CHÚA GIÊSU HOÀN TẤT LỜI KINH THÁNH VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ kinh ngạc, sợ hãi đến niềm vui.
Cũng như Chúa nhật I và II Phục sinh, theo thông lệ hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ III này: PS3 B-51
Cũng như Chúa nhật I và II Phục sinh, theo thông lệ hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ III này tường thuật Đấng Phục sinh hiện ra.
Câu chuyện bắt đầu từ sau chuyến hai môn đệ Emmau trở về Họ vừa kể cho 11 tông đồ và cho các môn đệ những gì đã xảy ra trên đường và họ đã nhặn ra Người thế nào khi Người bẻ bánh thì Đức Giêsu lại một lần nữa hiện đến với các môn đệ.
Ở đây ta gặp lại 3 phần tiêu biểu của các cuộc hiện ra sau Phục sinh: 1- Đức Giêsu có sáng kiến; 2- Người tự tỏ mình ra; 3- Người uỷ thác cho họ một sứ mệnh.
Tin Mừng kể: "Khi ông còn đang nói thì Người đã đến giữa họ”. Người ban cho họ ơn bình an, một ơn của triều đại Cứu Thế. “Bình an cho các con”.
Cuộc hiện ra bất ngờ và lời chào của Người khiến họ "kinh ngạc và sợ hãi, vì họ tưởng là thây ma hiện hình”. Họ đã phải sống giây phút khó khăn của cuộc quá độ từ bất tín đến chân nhận.
2. Từ khổ đau đến cuộc sống mới của Đức Messia.
Thoạt tiên Đức Giêsu mở lời. Kèm theo lại là một cử chỉ. Rồi Người ăn trước mặt họ. Sau đó Người khai lòng mở trí để họ am hiểu Thánh Kinh.
Trước hết, Người cho họ xem “tay", "chân” và nói: "Tại sao các con sợ hãi? Hãy chạm vào Thầy: ma đâu có xương thịt như Thầy".
Họ hoàn toàn không phải là nạn nhân của một ảo tưởng tập thể. Cũng vẫn là người ấy, Đấng chịu đóng đinh, nhưng đến gặp họ trong một điều kiện khác, điều kiện của Đấng Phục sinh “chính là Thầy đây!".
Roland Meynet chú giải: "Đấng hiện ra với các môn đệ không phải là một cái chết hiện hình, cũng không phải là hồn ma bóng quế. Đó chính là Đức Giêsu, Người đã từng ăn uống với họ, tay Ngài đã từng đụng chạm đến họ trước khi chịu khổ hình. Hoàn toàn không phải là một ảo ảnh. Họ có thể thấy Người, đụng chạm đến Người cơ mà, đúng là Người.
Nhưng cơ thể Đức Giêsu không còn là cơ thể trước ngày vào cuộc khổ nạn. Người có cho họ xem tay, chân cũng chỉ vì tay chân còn hằn dấu đinh. Dấu hiệu ấy cốt để họ xác minh mà vững lòng tin tưởng; Phục sinh không xoá hết dấu vết khổ nạn. Đức Kitô mãi mãi vẫn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh (‘Tin Mừng thánh Luca’, Phân tích từ ngữ, chú giải, Cerf, trang 238).
- Vì các môn đệ "trong niềm vui tột đỉnh, vẫn chưa dám tin, vẫn còn sững người kinh ngạc", Đức Giêsu bèn hỏi xin họ "cho ăn”. Người ăn "một miếng cá nướng”. Người không ăn với họ, nhưng trước mặt họ. Theo phong tục Đông phương, người khách được trọng vọng sẽ ăn một mình trước mặt những kẻ cung nghinh hầu cận.
Khi đưa ra chi tiết Đức Giêsu ăn trước mặt môn đệ, tác giả Tin Mừng muốn minh họa thực tại của biến cố phục sinh. Tuy nhiên, sáng kiến này của Đức Giêsu dường như không “ép phê” bằng lần trước: các môn đệ chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Sau cùng, Đức Gtêsu giúp các môn đệ đang hội họp ở đó đọc lại cuộc Khổ Nạn-Phục Sinh của Người dưới ánh sáng Thánh Kinh, như Người đã làm với hai môn đệ trên đường đi Emmau: "Cần phải ứng nghiệm tất cả những gì đã chép về Thầy trong sách Lề Luật của Môsê; các sách Ngôn Sứ và Thánh vịnh. Và Người soi lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh".
R.Meynet bình giải: “Kinh Thánh, trọn bộ Kinh Thánh, đều nói về Đức Giêsu. Kinh Thánh loan báo những việc Người sẽ làm và những việc các môn đệ sẽ làm nhân danh Người. Đức Giêsu chẳng nói gì ngoài những điều Kinh Thánh đã nói, nhưng Người không chỉ lặp lại và chú giải Kinh Thánh như các luật sĩ thường làm. Người hành xử Kinh Thánh, người thực hiện Kinh Thánh, Người hoàn tất Kinh Thánh. Chính vì Người hoàn tất Kinh Thánh mà Người có thể giải thích Kinh Thánh cho người ta hiểu. Rồi đến phiên các môn đệ, họ sẽ phải công bố rằng Đức Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh Thánh. Các môn đệ công bố điều này khi chính bản thân các ông hoàn tất lời Kinh Thánh và khi các ông làm cho Kinh Thánh được hoàn tất nơi những người mà các ông được sai đến, cho đến tận cùng trái đất" (Sđd, trang 238).
3. Từ chân nhận đến sứ mệnh phổ quát
Một lần nữa, cuộc gỡ không kết thúc ở thái độ chân nhận, nhưng vươn tới một sứ mệnh.
Sứ mệnh mà Đức Giêsu ký thác cho các môn đệ, trước khi chuẩn bị họ (câu 51), sứ mệnh mà nhờ đó họ được ban một "sức mạnh từ trên cao" (câu 49), tóm kết trong câu nói sẽ trở thành cốt lõi cho lời rao giảng của Giáo Hội sơ khai (xem bài giảng của Phêrô trong Công Vụ các tông đồ: đặc biệt bài đọc I ngày lễ Phục sinh và Chúa nhật III (Phục sinh):
Đúng như lời Kinh Thánh đã loan báo về:
+ Những đau khổ của Đức Mêsia, việc Người phục sinh từ trong cõi chết vào ngày thứ 3.
+ Công bố sự hoán cải nhân danh Người để được tha thứ tội lỗi cho mọi dân tộc, khởi đi từ Giêrusalem.
+ Chính các con là chứng nhân cho những điều đó".
Như thế việc Đức Giêsu phục sinh đã kết thúc bằng mặc khải mầu nhiệm của Người: Người là Đức Kitô được các ngôn sứ loan báo, được tôn vinh trên cái chết, từ nay hiện diện trong Giáo Hội, nơi Người hứa ban ơn tha tội cho mọi người. Lời rao giảng ơn hoán cải và sự tha thứ tội khiên đã được Gioan Tẩy Giả bắt đầu cho nhà Israel, từ nay lan toả đến “mọi dân tộc". Sứ mệnh phổ quát ấy, sự hoàn thành ý định cứu độ của Thiên Chúa ấy, nay được ký thác cho cộng đoàn các môn đệ.
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Những kinh nghiệm đầu tiên giúp các Kitô hữu hiểu những kinh nghiệm họ phải sống hôm nay”.
(L.Monloubou, trong "Tin Mừng theo thánh Luca, Salvator, trang 286-287).
Câu đầu tiên (35) nhắc ra nhớ chính vào lúc "bẻ bánh" mà các lữ khách làng Emmau ‘nhận ra Đức Giêsu’, chắc hẳn trong tâm tưởng thánh Luca muốn qui chiếu việc bẻ bánh về bí tích Thánh Thể, nơi các Kitô hữu "nhận ra" Đức Giêsu phục sinh và hằng sống. Xa hơn nữa, bản văn nói về việc "khai mở lòng trí” mà Đức Giêsu thông truyền cho các môn đệ. Người cũng trình bày cho họ một lối "hiểu Kinh Thánh" mới.
Ta thấy rất rõ cuộc khám phá mà cộng đoàn thực hiện tỷ lệ thuận với việc đào sâu niềm tin phục sinh: cộng đoàn đạt tới một mức độ thấu hiểu sự vật, khiến sự vật hiện ra trong một chuỗi những liên kết rất mạch lạc, hiển nhiên; thoạt tiên Kinh Thánh hiện ra dưới một nhãn quan khác: Lề Luật của Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh xem ra chứa đựng một ý nghĩa mà từ trước đến giờ chưa được hiểu cho thấu đáo. Ý nghĩa ấy nối kết Kinh Thánh thành một chuỗi mạch lạc khiến đức tin tìm được điểm tựa. Sau cùng bản văn kết thúc bằng cách đề ra một kinh nghiệm truyền giáo: nhân danh Đức Giêsu phục sinh, hằng sống, phải rao giảng cho ‘mọi dân tộc’, ‘bắt đầu từ Giêrusalem’, sự ăn năn thống hối để được thứ tha tội lỗi”. Ba điểm: kinh nghiệm Thánh Thể, giải thích Kinh Thánh mang mầu sắc Kitô học và sự rao giảng phổ quát, được trình bày ở đây như những nối tiếp khẩn thiết của cảm nghiệm phục sinh. Đối với các bạn đồng hành của Luca, đó là những thực tại đã được ghi nhận cách sâu sắc, đã được sống và đã cảm nghiệm.
Sự kiện này quan trọng; nó cho biết nơi chốn các Kitô hữu nói về cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Không phải trong một khoá học về lịch sử Đức Giêsu, dù lịch sử là nền tảng của suy tư ; nhưng là trong lúc suy niệm về đời sống hiện tại của Giáo Hội. Giáo Hội ấy quây quần đọc Kinh Thánh: Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh, để tưởng nhớ những lời nói của Đức Giêsu: đó là những lời mà Thầy đã nói với anh em để cử hành việc bẻ bánh; và để đảm nhận những nhiệm vụ truyền giáo, Giáo Hội ấy đã ý thức về việc sống một kinh nghiệm: Đức Giêsu đích thân đứng giữa họ, Người đang sống. Cộng đoàn ấy vẫn còn có nghi ngờ, nhưng đức tin của cộng đoàn là sâu sắc.
Cảm nghiệm đó là gì mà đem đến cho mọi người niềm vui khôn tả như thế? Đó là cảm nghiệm về Đấng Phục sinh mà các môn đệ là những người đầu tiên đã cảm. Bản thân các ngài đã tham dự vào lời bữa ăn của Đức Giêsu, đã thiết lập được mối liên hệ giữa Kinh Thánh với những gì đã xảy ra tại Giêrusalem, những gì đã xảy đến với Đức Giêsu, người Nagiarét, và các ngài đã khám phá ra tầm mức phổ quát của sự Phục Sinh mà các ngài phải loan báo cho thế giới. Chính các ngài, đoàn Mười Một đã trải qua những kinh nghiệm đầu tiên, nhờ đó các Kitô hữu thấu hiểu kinh nghiệm mà họ phải sống hôm nay".
2) Người khai mở lòng trí cho họ am hiểu Kinh Thánh
(H.Vulliez, trong "Thiên Chúa đã gần đến". Năm B, DDB trang 57-58).
Bạn có chú ý không? Trong cả 3 trình thuật của thánh Luca về việc Đức Kitô Phục sinh hiện ra, thì hai bài, bài các môn đệ Emmau và bài hôm nay đều kết thúc bằng việc đọc Kinh Thánh mà Đức Giêsu chú giải. Dường như, trong cả hai trường hợp, cuộc hiện hình không đủ đưa đến đức tin. Dường như tác giả muốn tránh nguy cơ chỉ dừng lại và chỉ gắn bó vào những gì lạ thường.
Dường như chỉ có thể tin vào Đức Giêsu vẫn đang sống sau khi chết nhờ đặt Người ra ngoài vòng lịch sử nhân loại. Ta có tin rằng sự hiểu biết Kinh Thánh cách nghiêm túc là rất cần thiết để tin, không phải vào một Đức Giêsu ta tưởng tượng ra, nhưng vào Đấng mà Tin Mừng mặc khải cho ta, Đấng mà Chúa Cha đã sai đến với con người để trở thành Người-Chúa với họ vĩnh viễn không?".
CHÚA GIÊSU HIỆN RA CHO CÁC SỨ ĐỒ CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Họ còn đang nói: phần cuối này của Tin Mừng cho biết Chúa Giêsu làm thế nào để giúp nhóm: PS3 B-52
Họ còn đang nói: phần cuối này của Tin Mừng cho biết Chúa Giêsu làm thế nào để giúp nhóm Mười Một hiểu được hoàn toàn sứ điệp Phục sinh: Nơi cc. 36-43, Chúa Giêsu chiến thắng sự cứng lòng tin của nhóm Mười Một bằng cách ban cho họ nhiều dấu chỉ về thực tại của việc Người Phục Sinh (x. Cv 1,3) ; nơi cc. 44-49, người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh (x. cc. 25-27) và xác định bổn phận của họ là làm chứng nhân về việc sống lại của Người; nơi cc. 50-53, Luca kết thúc cuốn sách của ông bằng cách trình bày việc Chúa Giêsu tỏ uy quyền Chúa và được các môn đồ nhìn nhận.
Bình an cho các ngươi: Những chữ này được rất nhiều thủ bản sao xác nhận là có, tuy nhiên lại thiếu nơi một vài chính bản giá trị. Nhiều nhà phê bình cho rằng chúng được mượn từ Ga 20, 19.
Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được: Luca tìm được một lời bào chữa cho sự cứng lòng tin của Nhóm mười một. "Họ dâng cho Người một miếng cá nướng": ở đây cũng như trong Cv 10,40, Đấng Phục sinh ăn uống. Viết như vậy, Luca muốn cho thấy thực tại thể lý của sự Phục sinh, nhưng điều này lại gây khó khăn cho độc giả Hy lạp của ông (x Cv 17,32; 1Cr 15,12).
Môisen, các Ngôn sứ cùng Thánh vịnh: Việc gọi tên Thánh Kinh như thế này thật là độc đáo vì dành một chỗ cho các Thánh Vịnh (so sánh 24,27). Truyền thống Tin mừng đã nhiều lần sử dụng các Thánh Vịnh như những lời loan báo về cuộc Khổ nạn, và trong Công Vụ, Luca sẽ thường xuyên trích dẫn Thánh Vịnh như những lời tiên tri về Mầu nhiệm Chúa Kitô.
Rồi Người nói với họ (c.46): Các câu 46-48 trình bày hết mọi chủ đề của lời rao giảng sứ đồ như thấy xuất hiện trong sách Cv: việc sử dụng Thánh Kinh (Cv 2,23-32; 4,10-11; 13,28.29.33.37; 26,22-23), rao giảng sự hối cải và ơn tha thứ (2, 38; 3,19; 5,31; 10,43; 15,38-39; 26,18); vai trò chứng nhân được trao cho nhóm Mười hai (1,8; 2,32; 3,15; 5,32; 10,41; 13,31).
KẾT LUẬN
Niềm tin vào Chúa Giêsu chính là công trình của Đấng Sống lại; việc hiểu Thánh Kinh cũng thế. Thánh Kinh Cựu ước chỉ dẫn đến chỗ nhận ra Chúa Giêsu, nhận ra Cứu Chúa của Israel và của thế giới, nếu được hiểu trong ánh sáng Phục sinh. Sau cuộc Phục sinh, không biết Thánh Kinh là có lỗi (Cv 3,17-26). Đối với người Do thái cứng tin, Kinh Thánh sẽ là một lời buộc tội; đối với Giáo hội, kẻ giải thích Thánh Kinh trong đức tin vào sự Phục sinh, thì Thánh Kinh là ơn cứu thoát.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Kitô chết trên thập giá đã sống lại thật, trong xương thịt đàng hoàng. Các sứ đồ đã tưởng là ma (điều này, một cách nào đó có lợi cho chúng ta): thành thử họ phải biết rõ thực hư về việc hiện ra này. Việc họ lúc đầu không tin là một bảo đảm cho sự vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin này không dựa trên chứng từ của những kẻ dễ tin, dễ bị ảnh hưởng bởi ngoại tại, nhưng dựa trên đức tin của những con người thực tế, tầm thường biết đòi hỏi các dấu chỉ và bằng chứng. Do đó, chứng từ của họ càng trở nên mạnh mẽ hơn, vì đây không phải là chứng từ của mê tín, mà của lòng cứng tin biết phê bình nhưng đã được thắng vượt.
2) Nhiều người thời nay phải chăng không giản lược Chúa Kitô phục sinh vào một loại ma quái, một vật nào đó hơn là một cứu người, một huyền thoại hơn là một Ngôi vị đang sống? Theo họ, cùng lắm thì Chúa Kitô là một kiểu mẫu cho cả cho nhân loại, cống hiến cho mọi người một học thuyết nữa những tấm gương đáng khen, nhưng Người không còn sống nữa, không "ngồi bên hữu Chúa Cha" trên trời, cũng chẳng hiện diện trong bánh rượu thánh hiến.
3) Chung chung, ở đây không phải là vấn đề cảm giác hay kinh nghiệm chủ quan cá nhân, nhưng là vấn đề đức tin, tin hết mọi điều Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta, trên điểm này cũng như trên các điểm khác, qua Thánh Kinh và truyền thống sứ đồ, tin điều Giáo hội đã, đang và sẽ dạy khắp nơi, trong niềm tin vào Đấng sống lại. Cũng không có vấn đề những gì các nhà thông thái suy tưởng và phát minh ra, vì đây không phải là những suy luận thuần túy tự nhiên, nhưng là một nhận thức, là một sự chắc chắn thuộc một trật tự cao siêu, quý giá hơn mọi cái trên đời hiện hữu. Tin vào Đấng Phục sinh, chinh là đón nhận chứng từ của một nhóm sứ đồ và môn đồ của Chúa Giêsu, những kẻ đã lấy máu mình quả quyết trước thế gian và cho rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá rồi Phục Sinh trong một thân xác vinh hiển, vượt thắng những điều kiện thông thường của thời gian và không gian.
4) Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều hiểu lầm, nhiều trở ngại và ngay cả nhiều khổ đau tinh thần nữa: như xét bên ngoài, nhiều Kitô hữu, vì hèn nhát, tỏ ra ích kỷ hơn, hà tiện hơn, kiêu căng hơn, dâm ô hơn hơn một số người ngoại giáo. Nhưng mọi Kitô hữu đều biết rằng Chúa Kitô phục sinh muốn họ hối cải: Người muốn tha thứ tất cả và làm cho họ trở nên những sứ đồ của người theo chân các sứ đồ tiên khởi: “Chính các con là những chứng nhân về những điều đó”. Đức tin bắt buộc chúng ta dấn thân cho Chúa Giêsu Kitô như chứng nhân của Người trước mặt thế gian.
Chương 24 của Tin Mừng Luca được xây dựng thành 3 đoạn: Mồ trống (cc. 1-2): đây là đoạn duy nhất: PS3 B-53
Chương 24 của Tin Mừng Luca được xây dựng thành 3 đoạn: Mồ trống (cc. 1-2): đây là đoạn duy nhất song song với Mc và Mt;
Chương 24 của Tin Mừng Luca được xây dựng thành 3 đoạn:
Mồ trống (cc. 1-2): đây là đoạn duy nhất song song với Mc và Mt; Các môn đệ Emmau (cc. 13-35);
Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một (các ông nhận ra Chúa: cc. 36-43; Người ban sứ điệp Phục Sinh: cc. 44-49);
* Một kết luận ngắn với câu truyện Lên Trời và việc các môn đệ tạ ơn trong Đền Thờ, từ đó Tin Mừng đã khởi sự.
Toàn khối này là một đơn vị văn chương chắc chắn, do hành động, nơi chốn và thời gian.
Trong TM Lc, Đức Giêsu chỉ hiện ra tại Giêrusalem, và Nhóm Mười Một không ra khỏi Thành (c. 48). Điều này trái ngược với ba Tin Mừng kia (Mt 26,32; 28,7.16-20; Mc 16,7; Ga 21). Tác giả Lc có biết truyền thống nói về việc Đức Giêsu hiện ra tại Galilê (24,6; x. Mt 28,7; Mc 16,7), nhưng dường như ngài đã chọn cách lờ đi để duy trì cấu trúc đơn giản của hai quyển sách của ngài: quyển Tin Mừng là một chuyến đi lên Giêrusalem, còn quyển Công vụ là sự lan tỏa của sứ điệp khởi đi từ Giêrusalem (Cv 1,8).
Nhờ lược đồ này, tác phẩm Lc (TM+Cv) có một sự đối xứng rất khéo và nêu bật được tính duy nhất của biến cố Phục Sinh.
Cũng do mục tiêu ấy, tác giả đã làm cho chương 24 có tính duy nhất hoàn toàn giả tạo về thời gian: Mọi biến cố nối đuôi nhau xảy ra trong vòng một ngày (mồ trống; Emmau; Hiện ra; Lên trời). Viễn tượng của Lc mang tính thần học hơn là thời gian. Tác giả muốn trình bày trong một cảnh (“xen”) duy nhất toàn bộ mạc khải về Phục Sinh: thực tại không thể phủ nhận là thân xác của Đấng Phục Sinh; mạc khải về tư cách Đức Chúa của Người (vì thế có truyện Lên trời); sứ mạng truyền giáo. Ngày này là ngày Phục Sinh, đỉnh điểm của Tin Mừng, đích điểm của thời gian Đức Giêsu sống ở trần gian.
Ngày này cũng mở ra một giai đoạn mới, và Lc đặc biệt nhấn mạnh điểm này. Có lẽ tất cả các tác giả Tin Mừng đều biết rằng cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu là khởi điểm cho hoạt động truyền giáo (Mt 28,19-20; Mc 16,15-20; Ga 20,21.23), nhưng chỉ có Lc mới dành cả một quyển sách để viết về hoạt động này. Và khi tách quyển này với quyển Tin Mừng, tác giả cho thấy sự tách biệt giữa thời gian của Đức Giêsu và thời gian của Giáo Hội. Ngài cũng làm điều ấy bằng hai lần nhắc tới Lên trời: ở cuối quyển TM III, biến cố Lên trời biểu lộ cuộc tôn vinh Đức Giêsu bên hữu Chúa Cha và kết thúc mạc khải Đức Giêsu là Đức Chúa; ở đầu sách Công vụ, biến cố Lên trời mời gọi các tông đồ bắt tay vào sứ mạng truyền giáo.
II. BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành hai phần: 1) Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (24,35-43); 2) Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (24,44-48).
III. Vài điỂm chú giẢi
- Bình an (36): Khi kéo theo việc mất niềm tin, sự chia ly chỉ tạo ra buồn sầu và hoang mang (cc. 17.38). Nếu cách biệt mà vẫn sống trong đức tin, thì sẽ có niềm vui (c. 52) và bình an (c. 36). Đây không chỉ đơn giản là lời chào shalôm, mà là việc ban tặng “sự bình an thiên sai” đã được các ngôn sứ loan báo và Đức Giêsu hứa ban trước khi chịu chết (x. Ga 14,27). Đây là sự bình an đạt được với giá là cái chết của Người trên thập giá; đây là việc giao hòa nhân loại với Thiên Chúa trong máu Đức Kitô (x. Rm 5,1.10; 2 Cr 5,18-19;…).
- Các ông kinh hồn bạt vía (37): Khi đọc Mc (16,9-20), ta thấy Nhóm Mười Một không tin (x. Mc 16,10.13). Còn ở trong Lc, hai môn đệ Emmau trở về chưa kịp làm chứng thì Nhóm Mười Một cùng với các bạn đã tuyên xưng đức tin rồi (24,33)! Thế nhưng khi Đức Giêsu hiện ra sau đó, các ông lại kinh hồn bạt vía và ngờ vực (cc. 36-38). Tác giả Lc đã chấp nhận tình trạng thiếu mạch lạc đó vì một ý hướng thần học: trong số các tông đồ, Phêrô rõ ràng có một vị trí riêng biệt. Ông có một vai trò phải đóng sau tấn bi kịch Thương Khó (Lc 22,31-32). Nay để cho thấy lời của Đức Kitô đã đến lúc ứng nghiệm, Lc nhắc đến việc Đức Giêsu hiện ra với Phêrô trước khi hiện ra tại nhà Tiệc Ly, và ghi một câu cho thấy lòng tin của Phêrô là nguồn mạch cho đức tin của những người khác (c. 34). Bài học là đức tin của mọi thế hệ tương lai sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ và, đặc biệt, của Phêrô. - sao còn ngờ vực (38): Trong thời gian hoạt động, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu lòng tin, chẳng hạn khi gặp bão trên hồ (x. Mt 8,23tt). Mối nguy hiểm đã gặp cũng như quyền năng đã chứng kiến của Đức Giêsu lẽ ra phải giúp họ học được bài học: cũng như xưa kia Người đã ngủ trong thuyền, thì nay cũng thế, ở trên thập giá, Người đã chỉ “ngủ” đi vài giờ; trong mồ, Người chỉ “nghỉ” thôi (x. Lc 23,46; 8,52; Ga 11,11), nhưng Người đã “trỗi dậy” (Lc 24,6: động từ egeirô có nghĩa là “thức dậy”, “sống lại”). Không phải là Thiên Chúa đã che mắt họ, nhưng chính lòng kém tin đã khiến họ không nhận ra Đức Giêsu. Chính cái chết mà nhờ đó Đức Giêsu cứu chuộc thế gian, lại bị các môn đệ coi như một thất bại không thể cứu chữa. Và kể từ khi Đức Giêsu được an táng, các môn đệ không tin nữa! Họ từ chối tin khi các phụ nữ đến mang tin nói rằng ngôi mộ trống và các thiên thần đã hiện ra nói rằng Người đang sống (c. 23). Chỉ có Phêrô (và người môn đệ Đức Giêsu thương mến, theo Ga 20,2tt) có vẻ hơi bị lung lay, nên đã chạy đến mộ để xem hư thực thế nào. Ông nhận thấy rằng thi hài Đức Giêsu không còn ở đó nữa; chỉ còn các dây băng. Nhưng không phải vì đó mà Phêrô đã được thuyết phục (c. 12). Do đó, mộ trống không phải là một bằng chứng rõ ràng về sự phục sinh, mà chỉ là một dấu chỉ thôi.
- nhìn chân tay (39): Các dấu chỉ không phải là vô ích; chúng có có một vai trò quyết định trong việc phát sinh đức tin. Các dấu chỉ dường như còn cần thiết nữa để người ta nhận ra được Đức Giêsu sau khi Người sống lại. Nhưng tùy tình trạng nội tâm của mỗi người mà các dấu chỉ nên rõ nhiều hay ít. Đối với người phụ nữ tội lỗi đang yêu, chỉ cần Đức Giêsu gọi đúng tên bà: “Maria” (Ga 20,16). Đối với người môn đệ Đức Giêsu thương mến, chỉ cần ngôi mộ trống (Ga 20,8) hoặc mẻ cá lạ lùng (Ga 21,4-7). Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc bẻ bánh (Lc 24,30-35). Đối với các tông đồ, cần phải có những dấu chỉ rõ ràng hơn: thấy các vết thương, chạm đến thân thể Người, và cả con cá mà Người ăn trước mặt họ (24,39-43). Với “khúc cá nướng”, Lc muốn cho thấy thực tại thể lý của Đấng Phục sinh, bởi vì đây là khó khăn lớn đối với các độc giả hy-lạp (x. Cv 17,32).
- Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin (41): Lc tìm ra một lời bào chữa cho sự cứng tin của Nhóm Mười Một.
- Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh (44): Có khi Đức Giêsu đã trách các môn đệ là đã không tin vào những lần Người hiện ra, nhưng những dịp này không loại bỏ tính cần thiết của các dấu chỉ, nên theo một nghĩa nào đó, các dấu chỉ có vẻ cốt yếu hơn là các cuộc hiện ra (x. chuyện Tôma: Ga 20,29).
Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không ngừng trách các môn đệ cũng như người Do-thái khi họ yêu cầu các dấu lạ. TM Lc đã nhắc đi nhắc lại: lẽ ra chứng tá của Kinh Thánh đã đủ rồi! Kể từ lâu rồi, “Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh” (= Kinh Thánh) đã loan báo tất cả những gì vừa được thực hiện (x. Lc 24,27.32).
Ý tưởng Môsê đã làm chứng cho Đức Kitô thuộc về truyền thống Nhất Lãm như ta thấy trong hoạt cảnh Hiển Dung. Tuy nhiên, trong khi Mt và Mc chỉ ghi nhận rằng Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Đức Giêsu, Lc lại xác định: “Hai vị nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem”, tức gợi ý rõ ràng đến mầu nhiệm Vượt Qua (Lc 9,31; so sánh với 24,14.20). Lc cũng là người duy nhất đã ghi giữ một lời Đức Giêsu nói nhằm khẳng định rằng chứng tá của Môsê và các Ngôn sứ đã đủ thuyết phục như chứng tá của một người chết sống lại (x. Lc 16,27-31). TM IV cũng nhấn mạnh không kém đến tầm quan trọng của chứng tá của Môsê về Đức Giêsu (Ga 5,46-47). Tuy nhiên, chỉ có Lc mới trở lại với đề tài này trong bài tường thuật về Phục Sinh.
Tự hỏi Đức Giêsu đã trích những bản văn Kinh Thánh nào khi Người hiện ra, thì mất công vô ích. Lc đã chỉ ghi lại những quy chiếu tổng quát về toàn bộ Cựu Ước theo các phần lớn được phân biệt trong các bài đọc ở hội đường (24,44): Luật Môsê (bản séder), các ngôn sứ (bản haftara) và các Thánh vịnh (bản mizmor). Dĩ nhiên, tác giả đã có thể nghĩ đến những bản văn rõ rệt. Khi ghi lại các bài giảng của các tông đồ, sách Cv đã ghi một loạt những đoạn văn quy chiếu: Tv 16,8-11 (Cv 2,24-28; 13,34-37); Tv 2,7 và Is 55,3 (Cv 13,32-34); Tv 118,22 (Cv 4,11)…
IV. Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (35-43)
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra giữa các ông và chào chúc: “Bình an cho anh em!”. Sự bình an của Người là ân huệ phục sinh của Người. Người không ban cho các môn đệ bất cứ đảm bảo nào là các ông sẽ sống yên ổn suốt đời, các ông sẽ có một cuộc sống luôn luôn huy hoàng, không phải thiếu thốn, đau khổ hay lo lắng gì. Chính Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh, đã không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù nghịch, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng Đấng Chịu đóng đinh đây cũng chính là Đấng Phục Sinh. Đã có lúc Người bị điệu đi đến cái chết, run rẩy khiếp sợ, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng Vẫn Sống, Đấng đã vượt thắng cái chết và nay không thể chết nữa. Như thế, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy rằng họ không sợ rơi vào nguy cơ là bị hủy diệt hoàn toàn. Ngay cái chết cũng không thể làm hại chúng ta vĩnh viễn, phương chi các thiếu thốn khác làm gì có thể gây hại bao nhiêu cho đời sống chúng ta! Ân huệ phục sinh của Đức Giêsu không phải là sự bình an của một cuọâc sống không bị xáo trộn, nhưng là sự bình an được sống trong tình trạng yên hàn, bảo đảm và che chở phát xuất từ quyền lực và tình yêu của Thiên Chúa. Nền tảng và bảo đảm cho lời chào và ân huệ ấy là chính Đấng Phục Sinh trong sự sống mới của Người, một sự sống đã thắng được cái chết.
* Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (44-48)
Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc phục sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x. Cv 1,21t).
+ Kết luận
Đức Giêsu đã thuyết phục các môn đệ tin vào thực tại của đời sống mới của Người. Người đưa các ông đến chỗ hiểu Kinh Thánh và hành trình Người theo lâu nay. Người chỉ cho các ông thấy nội dung của việc loan báo và nhiệm vụ truyền giáo. Người củng cố các ông trong tư cách chứng nhân, bằng cách hứa là các ông sẽ nhận được quyền năng từ trên cao (Lc 24,49). Tất cả những điểm này đang đưa chúng ta đến chỗ kết của TM III, và chuyển chúng ta sang phần thứ hai của tác phẩm Luca, đó là sách Cv. Thánh Thần sẽ được Chúa Cha ban xuống trên Họâi Thánh phôi thai (Cv 2,1) để làm cho các thành viên trở thành những chứng nhân minh mẫn và can đảm, quảng đại và kiên trì dấn thân làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Đức Kitô chết trên thập giá đã thật sự sống lại, bằng xương bằng thịt. Sự kinh hồn bạt vía và ngờ vực của các tông đồ lại hữu ích cho chúng ta: chính thái độ khó tin đó của các ông lại là một đảm bảo cho tính vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin của chúng ta không dựa trên chứng tá của những con người dễ tin, dễ bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Đức tin của chúng ta dựa trên những con người thực tế, đòi hỏi những dấu chỉ và bằng chứng. Chứng tá của các ông càng mạnh mẽ do chỗ là chứng tá không phải của một thái độ dễ tin theo chuyện mê tín nhưng là một sự cứng tin đã thắng vượt nhờ óc phê bình.
2. Nhiều người đương thời chúng ta vẫn coi Đức Giêsu Phục Sinh chỉ là một bóng ma, một thứ gì đó thay vì là một Đấng, là một huyền thoại thay vì là một Con Người đang sống. Theo họ, Đức Kitô cùng lắm chỉ là một điển hình cho nhân loại, cống hiến cho mọi người một giáo lý và những gương sống đáng phục…, nhưng bây giờ Người không còn sống nữa, Người chẳng “ngự bên hữu Chúa Cha” trên trời, cũng chẳng hiện diện trong hình bánh hình rượu đã truyền phép… Trách nhiệm của các Kitô hữu là làm chứng bằng đời sống và lời nói rằng Người thật sự vẫn là Người Sống.
3. Vấn đề không phải là chuyện nhạy cảm hoặc kinh nghiệm cá nhân chủ quan. Vấn đề là tin, tin tất cả những gì Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta bằng Kinh Thánh và bằng Thánh Truyền. Vấn đề là tin những gì Hội Thánh đã và đang dạy khắp nơi. Tin vào Đấng Phục sinh, là chấp nhận chứng từ của một nhóm đông đảo gồm các tông đồ và các môn đệ của Đức Giêsu đang khẳng định trước mặt thế giới và sẵn sàng chấp nhận tử đạo rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá nhưng đã trở lại với cuộc sống trong một thân xác hiển vinh không còn lệ thuộc các hoàn cảnh thông thường của thời gian và không gian nữa.
4. Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều trở ngại, do chẳng hạn có những Kitô hữu, vì hèn nhát, đang sống ích kỷ hơn, sống hà tiện hơn, kiêu ngạo hơn, trơ trẽn hơn một số người ngoại giáo. Nhưng tất cả chúng ta biết rằng Đức Kitô Phục Sinh muốn họ hoán cải: Người muốn tha thứ tất cả và biến họ trở thành tông đồ của Người, và điều này không bao giờ là quá trễ, nhằm nối tiếp các tông đồ đầu tiên.
Tin Mừng Luca là Tin Mừng duy nhất nói đến việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra cho ông: PS3 B-54
Tin Mừng Luca là Tin Mừng duy nhất nói đến việc Ðức Giêsu phục sinh hiện ra cho ông Simon trước khi hiện ra cho nhóm Mười Một và các bạn hữu (Lc 24,34). Ðiều này trùng hợp với một truyền thống cổ xưa đã được thánh Phaolô trân trọng đón nhận: "Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai" (1Cr 15,5). Thánh Luca nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Simon Phêrô, cũng gọi là Kêpha trong việc nâng đỡ anh em. Trước khi ra núi Ô-liu, Chúa nói với ông: "Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh" (Lc 22,31-32). Khi hai môn đệ Emmau quay trở lại Giêrusalem, thì chính nhóm Mười Một và các bạn đang tụ họp ở đó đã vội vã reo vui loan báo Tin Mừng cho họ: "Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon" (Lc 24,34). Luca có ý cho thấy niềm tin của cả nhóm vào Chúa Phục Sinh đã bắt nguồn từ việc Chúa hiện ra cho ông Simon. Chúng ta tưởng rằng nếu sau đó Chúa hiện ra cho cả nhóm Mười Một và các bạn, ắt tất cả sẽ dễ dàng nhận ra và tin vào Chúa Phục Sinh. Nhưng sự thể đã không xảy ra như thế. Ðoạn Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay cho thấy điều đó.
Chúa Phục Sinh nâng đỡ niềm tin
Chúa Phục Sinh đến với các môn đệ thật bất ngờ. Thánh Gioan cho biết lúc đó "các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái" (Ga 20,19). Thân xác hiển vinh của Ðức Giêsu mang những đặc tính mới. Thân xác này không bị giới hạn trong không gian và thời gian, nhưng có thể tuỳ ý xuất hiện ở đâu và lúc nào mình muốn. Nhân tính của Chúa Giêsu không còn bị ràng buộc với trái đất này nữa và chỉ thuộc về lãnh vực thần linh của Chúa Cha. Ngài có thể xuất hiện dưới hình dáng một người làm vườn hay dưới một hình dạng khác (x. Mc 16,12).
Chúa Giêsu đứng giữa các ông và chúc bình an. Ðây không phải là một lời chào bình thường của người Do thái. Ðây là lời chúc bình an của Ðấng Mêsia đã được các ngôn sứ báo trước và đã được Ðức Giêsu hứa ban trước khi lìa đời (Ga 14,27). Bình an này mua được bằng cái chết trên thập giá của Ðức Kitô để hoà giải nhân loại với Thiên Chúa (2Cr 5,18-19).
Sự xuất hiện bất ngờ của Chúa Phục Sinh và lời chúc bình an của Người, đã chẳng đem lại bình an chút nào cho các môn đệ. Họ sợ hãi kinh hoàng và tưởng là thấy ma. Trước đây, Khi Ðức Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, họ cũng tưởng là ma và la lên (Mc 6,49). Như thế các ông thường nghĩ là ma khi gặp một "ai đó" làm được những việc kinh khủng người thường không làm nổi: đi trên mặt nước, cửa đóng mà vào được, chết chôn rồi mà còn hiện về?
Chúa Phục Sinh nhắm thẳng vào nỗi sợ của họ: "Tại sao anh em lại hoảng hốt?" Ngài nhắm thẳng vào chuyện họ tưởng Ngài là ma: "Tại sao những ngờ vực lại nổi lên trong lòng anh em vậy?" Mọi sợ hãi ngờ vực đều bắt nguồn từ sự thiếu lòng tin. "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin" (Mc 3,23). Chúng ta có thể tưởng Chúa là ma, nếu thiếu lòng tin. Chúa có thể bất ngờ đến trong đời ta, để đem lại cho ta sự bình an, nhưng ta không nhận ra Ngài và rơi vào tình trạng xao xuyến âu lo. Cách Ngài đến luôn làm chúng ta chưng hửng. Phải có lòng tin để nhận ra Ngài đang đến một cách bất thường, đôi khi một cách kỳ cục.
Chúng ta cần nhìn ngắm Chúa Giêsu đang làm hết cách để kéo các môn đệ ra khỏi nỗi kinh hoàng vì tưởng Ngài là một bóng ma. Việc đầu tiên Ngài làm là mời họ nhìn và sờ tay chân Ngài, để thấy Ngài là một con người bằng xương bằng thịt. "Ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây." Ðiều quan trọng là lời khẳng định sau: "Chính Thầy đây mà!". Chính Thầy là Thầy của anh em đây. Thầy đã bị đóng đinh và chôn táng. Nay Thầy được phục sinh như lời Thầy đã báo trước. "Chính Thầy đây mà!" là câu nói đem lại niềm tin cho người bị xao động. Chúa Giêsu cũng đã nói câu đó khi các môn đệ tưởng Ngài là ma, lúc Ngài đi trên mặt nước mà đến với họ (Mc 6,50; Mt 14,27). Thầy đây! Thầy không phải là ma làm chúng ta sợ hãi. Thầy đến để đem lại bình an.
Chúa Giêsu chẳng những mời, mà còn đưa tay chân cho các ông xem. Nhưng điều đó chưa có tính thuyết phục. Vì họ vẫn chưa chịu tin và còn bàng hoàng, nên việc kế tiếp Ngài làm là ăn một miếng cá nướng trước mắt họ. Chúa Phục Sinh cho thấy Ngài ăn được. Ngài không phải là một bóng ma vật vờ. Ngài có một thân xác, dù thân xác này đã được biến đổi sâu xa. Tin Mừng Luca được viết cho dân ngoại chịu ảnh hưởng văn hoá Hy Lạp.. Họ là những người không tin thân xác sống lại. Thân xác chỉ là mồ chôn, còn linh hồn mới bất tử (Cv 17,32; 1Cr 15,12). Phải chăng vì thế Luca đã nhấn mạnh đến việc Chúa Phục Sinh có một thân xác biết ăn? "Người đã xuất hiện trước mặt chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10,41). Sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh ăn với các môn đệ là những kẻ đã bỏ rơi Ngài, cho thấy rằng Ngài đã đón nhận họ lại trong tư cách là những người đồng bàn. Cho họ được hiệp thông trong bữa ăn, đó là dấu hiệu tỏ tường của lòng tha thứ.
Chúng ta không rõ sau khi đã cho xem tay chân và ăn cá nướng, Chúa Giêsu có chinh phục được lòng tin của họ không? Nhưng chắc chắn, theo Tin Mừng Luca, Ngài còn phải làm một việc quan trọng cuối cùng, đó là mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Kinh Thánh ở đây gồm những sách mà ta gọi là Cựu Ước: Sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh.
Các môn đệ mất niềm tin khi thấy vị thầy đáng kính của họ phải chịu một cái chết thảm khốc trên thập giá. Hai môn đệ về Emmau cũng gặp khó khăn tương tự. Vấn đề của Chúa Giêsu là cho họ thấy ý nghĩa của khổ đau và cái chết của Ngài. Ngài cần giúp các môn đệ nhận ra rằng những điều đau buồn vừa qua đều nằm ở trong kế hoạch của Thiên Chúa, đều đã được Kinh Thánh báo trước. Ðức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại: đó không phải là điều tình cờ, bất ngờ hay xui xẻo. Ðó là con đường Ðức Kitô phải đi để vào vinh quang. Khi được mở trí để hiểu Kinh Thánh, các môn đệ sẽ nhận ra sự duy nhất của dòng lịch sử cứu độ dẫn đến Ðức Kitô. Sau này, khi các Kitô hữu đọc Cựu Ước, họ cũng thấy Thầy Giêsu đã làm ứng nghiệm các lời Ngôn sứ hay Thánh Vịnh. Tin Mừng Mátthêu chứa đựng nhiều câu trích dẫn Cựu Ước, và cho thấy chúng đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Như thế chỉ khi Ðức Giêsu phục sinh, Cựu Ước mới được hiểu một cách trọn vẹn. Dưới ánh sáng phục sinh và sự trợ giúp của Thánh Thần, Hội Thánh vẫn tiếp tục gặp khuôn mặt Ðức Kitô qua những trang Cựu Ước.
Chúa Phục Sinh sai đi làm chứng nhân
Chúng ta đã nhìn ngắm Chúa Giêsu làm mọi cách để giúp các môn đệ tin rằng chính Ngài đã sống lại và đang gặp gỡ họ. Niềm tin này thật quan trọng và là nền tảng cho sự phát sinh Kitô giáo. Chúa Giêsu khiêm tốn và kiên nhẫn đi từng bước trước sự chậm tin của các ông. Chính sự chậm tin này lại là một lý do để ta tin hơn vào lời chứng của các tông đồ. Thật vậy, họ là những ngư phủ có óc hoài nghi và thực tế. Họ tin vào ma thì dễ hơn tin vào người chết sống lại. Họ cần những bằng chứng cụ thể trước khi tin và Chúa Giêsu đã cho họ nhiều bằng chứng trong 40 ngày (x. Cv 1,3). Ðúng họ là những người bướng bỉnh chậm tin chẳng khác Tôma, nhưng khi họ đã tin thì họ dám chết để làm chứng cho niềm tin ấy.
Khi niềm tin được vững vàng, Nhóm Mười Một đã sẵn sàng đảm nhận sứ mạng mới. Ðó là nhân danh Chúa Giêsu đến với mọi dân tộc để kêu mời họ sám hối hầu được ơn tha tội. Một cánh đồng bao la mở ra trước mắt họ. Ơn tha tội, ơn cứu độ không dành độc quyền cho dân Do thái, nhưng cho mọi dân tộc trên mặt đất. Nhân loại được cứu độ nhờ tin vào danh Chúa Giêsu (x. Cv 4,12). Công cuộc truyền giáo này khởi đi từ Giêrusalem. Giêrusalem là thánh đô của Ít-ra-en, nơi tụ hội của cả dân được chọn. Tin Mừng Luca bắt đầu và kết thúc bằng những cảnh diễn ra trong Ðền thờ Giêrusalem. Theo sách Công vụ, Tin Mừng Luca đã lan rộng từ Giêrusalem đến Rôma. Có thể coi Rôma là trung tâm của cả thế giới dân ngoại thời đó.
"Anh em là chứng nhân về những điều này." Chỉ những tông đồ hay môn đệ ở thế hệ thứ nhất mới là chứng nhân tận mắt. Còn chúng ta là chứng nhân cho Chúa nhờ tin vào lời chứng của các tông đồ. Chứng nhân không phải chỉ là người bàng quan thụ động, như những người làm chứng trước toà án thời nay. Chứng nhân theo nghĩa Kitô giáo là người tích cực hơn nhiều, dám hiến thân trọn vẹn cho Chúa Kitô bằng lời nói và nhất là bằng hành động.
Trong Năm Thánh kính Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi làm chứng về cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Sống quảng đại như Chúa Giêsu, chết hiến thân phục vụ như Giêsu và sống lại trong niềm vui như Giêsu. Cánh đồng truyền giáo ở Việt Nam còn mênh mông. Bảy mươi triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta sẽ có lỗi, nếu cuộc sống của chúng ta không có sức thu hút người khác đến với niềm tin Kitô giáo.
Một số câu hỏi gợi ý
Theo bạn, người Kitô hữu phải làm thế nào cho người khác tin rằng Chúa đã sống lại? (qua sự phục vụ những người nghèo, qua tinh thần vô vị lợi, qua việc vui tươi đón nhận những thiệt thòi, qua sự lạc quan giữa những khó khăn chịu vì Chúa?)
Rao giảng bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay cả hai đều cần?
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III Phục Sinh nầy cung cấp cho chúng ta những chứng từ: PS3 B-55
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III Phục Sinh nầy cung cấp cho chúng ta những chứng từ mới về biến cố Phục Sinh; nhưng mầu nhiệm vinh quang nầy được bày tỏ ở đây trong mối liên hệ với mầu nhiệm Tử Nạn của Đấng Mê-si-a.
Cv 3: 13-19 Trong một diễn từ ngỏ lời với toàn dân Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô công bố cuộc Phục Sinh của Đấng chịu đóng đinh và minh chứng rằng Kinh Thánh đã loan báo những đau khổ Đấng Mê-si-a phải chịu. Lời công bố nầy vang dội trực tiếp ở nơi đoạn Tin Mừng hôm nay.
1Ga 2: 1-5 Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan mời gọi suy niệm về những nỗi đau khổ mà Đức Giê-su phải chịu vì tội lỗi của chúng ta để đem lại ơn tha thứ cho chúng ta.
Lc 24: 35-48 Tin Mừng của thánh Lu-ca trình bày cho chúng ta một trình thuật mới về việc Đức Giê-su xuất hiện cho các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Phục Sinh của Ngài. Thánh ký khai triển bài diễn từ của Đức Giê-su trong đó Đức Giê-su đích thân giải thích cuộc sống, cái chết của Ngài và minh chứng rằng Kinh Thánh đã loan báo những đau khổ của Đấng Mê-si-a, cuộc Phục Sinh của Ngài và ơn tha thứ tội lỗi.
BÀI ĐỌC I (Cv 3: 13-15, 17-19)
Đây là bài diễn từ thứ hai trong số những bài diễn từ mà thánh Phê-rô ngỏ lời với toàn thể dân chúng được sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại. Bài diễn từ thứ nhất được công bố vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Bối cảnh thật ấn tượng. Thánh Phê-rô và thánh Gioan lên Đền Thờ để tham dự buổi cầu nguyện giờ thứ chín (Đức tin của hai ông hòa nhập rất tự nhiên vào trong khung cảnh phụng vụ Do thái giáo). Hai vị để ý đến một người què ăn xin bên cửa Đền Thờ. Thánh Phê-rô nhìn anh, nắm chặc lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Anh đứng phắt dậy vừa đi vừa nhảy nhót vui mừng hớn hở và không chịu rời hai ông một bước. Toàn dân nhận ra anh, kinh ngạc sững sờ. Chính đám đông nầy mà thánh Phê-rô ngỏ lời với họ.
Những chủ đề mà thánh nhân khai triển tóm tắt điểm chính yếu của bài giảng Tông Đồ tiên khởi, như sách Công Vụ tường thuật cho chúng ta, qua năm bài diễn từ của thánh Phê-rô (2: 14-39; 3: 12-26; 4: 9-12; 5: 29-32; 10: 34-43) và một diễn từ của thánh Phao-lô (13: 16-41).
Bài diễn từ nầy vẫn còn ngỏ lời với người Do thái. Vấn đề khó khăn bậc nhất là làm thế nào thuyết phục họ Đấng Chịu Đóng Đinh là Đấng Mê-si-a.
1. Anh em là dân Giao Ước:
Để tạo nên ấn tượng mạnh nơi thính giả của mình, trước tiên, thánh nhân nhắc họ nhớ rằng họ là dân Giao Ước, Giao Ước nầy Thiên Chúa đã ký kết với các tổ phụ, Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp.
Ấy vậy, chính "Thiên Chúa của cha ông chúng ta" nầy đã tôn vinh tôi trung của Người là Đức Giê-su để hướng tư tưởng thính giả về hình ảnh người tôi trung chịu đau khổ của I-sai-a. Vị ngôn sứ đã loan báo rằng người tôi trung của Gia-vê sẽ bị khinh bĩ và chịu nhục hình.
Tước hiệu "người tôi trung" được ban cho Đức Giê-su sẽ được lặp đi lặp lại nhiều lần trong những diễn từ Tông Đồ; tước hiệu nầy đem đến một lập luận có trọng lượng đối mặt với những thái độ ngập ngừng của những người chờ đợi một Đấng Mê-si-a vinh quang và quyền năng.
2. Anh em đã nộp Ngài:
Tiếp đó, thánh Phê-rô đưa ra một lời kết án trực tiếp bằng cách dựa vào những luận cứ tương phản:
- Quan Phi-la-tô, một ngoại đạo, đã nhận ra Đức Giê-su vô tội nên đã muốn tha cho Ngài. Nhưng anh em, dân Chúa chọn, trái lại đã chối bỏ Ngài.
- Ngài là Đấng Thánh, Đấng Công Chính, mà anh em lại xin ân xá cho một tên sát nhân.
- Ngài là Đấng khơi nguồn sự sống mà anh em lại giết đi.
Trong đoạn trích nầy, chúng ta gặp nét đặc sắc mà thánh Lu-ca đã nhấn mạnh trong bài Thương Khó của mình: Phi-la-tô ít chịu trách nhiệm về cái chết của Ngài hơn đám đông bị các thượng tế xách động. Quan Tổng Trấn ba lần công bố: "Ta xét thấy người nầy không có tội gì".
Về phẩm chất "thánh" và "công chính", đây là những danh xưng Kinh Thánh thường đi kèm theo tên tuổi của những tôi trung vĩ đại, như ông Mô-sê (thánh Phê-rô sẽ trích dẫn đích danh Mô-sê trong diễn từ nầy). Cả hai phẩm chất nầy sẽ vẫn là những tước hiệu Ki tô học cổ xưa, nhưng ở nơi sự chứng minh của thánh Phê-rô: Đức Giê-su đã thực hiện ở nơi bản thân mình những lời Kinh Thánh: Ngài là Đấng Thánh của Gia-vê, "Đấng Công Chính" mà các ngôn sứ đã loan báo.
3. Thiên Chúa đã phục sinh Ngài:
Đây là mặc khải cốt yếu, một sự khẳng định không thể tin được. Vị Tông Đồ còn nhấn mạnh: "Chúng tôi xin làm chứng".
Đoạn, sau lập luận ngắn gọn nhưng sắc bén, thánh nhân làm yên lòng cho những người mà Ngài vừa kết án: "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều người đã dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki tô của Người phải chịu khổ hình". Vì thế, họ có thể hưởng được ơn tha thứ tội lỗi của mình, nếu họ sám hối mà trở về cùng Thiên Chúa.
Chắc chắc những lời kêu gọi sám hối sẽ được lập đi lập lại như điệp khúc trong những diễn từ Tông Đồ, nhưng diễn từ nầy, được đặt sau khi nêu lên những đau khổ cần thiết mà Đấng Mê-si-a phải chịu, mặc lấy một sức mạnh đặc biệt.
BÀI ĐỌC II (1Ga 2: 1-5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan được viết vào cuối thế kỷ thứ nhất và gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu miền Tiểu Á.
Thánh Tông Đồ ngỏ lời với các tín hữu nầy với một cung giọng đầy tình phụ tử; ngài biết những khó khăn mà họ gặp phải và cuộc chiến mà họ phải đối đầu chống lại những lạc giáo đang hoành hành vào lúc đó. Thánh nhân muốn soi sáng và củng cố đức tin của họ.
"Hỡi anh em là những đứa con thơ bé của tôi", biểu ngữ nầy thường đi kèm theo "thân mến" hay "yêu dấu". Cung giọng chan chứa tình thương mến nầy là một trong những đặc tính của thư thứ nhất thánh Gioan.
Lời mào đầu này giới thiệu hai lời khích lệ: một liên quan đến cuộc chiến chống tội lỗi, và một liên quan đến việc tạ ơn Thiên Chúa.
a. Đức Ki tô, Đấng Bào Chữa của chúng ta (2: 1-2).
Trong thư thứ nhất nầy, thần học thánh Gioan được khai triển chung quanh ba trục: - Thiên Chúa là ánh sáng; - Thiên Chúa là Đấng Công Chính; - Thiên Chúa là tình yêu.
Chủ đề "Thiên Chúa là Đấng Công Chính" luôn luôn được liên kết với chủ đề tội lỗi. Chính vì Đức Công Chính của mình mà Thiên Chúa cứu chúng ta khỏi tội lỗi; và Đức Công Chính cứu độ nầy có tên gọi: "Đức Giê-su, Con Một của Thiên Chúa".
Người Ki tô hữu chân chính biết nhận ra mình là tội nhân, trái với những giảng dạy dối trá tự cho mình là hoàn thiện. Hậu cảnh của những lời nhắc nhở đạo lý nầy mang tính bút chiến: những kẻ truyền bá Ki tô giáo nầy tự cho tinh tuyền hơn xuất thân từ các cộng đoàn nầy và đã gây xáo trộn ở đây. Thánh Gioan nói đó là những kẻ nói láo: "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1: 8). Với thái độ khiêm tốn, thánh Tông Đồ tự đặt mình vào hàng những người Ki tô hữu có thể phạm tội
"Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng bào chữa trước mặt Chúa Cha". Nguyên ngữ Hy lạp "đấng bào chữa" (Paraclet) xuất xứ từ động từ "para-kaléô" có nghĩa là "gọi đến bên cạnh mình để xin cứu giúp". Danh xưng nầy chỉ xuất hiện trong các bản văn của thánh Gioan, trong khi các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm cũng như thánh Phao-lô không thấy sử dụng. Trong Tin Mừng thứ tư, "Đấng Bào Chữa" chỉ Chúa Thánh Thần (Ga 14: 16-20); trong thư thứ nhất, chính Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính, là Đấng Bào Chữa cho chúng ta.
Tước hiệu nầy không nhắm đến sự vô tội của Đức Giê-su, Đấng Công Chính hoàn thiện, cho bằng đến phẩm chất xét xử của Ngài, Đấng công chính hóa chúng ta. Vì chính Ngài đã trở thành phàm nhân và hiến dâng thân mình làm của lễ hy sinh đền bù tội lỗi của chúng ta. Khi sử dụng thành ngữ "của lễ đền bù tội lỗi",
thánh Gioan trực tiếp gợi lên hy lễ xá tội của dân Ít-ra-en, nhưng hy lễ nầy chỉ xóa tội của vị thượng tế và của cộng đoàn con cái Ít-ra-en. Trái lại, hy lễ của Đức Giê-su có tầm mức phổ quát: "không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế giới nữa".
Ở đây, ngoài nỗi bận lòng của người mục tử, xem ra một sự cảnh giác chống lại những người phủ nhận mầu nhiệm Nhập Thể (xem 1Ga 5: 1-6), do đó, họ cũng từ chối ơn Cứu Chuộc.
b. Hiểu biết Thiên Chúa (2: 3-5)
Một vấn đề được đặt ra: làm thế nào chúng ta có thể biết rằng chúng ta biết Thiên Chúa?
Mục đích cốt yếu của thánh Gioan chính là đảm bảo cho họ là họ đang ở trong chính lộ. Tiêu chuẩn của sự hiểu biết đích thật về Thiên Chúa không hệ tại ở nơi những suy luận trừu tượng, hay ở nơi ơn thần khải nội tâm, nhưng ở nơi sự hiểu biết kinh nghiệm mà việc thực thi các điều răn của Người mang lại: "Căn cứ vào điều nầy, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người".
Các điều răn nầy là những điều răn nào? Ở đây xem ra thánh Gioan vẫn ở trong tính khái quát của các điều răn Tin Mừng; tuy nhiên, xuống một chút nữa, thánh nhân xác định "Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau" (3: 23).
Những đòi hỏi nầy rõ ràng được nhắc đi nhắc lại suốt bức thư; chính những đòi hỏi nầy mà những kẻ rao giảng dối trá không tuân giữ. Rõ ràng những kẻ rao giảng ngộ đạo chủ trương rằng họ đã đạt đến tình trạng hiểu biết các mầu nhiệm thiên giới nên khinh thường những kẻ ngu dốt không có khả năng đạt đến những lãnh vực trên cao nầy.
Như vậy, thánh Gioan nhấn mạnh rằng người Ki tô hữu đặt niềm tin của mình vào Đức Ki tô và tuân giữ điểu răn "mến Chúa và yêu người", đó là người hiểu thấu cõi lòng sâu thẳm của Thiên chúa, đi vào trong mối liên hệ đích thân với Chúa Cha và Chúa Con. Ở đây chúng ta sẽ gặp lại chủ đề hiệp thông với Thiên Chúa, chủ đề trung tâm của bức thư và nền tảng của sự hiểu biết Thiên Chúa đích thật. Như vậy, thánh Gioan định nghĩa "ngộ đạo" Ki tô giáo.
"Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo". Tình yêu Thiên Chúa có nghĩa gì? Phải chăng tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta và thực sự trở nên hoàn hảo ở nơi mỗi người Ki tô hữu ? Hay tình yêu mà người Ki tô hữu tuân giữ điều răn đức ái và như vậy phát triển cho đến mức vẹn toàn lòng mến Chúa của mình?
Chúng ta gặp thấy câu trả lời nơi 4: 12, hoàn toàn song đối, theo cùng một cách diễn tả: "Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo". Như vậy, tình yêu của Thiên Chúa "đối với chúng ta" là điều cốt yếu. Tuy nhiên, xuyên suốt bức thư của mình, thánh Gioan xem việc tuân giữ các điều răn là trắc nghiệm tình yêu của người Ki tô hữu "đối với Thiên Chúa". Giáo huấn của thánh nhân nhiều lần nhắc nhở bài diễn từ Từ Biệt của Đức Giê-su: "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (Ga 14: 21).
Thật ra, hai khía cạnh kết hợp mật thiết với nhau. Vả lại, động từ được sử dụng dẫn đến câu kết luận nầy. Bản dịch của nhóm Phụng Vụ: "nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo" cần phải được đính chính; cách dịch "nên hoàn hảo" có thể bị hiểu lầm, bởi vì nguyên bản chứa đựng ý tưởng mục đích, cứu cánh: "ở nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đạt được mục đích tối hậu của nó, cứu cánh chung cuộc của nó". Ấy vậy, cứu cánh nầy là cứu cánh nào, nếu không là được dự phần vào cuộc sống của Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của động từ "ở lại" mà thánh Gioan thường hằng nhắc đi nhắc lại.
TIN MỪNG (Lc 24: 35-48)
Vào Chúa Nhật nầy, chúng ta đọc một lần nữa bài tường thuật việc Đức Giê-su hiện ra cho các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Phục Sinh. Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã đọc bài tường thuật của Tin Mừng Gioan, Chúa Nhật hôm nay, chính là bài tường thuật của Tin Mừng Lu-ca.
Bài Tin Mừng hôm nay là phần tiếp theo của câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau. Như vậy, ngày Phục Sinh nầy là ngày dài nhất của toàn bộ Tin Mừng: bắt đầu với bước chân của những người phụ nữ đến mồ vào lúc hừng đông và kết thúc với việc hai môn đệ trên đường Em-mau trở về thuật lại những việc xảy ra dọc đường cho Nhóm Mười Một và các các bạn hữu vào lúc đêm đã khuya rồi. Quả thật, khi Đức Giê-su chấp nhận lời mời của hai người bạn đường của Ngài ở làng Em-mau thì trời đã về chiều rồi.
Vả lại, nếu thánh ký đã có thể thu ngắn các biến cố thì chẳng có hệ gì. Như vậy, thánh ký luôn nêu bật giá trị cử chỉ Giáo Hội của hai môn đệ trên đường Em-mau. Chính ở nơi các Tông Đồ mà hai ông quy chiếu đến. Nhóm Mười Một vẫn là những nhân chứng cốt yếu của biến cố Phục Sinh. Kinh nghiệm của hai người môn đệ trên đường Em-mau không bị giảm nhẹ nhưng được củng cố và một cách nào đó, được bao hàm vào trong kinh nghiệm cộng đồng. Hai người môn đệ nầy chắc chắn rất gần gũi với các Tông Đồ, vì họ biết nơi các Tông Đồ được quy tụ lại và ẩn náo.
Như ở nơi bài tường thuật của Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su thình lình ở giữa các môn đệ của mình. Thân xác của Ngài bằng xương bằng thịt như Ngài sẽ chứng minh cho họ thấy: cũng là thân xác mà họ đã thân quen, nhưng cũng hoàn toàn khác. Dù trở về trong vinh quang bên cạnh Chúa Cha, Đức Giê-su đã không tước bỏ nhân tính của Ngài; Ngài vẫn mãi mãi là Thiên Chúa và con người.
a. "Bình an cho anh em".
Khởi đầu trình thuật là lời chúc bình an của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài, nhưng lời chúc bình an nầy còn hơn "lời chào bình an" thông thường của người Do thái. Đây là bình an của triều đại Mê-si-a, bình an mà Ngài đã hứa với các môn đệ Ngài khi Ngài nói lời từ biệt các ông vào buỗi chiều thứ năm Tuần Thánh: "Thầy để lại cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy", đây là sự bình an của Nước Trời, bình an của cuộc sống trong Thần Khí và sự thật mà nhiều lần thánh ký đã gợi lên xuyên suốt Tin Mừng của mình (Lc 2: 14, 29; 7: 50; 8: 48; 10: 5-6; 11: 21; 19: 38, 42; 24: 36).
b. Các ông kinh hồn bạt vía.
Thánh Luca nhấn mạnh hơn thánh Gioan nỗi khiếp sợ của các môn đệ, sự cứng tin của họ y như khi họ nghe sứ điệp của các phụ nữ (24: 11-12) và những thương tích thể lý mà Đức Giê-su trưng dẫn để chứng thực Ngài đã sống lại. Thánh ký ngỏ lời với người Hy-lạp và người Rô-ma, họ đã không được Kinh Thánh chuẩn bị. Đó là lý do tại sao thánh ký kể ra việc "Đức Giê-su cầm lấy một khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông".
Cử chỉ nầy đã trở nên một trong những bằng chứng về cuộc Phục Sinh của Ngài. Để chứng thực cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, thánh Phê-rô sẽ viện dẫn cử chỉ nầy như một trong số những bằng chứng khác: "Chúng tôi cũng đã cùng ăn cùng uống với Người" (Cv 10: 41). Trong chương 21 Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su chuẩn bị trên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a một bữa ăn cho các môn đệ, vì họ đã vất vả suốt đêm mà chưa ăn gì. Sau mẻ cá lạ lùng, Ngài nói với các ông: "Anh em đến mà ăn" (Ga 21: 12). Như vậy Ngài đã dự phần với họ "cá và bánh" mà Ngài đã đặt sẳn ở trên than hồng.
c. Bài học chú giải:
Bằng chứng trí tuệ cũng quan trọng không kém bằng chứng thể lý. Đức Giê-su chú tâm vào bằng chứng trí tuệ nầy từ lâu khi Ngài nhắc cho các ông nhớ lại: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm".
Như trên đường Em-mau, Đức Giê-su đã khai lòng mở trí cho hai môn đệ hiểu các bản văn nầy loan báo những đau khổ, cuộc phục sinh từ cõi chết của Ngài và những hoa trái tinh thần của cuộc hoán cải và ơn tha thứ phổ quát mà cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài mang lại.
Bài học chú giải nầy, được ban cho hai lần trong cùng một ngày, chắc chắn là cần thiết. Không phải trong sách Công Vụ thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng các môn đệ quy tụ chung quanh Đấng Phục Sinh hỏi Ngài: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?" (Cv 1: 6). Với cái đầu bướng bĩnh nầy, phải nói đi nói lại rằng Vương Quốc mà Kinh Thánh loan báo không là vương quốc Ít-ra-en trần thế, nhưng là vương quốc hoàn vũ của Thiên Chúa. Biến cố Phục Sinh không là dấu chấm hết cho một cuộc phiêu lưu của Thiên Chúa, nhưng là một điểm khởi đầu của công trình bao la mà bây giờ các môn đệ phải bắt tay thực hiện, khi rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha thứ tội lỗi.
d. Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem.
Giê-ru-sa-lem, kỳ hạn cuối cùng của sứ mạng Đức Giê-su và khởi điểm của sứ mạng Giáo Hội, đó là tất cả quan điểm của Tin Mừng Lu-ca.
Có một thời gian tôi được hân hạnh chung sống với một số vị linh mục, trong đó có một Cha: PS3 B-56
Có một thời gian tôi được hân hạnh chung sống với một số vị linh mục, trong đó có một Cha đã từng đi du học ở Rôma và có dịp đi nhiều nơi trên thế giới. Về Việt Nam, Cha đã dạy Thần Học nhiều năm ở các Đại Chủng viện. Lúc đó Cha đã lớn tuổi và về hưu. Qua các câu chuyện hằng ngày, Cha đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm qúy giá về cuộc sống Đức Tin của Cha. Mỗi lần kết thúc câu chuyện, Cha đều chắp tay nói: Tất cả là chữ “Credo!” (Tôi Tin!).
“Tin” là bước khởi đầu khó khăn nhất để nhận ra Thiên Chúa hiện hữu, vừa là Đấng Tạo Hóa, vừa là Cha chúng ta, và để tin Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật, đã chịu chết trên Thánh Giá, đã chịu táng trong mồ, nhưng thực sự đã sống lại và đã về Trời để mở đường về Trời cho chúng ta.
Đức Tin thật sự là một ân huệ Chúa thương ban cho những ai biết sống khiêm tốn và biết lắng nghe tiếng Chúa nói qua lòng mình.
Các Tông Đồ dù đã sống với Chúa , dù đã được Chúa nói trước về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, nhưng vẫn thật khó tin việc một người chết treo trên Thập Giá, đã an táng trong mồ, mà đã sống lại thật.
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta thấy “Tôma chỉ tin thật Chúa đã sống lại khi nhìn thấy tận mắt ‘chân tay và cạnh sườn Chúa’ (Gioan 20,24…). Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này (Luca 24, 35-48), chúng ta thấy hai môn đệ chán nản, bỏ cuộc trở về qê hương Emmau; Chúa Phục Sinh đã hiện ra, đi đường và đàm đạo với các ông ‘như một người đồng hành’ mà các ông vẫn không nhận ra, cho đến khi cùng ngồi bàn ăn và thấy cử chỉ ‘người khách đồng hành’ cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng và trao cho các ông!... Bấy giờ mắt các ông mới mở ra và nhận ra là Chúa!... Hai ông quá vui mừng vì đã thấy Chúa sống lại thật, ngay đêm khuya, vội vã trở về Giêrusalem thuật lại câu chuyện cho các Tông đồ khác. Lúc đó, Chúa Phục sinh lại hiện ra với các ông, thế mà các ông “vẫn hoảng sợ, tưởng là ma!”(Luca 24,37).
Vì thế, trong Bài Đọc I (Cv. 3, 13-15, 17-19), Thánh Phêrô đã trưng dẫn tất cả những lời tiên tri căn bản trong Cựu Ước để chứng minh cho dân chúng có thể tin nhận “Chính Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại.” Và trong Bài Đọc II (1 Gioan 2, 1-5), Thánh Gioan đã cũng nhắc nhở chúng ta việc Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại: “Chính Ngài là của lễ đền tội cho chúng ta; mà không phải chỉ nguyên cho chúng ta mà thôi, mà còn đền tội cho cả thế giới!”
Trong Đêm Thánh Vọng Phục Sinh, chúng ta đã chứng kiến nhiều anh chị em (Riêng tại Hoa Kỳ năm nay đã có khỏang 150 ngàn người, kể cả vị Cựu Chủ Tịch Hạ Viện Newt Gingrich – năm ngoái có Cựu thủ TướngAnh Quốc Tony Blair) sau bao ngày tháng tìm hiểu giáo lý đã quyết tâm xin chịu phép Thánh Tẩy và chính thức gia nhập Giáo Hội Chúa. Trong nghi lễ rất cảm động, trước khi được chịu phép Thánh Tẩy, tất cả đã tuyên bố từ bỏ tội lỗi và nếp sống trần tục; sau đó đã long trọng tuyên xưng “TÔI TIN!” sau ba câu hỏi căn bản về Đức Tin: “Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất không?”, “Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha không?”, “Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công Giáo, tin các Thánh Thông Công, tin Phép Tha Tội, tin xác loài người sẽ sống lại, và sự sống đời đời không?”
Tất cả tín hữu chúng ta đã được chịu Phép Thánh Tẩy trong Đức Tin căn bản đó, và mỗi Thánh Lễ cuối tuần, khi chúng ta cùng họp mặt để thờ phượng Chúa, và học hỏi Lời Chúa, chúng ta đều cùng nhau tuyên xưng Đức Tin qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính một Thiên Chúa…”
Vậy, mỗi khi chúng ta dự Lễ Thánh Tẩy trẻ em hoặc người lớn, cũng như trong Thánh Lễ cuối tuần, khi tuyên xưng Đức Tin, chúng ta hãy luôn ý thức lời tuyên xưng của chúng ta, và xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống Đức Tin của chúng ta qua việc thực hành Đức Bác Ái trong niềm Trông Cậy vững chắc vào cuộc sống đời đời Chúa đã hứa ban. Lm. Anphong Trần Đức Phương
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Biến cố này: PS3 B-57
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Biến cố này, Gioan cũng thuật lại trong Ga 20,19-23.
Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người: Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với mức độ khác nhau.
Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng mình đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.
Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn Ngài hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất hay linh thiêng, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ vào được.
Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.
Khi các Tông đồ đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi, Chúa mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Maisen, các sách tiên tri và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.
Đức Giêsu nói cho các Tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Ngài. Nếu Thánh kinh không ứng nghiệm về Ngài, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Thánh kinh loan báo về Đấng cứu độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4,12). Để thấy rõ như thế, Ngài đã “dẫn giải cho các ông những điều viết về Ngài trong toàn bộ Thánh kinh”(Lc 24,27). Để có thời gian giải thích, chắc Ngài còn phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là 40 ngày được ghi rõ trong sách Công vụ tông đồ: “Ngài lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”(Cv 1,3). Thời gian 40 ngày đã quá đủ để các Tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.
II. Các Tông ĐỒ Làm ChỨng VỀ Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ khi Ngài sống lại: “Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,47-48).
Trong bài đọc một, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Đức Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Ngài và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử không thấy tội gì. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi đã phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng 3000 người theo đạo”(Cv 2,41).
Trong bài đọc hai, thánh Gioan đã làm chứng về “ Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cho cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.
Nhìn vào lịch sử truyền giáo, chúng ta thấy các Tông đồ, những chứng nhân trung thực, đã đi rao giảng Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cho muôn dân, nghĩa là sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu thế... các Tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực nào hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước toà án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khảng khái thưa: “Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chịu chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 Tông đồ, lại có biết bao lớp Tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
III. Chúng Ta Làm ChỨng VỀ ĐỨc Giêsu PhỤc Sinh.
Đức Kitô đã làm chứng về Ngài đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các Tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Ngài.
1. Giáo huấn của Hội thánh.
Trong sắc lệnh Tông đồ giáo dân của công đồng Vatican II, Hội thánh nhắc nhở cho các tín hữu nhiệm vụ làm tông đồ và làm chứng nhân bởi vì nhiệm vụ này phát xuất từ bí tích Thánh tẩy:
“Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến. Đó là dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại chúng ta để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín hữu của Người. Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết người giáo dân rao giảng Chúa Kitô cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Người tùy theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi người, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Người nữa”. (Sắc lệnh tông đồ giáo dân, số 16)
2. Làm chứng là gì ?
Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh qua hay đã kinh nghiệm. Hay nói cách khác, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã nghe, đã trải qua. Ở toà án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều mắt thấy tai nghe, và phải nói đúng sự thực như mình đã thấy. Chứng nhân càng có uy tín thì lời chứng của mình càng có giá trị, khiến người khác dễ bị thuyết phục. Ngược lại, những người không có uy tín thì khiến những lời nói của mình không có tính thuyết phục, đôi khi lại trở nên phản chứng.
3. Làm chứng như thế nào ?
Làm chứng cho Đức Giêsu đâu có phải là chỉ kể lại cho kẻ khác về đời sống của một vĩ nhân đã sống cách đây 2000 năm. Ai cũng có thể làm được điều này. Làm chứng cho Đức Giêsu đâu phải chỉ là xác nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại. Đám lính cánh gác mồ cũng đã làm như thế. Làm chứng cho Đức Giêsu chính là dùng chính cuộc sống của mình để chứng tỏ rằng quyền năng của Đức Giêsu sống lại đã tác động và biến đổi chúng ta một cách lạ lùng nhất, có thể tưởng tượng được. Làm chứng nhân cho Đức Giêsu là để cho Ngài ngỏ lời với tha nhân ngang qua chúng ta, nghĩa là dùng chúng ta để nói với kẻ khác.
Truyện: làm chứng bằng đời sống.
Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài” Truyền giáo năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị phải xử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hoà hợp.
Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu: “Tại Phi châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở, báo chí, phim ảnh, chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình công giáo tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo. (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 208)
Thánh Phaolô nhận thấy mình có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, nếu không là một điều có lỗi lớn: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Nếu muốn rao giảng Lời Chúa thì mỗi người có trách nhiệm phải lắng nghe và thực hành lời Chúa vì không nghe thì làm sao mà biết, không biết thì làm sao có thể rao giảng Lời Chúa bằng cách này hay cách khác cho những người chung quanh. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào ? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài bài ngắn, bài hấp dẫn bài buồn ngủ...
Vào giây phút cuối cuộc đời, văn sĩ John Bayern đã nói những lời từ giã người vợ thân yêu như sau: “Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.
“Trong gương mặt của mình tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa”. Mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống như thế nào, để anh em chung quanh có thể nói tương tự: “Trong gương mặt của anh, tôi có thể nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn bạn vô cùng”. Đó là ơn gọi cao cả của mỗi người Kitô hữu được gọi trở nên giống Chúa, và làm cho những người khác nhìn thấy Chúa như trong Tin mừng theo thánh Matthêu. Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” . Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của người Kitô hữu đến độ Chúa so sánh cuộc sống của họ như đèn sáng: “Các con là anh sáng thế gian”. Ánh sáng đó cần phải chiếu sáng trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. (Hạt giống âm thầm, tr 178)
Ta hãy suy nghĩ về đoạn văn trích từ lá thư mục vụ của Giám mục Duval của Pháp:
“Dù có phát biểu khéo léo đến đâu, những tư tưởng trừu tượng cũng khó mà cảm động được lòng người. Nhưng những con người sống động, có khả năng làm cảm động lòng người, những người đó hãy xung phong bước ra. Hãy để cho chân lý trào ra từ cuộc sống của mình, và hãy làm cho quyền năng của mình tương xứng với món quà mà mình trao tặng bằng tình yêu. Lúc đó mọi người sẽ lắng tai nghe, và bình minh của những ngày tươi sáng sẽ bừng lên trên bầu trời của chúng ta”.
Truyện: Gương lành lôi kéo.
Một nhà truyền giáo Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên cạnh, để nuôi dạy ông học tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như sau:
Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.
Nhà tuyền giáo trả lời:
Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ phải trở lại đạo Chúa.
Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:
Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không ai có thể sống bên cạnh ngài lâu, mà không bị ngài cảm hóa tin theo Chúa. Tôi không thể dạy ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô hữu.
Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô, đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ (Sđd, tr 179).
Sống trong một thế giới hưởng thụ, văn minh lên cao và con người thích lợi nhuận, thích tìm: PS3 B-58
Sống trong một thế giới hưởng thụ, văn minh lên cao và con người thích lợi nhuận, thích tìm tòi những việc thực tế, con người ưa thực dụng hơn là suy nghĩ, động não vv…Do đó, Tin Mừng của thánh Luca hôm nay nói về việc Chúa Giêsu sống lại:” Chúng ta hãy làm chứng nhân cho Người”. Làm chứng cho Chúa phục sinh là giới thiệu Chúa quả thực đã sống lại và đang hiện diện với con người, với nhân loại, với thế giới.Làm chứng cho Chúa phục sinh không đòi lợi nhuận, không cần tiền bạc nhưng là sống chính đức tin và tình thương để làm chứng.
CÁC MÔN ĐỆ CŨNG SỢ MA:
Vấn đề ma quỉ hoành hành và gieo rắc những trở ngại, sự dữ tràn lan và đau khổ chất chồng vẫn là những đe dọa đang đè nặng trên con người. Việc sợ ma không chỉ xẩy ra với các trẻ nhỏ, nhưng người lớn cũng sợ ma, ngay cả các môn đệ cũng không khỏi bàng hoàng sợ ma. Đọc Tin Mừng chúng ta nhận ra đã có lần Chúa Giêsu đi trên mặt nước, đi trên mặt hồ mà tới với các môn đệ. Các ông sợ run lên vì ngỡ rằng ma hiện hình. Chúa phục sinh hiện ra với các ông, các ông vẫn cứ tưởng là ma. Chúa sống lại đã luôn kiên nhẫn và tìm mọi cách để đưa các môn đệ ra khỏi mọi nỗi ám ảnh của ảo tưởng là nhìn thấy ma. Chúa cho các môn đệ xem các lỗ đinh ở tay, chân, xem cạnh sườn bị đâm thâu vv…để các ông thấy Người là người bằng xương bằng thịt. Chúa Giêsu sống lại còn ăn một miếng cá nướng để các môn đệ thấy Ngài là người thật chứ không phải là bóng ma. Vâng, khi các môn đệ còn yếu đức tin, đức tin chưa được củng cố, Chúa Thánh Thần chưa soi sáng các ông, các ông coi Chúa Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Đức tin một khi đã được củng cố, Chúa Thánh Thần mở trí soi lòng cho các ông, các môn đệ đã nhận ra Chúa phục sinh:” À ra là Thầy“.
CÁC MÔN ĐỆ LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH:
Khi nhận ra Chúa phục sinh, các môn đệ đã hăng say làm chứng cho Chúa, bởi vì họ hiểu rõ lời Kinh Thánh:” Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này “ ( Lc 24, 46-48 ). Các môn đệ đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh, họ không hề sợ sệt, không hề bị nao núng trước bất cứ thế lực nào, họ sẵn sàng đổ máu, hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa.
MỌI KITÔ HỮU ĐỀU PHẢI LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH:
Chúa phục sinh vẫn luôn hiện diện với thế giới, với con người. Do đó, sự dữ, bóng tối sẽ bị đánh tan. Kitô hữu tin vào sự chiến thắng của Chúa trên sự dữ, ma quỉ và ngay cả sự chết. Mọi Kitô hữu luôn là chứng nhân cho niềm vui như các môn đệ buồn phiền vì Thầy chết nhưng họ bừng tỉnh và vui sướng khi nghe Chúa sống lại. Họ không còn sợ , không còn lo âu vì Thầy đã sống lại thật.Hãy mang lại cho con người nụ cười, hãy đẩy lùi sự dữ, hãy làm cho sự hy vọng tiến triển. Hãy làm sáng lên niềm tin. Như thế, Kitô hữu đã công bố Tin Mừng phục sinh.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Hãy nhìn gương của Mẹ Têrêsa Calcutta. Hãy nhìn gương của một Phanxicô khó nghèo. Hãy nở nụ cười như Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô I. Hãy có lòng tha thứ và nhân từ như Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hãy nhìn vào gương các thánh. Tất cả đều là những chứng nhân sống động cho Chúa phục sinh.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin dạy chúng con biết trở nên những chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen.
Có thể nói đường đi Emmau nào có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về: PS3 B-59
Có thể nói đường đi Emmau nào có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng hái lên đường bắt bớ.Tiếc thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ đều cần ơn “trở lại” để đổi mới cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự hiện diện đồng hành,bằng đòn quật ngã khỏi yên ngựa.
Dưới tác động của ân sủng, họ được biến đổi trở nên chứng nhân loan báo Tin mừng Phục sinh.
Hành trình Emmau:
Ai đã từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên đường sự nghiệp sẽ hiểu được tâm trạng buồn phiền chán nản,nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên đường Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng, họ luôn ôm ấp hoãi bảo lớn lao.Thầy sẽ lập quốc,đánh đuổi đế quốc La mã.Thầy sẽ là vua.Họ sẽ là các quan đại thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực thúc đẩy các môn đệ.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục.
Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy nhất là ưu tư về chính mình.Thái độ ấy đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân tình của Đấng Phục Sinh.
Đức Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh”. Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các tiên tri,chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn thánh kinh”.
Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của Đức kitô. Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi.
Trong quán trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh. Mắt họ mở ra khi ”Đức giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ. Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại được Chúa, Đấng Hằng sống trên đường đời của họ.Từ nay, Chúa ở với họ, tỏ ra cho họ qua những dấu chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục sinh.
Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ. Họ gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục sinh.
Từ nay các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng n iềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.
Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các Ngài nữa vì Đấng Phục sinh đang cùng họ đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Hành trình Đamas:
Trước khi trở lại,đối với Phaolô,Tin mừng về Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất chưa từng nghe nói bao giờ.Giêsu đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại.
Nghe bài diễn văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền:Giêsu Nazareth, người mà Thiên Chúa đã uỷ thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà các ông đã bắt và đã kết tội tử hình, đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài. Phải,Thiên Chúa đã cho cho sống lại…chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng tôi đã là nhân chứng tại chỗ..
Saolô với tư cách là người có học, một biệt phái mộ đạo. Ông có thông biết thánh kinh bằng hay hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng ?. Phêrô, Gioan đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người bệnh và người bệnh được khoẻ mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên cố.Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu. Người lạ gặp thấy hai ông đang lên tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu đã sống lại, hai ông đã chứng thực về những phép lạ các ông cử hành nhân danh thầy chí thánh.
Saolô không thể chấp nhận như thế mãi được, phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang,bụi tung mịt mù,trời nóng như thiêu đốt. Không quan trọng ! Saolô ra đi, điều cần thiết nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo về Giêrusalem.
Và bỗng chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ông không còn thấy gì nữa. Ông nghe có tiếng gọi ông:”Sa-un,Sa-un,sao ngươi lại bắt bớ Ta?”
Ông hỏi lại:”Thưa Ngài,Ngài là ai?” Tiếng nói lại âm vang:”Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại”( Cv 9,5) Saolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi ! Thê rồi ông chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô đã khuất phục:”Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania. ( Cv 9,5-8). Saolô đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông được đưa về Đamas.Sau ba ngày, có một người Dothái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo:”Saolô,người anh em,hãy nhìn thấy lại”.Phép lạ đã xảy ra,Saolô lại thấy được.Saolô đã chịu phép rửa bởi tay Khanania.Ong cần thời gian để tĩnh tâm,học hỏi và cầu nguyện.Thế là ông rời bỏ Đamas để sang vùng Ảrập sống trong thanh vắng.Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba năm (Gal 1,17).Ba năm trời ông nghiền ngẫm thánh kinh,đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin mừng.Ba năm trời đã cho ông tâm tình của Chúa Kitô,đã đồng hoá ông với Đức Kitô đến nổi ông phải tuyên bố:” Không phải tôi sống,nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” ( Col 2,20).
Kể từ lúc sáng mắt,Saolô đã hoàn toàn đổi mới.Ong nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tất cả thao thức ”Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”( 1 Cor 5,14).Với tên mới Phaolô,vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại lừng danh.Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài” tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa,là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”( Gal 2,20).
Hành trình Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô.Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn ”Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân,bắt bớ, đói khát,trần truồng, nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta “ ( Rm 8,35-39).
Đọc lại hành trình Emmau,hành trình Đamas để nhận thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ niềm tin Chúa Kitô sống lại.
Trong hành trình theo Chúa,người tín hữu có lúc phải đối diện với vô vàn khó khăn phức tạp của đời sống muôn mặt.Có những thất bại,có những chống đối làm choáng váng,ngỡ ngàng hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và can thiệp.Ngài dường như bỏ mặc cho thế gian hoành hành.
Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Hãy biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ Emmau.Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố đau đớn như Phaolô té ngựa trên đường Đamas.
Với tất cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của niềm hy vọng,chứng nhân của sự sống, chứng nhân của niềm vui.
Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,48). Những điều này là những điều: PS3 B-60
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,48). Những điều này là những điều gì đây ? Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “ Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” ( Lc 24,47 ).
Phải nhìn nhận rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô là một chủ đề chính của lời rao giảng của các tông đồ. Đã có lúc, có nhiều đấng vì muốn nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục sinh nên thích chưng ảnh tượng Chúa Phục sinh trong cung thánh Nhà thờ, thế mà Hội Thánh vẫn không chuẩn nhận. Theo luật hiện hành thì phải chưng ảnh tượng Chúa chịu nạn ( Crucifix ), dù rằng mầu nhiệm Chúa Phục sinh chính là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo, vì như lời thánh Phaolô Tông đồ rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lại thì Kitô hữu là những người khốn khổ nhất.
Cả hai mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh luôn song hành với nhau, không thể tách rời. Mầu nhiệm Phục sinh khẳng định rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm chủ sự sống và sự chết. Mầu nhiệm Tử nạn lại mạc khải cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” ( 1 Ga 4,8 ). Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( x.Ga 15,13 ). Cũng như các Tông đồ xưa, Kitô hũu chúng ta mọi thời cần phải làm chứng rằng Đấng tử nạn đã phục sinh đồng thời phải làm chứng rằng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn.
Đấng tử nạn đã phục sinh: Khi tuyên bố chân lý này, chúng ta tuyên tín rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật. Người đã phục sinh như lời Người đã tiên báo. Nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa có nghĩa là kính dâng lên Người sự thần phục của chúng ta. Không chỉ chúng ta mà mọi vật mọi loài cần phải suy phục Đấng đã phục sinh như là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Cùng với thánh Phaolô chúng ta tuyên xưng: “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người…” (Col. 1,16 ).
Sự suy tôn, thần phục không chỉ thể hiện bằng việc nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có, đều do bởi Đấng đã phục sinh mà còn thể hiện bằng việc gắn bó với Người và hết tâm hết lòng tuân giữ lời Người phán dạy. Thánh Gioan khẳng định qua bài đọc thứ hai: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…”( 1 Ga 2, 4 ). Các Tông đồ xưa đã thực thi điều này khi khẳng khái trước mặt quan quyền rằng: Phải vâng lời Chúa hơn là vâng lời phàm nhân ( x.Cvtđ 4,19 ).
Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn: Chân lý này gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, khi cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Vì yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban chính Con Một ( x. Ga 3,16 ). “ Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” ( Col 1,19-20).
Tuyên xưng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn thì cũng là nhìn nhận tội ác của con người, của chính mỗi người chúng ta. Vì chúng ta, Đức Kitô đã chịu nộp, chịu khổ hình thập giá. Như thế lời tuyên xưng này luôn bao hàm lời mời gọi hoán cải ăn năn để được ơn tha tội. Thiên Chúa đã rộng ban ơn tha thứ, sự giải hòa, qua cái chết của Đức Kitô. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng chúng ta có nhận được sự thứ tha hay không, vẫn còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Nói như thánh Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi, không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Và sự sám hối, ăn năn chính là một cách thế căn bản để đón nhận hồng ân tha thứ, hồng ân cứu độ.
Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Lời truyền của Đấng Phục sinh năm xưa vẫn còn vọng vang đến những người tin là các Kitô hữu. Ước gì bà con lương dân, anh chị em khác đạo không chỉ nghe các bài ca “Hallêluia, Chúa đã sống lại”, mà còn nhìn thấy các Kitô hữu, cách riêng các mục tử trong Hội Thánh biết sám hối ăn năn, thay đổi đời sống. Các Tông đồ xưa, đã làm chứng nhân trước hết bằng việc dứt bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các Ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính giá máu… Xin lỗi Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI, không chỉ hôm nay mà cả trước đây lẫn sau này người ta vẫn thích nghe theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Cha ông dân Việt đã cảm nghiệm rằng: “ lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”. Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tin mừng hôm nay bắt đầu bởi câu chuyện “hậu Emmau”. Hai môn đệ trên đường về Emmau được: PS3 B-61
Tin mừng hôm nay bắt đầu bởi câu chuyện “hậu Emmau”. Hai môn đệ trên đường về Emmau được Chúa Phục Sinh hiện ra giảng giải Kinh thánh trong suốt hành trình khoảng 11 cây số để rồi cuối cùng, với những lời chúc tụng và cử chỉ của “ông khách” sao giống hôm thứ Năm tiệc ly quá, các ông nhận ra Chúa, vội vã trở về Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác. Điều gì xảy ra cho các môn đệ trong lần Chúa Phục Sinh hiện đến tại kinh thành Giêrusalem?
Không kể ra, chúng ta cũng biết nổi vui mừng tột cùng của hai môn đệ Emmau khi thuật lại việc các ông nhận ra Chúa phục sinh như thế nào cho các môn đệ nghe. Sự kiện Thầy sống lại được nhiều người loan báo khiến tâm trạng các môn đệ vừa kinh ngạc, vui mừng và hoài nghi lẫn lộn. Thật thế, khi đang nghe hai môn đệ Emmau thuật chuyện Chúa sống lại, thì… “úm ba la” Chúa hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”, khiến các ông hoảng sợ thật sự, tâm trí các ông hoảng loạn vì cho rằng đó là… ma hiện hình!
Trước tình trạng yếu kém niềm tin này, Chúa Kytô Phục Sinh đã khắc phục lòng tin cho các ông. Đầu tiên là việc Chúa cho các ông xem tay chân- nơi có những dấu đinh. Đây là những dấu thẹo để lại trên tay chân và cạnh sườn của Thầy do hậu quả của việc bị đóng đinh. Người đang đứng trước mặt các ông rõ ràng là một người bằng xương bằng thịt. Trước những bằng chứng hiển nhiên như thế, các ông có vui đấy, có mừng đấy nhưng… vẫn chưa tin! Vì sao có sự kỳ lạ này? Nếu tìm hiểu kỹ, chúng ta sẽ thấy đây chính là đặc tính thần học nổi bật của tin mừng Luca. Chúng ta biết, khác với Máccô, khi nói về các lầm lỗi của các môn đệ, ông chẳng che giấu, cứ nói “toạc móng heo”; Luca thì trái lại, ông luôn bênh vực các môn đệ. Những lỗi lầm của các môn đệ nếu có đều được Luca tìm cho một lý do để làm nhẹ tội. Ở đây cũng vậy. Luca “bao che” cho các môn đệ. Lý do các ông chưa tin Chúa Phục Sinh là vì các ông mừng quá đấy thôi chứ chẳng phải các ông yếu tin đâu! Thế mới biết, tâm tình quý trọng các môn đệ của thánh Luca thật đặc biệt.
Cứ thì cho rằng các ông mừng quá nên chưa tin đi, Chúa Kytô Phục Sinh càng củng cố thêm niềm tin cho các ông bằng cách ăn ngay một khúc cá nướng để chứng tỏ cho các môn đệ thấy dấu chứng đích thực bằng xương bằng thịt của Chúa chứ chẳng phải là ma không xương không thịt. Đến đây, không nói chắc chúng ta đều biết các môn đệ hạnh phúc biết chừng nào khi có Thầy hiện diện sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
Công việc của Chúa Phục Sinh mỗi khi hiện diện với các môn đệ là gì? Chúng ta biết, từ trước đến nay, như bao người Do thái khác, các môn đệ cũng đọc Kinh thánh hằng ngày, hát Thánh vịnh không ngừng, thế nhưng các ông chả hiểu gì cả - có thể các ông và cả chúng ta nữa, đọc lấy rồi lấy có mà chẳng để ý đến ý nghĩa chăng. Thế nên, Chúa Phục Sinh đã mở trí và giảng giải Kinh thánh và Thánh vịnh cho các ông. Chúa cho các ông biết là những lời Kinh thánh chép về Đấng Mêsia đếu phải được thực hiện. Đặc biệt là việc Đấng Mêsia ấy phải chịu khổ hình, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại đều được ghi tất tần tật trong Kinh thánh. Hiểu biết Kinh thánh là hiểu biết Chúa Kytô, vì thế điều Chúa muốn là các môn đệ cần phải thấm nhuần đạo lý về Kinh thánh để có thể giới thiệu Chúa cho mọi người.
Một khi hiểu Kinh thánh nói gì, các môn đệ cũng đồng thời được Chúa uỷ thác một sứ mệnh: “Chính anh em là chứng nhân những đều này”. Cũng chính từ những nhân vật yếu tin này, nhờ Chúa tác động, các ông đã mạnh mẽ ra đi loan báo Tin mừng Phục Sinh. Các Ngài đã dám hy sinh chính mạng sống mình để làm chứng cho một niềm tin: hãy tin vào Đấng Phục Sinh để được ơn hoà giải và thứ tha. Sứ mệnh đó vẫn đang và sẽ còn được Giáo hội rao truyền qua muôn thế hệ.
Cũng như các môn đệ, có lẽ chúng ta vẫn còn đang sống trong tâm trạng của những kẻ hoài nghi hoặc mất dần niềm tin vào Chúa Kytô, vào Giáo hội. Thế nên chúng ta cần biết bao đến sự trợ giúp của Chúa để củng cố niềm tin còn non yếu này. Tuy là những con người bất toàn, đầy khiếm khuyết, các môn đệ đã được Chúa tin tưởng trao phó sứ mệnh quan trọng là làm chứng cho Chúa giữa lòng trần thế. Mỗi người chúng ta cũng không ra ngoài quỹ đạo này. Xin Chúa Phục Sinh thêm niềm tin và sức mạnh để chúng ta biết làm chứng cho Chúa Kytô Phục Sinh trong môi trường của mình, làm chứng cho Chúa trong mọi công việc hầu giới thiệu tin vui
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ: PS3 B-62
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Người ta sợ thất bại. Sợ rủi ro. Sợ mất an ninh. Sợ nghèo đói. Sợ bị trả thù. Sợ phải đối diện với sự thật. Có cái sợ làm người ta “ăn không ngon, ngủ không yên”. Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản thân và tha nhân. Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.
Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.
Chúa đã quở trách các ông “sao lại hoảng hốt thế! Ma đâu có xương có thịt như vầy!”. Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin. “Sao lòng anh em còn ngờ vực?”. Đã bao năm sống với Thầy. Đã nhiều lần chứng kiến những phép lạ Thầy làm. Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo “Sau ba ngày Thầy sẽ sống lại”. Thế mà các ông vẫn không tin. Từ không tin dẫn đến sợ hãi. Sợ bóng đêm của cuộc đời. Sợ những điều mới lạ. Sợ hãi dẫn đến chia đàn xẻ nghé. Mỗi người một nơi. Đường ai ai nấy đi. Sợ hãi nên đâu dám nhìn đời, nhìn người. Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly. Cửa đóng then cài trong tâm trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi.
Nỗi sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay. Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của giòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.
Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Người ta kể rằng: có một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc trong một đêm giông tố bão bùng. Cậu mở mắt, thấy cảnh vật tối tăm. Ngoài trời giông tố, sấm chớp rợn rùng. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm thét như đang giận dữ đạp đổ nhà cửa và cây cối. Bốn bề xao động. Cậu sợ hãi, hốt hoảng và cầu cứu cha:
- Cha ơi, cha ơi! Con sợ quá!
- Cha đây, cha đây! Cậu nghe tiếng cha vọng lại
- Cha đâu sao con không thấy? Con sợ quá! Cậu giơ tay ra phía trước quờ quạng.
- Cha đây, Cha đây! Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu. Cậu ôm lấy cha, áp đầu vào ngực cha. Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng sự sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.
Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù giòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen
Trình thuật Tin mừng hôm nay nói về việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ; Người nói với các: PS3 B-63
Trình thuật Tin mừng hôm nay nói về việc Ðức Giêsu hiện ra với các môn đệ; Người nói với các ông: "Chúc anh em được bình an".
"Bình an cho anh em", đó là ân huệ lớn lao của Ðấng Phục sinh. Bình an của Thiên Chúa, của Ðức Giêsu Phục sinh, không như bình an của người đời. Chúa Giêsu không đăng quang làm vua và thiết lập một vương quốc hùng mạnh để tiêu diệt các thế lực đang đe dọa các tông đồ; nhưng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết, và các tông đồ hiểu rằng sự chết cùng tất cả những thế lực của nó không thể thống trị con người nữa; vì sự sống lại của Ðức Giêsu chính là sự phá hủy cặn rễ của ích kỷ và hỗn độn; vì chính Thiên Chúa mới là chủ tể của lịch sử, Người muốn "Ðấng Messia phải chịu khổ hình; rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại".
Sự hiện diện của Chúa Giêsu là bảo đảm cho chiến thắng của "vương quốc của Thiên Chúa". Các tông đồ được cùng ăn với Người, và các ông được sống trong vương quốc của Người. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có bình an; nơi nào có các ân huệ của Người, nơi đó là nước của sự bình an.
Ðời sống của con người có nhiều nỗi sợ, đủ kiểu, đủ loại. Sợ cháy nhà, sợ mất của, sợ đau khổ… thậm chí sợ ma. Với những người khác, có thể đó chỉ là những nỗi sợ vu vơ; nhưng với chính người đang sợ thì chúng lại rất thật và chúng đè bẹp con người.
Tuy nhiên, Ðức Giêsu khẳng định "Ðừng sợ". Ai sống trong sự bình an của Chúa, người đó không phải sợ, vì Ðấng là đường đi, là sự thật, là lẽ sống đang ở cùng. Vì Ðấng Phục sinh đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta và Người nói lời bình an cho chúng ta. Nói khác, đời sống Kitô giáo được bảo đảm vì "Chúa ở cùng anh chị em"; vì "bình an của ở cùng anh chị em", như lời linh mục vẫn nói trong các thánh lễ; và người kitô hữu sống với sự bình an đó hằng ngày.
Như thế, dù đời sống còn nhiều khó khăn thế nào, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào sức mạnh Phục sinh của Chúa; hãy hát vang lời ca tụng Chúa Phục sinh trong niềm hoan lạc; vì có Chúa Phục sinh đang dẫn dắt cuộc đời chúng ta; Người cũng sẽ chiến thắng mọi thế lực đe dọa chúng ta; để chúng ta được sống trong nước bình an của Người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa vẫn ở với chúng con, nhưng nhiều khi chúng con không nhận ra; Chúa vẫn muốn uốn nắn cuộc đời chúng con theo Thánh Ý Chúa Cha; nhưng bao lần chúng con lại sợ hãi và khước từ.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con được tin tưởng và được sống bình an trong Nước của Ngài. Lm. An Phong, OP
Hòa bình thế giới bắt nguồn từ đâu? Phải chăng đó là kết quả của những nỗ lực ngoại giao: PS3 B-64
Hòa bình thế giới bắt nguồn từ đâu? Phải chăng đó là kết quả của những nỗ lực ngoại giao, chính trị, kinh tế, quân sự? Hơn bao giờ hết, nhân loại cần nhận biết sứ điệp hòa bình Thiên Chúa gởi đến cho mọi người qua cuộc Phục Sinh của Ðức Giêsu Kitô. Hòa bình cần được củng cố trên nền tảng tình yêu là chính Thiên Chúa. Nền tảng đó được phơi bày trong ánh sáng Phục sinh. Vì "mầu nhiệm Phục Sinh là cao điểm Thiên Chúa hoàn thành tất cả mạc khải Người" (O'Collins 1995:774).
HÒA ÐIỆU TUYỆT VỜI
Tội lỗi đã phá đổ thế quân bình của thế giới. Giá trị bị đảo ngươc. Nhưng nhờ Ðức Kitô Phục Sinh, con người đã lấy lại hòa điệu ban đầu và sống bình an với Thiên Chúa. Chính vì thế mỗi lần xuất hiện với các môn đệ, Ðức Giêsu đều nói: "Bình an cho anh em !" (Lc 24:36) Ðây không phải là lời cầu chúc bình thường. Trái lại đó là sứ điệp hòa bình Ðức Giêsu gởi đến cho nhân loại (Ga 20:19,21, 26). Sứ điệp đó chính sứ thần reo vang đêm Chúa Giáng sinh (Lc 2:14). Ðó là sứ điệp gói trọn cuộc đời Ðức Giêsu từ lúc mới sinh cho đến lúc Phục Sinh. Nói khác, cả cuộc đời và con người Ðức Giêsu là một bài ca hòa bình cho nhân loại.
Bài ca hòa bình đó vô cùng thiết thực, thiết thực như chính thân xác Ðức Giêsu. Chỉ có một sứ điệp hòa bình cũng như chỉ có một thân xác duy nhất trước và sau Phục Sinh. Thân xác đó đã biến thành "tấm thân hòa bình", nơi gặp gỡ giữa đất trời, giữa con người với con người. Chính Người đã củng cố niềm tin các môn đệ và đem lại bình an cho những tâm hồn ngờ vực đó Khi xuất hiện giữa các ông, Ðức Giêsu đã thấy rõ cơn xáo trộn tột độ trong lòng các ông. "Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma" (Lc 24:37). Tuy nhiên, các ông đã lấy lại bình an nhờ lời Thày: "Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thày coi, chính Thày đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thày có đây ?" (Lc 24:38-39). Sau khi đã lần lượt "rờ" Chúa, các ông tràn ngập niềm vui. "Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: 'Ở đây anh em có gì ăn không ?'" (Lc 24:41). Chúa biết vẫn còn một chút gì lấn cấn trong niềm tin các ông. Bởi đó Người đã cho các ông có một kinh nghiệm sâu xa về hoạt động thân xác Người. Nói khác, bộ máy tiêu hóa vẫn sinh hoạt bình thường chứng tỏ một con người Giêsu trước và sau Phục Sinh vẫn là một. Bằng chứng "Người cầm lấy và ăn (một khúc cá nướng) trước mặt các ông" (Lc 24:43). Cùng chia sẻ một bữa ăn thân mật với các môn đệ, Ðức Giêsu thực sự đã đem lại một sự bình an và niềm xác tín vào Phục Sinh như một sứ điệp hòa bình. Không còn cảm giác Người là ma nữa. Trái lại, Người thực là nguồn bình an đích thực cho mọi người.
Nhưng để trở thành nguồn bình an đích thực, chính thân xác Người đã phải trải qua cơn xáo trộn khủng khiếp của cái chết. Chính Người đã quả quyết: "Có lời Kinh thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại" (Lc 24:46). Tất cả lời Kinh Thánh đã được giải thích dưới ánh sáng Phục Sinh. Chẳng hạn vai trò của Ðấng Thiên sai được tiên báo trong Ðnl 18:15-20; đau khổ của Người được nói trước trong Thánh vịnh 22 và Isaia 52; việc Phục Sinh được tiên tri trong Thánh vịnh 16:9-11 và Isaia 53:10,11. Người sống lại để trở thành điểm tựa cho nền hòa bình thế giới. Ðúng là một thứ hòa bình khác hẳn với quan niệm thông thường: "Thày ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng." (Ga 14:27). Không có Phục Sinh, không thể có hòa bình đích thực. Vì nếu không được ánh sáng Phục Sinh giải thoát khỏi những thế lực đen tối trần gian và ma quỉ, con người không thể thấy được con đường dẫn tới hòa bình nối kết con người với con người. Bởi thế, các chứng nhân của Ðức Kitô phải là những chứng nhân Phục Sinh. Chứng nhân Phục Sinh chính là sứ giả hòa bình ! Nhân loại hôm nay đang cần đến những sứ giả hòa bình như thế.
Nhưng hòa bình nhân loại không phải là hòa bình thiên giới. Sự khác biệt xuất hiện ngay nơi thực tế cuộc sống. Trong khi các thánh không cần sám hối, con người vẫn loay hoay với những bất toàn. Chính vì thế muốn ổn định mọi xáo trộn, muốn trả lại cho cuộc sống niềm vui và an bình, con người phải bắt đầu từ sám hối. Mình chưa sám hối, đừng mong kêu gọi ai sám hối. Bởi thế, ngay khi trao vai trò làm chứng cho các môn đệ, Ðức Giêsu cho thấy rõ điều kiện tối thiểu đó của hòa bình: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này" (Lc 24:47-48). Sức mạnh Phục Sinh sẽ lôi kéo con người trở về với thực tại lòng mình, sẽ nghe được tiếng mời gọi sống hiệp thông với Thiên Chúa và anh em. Nói khác, con người phải sám hối mới phục hồi được giá trị cao cả nhất đã đánh mất vì tội lỗi.
Ngay từ thời Giáo hội sơ khai, các chứng nhân đã mạnh mẽ kêu gọi sám hối. Các tông đồ đã nói thẳng nói thật về tội ác của người Do thái: "Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh và Ðấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Ðấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng" (Cv 3:14-15). Lời chứng mạnh mẽ đó bắt nguồn từ sức mạnh Phục Sinh. Nhưng ngay sau khi gay gắt lên án, các Tông Ðồ đã xoa dịu: "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em" (Cv 3:17). Tuy thế, các Tông Ðồ vẫn cương quyết với điều kiện căn bản: "Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em" (Cv 3:19). Thực ra, đám đông quần chúng đã sám hối ngay sau khi Chúa tắt thở trên thập giá (Lc 23:48), nhận biết lỗi mình vì đã tham gia và liên kết với các tư tế và thủ lãnh trong việc lên án Chúa. Sám hối có sức hàn gắn lại vết thương do tội lỗi gây ra. Không xa lìa tội lỗi, không thể có hòa bình. Chính vì thế, Ðức Giêsu đã cố gắng hết sức đẩy xa ảnh hưởng tội lỗi bằng cái chết và Phục Sinh của Người. "Chính Ðức Giêsu Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn vì tội lỗi cả thế gian nữa" (1 Ga 2:2). Như thế, chính Ðức Giêsu đã nhắm tới việc xây dựng nền tảng hòa bình cho toàn thể nhân loại.
PHỤC HỒI GIÁ TRỊ
Hòa bình chỉ thực sự đến với nhân loại khi giá trị con người được phục hồi. Hiện nay, giá trị đó đang bị vùi lấp dưới những sức mạnh kinh tế, chính trị, khoa học, v.v. Một cuộc xáo trộn lớn đang diễn ra trong tâm hồn và ngoài xã hội. Không thể lấp nổi khoảng trống lớn lao đó, nếu không tìm cách phục hồi giá trị con người. Cách thế đó chính là tin vào giá trị Phục Sinh. Thực vậy, "niềm tin vào Ðức Giêsu Phục Sinh có liên hệ với kinh nghiệm sâu xa nhất và niềm hi vọng cao cả nhất của chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Niềm tin Phục Sinh đem lại cho chúng ta sự sống, ý nghĩa và tình yêu, ngược với sự chết, phi lý và hận thù đang đe dọa chúng ta" (O'Collins 1995:775). Có sống trong những kinh nghiệm vong thân vì đủ thứ ảnh hưởng của hận thù, nghèo đói, chết chóc, chúng ta mới thấy niềm tin Phục Sinh có một vị thế cực kỳ quan trọng. Vì niềm tin ấy đem lại hi vọng lớn lao nhất trong những lúc thất vọng nhất.
Nhưng hơn lúc nào, xã hội đang cần những chứng nhân Phục Sinh. Lưỡi hái tử thần nhan nhản khắp nơi. Biết bao người đang tiếp tay với tử thần vùi dập anh em mình xuống tận bùn đen và hố diệt vong. Chính khi đàn áp, dẹp bỏ quyền làm người của người khác là lúc con người đang phản kháng lại ước vọng sâu xa nhất của nhân loại. Hơn nữa, sau bao nhiêu hành động dã man, con người vẫn không sám hối tức là tự vít lối mình vào niềm hi vọng Phục Sinh, niềm hi vọng duy nhất trả lại cho con người giá trị và sự sống tròn đầy. Nhưng với niềm tin và hi vọng Phục Sinh, dù ngụp lặn trong bể khổ, con người sẽ có đủ sức mạnh biến cuộc đời thành một Tin Mừng.
Tin Mừng Lu-ca thuật lại ở đây một trong những lần Ðấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Các ông: PS3 B-65
Tin Mừng Lu-ca thuật lại ở đây một trong những lần Ðấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Các ông khiếp đảm và không thể nào chấp nhận nỗi sự kiện, mặc dù các ông đã nghe lời thuật chuyện của các phụ nữ, của ông Si-mon, và nhất là của hai môn đệ từ Em-mau trở về. Các ông không hiểu, cứ ngỡ Ðức Giê-su là ma, nên Người nói với các ông: "Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như Thầy đây ?"
Dù vậy, hình như các môn đệ vẫn không tin và không dám nhìn thẳng vào thực tế trước mắt. Ðức Giê-su nói với các ông: "Ở đây anh em có gì ăn không ?" Thế rồi Người đã ăn trước mặt các ông. Và các ông không còn nghi ngờ gì nữa: chính là Người, Ðấng chịu đóng đinh và nay đang sống. Người đứng trước mặt các ông, hoàn toàn khác nhưng cũng là người đã từng sống với các ông. Người "mở lòng mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh" để soi sáng quá khứ và loan báo tương lai: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội" (Lc 24,47).
Vậy, Phục Sinh là gì ? Người ta vẫn không ngừng nêu lên câu hỏi ấy. Phải chăng đó là sự hiện diện hoàn toàn thuộc về ý tưởng ? hay là sự hiện diện thể lý ? Giữa hai lãnh vực đó, không có giải pháp thứ ba.
Tin Mừng không trực tiếp trả lời câu hỏi này. Ðúng hơn, Tin Mừng thuật lại sự kiện này trong những trình thuật có vẻ như mâu thuẫn nhau: bất thình lình Ðức Giê-su có mặt tại một nơi, không bị ràng buộc gì về thể lý. Nhưng Người lại để cho các môn đệ chạm đến Người, và xin các môn đệ cái gì đó để ăn ...
Trong thực tế, trình thuật Lu-ca đưa ra một câu trả lời khác, đầy bất ngờ và khó có thể hiểu được. Tin Mừng thứ ba quả quyết rằng sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh giữa các môn đệ được diễn tả bằng sự truyền thông.
Cộng đoàn Giê-ru-sa-lem lặp lại một cách chính xác kinh nghiệm hai người môn đệ đi làng Em-mau vừa trải qua: cộng đoàn ấy bước vào thế giới tinh thần của Ðức Giê-su, một thế giới cho đến lúc này còn khép đối với họ ; cộng đoàn ấy cũng cùng với Ðức Giê-su đọc lại lịch sử của Người và của dân Ít-ra-en, và sau hết cùng bẻ bánh với Người.
Khi sống như thế, cộng đoàn Giê-ru-sa-lem khám phá nơi Ðức Giê-su sự hiện diện siêu thực. Ðó là một thế giới không ai có thể nghĩ tới, nhưng nay đang mở ra, một thế giới mà con người ngày nay không thể nào cảm nghiệm nỗi bắt đầu từ những kinh nghiệm thông thường của mình.
Thế nhưng sự khám phá này chỉ có thể xảy ra nơi những người đã trải qua một kinh nghiệm nào đó về cái chết. Cái chết này dứt người ta ra khỏi những ước muốn, những ảo vọng của mình, ra khỏi tất cả những gì đóng khung người ta lại trong thế giới mà người ta gọi là thế giới thực, trong khi nó chỉ là bề ngoài. Sự thay đổi cái nhìn bắt đầu từ sự thay đổi trong tâm hồn. Chính sự thay đổi này giúp người ta hiểu được Ðức Ki-tô Phục Sinh là ai.
Ðó là sứ điệp các tông đồ và mỗi người cần có để chuyển giao cho thế giới. ... trong bóng chiều
Phần cuối Tin Mừng Lu-ca gợi lên ánh mặt trời lúc ban chiều. Tác giả đã từng thuật lại cách tuyệt vời cảnh ban chiều trong câu chuyện người con hoang đàng: người cha đứng bên cửa, tay cầm bó đuốc, trông giống như một vị ngôn sứ, đợi chờ người con yêu dấu trở về. Vào phần cuối này, tác giả trình bày cuộc Tiến lên của Ðức Giê-su
- Vị Vua - Mặt Trời đích thực - từ giữa cõi chết.
Bất thình lình Người đứng đó, trong khu vườn, rồi buổi chiều, Người lại có mặt trên đường, trước khi tiến thẳng lên cõi trời trong cuộc Thăng Thiên.
Những lần hiện ra của Ðấng Phục Sinh diễn ra trong ánh sáng vui tươi của việc tìm thấy, trong bầu không khí đầm ấm yêu thương: đó là cô Ma-ri-a Mác-đa-la, người bạn trung tín đã đón tiếp Ðức Giê-su vào buổi sáng sớm ; đó là hai người môn đệ, lòng nặng trĩu u buồn, đã mời Người Khách Lạ đầy bí nhiệm vào quán trọ lúc xế chiều, để rổi sau đó khám phá ra chân dung Người Khách qua cách bẻ bánh.
Thực vậy, chính trong một bữa ăn Ðức Giê-su đã tự bày tỏ, người khách được mời lại ban tặng bữa tiệc vượt qua, mở đầu cho cuộc Vượt Qua vĩnh cửu. Còn trước các môn đệ đầy nghi ngờ, Ðức Giê-su sẵn sàng để các ông giám định: "Cứ rờ xem". Tuy nhiên, các ông vẫn không tin. Chỉ cần một khúc cá nướng và một mẩu bánh thì sự thật được mở ra, và ánh sáng bùng lên trong căn nhà u tối. Ngay sau đó, Ðức Ki-tô, Ðấng đã tái sinh các môn đệ trong đức tin, đã xác nhận các ông là những nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh: "Chính anh em làm chứng về những điều này."
Vào buổi sáng sớm, Ðức Giê-su đã đứng trong khu vườn. Buổi chiều, Người đứng trên đường đón chờ hai người môn đệ. Chính Người đã tự nhận là Ðường, này đây Người đang đứng trên đường. Có lẽ Người cũng đứng trong khi ăn miếng cá nướng, tương tự như thái độ của các tổ phụ: quay lưng về Ai-cập và hướng nhìn về thành Giê-ru-sa-lem. Chính Người là Con Người của cuộc Vượt Qua Mới, cuộc Vượt Qua vĩnh cửu, Người luôn tiến bước.
Này là Người ! Ðây là Con Người luôn đứng thẳng, Con Người của cuộc xuất hành. Có xây cho Người một nhà tù - dù là cái chết - thì ba ngày sau Người cũng thoát ra khỏi đó để gửi các nhân chứng của Người đi khắp mọi nẻo đường của mặt đất, bắt đầu từ những đường phố Giê-ru-sa-lem.
Quả thế, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, Thần Khí của Ðức Giê-su sẽ thúc đẩy những người đã gặp Ðức Giê-su đang đứng đây đến tận cùng thế giới.
... và giữa cộng đoàn chúng ta Các ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá ...
Chúng ta là những người thường ngập ngừng giữa nghi ngờ và tin tưởng, liệu chúng ta có tin vào Ðấng đang sống khi mà sự hiện diện lúc này của Người hoàn toàn khác hẳn với con người làng Na-da-rét ? Hiến lễ tạ ơn ngày Chúa nhật chính là môi trường trong đó Hội Thánh nhìn nhận "Ðấng khơi nguồn sự sống" (Cv 3,15), nhìn nhận hy lễ được tiến dâng để xoá bỏ tội lỗi trần gian. Trong hiến lễ này, chúng ta quy tụ dưới sự chủ toạ của Ðấng Phục Sinh, chúng ta cùng nhau nhớ lại lời Người, tức là Thánh Kinh, thuật lại chứng từ của những người đã thấy, cùng nhau bẻ bánh trong niềm vui, và sau đó lại ra đi khắp thế giới để thắp lên ngọn lửa chứng từ đã được thắp lên vào ngày Phục Sinh. Từ nay, những điều này sẽ là những dấu chỉ về cuộc Phục Sinh, bởi vì những chứng cớ về sự sống sẽ chẳng có ở một nơi nào khác ngoài cuộc sống.
Ngày nay, cuộc Phục Sinh của Ðức Ki-tô có ghi lại dấu ấn gì trên cuộc đời người tín hữu chúng ta ? Việc hiểu biết về Thánh Kinh chiếm vị trí nào khi chúng ta nhìn lại cuộc đời mình trong Ðức Giê-su Ki-tô ? Qua việc gặp gỡ Ðấng Phục Sinh khi chúng ta đón nhận bí tích Thánh Thể, liệu chúng ta có trở nên những tôi tớ hăng say loan báo Tin Mừng, một Tin Mừng cần được vang lên trong nơi sâu nhất của tâm hổn con người, trong mọi ngõ ngách của thế giới ?
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
------------------------------
PS3-B66. CÔNG ĐOÀM HỘI THÁNH CHÚA KITÔ
- Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Cv 3,13-15.17-19; 1Ga. 2,1-5a; Lc 24,35-48
Phúc Âm: Lc 24, 35-48
"Họ nhận ra được Người khi họ nhận bánh do Người bẻ trao cho".
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
Suy NiỆm:
Cũng như các bài Kinh Thánh của Chúa nhật trước, các bài đọc hôm nay nói với chúng ta về Hội Thánh: PS3 B-66
Cũng như các bài Kinh Thánh của Chúa nhật trước, các bài đọc hôm nay nói với chúng ta về Hội Thánh. Chúng ta thử đổi kiểu tìm hiểu. Thay vì đi từ ngoài vào trong lòng Hội Thánh như đã làm Chúa nhật trước, hôm nay chúng ta đi từ trong ra ngoài, nhưng tạm dùng phương pháp thời gian.
Bài Tin Mừng không gợi lên sự việc trong chính ngày Chúa sống lại hay sao? Theo cách Luca kể thì Ðức Yêsu đã hiện ra với các môn đệ chính chiều ngày Người phục sinh. Còn bài sách Công vụ các Tông đồ cho chúng ta nghe lại lời của thánh Phêrô sau khi chữa lành một người què, tức là một thời gian sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cuối cùng bài thư 1 Yoan là tác phẩm của nhiều chục năm sau.
Tuy nhiên dù trải rộng ra trên thời gian Giáo huấn của Hội thánh vẫn trước sau như một và vẫn muốn nói với chúng ta ngày hôm nay sứ điệp ngàn đời nhưng luôn luôn mới mẻ của Chúa.
Ðàng khác, tuy kể lại những sự việc xem ra cách quãng nhau khá dài trong thời gian, cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều đã được soạn hầu như cùng vào một thời đại; và nhất là đều nhằm một mục đích trình bày cho tín hữu về đời sống của Hội Thánh, dưới những khía cạnh làm cho nhau nên phong phú.
1. Một Cộng Ðoàn Khởi Sự Tin
Bài Tin Mừng theo thánh Luca cho chúng ta thấy hai môn đệ Emmaus vừa về tới Yêrusalem vào chiều tối ngày Chúa nhật phục sinh. Họ đến nơi các môn đồ của Chúa đang hội họp. Theo văn mạch, không những chỉ có các tông đồ nhưng cũng có cả những người khác. Họ đang bàn tán về việc Chúa đã hiện ra với các phụ nữ, và nhất là với Phêrô. Câu chuyện của hai môn đệ đi Emmaus không "ăn khách" bao nhiêu, bởi vì đối với mọi người điều đáng kể là Chúa đã hiện ra với Phêrô. Và như vậy có thể nói là việc Người sống lại đã được chính thức công nhận. Cộng đoàn tín hữu luôn hợp nhất với thủ lãnh của mình trong đức tin.
Họ đang bàn chuyện thì Chúa Yêsu hiện đến đứng giữa họ. Luca không nói rõ như Yoan rằng khi ấy cửa nhà nơi họ hội họp đang đóng kỹ vì sợ người Dothái. Nhưng Luca lại nhấn mạnh đến phản ứng của họ khi thấy Chúa thình lình đứng giữa họ. "Kinh hoàng khiếp đảm họ tưởng mình thấy ma". Không hiểu đã có bao giờ nhiều người thấy ma cùng một lúc không? Rõ ràng ở đây họ đã phản ứng như đêm nào đang ở trên thuyền gặp gió ngược, họ thấy một "bóng ma" đi trên nước. Họ kêu rú lên nhưng đã được trấn tĩnh: "Thầy đây đừng sợ" (Mc 6,47-50). Chúng ta có thể xích hai câu chuyện lại với nhau để nhìn thấy khi Ðức Yêsu hiện ra ở trên biển sóng gió, Người đã muốn mạc khải sự phục sinh và thần tính của Người; đang khi hôm nay hiện ra với họ trong thân xác phục sinh, Người muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Lời Người trách họ: tại sao hoảng hốt và có những suy nghĩ như thế ở trong lòng, khiến chúng ta lại nhớ tới những lời trách tương tự. Người đã nói với họ khi đi chung thuyền với họ mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy họ thì vất vả chèo chống, còn Người thì nằm ngủ. Họ đến lay Người dậy. Người trách họ hầu giống như hôm nay, nhưng rồi đã ra lệnh cho sóng gió lặng yên. Hôm nay, dùng những lời tương tự để trách họ, phải chăng Người không muốn gợi lại chuyện cũ để ngầm ý nói rằng: Người đã ngủ dậy, tức là đã sống lại; cộng đoàn của Người không còn gì phải sợ sóng gió trần gian nữa. Việc Người phục sinh là chiến thắng vĩnh viễn.
Nhưng có lẽ họ chưa bắt được hết ý tưởng của Người. Họ vẫn còn tưởng đây là ma, tức là "linh hồn" Người đã chết nay hiện về với họ. Có lẽ họ còn nhớ câu truyện vua Saolê thấy hồn tiên tri Samuel hiện lên (1S 28,8). Và như vậy họ càng sợ hơn nữa, vì vua Saolê ngày trước khi thấy Samuel hiện về đã khiếp sợ vì mặc cảm tội lỗi. Họ không có một chút mặc cảm này sao khi họ đã bỏ rơi Người trong mầu nhiệm tử nạn?
Nhưng không, Người không phải là Samuel. Người bảo họ sờ vào thân xác mang thương tích của Người để biết rõ đây không phải là "linh hồn" Người hiện về, nhưng là thân xác Người đã sống lại. Và những thương tích này không những không gây mặc cảm tội lỗi cho họ trái lại còn đem đến cho họ niềm vui cứu độ. Và để giúp họ tin hoàn toàn và dứt khoát, Người còn ăn một chút cá nướng trước mặt họ để họ thấy đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải linh hồn hiện về hay là ma. Có thể nói sự thật trước mắt đã xua đuổi hết mọi hồ nghi khỏi lòng môn đồ. Họ là những người có phúc vì được xem thấy. Nhưng họ còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục sinh cho những người không được phúc xem thấy. Chính cho những người này và để giúp các tông đồ diễn tả được niềm tin của mình, Chúa Yêsu đã bắt đầu dùng Thánh Kinh để giải thích cho họ về mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh cứu thế của Người. Làm công việc đó xong, việc hiện ra của Người mới hoàn tất.
Từ nay cộng đoàn dân Chúa có thể tiến bước vững vàng trên biển trần gian đầy sóng gió. Chúa Phục sinh đã ban cho họ những dấu hiệu về việc Người sống lại và đã dùng Thánh Kinh để củng cố những dấu hiệu ấy. Từ nay Hội Thánh vừa có các bí tích là những dấu hiệu ban ơn cứu độ vừa có Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh. Với những "sản nghiệp" phong phú ấy và dưới sự lãnh đạo của Phêrô đã được Chúa sống lại hiện ra, cộng đoàn dân Chúa không những đã được lòng tin vững vàng mà còn có khả năng rao truyền và làm chứng niềm tin ấy nữa... Những điều này, chúng ta sẽ thấy trong hai bài đọc sau.
2. Một Cộng Ðoàn Rao Giảng Ðức Tin
Ai cũng thấy Phêrô và Yoan hôm nay không còn như hôm Chúa nhật Phục sinh nữa. Họ đã được đầy Thánh Thần. Không những tay họ đã làm cho một người què đi được; nhưng nhất là thần trí họ đã đổi mới hoàn toàn. Họ tin chắc chắn và dạn dĩ rao giảng việc Ðức Yêsu đã sống lại. Chính để làm chứng việc này, và để tỏ ra Người đã được tôn vinh, con người mà thiên hạ đã đóng đinh vào Thập giá, mà Thiên Chúa đã cho người què được khỏi tật khi tin vào Danh Ðức Yêsu Kitô.
Phép lạ này là một dấu hiệu. Thiên Chúa dùng tay các tông đồ để đến nói với mọi người. Nhưng người ta có thể hiểu dấu hiệu không đúng. Người ta có thể nghĩ " bởi quyền phép riêng, hoặc lòng đạo đức riêng" của các tông đồ mà người kia được khỏi tật. Phêrô đã giải thích: người ấy được khỏi vì Danh Ðức Yêsu, vì Thiên Chúa muốn làm chứng rằng Người mà họ đã đóng đinh vào thập giá, nay đã sống lại. Và như thế là đúng như Kinh Thánh đã nói.
Do đó ở đây cũng như ở trong bài Tin Mừng, người ta đã được nhìn thấy dấu hiệu rồi được dẫn giải về Kinh Thánh, để người ta tin Chúa Yêsu Phục sinh. Các bí tích và lời Chúa phải giữ vai trò trọng yếu trong lời rao giảng đức tin của Hội Thánh. Và nếu chúng ta hiểu bí tích có thể có một ý nghĩa rộng rãi hơn số 7 bí tích Hội Thánh vẫn cử hành, thì đi đôi với việc công bố Lời Chúa, Hội Thánh phải có những dấu hiệu thánh thiện giúp người ta lãnh hội Lời này. Và người tông đồ hiểu ngay các dấu hiệu nói đây có thể là chính thái độ, tư cách đạo đức mà mình phải có để khơi nguồn đức tin trong lòng người nghe.
Ðồng thời người tông đồ cũng còn phải làm như Ðức Yêsu trong bài Tin Mừng và như Phêrô trong bài sách Công vụ. Cả hai khi đem lại cho người ta những dấu hiệu và lời giảng về sự phục sinh, đã phải xua đuổi và làm tan biến những trở lực ở nơi họ đối với đức tin. Ðức Yêsu đã phải trách môn đồ về những tâm tư nghi ngờ. Phêrô phải mạnh bạo lột trần phần trách nhiệm của mỗi người trong việc giết đấng "khơi nguồn sự sống". Ở đây, chúng ta thấy người khẳng định rõ rệt và cụ thể hơn hôm người giảng lần đầu tiên khi người ta tuốn đến xem dấu hiệu Lửa Thánh Thần hiện xuống. Hôm ấy, người nói họ đã dùng tay kẻ vô đạo đóng đinh Ðức Yêsu vào Thập giá (2,23). Hôm nay người dám nói rằng: trong khi Philatô xét là phải tha Ngài, thì họ đã từ chối đấng Thánh và xin ân xá cho một tên sát nhân, rồi đã giết Ðấng là nguồn sự sống.
Nhưng đó cũng chỉ là vì "vô tri". Nay thấy Thiên Chúa đã mở mắt cho mọi người khi tôn vinh Ðức Yêsu, tức là cho Người sống lại từ cõi chết, thì họ phải "hồi đầu" trở lại để được tẩy xóa tội lỗi và được sống. Lúc ấy họ sẽ được phúc hơn cả người què vừa được chữa khỏi, vì mọi chúc lành Thiên Chúa đã hứa cho Abraham và dòng dõi ông, từ nay sẽ là kỷ phần của họ. Và như vậy, Ðức Yêsu thật là vị tiên tri mà Môsê đã nói sẽ đến và sẽ giống như mình, vì Người sẽ giải phóng dân khỏi tội lỗi và sự chết để khơi nguồn và trở thành sự sống mới cho họ.
Không chắc các thính giả Dothái hôm ấy đã bắt được hết ý tưởng của Phêrô. Nhưng hiển nhiên khi viết lại bài giảng này, sách Công vụ các Tông đồ muốn cho chúng ta lĩnh hội đầy đủ lời rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Phêrô lại làm cho các thính giả của người việc mà chính Ðức Yêsu đã làm cho các môn đồ khi hiện ra với họ. Dùng dấu hiệu và lời nói Chúa và Hội Thánh loan truyền cho chúng ta mầu nhiệm phục sinh như là công việc cứu độ của Thiên Chúa để chúng ta từ bỏ tội lỗi, "hồi đầu" trở lại với Ðấng là nguồn sống giải cứu chúng ta khỏi chết muôn đời, để khi giữ lời Người, chúng ta được hưởng mọi Lời Hứa tốt lành của Thiên Chúa.
Có lẽ muốn cho chúng ta chú ý đến điểm cuối cùng này mà phụng vụ đã đọc cho chúng ta nghe bài thư Yoan hôm nay.
3. Một Cộng Ðoàn Sống Ðức Tin
Xét theo thời gian của những việc xảy ra, bức thư này nói đến nếp sống khá lâu sau ngày Chúa nhật Phục sinh và tuần lễ Thánh Thần hiện xuống. Thánh Yoan viết thư cho con chiên của người để khuyên họ đừng phạm tội. Vì sao vậy? Có lẽ vì bấy giờ không còn phải là lúc mới tin đạo nữa. Buổi đầu, người ta sốt sắng và sống thánh thiện. Nhưng dần dần bắt đầu có sự nguội lạnh; rồi chống trả cám dỗ yếu đi, có nhiều tín hữu bắt đầu phạm tội.
Sự kiện này đặt ra một thắc mắc. Những kẻ đã tái sinh mà bây giờ phạm tội lại thì sẽ như thế nào? Họ không còn là "thánh hữu"; ít nhất cũng không thể bảo ho còn là tín hữu thánh thiện, vì họ đã phạm tội lại. Ơn cứu chuộc họ đã lãnh nhận một lần rồi; còn cách nào cứu họ được nữa không?
Chắc chắn hồi đó Hội Thánh chưa có đủ thời giờ và kinh nghiệm để khám phá ra bí tích cáo giải nơi kho tàng mạc khải. Thánh Yoan cũng chưa hiểu điều đó. Ðứng trước sự kiện có những tín hữu sa ngã lại, người chỉ biết đưa ra hai điều khuyên: một là cố gắng đừng phạm tội ; và hai là tội nhân hãy biết rằng chỉ có lòng tin vào Ðức Yêsu cứu thế là được tha tội mà thôi.
Người lấy hết tình "cha con" mà khuyên điều thứ nhất. Người gọi tín hữu là "các con thơ bé" để nói lên tình thắm thiết của một người cha, một người mẹ, hầu khẩn khoản nài xin họ đừng phạm tội. Và muốn như vậy, họ phải giữ các lệnh truyền của Chúa. Chắc chắn người muốn nói đến giới răn bác ái huynh đệ vì theo các tác phẩm của người, Chúa chỉ để lại cho chúng ta một lệnh truyền mà thôi, đó là chúng ta hãy yêu mến nhau. Ai giữ điều này là kẻ thật sự giữ đạo; bằng không nó là kẻ nói láo, vì lẽ nếu không yêu người anh em mà nó thấy thì làm sao có thể yêu Chúa là đấng vô hình được. Ðàng khác, nơi kẻ có lòng yêu thương anh em, lòng mến của Thiên Chúa mới nên trọn được. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Người ở trong lòng ai, thì kẻ ấy phải yêu thương tha nhân. Không yêu anh em là không có tình yêu ở trong lòng, khiến lòng mến của Thiên Chúa chưa làm sao nên trọn ở nơi kẻ ấy. Vậy như Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta khi ban tình yêu cứu độ của Người cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải duy trì tình yêu ấy để được ở mãi trong ơn cứu độ.
Nhưng nếu trót phạm tội thì sao?
Thánh Yoan không dứt khoát trả lời. Người chỉ nêu lên một chân lý rất đúng để người ta trông cậy: hãy tin vào Ðức Yêsu Kitô là Ðấng công chính; Người là hy lễ đền tội của cả thế gian; Người là Ðấng bầu chữa cho tội nhân nơi Thiên Chúa Cha. Phải đợi nhiều năm sau nữa, Hội Thánh mới tìm thấy rõ ràng trong kho tàng mạc khải có nguồn nước tha tội phong phú là bí tích cáo giải.
Chúng ta ngày nay sống ở thời đại mà mầu nhiệm cứu chuộc đã được triển khai toàn diện. Nhưng dù đã biết bí tích cáo giải và nhiều kho tàng mạc khải khác, đời sống đạo đức của chúng ta vẫn phải có những nét như ở thời các tông đồ. Chúng ta vẫn phải nhờ vào các dấu hiệu, tức là các bí tích, và Lời Chúa trong Hội Thánh mà tin tưởng lãnh nhận ơn cứu độ. Ðó là ơn của Ðức Kitô Phục sinh giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi để quay đầu chúng ta về đời sống công chính. Chúng ta đừng phạm tội kẻo mất lòng mến Chúa ở nơi mình. Và cho được như vậy, phải yêu thương anh em. Nhưng nếu trót sa ngã lại, chúng ta phải chạy đến với Ðức Yêsu Kitô là hy lễ xá tội và là Ðấng bầu chữa cho tội nhân nơi Thiên Chúa Cha.
Mùa phụng vụ này kéo mắt chúng ta nhìn vào Người là Chiên Vượt qua. Chúng ta ngắm nhìn Người với lòng yêu mến cậy tin, thì chắc chắn chúng ta được thêm ơn tha thứ tội lỗi, được sự sống mới của mầu nhiệm phục sinh, cũng là lòng mến Chúa trọn vẹn hơn, để chúng ta sống bác ái huynh đệ nhiều hơn, làm chúng ta đang ở trong ơn cứu độ.
Thánh lễ sắp cho chúng ta được tiếp xúc và rước lấy Chiên Vượt qua. Chúng ta hãy sốt sắng tham dự với những tâm tình trên.
Ngài có đó khi con tưởng mình đang cô đơn, Ngài nghe con khi chẳng ai đáp lời. Ngài yêu con: PS3 B-67
Ngài có đó khi con tưởng mình đang cô đơn, Ngài nghe con khi chẳng ai đáp lời. Ngài yêu con khi mọi người lìa bỏ xa con, khi tình đời là mối dây oan, ân tình Ngài hằng luôn chan chứa”.
(Nhạc sĩ LM. Ân Đức, Trích từ bài “Ngài Có Đó”)
***
Bạn thân mến,
“Ngài có đó”, một trong những chủ đề của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Ngài có đó, vào những ngày tang tóc khi môn đồ phải ủ dột then cài, cửa đóng.
Ngài có đó, với hai người lê bước về Emmaus, lòng đau như cắt, khi bóng ngả chiều tà.
Ngài có đó, khi hình ảnh người anh em Juda còn treo lơ lửng cuối vườn hoang.
Ngài có đó lúc Tôma, bán tín bán nghi rời bỏ cộng đoàn còn vất vưởng nơi phương trời nào.
Thế nhưng,
chính lúc mây đen phủ kín khung trời hy vọng của nhóm mười hai, chính lúc bão tố dập vùi con thuyền cộng đoàn môn đệ non trẻ, thì ngay lúc ấy, Đức Kitô, Đấng Phục Sinh, người về từ cõi chết bằng xương bằng thịt đang có đó; Ngài có đó, sừng sững giữa họ, “Bình an cho anh em!”, “Bình an cho anh em!”, một lời chào mà với Ngài, tưởng chừng như không có chuyện gì xảy ra.
Thì ra,
Ngài có đó, giữa những ký ức đắng cay về người thầy loang máu chiều tử nạn,
Ngài có đó, giữa những ký ức ngọt ngào nơi phòng tiệc yêu thương.
Ngài có đó, bao dung, tha thứ, thật dịu hiền,
Ngài có đó, chẳng vẻ gì chì chiết hay khiển trách.
Ngài có đó, chữa vết thương lòng, ban thêm sức mạnh,
Ngài có đó, biến tuyệt vọng thành hân hoan.
Ngài có đó, củng cố niềm tin, ban sức sống,
Ngài có đó, hồi sinh và ban thần lực.
Cả chúng ta hôm nay, cũng không ít lần đã phải trải qua đêm tối, đêm tối tâm hồn, đêm tối đức tin và đêm tối ngoại cảnh.
Chúa ở nơi đâu?
Khi ta chết lặng nhìn người thân nhắm mắt lìa đời;
khi nói lời vĩnh biệt với người mình yêu thương;
khi đắng cay cảm nếm đổ vỡ của một mối tình;
khi nghẹn ngào ngao ngán trước bất hiếu của một người con;
khi mất việc làm và kinh tế gia đình khủng hoảng;
khi thất bại trong làm ăn buôn bán;
khi học hành biết bao gian khổ mà đi thi lại bị lạc đề...
Ước gì, với những trải nghiệm yêu thương từng có trong đời ít là một lần với Đấng Phục Sinh, những lúc ấy ta vẫn vững tin rằng: Giêsu, Ngài đang có đó.
Ngài có đó, khi mất mẹ mất cha, bầu trời sụp đổ.
Ngài có đó, lúc cha mẹ mất con ngay khi con cái ở trong nhà.
Ngài có đó, khi mái ấm trở nên quán trọ, dửng dưng thờ ơ.
Ngài có đó, khi bữa ăn gia đình chỉ còn là bữa cơm bụi bên đường, lạnh lùng hờ hững…
***
Giữa bao sóng gió cuộc đời, chớ gì mỗi chúng ta vẫn mãi nghe được tiếng thì thầm yêu thương của Đấng Phục Sinh Hằng Sống:
“Này Thầy đây, khi con cô độc lẻ loi
Này Thầy đây, khi con kinh khiếp hãi hùng
Này Thầy đây, khi con bị loại trừ, tẩy chay
Này Thầy đây, khi con thấy trì trệ chẳng chút tiến bộ nào
Này Thầy đây, khi con thất vọng, sầu buồn
Này Thầy đây, khi con lắng lo, sợ hãi
Này Thầy đây, khi mọi người những muốn lánh xa con
Này Thầy đây, khi giữa con với bạn bè là một bức tường dựng đứng
Này Thầy đây, khi con bồi hồi và thức trắng
Này Thầy đây, khi ai đó làm con tổn thương
Này Thầy đây, khi nguy hiểm khôn lường
Này Thầy đây, khi con ốm đau cần được chăm sóc
Này Thầy đây, khi một mình con không đủ sức gánh nổi u sầu
Này Thầy đây, khi thế giới của con tan tành từng mảnh
Này Thầy đây, khi con cần được yêu và sẵn sàng chia sớt
Này Thầy đây, khi con trải qua cơn đau khốn cùng
Này Thầy đây, khi con không còn được ai lắng nghe
Này Thầy đây, khi con không thể đứng thẳng vì kiệt lực
Này Thầy đây, khi lương tâm con đã chai lì hư hỏng
Này Thầy đây, khi con gọi đến Thầy
Này Thầy đây, cả khi con lìa đời
Này Thầy đây, như thiên thần chở che lúc nguy khốn
Này Thầy đây, như mặt trời đem cho con hơi ấm và niềm vui
Này Thầy đây, như một người cha khiến con vững dạ
Này Thầy đây, như một người mẹ cùng con thổn thức
Này Thầy đây, như một trái tim luôn cùng con nhịp bước
Này Thầy đây, như đôi mắt luôn dõi theo trông chừng
Này Thầy đây, như cánh tay luôn nâng đỡ
Này Thầy đây, như áng mây phủ kín yêu thương
Này Thầy đây, như bàn tay chỉ đường
Này Thầy đây, như ánh thiều quang làm diệu vợi lối bước
Này Thầy đây, như tiếng nói thân thương: Ta luôn ở với con”.
Lc 24:35-49: 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. 36 Các ông còn đang nói, thì Người đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói: “Sao lại rối loạn? Sao lòng anh em còn ngờ vực? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. 44 Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách ngôn sứ và các thánh vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.”45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu kinh thánh 46 và Người nói: “Có lời kinh thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này. 49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
Đoạn 24:36-49 thuật lại việc Chúa Giêsu đã hiện ra với nhóm Mười Một sau khi Người đã tỏ mình ra cho: PS3 B-68
Đoạn 24:36-49 thuật lại việc Chúa Giêsu đã hiện ra với nhóm Mười Một sau khi Người đã tỏ mình ra cho hai môn đệ trên đường đi Emmaus (24:13-35). Cấu trúc của đoạn nầy: 1- Bối cảnh nhập đề: Chúa ở giữa cộng đoàn và họ hoang mang (24:36-37); 2- Chúa tìm cách thuyết phục họ tin là chính Người (24:38-43); 3- Giáo huấn cuối cùng liên quan đến Người và sứ mạng của các môn đệ (24:44-49).
Để trình bày việc Chúa Giêsu sống lại hiện diện giữa các tông đồ, Luca dùng cách nói đơn giản “Người ở giữa họ” (24:36; x. 2:47; 22:27). Luca thường liên kết sự hiện diện của Chúa Giêsu với sự bình an do Người ban cho: khi Người sinh ra (2:46), khi Người tha tội (7:50; 8:48), khi môn đệ của Người đến trong nhà (10:5-6), khi Người đến như là vua của Israel (19:38), và khi Người sống lại (24:36). Như vậy, Chúa hiện diện để dạy dỗ, ban bình an và kêu gọi họ sống như Người. Phần các tông đồ (24:37), họ kinh khiếp và sợ hãi như các phụ nữ đã cảm nghiệm (24:5; x. 21:9), vì họ không tin vào điều mắt họ xem thấy. Họ nghi ngờ đó không phải là Người; do đó cả việc Người sống lại. Sự nghi ngờ nầy tác động trên cả con tim của họ (24:38; x. 5:22; 9:47).
Để làm cho họ tin là chính Người, Chúa Giêsu làm hai việc: cho các tông đồ đích thân thấy và sờ vào tay chân của Người (24:39-40), và Người ăn trước mặt họ (24:41b-43). Người ra cho họ những mệnh lệnh “hãy xem”, “hãy sờ”, “hãy nhìn” (c. 39) để tác động mạnh vào tình trạng khiếp sợ, rối loạn và nghi ngờ của họ. Tay và chân được xác định là “của Thầy”, đối nghịch với một con “ma” bất xác định. Chúa tỏ cho họ thấy và cho họ sờ tay và chân, vì chúng liên hệ đến cuộc tử nạn của Người. Có tay có chân là có xương có thịt; mà xương thịt chính là con người (x. 3:6).
Các tông đồ vui mừng vì Chúa sống lại (24:41). Tuy nhiên vì họ không hoàn toàn được thuyết phục, Người làm thêm việc thứ hai (24:41b-43). Đoạn nầy tập trung vào hành động của Người là ăn trước mặt họ (24:43). Việc nầy tác động thêm vào thị giác của họ, gây ấn tượng mạnh và sâu đến nỗi nó trở nên một lý chứng khi họ rao giảng về Chúa Kitô sống lại (Cvtđ 10:41).
Trong phần kế tiếp Chúa Giêsu dùng sách thánh để cắt nghĩa cho họ về chính Người. So sánh với hai lần trưng dẫn sách thánh trước trong cùng chương 24 (24:6-7. 25-27), lần nầy Người nhấn mạnh: 1- Sự hoàn tất của lời sách thánh trong chính bản thân của Người, đã chết và đã sống lại; 2- Việc Người soi sáng cho các tông đồ hiểu sách; 3- Việc sách thánh đã viết về thương khó và phục sinh của Người, Đấng Kitô (x. 9:22; Cvtđ 17:2); 4- Cả việc loan báo sự tha tội nhân danh Người cho mọi dân tộc; 5- Các tông đồ là những chứng nhân của Người.
Chúa Giêsu đã sống lại. Điều nầy không thể chối cãi được, vì đã có sách thánh và các tông đồ làm chứng. Họ đã loan báo điều nầy một cách xác tín cho muôn dân, vì họ là những người đã từng đụng đến, xem thấy và ăn uống với Đấng Phục Sinh (Lc 24:30.43; Gio 21:13; Cvtđ 10:41; 1 Gio 1:1)
Ðại Lễ Phục Sinh là gì? hay nói rõ hơn: Ðại Lễ Phục Sinh có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Nhiều người: PS3 B-69
Ðại Lễ Phục Sinh là gì? hay nói rõ hơn: Ðại Lễ Phục Sinh có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Nhiều người ngày nay khi phải đứng trước những phong trào tục hóa trong xã hội, dù vô tình hay hữu ý, đã bị ảnh hưởng sâu đậm và vì thế đã để vơi cạn đi tâm thức tôn giáo của mình, khiến họ không còn hiểu rõ được ý nghĩa của các ngày đại lễ trong phụng vụ của Giáo Hội nói chung và ý nghĩa của Ðại Lễ Phục Sinh nói riêng. Ðối với họ, Lễ Phục Sinh chỉ là một ngày Lễ Mùa Xuân hay một ngày Lễ Hồi Sinh của thiên nhiên sau giấc ngủ dài dưới băng tuyết của mùa đông giá lạnh. Sau bao ngày tháng sương mù âm u của tiết đông, những tia nắng ấm áp của mặt trời lại bừng chiếu sáng và sưởi ấm cả vạn vật, mang lại một sức sống mới đang vươn lên trong thiên nhiên.
Nhưng đối với chúng ta, những người Kitô hữu, ý nghĩa Ðại Lễ Phục Sinh còn cao cả hơn sự khởi đầu mùa xuân đầy sinh khí tươi mát bội phần. Chúng ta mừng kính trọng tâm niềm tin của chúng ta, một thực tại có liên quan tới sự sống chết của chúng ta. Cũng vì thế, Giáo Hội mừng kính biến cố Phục Sinh trong suốt bốn mươi ngày liên tiếp và đồng thời luôn suy niệm mầu nhiệm cao vời khôn ví, đã được ban cho nhân loại trong Ðức Kitô.
Vâng, một thực tại có liên quan đến sự sống chết, hay nói đúng hơn, có liên quan đến sự sống chết của Ðức Giêsu. Các môn đệ đã cùng đồng hành với Người từ Ga-li-lê-a cho tới thành đô Giê-ru-sa-lem. Các ông đã thật lòng kính trọng và yêu mến Người như một vị Sư Phụ, đặt tất cả mọi kỳ vọng tương lai đời mình vào Người. Vì chỉ Người mới có thể cứu họ ra khỏi cảnh nghèo khổ dưới ách thống trị của ngoại bang. Ðức Giêsu thực sự là nguồn hy vọng và là nguồn sống của các môn đệ. Vì thế cái chết của Người đã làm tiêu tan mọi giấc mộng Nam Kha của họ. Bởi vì, kinh nghiệm của cuộc sống cụ thể hằng ngày cho chúng ta hay rằng một khi người ta có một quan hệ đầy yêu thương và tin tưởng đặc biệt với một người, thì cái chết của người này sẽ gây nên một cơn khủng hoảng tinh thần và tâm lý vô cùng trầm trọng, sẽ để lại một hố sâu bất khả lấp đầy trong tâm tư và trong cuộc sống của những người liên hệ.
Thật vậy, các môn đệ đã khám phá ra nơi Ðức Giêsu một con người hoàn toàn đặc biệt, một người có những lời nói và những hành động tuyệt hảo trước mặt Thiên Chúa và loài người, chứ không phải như bao người khác. Thế nhưng họ đã phải chứng kiến tận mắt cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người trên thập giá. Giờ đây tâm hồn họ đầy mọi lo âu sợ hãi và đời họ mất hết mọi định hướng. Họ cũng không biết tương lai đời họ sẽ đi về đâu! Mặc dầu các người phụ nữ, Phêrô cũng như một vài môn đệ khác đã kể cho họ nghe là Ðức Giêsu vẫn sống. Nhưng chỉ bằng lời nói suông, người ta sẽ khó lòng thuyết phục được ai.
Bài Phúc Âm hôm nay tường trình một cách rõ ràng là chính Ðức Giêsu đang đứng giữa các môn đệ và nói chuyện với họ, chứ không phải ma quỉ nào cả. Khi họ nhìn thấy chân tay Người và cùng được ngồi ăn đồng bàn với Người, họ đã nhận ra rằng: Ðây chính là Sư Phụ của họ, Ðấng đang hiện diện giữa họ.
Giờ đây, khi họ đã gặp gỡ được Người đang hiện diện giữa họ, thì những lời nói, mà trước kia họ đã nghe biết, lại có một ý nghĩa mới. Giờ đây họ mới hiểu được những gì họ đã được nghe, mới hiểu được thực sự những lời nói của Thiên Chúa, những lời chính Thiên Chúa phán ra. Họ chân nhận được rằng Thiên Chúa luôn trung tín với Tôi Tớ của mình qua một cách thức mới mẻ và khôn lường. Thiên Chúa là Ðấng đã tạo nên sự sống mới từ giữa cảnh chết chóc! Vâng, giờ đây khi bỗng chốc họ được gặp Ðức Giêsu thì lời khẳng định rằng Người vẫn sống, đã trở nên đáng tin tưởng và là sự thật. Cái chết của Ðức Giêsu là sự sống, là một sự biến đổi mới nhờ quyền năng Thiên Chúa. Con mắt của các môn đệ được mở ra. Vì thế, người ta có thể nói được rằng họ là những người hạnh phúc!
Nhưng, phải chăng các vấn nạn và nghi ngờ của các môn đệ xưa lại không phải là những vấn nạn và nghi ngờ của chúng ta? Phải chăng sự chết không còn quyền hành gì nữa trên chúng ta? Có thực sự là từ trong cõi chết vẫn còn có mầm mống sự sống mới?
Do đó, biến cố Phục Sinh đối với chúng ta cũng là một thực tại của sự sống chết. Và đó không chỉ là thực tại trong ngày sau cùng đời ta, nhưng ngay từ bây giờ. Bởi vì chúng ta cảm nghiệm được sự chết không chỉ qua cái chết của một người thân hay của chính chúng ta. Chúng ta luôn cảm nghiệm được sự chết ngay giữa cuộc sống của chúng ta qua từng diễn biến giảm thiểu từ các tiềm năng và sức sống của chúng ta. Chúng ta cảm nghiệm được sự chết khi ở đâu cuộc sống tỏ ra mất hết ý nghĩa. Chúng ta cảm nghiệm được sự chết khi cuộc sống bị thất bại, khi cuộc sống thiếu niềm vui và không có hy vọng nữa. Chúng ta cảm nghiệm được sự chết ở đâu chúng ta thấy mình cô đơn lẻ loi và bị bỏ rơi. Chúng ta cảm nghiệm được sự chết ở đâu chúng ta phải từ bỏ người hay sự vật mà chúng ta yêu quý. Sự chết có mặt ở đâu khi cuộc sống chúng ta phải đối mặt với hận thù và bất hạnh. Dưới nhiều hình thức đa dạng, bóng tối sự chết phủ kín cuộc đời chúng ta. Cũng như tâm trạng của các môn đệ xưa kia sau Ngày Thứ Sáu Chịu Nạn, cuộc sống chúng ta cũng luôn đầy sợ hãi là phải đối mặt với sự chết đang ngày đêm rảo quanh rình rập.
Bởi vậy, điều quan trọng ở đây là chúng ta có gặp gỡ được Ðấng Ðã Phục Sinh không và chúng ta có cảm nghiệm được là Người thực sự đã sống lại rồi và đang uốn nắn cuộc đời chúng ta nên giống cuộc đời của Người! Nhưng làm thế nào để biết được Người đã sống lạ?
· Người đã sống lại: Ðó là thái độ của một người khi biết được rằng mình không còn lẻ loi một mình nữa, nhưng biết chắc chắn rằng có Ðấng ở bên anh, nâng đỡ và tăng sinh lực cho anh, một sinh lực vượt lên trên cả sự chết.
· Người đã sống lại: Ðó là thái độ của một người khi tự nhiên cảm nghiệm được rằng những công việc và những lo lắng của anh không hề vô nghĩa, nhưng đã làm cho mọi người khác trong xã hội cảm nhận được rằng họ vẫn luôn có người phục vụ mình, bởi vì họ đều được thụ hưởng lời hứa của Thiên Chúa, nghĩa là Người luôn ở với chúng ta và làm cho đời chúng ta có ý nghĩa.
· Người đã sống lại: Ðó là thái độ của một người khi anh cảm nghiệm được rằng anh không phải sinh ra để sống một cuộc đời bất hạnh, nhưng cả trong chính sự bất hạnh vẫn có Ðấng đầy quyền năng có thể nói với anh: Mọi tội lỗi con đã được tha.
· Người đã sống lại: Ðó là thái độ của một người qua các đau khổ của mình đã cảm nghiệm được cách thâm tín rằng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống luôn có Ðấng nắm giữ tất cả mọi số mệnh trong tay, và quyền lực của người còn mạnh hơn cả sự chết.
Tất cả những lý do đó cho phép chúng ta luôn vui sống. Mỗi người trong chúng ta có những cảm nghiệm khác nhau về sự gặp gỡ với Ðấng Ðã Phục Sinh và cũng vì thế mỗi người làm chứng cho Người một cách khác nhau. Chúng ta cần mở rộng tâm hồn chúng ta cho Người và sẵn sàng xưng nhận Người thực sự trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Ðược thế, Ðại Lễ Phục Sinh đối với tất cả mọi người chúng ta là đại lễ của sự sống, bởi vì sự chết đã bị sự Phục Sinh của Người tiêu hủy rồi. Vậy, «hãy chọn sự sống!» (Dnl 30,19).
Cv: 3: 13-15, 17-19; Tv: 4; I Ga 2: 1-5a; Lc 24: 35-48
Anh chị em thân mến,
Anh chị em có thể thấy được là bài đọc thứ nhất trong các ngày Chúa Nhật mùa Phục Sinh cho đến Chúa: PS3 B-70
Anh chị em có thể thấy được là bài đọc thứ nhất trong các ngày Chúa Nhật mùa Phục Sinh cho đến Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đều trích trong sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một dịp tốt để giảng giải, tối thiểu là một lần trong suốt những tuần lễ này, về những công việc của các Tông đồ đã làm. Chắc chắn điều này là một sự thú vị cho thính giả, nhưng là một thách đố cho những nhà giảng thuyết nếu chúng ta nắm bắt được trọng tâm của sách Công Vụ Tông Đồ.
Thật đáng tiếc là chúng ta không đọc bài một trích từ Cựu ước và bài 2 trích từ Công Vụ Tông Đồ trong các Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh. Có lẽ Hội Thánh muốn tách riêng Công Vụ Tông Đồ ra khỏi Cựu ước. Nhìn vào bài đọc hôm nay, chúng ta thấy rõ là Công Vụ Tông Đồ dựa vào văn bản Do Thái làm nguồn gốc lịch sử, tôn giáo và lời văn. Khi Công Vụ Tông Đồ tách khỏi gốc Cựu ước, chúng ta có cảm tưởng Công Vụ Tông Đồ là sách trình bày cho chúng ta biết Giáo Hội sơ khai được tổ chức, và hoạt động như thế nào.
Công Vụ Tông Đồ minh chứng các hoạt động của cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên hơn là chỉ nói đến cách tổ chức. Điều này cũng giúp chúng ta thấy được những dấu chỉ đầu tiên về sự hiện diện nước Thiên Chúa giữa các cộng đoàn. Đây cũng là hy vọng của dân Do Thái khi nghe những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Trong phần kết của Phúc âm thánh Luca, Chúa Giêsu nhắc đến lời các ngôn sứ trong Cựu ước ám chỉ về Ngài. "Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh" (Lc 24:27). Phêrô cũng dùng ngôn từ như vậy khi nói với những người trông thấy Chúa làm phép lạ chữa người què ngồi xin ở Cửa Đẹp của đền thờ: "như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước..."(Cv 3:18). Vậy muốn hiểu rõ sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nên tham khảo thêm Cựu Ước.
Phêrô đã loan báo những gì trong sách Công Vụ Tông Đồ đã viết: Đến giờ Thiên Chúa thực hiện các điều đã loan báo. Bởi thế, toàn bộ Công Vụ Tông Đồ đều liên quan mật thiết với Thánh Kinh Do Thái. Giáo Hội sơ khai tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, nhờ đó, một sự sống mới đã đến. Lối sống xưa với những bất công, bất bình đẳng đã qua đi. Qua sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, một dân tộc mới được tạo dựng, và hùng mạnh nhờ ơn Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã hứa. Đoạn đầu sách Công Vụ Tông Đồ chứng tỏ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong các cộng đoàn(2:1). Mọi sự đều không còn như trước. Đừng coi thường, Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại, và những kẻ theo Người đã bắt đầu chứng tỏ dấu hiệu là đã có quyền năng và sức sống là chữa được người què(Cv 3: 2-8).
Phêrô cùng với Gioan vừa chữa một người ăn xin què. Ngoại trừ người què, các người khác có mặt ở đó nghĩ rằng hai ông chữa được là nhờ bởi một nguồn lực nào, hay bởi quyền lực riêng của Phêrô, và ông kín miệng, không nói gì. Nhưng Phêrô gọi đó là "lòng tin vào danh Người". Phêrô kêu gọi dân chúng hãy chú trọng đến hành vi hiện thực của Thiên Chúa là Đấng đưa tay cứu chữa. Phêrô làm một việc gây ngạc nhiên cho giới rao giảng chúng ta: bằng Kinh thánh, qua hoàn cảnh của con người, thử tìm xem sự hiện hữu của Thiên Chúa như thế nào để thấy được là Ngài luôn đến cứu giúp chúng ta khi chúng ta cần.
Phêrô nói rõ là Thiên Chúa hoạt động do bởi "Ngài là Thiên Chúa của các tổ phụ A-pra-ham, I-xa-ac, và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta...Và cũng chính Ngài đã gởi cho chúng ta Đức Giêsu, Người đã khơi nguồn sự sống." Trong lời giảng của Phêrô, đã nói đến sự liên hệ giữa "Thiên Chúa của Cựu Ước" và "Thiên Chúa của Tân Ước" thể hiện trong Đức Giêsu. Phêrô nhắc cho chúng ta biết, Thiên Chúa không hề bị phân biệt bởi "Cũ" và "Mới". Thí dụ: trước kia giận dữ, bây giờ thì hiền hòa; trước kia trừng phạt, bây giờ, qua Đức Giêsu lại trở nên tha thứ. Không, Phêrô không giải thích như vậy, trái lại, ông nói Thiên Chúa bây giờ qua Đức Giêsu "đã thực hiện" những điều "đã được báo trước qua miệng các ngôn sứ". Đối với chúng ta, những người rao giảng, hãy từ bỏ những phân biệt sai lầm về bản tính mà chúng ta đã gắn cho Thiên Chúa. Thật ra, có lúc Thiên Chúa có vẻ như thay đổi trong bản tính của Ngài. Như trong phần cuối của Cựu Ước, Thiên Chúa đã thay đổi thái độ, để bày tỏ lòng nhân từ với chúng ta trong Tân Ước.
Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều người rao giảng đầy nhiệt huyết thu hút biết bao giáo dân theo họ. Có những người lãnh đạo các nhóm cuồng tín khiến các tín đồ của họ làm những chuyện động trời vì danh họ. Bình thường thì, mỗi khi người lãnh đạo chết, thì nhóm tín đồ của họ tan rã. Nhưng đối với Chúa Giêsu lại khác. Thật ra, sau khi Chúa Giêsu chết, các môn đệ ra đi rao giảng vì thế Ngài là chính Đấng mà mọi người trông đợi Thiên Chúa sai đến. Các môn đệ rao giảng Ngài là Thiên Chúa làm người, và đã sống lại từ cõi chết. Và chính Thánh Thần của Ngài đang sống động thúc đẩy các Môn Đệ. Nhóm Môn Đệ đã tan rã vì hoản sợ, nay đã họp nhau lại và làm chứng về sự Phục Sinh của Chúa trước quần chúng. Như sách Công Vụ Tông Đồ đọc hôm nay, các Môn Đệ thực hiện những công việc như Chúa Giêsu đã làm là chữa người bệnh và giúp người nghèo.
Ngay sau khi chữa người què được lành và giải thích với đám đông thì Phêrô bị bắt và giải ra tòa Sanhedrin, vì ông đã giảng và chữa người bệnh vì danh Chúa Giêsu. Ông là người đã nhiều lần chối Chúa, vậy mà bây giờ lại công khai tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Kitô, người được Thiên Chúa sai đến.
Phêrô nói về Chúa Giêsu như sau: "Nguồn gốc sự sống". Chúng ta hãy dùng lời thánh Phêrô để kêu xin Đấng "Nguồn gốc sự sống" xức dầu cho chúng ta, nên như môn đệ của Ngài, để chúng ta có thể: Đem sự sống đến những nơi bị chia rẽ; đem an bình đến nơi tranh chấp; bảo vệ sự sống khi có đe dọa; nâng đỡ sự sống khi gặp khó khăn hay còn suy yếu; họp thành cộng đòan khi có chia rẽ và bị tan rã; khuyến khích kẻ mất hy vọng; nâng đỡ kẻ cô đơn, và vui mừng khi sống lại từ cõi chết.
Sau cùng, Phêrô và các Môn Đệ khác sẽ chịu tử đạo vì niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Các ông là những người đã bỏ Chúa Giêsu khi Người bị bắt, để tự cứu mạng mình, thì bây giờ sẽ hiến mạng sống mình để tưởng nhớ đến Đấng "Nguồn gốc sự sống". Và, hơn nữa: những môn đệ theo Chúa Kitô sẽ mạnh dạn dấn thân vào những vấn đề như: bênh vực các bào thai chưa được sinh ra, bênh vực những người bị án tử hình, đang hấp hối, bị tàn phế, cho tất cả những người ở ngoài cộng đoàn mặc cho họ có đời sống khác với cộng đoàn.
Chúa Phục Sinh mà chúng ta mừng và tuyên xưng đức tin hôm nay là ai? Theo Phêrô đã nói: đó là Chúa các tổ phụ Do Thái, Ngài hiện diện trong Đức Giêsu "Nguồn sự sống", Đấng đã chết cho chúng ta và đã được sống lại từ cõi chết.
Các Kitô Hữu thời đầu cũng như chúng ta bây giờ, chỉ mừng bữa Tiệc Ly cuối cùng để tưởng nhớ quá khứ khi Chúa Kitô còn sống giữa họ. Họ mừng bữa tiệc để nhắc đến sự hiện diện của Ngài giữa họ, và trong lúc ấy, họ đọc lời Chúa và chia nhau bánh và rượu. Bây giờ chúng ta cũng làm như vậy với sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh ở giữa chúng ta, và nhờ Chúa Thánh Thần liên kết chúng ta lại, và gởi chúng ta ra đi như Phêrô đã làm, là đưa tay giúp đỡ những người cần đến, nhờ sự làm việc và lời nói đã minh chứng Chúa Kitô thật sự đang ngự giữa chúng ta. Giờ đây, đã đến giờ thực hiện lời các ngôn sứ.
Hai môn đệ được Chúa Giêsu hiện ra trên đường Emmau thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và: PS3 B-71
Hai môn đệ được Chúa Giêsu hiện ra trên đường Emmau thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Các ông còn đang nói, thì chính Chúa Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em !" Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: "Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không?" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Rồi Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm". Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này."
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có truyện kể rằng trước khi dâng mình cho Chúa, thánh An-phong-sô là một luật sư lỗi lạc. Người rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, Người đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho Người phải thất bại. Trong một vụ án mà Người thấy là đơn giản, dễ dàng, Người đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, Người thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời. Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, Người quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, Người tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, Người nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, Người hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, Người đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dong Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, Người hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa Người về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện Người trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ Người xuống trong danh vọng trần thế để nâng Người lên trong vinh quang Thiên đàng.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Chúa Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an.
Có lần Chúa Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế. Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giê- su phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe doạ đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi đức tin các Tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Chúa Giêsu là có thực. Đức tin của các Tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Chúa Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh.
Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các Tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Chúa Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày.
Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Có khi nào bạn đã gặp những đau buồn quá sức, tưởng như đã bị Chúa bỏ rơi không ?
2- Qua đau khổ đến bình an, bạn đã bao giờ cảm nghiệm được điều này chưa ?
3-Thánh Kinh giúp ta hiểu biết Chúa và biết sống theo thánh ý Chúa. Bạn có siêng năng đọc và học hỏi Thánh Kinh không ?
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH B (Cv 3, 13-15.17-19; 1 Ga 2,1-5a; Lc 24, 35-48)
Thánh Luca vừa trình bày cho chúng ta trình thuật sau cùng của Ngài. Qua trình thuật này chúng ta: PS3 B-72
Thánh Luca vừa trình bày cho chúng ta trình thuật sau cùng của Ngài. Qua trình thuật này chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi vào trong sự viên mãn của mầu nhiệm Phục Sinh. Trình thuật Chúa Giêsu dẫn đưa các môn đệ như thế nào, chúng ta hãy nhìn đến ý hướng biên soạn của Thánh Luca. Thánh ký kết cấu trình thuật như sau:
- Hiện ra cho các môn đệ (c. 36-43) sau khi đã hiện ra cho Simon (c. 34) cũng như cho hai môn đệ Emmau - (c. 13-35), lần này Chúa Giêsu tỏ hiện cho số môn đệ đông hơn (dĩ nhiên trong đó có nhóm Mười một). Nhấn mạnh cho tất cả thực tại tỏ tường của sự sống lại của Người.
- Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh thánh, trao sứ mệnh làm chứng nhân cho sự Phục sinh của Người, cùng với lời hứa ban “mãnh lực Trên ban” (c. 44-49).
- Thánh Luca kết thúc Tin mừng với bối cảnh Thăng thiên: Đức Chúa Giêsu tỏ lộ vương quyền của Người và các môn đệ nhận biết sự khải hoàn uy nghi đó (C. 50-53).
- Ngoài ra, chúng ta còn ghi nhận rằng: trình thuật sau cùng này rất gần gũi với biên soạn của Thánh Gioan ở chương 20,19-29. Cả hai thánh ký đều có cách trình bày giống nhau về thân xác Phục sinh của Chúa Giêsu, hoặc cả hai sử dụng một nguồn truyền thống chung hoặc Thánh Luca lấy nguồn từ truyền thống Gioan.
Thân xác phục sinh của Chúa Giêsu được miêu tả như là không còn lệ thuộc vào quy luật vật lý bình thường: Người hiện đến khi cửa đóng (x. c. 36) “bỏ họ mà biến mất” (c. 31). Tuy nhiên, đó cũng là một thân xác thực sự của con người: Người tiến lại gần bên họ (c. 15) chuyện trò hỏi thưa (c. 17; 25) cầm bánh bẻ ra (câu 30) hoặc cùng ăn cùng uống với họ (c. 43) v.v... Cách diễn tả như thế chắc chắn chịu ảnh hưởng sâu xa bởi truyền thống Giáo hội sơ khai, trình bày một Chúa Giêsu cùng ăn cùng uống với các môn đệ sau khi Người sống lại (x. Cv 10. 36-43). Nhất là trong bối cảnh gắn liền với văn hóa Do Thái. Đối với người Do Thái, với não trạng thực tế, thì chuyện không có xác thể đó là thứ ma quái: chứ không phải là con người sống động.
Cách trình bày đó dĩ nhiên bao hàm ý hướng biện giáo cho mầu nhiệm phục sinh: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại thực sự. Chính Người là Con Thiên Chúa làm người, đã từ cõi chết sống lại. Và Người đang sống.
Ý hướng biện giáo này càng là một dữ kiện dễ hiểu đối với Tin Mừng Luca nhằm gởi cho độc giả Hy Lạp. Người Hy Lạp chấp nhận sự bất tử của linh hồn song không tin có sự sống lại của thể xác. Chính vì thế Thánh Luca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất tới thực tại thể xác của Chúa Giêsu.
Họ còn đang nói, thì Người đã đứng giữa họ (c. 36-43). Các môn đệ kinh hoàng và khiếp sợ trước sự hiện ra bất ngờ của Chúa Giêsu. Phản ứng này có phù hợp với dữ kiện ở câu 34 không ? Ở đó tất cả đều được loan báo rằng: “Thực thế, Chúa đã sống lại và hiện ra cho Simon”. Tại sao bây giờ họ kinh hoàng khiếp đảm?
Họ nghe nói, nhưng điều đó chưa đủ. Cũng như nơi trình thuật Emmau, cần phải có một cử chỉ, hay một lời từ phía Đấng Phục Sinh, trước khi các môn đệ có thể nhận ra Đấng Phục Sinh. Hay nói một cách khác, để chấp nhận mầu nhiệm phục sinh, cần phải có đức tin (cần được ban cho từ Thiên Chúa). Các thứ bằng chứng hay lời thuyết phục, loan báo v.v... chưa đủ. Và “ân huệ” từ Chúa Giêsu được ban cho các môn đệ là: “Hãy coi tay Ta, chân Ta. Chính là Ta đó. Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có xương có thịt như các ngươi thấy Ta có” (c. 39; x. Ga 20,20: tay và cạnh sườn).
Còn họ “vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được” (câu 41). Hạn từ apo tês kharas (= praegaudio, mừng vui quá) diễn tả một hạnh phúc, một niềm vui không ngờ được. “Họ không thể tin mắt họ”. Có thể đây là một cách diễn tả nhằm biện hộ cho sự cứng tin của các môn đệ (x. Lc 22,45).
Với một cử chỉ thân tình quen thuộc của Thầy và trò trong hành trình loan báo Tin mừng cũng như đầy lòng chiếu cố, Chúa Giêsu đã ăn cá nướng trước mặt các môn đệ để minh chứng cho các môn đệ rằng Ngài đã sống lại thật. Thánh Luca cũng có trong ý nghĩ cái ý nghĩa “thánh thể” của “bữa ăn” này (x. Cv 1,4; Lc 24,30). Sự hiệp thông ở đây với Đức Kitô trong khung cảnh một bữa ăn thân tình, sự hiệp thông tronh tình huynh đệ và diễn tả sự gặp gỡ của đức tin nơi Thánh thể.
Một thân xác phục sinh không còn cần thức ăn; nhưng điều đó không muốn nói rằng thân xác vinh quang không thể “thẩm thấu” đồ ăn của uống. Phần trình thuật này của Thánh Luca (cũng như của Thánh Gioan 20,19t) được miêu tả như để minh chứng rằng: sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện vật lý; Đức Kitô phục sinh không phải là thứ ma quái hay hồn thiêng song là một ngôi vị thực sự.
Không phải thời Chúa Giêsu và các môn đệ, mãi mãi muôn đời có quá nhiều lý luận bài xích cho rằng: các môn đệ lúc đó đã bị lừa gạt bởi những cảm xúc quá mạnh hoặc bởi những tưởng tượng đầy ám ảnh. Trình thuật này của Thánh Luca là câu trả lời cho sự đối kháng đó. Chúng ta vừa nghe Thánh Luca trình bày cho thấy: các môn đệ hoàn toàn không phải là bị ám ảnh, hay là mộng mị như những người không tin thường hay nhạo báng, ngược lại là đúng hơn; và dù có nghi ngờ, họ đã đi đến chỗ xác tín rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
Thật ra mà nói thì các môn đệ ngày xưa cũng là con người xác thịt như chúng ta, đâu có dễ dàng gì mà tin một con người đã chết thật mà nay lại sống lại thật với đầy đủ cái thân xác cũng ăn cũng uống như con người. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã sống lại thật và các môn đệ đã tin thật. Vì tin cũng như nhận được ân sủng từ Chúa Thánh Thần do Chúa Giêsu thương ban nên lòng tin của các ông tưởng chừng như tan tành theo mây khói nhưng đã được củng cố một cách mạnh mẽ hơn trước.
Chúng ta nhớ lại hình ảnh của một Phêrô nhát đảm nhưng sau khi chân nhận mầu nhiệm Phục Sinh, Phêrô đã mạnh mẽ lên đường đi rao giảng Tin mừng Phục Sinh ấy. Không chỉ rao giảng, Phêrô còn minh chứng quyền năng Chúa Phục Sinh trong chính hành động chữa người què. Anh què vừa đi vừa nhảy nhót vừa ca tụng Thiên Chúa. Như sách Công vụ tông đồ thuật lại: “Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh. Anh cứ níu lấy ông Phê-rô và ông Gio-an, nên toàn dân rất kinh ngạc, chạy ùa tới các ông tại hành lang gọi là hành lang Sa-lô-môn” (Cv 3, 9-11).
Hôm nay, Thánh Phêrô, đại diện cho các tông đồ đã minh chứng cho những người Ngài rao giảng về cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Ngài. Ngài minh chứng cho những người ấy cũng chính là Ngài minh chứng cho chúng ta. Ngoài ra, Ngài còn cảnh báo cho chúng ta về những hành vi của chúng ta vì không hiểu biết và Ngài cũng mời gọi chúng ta sám hối và trở lại với Thiên Chúa để chúng ta được Thiên Chúa xoá bỏ tội lỗi.
“Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng. "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em”. (Cv 3, 13-19).
Không chỉ tông đồ Phêrô mà cả môn đệ Chúa yêu trong thư thứ nhất của Ngài mà chúng ta vừa nghe đấy, Ngài cũng đã nhắc nhở và cảnh báo chúng ta.
“Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta,
không những tội lỗi chúng ta mà thôi,
nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa”. (1 Ga, 2, 5)
Như vậy, chúng ta thấy lòng tin của các Ngài. Nhiều người phản bác lòng tin vào Chúa Phục sinh. Như chúng ta thấy đó, lính canh đã nhận tiền của các quan để loan báo rằng “môn đệ của ông ấy đến lấy xác ông ấy”. Dẫu phải đối kháng với những người không tin mà còn chà đạp lòng tin nữa nhưng lòng tin của các môn đệ vẫn kiên vững.
Các ngài đã tin, đã minh chứng lòng tin ấy cũng như cảnh báo cho chúng ta về thái độ sống của chúng ta. Chúng ta như thế nào khi đứng trước lời minh chứng ấy. Chúng ta có tiếp tục con đường cũ của những người Do Thái kém tin vào Chúa hay là chúng ta tin Chúa như các môn đệ đã tin.
Chắc chắn lòng tin của chúng ta ngày hôm nay cũng bị thử thách như các môn đệ ngày xưa vậy. Chúng ta vẫn bị giằng co chứ không đơn giản chút nào. Chúng ta thấy các tông đồ ngày xưa loan báo và minh chứng về một Đức Giêsu Phục Sinh không đơn giản vì lẽ các ngài bị chống đối, bị chà đạp. Lòng tin của chúng ta ngày hôm nay cũng bị giằng co, chống đối chà đạp
Nếu trả lời là tin, chúng ta hãy diễn tả lòng tin ấy bằng lối sống thường nhật của mỗi người chúng ta vào Chúa, Chúa thì lại hiện diện nơi chính anh chị em đồng loại.
Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho những con người yếu đuối của chúng ta.
Xin các thánh tông đồ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta để chúng ta ngày mỗi ngày tin vào lời chứng của các môn đệ về Chúa hơn cũng như xin thêm lòng mến để chúng ta diễn tả niềm tin một cách thực tế trong cuộc đời của chúng ta.
Cứ mỗi đêm, một câu chuyện được kể, và một mạng người được thóat chết. Nhà vua cứ mãi lắng nghe: PS3 B-73
Cứ mỗi đêm, một câu chuyện được kể, và một mạng người được thóat chết. Nhà vua cứ mãi lắng nghe, từng nhịp, từng nhịp, dòng chảy của thời gian. Cho đến khi không còn ai phải chết. Hai môn đệ trên đường Emmau, quay trở về Giêruselem và thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và họ đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Như giữa hư và thực, các môn đệ bàng hòang và ngây ngất, họ như tỉnh như say. Tâm trạng các môn đệ chất chứa đầy những hoang mang. Họ chụm vào nhau và kể cho nhau nghe những lần Chúa Giêsu hiện ra với họ. Đang lúc “tranh tối, tranh sáng” thì chúa Giêsu hiện đến, thế nhưng thay vì nhận ra Chúa thì các ông:” kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”( Lc24, 37). Thật là tội nghiệp cho các ngài, như vừa trải qua cơn ác mộng, sự thất vọng và những nỗi chán chường đã gặm nhấm tâm hồn các Ngài. Làm sao mà có thể “bình chân như vại được”, khi câu chuyện Chúa Giêsu sống lại cứ ngày một lan xa. Thấy các học trò còn e dè, và thậm chí còn ngờ vực, Chúa Giêsu phải trấn an các Ngài:” Sao anh em lại hỏang hốt? sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay thầy coi, chính Thầy đây mà! cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”
( Lc 24, 38-39 ). Chúa Giêsu lại tiếp tục kể cho các Tông đồ nghe, bắt đầu bằng kinh thánh: sách luật Mô-sê, các sách ngôn sứ và Thánh vịnh. Tâm hồn các Ngài chợt bừng tỉnh, Chúa Giêsu kéo họ ra khỏi những giấc mộng vàng của kiếp phù vân, Ngài sai các tông đồ ra đi và làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Đấng phục sinh còn ăn uống trước mặt họ. Ôi quả thật hạnh phúc, các tông đồ không còn nhát đảm và sợ sệt nữa, Đức Giêsu Phục sinh đã làm cho niềm vui của các ngài òa vỡ, không thể im lặng được, họ cùng nhau đi đến với muôn dân loan tin mừng Chúa đã sống lại. Và phép lạ phục sinh đã xảy ra, người ta sám hối, con người tìm về với Chúa, lương tâm mọi người thức tỉnh, họ bắt đầu phản tỉnh:”Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì?”(Cvtđ 2,37).
Câu chuyện phục sinh chẳng bao giờ khép lại, người ta cứ mải mê kể cho nhau nghe,” khi ấy…Đức Giêsu…”, và mọi người thay nhau kể về câu chuyện hai môn đệ trên đường đi Emmau. Ngày hôm nay, cộng động Emmau do cha Henri Groúes sáng lập, nhằm giúp những người không nhà, không cửa tự tay xây dựng đời sống cho chính mình đã có mặt tại năm mươi quốc gia với 250 cộng đòan.
Trong thánh lễ mỗi ngày, linh mục cùng với cộng đòan dân Chúa, tiếp nối sứ mạng đã được Đức Giêsu ủy thác để vẫn mãi kể về câu chuyện Đấng đã Phục sinh Alleluia !
Hai môn đệ, trong số bảy mươi hai vị đã được Chúa sai đi từng đôi một vào tất cả các thành: PS3 B-74
Hai môn đệ, trong số bảy mươi hai vị đã được Chúa sai đi từng đôi một vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến (Lc 10, 1). Nhưng sau khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, họ đã vỡ mộng và tính về vườn. Do vậy, trên đường về làng Emmau cách Giêrusalem chừng một cây số, thì gặp Chúa, họ liền quay trở lại báo tin cho các tông đồ. Theo Thánh Luca, đây là lần đầu tiên Chúa hiện ra với tất cả các môn đệ, nên các ông kinh hồn bạt vía (Lc 24, 37). Thánh Luca ghi nhận sự kiện này trong hướng thu thập các bằng chứng Chúa sống lại thực sự chứ không là sản phẩm tưởng tượng do các môn đệ đặt ra, vì chính các Ngài cũng còn phải sửng sốt.
Chúa cho các ông xem các dấu đinh để kiểm chứng vì ma thì không có xương thịt. Nhưng có lẽ quá vui mừng, các ông vẫn chưa tin ngay và còn đang ngỡ ngàng. Chúa muốn cho các ông thấy thực tại thể lý sự sống lại của Người, nên Chúa đã cầm một khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông. Nhờ vậy các môn đệ thêm tin thực là Chúa như hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Giêsu lúc Ngài bẻ bánh.
Sau khi đã mở trí cho các môn đệ am hiểu Kinh Thánh, Chúa Giêsu trao phó sứ mạng cho các ông lên đường rao giảng về cuộc Thương khó và Phục sinh của Người để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối đón nhận ơn cứu độ. Trong môi trường văn hóa Do thái bấy giờ, việc tha tội và Phục sinh phải đi đôi với nhau, vì nếu cái chết được quan niệm như là hình phạt của tội lỗi, thì Phục sinh phải là dấu chỉ tội lỗi đã được xóa bỏ.. Chính vì vậy, những lời Kinh Thánh, các việc loan báo, các sự kiện....về sự Phục sinh của Chúa đã phải làm các tông đồ vững tin, nhưng để kiện toàn hơn về lòng tin này, vì các Ngài sẽ là những chứng nhân, cũng như vì đức tin của các thế hệ mai sau sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ, đặc biệt của Thánh Phêrô, mà Chúa phải hiện ra nhiều lần với các ông, ban cho các ông nhiều bằng chứng về sự sống lại của Ngài. Đó chính là điều mà Thánh Luca muốn diễn tả. Đức tin của Thánh Phêrô là nguồn mạch đức tin của người khác, kể cả của các môn đệ mà Chúa Giêsu đòi các Ngài phải là chứng nhân.
Có lần người ta hỏi đại thi hào Danic của Italia rằng: đâu là điều mà ông mong muốn và tìm kiếm trong cuộc sống. Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: "Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm đó là sự bình an". Là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ nào cũng luôn ghi lời cầu xin cho họ được an nghỉ nghìn thu. Phải chăng trong cuộc sống tại thế này, chúng ta sẽ khò tìm được hòa bình và an nghỉ. Thế giới dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút hòa bình thực sự, có chăng chỉ là những khoảnh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến tranh và lo sợ.
Trong những phút cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta "Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con". Đó là sự bình an đích thực trong tâm hồn, Chúa đã mang đến cho các môn đệ qua những lần hiện ra với các ông.. Chính nhờ sự bình an này đã giúp biến đổi các ông từ con người nhát đảm, cứng lòng tin trở thành những con người mạnh mẽ, nhiệt thành loan báo tin mừng Phục sinh của Chúa Giêsu.
Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay chính là lời chứng của các tông đồ về việc Chúa Phục sinh. Các Ngài đã nói với chúng ta không chỉ bằng lời truyền lại trong Kinh Thánh, mà còn bằng chính đời sống mạnh mẽ loan tin ấy và rồi dám chết cho điều mình tin. Suốt hơn 2000 năm lịch sử, các tông đồ, các nhà truyền giáo, những nhà hoạt động xã hội nhân danh Chúa Giêsu đã làm tốt điều ấy. Tin Chúa Phục sinh đã là điều cần, nhưng cần hơn còn phải biết biến niềm tin ấy thành hiện thực trong cuộc sống. Nghĩa là lên đường loan báo những gì mình đã tin. Chúng ta được mời gọi, tùy theo cách thế, hoàn cảnh mà làm chứng việc Chúa sống lại bằng chính cuộc sống của kẻ tin có sự sống lại. Khởi đi từ suy nghĩ, lời ăn tiếng nói tới thái độ cư xử, cách sử dụng tài sản và phục vụ tha nhân của mình.
Lạy Chúa, xin cho con nên nhân chứng sự Phục sinh của Chúa bằng việc góp phần làm sống lại những con người đã chết vì chán nản, thiếu niềm tin để sống. Những nét đẹp phong hóa của tình nghĩa đã chết vì bị quên lãng hay vì tiền bạc, vì lợi nhuận.....Xin cho con biết đón nhận những khó khăn trong cuộc sống với ý thức chúng sẽ đưa tới cuộc hồi sinh của anh em con.
Trong suốt những lần hiện ra cùng các tông đồ, luôn luôn, những lời chào chúc đầu tiên của: PS3 B-75
Trong suốt những lần hiện ra cùng các tông đồ, luôn luôn, những lời chào chúc đầu tiên của Chúa Giêsu là: “Bình an cho các con”. Đây là những gì mà khi trao sứ vụ cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã từng dạy các ông: “Đừng mang bao bị, tiền túi dọc đường nhưng vào làng nào, thành nào, các con hãy chúc bình an cho người ta”.
Dường như, Chúa muốn dạy cho các tông đồ rằng: “Kho tàng của các con duy nhất là sự bình an, trao ban cho những nơi các con đến” và mùa Phục Sinh này, chúng ta được chứng kiến Chúa Giêsu đã trao ban kho tàng ấy cho các ông: “Bình an cho các con”. Bình an vượt trên những sợ hãi, đóng kín cửa trong nhà; bình an để các ông có thể yên tâm ra khơi, cho dẫu cả đêm không bắt được con cá nào; rồi bình an của Chúa đến, sự hiện diện của Chúa sẽ làm cho các ông được đầy thuyền cá lớn. Hơn nữa, sự bình an của Chúa hôm nay còn trao ban cho các ông một sứ mệnh rất lớn lao: “Các con sẽ là chứng nhân những sự kiện đó”. Từ đây, bài học không còn là lý thuyết nhưng là chứng từ của cuộc sống về Chúa Kitô Phục Sinh. Với chứng từ này, các tông đồ tiếp tục trao ban bình an cho thế giới. Sự bình an vượt trên mọi sợ hãi, âu lo, trao ban niềm hy vọng và kiến tạo hạnh phúc cho thế giới. Chứng từ về Chúa Kitô Phục sinh là một chứng từ mạnh mẽ nhất về sự chiến thắng thế gian, chiến thắng tử thần. Chứng từ Phục Sinh mở ra cho chúng ta viễn ảnh về sự sống đời đời mà chúng ta được mời gọi sống trong sự sống ấy. Hay nói một cách cụ thể hơn là sống trong sự sống của chính Thiên Chúa Ba Ngôi: Yêu thương, hiệp nhất và vĩnh cửu.
Các tông đồ là những người còn phân vân không phải nghi ngờ Chúa, nhưng nghi ngờ về giác quan của mình, về mắt mình có thể nhìn sai, về trí tưởng tưởng của mình có thể vẽ ra những gì là “tự kỷ ám thị”. Chúa Giêsu đã ăn trước mặt các ông để làm chứng cho các ông rằng: “ma đâu có xương thịt như các con thấy thầy có đây”. Chúa Giêsu ăn trước mặt các ông không phải vì nhu cầu đói, không phải vì nhu cầu phải ăn mới sống nhưng ăn để làm chứng sự hiện hữu của Chúa trong con người của Giêsu đã từng bị đóng đinh, đã từng bị giết chết.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các tông đồ rằng: Chúng ta ăn để sống và sống để làm chứng nhân Phục sinh của Chúa Kitô. Đừng coi ăn là mục đích để rồi chỉ sống mà ăn. Chúa Giêsu đã cho các ông thấy một nhãn giới cao hơn trong mục đích của đời sống con người. Như vậy, các ông đã hiểu ra rằng: Cuộc sống ở đời này là phương tiện để đưa các ông đến với Thầy và làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, là làm chứng về một cuộc sống đời đời và trao ban bình an cho thế giới. Đó là sứ mệnh của các ông.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hiểu ra rằng: tất cả mọi sinh hoạt, tất cả cuộc sống trần thế, chúng ta đang có đây là những phương tiện giúp chúng ta đến với một niềm hy vọng. Niềm hy vọng để biến chúng ta thành chứng nhân của Tin Mừng và chứng nhân ấy được Giáo hội nhắc lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong thánh lễ mỗi ngày: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xứng Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Xin giúp chúng con ý thức sứ mệnh này để đến lượt chúng con lại tiếp tục ra đi làm chứng nhân Tin Mừng cho Chúa trong thời đại chúng con đang sống. Amen.
Việc đầu tiên khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ là Ngài trao ban bình an cho họ. Cũng dễ hiểu thôi: PS3 B-76
Việc đầu tiên khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ là Ngài trao ban bình an cho họ. Cũng dễ hiểu thôi bởi lẽ các môn đệ đang cần lắm sự bình an sau những chấn động do cuộc khổ nạn của Thầy mình. Dư chấn cuộc thương khó đang làm cho lòng các ông tan nát. Loạt tin tức về việc Chúa mất xác, Chúa sống lại, Chúa hiện ra… làm cho tâm hồn các ông rối bời như canh hẹ.
Ngay cả sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra cũng cố đức tin và kiện cường niềm hy vọng, các ông cũng đang cần lắm bình an của Chúa để khởi đầu cho một sứ vụ mới, sứ vụ làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Sứ vụ mới nay bắt đầu chính thức. Nhưng trước hết các ông cần có cái tâm an bình đã, vốn là hoa trái của đức tin. Có cái tâm an bình thì mới có thể đem tin bình an đến cho người khác được.
Tuy nhiên sự bình an mà Chúa Kitô muốn trao là sự bình an nào ? Chắc chắn không phải là bình an theo kiểu của thế gian, như lời Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy ban cho anh em sự bình an không như thế gian ban tặng”. Bình an của thế gian theo nghĩa là không có chiến tranh, không có tai ương hay xáo trộn. Đặc tính dễ thấy nơi bình an thế gian là giả tạo, chóng qua. Vì bình an thế gian thường đến từ các “ngôn sứ giả” như thời Cựu Ước; bình an đến từ tiền bạc, danh vọng, quyền lực và những tiện nghi vật chất.
Thế bình an mà Chúa để lại cho các môn đệ là gì ? Thưa đó là bình an có Chúa luôn ở cùng, bình an có Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nói cách khác đây là chính là bình an ơn cứu độ. Bình an đó còn là gì nữa ? Đó còn là chính Chúa Thánh Thần và các ân huệ của Người được Đức Kitô ban xuống trong tâm hồn các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Đây là thứ di sản bền vững mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ; không như di sản trần thế: tiền bạc của cải, cổ phần cổ phiếu… là những thứ rất bấp bênh, nay còn mai mất, nay được giá mai mất giá….
Các môn đệ có được bình an vì đức tin của các ngài đã có đường vững chắc để đi, đức cậy của các ngài đã có lối rõ ràng để về. Bởi vậy sau này các ngài không còn lo âu xao xuyến sợ hãi nữa, dẫu cho bên ngoài có còn nhiều sóng gió thử thách.
Cuộc sống con người ngày hôm nay đang cần lắm sự bình an của Chúa. Bản thân cần sự bình an. Gia đình cần sự bình an. Cộng đoàn cần sự bình an. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết mở lòng ra đón nhận sự bình an của Chúa Kitô. Đồng thời biết trở nên như khí cụ bình an của Chúa, nghĩa là biết đem sự bình an của Chúa cho những anh chị em mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Amen.
“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.”
Bạn thân mến,
Chúa Giê-su đã sống lại như lời Kinh Thánh đã nói về Ngài, đó là một sự thật mà lịch sử đã chứng minh PS3 B-77
Chúa Giê-su đã sống lại như lời Kinh Thánh đã nói về Ngài, đó là một sự thật mà lịch sử đã chứng minh, không những chứng minh bởi lời của các tiên tri trong Cựu ước, mà còn được các sách Phúc Âm ghi chép rõ ràng, và đặc biệt hơn nữa là chính các quân lính canh mồ của Chúa Giê-su đã chứng minh điều đó (Mt 28, 11-15), sự sống lại của Chúa Giê-su Ki-tô là một bằng chứng cho bạn và tôi rằng: Chúa Giê-su đã sống lại thật, và niềm tin của chúng ta vào Ngài là có căn cứ, và là một niềm hạnh phúc và hãnh diện cho chúng ta.
Cuộc sống của bạn và tôi ngày hôm nay chính là cuộc sống làm chứng nhân cho Chúa Giê-su Phục Sinh, vâng, Chúa Giê-su Phục Sinh chứ không phải là Chúa Giê-su chết chôn trong mộ đá, bởi vì sự chết chỉ đem lại chết chóc, u buồn và thất vọng. Nhưng bạn và tôi, cũng như rất nhiều người Ki-tô hữu khác đã sống đức tin vào Chúa Giê-su cách đặc biệt và sống lạc quan làm chứng cho niềm tin của mình, dù cho những đau khổ, thất bại hay thử thách hoặc với những bách hại nào, thì chúng ta vẫn cứ sống tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh, như hai môn đệ trên đường Em-mau đã nóng lòng lên khi nghe Chúa Giê-su giải thích sách thánh trên đường khi đồng hành với họ...
Tin là không hồ nghi ngờ vực, nhưng chấp nhận những điều mình tin. Tin vào Chúa Giê-su cũng vậy, chúng ta đã hân hoan tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh, và hân hoan long trọng mừng ngày Ngài từ trong cõi chết sống lại.
Bạn thân mến,
Trong thực tế thì dù lòng dạ chúng ta tin vào Chúa Giê-su Phục sinh, nhưng cuộc sống của chúng ta thì chưa làm chứng cho niềm tin của mình vào Ngài: chúng ta vẫn cứ hồ nghi về những đau khổ xảy ra cho những người chung quanh, chúng ta mong mõi về một cuộc sống hòa bình như lời hứa của Chúa và Đức Mẹ Maria, nhưng hận thù và chết chóc vẫn cứ hằng ngày xảy ra trong cuộc sống của bạn và tôi.
Tôi xin mượn lời thánh Phao-lô -trong thư ngài gởi cho giáo đoàn Ê-phê-xô- để nhắc nhở bạn và tôi luôn sống làm chứng nhân cho Chúa Giê-su Phục Sinh, ngài đã nói: “Thưa anh em, tôi là Phao-lô, người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau...” (Ep 4, 1-2)
Chúa Giêsu sống lại vẫn mãi mãi là một vấn đề cho mọi người. Nhiều người ngoài kitô giáo: PS3 B-78
Chúa Giêsu sống lại vẫn mãi mãi là một vấn đề cho mọi người. Nhiều người ngoài kitô giáo đã xem như một chuyện thần thoại – vì đây là một điều khó tin, vì trong trời đất nầy chưa có ai chết mà ba ngày sau sống lại. Chỉ có một người, người đó là Thiên Chúa, là nền tảng của mọi sự. Ngài đã chết và sống lại và chỉ có một nhóm nhỏ các môn đệ có thể kiểm chứng. Niềm tin của chúng ta là những kẻ tin, chỉ dựa vào chứng tá của nhóm người đó tôi. Không lạ gì nhiều người không thể tin được.
Cám ơn Chúa, chúng ta tin. Có` lẽ nhiều người cho chúng ta là mê tín, dị đoan, nhưng không phải vì thế mà chúng ta không hãnh diện về niềm tin của chúng ta. Ngược lại, chúng ta càng hãnh diện hơn, giữa rừng người không tin tưởng, vì chúng ta có đủ lý do để tin mà không sợ sai lầm. Chính Thiên Chúa trở thành bằng chứng sống động cho niềm tin của chúng ta. Chúng ta vẫn hiên ngang tuyên xưng, mỗi khi chúng ta họp nhau tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Chúa chúng ta: “ Tôi tin… Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh…”
Ngài đã hiện ra cho các môn đệ, Ngài đã cho họ kiểm chứng những vết thương của Ngài. Ngài có xương có thịt như mọi người và Ngài đã ăn cá nướng trước mặt các ông.
Chính Ngài là bằng chứng sống động không thể chối cải.
Cái chết của Chúa Giêsu làm cho các môn đệ bị chao đão, nhưng Ngài đã sống lại. Ngài đã tỏ cho các ông thấy, Ngài đã sống lại thật.
Thánh Gioan, khi tường thuật những cuộc hiện ra của Ngài, không chú ý lắm đến phản ứng của các môn đệ mà chỉ chú trọng đến những lời nói và cử chỉ của Chúa Giêsu, nhưng thánh Luca, như chúng ta vừa nghe, mô tả một cách khá tỉ mỉ, những phản ứng của các môn đệ: “ Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”.
Chúa Giêsu nhẹ nhàng trách các ông: “ Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ?”
Sợ sệt, hoài nghi, vui mừng, ngỡ ngàng của các môn đệ cho chúng ta thấy, việc Chúa sống lại phải được khám phá qua một tiến trình rất nhanh, có thể nói là đột ngột, để sau cùng kết thúc trong niềm tin và hân hoan.
Tin vào sự phục sinh của Chúa không là một việc dễ dàng ! Chúa Giêsu phải nhấn mạnh: “ Chính Thầy đây mà ! Một xác quyết mạnh mẽ, rõ ràng, không thể hồ nghi, không thể sai lầm. Thế nhưng họ vẫn chưa tin… vì sự kiện nầy vượt quá tầm mức của con người. Ngài phải dùng một cách rõ hơn. Xem những vết thương chưa đủ, Ngài phải hỏi: “ Chúng con có gò ăn không ?” Và Ngài đã bình tĩnh ăn trước mặt các ông, và cho họ đủ thời gian để kiểm chứng rõ hơn. Ma không thể ăn như con người bình thường.
Sau đó Ngài bước thêm một bước. Các môn đệ là người Do thái, họ đều quen thuộc với Cựu Ước từ khi còn nhỏ. Ngài nhắc đến Cựu Ước: “ Tất cả những gì sách Môsê, các sách ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” như trên đường Êmau…
Cái chết và sự phục sinh của Ngài là kết cuộc của một lịch sử dài, là lịch sử của dân Do thái, dân được tuyển chọn để chuyển tải chương trình cứu độ của Thiên Chúa , qua thời gian, là câu trả lời dứt khoát cho mọi vấn đề chứa đựng trong Kinh Thánh, là chìa khóa mở cánh của vào đức tin.
Cựu Ước chính là gốc rễ nuôi thân cây Tân Ước, là nguồn gốc đầu tiên của Kitô giáo.
Thiên Chúa đã từ từ chạm trổ khuôn mặt của Chúa Kitô đau khổ và vinh quang qua những khuôn mặt của Abraham, Isaac, Môsê, Giêrêmia, Đavít…
Lời Chúa, qua thời gian, trở nên rõ nét.
Lời Chúa không những là lời nói mà là lịch sử. Mỗi biến cố lịch sử Cựu Ước là một lời nói sống động. Chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Giêsu qua khuôn mặt của Isaac bị sát tế, qua con chiên Vượt qua của dân Do thái, qua hình ảnh của Môsê hướng dẫn dân Do thái về chân trời tự do…
Tất cả lịch sử dân Do thái phải chăng là một hình ảnh của Đấng chịu đóng đinh ? Lao nhọc, cực khổ, lưu đày, máu lệ của cả một dân tộc phải chăng là một tiên báo cuộc tử nạn của Đấng Cứu Thế ?
Chúa Giêsu đã từng trích Cựu Ước để chứng minh sứ mệnh của Ngài . Thánh Phao lô đã nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc: đúng như lời Kinh Thánh: “ Chúa Kitô đã chết vi tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh. Ngài đã được chôn táng, Ngài đã sống lại ngày thứ ba, như lời Kinh Thánh…” ( 1Cr 15, 3-4 ).
Chính chúa Kitô đã thổi vào những dòng chữ xa xưa một luồn sinh khí mới, Ngài đã làm sống lại Lề Luật và các tiên tri.
Công Đồng Vatican II , với Hiến chế Lời Chúa, Tông Huấn Verbum Domini ( Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội ) đã mời gọi các tín hữu tìm lại nguồi gốc của mình trong Kinh Thánh mà Cựu Ước là kho tàng vô tận: “ Gốc rễ của Kitô giáo được tìm thấy trong Cựu Ước vả Kitô giáo luôn luôn được nuôi dưỡng bởi gốc rễ nầy” ( Verbum Dimini số 40 ).
Đọc Lời Chúa, dù Cựu Ước hay Tân Ước, chúng ta hãy đọc như hai môn đệ thành Êmau, nghĩa là với tâm hồn sôi nóng, với tất cả sự đón nhận chân thành. Những lời đó sẽ đốt cháy tâm hồn chúng ta và chuẩn bị cho chúng ta lên đường: “ Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem…”
Chính anh em là chứng nhân của những điều nầy”.
Một lệnh truyền rắn rỏi, vững chắc…
Các Tông đồ đã hiểu và các ngài đã trở thành những nhân chứng bất khuất, can đảm…
Và sau nầy, qua bao nhiêu thế hệ, nhiều người đã ra đi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, bất chấp mọi trở ngại, gian nan.
Các ngài đã sử dụng lời Kinh Thánh để rao giảng Đấng đã chết và phục sinh để mọi người được hưởng hồng ân cứu độ.
Chúng ta có thể đọc trong sách Tông Đồ Công Vụ để thấy rằng Phêrô, Têphanô và Phaolô… cũng luôn dựa vào Kinh Thánh để chứng minh và rao giảng Chúa phục sinh.
Chúng ta cũng là chứng nhân của Chúa Giêsu, không những bằng lời mà bằng cả cuộc sống. Điều nầy ai cũng biết, nhưng thực sự, chúng ta có làm chứng cho Chúa bằng cả những cố gắng, bằng đau khổ hằng ngày, và nhất là bằng bác ái không ? Một nhà văn người Anh nói: “ Nếu sách Tin Mừng là quyển sách của người kitô hữu, thì đời sống của kitô hữu là quyển sách Tin Mừng cho người ngoại đạo”.
Chúng ta mơ mộng quá nhiều. Chúng ta nói đến vấn đề đạo đức rất hay, nhưng có thể chỉ là những tiếng nói suông và gió sẽ xóa nhòa như những vết chân chim trên bãi cát dài.
Chúng ta có dám tin vô điều kiện như Abraham không ? Chúng ta dám thi hành lời Chúa như Môsê không ? Hãy dám đi vào sa mạc như dân do thái, dám chấp nhận mọi gian nan thử thách của sa mạc trần gian để đi vào vùng Đất Hứa là Vượt Qua với Chúa chúng ta, sống với Ngài và cho Ngài không ?
Thế gian đang cần và rất cần những chứng nhân xác thực và đáng tin.
Cuộc sống chúng ta là bằng chứng như thế nào ? Hãy tìm trong Lời Chúa những gì chúng ta cần và cố gắng theo Chúa từng ngày như các tông đồ. Tuy các ngài đã có những lúc yếu đuối, sai lầm. Các ngài cũng mơ mộng địa vị, danh giá như chúng ta, cũng yếu đuối, bỏ Thầy, chối Thầy… nhưng một khi đã biết Thầy sống lại, đã lãnh nhận sứ mệnh chứng nhân, không có gì có thể cản bước chân của các ngài.
Còn chúng ta ?
Chúng ta cũng là chứng nhân vì đã nhận lấy ấn tín Thánh Thần, chúng ta đã tin… sao chúng ta còn quá rụt rè đang lúc những tiếng kèn vô thần vang dậy khắp trời ? Chúng ta đang sợ gì ? Chúng ta ngại ngùng gì khi đưa ra bằng chứng rằng chúng ta đã tin vào một Thiên Chúa Tình Yêu, một Thiên Chúa Hằng Sống?
Hay niềm tin của chúng ta còn quá xanh xao gầy còm và thiếu sức sống ? Nếu như thế, hãy đến đây, bàn tiệc của Chúa vẫn có Bánh Hằng Sống để bồi dưỡng củng cố chúng ta. Hãy ăn lấy Đấng Hằng Sống để nhờ Ngài, lòng chúng ta sẽ nóng sốt lên và chúng ta dám hiên ngang sống như những kẻ tin, như những người ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Quê hương chúng ta không ở trần gian nầy.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn đệ trên: PS3 B-79
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn đệ trên đường đi Emmau, chuyển biến đó khởi đi từ chỗ buồn nản đến chỗ phấn khởi và hăng hái.
Thực vậy, cũng như phần đông các môn đệ khác, các ông bước theo Chúa với tham vọng vật chất và trần tục: Chúa sẽ là vua, vương quốc của Ngài là một quốc gia vừa rộng lớn, vừa hùng mạnh, lại vừa giàu sang, còn bản thân các ông sẽ được giữ chức vụ này nọ hay chức vụ kia trong triều đình của Chúa. Mặc dầu luôn yêu mến Chúa, nhưng cái nhìn của các ông vẫn còn nặng mùi xôi thịt. Vì thế, khi Chúa bị treo trên thập giá, thì ước mơ của các ông tan theo mây khói. Các ông chán nản và thất vọng trở về với quê cũ, nghề xưa.
Như hai môn đệ trên đường Emmau chúng ta cũng hay tin vào mình và võ đoán, cho nên rất dễ sai lầm trong việc nhận định. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta cũng hay chán nản và buồn phiền, chỉ vì thiếu tin tưởng vào Chúa hay vì để lòng mình quá vấn vương với những lợi lộc vật chất.
Trong việc tông đồ thường có hai kết quả. Kết quả bên ngoài tức là những lợi ích trần gian và kết quả bên trong tức là cái ảnh hưởng siêu nhiên. Nếu để ý quá đến những kết quả bên ngoài, chúng ta sẽ tự chuốc lấy cho mình những đắng cay và thất vọng. Trái lại nếu biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và làm hết sức mình, thì bao giờ chúng ta cũng có đủ lý do để lạc quan, chắc chắn rằng ảnh hưởng thiêng liêng thế nào cũng có, dù không có ngay hoặc không rõ rệt qua bên ngoài.
Giữa lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các ông, muốn sửa lại cái quan niệm sai lầm và đem lại cho các ông niềm phấn khởi và hy vọng, nên Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh để các ông hiểu rằng: Nước Chúa không phải là ở trần gian và thập giá chính là con đường tiến tới vinh quang.
Trái tim các ông bỗng ngập tràn niềm phấn khởi. Rồi sau đó tại quán trọ, các ông đã nhận biết Ngài khi Ngài bẻ bánh. Lúc ấy các ông thật sung sướng và phấn khởi. Lúc ấy các ông hăng hái đứng dậy, hối hả trở về tìm gặp các tông đồ, không quản ngại đường xa và đêm tối. Các ông không còn nghĩ đến công việc làm ăn ở làng Emmau nữa, mà trái lại các ông chỉ trông mong để được loan đi tin mừng phục sinh: Thầy đã sống lại và chúng tôi đã thấy Thầy.
Ước gì ánh sáng đức tin cũng bùng lên trong chúng ta, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ là những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta.
Nhiều người đã nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt, đã nghe Ngài nói, đã biết những việc lạ lùng: PS3 B-80
Nhiều người đã nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt, đã nghe Ngài nói, đã biết những việc lạ lùng Ngài làm. Có lẽ chính họ đã chứng kiến nữa. Nhưng cũng chính những người đó vẫn không tin nơi Ngài. Họ đã không nhận ra được rằng Ngài là Đấng Cứu Độ. Trái lại, nhiều người đã “chối bỏ, trao nộp và giết” Ngài (Cv 3,13;14;15).
Nhiều lần sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Và khi những biến cố như thế xảy ra, thì không phải tự nhiên các ông vui mừng phấn khởi ngay đâu, nhưng đúng hơn các ông ngạc nhiên, nghi ngờ. Thánh Luca nói với chúng ta rằng: “Họ tưởng trông thấy ma” (24,37). Phải có những cử chỉ đầy thuyết phục để cho các Tông đồ tin vào Chúa Giêsu: “Hãy xem tay chân Thầy đây. Hãy sờ xem…”. Mà vẫn chưa đủ, Ngài còn phải ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông.
Khi biết được những điều này ta sẽ không ngạc nhiên khi nhiều Kitô hữu thuộc những thời đại và trong những hoàn cảnh khác nhau, đã muốn chối bỏ Chúa Kitô hoặc ít ra là nghi ngờ. “Đức tin của tôi dựa trên cái gì? Tôi có lý mà tin chăng? Tôi có lầm đường chăng?”. Ai mà chẳng có lần tự đặt cho mình những câu hỏi như thế. Có lẽ hiện giờ một số người vẫn còn những thắc mắc kiểu ấy nữa.
Giả như ít ra, vào những giờ phút ấy, chúng ta có được những dấu chỉ cũng rõ rệt như những dấu chỉ mà các môn đệ xưa kia đã có được. Trông thấy Chúa Kitô, sờ vào Ngài, nghe Ngài! Và lúc đó mọi sự sẽ đơn giản hơn nhiều. Nhưng những dấu chỉ ấy không được ban cho chúng ta. Chúng ta đừng chờ đợi vô ích. Nhìn thấy Chúa Giêsu bằng mắt xác thịt, sờ vào Ngài với đôi bàn tay của chúng ta, chính tai chúng ta nghe Ngài, ngồi ăn cùng với Ngài như các chứng nhân đầu tiên về sự Phục Sinh, đó không phải là cơ may của chúng ta.
Những điểm qui chiếu.
Như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bị chìm ngập trong tối tăm và không thể bám víu vào cái gì cả để khơi dậy đức tin nơi mình.
Chúa Giêsu đã nói với Phêrô và những tông đồ khác: “Hãy xem tay chân Thầy”. Nhưng Ngài nói với chúng ta: “Các con hãy nhìn các môn đệ. Hãy lấy kính lúp mà xem họ đã sống những gì. Các con hãy đón nhận chứng tá của họ. Các con hãy tin vào lời họ. Thầy đã làm cho họ trở nên những sứ giả của Thầy”.
Ngài cũng nói với chúng ta: “Hãy nhìn xem các tín đồ xung quanh các con. Hãy nhìn xem Giáo Hội. Hãy nhìn xem những kẻ lớn bé tin vào Thầy. Hãy nhìn xem tất cả những người nam, người nữ gắn bó với Thầy tận đáy lòng. Hãy nhìn xem hành vi của họ. Hãy nói chuyện với họ. Hãy kiểm chứng niềm tin của họ. Hãy yêu cầu họ trả lẽ về niềm hy vọng của họ. Điều đó sẽ giúp ích cho các con. Khi gặp gỡ những tín hữu chân chính, các con sẽ được lôi cuốn trong đức tin, đức tin của họ sẽ củng cố đức tin của các con”.
Lời khuyên khác để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.
Thánh Gioan cho chúng ta lời khuyên này khi người khẳng định: “Đây là cách chúng ta có thể biết được chúng ta có biết Ngài không? (chúng ta có tin nơi Ngài không?). Đó là tuân giữ các giới răn của Ngài”.
Chính nhờ sống như Chúa Kitô mà người ta trở thành Kitô hữu và thành người sống đạo. Chính nhờ thực sự cố gắng làm cho cuộc sống của mình am hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng mà ta làm chứng cho sự vững chắc và sự thật của những gì Chúa Giêsu dạy. Chính nhờ cụ thể bước theo con đường Phúc Âm đã vạch ra mà ta gặp được Chúa Kitô. Sống bằng Tin Mừng để tin vào Tin Mừng! Sống như Chúa Kitô để tin nơi Ngài!
Những nghi nan của chúng ta vẫn còn.
Khi bước theo con đường này, chúng ta có tránh được mọi nghi nan không, chúng ta có sống trong ánh sáng chói lòa và trong sự yên tĩnh hoàn toàn không? Chắc chắn là không. Sự nghi ngờ, những vấn nạn không có câu trả lời rõ ràng và thỏa mãn chúng ta hoàn toàn, cả đến sự cám dỗ chối bỏ Chúa Kitô nữa. Mọi sự đều có thể xảy ra cho chúng ta trên trần thế này. Ánh sáng chan hòa sẽ chỉ có ở thế giới bên kia. Diện đối diện với Chúa không phải là điều xảy ra nơi trần thế này. Ở đây ta phải luôn luôn chờ đợi những lúc khó khăn và những bước đường cực nhọc.
Tin! Chắc chắn đó là một hồng ân. Nhưng cũng là một cuộc chiến đấu, một sự tìm kiếm mỗi ngày. Người nào tìm kiếm không ngừng, sống một đức tin trong niềm thao thức, một đức tin có thể rất mỏng dòn, người đó sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Và hễ ai tìm kiếm, thì Ngài ban cho ơn được thấy. Và ai gõ cửa, Ngài sẽ mở cho. Ngài là Cha và Ngài chờ đợi chúng ta hết thảy.
“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”
Trong các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức vẽ của Misen Angelo (Michel Angelo) ở nguyện: PS3 B-81
Trong các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức vẽ của Misen Angelo (Michel Angelo) ở nguyện đường Sixtin Rôma. Hoạ sĩ Michel Angelo đã mất bảy năm để thực hiện bức vẽ trên trần nhà nguyện. Bức vẽ diễn tả những chương đầu của sách Khởi nguyên: Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Thay vì ký tên vào bức vẽ, hoạ sĩ đề hai chữ Alpha và Omêga, đó là chữ đầu tiên và cuối cùng của mẫu tự Hilạp. Hoạ sĩ có ý nói: Thiên Chúa là đầu hết và cuối hết của vạn vật.
Toàn bộ lịch sử nhân loại được diễn ta trong Kinh Thánh đều quy tụ về một điểm là con người trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm người. Từ nhiều nghìn năm, Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài, chuẩn bị tâm hồn người đọc để có đủ tư cách tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Cựu ước nói về Chúa và cái chết với những lời lẽ rõ ràng. Trong đó cũng nói về những đau khổ Người phải chịu. Người Do Thái đã đọc những lời tiên báo đó trong sách Luật, sách các Ngôn sứ và Thánh vịnh, nhưng họ và ngay cả các Tông đồ cũng không hiểu rõ. Vì thế mọi người đã coi cái chết của Chúa Giêsu như một thất bại, và đến lúc nghe Chúa sống lại, ai nấy đều hoang mang nghi ngờ.
Cho tới lúc Chúa sống lại, Chúa vẫn còn bận tâm làm sao cho các môn đệ hiểu rõ Chúa chính là Đấng được tiên báo trong Cựu ước. Trong lần hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emaus, cũng như với mười một tông đồ mà Tin Mừng hôm nay tường thuật, Chúa đã dành nhiều giờ cắt nghĩa cho họ những điều Cựu ước nói về Người. Những lời cắt nghĩa của Chúa, kèm với ân huệ Người.
Những cải tổ về phụng vụ của Công đồng Vaticăng II đã quan tâm lo liệu cho ta nghe, đọc nhiều đoạn Cựu ước trong Thánh lễ, có ý cho ta thấy Chúa Giêsu chính là cốt trục xuyên suốt của lịch sử. Muôn dân, muôn thế hệ đã được ơn tha tội, được cứu rỗi nhờ kêu cầu danh Chúa Giêsu, nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Cuộc cải thiện thế giới bắt đầu từ Giêrusalem và mỗi người chúng ta là những chứng nhân.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đọc và hiểu lời Ngài trong Thánh kinh. Vì lời Chúa là đèn soi bước cho chúng con đi. Xin ban ánh sáng đức tin cho những người chúng con gặp gỡ hôm nay. Chúng con cầu xin Chúa.
O-Nami là một võ sĩ người Nhật sống vào đầu thời Minh Trị Thiên Hoàng. Anh ta rất giỏi và: PS3 B-82
O-Nami là một võ sĩ người Nhật sống vào đầu thời Minh Trị Thiên Hoàng. Anh ta rất giỏi và khỏe, có thể thắng cả thầy mình khi đấu riêng tư. Nhưng khi đấu chung ở nơi công cộng thì đôi khi thua cả học trò. Điều đó làm O-Nami xấu hổ vô cùng. Không hiểu được lý do của tình trạng này, O-Nami đã tìm đến gặp thầy Hakuin để nói về nỗi khổ tâm của mình và xin cao kiến.
Nghe O-Nami kể lể xong, thầy Hakuin nói ngay: “Tên anh là O-Nami, có nghĩa là Sóng Lớn. Vậy tối nay anh hãy ở lại đây, để giờ yên tĩnh hình dung mình đang là con sóng lớn đó. Anh sẽ là một võ sĩ không ai thắng nổi. Anh đang là con sóng khổng lồ lùa quét mọi vật trước mặt. Hãy làm như thế, và anh sẽ là một tay vô địch trên trái đất này”.
Tối hôm đó, O-Nami bắt đầu ngồi tịnh niệm hình dung mình đang là một con sóng lớn. Rồi từ từ cảm giác đó như bừng lên từ bên trong thành những con sóng càng lúc càng mãnh liệt. Đêm càng khuya, sóng càng lớn, quét sạch những bình hoa trong phòng. Ngay cả những tượng ảnh cũng bị nước tràn ngập. Trước khi trời sáng, ngôi đền chỉ còn là một cơn thủy triều dâng lên trong biển cả mênh mông.
Sáng hôm sau, Hakuin thấy O-Nami còn đang ngồi tịnh niệm, trên mặt anh ta thoáng nhẹ một nụ cười. Hakuin đập nhẹ vào vai O-Nami: “Bây giờ thì không còn gì có thể cản trở anh được nữa. Anh là con sóng đó. Anh sẽ quét sạch mọi sự”.
LOÀI SÂU CÓ THÓI THEO NHAU
Niềm tin chính là con mắt nhìn tạo ra sức mạnh, tìm lại sinh khí. Nhưng nhiều khi mình lại không được khôn ngoan như thế, mà cứ nhắm mắt để cho đám đông chế ngự sai khiến mình kiểu ai sao tôi dzậy.
Chuyện kể về một người làm vườn để ý quan sát loài sâu thường có thói quen theo nhau triệt để. Ông thử để một ít mầm cây non ở giữa sọt và thả từng con riêng rẽ vào thì thế nào chúng cũng nhào vô được mục tiêu ăn một cách ngon lành hả hê. Một lần kia người làm vườn nẩy ra một ý tưởng mới là thử xếp nhiều con sâu thành hàng, đầu con này nối vào đuôi con kia cứ thế thành một vòng tròn kín bao quanh vành sọt có nhiều mầm cây non để ở giữa. Lạ lắm, chúng bắt đầu thói theo nhau, đứa trước đi đâu đứa sau theo đó, thành một đoàn rước kiệu rất ư ngoạn mục. Mà trong cái vòng này thì đứa nào xem ra cũng nghĩ mình đang cố theo đứa trước, chứ đâu ngờ đứa sau lại cũng đang theo đuôi mình. Lạ hơn nữa, chúng cứ tiếp tục theo nhau đi vòng quanh miệng sọt cả mấy ngày, rồi nhiều con lăn ra chết đói mà không một con nào dám phá hàng nhào vào đống mồi ở giữa chỉ cách vài gang tay. Người ta cứ tưởng bản năng sinh tồn mạnh nhất, chứ ai đâu ngờ bản năng được "người khác" chấp nhận còn mạnh hơn.
Thì ra trong máu mỗi người đều có sẵn một nỗi sợ. Nỗi sợ cứ nối tiếp nhau làm nên một vòng lẩn quẩn như kiểu nói cho vui là: đàn bà sợ chuột, chuột sợ mèo, mèo sợ chó, chó sợ đàn ông, đàn ông sợ đàn bà, đàn bà sợ chuột... cứ thế, cứ thế. Nói cho văn vẻ ra thì bảo đó là cái vòng hệ lụy nghiệt ngã... Thực ra thì cái vòng này nhiều khi lại do chính mình tạo ra, nên cứ phải theo như thế cho đến đói lả thì lăn ra chết mà không sao làm khác hơn được. Hai ông bà nguyên tổ sau khi ăn trái cấm thì đã bắt đầu biết sợ nên phải lấy lá che. Ấy cũng là do bản năng sợ người khác thấy được sự thật về mình thì sẽ chối từ không chấp nhận nữa! Vậy muốn làm một nhạc trưởng đúng nghĩa thì phải quay lưng lại đám đông là khán giả.
BỖNG NHẬN RA PHÉP LẠ (Chúa nhật 3 Phục Sinh)
Những lễ nghi mùa Chay và Tuần Thánh đã qua đi. Tôi cũng có thể đã tham dự như một thói quen, theo đám đông, cũng có thể cũng đã đi "rước kiệu" một cách nào đó. Nhưng việc "xếp hàng" đó có thể chưa dẫn tới niềm xác tín cá nhân có sức tác động tôi, chưa thành một động lực gây phấn chấn tinh thần và làm thay đổi toàn diện con người tôi khiến tôi có thể vẫn đói lả.
Giờ đây tôi thử ngồi định tâm, tin chắc và thấy rõ Chúa Kitô phục sinh đang hiện ra ban tràn trề sức sống. Phép lạ đây rồi, còn phải tìm đâu xa. Tất cả sinh lực đất trời đang thông chuyển sang tôi. Trong những ngày này tôi có thể thao luyện như O-Nami được rồi đây. Khoa tâm lý ngày nay đã khảo sát và chứng minh được những nguyên tắc căn bản để luyện nội lực bằng một cách vốn từng nói tới trong các tôn giáo: đó là lòng tin. Bỗng thấy được phép lạ do lòng tin.
Quả thật, lòng tin vào Chúa Kitô phục sinh đang ở trong tôi thì không gì mà không làm được như cảm nghiệm của Thánh Phaolô: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Chúa là sức mạnh cho tôi” (Phil 4:13). Chuyện Chúa sống lại không còn là một câu chuyện lịch sử đã xẩy ra xa xưa, mà là câu chuyện đang xẩy ra lúc này. Tôi hãy ngồi tĩnh niệm và bước vào cõi tin: thấy rõ Chúa đang hiện ra với tôi, từ trong đáy mồ thẳm sâu tâm hồn. Ánh sáng của Ngài chói lòa lan tỏa khắp cơ thể tôi, từng thớ thịt, từng mạch máu. Đó là giây phút hút hồn mà thánh Phaolô đã quả quyết: “Bí mật đã giấu kín từ muôn thuở qua muôn thế hệ, nay tôi loan báo cho anh em, là Đức Kitô ở trong lòng anh em” (Col 1:27). Không còn phải đợi đi xem phép lạ Chúa hiện ra ở mãi đâu. Ngài đang đứng trước mặt tôi đây bằng xương bằng thịt, Ngài tỏ dấu thân tình, cùng ăn uống với tôi và đang nói: "Bình an cho con. Thầy đây, đừng sợ!" (Luca 24:35). "Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây." Ngài đang thổi hơi sinh khí cho tôi, chuyển tất cả thần lực của Ngài cho tôi.
Cảm nghiệm được Chúa Kitô đang ở với mình, và lòng đầy thần lực của Chúa, thánh Phêrô đã có thể làm phép lạ chữa một người què đang ăn xin ở cửa thành: “Tôi không có vàng cũng không có bạc. Nhưng tôi có cái này cho anh, là nhân danh Đức Kitô, anh hãy đứng dậy”. Người què đã đứng dậy chạy nhẩy tung tăng làm mọi người sửng sốt hỏi xem mấy ông tông đồ dùng phù phép gì vậy! Nên Thánh Phêrô đã phải lên tiếng ngay: “Các người tưởng tôi có tài năng gì hay do lòng đạo đức nào mà chữa lành người này sao? Đó chỉ vì nhờ danh Đức Kitô...”
TIN VUI KHƠI MẠCH SINH KHÍ
Cuốn "Nhìn với Con Mắt của Tâm - Seeing with the Mind’s Eye", của Mike và Nancy Samuels, đã chứng minh sức mạnh của niềm tin qua hình ảnh trong đời sống. Người ta nhìn cuộc sống với một hình ảnh đã sẵn trong mắt như một lăng kính để đánh giá mọi sự. Hình ảnh này gọi là “self-image”, tức là hình ảnh về chính mình phóng chiếu ra cuộc sống. O-Nami giữ hình ảnh mình là Sóng Lớn nên trở thành sóng lớn thật, chứ không còn để cho đám đông đánh giá về mình nữa. Đúng là niềm tin đã khơi mạch sinh khí. Người Việt vẫn nghĩ mình là con cháu Tiên Rồng. Nhưng thực ra đó mới là truyện nói cho vui chứ chưa phải là niềm xác tín giữ được hình ảnh đó trong mắt, trở thành hiện thân của hình ảnh đó để xử sự hành động. Thành ra câu ca dao:
Trứng Rồng lại nở ra Rồng
Chim Tiên lại đẻ ra dòng chim Tiên.
Rất có thể cứ bị một hình ảnh khác làm phản lại mất tự tín:
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Con người ngày nay quành lui mãi mà vẫn không rõ mình là ai! Ai bảo sao thì mình răm rắp tuân theo, nhất là những sức ép từ truyền thông và quảng cáo. Người tưởng mình là khỉ thì hành vi cử chỉ, của mình sẽ dần dần giống khỉ. Người nghĩ mình là con vật kinh tế thì trước sau gì cũng chỉ luẩn quẩn chôm chỉa giành giật những nhu cầu bản năng như súc vật. Ở xã hội văn minh Âu Mỹ thì hình như sức ép của đám đông càng mạnh hơn, nhiều khi mình không cưỡng lại nổi, sợ mình sẽ chẳng giống ai! Người ta nói tới sức ép của bạn bè, của đà trớn, thì cũng giống như đàn sâu đang rước kiệu đó thôi.
PHÚT CẢM NHẬN
Chúa Kitô hôm qua, hôm nay, và ngày mai. Chỉ là một Chúa vẫn đang hiện diện với đầy sức sống phục sinh. Với ý thức một chút, lời chào của linh mục trong lễ, "Chúa ở cùng anh chị em" không ngờ mà lại cò sức tác động mạnh. Môsê đang bơ vơ lạc hướng cuộc đời trong sa mạc chỉ nhận ra lời hứa của Chúa rằng "Ta ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi" mà mắt ông sáng lên. Ông đã lên đường trở lại gặp kẻ đang lùng bắt mình ở Ai cập. Với niềm tin này thì không một sức mạnh nào trên đời cản ngăn bước đi tới của ông được nữa.
Lạy Chúa, con tin và thấy rõ Chúa đã sống lại và đang ở trong con và con ở trong Chúa, như lời Kinh Thánh: "Trong Người chúng ta sống, cử động và hiện hữu." (Tông Đồ công Vụ 17:28), và như Thánh Phaolô cảm nghiệm: "Tôi sống, không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và hiến mạng vì tôi" (Galata 2:20).
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi chỉ muốn đưa ra một hình ảnh đẹp, đó là hình anh Chúa Giêsu PS3 B-83
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi chỉ muốn đưa ra một hình ảnh đẹp, đó là hình anh Chúa Giêsu cùng sánh bước với hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Vậy hình ảnh đẹp này đem lại những hậu quả nào cho cuộc sống của chúng ta?
Cựu Ước đã đưa ra một kinh nghiệm, một xác tín, đó là nếu có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ không còn lo lắng sợ hãi, đồng thời sẽ có đủ nghị lực, nếu không thành công rực rỡ, vượt qua những gian nguy thử thách, thì ít nữa cũng biết chịu đựng cho nên. Thánh Vịnh đã viết: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cò xanh rì, Ngài thả tôi nằm nghỉ. Hay như một Thánh Vịnh khác cũng đã xác quyết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nể vất vả chỉ là uồng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Niềm xác tín này cũng đã được Chúa Giêsu thực hiện trong Tân Ước. Hẳn chúng ta còn nhớ trong tiệc cưới Cana, sự có mặt của Chúa Giêsu đã đem lại phép lạ đầu tiên, khiến nước lã biến thành rượu ngon, để đôi tân hôn không bị bẻ mặt với khách dự tiệc.
Cùng hoạt động với Chúa, chắc chắn sẽ thâu lượm được những thành quả tốt đẹp. Chính các tông đồ đã học được cái kinh nghiệm quý giá ấy. Đêm hôm đó, các ông ra khơi và thả lưới, vật lộn với sóng nước suốt cả một đêm, mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, ban sáng Chúa Giêsu hiện ra với các ông trên bờ biển và truyền cho các ông thả lưới, lập tức các ông đã có được một mẻ lưới lạ lùng. Lần khác, thuyền các ông gặp phong ba bão táp, các ông đã phải đánh thức Chúa Giêsu dậy, và với Chúa Giêsu lập tức sóng liền yên và biển liền lặng.
Và ngày hôm nay, hai môn đệ đang trên đường về làng Emmaus. Các ông bước đi mà cõi lòng thì ngập tràn một nỗi thất vọng đắng cay. Nhưng rồi Chúa Giêsu đã hiện ra, đàm đạo với các ông và lòng các ông đã bừng lên ngọn lửa yêu mến và sau cùng, các ông đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh nơi quán trọ. Sau đó, các ông hối hả trở lại Giêrusalem, mừng vui kể lại sự việc cho các tông đồ được biết.
Chúng ta còn có thể kể ra những trường hợp khác nữa, để chứng tỏ rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu sẽ đem lại niềm an ủi và khích lệ, cũng như sẽ đem lại nguồn sức mạnh và can đảm để vượt qua những gian nan thử thách. Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì Ngài có dư quyền năng để nâng đỡ chúng ta, đồng thời Ngài cũng có dư tình thương, để sẵn sàng ra tay trợ giúp cho chúng ta.
Tóm lại, cùng đi với Chúa, con người chúng ta sẽ không còn đơn côi, bản thân chúng ta sẽ vượt thắng được mọi hiểm nguy và cuộc đời chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì: PS3 B-84
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Suy Niệm:
Chúa Nhật 2 Phục Sinh Năm B Cv 4,32-37; 1Yn 5,1-6; Yn 20,19-31 Sau khi sống lại, Chúa Yêsu, Chúa Yêsu không còn hiện diện hữu hình ở trần gian nữa. Người còn hiện ra nhiều lần cho môn đệ xem thấy mà tin. Nhưng đó chỉ là những lúc họa hiếm và mau qua. Từ nay cách thức hiện diện thường xuyên của Người với chúng ta là Thánh Thể và Hội Thánh. Đó là hai bí tích hiểu theo nghĩa rộng để Người ở với chúng ta hằng ngày. Hội Thánh được gọi là Thân Thể của Chúa Kitô và Thánh Thể chính là thịt máu Người. Thế nên sau lễ Phục sinh, Phụng vụ kéo mắt chúng ta nhìn vào Hội Thánh, nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa để hiểu biết, yêu mến, bắt chước Người nhiều hơn. Và cũng trong Hội Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thánh Thể để nhận lấy sức sống Chúa muốn ban cho chúng ta. Như vậy, suy nghĩ về Hội Thánh phải là thao thức của chúng ta trong mùa Phục sinh này. Và người ta có thể suy nghĩ từ ngoài đi vào hoặc từ trong đi ra. Hôm nay chúng ta hãy theo thứ tự các bài đọc Kinh Thánh trong Thánh lễ để tìm hiểu Hội Thánh từ ngoài vào trong, từ hiện tượng khả giác vào tới mầu nhiệm thâm sâu. Và chúng ta sẽ thấy giáo xứ và giáo phận chúng ta còn thiếu sót nhiều quá để xứng đáng là Hội Thánh của Chúa Kitô Phục sinh. 1. Một Hội Thánh Sống Xã Hội
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay họa lại cho chúng ta một hình ảnh về Hội Thánh thời các tông đồ ở Yêrusalem. Đây chỉ là một trong mấy bức họa hiếm hoi về Hội Thánh ấy. Còn 2, 3 bức họa nữa cũng ở trong sách Công vụ Tông đồ này. Và nếu được phép căn cứ vào câu đầu tiên của sách này mô tả đời sống của Hội Thánh ở thời bấy giờ: chuyên cần với giáo huấn của các tông đồ, sự hiệp thông, việc bẻ bánh và kinh nguyện (2,42) thì bức họa của đoạn sách Công vụ hôm nay là bức họa thứ hai, nói về sự hiệp thông của cộng đoàn dân Chúa.
Quả vậy, chính câu đầu tiên đã nói lên chủ đề: " Đoàn lũ những kẻ tin chỉ có một tấm lòng, một linh hồn". Để mô tả sự hiệp thông thắm thiết giữa mọi người giữa mọi người nên một ấy, đoạn sách hôm nay nói rằng: "Không một người nào nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung".
Nhiều người đã vịn vào câu văn này để khẳng định Hội Thánh thời bấy giờ thi hành điều mà bây giờ thi hành điều mà bây giờ người ta gọi là "cộng sản", và Hội Thánh đã cộng sản trước cộng sản. Thiết tưởng không nên có những lời nói như vậy vì những lời nói thế chẳng đẹp lòng ai cả và chỉ tỏ ra đọc sách Công vụ rất hời hợt.
Hôm nay chúng ta cứ thử về nhà đọc lại đoạn sách này. Thánh Luca không cho chúng ta nhiều yếu tố để quả quyết gì về tổ chức xã hội của cộng đoàn dân Chúa thời bấy giờ. Người chỉ cho chúng ta một cái nhìn đạo đức về thái độ của các tín hữu đối với nhau. Nếu được phép tưởng tượng thì chúng ta có thể nghĩ rằng: thời ấy tín hữu của Chúa sống như mọi người về mặt xã hội kinh tế. Họ không hề có ý tưởng làm thành "một quốc gia ở trong một quốc gia", nghĩa là tổ chức với nhau một hệ thống sản xuất hay kinh tế riêng biệt. Họ chỉ khác đồng bào chung quanh ở chỗ là tin Chúa. Và vì chưa biết Chúa đủ, nên họ chuyên cần đến nghe lời của các Tông đồ trong các buổi họp chung. Ở đó họ được dẫn giải thêm về đạo lý, được cầu nguyện chung, được bẻ bánh chung, khiến họ được mật thiết kết hợp với Chúa và cùng Người làm nên một thân thể. Rồi chính khi ấy họ đã nhận ra mình là chi thể của nhau, là anh em con một Cha, một Chúa. Thế là một đức tin, một Thánh Thể để kết họ nên một với nhau trong tình mến. Họ thấy không được phép để cho ai trong anh em thiếu thốn nữa, nếu đang khi ấy họ có nhiều của cải hơn. Thế là như Barnaba, họ đem bán của riêng, đem huê lợi đến cho các tông đồ để chia sẻ cho anh em tùy theo nhu cầu.
Tất cả như vậy đã xảy ra từ một động lực bên trong. Việc hiệp thông với Chúa đã dẫn sang ý thức phải hiệp thông với nhau; và không thể hiệp thông chân thật với anh em khi có của mà để anh em túng thiếu. Đó hoàn toàn là đạo đức chứ không phải cộng sản gì! Nhưng là đạo đức chân thật, biết và dám thi hành những đòi hỏi của niềm tin và lòng mến. Kẻ không đạo đức được như vậy cũng không thể có những hành động như thế.
Sách Công vụ ngay sau đoạn văn hôm nay đã kể chuyện vợ chồng Ananya và Saphyra. Hai người cùng bàn nhau đem bán một thửa đất riêng, rồi đem một phần tiền đến nói với thánh Phêrô: đó là tất cả số tiền bán được. Họ tưởng lừa được Phêrô. Nhưng họ quên Thánh Thần bấy giờ ở với Phêrô một cách rất đặc biệt. Phêrô bảo hai người: cớ sao đồng tình và đồng lõa ăn gian nói dối? Ai bắt phải bán đất đi? Và ai buộc phải đem lại tất cả số tiền?
Rồi câu chuyện thế nào, mọi người đã rõ. Ở đây chúng ta chỉ cần lưu ý: mấy lời của Phêrô làm cho chúng ta hiểu việc các tín hữu buổi đầu "không nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của chung". Ý nghĩa như thế nào? Đó là một sự tự nguyện, phát xuất từ tinh thần hiệp thông xây trên một niềm tin chung; chứ không phải là một tổ chức xã hội có tính cách hành chánh.
Sự tự nguyện này vẫn còn tồn tại trong Hội Thánh ở nơi các cộng đoàn tu sĩ... Nó còn là đòi hỏi của Tin Mừng mà nhiều khi chúng ta không dám nghĩ tới. Vẫn biết hoàn cảnh đã thay đổi; xã hội đã biến chuyển; con cái Chúa không bao giờ "làm thành một Nước ở trong một Nước" để có nếp sống xã hội riêng; nhưng đang khi sống tốt thể chế xã hội của Nước mình, họ luôn phải nhớ đòi hỏi của Tin Mừng buộc họ phải sống hiệp thông với anh em. Và như vậy họ không được để anh em túng thiếu khi họ đang có của. Đó là ý nghĩa cụ thể của đạo Bác ái. Và đó cũng là một trong những lý do của việc dâng tiền trong thánh lễ. Cử chỉ này không thể nào không gợi lên nếp sống hiệp thông chia sẻ mà bài sách Công vụ hôm nay nói về Hội Thánh thời các Tông đồ.
Thiết tưởng, lương tâm chúng ta còn bị chất vấn nhiều về vấn đề này. Nhưng nếu chúng ta muốn có thiện chí làm tốt hơn thì chúng ta phải đào sâu đức tin hơn, vì như đã nói, nếp sống hiệp thông kia đã phát xuất từ niềm tin mới mẻ. Bài thư Yoan có nhiều yếu tố quý báu giúp chúng ta làm công việc này. 2. Một Hội Thánh Sống Đức Tin
Chúng ta có thể nghĩ đoạn thư này rời rạc và thiếu chặt chẽ. Nhưng nếu nắm được ý của thánh Yoan, chúng ta sẽ thấy đây là những tư tưởng rất quan trọng. Người muốn nói với những kẻ có đức tin để xác định niềm tin của họ phải như thế nào và có những hệ luận nào trong đời sống cụ thể.
Sánh với bài sách Công vụ trên đây, chúng ta có thể nói thánh Yoan đã đi từ trong ra đến ngoài đang khi thánh Luca đi từ ngoài vào trong. Tác giả sách Công vụ mô tả nếp sống xã hội của cộng đoàn dân Chúa; còn tác giả bài thư tìm hiểu động lực của nếp sống này.
Đó là niềm tin mới, chưa gặp thấy nơi một xã hội loài người nào. Người tín hữu khác mọi người ở chỗ tin Yêsu là Đức Kitô. Muốn thấy tính cách mới mẻ của niềm tin này, chúng ta phải trở về thời các tông đồ, hay phải nhìn sang lương dân. Ngoài các tín hữu ra, ai có thể có một ý tưởng như thế? Tin Yêsu là Đức Kitô có nghĩa là tin Thiên Chúa đã thi hành kế hoạch cứu nhân độ thế của Người nơi con người và đời sống của Yêsu người thành Nadarét. Là tin Thiên Chúa yêu thương loài người đến độ đang khi chúng ta còn là tội nhân thù nghịch đã ban Con Một Người làm hy lễ đền tội chúng ta. Mà không phải chỉ đền và tha tội, nhưng còn nhờ cuộc Tử nạn Phục sinh của Đức Kitô, cho chúng ta được tái sinh bởi Thiên Chúa để làm con cái Người. Một niềm tin như vậy đã ám tàng công nhận Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, vì nếu không, Yêsu sẽ chỉ là một sứ giả, một dụng cụ đặc biệt của Thiên Chúa, khiến niềm tin của chúng ta sẽ chẳng mới mẻ gì, vì đã thiếu gì người tự xưng là tiên tri của thượng đế sai đến với loài người.
Đức tin của chúng ta thì khác. Nó mới sánh với mọi suy nghĩ và tin tưởng của loài người, vì nó khẳng định Yêsu là Con Thiên Chúa đã đến cứu loài người khiến ai tin thì được sinh lại bởi Thiên Chúa và được làm con cái Chúa. Đó là nội dung đức tin mới.
Nó chân thật vì có nền tảng vững vàng. Ai chối bỏ được việc Đức Yêsu Kitô đã đến? Không những Người đã đến nhờ Nước và Máu, mà có Thánh Thần làm chứng. Không những Người đã đến nhờ nước sống Yorđan khi chịu Yoan rửa, mà còn nhờ đến máu chảy ra trên Thập giá. Nhất là khi ở trên cây gỗ này, Người đã để Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn để từ nay Hội Thánh có Nước Rửa tội và có Máu Thánh Thể ban ơn tha thứ tội lỗi và sự sống thần linh mới cho loài người. Nhưng tất cả cuộc đời của Đức Kitô từ khi nhận nước rửa ở sông Yorđan đến khi chảy máu ra trên Thập giá, cũng như tất cả các bí tích Thánh tẩy và Thánh Thể trong Hội Thánh làm cho người ta được ơn tha thứ và có sự sống mới, tất cả những điều ấy có giá trị chân thật đáng tin là vì cuối cùng có Chúa Thánh Thần đã đến làm chứng cho sự nghiệp của Đức Kitô và sức sống của Hội Thánh. Đức tin của chúng ta đi từ cơ sở các việc đã xảy ra trong cuộc đời của Đức Kitô và của Hội Thánh mà đã được Thánh Thần làm chứng, nên là đức tin chân thật và vững vàng, khiến chúng ta thật là những người có phúc.
Thánh Yoan, trong đoạn thư này, nói đến cái phúc của người tín hữu là họ đã thắng được thế gian. Họ là những người tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Yêsu Kitô thì họ được sinh làm con cái Thiên Chúa. Và như vậy họ không thuộc về thế gian nữa. Họ đã được giải thoát ra khỏi ách thống trị của thế gian tức là của sức mạnh thù nghịch với Thiên Chúa và con người. Họ được nên giống như Đức Yêsu Kitô giờ đây đã sống lại, không còn gì có thể cầm giữ được nữa, kể cả tử thần là kẻ thù cuối cùng của con người. Nói cách khác, tín hữu nhờ đức tin bây giờ tuy còn sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian và lệ thuộc thế gian nữa. Họ đã chiến thắng thế gian nhờ đức tin. Họ đã thuộc về Chúa và trở nên con cái Chúa.
Như vậy họ phải sống sự sống của Người, phải giữ lệnh truyền của Người, vì lệnh truyền của Người chỉ là đòi hỏi của sự sống của Người. Yoan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu: Tình yêu là sự sống của Thiên Chúa; thì chính Yoan cũng nói lệnh truyền của Người là chúng ta hãy yêu mến nhau. Đó là điều mà trong đoạn thư hôm nay Yoan đã viết: phàm ai yêu mến đấng sinh thành, tức là Thiên Chúa, tất phải yêu mến kẻ bởi Chúa mà sinh ra, tức là các con cái Thiên Chúa. Và lệnh truyền đó không nặng nề, vì như Augustinô nói: "Khi người ta yêu thì hoặc không thấy gì nặng nề, hoặc có thấy thì cũng yêu sự nặng nề ấy khiến nó không còn nặng nề nữa". Do đó nền tảng và động lực của nếp sống hiệp thông trong Hội Thánh là niềm tin và lòng mến, mà bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết đã phát xuất từ đâu. 3. Một Hội Thánh Của Chúa Sống Lại
Chúng ta biết bài Tin Mừng này đến nỗi chỉ cần nghe nhắc tới tên Tôma là chúng ta có thể thuật lại rành rẽ. Nhưng có lẽ chúng ta đã đồng hóa nội dung của nó với lòng cứng tin của Tôma, làm như thế, bài Tin Mừng hôm nay chỉ muốn nói xấu vị Tông đồ này. Không thể như vậy, vì nếu như vậy thì đoạn văn này không còn phải là Tin Mừng nữa.
Yoan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và Tôma là để chúng ta tin và bởi tin thì chúng ta được sống, tức là được hạnh phúc. Người muốn nói đến nguồn gốc đức tin của chúng ta. Người đi sâu và đi vào trong hơn bài Thánh Thư và bài sách Công vụ.
Chẳng riêng gì Tôma, mọi môn đồ khi ấy đều chưa tin. Vì thế họ mới đóng cửa nhà, vì sợ người Dothái. Nhưng Đức Yêsu bổng dưng đã đến đứng giữa họ, bất chấp cửa đóng then cài. Người phải ban bình an trấn tỉnh họ. Rồi Người cho họ thấy các thương tích của Người. Họ liền mừng rỡ vì thấy ngay là Thầy mình đã sống lại. Chính sự sống lại của Người khiến họ được vui mừng. Chính mầu nhiệm Phục sinh là Tin Mừng. Và Tin Mừng này, chính Đức Yêsu đã mang đến khi hiện ra và cho họ thấy các thương tích của Người. Người thật là đấng khơi nguồn và viên thành đức tin của Hội Thánh.
Tôma là một trong các tông đồ và sẽ là một trong các cột trụ để Hội Thánh vươn lên. Ông có quyền đòi hỏi được như các bạn đồng nghiệp, và chúng ta cũng buộc Tôma phải được như vậy để đức tin của chúng ta có cơ sở vững vàng. Do đó thật là vì chúng ta mà Yoan thuật lại câu chuyện về Tôma để minh chứng rõ ràng đức tin của chúng ta bắt nguồn từ việc các Tông đồ được thấy Chúa hiện ra với thương tích của Người, hầu mọi người biết Đấng chịu nạn đã sống lại thật. Đó là Tin Mừng cho mọi người; vì như vậy là bằng chứng "thế gian", tức là sức mạnh thù nghịch Thiên Chúa và con người đã bị đánh bại, để từ nay ai tin vào Đức Kitô Phục sinh sẽ chiến thắng thế gian, sẽ được ơn tha tội và có sự sống mới. Và những người như vậy sẽ tạo nên một nét mới mẻ trong đời sống xã hội con người.
Sách Công vụ hôm nay đề cao nét sống mới mẻ này khi mô tả việc hiệp thông ở trong Hội Thánh. Thư Yoan tìm hiểu động lực của hiện tượng đó nơi đức tin, và bài Tin Mừng cho thấy Đấng khơi nguồn đức tin ấy là Đức Yêsu sống lại đã hiện ra với các môn đồ.
Chúng ta giờ đây nhờ đức tin các tông đồ truyền cho sắp được tiếp xúc với Đức Kitô sống lại, trong mầu nhiệm bàn thờ. Chúng ta hãy có lòng tin và lòng mến của Tôma để kêu lên: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi". Lòng tin và mến ấy chỉ chân thật nếu chúng ta nêu gương các tín hữu tiên khởi mà sống hiệp thông với nhau trong việc cầu nguyện, bẻ bánh, nhưng cũng phải có trong đời sống xã hội nữa. Chỉ khi đó chúng ta mới làm cho giáo xứ và giáo phận chúng ta được nên giống Hội Thánh của các Tông đồ, tức là Hội Thánh của chính Đức Yêsu Kitô đã sống lại.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Án tử hình dành cho một “con người mang tên Giêsu, Con Thiên Chúa” thật là khủng khiếp: PS3 B-85
Án tử hình dành cho một “con người mang tên Giêsu, Con Thiên Chúa” thật là khủng khiếp: vác thập giá, đội mão gai, đánh đập, đóng đinh treo trên thập giá, lưỡi đòng đâm vào tim cho chết… Từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa hề có án nào khủng khiếp như thế. Khủng khiếp vì tính tàn nhẫn trong cách thi hành án vô nhân đạo của bạo quyền: “Họ đã nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua”. Khủng khiếp vì bạo quyền không màng đến tiếng nói hay nỗi lòng của bần dân, họ cốt sao đạt được mục đích là triệt tiêu cho được cái ảnh hưởng không nên có, cái uy tín không cần thiết, và sự hiện diện của tên Giêsu nguy hiểm cho việc tồn tại quyền lực của họ…
Án tử hình khủng khiếp ấy gây nên bao hoảng sợ trong dân, và càng hoảng sợ hơn đối với các tông đồ, các môn đệ - những người có liên can với tên tử tội. Ấy vậy mới có chuyện “cửa nhà các tông đồ đóng kín”, mới có chuyện hai môn đệ kia - tạm gọi là hai giáo dân kia - không dám ở trong thành mà phải lên đường đi về phía Emmaus tạm lánh những làn tên, mũi đạn của đám bạo quyền lộng hành.
Trên đường đi tìm nơi tạm lánh, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với hai giáo dân này, và củng cố đức tin cho hai ông qua việc bẻ bánh và giải thích thánh kinh. Hai ông đã bỏ ý định chia tay các tông đồ, đã trở lại thành với các tông đồ và báo tin mình đã gặp được Đấng Phục Sinh.
Cùng lúc ấy, Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ. Tâm trạng của các ông theo Thánh Luca diễn tả là vẫn còn đang “kinh hồn bạt vía, hoảng hốt, ngờ vực, chưa tin, ngỡ ngàng”. Vì thế, Chúa Giêsu củng cố tinh thần và niềm tin của các ông: “Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. “Người đã cầm lấy cá nướng mà ăn trước mặt các ông”. Và Người giải thích cho các ông rõ về những lời kinh thánh đã tiên báo việc Người phải sống lại từ trong cõi chết.
Tin mừng phục sinh của Chúa Giêsu là chính Ngài cho biết “Ngài đã chết thật và đã sống lại thật”, chứ không chỉ nói về việc sống lại mà quên đi việc đã chết. Việc ấy là hẳn nhiên, vì không thể có sự “sống lại” mà trước đó không có sự “chết đi”.
Đó cũng là Tin Mừng muôn đời cho mỗi chúng ta, cho mỗi Kitô Hữu Công Giáo, cho mỗi người theo con đường, theo giáo lý Chúa Giêsu Kitô: Tin Mừng của sự “chết đi” và “sống lại”. Ai không bằng lòng chết đi như Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, theo cách thức của Chúa Giêsu, thì không được sống lại như Ngài, với Ngài, và theo cách thức của Ngài. Thiết tưởng các tông đồ, các giáo dân thưở xưa khi được Chúa Giêsu hiện ra tỏ tường cái Thân Xác Phục Sinh của Ngài, hẳn không phải là để cho các ông được thoải mái dễ dàng cuộc sống ở đời này, mà ngược lại, là để cho các ông vững tin vào cuộc phục sinh mà chấp nhận đi giữa những làn tên mũi đạn oan nghiệt trong cuộc đời, vững tin và hiên ngang làm chứng cho cuộc sống lại cùng Đức Kitô, bất chấp cái chết.
Thảo nào, tuần qua, tư tưởng của Đức Cha Daniel R. Jenky, C.S.C., Giám Mục Peoria, Illinois, trong bài Giảng vào Thứ Bảy Tuần Bát Nhật Phục Sinh 2012 đã gây chấn động cả thế giới: “Làm một Kitô hữu không bao giờ dễ dàng và nó không giả thiết là dễ dàng! Thế gian, xác thịt và ma quỷ sẽ luôn luôn yêu những gì thuộc về chúng, và sẽ luôn luôn ghét chúng ta. Như Chúa Giêsu đã từng bảo trước, chúng đã ghét Thầy, thì chúng chắc chắn sẽ ghét các con. Nhưng đức tin của chúng ta, khi được sống cách trọn vẹn, là một đức tin chiến đấu và một đức tin không hề sợ hãi.”
Suy niệm của Đức Cha Daniel R. Jenky quả là chí lý. Đúng là Ngài đã thẩm thấu Tin Mừng Phục Sinh là tin mừng của việc “chết đi và sống lại” và suy niệm của Ngài như một thông điệp tái khẳng định lại con đường của các Kitô Hữu: con đường chiến đấu, con đường không sợ hãi, con đường bình an vì Đức Tin vào Chúa Kitô Phục sinh và vì niềm hy vọng phục sinh vĩnh cửu.
Không ở đâu xa, nhìn vào cuộc sống của các Kitô Hữu Việt Nam cũng đủ để chứng minh rằng cuộc sống Kitô hữu không hề dễ dàng và không giả thiết dễ dàng. Vâng, các Kitô hữu Việt Nam luôn đi giữa những làn tên, mũi đạn đầy oan nghiệt - không chỉ những Kitô hữu sống trong cái túi của số phận lịch sử bức bách, mà cả những Kitô Hữu đang tưởng mình tự do trên đất khách quê người. Nếu trong cái túi đang có những làn tên bắn thẳng vào người công giáo gây kinh hồn bạt vía để họ khuất phục quyền bính của thế gian, cho dù là loại quyền bính kiểu bạo lực hay côn đồ, thì ngoài xa kia các Kitô hữu cũng đang phải đau cái đầu vị bị những mũi đạn nhắm thẳng vào giáo hội trước những vấn đề luân lý và đức tin truyền thống, vấn đề bảo vệ luật Chúa và Hội Thánh. Có nơi nào làm Kitô hữu dễ dàng đâu?
Cụ thể và gần nhất, ngay nơi bản thân, trong gia đình bạn, gia đình tôi cũng có biết bao sự khốn khó mà chúng ta phải bằng lòng chấp nhận cái chết để có sự sống lại: chấp nhận từ bỏ những ý riêng, từ bỏ những quyến rũ của thế gian xác thịt, chấp nhận chết đi tính ích kỷ, lòng tham, cơn kiêu căng tự phụ; cha mẹ phải hao mòn, tàn tạ và chết đi cho con cái; mỗi người phải nhẫn nhịn cho dù nhục nhã để giữ mối tình thân trong làng xóm, trong họ đạo…Và xa hơn một chút, một số giáo dân, linh mục chịu bức bách, xử oan, đánh đập, tù tội vì nhân danh Chúa Kitô bênh vực cho công lý, trải tình thương cho kẻ cô nhi, đem tin mừng cho người nghèo khó, đem ân sủng của Thiên Chúa cho anh em thiểu số nơi cao nguyên đại ngàn, heo hút…
Hình ảnh của Giáo Hội sơ khai trong những ngày tang tóc sau cái chết của Chúa Giêsu vẫn luôn là hình ảnh của chúng ta hôm nay, cụ thể nhất là những người đang sống trong gọng kìm của bạo quyền không tin Thiên Chúa và luôn chống lại Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta. Sự bình an mà Chúa Kitô ban cho mỗi chứng nhân tin mừng của Ngài là niềm bình an đích thực…Bình an trước bạo lực, lộng hành, trước làn tên, mũi đạn; bình an trong cuộc chiến đấu cam go để bảo vệ đức tin và chân lý. Đó là bình an của Đức Kitô Phục Sinh ban cho những người chấp nhận sống trước mầu nhiệm phục sinh của đời mình. Đúng như Đức Cha Daniel R. Jenky kết luận:
“Đức Kitô Phục Sinh là Chúa Vĩnh Cửu của chúng ta; Đầu của Thân Thể Người, là Hội Thánh; vị Thượng Tế của chúng ta; Thầy của chúng ta; vị Chỉ Huy của chúng ta trong cuộc chiến đáng chiến đấu này.
Chúng ta không có gì để sợ hãi, nhưng chúng ta có một thế giới để chinh phục cho Người. Chúng ta không có gì để sợ hãi, vì chúng ta có một số phận vĩnh cửu trên thiên đàng. Chúng tôi không có gì để sợ hãi, dù đất có thể động, vương quốc có thể mọc lên và xụp xuống, ma quỷ có thể dữ tợn, nhưng Thánh Michael Tổng Lãnh Thiên Thần, và tất cả các đạo binh thiên quốc, chiến đấu thay cho chúng ta.
Bất kể điều gì xảy ra trong thời điểm chóng qua này, vào cuối thời gian và lịch sử, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa và Chúa Giêsu là Chúa, đến muôn thủa muôn đời.
Đức Kitô chiến thắng! Đức Kitô hiển trị! Đức Kitô truyền lệnh!
Lạy Chúa, xin cho chúng con xác tín rằng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh đang đồng hành với chúng con trong hành trình dương thế, đồng hành với chúng con giữa những làn tên, mũi đạn, giữa những bức bách đau thương, đồng hành với chúng con trong cuộc chiến đấu với tử thần; và cùng Đức Kitô, chúng con sẽ chiến thắng. Amen.
Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách truyền giáo của một: PS3 B-86
Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:
“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có# thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia đình lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!
2. ANH EM SẼ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA NHỮNG ĐIỀU NÀY:
Tin mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện đến với các Tông Đồ đang bị giao động. Sau khi trấn an các ông, Người đã chứng minh cho các ông thấy Người không phải chỉ là bóng ma, nhưng là con người bằng xương bằng thịt thực sự, qua việc ăn uống trước mặt các ông. Cuối cùng sau khi các ông đã tin Người đã từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su chỉ thị cho các ông và cho mọi tín hữu sau này: “Chính anh em sẽ là chứng nhân của những điều này”(Lc 24,48).
3. PHẢI LÀM CHỨNG NHƯ THẾ NÀO ?:
Ngày nay các tín hữu chúng ta dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:
+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su như bà Maria Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng khó thuyết phục được người nghe tin theo (x. Lc 24,11).
+ Làm chứng bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua miệng chúng ta: Đức Giê-su đang sống và hiện diện nơi ta, và ta có bổn phận chia sẻ sự xác tín, niềm vui và bình an hạnh phúc mình đang cảm nghiệm được cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp dụng. Sau khi đón nhận ơn Thánh Thần, Tông đồ Phê-rô đã rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại. . Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Cách làm chứng hùng hồn đầy xác tín này của Tông Đồ Phê-rô đã thuyết phục được tới ba ngàn người xin tòng giáo (x. Cv 2,41).
+ Làm chứng bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái noi gương cộng đòan tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin, quyết không hèn nhát bước qua thập giá để khỏi chết, noi gương các anh hùng tử đạo. Nhờ đó, các thánh Tử đạo đã được gọi là các “Chứng nhân đức tin”. Đây là phương cách truyền giáo rất hữu hiệu như lời Téc-tuy-li-a-nô khẳng định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”.
4. LẠY CHÚA GIÊ-SU PHŨC SINH. Mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa đều dùng Kinh Thánh để giúp các ông tìm ra thánh ý Thiên Chúa và giải thích cho các ông về con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, đồng thời chứng minh Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết, đúng như lời Thánh kinh. Xin giúp chúng con ý thức giá trị của Lời Chúa trong việc sống đạo và truyền đạo, hầu khi gặp bất cứ biến cố vui buồn sướng khổ nào trong cuộc sống, chúng con cũng biết tìm kiếm thánh ý Chúa. Xin cho chúng con biết năng hội hiệp nhau học sống Lời Chúa hằng tuần, biết lắng nghe Lời Chúa khi dự lễ, để nhờ lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con sẽ ngày càng lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con sẽ chu tòan được sứ mệnh Chúa trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,48). -AMEN.
Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho chúng ta sự sống mới, chia sẻ quyền năng Phục Sinh của Ngài: PS3 B-87
Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho chúng ta sự sống mới, chia sẻ quyền năng Phục Sinh của Ngài cho mỗi người chúng ta, và cho nhiều người khác qua mỗi người chúng ta.Chúa Nhật III Phục Sinh cho chúng ta thấy rõ uy quyền của Đấng Phục Sinh và qua chúng ta, Ngài mời gọi từng người chúng ta trở nên nhân chứng cho Ngài.
Tin mừng của thánh Luca cho hay các môn đệ khi thấy Chúa Phục Sinh hiện ra, họ tưởng là ma. Lần nào cũng vậy khi Chúa Phục Sinh hiện ra để minh chứng cho các môn đệ Ngài đã sống lại thì các môn đệ vẫn nghĩ là họ đang thấy ma. Nỗi ám ảnh ấy vẫn luôn là sự hoàng đối với các Ngài. Do đó, Chúa Phục Sinh đã luôn bền bỉ, kiên nhẫn để giúp các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng ấy. Chúa Phục Sinh đã mời các môn đệ xem tay, chân bị đóng đinh của Ngài và đụng vào người của Ngài để cho các môn đệ hiểu rõ rằng Ngài đã sống lại thật, Ngài đang hiện diện bằng xương bằng thịt trước mặt các Ông. Chúa Phục Sinh khi hiện ra ở bờ hồ Tibêriat, Ngài đã nướng cá và ăn cá nướng để các môn đệ biết Ngài đã sống lại thật. Ngài là người thật chứ không phải là hình bóng của ma như họ nghĩ tưởng. Khi các môn đệ chưa được Chúa Thánh Thần củng cố đức tin, họ cứ tưởng Chúa Phục Sinh là ma. Nhưng khi Chúa Thánh Thần đổi mới, tác động các Ngài, các môn đệ mới nhận ra Chúa Phục Sinh thật.
Chúa vẫn đến với chúng ta, nhưng nhiều khi chúng ta tưởng Chúa là bóng ma, tưởng Chúa là người nào thực xa lạ bởi vì Chúa đến với chúng ta một cách thật bất ngờ. Chúa đến với con người một cách không ai hay ai biết vì cuộc đời chúng ta đang chao đảo như con thuyền tròng trành vì gió đánh ngược. Chúa đến với chúng ta khi chúng ta tưởng Ngài sẽ không đến được. Chúa mời gọi con người làm chứng nhân cho Ngài.
Chúng ta làm chứng nhân cho Chúa Phục Sinh giữa một nhân loại có nhiều nơi còn bạo hành, còn chiến tranh, còn hận thù. Chúng ta là chứng nhân cho sự an bình của Chúa Phục Sinh.
Chúng ta làm chứng nhân cho niềm vui giữa một nhân loại còn đang chạy theo vật chất, tìm kiếm lợi nhuận mà sống khép kín ích kỷ chỉ biết mình. Chúng ta là chứng nhân cho niềm vui của Chúa Phục Sinh.
Chúng ta làm chứng nhân cho sự thăng tiến giữa một thế giới còn nhiều nơi kẻ lớn ức hiếp người thấp cổ bé họng. Chúng ta là chứng nhân cho sự vượt thắng và tiến lên để tìm thấy hạnh phúc thật sự.
Do đó, làm chứng nhân cho Đức Giêsu là dùng chính đời sống của mình để chứng tỏ quyền năng của Đấng Phục Sinh biến đổi và tác động trên chúng ta. Làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh chính là để Ngài dùng chúng ta nói với những người khác.
Câu chuyện nói về Đấng Phục Sinh là câu chuyện thực khó tin nếu con người không có đức tin, không được Chúa Thánh Thần tác động và hướng dẫn soi sáng.
Nói như Đức Giám Mục Duval của nước Pháp trong một lá thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa trong Giáo phận của Ngài, Đức Cha viết:” Dù con người phát biểu khéo léo đến đâu, những tư tưởng trừu tượng cũng khó làm cảm động được lòng người. Nhưng những con người sống động, có khả năng làm cảm động lòng người, những người đó hãy xung phong bước ra. Hãy để cho chân lý trào ra từ cuộc sống của mình, và hãy làm cho quyền năng của mình tương xứng với món quà mà mình trao tặng bằng tình yêu. Lúc đó mọi người sẽ lắng tai nghe, và bình minh của những ngày tươi sáng sẽ bùng lên trên bầu trời của chúng ta “.
Lay Chúa nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã làm cho tâm hồn chúng con tươi trẻ lại, và chan chứa niềm vui vì được làm con Chúa. Xin cho chúng con hằng giữ mãi niềm vui Chúa ban, và nắm chắc hy vọng được Phục Sinh vinh hiển ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật III Phục Sinh ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao các môn đệ lại nghĩ Chúa Phục Sinh là ma ? 2.Làm sao để người khác nhận ra rằng Chúa đã sống lại ? 3.Làm chứng bằng lời nói và bằng việc làm, đâu là cần thiết hơn ? 4.Tại sao Chúa Phục Sinh lại ăn ? 5.Chúa Phục Sinh mời gọi các môn đệ xem tay và chân, sờ vào thân xác của Ngài để làm gì ?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 24:35-48)
Đứng trước đám đông dân chúng Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô dõng dạc tuyên bố: “Thiên: PS3 B-88
Đứng trước đám đông dân chúng Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô dõng dạc tuyên bố: “Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình” (CôngVụ 3:18). Qua bài Tin Mừng hôm nay, khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giê-su cũng lập lại một lần nữa: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. “Phải chịu khổ hình” hoặc “phải được ứng nghiệm” là một sứ mệnh mà Chúa Phục Sinh đã hoàn tất. Làm sao chúng ta hiểu được sứ mệnh này? Thưa là phải căn cứ vào Kinh Thánh và nhờ Chúa “mở trí” cho chúng ta hiểu Kinh Thánh, chúng ta mới nhận ra được ý nghĩa của sứ mệnh ấy.
Tường thuật của bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo câu chuyện hai môn đệ đi Em-mau đã được Chúa Giê-su giải nghĩa Kinh Thánh và “mở trí” cho các ông hiểu ý nghĩa cái chết và sự sống lại của Người. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra, các môn đệ đã có những cảm nghĩ rất thay đổi, từ “kinh hồn bạt vía” tới “chưa tin vì mừng quá và còn đang ngỡ ngàng”. Nói tóm lại các ông vẫn chưa chấp nhận sự kiện Chúa đã sống lại từ kẻ chết. Vậy Chúa sẽ giúp các ông thế nào để các ông nhận biết và tin rằng Người đã sống lại thật? Người sẽ sử dụng Kinh Thánh cùng một cách thức như Người đã giải thích cho hai môn đệ Em-mau.
Trước hết Người dạy các ông hãy nhớ lại những gì Người đã nói với các ông “khi Người còn ở với các ông”. Đúng vậy, khi còn sống bên cạnh họ, Chúa Giê-su đã nhiều lần đề cập đến những điều Kinh Thánh (gồm sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh) nói về sứ mệnh cứu độ và đặc biệt là sự chết và phục sinh của Người. Nhưng vấn đề có lẽ không phải họ không hiểu, mà là họ không muốn chấp nhận một sứ mệnh xem ra hoàn toàn là “thất bại” đối với cái nhìn của người đời và không phù hợp với giấc mơ công danh sự nghiệp của họ. Phản ứng của ông Phê-rô khi nghe Chúa tiên báo cuộc Thương Khó là một bằng chứng cụ thể! Vì thế, họ cần phải được Người giúp “mở trí” để hiểu Kinh Thánh theo kế hoạch của Thiên Chúa, chứ không phải theo ý muốn của họ. Như vậy, mở trí có nghĩa là thay đổi não trạng và cái nhìn theo quan điểm và kế hoạch của Thiên Chúa. Mở trí là thay thế những cảm nghĩ không đúng, như nghi ngờ, kinh hồn bạt vía và không tin, bằng một thái độ mới, tức là hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa Giê-su và sống trong mối tương quan mật thiết với Người. Mở trí còn là mở ra một chân trời mới: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”, hay nói khác đi, là “làm chứng nhân” cho mầu nhiệm cứu độ của Chúa Ki-tô. Mở trí quả là một diễn trình vô cùng linh hoạt!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Các môn đệ Chúa đã được “mở trí để hiểu Kinh Thánh”. Mở trí để hiểu Kinh Thánh chính là để biết Chúa Ki-tô, như lời thánh Giê-rô-ni-mô quả quyết: Ai không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô. Chúa Kitô đã sống và chết cho chúng ta. Người đã sống để mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa. Người đã chết để chiến thắng tội lỗi, đền bù tội lỗi A-đam và tội lỗi mọi người. Người đã sống lại, chiến thắng thần chết để đem lại sự sống mới cho chúng ta và sự sống vĩnh cửu mai sau. Những chân lý này đã được Kinh Thánh truyền lại cho chúng ta, để chúng ta tin vào sứ mệnh của Chúa Ki-tô và tiếp tục đi trên con đường cứu độ Người dẫn chúng ta về nhà Cha trên trời.
Tuy nhiên vấn đề của chúng ta là liệu chúng ta có để Chúa giúp “mở trí” cho chúng ta hay không. Điểm quan trọng, mở trí không phải chỉ đơn thuần là mở mang kiến thức, nhưng là mở rộng trái tim để đón Chúa vào trong tâm hồn, nhất là để cho Chúa Giê-su và lối sống của Người ảnh hưởng và thay đổi chúng ta tận căn rễ. Chúng ta được mở trí, để có được “những tâm tình của Chúa Ki-tô” và để “Chúa Ki-tô sống trong chúng ta” vậy. Cho nên chúng ta cứ để cho Chúa mở trí chúng ta, đừng chống lại!
Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin của họ và truyền cho họ làm: PS3 B-89
Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin của họ và truyền cho họ làm chứng nhân cho Người. Cuộc đời của các thánh Tông đồ là làm chứng Chúa Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, vì họ đã gặp Người trong những lần hiện ra. Khi các ngài rao giảng trước mặt dân Do-thái là những kẻ đã can dự vào cái chết của Chúa Giê-su, các ngài quả quyết Thiên Chúa đã cho Đức Ki-tô trỗi dậy và kêu gọi họ “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa”. Viết cho mọi tín hữu về Chúa Phục Sinh, thánh Gio-an Tông đồ gọi việc làm chứng này là “biết Thiên Chúa”, nhìn nhận “Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta”. Vậy ta hãy đi vào những hướng phụng vụ này để chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô và ý thức bổn phận làm chứng nhân cho Người.
1. Chúa Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ (bài Tin Mừng – Lc 24:35-48)
Các bài Tin Mừng Phục Sinh vẫn tiếp tục đề tài Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại. Tuy nhiên, mỗi lần đề tài lại được trình bày theo một khía cạnh đặc biệt. Thánh Lu-ca cũng ghi lại những lần Chúa hiện ra, nhưng dưới cái nhìn của vị thánh sử kiêm y sĩ, tường thuật không những nhấn mạnh đến chứng lý Kinh Thánh như Chúa Giê-su đã dạy, mà còn có những chứng lý về giác quan thật sống động.
Trước hết trong câu truyện Tin Mừng, thánh Lu-ca ghi lại một phản ứng thật tự nhiên và tâm lý của các môn đệ khi Chúa hiện ra. “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24:37). Ta cứ tưởng tượng một nhóm đàn ông, trong đó nhiều người đã từng vào sinh ra tử với nghề chài lưới, thế mà giờ đây lại quá sợ hãi trước một bóng người thân thương trở về với họ. Mặc dù Chúa đã lên tiếng trước và chào bình an với họ, họ vẫn không bình tĩnh nổi. Phản ứng trước sự Phục sinh như thế có đúng và đáp lại mong mỏi của Chúa Ki-tô không? Trên phương diện tâm lý bình thường, ta có thể hiểu và chấp nhận phản ứng của họ. Tuy nhiên cần phải vượt qua cái tâm lý bình thường ấy để tiến tới phạm vi đức tin, môi trường của quan hệ tình yêu giữa Chúa với họ.
Đối với phản ứng ấy, Chúa Giê-su không buồn giận trách móc. Trái lại, Người nhân từ và kiên nhẫn dẫn dắt họ qua giây phút hoảng hốt ấy để họ được tràn đầy niềm vui Phục sinh. Người bắt đầu từ chính tâm lý hoảng sợ của họ. Họ “tưởng là thấy ma” thì Thầy sẽ cho họ thấy Thầy không phải là ma. Ma nào lại có tay chân, xương thịt, có thể ăn uống bình thường! Rồi sau khi Thầy cho họ được nắm lấy tay Thầy, bàn tay từng chăm sóc họ, họ hết hoảng sợ và bước sang tình trạng “còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng”. Tiếp đến, Chúa dùng những sinh hoạt thường ngày Người đã từng có với họ như việc ăn uống, giúp họ nhận biết Người vẫn là chính vị Thầy của họ.
Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ. Mục đích Người hiện ra với họ là phải đem họ đến bình diện đức tin. Do đó, Người sử dụng Kinh Thánh để giải thích cho việc Phục sinh của Người. Họ không đủ trình độ hiểu được Kinh Thánh, thì Người “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Người muốn họ hãy nhìn lại những ngày tháng Người đã từng sống với họ, nhất là những ngày kinh hoàng cuối đời của người, để đi tới xác tín: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24:45-46). Tin Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, đó là cốt lõi của đức tin. Đức tin không phải là quà tặng giữ trong tủ sắt cho kỹ, nhưng là sinh hoạt yêu thương phải được biểu lộ. Tin Chúa Ki-tô và Tin Mừng của Người thì “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Chúa còn dặn họ hãy bắt đầu rao giảng “từ Giê-ru-sa-lem”. Điều này thật có ý nghĩa đối với ta. Ta tiếp nối việc rao giảng Tin Mừng, nhưng không phải “từ Giê-ru-sa-lem” bên nước Do-thái, mà là từ Giê-ru-sa-lem của gia đình, nhóm, xứ đạo ta. Thực vậy, thiếu gì người không bắt đầu rao giảng từ chính mình hoặc gia đình, nhưng chỉ thích ồn ào rao giảng ở những nơi người ta thấy được bóng dáng họ. Đúng là việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng, chưa lo tu thân tề gia mà cứ muốn bình thiên hạ!
Tóm lại, qua câu truyện Chúa Phục sinh hiện ra như Lu-ca kể lại, ta nhận biết vai trò chủ động của Chúa trong việc củng cố đức tin của ta quan trọng biết chừng nào. Chẳng vậy mà ông Phê-rô đã phải thay mặt anh em nài xin Chúa: Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con.
2. Bài giảng thứ hai của thánh Phê-rô tuyên xưng Chúa Ki-tô xóa bỏ tội lỗi của ta (bài đọc Tân Ước – Cv 3:13-15.17-19)
Ông Phê-rô luôn luôn đi đầu trong mọi việc, từ tuyên xưng Chúa trong Nhóm Mười Hai cho đến rao giảng cho dân chúng. Bài giảng này nhắm thẳng vào đám thính giả quen thuộc với các Tông đồ. Dân chúng hôm nay đa số là người dân Giê-ru-sa-lem, những người đã tham dự hoặc chứng kiến cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô. Nói với họ, ông Phê-rô đã nói thẳng nói thực. Ông không tránh né nói đến việc làm sai trái của họ là “đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân, đã giết Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3:14-15).
Tuy nhiên vạch lỗi không phải là tiêu cực chống đối, nhưng là để mở ra cho người có lỗi một lối thoát. Thánh Phê-rô đã cho thính giả của ngài một tia hy vọng: “Giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em” (Cv 3:17). Và niềm hy vọng ấy phải tiếp tục đưa họ tới đích điểm, tức là “Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa” (Cv 3:19). Niềm tin họ cần được dẫn tới chính là Chúa Ki-tô, vì “Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Người chỗi dậy để giúp anh em [Do-thái] trước tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng cách làm cho mỗi người trong anh em lìa bỏ những tội ác của mình” (Cv 3:26).
Mục tiêu Chúa Ki-tô được sai đến trần gian là để chiến thắng tội lỗi và giúp nhân loại chia sẻ chiến thắng ấy. Chúa Ki-tô đã chiến thắng tội lỗi không phải bằng vũ khí của trần gian là quyền lực, giàu sang…, nhưng bằng chính những khí giới của con cái Thiên Chúa mà loài người đã từ bỏ, đó là vâng lời và yêu mến. Đức vâng phục và lòng mến của Đức Ki-tô đã khiến người chấp nhận chết nhục trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi ta, nhưng cũng chính là lý do để Thiên Chúa cho Người sống lại. Phục sinh là dấu chỉ Chúa Ki-tô đã chiến thắng tội lỗi. Để tham dự vào cuộc chiến với tội lỗi và chiến thắng của Chúa Ki-tô, bước đầu tiên hành trình của ta là “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa”. Lời giảng về Đấng Ki-tô phục sinh đã giúp bao người cất bước đầu tiên của hành trình đức tin ta cần đón nhận với tất cả tâm hồn và quyết tâm. Do những tội lỗi của ta, chính ta “đã giết Đấng khơi nguồn sự sống”, cho nên ta “hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho ta”.
3. Tuyên xưng Chúa Ki-tô Phục sinh có nghĩa là “tuân giữ các điều răn của Người” (bài đọc Tân Ước – 1 Ga 2:1-5a)
Rao giảng Đấng Ki-tô phục sinh có nhiều cách. Thánh Phê-rô anh dũng đứng trước sân Đền thờ Giê-ru-sa-lem nói với dân chúng về Đấng chính họ đã giết chết. Các Tông đồ rao giảng đã “rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem”. Thánh Gio-an khi đã về già không di chuyển nữa thì rao giảng qua những “thư gửi các con”. Qua bài đọc hôm nay, ngài đã giảng cho chúng ta, “những người con bé nhỏ” của ngài.
Đối với ngài, rao giảng hay sống mầu nhiệm Phục sinh là phải sống phù hợp với mục đích của sự Phục sinh. Chúa Ki-tô sống lại là để cho thấy Người đã chiến thắng tội lỗi. Do đó, ta phải sống làm sao như những người chiến thắng tội lỗi bằng cách “đừng phạm tội” (1 Ga 2:1). Khai triển tư tưởng “ đừng phạm tội”, thánh Gio-an trở lại với lịch sử cứu độ, đó là “Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta và tội lỗi thế gian”. Người giúp ta “biết Thiên Chúa”, nghĩa là đưa chúng ta trở lại trong mối yêu thương với Thiên Chúa. Nhưng muốn duy trì và phát triển được mối yêu thương ấy, cách cụ thể nhất tức là “tuân giữ các điều răn của Người”. Đấy là lối lý luận tài tình và hết sức thực tiễn của vị cha già nhắn nhủ những người con nhỏ bé của ngài. Người cha ấy không muốn con nhỏ là “kẻ nói dối”, nói một đàng làm một nẻo. Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa là cách duy nhất giúp ta “biết Thiên Chúa”, là cách ta tỏ lòng yêu mến Chúa là cách ta làm cho “tình yêu Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo” nơi ta và những người chung quanh ta.
4. Sống Lời Chúa
Tin Chúa sống lại và sống đức tin Phục sinh là đề tài chính của mùa Phục Sinh. Chúa Ki-tô đã hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại là để đức tin của họ được củng cố và họ trở nên những chứng nhân của người. Bí tích Rửa tội đã cho ta được sống lại trong con người mới, để cùng chia sẻ niềm vui Phục sinh và được sai đi làm chứng cho Chúa Ki-tô. Thánh Gio-an cho ta một phương thức cụ thể và hữu hiệu giúp ta thực hiện tốt đẹp sứ mệnh làm chứng cho Chúa, là ta hãy tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa mà làm cho tình yêu Thiên Chúa phát triển tột độ nơi ta. Tuân giữ các điều răn Thiên Chúa như thế nào, ta hãy nhìn vào tấm gương của Chúa Giê-su Ki-tô, người Con Yêu Dấu của Cha trên trời đã được sai đến để dạy dỗ và dẫn dắt ta cùng về nhà Cha với Người.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su truyền cho các môn đệ phải ra đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem. Vậy tôi sẽ rao giảng Tin Mừng ấy như thế nào? Và đối với tôi, đâu là “từ Giê-ru-sa-lem”, khởi điểm của hành trình rao giảng?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã làm cho tâm hồn chúng con tươi trẻ lại, và chan chứa niềm vui vì được làm con Chúa. Xin cho chúng con hằng giữ mãi niềm vui Chúa ban, và nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III Phục Sinh).
Những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh không những nhằm mục đích chứng minh Chúa đã sống: PS3 B-90
Những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh không những nhằm mục đích chứng minh Chúa đã sống lại thật hoặc để củng cố đức tin của các môn đệ, mà còn để chuẩn bị họ thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Người, tức là rao giảng Đức Ki-tô và Tin Mừng cứu độ. Làm sao ta có thể làm công việc rao giảng này nếu ta chưa thực sự biết và yêu mến Người, cũng như chưa hiểu rõ giáo lý của Người? Những phản ứng của các môn đệ đối với cuộc hiện ra của Chúa và những lời chỉ bảo cuối cùng của Người đã cho ta một cái nhìn thật đầy đủ về việc chuẩn bị cho sứ vụ làm chứng nhân.
a) “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: ‘Bình an cho anh em’”
Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ mà không báo trước. Chẳng lạ gì khi thấy các ông “kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”! Điều đáng ghi nhớ nhất ở đây là phong cách nhân hậu của Chúa. Người hiểu rõ tâm trạng của môn đệ, nên không nặng lời trách mắng, trái lại, Người xử sự như một vị bác sĩ tâm lý hết lòng yêu mến chăm sóc bệnh nhân (một đặc nét của Tin Mừng Lu-ca). Người sẽ chữa lành những bệnh nhân đang mắc bệnh “hoảng hốt, ngờ vực trong lòng”.
Trước hết, Chúa Giê-su kéo môn đệ trở về với thực tại. Thực tại là sự hiện diện của chính Người, sự hiện diện bằng xương bằng thịt mà họ đã cảm nghiệm trước khi Người chịu chết. Người đưa họ ra khỏi cơn hoảng hốt và ảo tưởng bằng cách bảo họ sử dụng giác quan của họ. Họ hãy nhìn tay chân Người mang dấu đinh của cực hình thập giá. Họ hãy lấy tay rờ xem những dấu đinh biểu tượng cho tình yêu sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu.
Tới đây, tình trạng các bệnh nhân đã khá hơn, nhưng họ “vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng”. Để chữa dứt chứng bệnh, Chúa Giê-su đã sử dụng một phương thuốc tuyệt vời: đưa họ về với thực tại mối quan hệ thân thương với Người, tức là việc họ được cùng ăn uống với Người. Trước đây, trên đường truyền giáo, thầy trò đã cùng chịu cực khổ, chia sẻ miếng ăn thức uống, hoặc những lần họ được no nê nhờ phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều. Nhất là trong bữa Tiệc Ly, Chúa đã bẻ bánh thiết lập Bí Tích Thánh Thể, dùng việc ăn uống để thầy trò được kết hiệp với nhau cách nhiệm mầu. Vậy họ đưa cho Người một miếng cá nướng và Người ăn trước mặt họ để nhắc nhở họ về mối quan hệ với Người. Những bữa ăn với Chúa Phục Sinh đã ghi ấn tượng thật sâu xa trong tâm hồn Phê-rô, đến nỗi mãi sau này ông vẫn còn nhớ và dùng làm chứng cớ trong bài giảng tại nhà ông Co-nê-li-ô để quả quyết Chúa sống lại (Cv 10:41).
Có lẽ bài học nhận biết Chúa Phục Sinh của các môn đệ phản ảnh tâm trạng của nhiều người môn đệ mọi thời. Những triệu chứng “kinh hồn bạt vía, hoảng hốt, ngờ vực chưa tin và ngỡ ngàng” đều có nơi những ai gặp gỡ Chúa Giê-su. Những triệu chứng ấy nói lên mức độ hiểu biết, yêu mến và quyết tâm theo Chúa nơi ta còn quá yếu ớt. Do đó, muốn dấn thân thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa Phục Sinh, ta cần phải để cho Người chữa trị cho tuyệt căn. Ta chỉ cần sử dụng những phương thuốc Người đã đề nghị: chiêm ngưỡng Người, “nếm thử và nhìn xem cho biết Người tốt lành dường nào”, nhất là qua bữa tiệc Thánh Thể sống mối quan hệ mật thiết với Người.
b) “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”
Muốn biết Đấng Ki-tô là ai thì phải tìm đến Kinh Thánh, như thánh Giê-rô-ni-mô đã quả quyết: Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô. Các môn đệ Chúa cần phải biết Đấng Ki-tô của Kinh Thánh chứ không phải Đấng Ki-tô theo tham vọng của các ông đã vẽ vời ra. Đấng Ki-tô theo Kinh Thánh là Đấng “phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”, chứ không phải một hoàng đế có tả hữu văn võ ứng chầu. Không phải là các ông không đọc hoặc nghe Kinh Thánh. Nhưng để đọc mà hiểu được lời Kinh Thánh muốn nói về Chúa Giê-su thì cần phải có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Quan thái giám người Ê-thi-óp phải thú nhận: “Làm sao tôi hiểu được, nếu không có người dẫn giải?” (Cv 8:31). Hoặc hai môn đệ trên đường Em-mau đã cảm nghiệm được việc Chúa mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh như thế nào: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24:32). Để thực sự “hiểu” Kinh Thánh, cần phải có một “bước nhảy vọt đức tin” (leap of faith) để ta không còn bám víu vào những bằng chứng, nhưng là lòng mến thiết tha đối với Đấng Kinh Thánh đã nói đến. Chỉ có Chúa mới giúp ta thực hiện được bước nhảy vọt ấy.
Chúa Giê-su không chỉ mở trí để ta hiểu Người là Đấng Ki-tô nào, nhưng Người còn mở lòng để ta biết nhận Người làm Chúa và Thiên Chúa của ta nữa (Ga 20:28). Bởi vì nếu chỉ là biết về Đấng Ki-tô, thì ta đâu cần phải làm gì thêm nữa, cũng giống như ta biết về một nhân vật lịch sử thôi. Nhưng một khi đã nhận Người trong mối quan hệ là Chúa và Thiên Chúa của ta như ông Tô-ma đã tuyên xưng, thì ta có bổn phận phải sống mối quan hệ ấy, tức là thi hành những gì Chúa và Thiên Chúa của ta muốn ta làm.
Vậy Đấng Ki-tô Phục Sinh muốn ta làm gì? Người nói: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”. Nhân danh Người mà rao giảng có nghĩa là ta theo đúng khuôn mẫu của Người và tiếp nối công việc rao giảng của Người. Lời giảng của Người được tóm tắt trong một điệp khúc ngắn gọn: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
c) “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”
Lãnh nhận sứ mệnh rao giảng, có lẽ ta sẽ thắc mắc hỏi ta phải rao giảng như thế nào. Chúa Giê-su cho ta câu trả lời về cách rao giảng: làm chứng nhân. Ta sẽ là chứng nhân cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Ta sẽ cho mọi người chung quanh biết ta đã được chữa lành khỏi chứng bệnh hoảng hốt và thiếu lòng tin nơi Chúa. Ta sẽ chia sẻ với người khác những gì ta lãnh nhận khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Ki-tô, nhìn nếm để biết Chúa nhân lành như thế nào. Ta sẽ nói cho mọi người biết mình đã được cùng ăn uống với Người trong các bữa tiệc Thánh Thể. Nhất là ta sẽ giúp cho người khác biết thế nào là sống theo lối sống của Chúa Ki-tô. Đó là những điều Chúa muốn ta phải sống trong chính cuộc sống của ta trước và giúp cho người khác nhận thấy được qua đời sống của ta.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Cũng như Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ trong khi các ông “đang nói”, Người có xuất hiện với tôi trong đời sống hằng ngày không? Trong những hoàn cảnh nào và tôi đã phản ứng ra sao?
Với những giác quan đức tin, tôi có cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong đời tôi không? Tôi nhìn thấy tay chân Chúa bị thương tích nơi những người nào chung quanh tôi?
Tôi hãy xét lại sứ mệnh rao giảng Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh của tôi. Tôi có thực sự là chứng nhân cho Người giữa xã hội hôm nay không?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” - Mẹ Têrêxa Calcutta (Trích RABBOUNI, lời nguyện 68)
Thánh Gio-an hay sử dụng phương thức xem trái biết cây để nói lên một đặc điểm thuộc căn: PS3 B-91
Thánh Gio-an hay sử dụng phương thức xem trái biết cây để nói lên một đặc điểm thuộc căn tính đích thực của Ki-tô hữu. “Căn cứ vào điều này...” là hình thức lý luận ngài thường dùng. Trong đoạn thư Chúa Nhật trước (5:1-6), ngài nói: căn cứ vào sự kiện chúng ta yêu mến Chúa và giữ điều răn Người, chúng ta biết được chúng ta có yêu thương anh chị em hay không và yêu thương đến độ nào. Hoặc nói khác đi, chúng ta hãy xem việc mình yêu mến Chúa và giữ điều răn Người (như là trái) như là chứng cớ hoặc tiêu chuẩn để nhận ra mình là những người yêu thương anh chị em (như là cây). Trong đoạn thư Chúa Nhật này (2:1-5), thánh Gio-an đề cập tới một đặc điểm khác thuộc căn tính đích thực của Ki-tô hữu, ngài viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.” Được sống lại với Chúa Ki-tô trong con người mới, Ki-tô hữu phải là những người biết Thiên Chúa. Thế nào là những người biết Thiên Chúa?
a) Ki-tô hữu là những người biết Thiên Chúa
Biết có nhiều cấp độ. Dĩ nhiên cái biết thánh Gio-an nói đến ở đây phải là cái biết vượt trên cả giới hạn lý trí để đi vào lãnh vực của trái tim. Khi Đức Ma-ri-a trả lời thiên thần Gáp-ri-en “Vì tôi không biết đến người đàn ông,” đó là cái biết của quan hệ vợ chồng. Kinh Thánh cũng nhiều lần sử dụng mối tương giao mật thiết vợ chồng để diễn tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en. Khẳng định Ki-tô hữu phải là “những người biết Thiên Chúa,” thánh Gio-an có ý nói Ki-tô hữu không chỉ có một ý niệm trừu tượng về Thiên Chúa là đủ rồi, nhưng hơn thế nữa, họ cần phải có một mối tương giao đích thực với Thiên Chúa và sống kết hiệp với Người.
Có và sống mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa là một đặc tính của Ki-tô hữu, những người đã được sinh lại qua Bí tích Rửa tội, nhờ sự chết và Phục sinh của Chúa Ki-tô. Mối tương giao ấy đã biến đổi thân phận của Ki-tô hữu, từ một kẻ “xa lạ, thù địch” đối với Thiên Chúa trở thành “thánh thiện tinh tuyền và không có gì đáng trách trước mặt Người” (Cl 1:21). Còn hơn thế nữa, thân phận ấy được nâng cao, được gọi Thiên Chúa là “Áp-ba, Cha ơi!”, được làm con và làm người thừa kế (Gl 4:6). Cái “biết” hoặc tương giao này không phải một chiều, hoặc bắt đầu từ chúng ta, nhưng là hai chiều và khởi từ Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta vô điều kiện và đã thực hiện “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ep 1:9).
b) Để sống mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa
Sau khi trình bày đặc tính của Ki-tô hữu là “biết Thiên Chúa” tức là có quan hệ với Người, thánh Gio-an đi vào thực hành. Là con cái Chúa, Ki-tô hữu phải sống thế nào? Một vài điểm thực tế được ngài nêu lên:
1. Đừng phạm tội: Phạm tội sẽ làm thay đổi căn tính của chúng ta và đưa chúng ta trở lại với căn tính trước khi chúng ta được trở nên con cái Chúa. Kẻ tội lỗi là “kẻ thù” của Thiên Chúa. Vì mức tác hại quá lớn của tội lỗi nên thánh Gio-an thấy cần phải báo động chúng ta ngay từ đầu: đừng phạm tội. Tuy nhiên ngài không quá lý tưởng đến độ tin rằng Ki-tô hữu sẽ không phạm tội. Trái lại, ngài am hiểu sự yếu đuối con người của họ. Do đó, ngài dùng lời lẽ yêu thương của một người cha nhân hậu nhắn nhủ con cái: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi... đừng phạm tội.” Mà lỡ có phạm tội thì cũng đừng bao giờ quên rằng chúng ta có một Đấng đã đền tội cho chúng ta và giang rộng cánh tay đón chờ những đứa con hoang đàng trở lại.
2. Tuân giữ các điều răn của Người: Về phương diện tiêu cực, Ki-tô hữu phải cố gắng đừng để mất căn tính của mình do tội lỗi; nhưng một cách tích cực, để làm cho căn tính ấy trở nên rõ ràng và chắc chắn, họ phải tuân giữ điều răn của Thiên Chúa. Thánh I-nhã Loyola đã diễn tả tiến trình làm con cái Chúa theo cách tương tự như vậy. Bắt đầu từ mức độ căn bản, ngài dạy chúng ta phải hạ mình khiêm nhượng để vâng theo lề luật Thiên Chúa, dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng quyết không phạm tội trọng. Tiếp đến là mức độ cao hơn, dù đạt tới trình độ thánh thiện hơn, được mọi thụ tạo hay phải liều mạng sống đi nữa thì chúng ta cũng quyết không phạm một tội nhẹ. Sau cùng là “để bắt chước và nên giống Đức Ki-tô, Chúa chúng ta cách thiết thực hơn, tôi muốn và tôi chọn sự nghèo khó với Chúa Ki-tô khó nghèo hơn là sự giàu sang, chọn sự sỉ nhục với Chúa Ki-tô bị sỉ nhục hơn là danh vọng, và ao ước được coi là ngu dại vì Chúa Ki-tô, Đấng trước kia đã bị coi như thế, hơn là được coi như người thông thái, khôn ngoan ở thế gian này” (Linh Thao, số 167).
Thánh Gio-an còn liên kết chặt chẽ việc tuân giữ các điều răn của Chúa với lòng yêu mến Chúa. Chính Chúa Giê-su đã khẳng định điều này với các môn đệ: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14:21). Bởi đó thánh Gio-an mới mạnh dạn lý luận rằng: “Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.
Tuy trở lại cùng một chủ đề về yêu mến và tuân giữ điều răn của Chúa, nhưng thánh Gio-an đã nhìn lối sống ấy của người Ki-tô hữu dưới những khía cạnh khác nhau, khi thì như con cái Chúa và anh chị em với nhau, khi thì như những người có mối tương giao mất thiết với Thiên Chúa. Dù ở khía cạnh nào, mẫu số chung vẫn là hãy sống tình yêu của những người đã được sống lại với Đức Ki-tô Phục sinh, là chủ đề chính của thư 1 Gio-an vậy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Cái “biết” Thiên Chúa của tôi ở mức độ nào? Tôi hãy nghiêm túc xét lại và đáp lại lời gọi của Chúa: “Dừng tay lại: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa” (Tv 46:11).
Một trong những ân sủng lớn lao của Phục Sinh là tôi có được mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa. Vậy tôi đã quý trọng ân sủng đó như thế nào? Và đang sống ân sủng đó như thế nào? Tôi có thực sự gọi được Chúa là “Áp-ba” không? Tại sao?
Tôi đối diện với sự yếu đuối của mình như thế nào? Bí tích Hòa giải có thực sự là phương thế để tôi tìm lại căn tính và tước vị của tôi không? Tôi sẽ cử hành Bí tích Hòa giải thế nào để giúp mình ý thức sống như con cái Chúa hơn?
Tôi giữ lề luật Chúa vì lòng mến hay vì lý do nào khác?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài “Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa...” hoặc một bài tương tự.
Trích đoạn Tin Mừng Chúa Nhật III Phục Sinh theo chu kỳ Phụng Vụ năm B của Thánh Ký: PS3 B-92
Trích đoạn Tin Mừng Chúa Nhật III Phục Sinh theo chu kỳ Phụng Vụ năm B của Thánh Ký Luca đã kết luận bằng một câu làm cho Kitô hữu chúng ta phải suy nghĩ là: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Luca 24:48). Những điều ấy là những gì?
Đối với hai môn đệ vừa về lại Giêrusalem, thì những điều ấy là:
“Các việc đã xẩy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Ngài lúc bẻ bánh như thế nào” (Luca 24:35). Mà những chuyện xẩy ra dọc đường là việc hai ông hoài nghi về cái chết và cuộc phục sinh của Ngài. Việc Ngài giải thích Thánh Kinh cho hai ông. “Rồi bắt đầu từ Maisen và các tiên tri, Ngài giải thích tất cả những gì Thánh Kinh đã chỉ về Ngài” (Luca 24:27), khiến tâm hồn các ông nóng cháy lên.
Và nhất là việc Ngài bẻ bánh trước mặt hai ông.
Đối với các môn đệ có mặt tại Nhà Tiệc Ly hôm nay cũng vẫn là:
Việc các ông hoài nghi về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài phải trấn an các ông và cho thấy con người bằng xương, bằng thịt của Ngài: “Ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây” (Luca 24:39).
Việc Ngài ăn uống trước mặt các ông. Một hình ảnh nhắc lại việc bẻ bánh trong Bữa Tiệc Ly.
Tóm lại, điều mà Thánh Ký nói đến ở đây khi đề cập đến hành động hay lối sống chứng nhân mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, đó là:
Làm chứng cho sự xuất hiện của Ngài trên dương thế.
Làm chứng cho cái chết nhục nhã của Ngài trên thập tự giá.
Và làm chứng cho sự sống lại phục sinh của Ngài.
Tất cả Thánh Kinh cựu cũng như tân ước, và mọi lời tiên tri chỉ gồm tóm lại 3 điểm này: Chúa nhập thể để ở giữa chúng ta. Chúa hy sinh chịu chết vì chúng ta. Và Chúa đã sống lại cũng vì chúng ta.
Nhưng làm sao chúng ta có thể làm chứng nhân cho Ngài một khi chúng ta còn hoang mang, lo sợ và chán nản như hai môn đệ trên đường về Emmau. Làm sao chúng ta có thể nói về Chúa Giêsu phục sinh khi Chúa đứng giữa chúng ta, mà chúng ta lại cứ tưởng đó là ma? Ở đây chúng ta thấy có hai yếu tố quan trọng mà Thánh Ký đã ghi nhận về sự gặp gỡ và tiếp nhận này.
Ở nơi hai môn đệ Emmau thì việc Ngài diễn giải Thánh Kinh và bẻ bánh của Ngài là chìa khóa khai tâm của các ông. Việc các ông được nghe và hướng dẫn lời Thiên Chúa và việc Chúa Giêsu đồng bàn bẻ bánh với các ông nói lên ý nghĩa của Thánh Lễ và Thánh Thể. Trong Thánh Lễ việc nghe và suy ngắm lời Chúa cũng như việc đón nhận Mình Máu Thánh Chúa là hai việc làm song song với nhau. Người tín hữu được nuôi dưỡng bằng hai hình thức của ăn tâm linh là Thánh Kinh và Thánh Thể. Do đó, việc đọc Thánh Kinh, suy gẫm và sống Thánh Kinh là một phần trong toàn bộ sức sống tâm linh mà Thiên Chúa muốn dùng để tăng bổ sức sống thần linh của chúng ta trên hành trình Emmau về quê hương vĩnh cửu. Đồng thời cũng được nuôi dưỡng bằng chính Mình và Máu Chúa Giêsu trong Thánh Thể.
Tóm lại để Kitô hữu chúng ta có thể trở thành chứng nhân cho Chúa Giêsu, thì trước hết chúng ta phải có Ngài trong cuộc đời bằng cuộc sống kết hợp với Ngài bằng lời Ngài soi sáng là Thánh Kinh và của ăn thần linh là Mình và Máu Ngài, không chỉ để nuôi dưỡng chúng ta, mà còn biến đổi cuộc đời chúng ta thành sự kết hợp với chính Thiên Chúa, cho phép chúng ta được hòa tan, và trở thành nên giống như Chúa.
Nhưng với các môn đệ như Thánh Ký Luca thuật lại đều bị chao đảo, sợ hãi, Và ở điểm này, việc đón nhận Thần Khí của Ngài, để không chỉ bắt kịp với lời Ngài giảng dậy, mà còn am tường đủ để có thể ra đi và làm “chứng nhân” cho những gì mình biết, dĩ nhiên là những gì mình cảm nhận và sống nữa. Vì đối với đời sống tâm linh và vai trò người làm nhân chứng thì “biết” vẫn chưa đủ, mà phải “cảm nhận” và “sống” với những gì mình biết và nói. Nhưng liệu chúng ta biết gì, cảm gì và sống như thế nào đối với những mầu nhiệm của Tin Mừng mà Thánh Ký vừa ghi lại, và những gì mà Chúa Giêsu đã làm và đã muốn các môn đệ của Ngài phải làm.
1. Biết Chúa: Nếu chúng ta hỏi mình câu: “Tôi biết Chúa Giêsu được bao nhiêu?” Thì câu trả lời có lẽ khiêm tốn lắm. Ngoại trừ một số những điều đã ghi lại trong Thánh Kinh về thân phận, gia phả, và cuộc sống vỏn vẹn 33 năm trần thế của Ngài, tôi còn biết được gì về Ngài nữa không? Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều về sự hiểu biết của mình đối với Chúa. Và nó cũng nhắc nhở chúng ta rằng, bổn phận học hỏi, trau dồi và tìm hiểu Thánh Kinh, tìm hiểu đạo giáo, cũng như tìm hiểu về điều mình tin nhận là một bổn phận rất cần thiết và quan trọng.
Nhưng liệu chúng ta biết được bao nhiêu về mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Thương Khó, và mầu nhiệm Phục Sinh. Nhưng điều mà chúng ta vẫn cho rằng rất quan trọng cho phần rỗi của chính mình và của nhân loại. Nếu có ai hỏi chúng ta về những điều ấy lúc này, chúng ta sẽ nói gì với họ. Hoặc giả, chúng ta cũng chỉ biết, chỉ nghe, chỉ nói lơ mơ vậy. Biết, nghe rồi nói mà không hiểu gì về những điều mình biết và nói. Chúng ta liệu có phải nghe lời Chúa Giêsu đã trách mắng hai môn đệ trên đường về Emmau, những người mà đã có lần gặp gỡ, gần gũi, và chia sẻ hầu hết những biến cố quan trọng của Ngài. Chính họ cũng đã không hiểu, và không biết. Và chính họ đã bị Chúa Giêsu chê thậm tệ: “Hỡi những kẻ ngu độn và lòng trí chậm tin vào những lời tiên tri đã nói” (Luca 24:25).
“Vô tri bất mộ”. Nếu chúng ta không biết, thì không mong gì chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa. Vậy bổn phận của chúng ta là phải tìm hiểu, phải học hỏi, và phải đào sâu kiến thức của mình về Chúa Giêsu, về ý nghĩa của cuộc nhập thể, cuộc khổ nạn, và việc Ngài phục sinh. Bằng sách vở, bằng cầu nguyện, và bằng việc chăm chỉ học hỏi, suy niệm Thánh Kinh.
2. Cảm nhận: Nếu đã biết về Ngài, và đã có công học hỏi về Ngài, thì chúng ta cảm nhận được Ngài như thế nào trong cuộc sống và ơn gọi của mình. Ngày tận thế, như Chúa Giêsu đã nói, sẽ có nhiều người nói với Chúa rằng họ đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ, làm phép lạ, và rao giảng. Nhưng như Thánh Kinh ghi nhận, Ngài từ chối sự hiểu biết ấy bởi lẽ, sự hiểu biết của những người này chỉ nhằm thỏa mãn khối óc, thỏa mãn tính tò mò, và thỏa mãn tự ái cá nhân. Những người này hiểu và học hỏi về Chúa để khoe khoang, để chứng tỏ mình thông thái. Họ biết Chúa như những Pharisiêu, như những thượng tế, như những luật sỹ, như những kỳ lão thời Ngài đã biết Ngài. Biết để bắt bẻ, biết để phê phán, biết để ghen tỵ. Những người này không biết để hâm mộ, để yêu mến, và để theo Ngài.
Trong đời sống tâm linh, sự hiểu biết của tri thức giữ nhiệm vụ khai mở, còn việc cảm nhận và hấp thụ tình yêu Thiên Chúa, đón nhận Ngài vào trong tâm hồn và trong nếp sống của mình là phần của con tim. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã có lần cảm tạ Chúa Cha thay cho những kẻ bé mọn và thiếu kiến thức thông thường, nhưng lại giầu cảm nhận và mau mắn đón tiếp Ngài vào tâm hồn họ. Ngài gọi họ là những tâm hồn bé nhỏ. Những tâm hồn mà Chúa Cha khai mở để họ có thể hiểu và yêu mến Thiên Chúa qua việc đón nhận và tuân theo những giáo huấn của Ngài: “Lậy Cha là Chúa trời đất, Con ngợi khen Cha vì cha đã che dấu những kẻ thông thái mà mặc khải cho những kẻ bé mọn hay”. Sự thông thái và thái độ khiêm tốn của những tâm hồn thơ ấu Phúc Âm khác nhau ở chỗ cảm nhận và dễ dàng với lời dậy của Thiên Chúa.
3. Sống: Nhưng tính thuyết phục cao nhất của những kẻ làm nhân chứng là sống điều mình nói. Nói điều mình sống. Thánh Gioan Vianey, một linh mục đọc không thông, viết không thạo tiếng mẹ đẻ mình mà đã trở thành thu hút với sức cuốn hút kỳ diệu nhờ Ngài đã nói điều mình sống, và sống điều mình nói. Mẹ Têrêsa Calcutta, một nữ tu tầm thường nhỏ bé, sống gần với chúng ta đã trở thành một biểu tượng chứng nhân sống động cho Giáo Hội và toàn thế giới vì đã sống điều mình nói, và nói điều mình sống. Đức Gioan Phaolô II cũng đã sống và hành động tương tự. Đức Gioan Phaolô II đã phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa, còn phần mình Đức Gioan Phaolô II vẫn còn chờ đợi để được như Mẹ. Điều này đã cho thấy hấp lực và khả năng chinh phục của những chứng nhân bằng hành động.
Nói điều mình biết, và biết điều mình nói đã là khó, nhất là khi những điều này thuộc về đời sống tâm linh. Tuy nhiên, nói điều mình sống và sống điều mình nói về tâm linh lại càng khó hơn
* * *
Như vậy, việc Chúa Giêsu đã thôi thúc các môn đệ Ngài trong lần hiện ra qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay mà Thánh Luca đã ghi lại, chính là Ngài muốn nhắc nhở mọi Kitô hữu rằng, Ngài đã hoàn thành sứ mạng được Cha trao phó. Ngài đã đến và ở giữa con người. Ngài đã chết và đã sống lại với các nhân chứng rõ ràng, và qua những nhân chứng này, Ngài cũng muốn mỗi người chúng ta cũng phải trở thành những nhân chứng cho Ngài. Nhưng chắc chắn một điều là nếu chúng ta không biết Ngài, không cảm nhận – tức là yêu mến Ngài – và không có Ngài trong cuộc đời chúng ta, thì chúng ta không thể nào hoàn tất sứ mạng chứng nhân mà đã trao cho chúng ta: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Luca 24:48).
Hôm nay là Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Phục Sinh chu kỳ năm B. Trong hai Chúa Nhật đầu của: PS3 B-93
Hôm nay là Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Phục Sinh chu kỳ năm B. Trong hai Chúa Nhật đầu của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm của Thánh Ký Gioan giống nhau cho cả ba chu kỳ này, bài Phúc Âm Chúa Nhật Phục Sinh về việc hai tông đồ Phêrô và Gioan được Mai Đệ Liên báo tin không thấy xác Thày đã chạy ra thăm mộ, và bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh về việc Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần thiếu tông đồ Tôma và tám ngày sau đó có cả tông đồ Tôma. Vào Chúa Nhật Thứ Ba Phục Sinh này, Giáo Hội cố ý chọn các bài Phúc Âm có ý nghĩa thứ tự theo chu kỳ A, B và C. Bài Phúc Âm năm A thường theo Thánh Mathêu thì Giáo Hội lại cho bài Phúc Âm của Thánh Luca trình thuật về đoạn hai môn đệ đi Emmau được Chúa Giêsu hiện ra; bài Phúc Âm năm B thường theo Thánh Marcô cũng được Giáo Hội chọn bài Phúc Âm Thánh Luca, tiếp bài Phúc Âm của chu kỳ năm A, bài Phúc Âm thuật lại hai môn đệ đi Emmau chạy về thuật lại cho các tông đồ nghe sau khi được Chúa Giêsu tỏ mình ra cho họ; còn năm C vốn đọc bài Phúc Âm Thánh Luca thì Giáo Hội lại chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh Ký Gioan, bài Phúc Âm Chúa Giêsu hiện ra với 7 tông đồ ở bờ biển Tibêria, chứ không cho đọc một trong hai bài Phúc Âm của chính Thánh Luca Giáo Hội đã cho đọc ở chu kỳ A và B. Tại sao Giáo Hội lại làm như thế?
Nếu không phải, trong ba tuần đầu của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội cố ý nhấn mạnh đến chủ đề “Thày là sự sống lại”, và bốn tuần còn lại của Mùa Phục Sinh Giáo Hội nhấn mạnh đến chủ đề “Thày là sự sống”. Đó là lý do tuần tới, Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh, chúng ta thấy Giáo Hội chọn những bài Phúc Âm của Thánh Gioan nói về vị chủ chiên đến cho chiên được sự sống, và về Chúa Thánh Thần, vì sự sống phát xuất từ Chúa Kitô Phục Sinh được thông ban bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đấng hiện xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Chính vì bốn tuần lễ Phục Sinh cuối nhấn mạnh đến chủ đề “Thày là sự sống”, một sự sống được chủ chiên ban cho đàn chiên, mà phần cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba cho chu kỳ năm C mới đề cập đến việc Chúa Giêsu kêu gọi vị trưởng đoàn tông đồ Phêrô theo Người, chẳng những ở việc chăn dắt các con chiên lớn bé của Người mà còn ở chỗ được nên giống Người trong việc thí mạng sống mình vì chiên nữa. Thế nhưng, để có thể hiến mạng sống mình cho chiên được sự sống như thế, tông đồ Phêrô cũng như các tông đồ khác phải là những chứng nhân đích thực của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô Phục Sinh. Đó là lý do cuối bài Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Ba năm B tuần này, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ rằng: “Các con là những nhân chứng về điều này”. “Điều này” đây là điều nào để các tông đồ có thể làm chứng và cần phải làm chứng, nếu không phải là sự kiện về việc Chúa Kitô Phục Sinh.
Dấu Chứng Thần Linh
Đúng thế, nếu các vị tông đồ không tin Chúa Kitô Sống Lại các vị làm sao có thể làm chứng cho Người được! Tuy nhiên, để các vị có thể tin, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Chúa Kitô đã phải dùng mọi cách thích hợp với bản chất hữu hình và trình độ (Thánh Kinh) của các vị. Trước hết, Người đã dùng những dấu hiệu bề ngoài để chứng thực Người đã sống lại. Đầu tiên Người nói với các vị là Người có xác thịt như các vị chứ không phải là ma quái hiện hình, nhưng là một xác thịt thực sự, ăn uống được đàng hoàng ngay trước mắt các vị, chứ không phải hình bóng giả tạo. Tuy nhiên, dấu hiệu bề ngoài mà thôi chưa đủ, bởi thế, sau đó, Người còn mở trí mở lòng cho các vị để các vị hiểu lời Thánh Kinh nói về Người đã được ứng nghiệm nữa.
Kinh nghiệm sống đạo cũng cho thấy đúng như thế, dù thấy được điềm lạ, thậm chí phép lạ ngay trước mắt, nghĩa là thấy được những dấu hiệu bề ngoài, con người vẫn khó có thể tin tưởng, chấp nhận sự thật siêu nhiên, nếu không có ơn soi động hay tác động bề trong. Trường hợp của thành phần Pharisiêu và Hội Đồng Lãnh Đạo Do Thái đủ rõ. Khi thấy những việc lạ lùng Chúa Giêsu làm, họ chẳng những không tin mà còn tìm cách sát hại Người nữa (x Jn 11:45-54). Sau khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cũng đã xẩy ra cho các vị tông đồ như vậy, những vị đã làm phép lạ và thành phần lãnh đạo Do Thái bấy giờ không thể phủ nhận được nhưng vẫn không chịu tin lại còn cấm cách nữa (x Acts 4:13-18). Hiện tượng vô thần của thời đại văn minh chúng ta đang sống đây cũng thế thôi. Phép lạ ở Lộ Đức rành rành ra đó, đến nỗi khoa học không thể nói năng gì được, thế mà chính những vị bác sĩ liên hệ vẫn không chịu tin tưởng và nhận biết Thiên Chúa.
Ngược lại, có những trường hợp biết được mạc khải của Thiên Chúa, chẳng hạn triường hợp của Quận Vương Hêrôđê và thành phần thông thuộc Thánh Kinh của ông đã cho ông biết Chúa Kitô sinh ra ở Bêlem xứ Giuđa để trả lời cho ba vương gia chiêm tinh từ Đông Phương tới, nhưng chính những người thông biết Thánh Kinh này lại không chịu đến bái thờ Người như ba con người dân ngoại chỉ thấy dấu hiệu bề ngoài kia (x Mt 2:1-12). Như thế, vấn đề ở đây là chính con người cần phải thành tâm thiện chí con người mới có thể nhận ra chân lý khi được chân lý tỏ mình ra cho. Đó là lý do, lời rao giảng tiên khởi của cả Tiền Hô Gioan Tẩy Giả lẫn Chúa Kitô đều nhắm vào việc kêu gọi con người ăn năn thống hối để có thể tin vào Phúc Âm (x Mt 3:2; Mk 1:15). Tin Mừng Phục Sinh, theo bài Phúc Âm hôm nay, cũng là lời kêu gọi thống hối để được ơn tha thứ. Chúa Kitô đã khẳng định với tổng quyền Philatô đang bối rối không biết “chân lý là gì” rằng: “Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37).
Thật ra, bài Phúc Âm theo Thánh Ký Luca cho chu kỳ năm B của Chúa Nhật Thứ Ba Phục Sinh tuần này, theo thời điểm cùng xẩy ra vào tối ngày thứ nhất trong tuần, cũng có nội dung giống như bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan, đúng hơn như phần đầu của bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh tuần trước. Phần đầu bài Phúc Âm Thánh Gioan tuần trước Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, thở hơi Thánh Thần trên các vị và ban cho các vị quyền tha tội trên thế gian, còn bài Phúc Âm Thánh Luca cho chu kỳ năm B tuần này, Chúa Giêsu truyền cho các vị đi rao giảng thống hối để được ơn tha tội.
Tuy nhiên, về cách thức chứng minh Người đã sống lại, phần đầu (và cả phần hai) của Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật tuần trước cho thấy Chúa Giêsu dùng chính những dấu vết tử giá của Người để chứng thực Người đã sống lại, còn bài Phúc Âm Thánh Luca của chu kỳ năm B Chúa Nhật tuần này lại cho thấy Người chứng thực bằng cả dấu hiệu bề ngoài lẫn ơn soi sáng bề trong cho các tông đồ. Thế nhưng, dấu hiệu chính yếu làm cho các tông đồ nhận ra Thày mình thực sự đã phục sinh chính là những dấu vết tử giá nơi thân xác của Thày.
Trước mắt các vị bấy giờ Chúa Kitô Phục Sinh chính là Chúa Kitô Tử Giá, hay ngược lại, Chúa Kitô Tử Giá đó chính là Chúa Kitô Phục Sinh. Thật vậy, tông đồ Tôma, tám ngày trước, dù không được thấy Thày ăn uống trước mắt và được Thày mở lòng mở trí cho, song tám ngày sau, chỉ cần thấy những dấu vết tử giá của Người là nhận ra Thày mình liền. Trong tiến trình tu đức cũng thế, Chúa Kitô Phục Sinh, hay quyền lực của Chúa Kitô Phục Sinh, tỏ ra nơi các linh hồn bằng những thánh giá đau khổ, bởi thế, linh hồn cũng chỉ nhận ra Người, nhận ra sự hiện diện sống động của Người, nhận ra quyền lực Thần Linh của Người, qua những dấu hiệu tử giá mà thôi. Vì Chúa Kitô Phục Sinh chính là Chúa Kitô Tử Giá mà Tin Mừng Phục Sinh cũng chính là Tin Mừng của Lòng Thương Xót Chúa, là Tin Mừng Thứ Tha. Như thế, nhận biết Chúa Kitô Phục Sinh tức là nhận biết Đấng đã tử giá, là chấp nhận Đấng đã hiến mình làm giá chuộc muôn dân (x Mt 20:28), là tin theo Đấng đã tự hiến để Giáo Hội được thánh hóa trong chân lý (x Jn 17:19).
Tiến Trình Mạc Khải
Còn một vấn đề nữa liên quan đến bài Phúc Âm Chúa Nhật III Phục Sinh Năm B tuần này, đó là vấn đề tại sao Chúa Giêsu không hiện ra với các tông đồ ngay đi, mà còn phải hiện ra với những người khác trước, như với Mai Đệ Liên (x Jn 20:14-18), hay như hai môn đệ đi Emmau sau khi nhận ra Đấng Phục Sinh trong cuộc hành trình đã chạy vội về báo tin cho nhóm các tông đồ, như đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật này cho thấy? Chẳng lẽ các tông đồ lại dễ tin các sứ giả chứng nhân gián tiếp ấy hơn là trực tiếp tin vào chính bản thân của Thày họ hay sao?? Đây là một vấn đề cũng xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội nữa. Theo các mạc khải tư, hình như chưa bao giờ có chuyện chính Chúa Kitô hay Mẹ Maria trực tiếp hiện ra với những vị thuộc hàng giáo phẩm, như Giáo Hoàng hay Giám Mục, mà chỉ hiện ra với thành phần giáo dân, tu sĩ, nhất là trẻ em. Tuy nhiên, những gì Chúa Kitô hay Mẹ Maria mạc khải tư cho thành phần thị kiến không thuộc hàng giáo phẩm này biết, nhất là những gì Các Đấng yêu cầu, đều phải được trình lên hàng giáo phẩm.
Chẳng hạn điều Chúa Giêsu xin chị Thánh Faustina trình Giáo Hội để xin Giáo Hội lập Thánh Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, đã được chị nỗ lực làm, cuối cùng, Thánh Lễ này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận và phát động qua văn thư của Thánh Bộ Phụng Tự Và Bí Tích ngày 5/5/2000. Hay chẳng hạn điều Mẹ Maria cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha hợp cùng với hàng giáo phẩm thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ để nhờ đó Thiên Chúa sẽ làm cho Nước Nga trở lại và ban hòa bình cho thế giới, cũng đã được chị Lucia hết sức chu toàn, cuối cùng cũng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thực hiện ngày 25/3/1984, một biến cố đã xẩy ra đúng một năm trước khi xuất hiện vị lãnh đạo cuối cùng của Khối Cộng Sản Liên Sô Gorbachev, sau đó là Biến Cố Đông Âu xẩy ra vào cuối năm 1989, và Nước Nga trở lại vào ngày Lễ Giáng Sinh 25/12/1991 với việc từ chức của nhà lãnh tụ ấy.
Qua tiến trình tỏ mình ra trong Lịch Sử Cứu Độ cho đến khi Mạc Khải Thần Linh được hoàn toàn nên trọn nơi Chúa Giêsu Kitô Tử Giá và Phục Sinh, chúng ta có thể nói mạc khải là một mầu nhiệm, hay mầu nhiệm mạc khải. Theo những gì được ghi lại trong Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, thì Đấng Mạc Khải Thần Linh đã thực hiện mầu nhiệm mạc khải này theo một tiến trình từ từ và nhẹ nhàng, chứ không đột ngột đùng một cái cho xong. Bởi vì, trước hết, tự bản chất, những gì Thiên Chúa muốn mạc khải cho con người biết, như về Mầu Nhiệm Nước Trời là “những sự thuộc về trời” (Jn 3:12) và đường lối để có thể vào Nước Trời là “những sự ở dưới đất” (Jn 3:12) thì vô cùng mầu nhiệm, cũng như bởi vì, sau nữa, con người hữu hình và hữu hạn không thể nào tự mình có thể thấu triệt được cả những gì được Thiên Chúa tỏ ra cho biết ấy. Đó là lý do Chúa Kitô đã phải nói với ông Nicôđêmô rằng: “Ông giữ vai trò làm thày thiên hạ Do Thái mà vẫn không hiểu những điều này hay sao?... Nếu ông không tin khi Tôi nói với ông về những sự trần thế thì làm sao ông có thể tin được khi Tôi nói với ông về những sự trên trời chứ?” (Jn 3:10,12). Đó cũng là lý do chúng ta còn thấy Chúa Kitô phải cắt nghĩa thêm cho các vị tông đồ hiểu hơn về Mầu Nhiệm Nước Trời Người rao giảng cho dân chúng (x Mt 13:36-37).
Riêng về Mầu Nhiệm Vượt Qua của chính bản thân Người, Người đã phải nói trước cho các tông đồ biết ba lần trước khi các vị có thể chứng kiến thấy mầu nhiệm ấy xẩy ra. Thế mà, các tông đồ vẫn vấp ngã trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, đặc biệt là trường hợp của vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô hăng máu nhất, bạo miệng thế thốt nhất. Thậm chí, ngay trước khi Chúa Kitô về trời, thành phần môn đệ của Người hình như vẫn chưa hoàn toàn thấu triệt được “tất cả sự thật” (Jn 16:13) Thần Linh, qua câu hỏi còn sặc mùi chính trị trần gian của các vị, đó là: “Lạy Chúa, giờ đây hẳn là Chúa sắp phục hồi quyền cai trị cho dân Do Thái?” (Acts 1:6). Còn Mầu Nhiệm Phục Sinh, theo các Phúc Âm thuật lại, cho dù đã có các sứ giả phục sinh về thông báo trước cho các tông đồ, như Mai Đệ Liên và hai môn đệ đi Emmau, mà các tông đồ còn sững sờ hoảng sợ khi Đấng Phục Sinh xuất hiện trước mắt, như đầu bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, thì thử hỏi nếu không được dọn đường sửa soạn trước về tin Người đã sống lại, đùng một cái cả đám được thấy Người ngay khi Người sống lại vào nửa đêm về sáng Ngày Chúa Nhật tại nhà Tiệc Ly khi các ông còn đang mơ ngủ, các tông đồ còn bấn loạn kinh hoàng tới đâu!
Kể cả trường hợp hiện ra với các sứ giả phục sinh cũng thế, Đấng Phục Sinh cũng không làm cho họ bị hoảng sợ, bằng không họ sẽ chẳng thể nhận ra Người để về loan tin rằng Người đã sống lại, sửa soạn tinh thần cho các tông đồ cho biến cố Người chính thức trự ctiếp hiện ra với các vị. Chẳng hạn khi hiện ra với Mai Đệ Liên, con người nhậy cảm nhất này vẫn không nhận ra dung nhan và tiếng gọi của Người sau khi phục sinh, cho tới khi Người nhẹ nhàng gọi đích danh tên của chị (x Jn 20:14-16). Hay khi hiện ra với hai môn đệ đi Emmau, Người cũng ẩn thân trong hình dáng và bộ điệu của một người lữ khách cho tới khi lòng họ nóng lên để có thể nhận ra Người vào lúc Người bẻ bánh (x Lk 24:15-32). Trong tiến trình tu đức sống đạo cũng thế, Thiên Chúa không tỏ mình cho linh hồn một lần là xong, nhưng Ngài tỏ mình cho họ từ từ, qua các dấu chỉ thời đại, qua những hoàn cảnh của cuộc đời họ, nhất là bằng những thánh giá đau khổ, để họ có thể Cảm Nghiệm Thần Linh được Ngài cho tới khi Chúa Kitô là tất cả Mạc Khải Thần Linh hoàn toàn tỏ hiện nơi họ, đạt đến mức độ thành toàn nơi họ (x Eph 4:13,15), lúc linh hồn đạt tới chỗ thần hiệp với Thiên Chúa, Đấng sống trong họ (x Jn 14:23; Gal 2:20), một con người bé nhỏ đơn sơ dễ dạy (x Mt 18:4) luôn chiều theo chiền Gió Thần Linh muốn thổi đâu thì thổi (x Jn 3:8).
Như thế, trước khi chính thức tỏ mình ra cho con người, Thiên Chúa cần phải làm cho con người trở nên như trẻ nhỏ trước đã để con người có thể chấp nhận Ngài. Ở chỗ, Ngài thanh tẩy họ, tước lột họ khỏi tất cả những gì là bất xứng với Ngài, khỏi tất cả những gì cản trở Tác Động Thần Linh của Ngài nơi họ, đến nỗi làm cho họ phải chân nhận rằng ngoài Ngài ra họ chỉ là hư không và chẳng làm được gì cả. Đó là lý do linh hồn luôn phải tỉnh thức để nhận ra tác động của Thiên Chúa và kịp thời đáp ứng tác động của Ngài. Có thể nói và phải nói rằng chính khi Thiên Chúa “ra tay uy quyền” (Lk 1:51) thanh tẩy linh hồn cũng là lúc Thiên Chúa tỏ mình cho linh hồn, vì sau mỗi một Tác Động Thần Linh của Ngài, linh hồn hiểu Ngài hơn và gắn bó với Ngài hơn, như chính Ngài muốn thanh tẩy họ để kéo họ đến với Ngài và nên một với Ngài. Như thế, khi sai sứ giả phục sinh đến với các tông đồ là Chúa Kitô Phục Sinh đã gián tiếp tỏ mình cho các vị rồi vậy. Tóm lại, nếu Thiên Chúa là Sự Hữu (x Ex 3:14) thì con người vốn từ hư không mà có phải làm sao để trở nên hoàn toàn trống rỗng và bần cùng hết cỡ. Ở chỗ, họ không còn quyến luyến bất cứ một sự gì khác ngoài Chúa, trái lại, lúc nào họ cũng hết mình khao khát một mình Ngài, và tin tưởng đợi trông tất cả mọi sự nơi Ngài, họ mới có tư cách Hiệp Thông Thần Linh cùng với Khả Năng Thần Linh để có thể chất chứa trọn vẹn Đấng “là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28).
Câu chuyện "Cái tách đựng trà" của Lã Phụng Tiên sau đây nói lên ý nghĩa Lời Chúa đến với: PS3 B-94
Câu chuyện "Cái tách đựng trà" của Lã Phụng Tiên sau đây nói lên ý nghĩa Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay: Một hôm có hai ông bà sang trọng bước vào một cửa tiệm bán đồ sành đồ sứ. Bà đến bên quầy hàng bày đầy những ly tách, bà cầm một cái tách uống trà lên và thỏ thẻ với ông: "Ông này, coi cái tách uống nước dễ thương quá!" Ông cầm lấy ngắm nghía một hồi rồi nói: "Đúng, bà nói đúng. Đây là cái tách đựng trà dễ thương nhất mà tôi đã thấy". Tách trà liền nói: "Cám ơn ông bà khen tặng, nhưng cháu không phải luôn đẹp như vậy đâu". Bà hỏi lại: "Sao cháu lại khiêm nhường thế? Lúc nào cháu cũng đẹp!" Tách đựng trà trả lời: "Trước kia cháu chỉ là cục đất sét xấu xa, thế nhưng, một ngày kia có người bàn tay ướt át ôm cháu bỏ lên bánh xe lăn. Sau đó ông quay cháu như chong chóng đến choáng váng. Cháu phát khóc mà ông cũng không tha. Bị xoay vần quá lâu, cháu đau mình mẩy đến muốn chết được. Sau cùng ông cho cháu ngừng, nhưng lại tệ hơn, ông bỏ cháu vào một cái lò nung nóng đến 500 độ. Cháu toát cả mồ hôi ra, da dẻ cháy khét, đen thui... Ông mới chịu cho cháu ra khỏi lò. Nhưng cô thư ký của ông quét lên mình cháu một lớp sơn khét lẹt, vẽ rồng rắn vào mình cháu rồi cô đặt cháu vào một chiếc lò nung còn tệ hơn lần trước, khiến da dẻ cháu xém lại, cứng nhắc như một cái vẩy bằng sành. Sau cùng, cô để cháu ở ngoài cho nguội, rồi để lên kệ này bên cạnh chiếc gương to lớn. Cháu không thể tin được mình đẹp như thế. Cháu đã nhận thức ra rằng: Những đau đớn cháu chịu thật đáng giá và mang lại cho cháu một vẻ mỹ miều vẫn còn tồn tại."
Câu chuyện "Cái tách đựng trà" cũng mang một sứ điệp giống như bài Tin Mừng hôm nay. Trước khi Chúa Giêsu sống lại vinh quang, Ngài đã chịu khổ hình và đã chết đi trong đau khổ mà Thánh Phêrô đã tường trình rằng: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại để "hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình".
Thánh Luca cũng thuật lời Chúa Kitô nhắc lại lời tiên tri: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại... Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24:).
Muốn làm chứng cho Chúa Kitô thì chúng ta cũng phải khóc, phải khổ như chiếc tách đựng trà và giống như Chúa Kitô đã chịu khổ đau trước khi phục sinh vinh hiển. Nếu muốn nên người hữu dụng và đẹp lòng Chúa, chúng ta cũng phải sẵn sàng đón nhận những đau khổ như Ngài.
Cả ba Phúc âm nhất lãm đều đề cập tới lần Chúa hiện ra với nhóm mười một tông đồ. Về lần: PS3 B-95
Cả ba Phúc âm nhất lãm đều đề cập tới lần Chúa hiện ra với nhóm mười một tông đồ. Về lần hiện ra quan trọng này, chi tiết bên ngoài của biến cố hình như không được các thánh sử quan tâm diễn tả cho lắm; chỉ có tường thuật của Lu-ca là đi vào một số chi tiết để chứng minh nhân vật hiện ra đích thực là đức Giê-su mà các ông đã từng quen biết. Điều mà các tác giả quan tâm tới nhiều hơn là sứ điệp Chúa Phục Sinh muốn thông đạt cho cả nhóm. Chính Đấng Sống Lại đòi nhóm mười một và toàn thể những ai coi mình là môn đệ Người phải trở thành ‘chứng nhân về những điều (sứ điệp) này’. Tuy nhiên hiện nay người ta thích nói tới sự kiện phục sinh hơn là đề cập tới sứ điệp của nó, tới độ rất ít khi tín hữu được nhắc nhở hoặc quan tâm tìm hiểu sứ điệp phục sinh thực sự. Sứ điệp này gồm hai phần:
- ‘Kêu gọi sám hối để được ơn tha tội’ - ‘Nhân danh Người rao giảng (điều này) cho muôn dân’
Sám hối để được ơn tha tội: Mát-thêu và Mác-cô đã nói tới nội dung này khi đề cập tới việc ‘làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28,19), hay ‘ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ’ (Mc 16,16). Sứ điệp ‘hãy sám hối’ đã được Gio-an tẩy giả hô hào từ những ngày đầu, trước cả khi đức Giê-su xuất hiện công khai, qua nghi thức dìm mình vào giòng sông Gio-đan. Như vậy, sau ngày sống lại, khi đức Giê-su Ki-tô long trọng công bố trở lại sứ điệp này thì chắc hẳn nó phải chứa đựng một điều gì hoàn toàn mới lạ và cấp bách. Để có thể hiểu được tầm quan trọng của sứ điệp, đức Giê-su đã dày công giảng giải cho các môn đệ hiểu rằng đó chính là trọng tâm của các sách Ngôn sứ và Thánh vịnh… nói tóm lại, của toàn bộ Kinh Thánh. Đương nhiên sám hối đây không thể được hiểu theo nội dung ‘cải tà qui chính’ hoàn toàn luân lý. Sau biến cố Phục sinh, sám hối càng lộ rõ sứ điệp Tin Mừng của một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, một khám phá và tín thác không ngừng vào Thiên Chúa đầy lòng xót thương “yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một…” Qua biến cố tử nạn và phục sinh của đức Giê-su, mười một tông đồ chắc hẳn đã chứng kiến, các ông phải được giải thích cho hiểu ý nghĩa và nội dung, các ông phải tin và trở thành ‘chứng nhân về những điều này’. Phục sinh chính là để hiểu và nắm bắt sâu sắc sứ điệp đã được công bố ngay từ đầu “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nói cách khác, sứ điệp chính yếu và long trọng nhất của Tin Mừng Phục Sinh lại chính là “Sám hối để được ơn tha tội”.
Rao giảng cho muôn dân: Bằng các kiểu nói khác nhau (Mát-thêu: ‘Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ; Mác-cô: ‘Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng; Lu-ca: ‘Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đều từ Giê-ru-sa-lem…’), các tác giả Phúc Âm đều cho thấy phần hai của sứ điệp Phục Sinh là một ‘lệnh lên đường’. Phúc âm Gio-an còn nêu rõ sứ điệp này là chính yếu và quyết liệt hơn hết: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em…” Và để chu toàn ‘lệnh lên đường’, đồng thời để có thể ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’, Thánh Thần đã được trao ban ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’ (Ga 20,22); hay ‘Nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống’ (Lc 24, 49) theo cách nói của Lu-ca. Nếu Đấng sống lại không còn bị chi phối bởi không gian và thời gian, thì sứ điệp cứu rỗi của Chúa Phục sinh lại càng không thể bị giới hạn, không những bởi không gian và thời gian, mà còn bởi văn hóa, sắc tộc, truyền thống, thậm chí luân lý, cho dầu có ‘bán khai’ hay ‘man rợ’ tới mấy. Phục Sinh chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa từ nhân được minh chứng là vô giới hạn, không gì ngăn cản nổi. Lệnh lên đường hay truyền giáo phải dựa trên nhận thức ơn cứu độ phổ quát và tình yêu xót thương của Thiên Chúa vượt xa sự hạn hẹp của loài người.
Lạy Chúa Ki-tô, Đấng Phục Sinh, xin dạy con biết tiếp nhận và sống sứ điệp phục sinh cách ý thức và mạnh mẽ. Trong tư cách là Ki-tô hữu hay linh mục, chính con phải là người đầu tiên sống ‘sám hối’ theo nội dung phục sinh, để có thể trở thành chứng nhân trung thực của sứ điệp cứu rỗi. Cũng xin cho con hiểu được tình yêu cứu độ của Chúa là không biên giới, để con hăng say lên đường gieo rắc tình yêu và lòng thương xót Chúa cho mọi dân nước. Amen
Sau khi được gặp Chúa Phục Sinh, hai môn đệ trên đường Emmau vội vã quay trở lại Giêrusalem: PS3 B-96
Sau khi được gặp Chúa Phục Sinh, hai môn đệ trên đường Emmau vội vã quay trở lại Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và các anh em đang họp nhau tại đó ( Lc 24, 33 ). “Hai ông thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” ( c. 35 ).
“Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em !" ( c. 36 ). Như đã từng xảy ra với hai môn đệ trên đường Emmau, Chúa Giêsu đột ngột đứng giữa Nhóm Mười Một và các anh em đang họp mặt. Ghi nhận này của tác giả Luca về sự hiện đến bất ngờ của Chúa Giêsu có một tầm quan trọng rõ ràng: ông muốn khẳng định rằng Chúa Phục Sinh không hề bị điều kiện hóa bởi những quy luật không gian – thời gian của thế giới này. Đàng khác, sự hiện diện của Chúa “ở giữa” các đồ đệ nhắc nhớ đến sự hiện diện của Đức YHWH giữa dân Người. Ngoài ra, sự hiện diện “sờ đụng được” của Chúa Phục Sinh, vốn là ân huệ ưu tiên đặc trưng dành cho các chứng nhân chính thức của mầu nhiệm phục sinh ( x. Cv 10, 41 ), bây giờ được thực hiện không phải ở một nơi chốn dành riêng cho Nhóm Mười Một, mà là ở giữa công đoàn có các anh em khác đang quy tụ, cho thấy Nhóm Mười Một được trao nhiệm vụ và đặc sủng là ở trong lòng cộng đoàn Hội Thánh. Chính trong cộng đoàn Hội Thánh ấy, Chúa Phục Sinh ban bình an và ơn cứu độ.
“Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” ( c. 37 ). Sự sợ hãi vì tưởng thấy ma là một phản ứng bình thường trong những câu chuyện hoang đường bình dân. Chi tiết này có vẻ mâu thuẫn với lời truyên xưng lòng tin vừa được tường thuật ở c. 34 ngay phía trước, rằng “Chúa trỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với ông Simon”.
Trong thực tế, như tác giả vừa kể ở c. 34, sự phục sinh của Chúa Giêsu đã là nguồn vui và là một thực tại hoàn toàn mới mẻ của lòng tin. Nhưng tác giả cố ý đưa chi tiết sợ hãi vì tưởng thấy ma vào đây để hướng câu truyện đến một trong những chủ đề quan trọng của trình thuật, là chủ đề về thân xác phục sinh của Chúa. Và như thế, điểm nhấn mà ông nhắm đến không phải là thuyết phục rằng Chúa Giêsu đã sống lại, mà là vấn đề về thân xác của Chúa Giêsu Phục Sinh. Đây thực sự là một vấn đề “thời sự” và cần phải được đề cập đến trong thế giới Hy Lạp, vì người ta tin có ma chứ không chấp nhận quan niệm về sự sống lại của thân xác.
Vậy Chúa Phục Sinh nói với các môn đệ: "Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ?” ( c. 38 ). Câu hỏi của Chúa mang một chút hàm ý khiển trách. Bởi lẽ phản ứng sợ hãi của các đồ đệ ở c. 37 cho thấy các ông đang nhận định sai: tưởng mình thấy ma là dấu hiệu cho thấy tâm trí các ông đang còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ bóng ma với thực tại phục sinh.
Rồi Chúa nói tiếp: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?" ( c. 39 ). Các môn đệ được mời gọi nhận biết Đấng Phục Sinh trong thực tại và chân tính cụ thể của Người. Người thực sự là Đức Giêsu mà các ông đã từng biết. Các ông hoàn toàn có thể an tâm về sự liên tục giữa Đức Giêsu lịch sử mà các ông đã từng sống với và Chúa Kitô của lòng tin mà các ông đang trải nghiệm.
Chúa mời gọi các ông hãy nhìn xem tay và chân của Người.Thông thường, để nhận ra một người nào đó, người ta chú ý trước hết đến khuôn mặt. Vì thế, lời mời gọi này có phần kỳ lạ. Nhưng chúng ta sẽ không phải lấy làm lạ nếu hiểu rằng ở đây có sự quy chiếu về các dấu đinh nơi tay và chân của Đấng đã chịu treo trên thập giá, tức là quy chiếu về những thực tại không thể chối cãi của biến cố thập giá kinh hoàng.
Rồi tiếp sau lời mời “nhìn xem” là lời mời “rờ xem” để cảm nhận một cách khả giác về thân xác của Chúa Phục Sinh với xương và thịt, tức là trong những yếu tố vô cùng hiện thực. Tác giả cố ý nhắc đến những yếu tố hiện thực này để nhấn mạnh rằng Chúa Phục Sinh không phải là một thực tại tinh thần thuần túy thiêng liêng, càng không phải là một bóng ma.
Ngoài ra, bằng việc nhắc đến một loạt những yếu tố hiện thực như chân, tay, xương, thịt khi Chúa mời gọi các Tông Đồ trải nghiệm về thân xác phục sinh của Ngài, tác giả Luca nhằm mục tiêu củng cố cho tư cách của các Tông Đồ và cho giá trị của lời chứng của họ, những nhân chứng chính thức về mầu nhiệm quan trọng nhất của lòng tin Kitô giáo.
“Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem” ( c. 40 ). Chúa Phục Sinh không chỉ dùng lời để khẳng định Người không phải là bóng ma. Người còn xác nhận điều đó bằng những sự kiện cụ thể: Người cho các môn đệ xem tay và chân của Người. Tuy nhiên, vốn là một văn sĩ tế nhị, tác giả Luca đã không nói rằng các đồ đệ đã sờ đụng vào tay và chân Chúa.
Ông kể tiếp: “Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không ?" ( c. 41 ). Có hai chủ đề truyền thống liên quan đến các cuộc hiện ra: sự không tin và niềm vui sướng. Tác giả Luca trộn lẫn hai chủ đề đó vào với nhau để trình bày bằng chứng về thực tại xác thể của Chúa Phục Sinh. Ông lý giải sự chưa tin của các môn đệ bằng một lý do tâm lý: “Các ông còn chưa tin vì mừng quá”. Về phía mình, Chúa Phục Sinh xin các ông cái gì đó để ăn: “Ở đây anh em có gì ăn không ?” Ăn là một hành động sẽ cho thấy một cách rất rõ ràng rằng Người không phải là một tinh thần thiêng liêng thuần túy, mà là một thực tại hiện thực, cụ thể, thực tế.
“Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” ( cc. 42 – 43 ). Trên kia tác giả đã nhắc đến những yếu tố rất hiện thực: chân, tay, xương, thịt. Ở đây, ông còn đi xa hơn nữa. Không một tác giả Tin Mừng nào khác đã đẩy tính hiện thực của trình thuật đi xa đến như vậy: Đức Giêsu cầm lấy miếng cá nướng và ăn ! Một điểm đáng chú ý nữa: Thánh Luca đã không nói rằng Chúa Phục Sinh ăn cá nướng cùng với các môn đệ, mà là ăn trước mặt các ông, tức là trước sự chứng kiến của các ông. Chi tiết này càng nhấn mạnh giá trị minh chứng của hành động ăn. Dù sao, tác giả cũng không nói rõ các môn đệ phản ứng như thế nào trước hành động đặc biệt này của Chúa Phục Sinh. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng các ông đã hoàn toàn bị thuyết phục.
Rõ ràng trình thuật nhắm mục tiêu nhấn mạnh tính hiện thực của thân xác Chúa Phục Sinh. Tác giả muốn cho thấy rõ ràng Chúa Phục Sinh không phải là ma; người ta có thể nhìn xem và sờ đụng vào Người; và Người ăn trước mặt họ. Tác giả liên kết chặt chẽ hai mô-típ truyền thống: mô-típ về nhận thức ( cho thấy sự đồng nhất giữa Chúa Phục Sinh và Đức Giêsu mà các môn đệ đã từng biết trước khi Người chết trên thập giá ) và mô-típ hộ giáo ( nói về tính hiện thực của thân xác Đấng Phục Sinh: Chúa Giêsu không phải là ma ). Nhưng có lẽ khi biên soạn trình thuật này, Thánh Luca chú ý hơn đến mô-típ hộ giáo: ông muốn nhấn mạnh trên chiều kích hiện thực xác thể của sự hiện hữu mới của Đức Giêsu.
Bên cạnh đó, hình như Thánh Luca còn nhắm một mục tiêu khác: chuẩn bị cho các trình thuật trong sách Công Vụ và cung cấp cho lời rao giảng của các Tông Đồ về Mầu Nhiệm Phục Sinh một nền tảng vững chắc hơn. Các ngài đã có những trải nghiệm hiện thực, “đậm đặc” và độc đáo trong việc tiếp xúc và gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Chỉ các ngài mới được trải nghiệm một cách tròn đầy về Chúa Phục Sinh, và do đó, các ngài là những chứng nhân chính thức và có thẩm quyền về Người.
Đọc trình thuật Lc 24, 35 – 43 trong khung cảnh Chúa Nhật III Phục Sinh, chúng ta được mời gọi đặt niềm tin và Chúa Phục Sinh trong chiều kích hiện thực của đời sống mình hôm nay:
1. Thân xác Chúa Phục Sinh là một thực tại hiện thực và chúng ta gắn bó với mầu nhiệm ấy. Vì thế, việc quý trọng và gìn giữ thân xác của chính chúng ta trong sự thánh thiện hướng về cuộc sống phục sinh viên mãn với Chúa Kitô, là một đòi buộc quan trọng và thiết yếu của lòng tin vào mầu nhiệm phục sinh. Lòng tin ấy không hề khiến chúng ta coi thường những thực tại trần gian và thể xác, nhưng trân trọng chúng đúng như Thiên Chúa muốn khi Người phục sinh Đức Kitô từ cõi chết.
2. Lời rao giảng của các Tông Đồ và của toàn thể Hội Thánh về mầu nhiệm phục sinh không dựa trên những suy đoán hay ảo tưởng ấu trĩ, mà đặt nền trên Thánh Kinh và trên trải nghiệm thực tế của các Tông Đồ. Gắn bó với Hội Thánh và với các Đấng kế vị các Tông Đồ trong Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, chính là đòi buộc đương nhiên để hiểu và sống mầu nhiệm phục sinh. Lòng tin vào Chúa Kitô Phục Sinh vừa mời gọi vừa đòi hỏi sự hiệp thông thánh thiện và sự tuân phục trọn vẹn với Hội Thánh và các Tông Đồ. Chúng ta gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Hội Thánh, nhờ Hội Thánh và cùng với Hội Thánh.
Khi kết hôn với nhau, ai cũng muốn gia đình mình hạnh phúc. Ai cũng mơ tìm được hạnh phúc: PS3 B-97
Khi kết hôn với nhau, ai cũng muốn gia đình mình hạnh phúc. Ai cũng mơ tìm được hạnh phúc trong đời sống lứa đôi. Lúc này hai người luôn sẵn sàng hy sinh cho nhau. Họ tìm mọi cách làm vui lòng nhau. Thế nhưng, khi đã thành gia thất, nhiều bạn trẻ đã vỡ mộng, nhiều gia đình đã tan nát không tìm được hạnh phúc gia đình. Cãi nhau, bất hoà, bất tín bất trung. Gia đình trở thành hoả ngục vì thiếu vắng tình yêu. Thay cho những lời nói ngọt ngào là quát tháo, đay nghiến. Thay cho những cử chỉ thân thương là thượng cẳng chân, hạ cẳng tay.
Có một câu chuyện kể rằng: Lúc chiều, hai vợ chồng cãi nhau bất phân thắng bại. Tối đi ngủ, anh chồng làm lành:
- "Xin lỗi em nhé, anh đã nghĩ lại rồi". - Ồ không, em cũng đang định xin lỗi anh. - Em không có lỗi, có lẽ do anh hơi nóng tính. - Do em! Mọi chuyện đều do em cả. - Anh đã bảo là tại anh cơ mà! - Tại sao anh cố chấp thế nhỉ? - Cô có câm đi không?
Thế là cuộc cãi vã lại tái phát. Lần này nó còn dữ dội hơn lần trước. Hai vợ chồng chống đối nhau kịch liệt. Không bên nào chịu thua bên nào. Rồi cuối cùng, vì không thể làm lành, không thể chịu nổi nhau nữa, họ đã đi đến quyết định là xin ly dị.
Tất cả chỉ vì gia đình thiếu một chữ nhịn mà phá vỡ hạnh phúc gia đình!
Vâng, trong đời sống vợ chồng, những cãi cọ bất hòa, giận hờn nhỏ nhặt hàng ngày, nếu vợ chồng không khéo chế ngự bản tính tự ái, hẹp hòi của mình và rộng lượng tha thứ cho nhau, sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”.
Như chúng ta đã biết, hôn nhân là sự kết hợp hai người: một nam một nữ để thành vợ chồng của nhau. Từ đó, hai người cùng chia sẻ với nhau một định mệnh, một cuộc sống, một con đường. Nói theo ngôn ngữ của Chúa Giêsu, họ không còn phải là hai nhưng đã thành một. Sự thật này đòi hỏi hai vợ chồng phải luôn biết hòa hợp với nhau để mỗi ngày được trở nên một trong tình yêu và trong cuộc sống. Nhưng, để thực hiện được điều đó, thực tế không luôn dễ, vì khi lấy nhau rồi, mỗi người vẫn còn mang những cá tính khác biệt của mình. Cá tính ấy được hình thành bởi nhiều yếu tố như: bẩm sinh, thiên phú, nền giáo dục, hoàn cảnh sống.... mà mỗi người đã được hấp thụ. Cho nên, sự va chạm bất hòa là lẽ đương nhiên phải xảy ra trong đời sống vợ chồng. Điều quan trọng đặt ra cho hai người là biết đối phó để biến những va chạm bất hòa này như thế nào? Nếu sống với nhau mà cứ xét nét nhau từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ và thái độ, để rồi nhỏ xé ra to, ít xít ra nhiều. Gia đình sẽ biến thành một hoả ngục thay cho một thiên đường hạnh phúc mà khi quen nhau họ thường mơ ước kiến tạo cho nhau. Nếu sống chung với nhau mà thiếu sự tha thứ thì không có gì để đảm bảo tình yêu của họ sẽ tồn tại mãi mãi cho đến đầu bạc, răng long, mà không chừng chỉ dăm ba tháng là đường ấy ấy đi, đường tớ tớ đi, hay như Tố hữu bảo rằng: đường ta ta cứ đi . . . thì thật là bất hạnh.
Lời Chúa trong hai tuần vừa qua, cho chúng ta thấy tâm trạng hoang mang lo sợ của các môn đệ sau ngày Chúa Tử nạn và Phục sinh. Các ông sợ vì liên lụy với tử tội Giêsu. Dẫn đến kẻ chối Chúa. Kẻ bán Chúa và nhẹ nhất là chạy trốn để tránh phiền phức “rước họa vào thân”. Rồi nay, họ lại nghe Chúa sống lại. Người đã hiện ra với người này, người nọ. Toàn dân bàn tán xôn xao. Chúa lại còn hẹn sẽ gặp họ tại Galilê. Không biết là lành hay dữ. Vì từ xưa đến giờ các ông chưa bao giờ thấy chuyện người chết sống lại. Phải chăng đây là tin đồn để chụp mũ, để bắt gọn các ông. Và nếu Chúa sống lại thật. Ngài có tha thứ cho tội chối Chúa và bỏ mặc Chúa để người ta hành hạ và đóng đinh trên cây thập tự hay không?
Thế mà, khi Chúa hiện đến giữa các ông. Ngài không hề nhắc tới chuyện đáng tiếc đã xảy ra nơi các ông. Nơi Phêrô, kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy thục mạng nơi vườn Giệtsêmani. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chức minh nhiên, cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết chuyện quá khứ. Sự hiện diện của Chúa không để hỏi tội mà là trấn an cho các ông. Bình an cho các con. Ơn bình an là hoa quả của tha thứ. Có tha thứ thì tâm hồn các ông mới có bình an khi đối diện với Chúa.
Với lòng bao dung, Chúa đã nhìn ra nhu cầu của các tông đồ trong lúc này là sự bình an của ơn tha thứ. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Liệu rằng các ông có dám ngước mắt nhìn thẳng vào Thầy hay lấm lét thẹn thùng đầy lo sợ, bất an như Adam – Eva trong vườn địa đàng năm nao?
Hãy học với Chúa để làm quen với những tiếng nói của im lặng nếu chúng ta muốn có được một đời sống gia đình an vui và hạnh phúc. Thiên Chúa đã không lên án Phê-rô kẻ đã chối Chúa. Thiên Chúa không kết án các môn đệ. Ngài chỉ mong các ông được sống mãi trong tình yêu của Ngài. Ngài đã yêu họ và yêu cho đến cùng.
Thật vậy, không phải là tố cáo và lên án mà chính là sự cảm thông và tha thứ mới có sức mạnh vô biên để mang lại cho con người niềm an vui và hạnh phúc trong tâm hồn. Chính vì lẽ đó mà cha ông ta đã nói:
- “Chồng giận thì vợ bớt lời - Chồng giận, vợ giận, thì dùi nó quăng”.
Thế nên, đôi khi muốn giữ hạnh phúc gia đình thì cần phải:
- Chồng giận thì vợ làm lành -Miệng cười hớn hở rằng “anh giận gì?”
Nguyện xin Chúa Phục sinh hiện diện nâng đỡ các gia đình bằng sự bình an của Chúa. Xin cho các bậc vợ chồng biết sống nhịn nhục và tha thứ cho nhau như Chúa đã làm gương cho chúng ta. Amen
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giê-su, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau: PS3 B-98
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giê-su, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giê-su, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết thảm thương và mang niềm hy vọng của họ xuống mồ.
Các môn đệ không dễ nhận ra Chúa Giê-su phục sinh đang ở với họ.
Đang lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hành với mình là Chúa Giê-su.
Sau đó, Chúa phục sinh lại bất thần hiện ra giữa các môn đệ trong một căn phòng tại Giê-ru-sa-lem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giê-su hiện về!
Chúa Giê-su phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người đề nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vầy.
Rồi tiếp đó, Chúa Giê-su dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
Chúng ta không dễ nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tha nhân.
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giê-su mà không nhận ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giê-su vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa Giê-su đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng:
- Người đang hiện diện nơi tha nhân, và những anh chị em chung quanh thật sự là chi thể của Người ( ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17);
- Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Người (Mt 25, 40)… [xem cước chú cuối trang].
Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello viết:
Một con cá đang bơi lội trong đại dương hỏi một con cá khác:
- Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu được. Xin bác làm ơn chỉ cho cháu thấy đại dương. Cháu bỏ công tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá già nói:
- Cháu tìm đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
- Đây ư? Chỉ toàn là nước biển không à! Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi con cá non dại đó rất thất vọng, ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi khác. [Anthony de Mello trong tác phẩm: “Như tiếng chim hót”]
Con cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại dương.
Chúng ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa, chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt trong cùng một mái nhà, một xưởng máy… Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người. Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng chừng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy Chúa Giê-su phục sinh,
Con cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ là một nên nó đã hoài công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em đang sống quanh mình. Amen.
(1) “Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận” ( ICr 12, 27);
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15);
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (I Cr 10, 17)
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40) Lm Inhaxiô Trần Ngà
Trên đường Emmau, hai môn đệ buồn bã kéo lê bước chân. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán: PS3 B-99
Trên đường Emmau, hai môn đệ buồn bã kéo lê bước chân. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Chúa Giêsu đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (Lc 24, 15)
Tại sao mắt họ lại bị ngăn cản? Cũng như chúng ta vẫn thường không nhận ra Chúa, cũng đồng hành với chúng ta từng giây phút.
Ngăn cản vì theo xác thịt.
Làm sao thấy Chúa được, khi còn sợ hãi, khiếp vía, thấy chính Thầy mình phải chịu khổ nạn? Làm sao thấy, khi còn hối hả chạy trốn các quyền lực đen tối? Làm sao thấy, khi còn quý mạng sống của mình trước đe dọa bạo lực? Tính xác thịt chẳng chừa một ai, nếu không áp chế, không dám bỏ mình theo Chúa. Với con mắt xác thịt thì chẳng bao giờ nhìn thấy Chúa hiện diện, mặc dù Người vẫn đang ở ngay bên. “Ai muốn theoTa (hoặc muốn thấy Ta), hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24).
Ngăn cản vì theo thế gian.
Làm sao thấy Chúa được khi cứ hùa theo thế gian, hùa theo đám đông kết án và đòi xử tử Người. Không dám chống lại xu thế vô thần, chống lại chủ nghĩa duy vật, chống lại khuynh hướng loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống, thì làm sao nhận ra Chúa? Bởi vì Nước Chúa đâu thuộc về thế gian này . “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. (Ga 18, 36).
Ngăn cản vì theo cám dỗ ma quỷ.
Làm sao nhận ra Chúa khi còn nặng nợ với cám dỗ giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng, đắm mê theo cám dỗ hưởng lạc, gian tham, dối trá, lừa thầy, phản bạn, hay đố kỵ, ganh ghét, hận thù?
Sau những giờ phút đau buồn, sợ hãi, lẩn trốn vì cái chết thảm thương của Chúa Giêsu, các ông đánh mất hy vọng. Niềm tin lúc này mới có dịp cam go thử thách. Các ông ngộ nhận Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ bình thường nào đó. “Người là một ngôn sứ đầy úy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mắt Thiên Chúa và toàn dân.” (Lc 24, 19). Nhưng may mắn thay, Chúa Giêsu đã kịp mở mắt các ông bằng hai thần dược. Đó là Lời Chúa và Thánh Thề.
- Thần dược thứ nhất, Chúa Giêsu dùng ngay Kinh Thánh để mở mắt họ ra. “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lc 24, 25-27)
- Thần dược thứ nhì, chính là mầu nhiệm Thánh Thể. “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra, và họ nhận ra Người. Nhưng Người lại biến mất.”(Lc 24, 30-31)
Như thế nhờ hai thần dược huyền diệu, hai môn đệ mới nhận ra Chúa Giêsu. Bây giờ chúng ta cũng vậy, cần nhờ cậy đến hai thần dược ấy để nhìn thấy Chúa, đang cùng đồng hành trên đường Hy Vọng.
Lạy Chúa Giê su xin giúp con hằng ngày tìm thấy Người qua Lời Hằng Sống và Bí Tích Thánh Thể, để con hy vọng được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Sầu Bi, xin nhắc nhủ con hằng tìm đến với Chúa qua Kinh Thánh và Thánh Thể nhiệm mầu, để con có thể xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa. Amen.
Cuộc Thương Khó đẫm máu, biến cố Phục Sinh vẫn còn để lại dư âm không nhỏ trong lòng: PS3 B-100
Cuộc Thương Khó đẫm máu, biến cố Phục Sinh vẫn còn để lại dư âm không nhỏ trong lòng các Tông Đồ. Lo sợ, hoang mang và thất vọng nhiều hơn là hy vọng. Mọi lời hứa hẹn, hào quang sáng lòa của những tháng ngày dong duổi theo chân Đức Giêsu dường như đã không còn nữa. Bức màn tối tăm, kinh hoàng trong đêm tử bạn vẫn còn vây kín, che phủ con mắt tâm linh các môn đồ. Trên đường Emmau, hai môn đệ thất nghiệp về quê cắm câu. Mất Thầy như rắn mất đầu, các ông mất phương hướng, không còn biết bám dựa vào ai. Buồn bã, chán chường vì con đường sự nghiệp bị dang dở, chỉ nghĩ đến viễn cảnh đen tối của tương lai cũng đủ khiến hai môn đệ buông xuôi, bỏ cuộc. Khi niềm tin không còn ngự trị, nhường chỗ cho hoài nghi, ngờ vực chiếm ngự, con người dường như mất đánh mất chính mình.
Đức Giêsu hiện ra giữa lúc tâm hồn các ông đang chao đảo. Ngài cùng song hành, kề cận bên cạnh các ông để trò chuyện, hỏi han, tâm sự. Hai môn đệ vẫn không hề hay biết đó chính là Thầy của mình. Đúng vào bữa tối, khi Ngài bẻ bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông, mắt các ông mới mở ra, nhìn nhận sự hiện diện của Thầy mình.
Quay trở lại Giêrusalem, hai môn đệ hồ hởi loan báo việc Đức Giêsu đã sống lại và hiện ra với các ông như thế nào. Cùng một thông điệp, cùng một niềm tin, các môn đệ vui mừng xác nhận việc Đức Giêsu sống lại là có thật, Ngài không chỉ hiện ra với hai ông, mà hiện ra với các tông đồ khác. Khi còn đang say sưa kể chuyện cho nhau nghe, Đức Giêsu lại hiện ra, trao bình an cho các ông, khiến họ hoảng hốt tưởng là ma. Nhưng Đức Giêsu đã trấn an, Ngài chính là người thật, có xương, có thịt, với thân xác hoàn toàn là con người. Ngài còn ăn uống trước mặt các môn đệ, rồi giảng giải cho họ hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo trước: “Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này” ( Lc 24, 46 – 48 ).
Niềm vui đã trở lại, khi được sức mạnh của Ánh Sáng Phục Sinh soi chiếu, nâng đỡ. Các Tông Đồ đã đón nhận được nguồn sống mới và trọng trách loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Tin Mừng về sự toàn thắng của Thiên Chúa, cũng như ơn cứu rỗi mà con người được lãnh nhận nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu.
Thiên Chúa chết không phải là hết, nhưng Ngài đã chết cho muôn người được sống. Thế nên, cuộc sống của chúng ta đã được cứu chuộc bằng chính giá máu của Con Một Thiên Chúa. Tội lỗi của chúng ta, Ngài cũng đã mang vào thân thể và đưa lên cây thập giá, đây chẳng phải là tin vui, chẳng phải là tin mừng hay sao ?
Quả thật, sống mầu nhiệm tử nạn đã khó, sống mầu nhiệm phục sinh còn khó khăn hơn biết chừng nào. Tin Thiên Chúa sống lại thì dễ, nhưng để sống niềm tin phục sinh trong đời không thật dễ. Nói lời yêu Thiên Chúa chẳng khó khăn gì, nhưng sống thật tình yêu của Ngài chẳng phải chuyện nói là có thể thực hiện được.
Không chỉ các môn đệ, mà mỗi người chúng ta cũng thế. Trên con đường cuộc đời, có biết bao lần chúng ta rơi vào tâm trạng thất vọng, chán chường. Sự ác thì nhiều, sự thiện không thấy, Thiên Chúa lại thinh lặng. Cảm giác bị bỏ rơi, bơ vơ, cô độc giữa dòng đời đầy ô trọc, khiến con người mất phương hướng, mất niềm tin… Những lúc như vậy, ước gì ai cũng hiểu và tin rằng Thiên Chúa luôn hiện diện, đồng hành bên mình. Khổ nỗi, như các tông đồ hôm nay, chúng ta bị ánh mắt hoài nghi, ngờ vực che phủ, không thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, để rồi oán trách, than van Ngài.
Lạy Chúa, tuyên xưng niềm tin Phục Sinh dễ quá nhưng để sống thật niềm tin ấy khó khăn biết chừng nào. Mà sự thật, sống được niềm tin phục sinh hạnh phúc biết bao nhiêu. Chỉ cần con tin rằng Chúa đã phục sinh, toàn thắng, tội lỗi và sự chết để ban cho con nguồn sống mới. Chỉ cần tin như vậy, là con đã thực sự hạnh phúc lắm rồi.
Xin giúp con can đảm tuyên xưng niềm tin phục sinh và sống niềm vui ấy trong suốt cuộc đời. Chớ gì hạnh phúc của con sẽ trở thành nhân chứng phục sinh sống giữa thời đại hôm nay.