc về đàn chiên của Chúa. Và hãy xin Người giúp chúng ta luôn biết trung thành nghe và đi theo vị mục tử tuyệt hảo là chính Chúa, qua các các vị chủ chăn đại diện cho Chúa ở trần gian. Xin Chúa cũng gởi thêm cho chúng ta nhiều mục tử nhân hậu biết noi gương Chúa hết lòng yêu thương và sẵn lòng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên được Chúa trao phó. Amen.
Ca dao Việt nam có những ca từ thật giản gị và gần gũi, để diễn tả mối quan hệ hai chiều: PS4-B71
Ca dao Việt nam có những ca từ thật giản gị và gần gũi, để diễn tả mối quan hệ hai chiều giữa những thành viên trong xã hội với nhau như:
“ Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai’
Hai mà một, một mà hai, thật như thế, tình yêu thương giữa các ngôi vị với nhau: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái…Cha ông ta cũng thường nói:”Bán bà con xa, mua láng giềng gần”.
Hình ảnh kinh thánh quen dùng để diễn tả cho chúng ta thấy, một tương quan sâu đậm, khắng khít, một sống một còn, giữa Thiên Chúa và con người, giữa các vị chủ chăn và các Tín hữu là “Mục tử” và “ Chiên’. Những kiểu nói này không xa lạ gì đối với những anh chị em sống ở vùng Trung đông, ở đất nước Do thái. Người mục tử tận tụy, hy sinh từng bữa ăn giấc ngủ để lo cho đàn chiên, còn chiên thì lắng nghe tiếng vị mục tử của mình. Đức Giêsu khẳng định rằng:” Tôi biết các chiên tôi, và các chiên tôi biết tôi”(Ga 10, 14 ). Không biết có một vị Quân vương nào trên trần gian này, dám khẳng định mình biết hết thần dân của mình không? Thiên Chúa biết con người từ khi chưa thành hình trong dạ Mẫu thân:” Trước khi Ta nắn ra ngươi trong lòng Mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, ta đã tác thánh ngươi” (Gr 1,5). Mục tử Giêsu chẳng những biết mà còn biết rõ từng con người:” Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến thầy”( Ga 21, 17). Còn thánh Phaolô, thì xác tín một cách mạnh mẽ, về cái “biết” của chúa Giêsu: biết con khi ngồi, khi đứng, khi nghĩ suy. Mục tử là như vậy, phải biết rõ từng con chiên của mình, phải đi tìm những con chiên lạc, băng bó cho những con chiên bị bệnh họan. Nếu mục tử cần thiết cho đàn chiên như vậy thì ngược lại chiên cũng cần biết bao cho các vị mục tử.
Không có Mục tử nào mà chăn không có chiên, vì như thế chẳng khác nào người nghệ sỹ chơi đàn mà không có dây, chẳng mang lại ích lợi gì cho những khán thính giả. Có chiên mới cần mục tử, mục tử sống cần “sữa”, cần “thịt” từ những con chiên, có thể nói mối hổ tương như là “Ôxy” để thở, như là ” cá với nước”. Chiên của tôi thì biết tôi( Ga 10,14), lời khẳng định này càng làm gia tăng tình yêu thương thắm thiết trong quan hệ song phương giữa các vị chủ chăn và những anh chị em giáo dân trong các họ đạo. Lối so sánh cụ thể ở các cụm từ” Mục tử” và “ Chiên” không hề hạ thấp hay đề cao tương quan quý giá của những vị mục tử lãnh đạo trong các cộng đòan với những anh chị em giáo dân, những cộng sự viên đắc lực đang phục vụ cho vị Mục tử tối cao và nhân từ là Đức Giêsu Kitô. Trái lại nó còn làm tăng thêm giá trị hiến tế của mỗi người được trở nên của lễ tinh tuyền và thánh thiện, đẹp lòng thiên Chúa.
“UT SINT UNUM”, Chúa Giêsu vẫn thường cầu nguyện cho sự hiệp nhất nên một, trong các cộng đòan Kitô hữu. Thánh lễ hằng ngày vẫn nhắc nhở sự hiệp nhất giữa đòan chiên và vị chủ chăn. Vẫn phải trau dồi và cố gắng để mỗi ngày trỏ nên những mục tử giàu lòng nhân ái, giàu nghĩa tín trung cho đòan chiên của Chúa hưởng nhờ. Lm Giacôbê Tạ Chúc
Chúa nhật thứ 4 trong mùa Phục sinh thường được gọi là "Chúa nhật Đấng Chăn Chiên lành: PS4-B72
Chúa nhật thứ 4 trong mùa Phục sinh thường được gọi là "Chúa nhật Ðấng Chăn Chiên lành". Lời Chúa hôm nay tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Chăn Chiên Nhân Lành, đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên, và trở nên mẫu gương tuyệt vời của tình yêu Kitô giáo.
Hội thánh luôn cần những người chăn chiên theo gương Ðức Giêsu, Thầy Chí Thánh, dám hiến mạng sống cho anh em; vì thế, hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ.
Hình ảnh Ðức Giêsu, Ðấng Chăn Chiên Lành, hiện lên sáng tỏ ở chính tâm điểm của mùa Phục sinh. Vì nếu như sự kiện Phục sinh là biến cố chính yếu, trung tâm và quan trọng nhất, thì hình ảnh Ðấng Chăn Chiên biểu lộ rõ ràng tầm mức cứu độ của biến cố ấy cho con người.
Ðấng Chăn Chiên Nhân Lành với một con chiên trên vai, hình ảnh đó vốn là điều quen thuộc và thân thương trong bối cảnh văn hóa Kinh thánh. Hình ảnh đó cho thấy một tình yêu gắn bó mật thiết giữa người chăn và đàn chiên. Người chăn chiên chăm sóc từng chút cho chiên, còn chiên thì vâng nghe lời người chăn; người chăn đi trước, chiên theo sau; người chăn đi đến đâu, chiên đi theo đến đó; người chăn gọi chiên, chiên nghe tiếng và "đáp lại"; người chăn đi tìm khi chiên bị lạc; người chăn buồn phiền khi chiên bỏ ăn, đau ốm; người chăn muốn cho chiên bình an, hạnh phúc… Ðó thực là hình ảnh gắn bó giữa Ðức Kitô với từng kitô hữu; và nơi đây, ta cảm nhận được mầu nhiệm "Thiên Chúa là tình yêu".
Mỗi người chúng ta là những người con được Thiên Chúa chăm sóc, gìn giữ và bảo bọc… điều đó không làm cho tâm hồn chúng ta được bình an sao?
Chúng ta được Thiên Chúa hiểu, cảm thông và chia sẻ những gánh nặng của đời sống; điều đó không làm cho chúng ta thêm can đảm trên bước trên đường đời sao?
Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trong chính tình trạng của ta (yếu đuối, tội lỗi...) như những con chiên bệnh tật được yêu thương; đó không phải là một hạnh phúc tuyệt vời sao?
Chúng ta được sống trong một cộng đoàn Hội thánh, có một Cha trên trời yêu thương, có những anh chị em cùng hiệp thông; điều đó không phải là một mơ ước sâu xa của nhân loại sao ?
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Ðấng chăn dắt cuộc đời chúng con; Xin ban cho chúng con ánh sáng soi đường, để chúng con luôn đi trên đường ngay nẻo thật. Xin dẫn dắt cuộc đời chúng con, để chúng con không bị lạc lối trong đêm đen mù mịt; Xin đưa chúng con tới quê hương của sự sống sung mãn tràn đầy; để chúng con được ở bên Chúa luôn.
Ngày nay vấn đề toàn cầu hóa đang được đặt ra ráo riết, để đáp ứng kịp thời với chiều kích lớn: PS4-B73
Ngày nay vấn đề toàn cầu hóa đang được đặt ra ráo riết, để đáp ứng kịp thời với chiều kích lớn lao của kỹ thuật, kinh tế, chính trị, dân số v.v. Trong khi não trạng "lũy tre xanh" biến mất, thế giới hôm nay trở thành nhỏ bé như một ngôi làng. Nhưng con người lại không biết nhau như một phẩm giá, nhưng như một đơn vị hay như những mã số vô nghĩa. Thông tin ồn ào lấn át cả những tiếng nói của sự thật và luân lý. Ðã đến lúc tìm một nền tảng và chiều hướng để việc toàn cầu hóa không mất ý nghĩa và không nguy hiểm cho chính con người.
MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Nền tảng đó có thể tìm thấy nơi Ðức Giêsu, Ðấng đã Phục Sinh để trở thành "trưởng tử giữa một đàn em đông đúc" (Rm 8:29). Một mình Người mới vạch ra nổi hướng đi cho toàn thể nhân loại, vì Người chính là "Mục Tử nhân lành" (Ga 10:11). "Ðức Giêsu chính là Mục Tử khuôn mẫu vì tinh thần hi sinh và ý chí tận hiến cuộc đời cho con chiên" (Faley 1994:321). Chính nhờ sự hi sinh can trường của vị Mục Tử, mọi người đã trở thành con cái Thiên Chúa. Bởi thế, sau Phục Sinh, Người đã có sức mạnh qui tụ mọi người dưới mái gia đình Thiên Chúa. Tất cả trở thành anh em, có quyền hưởng ơn cứu độ như nhau.
Nếu Ðức Giêsu không chết, bức tường ngăn cách vẫn còn đó. Không có cách nào xích lại gần Thiên Chúa và tha nhân. Chính cuộc hi sinh lớn lao đó đã xác định bản chất mục tử của Người. Ngược lại, thay vì chết cho con chiên, người chăn chiên mướn sẵn sàng để con chiên chết thay mình. Quả thực, tư lợi vẫn là tiêu chuẩn phân biệt chân giả. Hơn nữa, người mục tử chân thật đích thân quen biết từng con chiên. Ðức Kitô thông cảm với từng Kitô hữu như Chúa Cha hiểu biết Người. Rõ ràng đối với Kitô hữu, Ðức Giêsu là một vị Mục Tử chân thật và duy nhất.
Ðức Giêsu là Mục Tử nhân lành. Người là vị Mục Tử "cao thượng" hay "lý tưởng", chứ không chỉ là vị Mục Tử tốt lành theo nghĩa bình thường (The New Jerome Biblical Commentary 1990:968). Người có một trái tim bao la và một cái nhìn sâu sắc về một tương lai tươi sáng của nhân loại. Vòng tay Người luôn bao bọc mọi hạng người, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, yếu đuối, tội lỗi. Người là vị Mục Tử lý tưởng vì dám đồng hóa với những người thua thiệt đó và đã chết để tranh đấu cho quyền làm người của họ. Không những quyền làm người, nhưng cả quyền làm con Thiên Chúa họ đã dành lại được nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Người.
Ðức Giêsu không dừng lại nơi biên giới Kitô giáo. Người muốn mở rộng vòng đai. Chính Chúa quả quyết: "Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này" (Ga 10:16). Nghĩa là sứ mệnh Người bao trùm cả dân ngoại. Giấc mộng quá lớn đó phải được Giáo hội chia sẻ. Nói khác, Người muốn "nhấn mạnh đến sứ mạng toàn cầu của Giáo hội" (Faley 1994:323). Sứ mệnh đó được ân sủng Thiên Chúa bảo đảm. "Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Ðức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người" (Rm 5:15). Trong nguồn ân sủng lớn lao đó, Kitô hữu mạnh dạn lên đường làm chứng cho Ðức Giêsu, như chính Người đã "tự ý hi sinh mạng sống mình" (Ga 10:18), do đó đã được "Chúa Cha yêu mến" (Ga 10:17). Không có gì lớn mạnh hơn tình yêu Thiên Chúa. "Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống", nên Kitô hữu rất vững dạ an tâm, (Tv 63:3). Càng hi sinh, họ càng có kinh nghiệm sâu xa về tình yêu Thiên Chúa và càng mở rộng chiều kích sứ mệnh cứu độ. "Chính nhờ Ðức Kitô quảng đại hiến thân, tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại càng tỏ hiện" (Faley 1994:323).
TOÀN CẦU HÓA
"Mục Tử nhân lành" có một cái nhìn toàn cầu khi muốn vươn tới "những chiên khác không thuộc ràn này", những người cũng sống trong tương quan sâu xa với Người và cũng được Người "hi sinh mạng sống". Khi mở rộng chiều kích sứ mệnh như thế, Ðức Giêsu không quên những nhu cầu từng cá nhân. Ước vọng sâu xa nhất của cá nhân cũng như chiều hướng cao cả của cộng đoàn đều được Người chú ý tới. Vì chính Người đã hứa: "Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử" (Ga 10:16).
Nếu không có một "Mục Tử nhân lành", nhân loại có thể bị nghiền nát dưới sức mạnh của chiều hướng toàn cầu hóa. Chính ÐGH Gioan Phaolô II cảnh giác: "Những thực tại mới đang ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình sản xuất, như là việc toàn cầu hóa: tài chánh, kinh tế, thương mại, lao động, những sự kiện này không bao giờ được phép vi phạm phẩm giá con người hoặc không coi con người là trung tâm của các thực tại này hoặc vi phạm tới nền dân chủ của quần chúng" (VietCatholic 2/5/2000). Biết bao vấn đề đã nảy sinh từ những vi phạm như thế. Bởi vậy, cần nhắc lại cho các nhà lãnh đạo thế giới về một nền luân lý toàn cầu. "Nền luân lý toàn cầu tìm hiểu bản chất và những nguyên nhân sinh ra những vấn đề luân lý quốc tế và tìm cách làm cho các cá nhân và cộng đồng nêu các vấn đề đó lên" (Adeney 1995:100). Chẳng hạn, vì quyền lợi kinh tế, người ta có thể phá hủy môi sinh trên địa cầu hay coi thường những nguyên tắc công bình.
"Luân lý toàn cầu đặt nền tảng trên việc Thiên Chúa tạo thành toàn thể vũ trụ và việc Người 'thấy thế là tốt đẹp' (Stk 1:31)." Coi thường luân lý toàn cầu là nguyên nhân sinh chiến tranh. Bởi thế, Kitô hữu cần có những hoạt động tích cực trong việc cổ động và sống luân lý đối chiếu với luân lý toàn cầu ngay trong gia đình và cộng đoàn của mình. Tất cả đều nằm trong kế hoạch Phúc Âm hóa thế giới.
Cần có một hướng đi cho công cuộc toàn cầu hóa hôm nay. Con người phải là trung tâm và cao điểm của mọi nỗ lực toàn cầu hóa. Nếu không, những hậu quả tai hại khôn lường sẽ xảy ra. Thật vậy, "toàn cầu hóa là một hiện tượng của đời sống hôm nay về mọi mặt, nhưng hiện tượng này cần phải áp dụng cách khôn khéo, đừng gây ra tai hại. Ðiều cũng thiết yếu là phải toàn cầu hóa tính cách đại kết liên đới con người với nhau" (ÐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 2/5/2000). Nếu vấn đề đại kết được nêu lên như một nỗ lực toàn cầu, chắc chắn mọi người sẽ sớm thấy cảnh hòa bình lâu dài. Mọi người liên hệ với nhau như anh em và đều có trách nhiệm đối với nhau. Những giới lệnh thương yêu của Ðức Giêsu liên hệ khẩn thiết tới nền luân lý toàn cầu (Adeney 1995:106). Chính ở điểm này, chúng ta thấy nổi bật vai trò cá nhân đối với việc toàn cầu hóa tính cách đại kết giữa các dân tộc. Thực vậy biết bao nhiêu vấn đề toàn cầu do những cá nhân tạo nên như bạo hành, xì ke ma túy, đĩ điếm, bệnh liệt kháng, phá thai, hôn nhân đồng tính v.v. Quả thực, "cá nhân giừ một vai trò rất quan trọng trong việc làm lành hay dữ. Bởi đó, việc cải hóa cá nhân có thể có một tầm quan trọng" (Adeney 1995:106) trong việc đẩy mạnh việc toàn cầu hóa mối tương quan đại kết trên thế giới.
Nhưng trong việc toàn cầu hóa liên đới giữa các dân tộc, cá nhân chỉ có thể tạo được sức mạnh thực sự nơi cộng đồng. Ðó là lý do tại sao Ðức Giêsu luôn kêu mời chúng ta liên kết với Người và với anh em trong một Giáo hội. Chỉ khi nào tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại được thực hiện trong Giáo hội, những vấn đề toàn cầu mới được giải quyết và Tin Mừng mới được thế giới lắng nghe. Cần đào sâu niềm tin vào tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử để ngày càng nhận ra sứ mệnh toàn cầu của Ðức Giêsu. Sứ mệnh toàn cầu hóa chứng tá Tin Mừng đòi hỏi Kitô hữu thay đổi não trạng và nếp sống để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của thời đại hôm nay.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Suy Niệm:
Bài Tin Mừng Chúa nhật 4 Phục sinh năm nào cũng nói về Chúa Kitô mục tử. Do đó ngày ấy đã được PS4-B74
Bài Tin Mừng Chúa nhật 4 Phục sinh năm nào cũng nói về Chúa Kitô mục tử. Do đó ngày ấy đã được chọn làm ngày ơn thiên triệu để tất cả chúng ta suy nghĩ về vai trò chăn chiên ở trong Hội Thánh, và hành động để Hội Thánh luôn được thêm nhiều mục tử tốt. Nếu thế thì chúng ta cũng như bị bó buộc phải đi từ bài Tin Mừng để tìm hiểu, bởi vì chính nó đã ban cho ngày hôm nay ý nghĩa như chúng ta vừa nói.
1. Người Mục Tử Tốt
Phụng vụ hôm nay chỉ lấy tám câu trong tác phẩm của Gioan làm bài Tin Mừng. Những câu này nằm trong bài nói chuyện khá dài của Ðức Giêsu với người Do-thái. Dĩ nhiên nếu biết những câu trước và sau, chúng ta sẽ dễ hiểu tám câu này đầy đủ hơn. Nhưng không sao, đây là những câu cao điểm của bài nói chuyện. Những câu khác phải quy về đoạn quan trọng này; còn chính nó không cần những câu kia cũng đã đủ nghĩa.
Như thế có nghĩa là những câu Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc là những câu nói rất súc tích. Ðức Giêsu khẳng định rõ rệt: Ngài là người mục tử tốt, tức là người chăn chiên tốt. Chúng ta khoan tìm hiểu ý nghĩa của tĩnh từ "tốt" ở đây. Hãy bắt đầu để ý đến tính cách tuyệt đối của lời khẳng định. Ðức Kitô không xưng mình là "một" mục tử tốt. Câu nói của Người gạt bỏ hẳn mọi mục tử khác sang bên đối diện và đối lập. Mục tử tốt ở đời này chỉ có một mà thôi: đó chính là Người. Mọi kẻ khác chỉ chăn thuê nên không thể tốt được.
Thật ra, muốn hiểu hết ý của Người, co lẽ chúng ta phải trở lại nhiều đoạn sách Cựu Ước và đặc biệt đoạn 34 sách Êzêkiel. Ở đó Giavê Thiên Chúa phàn nàn vì mọi kẻ Người đặt lên chăn dắt dân Người đều đã hà lạm, lợi dụng và làm khổ dân. Hạng mục tử ấy, Người thôi không dùng nữa. Người sẽ lấy lại đàn chiên của Người khỏi tay họ. Và chính Người sẽ đứng ra chăn dắt chiên. Với lời tiên tri này dân Do-thái hết muốn gọi ai là mục tử. Họ chờ Ðấng Thiên Sai Cứu thế đến. Người sẽ là vị mục tử duy nhất của họ, vì Người sẽ là hiện thân của chính Yavê đến chăn dắt dân.
Hôm nay khi tuyên bố mình là người chăn chiên tốt. Ðức Giêsu muốn nói Người chính là vị mục tử mà Êzêkiel đã loan báo và dân Chúa đang trông chờ. Một lời tuyên bố như vậy nhất định phải gây nên một xúc động mạnh mẽ. Và chắc chắn các đầu mục Do-thái sắp sửa phản đối con người dám tự phụ và lộng ngôn như vậy, nếu Ðức Giêsu đã không nói tiếp nay một câu thứ hai để giải thích.
Người quảng diễn: người chăn chiên tốt thí mạng mình vì chiên. Quan niệm này hoàn toàn mới mẻ. Nó thu hút ngay sự chú ý của mọi người. Họ thấy không có một chút tự phụ tự tôn nào trong ý tưởng của Người. Ngược lại, chỉ có một quyết tâm hy sinh phục vụ và phục vụ cho đến chết. Vì Người đã nói luôn: người chăn chiên tốt không như kẻ chăn thuê. Kẻ này thấy sói đến thì bỏ chạy khiến soi tha hồ cấu xé chiên. Còn người chăn chiên tốt, sẽ thí mạng mình vì chiên.
Ðức Giêsu thật rất tâm lý và tài tình... Người phân biệt kẻ chăn thuê và người chăn tốt thật dễ dàng. Và đúng như Người phân tách: kẻ chăn thuê bỏ chạy vì chiên không phải là của hắn. Hắn chỉ cần đồng lương chứ không màng gì đến chiên. Nhưng dù sao câu nói của Người cũng còn một nét khó hiểu. Tại sao Người nói đến việc "thí" mạng vì chiên? Tại sao không dùng từ "liều" mạng cho dễ hiểu? Vì người có chiên thấy sói đến chắc vẫn ra sức đánh đuổi sói đi và như thế một phần nào phải liều mạng. Ðó có thể nói là lẽ thường. Nhưng đàng này, Người không nói "liều mạng" và là "thí mạng", việc có lẽ chưa và chẳng bao giờ thấy xảy ra trong xã hội, vì mạng sống con người không quý hơn cả một đàn chiên hay sao? Phải, nếu hiểu thí mạng là nộp mạng để chết và chết mãi vì chiên thì không hiểu được. Lời nói của Người hẳn phải có ý nghĩa rất đặc biệt. Chúng ta cần kiên nhẫn nghe Người giải thích thêm.
Thật ra khi nói người chăn chiên tốt thí mạng mình vì chiên, Ðức Giêsu đã có hai ý tưởng. Cả hai đã được giải thích không đồng đều khi Người gợi lên hình ảnh kẻ chăn thuê bỏ chiên mà chạy khi sói đến. Nó làm như vậy vì chiên không phải của nó. Thế nên người chăn chiên tốt trước hết phải là chủ chiên và chiên là của người ấy. Ý tưởng này không cần bàn thêm. Nhưng để giải thích ý tưởng sau, ý tưởng thí mạng vì chiên, hình ảnh kẻ chăn thuê bỏ chạy đã tỏ ra không đủ. Và nguyên việc "có" chiên làm của mình cũng không giải thích thỏa đáng được. Không phải hễ là "chủ" chiên là làm được đó. Ngược lại, chỉ có chủ chiên độc nhất vô nhị mới nghĩ đến chuyện thí mạng vì chiên.
Thế mà Ðức Giêsu xưng mình có khả năng ấy, vì Người là chủ chiên độc đáo. Người là vị mục tử mà Thiên Chúa đã hứa và toàn dân đang trông đợi. Không những Người khác kẻ chăn thuê mà còn khác mọi chủ chăn. Nhưng khác ở chỗ nào?
Ðức Giêsu nói: Người biết chiên của Người. Và "biết" ở đây có một ý nghĩa rất đặc biệt. Không phải chỉ dựa vào Cựu Ước mà hiểu, nhưng còn phải hiểu theo cách của Gioan nữa. Theo Cựu Ước, "biết" không những là thấu suốt mà còn thân mật và thắm thiết như trai gái và vợ chồng biết nhau. Còn theo Yoan thì "biết" có ý nghĩa cuối cùng là có cái nhìn và tình yêu của chính Thiên Chúa Ba Ngôi đối với nhau, như "Cha biết Ta và Ta biết Cha", theo lời của chính Ðức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay. "Biết" như vậy là một lòng, một trí với Ðức Chúa Cha. Mà ý của Chúa Cha là cứu độ và cứu thế. Ngôi Con biết như vậy nên đã xuống thế để cứu đời, và cứu bằng việc thí mạng sống mình vì chiên. Ðó là sự biết đầy yêu mến và việc thí mạng này hoàn toàn tự nguyện. Không phải để chết mãi mãi, nhưng để rồi lấy lại, khiến ý tưởng "thí mạng" ở đây có một ý nghĩa rất đặc biệt, mà không quan niệm nào trong xã hội loài người diễn tả được. Muốn hiểu chúng ta phải tin vào lời Ðức Giêsu, là lên tới kế hoạch thâm sâu của Thiên Chúa.
Người đầy lòng xót thương nhân loại bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Hơn nữa chiên của Người là nhân loại còn đang ở trong tay ác thần và tử thần. Ðức Giêsu là mục tử tốt đến, sẽ tự thí mạng chết, để giải thoát kẻ đã chết trong tội lỗi khi Người sống lại, hầu từ nay chiên của Người được sống và sống dồi dào. Ðó là việc Người sẽ làm trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh.
Ngay bây giờ, đang khi nói chuyện với người Do-thái, Người đã thấy trước có những chiên đã thuộc về Người rồi. Ðó là đoàn môn đệ. Nhưng Người còn nhìn xa hơn và nói: còn những chiên khác nữa, chưa thuộc ràn (môn đệ này), Người cũng phải chăn dắt.
Bằng cách nào và nhờ ai?
Bài sách Công vụ Tông đồ sẽ trả lời cho chúng ta.
2. Các Chủ Chăn Tốt
Phêrô và Gioan hôm ấy bị điệu đến trước tòa án Do-thái vì những tội: chữa lành một người què, rồi giảng Danh Ðức Giêsu cho dân, khiến nhiều kẻ nghe lời mà tin. Họ đã thực hiện lời Ðức Giêsu nói trong bài Tin Mừng. Người bảo, những chiên chưa ở trong ràn (các môn đệ), sẽ nghe tiếng Người và sẽ theo Người, khiến Người cũng sẽ là chủ chiên chăn dắt họ.
Nhưng để họ nghe được tiếng Người, đã phải có Phêrô và Gioan được sai đi giảng Lời Chúa. Phải có nhiều tông đồ đi rao giảng nữa thì cả nhân loại mới thật sự trở nên một đàn chiên theo một chủ chiên. Vì thế ngày Ơn Thiên Triệu trước hết là ngày cầu nguyện và hành động để có nhiều, có thêm, thêm nữa số các tông đồ. Con người ngày nay càng không muốn nghe Tin Mừng thì lại càng phải có nhiều người rao giảng để nói mãi, nói hết mọi khía cạnh của Tin Mừng và nói với hết mọi người, mọi nơi, mọi khía cạnh trong đời sống, để không ai có thể nói mình chưa được nghe giảng Tin Mừng.
Và muốn giúp người ta dễ bắt được Tin Mừng, số đông các tông đồ chưa đủ. Còn phải là những tông đồ có tư cách và khả năng nữa, mà Phêrô với Gioan trong bài sách Công vụ hôm nay là những tấm gương sáng ngời.
Hai người không những giảng khi được thong dong và ở trước mặt toàn dân đang ngạc nhiên ngưỡng mộ vì phép lạ người què vừa được chữa lành. Họ còn giảng hùng hồn, dạn dĩ hơn nữa trước tòa Dothái và chư vị đầu mục của dân cùng hàng niên trưởng. Nói rằng họ đang thí mạng vì chiên thật không ngoa. Cứ thử so sánh phiên tòa hôm nay với phiên tòa hôm xử Ðức Giêsu mà xem. Y hệt như nhau. Trước đây người ta hỏi Ðức Giêsu: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Bây giờ người ta cũng hỏi Phêrô và Gioan " bởi quyền phép nào hay nhân danh nào, các ngươi làm các điều ấy". Tòa chỉ chờ họ thưa: nhân danh Giêsu, để khép tội, vì thưa như vậy là coi Giêsu là Thiên Chúa và là rơi vào đúng tội của Ðức Giêsu vì Người đã bị kết án vì xưng mình là Con Thiên Chúa. Nhưng như Ðức Giêsu đã không sợ chết, thì các tông đồ cũng đã không sợ thí mạng. Các ngài tuyên xưng công khai rõ ràng Ðức Giêsu là cứu thế. Vụ án của Người đã được nói trước trong Thánh Kinh, vì Người thật là viên đá đã bị thợ xây ném đi. Nhưng Thiên Chúa đã nhặt lại, tức là đã cho Ðức Giêsu sống lại trở thành viên đá góc xây lên đền thờ Thiên Chúa, khiến chỉ có Danh Người sẽ cứu được tất cả.
Phêrô và Gioan là những tông đồ sẵn sàng thí mạng mình vì danh Ðức Giêsu, để giống như Người và kết hợp với Người trong mầu nhiệm cứu thế. Tiếng của các ngài đã vang ra, đã được nghe, và nhiều người đã tin để trở về ràn chiên Chúa.
Ước gì các tông đồ trong Hội Thánh chúng ta được như vậy. Ðó là lời cầu nguyện thứ hai trong ngày Ơn Thiên Triệu. Chúng ta phải xin Chúa sai thêm thợ gặt đến đồng lúa của Người. Nhưng cũng phải xin Người sai thêm nhiều chủ chăn biết thí mạng vì chiên, có đầy mầu nhiệm Ðức Giêsu ở trong lòng và luôn biết làm chứng cho mầu nhiệm Thánh giá là mầu nhiệm cứu độ.
Nhưng hàng ngũ chủ chăn được gọi từ lòng dân Chúa. Muốn có những chủ chăn tốt theo gương mục tử tốt, dân Chúa phải là đàn chiên tốt. Bài thư Gioan muốn nói với chúng ta điểm cuối cùng này trong ngày Ơn Thiên Triệu.
3. Các Chiên Tốt
Như Ðức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng, chiên của Người thì "biết" Người. Và như chúng ta đã nói ở trên, "biết" đây là vươn lên tới kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa để một lòng một ý với Người. Thế nên thánh Gioan hôm nay viết trong thư: hãy coi lòng mến lớn lao chừng nào Cha đã ban cho ta. Phải, chiên tốt thì phải luôn suy nghĩ về lòng mến của Thiên Chúa đối với mình, để "biết" Người, biết Người yêu ta đến nỗi đã ban Con Một Người thí mạng vì Ta, để ta được gọi là con cái Thiên Chúa. Danh dự này nhỏ lắm sao? Tất cả nếp sống xấu tốt của người tín hữu tùy ở việc biết và nhớ mình là con cái Thiên Chúa.
Dĩ nhiên những người ở ngoài ràn chiên không biết được như vậy. Họ không biết Chúa, nên cũng không biết chúng ta. Gioan nói như thế thật chí lý. Họ nhìn chúng ta bằng con mắt của trần gian. Và con mắt xác thịt không nhìn được những sự siêu nhiên. Phải đợi sau này khi mọi sự được tỏ hiện trong ánh sáng mới của ngày Chúa trở lại, chăn tướng con cái Thiên Chúa mới tỏ hiện. Bấy giờ người ta mới thấy chúng ta thật như Chúa.
Thế thì chúng ta hiện nay phải sống thế nào cho hợp với niềm tin ấy? Thánh Gioan viết ra những điều đó để làm gì? Nếu chúng ta nhớ lịch sử, thì hẳn ai cũng biết thời bấy giờ có nhiều phong trào tư tưởng muốn lôi kéo các tín hữu. Nói chung họ mang danh là "Ngộ Thuyết", tức là các lý thuyết tự phụ vạch ra được con đường dẫn đến sự hiểu biết đích thực về thượng đế, tức là về hạnh phúc trường cửu của con người. Họ nói rằng ai theo họ có thể đạt được hạnh phúc ngay ở đời này. Thế nên thánh Gioan phải viết thư cảnh giác tín hữu của Người... Chính Thiên Chúa đã cho chúng ta biết Người khi mạc khải tình yêu thương của Người đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Ðó là sự "biết" thật và là hạnh phúc thật, tuy bây giờ còn che giấu trong mầu nhiệm, nhưng thật sự đã bắt đầu rồi. Chúng ta đừng tin ở một ngộ thuyết tức là một thuyết hiểu biết nào khác.
Lời khuyên này không hoàn toàn vô ích cho chúng ta đâu. Nó lại có khả năng vươn xa hơn, nhắc nhở chúng ta nhớ tới Thiên Chúa là Ðấng yêu thương đã sai Con Một Người xuống thế thí mạng Người vì chúng ta và sai các tông đồ của Người đến rao giảng Lời cứu độ để chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sống trong ràn chiên của Người.
Giờ đây Người đưa chúng ta vào thánh lễ như vào đồng cỏ tốt tươi để chúng ta được nuôi dưỡng bằng chính thịt máu Người. Tất cả những điều này không thắm thiết sao? Chúng ta muốn được mãi như vậy chăng? Nếu muốn, không những chúng ta luôn phải là con chiên tốt, mà còn phải cầu nguyện hằng ngày và giúp đỡ nhiệt tình để Chúa là mục tử tốt không bao giờ bỏ rơi đàn chiên nhưng luôn cho Hội Thánh được thêm nhiều tông đồ tốt chăn dắt đàn chiên của Người. Như vậy, ngày Ơn Thiên Triệu hôm nay mới ý nghĩa và kết quả.
Thông thường mỗi khi nghe nói về người chăn chiên, chúng ta hay liên tưởng đến hình ảnh thường được: PS4-B75
Thông thường mỗi khi nghe nói về người chăn chiên, chúng ta hay liên tưởng đến hình ảnh thường được các nghệ sĩ diễn tả qua tranh ảnh hoặc thi ca. Và thường đó là một hình ảnh khá thơ mộng: người mục tử vác một con chiên nhỏ trên vai. Trong thực tế, chẳng ai làm chuyện đó, bởi vì chiên là một thứ súc vật hôi hám bẩn thỉu, mang nhiều mầm bệnh. Chăn chiên là một công việc vất vả, dầm sương dãi nắng. Một thứ nghề thấp kém dành cho những người không có tay nghề cao.
Khác với chăn trâu chăn bò ở nước ta, chăn chiên là công việc dành cho người lớn, chứ không phải trẻ con. Chăn trâu chăn bò thật ra chỉ là giữ trâu bò cho khỏi phá lúa của người khác. Trâu bò tự tìm cỏ mà ăn, tìm nước mà uống. Tối đến chỉ cần dẫn chúng về chuồng là xong việc. Ngược lại, người chăn chiên là người sống đời du mục, lang thang từ vùng đất này sang vùng đất nọ. Ngày cũng như đêm, người chăn chiên luôn gắn bó với đàn chiên của mình. Ngày đến, anh ta phải lo tìm cỏ tìm nước cho đàn súc vật của mình. Đêm về, người chăn lùa chiên vào một cái hang ở vách đá nào đó -- hoặc nếu đang ở giữa đồng hoang thì lấy đá quây thành một vòng rào, lùa chiên vào bên trong -- rồi nằm chận ngang cửa mà ngủ. Nghề chăn chiên trong xã hội Do Thái cũng tương đương với nghề chăn vịt ở miền quê Việt Nam.
Chăn dắt là nghề bạc bẽo, một thứ nghề làm thuê chẳng mấy ai quan tâm. Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại tự ví mình là “mục tử nhân lành,” mà không phải là “thầy giáo nhân lành” hay “thợ mộc nhân lành,” hay “ngư phủ nhân lành”? Chúa Giêsu chưa một ngày làm nghề chăn chiên, sao ngài lại ví mình như thế? Hơn thế nữa, Ngài còn ví mình là một mục tử sẵn sàng bỏ mạng vì đàn chiên. Ở thời đại của Ngài, chẳng có ai làm như thế! Phải chăng Chúa Giêsu đang nói chuyện ngược đời?
Điều này chỉ có thể hiểu được nếu đàn chiên là gia sản của người mục tử, đàn chiên là những gì người đó trân quý và gắn bó. Sự khác biệt của người mục tử mà Chúa Giêsu nói đến, và kẻ làm thuê chính là điều này: đàn chiên thuộc về anh ta (x. Ga 10:12). Vì chính là gia sản của mình nên người mục tử ra sức bảo vệ và gìn giữ, không để thất lạc dù chỉ một con.
Chúng ta thường cầu nguyện: “Chúa là gia nghiệp đời con.” Nhưng trong bài tin mừng hôm nay, chúng ta được nghe Chúa Giêsu xác quyết: “Các con là gia nghiệp của ta! Ta sẵn sàng hy sinh mạng sống vì các con.” Đây là tin mừng cao cả! Có thể đối với thế gian, chúng ta chỉ là những con cừu đần độn, nhưng trong ánh mắt của Chúa Giêsu, chúng ta có giá trị vô cùng.
Mối liên hệ giữa đàn chiên và mục tử thân mật thắm thiết đến nỗi Chúa Giêsu đã ví mối liên hệ này như tương quan của Ngài và Chúa Cha: “Ta biết chiên của ta và các chiên ta biết ta, như Chúa Cha biết ta và ta biết Chúa Cha” (Ga 10:14b-15a). Chúa Giêsu cho thấy Ngài biết rõ và quan tâm đến từng người một, từng con chiên một, kể cả những con chiên không thuộc về đàn này (Ga 10:16).
Là người Kitô, chúng ta thuộc về một đàn chiên duy nhất, do một mục tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh chăn dắt. Vậy ta còn sợ gì? Ta còn e ngại gì mà không dám phó thác đời mình vào trong tay vị thủ lãnh, vị Chủ Chăn vĩnh cửu đó? Giữa muôn vàn tiếng gọi của dòng đời, ta có nghe chăng tiếng gọi của vị mục tử nhân lành đang thầm thì mời gọi ta theo Ngài? Chúng ta được biết mình thuộc về ai. Theo thánh Gioan, “chúng ta thực sự là con Thiên Chúa.” (1Ga 3:1b)
***
Bạn thân mến,
Chúng ta đang sống trong thời đại mà đôi khi các giá trị bị đảo lộn, ngay cả trong đời sống tôn giáo. Vậy đâu là những giá trị chân thực của người mục tử? Đâu là những tiếng nói chân chính mà mình nên nghe theo? Trong nguyện cầu, chúng ta tập lắng nghe tiếng Chúa thì thầm: hãy tôn trọng sự sống, tôn trọng sự thật, bảo vệ nhân quyền, bảo vệ môi sinh, thăng tiến công bằng xã hội. Đó là sứ điệp mà Chúa Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục nói qua Hội Thánh. Nếu chúng ta cố gắng sống theo những giá trị đó là chúng ta đang đi theo vị Mục Tử Nhân Lành. Còn nếu không, thì hãy xem lại, kẻo đi lầm theo kẻ chăn thuê.
Sống cho những giá trị này không dễ dàng, đôi lúc chúng ta phải trả một giá đắt cho niềm xác tín của mình. Như thánh Gioan nói: “Thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không nhận biết Thiên Chúa” (1Ga 3:1b). Sống các giá trị của tin mừng là đi con đường hẹp – con đường chẳng mấy ai đi. Đường hẹp nhưng dẫn đến sự sống đời đời, hay đường thênh thang mà bị hư mất, chúng ta chọn đường nào?
Nhưng chúng ta không chỉ sống và chọn những giá trị đó cho riêng cá nhân mình. Tôn trọng sự sống, tôn trọng sự thật, bảo vệ nhân quyền, bảo vệ môi sinh, thăng tiến công bằng xã hội, là gia sản chung của nhân loại. Người kitô cần tích cực quảng bá những giá trị đó cho thế giới chúng ta đang sống. Nói một cách khác, chúng ta cũng cần trở thành những người phụ tá cho Chúa Kitô vị Mục Tử Tối Cao, để đưa những con chiên khác về đàn chiên của Ngài. Năm xưa Chúa Kitô Phục Sinh bảo các tông đồ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21). Hôm nay, Ngài vẫn tiếp tục sai chúng ta vào giữa lòng thế giới để gióng lên tiếng nói của lương tâm và sự thật.
Trong giáo hội hoàn vũ cũng như ở giáo hội địa phương, không thiếu những gương sáng của các vị chủ chăn nghiêm túc, nhưng cũng không thiếu những gương mù gương xấu của những kẻ chăn thuê. Có nhiều chủ chăn hành xử như kẻ làm thuê, chỉ lo tích cóp cho mình mà chẳng đoái hoài gì đến quyền lợi của đàn chiên. Ngược lại, cũng có rất nhiều vị chủ chăn can đảm, ý thức trách nhiệm của mình được trao phó, sẵn sàng đồng lao cộng khổ với đàn chiên của mình. Những vị chủ chăn đó biết rằng: “quan nhất thời, dân vạn đại.” Họ không tìm lợi lộc trước mắt, nhưng quan tâm đến an sinh phúc lợi lâu dài cho mọi người. Những chủ chăn này can đảm chống lại sói dữ, sẵn sàng thí mạng để đổi lại đàn chiên của mình được hưởng tự do công lý, an cư lạc nghiệp. Họ đang sống tin mừng cách triệt để, sống trọn vẹn cái nghịch lý “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”
Hôm nay, Chúa Kitô mời gọi chúng ta trở thành mục tử cùng cộng tác với Ngài. Lời mời đó không chỉ dành cho hàng giáo sĩ hoặc các bề trên dòng tu như vẫn thường hiểu, nhưng dành cho tất cả những ai có trách nhiệm chăm sóc, dạy dỗ người khác. Đó là các bậc ông bà, cha mẹ, thầy cô, giáo lý viên, huynh trưởng, v.v. Những người này mang trọng trách chủ chăn, chịu trách nhiệm với Chúa Kitô vị Mục Tử tối cao. Họ có bổn phận phải hướng dẫn và dạy dỗ con cháu, học trò, đàn em, tiếp thu nếp sống và giá trị của tin mừng.
Để làm được điều đó, chúng ta cần cầu nguyện và hỗ trợ cho nhau, để các bậc làm cha mẹ, các nhà giáo dục đạo cũng như đời, trở thành những mục tử chân chính, biết nhận trách nhiệm chăn dắt một cách nghiêm túc. Ước gì họ không chạy trốn những thách đố đang đe doạ đời sống gia đình và xã hội. Thí dụ như, luyến ái bừa bãi, phá thai, ngoại tình, gian dối, lừa đảo, tham ô, bạo hành, v.v. Ước gì họ không nản lòng, không buông xuôi bỏ cuộc vì cảm thấy mình bất lực, nhưng can đảm đương đầu với chúng trong niềm tín thác vào quyền năng Thiên Chúa, Đấng giải thoát mọi sự.
Nguyện xin vị Mục Tử Nhân Lành chúc lành cho tất cả chúng ta, hầu chúng ta có thể trở thành những mục tử tốt lành theo gương Ngài. Amen
Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên? Tôi xin thưa đó là sự gắn bó: PS4-B76
Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên? Tôi xin thưa đó là sự gắn bó mật thiết.
Thực vậy, giữa chủ chiên và đoàn chiên có một sự gắn bó mật thiết với nhau thế nào, thì giữa Chúa Giêsu và những người được Chúa Cha trao cho Ngài cũng có một sự gắn bó mật thiết với nhau như vậy, bởi vì họ thuộc về Ngài và Ngài biết tên họ. Điều này cũng có nghĩa là Ngài biết tường tận từng người một với những ưu điểm và khuyết điểm, với những suy tư và tính toán, với những âu lo và khát vọng. Giữa Ngài và những người tin vào Ngài đã tạo nên được một sự cảm thông chân thành. Họ nhận ra tiếng Ngài và bước đi theo Ngài. Điều ấy không thể xảy ra cho những kẻ xa lạ.
Tất cả những sự kiện kể trên đều là những biểu hiện của tình yêu thương. Chúng ta không thể hồ nghi về những lời khẳng định của Chúa Giêsu, bởi lẽ Ngài đã chết để bảo vệ đoàn chiên của Ngài như một người mục tử tốt lành và nhân hậu. Ngài phán: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Hay như thánh Phêrô đã viết trong: Chính Ngài đã gánh lấy tội lỗi chúng ta nơi thân xác của Ngài trên cây thập giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính. Nhờ vết thương của Ngài, anh em đã được chữa lành. Xưa kia anh em như những con chiên lạc, thì giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử, Đấng canh giữ linh hồn anh em.
Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là mỗi người chúng ta phải làm gì và phải sống như thế nào, để được xứng đáng là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa? Khi người chủ chăn đứng ngoài cửa và vên tiếng gọi, lập tức những con chiên nhận biết tiếng họ, chúng liền tụ lại quanh người ấy và bước đi theo sự hướng dẫn của người ấy. Và người ấy sẽ dẫn đoàn chiên của mình tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát.
Với chúng ta cũng thế, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải biết nhận ra tiếng Chúa mời gọi. Nhưng nhận ra tiếng Chúa mời gọi mà thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta còn phải tụ lại bên Ngài và bước đi dưới sự hướng dẫn của Ngài bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, bằng cách tuân giữ những giới luật của Ngài.
Bởi vì chỉ bước đi theo sự hướng dẫn của Ngài, chúng ta mới có thể đạt tới miền đất hứa là quê hương Nước Trời mà thôi.
Xưa kia, người ta đã cầu nguyện cho các ơn gọi, và lúc ấy môi trường Kitô thuận lợi cho: PS4-B77
Xưa kia, người ta đã cầu nguyện cho các ơn gọi, và lúc ấy môi trường Kitô thuận lợi cho các ơn gọi. Cha mẹ hãnh diện dâng con cái cho Chúa. Sự trung thành không bị nghi ngờ, người ta dễ dấn thân trọn đời. Không thiếu cách tuyên truyền để khơi dậy các ơn gọi. Ngày nay, người ta ít cầu cho ơn gọi hơn. Ơn gọi rất hiếm hoi. Các gia đình có ít con cái hơn. Những năm về sau này, nhiều trường hợp bỏ đời tu đã gây nên nghi ngờ đối với khả năng có thể triển nở trong việc phục vụ Chúa. Có bao nhiêu lý do giải thích sự thiếu hăng hái trong việc chiêu sinh.
Đâu là điều gì chúng ta phải quan tâm suy nghĩ trong ngày Chúa nhật cầu cho ơn gọi này? Đâu là những đường hướng cho tương lai? Người ta còn tin vào ơn gọi nữa không?
Đón tiếp giới trẻ.
Chúng ta đều biết đến những vấn đề của các thế hệ. Ta biết tất cả những nỗi khó khăn mà giới trẻ gặp trong việc tìm chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, ta cũng biết rằng tương lai của Giáo Hội là giới trẻ. Đó là một giới trẻ còn có khả năng sống quảng đại và dấn thân, nhưng đòi hỏi ta phải tin tưởng nơi họ. Trong các chuyến viếng thăm của Ngài, Đức Giáo Hoàng đã cho chúng ta một gương mẫu về sự tin tưởng nơi giới trẻ. Người lắng nghe họ. Ngài nói với họ: “Các bạn là Giáo Hội… Các bạn có chỗ đứng của các bạn trong Giáo Hội… Đừng chờ người ta cho bạn chỗ đứng ấy. Hãy nắm lấy nó…” Không đón tiếp giới trẻ như thế, làm sao có ơn gọi được?
Chứng tá của những người lớn.
Từ vài năm nay, chứng tá đó mất đi giá trị bởi nhiều vụ cởi áo ra đi trong Giáo Hội của chúng ta. Giới trẻ đã trở thành người đa nghi. Ai lại liều mình dấn thân vào một cuộc sống không có hạnh phúc hoặc khó thể hiện chính mình.
Cách đây hai năm, một giám mục thành thật thú nhận với một vị khách rằng điều đã ảnh hưởng nhất đến các chủng sinh trẻ trong sự lựa chọn của họ, chính là niềm hạnh phúc giãi tỏa ra nơi cuộc sống của các linh mục cao niên. Một cuộc sống như thế vẫn là cách quảng cáo tốt nhất cho ơn gọi làm linh mục. Kẻ vui thích trong một bậc sống sẽ làm cho kẻ khác ưa thích bậc sống ấy.
Đồng hành với giới trẻ.
Ngày xưa người ta săn sóc giới trẻ như một cây non. Người ta chăm nom cho sự phát triển của họ. Người ta ân cần lo toan cho họ. Họ lớn lên về sức lực và vẻ đẹp. Ngày nay, có bao nhiêu người trẻ sống trong cô đơn và trong những gia đình thiếu vắng tình thương, họ gần như cây thiếu nước và không khí, họ èo uột. Việc đồng hành với giới trẻ trở nên cần thiết. Họ cần gặp Chúa nơi một người đồng hành.
Tin vào những tiếng gọi của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu tiếp tục gọi. Những lời mời gọi của Ngài cũng vẫn quyến rũ và đầy hứa hẹn cho tương lai. Chúng ta có quan tâm đủ để trình bày cho giới trẻ tương lai được chứa đựng trong những câu đáp đẹp đẽ của những kẻ Ngài đã gọi không? Câu đáp trả của Phêrô và Andrê em ông: “Và tức khắc, bỏ lưới, họ đi theo Ngài” (Mt 4,20). Câu đáp của Lêvi, người thu thuế: “Từ bỏ mọi sự, ông đứng dậy và theo Ngài” (Lc 5,28).
Chúng ta có trách nhiệm giới thiệu cho giới trẻ kinh nghiệm về Thiên Chúa. Lời mời gọi này đã thu hút bao nhiêu người nam, người nữ vẫn còn có thể lôi cuốn giới trẻ.
Tin tưởng vào việc cầu nguyện.
Việc cầu nguyện xem ra như là ít được thực hiện hơn xưa kia: “Hãy xin thì sẽ được”. Có lẽ tất cả những cuộc khủng hoảng mà chúng ta đã trải qua và những nẻo đường mới mẻ mà người ta phải tìm kiếm đều làm cho chúng ta quên cầu nguyện cho ơn gọi. Chúa nhật cầu nguyện cho ơn gọi nhắc nhở chúng ta về công việc cấp bách này.
Ở Việt Nam người ta ít thấy các đàn chiên đi ăn cỏ nơi những cánh đồng bát ngát cỏ xanh: PS4-B78
Ở Việt Nam người ta ít thấy các đàn chiên đi ăn cỏ nơi những cánh đồng bát ngát cỏ xanh. Tuy nhiên, ở Paléttin, mục tử và đàn chiên đi ăn cỏ trên cánh đồng cỏ non, xanh tươi và uống nước nơi những suối trong mát bóng là hình ảnh rất quen thuộc.Chúa Giêsu ví mình là mục tử tốt lành. Bởi vì, giữa mục tử và đàn chiên có một mối tương quan mật thiết. Do đó, hình ảnh Đức Giêsu đưa ra để giảng dạy cho các môn đệ và giảng dạy cho dân là hình ảnh gợi cảm và ấn tượng, thiết thực nhất khi Chúa tự nói về mình.
Tôi vẫn còn nhớ như in một tấm ảnh bằng giấy rất lớn vẽ chúa Giêsu vác con chiên trên vai và theo sau Ngài là vô số chiên. Tấm ảnh ấy lúc còn nhỏ tôi thấy trong phòng khách của Nhà xứ của tôi. Cha xứ lúc ấy đã gắn lên tường một khung hình to và gây rất nhiều ấn tượng cho những người xem. Quả thực, ảnh ấy cho chúng ta nhớ lại đoạn Kinh Thánh hôm nay nói về “ Mục Tử Nhân Lành “. Thánh Gioan viết:” Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy “ ( Ga 10, 11-12 ). Rõ ràng Chúa Giêsu dạy chúng ta ; Mục tử nhân lành khác với người làm thuê. Mục tử tốt không bỏ chiên khi chiên bị chó sói tấn công bởi Mục tử nhân lành dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, cho từng con chiên của mình. Chúa Giêsu cho chúng ta hay giữa Ngài và Giáo Hội có một sự liên kết chặt chẽ:” Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi “ ( Ga 10, 14 ). Ở đây, chúng ta phân biệt từ biết, biết không phải sơ sơ, hời hợt nhưng biết sâu xa. Biết hai chiều. Chúa biết từng con chiên và chiên quen thuộc tiếng của chủ nên nhận ra nhau dễ dàng, trân trọng nhau hết mình.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, tối cao duy nhất và gương mẫu. Tất cả các Mục tử phải noi gương Chúa, bắt chước Chúa, giúp chăn dắt chiên của Chúa.Đã là Mục tử, các Mục tử phải họa lại hình ảnh của Chúa là Mục tử tốt lành, nhân hậu. Bởi vì, Mục tử nhân lành đến “ để chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ). Chúa Giêsu Phục Sinh đã trao cho Phêrô và các tông đồ sứ mạng chăn dắt và củng cố đức tin của anh em, nghĩa là củng cố lòng tin của các chiên. Đặc biệt Phêrô, người thủ lãnh đầu tiên đã chối Chúa ba lần nhưng cũng yêu mến Chúa hết lòng. Ngài có thể chạy trốn những cuộc bắt bớ để bảo đảm tính mạng của mình, nhưng Ngài đã dám liều mang để củng cố đức tin của anh em mình. Chính cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn bất cứ lời chứng, lời rao giảng nào. Cái chết của Phaolô và các tông đồ luôn có sức thu hút mạnh mẽ hơn bất cứ bằng chứng nào. Từ thời các tông đồ cho đến ngày nay đã có biết bao các Mục tử nằm xuống để củng cố đức tin của anh em mình.
Dụ ngôn người Mục tử tốt lành biểu lộ tình yêu cao vời, tuyệt mỹ của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng trong con tim của Chúa. Ngài yêu con người đặc biệt, Ngài không yêu cách chung chung nhưng yêu với tất cả tấm lòng của mình.
Chúa yêu thương nhân loại, yêu thương con người cách vô điều kiện ngay cả khi con người vô tâm bạc nghĩa.Chúa vui mừng khi tìm thấy con chiên lạc.
Giáo Hội dành Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Công việc cứu độ của Chúa, Ngài không làm một mình nhưng Ngài cần rất nhiều người tiếp nối công việc của Ngài để lo cho các linh hồn trên toàn thế giới.
Giáo Hội cần rất nhiều bạn trẻ nam nữ quảng đại dấn thân cho phần rỗi các linh hồn. Các bạn trẻ lớn lên lấy vợ lấy chồng là điều đáng quí, nhưng nếu có nhiều bạn trẻ đáp lại tiếng Chúa mời gọi và quan tâm tới đám đông đang bơ vơ đói khát là điều thật giá trị và cao quí.
Chúa đã phán:” Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt “. Lời của Chúa là lời mời gọi tha thiết tới các bạn trẻ nam nữ hãy dấn thân, hãy quảng đại phục vụ Nước Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều linh mục thánh thiện, nhiều tu sĩ nam nữ đạo đức để lo cho đàn chiên của Chúa trên khắp thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai Thánh Thần đến biến đổi tâm hồn chúng con nên mới hầu chúng con luôn biết yêu thương người nghèo và quảng đại giúp các chủng sinh chuẩn bị dấn thân trong sứ vụ linh mục mà họ sẽ lãnh nhận. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Mục tử tốt lành là gì ? 2.Người chăn thuê là người thế nào ? 3.Chúa cần những Mục tử nào ? 4.Chúa đã phán thế nào ? 5.Lúa chín đầy đồng có nghĩa gì ?
Chúa Nhật tuần này thường được gọi là “Chúa Nhật-Chúa Chiên Lành”, và được Giáo Hội đặt làm: PS4-B79
Chúa Nhật tuần này thường được gọi là “Chúa Nhật-Chúa Chiên Lành”, và được Giáo Hội đặt làm Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu linh mục. Ý lực này có thể được rút ra từ nội dung của Phúc Âm dùng trong Phụng Vụ hôm nay, và được thấy rõ nơi lời tung hô Alleluia được dùng trong Phụng Vụ cho cả 3 chu kỳ A, B, C: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10:14). Đây là câu Phúc Âm được trích trong chính Tin Mừng hôm nay.
Hình ảnh chủ chăn và đàn chiên là một trong hình ảnh đã được dùng trong Cựu Ước để diễn tả liên hệ giữa Thiên Chúa và Dân Do thái. Liên hệ này được diễn tả thật đẹp trong Thánh Vịnh 23-“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”-một trong những Thánh Vịnh được yêu chuộng hơn cả. Thánh Vịnh này đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và được phổ biến rộng rãi trong Phụng Vụ tại Việt Nam. Danh xưng “mục tử” còn được dùng trong Cựu Ước, đặc biệt là Sách Tiên tri Êzekiel, để nói về những người lãnh đạo Dân Chúa. Trong Sách này, Thiên Chúa đã quở trách các mục tử xấu, và Người hứa sẽ đích thân chăm sóc đàn chiên và sẽ ban những mục tử như lòng Người mong ước.
Khi tự xưng mình là Mục Tử tốt lành, Chúa Giêsu vừa xác định thần tính của Người, vừa xác định vai trò lãnh đạo của Người đối với những người tin vào Người, và nhất là diễn tả tình yêu lớn lao Người dành cho từng người trong gia đình nhân loại. Liên hệ giữa Chúa Chiên và đàn chiên-giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu-được diễn tả bằng từ ngữ “biết”: “Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10:14). Theo nghĩa Thánh Kinh, chữ “biết” ở đây không phải chỉ là sự hiểu biết thuộc trí tuệ, nhưng còn là một sự hiệp thông trọn vẹn trong tình yêu bao gồm cả con người và cuộc sống, như được diễn tả trong tương giao vợ chồng.
Chính trong tương quan yêu mến này, Chúa Giêsu-Mục Tử tốt lành-đã tận tình dẫn dắt, chăm sóc, dưỡng nuôi, kiếm tìm, bảo vệ và thí mạng vì đàn chiên. Trót cuộc đời của Chúa Giêsu, từ việc giáng sinh trong cảnh đơn nghèo của máng cỏ Bêlem cho đến cái chết thảm thương trên Thánh Giá nơi Đồi Canvê, là một cuộc tìm kiếm con chiên lạc là nhân loại tội lỗi để đưa về đồng cỏ tốt tươi là Nước Trời của Chúa Chiên Lành. Trước khi xưng mình là Chúa Chiên Lành, Đức Kitô trước hết đã trở thành Con Người, thành Chiên Thiên Chúa, Chiên Vô Tội phải gánh tội trần gian. Ngài đã trở thành “Con Chiên” tuyệt hảo, khi hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, khi trở thành người con yêu dấu đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng, và trở nên mẫu mực cho mọi người tin vào Thiên Chúa.
Bên cạnh hình ảnh mục tử tốt lành, Chúa Giêsu cũng nói đến những kẻ chăn thuê. Đây là những mục tử xấu, những kẻ làm công việc chăn chiên nhưng không biết thương yêu đàn chiên. Đây là những mục tử chỉ làm việc vì lợi ích bản thân mà không quan tâm đến đàn chiên, sẵn sàng thí bỏ chiên để giữ an toàn cho riêng mình.
Khi chú giải đoạn sách Tiên Tri Êzêkiel bàn về các mục tử, Thánh Augustinô đã đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt giữa các mục tử tốt và các mục tử xấu trong Hội Thánh: Mục tử tốt là mục tử biết quên mình để phục vụ đàn chiên và tìm kiếm những gì thuộc về Chúa Kitô, thuộc về Thiên Chúa; còn mục tử xấu là mục tử chỉ nghĩ đến mình, chuyên lo bản thân, tìm kiếm vinh quang phúc lộc trần thế cho riêng mình, bất chấp việc gây hại cho đàn chiên.
Chúa Giêsu-Chúa Chiên Lành vẫn tiếp tục chăn dắt Đàn Chiên Hội Thánh qua các chủ chăn trong Hội Thánh là các giám mục và linh mục. Phúc lộc của các tín hữu tùy thuộc rất nhiều vào các mục tử trong Hội Thánh. Điều này được diễn tả qua câu giáo ngạn: “Linh mục hoàn hảo, giáo dân thánh thiện; linh mục thánh thiện, giáo dân đạo đức; linh mục đạo đức, giáo dân tầm thường.” Chúng ta thấy ở đây người ta không dám thêm câu: “linh mục tầm thuờng” vào; đừng nói đến “linh mục đồi bại”!!!
Thật thích hợp khi Hội Thánh đặt Chúa Nhật-Chúa Chiên Lành hôm nay làm “Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu”. Thánh Giám Mục Tiến Sĩ Anphong Liguori đưa ra ba dấu chỉ để xác định một ơn gọi linh mục đích thực. Đó là phải có ý hướng ngay lành, phải có những đức tính và khả năng xứng hợp, và phải được Bề Trên chuẩn nhận.
Các nhà tu đức có thể đưa ra nhiều dấu chỉ khác để nhận định một ơn gọi linh mục đích thực. Nhưng có một điều hiển nhiên là tất cả các linh mục đích thực phải là “những mục tử như lòng Chúa mong muốn”, hay là những mục tử có trái tim giống như Thánh Tâm Chúa Giêsu, trái tim đầy lửa mến Chúa yêu người. Trước khi là mục tử đích thực, họ phải là một con chiên thực sự của Chúa đã! Trước khi là linh mục chân chính, họ phải là Kitô hữu chính danh đã! Trước khi nhiệt thành rao giảng Lời Chúa, họ phải biết say mê việc đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và sống Lời Chúa đã! Trước khi trở thành những nhà lãnh đạo chân chính, họ phải là những con người biết vâng phục đã!
Một linh mục giáo sư Chủng Viện nhận xét: “Muốn trở nên linh mục đích thực, chúng ta phải giống Chúa Giêsu vừa là Linh Mục vừa là Tế Vật. Nhiều người muốn là linh mục, nhưng không mấy ai muốn là tế vật. Nếu linh mục không biết hy sinh chính mình, họ sẽ hy sinh kẻ khác và gây hại cho đàn chiên”.
Một lý do hiển nhiên cho việc khan hiếm ơn gọi linh mục ngày nay là vì sự khan hiếm những Kitô hữu đích thực. Thiếu con chiên chính danh thì làm sao có được mục tử chân chính? Thiếu những con người biết yêu cầu nguyện hy sinh, xả kỷ vị tha, thì làm sao có được những mục tử thí mạng vì đàn chiên?
Một tai hại lớn lao nhất cho Hội Thánh hôm nay là có nhiều linh mục bất phục Hội Thánh. Một khi bất phục Hội Thánh-Nhiệm Thể Chúa Kitô-người ta không còn là con chiên của Chúa nữa mà biến thành sói dữ và là kẻ chăn thuê, thành ngôn sứ giả!
Lễ Chúa Chiên Lành hôm nay chắc hẳn khiến nhiều người trong chúng ta nhớ đến những linh mục chúng ta từng gặp gỡ trong cuộc đời: Cha xứ, Cha phó, Cha linh hướng, Cha giáo, Cha linh hồn, Cha rửa tội cho ta, Cha dâng lễ cho ta, Cha giải tội, Cha từng chứng hôn cho ta, Cha xức dầu cho ta hay người thân của ta…Có vị với đời sống xả kỷ vị tha và những lời giảng dạy đầy xác tín đã để lại trong lòng ta những ấn tượng thật cao đẹp thần thiêng, khiến ta thêm quý mến cảm phục ơn gọi linh mục và thêm phấn chấn trong đời sống đức tin. Có vị với lối sống quá phàm tục phản chứng và lời giảng tầm thường hay lệch lạc khiến chúng ta phải đau buồn, bực dọc và thẹn thùng, và cảm thấy đức tin mình bị chao đảo. Có vị đang trung thành hăng say trong ơn gọi, nhưng cũng có vị đã rút lui.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những linh mục tốt lành thánh thiện đã góp phần xây dựng đức tin cho chúng ta. Chúng ta hãy thương cảm tha thứ và cầu nguyện cho những linh mục từng gây tổn thương cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ rằng các linh mục dù mang thánh chức linh mục thì cũng như chúng ta, họ vẫn là những con chiên thuộc đàn chiên của Chúa. Cũng như chúng ta, các linh mục có thể có những lúc như những con chiên lìa xa Chúa Chiên Lành hay mang thương tích bệnh tình nên cần được tìm kiếm, cần được chữa lành. Xin Chúa ban cho chúng ta biết góp phần vào việc đưa các ngài trở về đường ngay, giúp các ngài được chữa lành, qua đời sống cầu nguyện hy sinh và yêu thương chân thành của chúng ta.
Điều đáng chúng ta quan tâm hơn cả đó là chúng ta phải yêu quý ơn gọi được là tín hữu của Chúa, là con chiên của Chúa Chiên Lành, Đấng hằng yêu thương săn sóc chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta sẽ nỗ lực sống xứng danh là con chiên chân thực của Chúa và ở lại trong đàn chiên của Người là Hội Thánh.
Chúng ta cũng cần biết rằng mọi tín hữu đều được chia sẻ sứ vụ và ơn gọi của Vị Mục Tử Tối Cao, mỗi khi chúng ta góp phần vào việc xây dựng và củng cố niềm tin nơi tha nhân. Đặc biệt, tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo, hướng dẫn và phục vụ tha nhân-chủ nhân, giám đốc, thầy cô giáo, cha mẹ-đều phải đặt Chúa Giêsu-Chúa Chiên Lành là gương mẫu và lý lưởng của mình. Chỉ khi ấy, họ mới trở thành những nhà lãnh đạo và những người phục vụ chân chính, vì biết hy sinh bản thân để đem lại phúc lộc cho tha nhân, cho cộng đồng.
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương và là Mẹ các Linh Mục, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho mọi tín hữu chúng con luôn sống như những con chiên đích thực của Chúa, những người biết nghe và sống theo Lời Chúa; và xin Mẹ cầu cùng Chúa ban cho chúng con thêm nhiều ơn gọi linh mục thánh thiện đúng như lòng Chúa mong muốn. Amen.
Gio 10:11-18: 11 Tôi chính là Mục Tử tốt lành. Mục Tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho: PS4-B80
Gio 10:11-18: 11 Tôi chính là Mục Tử tốt lành. Mục Tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn,13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi,15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 16 Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.17 Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại.18 Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.
Chương 10 gồm hai phần: diễn từ về mục tử tốt lành (10:1-18) và đối thoại giữa Chúa Giêsu và người do thái (10:22-39). Đoạn 10:1-18 gồm: ẩn dụ về mục tử và lời giải thích về hình ảnh cửa chuồng chiên (10:1-10), và diễn từ về mục tử tốt lành (10:11-18) như là cao điểm của đoạn nầy. Những hình ảnh được dùng trong chương 10 nầy: cửa chuồng chiên (cc. 1-3a), hình ảnh sinh hoạt của người chăn chiên và đàn chiên (cc. 3b-5), hình ảnh cánh cửa dẫn đến đàn chiên (cc. 7b-10), hình ảnh người mục tử tốt lành (cc. 11-15), hình ảnh tương quan yêu thương của Chúa Cha và Chúa Con (cc. 17-18). Bên cạnh đó, còn có hình ảnh và hoạt động của kẻ lạ (c. 5), kẻ trộm, kẻ cướp (c. 8) và người chăn thuê (cc. 12-13).
Cấu trúc của đoạn 10:11-18 gồm: 1- Chân dung mục tử tốt lành tương phản với người chăn thuê liên quan đến đàn chiên (10:11-13); 2- Tương quan Chúa Giêsu với đàn chiên (10:14-16); 3- Tương quan Chúa Giêsu với Chúa Cha (10:17-18). Chủ đề chính của đoạn nầy là Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, hiến mạng sống cho đàn chiên. Cả ban đoạn đều có cụm từ “ban sự sống (của tôi)” (cc.11.15.17). Hãy suy nghĩ tương quan giữa cụm từ nầy trong ngữ cảnh của mỗi đoạn.
Thêm một lần nữa cụm từ “Tôi là” được dùng với một hình ảnh đời thường để áp dụng cách ẩn dụ cho Chúa Giêsu (x. Tôi là bánh ban sự sống 6:35; ánh sáng trần gian 8:12; 9:5; cửa chuồng chiên 10:7; cửa dẫn vào sự cứu độ 10:9; mục tử tốt lành 10:11.14; sự sống lại và là sự sống 11:25; đường, sự thật và sự sống 14:6; cây nho thật 15:1.5). Tính từ “tốt lành” bổ nghĩa cho từ “mục tử” chỉ được dùng cho Chúa Giêsu (10:11.14). Không ai được gọi là mục tử tốt lành ngoại trừ Chúa Giêsu. Mục tử tốt lành được định nghĩa là người hiến mạng sống cho đàn chiên (x. 15:13), trong khi người chăn thuê hành động ngược lại. Họ bỏ chiên và chạy trốn khi thấy sói đến, vì họ không phải là mục tử và đó không phải là đàn chiên của họ (cc. 12-13). Phần con sói, nó là thù địch với chiên (Cn 13:17; Is 11:6). Nó vồ lấy chiên và làm chiên tản mác (c. 12). Vậy ban sự sống của mình cho đàn chiên là bản tính của mục tử tốt lành.
Tương quan của mục tử tốt lành với đàn chiên được nói thêm trong đoạn 10:14-16: nhận biết (c. 14), ban sự sống (c. 15) và dẫn dắt những chiên khác về một đàn (c. 16). Tương quan nhận biết nhau giữa mục tử và đàn chiên được xây dựng trên tương quan giữa Chúa Giêsu và Cha của Người. Câu 14 và 15 được cấu tạo theo kiểu đối đảo (chiastic): “Tôi biết đàn chiên - đàn chiên biết tôi như Chúa Cha biết Tôi - Tôi biết Chúa Cha”. Vượt quá sự so sánh, chữ “như” cho tương quan nhận biết một lý do hiện hữu (x. 6:57; 15:9-10.12; 17:11.18.21; 20:21). Nhận biết nhau là tương quan của tình yêu giữa mục tử và đàn chiên, cả những chiên chưa thuộc một đàn dưới sự dẫn dắt của một mục tử. Vậy ban sự sống mình cho đàn chiên là hành động rất tự nhiên của tình yêu (15:13), nhất là để đàn chiên được sự sống và quy tụ về một mối (x. 11:52; 12:32).
Ban sự sống là lệnh truyền của Chúa Cha (10:18). Trong đoạn 10:17-18 nầy, sự sống của Chúa Giêsu vừa được đặt trong tương quan với Người và với Chúa Cha. Sự sống ấy nằm trong tay của Người và tùy thuộc vào Người. Tuy nhiên, Người đã tự nguyện ban sự sống của Người cho đàn chiên vì muốn thực hiện ý của Chúa Cha. Vì làm như thế, nên Người được Chúa Cha yêu thương.
Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một mục tử tốt lành mà Người đã hứa trong sách các ngôn sứ Giê 23:1-8; Ez 34:11-16.23; 37:24; Zc 11 và 13.
Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội tôn vinh Chúa Giê-su là Mục Tử nhân lành. Phung: PS4-B81
Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội tôn vinh Chúa Giê-su là Mục Tử nhân lành. Phung vụ Lời Chúa của mỗi chu kỳ phụng vụ đều cố gắng trình bày những đặc tính của vị Mục Tử dưới những khía cạnh khác nhau, để đề tài luôn luôn phong phú và gợi nguồn suy niệm cho các tín hữu. Chúa Nhật năm B muốn khai triển mối liên hệ giữa danh hiệu Mục Tử của Chúa Giê-su với danh hiệu Ki-tô hữu của mọi thành phần dân Chúa, suy ra việc cứu độ là công trình của vị Mục Tử nhân lành và đáp lại lời gọi cứu độ là bổn phận của các con chiên muốn bước theo Chúa Chiên.
1. Nhân loại phải nhờ vào danh Chúa Giê-su, Mục Tử nhân lành, để được cứu độ (bài đọc Tân Ước – Cv 4:8-12)
Cái tên luôn luôn quan trọng đối với một người, nhất là những nhân vật trong Kinh Thánh. Giê-su có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Ki-tô nghĩa là Đấng được xức dầu, là người lãnh nhận và thi hành một sứ mệnh đặc biệt Thiên Chúa trao ban; sứ mệnh của Chúa Giê-su là rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Các Tông đồ khi rao giảng về Chúa Giê-su, các ngài thường nói về Danh của Chúa, tức là Danh nói lên con người, giáo lý và sứ mệnh đặc biệt của Chúa. Câu truyện sách Công vụ Tông Đồ hôm nay kể lại việc ông Phê-rô rao giảng về Chúa Giê-su sau khi đã “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” mà chữa lành cho một người què đi được. Ông Phê-rô đã bị bắt và đưa ra trước Thượng Hội Đồng để các nhà lãnh đạo Do-thái thẩm vấn. Tại đây, ông Phê-rô đã khẳng định “chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô” mà người tàn tật được chữa lành, rồi từ điểm căn bản ấy ông nói về con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su.
Con người Đức Ki-tô không xa lạ gì đối với dân chúng Ít-ra-en, nhất là đối với các thủ lãnh là những kẻ “đã đóng đinh Người vào thập giá”. Họ cũng thừa biết Người đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết, nhưng vẫn ngoan cố chối bỏ điều này (xem Mt 28:11-15). Họ giết Người vì không chịu nhìn nhận sứ mệnh cứu độ của Người. Do đó, ông Phê-rô muốn nhân dịp này nhắc lại cho họ và cho toàn dân biết sứ mệnh ấy của Đức Ki-tô.
Sau thời gian rao giảng Tin Mừng và chữa lành, sứ mệnh cứu độ của Đức Ki-tô sắp sửa kết thúc ở trần gian này. Cuộc Thương khó và Phục Sinh của Người đã đền bù tội lỗi nhân loại và đem lại cho nhân loại đời sống mới trong Thánh Thần. Nếu so sánh công việc cứu độ của Thiên Chúa như việc xây một ngôi Đền thờ Mới thì đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô. Thánh Phê-rô dùng hình ảnh đá tảng góc tường để nói lên vai trò độc nhất của Đức Ki-tô. Ngài quả quyết trước Thượng Hội Đồng rằng: “Ngoài Người [Chúa Giê-su] ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:12). Thực vậy, tất cả nhân loại phải là một đàn chiên cần được cứu độ dưới sự chăn dắt của Mục Tử nhân lành. Vị Mục Tử này mang danh là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Người đã hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên để mỗi con chiên được chia sẻ cái danh Con Thiên Chúa của Người. Trước khi nguyên tổ A-dong và E-và phạm tội bất phục tùng, loài người được mang danh là con Thiên Chúa. Nhưng sau đó tội nguyên tổ đã làm cho loài người mất danh nghĩa cao quý đó. Vậy giờ đây, vị Mục Tử nhân lành phục hồi cho họ danh nghĩa ấy, cho họ trở lại sống trong mối quan hệ giữa Chúa chiên và con chiên, để Người dẫn họ về đồng cỏ xanh vĩnh cửu.
Để khai triển thêm về mối quan hệ nói trên, suy niệm của thánh Gio-an sẽ giúp ta biết phải sống sao cho đúng chức phận làm con Thiên Chúa của ta. 2. Ta phải sống danh nghĩa con Thiên Chúa như thế nào? (bài đọc Tân Ước – 1 Ga 3:1-2)
Trước hết thánh Gio-an mời ta hãy truy nguyên danh nghĩa con Thiên Chúa của ta. Dĩ nhiên không phải vì ta thánh thiện để xứng đáng được làm con Thiên Chúa. Ta cũng chẳng có công trạng gì để được quyền làm con Thiên Chúa. Nhưng chức phận ấy là hồng ân Chúa ban cho ta, là kết quả của tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gio-an viết: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1).
Tiếp đến, thánh Gio-an giúp ta phân biệt thế nào mới đích thực là con Thiên Chúa. Cứ nhìn vào cách thế gian đối xử với ta là có thể biết ngay ta là con Thiên Chúa hay không. Nếu thế gian không nhìn nhận ta, tức là ta không thuộc về nó, thì đúng ta là con Thiên Chúa. Còn nếu nó nhận ta là con cái của nó vì ta sống theo lối sống của nó, thì ta đâu thể là con Thiên Chúa được.
Nhận ra chức phận làm con Thiên Chúa không có nghĩa là ta sẽ đương nhiên được thừa hưởng phần gia nghiệp Chúa ban. Đây mới là khởi đầu cho hành trình sống làm con Thiên Chúa. “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa”. Cuộc sống trên trần gian của ta là sống danh nghĩa con Thiên Chúa. Thế còn tương lai thì sao? Thánh Gio-an trả lời: “Chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3:2). Tương lai của ta còn tùy thuộc cách ta sống chức phận con Thiên Chúa ở đời này. Chúa Ki-tô là gương mẫu sống làm Con Thiên Chúa và ta phải sống theo gương mẫu ấy, để “khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người” (1 Ga 3:2). Về điểm này, ta thấy tư tưởng của hai nhà thần học Tân Ước, thánh Gio-an và thánh Phao-lô, đều như nhau. “Nên giống như Chúa Ki-tô” hay “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3:10) thì cũng là một tư tưởng mà thôi. Nói tóm lại, nếu ta muốn sống đúng chức phận con Thiên Chúa, ta phải để cho mình được Ki-tô hóa, được biến đổi dần dần tới mức độ ta sống nhưng không phải là ta, mà là Đức Ki-tô sống trong ta. Có biến đổi như thế, khi Mục Tử nhân lành trở lại để phán xét muôn loài, Người mới nhận biết ta thuộc đàn chiên của Người.
3. Mục Tử nhân lành dạy đàn chiên biết sống chức phận con Thiên Chúa (bài Tin Mừng – Ga 10:11-18)
Bài Tin Mừng có nhiều điều về Mục Tử nhân lành. Tuy nhiên ta muốn đặc biệt lưu ý đến quan hệ mật thiết giữa Mục Tử nhân lành với các con chiên của Người, vì từ điểm này ta sẽ học đươc phải làm gì để sống chức phận con Thiên Chúa. Trước hết, Chúa Giê-su tuyên bố: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành”. Tiếp đến Người trình bày sứ mệnh của Mục Tử nhân lành là: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha”. Sau cùng, để chu toàn được sứ mệnh này, Chúa Giê-su khẳng định: “Và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
Quả thực là một sứ mệnh lớn lao, nhưng lại được gói gém trong một từ “biết”. Cái biết này không hời hợt nằm trong não bộ, nhưng là cái biết nằm thật sâu trong trái tim. Chúa Giê-su có sứ mệnh phải đưa nhân loại vào một thực tại mà Người đang sống, đó là đưa ta vào trong tình yêu giữa Người với Chúa Cha. Có ba chủ thể: Chúa Cha, Mục Tử nhân lành, và chiên. Chủ thể Mục Tử nhân lành là cầu nối để Chúa Cha và chiên “biết” nhau. Tuy nhiên muốn thực hiện sứ mệnh cầu nối này, Mục Tử nhân lành đã phải hy sinh mạng sống.
Mục Tử nhân lành dạy đàn chiên thật nhiều về thế nào là “biết”. “Biết” Thiên Chúa là giới răn trọng nhất, nhưng “biết” anh chị em cũng cao trọng giống hệt như “biết” Thiên Chúa vậy. Tuy nhiên bài học cụ thể nhất mà Mục Tử nhân lành dạy đàn chiên là không có cái “biết” nào sâu xa hơn cái “biết” của người sẵn sàng thí mạng sống mình vì bạn hữu. Người nói là làm! Người đã chết trên thập giá vì “biết” chúng ta và để làm trung gian giúp chúng ta “biết” Cha của Người. Thế là ta hiểu được tại sao Mục Tử nhân lành tuyên bố: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”. Là để thực hiện một “cuộc tình tay ba” (Thiên Chúa – Đức Ki-tô – nhân loại), “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:21).
Ta cũng đừng quên nguyện vọng của Mục Tử nhân lành: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Ta tự hỏi: Tôi có thể làm gì để giúp “những chiên khác” nghe được tiếng của Mục Tử nhân lành? Nếu ta có thực sự “biết” Người, nhận ra tiếng của Người thì ta mới có thể giúp người khác được. Quan trọng là chính ta phải có kinh nghiệm sống trong tình yêu với Người, ta mới có thể chia sẻ kinh nghiệm ấy cho anh chị em chung quanh. Ta có thực hành sống chức phận con Thiên Chúa thì ta mới có thể giúp người khác sống làm con Thiên Chúa. Ta trở thành những khí cụ Mục Tử nhân lành dùng để thực hiện công cuộc quy tụ mọi người về một đoàn chiên của Cha trên trời.
4. Sống Lời Chúa
Chủ đề Mục Tử nhân lành hôm nay trình bày dung mạo của Đức Ki-tô, Đấng đã sống danh phận Con Thiên Chúa để làm cho ta cũng được cùng với Người gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Với danh phận con Thiên Chúa, ta được mời gọi mỗi ngày một sống thân thiết hơn với Chúa Ki-tô, và qua Chúa Ki-tô ta đến với Thiên Chúa. Chính mối quan hệ yêu thương ấy sẽ biến đổi con người của ta dần dần, để trong tương lai khi Mục Tử nhân lành tái lâm và xét xử trần gian, ta sẽ được Người gọi tên và đưa ta vào đồng cỏ vĩnh cửu.
Suy nghĩ: Thánh Gio-an cho ta biết hiện tại và con đường dẫn đến tương lai tốt đẹp: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ”. Vậy tôi phải nói gì về cái “hiện giờ” của tôi? Tôi có thực là con Thiên Chúa hay không? Làm sao để tôi đạt được tương lai tốt đẹp là được làm con Thiên Chúa cho đến muôn đời?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Đức Ki-tô, vị Mục Tử oai hùng của chúng con, đã khải hoàn tiến vào thiên quốc; xin cho chúng con là đoàn chiên hèn mọn cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV Phục Sinh).
Trong ký ức ẩn sâu của mình, tôi vẫn luôn nhớ đến một kỷ niệm nhỏ bé nhưng thật đẹp: PS4-B82
Trong ký ức ẩn sâu của mình, tôi vẫn luôn nhớ đến một kỷ niệm nhỏ bé nhưng thật đẹp. Dấu ấn đầy ngọt ngào đó đã kiện toàn phần nào cách sống của tôi. Hình ảnh biết nói đó vẫn theo tôi suốt cuộc đời.
Khi mười sáu tuổi, tôi được phân công giúp lễ cho Đức Cha cố Phaolô Seitz, nguyên Giám Mục Giáo Phận Kontum. Vào một buổi sáng nọ, như mọi ngày, tôi đến nhà nguyện riêng của Ngài. Nhưng hôm đó, Ngài dặn tôi cần phải di chuyển “đồ lễ” ra hội trường gần đó để cùng đồng tế với các linh mục từ xa về.
Với chiếc áo dài trắng mặc bên ngoài, tôi đã vô ý vấp té. Đĩa thánh bằng chất liệu bạc đã tuột xuống, rơi trên mặt đường rải sỏi trắng. Khi nhặt lên, đĩa bạc thánh đã móp méo ngoài cạnh, làm tôi run sợ.
Sự sợ hãi ùa vào tâm trí, bởi trước đó 4 năm, cũng với công việc giúp lễ cho cha sở tại làng quê, tôi đã nhận được một cú bạt tai tóe lửa chỉ vì sơ ý làm đổ một ít rượu lễ. Thế cho nên, khi gặp tai nạn nghề nghiệp, tôi chợt nảy ra ý định liền thoắng là phải gò lại phần lõm tai hại kia để khỏi bị phát hiện ra sự vụng về, ngờ nghệch đáng chê trách của mình. Thế nhưng, trời còn mờ tối, làm sao có thể thực hiện được thao tác đòi hỏi nhanh nhẹn và khéo léo. Thời gian quá ngắn cũng không thuận tiện để tôi làm một hành vi che lấp sự gian dối.
Cuối cùng, tôi đành chấp nhận thú tội và gánh lấy lỗi phạm của mình. Khi gặp lại Đức Cha nơi bàn thánh, tôi trình bày thẳng thắn với Ngài và chờ đợi. Ngài không hành xử như cha sở của tôi. Ngài xoa đầu và chỉ ngắn gọn an ủi:
“Không sao cả, con ạ! Cần thận trọng hơn!”
Tôi mừng rỡ như mở hội bởi sự sợ hãi đã nhanh chóng tan biến. Thay vào đó là một lời và cử chỉ động viên mang đầy khích lệ lẫn tình mến. Thái độ hiền hậu yêu thương của Ngài luôn theo tôi suốt cuộc đời và đã giúp tôi hiểu được rằng cần phải biết, hiểu rõ tâm tình của người khác, nhất là giời trẻ, để rồi mới có sự cảm thông và tha thứ.
Kỷ niệm đẹp về vị mục tử Phaolô Seitz đã và sẽ còn nhắc nhở tôi luôn mãi.
Ấy thế mà tôi đã hành xử thế nào và ra sao với Đức Kitô, Đấng Chăn Chiên Nhân Lành của tôi?
Gần cả cuộc đời, tôi đã không theo Người. Tôi đã sống xa huấn lệnh của Người. Không nghe tiếng của Người. Chỉ cho đến khi hồi tâm, lắng đọng tâm hồn, tôi mới thấm thía được Lời cùa Người như nói với chính tôi:
“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi Và chiên của tôi biết tôi Như Chúa Cha biết tôi Và tôi biết Chúa Cha, Và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14-15)
Đức Giêsu chứng tỏ điều đó khi tiến lên Thập Giá – người mục tử nhân lành mà thánh sử Gioan đồng hóa với Đức Kitô không ngần ngại ban tặng mạng sống mình vì đoàn chiên, và đẩy sự điên rồ của tình yêu đến chỗ nộp mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn dân.
Tại sao có tình yêu ấy? Vì người mục tử nhân lành biết các con chiên của mình. Động từ biết được lập lại bốn lần trong đoạn này, tất cả ngụ ý về sức mạnh yêu thương và dịu dàng mà ngôn từ Kinh Thánh gán cho động từ ấy. Biết chính là yêu thương một cách tuyệt đối, không giới hạn. Biết là yêu thương ngay cả khi người khác làm phật ý mình, làm hại đến mình như Đức Giêsu đã mặc khải:
“Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một ràn chiên và một mục tử” (Ga 10, 16)
Quả thật, khi nghe được tiếng Đấng Chăn Chiên, tôi đã nhận ra dấy là hồng ân cao quí bời Chúa Giêsu đã mặc khải:
“Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 44)
Tình yêu kì diệu của Thiên Chúa đã làm rung động trái tim năng nổ nhưng vấp phạm của thánh Phêrô, vì Ngài đã cảm nghiệm thâm sâu sự biết tuyệt vời của Thiên Chúa:
“Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1Pr 2, 24)
Thánh Phaolô cũng đã cảm nếm ngọt ngào được “biết là yêu đến cùng của Thiên Chúa” , nên Ngài đã xác tín:
“Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20)
Và Ngài dạy dỗ khuyên bảo phải theo Vị Mục Tử Nhân Lành rất rõ nét:
“Ước gì Lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào. Anh em hãy dậy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” (Cl 3, 16- 17)
Lạy Cha yêu thương và toàn năng, Chúng con xin hết lòng cảm tạ Cha đã ban Vị Mục Tử Nhân Lành cho chúng con. Chúng con dâng lên Cha với tất cả tâm hồn lời thánh vịnh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” Amen.
Trong Chúa Nhật trước, đoạn trích dẫn thư 1 Gio-an đề cập đến mối tương giao mật thiết giữa: PS4-B83
Trong Chúa Nhật trước, đoạn trích dẫn thư 1 Gio-an đề cập đến mối tương giao mật thiết giữa Ki-tô hữu với Thiên Chúa. Bài đọc hôm nay đi thêm một bước nữa, xác nhận rõ ràng mối tương giao đó của chúng ta là được làm con Thiên Chúa do lòng yêu thương của Người. Địa vị làm con Thiên Chúa được thánh Gio-an nói đến gồm có hai giai đoạn: giai đoạn khởi đầu sau khi được rửa tội làm Ki-tô hữu, và giai đoạn cánh chung khi được hoàn toàn nên giống Chúa Ki-tô. Sống hiện tại để chuẩn bị cho tương lai, đó là điều Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta, đặc biệt trong mùa Phục Sinh này.
a) Chúng ta là con Thiên Chúa ở đời này
Thánh Gio-an trình bày một cách rất đơn sơ địa vị làm con Thiên Chúa của chúng ta ở đời này. Ngài chỉ nêu lên hai điểm. Trước hết là làm sao chúng ta có được địa vị ấy? Chắc chắn không phải vì chúng ta xứng đáng, nhưng hoàn toàn là do lòng thương của Chúa Cha. Nếu Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban Con Một Người cho thế gian (Ga 3:16), thì cũng thế, Người yêu chúng ta “đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1). Vậy mà đáng buồn thay, có nhiều người không nhận biết địa vị cao quý ấy! Do đó, thay vì chỉ khẳng định chúng ta là con Thiên Chúa, thánh Gio-an thấy cần phải kêu gọi, nhắc nhở chúng ta hãy nhận biết địa vị của mình: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào.” Có nhận biết được mức độ yêu thương bao la của Thiên Chúa dành cho chúng ta, chúng ta mới có thể nhận biết mình được gọi là con Thiên Chúa. Còn trái lại, nếu chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa, thì dĩ nhiên chúng ta không thể nào nhận ra mình là con Thiên Chúa được.
Thứ đến, địa vị làm con Thiên Chúa đặt chúng ta trong tư thế đối nghịch với thế gian. Thế gian đã trở thành một trong số ba thù (thế gian, tội lỗi và ma quỷ) đối với chúng ta. Hoặc nói theo thánh Gio-an: thế gian “không nhận biết” chúng ta, không đội trời chung với chúng ta. Tại sao vậy? Lý do thật đơn giản: vì thế gian không muốn biết Thiên Chúa, không muốn có mối tương giao với Người. Làm con Thiên Chúa, chúng ta sẽ sống theo đường lối Người muốn chúng ta sống, tức là sống theo Thần Khí của Đức Ki-tô Phục Sinh. Điều này hoàn toàn đi ngược với đường lối của thế gian.
Thế gian muốn tước đoạt địa vị làm con Thiên Chúa nơi chúng ta khi nó tìm cách quyến rũ chúng ta cứ ở trong tội lỗi. Do đó, tiếp theo đoạn thư hôm nay, thánh Gio-an khẩn khoản xin chúng ta hãy đoạn tuyệt với tội lỗi. Sống giữa thế gian, địa vị làm con Thiên Chúa thường đem lại cho chúng ta nhiều thiệt thòi ở đời này. Chúng ta không thể làm những gì trái lề luật Thiên Chúa. Chúng ta sẽ bị chê cười... Nhưng Chúa Giê-su đã hứa: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
b) Chúng ta là con Thiên Chúa ở đời sau
Có lẽ một thắc mắc của hầu hết chúng ta là: Giờ đây tôi cố gắng làm con cái xứng đáng của Thiên Chúa, vậy mai sau tôi sẽ được gì? Khi theo Chúa Giê-su, ông Phê-rô cũng đã có thắc mắc giống như chúng ta. Ông thưa với Chúa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt 19:27-28). Còn thánh Gio-an, để trả lời thắc mắc của chúng ta, ngài viết: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người” (1 Ga 3:2). Vậy thánh Gio-an chỉ có thể đoan chắc với chúng ta một chân lý này, là nếu chúng ta tiếp tục sống xứng đáng là con Thiên Chúa ở đời này thì đời sau chúng ta sẽ nên giống như Đức Ki-tô Phục Sinh. Đức Ki-tô Phục Sinh đã trở nên khác đến nỗi ngay các tông đồ cũng không nhận ra Người khi Người hiện ra. Không ai trong những người đã được Người hiện ra có thể diễn tả được Người như thế nào. Và giờ đây cả chúng ta cũng như vậy. Hết thảy đều phải đợi tới ngày cánh chung mới có thể thấy Người thực sự như thế nào.
Đây không phải là một bí mật, nhưng đúng hơn là một mời gọi. Mỗi ngày trong cuộc sống Ki-tô hữu, chúng ta cố gắng biến đổi trở nên giống Chúa Ki-tô hơn, đó là chúng ta đang khám phá ra Chúa Ki-tô Phục Sinh, đồng thời chúng ta cũng khám phá ra hình ảnh tương lai của chính mình.
Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa. Tương lai chúng ta sẽ nên giống như Chúa Ki-tô Phục Sinh. Khoảng cách giữa “hiện giờ” và “mai sau” là thời gian để chúng ta tiếp tục sống mầu nhiệm Phục Sinh, có nghĩa là mỗi ngày chúng ta phải chết đi cho con người tội lỗi của mình để sống lại trong tinh thần mới, tâm tình mới và lối sống mới của một Ki-tô hữu đích thực.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi có thực sự hiểu ý nghĩa làm con cái Chúa như thế nào không? Hay chỉ là một địa vị tôi thừa hưởng do cái gốc Công giáo của mình? Làm sao giúp mình ý thức một cách đúng đắn địa vị làm con Thiên Chúa theo cách hiểu của thánh Gio-an? Nghĩa là tôi có “xem” Chúa Cha yêu tôi dường nào không?
Tôi có nhận thấy những thiệt thòi đối với thế gian trong địa vị làm con Thiên Chúa không? Tôi đã đối phó với những cảm nghĩ thiệt thòi ấy như thế nào?
Tôi sống mầu nhiệm Phục Sinh mỗi ngày như thế nào? Ý thức mình được gọi làm con Thiên Chúa nhờ Đức Ki-tô? Sống mối tương giao mật thiết Cha-con? Lấy Chúa Ki-tô làm gương mẫu để biến đổi mỗi ngày?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lời nguyện sau đây:
Lạy Chúa Phục Sinh, vì Chúa đã phục sinh, nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ. ... Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo. Sự Phục Sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 87)
Các Chúa Nhật đầu mùa Phục Sinh, Hội Thánh trình bày cho chúng ta suy niệm các trình: PS4-B84
Các Chúa Nhật đầu mùa Phục Sinh, Hội Thánh trình bày cho chúng ta suy niệm các trình thuật Phúc âm liên quan đến biến cố Chúa Phục Sinh. Nhưng Chúa Nhật này, cũng trong bối cảnh Mùa Phục Sinh, Hội Thánh lại trình bày cho chúng ta biết, Chúa Kitô là Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Hội Thánh muốn nhắc nhở rằng: Chúa Kitô vẫn là Mục Tử Nhân Lành cho đến đời đời. Chúa đã là Mục Tử Tốt Lành hiến dâng mạng sống để cứu lấy đoàn chiên. Và hôm nay khi đã Phục sinh, Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt từng người chúng ta, bằng chính Thánh Thần của Người. Chính nhờ được chăn dắt bằng Thánh Thần, đoàn chiên lãnh nhận một Tình Yêu Phục Sinh, một sức sống mới tràn đầy. Vì thế, mãi mãi Chúa Kitô vẫn hiện diện giữa đoàn chiên, không ngừng hiện diện trong vũ trụ, Người vẫn là Mục Tử và không ngừng là Mục Tử. Vị Mục Tử nhân từ và yêu thương vẫn không ngừng nhân từ, không ngừng yêu thương.
Toàn bộ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề Đấng Chăn Chiên nhân lành. Mục tử là người chăn chiên. Đây là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái chuyên sống nghề du mục. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một trong những hình ảnh biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người chăm sóc đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chính chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: "Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14), và Ngài còn quả quyết sự hiểu biết của Ngài đối với mỗi người cũng như sự hiểu biết giữa Ngài với Cha Ngài: "Chúa Cha biết Ta, và Ta biết Chúa Cha, và Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên"(Ga 10, 15). Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Họ biết từng con một, về ngày sinh tháng đẻ, để có thể xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để cứu chữa. Thực vậy, Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những nhân vị, là những Kitô hữu. Ngài biết chúng ta hơn chúng ta biết mình. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo; ai là con chiên khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết.
Hơn nữa,Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, vì Ngài ân cần chăm sóc chúng ta. Ngài đã phục sinh nên luôn ở bên chăm sóc từng người chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta dù chúng ta không quan tâm đến. Quả thực, suốt cả một đời hy sinh, giảng dạy, ban ơn cứu độ cho con người và Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một chủ chăn tốt lành là chết vì con chiên và cho con chiên, để minh chứng lời Ngài đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn, cao quý hơn là chết cho người mình yêu".
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà ngôn sứ Ezekiel tiên báo. Giống như David người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con lạc đường mất lối. Đức Giêsu còn làm hơn thế nữa. Ngài tự hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Và Ngài lại còn làm hơn như thế. Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ đời sống Phục sinh của riêng Ngài với đàn chiên.
Thánh Phêrô nhắc nhủ trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay, Ngài nói với dân chúng rằng chính nhờ quyền năng Đức Giêsu mà người tàn tật ấy được chữa lành. Ngài mời gọi dân chúng tin vào Chúa Giêsu để được chữa lành phần hồn giống như kẻ tật nguyền được chữa lành phần xác. Đây cũng là điều thánh Gioan nhắc nhớ trong bài đọc thứ hai hôm nay; nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên con cái riêng của Ngài.
Chúng ta phải đáp lại tất cả những lời đó cách nào đây?
Trước hết, chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu, vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà chúng ta được cứu khỏi phải chết đời đời để được sống vĩnh viễn.
Đây là điều thánh Gioan nhắm nói đến trong bài đọc thứ hai: "hiện giờ chúng ta là con cái Chúa, nhưng vẫn chưa biết rõ chúng ta sẽ trở nên thế nào, tuy nhiên chúng ta biết rằng khi Đức Kitô hiện ra, chúng ta sẽ nên giống như Ngài. Bởi vì Ngài thế nào thì chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài như vậy" (1Ga 3, 2).
Thứ đến chúng ta phải cởi mở tâm hồn mình với Đức Giêsu, vì Ngài đang ở với chúng ta ngay lúc này để tiếp tục công việc cứu rỗi của Ngài. Ngài vẫn tiếp tục chăm sóc kẻ yếu đuối, chữa lành người đau ốm, băng bó người bị thương tích, đem người lầm lạc trở về và tìm kiếm những người đã lạc mất.
Đức Giêsu quả là Mục tử nhân lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ngày nay, Ngài vẫn còn tiếp tục cư ngụ giữa chúng ta và thông ban sự sống phục sinh của Ngài cho chúng ta.
Là con cái của Chúa Giêsu, chúng ta hãy mau mắn bước theo Ngài, đó là cách đáp trả của lòng tin. Đồng thời, chúng ta hãy yêu mến và phó thác cuộc đời vào Ngài bởi vì Ngài chính là lẽ sống cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tâm tình của người con thảo hiếu, cảm thấy hạnh phúc vì được sống trong Hội Thánh, trong sự che chở của Ngài. Lạy Chúa Giêsu, Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành, xin hãy thương xót chúng con. Amen.
Người Việt Nam chúng ta thường thì ai cũng biết đến câu chuyện cổ tích: Cái Đực rựa. Câu: PS4-B85
Người Việt Nam chúng ta thường thì ai cũng biết đến câu chuyện cổ tích: Cái Đực rựa. Câu chuyện nói lên đời sống của hai anh em được người cha rất thương yêu.
Chính vì thế ông đã chuẩn bị tất cả, không để cho con của mình phải thiếu thốn điều gì. Khi ông nhắm mắt lìa đời, ông đã để lại một tài sản xứng đáng cho hai người con của mình. Không chỉ để lại mà thôi, ông còn dạy bảo nhắc nhở: Anh em phải yêu thương lo lắng cho nhau. Nhưng rồi, những điều lo lắng, những điều chỉ dạy và lời trối sau cùng của người cha kính yêu, không được thực hiện chu đáo.
Người anh cả khôn ngoan hơn, lại thêm tính tham lam, nên cuối cùng, người em hiền từ đơn sơ chỉ còn nhận được Cái đực rựa. Người em phải rời khỏi nhà cùng với gia tài mình được chia, gia tài mà người cha đã để lại, giờ đây anh chỉ nhận được có thế. Anh đã bị chính người thân thuộc nhất của mình tước đoạt tất cả. Anh cũng không có quyền ở trong nhà cha của mình, vì chính người con của cha mình, người anh ruột của mình, người thân nhất của mình, lại là người loại trừ anh ra khỏi cuộc sống. Đoạn kết câu chuyện, mọi người chúng ta đều biết: Ở hiền gặp lành.
Qua câu chuyện, tôi suy nghĩ: người cha rất thương yêu con của mình, nên ông đã dạy dỗ, chuẩn bị tất cả. Đáng lẽ những người con của ông đều được sung sướng. Nhưng cũng vì con ông không biết thương nhau, nên có những người phải cơ cực. Mặc dù ông đã làm tròn bổn phận của mình, nhưng ông không khỏi phiền lòng khi nhìn thấy những đứa con của mình đối xử với nhau như thế. "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi." Chúa Giêsu là chủ đàn chiên của Ngài. Ngài là Người Cha nhân hậu, Ngài đã chuẩn bị tất cả những gì cần thiết cho đàn chiên của Ngài được hạnh phúc, được sung sướng. Chính vì thương yêu đàn chiên nhỏ bé, còn bơ vơ chưa thể tự mình đạt tới hạnh phúc được, nên Ngài dám hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Ngài biết từng con chiên, lo lắng cho từng con một. Ngài chỉ có mong ước duy nhất là làm sao các chiên của Ngài đều nghe tiếng để bước đi theo Ngài.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta thuộc về đàn chiên của Chúa Kitô. Mỗi người trong chúng ta được Ngài yêu thương, chăm sóc, giữ gìn, và mỗi người cũng được bảo vệ bằng chính mạng sống của Ngài. Những con chiên trong đàn có được một Người chủ chăn tuyệt vời, thế mà cũng vẫn còn có nhiều con chiên ăn không đủ no, nó cũng không thể nào chống chọi lại nỗi với những cơn giá rét luôn ập xuống trên mình. Đôi khi còn tệ hại hơn nữa, nó phải đành chấp nhận nỗi cô đơn mà tách khỏi đàn để đối mặt với bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đón.
Nó đói không phải vì trong đàn chiên thiếu thức ăn, trái lại, thức ăn vẫn đầy đủ và phần của nó vẫn còn đó. Nó lạnh, nó cô đơn, nó gặp nguy hiểm, không phải vì chủ không quan tâm. Nhưng nó phải chịu tất cả những điều bất hạnh đó, vì nó không tìm được sự cảm thông của những con chiên đồng loại. Nó cũng không tìm thấy được một sự quảng đại, nó cũng chẵng nhận được những cử chỉ yêu thương chân thành, mà nó chỉ thấy trước mắt nó những điều làm nó đau lòng. Trước một thực tế như thế, cùng với sự hiểu biết nông cạn, nó không thể nào nhận ra được tình yêu của Người Chủ Chăn Tuyệt Vời qua những chú chiên bạn bên cạnh nó được.
Câu chuyện cổ tích ở trên, chúng ta ngở rằng nó đã cổ xưa, đã đi vào quá khứ, nhưng thực ra nó rất hiện đại và vẫn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay. Cũng vẫn những tham lam, vẫn những tranh giành, vẫn những thủ đoạn loại trừ nhau. Cho dù tiếng chủ chăn vẫn vang lên thống thiết, còn những con chiên thì vẫn cứ mặc tình, vẫn cứ ồn ào náo nhiệt, vẫn cứ tranh chấp nhau, nên không thể nào nghe được hết những gì chủ chăn muốn nói.
Tiếng vị Chủ Chăn tuyệt vời cũng vang bên tai mỗi người chúng ta. Chúng ta có phải là con chiên trong đàn của Chúa Kitô thật sự không ? chúng ta đã nghe tiếng Ngài, và bước đi theo Ngài như thế nào trong cách sống của mình ?
Xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, lời của vị Chủ Chăn Tốt Lành, để chúng ta luôn là con chiên ngoan trong đàn của chủ chăn, và là một bạn chiên tốt của các chiên.
Bài đọc I (Cv 4, 8-12): Thánh Phêrô tuyên bố trước những nhà lãnh đạo Do thái rằng: Chúa: PS4-B86
Bài đọc I (Cv 4, 8-12): Thánh Phêrô tuyên bố trước những nhà lãnh đạo Do thái rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài chính là chính là viên đá gốc tường của toà nhà mới mà người ta loại bỏ. Động lực nào đã làm cho thánh nhân can đảm lạ thường? Phải chăng ông đã cảm nhận được tình yêu mà Chúa Giêsu đối với ông, một người phản bội!
Bài đọc II (1Ga 3, 1-2): Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta làm con Chúa trong Chúa Giêsu. Để chúng ta được thông phần hạnh phúc với Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta hãy vui mừng và biết chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao ấy cho nhân loại.Vì chưng, ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Bài Tin Mừng (Ga 10, 11-18): Cho thấy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài biết chiên của Ngài, và chúng cũng nhận ra Ngài. Không giống như người chăn thuê, Chúa Giêsu sẵn sàng hiến mạng sống của mình để bảo vệ đoàn chiên.
Ba bài đọc đã cho ta một cái nhìn mới về ý nghĩa của cuộc đời. Cuộc sống của chúng ta hôm nay phần lớn được bao bọc bởi công việc. Vì vậy chúng ta hãy xem công việc hiện nay của tôi đang làm có tầm quan trọng và có ý nghĩa như thế nào? Nếu công việc tôi đang làm thật sự có ý nghĩa cho xã hội, thì quả thật đây là một diễm phúc cho ta. Còn nếu nó không mang một ý nghĩa nào, hay có nhưng rất ít thì thật là vô phúc.
Người ta nói: vấn đề đầu tiên của chúng ta trong cuộc sống là hãy tìm một việc làm có ý nghĩa. Khi đó nó sẽ thay đổi cuộc đời chúng ta. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại hai danh từ đối lập: Chủ chăn và người chăn thuê. Vậy đâu là sự khác biệt giữa vị mục tử nhân lành và người chăn thuê? Đó chính là hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên. Người chăn thuê làm công việc này vì đây là một sự bắt buộc, làm để lãnh lương. Đối với anh ta đây chỉ là cái nghề, vì thế anh ta không đặt con tim của mình vào trong công việc. Còn vị mục tử nhân lành làm công việc chăn dắt đoàn chiên vì anh ta yêu mến nó, đó chính là lý tưởng của anh. Vì vậy, anh ta làm với một con tim nhiệt thành và hoàn toàn tự nguyện.
Người ta yêu vị mục tử nhân lành vì cuộc sống của anh ta hoàn toàn vì lợi ích của đoàn chiên. Đối với vị chủ chăn nhân hậu, anh ta tìm thấy một cái gì quý giá thật sự khi được chăm sóc đoàn chiên. Đối với anh ta đây không chỉ là công việc mà còn là một ơn gọi, một lý tưởng của cuộc đời.
Vì vậy anh ta đặt tất cả mọi tâm quyết cho công việc và làm hết khả năng. Khi đó anh ta sẽ có đủ sáng kiến để thực hiện hoài bảo, nhờ đó mà tài năng bắt đầu được nở rộ. Dù cho công việc có nhiều khó khăn trắc trở nhưng nhờ có lý tưởng và có động lực là tình yêu nên mọi chuyện đều trở nên nhẹ nhàng và đơn giản không gì là nặng nhọc. Chúng ta không thể có được hạnh phúc từ cuộc sống dễ dãi. Trách nhiệm nặng nề trong việc tự nguyện phục vụ tha nhân sẽ làm cho cuộc sống yêu thương sẽ càng có giá trị.
Chúa Giêsu đã tìm thấy lý tưởng của Ngài Khi Ngài khẳng định: Ta là mục tử nhân lành của đoàn chiên mà Chúa Cha trao phó. Hai đặc tính nổi bật trong sự liên hệ giữa chủ chăn và đoàn chiên là: Ngài chăm sóc đoàn chiên tận tình, sẵn sàng hiến mạng sống để bảo vệ đoàn chiên. Và Ngài biết các chiên của Ngài và chúng cũng biết Ngài. Đây là sự gần gũi giữa chủ chăn và đoàn chiên. Thiếu điểm này thì sự lãnh đạo trở thành sự áp bức.
Mỗi người chúng ta cũng phải chọn cho mình một lý tưởng. Khi có lý tưởng chúng ta sống và làm việc với một thái độ hoàn toàn khác hẳn với người không có định hướng, không có lý tưởng. Khi chúng ta thực hiện một công việc hay một bổn phận với một con tim héo úa mà không có động lực yêu thương chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Và quả thật, đây là một nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống. Vì chúng ta không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc từ trong công việc, và khi đó cuộc sống quả là gánh nặng.
Nhưng để chọn cho mình một lý tưởng không phải là vấn đề đơn giản. Vì chọn lựa nào cũng phải từ bỏ, chọn lựa nào cũng làm cho chúng ta phải nuối tiếc và mang lại đau thương. Nhưng chúng ta phải can đảm chấp nhận vì hiểu rằng chúng ta chỉ có hạnh phúc thật sự khi đi đúng con đường, đúng lý tưởng.
Khi đó chúng ta mới yêu mến công việc của mình. Vì chưng thánh giá nào cũng nặng, nhưng điều quan trọng là thái độ của chúng ta đối với thánh giá cuộc đời. Nếu chúng ta nhìn công việc của mình như là quà tặng và phương tiện nên thánh thì mọi chuyện sẽ trở nên nhẹ nhàng. Chúa Giêsu là người sống có định hướng và lý tưởng hơn ai hết, khi Ngài đưa ra dụ ngôn mục tử nhân hậu và người chăn thuê. Người mục tử thì yêu mến công việc của mình, đảm nhận cônmg việc chăn dắt vì tình yêu. Đây không phải là điều dễ dàng. Nhưng cho dù gặp nhiều khó khăn gian khổ anh cũng dễ dàng vượt qua. Vì tình yêu đã cho anh sức mạnh.
Mỗi người chúng ta đều là mục tử trong địa vị và bổn phận của mình. Vì vậy chúng ta phải đối xử với nhau cách có trách nhiệm và hoàn toàn vì yêu thương. Tránh thái độ thờ ơ đối với nổi khổ của anh em, cũng như hành quyền trên người khác. Vì Chúa Giêsu đã chết và phục sinh cho tất cả chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, là vị mục tử nhưng Ngài lãnh đạo dân Ngài bằng tình yêu chớ không bằng quyền lực.
Lạy Chúa là Đấng nhân hậu và hay thương xót. Xin cho chúng con vững tin vào tình yêu của Đức Kitô phục sinh, vị mục tử nhân hậu đã thí mạng vì chúng con. Xin cho chúng con tỏ lòng biết ơn Chúa qua việc đối xử tốt với anh em. Xin Chúa cũng ban thêm cho chúng con có nhiều vị mục tử biết quảng đại dấn thân hoàn toàn vì lòng yêu mến Chúa và các linh hồn. Amen.
Tin Mừng Chúa Nhật IV phục sinh cho chúng ta hai cái nhìn của hai con người v ề cùng một: PS4-B87
Tin Mừng Chúa Nhật IV phục sinh cho chúng ta hai cái nhìn của hai con người v ề cùng một công việc. Đó là chủ chăn là người chăn thuê.
Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chuẩn để phân biệt đâu là chủ chăn thật sự và người chăn thuê. Chủ chăn thật sự thì sẵn sàng hiến mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Còn người chăn thuê thì không. Anh ta chỉ làm công. Và tiền lương là động lực duy nhất để lôi kéo anh ở lại với đàn chiên. Khi gặp nguy hiiểm, anh ta lập tức quay đi mặc tình cho đàn chiên phải đối diện với nguy hiểm.Cùng một công việc là chăn chiên. Nhưng hai người có hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau.
Vậy động lực nào đã làm cho người chủ chăn thật có thể quên mình vì đoàn chiên? Tôi thiết nghĩ, có lẽ vì anh ta yêu mến công việc của mình, và xem nó như là một hoài bảo, một phần của cuộc sống, một ơn gọi trong cuộc đời mà anh hằng tìm kiếm. Chăm sóc đoàn chiên đối với anh không phải là cái nghề, cũng không vì lương bổng nhưng tất cả chỉ vì lý tưởng.
Còn người chăn thuê thì không như vậy. Trong thâm tâm anh chỉ là người làm thuê. Nên hay xo đo, tính toán, ngại khó khại khổ...Nên công việc đối với anh luôn là gánh nặng.
Chúng ta thấy, cùng một công việc là chăn chiên nhưng hai người có hai cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau. Không phải công việc nặng nhọc nhưng nặng hay nhẹ là do tự mình cảm nhận. Người ta kể rằng: có anh chàng kia vác thập giá về thiên đàng. Cùng đi với anh là cả một đoàn người. Không ai bảo ai. Với cây thập tự trên vai. Mọi người cứ âm thầm tiến bước.
Nhưng anh chàng này thấy những người kia vác thập giá như mình sao họ lại đi cách nhanh nhẹn và vui vẻ. Nên anh cằn nhằn Chúa vì nghĩ rằng: Thiên Chúa thật bất công khi trao cho anh một thánh giá nặng hơn thánh giá của những người khác. Cứ thế, đi một quảng, anh dừng lại và tỏ thái độ không bằng lòng với Thiên Chúa. Cuối cùng Chúa hiện ra với anh và bảo: Không phải thánh giá của con nặng hơn của nhưng người kia đâu. Thánh giá của mọi người đều như nhau cả. Con hãy cố gắng lên.
Nhưng anh ta vẫn không chịu, nhất quyết cho là thánh giá của mình nặng hơn. Cuối cùng Chúa chìu anh ta nên Ngài nói: nếu con cảm thấy nặng thì con hãy cưa bớt đi. Vẻ mặt anh ta trở nên vui tươi hớn hở và anh nói: nếu Chúa cho phép con sẽ làm ngay. Ngay lập tức anh ta cưa bớt thánh giá của mình một khúc. Rồi anh vui vẻ lên đường.
Khi đến trước cổng thiên đàng mọi người đều dừng lại vì phía trước họ là một con sông. Muốn qua sông để vào thiên đàng thì mọi người phải lấy thánh giá của mình làm cầu để đi qua. tất cả đã qua sông và vào được thiên đàng. Sau cùng anh chàng này cũng đến. Anh dùng thánh giá định bắc qua sông để vào thiên đàng. Nhưng hỡi ôi! Vì bị cưa đi một khúc nên thánh giá của anh không thể nào chạm được bờ bên kia của thiên đàng nên anh đành đau khổ khi thấy những người khác vui vẻ ở bên kia.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta giống như anh thanh niên trong câu chuyện trên. Chúng ta hay phiền trách Chúa tại sao để cho tôi đau khổ như thế này? Hay tại sao Chúa gởi thánh giá cho con nặng như vậy?
Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho chúng ta hiểu vấn đề này một cách thấu đáo. Vấn đề quan trọng không phải là thánh giá nặng hay nhẹ nhưng là ở thái độ của chúng ta đối với thánh giá. Nếu chúng ta đón nhận công việc với thái độ tự nguyện, vui tươi thì cho dù có nặng nề nhưng nhưng ta cũng cảm thấy nhẹ.
Vì hiểu rằng công việc làm tăng phẩm giá con người, làm cho con người trưởng thành hơn. Chính nhờ lao động mà con người phát huy hết tiềm năng mà Thiên Chúa đã ban.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Xin cho con đón nhận tất cả nhưng gì Chúa gởi đế với tinh thần tự nguyện, chấp nhận tất cả với thái độ vui tươi, nhờ đó mà mỗi ngày chúng con được lớn lên.
Chăn chiên là một nghề rất thịnh hành ở Palestina từ thời Cựu Ước cho tới thời Tân Ước. Người: PS4-B88
Chăn chiên là một nghề rất thịnh hành ở Palestina từ thời Cựu Ước cho tới thời Tân Ước. Người ta nuôi chiên vì nó mang lại nhiều nguồn lợi như sữa, thịt, lông... nên người Mục tử là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Israel .
Trong chăn nuôi vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: vì không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con chiên, muốn nuôi tốt một đàn chiên đông đúc như thế không phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải đi tìm những đồng cỏ lớn, và phải tiên liệu khi đàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn đến đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống, ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyên đe doạ như trộm cướp và thú dữ.
Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc chết để bảo vệ đàn chiên, phải vất vả đi tìm những con chiên lạc. Người mục tử gắng bó mật thiết với đàn chiên nên phát sinh những tình cảm giữa chủ chăn và đàn chiên: người chăn chiên biết rõ từng con chiên với những đặc tính của nó, các con chiên cũng biết ai là chủ chăn của mình. Các chủ chăn thường đặt tên cho những con chiên làm "trưởng", ông chỉ cần gọi tên những con này, khi chúng đi theo chủ thì các con chiên khác cũng đi theo.
Ban đêm các mục tử thường nhốt chiên lại chung với nhau trên một khoảng đất trống có rào xung quanh, đến sáng các mục tử vào gọi tên các con chiên "tổ trưởng", chúng đi ra các chiên khác cùng đàn sẽ đi theo. Khi đếm đủ số, mục tử đi đầu dẫn đoàn chiên của mình ra đồng cỏ. Những con chiên không bao giờ nghe tiếng người lạ, nhưng sẽ bỏ chạy tán loạn.
Kinh Thánh thường dùng hình ảnh Mục tử hay chủ chăn để áp dụng cho những nhân vật lãnh đạo quan trọng trong Israel như Môisen, các Vua, các thẩm phán, các ngôn sứ. Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23, 80) và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là Mục tử.
Quả thật, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, mục tử tốt, mục tử chăm sóc từng con chiên một, nhất là những con chiên yếu kém. Chúa Giêsu nhiều lần đã rơi lệ xót thương dân Do thái, vì họ như đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt. Chúa giảng dạy, chỉ cho họ đường đi để có được hạnh phúc thật sự. Chúa cho họ ăn uống no nê trong những lần hoá bánh ra nhiều và dân chúng đã muốn tôn Ngài lên làm vua.
Chúa yêu thương những con chiên tật nguyền và chữa cho họ được lành bệnh chỉ nhờ vào lòng tin của họ. Đó là người mù từ thuở mới sinh, những người bị bại liệt, bị phong hủi, người đàn bà bị băng huyết, tất cả đều được Chúa Giêsu là mục tử chăm sóc chữa lành.
Những con chiên bị chết được Chúa cứu sống cho lành mạnh: đứa con gái ông Gairô, đứa con trai bà góa thành Naim, anh chàng Lagiarô bạn của Chúa, Chúa cứu chữa và thương xót những con chiên bị bệnh tật tinh thần như người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tan, Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Không những là chăm lo, cứu chữa mà Chúa còn hiến mạng sống vì đàn chiên của mình "không có tình yêu nào cao quý hơn là chết cho người mình yêu."
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn là mục tử tốt đối với chúng ta. Chúa không ngừng ban ơn chăm sóc chúng ta qua các Bí tích. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa không ngừng bằng đời sống thờ phượng Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chung quanh như Lời Chúa dạy.
Chúa nhật thứ tư Phục sinh bao giờ cũng là Chúa nhật Chúa Chiên Lành.
Có bao giờ anh chị em và các bạn tự dặt cho mình câu hỏi này: Bạn là ai? Tôi là ai? Tôi từ đâu: PS4-B89
Có bao giờ anh chị em và các bạn tự dặt cho mình câu hỏi này: Bạn là ai? Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ đi về đâu? Cuộc sống này có ý nghĩa gì?.....Có lẽ khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta sẽ cho rằng đấy là vấn đề xa lạ, trừu tượng, không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của tôi. Không xa lạ đâu. Có chăng là vì chúng ta quen sống thực dụng quá, cho nên chúng ta không để ý đến thôi. Nhưng đấy lại là một câu hỏi rất căn bản. Hay nói một cách khác Chúa Giêsu là ai đối với tôi?
Và Ngài đã trả lời chúng ta trong Chúa Nhật IV Phục sinh nầy: "Ta là Mục tử tốt lành. Ta biết các chiên ta " ( x.Yn 10,14). Nhưng cái biết của Chúa Giesu không phải chỉ là cái biết thuần tuý, mà là cái biết của con tim và bằng con tim. Khi Chúa Giêsu nói rằng: " Tôi biết chiên của tôi " , thì đấy không phải chỉ là cái biết thuần tuý của lý trí mà là cái biết của tình yêu. Cái biết của một người không ngại chung chạ, gần gũi với những kẻ tội lỗi và những kẻ bị loại trừ ra khỏi xã hội để cảm thông, chia sẻ và cứu chữa họ. Cái biết của một người cha đang đợi chờ dứa con đi hoang trở về. Cái biết của một người không cầm được nước mắt khi đứng trước cái chết của đứa con một bà goá thành Naim. Cái biết của một vì Thiên Chúa không ngại để quỳ xuống rửa chân cho đám học trò của mình như một tên đầy tớ vậy. Cái biết của một người chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì người khác và cho người khác được sống ... Chính vì thế mà Ngài nói thêm: " Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. " (Yn 10,10)
Chúa Giêsu là đấng duy nhất đem lại cho ta câu trả lời trọn vẹn nhất.
Như vậy, anh chị em và các bạn hỏi tôi, làm sao tôi có thể cảm nhận được chức năng Mục tử của Chúa Giêsu đây, khi mà cuộc sống tôi có biết bao nhiêu là khó khăn từ vật chất cho đến tinh thần? Làm sao chức năng mục tử của Chúa Giêsu được tiếp nối trong lịch sử nhân loại và trong mọi hoàn cảnh cửa cuộc sống con người. Chúa Giêsu đã nghĩ đến điều đó từ lâu. Cho nên Ngài đã để lại trong Hội Thánh những con người có khả năng chia sẻ và tiếp tục sứ mạng mục tử ấy.
Đó là các Giám mục, các Linh mục. Đúng như thế. Các Ngài là những người được mời gọi sống theo tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành để dẫn dắt đàn chiên Chúa hôm nay.
Sống tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành còn là tất cả những ai có trách nhiệm với cộng đoàn của mình: Cha mẹ không phải là mục tử cho con cái mình sao? Các giáo viên lại chẳng phải là những mục tử cho học trò của mình à? Và trong mối hiệp thông của Hội Thánh, của con người, chúng lại không có trách nhiệm với người bên cạnh mình hay sao. Nói cách khác, chúng ta lại chẳng phải là mục tử của họ hay sao? Một lời thăm hỏi, một lời dộng viên khích lệ, một ánh mắt cảm thông, một con tim biết rung động và thổn thức, một hành vi chia sẻ, một cử chỉ bái ái yêu thương... Tất cả chẳng là gì so với người khác , nhưng đấy lại là con tim , ánh mắt, việc làm cho một thế giới đang thiếu vắng tình yêu và một xã hội đang đói tình người Thưa anh chị em và các bạn, Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên nhân lành, nhân dịp xin anh chị em hãy chiêm ngắm lại chân dung của vị mục tử nhân lành Giêsu để chúng ta biến đổi cái nhìn và cách sống sao cho cuộc đời này được đẹp hơn cho mình và cho tha nhân.
Hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái: PS4-B90
1. Hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái, vì chăn chiên là nghề truyền thống của họ. Có lẽ hơn ai hết, họ hiểu rất rõ tấm lòng của người chăn chiên đối với đoàn chiên, nhất là người chăn chiên đó không phải là người chăn thuê, mà là người chủ của đàn chiên. Đức Giêsu đã mượn hình ảnh thân quen ấy để diễn tả tấm lòng của Người đối với dân Người, của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đức Giêsu thật là Mục tử nhân lành, cả cuộc đời của Người đã nhằm phục vụ cho đàn chiên: giảng dạy, chữa bệnh... rồi cuối cùng đã hiến cả mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10,11-15), Người hy sinh tính mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào.
2. Vì Người biết mình phải trở về cùng Cha, nên Người đã ủy thác sứ mạng của mình cho các Tông đồ, các môn đệ và những người kế vị các ngài tiếp tục được thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế (Lc 22,19 ). Như vậy, cũng như thời đã qua, hôm nay và mãi cho đến ngày tận thế Hội Thánh vẫn cần đến những người dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ để phục vụ Chúa, Giáo hội và tha nhân. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội còn dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
3. Có thể nói linh mục, tu sĩ là món quà hết sức đặc biệt mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta cũng biết dù sống đời sống hôn nhân gia đình hay dâng mình cho Chúa trong đời tu đều quý. Bởi trước mặt Chúa phẩm giá mọi người đều như nhau, điều Chúa muốn chúng ta lưu tâm là phải cố gắng chu toàn trong bậc sống của mình. Nhưng dầu sao, có thể nói dâng mình cho Chúa trong ơn gọi tu trì đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta phục vụ Chúa phục vụ Hội Thánh và tha nhân. Thiết nghĩ rằng những ai dấn thân vào đời sống tu trì, sẽ thấy cuộc đời không đơn điệu, mà dễ cảm nhận được cuộc sống đầy tràn ý nghĩa, thú vị. Dấn thân trong đời tu theo sát Đức Kitô không phải là một cách trốn chạy cuộc đời, mà là một sự dấn thân phục vụ theo gương của Người. Vì thế ai có thể đừng ngại dâng mình cho Chúa trong đời tu và hãy cầu nguyện càng ngày càng có nhiều người dấn thân trong ơn gọi này, bởi cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam và trên thế giới còn bao la: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít" (Mt 10,37).
4. Không phải chỉ các linh mục, tu sĩ là những người được mời gọi cách đặt biệt để tham gia vào sứ mạng của Đức Kitô, mục tử nhân lành, mà mọi người chúng ta qua Bí Tích Rửa Tội đều được mời gọi tham gia sứ mạng này.
Nhưng trước hết , chúng ta hãy lắng nghe theo tiếng vị Chủ Chăn đích thực của chúng ta là chính Đức Kitô, hãy nghe và giữ lời Người. Cũng đừng quên hãy nghe theo sự hướng dẫn của Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Người. Chúng ta dễ thấy những con chiên không nghe theo hướng dẫn của người chủ chăn thì dễ gặp thú dữ, dễ bị lạc đường... bề ngoài xem ra nó được tự do, nhưng lại đi đến chỗ bị thiệt thân. Vậy chúng ta đừng để mình là những con chiên lạc.
Kế đến , các Kitô hữu dù không phải là linh mục, tu sĩ nhưng tất cả đều được mời gọi tham gia vào vai trò mục tử của Đức Kitô: khi giới thiệu Thiên Chúa cho người khác, khi nhắc nhau sống đẹp lòng Người. Vợ chồng hãy là mục tử của nhau, cha mẹ hãy là mục tử của con cái, anh chị hãy là mục tử của các người em, bạn bè hãy là mục tử của nhau... Chúng ta dễ thấy có rất nhiều người giáo dân đã ý thức thực hiện điều này rất tốt. Khi thực hiện như thế chính là họ tham gia vào vai trò mục tử của các linh mục sở tại, của Giám Mục Địa Phận mà tất cả đều xuất phát từ vai trò Mục Tử của Đức Kitô.
5. Mừng lễ Đức Giêsu mục tử nhân lành hôm nay, đây là dịp rất tốt để mỗi người chúng ta suy nghĩ:
- Chúng ta có nhận ra Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân lành không ? Nếu ta tin nhận Người là vị Mục Tử nhân lành, hãy xem coi ta có vâng nghe theo lời Ngài dạy trong cuộc sống không ?
- Mỗi người trong chúng ta đã làm gì để tham gia vào sứ vụ của Đức Giêsu Mục Tử nhân lành ?
- Mỗi người cũng hãy xem lại, mình đã làm gì và sẽ làm gì để góp phần cho ơn gọi linh mục, tu sĩ ?
Đọc Thánh kinh người ta có thể nhận ra được rằng dân Do Thái cổ xưa là dân du mục. Vì: PS4-B91
Đọc Thánh kinh người ta có thể nhận ra được rằng dân Do Thái cổ xưa là dân du mục. Vì thế văn chương của họ, nghĩa là Thánh kinh Cựu ước, cũng mang sắc thái đời sống chăn nuôi. Đức Giêsu và các tông đồ cũng chịu ảnh hưởng của môi trường chăn nuôi.. Chúa dùng nhiều hình ảnh về đồng áng và chăn nuôi quen thuộc như lúa mì, cây nho, hạt giống, chiên cừu, chim chóc, hoa cỏ đồng nội để nói lên mối liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người và dạy họ bài học về đạo giáo. Những hình ảnh như người mục tử thổi sáo, hoặc vác chiên trên vai còn được tìm thấy trên tường vách những hang toại đạo.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa nói với ta: Ta biết chiên ta (Ga 10: 14). Cũng như người mục tử xưa kia biết đàn chiên của mình, biết con nào khoẻ mạnh, con nào đau yếu, con nào có đặc điểm gì, con nào bị thất lạc, Chúa cũng biết từng người. Chúa biết tư tưởng, ước muốn, cảm tình, hành động, tính nết - cả tính tốt và tính xấu - và nhu cầu của mỗi người. Đó chính là điều Chúa nói với ta qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: Trước khi tác thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi (Gr 1:5).
Để được thuộc về đàn chiên của Chúa, Chúa muốn ta biết Chúa như con chiên nhận biết tiếng người chăn và đi theo chủ chăn, mà không theo người lạ: Chiên Ta thì nhận biết Ta (Ga 10:14). Vậy biết Chúa có nghĩa là gì? Biết Chúa theo nghĩa Thánh kinh, không có nghĩa là chỉ nghe biết về Chúa qua việc đọc Thánh kinh. Biết Chúa theo ngôn ngữ Thánh kinh là mối liên hệ cá biệt giữa Thiên Chúa và dân Người do ơn thần linh khởi sự và việc ban tặng Lề luật và Thần trí khôn ngoan cho dân Người (Kn 7:7; 9) để họ có thể nhận biết được đường lối của Chúa. Biết Chúa là kinh nghiệm được những điều Chúa nói và những việc Chúa thực hiện trong thế giới và trong đời sống của họ. Đến thời Tân ước thì việc biết Chúa được hiểu là sự hiệp thông (1Ga 1:3) với Thiên Chúa nhờ đức tin và Phép Rửa tội.
Biết khác với việc biết về hay biết đến. Ta biết về người khác là do được kể lại hay biết đến họ là do đọc tiểu sử của họ. Còn nếu đã biết một người thì không cần nghe ai nói hoặc viết về họ, nghĩa là không cần trung gian của người thứ ba. Vợ chồng biết nhau thì không cần ai nói về vợ hay chồng mình, vì mối liên hệ vợ chồng là một thứ liên hệ thân mật và gần gũi nhất trong các thứ liên hệ của loài người. Hai người bạn cùng ăn một mâm, cùng nằm một chiếu cũng không cần nghe ai giới thiệu về bạn, vì bạn thân thường đi guốc trong bụng của nhau: biết ưu điểm cũng như khuyết điểm, khả năng, giới hạn và tình trạng sức khoẻ của bạn. Việc Đức Giêsu gọi ta là bạn hữu qua việc gọi các tông đồ là bạn, bao hàm việc Chúa muốn ta biết Chúa một cách gần gũi và thân mật, vì Người đã tỏ cho ta, qua các tông đồ, biết những điều Người đã nghe được nơi Chúa Cha (Ga 15:15).
Biết Chúa cũng khác với việc biết về Chúa. Người ta có thể biết nhiều về Thánh kinh và giáo lý của đạo Chúa qua việc học hỏi và đọc sách, nhưng không nhất thiết người ta đã biết Chúa và tin Chúa. Có những người là giáo sư hay học giả Thánh kinh, nhưng họ không phải là những người tin Chúa. Họ biết về Thánh kinh, biết về đạo Chúa, nhưng thực ra không biết Chúa.
Bước khởi đầu đưa đến việc biết Chúa là việc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn. Chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu như kiêu căng, tự phụ, ham danh, ích kỷ, gian tham, xảo trá, nhục dục, bỏ vạ, cáo gian, bịa đặt, vu khống... Một tâm hồn đầy ắp những chướng ngại vật thì không có lối cho Chúa đi vào và không còn chỗ cho Chúa ở lại. Chướng ngại vật trong tâm hồn làm cản trở tác động của ơn thánh Chúa. Kết quả nội tại của việc loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là lòng ăn năn sám hối tội lỗi và nhu cầu cần Chúa. Và đó là bước khởi đầu cho tiến trình của việc biết Chúa. Tham dự và dấn thân vào những phong trào hay hội đoàn canh tân đời sống thiêng liêng cũng giúp dễ dàng hoá cho tiến trình của sự nhận biết này.
Ta biết Chúa khi ta xác tín rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người trên thập giá đem lại cho cá nhân ơn tha thứ và cứu độ. Cũng vì xác tín như vậy nên thánh Phêrô mới có thể quả quyết: Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4:12). Ta nhận biết Chúa qua những công trình sáng tạo của Người trong vũ trụ, những kỳ công của tạo hoá, những vẻ đẹp của thiên nhiên. Ta biết Chúa khi ta tin trong lòng rằng Thiên Chúa Ba ngôi là Đấng tạo dựng, cứu độ và thánh hoá và yêu thương ta như con thảo. Đó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người mà thánh Gioan muốn người tín hữu cảm nghiệm được: Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho ta được gọi là con Thiên Chúa (1Ga 3:1). Ta nhận biết Chúa qua những biến cố xẩy ra trong đời sống cá nhân. Ta nhận biết Chúa khi ta cảm nhận được rằng Người biến đổi cuộc sống ta, cho ta được thoát khỏi tội lỗi, được tự do làm con cái Chúa. Ta nhận biết Chúa khi ta xác tín trong con tim rằng chính Người đã đưa dẫn ta qua những nẻo đường của cuộc sống, những hiểm nguy và những cạm bẫy của đời.
Biết Chúa là việc cảm nghiệm được rằng những đường đi nước bước của đời mình nằm trong chương trình quan phòng của Chúa. Trước khi đi tới giai đoạn biết Chúa, ta có thể trải qua những giai đoạn như khắc khoải, phàn nàn, bất mãn, than thân trách phận. Nếu như vậy, ta nguyện xin Chúa giải thoát mình khỏi thế này, thế nọ; hoặc xin Chúa cho mình được thế nọ, thế kia. Có khi Chúa dìm ta xuống bùn đen, vực thẳm để rồi lại cất nhắc ta lên, để dạy ta bài học khiêm tốn. Đó là cách Chúa bảo ta: đừng có lên mặt huênh hoang, hách xì xằng, nhưng phải biết khiêm hạ, tuỳ thuộc vào Chúa.
Đến thời điểm nào đó, ta sẽ thấy mình ngoan ngoãn đầu hàng, không muốn kháng cự nữa, nhưng dâng lên Chúa ngay cả những điều mà trước kia mình đã phấn đấu, khắc khoải, phàn nàn, bất mãn, than thân trách phận để cho Chúa làm chủ. Bây giờ thì ta dâng lên Chúa tất cả: thân xác, ngũ quan, tâm trí, linh hồn cùng với quan năng, khiếm khuyết, ngay cả những tự ti mặc cảm và tính nết khó chịu, để xin Chúa sửa sang và uốn nắn theo đường hướng của Người. Lúc này ta cảm nghiệm được rằng có bàn tay Chúa hướng dẫn đời mình từng bước và từng bước đường. Cảm nghiệm của việc biết Chúa giống như cảm nghiệm của hai người yêu, dù có cách mặt mà không xa lòng: vẫn nhớ nhung nhau, nhớ bóng dáng người yêu, ánh mắt người yêu, tiếng thì thầm của người yêu. Biết Chúa, yêu Chúa và cảm thấy được Chúa yêu, ta cũng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, bóng dáng của Chúa, tiếng thì thầm của Chúa, cùng với sự bao bọc, ấp ủ và che chở của Chúa.
Truyện kể lại, vào dịp lễ Giáng sinh, khi thánh Hiêrônimô đang cầu nguyện, suy gẫm về mầu nhiệm Nhập thể, Chúa hiện ra hỏi xem thánh nhân có gì làm quà dâng cho Chúa không? Thánh Hiêrônimô thưa: xin dâng lên Chúa trái tim của thánh nhân. Chúa hỏi: Còn gì nữa không? Hiêrônimô thưa là xin dâng lên Chúa bản dịch Thánh kinh từ nguyên văn Hi lạp sang La ngữ được gọi là bản phổ thông Vulgata. Chúa lại hỏi: còn gì nữa chứ? Thánh nhân thưa: đâu còn gì nữa. Chúa bảo còn tội lỗi của con thì sao? Thánh Hiêrônimô đáp: đâu dám dâng lên Chúa của xấu đó. Chúa bảo cứ dâng lên Chúa để xin được luyện lọc, thanh tẩy và tha thứ. Tội gì của thánh Hiêrônimô, thì ta không biết và không cần biết. Còn tội nóng tính của thánh Hiêrônimô thì giới học giả Thánh kinh và ai đọc lịch sử thánh nhân thì đều biết cả. Dễ nóng tính, thánh Hiêrônimô cũng dễ hối hận và mau mắn làm việc đền tội. Có vị giáo hoàng thời Phục hưng, khi thấy hình thánh Hiêrônimô cầm hòn đá đấm vào ngực ăn năn tội với nhận xét: Cầm hòn đá là việc làm tốt cho ông để tỏ lòng sám hối, nếu không, Giáo hội không bao giờ phong thánh cho ông đâu. (Farmer, D. H. The Oxford Dictionary of Saints, second Edition. Oxford, New York. Oxford University Press, 1987, p. 225.)
Biết về Chúa, về Thánh kinh hay về đạo Chúa, người ta vẫn có thể là người ngoại cuộc. Còn biết Chúa là khi nào ta mời Chúa đi vào đời ta, để ta được ở trong cuộc, nghĩa là ở trong nội cung và nội thất của nhà Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn nhận biết Chúa:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn cho người môn đệ Chúa
được nhận biết Chúa như con chiên biết chủ chăn.
Xin cho con biết loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn
và tìm sống theo thánh ý Chúa
để con nhận biết tiếng Chúa nói với con.
Xin cho con cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa,
cùng với tình yêu của Chúa,
trong đời sống con và xung quanh con. Amen.
Hình ảnh của những người Pharisêu quá quen thuộc với mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu vẫn thường: PS4-B92
Hình ảnh của những người Pharisêu quá quen thuộc với mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu vẫn thường lên án, chỉ trích thái độ của người Pharisiêu. Lẽ ra, người Pharisiêu có nhiệm vụ hướng dẫn anh mù nhưng họ lại khai trừ anh. Đức Giêsu khác những người Pharisiêu, Đức Giêsu đã hướng dẫn anh mù. Những người Pharisiêu chỉ là những người chăn thuê còn chính Đức Giêsu mới là mục tử gương mẫu. Người mục tử gương mẫu như Chúa Giêsu ấy đã giữ gìn cho chiên khỏi chết và hiệp nhất các chiên lại. Đặc tính của Chúa Giêsu là làm cho chiên được sống và được sống dồi dào và gìn giữ cho đoàn chiên được hiệp nhất.
Thánh lễ Chúa Chiên Lành ngày hôm nay rất ý nghĩa cho mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta, người ở vai trò con chiên, người ở vai trò mục tử.
Mục tử là một hình ảnh quen thuộc đối với dân Israel cả trong thời kỳ họ còn sống nghề du mục lẫn trong thời kỳ họ đã định cư: thời du mục thì họ chuyên chăn nuôi; đến thời định cư hẳn trong xừ Palestina thì tuy họ đã chuyển sang nghề nông nhưng vẫn còn giữ nghề chăn nuôi.
Trong chăn nuôi, vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: a/ Không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con; b/ Muốn nuôi sống một mớ chiên đông như thế, không phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải tìm những đồng cỏ lớn, phải tính sẵn trong đầu xem khi đoàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn chúng tới đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống (x. St 13,1-9: đầy tớ của Loth và của Abraham dành nhau những đồng cỏ và giếng nước); c/ Ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyên đe dọa như trộm cướp và thú dữ. Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc bị chết.
Trong bối cảnh trên, hình ảnh mục tử rất đẹp: thân thiết, tận tụy, can trường, chu đáo v.v. Bởi đó Thánh Kinh thường dùng hình ảnh này để mô tả những nhân vật quan trọng như Môisê (Xh 3,1-2 15,22-27...), các nhà lãnh đạo dân như vua, tư tế, thẩm phán, ngôn sứ (Gr 10,21; 12,10; Ed 34; Is 36,11 Dcr 11,15-17...). Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23 80), dân Israel được coi là đoàn chiên của Ngài (Tv 80,2), cuộc Xuất hành là việc Thiên Chúa dẫn dắt đoàn chiên Israel ấy qua những nơi khó khăn để tới chốn an lành (Tv 78,52, 77; Is 63,11-14). Và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là mục tử (Ed 34; Dcr 13,7-9...)
Mô tả Thiên Chúa và Đấng Messia bằng hình ảnh mục tử thì rất đẹp, nhưng mô tả dân Thiên Chúa như đoàn chiên thì không được đẹp lắm vì hình ảnh đoàn chiên gợi lên ý tưởng một đám đông trong đó những cá nhân không có cá tính mà chỉ như một con số bị mất hút trong đa số. Bởi thế trong đoạn Tin Mừng này Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh đoàn chiên nhưng Ngài làm nổi bật tính cá nhân riêng biệt của từng con chiên: "Ta biết các chiên của ta và các chiên của Ta biết Ta" (c 14).
"Ta là mục tử": Trong Tin Mừng Ga nhiều lần Đức Giêsu dùng công thức "Ta là". Những lần như thế không phải chỉ là một lời tự xưng suông mà còn hàm chứa một mặc khải cho người ta hiểu thêm về bản thân Ngài. Hơn nữa công thức này mang âm hưởng lời Giavê tự mặc khải (St 3,13-14). Như vậy khi Đức Giêsu nói "Ta là mục tử" thì ý nghĩa là bản chất của Ngài chính là mục tử, vì thế Ngài đã, đang và sẽ mãi mãi là mục tử.
"Ta là mục tử tốt": Tính từ hy lạp kalos vừa có nghĩa "tốt" (bon) vừa có nghĩa "đẹp" (beau). "Tốt" diễn tả tấm lòng, còn "đẹp" diễn tả một hình ảnh tuyệt vời, mẫu mực, lý tưởng. Vì thế ta cũng có thể dịch "Ta là mục tử đẹp".- - - "Mục tử đẹp thí mạng sống mình vì chiên": Nét đặc thù phân biệt ai là mục tử đẹp là nếu người đó dám thí mạng sống mình vì đàn chiên. Ý tưởng này được lặp lại tới 4 lần trong đoạn Tin Mừng ngắn này (cc 11.15.17.18). Chính khi thí mạng sống mình, mục tử đẹp chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm và lòng vô vụ lợi tuyệt đối khi đón nhận và chăm sóc đàn chiên. Đán chiên này chính là "xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi", do đó bất cứ điều gì đụng tới đàn chiên đều đụng tới bản thân mục tử, bất cứ nguy hiểm nào đe dọa đàn chiên đều động viên toàn thể con người mục tử, vì người mục tử đẹp phục vụ đàn chiên, chứ không phải là kẻ chăn thuê.
Kẻ chăn thuê không phải là chủ đàn chiên nên khi gặp nguy hiểm thì lo bảo vệ thân mình chứ không bảo vệ đàn chiên, không dám thí mạng vì đàn chiên. Cũng như ở Êd 34, ở đây Đức Giêsu ám chỉ các nhà lãnh đạo dân Israel (tư tế, luật sĩ v.v.) Họ khư khư bám lấy quyền lãnh đạo dân chỉ vì tư lợi. Họ không phục vụ chiên trái lại bắt chiên phục vụ họ. Khi gặp nguy hiểm, họ không màng chi sự an toàn của chiên mà chỉ lo cho sự an toàn của họ, như lời thượng tế Caipha tuyên bố về Đức Giêsu "Nếu ta cứ để yên như thế thì thiên hạ sẽ tin vào ông ấy hết, rồi quân Rôma sẽ đến tiêu trừ cả nơi thánh của ta và dân ta nữa" (11,48).
Mục tử nhân lành (hoặc, đúng hơn phải nói là, gương mẫu) đi trước đàn chiên, hứng lấy mọi nguy hiểm, để cứu vớt đàn chiên, dù phải hy sinh mạng sống. Như vậy, Đa-vít là một mục tử gương mẫu: khi sư tử đến bắt một con chiên, ông đã rượt theo, đánh sư tử và giựt con chiên lại (1 Sm 17,34-35).
Hình ảnh "mục tử nhân lành" là một hình ảnh quen thuộc trong Thánh kinh. Trong Cựu Ước, hình ảnh ấy được áp dụng khi thì cho Thiên Chúa (Tv 23,1; Is 40,11). Khi thì cho vua Mêsia (2 Sm 7,8; Tv 78,70-72), khi lại cho những nhà chức trách trong dân Israel (Gr 2,8; 10,21; 23,1-8; Ed 34). Trong các sách nhất lãm, chúng ta cũng gặp những hình ảnh ấy (Mc 6,34; 14,27; Mt 9,36; 18,12-14; 25,32; 26,31; Lc 15,3-7).
Đức Giê-su thực hiện một cách hoàn hảo chức năng mục tử, vì Người là Con Người chia sẻ thân phận con người để dẫn đưa họ đến cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu chính là mẫu gương tuyệt vời cho các mục tử.
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có những mục tử sống hết mình vì đàn chiên nhưng cũng có những mục tử chăn thuê.
Tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ vì tôi đang được sống với một vị mục tử "chính hiệu con nai vàng" ở mảnh đất truyền giáo nghèo. Phải nói rằng Ngài không có cái tội gì ngoài cái tội thương người nghèo. Cuộc sống của Ngài đơn sơ đạm bạc, chỉ với chiếc xe cọc cạch là phương tiện tới lui. Nhiều lần nhiều lúc bảo Ngài đổi xe nhưng cứ khất lần khất lựa.
Lần nọ, đoàn cứu trợ từ thiện kia gửi 100 phần quà cho vùng truyền giáo nghèo. Xin thêm thì ngại mà thiếu thì người dân so bì, thế là Ngài đã cố gắng hết sức để tìm thêm 50 phần nữa để lo cho tạm gọi là nhu cầu của người nghèo tại chỗ.
Nhìn dáng hao gầy của cha đặc trách giáo điểm truyền giáo chắc có lẽ mọi người nhìn thấy được đó là kết qủa của một cuộc đời sống cho chiên và vì chiên.
Nói đến cha đặc trách mà không nói đến giáo dân quả là một điều thiếu sót lớn. Có thể nói cha đặc trách của tôi là một mục tử tuyệt vời nhưng đối lại, con chiên của Ngài ở đây làm sao ấy !
Ngài vốn dĩ hiền lành, chịu thương chịu khó và chịu đựng thế nhưng vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh - ngày Giáo Hội kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể và truyền sứ vụ linh mục - nhưng khi nhìn tới nhìn lui nhà thờ chỉ có 80 giáo dân (tổng số giáo dân là 600) Ngài mới buông miệng nói một câu là Ngài cảm thấy buồn ! Không buồn sao được khi mà cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã gần như hiến mạng sống của mình ở vùng đất nghèo này mà giáo dân cư xử với Ngài như vậy. Những ngày Ngài đau yếu bệnh tật chẳng thấy ai ngó ngàng gì đến. Dường như con chiên chỉ đến để nhận tình thương từ mục tử và không có chiều ngược lại.
Đau đớn hơn là lần nọ, Cha đặc trách xây cái nhà mát ở, có vài mạng vào phụ Ngài để dựng cái nhà mát ấy. Ít lâu sau, cha đặc trách cũ cũng làm nhà mát và một mớ giáo dân hăng hái xuống để giúp cha xứ cũ dù hai giáo điểm cách nhau trên dưới 50 km. Nhìn cách hành xử của con chiên ở đây tôi thấy làm sao đấy, còn Ngài, Ngài bảo là "cổ võ cho họ đi để sống tinh thần truyền giáo !".
Vâng ! Một linh mục thánh thiện như Ngài thì có cái nhìn như thế nhưng thật sự đau đấy chứ ! Giáo điểm nhà thì không thấy vào giúp mà đi giúp giáo điểm bạn !
Không chỉ có như vậy, Tết Nguyên Đán vừa rồi, sau khi nhận quà, vừa bước ra khỏi cửa nhà thờ thì lời ra tiếng vào ngay. Nào là cha cho nhiều, cha cho ít. .. Nào là người này không xứng đáng để nhận, người kia mới đáng để nhận ... Có để đi cho cũng phức tạp chứ không phải cứ có là cho một cách vô tư.
Và không chỉ dừng lại ở chuyện hơn thua nhưng còn chuyện miệt thị người này siêng đi lễ, người kia bỏ nhà thờ cũng là điểm nổi bật ở vùng truyền giáo nghèo này. Những ai lỡ bận công chuyện bỏ nhà thờ chừng vài lần là sẽ nghe lời ra tiếng vào ngay.
Hình ảnh của con chiên xứ đạo này bỗng nhiên lại tô điểm thêm nét hiền lành và khiêm nhường của vị mục tử nhân lành. Không phải ca tụng cha đặc trách là thánh hay phong thánh cho Ngài nhưng thật sự khi nhìn vào đời sống của Ngài, Ngài quả là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong muốn.
Hình ảnh của cha đặc trách đây có lẽ là một mẫu gương nho nhỏ cho những ai sống đời mục tử.
Hình ảnh của giáo dân giáo điểm này cũng là một bài học cho những con chiên.
Sống trên đời ai cũng cần vật chất cả, đành biết là vậy, nhất là với những người nghèo nhưng cùng đích cuộc đời này đâu phải là vật chất. Cuộc đời này người ta đâu chỉ "sống bằng cơm bánh" như Chúa Giêsu đã từng nói. Cuộc đời này còn đó đời sống của tâm linh, đời sống của tinh thần.
Chỉ vì yêu, Cha đặc trách giáo điểm mới sống xả thân hết mình như vậy. Thật ra thì Cha đặc trách cũng đâu có làm gì ra tiền, Cha đặc trách cũng chạy đầu này đầu kia để kiếm chút gì đó về cho con cái. Tất cả là vì yêu và vì yêu.
Ngược lại, với giáo dân nghèo, ta có thể nghèo vật chất nhưng không thể nào nghèo tinh thần, không thể nào nghèo tình yêu được. Một lời thăm hỏi, một nụ cười, một chút việc nho nhỏ trong nhà thờ cũng đủ để an ủi cho vị truyền giáo đơn sơ này. Thế nhưng làm gì có ! Cha đặc trách đau lưng, đau bao tử giáo dân nào có biết. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách vẫn âm thầm lặng lẽ làm công việc của một ông từ đi đóng cổng thờ, đi quét chuông ...
Cha đặc trách đã làm hết lòng mình, đã sống hết sức mình nhưng chưa bao giờ Ngài than thân trách phận. Tất cả cũng xuề xoà cho xong vì lòng thương dân nghèo.
Bài học chủ chăn nhân lành của vị truyền giáo ở giáo điểm truyền giáo này là một bài học hay của sự dấn thân, sự chịu đựng. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách sống như một "con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt".
Nguyện xin Chúa Giêsu là vị Mục tử tối cao ban nhiều ơn lành để Giáo Hội ngày càng có thêm những vị mục tử sống hết mình vì con chiên như vị mục tử ở vùng truyền giáo nghèo này.
Và cũng nguyện xin Chúa Giêsu biến đổi lòng con chiên ở mảnh đất này để họ ngày mỗi ngày yêu thương đùm bọc lẫn nhau hơn và nhất là yêu thương vị chủ chăn hết lòng yêu thương họ hơn.
Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chính Đức Kitô: PS4-B93
Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chính Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga10,11). Ngài đến trong thế gian với sứ mệnh quy tụ tất cả các con chiên về một mối: ngõ hầu chỉ có một Chủ chiên duy nhất và một đàn chiên duy nhất.
Qua thánh Phêrô Tông Đồ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người cho Giáo Hội (xem Ga 21,15-17). Theo gương Chúa Kitô Mục Tử, Giáo Hội không ngừng dấn thân trong việc chăm sóc đàn chiên. Vào mọi nơi mọi thời, không thiếu những tấm gương của những vị mục tử trong Giáo Hội đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của mình để sống chết vì đàn chiên.
Ý thức được trách nhiệm cao cả của mình, Giáo Hội luôn luôn kêu mời các bạn trẻ nam nữ đáp lại lời mời gọi của Vị Mục Tử nhân lành biết quảng đại dấn thân trên con đường tận hiến để phục vụ Giáo Hội của Chúa Kitô và tha nhân. Vì vậy, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh hàng năm để cầu nguyện cho ơn gọi thánh hiến nói chung và ơn gọi linh mục nói riêng.
Việc Chúa chọn gọi luôn đồng nghĩa với việc Chúa trao phó một sứ mạng đi kèm. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ để các ông đến ở với Người và được Người sai đi rao giảng (xem Mc 2,14). Được Chúa gọi luôn là một màu nhiệm vượt qua sự so đo tính toán của con người. Chúa gọi ai đó cộng tác với Người không phải vì họ tài giỏi. Người đã chọn các Tông Đồ vốn là những kẻ chài lưới tầm thường và ít học. Nơi họ vẫn còn mang nặng tính vụ lợi hơn thiệt (xem Mt 19,27), tranh cãi về địa vị thứ bậc (xem Mc 9,34), ham hố danh vọng (xem Mt 20,21), và thậm chí cũng có cả tội bất trung như Phêrô chối Chúa (xem Mc 14,71). Việc chọn và gọi luôn là sáng kiếng riêng của Chúa và cũng là cách thức để Chúa chia sẻ sứ mạng của Ngài với những người được yêu mến và được tuyển chọn.
Việc Chúa trao phó sứ mệnh cho ai đó luôn đi kèm theo lời hứa và phương tiện để thi hành (xem Mt 28, 19-20). Các Tông Đồ đã được Chúa Giêsu hứa sai phái Thánh Thần đến để thánh hóa, dạy dỗ, ban sức mạnh cũng như ơn khôn ngoan hiểu biết (xem Ga 16,13).
Điều này đã được kiểm chứng nơi bài đọc thứ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc thánh Phêrô và Gioan bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng. Hai ông bị kết án với tội danh vì đã chữa lành cho một người què từ khi lọt lòng mẹ ngay tại cửa Đền Thờ và vì đã lôi kéo được chừng năm ngàn người tin vào lời rao giảng của các ông. Chính nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà một Phêrô khiếp đảm ẩn mình trong gian phòng cửa đóng then cài thành một Phêrô can đảm xuất hiện trước dân chúng. Cũng nhờ Chúa Thánh Thần, từ một anh chàng chài lưới quê mùa năm xưa, Phêrô đã trở nên người người giảng giải hết sức lưu loát thu hút được rất nhiều người theo đạo. Chúa Thánh Thần cũng biến đổi một Phêrô chối Thầy thành một
Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Kitô bị đóng đinh và nay đã phục sinh để trở nên nguồn ơn cứu độ duy nhất cho nhân loại.
Thật kỳ diệu. Chúa Thánh Thần đã hoán chuyển vị trí của một Phêrô bị cáo trong phiên tòa người đời thành một Phêrô thẩm phán để vạch tội giết Đấng Công Chính của họ, để kêu gọi họ sám hối và đặt niềm tin vào Đấng mà chính họ đã đóng đinh vào thập giá.
Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta được sát nhập vào thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta được sinh ra trong Thánh Thần để tham gia vào sứ mệnh và các chức năng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Kitô. Trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu là được mời gọi để trở nên những chứng nhân cho một Đức Kitô đã bị kết án, bị đóng đinh trên thập giá, đã chết một cách bi thảm và đã Phục Sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Xin soi lòng mở trí chúng con để ánh sáng Phục Sinh xua tan mọi u mê tăm tối. Xin hãy canh tân bộ mặt trái đất. Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa xin hãy ngự đến vì chúng con đang mong chờ Ngài.
Các tông đồ là những người đã được thấy và đụng chạm vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì thế: PS4-B94
Các tông đồ là những người đã được thấy và đụng chạm vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì thế, sứ mạng của các tông đồ là làm chứng điều mắt các ngài đã thấy và tai các ngài đã nghe: Đức Giêsu đã phục sinh. Chỉ nhờ Đức Giêsu phục sinh mà tất cả con người được cứu độ.
1. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết
Hôm nay, qua dịp chữa lành người tàn tật và rồi bị tra hỏi, Phêrô có dịp rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh trước mặt những người lãnh đạo dân Do Thái. Phêrô nói: "Xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nazaret, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị" (Cv.4, 10). Phêrô không chủ ý kết tội những người đóng đinh Đức Giêsu, nhưng ngài xác định rõ Đức Giêsu là Đấng chính các vị lãnh đạo dân đã đóng đinh Ngài.
Phêrô còn rao giảng: "ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ danh đó mà tất cả chúng ta được cứu độ" (Cv.4, 12). Theo lời rao giảng của Phêrô, Đức Giêsu là người của Thiên Chúa; và Thiên Chúa đã dùng Ngài là phương tiện duy nhất cứu độ con người. Từ ngữ "phương tiện cứu độ duy nhất" ở đây có thể được hiểu theo nghĩa, nếu có một phương tiện cứu độ nào đó, thì vẫn nhờ và qua Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, phải chăng chỉ vì Thiên Chúa muốn vậy? Phải chăng Đức Giêsu cũng chỉ là một người như bao người khác, như bao trung gian khác, hay nơi Đức Giêsu còn có điều gì khác? Thiên Chúa muốn Đức Giêsu là trung gian cứu độ duy nhất, vì Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu là mục tử tốt lành
Đức Giêsu yêu thương con người. Ngài dùng hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái để diễn tả tình yêu và sự quan tâm của Ngài đối với con người. Ngài như một mục tử chăn chiên, Ngài muốn con người sống an lành và triển nở, như một mục tử tốt lành bảo vệ chiên khỏi nguy hiểm và chăn dắt để chiên được no đủ. Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh và nhiều cách để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người. Hình ảnh cây nho cành nho cũng là một hình ảnh rất thân thương được dùng để diễn tả tương quan giữa Đức Giêsu và con người.
Người chăn chiên tốt, là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga.10, 11); Đức Giêsu là người đã hiến mạng sống vì bạn hữu (Ga.15, 13). Bí tích Thánh Thể diễn tả cách thật đặc biệt tình yêu của Đức Giêsu đối với con người. Đức Giêsu yêu con người đến độ dám chết cho con người, dám hy sinh tất cả để con người được sống. Đức Giêsu là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Thiên Chúa yêu thương con người một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Ngày nay Thiên Chúa vẫn dùng nhiều người như dấu chỉ Ngài hiện diện và yêu thương con người hiện tại. Trong Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội cho tín hữu nghe bài phúc âm về Chúa Chiên Lành; và Giáo Hội cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Xin Chúa tiếp tục khơi dậy và đánh động, để ngày nay có nhiều người quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh em mình.
3. Chúng ta là con Thiên Chúa
Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng và sinh ra qua cha mẹ mình. Một khi người cha người mẹ sinh ra con, cho dù người con đó chấp nhận hay phủ nhận, kính trọng hay khinh thường, thì cha mẹ người đó vẫn là cha mẹ người đó; vì thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, cho dù người đó có biết hay không, có chấp nhận hay không, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, của Kitô hữu và của cả những người đang theo bất kỳ một tôn giáo nào.
Nếu vậy, Đức Giêsu Phục Sinh thêm gì cho hiểu biết và tương quan giữa con người và Thiên Chúa? Một khi người ta nhận ra chân tướng của Đức Giêsu, người ta sẽ nhận ra tương quan rất đặc biệt của Thiên Chúa đối với con người. Nếu Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, hẳn Thiên Chúa phải yêu thương con người vô cùng nên Ngài mới cho Con Ngài nhập thể làm người. Con người không phải là tạo vật tầm thường, nhưng con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa, chính vì thế Lời Thiên Chúa mới nhập thể làm người. Cái chết ô nhục của Đức Giêsu trên thập giá, làm người ta còn hiểu hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Con người là gì, mà Thiên Chúa đã cam chịu để con người hành hạ Con của Ngài như vậy!
Chính Đức Giêsu, theo tin mừng Yoan, cũng khẳng định Thiên Chúa yêu thương con người như yêu chính Ngài (Ga.17, 23.20). Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định Ngài yêu thương con người như Thiên Chúa yêu thương Ngài (Ga.15, 9). Một người có thể là con nhưng không được yêu thương, chẳng hạn có những người cha người mẹ bỏ con mình. Qua và nhờ Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Giêsu, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa.
Chúa Nhật 4 Phục Sinh hôm nay Hội Thánh muốn các Kitô hữu ý thức về tình yêu Thiên Chúa: PS4-B95
Chúa Nhật 4 Phục Sinh hôm nay Hội Thánh muốn các Kitô hữu ý thức về tình yêu Thiên Chúa nên chọn ngày này là lễ Chúa Chiên Lành, vì Người là Mục Tử tốt lành. Thật vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra tiêu chuẩn về người mục tử như sau: « Biết chiên từng con một...hiến mạng sống vì đoàn chiên » khác hẳn với người chăn thuê, khi thấy sói thì bỏ chiên mà chạy.. Tình yêu hiến mạng của Ngừơi là tình yêu tột đỉnh « yêu đến cùng ». Cho nên cái chết của Người không bất ngờ mà là tự hiến để diễn tả tình yêu, tình yêu này đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên chứ không chung chung, biết tường tận và làm cho chiên no thỏa bên đồng cỏ xanh tươi và suối nước mát.
Tin Mừng Thánh Gioan giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đã là người Mục Tử tốt lành thực sự, Người tự nguyện đứng mũi chịu xào để dẫn đưa đoàn chiên, bảo vệ và hiến mạng sống cho đoàn chiên khỏi nguy tử. Ngay từ đầu đời công khai Chúa Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả giới thiệu « Đây chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian »(Jn.1,29), rồi trong tiệc cưới Canna, Chúa Giêsu cũng ý thức sứ mạng của mình « giờ tôi chưa đến »(Jn.2,4), và khi vào đền thờ Người cũng nghĩ đến cái chết tự hiến « hãy phá đền thờ này đi... »(Jn.2,19-22). Cả trong cuộc dạ đàm với Nicôdêmô, Người đã nói cho ông hay về cái chết, cách Người chết và mục đích của đời Người »(Jn.3,14-15), và với người phụ nữ Samari cũng thế, Chúa Giêsu nói đến nước mà Người sẽ ban từ cạnh sườn Người bị đâm thâu(Jn.4,14-15).
Khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều Người lại nói tới bánh Hằng Sống và việc ăn thịt, uống máu Người(Jn.6,51-54) và lời tiên tri của Caipha « thà một người chết thay cho toàn dân »(Jn.11,50-53). Tất cả những lời nói trên Chúa Giêsu đều muốn nói đến cái chết tự nguyện. Và cuối đời Đức Giêsu càng nói nhiều hơn về cái chết tự hiến đó, trong dịp xức dầu ở Bêtania(Jn.12,7), khi vào thành Jêrusalem long trọng (Jn.12,27-33), lúc rửa chân vào bữa ăn cuối cùng(Jn13-17), đặc biệt là lúc Chúa Giêsu bị bắt(Jn.18,1-12). Cái chết tự hiến đã báo trước chứ không bất ngờ, không phải ép buộc...
Trong suốt cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đều cho thấy Người tự hiến mình, vì vậy Chúa Giêsu là chủ chăn « điên rồ » có một không hai. Tất cả những điều Người nói và làm là muốn cho chúng ta nhận ra Thiên Chúa yêu ta. Khi ý thức Thiên Chúa yêu chúng ta và ban nhiều thứ thì chúng ta càng hạnh phúc bấy nhiêu. Nếu một khi chúng ta còn cảm thấy khổ là lúc đó chúng ta chưa cảm nghiệm được tình Chúa yêu ta. Thánh Phaolô còn mạnh mẽ xác tín rằng: Thiên Chúa yêu ta khi ta còn là tội nhân, là thù địch với Người(Rm.6,7), chúng ta không đáng Chúa yêu, nhưng vì Chúa đã yêu chúng ta nên Người làm cho chúng ta đáng yêu, Người yêu thương ta bằng tình yêu vui mừng chứ không rầy la khiển trách khi ta sa ngã, như người mục tử khi tìm thấy chiên lạc đã âu yếm vác nó lên vai.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành cho đoàn chiên của Người, Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người tha thiết xin chúng ta hãy cầu xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thánh thiện hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn và nhất là nên giống Chúa hơn: Người mục tử nhân hậu và bao dung, vị tha và vô vị lợi, hiền lành và khiêm tốn, biết sẵn sàng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.
Lạy Chúa, xin cho giới trẻ hôm nay biết nhận ra Chúa Giêsu là người tình tuyệt vời, là thần tượng duy nhất của họ, để họ sẵn sàng can đảm hi sinh tất cả mà đón nhận lời mời gọi yêu thương của Chúa, trở nên những người phục vụ và tiếp nối công trình cứu độ của Chúa qua ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Đối với những người sống ở các miền quê có chăn nuôi những đàn súc vật lớn, như: Bò: PS4-B96
Đối với những người sống ở các miền quê có chăn nuôi những đàn súc vật lớn, như: Bò, chiên, cừu, v.v... thì hình ảnh « người mục đồng và đoàn vật » hay nói theo danh từ Kinh Thánh thường dùng: « Người mục tử và đoàn chiên », « chủ chăn và đoàn chiên », là một hình ảnh hoàn toàn quen thuộc, gắn liền với cuộc sống hằng ngày của họ. Cách đây chưa lâu, có một bạn thanh niên đã phát biểu trong giờ chia sẻ Kinh Thánh ở hội đường giáo xứ nọ như sau: « Theo thiển ý, tôi nhận thấy bài Phúc Âm nói về chủ chăn và đoàn chiên là không đúng. Vì trong đó tôi, một người giáo dân, được coi như là một chú chiên. Thành thực mà nói, tôi không bao giờ chấp nhận được điều đó ! »
Người bạn trẻ của chúng ta đã có cảm nghĩ như vậy, và có lẽ trong chúng ta cũng có người nghĩ như vậy, bởi vì một hình ảnh quá đẹp và thân thương như thế trải qua bao thế kỷ đã bị làm lệch lạc méo mó đi, do người ta chỉ trinh bày và đề cập tới một vài khía cạnh nào đó của nó. Và sự hiểu làm thật tai hại: Những người giáo dân bị hạ thấp xuống thành đoàn chiên gia súc, còn các cha xứ lại được đề cao là mục tử, là chủ chăn ! Theo cách đơn giản hóa như thế, người ta có thể nêu ra một câu hỏi châm biếm: Tại sao Đức Giêsu được gọi là « mục tử », còn các Đức Giám Mục trong các Giáo phận lại được gọi là « mục tử thượng cấp» ?
Dĩ nhiên, không một vị Linh mục Quản xứ nào, không một vị Giám mục hay một vị Giáo Hoàng nào còn nghi ngờ về sự thật: chỉ một mình Đức Giêsu mới là người « Mục Tử Nhân Lành », Đấng vượt trên mọi « mục tử thượng cấp » cũng như mọi « mục tử hạ cấp », và là mẫu mực cho mọi mục tử khác phải noi theo, phải học hỏi !
Hình ảnh « Người chủ chăn » hay « Người chăn chiên » là một hình ảnh kỳ cựu, đã có từ lâu đời như chính nền văn hóa nhân loại vậy. Trước khi con người biết sống định cư, biết cày cấy và biết họp thành làng mạc, con người đã sống đời du mục nay đây mai đó với đoàn vật, như bò, chiên, cừu. Bổn phận chính của người chăn đoàn vật là phải tìm kiếm bãi cỏ xanh và suối nước cho đoàn vật của mình. Anh phải biết thật rõ các miền có bãi cỏ xanh tốt và phải luôn luôn tiếp tục tìm kiếm và khám phá ra các bãi cỏ như thế mãi, chứ không được giam hãm đoàn vật lại trong một bãi cỏ quá lâu được. Điều đó thường khiến người chăn chiên phải đi vào những vùng đất xa lạ hẻo lánh và nguy hiểm. Dĩ nhiên, tất cả chỉ vì lo tìm kiếm thức ăn cho đoàn vật mà thôi !
Nhưng ở trong một vùng đất hẻo lánh như thế, những người chăn chiên cần phải luôn tĩnh thức để canh giữ đoàn vật, đặc biệt vào ban đêm. Đoàn vật dù đang ở trong chuồng chỉ cảm thấy được an thân yên ổn, khi biết chắc chằn rằng người chăn chúng luôn tĩnh thức canh phòng chống lại tất cả những kẻ trộm cướp hay các thú dữ. Chính trong đêm tối mới chứng minh được sự trung thành của người chăn chiên với đoàn vật của anh. Nếu chính người chăn đoàn vật lại nhát đảm yếu nhược thì đoàn vật cũng luôn trong tình trạng bất an sợ hãi. Một bổn phận thứ ba của người chăn trong thời kỳ du mục là đi tìm kiếm những con chiên bị thất lạc và những con chiên đang gặp khó khăn hoạn nạn.
Trong Tân Ước hình ảnh « Người chăn chiên nhân hậu » ám chỉ Đức Giêsu. Vì trong thực tế, chính Người là Đấng đã hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, cho loài người chúng ta. Đức Giêsu là « Đấng Chăn Chiên », vì Người là hiện thân của sự săn sóc và thương yêu của Chủ Chăn đích thực là Chúa Cha đối với nhân loại.
Đồng thời Đức Giêsu muốn rằng tâm tình Người Mục Tử Nhân Hậu của Người phải được tiếp tục chuyển ban từ người này đến người kia trong suốt dòng lịch sử. Do đó Người đã trao ban sứ mệnh Mục Tử cho thánh Phêrô và các thánh Tông Đồ khác. Nhưng điều quan trọng ở đây là đoàn chiên phải nhận biết được tiếng của Đức Giêsu. Tiếp đến, một điều quan trọng khác nữa là đoàn chiên phải cảm nhận được là người chăn của mình luôn đi tìm cho mình đồng cỏ xanh tốt, bảo vệ mình trước mọi nguy hiểm và luôn đi tìm kiếm những con chiên bị thất lạc.
Nói tóm lại, theo gương sáng của người chăn chiên nhân hậu của Chúa Cứu Thế, Giáo Hội và con người hôm nay cần đến những vị Linh mục, các Thầy Phó tế, các Nam Nữ Tu Sĩ và các cộng tác viên đắc lực trong công tác Mục Vụ cho nhân loại. Cũng vì thế, hằng năm Giáo Hội đã tổ chức các khánh nhật cầu nguyện cho ơn gọi, xin Thiên Chúa đánh động và chọn lựa các thanh thiếu niên biết hy sinh hiến thân cho việc mở rộng Nước Trời trong các tâm hồn.
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và: PS4-B97
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh. Hãy làm cho ơn phục sinh vươn mạnh, lớn lên và bung ra cả trong chiều sâu nội tâm của đức tin, trong các sinh hoạt đạo đức cá nhân hay tập thể, lẫn trong đời sống thường ngày của mình. Đó là cách tốt nhất để diễn tả niềm tin phục sinh. Đó cũng là cách tốt nhất để cùng với Chúa Kitô, ta làm cho đời sống của ta, xung quanh ta tràn ngập niềm vui phục sinh. Tôi gọi đó là phục sinh đức tin.
NHỮNG LÝ DO CẦN ĐẾN ƠN PHỤC SINH ĐỨC TIN.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong nội tâm, để nội tâm lắng đọng một chiều sâu phục sinh đích thực: Biết bao nhiêu người, kể cả bạn và tôi đã mừng Chúa phục sinh, nhưng sự mừng ấy có khi chỉ là lễ hội, là sự háo hức về một đêm thánh mà trong đó phụng vụ có nhiều diễn tả lạ, khác mọi cử hành phụng vụ khác. Thiếu chiều sâu nội tâm của đức tin, vì thế, mừng ơn phục sinh vĩ đại, nhưng lòng ta, ơn phục sinh chẳng thấm, chẳng biến đổi gì. Ta chẳng phục sinh.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong các sinh hoạt đạo đức: Nhiều người sống nguội lạnh, bỏ cầu nguyện, bỏ các giờ kinh sớm chiều, bỏ luôn cả việc tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích. Nhiều người chạy theo dục vọng, tiền tài đã sống bê tha trong tội lỗi, thậm chí nhiều năm không đến nhà thờ, bỏ luôn cả việc xưng tội, rước lễ. Nhiều anh chị em tích cực hơn, nhưng chỉ giữ đạo theo mùa: Cứ đến lễ trọng, mùa Vọng, mùa Chay, mùa Giáng Sinh, mùa Phục Sinh thì chạy đôn, chạy đáo tìm linh mục giả tội, nhưng rồi vẫn không mấy thay đổi. Nhiều người còn chịu khó giữ đạo, giữ các giờ kinh, tuy đấy đã là điều tốt, nhưng cần phải tốt hơn trong sự chăm chú cầu nguyện, suy tư và chiêm ngắm lời kinh mà mình đọc, chứ đừng chỉ giữ giờ kinh, giờ cầu nguyện, cả đến việc dự lễ mỗi ngày như một thói quen. Vì thế, họ cần phải phục sinh đức tin của chính mình.
Phục sinh đức tin là làm cho ơn phục sinh của Chúa Kitô trở nên sống động trong đời thường. Từ trước tới nay, ta chưa bao giờ, hoặc có nhưng rất ít, rất thiếu sót sự gắn bó với Thiên Chúa trong từng công việc, trong các bổn phận, và mọi lao nhọc… Vì thế, khi phải lao tác, vất vả, lắm lúc gặp nhiều trở ngại, nhiều thất bại và không biết bao nhiêu cay đắng khác…, ta chỉ thấy mệt mỏi, chỉ thấy đời ta đầy nặng nhọc, đầy oan khuất. Ta cần biết rằng, cuộc đời vẫn thế, bất cứ ai sống trong đời đều cũng giống như ta. Chỉ khác ở chỗ, họ đã tin tưởng vào Chúa Kitô. Họ kết hợp với thánh giá của Người trong từng ngày sống. Họ hiến dâng cho Người tất cả suy nghĩ, việc làm, niềm tin, hy vọng, sự sống, mọi hoàng cảnh, mọi tương quan… Nhờ đó, họ chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn. Họ đủ nghị lực mà gánh vác chính cuộc đời của họ. Ta cần phải phục sinh đức tin như họ để ta cũng được ơn bình an của Đấng Phục Sinh.
Ngược với những người phải ngày đêm vất vả là những người sống xa hoa. Nhất là trong thời hiện tại, người ta có quá nhiều phương tiện hưởng thụ, đến nỗi lao thân vào lối sống duy vật và nô lệ cho lối sống ấy. Đây là đối tượng khẩn thiết nhất cần đến ơn phục sinh đức tin. Vì chỉ có thể sống lại trong đức tin, họ mới có thể thuộc về thế giới của sự sống tự do, sự sống mới, khơi nguồn từ nguồn Phục Sinh là chính Chúa Kitô. Bởi chỉ có ai bước đi trong ơn phục sinh của Đấng Thiên Chúa làm người, người ta mới thực sự sống tự do, không nô lệ.
Với tất cả những lý do cụ thể bên trên, ta thấy phục sinh đức tin là việc làm khẩn cấp. Vậy để phục sinh đức tin, ta cần phải làm gì? Tôi muốn đưa ra vài suy nghĩ của riêng cá nhân tôi, chỉ xin là những gợi ý khả dĩ giúp ta bước vào hành trình phục sinh chính đức tin của mình.
GẮN BÓ CÁ VỊ VỚI CHÚA KITÔ.
Chấp nhận tin không có nghĩa chỉ đơn thuần là chấp nhận một giáo lý, giáo điều, một mớ luật lệ, hay những nghi thức nào đó là đủ. Ngay cả khi ta chấp nhận Hội Thánh và đi theo đường lối của HộI Thánh, thì đó cũng chưa phải là điểm mấu chốt của đức tin. Tin trước hết là hiệp thông với Chúa Kitô, là gắn bó cá nhân cách mật thiết với Chúa Kitô. Bởi vậy, những gì chúng ta đã từng sống, đã từng hành động cho cái gọi là con người của tôn giáo Kitô giáo, nhưng chưa có chiều sâu bằng một cảm nghiệm nội tâm về tình yêu Chúa Kitô, mà chỉ là giữ và buộc mình phải chấp nhận luật lệ, chấp nhận giáo lý, thì giờ đây, ta hãy chỉnh đốn lại, hãy làm cho tất cả những gì ta phải giữ từ trước tới nay nằm trong tương quan tình yêu Chúa Kitô. Tôi tạm gọi việc chỉnh đốn lại cách sống, cách thực hành đức tin là phục sinh đức tin.
Như vậy phục sinh đức tin có nghĩa là hãy nhìn vào Chúa Kitô trước đã. Từ nay tôi giữ đạo, tôi chấp nhận lề luật, tôi thực hiệc các hành vi đạo đức, tôi sống tốt trong tương quan với mọi người… không chỉ vì luật của Chúa, của Hội Thánh dạy như thế, mà vì tình yêu của Chúa Kitô dành cho tôi, và của tôi đáp trả tình yêu ấy. Vì tình yêu của Chúa Kitô và vì yêu mến Người, tôi thực hiện nghĩa vụ tôn thờ Thiên Chúa, tôi sống lẽ sống mà đạo dạy tôi, tôi quan tâm đến nguời xung quanh… Vì Chúa Kitô, tôi chấp nhận lề luật của Thiên chúa, và chấp nhận đường lối Hội Thánh hằng chỉ dạy tôi.
Chỉ khi nào sống trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, việc giữ đạo của ta mới nhẹ nhàng. Cũng giống hai người đàn ông cùng cuốc một thửa đất, nhưng một người là tù bình bị ép buộc phải lao động, còn người kia là người cha trong gia đình. Người cha trong gia đình vì thương vợ, thương con, ông miệt mài làm việc, dù mệt nhọc nhưng ông cảm thấy vui, cảm thấy lòng thanh thản và an ủi vì nhờ bàn tay lao động của ông, gia đình ông có thể sinh sống. Ông luôn sống trong hy vọng về một kết quả tốt sẽ đến cho tương lai của gia đình ông. Càng hy vọng, ông càng vui. Người đàng ông là tù binh chắc chắn sẽ không bao giờ có được cảm nghiệm về niềm vui mà người cha trong gia đình có được. Bởi việc ông làm không phải là tình yêu, không phát xuất từ động cơ của lòng yêu thương mà chỉ là ép buộc, chỉ là hình phạt, là đền tội, hoàn toàn không có tự do trong lao động của ông. Cách nào đó, giữ đạo cũng gần giống như chuyện hai người đàn ông cuốc đất. Nếu tôi yêu mến Chúa, việc thực hành đạo của tôi là niềm hạnh phúc, là nhu cầu cần đáp ứng của tình yêu, do tình yêu, phát xuất từ tình yêu đối với Thiên Chúa của tôi. Nếu không có lòng yêu mến Chúa, đức tin chỉ là một gánh nặng vô cùng.
Ta cần phục sinh đức tin của mình, để đức tin của ta có một tương quan cá vị với tình yêu của Chúa. Chỉ có đức tin trong tương quan tình yêu, việc giữ đạo của ta mới là việc làm tự do, mang lại hạnh phúc, thấm đẫm và ngày càng đi vào chiều sâu nội tâm.
Nếu ta phục sinh đức tin của mình trong tương quan tình yêu với Chúa Kitô, cuộc đời ta sẽ được nâng đỡ, được ủi an. Có đức tin trong tương quan cá vị với Chúa Kitô, ta sẽ cảm nhận một điều lớn lao: gánh nặng của sự sống mà ta phải mang gánh trong đời có Chúa cùng sớt chia với ta…
THOÁT LY NHỮNG NHU CẦU GIẢ TẠO.
Một trong những nguy cơ giết chết đức tin của người tín hữu chính là lòng ham mê ngẫu tượng của thời đại.
Họ trang bị cho mình mọi thứ vật chất, mọi tiện nghi, mọi phương thế thụ hưởng, và coi đó là những thứ cần thiết như đích điểm của đời người, đến nỗi cuốn mình chạy theo nó, quay quắt với nó như cơn bão xoáy không chừa lại một chỗ nào cho sự sống tinh thần có thể ngoi ngóp. Đúng hơn, đấy chính là trận bão của những nhu cầu giả tạo, nhu cầu trước mắt, cuốn phăng lòng người theo nó. Bởi vậy mà không ít người đau khổ khi mình thua anh kém chị dù chỉ một chiếc áo, một đôi dép. Họ tôn thờ vật chất đến độ như chỉ có nó mới là vẻ đẹp của đời mình vậy. Chính vì thế, ngày càng có nhiều người tôn thờ chủ nghĩa thời thượng, chủ nghĩa “mode”. Sự tôn thờ này đã biến họ thành nô lệ cho vật chất. Họ phải liên tục đổi di động, đổi xe gắn máy, đổi đồng hồ, đổi những thứ trang xức khác…, làm sao cho những gì họ có phải mới liên tục, phải “mode” liên tục. Họ tôn thờ vật chất một cách đam mê và cuồng tín. Tôi gọi đó chính là sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại.
Điều mỉa mai đau đớn là, dù ngụp lặn trong thế giới vật chất, vượt trên cả sự tìm tòi vật chất: con ngưới trầm mình với vật chất như thể nên một với nó, thì lại có một thực tế khác, dù âm thầm, vẫn không kém mạnh mẽ lên án thái độ nô lệ ngẫu tượng thời đại của con người. Thực tế đó chính là tiếng nói của lương tâm, là đời sống tinh thần, là thế giới thiêng liêng của tâm hồn. Cố tình vượt qua giới hạn của tiếng nói nội tâm mình như thế, con người trở nên chao đảo, bấp bênh, thiếu bình an, và đói khát chân lý. Tình trạng này làm cho con người sống hết sức ngột ngạt. Bởi con người đâu chỉ là vật chất, nhưng trước hết là tinh thần. Đời sống tinh thần mới là sức mạnh làm nên giá trị của đời người. Vì thiếu niềm tin, vì lạc mất tinh thần, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại cũng sẽ đẩy chủ nghĩa cá nhân lên ngôi. Bởi càng tiện nghi bao nhiêu, con người càng dễ sống một mình bấy nhiêu.
Nhưng các tiện nghi vật chất không bao giờ là đối tượng chia sẻ sự sống, suy nghĩ, tình cảm…, điều mà từ rất xa xưa, Ađam đã cảm nghiệm, vì ông không thể “tìm được một trợ tá tương xứng” (St 2, 20). Không thể chấp nhận một xã hội chỉ là cá nhân, Ađam thao thức tìm kiếm sự chia sớt tương xứng, và Chúa đã ban cho ông như lòng ông mong đợi. Nhưng oái oăm và nghịch lý quá đỗi! Trong khi Tổ Tông của mình cố thoát ra khỏi chủ nghĩa cá nhân, thì loài người hôm nay, dẫu quá kinh nghiệm về sự tai hại của chủ nghĩa này, lại cứ tìm về, cứ cố tình đuổi theo nó bằng mọi thứ tiện nghi, mọi thứ trang bị cho chính cá nhân, biến cá nhân thành trọng tâm cho sự quan tâm của chính mình. Thật vô phúc cho ai sống gần những cá nhân chỉ tôn thờ chính mình như thế!
Rồi từ chỗ chỉ biết sống cho riêng cá nhân mình, sự tôn thờ ngẫu tượng của thời đại, càng biến con người thành động vật sống ích kỷ không thể tả. Nhưng như một hệ luận tất yếu: càng sống ích kỷ, con người càng cô độc. Nếu tiếng nói của nội tâm bị coi thường, cuộc sống của con người vốn đã ngột ngạt, sự cô độc sẽ làm cho con người ngày càng chơi vơi hụt hẩng, ngày càng cay đắng với chính mình, với thế giới quanh mình gấp nhiều lần hơn.
Không còn chỗ bám cho đức tin, con người tự giết chết mình, giết chết cả những tương quan quanh mình cách thảm hại. Bởi dù họ sống, nhưng lối sống ích kỷ ấy chỉ là lối sống thiếu sức sống. Nói nặng hơn, cá nhân mình, một khi chỉ là đối tượng chăm sóc của bản thân, cá nhân ấy trở thành cá nhân què quặt, dị tật.
Như vậy, trong sự phục sinh đức tin của mình, cùng với việc sống cá vị và liên kết mật thiết với Chúa Kitô, người tín hữu hãy ra khỏi chính mình để sống đức tin với anh chị em. Họ cần để cho lòng mình thanh thoát, khỏi những vướng bận của trần gian, của những tiện nghi vật chất.
Người tín hữu cần học biết điều này: Đức tin là đức tin cá nhân của bản thân gắn bó với Thiên Chúa. Càng chìm sâu bao nhiêu trong sự gắn bó với Chúa, sẽ càng đầy tràn lòng yêu mến, và chắc chắn đức tin càng sáng chói bấy nhiêu. Nó đòi hỏi ý thức và sự dấn thân thực sự của cá nhân trong tương quan với Chúa Kitô, với Thiên Chúa. Nhưng đức tin chỉ có thể được nuôi dưỡng trong đời sống cộng đoàn. Bởi Thiên Chúa, nền tảng của đức tin chúng ta là một Thiên Chúa “không phải trong một ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể” (kinh Tiền Tụng lễ Chúa Ba Ngôi). Người không cứu chuộc từng người đơn độc, nhưng trao ban tình thương cho tất cả mọi người.
Cũng vậy, Chúa Kitô không phải là “Đấng ở cùng một người”. Nhưng Người là Đấng “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúa Kitô không nhập thể và chết cho bất cứ cá nhân nào, nhưng cho cả thế giới qua lớp lớp thế hệ. Chính vì thế, hôm nay Chúa Kitô đã phục sinh, chúng ta cũng hãy làm phục sinh đức tin của mình trong tương quan với cộng đoàn Hội Thánh, với mọi người xung quanh. Chính trong cộng đoàn mà ta liên kết, gương tốt của người này sẽ ảnh hưởng trên người kia; gương xấu của người này sẽ là bài học lớn cho kinh nghiệm sống của người kia, để có thể lách mình khỏi những sai sót mà anh em vấp phải.
Ngoài ra, đức tin còn phải được gìn giữ, phát triển nhờ sự đào tạo liên tục trong suốt đời người bằng mọi nỗ lực cá nhân như: Tìm về một lối sống đơn sơ, giản dị chứ không tìm một lối sống dễ dãi; không nhắm tiện nghi và hưởng thụ, nhất là không nhắm vào nó đến nỗi quay quắt với vật chất như chỉ có nó là sự bảo đảm cho đời mình; hãy biết hy sinh, hãy chấp nhận giới hạn trong tất cả những đòi hỏi vật chất. Hãy là người biết khôn ngoan nói không với những nhu cầu giả tạo. Hãy bền chí theo đuổi cái đẹp của tinh thần, của tình yêu, của sự thầm lặng, của ơn gọi sống nghèo khó, chứ không khoác lên mình những hào quang chỉ được xây dựng từ trần thế cho riêng cá nhân mình.
CUỘC PHỤC SINH CỦA CHÚA KITÔ ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
Cùng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta bước vào hành trình phục sinh đức tin của chính mình. Trong hành trình này, Chúa Kitô chính là điểm dừng quang trọng nhất mà đức tin của ta phải tiến đến. Và sự phục sinh của Người là lời mời gọi mạnh mẽ nhất cho hành trình phục sinh đức tin của chính ta.
Phục sinh nào cũng đòi hỏi hy sinh lớn lao, rát buốt. Chính Chúa đã rơi vào những tình huống như thế. Để tiến vào sự phục sinh vĩnh cửu của Người, Người đã từng đối mặt với những đau đớn cả tâm hồn lẫn thể xác. Người đã phải rơi vào nỗi cô đơn, bế tắc, vùi giập. Cái chết của Chúa tưởng đã là tiếng nói sau cùng, là thất bại thảm khốc. Nhưng Chúa đã vượt qua. Người đã đứng lên. Người sống lại. Người chiến thắng.
Sự phục sinh của Chúa vừa là mẫu gương cho sự phục sinh đức tin của ta, vừa là nguồn mạch ban ơn phục sinh cho ta.
Vì thế, như Chúa Kitô, ta vượt qua chính con người nhiều đam mê của bản thân, vượt qua mọi rào cản khách quan lẫn chủ quan để được phục sinh đức tin từng ngày trong nội tâm, trong mọi sinh hoạt đạo đức, lẫn trong đời thường của ta.
Cùng với những nỗ lực nhìn về Chúa Kitô để phục sinh đức tin, ta vững một niềm xác tín rằng, Chúa Kitô ban ơn phục sinh từng ngày cho ta. Bởi giữa mọi lý do gây ra tình trạng chết của đức tin do thiếu chiều sâu nội tâm, do thiếu ý thức trong việc sống đạo, thiếu ý thức về ý nghĩa đạo đức của đời thường, thậm chí do cám dỗ chạy theo lối sống xa hoa, hưởng thụ và thực nghiệm…, ta vẫn trung thành mong đợi ơn phục sinh, và tin tưởng vào sự phục sinh bừng lên nơi cuộc đời mỗi người, thì chính lòng mong đợi và sự tin tưởng ấy, đã cho thấy nguồn ơn phục sinh của Chúa đang thấm vào đời ta.
Mặt khác, dù cho còn đó bao nhiêu lý do cám dỗ ta đi xa đức tin, thậm chí tiêu diệt đức tin, và dù cho lòng ta nhiều khi còn hời hợt, còn thiếu chiều sâu nội tâm, thiếu ý thức, ta vẫn mong ước được phục sinh đức tin của mình. Niềm mong ước này không thể có được, nếu không có ơn phục sinh của Chúa khơi nguồn và ban ơn.
Từ nay, bước theo Chúa Kitô, ta ngước nhìn Người để nếu Người đã phục sinh, ta cùng phục sinh đức tin của mình trong từng hoạt động, từng ngày sống của ta. Ta cũng sẽ gắn bó đời mình với Chúa, can đảm thoát ly mọi nhu cầu giả tạo, để được chìm đắm trong nguồn ơn phục sinh của Chúa. Có như thế, trong cuộc phục sinh của Chúa Kitô, có những cuộc phục sinh trong đức tin của mỗi người. Và cuộc phục sinh của mỗi người trong tương quan với ơn phục sinh của Chúa Kitô, có sự phục sinh của nhiều người, của cả Hội Thánh.
Mỗi năm, vào Chúa nhật II mùa Phục sinh, Hội Thánh nhắc ta nhớ đến Chúa Giêsu, Đấng hằng: PS4-B98
Mỗi năm, vào Chúa nhật II mùa Phục sinh, Hội Thánh nhắc ta nhớ đến Chúa Giêsu, Đấng hằng nâng đỡ và dẫn ta đi trong đường lối tình yêu vô song của Người. Người là mục tử nhân lành, không chỉ dùng lời để hướng dẫn ta mà còn hiến mình chết cho ta như chính Người đã nói: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên”. Sự “thí mạng sống” của Chúa trao ban cho ta sự sống đời đời. Và sự phục sinh của Chúa đưa ta vào hưởng hạnh phúc thật, hạnh phúc nơi cung lòng Thiên Chúa, Cha của Người.
Nối tiếp vai trò mục tử của Chúa Giêsu hôm nay là Hội Thánh của Chúa. Bởi thế, chính Chúa nhật hôm nay, Hội Thánh cũng dành đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ trong Hội Thánh.
1. Ta biết các chiên Ta.
Ở Việt Nam, không có chiên, chỉ có trâu bò. Khi chăn trâu, chăn bò, người chủ chăn phải đi sau đàn trâu hay bò của mình. Cách chăn chiên không giống như thế. Người mục tử chăn chiên phải đi đầu đàng, hướng dẫn đàn chiên của mình đi đúng đường, nếu không, đàn chiên sẽ đi lạc, hoặc không biết đường đi. Khi gặp bất trắc, nguy hiểm, người mục tử, vì đi đầu, sẽ là người phải đối diện trước tiên với những khó khăn xảy ra. Nhằm bảo vệ, bênh vực đoàn chiên, người mục tử có thể liều thân mình.
Như vậy trong hình ảnh người mục tử dẫn đầu đoàn chiên ngoài ý nghĩa, đàn chiên muốn được hướng dẫn, được chở che, còn là lòng tin tưởng, cậy trông và phó thác cho mục tử của mình. Thiếu mục tử, không những đàn chiên dễ sai lạc mà còn mất cả chỗ dựa bền vững, chắc chắn.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh mục tử với đàn chiên để chỉ chính Chúa. Chúa là mục tử tốt lành. Đã là mục tử tốt lành, vì thế, tình yêu mà người mục tử dành cho đoàn chiên phải là tình yêu lớn như đại dương mênh mông, vời vợi như núi cao chất ngất. Bởi Chúa là chủ chăn tốt lành tuyệt đối, vì thế, Người sẵn sàng hiến dâng mạng sống để bảo vệ và hướng dẫn đoàn chiên.
Một khi nhận được cả một bầu yêu thương vô cùng mà chủ chăn dành cho mình như thế, chắc chắn đoàn chiên cũng sẽ đáp trả bằng tình yêu, nếu không thể cân xứng, thì có lẽ cũng không phải là nhỏ bé. Một tình yêu có sức sống như thế, có tương quan hai chiều như thế, được Chúa Giêsu diễn tả bằng động từ “biết”: “Ta biết chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”. Bởi thế, động từ “biết” gói gọn tất cả sứ điệp của tình yêu.
“Biết” có nhiều mức độ. Tôi đã từng gặp một ai, khi được nhắc tới người đó, tôi bảo rằng tôi biết họ. Cái “biết” này thật sơ sài, hời hợt. Biết nhưng hoàn toàn không hiểu được tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của họ.
Nhưng nếu cha mẹ biết con cái, thì cái “biết” này sẽ rất sâu đậm. Có thể biết những thể hiện bên ngoài như thói quen, cách sống, lời ăn, tiếng nói… đến cả chiều sâu như tâm tư, tính tình...
Chúa Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”, cái “biết” này thật lớn lao, thật bền vững, thật cao quý, thật mạnh mẽ. Cái “biết” này là biết trong tình yêu, biết trong tương quan cao quý, như thể ngụp lặn trong thế giới của lòng yêu thương. Cái “biết” này đã làm cho Chúa chấp nhận hiến thân vì đoàn chiên: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên”.
Cái “biết” trong tình yêu của Chúa Giêsu đã thăng hoa cuộc đời của mỗi người chúng ta. Bởi vị mục tử nhân lành tối cao ấy đã tìm trả lại cho ta tất cả những gì chính ta đánh mất trong tội của mình. Bằng chứng cho sự hoàn trả này là tất cả những biến cố đã từng xảy ra trong suốt dòng lịch sử của loài người. Chẳng hạn:
- Ngày Ađam muốn tự ý đưa mình lên bằng Thiên Chúa, thì kết quả của việc làm này đã đẩy loài người xuống tận đáy vực sâu. Sau Ađam, đến lượt mỗi người chúng ta, trong suốt chiều dài lịch sử ấy đã không ngừng phản bội Thiên Chúa, muốn thoát ra khỏi lề luật của Chúa, không ngừng khẳng định mình bằng cách muốn nâng mình lên, thì bao nhiêu lần nhân loại đã ngã nhào thảm bại trong hận thù, trong chiến tranh, đói rét, thiên tai, và mọi thứ đau khổ nhục nhằn. Như Ađam sau khi chống lại Thiên Chúa, nhân loại tiếp tục rơi xuống đáy vực sâu.
Chúa Kitô mục tử, vì yêu loài người, đã hủy mình, nên sự hủy mình này đã nâng loài người lên từ thân phận bạc phước để được làm con Thiên Chúa như chính Người. bằng cái “biết” trong tình yêu mục tử, Chúa Giêsu trả lại cho ta chỗ đứng trong ơn tái tạo và cứu chuộc còn lớn hơn, vinh quang hơn lần tạo dựng của Thiên Chúa thuở ban đầu. tắt một lời, Vị mục tử nhân lành của chúng ta, Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận “đi xuống” để chúng ta hãnh diện “đi lên” trong tự do, danh dự và hạnh phúc.
2. Chiên Ta biết Ta:
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử của mình, nơi đoàn chiên của mục tử Giêsu, rất nhiều thành viên cũng đã sống cái “biết” của Chúa mình. Họ cũng chấp nhận hiến trao mạng sống để đáp trả tình yêu vô cùng của Người. Chúa đã ban cho họ tình yêu. Đến lượt mình, họ cũng đáp trả bằng tình yêu.
Chúng ta có thể kể rất nhiều những tấm gương như thế. Bởi ngoài những anh chị em đã từng hiến dâng mạng sống để đáp trả tình yêu của Chúa như các thánh tử đạo trong lịch sử, thời đại này, Hội Thánh vẫn còn đó biết bao nhiêu tấm gương sáng chói khác phải chấp nhận cuộc sống đau khổ từng ngày trong can đảm phi thường. Nhiều anh chị em phải sống đức tin “chui” trong môi trường bắt bớ, bách hại, hoặc phải chấp nhận bệnh tật, nghèo nàn, đau khổ tinh thần và thể xác… Chẳng những đón nhận Chúa làm mục tử đời mình, những anh chị em chấp nhận đau khổ, đã theo Chúa đến cùng tận của nỗi đau thập giá. Họ đáp trả tiếng xin vâng của Chúa Giêsu mục tử bằng sự chấp nhận hiến dâng chính mình.
Một linh mục có lần đã kể rằng: Trong những lần công tác mục vụ, ngài có dịp viếng thăm các bệnh nhân ở bệnh viện và xức dầu cho họ. Ngài có kinh nghiệm rằng, lời cầu nguyện được các bệnh nhân ưa chuộng nhất trên giường bệnh là Thánh vịnh 23, chúng ta đọc trong phần đáp ca của lễ Chúa chiên lành hôm nay: ‘Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”.
Ngài nhớ lại, đã vài lần viếng thăm một phụ nữ nằm bệnh viện gần hai tháng. Một ngày nọ, khi vào thăm bà, bà nói: ‘Thưa cha, cha biết rất rõ, con sắp chết phải không!’. Lẽ ra ngài phải an ủi bà. Không hiểu sao vị linh mục lại hỏi: ‘Bà nghĩ sao về điều ấy?’. Bà nói: ‘Phải, con đã sẵn sàng để chết. Con đã chuẩn bị”. Vị linh mục đề nghị thêm: ‘Tôi có thể làm gì để giúp bà được không?’. Bà nói: “Xin cha làm ơn đọc kinh lớn tiếng cho con nghe và cầu nguyện cho con”. Ngài đã đọc thật chậm Thánh vịnh 23: ‘Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”, để cùng cầu nguyện với bà. Lúc đó cả người phụ nữ lẫn vị linh mục đều cảm nghiệm được một sự bình an lớn lao khó diễn tả bằng lời. Cả hai đều nhận thầy Chúa Giêsu như đang hiện diện cùng trong phòng bệnh nhân để nâng đỡ, và ban sức mạnh cho bệnh nhân trong giờ nguy biến này. Thế rồi kết cuộc cũng đã đến: chỉ một thời gian ngắn sau đó, người phụ nữ đã ra đi bình an và hạnh phúc.
Bắt chước những tấm gương của nhiều anh chị em, chúng ta hãy để lòng mình ấp ủ tràn ngập hình ảnh đầy yêu thương của Chúa Giêsu mục tử, để chính chúng ta được nâng đỡ, được cảm nhận sự hiện diện của Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời của mình.
Chúa biết chúng ta. Cái “biết” chan chứa yêu thương của Người đã đưa Người đến hiến mình vì ta. Thì ta, học lấy cái “biết” của Chúa để đáp trả tình yêu của Người bằng sự thờ phượng trung thành và yêu thương đồng loại trong suốt đời ta. Người phụ nữ trong câu chuyện vừa nêu, đã hoàn thành cuộc đời của mình xuất sắc, vì bà đã “biết” Chúa, đã để Chúa chăn dắt mình đến cùng. Khác vớI Ađam và hành vi chống đối của nhiều kẻ đang sống trong hiện tại, bà đã chấp nhận đi xuống, để Chúa được ngự trị, để tấm lòng mục tử của Người dẫn bà lên.
Cũng vậy, trong niềm hy vọng sống lại của mùa Phục sinh, chúng ta học lấy mẫu gương của Chúa Kitô mục tử nhân lành để luôn luôn sống cho Chúa và xả thân cho công cuộc cứu rỗi loài người. Ta cũng học lấy bài học đức tin nơi nhiều anh chị em của mình, để dám đặt trọn đời mình trong tay Chúa Giêsu mục tử. Nhờ đó, dù sống, dù chết, ta vẫn giữ được bình an, giữ được hạnh phúc mà Chúa đã trao ban.
Lạy Chúa, xin mở mắt cho chúng con thấy được những dấu chỉ của tình Chúa yêu thương. Qua luật lệ, qua những người hướng dẫn, Chúa hãy huấn luyện chúng con nên người. Xin giúp chúng con lấy tình con thảo mà tuân giữ lề luật Chúa ban, để luôn được sống trong bình an của Chúa. Xin Chúa cũng đong đầy tình Chúa cho các mục tử, để các ngài mãi là hiện thân của tình Chúa yêu chúng con.
Vào thời thế chiến thứ 2 xẩy ra trên thế giới. Gia đình ông bà Martin Lindel có hai người: PS4-B99
Vào thời thế chiến thứ 2 xẩy ra trên thế giới. Gia đình ông bà Martin Lindel có hai người con trai là Martin Boyds và Martin Thomson đã đến tuổi gia nhập quân đội. Martin Boyds gia nhập ngành thủy quân và Marti Thomson gia nhập ngành không quân. Vào một Giáng Sinh năm ấy, cả hai đều về đoàn tụ với gia đình. Trong một bữa cơm thân mật, hai người đều khoe binh chủng của mình với những chiến cụ hùng hậu. Chiếc phi hạm khổng lồ chứa đựng hàng 40 chục phi cơ không trục. Nhân đó Martin Thomson kể chuyện chiếc máy bay của mình tham chiến đã nhiều lần mà không bị một trục trặc nào. Nó có cái cánh quạt vững chắc mà chỉ giữ bằng một con ốc sáu cạnh. Sau đó quay sang mẹ, anh hỏi: "Mẹ có biết họ gọi con ốc đó là gì không ?." Mẹ anh nhún vai trả lời: "Con ốc thần". Martin Thomson mỉm cười nói: "Họ gọi là con ốc Jesu sáu cạnh". Rồi anh giải nghĩa: "Này nhé: Chúa Giêsu qua cái chết và phục sinh, Ngài đã liên kết toàn thể nhân loại lại với nhau, cũng như con ốc sáu cạnh đã nối kết các bộ phận của chiềc máy bay lại với nhau". Anh đã nhìn Chúa Giêsu như con ốc giữ chiếc máy bay, như người mục từ tốt lành đùm bọc đoàn chiên, như viên đá góc tường gìn giữ căn nhà đứng vững. Loại bỏ Chúa Giêsu chính là tự tìm lấy diệt vong.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả Chúa Giêsu là người chăn chiên lành, là người bảo vệ chúng khỏi nguy nan bắt bớ. Điều đáng chú ý là có nhiều lần chúng ta mời Ngài vào nhà thì Ngài làm phép lạ cho những người trong đó gắn bó với nhau như khi Phêrô mời Ngài vào nhà, Ngài đã chữa cho bà nhạc mẫu lành bệnh, như khi viên đội trưởng mời Chúa đến nhà, Ngài đã chữa lành cho đầy tờ ông. Khi Lazarô mời Ngài đến nhà, Ngài đã làm cho con gái ông sống lại. Còn chúng ta mời Ngài trở lại với gia đình, với đời sống, lẽ nào Ngài không thực hiện những việc như thế sao?
Đúng như đã nhận định và chia sẻ ở bài suy niệm Phúc Âm tuần trước, “trong ba tuần đầu: PS4-B100
Đúng như đã nhận định và chia sẻ ở bài suy niệm Phúc Âm tuần trước, “trong ba tuần đầu của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội cố ý nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống lại’, và bốn tuần còn lại của Mùa Phục Sinh Giáo Hội nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống’”, mà ở Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh năm B nói riêng và cả chu kỳ 3 năm nói chung, Giáo Hội đã chọn bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan nói về vị Chủ Chiên Nhân Lành, “người mục tử nhân lành thì thí mạng sống mình vì chiên”. Phải chăng vì chủ đề của bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh này liên quan đến vai trò của Vị Chủ Chiên Nhân Lành (ở cả ba chu kỳ A, B và C) như thế mà Giáo Hội cũng đã cử hành Ngày Thế Giới Ơn Gọi lần thứ 40 vào chính Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh này, cũng như Giáo Hội đã bắt đầu cử hành Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh từ năm 2000 như là Ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa, theo Lời Chúa Giêsu yêu cầu qua chị Thánh Faustina, vì ý nghĩa của bài Phúc Âm của Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh hợp với những gì được diễn tả nơi tấm ảnh Chúa Tình Thương (xin xem lại bài chia sẻ Chúa Nhật Hai Phục Sinh)?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, chúng ta lại thấy Chúa Giêsu tiên báo xa xa về Cuộc Vượt Qua của Người, chẳng những ở câu “người mục tử nhân lành hiến mạng sống vì chiên”, hay “Tôi hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy”, mà còn rõ hơn nữa ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm: “Tôi tự ý bỏ mạng sống. Tôi có quyền bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại”. Theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh Năm B thì Người chính là Vị Mục Tử Nhân Lành như chính Người đã tự nhận và công bố ở ngay câu đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay: “Tôi là mục tử nhân lành”. Người “là mục tử nhân lành”, trước hết, bởi Người thí mạng sống mình vì chiên, và sau nữa, bởi Người biết chiên của Người cũng như chiên của Người biết Người. Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thực sự là biến cố chẳng những cho thấy Người thí mạng sống vì chiên mà còn cho thấy Người đi trước chiên và biết chiên, cũng như Người được chiên biết: “Thày đi để dọn chỗ cho các con, để rồi Thày sẽ trở lại để đưa các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó. Các con biết Thày đi con đường nào rồi” (Jn 14:3-4).
Hành động Người bảo vệ chiên khi đám sói xông đến tấn công khi Thày trò của Người sau Bữa Tiệc Ly đang ở trong Vườn Cây Dầu bấy giờ không phải đã ứng nghiệm những gì Người nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay về vị mục tử nhân lành hoàn toàn khác với thành phần chăn chiên thuê thấy sói đến thì bỏ chiên chạy giữ mạng hay sao? Phải, chính vì Người thực sự là Mục Tử Nhân Lành chứ không phải là kẻ chăn thuê mà Người “đã yêu thương đến cùng” (Jn 13:1) chiên của Người, yêu thương như chính bản thân Người, đến nỗi chiên trở thành mạng sống của Người, quí như mạng sống của Người. Đó là lý do, khi đám sói được Hội Đồng Do Thái sai phái với gậy gộc giáo mác xông tới, như Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, Người đã nói: “Nếu thực sự Tôi là người quí vị muốn thì hãy để những người này đi” (Jn 18:8).
Như thế, căn cứ vào nguyên tắc hay tinh thần của Vị Mục Tử Nhân Lành mô phạm này thì những mục tử nào không dám chết cho chiên, không biết chiên mình là ai và như thế nào, trái lại, còn bị chiên xa lánh v.v. thì quả thực chưa phải hay không phải thực sự là người mục tử nhân lành, nếu không muốn nói theo kiểu diễn tả của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm, là những tay chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc của mình vậy thôi. Thực tế đã cho thấy rõ như vậy. Nếu bất cứ lúc nào vị linh mục tìm mình là các vị bắt đầu thụt lại đi đằng sau chiên, chứ không còn hiên ngang và hăng say đi trước chiên (x Jn 10:4), để đương đầu với những nguy hiểm có thể xẩy ra cho chiên. Thái độ đi trước chiên chẳng những tiêu biểu cho đời sống gương mẫu của chủ chiên, đáng cho chiên noi theo, mà còn là hành động chứng tỏ chủ chiên thực sự biết rõ chiên của mình, biết trước chiên cần gì và muốn gì để kịp thời đáp ứng và hướng dẫn chiên đến những nơi hợp với chiên, một hành động cũng cho thấy vị mục tử tỏ ra hoàn toàn tin tưởng chiên, không sợ chiên ở đằng sau tẩu thoát, vì “chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27).
Nếu thành phần được thay thế Vị Mục Tử Nhân Lành này chăn sóc chiên của Người phải làm sao phản ảnh Người bao nhiêu có thể, như trường hợp của tông đồ Phêrô được Thày trao cho trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Người đã được “dự phần” (Jn 13:8) với Người trong việc hiến mạng sống mình vì chiên thế nào (x Jn 21:15-19), thì hàng giáo sĩ mục tử Công Giáo cũng phải sẵn lòng hiến mạng vì chiên mới có thể đắc lực phục vụ chiên. Đây là một trong những lý do sâu xa cho thấy linh mục Công Giáo cần phải sống độc thân mới có thể hoàn toàn dấn thân phục vụ đàn chiên của mình một cách vô tư, tận tuyệt, đến dám thí cả mạng sống của mình.
Khi các vị mục tử Công Giáo, linh mục hay giám mục, dám liều mạng sống mình vì chiên, các vị đã thực sự trở thành một Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, ở chỗ, các vị đã tiến đến chỗ đồng hóa bản thân mình với lời các vị truyền phép trên bàn thờ: “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con”. Khi đọc lời truyền phép này lúc cử hành Hy Tế Thánh Thể, các vị đóng vai trò Chúa Kitô Thượng Tế, tác hành “nhân danh Chúa Kitô”: chữ “Ta” trong lời truyền phép đây là Chúa Kitô; nhưng khi các vị hiến mạng sống vì chiên, các vị trở thành Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, được hoàn toàn đồng hóa với Người, đến nỗi, chữ “Ta” trong lời truyền phép có thể được hiểu là chính bản thân của các vị. Khi các vị hoàn toàn sống cho chiên, thậm chí chết vì chiên, thì các vị hiện thực những gì Chúa Kitô truyền cho các vị làm “mà nhớ đến Thày”, ở chỗ, các vị chẳng những “làm” bánh và rượu trên bàn thờ biến thể thành Mình và Máu của Người, các vị còn “làm” cho cuộc hy hiến của Chúa Kitô được sống động tái diễn nơi cuộc đời của các vị nữa, qua việc các vị biến Mình và Máu của Người thành mình và máu của các vị.
Tuy nhiên, thành phần được Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống cho đây là thành phần nào? Dân Do Thái? Dân Ngoại?? Giáo Hội??? Bởi vì, những lời Chúa Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy tính cách khác biệt của đàn chiên của Người: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi, như Cha biết Tôi và Tôi biết Cha; Tôi sẽ hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy. Tôi còn những con chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất”. “Những con chiên ấy” và “những con chiên khác” đây là thành phần nào? Nếu “những con chiên ấy” là dân Do Thái thì “những con chiên khác” đây là Dân Ngoại. Vì sự kiện “sẽ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất” đây mới xẩy ra việc dân Do Thái cuối cùng sau khi đã đủ số Dân Ngoại sẽ trở lại nhận biết Chúa Kitô, đúng như lời tiên báo của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô (x. Rm 12:25-26). Thật ra chiên đây, nói chung, là tất cả những ai nhận biết Chúa Kitô.
Trái lại, những ai không nhận biết Chúa Kitô thì không phải là chiên của Người, như Người đã khẳng định với dân Do Thái: “Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi đều làm chứng cho Tôi, nhưng quí vị không chịu tin vì quí vị không phải là chiên của Tôi” ( Jn 10:25-26). Như thế, kể cả những con chưa thuộc về đàn, có thể là những con chiên Dân Ngoại, hay là những con chiên tội nhân nói chung, kể cả con chiên tội nhân Do Thái, tự thâm tâm họ, nếu thành tâm thiện ý, vào một lúc nào đó, vẫn có thể nhận ra sự thật, vẫn có thể nghe thấy tiếng của Người và trở về cùng Người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô ngoại lai (x Jn 4:29), hay như trường hợp của trưởng ban thu thuế Do Thái Giakêu lùn (x Lk 19:1-10). Sự kiện “sẽ nghe thấy” trong lời Chúa Giêsu nói về một số con chiên tương lai của Người đây cho thấy dù còn là Dân Ngoại hay còn là một tội nhân đi nữa, con người vẫn có thể là chiên của Chúa Kitô và đã được gọi là chiên của Người rồi, vì thành phần chiên này có khả năng nghe được tiếng của vị chủ chiên mình, có khả năng nhận biết Người. Có những con chiên cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mới nghe được tiếng của vị chủ chiên và đã nhận biết Người để ngỏ ý muốn trở về với Người, như những trường hợp đã xẩy ra và được kể đến trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B, bài Phúc Âm nói về lời Chúa Giêsu phán: “Khi nào Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi”. Bởi thế, những ai tự cho mình là công chính như thành phần Pharisiêu đạo đức giả hình hãy coi chừng trước những con dê tội nhân, những con dê một lúc nào đó lột xác trở thành những con chiên trước mặt Chúa Trời!