Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 151-200 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa
----------------------------------- Phúc Âm: Ga 20, 19-31: "Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Sau ngày Chúa Giê-su chết, lòng các Tông Đồ tràn ngập bao nỗi kinh hoàng; các ngài như: PS2-151
Sau ngày Chúa Giê-su chết, lòng các Tông Đồ tràn ngập bao nỗi kinh hoàng; các ngài như những chiến sĩ bại trận; một nhóm người mất hết tinh thần, ý chí; một nhóm người sống trong sự sợ hãi và mất hết niềm tin. "Sợ" là yếu tố quan trọng, được Thánh Gioan diễn tả qua bài Tin Mừng hôm nay: "Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái" (Ga 20:19). Các ngài sợ đến nỗi không dám bước chân ra ngoài. Cửa đóng, then cài, ngày qua ngày, các Tông Đồ im hơi lặng tiếng, khép mình trong căn phòng chật hẹp.
Rồi đột nhiên, Chúa Giê-su hiện ra, đứng giữa các môn đệ và nói: "Chúc anh em được bình an!" (Ga 20:19). Hơi thở ấm áp của Chúa thổi lên các ông, khiến lòng các ông tràn ngập niềm vui khó tả, như người sắp chết đuối vớ được phao! Nhận được ơn bình an và Chúa Thánh Linh do Chúa Giê-su ban cho, các Tông Đồ không còn sợ hãi nữa và cảm thấy như thoát khỏi mọi xiềng xích ràng buộc từ bao lâu nay.
Hôm ấy, Tôma không có mặt, nên khi nghe các môn đệ khác kể lại sự việc Chúa hiện ra; Tôma cho là chuyện bịa đặt, một việc rất khó tin, nên đã trả lời một cách quyết liệt: "Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin" (Ga 20:25). Cũng như các Tông Đồ khác, Tôma rất sợ người Do-thái và tin rằng câu chuyện Chúa sống lại là một ảo tưởng. Tôma không tin!
Khi Chúa hiện ra lần thứ hai với các môn đệ, có cả Tôma, ông đã thấy, đã tin và thốt lên với nỗi vui mừng trong cơn bàng hoàng sửng sốt: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20:28).
Có lẽ, chúng ta nên dừng lại đây đôi phút để tự suy xét. Trong thế giới ngày nay, ai là người khi mới nghe qua việc Chúa sống lại và tin ngay, không cần phải hỏi lại hoặc tìm hiểu? Sự "cứng lòng" của Tôma có đáng chê trách không? Tại sao Chúa để cho sự việc "không tin" của Tôma xảy ra? Tại sao với quyền năng cao cả, Chúa lại để các Tông Đồ là những người đã sống kề cận Chúa trong ba năm trường, phải chịu cảnh lo âu, sợ hãi, yếu đuối như bất cứ người yếu hèn nhất trên thế gian này? Chúng ta có quyền đặt ra trăm ngàn câu hỏi "tại sao?".
Nhưng ví thử các môn đệ có cùng một niềm tin là Chúa sẽ sống lại và vững lòng chờ đợi, không cần phải sợ sệt, nghi nan, thì liệu rằng các ngài có thể tránh được sự nghi ngờ khi dân chúng nghĩ rằng mình đã bị mê hoặc vì các Tông Đồ đã bịa đặt, bịt mắt mọi người khiến cho ai nghe qua cũng phải tin theo?
Có thể chúng ta phải cảm kích sự yếu đuối của các Tông Đồ và nhất là sự "cứng lòng" của Tôma, vì nhờ các ngài đã sống trong tình trạng lo âu, sợ hãi, hầu như hoàn toàn thất vọng, và khi Chúa đến đã mang lại cho các Tông Đồ nguồn an vui, tràn đầy hy vọng và một niềm tin trọn vẹn, để nhờ đó dù có bị tan xương nát thịt, các ngài cũng không sờn lòng khi làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh; và cũng nhờ đó mỗi người chúng ta mới được thừa hưởng một Giáo Hội vững mạnh ngày nay.
Chúa Kitô đã sống lại vinh hiển. Với lòng tin mạnh mẽ của các Tông Đồ, Tin Mừng đã tràn lan đến tận cùng trái đất. Riêng Thánh Tôma, một thân một mình đã vượt ngàn dặm, mang Tin Mừng cho hàng triệu người tại Ấn Độ. Sự kiện này làm ứng nghiệm lời tuyên bố của Gamaliel trước Thượng Hội Đồng Sanhedrin trong phiên tòa xử các Tông Đồ: "Nếu công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá hủy được." (TĐCV 5:38-39)
Ngày kia, có 2 người phụ nữ cùng đến gặp một Linh Mục già để xin ngài chỉ giáo: Một người: PS2-152
Ngày kia, có 2 người phụ nữ cùng đến gặp một Linh Mục già để xin ngài chỉ giáo: Một người tự biết mình là kẻ tội lỗi nặng nề, vào thời thanh xuân, chị đã có lần phản bội chồng và chị đã tỏ ra rất đau buồn. Còn người phụ nữ kia là người vẫn sống theo luật Chúa, không phạm tội gì đáng quở trách, và chị ta rất hài lòng về cuộc sống của mình.
Sau khi nghe hai người bày tỏ tình trạng tâm hồn của họ, vị Linh Mục nói với người phụ nữ mang nặng tội lỗi:
- Nước mắt tràn mi vì hối hận, hỡi nữ tỳ của Thiên Chúa. Con hãy đi ra ngoài hàng rào kia tìm đem về đây cho cha một tảng đá thật to.
- Phần con, con không phạm tội gì nặng, nhưng con cũng hãy đi kiếm cho cha đầy một bao sỏi nhỏ, rồi mang về đây.
Hai người phụ nữ vâng lời ra đi. Một lúc sau, họ trở về: Một người bê một hòn đá to lớn, một người vác một bao sỏi nhỏ.
Bấy giờ vị Linh Mục bảo người đàn bà tội lỗi rằng:
- Con hãy vác hòn đá nặng nề này đem đặt lại đúng vị trí mà con đã lấy nó ra, xong rồi hãy trở lại đây.
Ngài cũng bảo người đàn bà kia làm y như vậy. Và hai người quay trở lại. Người đàn bà có tội nặng tìm thấy cách dễ dàng vị trí cũ của hòn đá lớn, trong khi người đàn bà kia không tài nào nhớ hết các vị trí của những viên sỏi mà bà đã nhặt. Bà đành quay về trước mặt vị Linh Mục, với bao sỏi trên vai. Bấy giờ, vị Linh Mục mới giải thích cho người phụ nữ có tội nặng nghe:
"Con thấy không? Con đã đặt tảng đá lớn vào đúng vị trí cũ của nó, bởi vì con đã biết nó ở đâu. Tội của con cũng giống như thế đó". Rồi ngài nói với người có tội nhẹ: "Phần con, con không biết đặt những viên sỏi nhỏ này vào vị trí cũ trước đây của chúng, bởi vì con không biết đã nhặt chúng ở những chỗ nào. Đối với một người tội lỗi thì cũng thế. Người phạm tội nặng này, vì nhận biết tội mình, chịu sự khiển trách của tha nhân và của chính lương tâm mình, nên đã có thái độ khiêm tốn, và do đó đã từ bỏ được các tội lỗi của mình. Còn con, con chỉ có những lỗi nhẹ, nhưng con không cảm thấy hối hận về những hành vi ấy, trái lại còn có thái độ tự mãn nữa, nên con vẫn đeo trên mình những tội nhẹ đó!".
Câu chuyện của hai người đàn bà tội lỗi cũng giống như câu chuyện của Tôma trong Phúc Âm hôm nay. Cả hai đều nghi ngờ, thế rồi cả hai đều được Linh Mục vạch cho thấy, nên họ đã tin tưởng vào sự thứ tha của tội lỗi mình. Lòng nhiệt thành nhận ra lỗi mình đã tiếp tục sinh hoa kết quả cho những ai có tội. Nhiều người đã trở thành tín hữu sau khi đã phạm tội lớn, những hỏi đã có bao nhiêu người chịu nghĩ đến những lỗi nhỏ mà ăn năn. Thiên Chúa không muốn chúng ta nhận ra những lỗi lớn, nhưng nhận ra những lỗi nhỏ của mình mà ăn năm sám hối. Đấy chính là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm quan trọng mà Chúa muốn nhấn mạnh là đức tin của chúng ta không thể chôn vùi trong điều nhỏ mọn, không thể coi thường nhưng phải tỏ ra thống hối ngay cả với những điều nhỏ.
Tường thuật này đến sau việc viếng mồ và việc Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, việc: PS2-153
Bối cảnh. Tường thuật này đến sau việc viếng mồ và việc Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, việc Tôma tuyên xưng đức tin mạnh nhất trong Tin Mừng, đưa chúng ta trở về lời tựa của thánh Gioan, tuyên bố thần tính của Chúa Giêsu.
Một việc nhìn nhận.
Hôm đó, người ta đang nghĩ đến một việc gì khác. Bỗng chốc có ai đó xuất hiện, “một người quen biết” mà người ta tuyệt đối không thể nhận ra được; sau một lúc do dự, nghi ngờ, người ta đã phá vỡ được khối băng: “Càng nhìn bạn, bạn càng làm tôi nhớ đến ai đó mà tôi đã gặp, tôi đã trông thấy bạn ở đâu đó rồi… Tôi quen biết bạn nhưng không thể nào nhớ ra tên bạn…”. Dần dần, trong ý thức hiện ra kỷ niệm này, hoàn cảnh kia… Rồi bỗng chốc niềm xác tín “tôi nhận ra bạn rồi… tôi đã gặp bạn tại…”. Ai lại đã chẳng có một kinh nghiệm như thế, gần giống với kinh nghiệm hoàn toàn độc nhất vô nhị của các Tông đồ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ.
1. Chúa Giêsu có sáng kiến.
Chúa Giêsu không đến gặp môn đệ vì các ông đã có hẹn với Ngài. Các ông chẳng còn chờ đợi gì nơi Đấng đã chịu đóng đinh thập giá nữa. Không một người Do Thái nào, dù say mê gắn bó với Chúa Giêsu, đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Và giờ này đây, “Ngài đến và đứng ở giữa họ”. Chính Ngài đã có sáng kiến đến gặp gỡ họ. Chúng ta có thể nào được kinh nghiệm này của các Tông đồ không? Có và không. Kinh nghiệm của các ngài về những lần Chúa hiện ra quả là độc nhất vô song và kinh nghiệm đó chính là nền tảng cho đức tin của chúng ta. Vả lại, cũng như các ngài, chúng ta gặp Chúa Kitô trong đức tin: chúng ta cảm thấy mối liên lạc sống động với Chúa như với một người bạn, sự hiện diện của Ngài vừa bao quát vừa làm chúng ta phấn khởi. Ngài đã hứa với chúng ta rằng: “Ai yêu mến Thầy… thì Cha Thầy và Thầy, chúng ta sẽ đến lưu lại nơi người ấy”.
2. Họ nhận ra Ngài.
Nhờ lời chào của Ngài “Bình an cho các con!” và việc Ngài cho xem tay và cạnh sườn của Ngài, các môn đệ nhận ra Đấng đã chịu đóng đinh thập giá ngày thứ sáu tuần thánh. Tôma nghi ngờ trước khi có được một đức tin đầy xúc động và hăng say.
3. Họ được sai đi thi hành sứ vụ.
Chúa Giêsu không hiện ra để cho người ta chiêm ngắm Ngài, nhưng để sai họ đi tiếp tay với Ngài mà loan báo Tin Mừng: “Cũng như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Kinh nghiệm của chúng ta.
1. Cũng như Đấng Phục Sinh đã có sáng kiến hiện ra với các tông đồ, cũng vậy, chính Ngài đến gặp gỡ chúng ta, Ngài đến bất ngờ trong cuộc sống chúng ta. Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, Đấng chiến thắng những mối nghi ngờ của chúng ta.
2. Ngài cho ta nhận ra được Ngài nhờ sự bằng an của Ngài, nhờ lời Ngài nói trong nội tâm ta. Ngài nói: “Chính Thầy đây”. Tôi gặp gỡ Ngài trong Lời của Ngài đang hiện tại hóa việc rao giảng của Ngài khi xưa và trong Thánh Thể, hiện tại hóa hy tế của Ngài.
3. Một khi chính bản thân tôi đã gặp Ngài, tôi có thể mang Lời Ngài đến cho anh em tôi, tôi có thể phục vụ thế giới bằng hành động.
Câu hỏi.
Tôi có chỉ bằng lòng đọc Tin Mừng, chia sẻ, lắng nghe Tin Mừng, cử hành Thánh lễ mà không làm gì hơn nữa chăng? Nếu đúng vậy, thì đó là tránh né: khi tôi không thao thức làm cho Chúa Giêsu hiện diện trên thế giới thì tôi đã không chu toàn sứ vụ mà tôi đã được trao phó.
Lời Chúa và Thánh Thể.
Như thánh Tôma, chúng ta hết thảy đều ước mong kiểm chứng cách khả giác sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô Phục Sinh trong Thánh Thể. Câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn có giá trị: “Phúc thay những kẻ không thấy mà tin”.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và không đặt tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai: PS2-154 CHUYỆN
Một hôm ma quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai phong đến bảo Thánh nhân:
- Hỡi Martinô, Cha cám ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha mong từ nay con luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô chăm chú nhìn vào ông vua và hỏi:
- Nhưng thưa ông, ông là ai vậy?
Ông vua đáp:
- Ta là Đấng Kitô đây mà!
Martinô lại hỏi:
- Vậy thì những vết thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
- Ta từ vinh quang trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô nói:
- Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích.
Vua quỷ liền biến mất.
Đức Kitô khi đã Phục sinh vẫn giữ những thương tích của cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa thường cho các môn đệ xem những thương tích này để họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại cái chết với dấu tích yêu thương trọng đại của Chúa đối với họ.
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa đã hiện ra với các Môn đệ trong những buổi họp mặt thường lệ. Các tín hữu, bắt đầu có buổi họp hàng tuần. Lễ hội đã chuyển từ ngày Sabat sang ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại. Niềm tin và phương thức thờ tự đã chuyển từ Cựu ước sang Tân ước, từ Do thái giáo sang Kitô giáo. Mỗi Chúa nhật khi chúng ta họp nhau để phụng thờ Chúa đó là một lễ Phục sinh, và Chúa ở giữa các tín hữu Người. Cho dù chúng ta khoá kín cửa, cho dù tâm hồn ta còn ngổn ngang nhiều trở ngại, nhưng khi chúng a họp nhau lại vì Danh Chúa, thì Chúa có mặt với chúng ta.
Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa xuất hiện sau khi người sống lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú trọng đặc biệt tới Tôma. Tông đồ Tôma là người nhiệt tình và thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Ông đã mạnh dạn biểu lộ nỗi nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại. Khi hiện ra lần sau, Chúa đã bảo ông Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng hoài nghi nữa”. Có lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan này. Chúa cho ta biết dù Người không có mặt, Người vẫn nghe mọi lời nói, vẫn thấy mọi tâm tình, mọi suy tư của chúng ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” cho dù chúng ta không thấy Chúa. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin, vẫn thi hành lời Chúa, vẫn trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa trao, đó là căn bản cuộc sống và của niềm tin. Nhờ đó chúng ta đáng lãnh phần thưởng như lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con mỗi khi chúng con ngắm nhìn những thương tích nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
Chủ đề: "Mỗi người chúng ta phải tuyên xưng đức tin của riêng mình vào Chúa Giêsu và nói rằng, "Lạy Chúa con và Thiên Chúa của con.""
Lm. Mark Link, SJ
Một bác sĩ chuyên giải phẫu bàn tay, trong một bài báo được phát hành trên toàn quốc, ông: PS2-155
Một bác sĩ chuyên giải phẫu bàn tay, trong một bài báo được phát hành trên toàn quốc, ông viết rằng trong mọi cuộc giải phẫu, ở một điểm nào đó, ông đã phải kêu lên, "Lạy Chúa con và Thiên Chúa của con!"
Câu chuyện đằng công việc giải phẫu bất thường này được phát xuất trong thời gian ông ở Việt Nam .
Một tối kia, sau khi mới tốt nghiệp y khoa, ông được gọi đến để lấy một viên đạn từ tay một người lính. Đã vậy, ông phải thi hành điều đó dưới ánh sáng của đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã làm ông cảm động đến nỗi, sau cuộc chiến, ông quyết định chuyên ngành giải phẫu bàn tay.
Vì sự chuyên môn này, nhà phẫu thuật rất thấu hiểu sự đau đớn khủng khiếp gây nên bởi vật gì đó, tỉ như viên đạn, xuyên xé qua xương, bắp thịt, và các thần kinh của bàn tay.
Ông nói cứ mỗi lần ông nghĩ về sự đau đớn khủng khiếp mà Chúa Giêsu phải chịu khi bị đóng đinh trên thập giá thì ông phải nhăn mặt.
Nói về bài phúc âm hôm nay, vị bác sĩ cho biết ông nghĩ rằng lời kêu than của Thánh Tôma, "Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con," không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà đó còn là lời sửng sốt bàng hoàng khi thấy các bàn tay của Chúa Giêsu bị xé nát và sứt sẹo biết chừng nào.
Chỉ lúc bấy giờ Thánh Tôma mới thực sự nhận thức được sự đau đớn mà Chúa Giêsu đã chịu trên thập giá. Và sự khám phá đó, vị bác sĩ nói, "vượt quá mức chịu đựng của Thánh Tôma."
Vị bác sĩ này chấm dứt bài viết thật xúc động với lời chứng sau: "Mỗi lần tôi giải phẫu và nhìn vào bên dưới lớp da... của bàn tay con người, tôi được nhắc nhở rằng Đức Kitô đã hy sinh bàn tay lành lặn của Người vì tôi. Và, cùng với Thánh Tôma, tôi nói, 'Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con.'" Dr. C. Scott Harrison, Guideposts (April 1985)
Tôi thích câu chuyện này vì nó dẫn chúng ta về một điểm đức tin mà chúng ta thường hay quên. Điểm đó là:
Mỗi người chúng ta phải đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta không thể tin chỉ vì bạn hữu chúng ta tin. Phải, đức tin của họ giúp đỡ chúng ta, nhưng điều đó chưa đủ. Chúng ta phải đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Chúa Giêsu, giống như vị bác sĩ đã làm trong câu chuyện trên, và cũng như Thánh Tôma đã làm trong phúc âm hôm nay. Và vì thế, hãy xem đến một vài trường hợp ngắn gọn của một số người, giống như chúng ta, đã đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Chúa Giêsu.
Tác giả Robert Cleath được dẫn đến sự tin tưởng khi chiêm niệm về sự biến đổi không thể tin được đã xảy ra nơi các môn đệ của Chúa Giêsu vào ngày Phục Sinh.
Trước Phục Sinh, họ vỡ mộng, tiêu tan hy vọng. Sau Phục Sinh họ biến đổi một cách lạ lùng. Ngay cả họ được sức mạnh để làm phép lạ. Ông Cleath nói: "Không một giải thích nào đủ lý lẽ để giải thích về sự biến đổi đời sống của họ ngoại trừ chính họ: họ đã thấy Đức Giêsu... còn sống."
Ông Blaise Pascal, một thiên tài toán học, đã phải tin khi suy niệm về dữ kiện sau, đó là không có sự đe dọa ghê gớm nào, dù cái chết, có thể ngăn cản các môn đệ của Chúa Giêsu đừng hô lớn cho thế giới biết rằng Người đã sống lại. Ông Pascal cho biết, ông tin rằng có những người sẵn sàng "chịu cắt cổ" vì điều họ rao giảng.
Và sau cùng, là những tù nhân ở trong trại tù bên sông Kwai. Qua những cảm nghiệm của chính họ về quyền năng của Chúa Giêsu đang hoạt động trong đời sống của họ mà họ đã phải tin. Nên nhớ rằng các tù nhân buộc phải làm việc dưới ánh nắng gay gắt mà không được đội nón và đi chân không. Chỉ sau một vài tuần, những người vạm vỡ trở thành các bộ xương biết đi. Nhuệ khí chỉ còn là con số không. Phải thi hành một điều gì đó.
Chính vào lúc này, hai tù nhân trong trại phân chia các tù nhân khác thành nhóm nhỏ để học hỏi Kinh Thánh. Từ việc học hỏi này, các tù nhân biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại và đang ở giữa họ. Tất cả những gì họ phải làm là tìm đến với Người.
Khi các tù nhân tìm đến với Chúa Giêsu, họ cảm nghiệm được sự biến đổi lạ lùng trong đời sống của họ. Chính cảm nghiệm này đã giúp họ quỳ xuống và nói với Chúa Giêsu rằng, "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con."
Điều này giúp chúng ta nhìn lại chính con người của mình. Chúng ta cũng phải tin nơi Chúa Giêsu một cách cá biệt. Chúng ta cũng phải tìm ra lý do của riêng mình để giúp chúng ta quỳ xuống và nói với Chúa Giêsu rằng, "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con."
Chúng ta không thể ngược dòng thời gian đi vào lịch sử 2,000 năm trước với ngày Phục Sinh đầu tiên.
- Chúng ta không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi bàn tay của Chúa Giêsu, như Thánh Tôma đã làm. Chúng ta không thể giải phẫu bàn tay con người, như vị bác sĩ đã làm, để qua cảm nghiệm ấy biết được sự đau khổ vô cùng mà Chúa Giêsu đã phải chịu.
- Chúng ta có thể làm như các tù nhân ở sông Kwai đã làm. - Chúng ta có thể tin vào Phúc Âm. - Chúng ta có thể đến với Chúa Giêsu qua đức tin.
Từ những cảm nghiệm của riêng mình, chúng ta có thể khám phá rằng Chúa Giêsu đã sống lại ở giữa chúng ta và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, cũng như Người đã giúp đỡ các tù nhân.
· Đây là lời mời gọi mà bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta.
· Đây là lời mời gọi mà chính Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta khi Người nói với Thánh Tôma:
"Có phải anh tin là vì anh thấy Thầy? Phúc cho những ai không thấy mà tin!" Gioan 20:29
Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô, khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma, "Thật phúc cho những ai không thấy Thầy mà tin!" đó là Chúa nói với chúng ta.
Người nói với hàng tỉ người Kitô Hữu trong lịch sử rằng:
"Phúc cho các con nếu các con tin vào Phúc Âm.
Phúc cho các con nếu các con đến với Thầy qua đức tin.
Thật vậy, phúc cho các con vì các con sẽ khám phá ra điều mà các tù nhân đã làm. Các con sẽ khám phá ra rằng Thầy đã sống lại, Thầy đang sống, ngay bây giờ Thầy đang ở giữa các con, sẵn sàng để giúp đỡ các con."
Chúng ta hãy chấm dứt với một bài thơ. Một độc giả ở Cedar Rapid, Iowa , gửi cho bà Ann Landers. Bà đã in lại trong tiết mục của bà trong tờ báo ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
Bài thơ gửi cho những người như chúng ta, mà trong những lúc yếu đuối, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ nghi ngờ không biết Thiên Chúa có thực sự hiện diện hay không, và nếu Người hiện diện, không biết Người có lo lắng gì đến chúng ta không. Bài thơ viết:
"Này bạn, là người không thể di chuyển nổi một vì sao, Không làm nổi một ngọn núi từ mặt đất, Hoặc vẽ ra được đường nét của một hoa tuyết Hay hiểu được sự lạ lùng của sự sinh nở,
"Này con người kiêu ngạo bạn không thể thay đổi vũ trụ trong bất cứ phương cách nào, Hay tạo thành một búp hoa, hay thả ra một giọt mưa Hay tung ra một cụm mây vào ngày nắng đẹp,
"Ôi người trần tục, ngươi không thể vẽ ra cảnh hoàng hôn Hay tạo ra cảnh bình minh le lói. Ôi con người nhỏ bé Ngươi không thể tạo ra dù chỉ một phép lạ, Sao ngươi dám nghi ngờ Đấng duy nhất có thể làm được điều đó." Vô Danh
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở... Tám ngày sau, các môn đe: PS2-156
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở... Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà đó.
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai lần Đức Giêsu Phục sinh “hiện ra” cách nhau tám ngày. Tự nhiên chúng ta dễ để tâm chú ý dện lần hiện ra thứ hai với “Tôma” hơn, vì ta thường đồng hóa với ông, khi trên thực tế ta cũng thấy nơi mình một “kẻ hồ nghi”, một “kẻ cứng lòng tin” và có thể gặp được nơi ông một thứ biện minh cho thái độ thiếu đức tin của ta.
Nhưng dù có thông đồng với Tôma, ta cũng không thể bỏ qua việc đọc trọn vẹn bản văn trên.
Trước tiên, ta cần lưu ý, Đức Giêsu hằng sống thường hiện ra vào Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần, đó có phải là điều ngẫu nhiên không? Ta quá biết rõ, thời đó các Kitô hữu tiên khởi đâu có ngày nào cũng họp nhau lại. Hằng ngày mỗi người đều phải lo sinh kế. Họ không thể luôn sống bên nhau. Vì thế, Đức Giêsu Phục sinh chỉ hiện “đến” trong khung cảnh buổi họp mặt hằng tuần của họ. Chúng ta có thể nhầm lẫn khi coi đức tin như một vân đề hoàn toàn “riêng tư” hay “cá nhân”: ta thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh đăc biệt được nhận biết, thấu cảm, và xác nghiện trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ tập thể. Họ cùng hiện diện với nhau, tập họp chung ‘trong Giáo Hội’.
Các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông.
Vào lúc thánh Gioan viết những dòng trên. Giáo hội đang gặp sợ hãi và bách hại. Các môn đệ Đức Giêsu đã có thói quen tụ họp này tại nhà ông này, mai tại nhà ông khác. Họ đón tiếp nhau. Họ kiểm tra lẫn nhau: có những người rút lui, có những kẻ bồ đức tin, bỏ nhóm. Họ đâm hoảng sợ. Họ đóng kín cửa. Nhưng giờ đây mỗi Chúa nhật như “Chúa nhật đầu tiên” này, “dấu chỉ” bữa tiệc ly lại được cử hành và một cách huyền nhiệm, Đức Giêsu lại lướt qua những kẻ thuộc về Người, trong “nơi mà họ hiện diện” tại Êphêxô, Côrintô, Giêrusalem, Rôma. Đúng vậy mỗi Chúa nhật là ngày Phục sinh! Chúa vẫn luôn hiện diện giữa cuộc sống chúng con. Chính Chúa làm cho chúng con sống động, dù không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa, ngày nay chúng con cũng dễ khóa chặt cửa lại vì sợ hãi, khi Thánh Thần Chúa thổi đến, xin cho những bức tường vây hãm chúng con sụp đổ, để chúng con trở lại thời ca vang: Nào ta hãy mở rộng cửa cho Đức Kitô Phục sinh.
Trước khi đi xa hơn trong việc suy niệm đoạn tin Mừng trên, chúng ta tự hỏi Đức Giêsu muốn giải thoát để phục sinh chúng ta khỏi những tình trạng nào? Khỏi tình trạng bí bức không lối thoát, khỏi tình trạng sợ hãi, đóng cửa cài then, khỏi tình trạng “nguy tử” cho mình? Đó có thể là tội lỗi, thử thách về sức khỏe, đau đớn và thất vọng, khó khăn thuộc phạm vi gia đình, nghề nghiệp. Đó là “Nơi các môn đệ đang hiện diện: đóng cửa cài then!”
Người nói với các ông: “Chúc anh em được bình an”. Thế rồi, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Chúc anh em được bình an!”.
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô hữu, trước hết không phải là niềm vui dễ dàng, niềm vui tự phát; nghĩa là niềm vui tự nhiên làm ta thấy phấn khởi khi mọi sự đều ổn thỏa, tình trạng sức khỏe khả quan, “tuổi trẻ” vẫn tràn đầy sinh lực, công việc đều thành công, tương quan bạn hữu và gia đình luôn thoải mái. Nhưng niềm vui Phục sinh là niềm vui đến ‘sau' sự sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an khơi dậy từ một tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng (từ cái chết của một kẻ bị đóng đinh) mà từ đó trở đi không có gì để cướp đi khỏi họ niềm vui này: đó là niềm vui và sự bình an phát xuất từ “lòng tin” vào Đức Giêsu. Cũng như ngày thứ nhất trong tuần đó, mỗi buổi họp mặt Chúa nhật, Đức Giêsu đều chúc bình an cho ta, qua tiếng nói của Linh mục: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” và Công đồng Vatican II đã tái lập truyền thống xưa “hôn chúc bình an”: các Kitô hữu được mời gọi trao bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô: bắt tay nhau, ôm hôn, mỉm cười với nhau và chào chúc: “Bình an Đức Kitô. Đó không phải là cử chỉ tầm thường, nhưng là “trở nên Đức Kitô” đối với người gần cận của mình; “khi nhiều người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy hiện diện ở đó giữa họ”
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em.
Đó! Chúng ta đâu có thể tưởng tượng được một lời nói như vậy! Thế mà chính Đức Giêsu lập lại cho ta. Tôi là một con người đâu có ra gì, thế mà lại trở nên Đức Giêsu, được sai gởi đến với anh em tôi y như Người đã được “Chúa Cha” sai gởi đến trần gian. Chúng ta đừng lướt qua nhanh những lời trên. Cũng đừng vội vàng gán cho Tôma là kẻ cứng lòng tin. Hãy dừng lại nơi những lời nói trên đây của Đức Giêsu. Ta hãy hiểu biết trách nhiệm trọng đại mà Người trao phó cho ta: “sứ vụ” của Đức Kitô được trao phó cho Giáo Hội và một phần cho tôi. Tôi được Đức Giêsu “sai đi” như Đức Giêsu được Chúa Cha “sai đến”. Một lần nữa tôi phải tìm hiểu ý nghĩa của hai từ trên: “sứ vụ” có nghĩa là “sự sai đi” (bởi tiếng La tinh là “missus”) và “tông đồ” có nghĩa là “kẻ được sai đi” (bởi tiếng Hy Lạp là ‘apostolos’). Khi tôi gặp một người nào trong công việc làm ăn, trong môi trường sống của tôi, thì không phải chỉ nhân danh cá nhân, hay vì lợi ích riêng của tôi, mà chính vì tôi được Đức Kitô sai đến? Tôi phải truyền thông cho bạn một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói với bạn những gì tôi sẽ nói với bạn; Người luôn “sống động” trong tôi. Tôi là “miệng lưỡi” của Người, là “thân thể” Người, kề cạnh bạn, để thông tỏ cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Đó là việc ban Thánh Thần, một cuộc “tạo thành mới”: Thần Khí của Đức Giêsu được thông truyền cho các môn đệ. Đức Giêsu đã chết “đã tiến về gặp gỡ Chúa Cha” các Kitô hữu tiếp tục công trình của Người. Họ sẽ mang hơi thở sống động của Người, mang Thần Khí Người. Họ sẽ tiếp tục thể hiện những việc làm của Người. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: “Anh em là thân hình Đức Ki tô. Anh em là Đền thờ của Thánh Thần”. Còn thánh Gioan cho ta biết, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Đấng tạo thành trong sách Sáng thế (St 2,7): “Lạy Thánh linh tạo dựng, xin hãy đến!”.
Đối với Gioan, việc Thánh Thần ngự đến đã xảy ra vào chiều ngày Phục sinh: hoạt động cốt thiết của Đức Giêsu sau khi chiến thắng tử thần, là thông ban “Thánh Thần, Đấng đã Phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết” (Rm 8,11). Trong kinh Tin kính đó là điều cốt yếu ta kháng định về Thánh Thần: “Người là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống”. Thần Khí được trao ban cho các môn đệ ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, sẽ hiện lộ ngời sáng trên công trường năm mươi ngày sau đó, vào ngày lễ Ngũ tuần. Đó là thần khí của Thiên Chúa vừa mới thành công rực rỡ, ta dám nói như thế - khi giật Đức Giêsu ra khỏi quyền lực tử thần, và mạc khải Ngài như con Thiên Chúa, nhờ cuộc Phục sinh. “Xét như Đấng đã được Thần Khí thánh hóa, Người đã được đặt làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng, do việc Người từ cõi chết sống lại” (Rm 1,4).
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.
'Thắt buộc” và “tháo cởi”, “tha giải” và “cầm giữ”. Kiểu nói này là một hình thức văn phạm của tiếng Aramên: theo đó, người ta dùng hai từ nghịch nghĩa nhau để xác nhận một thực tại cách mạnh mẽ hơn, và để nhấn mạnh tới từ mang tính “tích cực”. Như thể, khi trao ban cho các môn đệ Thần Khí Ngài, Đức Giêsu cũng thông nho họ quyền tháo gỡ con người khỏi sự ác: kể từ đó, ngay tại trần gian, các ông trở nên những kẻ mang” tình xót thương của Thiên Chúa cho mọi người, cũng như Đức Giêsu đã trở nên hiện thân của tình thương đó! “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”. Người Kitô hữu cũng được trao ban cho chính sứ vụ mà Đức Giêsu đã tuyên bố là của Người, trong Hội đường Nagiarét, vào lúc khởi đầu tác vụ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố một năm hồng ân của Chúa, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc, 4,18-19). Tôi có mang thần khí đó, Thần khí giải phóng, Thần khí ban sự sống, Thần khí yêu mến và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một người trong nhóm Mười Hai, nên là Tôma, không có mặt khi Đức Giêsu đến. Ông nói: “Nếu tôi không thấy... tôi chẳng có tin”.
Đó là “con người chậm trễ”. Sau buổi lễ gặp mặt, ông mới tới. Trong Tin Mừng, Tôma luôn là người chỉ tin vào lương tri của mình, là người thiết thực nên nghi ngại cả thái độ liều lĩnh của Đức Giêsu: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? (Ga. 14,15). Khi Đức Giêsu nói đến sự phục sinh cho Lagiarô, thì Tôma chỉ thấy trước mắt cái chết (Ga 11,15-16).
Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến và nói: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa”.
Một tuần. Tôi thấy như Đức Giêsu đang mỉm cười hóm hỉnh trao đổi với Tôma. Người có vẻ đang nói với ông: “Này anh bạn, bạn tưởng tôi đã chết và khuất mặt, khi bạn bày tỏ thái độ không tin. Nhưng tôi vẫn hiện diện lúc đó, cách vô hình, chứng kiến các bạn nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, lúc đó tôi không tỏ mình ra với các bạn”. Đó là thái độ kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người đã chọn thời gian của Người.
Ong Tôma thưa Người: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Đó là tiếng kêu diễn từ một lòng tin của con người đã đòi “chạm, thấy”. Ong đã hiểu được Đức Giêsu cho dù không hiện hình, vẫn có đó! Người hiện diện cả vào giờ phút ông nghi ngờ.
Vì thấy Thầy, nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.
Đó là mối phúc, mối phúc cuối cùng. Những thực tại cao siêu nhất của Thiên Chúa, ta không thể tự mình thấy được. Chỉ có “đức tin” dẫn đưa chúng ta tiến sâu vào những thực tại đó. Và đó chính là hạnh phúc đích thực!
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa …………Vâng, các môn đệ thường: PS2-157
“Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an !" Vâng, các môn đệ thường họp nhau cầu nguyện sau khi Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá.
Xin điểm lại chút tâm tình của những môn đệ Chúa Giêsu: Thầy mình bị giết chết. Mộng khôi phục giang sơn cũng đổ vỡ tan tành. Còn gì nữa đâu mà nghĩ đến chuyện công danh. Tưởng đã đành bó tay, bó gối, bó cả cuộc đời mình trong nỗi buồn vô vọng. Nhưng không, anh em vẫn bên nhau âm thầm gẫm suy và hâm nóng, một Niềm Tin, một Đức Cậy, một Lòng Mến bao la. Sớm tối bên nhau nhìn nhau không nói nổi một câu, huống nữa một lời ca. Chỉ cần có bên nhau đủ ấm lòng… chiến sĩ. Và họ đã ngộ ra Thầy mình chết đi là để chu toàn thiên ý. Họ cùng dâng kinh nguyện trầm tưởng lại bao kỷ niệm dấu yêu. Vâng, họ bất an trước những tiêu điều. Và lúc ấy, tình hiệp thông cộng đoàn trở nên sức mạnh đỡ nâng nhau trong chiều đời bão tố.
Từ chuyện các môn đệ Chúa Giêsu đến chuyện ta: kỷ niệm một tháng tư nào vẫn còn đó. Người ra đi, người di tản bồng bế nhau chen lấn đến hỗn độn tư bề. Có mấy chút ngoái lại nhìn một cõi thực nhà quê, và chút nuối tiếc thuở quê nhà bình yên trên lưng trâu đồi cỏ. Rồi sau đó, những ngày đời mới keng bắt đầu không lối ngõ. Người người bên nhau vui chuỗi hạt lời kinh. Tình hiệp thông nên sức mạnh vô hình, giúp chúng mình vượt vô vọng vì niềm tin Phục Sinh như ánh hồng phía trước.
Sau vài chục năm trên hành trình xuôi ngược, tình hiệp thông ngày gian khổ nay còn đâu? Sống chết mặc ai giữa những tang thương, oan nghiệt, cơ cầu. Đèn nhà ai nấy tỏ, ngõ nhà ai nấy biết ! Nếu có ai đó thắp đèn lên thì cũng chỉ là Niềm Tin riêng biệt của riêng họ ?!? Hoặc có kẻ la làng vì bị cưỡng chế, bạo lực, trấn lột hay đàn áp, thì ai nấy cũng vẫn cứ lặng thinh. “Sống chết mặc bay !” Tôi chỉ biết đọc kinh ở nhà mình, cầu nguyện cho nhà mình, xin Chúa thương nhà mình… là đã đủ xứng danh mình con nhà có Đạo.
Thật là trâng tráo ! Thảo nào, chưa có thể nhận được một lời chúc… bình an !
Trang Tin Mừng hôm nay không là những tiếng trách cứ hay thở than, nhưng là Niềm Vui, là Bình An đích thực cho những người gắn bó cùng nhau giữa những giờ phút tuyệt vọng. Chúng ta, hãy nhìn lại nhau đi trong những ngày dầu sôi lửa bỏng, và hỏi lại lòng mình xem có còn nghĩ đến nhau chăng ?
Hôm ấy, chẳng biết Toma đã đi đâu mà không gặp được Chúa Phục Sinh vẫn còn mang đầy thương tích. Tình hiệp thông chia nhau trong từng hồi bi kịch và trong cả niềm vui từ Thương Khó đến Phục Sinh. Vì thế, anh em không giữ lấy niềm vui cho riêng mình, nhưng mừng rỡ báo cho Toma rằng Thầy mình đã sống lại.
Lòng Toma tê tái. Chỉ một mình tôi vô phước như vậy sao ? Dẫu biết rằng anh em mình đã sống chết có nhau, nhưng tin được người làm chứng không hẳn là chuyện dễ. Thiết tưởng, ông “cứng tin”, nhưng không phải là cứng lòng tin vào chuyện Thầy mình có sống lại hay không, mà là khó tin vào các nhân chứng Phục Sinh là chính anh em thân quen thường ngày của mình. Bởi vậy, “nếu tôi không gặp được Thầy mình, xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh, thọc bàn tay tôi vào vết đòng” thì chưa an tâm được!
Hôm nay, vẫn còn bao nhiêu người như Toma thuở trước, muốn xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào vết đòng của chính nhân chứng Phục Sinh. Như vậy, phải chăng là muốn rao giảng Chúa Phục Sinh, trước tiên phải chịu đóng đinh, phải chết đi chính mình, và sống lại cùng Chúa Phục Sinh, thì may ra lời chứng của chúng ta mới là lời chứng thuyết phục ư?
Không trách gì chuyện còn hơn 90% người Việt là lương dân. Có thể bởi vì chúng ta đã loan Tin Mừng Phục Sinh mà không chấp nhận hy sinh, chấp nhận chịu đóng đinh, chấp nhận thiệt thân như Chúa Giêsu đã căn dặn: “Hãy làm việc này để nhớ đến ta”. “Việc này” chắc hẳn không phải là cử hành một nghi thức, nhưng là “hiến thân mình” cho phần rỗi của mọi người.
Trong website của HĐGMVN ( WHĐ ) có đoạn trích lời Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, Sứ Thần Toà Thánh không thường trú tại Việt Nam trao đổi với các Đức Cha:
“Khởi đầu, trong bối cảnh Phụng Vụ của Giáo Hội đầu tuần Bát Nhật Phục Sinh, Đức Tổng có đôi lời chia sẻ tâm tình về niềm tin Phục Sinh. Cũng như Chúa Giêsu đã sống lại và ra khỏi mộ, Hội Thánh Việt Nam cũng cần trỗi dậy, thoát khỏi những từ ngữ “chết” trong quyển Sách Thánh để hạ sinh thành Lời rao giảng sống động trong cuộc sống; Hội Thánh Việt Nam không chỉ khép kín trong những mối quan tâm nội bộ, nhưng phải bước ra dấn thân cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng cho lương dân; cụ thể tại Việt Nam còn hơn 90% anh chị em chưa nghe loan báo Tin Mừng; cuối cùng mỗi cá nhân mục tử cũng cần phải ra khỏi mộ tối để chiếu sáng sự thánh thiện của mình trong việc hi sinh tận tình chăm sóc đoàn chiên đã được giao phó cho mình…”
Thiết tưởng Đức Tổng Giám Mục, cách nào đó đã đánh giá rằng: Giáo Hội Việt Nam đã có “Tình Hiệp Thông” trong hoàn cảnh mới, nhưng tính thuyết phục của việc Loan Báo Tin Mừng còn phải tùy thuộc vào việc “hy sinh tận tình chăm sóc đoàn chiên đã được giao phó cho mình”.
Hôm nay, khắp nơi tổ chức Đại Lễ tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót, có làm Tuần Cửu Nhật, có Đại Hội, có Thánh Lễ, có kiệu ảnh Lòng Chúa Thương Xót, có đi Đàng Thánh Giá, nhưng thiết tưởng, điều chính yếu và cấp thiết của việc tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót là: giới thiệu một Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị đâm thủng cạnh sườn, đã chết vì yêu nhân loại… bằng chính những lỗ đinh, những vết đòng trên thân người giới thiệu.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, giữa những nhiễu nhương của cuộc đời, giữa những bất an do thế lực gian tà, giả dối, do sự dữ của Satan hoành hành, xin cho các tín hữu Chúa được bình an nhờ hiệp thông với nhau trong niềm tin Chúa Phục Sinh. Xin cho niềm tin Phục Sinh ấy biến chúng con nên những tông đồ nhiệt thành của Chúa: nhiệt thành rao giảng Chúa Phục Sinh bằng chính sự chết đi và sống lại của chính mình. Amen.
Theo tông đồ Gio-an, lần Đức Ki-tô Giê-su hiện ra trước đông đủ các môn đệ, sau khi Người: PS2-158
Theo tông đồ Gio-an, lần Đức Ki-tô Giê-su hiện ra trước đông đủ các môn đệ, sau khi Người sống lại (việc hiện ra lần hai có mặt Tô-ma càng nhấn mạnh sự đông đủ này) có một tầm quan trọng rất lớn. Sau những lời chào hỏi và tự giới thiệu, Người đã tuyên bố một điều và làm một cử chỉ long trọng hầu biểu lộ trọn vẹn bản chất sâu xa nhất của tông đồ đoàn và của người môn đệ, tức của những ai tin và thuộc về Người – của Hội Thánh. Ngài thổi Sinh Khí mới vào các môn đệ và sai các ông ra đi để thứ tha, “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Nếu trước đó Người đã ‘cho các ông xem tay và cạnh sườn’ thì cũng chỉ là để cho các ông nhận ra Con Người Phục Sinh cũng chính là Con Người Cứu Chuộc. Con Người đó đã được Chúa Cha sai đến để cứu thế gian, “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con này, một khi đã sống lại, thì cũng yêu thế gian đến nỗi đã sai các môn đệ mình đi, hầu tiếp tục sứ vụ làm cho thế gian khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cũng như trong cuộc tạo dựng đầu tiên, hơi thở của Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người, thì cũng vậy, hơi thở của đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh thổi Thần Khí vào các môn đệ, để các ông trở thành tạo vật mới. Nếu thổi hơi lần đầu đã ban cho con người quyền sống để làm bá chủ muôn loài (St 2,7), thì hơi thổi lần hai này ban cho người môn đệ ơn tha thứ, để rồi họ cũng thi hành quyền thứ tha với hết mọi người “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…” Nếu Thiên Chúa tạo dựng là Thiên Chúa hằng sống, và ai nhận được hơi thở Ngài sẽ có sự sống và có khả năng thông truyền sự sống (St 1,28), thì đức Ki-tô Phục sinh là Thiên Chúa của thứ tha và xót thương nên ai nhận được hơi thở Người cũng được tha thứ và có khả năng làm lan tỏa thứ tha tới mọi người. Như thế trong Thần Khí đức Ki-tô Phục Sinh, người môn đệ trở nên tạo vật mới đầy tràn sức sống của thứ tha. Nếu mọi con người đều có quyền sống, thì Ki-tô hữu có quyền sống thứ tha. Nếu mọi người nhân loại đều phải bảo vệ sự sống và truyền sinh, thì mọi Ki-tô hữu trong Hội Thánh đều phải bảo vệ ơn tha tội và thúc đẩy việc thứ tha. Tôi thiết tưởng cái gọi là ‘quyền tha tội và cầm buộc’ của Hội Thánh phải được hiểu theo nghĩa này.
Về mặt này tôi rất tâm đắc với nhận xét của Hurault trong Christian Community Bible: Ki-tô hữu càng nỗ lực tiến xa trong đời sống thiêng liêng luân lý, thì càng thấy mình chưa được hoàn toàn giải thoát khỏi tội lỗi. Do đó họ càng cảm nhận ơn tha tội là một quà tặng và quyền lợi lớn lao nhất được ban cho Hội Thánh. Tội không phải chỉ là những lỗi phạm hàng ngày, trong đó phần sai lầm và yếu đuối là chính. Tội thực ra là từ chối hay e sợ nộp mình cho Thiên Chúa, là đấng duy nhất có khả năng đưa chúng ta đến một cuộc sống hoàn toàn trần trụi, nhưng lại hoàn toàn viên mãn. Khi tha tội cho chúng ta là Người ban cho ta khả năng biết tự nộp mình cho Người… Khả năng tha thứ là sức mạnh duy nhất có thể giải quyết và giải phóng mọi kiểm tỏa của con người… Thái độ dung thứ là bí quyết vô cùng quí giá mà Hội Thánh phải xem là tài sản độc đáo của mình… Ki-tô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội tức là họ ý thức thân phận tội lỗi trường kỳ của mình, họ đón lấy hơi thở Thần Khí tha thứ của Thiên Chúa, và họ quyết sống tình yêu tha thứ này luôn mãi trong đời mình và trong mọi tương quan với tha nhân. Tha thứ, đối với họ, là quyền sống căn bản nhận được từ đức Ki-tô Phục Sinh, mà họ sẽ cố bảo vệ bằng mọi giá. Càng thuộc về tông đồ đoàn, thì càng phải nhận hơi thở tha thứ của đức Ki-tô Phúc Sinh. Càng là tín hữu trong Hội Thánh, tôi càng phải sống sung mãn ơn cứu chuộc và thứ tha.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thần Khí một lần nữa trên con và trên mọi tín hữu như Chúa đã thổi trên các môn đệ trong lần hiện ra đầu tiên. Trong đêm Phục Sinh, con đã tuyên xưng mình muốn sống Ki-tô hữu cách trọn vẹn hơn. Xin dạy cho con hiểu rằng, sống Ki-tô hữu là giữ trọn quyền được tha thứ và thứ tha cho tha nhân. Xin hãy sai con đi làm chứng tá cho tình yêu Phục Sinh của Chúa. Amen
Ai cũng biết Tôma là vị tông đồ bi quan, đa nghi, cô độc và hình như ông không thể tin điều: PS2-159
Ai cũng biết Tôma là vị tông đồ bi quan, đa nghi, cô độc và hình như ông không thể tin điều gì mà ông không thấy, không nghe. Chúng ta gặp Tôma đầu tiên trong câu chuyện của Lagiarô chết. Lúc bấy giờ Chúa và các môn đệ đang ở ngoài vùng Giuđê là nơi mà người Do Thái quá khích tranh luận, đã hai lần ở vùng này đòi bắt giữ và ném đá Chúa, nhưng Chúa Giêsu đều lánh đi sang bên kia bờ sông Giordan. Bây giờ Chúa muốn trở lại Giuđêa để phục sinh La-gia-rô. Tôma thấy ngay sự nguy hiểm đang rình chờ. Ông liền quay lại nói với các tông đồ: “Nào cả chúng ta nữa, hãy đi qua đó để chết với Ngài”(Jn 11,16). Câu nói xem ra có tính cách nhiệt thành nhưng cũng tỏ lộ một nội tâm bi quan, buồn thảm nhìn vấn đề dưới khía cạnh mặt trái, đen tối thất bại. . . Tại sao ông không nghĩ đến Thiên Chúa uy quyền có thể biến giông tố im lặng, có thể tự cứu mình, mà lại nghĩ đến cái chết thất bại phải nhờ đến sự hỗ trợ của các tông đồ? Tại sao lại tắt đi hy vọng, cam chịu một định mệnh là bị dân chúng dồn vào chân tường?
Lần thứ hai chúng ta gặp Tôma bên bàn tiệc ly. Mọi người yên lặng vào nghe Chúa dạy: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy vững tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Thầy đã dọn sẵn cho các con rồi, Thầy sẽ đến đem các con đi. Thầy ở đâu các con ở đó. Thầy đi đâu các con biết đường đi rồi” (Jn 14, 1 –4).
Tôma thấy khó hiểu, vấn đề nghe lạ tai. Một đàng Chúa tiên báo cái chết, một đàng lại nói đến chỗ ở, đường đi, sự sống. . . Tôma không thể im lặng được nữa nên phát biểu: “Lạy Thầy, chúng con nào biết đi đâu, thì làm sao biết được đường đi lối về (Jn 14, 5 – 6). Một câu nói mang dáng dấp của đêm đen giăng kín, đến mức độ chẳng biết đường đi!
Lần thứ 3 là dịp Chúa Phục Sinh. Phúc âm kể rằng: mọi người đều ngồi nói chuyện với nhau về những lần Chúa hiện ra. Mọi người đều vui mừng vì Thầy đã sống lại. Tại sao chỉ một mình Tô-ma lại không tin. Ông không tin vì Chúa không hiện ra với ông? Ông không tin vì ông bỏ cộng đoàn? Sống một mình trong thất vọng, u sầu? Có lẽ đúng. Tô-ma đã bỏ cộng đoàn! Tô-ma có lẽ đã nghe cả thành xôn xao về sự kiện Chúa đã sống lại, nhưng lòng ông quá thất vọng nên không thể đón nhận niềm vui Chúa phục sinh. Có lẽ ông đã mang tâm trạng thất vọng, nên bỏ lỡ cơ hội nhận ra Chúa như hai môn đệ Emmau đã từng không nhận ra Chúa đang đồng hành với mình.
Phúc âm ghi lại: Chúa phục sinh đã hiện ra với các tông đồ, trừ Tô-ma. Tô-ma đã vắng mặt ngày hôm đó. Không rõ lý do tại sao vắng mặt, nhưng nếu có thể đoán với tính tình mau nản dễ bỏ cuộc của ông. Ông đã tách lìa công đoàn. Ông đã quá quen với những tin tức đen tối u buồn, cho nên những tin tức nào có tính cách đau thương, thất bại, bách hại thì ông mới tin. Ông không đủ lạc quan để tin vào niềm vui Chúa sống lại. Do đó, các tông đồ là những người xưa nay ông vốn kính trọng, vốn tín nhiệm, nay đưa tin Chúa Giêsu phục sinh, thì ông không tin được vì ông chưa thấy trong nhân loại có chuyện phục sinh bao giờ. Đức tin của ông đòi sự kiểm chứng. Ông đã hùng hồn tuyên bố: nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn, vào lỗ đinh ở tay, chân Chúa thì tôi không bao giờ tin. Rồi một tuần sau đó, cũng tại căn nhà tiệc ly. Tôma đã nấc nghẹn từng lời để thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Cuộc đời chúng ta đôi khi cũng đánh mất đi quá nhiều cơ hội, bỏ lỡ nhiều dịp may để hy vọng, để tin, để sống. . . Chúng ta bỏ lỡ đi sự hiện diện, cứu giúp của Chúa, ơn tha thứ của Chúa. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn chìm đắm trong đau khổ và thất vọng. Có một điều chúng ta phải học nơi Tôma là ông dám làm lại cuộc đời sau khi gặp được Chúa. Sau khi Chúa bảo Tôma “hãy tra tay sờ vào các lỗ đinh cạnh sườn . . .” Từ đó con người Tôma biến đổi hơn. Từ một con người thờ ơ lãnh đạm, nghi ngờ yếu đuối, ông trở thành một người tuyên xưng đức tin hùng mạnh: “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Tô-ma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những lúc chúng ta bước đi trong đêm tối của cuộc đời. Muốn buông xuôi. Muốn bỏ cuộc. Có những lúc chúng ta thất vọng muốn xa rời cộng đoàn, chẳng dám tin ai. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn. Sống trong cô đơn, thất vọng. Nhưng ông đã trở về với cộng đoàn. Ông bám vào cộng đoàn, nhờ đó mà ông tìm được niềm vui Chúa phục sinh.
Nguyện xin Chúa Phục sinh ban cho chúng ta ơn bình an và lòng tin mạnh mẽ để có thể tuyên xưng Chúa trong mọi biến cố vui buồn trong đời. Xin cho chúng ta đừng bao giờ rời xa cộng đoàn, nhưng luôn hiệp nhất với nhau trong một đức tin, đức cậy, đức mến nồng nàn. Amen
Sau cuộc khổ nạn đau đớn, nhục nhã và cuộc Phục Sinh thầm lặng của Chúa Giêsu, các Tông: PS2-160
Sau cuộc khổ nạn đau đớn, nhục nhã và cuộc Phục Sinh thầm lặng của Chúa Giêsu, các Tông đồ chưa khỏi bàng hoàng, khiếp sợ. Mặc dù chính hai ông Phê rô và Gioan đã đích thân ra vào mồ, thấy khăn lệm đã xếp lại ngăn nắp, đã tin Chúa đã sống lại thật. Nhưng nỗi sợ hãi vẫn còn ám ảnh, hằn dấu trên gương mặt các đấng. Do vậy, phòng họp mới phải cẩn thận cửa đóng then gài, an toàn và chắc chắn.
Các ông tụ họp, âm thầm nguyện cầu, cùng đang nhỏ to thuật lại những biến cố mới xảy ra. Thì bất ngờ Chúa hiện đến, trao tặng những món quà vô cùng quý giá.
1. Ban bình an và niềm vui, yên ủi những kẻ sầu khổ, lo sợ.
Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã chúc: “Phúc cho những ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5, 5) Hôm nay lời chúc phúc ấy đã được thực hiện tỏ tường. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (Ga 20, 20)
Chỉ trong đoạn trình thuật ngắn ngủi này của Tin Mừng theo Thánh Gioan, đã có đến 3 lần Chúa Giê su lập lại cầu chúc bình an.
2. Ban Sứ Mạng Truyền Giáo
Ngay sau khi sống lại, Chúa Giêsu trao phó cho các môn đệ công việc đầu tiên, ưu tiên và cấp bách nhất, đó là mệnh lệnh truyền giáo. Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. (Ga 20, 21) Như thế lệnh truyền này thực sự quan trọng và thiết yếu vô cùng. Các môn đệ đã vui vẻ thừa hành, Đi Gieo Tin Mừng, để bây giờ chúng ta mới hân hạnh nhận được hồng ân của Lòng Thương Xót Chúa.
3. Ban Chúa Thánh Thần cho người được sai đi.
Nhưng Chúa biết sức người hạn hẹp, tinh thần yếu đuối, không thể làm nên việc gì, nếu không có Thần Khí giúp đỡ, dìu dắt. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (Ga 20, 22) Nhờ Đức Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan và can đảm, các môn đệ sau đó mới dám công khai đi rao giảng trước các Thượng tế, Biệt phái, kinh sư, quan quân Hêrôđê, Philatô và đông đảo dân chúng khắp nơi. Sau này các chứng nhân đã cam đảm chịu hy sinh tuẫn đạo, như Thánh Gioan bị tù tội, làm kiếp nô lệ lưu đầy ở đảo Patmos, Thánh Phêrô chịu đóng đinh ngược, Thánh Phaolô bị chặt đầu ở Roma…
4. Ban quyền năng tha tội cho các môn đệ, linh mục sau này.
Nhân dịp này, Chúa Giê su nhắc lại quyền năng tha tội qua Bí tích Hòa Giải: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga, 20, 23) Mà trước đây Chúa đã từng trao phó cho các môn đệ, khi Người còn chưa chịu khổ nạn: “Thầy bảo thật anh em, dưới đất anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.”(Mt 18, 18)
Ngày hôm nay tôn kính trọng thể Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Từ cạnh sườn Người đã tuôn trào hai luồng sáng, biểu thị Máu và Nước, để thanh tẩy linh hồn nên trong sạch, cùng ban sức sống cho linh hồn. Thánh nữ Faustina Kowaska đã giải thích như thế sau khi nhiều lần được thị kiến Chúa dẫn giải. Hai luồng sáng này phát xuất từ lòng xót thương dịu hiền sâu thẳm của Chúa, lúc trái tim thống khổ của Chúa bị lưỡi đòng mở ra trên Thập Giá.
Những luồng sáng này che chở các linh hồn khỏi cơn nghĩa nộ của Chúa Cha. Phúc cho linh hồn nào cư ngụ, nương náu vào Lòng Thương Xót của Chúa, vì bàn tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đè nặng trên họ. (NK 299)
Lạy Chúa, Giê su xin ban cho con luôn biết tìm đến Lòng Thương Xót của Ngài, để con luôn được bình an, niềm vui và niềm hy vọng được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, xin luôn dẫn con đến Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để con canh tân, đổi mới và làm chứng nhân cho Tình Yêu tuyệt đối của Chúa. Amen.
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã muốn lễ Chúa nhật thứ hai sau Phục sinh được dành đặc: PS2-161 LÒNG THƯƠNG XÓT
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã muốn lễ Chúa nhật thứ hai sau Phục sinh được dành đặc biệt cho việc tôn sùng Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Tất cả mọi người Công giáo tại Việt Nam hôm nay đều rất vui mừng với sáng kiến của Đức Cố Giáo Hoàng.
Riêng đối với tôi, đây là một nguồn an ủi lớn lao. Để cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót, tôi xin được chia sẻ chút kinh nghiệm riêng tư.
Chia sẻ của tôi xin được bắt đầu bằng một diễn tả đơn sơ.
1/ Kinh nghiệm về bản thân là những chặng đường gồm ba yếu tố
Đời tôi là một chuỗi dài những chặng đường gặp Chúa. Chặng đường nào cũng gồm ba yếu tố sau đây.
Yếu tố đầu tiên nổi bật là đau khổ.
Đau khổ gồm nhiều loại dưới nhiều hình thức. Như những bệnh hoạn đau đớn phần xác hầu như bao giờ cũng có. Những yếu đuối luôn theo sát. Những trách nhiệm nặng nề đè nặng trên vai. Những mất mát do sự bất toàn bất xứng của mình. Những cô đơn bênh cạnh biết bao đồng hành xã hội. Những xuất hành lặng lẽ đi tìm hy vọng.
Với những đau đớn thể xác và tâm hồn, tôi đi ngày nọ sang ngày kia như đi trên những đường gập ghềnh, như bơi qua những con sông nguy hiểm, như chui vào những đường hầm tăm tối.
Nhưng nếu ngôn ngữ của tâm hồn là khao khát, thì khao khát của tâm hồn tôi là tìm về Chúa. Và tôi đã gặp Người.
Yếu tố thứ hai là gặp được Chúa Giêsu phục sinh.
Chúa Giêsu phục sinh đứng đợi tôi ở những nơi những lúc mà tôi không ngờ. Người đợi tôi, và ban cho tôi ơn tái sinh. Tôi được Chúa đổi mới. Tôi lãnh nhận được những ơn Chúa Thánh Thần.
Với ơn Chúa Thánh Thần, tôi nhận ra rằng:
Chúa yêu thương tôi. Chúa kêu gọi tôi. Chúa thánh hoá tôi. Chúa sai tôi đi.
Tất cả đều là hồng ân. Và tôi nhận ra Chúa là Đấng giàu tình yêu thương xót.
Yếu tố thứ ba là nhận ra dung mạo thật của Chúa.
Dung mạo thật của Thiên Chúa là Tình yêu giàu lòng thương xót. Tôi nhận ra rất rõ: Thiên Chúa Tình yêu giàu lòng thương xót không phải là một khái niệm, một lý thuyết, một hình ảnh. Nhưng Người là Đấng thiêng liêng sống động gần gũi tôi. Khi tôi kết hợp với Người, thì Người giúp tôi nhìn mọi sự với con mắt của trái tim Người.
Người ở lại với tôi. Tôi ở lại trong Người. Nhờ vậy, tôi có thể thấy: Từ thất bại có thể nảy sinh thành công, từ đau khổ có thể nảy sinh vui mừng, từ bế tắc có thể nảy sinh giải thoát, từ nô lệ có thể nảy sinh tự do, từ cõi chết có thể nảy sinh sự sống lại.
Chặng đường như trên không phải chỉ có một. Rất nhiều chặng đường như thế đã nối tiếp nhau, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tôi có cảm tưởng là Chúa để xảy ra như vậy, để tôi luôn ý thức đời tôi là một chuyến đi. Chuyến đi này luôn có bóng tối và ánh sáng chen kẽ nhau.
Nhận thức đó sẽ giúp tôi sống tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Luôn đi tìm Chúa, luôn khao khát vâng phục ý Chúa, luôn biết ngỡ ngàng trước những lạ lùng Chúa làm nơi bản thân tôi và nơi Hội Thánh của tôi.
Tiện đây, tôi cũng xin chia sẻ cái nhìn của tôi về Hội Thánh chứng nhân của tôi.
2/ Kinh nghiệm về Hội Thánh chứng nhân của tôi
Hội Thánh làm chứng cho Chúa bằng con đường bác ái.
Đã từ lâu, nhưng nhất là hiện nay, Hội Thánh Việt Nam đang làm chứng cho Chúa bằng con đường yêu thương bác ái. Theo lời Chúa Giêsu đã phán: "Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).
Thực tế cho thấy, việc làm chứng cho Chúa bằng con đường yêu thương bác ái có những bậc đi lên. Những ai biết nhìn con người với con mắt của Chúa phục sinh giàu lòng thương xót sẽ thấy những bậc đó. Nếu chỉ dừng lại những việc bác ái, thì chưa phải là đã bác ái. Cần phải vượt qua các việc bác ái kiểm chứng được bề ngoài, để đi sâu vào những gì Chúa phục sinh giàu lòng thương xót muốn ta đem đến cho con người qua bác ái. Lúc đó mới thấy được việc ta và tha nhân gặp được Chúa trong thực hành bác ái là điều hết sức quan trọng.
Hội Thánh làm chứng cho Chúa bằng con đường Thánh Thể.
Hơn bao giờ hết, Hội Thánh Việt Nam đang lo xây cất nhà thờ, lo truyền chức nhiều linh mục, lo các thánh lễ được sốt sắng. Với mục đích thực thi lời Chúa dạy xưa về Thánh Thể: "Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy" (Lc 22,19).
Tưởng nhớ đến Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể là nhớ đến Người vâng phục ý Chúa Cha, dâng mình chịu đau khổ, để hiến tế mình, hầu đền tội cho nhân loại.
Không những tưởng nhớ, mà còn thông công vào việc Chúa hiến tế mình. Đó là một tái sinh cho mình và cho kẻ khác. Điều đó phải là một thúc bách đối với ta, chứ không chỉ là một ý tưởng xa vời.
Vì thế, việc làm chứng cho Chúa bằng phép Thánh Thể càng ngày càng kêu mời chúng ta phải đi sâu vào mầu nhiệm Thánh Thể, để gặp Chúa Giêsu, để ở lại với Người, để ra đi theo lời sai đi của Người. Hình như chúng ta còn rất nhiều thiếu sót trong vấn đề này.
Hội Thánh làm chứng cho Chúa bằng con đường sống lương tâm tốt lành.
Sống lương tâm tốt lành, đối với người có đức tin, là sống kết hợp với Chúa. Chúa Giêsu phán: "Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây. Các con cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, các con là cành, ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,4-5).
Lương tâm của ta có gắn vào lương tâm của Chúa Giêsu một cách mật thiết không?
Chúng ta vui mừng nhận thấy rằng: Nhiều người đã làm chứng cho Chúa một cách có hiệu quả qua con đường bác ái, qua con đường Thánh Thể, qua con đường sống theo lương tâm tốt lành. Đó là niềm vui phục sinh.
Nhưng bên cạnh niềm vui đó, vẫn còn vô số nỗi buồn. Những nỗi buồn đó là chính đáng. Nhưng Chúa Phục Sinh giàu lòng thương xót vẫn đợi chờ chúng ta.
Bài đọc thứ nhất hôm nay từ sách Công Vụ Các Tông đồ (5:12-16) công hiến chúng ta một sự: PS2-162
Bài đọc thứ nhất hôm nay từ sách Công Vụ Các Tông đồ (5:12-16) công hiến chúng ta một sự nhận thức sáng suốt trong cộng đồng Kitô hữu tiên khởi tại Jêrusalem. Luca đã lưu ý sự phát triển mau lẹ của Giáo Hội sơ khai (2:41, 47, 4:4; 6;1,9:31). Trong bài đọc hôm nay từ Công Vụ các Tông Đồ ngài muốn thêm sự kiện là số đông người nữ cũng như như nam đã được rửa tội và trở nên môn đệ (5:14). Những dấu lạ và những sự kỳ diệu là hậu quả rõ ràng của các ân huệ Thần Khí như là “sự làm phép lạ” và “ những sự chữa bệnh” (1 Côrintô 12: 9, 28).
Một hình ảnh rất có tác động mạnh của Phêrô được trình bày cho chúng ta (vs 15-16): Người ta còn khiêng những kẻ ốm đau ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các chung quanh thành Jerusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đèu được chữa lành.”
Cái bóng của Phêrô
Tôi luôn luôn bị xúc động bởi hình ành cái bóng của Phêrô đi ngang qua người bịnh và gây ảnh hưởng. Những người đi ngang qua cái bóng của Phêrô được chữa lành, không phải bởi cái bóng của Phêrô nhưng bởi quyền năng của Thiên Chúa hành động qua Phêrô.
Những phép lạ chữa lành lôi cuốn dân chúng tới Giáo Hội tiên khởi và xác nhận chân lý những huấn giáo của các tông đồ và sự kiện là quyền phép Thiên Chúa ở với các ông. Chúng ta cũng biết rằng những lãnh đạo tôn giáo ganh tị về quyền năng và uy quyền của Chúa Giêsu coi các Tông đồ như là một sự đe dọa liên tiếp và đòi hỏi họ phải được kính trọng. Các Tông Đồ không đòi hỏi mình phải được tôn trong. Mục tiêu của các ông là mang lại sự tôn trọng và cung kính đối với Thiên Chúa. Các Tông đồ đã được sự tôn trọng của dân chúng, không phải tự các ông nài xin, nhưng bởi vì các ông xứng đáng được những sự ấy.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức giữa chúng ta
Khi tôi suy tư về bài đọc một hôm nay, tôi không thể không nhớ tới những hình ảnh rất có tác đông của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khi ngài di chuyển giữa hàng trăm ngàn người trong chuyến viếng thăm của ngài tại Hoa Kỳ cách đây hai năm trong tháng này. Người mục tử chân chính, người mô phỏng sự sống của mình theo sự sống Chúa Giêsu, phải thương yêu dân chùng được phó thác cho mình và bắt chước Chúa Giêsu. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã làm sự này rất tốt.
Trong những tuần qua, thế giới đã chứng kiến tai họa và sự đau khổ về sự lạm dụng tình dục trẽ em và sư bùng nổ dễ bị tổn thương trong nhiều xứ châu Âu. Sự lạm dụng này là xấu ác, phá hoại và đầy tội tình.
Một số linh mục và tu sĩ, những người đã hứa bảo vệ, bênh vực và thương yêu trẻ nhỏ đã làm nhục Giáo Hội và xã hội. Một số người đã ra sức trách móc Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI không hành động, che đậy cách sống và sự vô liêm sĩ trắng trợn trong việc xử lý sự lạm dụng tình dục trẻ em. Quở trách này không đúng, không chấp nhận được, và rất xúc phạm Giáo Hội, những nạn nhân và xã hội nói chung.
Tôi nhớ chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Biển Đức tại Hoa Kỳ cách đây hai năm, với lòng xúc động và cám ơn sâu sắc. Trong chuyến viếng thăm này cái bóng của Phêrô phủ trên America, cũng như nó đã làm bất cứ nơi nào Đức Giáo Hoàng này đã viếng thăm trên năm năm qua. Và cái bóng này, là cái chạm chữa lành của Chúa, phủ trên tất cả chúng ta với lòng thương xót., sự chữa lành và sự hoà bình. Khi Đức Giáo Hoàng Biển Đức đi giữa chúng ta, ngài làm hơn là liên kết với chúng ta. Ngài liên kết. Ngài cổ võ quần chúng. Ngài tỏ lòng can đảm, sự khôn ngoan và lòng thương cảm phi thường.
Các phương tiện không bỏ lỡ ý nghĩa sâu sắc của sự Đưc Thánh Cha gặp gỡ riêng tư đầy xúc động vơi các nạn nhân của việc lạm dụng tình dục giáo sĩ tại Toà Đại Sứ Vatican ở Washington. Đức Giáo Hoàng lúc đó không sợ, bây gìơ vẫn không sợ phải đi vào trong sự đau đớn, sự hỗn mang, sự buồn rầu và sự dữ của cơn khủng hoảng lạm dụng. Ngài cho dân chúng biết rằng ngài nghe và hiểu và Đức Giáo Hoàng sẽ tiếp tục hành động ngõ hầu một tai hoạ như thế sẽ không bao giờ lập lại nữa.
Nơi nào có Phêrô nơi đó có Giáo hội.
Một thành ngữ Latin xưa, đầu tiên được Thánh Ambrose sử dụng trong thế kỷ thứ tư, hiện ra trong trí nhớ của tôi vào tháng Tư 2008, trong nhiều lúc thăm viếng lịch sử giáo hoàng tại Hoa Kỳ: Ubi Petrus ibi ecclesia, có nghĩa là: Nơi nào có Phêrô, ở đó có giáo hội. Phêrô ở tại America đã hai năm, và nụ cười dịu hiền của ngài và sự thanh thản hiển nhiên của ngài đốt cháy một quốc gia, một Giáo Hội và một lục địa với niềm hy vọng giữa thái độ hoài nghi, tuyệt vọng, và nhiều người thích thúc đẩy sự chết đến cho một Giáo Hội sống động và trẻ trung. Chỉ thời gian, sư suy tư và cầu nguyện sẽ mạc khải cho biết sự chữa lành từ hai năm sẽ sinh hoa quả cho Giáo Hội tại Hoa Kỳ.
Một điều chắc chắn: Nơi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, cái bóng của Phêrô phủ trên hàng triều người tại Hoa Kỳ trong năm 2008 và tiếp tục phủ xuống hàng triệu người chung quanh trái đất cho tới ngày nay, cách riêng trên những người bị thương tích và hư hại từ những hành động xấu ác lạm dụng tình dục trẻ em. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng nơi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, Phero vẫn ở giữa chúng ta.
Cái chạm tay của Tôma
Truyện Phục Sinh của Gioan (Chương 20-21) là một loạt những sự găp gở giữa Chúa Giêsu và và các môn đệ của Người mặc khải những phản ứng đức tin khác nhau. Hoặc những sự gặp gở này là với Simon Phêrô và người Môn Đệ được Chúa yêu, bà Mary Magdalene, các môn đệ hay là Tôma, toàn thể kịch bản nhắc chúng ta nhớ rằng trong hàng ngủ đức tin có những cấp bậc sẵn sàng khác nhau và những yếu tố khác nhau dẫn đưa dân chúng tới đức tin và giúp họ trở thành những chứng nhân và những thầy dạy.
Truyện của Gioan về Chúa Giêsu và Tôma (John 20:19-31) ghi chú sự hiện ra hậu-phục sinh lần thức nhất của Chúa Giêsu và cung cấp cho chúng ta một kinh nghiệm điển hình của sự nghi nan, tranh đấu và đức tin. Trong đó ẩn nấp kinh nghiệm của mọi người Kitô hữu: tin mà không thấy. Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta có một truyện trong một truyện: sự phân giải những nghi nan của Tôma trong lúc Chúa Giêsu hiện ra hầu an ủi những môn đệ sợ hải. Tôma chỉ tin khi ông nghe Chúa gọi phải tin.
Tôma không phải là một người theo thuyết nghi nan vĩnh viển, cũng không phải là một con người bướng bỉnh, cứng cổ như truyền thống Kitô hữu thường vẻ vời. Tự điển Hy Lạp chuyển dịch tiếng “skepsis” thành “sự nghi nan, mối nghi hoặc, sự do dự, và sự không tin.” Tôma, kẻ nghi ngờ, được phép làm đôi chuyện mà tất cả chúng ta muốn làm. Ngài được phép chạm tay và “kinh nghiệm”, mà đôi khi phương tiện nhân bản con người không thể làm được. Đối với chúng ta điều đó khó hơn. Chúng ta cần bắt đầu với đức tin và lúc đó chạm cách đui mù con đường của chúng ta cho tới trung tâm cuộc đời chúng ta.
Dầu chúng ta biết rất ít về Tôma, hậu cảnh gia đình của ngài và vận mạng của ngài, chúng ta được ban cho một lời gợi ý quan trọng vào trong căn tính của ngài trong từ nguyên học (etymology) của tên ngài trong tiếng Hy Lạp: Tôma (Didymuous trong tiềng Hy Lạp) có nghĩa là “sinh đôi”. Nữa Tôma kia, người sinh đôi của ngài là ai? Chúng ta có thể thấy người sinh đôi của ngài bằng cách xem trong kính soi.
Nữa kia của Tôma là bất cứ ai chiến đấu với sự đau đớn không tin, nghi ngờ và tuyệt vọng, và cho phép sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh làm một sự khác biệt. Khi sự này xảy ra, những ngờ vực tan biến. Tôma và những kẻ sinh đôi của ông khắp thế giới liều mọi sự trong Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu và trở thành những nguồn phúc lành cho những kẻ khác, mặc dầu những nghi ngờ và tuyệt vọng của họ và vì những nghi ngờ và tuyệt vọng của họ.
Chúa nhật về lòng thương xót của Thiên Chúa
Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không phải là một lễ mới được thiết lập để cử hành những mặc khải của Thánh Faustina Kowalkas (1905-1038). Trên thực tế lễ này không liên hệ chút nào với Thánh Faustina! Đúng hơn lễ này khôi phục một truyền thống phụng vụ xa xưa, phản chiếu trong một huấn giáo gán cho Thánh Augustine về Tuần Bát Phục Sinh, mà ngài gọi là “những ngày thương xót và tha thứ,” và chính ngày thứ Tám “tổng kết những ngày thương xót.” Chúng ta có phải “thúc ép”một sự liên kết giữa Lòng Thương Xót Chúa và truyện Tin Mừng của Tôma và Chúa Giêsu Phục Sinh? Trả lời cho câu hỏi thứ nhất là “Tất cả mọi sự!” và cho câu hỏi thứ hai: “Không!” Việc cử hành Chúa Nhật Về Lòng Thương Xót của Chúa không cạnh tranh với, cũng không gây nguy hiểm cho sự toàn vẹn Mùa Phục Sinh, cũng không lấy đi sự đương đầu đáng sợ với Chúa Phục Sinh trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Nhật về lòng Thương Xót Chúa là ngày Bát Nhật Phục Sinh, đang cử hành tình yêu thương xót của Chúa chói sáng suốt Tam Nhật Phục Sinh và toàn diện mầu nhiệm Phục Sinh.
Trong ngày phong thánh Thánh Faustina ngày 30/4/2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói trong bài giảng lễ của ngài trước hơn 200.000 người trong Quảng Trường Thánh Phêrô: “Chúa Giêsu cho [các Tông Đồ] thấy tay và cạnh sườn của Người. Tức là, Người chỉ những vết thương của sự Thương Khó, cách riêng vết thường trong con tim của Người, nguồn suối từ đó chảy ra làn sóng lớn lòng thương xót chảy ra trên nhân loại.”
Đã nhiều năm, khi tôi gặp khó khăn trong sự thấy những liên kết nội tại giữa Chúa Nhật thứ Hai Phuc Sinh, lễ thánh quan thầy tôi, Tôma Tông đồ, và những mạc khải của Thánh Faustina, tôi đi ngang qua lời trích dẫn này của Thánh Bernard (Canticle 61, 4-5: PL 183. 2072):” Điếu tôi không thể được tự tôi, tôi chiếm lấy với niềm tin từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa, bởi vì Người đầy lòng thương xót. Sự giáp mặt của Tôma với Chúa Phục Sinh ban cho tôi toàn diện viễn ảnh về ý nghĩa sự thương xót. Lúc đó tôi hiểu rằng ngày nầy cần được lấy làm chủ đề. Bây giờ hơn bao giờ hết trong Giáo hội và thế giới, chúng ta cần lòng thương xót.
Lòng thương xót bên trong sự thương xót bên trong sự thương xót.
Vị mục tử mới nhất của Canada, Giám Mục Donald Bolen thành Saskatoon, được phong chức giám mục ngày 25/3/2010. Giám Mục Bolen, một linh mục Tổng Giáo Phận of Regina tại Tây Canada, và nguyên là viên chức Hội Đồng Giáo Hoàng Hiệp Nhất Kitô hữu tại Vatican, chọn làm khẩu hiệu giám mục của ngài “Mercy within mercy within mercy.” Trích dẫn này lấy từ sách 1953 của Tôma Merton “Dấu của Jonas,” trong đó Merton có Chúa nói: “Ta đã luôn luôn làm lu mờ Jonas với lòng thương xót trong sự thương xót trong sự thương xót.”
Trong nghi lễ phong chức của ngài nhằm ngày Lễ Truyền Tin năm nay, Giám Mục Bolen nói: “Lời mà Mẹ Maria đón nhận với tiếng fiat của Mẹ, Lời nhập thể trong Chúa Giêsu thành Nadareth, Lời Đấng hiến mình hoàn toàn cho chúng ta, cả tới chết, nhưng mà sự chết không thể chứa Lời này: Điều mà Lời nói là lòng thương xót trong sự thương xót trong sự thương xót. Nếu lâu nay có một khẩu hiệu giám mục tổng kết cuộc sống một giám mục, đó là khẩu hiệu này đối với một giám mục trẻ danh tiếng và lãnh đạo của Giáo Hội tại Canada người mô tả lòng thương xót mạnh mẽ!
Khi chúng ta tiếp tục phơi nắng trong ánh sáng rực trên trời của sự phục sinh của Chúa, chúng ta đừng ngưng cầu nguyện cho bóng chữa lành của Phêrô và sự hòa bình phủ trên Giáo Hội, và chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những cuộc sống của chúng ta được chìm ngập trong sự thương xót bên trong sự thương xót bên trong sự thương xót. Lm. Thomas Rosica
Có sự khác biệt giữa sự tin và lòng tin. Khi tôi bước vào phòng lúc đêm tối và tôi bật nút đèn: PS2-163
Có sự khác biệt giữa sự tin và lòng tin. Khi tôi bước vào phòng lúc đêm tối và tôi bật nút đèn điện. Tôi tin là ánh đèn sẽ sáng lên trong phòng, nhưng có nhiều lần đèn không bật sáng bởi vì không có điện. Tôi tin tưởng là đèn sẽ sáng lên nhưng lòng tôi không tin chắc là nó nhất thiết sẽ xẩy ra. Khi tôi thức dạy vào buổi sáng, tôi mở nước nóng để tắm. Tôi tin là sẽ có nước nóng. Nhưng tôi không bao giờ bước vào phòng tắm mà lại không thò tay vào để thử trước nhiệt độ của nước, bởi vì nhiều lần đã không có nước nóng. Nhưng tôi cứ tin là sẽ có nước nóng. Tôi tin là khi bước vào trong xe để đề máy thì máy xe sẽ nổ. Nhưng nhiều lần xe đã không nổ máy. Do đó, tôi tin, nhưng lòng tôi không hoàn toàn tin.
Nền Tảng của Lòng Tin
Nhưng chúng ta tin tưởng nơi Thiên Chúa và chúng ta đặt lòng tin nơi Chúa. Khi bạn và tôi đặt lòng tin và tin nơi Thiên Chúa, chúng ta làm một quyết tâm vững vàng ở điều xẩy ra trong đời sống của mình. Tôi tin là Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết. Lòng tôi chắc chắn không nghi ngờ về điều đó. Tôi tin như thế bởi vì Cựu Ước đã tiên báo; tôi tin như thế bởi vì các thánh Tông Đồ đã chứng kiến sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Tôi tin là Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết. Và bởi vì tôi tin như thế, tôi tin nhiều điều khác nữa. Tôi tin là Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa; Ngài đến trần gian để hoàn tất công trình cứu chuộc và để cho chúng ta nhận biết chân lý và được cứu độ. Tôi tin như thế vì có sự sống lại.
Trong thư của Thánh Phao lô gởi tín hữu Do Thái, ngài nói rằng nếu Chúa Giêsu Kitô đã không sống lại, đức tin của chúng ta nên vô ích, bởi vì trọn đời sống của Ngài xây nền tảng trên sự thể là ngài sẽ chịu đóng đinh khổ hình, chết, và sẽ sống lại. Đức tin của tôi vững vàng bởi vì Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết. Bây giờ tôi có sự xác tín vững vàng, tin tưởng Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa bởi vì Chúa Giêsu Kitô đã nói, “Trừ khi các người lãnh nhận phép rửa trong nước và Thánh Thần, các ngươi sẽ không được vào nước trời.” Tôi tin điều đó. Khi Chúa Giêsu Kitô trong Bữa Tiệc Ly cầm bánh và rượu để nói, “Đây là Mình Ta, đây là Máu Ta, hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.” Tôi tin điều đó. Tôi tin Chúa Giêsu Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Đó không phải là biểu tượng hay dấu chỉ, nhưng là sự hiện hữu thực sự của Chúa Giêsu Kitô. Tôi tin điều đó.
Tôi tin là Chúa Giêsu Kitô đã trao ban quyền tha tội cho các Tông Đồ và các người kế vị và Ngài đã bảo họ, “Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì tội người ấy bị cầm buộc.” Bởi thế tôi tin là để được tha tội thì tôi phải đi xưng tội; tôi cần phải xưng thú tội lỗi của mình. Tôi tin tất cả những điều này và hàng trăm những điều khác bởi vì tôi tin là Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết và thuyết phục nhân loại đây là sự thật.
Tin Quyền Bính Giáo Hội
Bởi vì tôi tin vào sự sống lại, tôi tin là chúa Giêsu Kitô đã thiết lập Giáo Hội. Giáo Hội là nền tảng của tất cả các chân lý về Chúa Kitô. Tôi tin là Ngài đã chọn Thánh Phêrô là đấng đại diện ở trần thế, và tất cả các vị giáo hoàng là những người kế vị Thánh Phêrô, và với quyền giáo huấn của giáo hội, các ngài có quyền dạy dỗ không sai lầm về các giáo huấn của Chúa Kitô. Tôi tin như thế. Thí dụ, một trong điều tôi tin là giáo huấn về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được giáo hội truyền dạy. Giáo huấn về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là một tín điều công bố từ lúc đầu thai đức Maria đã được tạo dựng không tì ố tội nguyên tổ. Thân xác và linh hồn của Đức Mẹ được kết hiệp lúc thụ thai bởi thế Đức Mẹ không vướng mắc tội lỗi trọn suốt cả cuộc đời. Bởi vì tôi tin vào tín điều vô nhiễm nguyên tội, cho nên tôi tin mạc khải của Thiên Chúa rằng sự sống được bắt đầu ngay từ lúc thụ thai, và do đó tôi tin phá thai là tội lỗi xấu xa. Đó là hành động sát nhân.
Tôi tin là tôi phải chu toàn bổn phận trong trách nhiệm tuân giữ lề luật và làm theo ý của Thiên Chúa, bởi vì đó là luật lệ uốn nắn đời sống của tôi. Các lề luật này chủ yếu là để uốn nắn đời sống và lòng tin của bạn nơi Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài. Nếu Đức Kitô đã không chết, thì đức tin của chúng ta chẳng ích gì. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại từ cõi chết thì có lẽ tôi trở nên một người vô thần. Nhưng bởi vì tôi tin, tôi quyết tâm sống theo giáo huấn của Chúa Kitô.
Tin Cứu Độ
Trong tuần vừa qua chúng ta có trường hợp bất hạnh của một nhóm người, họ tin là sẽ có tầu không gian bay ở ngoài kia, họ tự tìm cái chết để được đưa vào chiếc tầu không gian đó. Điều tang thương đáng tiếc không phải là họ chết hay tự tử, nhưng là họ đã ngây ngô tin điều tầm phào, tin vào chiếc tầu không gian sẽ hạ cánh để đưa họ đi đến một nơi khác. Chúng ta biết là điều đó không thể xẩy ra. Chúng ta cũng biết là nhiều người chấp nhận những cái lạ đời, những niềm tin xằng xịt phủ đầy đời sống của họ như thế.
Sự thật là chỉ có niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu Kitô, vào đời sống của ngài, vào sự phục sinh của ngài, và vào các giáo huấn của ngài thì chúng ta mới có đời sống sung mãn, và đời sống sung mãn đó đến với chúng ta khi chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô trong cõi đời đời. Qua phép Thanh Tẩy chúng ta cùng chết với Chúa Kitô và chúng ta sẽ phục sinh vinh quang với ngài trong ngày sau hết, nếu chúng ta chu toàn thánh ý của ngài bây giờ ở trần gian.
Lễ Phục Sinh của Chúa Kitô là nền tảng cho lòng tin của chúng ta, đó là lý do tại sao chúng ta tin. Chúng ta tin vào tất cả các giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô và chúng ta đem ra thực hành trong đời sống. Chúng ta không chỉ tin suông nơi Thiên Chúa. Chúng ta đặt lòng tin nơi Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta chu toàn lề luật của Thiên Chúa, chúng ta sẽ được cứu rỗi. Chúng ta tin chắc như vậy. Chúng ta tin rằng chúng ta phải chu toàn ý của Thiên Chúa ở đời này nếu chúng ta muốn được cứu rỗi. Đó không phải chỉ là vấn đề tin không mà thôi, mà nó còn là vấn đề của lòng tin.
Chúng ta hãy bày tỏ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, vào sự sống, sự chết, sự phục sinh và vào các giáo huấn của Ngài. Chúng ta hãy đặt niềm tin nơi ngài nhờ đó chúng ta có thể được bảo đảm giống như ngài đã sống lại khải hoàn, chúng ta cũng được sống lại với ngài trong vinh quang nếu chúng ta chu toàn ý của ngài. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Đức tin là gì? Nói một cách cho dễ hiểu thì đức tin nghĩa là tôi tin vào điều mà khoa học và những: PS2-164
Đức tin là gì? Nói một cách cho dễ hiểu thì đức tin nghĩa là tôi tin vào điều mà khoa học và những giác quan không kiểm chứng hoặc không hoàn toàn kiểm chứng được. Ví dụ như tôi tin có Chúa là vì tôi cảm nghiệm có một bàn tay vô hình nào đó luôn che chở phù trì tôi trong cuộc đời, dù rằng tôi không thể chứng minh cho mọi người thấy được điều đó. Tôi tin tôi có linh hồn bất tử bởi vì mỗi khi làm một điều gì xấu, tôi cảm thấy lương tâm áy náy và bất an, trong khi một điều tốt thường đem lai cho tôi một tâm hồn binh an thanh thản. Tôi nghĩ, nếu tôi phải nhìn thấy Chúa, nghe tiếng Chúa nói, đụng chạm đến Ngài y như các môn đệ ngày xưa rồi tôi mới tin, thì đó chưa hẳn là đức tin đúng theo nghĩa của nó. Nếu chính mắt tôi nhìn thấy Chúa hiện ra, tôi nghe lời Chúa nhắn nhủ, và tôi đụng chạm tà áo Ngài thì tôi không còn là tin nữa mà là tôi đã gặp Ngài và biết Ngài.
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Sau Phuc Sinh, Ông Tôma đòi gặp Chúa Giêsu, nhìn thấy những lỗ đinh, và thọc ngón tay vào cạnh sườn Ngài rồi thì mới tin. Chỉ có vậy mà muôn đời ông bị gán cho một biệt danh là “kẻ cứng tin.” Kể ra thì cũng hơi oan cho ông, vì nếu tôi được đặt vào hoàn cảnh của ông, chưa chắc tôi đã tin mà có khi còn cho các môn đệ là những kẻ dễ bị lừa. Một điều rất quan trọng nơi đức tin của Tôma là lần thứ hai Chúa hiện ra với ông sau tám ngày. Trong lần này, không những ông tin vào Đức Kitô, mà ông còn tuyên xưng một niềm tin tuyệt hảo, có giá trị cứu độ, “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28). Trong bốn Phúc Âm, chỉ có vài người đạt được niềm tin cỡ như Tôma hôm nay: Đó là lời ông Phêrô tuyên tín “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sông” (Mt, 16:16) và lời thốt lên của viên sĩ quan nhìn lên Chúa chết trên thập giá, “quả thật! người này đúng là Con Thiên Chúa” (Mc, 15:39). So sánh ba lời tuyên tín trên, ta thấy lời của Toma đạt được đỉnh cao vào bậc nhất, “Lạy Chúa tôi! Lay Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28). Nếu Tôma không “nghi ngờ” một chút nào cả thì chưa chắc ông đạt đến một đức tin như thế. Có thể sau khi ông nghe những lời tường trình về việc Chúa hiện ra và đàm đạo với các môn đệ, ông suy đi nghĩ lại con người Giêsu mà ông theo đuổi bấy lâu nay. Cũng có thể ông bị dằn vặt với đức tin của ông vào Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng chính trong sự suy nghĩ bằng khối óc, sự đắn đo và chiến đấu với niềm tin của ông về Đức Kitô, mà ông đã đạt được, tiếng Anh gọi là “come to believe,” một niềm tin cao nhất về Đức Kitô Phục Sinh.
Ta nên biết rằng Tin Mừng Gioan thường nhấn mạnh đến dấu lạ và niềm tin đạt được qua những dấu lạ đó. Đan cử như là trường hợp của ông Nicôdemô đã đàm đạo với Chúa suốt đêm, để rồi ông có cảm tình hơn với Chúa và sau này ông đã bênh vực và táng xác Chúa. Chị phụ nữ Samaria cũng thế, đã lắng nghe và tâm sư với Chúa và rồi đức tin của chi đã triển nở đến độ chạy đi loan báo cho mọi người về Đức Kitô. Rồi đến anh mù từ thủa mới sinh đã vất vả chiến đấu với niềm tin của mình cho dù bị các niên trưởng và giới lảnh đạo chửi mắng và kết án, và ngay cả cha mẹ cũng từ bỏ anh. Lạ lung thay, anh đã đạt được đỉnh cao của niêm tin vào Chúa Kito đến độ cúi xuống bái lạy Ngài.
Vậy thì việc Tôma không tin ngay vào những lời các môn đệ không nhất thiết một là điều xấu, cũng như chúng ta nghe về phép lạ này phép lạ kia từ người này hay người nọ. Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy thắc mắc và hơi nghi ngờ về môt điểm nào đó trong việc thực hành đạo. Có lúc chúng ta chứng kiến nhiều biến động trong tâm hồn cũng như trên thế giới như là tai sao người lành gặp đau khổ trong khi kẻ ác cứ sống phây phây và ta tự hỏi “Không biết có Chúa không? Sao tôi đau khổ qúa?”.
Những thắc mắc và câu hỏi kiểu như thế trong thử thách không hẳn là xấu, mà có khi lại cần thiết nữa. Điều quan trọng là chúng ta vẫn tin vào Chúa và biết cách dùng những ân huệ Chúa ban để hiểu thêm những điều mình tin. Chúa cho chúng ta khối óc và những giác quan thì phải đem ra mà sử dụng. Phải có tinh thần học hỏi, phải suy niệm, đôi lúc cũng phải có sự chiến đấu nôi tâm. Đức tin phải từng trải và phải chịu đau đớn cũng như Đức Mẹ dưới chân thập giá; cũng như Abraham đem con một lên núi tế lễ; và như ông Gióp khổ sở vì mất con cái nhà cửa và chịu lở loét bênh tật. Đặc biệt nhất là như Chúa Giêsu chịu khổ nạn và đau đớn trên thánh gía đến nổi phải thốt lên, “Lạy Chúa tôi; lạy Chúa Trời tôi; sao Chúa bỏ tôi.”
Chắc chắn những nhân vật này có một đức tin rất vững chắc bởi vì họ đã chịu thử thách đến tận cùng và họ đã trở thành nhửng anh hùng của đức tin. Họ là sự ứng nghiệm của câu ca dao nổi tiếng Việt Nam, “Lửa thử vàng. Gian nan thử đức.”
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những: PS2-165
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những thành quả mà biến cố nầy đem lại trong suốt Mùa Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần.
Cv 4: 32-35 Đoạn trích sách Công Vụ nầy trình bày cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi: chia sẻ cho nhau nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày như cơm ăn áo mặc.
1Ga 5: 1-6 Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh đã biến đổi những mối liên hệ giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa.
Ga 20: 19-31 Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt là thánh Tô-ma, qua người môn đệ cứng tin nầy, Ngài nhắn gởi đến tất cả chúng ta: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
BÀI ĐỌC I Cv 4: 32-35
Trong suốt Mùa Phục Sinh, bài đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ trình bày cho chúng ta một cái nhìn bao quát trên cuộc sống cộng đồng tiên khởi, cộng đồng Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem.
1. Bố cục và nội dung:
Như chúng ta biết, sách Công Vụ bao gồm hai phần: phần thứ nhất nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, vạch lại thuở ban đầu của Giáo Hội; phần thứ hai được dâng hiến cho hoạt động truyền giáo của thánh Phao-lô, mà thánh ký Lu-ca là người đồng hành và là môn đệ của thánh nhân: tác giả tường thuật những biến cố mà mình được dự phần vào hay biết rất rõ.
Để mô tả thời kỳ mà tác giả đã không kinh qua, thánh Lu-ca đã lợi dụng thời gian sống hai năm ở Pa-lét-tin trong khi thánh Phao-lô bị giam cầm ở Xê-da-rê (59-60), để điều tra, tìm hiểu những nhân chứng mắt thấy tai nghe. Chúng ta thấy những dấu vết của sự tra cứu tận nguồn này ở nơi văn phong, từ vựng, những ngữ điệu sê-mít điểm xuyến phần thứ nhất của sách. Trong khi đó, tác giả biên soạn phần thứ hai tùy thuộc vào chứng liệu của riêng mình, nên ngữ điệu Hy-lạp trau chuốt hơn.
Việc Ki-tô giáo lan tràn nhanh chóng đánh động thánh ký Lu-ca. Ông khám phá sức sống kỳ diệu của Giáo Hội tiên khởi, vừa ở nơi tác động của Chúa Thánh Thần (tác động nầy chiếm một chỗ quan trọng trong sách Công Vụ), vừa ở nơi sức mạnh lời chứng của các Tông Đồ cũng như cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Ba lần thánh Lu-ca phác họa đời sống của các Ki-tô hữu nầy, chắc chắn hơi được lý tưởng hóa, nhưng thật sự là mẫu mực. Trong chu trình Phụng Vụ năm B nầy, chúng ta đọc bản tóm tắt thứ hai. Bản tóm tắt thứ nhất (Cv 2: 42-47) đã được đọc vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm A; còn bản tóm tắt thứ ba (Cv 5: 12-16) sẽ được đọc vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm C.
2. Một lòng một ý:
Cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn là một tập thể hỗn hợp: những người Ki-tô hữu gốc Do thái bản địa và những người Ki-tô hữu gốc Do thái hải ngoại (Cv 2: 9) sống cùng nhau tại Thành Thánh và các vùng phụ cận, họ thuộc đủ tầng lớp: giàu cũng như nghèo, dân thường cũng như tư tế (Cv 6: 7), không phân biệt nam hay nữ (Cv 5: 14).
Bất chấp những nguồn gốc và tầng lớp khác nhau nầy, họ đồng một lòng một ý với nhau: một niềm tin duy nhất gắn bó họ lại với nhau, niềm tin vào Đức Ki-tô phục sinh trong vinh quang.
Thánh Lu-ca cũng không cố tình che dấu những bất đồng, những tranh cãi nhỏ nhặt trồi lên ở giữa lòng cộng đoàn tạp nham nầy, ví dụ như những lời kêu trách của các Ki-tô hữu Do thái hải ngoại đối với những Ki-tô hữu Do thái bản địa, nhưng những bất đồng mà thánh ký gợi lên không tác động đến sự duy nhất trong cùng một niềm tin của họ.
3. Mọi sự đều là của chung:
Sự duy nhất niềm tin nầy tạo nên tình huynh đệ được cụ thể hóa bởi việc đặt của cải chung; điều nầy hàm chứa việc người giàu chia sẻ cho người nghèo những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hằng ngày như cơm ăn áo mặc. Việc chia sẻ nầy không bắt buộc, nhưng hoàn toàn tự nguyện. Phần tiếp theo của sách nêu gương ông Ba-na-ba, một thầy lê-vi thuộc đảo Sýp. Có một thửa đất, “ông bán đi lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4: 37).
Mẫu gương của cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn tạo nên những làn sóng thi đua. Lời chứng gần nhất với lời chứng của sách Công Vụ là cộng đoàn Ki-tô hữu Carthage cuối thế kỷ thứ hai. Cảnh tượng mà cộng đoàn nầy phô diễn về một cuộc sống huynh đệ đáng thán phục đã lay động nhà biện giáo Tết-tu-liên lừng danh và không lạ gì đã lôi kéo nhà biện giáo nầy theo. Ông hết lòng ca ngợi đức ái sống động của cộng đoàn nầy ở nơi việc chia sẻ của cải, lòng ưu ái đối với những người nghèo.
4. Không ai phải thiếu thốn.
“Tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các tông đồ”. Dường như thánh Lu-ca muốn mặc cho cử chỉ nầy một sắc thái phụng vụ. Quả thật, trong thời kỳ Ki-tô giáo đầu tiên, những của lễ mà các tín hữu dâng hiến đều được định vị trong khung cảnh phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể. Phụng sự Thiên Chúa hàm chứa “phục vụ anh em”. Không phải Bàn Tiệc Thánh Thể đã dâng hiến mẫu gương tuyệt vời nhất ở đó mọi người, giàu cũng như nghèo, đều đón nhận cùng một thức ăn thức uống đó sao?
5. Mỗi người đều được phân phát tùy theo nhu cầu.
Từ vựng mà thánh Lu-ca sử dụng ở đây thật đáng chú ý. Động từ “phân phát” được dùng ở đây cũng là động từ Đức Giê-su đã sử dụng khi Ngài bảo chàng thanh niên giàu có: “Hãy bán tất cả những gì anh có mà phân phát cho người nghèo” (Lc 18: 22). Việc ám chỉ đến Tin Mừng kết thúc bức tranh phác họa của thánh Lu-ca về cộng đoàn tiên khởi.
BÀI ĐỌC II 1Ga 5: 1-6
Sau bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị chúng ta suy niệm các bản văn của thánh Gioan: các thư và Tin Mừng Gioan, chung cho ba cả ba năm Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh. Điều này phù hợp với một truyền thống rất lâu đời (chỉ trừ Chúa Nhật III Phục Sinh, được trích từ Tin Mừng Lu-ca về hai người môn đệ trên đường Em-mau).
Ba bức thư không đề tên tác giả đều được quy cho thánh Gioan. Quả thật, tư tưởng và văn phong rất gần với sách Tin Mừng Gioan nên không thể không xếp chúng vào cùng một tác giả. Thư thứ nhất dài nhất và quan trọng nhất trong số ba bức thư nầy dường như gởi cho các cộng đoàn miền Tiểu Á bị tác động bởi các trào lưu ngộ đạo. Thánh Gioan nhấn rất mạnh trên đức tin. Chính nhờ đức tin mà chúng ta nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Đấng Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa. Không thể có niềm tin vào Thiên Chúa mà không có niềm tin vào Đấng Ki-tô.
Thánh Gioan liên kết mật thiết đức tin với đức ái, vì tiêu chuẩn của đức tin Ki-tô giáo chính truyền là đức ái đối với anh em đồng loại, nghĩa là, “yêu người đích thật” là hoa trái của “mến Chúa thực lòng”. Cuối cùng, thánh Gioan cũng liên kết đức tin với lời chứng của Chúa Thánh Thần.
1. Gắn bó với Đức Ki tô.
Hành vi đầu tiên của đức tin là gắn bó với Đức Giê-su Ki-tô. Hành vi nầy dẫn đưa chúng ta vào trong cung lòng của Chúa Cha, Đấng sinh chúng ta ra làm con cái Thiên Chúa về phương diện siêu nhiên và liên kết chúng ta với nhau trong mối tử hệ tình yêu nầy đến nỗi tình huynh đệ Ki-tô giáo là hệ luận tức khắc của đức tin.
Những khẳng định nầy là đòn đáp trả chí mạng cho những diễn từ sai lạc của hai trào lưu tư tưởng: học thuyết của những Ki-tô hữu gốc Do thái và ngộ đạo thuyết, đang hoành hành ở giữa lòng các cộng đoàn mà bức thư nầy gởi đến.
- Học thuyết của những Ki-tô hữu gốc Do thái:
Trào lưu thứ nhất xuất xứ từ những Ki-tô hữu gốc Do thái. Những người nầy không chấp nhận Đấng Mê-si-a bị đóng đinh, vì thế họ phân biệt ở nơi con người của Đức Giê-su, một phàm nhân, con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a, và một nhân vật được biến đổi thành Đấng Mê-si-a nhờ phép Rửa và nhờ việc Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trở thành Đấng Ki-tô (nghĩa là được xức dầu tấn phong), Đức Giê-su đã có thể công bố một sứ điệp siêu việt và thi hành các phép lạ, nhưng Đức Ki-tô thiên giới nầy tự tách ra khỏi Đức Giê-su phàm nhân vào giây phút Tử Nạn. Vì tự bản tính thần linh, Đức Ki-tô thiên giới nầy không thể nào chịu đau khổ và phải chết được.
Từ đó, chúng ta hiểu điểm nhấn của thánh Gioan: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Trong một đoạn văn trước đó, với một giọng điệu mãnh liệt hơn, thánh Gioan viết: “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô ? Kẻ ấy là tên phản Ki-tô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con” (1Ga 2: 22).
Hai tước hiệu: Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa, không ngừng được lập đi lập lại trong bức thư nầy.
- Ngộ đạo thuyết:
Trào lưu ngộ đạo nầy xuất xứ từ những Ki-tô hữu gốc lương dân. Họ nhạy bén trước những tư tưởng thần bí của các tôn giáo mầu nhiệm rất thịnh hành vào lúc đó, đặc biệt trong những miền Tiểu Á nầy được xem như chiếc nôi của chúng. Những người truyền bá trào lưu tư tưởng nầy cho rằng không cần thiết phải qua Đức Ki-tô để đến Thiên Chúa. Con người có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua ơn thần khải nội tâm, sự xuất thần hay thậm chí nghi thức khai tâm.
Chống lại những suy luận nầy, thánh Gioan đề cập đến tử hệ thần linh mà Chúa Cha ban ngay tức khắc cho những ai tin vào Con của Ngài. Ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, người ấy thật sự sinh ra từ Thiên Chúa. Người nầy không thể nào không yêu mến Chúa Cha, bởi vì chính Ngài là tác giả của sự sinh hạ siêu nhiên nầy.
Ngược lại với những suy luận trừu tượng nầy, thánh Gioan nêu lên việc thực hành “mến Chúa” và “yêu người” như tiêu chuẩn cơ bản của Ki-tô giáo chính truyền.
Tin và Đức Ái:
Từ đó, thánh Gioan dạn dĩ xác quyết: “Căn cứ vào điều nầy, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa”. Đức ái Ki-tô giáo cắm rễ sâu vào tận nguồn mạch Thiên Chúa. Thánh nhân tố cáo ngụy thần bí đức ái theo đó yêu thương anh em của mình chỉ vuông tròn trong một thứ tình cảm thuần túy nhân bản. Tổ ấm yêu thương độc nhất và chân thật là Thiên Chúa.
“Đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa, và thi hành các điều răn của Người”. Những điều răn nầy đã được xác định ở 3: 23, ở đó Chúa Cha đòi hỏi con người: phải tin vào Con của Ngài và phải yêu thương nhau. Việc đòi hỏi nầy không là gánh nặng: “Các điều răn của Người chẳng có gì là nặng nề”. Ở đây ám chỉ đến lời của Đức Giê-su: “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 30). Thánh Âu-tinh đã quảng diễn lời nầy trong một biểu thức danh tiếng: “Ở đâu có tình yêu ở đó không có sự nhọc mệt; hay nếu có sự nhọc mệt, thì sự nhọc mệt được yêu” (De bono viduitatis 26).
Đừng quên rằng những dòng nầy được ngỏ lời với những Ki-tô hữu trung thành sống điều răn kép: đức tin và đức ái, trong hoàn cảnh đầy khó khăn. Vị tông đồ an ủi họ: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian”.
Đây là một chủ đề mang đậm nét Gioan: người Ki-tô hữu sẽ chiến thắng thế gian (thế gian được hiểu theo nghĩa thế giới tội lỗi, từ chối tin như trong Tin Mừng thứ tư). Trong thư thứ nhất của thánh Gioan nầy, động từ “chiến thắng” lập đi lập lại đến sáu lần.
“Chúng ta thắng được thế gian, chính là nhờ lòng tin”. Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan xưng hô: “chúng ta”, như thế, thánh nhân liên kết mình vào cùng một cuộc chiến với những tín hữu của ngài. Thánh nhân nâng đỡ và khích lệ họ; ngài nhắc nhở cho họ lý do cuộc khải hoàn của họ: đối diện với mọi diễn từ sai lạc, họ đã giữ vững niềm tin vào tính toàn vẹn bất khả phân của Đức Giê-su. Vừa là Đấng Ki-tô vừa là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã tỏ mình ra không chỉ trong nước Thánh Tẩy của Ngài nhưng cũng trong máu Tử Nạn của Ngài, nghĩa là không chỉ trong nước mà thôi như những nhà ngụy giáo khẳng định, nhưng cả trong máu hiến tế của Ngài nữa. Đây không là một Đức Giê-su phàm nhân nhưng Con Thiên Chúa nhập thể đã đổ máu mình ra.
Chắc chắn thánh Gioan cũng nghĩ đến ân ban cao vời của Đấng Ki-tô, dù đã chết vẫn để máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của mình (Ga 19: 34-35). Vị tông đồ là chứng nhân nhãn tiền của những dấu chỉ về phép Thánh Tẩy và Bí Tích Thánh Thể.
3. Chúa Thánh Thần làm chứng:
Nếu nước và máu là những chứng từ hữu hình, thì cũng có một chứng từ vô hình khác, lời chứng của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chân lý chiến thắng sự sai lạc, đức tin chiến thắng lạc giáo, điều nầy chứng thực sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chính Ngài gìn giữ sự thật.
Ở nơi lời nhắc nhở đạo lý nầy, chúng ta nhận ra một cuộc bút chiến. Vài trào lưu ngộ đạo tự nhận mình là “thuộc Thần Khí” và viện dẫn những ơn đặc sủng của mình cũng như ánh sáng “thần khải” của mình là “thuộc Thần Khí”. Ấy vậy, hành động của Thần Khí chỉ được xem là chính truyền nếu hoạt động nầy làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện, bởi vì Chúa Cha làm chứng cho Chúa Con khi sai phái Chúa Thánh Thần đến. Đoạn trích thư này kết thúc với việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa thường hằng được lập đi lập lại trong bức thư thứ nhất này của thánh Gioan.
TIN MỪNG Ga 20: 19-31
Đây là một trong những trang Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: “Đức Giê-su của niềm tin thật sự là Đức Giê-su của lịch sử”. Chính các Tông Đồ chứng thực sự kiện Phục Sinh. Hơn nữa, nhờ sự cứng tin của một trong số họ, vài ngày sau đó, họ hưởng được một sự kiểm chứng.
Theo truyền thống, bản văn nầy được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, bởi vì thánh ký nói với chúng ta, Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau”, nghĩa là cũng vào “chiều ngày thứ nhất trong tuần” sau đó. Quả thật, chúng ta đọc thấy nơi bài tường thuật nầy hai tình tiết: Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho mười Tông Đồ vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, và Ngài hiện ra đặc biệt cho Tô-ma cũng vào buổi chiều thứ nhất trong tuần sau đó.
1. Đức Giê-su phục sinh hiện ra cho mười Tông Đồ (20: 19-23)
“Chiều thứ nhất trong tuần” tức là vào chính buổi chiều của biến cố Phục Sinh. Việc chỉ dẫn thời gian nầy rất quý: ngày thứ nhất trong tuần chính là ngày mà những người Ki-tô hữu đã rất sớm chọn để cùng nhau tham dự việc bẻ bánh, như vậy nhấn mạnh tính chất phục sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho thánh Tô-ma được định vị “tám ngày sau đó”, nghĩa là cũng chính ngày thứ nhất trong tuần sau đó.Các Tông Đồ họp nhau lại gồm mười vị bởi vì rõ ràng thiếu Tô-ma. Dường như Tô-ma đã không tha thiết gì đến việc hội họp với các Tông Đồ khác nữa. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ họ để thông báo cho họ những sự cố vừa mới xảy ra: việc khám phá ngôi mộ trống, quang cảnh khăn che mặt không để lẫn với những băng vải liệm, sự kiện bà Ma-ri-a Mác-đa-la trong số vài người phụ nữ nói đã thấy Đức Giê-su Phục Sinh và Ngài đã nói với bà…
Chúng ta đoán rằng các Tông đồ sống trong bầu khí hoang mang vừa hy vọng lẫn sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. Diễn ngữ “vì sợ người Do thái” được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Gioan, thậm chí trước cuộc Thương Khó, như cha mẹ của anh mù từ lúc mới sinh chỉ trả lời vòng vo “vì sợ người Do thái” (Ga 9: 22). Trong Tin Mừng thứ tư, người Do thái trước hết chỉ giáo quyền Giê-ru-sa-lem. Họ đã ra án tử cho Thầy bây giờ sẽ ra tay với các môn đệ chứ?
Và nầy, Đức Giê-su thình lình đứng giữa họ bất chấp “các cửa đều đóng kín”; Ngài tự đặt mình ở giữa nỗi hãi hùng xao xuyến của họ cũng như Ngài đã đồng hành bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên dường Em-mau (Lc 24: 13-32). Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ sớm biến thành niềm vui.
- Bình an cho anh em.
Đây là lời chào thường ngày theo phong tục tập quán của người Do thái, nhưng lời chào của Đức Giê-su trong bối cảnh này chẳng bao giờ là thường tình cả. Đức Giê-su đem sự bình an của Ngài, sự bình an mà Ngài đã hứa, đến cho những người nầy, những người đã bỏ rơi Ngài vì thất vọng. Ngài đem đến cho họ sự bình an qua sự hiện diện và sự tha thứ của Ngài: không một lời quở trách, không một ám chỉ đến bất kỳ kiếm khuyết của họ, đến nỗi cô độc mà họ đã bỏ rơi Ngài một mình trong cuộc khổ nạn của Ngài. Để cho họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho họ thấy những vết thương ở tay và cạnh sườn Ngài như những chiến tích và chính thức hóa sự đồng nhất của thân thể phục sinh của Ngài với thân thể chịu đóng đinh của Ngài.
Ở đây, chúng ta đánh giá tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, thân thể của Ngài không bị phân hủy trong ngôi mộ; và mặt khác, chính thân thể ấy mà Ngài hiện ra với các ông, chứ không như bóng ma: chỉ một thân thể đang sống, có thể đụng chạm, gặp gỡ tiếp xúc, chính thân thể ấy mang lấy những vết thương của cuộc khổ nạn. Lúc đó “các môn đệ thật sự tràn ngập niềm vui”.
- Những vết thương của cuộc khổ nạn:
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nêu lên những vết thương ở tay và cạnh sườn của Đấng Phục Sinh, trong khi thánh Lu-ca trong bài tường thuật song song viết: “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24: 40). Thánh Gioan là thánh ký duy nhất tường thuật tình tiết người lính Rô-ma lấy lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn của Đức Giê-su. Thánh ký đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân ban tột cùng từ cái chết của Đức Ki-tô. Thánh ký đã thấu hiểu ở đây dấu chỉ biểu tượng: cuộc sinh hạ Giáo Hội trong và bởi phép Thánh Tẩy và Bí Tích Thánh Thể. Ở đây, thánh ký nhấn mạnh thêm một lần nữa. Chính xác Giáo Hội chào đời vào buổi chiều Phục Sinh nầy, dưới hơi thở của Thần Khí và bởi việc sai các Tông Đồ đi thi hành sứ vụ.
Sự tương phản đáng ngạc nhiên: với những con người giam mình sợ hãi giữa bốn bức tường, trong căn phòng cửa khóa then cài, Đức Giê-su ra lệnh lên đường, ra đi gặp gỡ con người, “hết tất cả mọi người” không phân biệt một ai.
Vì mục đích sứ vụ nầy, Đức Giê-su tái tạo họ, chúng ta có thể nói như vậy, bằng cách thổi Thần Khí của Ngài, Đấng Phục Sinh, trên họ và ban cho họ được quyền tha thứ cho anh em mình… như Ngài đã hứa với họ: máu Ngài đã đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
2. Chúa Giê-su phục sinh hiện ra đặc biệt cho thánh Tô-ma (20: 24-29):
- Tô-ma cứng tin.
Thánh Tô-ma chắc chắn gắn bó rất mật thiết với Đức Giê-su; thánh nhân đã yêu mến Ngài và tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem sau cùng, ông đã hăm hở nói với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Người” (Ga 11: 16). Nhưng ông không ngờ Ngài phải chịu chết ô nhục trên thập giá; cái chết nầy đã làm giấc mơ của ông tan thành mây khói. Niềm thất vọng lẫn nỗi buồn phiền khiến ông tách biệt khỏi các bạn đồng môn khác. Chúng ta biết được nhân cách của Tô-ma chỉ nhờ Tin Mừng thứ tư. Tin Mừng nầy ba lần đặt ông vào hoạt cảnh.
Với một tâm trí thực tiển, trước đây ông đã nêu lên cho Đức Giê-su một câu hỏi thực tiển và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?” (Ga 14: 4-5); vì thế, ông từ chối tin vào sự kiện Phục Sinh nếu không có bằng chứng do chính ông kiểm chứng. Trong mỗi người chúng ta ẩn hiện một dáng dấp nào đó của thánh Tô-ma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
- Lời tuyên xưng của thánh Tô-ma:
Đức Giê-su cảm thương người môn đệ có tâm hồn bốc lửa nầy đang đắm chìm trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác đang hớn hở vui mừng; vì thế, Ngài bằng lòng đáp ứng những đòi hỏi của ông: Tám ngày sau, Chúa Giê-su lại hiện đến với các ông, đặc biệt với Tô-ma.
“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Bản văn không nói cho chúng ta biết thánh Tô-ma có thực sự làm đúng như Thầy bảo, nhưng đúng hơn ông lập lại điều mà thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi đi vào trong ngôi mộ: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Thánh Tô-ma có được bằng chứng của biến cố Phục Sinh, vì thế, ngay lập tức ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”.
Trong toàn bộ các sách Tin Mừng, đây là lần đầu tiên tước hiệu “Thiên Chúa” được ban cho “Đức Giê-su”. Tuy nhiên, còn dấu chỉ nào cho thấy Thần Tính của Ngài rực sáng hơn biến cố Phục Sinh? Tiếng kêu cá nhân của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông, vì Đức Giê-su đã quan tâm đặc biệt đến ông.
Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy nên anh mới tin”, đoạn, nghĩ đến tất cả những ai đã không được diễm phúc như ông, Đức Giê-su nhắn gởi đến đám đông bao la các tín hữu của mọi thời đại: “Phúc thay những người không thấy mà tin !”.
Đây là mối phúc duy nhất của Tin Mừng Gioan. Trước hết, mối phúc nầy chính xác dựa trên lời chứng của nhóm Mười Một, mà lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất.
Quan tổng trấn Philatô tra vấn Đức Kitô. Đức Kitô đứng yên lặng không trả lời. Philatô lên tiếng: PS2-166
Quan tổng trấn Philatô tra vấn Đức Kitô. Đức Kitô đứng yên lặng không trả lời. Philatô lên tiếng: “…Ông không biết là tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”
Đức Kitô lên tiếng: “Ông không có quyền gì trên nói nếu Thiên Chúa không ban cho ông”. Gn 19,10
Đức Kitô nhắc Philatô quyền hành ông hiện nắm giữ trên tay không phải tự ông có được mà chính là do ơn Trên ban cho. Vì là ơn trên ban cho nên có ngày ông cũng sẽ mất quyền đó. Chính vì nhận biết quyền đó không tồn tại suốt đời, không nắm vững trọn đời nên tốt hơn hết là xử dụng quyền đó một cách chân thành. Dùng quyền hành trong khả năng để bảo vệ sự sống, cổ võ công bình và sống thật thà, ngay thẳng.
Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và tổng trấn Philatô tưởng đâu đã đi vào quyên lãng, không ngờ mẩu đối thoại trên tồn tại cho đến ngày nay. Nó tồn tại đến ngày nay là vì nó liên quan đến Đức Kitô. Ngày nào còn có người tin vào Đức Kitô ngày đó mẩu đối thoại kia còn tồn tại. Không phải chỉ có mẩu đối thoại kia tồn tại mà chính những giáo huấn của Chúa cũng tồn tại. Đức Kitô sống lại từ cõi chết nên những gì lên quan đến Ngài cũng sống lại từ cõi chết. Giáo huấn của Ngài, việc Ngài làm, điều Ngài nói tất cả đều tồn tại và sống động. Những điều trước kia người ta sợ không dám loan truyền rộng rãi sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết tất cả đều được phô bày, dù nói nơi kín đáo, dù nói trong cung điện. Tất cả đều bộc lộ, đều được phơi bày ra ánh sáng. Nếu không được phô bày làm sao ngày nay chúng ta còn được nghe thuật lại những mảu đối thoại nơi cung cấm xưa.
Sự kiện Đức Kitô sống lại làm sống lại những gì câm nín trước kia. Tất cả dù tin hay không tin đều vướng vào vòng tranh biện về cái chết và sự sống lại của Ngài. Kẻ tin thì mau mắn rao giảng Tin Mừng cho muôn dân như được truyen dậy trước kia. Kẻ không tin, chống lại thì ngày đêm suy nghĩ tìm mưu, tính kế chống phá lại giáo huấn của Ngài. Như thế không ai có thể nói rằng, không biết, không nghe đến Đức Kitô. Chính những kẻ chống đối và câm nín nhiều nhất lại là người nghe được nhiều nhất. Nhóm đầu tiên tự thú chính là viên đội trưởng thi hành lệnh hành hình Đức Kitô. Đứng dưới chân thập tự ông chứng kiến giờ Đức Kitô sinh thì, trời u ám, đất rung chuyển. Vị đội trưởng đấm ngực ăn năn tự thú: “Người này quả là người công chính” Lc 23,47
Kế đến là nhóm chống đối và cũng là nhóm ra lệnh giết Đức Kitô đó là các Kinh Sư đền thờ và hàng qúi tộc nắm quyền sinh sát trong tay. Ba ngày trước đó họ tuyên án, ra lệnh cho thuộc hạ thi hành bản án ngay lập tức mà không thể đình vì sợ có thay đổi ngoài dự tính của họ. Họ vỗ ngực tự nhận là kẻ chiến thắng. Chiến thắng tồn tại đúng ba ngày họ hạ hối lộ thuộc cấp ra lệnh cho thuộc cấp phao tin thất thiệt. Các ngươi cứ nói là trong lúc chúng tôi ngủ môn đệ ông Kitô đến trộm xác. Nếu việc này đến tai quan tổng trấn đã có chúng ta lo, các ngươi sẽ không liên luỵ gì. Mat 28,15
Quả là lạ, quan quân hoàng gia, vũ khí trong tay lại thua các tông đồ tay không, chân đất. Quân canh, ngủ gục, không làm tròn trách nhiệm được cấp trên bao che. Bất công từ trong tổ chức đi ra. Lạm dụng quyền hành từ đầu đến cuối. Khởi đầu cuộc xét xử quan tổng trấn không cần biết sự thật. Ngài tuyên bố tha kẻ đó vô tội; ngài tuyên án kẻ đó có tội.
Nhóm lãnh đạo không thể giải thích lí do nào khiến môn đệ Đức Kitô chạy tán loại khi Ngài còn sống nhưng lại tụ họp lại, liên kết lại sau khi Đức Kitô qua đời. Lời nói mất tiền mua chuộc quân lính có quá nhiều kẽ hở cho công luận nhận xét.
Những kẻ không tin chắc chắn không nghe được tiếng nói lặng câm của Thánh Thần Chúa. Chính tiếng nói âm thầm thúc đẩy những người tin theo Đức Kitô mạnh dạn tiến ra ánh sáng, đối diện với sự thật dù có phải bách hại, đau khổ và kết án họ cũng sẵn sàng hy sinh để làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Trước Kia họ chạy trốn vì chưa nghe được tiếng nói lặng câm kia. Nghe được họ cất tiếng ca ngợi Lậy Chúa, Lậy Thiên Chúa.
Nếu tội lỗi, bất trung và phản bội làm cho con người chia rẽ, đánh mất tình liên đới thì lòng: PS2-167
Nếu tội lỗi, bất trung và phản bội làm cho con người chia rẽ, đánh mất tình liên đới thì lòng thương xót và tha thứ có thể hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Thực vậy, nếu con người cứ “lấy oán báo oán, oán sẽ chập chùng”. Cuộc đời chỉ đong đầy nước mắt bi ai của bạo lực và chiến tranh.
Tin mừng hôm nay như một lời minh chứng về lòng thương xót của Chúa dành cho các môn sinh. Chính lòng thương xót đã nối lại tình nghĩa thầy trò. Chính lòng thương xót của Chúa đã hàn gắn lại những đổ vỡ sau tuần Thương Khó. Với lòng thương xót, Chúa đã nhìn ra nhu cầu lúc này của các môn sinh là sự bình an của ơn tha thứ. Bởi lẽ trong đêm tối vườn cây dầu, các môn đệ đã “tan đàn xẻ nghé”. Họ như những lính bại trận. Thất vọng, hoang mang và lo sợ đến nỗi bỏ Chúa, bỏ nhau. Mỗi người một nơi. Mặc Thầy, mặc bạn. Đường ai ai nấy đi. Kẻ lẩn trốn. Kẻ về quê. Tất cả dường như đã quên lời hứa “nào chúng ta cùng lên Giêrusalem” để cùng chết với Thầy. Điều ray rức lương tâm nơi các môn sinh là mặc cảm tội lỗi. Họ đã hèn nhát bỏ chạy trong đêm tối vườn Cây Dầu. Họ đã bán Thầy, chối thầy và bỏ Thầy. Thế mà, ngay ngày đầu tiên Chúa sống lại, Chúa đã không sai người đi tìm kiếm và hỏi tội các ông, nhưng với một lời đầy yêu thương, Chúa đã nói với những người phụ nữ đến thăm mồ “Hãy đi báo tin cho anh em Ta. Ta sẽ chờ họ ở Galilêa”. Chữ “anh em” thay cho lời trách móc những kẻ phản bội, bất tín, bất trung. Chữ “anh em” dường như đã xoá hết những ngăn cách bởi mặc cảm tội lỗi nơi các môn sinh.
Thực vậy, khi Chúa hiện ra với các môn sinh, Ngài không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy trong đêm tối vườn Cây Dầu. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng theo lý luận thuần túy nhân loại. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Liệu rằng các ông có dám ngước mắt nhìn thẳng vào Thầy hay vẫn lấm lét, thẹn thùng đầy lo sợ, bất an như Adam năm xưa trong vườn địa đàng.
Hôm nay cũng là ngày kính nhớ “Lòng Thương Xót” của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta: hãy sám hối ăn năn vì những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Hãy tin vào tình thương tha thứ của Chúa để sửa đổi bản thân nên hoàn thiện hơn như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Xin đừng tiếp tục xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa. Xin đừng lợi dụng lòng thương xót của Chúa để tiếp tục sống buông thả trong những đam mê lầm lạc, những quan hệ bất chính, những thói đời gian dối hại người. Một cách đặc biệt là hãy dâng những hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về cùng Chúa. Đó là điều mà Chúa đang chờ đợi nơi mỗi người chúng ta. Vì thế giới hôm nay đang bị tục hoá bởi một trào lưu văn hoá phóng túng và sa đoạ.
Người ta phạm tội nhưng không còn ý thức về việc mình làm là tội. Người ta dùng thân xác để kinh doanh kiếm tiền. Hàng đêm vẫn còn đó biết bao cô gái dùng thân xác của mình để đổi lấy đồng tiền dơ bẩn. Hàng đêm vẫn còn đó những chàng trai rải tiền trên thân xác người khác để thoả mãn thú tính của mình. Thế giới tục hoá đã biến con người thành một sản phẩm, một mặt hàng có thể ngả giá bán công khai nơi đầu đường xó chợ. Người ta ước tính mỗi năm có hàng trăm ngàn cô gái tự nguyện và bị ép bán làm dâu cho ngoại bang để kiếm lấy vài triệu đồng cho gia đình thoát khỏi cảnh nghèo. Thế giới tục hoá đã đánh mất sự linh thánh nơi con người là “nhân linh hơn vạn vật”, nên dẫn đến tình trạng sát hại thai nhi như những anh đồ tể giết một con vật vô tri vô giác. Người ta ước tính hàng năm có hàng triệu thai nhi bị sát hại ngay trên quê hương với bốn ngàn năm văn hiến.
Ngày xưa khi dân thành Sođôma ăn chơi sa đoạ, sứ thần Chúa được sai đi tiêu hủy cả thành. Ông Abraham đã nài xin Chúa nguôi cơn thịnh nộ. Sứ thần Chúa đã chấp nhận lời thương lượng của ông: “vì 10 người công chính, Thiên Chúa sẽ tha phạt cho cả thành Sođoma”, nhưng khốn nỗi ông không tìm thấy đủ 10 người công chính nên cả thành đã bị tiêu diệt.
Có lẽ ngày nay Chúa đang cần những con người có tâm hồn thanh sạch lòng ngay. Chúa cần những con người như vậy để vì họ mà Chúa nguôi cơn thịnh nộ trút xuống địa cầu. Điều đó đã được Chúa mạc khải qua thánh nữ Faustina. Ngài muốn có nhiều người chấp nhận lòng thương xót vô bờ bến của Ngài để máu và nước đổ ra từ trái tim bị đâm thâu của Ngài có thể tẩy xoá, rửa sạch tội lỗi, và ban sự sống mới cho những ai tin nhận nơi Ngài. Ngài muốn có nhiều người như thánh nữ Fausina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Vâng, thế giới đang tục hoá. Con người đang đánh mất lương tri của mình. Tội lỗi ngày một gia tăng. Thiết tưởng mỗi người kytô hữu không chỉ sám hối và đền tội cho mình, mà còn cho cả nhân loại đang lao vào hố diệt vong của đời sống buông thả và sa đoạ. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina để thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con xin phó thác cuộc đời con, gia đình con và nhân loại hôm nay nơi lòng thương xót của Chúa. Chúng con xin dâng những hy sinh, lời cầu nguyện để bù cho những tội lỗi nhân gian”. Amen
Ông bà ta có câu: “Trăm nghe không bằng một thấy”, hay “Thấy mới tin”. Thật vậy, những gì có: PS2-168
Ông bà ta có câu: “Trăm nghe không bằng một thấy”, hay “Thấy mới tin”. Thật vậy, những gì có thể kiểm chứng bằng giác quan thì chúng ta sẽ tin và tin cách dễ dàng. Nhưng những gì không thể kiểm chứng bằng giác quan thì chúng ta không tin; hoặc giả như có tin, thì cũng chỉ tin là tin “vừa phải”, hay bán tín bán nghi.
Vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thánh Tôma không những không tin vào lời các tông đồ khác, mà còn đòi được kiểm chứng Đức Giêsu phục sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Như chúng ta biết, trong năm giác quan, thị giác và xúc giác là hai giác quan quan trọng nhất để giúp ta nhận biết một người hay một sự vật. Do đó, nếu Đức Giêsu đã thực sự sống lại, thì thánh Tôma đòi hỏi phải thấy và sờ để chắc chắn đó là chính Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá.
Vậy, đòi hỏi của thánh Tôma là một đòi hỏi chính đáng, một đòi hỏi trong đức tin và chân lý. Vì thế, tám ngày sau, Đức Giêsu hiện đến và nói với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Rồi Người vừa trách khéo vừa mời gọi và khích lệ ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Trước sự hiện diện của Đức Giêsu phục sinh, thánh Tôma vỡ òa niềm vui, và trong đức tin được kiện toàn, ngài reo lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Vì thế, Đức Giêsu âu yếm nhìn Tôma và nói: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
Như thế, Đức Giêsu đã cho Tôma biết rằng phép lạ, tuy là cần thiết, nhưng không phải là tất cả, không phải là tuyệt đối; và nhiều khi, đó chỉ là phần thưởng cho những người đã tin. Một đức tin kiện cường, đúng nghĩa thì không cần đến phép lạ: “Phúc cho những người không thấy mà tin!”.
Vậy, qua thánh Tôma, Đức Giêsu nói với chúng ta là tất cả những người tin, rằng: đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức Giêsu phục sinh hiện ra, hay việc thấy phép lạ, nhưng dựa trên lời chứng của các tông đồ là những người đã thấy. Và vì vậy, qua lời chứng của các tông đồ, “phúc cho những người không thấy mà tin!”.
Nhìn lại cuộc đời, chúng ta không khỏi giật mình khi thấy đức tin chúng ta còn yếu kém và thực dụng quá. Vậy nhờ lời chuyển cầu của thánh Tôma, chúng ta hãy xin Chúa Kitô Phục Sinh kiện toàn lòng tin cho chúng ta, để giữa trăm chiều thử thách của cuộc đời, chúng ta được kiên vững, được giữ mãi niềm tin sắt son; nhờ đó, chúng ta được trở nên những người đáng hưởng phần phúc Chúa Kitô phục sinh trao tặng; hầu qua đó, chúng ta được trở nên những chứng nhân trung thành của Chúa Kitô phục sinh giữa lòng thế giới hôm nay.
Gợi ý chia sẻ
1. Anh chị cảm nghiệm thế nào về sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh trong cuộc đời mình?
2. Là đoàn viên Đa Minh, anh chị áp dụng bài Tin Mừng hôm nay vào cuộc sống cụ thể của mình như thế nào?
Bài viết này dựa vào Tông thư “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót” [Rich in Mercy (Anh: PS2-169 LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
LỜI NGỎ: Bài viết này dựa vào Tông thư “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót” [Rich in Mercy (Anh ngữ), Dives in Misericordia (La ngữ)] của Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Đây là loại bài “cao cấp” nên rất khó lĩnh hội ngay, vì thế bạn cần đọc chậm và suy nghĩ nhiều theo linh hứng của Chúa Thánh Thần. Đừng đọc cả một lúc, mỗi lần đọc một ít. Chúc bạn được Chúa Thánh Thần linh hứng để hiểu đúng linh đạo này. Xin mời bạn!
Khi diễn tả Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), các sách Cựu ước dùng 2 cách diễn tả đặc biệt, mỗi câu đều có một sắc thái khác nhau về ngữ nghĩa.
Trước hết, thuật ngữ “hesed” ngụ ý một thái độ sâu sắc của “lòng tốt”. Khi điều này được thiết lập giữa hai cá nhân, họ không chỉ muốn tốt cho nhau mà họ còn tin tưởng nhau bằng sự thầm hứa trong lòng, và trung thành với nhau. Vì “hesed” cũng có nghĩa về ân huệ hoặc yêu thương, điều này xảy ra đúng theo nền tảng của lòng trung thành. Sự thật là sự tận tụy được nói tới không chỉ là đặc tính luân lý mà còn hầu như là đặc tính pháp lý tạo sự khác biệt.
Cựu ước dùng từ “hesed” để nói về Thiên Chúa, điều này luôn xảy ra khi liên kết với giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập với dân Israel. Đối với Thiên Chúa, giao ước này là tặng phẩm và ân huệ dành cho dân Israel. Do đó, Thiên Chúa đã hứa tôn trọng giao ước, “hesed” cũng cần một ý nghĩa hợp pháp phù hợp với giao ước.
Lời hứa theo pháp lý về phần Thiên Chúa bắt buộc dân Israel không được vi phạm giao ước và phải tôn trọng các điều kiện của giao ước. Nhưng ở điểm này, “hesed” không là pháp lý, được mặc khải phương diện sâu xa hơn, cho thấy chính nó là gì ngay từ đầu, nghĩa là tình yêu đã được trao ban, tình yêu mạnh hơn sự phản trắc và ân sủng mạnh hơn tội lỗi.
Lòng tín trung này đối với con-gái-bất-trung-của-dân-tộc: “Ngay cả lũ chó rừng cũng biết chìa vú cho con bú, thế mà con gái dân tôi lại dữ dằn hung bạo như đà điểu chốn hoang địa khô cằn. Thiếu nữ dân tôi gian ác tầy trời vượt xa cả Xô-đôm tội lỗi; thành đó bị đổ nhào trong nháy mắt, chẳng cần ai phải nhúng tay vào” (Ac 4:3, 6). Tóm lại, đối với Chúa, đó là lòng tín trung đối với chính Ngài. Điều này trở thành hiển nhiên thường xuyên ở cả hai dạng “tận tụy” mà chúng ta gặp (ân sủng và tín trung), có thể được coi là trường hợp của phép thế đôi (hendiadys, cách dùng liên từ “và” giữa 2 từ ngữ), ví dụ: Xh 34:6; 2 Sm 2:6; 15:20; Tv 25 [24]:10; 40 [39]:11-12; 85 [84]:11; 138 [137]:2; Mi 7:20).
“Ngươi hãy nói với nhà Israen: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ítraen, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến” (Ed 36:22). Do đó mà dân Israel, mặc dù nhiều tội lỗi vì vi phạm giao ước, không thể yêu cầu “hesed” của Thiên Chúa theo pháp lý, nhưng họ có thể và phải tiếp tục hy vọng và tin sẽ được điều đó, vì Thiên Chúa của giao ước thực sự “chịu trách nhiệm về tình yêu của Ngài”.
Thành quả của tình yêu này là ơn tha thứ và phục hồi ân sủng, tái lập giao ước nội tại. Từ ngữ thứ hai theo thuật ngữ Cựu ước xác định Lòng Thương Xót là “rahamim”.
Đây là sự khác biệt của “hesed”. Trong khi “sự tận tụy” làm nổi bật lòng tín trung của “trách nhiệm đối với tình yêu của mình” (theo nghĩa nam tính), “rahamim” theo chính nguyên ngữ đã bao hàm tình yêu của người mẹ (rehem = tử cung).
Từ hệ lụy nguồn gốc và sâu xa – thực sự là sự kết hợp – liên kết người mẹ với đứa con làm nảy sinh mối quan hệ đặc biệt với đứa con, một tình yêu đặc biệt. Với tình yêu này, người ta có thể nói rằng đó là “hoàn toàn cho không”, vô điều kiện, và về phương diện này nó cấu thành sự cần thiết nội tại: Tình trạng cấp bách của con tim.
Như vậy, đó là sự biến đổi “nữ tính” của lòng tín trung nam tính đối với chính nó được diễn tả bằng từ ngữ “hesed”. Đối với nền tảng tâm lý này, “rahamim” phát sinh một loạt cảm xúc, kể cả lòng tốt và dịu dàng, kiên nhẫn và hiểu biết, nghĩa là sẵn sàng tha thứ.
Cựu ước quy cho Thiên Chúa các đặc tính này khi dùng thuật ngữ “rahamim” để nói về Ngài. Chúng ta đọc thấy trong sách Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15).
Tình yêu này là lời cảm tạ tín thành đối với sức mạnh mầu nhiệm của tình mẫu tử, được diễn tả trong Cựu ước bằng nhiều cách: Cứu thoát khỏi mọi nguy hiểm, nhất là thoát khỏi kẻ thù; tha thứ tội lỗi – của từng người và của cả toàn dân Israel – cuối cùng là sẵn sàng làm trọn lời hứa và niềm cậy trông, mặc dù nhân loại bất trung, như chúng ta thấy trong sách Hôsê: “Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14:5).
Theo cách nói của Cựu ước, chúng ta cũng thấy những cách diễn tả khác, ngụ ý nhiều cách đối với ngữ cảnh cơ bản. Nhưng cả hai cách nói trên đều đáng lưu ý đặc biệt, cho thấy rõ phương diện theo thuyết hình người nguyên thủy (original anthropomorphic aspect): Khi diễn tả LCTX, các tác giả Kinh thánh dùng cách nói phù hợp với lương tâm và kinh nghiệm của những người đương thời.
Thuật ngữ Hy Lạp theo bản dịch “Bảy Mươi” (*) không cho thấy như bản cổ ngữ Do Thái: Vì thế nó không đưa ra tất cả sự khác biệt về ngữ nghĩa riêng đối với văn bản gốc. Dù ở mức nào, Tân ước cũng dựa vào sự phong phú và độ sâu ghi dấu cổ.
Theo cách này, chúng ta thừa hưởng từ Cựu ước – theo cách tổng hợp – không chỉ phong phú về cách diễn tả được các sách đó dùng để xác định LCTX, mà còn về “tâm lý” của Thiên Chúa theo thuyết hình người: Hình ảnh về tình yêu khắc khoải của Ngài, khi tiếp xúc với điều ác, nhất là với tội lỗi của cá nhân và dân tộc, được biểu hiện là LTX.
Hình ảnh này được tạo nên không chỉ về ngữ cảnh tổng quát của động từ “hanan” mà còn về ngữ cảnh của từ ngữ “hesed” và “rahamim”. Thuật ngữ “hanan” diễn tả một khái niệm rộng hơn, thực sự có nghĩa là cách biểu hiện của ân sủng, liên quan một bẩm chất kiên định (constant predisposition) là khoan hồng, nhân từ và thương xót.
Thêm vào các yếu tố ngữ nghĩa, khái niệm của Cựu ước về LCTX cũng được tạo nên từ những gì bao hàm trong động từ “hamal”, theo nghĩa đen là “tha chết” (một kẻ thù chiến bại) nhưng cũng “tỏ lòng thương xót và trắc ẩn”, vì thế mà tha thứ và miễn trừ tội lỗi.
Còn có thuật ngữ “hus” diễn tả lòng thương xót và trắc ẩn, nhưng đặc biệt mang ý nghĩa xúc động. Các thuật ngữ này xuất hiện ít hơn trong các văn bản Kinh thánh khi diễn tả LCTX.
Ngoài ra, nên chú ý từ ngữ “emet” đã được nói tới. Nó có nghĩa ban đầu là “sự vững chắc, sự an toàn” (theo Hy ngữ của bản Bảy Mươi là “chân lý”) và khi đó có nghĩa là “lòng thành tín”. Theo cách này, nó có vẻ liên kết với ngữ nghĩa riêng đối với thuật ngữ “hesed”. Ở cả 2 nơi, đó là trường hợp của “hesed”, nghĩa là lòng thành tín mà Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài đối với dân, trung thành với điều Ngài hứa là sẽ làm trọn trong tình mẫu tử của Mẹ Thiên Chúa (x. Lc 1:49-54), như Kinh thánh nói: “Chúa sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1:72). Đây cũng là trường hợp của LCTX theo nghĩa của từ “hesed”, theo mức của những câu theo sau, những câu mà Dacaria nói về “LTX nhân hậu của Thiên Chúa”, diễn tả rõ ràng nghĩa thứ hai, nghĩa là “rahamim” (bản La ngữ: Viscera Misericordiae), đồng hóa LCTX với tình thương của người mẹ.
CỰU ƯỚC
Cựu ước hiểu LCTX bằng cách dùng nhiều thuật ngữ có ý nghĩa liên quan, khác nhau bằng nội dung riêng, nhưng có thể nói được rằng chúng đều đồng quy từ những hướng khác nhau theo nghĩa cơ bản, diễn tả sự phong phú nổi bật và gần gũi với con người với các phương diện khác nhau.
Cựu ước khuyến khích mọi người chịu đựng nỗi bất hạnh, nhất là nỗi đau khổ do tội lỗi – như dân Israel được Thiên Chúa hứa ban giao ước – để cầu xin LTX của Thiên Chúa, và làm cho những nỗi bất hạnh đó trở thành niềm hy vọng, nhắc nhở về LCTX trong những lúc thất bại và mất niềm tin.
Cựu ước cũng luôn dâng lời tạ ơn về LCTX, thể hiện trong đời sống của toàn dân và mỗi cá nhân. Theo cách này, LCTX tương phản với sự công thẳng của Thiên Chúa theo nghĩa nào đó, và trong nhiều trường hợp được thể hiện không chỉ mạnh hơn mà còn sâu sắc hơn công lý. Cũng vậy, tình yêu tác động tới công lý, và cuối cùng thì công lý phục vụ tình yêu.
Cựu ước còn dạy rằng, dù công lý là một nhân đức đích thực nơi con người, và nơi Thiên Chúa biểu hiện sự hoàn hảo trong suốt, do đó mà tình yêu “lớn hơn” công lý – lớn hơn về ý nghĩa nguyên thủy và cơ bản.
Tính ưu việt và nổi trội của tình yêu có liên quan công lý – đây là dấu ấn của toàn bộ mặc khải – được mặc khải chính xác qua LTX. Điều này có vẻ minh nhiên đối với các tác giả thánh vịnh và các tiên tri mà công lý kết thúc theo nghĩa Ơn cứu độ được hoàn tất bởi chính Thiên Chúa và LCTX [Tv 40 (39):11; 98 (97):2; Is 45:21; Is 51:5 & 8; Is 56:1].
LCTX khác với công lý, nhưng không đối lập, nếu chúng ta nhận theo lịch sử con người – như Cựu ước đã thể hiện chính xác – sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa đã tự liên kết với thụ tạo của Ngài bằng một tình yêu đặc biệt.
Theo bản chất, tình yêu loại trừ thù hận và ý xấu đối với người mà Ngài đã trao tặng phẩm là chính mình: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Ngài đã làm ra” (Kn 11:24). Những từ này cho thấy cơ bản thâm sâu của mối quan hệ giữa công lý và LTX nơi Thiên Chúa, trong mối quan hệ của Ngài với con người và thế giới.
Những lời đó cho chúng ta biết rằng chúng ta phải tìm kiếm nguồn gốc của việc trao ban sự sống và các lý do thân thiết đối với mối quan hệ này bằng cách trở lại từ “sự bắt đầu”, trong chính mầu nhiệm sáng tạo. Những lời đó báo trước Giao ước cũ (Cựu ước), sự mặc khải viên mãn của Thiên Chúa, Đấng mệnh danh là “tình yêu” (1 Ga 4:15 & 16).
Nối kết với mầu nhiệm sáng thế là mầu nhiệm của sự chọn lựa, theo cách đặc biệt mà hình thành lịch sử con người có người cha tâm linh là Abraham nhờ đức tin. Do đó, qua dân tộc này mà các hành trình xuyên suốt lịch sử Cựu ước và Tân ước, mầu nhiệm của sự chọn lựa nói đến mỗi người trong đại gia đình nhân loại.
“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31:3). “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (Is 54:10). Sự thật này, đã từng được công bố với dân Israel, liên quan viễn cảnh của toàn lịch sử con người, cả viễn cảnh thời gian và thế mạt (Gn 4:2, 11; Tv 145 (144):9; Hc 18:8-14; Kn 11:23-12:1).
Đức Kitô mặc khải Chúa Cha trong cùng viễn cảnh và theo nền tảng đã được chuẩn bị, như nhiều trang Cựu ước mô tả. Cuối mặc khải này, vào đêm trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nói với tông đồ Philipphê lời đáng ghi nhớ này: “Thầy ở với anh em bấy lâu, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). TÂN ƯỚC
Ngay đầu Tân ước, hai tiếng nói vang lên trong Phúc âm thánh Luca phù hợp việc liên quan LCTX – một sự hài hòa vang dội cả truyền thống Cựu ước. Đức Maria vào nhà ông Dacaria, tán tụng Chúa bằng cả linh hồn vì LXT của Chúa, điều mà “từ đời nọ đến đời kia” được trao ban cho những ai kính yêu Ngài. Sau đó, khi Đức Mẹ nhớ lại sự tuyển chọn dân Israel, Đức Mẹ đã tuyên xưng LCTX mà Ngài đã chọn Đức Mẹ là người được mọi thời khen là “đầy ơn phúc” (x. Lc 1:49-54). Khi Gioan Tẩy giả chào đời, ông Dacaria ca tụng Thiên Chúa của Israel và tôn vinh Ngài vì đã tỏ LTX như đã hứa với các tổ phụ và vì đã nhớ giao ước thánh của Ngài (x. Lc 1:72). Đây cũng là trường hợp của LCTX theo nghĩa của từ “hesed”, điều mà ông Dacaria nói về “lòng nhân hậu của Thiên Chúa”, được diễn tả rõ theo nghĩa thứ hai, nghĩa là “rahamim” (La ngữ là viscera misericordiae), xác định LCTX như tình mẫu tử.
Trong giáo huấn của chính Chúa Giêsu, hình ảnh này kế thừa từ Cựu ước trở nên đơn giản hơn và sâu xa hơn. Đây có thể là điều hiển nhiên nhất trong dụ ngôn về đứa con hoang đàng (x. Lc 15:14-32). Dù từ ngữ “lòng thương xót” không xuất hiện, nhưng vẫn diễn tả rõ ràng bản chất của LCTX.
Đó là mầu nhiệm của LCTX, một kịch bản thâm thúy thể hiện Tình Cha đối với đứa con hoang đàng và tội lỗi. Người con đó không chỉ được hồi phục quyền làm con mà còn được tiếp tục thừa kế gia sản của người cha dù đã ăn chơi phung phí hết phần gia sản riêng. Ăn năn và trở về, nhận lỗi và xin lỗi, tất cả lại trở về nguyên trạng của người con. Tình Chúa quá bao la và kỳ diệu!
“Khi tiêu xài hết mọi thứ”, người con “bị túng quẫn”, nhất là “nạn đói xảy ra trong vùng đó” đến nỗi người con “thèm ăn cám heo” mà cũng không được ăn, thế là người con phải quyết định về nhà cha: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà mình ở đây lại chết đói!” (Lc 15:17). Việc trở về của người con có thể chỉ là vạn bất đắc dĩ, nhưng ít nhiều gì anh cũng nhận thấy mình bất xứng và chỉ dám xin cha coi mình như tôi tớ: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15:18-19). Thế nhưng anh không thể tin những gì anh thấy: Người cha ra ôm anh vào lòng, làm tiệc mừng, cho mang đồ mới và giày mới. Dụ ngôn này đã “chạm” đến giao-ước-tình-yêu, “chạm” đến mọi tình trạng mất ân sủng và mọi tội lỗi.
Theo nhận thức, người con này lý luận để khả dĩ thấy rằng mình đã hoàn toàn bất xứng, không còn mối quan hệ mật thiết của tình phụ tử. Do đó mà người con quyết định đứng dậy và trở về với cha. Dám trở về là can đảm, vì dù sao cũng đã bẽ mặt và nhục nhã, nhưng không mặc cảm tội lỗi. Người con hoang đàng nhận thấy mình không có quyền đòi hỏi gì nữa, không đáng là con, may lắm cũng chỉ mong được làm người giúp việc trong nhà cha mình thôi. Người con đã nhận thức đầy đủ về tình trạng bất xứng của mình và “đáng đời” thế nào theo công lý. “Quyết định dứt khoát trở về” là động thái rất quan yếu. Lúc đó, con người phải giằng co âm thầm rất mãnh liệt. Đó chính là động thái trưởng thành trong đức tin – tin vào LCTX và tin mình được thứ tha.
Trong dụ ngôn “người con hoang đàng”, thuật ngữ “công bình” không được dùng, và trong nguyên bản cũng không dùng từ “lòng thương xót”. Mối quan hệ giữa công bình và yêu thương được biểu hiện như LCTX, đồng thời được khắc sâu bằng tính chính xác trong nội dung của dụ ngôn.
Rõ ràng hơn là tình yêu được biến đổi thành LCTX khi cần có quy luật chính xác của sự công bình. Người con hoang đàng không còn xứng đáng sau khi ăn chơi sa đọa, trắng tay khi trở về với cha, nhưng được cha tha bổng, và dần dần người con được vun đắp về vật chất và tinh thần, dù có thể không bao giờ được đầy đủ như xưa. Tình phụ tử được khôi phục là nhờ tính cao thượng và tình thương của người cha.
Mối quan hệ như vậy không bao giờ có thể bị thay đổi hoặc bị phá hủy bằng bất cứ động thái nào. Người con hoang đàng biết vậy và biết mình phải làm gì để chuộc lỗi lầm, đó là lúc người ta biết rõ mình để có thể sống khiêm nhường hơn.
Hình ảnh người con hoang đàng giúp chúng ta nhận biết LCTX là gì và như thế nào. Chắc chắn đây là mặc khải về Thiên Chúa Cha, giúp chúng ta tái phát hiện cách nhìn của Cựu ước về LCTX luôn mới, vừa đơn giản vừa sâu xa.
Người cha của đứa con hoang đàng luôn trung thành với cương vị làm cha, trung thành với tình yêu bao la mà ông luôn dành cho con mình. Do đó mà người cha luôn chờ đợi và sẵn sàng tha thứ nếu đứa con biết trở về. Tình yêu ấy là LTX, kỳ lạ đến nỗi không ai khả dĩ hiểu hết. Người cha ấy đã tha thứ thì không còn phân biệt gì so với đứa con vẫn ngoan ngoãn ở với mình. Người con ngoan ngoãn đã so đo nhưng người cha đã phân tích rõ ràng để huynh đệ vẫn hiếu thuận với nhau.
Người cha trung tín với chính mình – một đặc điểm mà Cựu ước dùng thuật ngữ “hesed” – ngay khi diễn tả bằng cách thể hiện tình phụ tử. Thật vậy, chúng ta đọc thấy rằng khi người cha thấy đứa con hoang đàng trở về, ông đã chạnh lòng trắc ẩn, chạnh LTX, chạy ra đón nó, ôm nó trước khi nó ôm mình, rồi hôn nó (Lc 15:20). Chắc chắn ông làm điều này vì yêu thương con sâu sắc lắm, và điều này cũng bày tỏ lòng đại lượng dành cho con, lòng đại lượng đó đã khiến người con lớn phải tức giận. Lời người cha nói với người con lớn giản dị mà thâm sâu: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:32).
Trong Phúc âm của thánh sử Luca có dụ ngôn Con Chiên Lạc (x. Lc 15:4-7) và dụ ngôn Đồng Bạc Bị Mất (x. Lc 15:8-9). Mỗi lần đều có mức nhấn mạnh tương tự về niềm vui có trong trường hợp của đứa con hoang đàng (x. Lc 15:11-32). Lòng thành tín của người cha hoàn toàn được tập trung vào tính nhân bản đối với đứa con hư hỏng, về nhân phẩm của đứa con.
Điều này giải thích mọi niềm vui nỗi mừng lúc đứa con trở về nhà. Do đó người ta có thể nói rằng tình thương dành cho đứa con là tình yêu xuất phát từ chính bản chất tình phụ tử, theo cách thức bắt buộc người cha quan tâm đến nhân phẩm của đứa con. Mối quan tâm này là thước đo tình yêu thương của người cha, tình yêu thương mà thánh Phaolô diễn tả: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn” (1 Cr 13:4-8).
Lòng Thương Xót – như Đức Kitô đã bày tỏ trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (hoặc dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng) – có dạng nội tại của tình yêu trong Tân ước gọi là “agape”. Tình yêu thương này có thể đạt tới mọi đứa con hoang đàng, tới mọi nỗi khổ đau của con người, tới cả nỗi khốn khổ luân lý và tội lỗi.
Khi điều này xảy ra, con người là khách thể của LTX mà không hề cảm thấy bị hạ nhục, mà cảm thấy lại được tìm thấy và “được phục hồi giá trị”. Người cha bày tỏ niềm vui mừng đối với đứa con vừa “được tìm thấy” và như “chết sống lại”.
Niềm vui này thể hiện cái tốt nguyên trạng, dù đứa con hoang đàng cũng không thể ngăn cản tình cha thương con. Niềm vui đó còn thể hiện cái tốt lại được tìm thấy, khi đứa con trở về thú nhận tội lỗi. Điều xảy ra giữa mối quan hệ phụ tử trong dụ ngôn của Chúa Giêsu không được đánh giá “từ bên ngoài”. Định kiến của chúng ta về LTX đa số là hậu quả của việc chúng ta đánh giá theo bề ngoài.
Thi thoảng điều này xảy ra bằng cách theo phương pháp đánh giá mà chúng ta thấy trong LTX vượt trên mọi mối quan hệ bất bình đẳng giữa người trao LTX và người nhận LTX. Do đó, chúng ta vội vã “chiết khấu” LTX mà “thu nhỏ” người nhận, cho nên chúng ta xúc phạm nhân phẩm người khác.
Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng cho thấy thực tế khác hẳn: Mối quan hệ của LTX dựa trên kinh nghiệm chung của cái tốt là con người, kinh nghiệm chung của phẩm chất đúng nơi con người. Kinh nghiệm chung này làm cho đứa con hoang đàng bắt đầu tự nhận thấy mình và hành động của mình bằng sự thật trọn vẹn (đó là khiêm nhường). Mặt khác, vì chính lý do này mà đứa con trở thành cái tốt riêng của người cha: Người cha thấy rõ cái tốt đạt được nhờ mầu nhiệm của chân lý và yêu thương để người cha có vẻ quên mọi tội lỗi mà đứa con đã phạm.
Hoán cải là cách diễn tả cụ thể nhất về tác dụng của tình yêu và sự hiện hữu của LTX trong thế giới loài người. Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng diễn tả theo cách đơn giản nhưng sâu sắc trong thực tế cải tà quy chánh.
Ý nghĩa riêng và đúng của LTX không chỉ bao gồm trong cách nhìn, mà còn xuyên suốt và đầy lòng trắc ẩn: LTX được diễn tả về phương diện đúng và riêng khi LTX phục hồi để đánh giá, thúc đẩy và thu hút những điều tốt từ mọi dạng của điều xấu hiện hữu trong thế giới và trong con người. Hãy hiểu theo cách này, LTX cấu thành nền tảng của sứ vụ cứu độ và sức mạnh trong sứ vụ của Đức Kitô.
Các tông đồ và các môn đệ của Ngài đã hiểu và thực hành LTX như cách của Ngài. LTX không bao giờ ngừng mặc khải, bằng tâm khảm và trong hành động, như bằng chứng hùng hồn về tình yêu: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (x. Rm 12:21). Khuôn mặt đích thực của LTX phải được mặc khải theo cách mới. Mặc dù có nhiều định kiến, LTX vẫn thực sự rất cần thiết trong thời đại chúng ta.
LCTX được mặc khải trên Thánh giá và trong sự Phục sinh
Sứ vụ của Đức Kitô và hoạt động của Ngài giữa nhân loại kết thúc bằng cái chết trên Thập giá và sự Phục sinh. Chúng ta phải thẩm thấu sự kiện cuối cùng này, nhất là theo ngôn ngữ của Công đồng Vatican II xác định là Mầu nhiệm Vượt qua (Mysterium Paschale) – nếu chúng ta muốn diễn tả sâu sắc sự thật về LTX, như được mặc khải trong lịch sử cứu độ.
Ở mức cân nhắc này, chúng ta phải tiếp cận Tông thư Redemptor Hominis (Gioan Phaolô II, 1978). Thật vậy, thực tế của ơn cứu độ, theo chiều kích con người, đã mặc khải những điều chưa từng nghe biết – về sự cao cả của con người, như Bài Exsultet(công bố trong đêm Vọng Phục Sinh) mô tả: “Tội hồng phúc đã ban cho chúng ta Đấng cứu chuộc rất cao sang”, ngay lúc chiều kích cứu độ của Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể hồi sinh theo cách kinh nghiệm nhất và lịch sử nhất, để tiết lộ chiều sâu của tình yêu không không chùn bước trước sự hy sinh khác thường của Chúa Con, để thỏa mãn lòng trung thành của Chúa Cha đối với loài người, tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài và chọn chúng ta từ khởi nguyên, nơi Chúa Con, đối với ân sủng và vinh quang.
Các sự kiện của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thậm chí trước đó, trong lời cầu nguyện tại Ghết-si-ma-ni, giới thiệu sự thay đổi nền tảng của toàn bộ sự mặc khải về tình yêu và LTX trong sứ vụ của Đức Kitô. Ngài “thi ân giáng phúc, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10:38), đồng thời “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9:35), chính Ngài thực hiện LTX và kêu gọi LTX, khi Ngài bị bắt, bị đối xử tệ, bị kết án, bị đánh đòn, đội vòng gai, bị đóng đinh vào Thập giá và chết trong đau đớn vô cùng (x. Mc 15:37; Ga 19:30).
Lúc đó Ngài xứng đáng nhận LTX từ những người mà Ngài đã làm tốt cho họ, nhưng Ngài đã không nhận được. Ngay cả những người thân tín nhất cũng không thể bảo vệ Ngài khỏi kẻ ác. Ở giai đoạn cuối cùng của sứ vụ, các lời tiên tri, nhất là của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ Đau Khổ, hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Kitô: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:5).
Đức Kitô, là người chịu đau khổ trong Vườn Cây Dầu và trên đồi Can-vê, đã thưa với Chúa Cha rằng Ngài đã thể hiện tình yêu của Chúa Cha cho mọi người. Nhưng Ngài cũng không được thoát khỏi đau khổ và cái chết trên Thập giá: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21).
Thánh Phaolô viết về chiều kích thực tế của ơn cứu độ. Chính ơn cứu độ này là mặc khải tính thánh thiêng của Thiên Chúa, Đấng hoàn thiện, đầy đủ công lý và yêu thương, vì công lý dựa trên yêu thương.
Trong cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, Chúa Cha không tha chính Con mình, nhưng “vì chúng ta mà tự nhận thân phận như tội nhân”, công lý được diễn tả, Đức Kitô chịu đau khổ và chấp nhận Thập giá vì tội lỗi nhân loại. Điều này cấu thành “sự dồi dào” của công lý, vì tội lỗi của loài người “được đền bù” nhờ sự hy sinh của Thiên-Chúa-Làm-Người.
Công lý này là “tiêu chuẩn của Thiên Chúa”, hoàn toàn nhiệm xuất từ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con, và sinh hoa kết trái trong tình yêu. Vì thế, công lý của Chúa mặc khải trên Thánh giá của Đức Kitô là “chiều kích cùa Thiên Chúa” vì nhiệm xuất từ tình yêu và được hoàn tất trong tình yêu, sinh ra hoa trái ơn cứu độ. Ơn cứu độ liên quan sự mặc khải về LTX viên mãn.
Chiều kích ơn cứu độ được đặt trong hiệu quả không chỉ bằng cách đem lại công lý để chịu đựng tội lỗi, mà còn phục hồi tình yêu nơi con người, vì chính con người đã từng viên mãn sự sống và sự thánh thiện đến từ Thiên Chúa. Theo cách này, ơn cứu độ liên quan sự mặc khải về LTX một cách viên mãn.
Mầu nhiệm Vượt qua là tột đỉnh của sự mặc khải này và hiệu của cùa LTX, có thể biện hộ cho con người, phục hồi công lý theo nghĩa của mệnh lệnh cứu độ mà Thiên Chúa đã muốn từ khi tạo dựng nhân loại. Cuộc khổ nạn của Đức Kitô nói theo cách đặc biệt đối với con người, không chỉ với người có niềm tin.
Những người không có niềm tin cũng có thể khám phá nơi Ngài về mối liên kết với số phận con người, cũng như sự hài hòa trọn vẹn của sự dấn thân vô vị lợi vì con người, vì chân lý và vì yêu thương. Nhưng chiều kích của Mầu nhiệm Vượt qua còn thâm thúy hơn. Thập giá trên đồi Can-vê, nơi mà Đức Kitô đã đối thoại lần cuối với Chúa Cha, nổi bật lên từ chính trái tim yêu thương của con người, vốn được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa, đã được làm thành tặng phẩm theo kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.
Như Đức Kitô đã mặc khải, Thiên Chúa không chỉ thân thiện với thế giới với tư cách Tạo hóa và nguồn hiện hữu, mà Ngài còn là Cha: Ngài liên kết với con người, và Ngài mời gọi họ hiện hữu trong thế giới vô hình, bằng mối liên kết thân mật hơn. Đó là tình yêu không chỉ tạo điều tốt mà còn cho tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì Ngài yêu thương và muốn trao ban chính Ngài. Và Ngài cũng mời gọi chúng ta chia sẻ chân lý và tình yêu nơi Thiên Chúa.
Tín điều Công đồng Nicê-Constantinopolitan xác nhận: “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Thập giá là bằng chứng tuyệt vời về giao ước của Thiên Chúa đối với nhân loại – mỗi con người đều là giao ước này. Thập giá là giao ước mới đã được thiết lập trên đồi Can-vê, không hạn chế với một người nào.
Thập giá của Đức Kitô nói gì với chúng ta? Thập giá lại cho chúng ta một sứ điệp quan trọng: “Đức Kitô phục sinh”.
Những người thấy ngôi mộ trống trở thành nhân chứng về Đức Kitô phục sinh. Nhưng ngay trong vinh quang Thiên Chúa, Thập giá vẫn còn. Thập giá đó vẫn nói và không ngừng nói về Thiên Chúa Cha, Đấng tuyệt đối trung tín với tình yêu đời đời của Ngài đối với con người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
LTX là tình yêu tuyệt đối. Tin vào tình yêu này là tin vào LCTX. Tin vào Chúa Con bị đóng đinh là “thấy Chúa Cha” (x. Ga 14:9), nghĩa là tin tình yêu đó hiện hữu trong thế giới và tình yêu này mạnh hơn mọi điều ác nơi mọi người, nơi nhân loại, hoặc cả thế gian. LCTX là chiều kích tuyệt đối của tình yêu.
Tình yêu mạnh hơn tử thần và mạnh hơn tội lỗi
Thập giá của Đức Kitô trên đồi Can-vê cũng là nhân chứng đối với sức mạnh của sự ác chống lại Con Thiên Chúa, chống lại một người con trong những người con của nhân loại, con người đó có bản chất vô tội, chống lại những người sinh ra trong thế gian chưa bị hoen ố vì sự bất tuân phục của Adam và ảnh hưởng Tội nguyên tổ. Và ở đây, chính nơi Đức Kitô, công lý được thực hiện đối với tội lỗi bằng giá máu hy sinh của Ngài, bằng cách “vâng lời cho đến chết trên Thập giá” (Pl 2:8).
“Ngài chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài” (2 Cr 5:21). Công lý cũng được đem tới để liên quan cái chết, mà từ đầu lịch sử nhân loại đã bị nối kết với tội lỗi. SỰ chết đã được công lý thực hiện bằng giá của cái chết của Con Người không hề có tội và chiến thắng bằng cái chết: “Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (x. 1 Cr 15:54-57).
Chúa Con, Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, đã hoàn lại công lý cho Thiên Chúa bằng chính Thập giá, đồng thời mặc khải LTX, đó là tình yêu trái ngược với những gì cấu thành nguồn gốc điều ác trong lịch sử nhân loại: chống lại tội lỗi và sự chết.
Thập giá là sự hạ mình sâu thẳm nhất của Thiên Chúa đối với loài người và những số phận bất hạnh của loài người – nhất là những lúc khó khăn và đau khổ. Thập giá như là “cách tiếp xúc” của tình yêu vĩnh hằng đối với những vết thương của loài người; đó là sự hoàn tất trọn vẹn của chương trình cứu độ nhân loại mà Đức Kitô đã bày tỏ tại Đền Thờ ở Nadarét (x. Lc 4:18-21) và đã được ngôn sứ Gioan Tẩy giả lặp lại (x. Lc 7:20-23).
Theo cách nói của tiên tri Isaia (x. Is 35:5; 61:1-3), chương trình này cốt ở việc mặc khải về LCTX đối với người nghèo, người đau khổ, tội nhân, người mù, người bị đàn áp và bị bóc lột. Trong Mầu nhiệm Vượt qua, các giới hạn của “sự dữ đa chiều” mà nhân loại “ăn chia” đã bị vượt qua: Thật vậy, Thập giá của Đức Kitô làm chúng ta hiểu căn nguyên sâu xa của sự dữ, đã bị gắn sâu trong tội lỗi và sự chết; vì thế Thập giá trở nên dấu hiệu tận thế (eschatological sign).
Chỉ trong sự hoàn tất cuối cùng và sự canh tân cuối cùng của thế giới mà tình yêu sẽ chiến thắng, trong những người Chúa chọn, hoa trái chín muồi của vương quốc sự sống và vinh quang bất tử. Việc thiết lập sự hoàn tất cuối cùng này có nơi Thập giá của Đức Kitô và trong cái chết của Ngài.
“Chúa Giêsu đã sống lại vào ngày thứ ba” (x. 1 Cr 15:4), điều đó cấu thành dấu hiệu cuối cùng của sứ vụ cứu độ, dấu hiệu hoàn tất toàn bộ mặc khải về LCTX trong thế-gian-bị-cái ác-chế-ngự. Đồng thời cấu thành dấu hiệu tiên báo “trời mới và đất mới” (Kh 21:1), lúc “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:4).
Trong sự hoàn tất cuối cùng, LCTX sẽ được mặc khải là tình yêu, trong khi trên thế gian, trong lịch sử nhân loại, cùng với lịch sử của tội lỗi và sự chết, tình yêu phải được mặc khải là LCTX và cũng phải được hiên thực hóa là LCTX. Chương trình cứu độ của Đức Kitô, chương trình của LTX, trở thành chương trình của Dân Ngài, chương trình của Giáo hội.
Ngay tại trung tâm của chương trình đó luôn có Thập giá, vì chính nơi Thập giá mà sự mặc khải LCTX đạt tới đỉnh cao. Khi “những cái cũ bị tẩy sạch” (x. Kh 21:4), Thập giá vẫn còn được dẫn chứng những từ ngữ trong sách Khải huyền của Thánh Gioan: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:20).
Theo cách đặc biệt, Thiên Chúa cũng mặc khải LTX khi Ngài mời gọi nhân loại “thương xót” Con Một Ngài là Đấng-bị-đóng-đinh. Đức-Kitô-bị-đóng-đinh chính là Ngôi-Lời-không-qua-đi: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt 24:35), và Ngài là người “đứng trước cửa và gõ vào cửa lòng của mỗi người” (x. Kh 3:20), không hạn chế tự do nhưng tìm cách rút ra từ chính lòng yêu chuộng tự do, đó không chỉ là hành động đoàn kết với Con-Người-chịu-đau-khổ (Đức Kitô), mà còn là dạng LTX được mỗi người trong chúng ta thể hiện với Con của Chúa Cha hằng hữu.
Trong toàn bộ chương trình cứu độ của Đức Kitô, trong toàn bộ mặc khải về LTX qua Thập giá, phẩm giá con người có thể được tôn trọng hơn và được đề cao hơn, vì đạt được LTX. Đức Kitô đã xác định: “Các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40). Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu nói đến một trong Bát Phúc (Tám mối phúc thật): “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Điều đó cấu thành một bản tổng hợp của toàn bộ Tân ước, toàn bộ “sự trao đổi tuyệt vời” (admirable commercium) bao gồm trong đó. Sự trao đổi này là luật của kế hoạch cứu độ, luật này vừa đơn giản, vừa mạnh mẽ, vừa dễ dàng.
Thể hiện ngay từ đầu những gì mà “trái tim con người” có thể thương xót, những từ ngữ này không từ Bài Giảng Trên Núi mặc khải viễn cảnh mầu nhiệm thẳm sâu của Thiên Chúa: Tính đồng nhất bí ẩn của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, trong đó tình yêu bao gồm công lý, đặt trong LTX, mặc khải sự hoàn hảo của công lý.
Mầu nhiệm Vượt qua là Đức Kitô ở đỉnh cao của sự mặc khải về mầu nhiệm bí ẩn của Thiên Chúa. Đó là những lời được nói đã hoàn toàn nên trọn: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14:9). Thật vậy, Đức Kitô là Đấng mà Chúa Cha “cũng không tha” (Rm 8:32) vì nhân loại, Đấng phải chịu khổ hình Thập giá đã không được nhân loại thương xót, Đấng đã mặc khải tình yêu viên mãn trong sự phục sinh của Ngài mà Chúa Cha đã dành cho Ngài, nơi Ngài, và cho nhân loại: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống” (Mc 12:27).
Trong sự phục sinh, Đức Kitô đã mặc khải Thiên Chúa của LTX, vì Ngài đã chấp nhận Thập giá là đường tới phục sinh. Vì thế, khi chúng ta nhớ tới Thập giá, cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức Kitô, đức tin và đức cậy của chúng ta tập trung vào Đấng Phục Sinh: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20:19-20). Rồi Ngài nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23).
Ở đây Chúa Con có kinh nghiệm về LTX đã được thể hiện với Ngài, nghĩa là tình yêu của Chúa Cha mạnh hơn Tử thần. Đức Kitô cũng vậy, vào lúc cuối của sứ vụ cứu độ, Ngài đã mặc khải chính Ngài là Nguồn Thương Xót vô tận, về chính tình yêu ấy, trong viễn cảnh lịch sử cứu độ nơi Giáo hội, được xác nhận là lớn hơn mọi tội lỗi của nhân loại.
Đức Kitô Vượt Qua là hiện thân cuối cùng của LTX, dấu hiệu sống động trong lịch sử nhân loại cho đến tận thế. Trong tinh thần đó, phụng vụ mùa Phục sinh đặt trên môi miệng chúng ta những lời của Thánh vịnh:“Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” [Tv 89 (88):2].
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác nơi Ngài!
…………………. (*) Septuagint, quen gọi là Bản Bảy Mươi. Bản Kinh thánh phổ thông (Vulgate) chủ yếu là công của thánh Giêrônimô, và được ĐGH Damasus I ủy nhiệm năm 382. Lúc đó, bản này là tiêu chuẩn trong Giáo hội, nhưng đến thế kỷ XVI có vài trăm bản được in, với nhiều thay đổi. Công đồng Trentô tuyên bố rằng Bản Kinh thánh phổ thôn là xác thực khi đọc công khai, tranh luận, giảng thuyết và bình luận, và truyền lệnh xem xét kỹ lưỡng. Nghĩa là bản phổ thông này là bản Kinh thánh chính thức của Giáo hội. Bản này cũng được Công đồng Vatican I và Vatican II sử dụng. The Divine Mercy.org Chuyển ngữ: Trầm Thiên Thu
Bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 20, 19 – 31 ) kể lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh với cộng: PS2-170
Bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 20, 19 – 31 ) kể lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh với cộng đoàn Hội Thánh.
1. Chúa Phục Sinh và cộng đoàn thừa sai ( cc. 19 – 23 )
“Chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em !” ( c. 19 ). Đấng Phục Sinh “đứng giữa các ông”, tức là Người hiện diện giữa công đoàn, làm trung tâm của cộng đoàn. Chính Người là nguồn sống, là trung tâm hiệp nhất toàn thể cộng đoàn đang tan tác vì sợ hãi. Người chào các môn đệ: “Bình an cho anh em !” Lời chào này có giá trị bắt đầu cuộc gặp gỡ, nhưng không phải là một lời chào theo công thức sáo rỗng. Thực sự đây là một lời hữu hiệu, vì là lời của Đấng Phục Sinh.
Trước khi đi vào Giờ Vượt Qua của Người, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy cho anh em bình an của Thầy… Anh em đã nghe Thầy nói: ‘Thầy ra đi và Thầy trở lại với anh em…” ( 14, 27 – 28 ). Sự bình an đó được đặt cơ sở trên chiến thắng của Đức Giêsu đối với thế gian: “Trong Thầy, anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ gặp gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” ( 16, 33 ). Như thế, lời chào bình an của Đấng Phục Sinh cũng đồng thời là lời khẳng định chiến thắng của Người trên thế gian và vì thế, là lời ban bình an thật sự.
“Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người” ( c. 20a ). Cho xem tay và cạnh sườn ở đây là Đức Giêsu cho các môn đệ nhận biết Người đang hiện diện giữa họ. Tay và cạnh sườn mang những dấu tích của cuộc hành hình thập giá cho biết Đấng Phục Sinh đang hiện diện giữa họ đây cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá. Và điều này là bảo đảm chắc chắn cho tính xác thực và hữu hiệu của ơn bình an mà Người ban cho họ khi nói “Bình an cho anh em”. Họ sợ người Do Thái vì người Do Thái có thể đẩy họ đến cái chết như đã xảy ra với Đức Giêsu. Nhưng bây giờ chính Đức Giêsu đã bị treo trên thập giá ấy đang hiện diện giữa họ, nghĩa là không quyền lực trần gian nào có thể tước mất sự sống của Đức Giêsu.
Đàng khác, cho các môn đệ xem những dấu tích của cuộc khổ nạn nơi mình, Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Con Chiên lễ Vượt Qua mới đã bị tế sát. Sự tồn tại mãi những dấu tích của cuộc khổ nạn trên thân thể phục sinh của Chúa chứng tỏ sự vĩnh cửu của tình yêu mà Người thi thố cho thế gian trong cuộc Vượt Qua của Người. Chúa Phục Sinh, Đức Giêsu Kitô, sẽ vĩnh viễn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh, từ nơi Người, trào vọt máu và nước.
Điểm đặc biệt là trước đây, trong trình thuật về cuộc đóng đinh Đức Giêsu, tác giả Ga không hề đề cập gì đến tay của Người. Trái lại, ông nhiều lần khẳng định rằng Chúa Cha đã trao mọi sự trong tay Đức Giêsu ( 3, 35: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người”; 13, 3: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người” ) và rằng không ai có thể cướp khỏi tay Người những con chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người ( x. 10, 20 ).
Vậy đôi tay được đưa ra cho các môn đệ xem hôm nay là đôi tay ban cho các ông sự bình an đích thực. Đó là đôi tay tự do và nắm trọn quyền bính và sức mạnh. Cho các ông xem tay tức là Đức Giêsu cho các ông đụng chạm đến chính quyền năng vĩ đại mà Người có để bảo vệ các ông. Cạnh sườn lại diễn tả một thực tại khác. Cạnh sườn đã bị lưỡi đòng đâm thâu chính là bằng chứng hùng hồn của tình yêu vô biên mà Người đã thi thố trong cuộc tử nạn của Người. Cho các đồ đệ xem cạnh sườn tức là Đức Giêsu cho các ông trải nghiệm tình yêu vô biên của Người. Tình yêu vô biên đó sẽ được thực hiện nhờ cánh tay quyền năng của Người. Nói tóm lại, bằng việc cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn, Đức Kitô Phục Sinh chứng tỏ cho các ông thấy tình yêu, quyền bính và chiến thắng của Người.
Vì vậy, “các môn đệ vui mừng được thấy Chúa” ( c. 20b ). Niềm vui này là sự thực hiện lời Đức Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ ưu phiền, nhưng nỗi ưu phiền của anh em sẽ biến thành niềm vui” ( 16, 20 ). “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” ( 16, 22 ). Đó là niềm vui vì một thực tại mới, một sức sống mới đã bắt đầu ùa vào trần gian: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Anh em cũng vậy” ( 16, 21 – 22a ).
“Đức Giêsu lại nói với các môn đệ: "Bình an cho anh em !” ( 20, 21 ). Đức Giêsu lặp lại lời chúc bình an cho các môn đệ, nhưng chức năng của lời chúc bình an này có thay đổi so với lời chúc thứ nhất. Nếu lần thứ nhất là ơn bình an cho hiện tại, giải thoát các môn đệ khỏi nỗi sợ hãi lớn lao đang đè nặng tâm hồn và cuộc sống của họ, thì ơn bình an mà Người ban cho họ bây giờ là ơn dành cho tương lai, vì Người sắp trao cho họ sứ mạng quan trọng: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” ( 20, 21 ). Sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho Đức Giêsu là sứ mạng cứu độ thế gian. Như Đức Giêsu, các môn đệ được sai vào giữa thế gian để tiếp nối sứ mạng đó.
Sau khi ban bình an cho các môn đồ và trao sứ mạng cho họ, Đức Kitô Phục Sinh “thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” ( 20, 22 – 23 ). Trong Cựu Ước, Thiên Chúa ban sinh khí và sự sống cho con người khi thổi hơi vào con người mà Người đã tạo nên ( x. St 2, 7 ). Đức Kitô Phục Sinh thổi hơi của Người vào các môn đệ để ban Thánh Thần và sự sống mới cho các ông.
Đồng thời với việc ban Thánh Thần, Đức Kitô Phục Sinh ban cho các môn đệ quyền tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” ( 20, 23 ). Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian ( 1, 29 ). Các môn đệ tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu, nên cũng tiếp nối sứ mạng ban ơn tha tội của Người: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”.
Và cũng giống Chúa Giêsu, cộng đoàn các môn đệ, tức là Hội Thánh, không có nhiệm vụ lên án thế gian. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( 3, 17 ). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” ( 12, 47 ). Phán quyết của Hội Thánh không là gì khác hơn sự thừa nhận điều mà thế gian tự gây ra cho mình. Đó chính là ý nghĩa của sự “cầm giữ” trong lời “anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
Tóm lại, chúng ta gặp trong phần thứ nhất của bài Tin Mừng hôm nay cộng đoàn Kitô hữu quy tụ chung quanh Đức Kitô – Đấng đang sống và hiện diện giữa cộng đoàn, Đấng đã chịu đóng đinh và đã phục sinh. Người là trung tâm của cộng đoàn. Người hiện diện ở trung tâm của cộng đoàn. Người làm cho các môn đệ của Người được bình an và vững tin khi cho họ xem những dấu hiệu chiến thắng của Người trên sự chết. Người hiện diện một cách tích cực và hữu hiệu trong cộng đoàn Hội Thánh, trao phó cho Hội Thánh sứ mạng loan báo Tin Mừng, đồng thời ban Thánh Thần và quyền tha tội để Hội Thánh thực thi sứ mạng cứu độ đó.
2. Chúa Phục Sinh và ông Tôma ( cc. 24 – 29 )
“Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa !" Ông Tôma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin" ( cc. 24 – 25 ). Ông Tôma không chấp nhận lời chứng của anh em. Sự hiện hữu của cộng đoàn mới mẻ và được biến đổi bởi Thánh Thần và quyền năng của Chúa Phục Sinh, đối với ông, chưa đủ là một bằng chứng rằng Đức Giêsu đã sống lại. Ông đòi hỏi một sự chứng thực của cá nhân ông.
“Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em" ( c. 26 ). Đức Giêsu đến và hiện diện giữa cộng đoàn và cho toàn thể cộng đoàn, chứ không phải cho một mình ông Tôma. Chính trong cộng đoàn chứ không phải là một cách tách biệt độc lập khỏi cộng đoàn mà ông Tôma sẽ được gặp Người và sẽ tìm thấy giải pháp cho vấn đề của ông. Đức Chúa Phục Sinh chấp nhận đáp ứng sự “thách đố” của ông Tôma, nhưng là trong cộng đoàn Hội Thánh.
“Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin" ( c. 27 ). Chúa Phục Sinh mời gọi ông Tôma trải nghiệm tình yêu và quyền năng của Người. Và Người bảo ông hãy tin. Nhấn mạnh trên khía cạnh thể lý của bằng chứng mà ông Tôma đòi hỏi và Đức Giêsu sẵn sàng ban cho ông, tác giả Gioan muốn tập trung sự chú ý của người đọc trên tính liên tục giữa quá khứ và hiện tại của Chúa Giêsu, được diễn tả nhờ thực tại nhân loại của Người.
“Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !" ( c. 28 ). “Chúa” là danh xưng mà các môn đệ dùng để gọi Đức Giêsu ( 13, 13 ) hay để nói về Người ( 20, 2.13.18.20.25 ). “Chúa” là Đấng đã rửa chân cho các môn đệ để loan báo cái chết của Người vì các ông ( 13, 14 ), cái chết diễn tả mức độ tột cùng của tình yêu phục vụ mà Người dành cho các ông ( 15, 13 ). Khi gọi Đức Giêsu là “Chúa của con”, ông Tôma nhận biết tình yêu của Chúa Giêsu và đón nhận tình yêu ấy bằng cách hoàn toàn tin vào Người.
Đồng thời, trong cuộc gặp gỡ với Đức Chúa Phục Sinh, ông Tôma còn được trải nghiệm điều trước đây Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” ( 14, 20 ). Ông Tôma đã nhận ra sự nên một của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Nơi Chúa Phục Sinh, ông được gặp gỡ chính Chúa Cha ( 14, 9: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” ). Và ông thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thiên Chúa của con !”
“Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !" ( c. 29 ). Lòng tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh hệ tại ở chỗ nhận biết sự hiện diện của Người trong cộng đoàn những người tin. Chính cộng đoàn Hội Thánh là nơi chốn tự nhiên trong đó Chúa Phục Sinh hiện diện và thi thố tình yêu của Người. Ông Tôma là hình ảnh của những con người không chấp nhận giá trị của lời chứng của cộng đoàn, cũng không nhận ra những dấu chỉ của sự sống mới đang được thể hiện ở đó. Thay vì dấn thân và tham dự vào kinh nghiệm của cộng đoàn đó, ông Tôma đòi phải được một sự “đụng chạm” riêng tư. Chưa kể là ông không đi tìm Đức Giêsu – nguồn Sự Sống, nhưng lại đòi thấy một thi hài của quá khứ mà ông có thể quan niệm dựa trên những đụng chạm khả giác.
Trái ngược với trường hợp của ông Tôma, Đức Giêsu Phục Sinh công bố mối phúc cho những ai tin vào Người mà không đòi như Tôma đã đòi. Chớ gì chúng ta được hưởng trọn vẹn mối phúc ấy.
Cái chết kinh hoàng của Đức Giêsu trên thập giá vẫn còn vây kín tâm hồn các Môn Đệ: PS2-171
Cái chết kinh hoàng của Đức Giêsu trên thập giá vẫn còn vây kín tâm hồn các Môn Đệ. Thầy chết, mọi sự coi như đã hết. Bao nhiêu hoài bão, bao nhiêu kỳ vọng đặt vào Đức Giêsu khi đi theo Ngài coi như tan thành mây khói. Cái tâm trạng lo lắng vì sợ bị liên lụy đang là một mối lo lớn nhất trong tâm hồn các ông. Những lời hứa hẹn, những tháng ngày vinh quang, những phép lạ nhãn tiền mà các ông được chứng kiến về quyền năng của Đức Giêsu dường như cũng không còn hiệu lực nữa rồi. Bây giờ chỉ còn hoang mang và sợ hãi, thất vọng và chán chường mà thôi.
Đức Giêsu đến vào đúng lúc các môn đồ đang sợ hãi và thất vọng. Cũng vậy trong đời thường, có phải lúc nào cũng vinh quang, bằng phẳng hết đâu. Sóng gió cuộc đời chẳng dung tha cho bất cứ ai, nó luôn khiến con người phải đối diện với hết đau khổ này đến khổ đau khác. Những lúc phải đối diện với khổ đau, con người không còn tìm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa. Niềm tin vào Thiên Chúa Phục Sinh cũng không có. Người ta chỉ còn thấy thập giá và nước mắt.
Nhưng không, Thiên Chúa đã sống lại thật. Đức Giêsu đã thực sự sống lại, toàn thắng sự chết và đau khổ. Niềm tin Phục Sinh chính là điểm này. Đức Giêsu chết và đã chết thật, lịch sử đã minh chứng và không có gì để bàn cãi. Thế nhưng, nếu cái chết của Ngài cũng qua đi như mọi cái chết của nhân loại, thì có gì để nói. Ngài chết nhưng không phải là hết. Ngài chết cũng không phải là chấm hết mọi chuyện. Chấm dứt tháng ngày dong duổi làm người trần thế thì đã đành nhưng triều đại và sứ mạng của Ngài vẫn còn được nối dài. Sứ mạng mang lại niềm vui và ơn cứu rỗi cho mọi người.
Niềm vui phục sinh của người tín hữu Kitô chính là vậy. Tin vào sự toàn thắng của Thiên Chúa. Vui vì mình đã được chính máu châu báu của Đức Giêsu cứu chuộc. Mọi tội lỗi, yếu đuối của nhân loại đã được Đức Giêsu mang vào thân thể. Nhân loại phải vui lên, phải mừng vui lên vì cái ách nặng nề của tội lỗi và sự chết đã bị Đức Giêsu đè bẹp. Ơn cứu độ đã chan hòa thế gian. Quyền lực sự dữ không thể làm gì được con người nữa.
Sự thật đúng là như thế. Nhưng vấn nạn là sao tội lỗi và sự ác vẫn luôn hiện diện trong thế gian và trói buộc con người ? Vấn đề hệ tại từng cá nhân, những con người từ chối tình thương của Thiên Chúa để rồi buông thả bản thân, sống nô lệ cho tội lỗi. Thiên Chúa không tạo nên sự dữ, Ngài cũng đã toàn thắng sự ác, nhưng con người lại nô lệ cho nó. Không phải ơn cứu độ của Thiên Chúa không còn hiệu nghiệm, không phải quyền năng của Thiên Chúa đã cạn kiệt, nhưng là… cậy nhờ vào ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa, vì chưng đây chính là thời đại của Chúa Thánh Thần.
Bình an Chúa Phục Sinh mang lại cho các tông đồ nguồn sống mới. Nó có sức mạnh dẹp tan mọi nỗi hoài nghi thất vọng, chán chường nơi tâm hồn các ông ( x. Ga 20, 19 – 20 ). Quan trọng là con người có biết mở lòng ra đón nhận bình an của Thiên Chúa không mà thôi. Đức Giêsu đến, trấn an các tông đồ, minh chứng sự toàn thắng của mình để tăng thêm niềm tin, sức mạnh cho các ông hăng say đi loan báo Tin mừng phục sinh. Giả như Đức Giêsu không sống lại, thì mọi lời rao giảng của Ngài đều trở nên vô hiệu. Nhưng ngược lại, Ngài đã sống lại thật, để mở đường cho nhân loại can đảm bước vào con đường bất diệt.
Như bao người, Thánh Tôma Tông Đồ đã không tin. Làm sao có thể tin được việc Con Thiên Chúa đã chấp nhận cái chết thảm thương do tay người phàm để rồi sống lại ? Vậy mà Đức Giêsu đã sống lại thật. Ngài cho ông được tận tường xem thấy những vết đinh nơi bàn tay, bàn chân của Người. Một Đức Giêsu chịu đóng đinh thực thụ: “Hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” ( Ga 20, 27 ).
Lạy Chúa, ước gì mỗi người chúng con có thể lắng nghe được tiếng Chúa nói với chính mình. Mỗi khi gặp gian nan, khó khăn, thử thách trong cuộc sống, chúng con chỉ biết kêu trách Chúa. Ánh sáng Phục Sinh đâu không thấy mà chỉ thấy toàn thập giá và chết chóc. Giả như, mọi người đều có thể tận mắt chứng kiến, tận tay sờ chạm đến Đức Giêsu Phục Sinh với những chứng tích về cuộc khổ nạn. Hỏi thử chúng con có còn hoài nghi, ngờ vực nữa không ? Thế nhưng, niềm tin không phải là thách đố, tình yêu không đơn thuần là sự vay trả trả vay. Vượt trên tất cả, một đức tin tinh ròng, một tình yêu vĩnh cửu dành trọn cho những ai không thấy mà tin! Xin giúp con, dẫu không thấy… nhưng vẫn vững tin. ( x. Ga 20, 29 ).
“Mà mãi đêm nay mới nhớ ra Đời mình chẳng khác chuyến tàu qua.” ( dẫn từ thơ Nguyễn Bính )
Nhà thơ tuy rất giỏi, vẫn thấy đời mình “chẳng khác chuyến tàu qua”. Nhà Đạo nay cũng khác: PS2-172
Nhà thơ tuy rất giỏi, vẫn thấy đời mình “chẳng khác chuyến tàu qua”. Nhà Đạo nay cũng khác, nhưng tất cả đã nhớ chăng điều Chúa nhắn nhủ hôm lễ Vượt Qua ? Lễ Vuợt Qua, không là nỗi thống khổ Chúa gánh chịu. Nhưng “vượt và qua”, là để Ngài về với Cha, bằng sự kiện Phục Sinh quang vinh.
Về Phục Sinh, Tin Mừng Nhất Lãm bao giờ cũng kể lại truyện Thánh Tôma hơi “cứng lòng” khi thấy Chúa không hiện ra với mình, ngày Ngài sống lại. Kịp khi Ngài hiện đến với Tông Đồ, Chúa khuyên thánh nhân đừng cứng lòng, nhưng hãy tin. Và, thánh nhân đã tin. Sở dĩ thánh nhân tin, là vì có kinh nghiệm sống với Thầy nay nhất quyết: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi !” ( Ga 20, 28 )
Trình thuật nay kể, là kể truyện như thế. Nhưng, với tác giả Tin Mừng theo Thánh Gioan, Thánh Tôma đại diện cho nhóm đạo xưa nay sống mật thiết với Chúa, nên vẫn tin rằng Thầy đang cận kề “nhóm đạo” mình cách đặc biệt. Bằng vào kinh nghiệm Thầy hiện diện ở đời mình, các vị trên hiểu là “nhóm đạo” họ có tâm tư mật thiết với Chúa hơn nhiều người khác. Thường thì, các vị này chẳng kể lại cho ai biết điều này. Bởi có kể, cũng sẽ bị hiểu lầm, phản bác hoặc bị người không kinh nghiệm sẽ chê bai, hạch sách. Thế nên, “nhóm bạn đạo của Thánh Tôma” càng sống mật thiết với Chúa theo cung cách thánh thiêng, chứ không chỉ nói về Ngài thôi.
“Nhóm đạo” của Thánh Tôma đặt ưu tiên rất thực dụng hầu hướng dẫn đời mình. Các vị coi đó như “bí mật niềm tin” nên vẫn mong rằng chuyện đó được đưa vào với Thánh Truyền hầu chào đón những người khác chính kiến lập trường về Đức Chúa Phục Sinh. Hội Thánh tiên khởi, gồm nhiều tín hữu Đạo Chúa cũng tin vào Chúa theo cung cách như thế. Và Thánh Tôma được coi như ‘bổn mạng’ của nhóm này. “Nhóm đạo” này vẫn mong sao được chấp nhận đưa vào nguồn mạch chính của Hội Thánh ngay từ đầu. Nhưng, chuyện này thật ra cũng không dễ.
Thái độ thường thấy nơi tín hữu Hội Thánh – nhất là các đấng bậc chỉ đặt nặng vào Tin Mừng Nhất Lãm thôi – vẫn là chuyện xảy ra trên thực tế xưa kia và cản đến hôm nay. Nó ăn sâu vào lịch sử đích thực về chuyện người thường ở Hội thánh đáp ứng ra sao với cuộc đời giảng rao của Chúa và chuyện Chúa tranh đấu cho người nghèo đích thực đã bị giới cầm quyền chống báng rất mực cũng không tài nào đánh bại được Ngài. Bởi thế nên, họ mới đem Ngài đến chỗ chết. Ngài chết, là để thay cho mọi người. Và, là cái chết trên thập giá.
Truyện kể về Chúa Sống Lại, ra như là Ngài vẫn còn sống và vẫn tiếp tục hoạt động trong lịch sử rất năng động. Nói cách khác, đó là lối sống do Cha thiết lập lại vẫn tạo ảnh hưởng lên người có nhu cầu. Sự sống lại, ra như là vẫn xảy đến thời tương lai nào khác cho con người. Truyền thống Tin Mừng Nhất Lãm ( tức: Tin Mừng theo Thánh Máccô, Mátthêu và Luca ) dường như không thiết tha và cũng không muốn đưa vào Phúc Âm chính của Hội Thánh “truyền thống Thánh Tôma” vốn dĩ chỉ nói về nội tâm riêng tư ‘thầm kín’ của Đức Giêsu, chứ không có truyện kể.
Về truyền thống Thánh Tôma, Phúc Âm theo Thánh Gioan phải “đi giây” giữa “bè lạc đạo” và điều mà mọi người vẫn gọi là đặc trưng chính thống của Đạo Chúa. Thật ra, không thể có cái-gọi-là “bè lạc đạo” tách rời khỏi Do Thái giáo và hoặc Kitô giáo. Bởi chủ trương ban đầu của bè này đã nằm ngay trong Do Thái giáo. Có thể nói, đây là lối đọc Kinh thánh một chiều. Là, đọc theo kiểu triết học Hy lạp ( chí ít là khoa vũ trụ học kiểu Plato rất chung chung và rất cổ sinh vật học ). Ngôn ngữ Hy Lạp gọi “bè lạc đạo” là “kiến thức”. Suy tư kiểu đó, hẳn ta cũng sẽ bị mọi người cho mình thuộc nhóm “đạo rối”, dù theo đúng Do Thái giáo. Đây là học thuyết song hành về Đạo có từ thời tiên khởi. Tức, những người như thế đã đóng khung chính bản thân họ vào cảm nghiệm tư riêng của họ.
Với họ, “đạo rối” – hiểu theo nghĩa “kiến thức” tiếng Hy Lạp – tức: bắt đầu mang ý nghĩa “tự biết mình”. Họ vẫn nghĩ, hồn người vốn có gốc nguồn khởi từ Trời, nhưng nay ra thế là do uy lực thánh thiêng bị vấp váp nên mới lệch lạc, khập khiễng. Cũng theo quan niệm của nhóm này, con người là hồn linh thánh thiêng nay bị chôn chặt trong khuôn khổ xác thể. Thế nên, con người không thể biết những gì đang hiện đến với chính mình. Và Đấng Cứu Độ ( dù ta có định nghĩa là đấng nào thì cũng thế ) đã đến để kêu gọi ta hãy tỉnh thức khỏi giấc ngủ mơ nào đó. Ngài làm thế, ngang qua các câu hỏi như: trước đây ta là ai ? Ta bị đẩy vào chốn nào ? Ta đi đâu ? Ta được cứu vớt khỏi những gì ? Tái sinh, có nghĩa là gì ?
Và, “nhóm đạo” này lâu nay triển khai lịch sử loài người, như ánh dương lâu nay bị vùi chôn trong tăm tối của bè rối. Nói chung, “nhóm-đạo-bị-gọi-là-rối” đã rời khỏi Đấng Tạo Thành Trời Đất, ra khỏi Sách Thánh Do Thái, hiểu theo nghĩa riêng mà họ vẫn có từ truyện Chúa nhập vào Đức Giêsu ngõ hầu giúp đỡ các người con bé nhỏ ở thế trần được cứu vớt. Các vị trong nhóm bị-gọi-là-rối này không hài lòng truyện kể sơ sài về Đức Giêsu thời Ngài hoạt động, chết đi rồi sống lại. “Nhóm Đạo” của các vị này không tin việc nói về Chúa mà lại kể những truyện như thế, nhưng các vị chỉ muốn Chúa dẫn dắt con người vào việc tự nhận-thức chính mình theo cách thiêng liêng. Và các vị cũng đề nghị làm sao để ta xa rời thế gian càng xa bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Đạo Chúa ở thời đầu, cũng bao gồm nhiều nhóm hội từng cảm nghiệm một cách nội tâm/linh thiêng về Đức Chúa Phục Sinh, nên mới bị tín hữu khác chính kiến coi mình là nhóm “đạo rối”. Đàng khác, Thánh “Tôma” là đấng thánh đã nắm được sự thực rất thật nên ngài mới đến với “nhóm” này. Tin Mừng theo Thánh Gioan kể truyện Thánh Tôma ( thuộc nhóm Mười Hai ) đặt ở vị trí đặc biệt của niềm tin qua kinh nghiệm nội tâm, tuy bề ngoài các ngài xem ra hơi giống bè “đạo rối” nhưng sự thực không phải thế. Thánh nhân cũng là tín hữu hiền lành như các đấng bậc nào khác đến với Chúa theo kiểu phàm trần. Có khi Thánh Tôma lại đã sống tốt lành hơn nhiều tín hữu thông thường khác nữa, cũng không chừng.
Ngày nay, ta có khuynh hướng cho rằng cách sống ‘công khai trần tục’ là đường lối đúng đắn. Vì thế nên, có lúc ta cũng châm chước bỏ qua cho một số “sự thể về đạo” nếu thấy vui. Lịch sử đã chứng minh rằng sự thể không phải như thế. Thời tiên khởi, có rất nhiều nhóm tín hữu cũng tin vào Đức Giêsu, nhưng theo cung cách khác biệt. Phải chờ đến thế kỷ thứ II và III, trước khi ảnh hưởng của Alexandria, Antiôkia và Rôma tạo áp lực lên Đạo Chúa, lúc ấy Hội Thánh mới thu về một mối. Và Giáo Hội cũng phải trải dài nhiều thế kỷ mới tới được bến bờ như bây giờ. Thế nên, mỗi khi về với lịch sử, ta có thói quen gọi các “nhóm đạo” này là bè “đạo rối”. Gọi thế, không hay cho lắm khi đề cập đến nhóm chính thống đối chọi với nhóm khác mình, ở thời đầu; hoặc về “nhóm đạo” gọi là chính mạch đối chọi với nhóm thời sau thay thế.
Với Tin Mừng theo Thánh Gioan, thì nhóm “đặc trưng” lúc ấy chưa xuất hiện. Và, Thánh Gioan xem ra cũng đến từ “nhóm đạo” tin vào kinh nghiệm thiêng liêng/nội tại hơn các nhóm khác. Và, nhóm của Thánh Gioan đã công nhận và bao gồm các kẻ tin giống như mình. Và tác giả thánh coi đó như niềm tin xuyên suốt, rất rộng lớn. Thánh Gioan chống lại lối suy tư của nhóm “đạo rối” vì họ cho rằng Kinh thánh của người Do Thái có sai sót. Và, Thánh Gioan mở rộng cho những ai có kinh nghiệm về niềm tin vốn không là “đạo rối”. Và đó không là truyền thống “đích thực ở ngoài” như truyền thống chính thức của Tin Mừng Nhất Lãm.
Và, Thánh Gioan dùng truyện kể về Tôma thánh nhân là vị Thánh có kinh-nghiệm thiêng-liêng rất cá biệt hầu đề cao giá trị của “nhóm đạo” có Thánh Tôma làm đại diện. Thật sự, thì bên ngoài Hội Thánh, hiện có tài liệu gọi là “Tin Mừng theo Thánh Tôma”. Tin Mừng này, viết từ giữa thế kỷ đầu hoặc trễ hơn, tức: cùng thời với Thánh Gioan. Tin Mừng theo Thánh Tôma, đến từ miền Đông nước Syria nhưng tuyệt nhiên không mang tính “đạo rối” hoặc lạc thuyết, cũng chẳng có gì là sai lầm, nhưng không là văn bản chính mạch/đặc trưng theo nghĩa Tin Mừng Nhất Lãm hoặc Phúc Âm truyên thống xuất hiện thời về sau.
Tin Mừng theo Thánh Tôma, không được Hội Thánh công nhận. Nhưng Tin Mừng thứ tư của Thánh Gioan lâu nay là đối tác đắc lực về Lời Chúa ! Tin Mừng theo Thánh Tôma, có 114 lời phán của Đức Giêsu Phục Sinh, nhưng không có truyện kể về Chúa vào thời Ngài sống ở thế trần !
Ngày nay, người trong Đạo có nhiều cách khác nhau để đến với niềm tin. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, theo cung cách khác biệt. Một số rất tiến bộ. Một số khác đi vào “nội tâm” hơn. Nhưng, điều hay nhất có lẽ nên làm là đọc lại Tin Mừng theo Thánh Gioan kể về cung cách Thánh Tôma đến với niềm tin, ngõ hầu thấy rằng: sống lại, vẫn có chỗ cho mọi người để ta suy tư, xem xét và tin tưởng trong yêu thương.
Trong tinh thần đó, cũng nên ngâm thêm lời thơ vừa trích dẫn, rằng:
“Mà mãi đêm nay mới nhớ ra, đời mình chẳng khác chuyến tàu qua. Nhưng từ ga lớn, từ ga nhỏ, Đời chẳng làm cho lấy một ga.” ( Nguyễn Bính – Chuyến Tầu Đêm )
Tầu niềm tin, có từ ga lớn đến ga nhỏ, cũng là tầu. Cũng đừng nên có lập trường như nhà thơ nay cứ tiếp:
“Bỏ đây một chiếc tầu kiêng đổ, Chở một toa tim nặng oán sấu.” ( Nguyễn Bính – bđd )
Và “toa tim” hôm nay không còn “nặng oán sấu”, tranh cãi nữa, nhưng sẽ chuyên chở mọi người đến với Đức Chúa của niềm tin nay sống lại với mọi người, tận thâm tâm.
Em Đạo Dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội: PS2-173
“Em Đạo Dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời cha mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc Nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc Nhà Thờ… Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc cạch cọc cạch đi Lễ, đi làm việc Nhà Thờ. Có mấy lần bị thiên hạ mời và bị hỏi: “Làm ở Nhà Thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy ?” Thấy mà thương ! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sàigòn, đứa nào cũng phải tự bươn trải, vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ… Tội nghiệp !
Mấy hôm nay chuẩn bị Đại Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về Lòng Chúa Thương Xót trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót họ. Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng mà nay đi đâu cũng Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót….
Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị lấy chồng đạo được 9 năm nay, kể rằng: ban đầu, chị đến với Lòng Chúa Thương Xót nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị ghét Đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo Đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối rửa”.
Từ đó, ổng từ chị ấy luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị ấy chỉ xin là “nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, xin cho ổng đừng có ghét con”. Hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố bỗng thay đổi lạ lùng. Chiều thứ năm Tuần Thánh 5.4.2012, tự dưng ổng tìm đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai, là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói vài hôm sau Ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với Ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với nghen”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã… thương xót chị ! Chuyện ba của chị với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là ba chị đã đến thăm con cháu…
Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không !?! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao ? Thật bất công quá ! Em đạo dòng... Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy cái thứ người kia…”
Thiết nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là ai đó thấy người ta được Chúa Xót Thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại cho bằng được.
Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang thương xót từng người, và ban ân lộc cho từng người “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ’. Thiên Chúa không bất công, nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời” kẻo uổng công trình trút hết giọt máu, giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu, rồi sống lại cũng vì yêu, sống lại để người mình yêu được cùng sống lại.
Trở lại câu chuyện của chị Đạo Dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho Danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống Phục Sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại, không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta tìm kiếm Nước Trời, để được sống đời đời, nào phải để chúng ta hưởng dùng cho ê hề phủ phê ở đời này đâu.
Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất, ấy là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa. Amen.
Đức Kitô phục sinh đó là tâm điểm niềm tin của người kitô. Đây không phải là một niềm tin mơ: PS2-174
Đức Kitô phục sinh đó là tâm điểm niềm tin của người kitô. Đây không phải là một niềm tin mơ hồ, một thứ lý thuyết suông nhưng niềm tin của chúng ta đặt nền tảng vững chắc qua các tông đồ. Các ngài là những người đã gặp gỡ Đức Kitô sau khi Người từ cõi chết sống lại, và các ngài đã dùng đời sống thậm chí cả máu của mình để minh chứng cho niềm tin đó.
Cái chết đau thương của Chúa Giêsu trên thập giá, làm cho các môn đệ hoang mang lo sợ. Kẻ chối Thầy, người chạy trốn. Sự kiện ngôi mộ trống và lời chứng của các phụ nữ rằng: Thầy đã sống lại cũng không đủ thuyết phục, các tông đồ vẫn còn nghi ngờ chưa tin. Giữa lúc các ông còn hoang mang như thế Chúa Giêsu phục sinh đã hiện đến với các ông. Ngài đã mang niềm vui và sự bình an đến với các tông đồ, nhưng lại không may mắn cho Tôma, Chúa hiện ra lần này lại không có mặt ông. Các tông đồ vui mừng kể lại cho Tôma biết "chúng tôi đã thấy Chúa". Làm sao Tôma có thể tin điều đó, xưa nay có ai chết rồi sống lại đâu cho nên Tôma đã đưa ra một lời đầy thách thức: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi sẽ không tin". Chúng ta thấy Tôma là một con người cứng cõi, ông muốn niềm tin phải được kiểm chứng rõ ràng thì ông mới tin.
Tám ngày sau, Chúa lại hiện đến với các môn đệ, lần này có mặt cả Tôma. Khi thấy Thầy, Tôma chưa kịp nói gì Chúa Giêsu đã gọi ông: "Tôma, con hãy đặt ngón tay con vào đây, hãy nhìn xem tay Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin". Có lẽ Tôma sẽ không cầm được nước mắt trước lời nói của Thầy, những giọt nước mắt vì mình đã cứng lòng, và những giọt nước mắt hạnh phúc vì được gặp Thầy. Chúa Giêsu đã biến đổi cõi lòng cứng cõi của Tôma, để rồi từ đây, Tôma đã dùng chính đời sống và lời rao giảng của mình để làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Theo truyền thống chúng ta biết được Toma đã sang tận Ấn độ để rao giảng. Ngài đã dùng chính cái chết của mình để tuyên xưng một Đức Kitô đã bị giết chết mà nay Người vẫn đang sống.
Có lẽ khi nghe bài Tin mừng này, chúng ta thầm trách Tôma: sao mà cứng tin vậy. Thế nhưng sự cứng tin của Tôma lại là điều tốt, là điều bảo đảm cho niềm tin của chúng ta hôm nay. Bởi lẽ nó cho thấy các tông đồ không phải là những kẻ nhẹ dạ cả tin. Niềm tin đó đã được các ngài kiểm chứng bằng mắt thấy tai nghe. Chính sự gặp gỡ Đức Kitô phục sinh đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của các ngài. Từ những người nhát đảm, sợ sệt trở thành những người can đảm rao truyền Đức Kitô phục sinh, thậm chí cái chết cũng không làm các ngài chùng bước.
Ngày hôm nay chúng ta không được may mắn như các tông đồ là được gặp gỡ Đức Kitô bằng xương bằng thịt. Không phải vì thế mà chúng ta chịu thiệt thòi. Bởi lẽ Chúa Giêsu nói: "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Chúng ta là những người có phúc vì chúng ta không thấy Chúa tỏ tường nhưng được Chúa ban ơn để chúng ta tin Chúa phục sinh luôn hiện trong cuộc đời chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, qua từng con người và nhất là trong Thánh lễ mà chúng ta đang cử hành.
Niềm tin vào Đức Kitô phục sinh không dừng lại nơi nhà thờ, trong thánh lễ nhưng nó phải được chúng ta minh chứng bằng chính cuộc sống. Chúng ta không thể nào nói mình tin vào Đức Kitô phục sinh mà lại sống bê bối nguội lạnh, lại than trời trách đất khi gặp đau khổ, thử thách. Người không có đạo họ không mấy quan tâm giáo lý của chúng ta dạy gì nhưng họ muốn xem cách sống của người công giáo ra sao. Chính cách sống gương mẫu của các gia đình công giáo trên thuận dưới hoà, biết chia sẻ và giúp đỡ nhau đó là chúng ta đang làm chứng cho Chúa, chúng ta đang sống niềm tin vào Chúa phục sinh.
Ước gì trong mùa phục sinh này, xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta có được sự xác tín mạnh mẽ vào Đức Kitô phục sinh, để với niềm tin đó chúng ta biết đón nhận mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống bằng sự tin tưởng và phó thác, vì chúng ta tin rằng Chúa luôn hiện hiện và đồng hành với mỗi người chúng ta
Nếu có kính ảnh lòng Chúa thương xót
Hôm nay cũng được gọi là Chúa nhật của lòng thương xót Chúa. Ngày 22/2/1931, CG đã hiện ra và mạc khải cho nữ tu Faustina, thuộc dòng Đức Mẹ từ bi ở Balan. Chúa dạy chị hãy rao truyền lòng thương xót Chúa cho thế giới. Ngài còn dạy chị hãy hoạ lại bức ảnh thánh. Trên tấm ảnh có 2 luồn sáng xuất phát từ trái tim Chúa. Luồn sáng trắng chỉ Nước, làm cho linh hồn nên công chính và luồn sáng đỏ chỉ Máu đó là sự sống của linh hồn. CG còn hứa rằng ai tôn kính ảnh thánh này sẽ không bị hư mất và sẽ tìm được sự bình an của Chúa. Năm 2000, trong dịp lễ phong chân phước cho chị Faustina, Đức cố GH Gioan Phaolô II đã ấn định cho toàn thể Giáo hội mừng kính lòng thương xót Chúa vào Chúa nhật II PS, để mọi kitô hữu biết chạy đến với lòng thương xót của Chúa hầu nhận được nguồn bình an và ơn tha thứ.
Hơn ai hết, mỗi người chúng ta dù là đấng bậc nào cũng đều cần đến lòng thương xót của Chúa. Chỉ có Chúa mới mang lại nguồn bình an đích thực và chỉ có Chúa mới làm thoả mãn khát vọng của chúng ta. Xưa Chúa vì thương xót Tôma và các môn đệ nên Người đã hiện đến an ủi và nâng đỡ đức tin cho các ông. Nay cũng vì thương xót chúng ta, Người đã mạc khải mầu nhiệm tình thương đó qua tấm ảnh thánh này. Bởi vì người muốn tất cả nhân loại hãy nhận ra và tín thác cuộc đời mình cho lòng thương xót Chúa.
Hôm nay là Chúa Nhật II Phục sinh và cũng là ngày Chúa Nhật đặc biệt kính Lòng Thương Xót của: PS2-175 (Thiếu Nhi)
Hôm nay là Chúa Nhật II Phục sinh và cũng là ngày Chúa Nhật đặc biệt kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Nhưng mà Chúa đã làm gì cho chúng ta mà nói là Chúa thương xót mình vậy các em? Các em hãy trả lời dùm thầy 2 câu hỏi, rồi thầy sẽ cho các em biết Chúa đã làm cái gì để nói rằng Chúa thương xót các em:
- Câu 1: Chúa Nhật tuần trước là Chúa Nhật gì vậy? Trả lời: CN Phục Sinh. Chúa thương xót các em qua việc các em phạm tội, Chúa chịu chết, và Phục sinh để cứu chuộc tội cho các em, để tha tội cho các em.
- Câu 2: Trong bài Tin Mừng thầy vừa đọc, CG hiện ra với các môn đệ và nói: các con lãnh lãnh nhận Đấng nào? Trả lời: CTT. Thiên Chúa thương xót chúng ta qua việc sau khi cứu chuộc, Chúa còn ban Chúa Thánh Thần để hướng dẫn các em làm những điều tốt lành, tránh xa tội lỗi.
Tóm lại: Thiên Chúa thương xót các em ở hai chuyện: Thứ nhất, Chúa Giêsu chết và Phục sinh để chuộc tội cho mình. Thứ hai, Chúa ban CTT để giúp mình sống tốt. Chúa thương các em như vậy, Chúa đối xử tốt với các em như vậy, Chúa cũng muốn các em bắt chước Chúa mà đối xử tốt với người khác. Cụ thể hơn, Chúa muốn các em phải thương cha, thương mẹ của mình, phải trở thành một đứa con hiếu thảo.
Tại sao phải thương cha mẹ làm gì vậy? Có những chuyện mấy em còn nhỏ không biết được đâu. Có những lần mẹ đi chợ, thèm cái bánh muốn mua ăn nhưng không dám mua, để dành tiền cho con mình sáng đi học ăn sáng. Mẹ xách giỏ đi mua đồ ăn, muốn mua cà, mua mắm nấu nồi mắm kho vì thích ăn cái món này lắm nhưng nghĩ lại con mình nó ăn không được nó thích ăn thịt hơn, nên đành nhịn thèm mà mua thịt. Đi ngang chỗ bán quần áo mới, thích một kiểu áo đẹp, định mua mà nghĩ lại không mua để tiền sắm đồ mới cho con đi học. Còn ba thì làm quần quật cả ngày mệt lắm rồi, về nghe mẹ nói con nó sốt thì chưa ăn cơm ăn nước gì hết tức tốc chở con đi bác sĩ, rồi tối về, không dám ngủ, thức đêm để canh cho con, sợ con lại sốt cao, sợ con khát nước. Cha mẹ thương mình nhiều như vậy, hy sinh cho mình nhiều như vậy, dĩ nhiên mình phải biết thương cha thương mẹ mình. Nhưng phải làm cái gì để thương cha thương mẹ đây? Thầy sẽ liệt kê ra một số việc, và thầy sẽ hỏi lại, từng em sẽ nói cho thầy nghe em chọn việc làm nào để thương cha thương mẹ của mình nhe.
Đi học giáo lý chăm chỉ, không trốn học; Bớt đi chơi lại, cố gắng học hành cho giỏi dang; vâng lời cha mẹ dạy; nấu cho ba mẹ nồi cơm; quét dùm mẹ cái nhà; rửa thay mẹ đống chén; phụ lặt rau với mẹ; mua đồ dùm ba; hỏi ba khoẻ không khi ba đi làm về; Dọn cho ba bữa cơm; đọc 1 kinh kính mừng cầu nguyện cho ba mẹ hằng đêm ....Kêu ba em và hỏi em chọn việc nào để nói lên em thương ba mẹ em?
Kính thưa OBACE! Để con cái mình biết thương cha thương mẹ thì người mẹ phải dạy nó thương cha, người cha phải dạy nó thương mẹ. Không phải dạy bằng roi đòn, la mắng mà dạy bằng gương sáng của mình. Chồng đi làm về, vợ hỏi: anh mệt lắm không anh, em nấu nước anh tắm nhe, dọn cơm anh ăn nhe, đồ dơ rồi, thay ra em giặt cho anh. Con nó thấy mẹ nó thương ba nó, nó cũng bắt đầu tập nói: ba đi làm về mệt không ba, con nấu nước ba tắm nhe, dọn cơm ba ăn nhe, giặt đồ cho ba nhe? Và rồi chồng đi làm về mệt lắm, định đi tắm cái cho khoẻ nhưng thấy vợ đang bận rộn công việc bếp núc chưa xong. Chồng săn tay áo lên giúp vợ lặt rau, nấu canh, kho cá. Thằng con trai đi học về, bình thường nó bỏ cái cặp lên bàn rồi đi đá banh, nhưng thấy bố nó còn phụ mẹ nó, nó nghỉ đá banh, vào lặt rau phụ mẹ chuẩn bị bữc cơm tối. OBACE thấy đó, dạy con hiệu quả nhất là dạy con bằng gương sáng của mình. Muốn con thương ba, vợ phải thương chồng. Muốn con mến mẹ, chồng phải yêu vợ.
Thưa OBACE ! Thay cho lời kết, con nguyện xin Chúa cho mọi người biết noi theo lòng Chúa Thương xót mà yêu thương, quan tâm giúp đỡ nhau. Đặc biệt, xin cho các em thiếu nhi biết yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ mình bằng những việc làm cụ thể trong đời sống hằng ngày. Amen.
Kính thưa ông bà, cô bác và toàn thể anh chị em rất thân mến!
Trong cuộc sống, niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất của con người là đạt được sự bình an; Và điều: PS2-176
Trong cuộc sống, niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất của con người là đạt được sự bình an; Và điều bất hạnh nhất của con người là nỗi sợ hãi, lo âu, chán nản, thất vọng và mất sự bình an trong tâm hồn. Chúng ta có thể đưa ra vài ví dụ về sự bình an như: bình an trong công việc, bình an trong các mối tương quan của cuộc sống, bình an trong đời sống tâm hồn...vv,. Nhưng cao trọng hơn hết là lúc con người đạt được sự bình an trong niềm tin vào Thiên Chúa, bình an trong niềm hoan lạc Phục Sinh của Đức Giêsu.
Chúng ta thấy tâm trạng của các tông đồ đang bị hụt hẫng và sợ hãi vì sự bất an trong tâm hồn. Các tông đồ rất kinh hãi, sợ sệt sau sự chết tủi nhục của Chúa Giêsu thầy mình. Trong những ngày này, các ông lẩn trốn trong những căn nhà vì sợ sự lùng bắt của người Do Thái. Các buổi hội họp luôn diễn ra trong nhà, nhưng cửa vẫn đóng kín. Sự hoảng sợ đó được các nhà chú giải Kinh Thánh diễn tả: các ông sợ hãi khi nghe tiếng bước chân của người đi lại, sợ hãi khi nghe những tiếng gõ cửa. Các tông đồ một phần sợ liên lụy tới bản thân mình, chắc sớm muộn gì các Kinh Sư và Biệt Phái sẽ tìm bắt các ông; Mặc khác các ông vô cùng thất vọng, bất an trước sự thất bại thương đau của Đức Giêsu phải chịu chết trên thập giá: Thầy còn như vậy, huống chi là các ông. Các tông đồ kinh hồn hoảng sợ và hoài nghi tất cả, hoài nghi lời nói của các phụ nữ đến mồ Chúa, hoài nghi lời nói của hai môn đệ trên đường Emmau, hoài nghi với lời giảng dạy của Thầy mình. Các tông đồ luôn đặt nghi vấn: tại sao Thầy Giêsu phải thất bại tủi nhục như vậy? Vì lẽ đó, các tông đồ không thể tin chuyện Đức Giêsu Phục Sinh từ cõi chết.
Thật ra, khi tinh thần đã sa sút thì con người hầu như không còn thiết tha với bất cứ điều gì, ngay cả đó là những lý tưởng của đời mình. Giờ đây, các tông đồ đang trong hoàn cảnh đó, các ông đang trong tình trạng đêm tối của niềm tin. Chúa Giêsu Phục Sinh, vị Thầy chí thánh đã thấu hiểu tâm lý của học trò mình; Ngài hiện đến với các ông, Ngài ban bình an cho các ông. Chúng ta thấy một điều thật kỳ lạ là, khi Chúa Giêsu hiện ra, Ngài không la rầy, trách mắn các tông đồ, nhưng Ngài vẫn yêu thương nâng đỡ các tông đồ, dù cho các ông không tin vào Ngài, dù các ông đã phản bội, đang lẩn trốn sứ vụ mà Chúa Giêsu đã trao phó cho các ông trước khi Ngài bước vào sự thương khó.
Hôm nay là Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh, cũng được gọi là Chúa Nhật về lòng thương xót của Thiên Chúa. Quả thật, Thiên Chúa luôn yêu thương, luôn tha thứ cho con người, cho dù con người đang sống trong sự yếu hèn của tội lỗi hay phản nghịch cùng Ngài. Chúa Kitô Phục Sinh đem nguồn bình an, niềm hoan hỉ cho các tông đồ, Ngài đến nhằm trấn an sự sợ hãi và gia tăng lòng tin cho các tông đồ, đồng thời nhắc lại lệnh truyền của Chúa là các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi loài thụ tạo. Các tông đồ sẽ nhận lấy Thánh Thần của Người, hầu thông truyền quyền năng và sự sống của Chúa Thánh Thần cho những người tin. Đây là một cuộc sáng tạo mới do Đức Kitô Phục Sinh thực hiện nhờ Thánh Thần qua các tông đồ. Sứ mạng của Đức Giêsu nhằm mục tiêu xóa bỏ tội lỗi, ban ơn tha tội và đưa mọi người vào vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Chúng ta thấy sự cứng lòng của tông đồ Tôma cũng rất có lý: Tôma đặt nghi vấn với các tông đồ, tại sao các ông đã nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh mà tâm hồn các ông còn bất an, vẫn còn sợ hãi như vậy? Có thể vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đến nhằm trấn an, ban thêm niềm tin, cũng như nhiều khả năng cho các tông đồ.
Quyền năng mà các tông đồ lãnh nhận được liên kết với ơn Chúa Thánh Thần là Đấng thanh luyện và ban sự sống. Từ nay trở đi, đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức Giêsu Phục Sinh và hiện ra như Chúa Giêsu nói với Tôma: "Phúc cho những ai không thấy mà tin", nhưng dựa trên lời chứng của các tông đồ là những người đã thấy và đã dùng chính mạng sống mình làm chứng cho niềm tin đó. Nhìn lại đời sống đức tin của chúng ta, chúng ta cũng là những người có phúc, bởi chúng ta cũng được thừa hưởng niềm tin từ các tông đồ. Cùng với Giáo Hội, chúng ta đang sống trong những ngày hoan lạc mừng Chúa Phục Sinh. Chúng ta hãy giữ sao cho tâm hồn chúng ta luôn bình an trong Chúa. Hơn nữa, chúng ta hãy vâng nghe lệnh truyền của Chúa Giêsu bằng đời sống chứng nhân. Đồng thời chúng ta cũng có nhiệm vụ rao giảng niềm hoan lạc Phục Sinh của Đức Kitô cho những anh chị em lương dân đang sống chung quanh chúng ta. Amen.
- Họ đạo chúng ta đã và đang thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, qua việc truyền giáo cho các chị em lương dân đang sống chung quanh chúng ta. Con thiết nghĩ, đây không phải chỉ là công việc của Cha sở hay quý soeurs, quý thầy, nhưng đây là công việc chung của mọi người trong chúng ta. Bằng đời sống tốt lành, bằng cách cư xử hiền hòa của chúng ta đã là những lời rao giảng thật hùng hồn cho Tin Mừng Chúa Kitô. Xin ông bà, cô bác và toàn thể anh chị em ý thức hơn và hỗ trợ cách này cách khác cho công việc truyền giáo được mọi điều tốt đẹp, hầu làm cho nhiều người cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa và được dự phần vào vinh quang của Chúa Phục Sinh. Amen.
Sau cái chết nhọc nhằn của Chúa Giêsu trên thập giá, các môn đệ của Chúa Giêsu rơi vào trong tình: PS2-177
Sau cái chết nhọc nhằn của Chúa Giêsu trên thập giá, các môn đệ của Chúa Giêsu rơi vào trong tình trạng thất vọng, sợ hãi, chán chường và chao đảo niềm tin. Mọi sự coi như đã tiêu tán và sụp đỗ tan tành! Có thể nói, các ông đã đánh mất thứ quí báu nhất nơi tâm hồn của con người, đó là sự BÌNH AN. Nhưng rồi Chúa Giêsu đã đến với các ông và Ngài ban tặng lại cho họ chính điều các ông đã đánh mất. "Bình an cho các con"! Khi sự bình an đã đến thì những hệ quả khác như niềm vui, hạnh phúc, sự thanh thản. . . cũng đến theo sau. Tin mừng nói rõ là các môn đệ rất vui mừng vì được nhìn thấy Chúa. Quả thật, Chúa thật là niềm vui của mọi người! Nhưng con người rất nhiều lần đã không đón nhận niềm vui cách trọn vẹn vì đã bỏ qua những cơ hội gặp gỡ Chúa. Niềm vui trong lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến lần thứ nhất với các tông đồ chưa trọn vẹn vì thiếu vắng Tôma, một người anh em trong họ. Tôma chưa gặp Chúa Giêsu Phục sinh nên vẫn còn sống trong buồn chán và thiếu vắng bình an.
Chính vì mang tâm trạng đó, nên khi các tông đồ khác nói là họ đã thấy Chúa Giêsu Phục sinh thì ông phản ứng liền; phản ứng qua lời nói thách thức của một con người đang buồn chán: "Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh; nếu tôi không thọc bàn tay vào cảnh sường Ngài thì tôi không tin". Qua lời nói này, chúng ta dễ dàng phê phán Tôma là kẻ kém tin, kẻ cứng lòng. Quả thật, Tôma cứng lòng tin, nhưng Tôma đang làm gương cho chúng ta đó. Gương sáng về sự thẳng thắn vì không dấu diếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi nói lên sự yếu kém trong niềm tin. Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma: "nhờ hồ nghi" nên sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Tôma từ một người đón nhận niềm tin Phục sinh sau hết trong các tông đồ đã trở thành người trước nhất tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu cách trọn vẹn nhất. Sau khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo thánh truyền, ngài đã mang Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và Ấn Độ, nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin!
Rất khó khăn, các Tông đồ mới tin nhận Đức Giêsu Phục sinh. Nhưng khi đã tin nhận rồi thì các ngài đã hoàn toàn để cho Đấng Phục sinh lôi kéo mình vào lối sống mới, lối sống Phục sinh: can đảm ra đi làm chứng cho điều mình đã lãnh nhận dù có phải hy sinh mạng sống của mình đi nữa! Các ông không còn sợ hãi người Do thái, mang trong lòng mình niềm hy vọng tràn đầy!
Niềm tin của chúng ta hôm nay được đặt nền tảng là lời chứng của các tông đồ, những người đã chứng kiến Đức Giêsu Phục sinh. Vì thế, đức tin của chúng ta có một nền tảng rất là vững chắc. Hơn nữa, chúng ta còn là những người được thừa hưởng lời chúc phúc của Chúa Giêsu: "phúc cho những ai không thấy mà tin". Nhưng như thế thì chưa đủ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta được mời gọi để làm chứng cho một Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Nhưng có lễ chúng ta sẽ nói rằng: làm sao tôi làm chứng nổi vì tôi có thấy Chúa Giêsu Phục sinh đâu. Chúng ta cũng nên để ý rằng: Giả như các tông đồ ngày xưa làm chứng rằng: chính mắt chúng tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh, chính chúng tôi đã gặp gỡ Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Các ông làm chứng hùng hồn như thế, nhưng đang khi đó, đời sống của các ông không có gì biến đổi, vẫn tiếp tục bán Thầy như Giuđa, vẫn tiếp tục chối Thầy như Phêrô, vẫn tiếp tục đứng xa xa để nhìn Chúa Giêsu khi Ngài đi vào cuộc khổ nạn, vẫn tiếp tục sợ hãi đóng kín cánh cửa Giáo hội lại, thì thử hỏi các ông có giúp cho ai tin Chúa Giêsu Phục sinh không? Chẳng ai thèm tin đâu! Cho nên, bên cạnh lời chứng của các tông đồ bằng giác quan: chúng tôi đã thấy, đã gặp Chúa Giêsu Phục sinh thì các ngài còn phải làm chứng bằng đời sống của các ngài nữa. Đó là việc ra đi rao giảng bất chấp gian nguy, dùng chính đời sống của mình và cả mạng sống của mình để minh chứng cho những gì mình rao giảng. Đó cũng là cách làm chứng mà Giáo hội đang cần và đang khuyến khích chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay. Khi chúng ta biết làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh bằng chính đời sống tốt lành và gương mẫu của mình như thế, chắc chắn chúng ta sẽ tim thấy được niềm vui và sự bình an do chính Chúa Phục sinh ban tặng.
Cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong những ngày đầu của mùa Phục Sinh 2010. Hôm nay: PS2-178
Cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong những ngày đầu của mùa Phục Sinh 2010. Hôm nay là ngày cuối trong tuần Bát nhật mừng Chúa Phục sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm nền tảng và trung tâm đức tin của người kitô hữu. Ðây là mầu nhiệm hướng dẫn cả đời sống cho những ai tin vào Chúa Giêsu. Do đó, ai tin vào mầu nhiệm này thật là người có phúc.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã liên tiếp hiện ra với nhiều người. Ngày thứ nhất trong tuần Người đã hiện ra cùng các Tông đồ và nói: "Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa". (Ga 20, 19b - 20).
Tiếc thay, lúc ấy không có Tôma. Cho nên, sau đó ông được các anh em mình kể lại việc họ đã gặp Chúa Giêsu Phục sinh thế nào. Tôma đã không ngần ngại mà thốt lên: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." (Ga 20, 25b)
Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn đáp lại ước nguyện của ông: Tám ngày sau, các môn đệ Ðức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Ðức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em. Rồi Người bảo ông Tô-ma: Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20, 26 - 27)
Lúc đó, Tôma không còn thái độ nghi ngờ nữa. Ông thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " (Ga 20, 28b). Chúa Giêsu đáp lời ông: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20, 29)
Ðối với mầu nhiệm Phục sinh Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đón nhận bằng con tim chứ không bằng lý trí hay bằng những đụng chạm của giác quan bên ngoài có thể kiểm chứng được. Bởi vì, đây là mầu nhiệm chứ không phải là vấn đề cần giải quyết.
Vả lại, gọi là tin thì không thể kiểm chứng được. Hai người thanh niên nam nữ tự nguyện đến với nhau để ăn đời ở kiếp với nhau chỉ vì tin nhau chứ làm sao có thể kiểm chứng hết được.
Các Tông đồ đã được diễm phúc gặp được Chúa Giêsu Phục sinh trực tiếp. Chúng ta sẽ thật diễm phúc hơn nếu chúng ta thật sự tin vào mầu nhiệm cao cả này. Có tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh chúng ta mới dám can đảm thay đổi đời sống mỗi ngày cho được xứng đáng hơn với ơn gọi làm con Chúa.
Sống trong thời đại khoa học thực nghiệm, thông thường người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì: PS2-179
Sống trong thời đại khoa học thực nghiệm, thông thường người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì có thể cân đo đong đếm được. Còn những gì mà người ta không kiểm chứng được thì bị xem như là không có. Thời các Tông Đồ não trạng này cũng đã có mà tiêu biểu nhất là Tôma Sau khi Đức Giêsu Phục sinh, trước hết Người đã hiện ra bên mồ trống với Maria Mađalêna, và Người truyền cho bà đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ, nên bà được truyền thống gán cho danh hiệu là "tông đồ của các tông đồ". Sau đó, Người đồng loạt hiện ra với 2 môn đệ trên đường Emmaus và với 10 tông đồ nhưng vắng mặt Tôma. Tuy các ngài đã tường thuật lại cho Tôma việc Đức Giêsu đã sống lại và hiện ra nhưng ông không tin. Tôma thật là con người chỉ thích sống với "óc thực nghiệm". Ông không muốn tin những gì mà giác quan chưa kiểm chứng được. Tôma tuyên bố không bao giờ tin Đức Giêsu sống lại, nếu ông không thấy tận mắt, không được đặt ngón tay vào dấu đinh trên tay Đức Giêsu, không được đặt bàn tay vào chỗ mũi giáo đã đâm nơi cạnh sườn Đức Giêsu.
Cuối cùng, Tám ngày sau, Tôma cũng được kiểm chứng lời yêu cầu của mình khi Đức Giêsu biểu ông "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Thế nhưng, khi đối diện với Đức Giêsu, Tôma như hồn xiêu phách lạc chỉ biết hốt hoảng thốt lên một câu tuyên xưng đức tin đầy ý nghĩa: "Lạy Chúa con, Lạy Thiên Chúa của con".Tôma đã thấy nên ông đã tin. Vậy, câu hỏi đặt ra là chúng ta có cần phải xem thấy Chúa như các tông đồ để tin Chúa hơn hay không?
Tuy sống trong thời đại khoa học thực nghiệm nhưng có nhiêàu điều chúng ta không thấy mà chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi những bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của các nhà khoa học. Bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ,...là những thực tại vô hình, không có màu sắc, không trọng lượng, không có khối lượng. Nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại này không có.
Con người thông thường rất dễ bị nhầm lẫn khi cho rằng những ai đã được nhìn thấy Đức Giêsu thì tin dễ dàng hơn. Tin Mừng cho biết có nhiều người được nhìn thấy Đức Giêsu, thế nhưng họ vẫn không tin vào Người. Ngay cả các tông đồ vẫn có những vấn đề về đức tin. Tôma không phải là môn đệ duy nhất nghi ngờ sự sống lại. Tất cả họ đều như vậy. Thánh Máccô kể rằng khi Chúa Giêsu hiện đến với họ vào buổi chiều ngày Phục Sinh: "Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người chỗi dậy" (Mc 16,14)
Vậy, ngày nay tuy chúng ta không còn trực tiếp thấy Đức Giêsu, nhưng để đức tin của chúng ta được củng cố và phát triển thì một trong những điều chúng ta phải có đó là lòng mến, là tình yêu. Vì lòng mến là một trong những điều kiện tiên quyết để chúng ta tin. Do đó, muốn tin Chúa chúng ta phải mến Chúa trước đã. Lòng mến càng nhiều thì đức tin càng mạnh. Chúng ta biết Thánh Gioan là người tông đồ duy nhất có can đảm đứng dưới thập giá với Mẹ Maria trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, trong khi các tông đồ khác thì trốn hết. Và cũng chính Thánh Gioan là người đầu tiên tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, khi thánh nhân nhìn thấy khăn liệm để lại trong ngôi mộ trống.
Sau khi chúng ta tin Chúa, yêu mến Chúa, điều quan trọng kế tiếp là thể hiện lòng yêu mến đó qua hành động đối với tha nhân. Mến Chúa thì phải tuân giữ lời Chúa, và điều răn quan trọng mà Chúa muốn chúng ta phải giữ là "anh chị em hãy yêu mến nhau, như Thầy yêu mến anh chị em". Nhờ vào đời sống tốt lành của chúng ta mà người khác cảm nhận được tình thương của Chúa. Và ngày nay, sức mạnh của nhân chứng mới là điều đáng kể hơn cả. Khi con người cảm nghệm được tình thương của Chúa thì họ sẽ yêu mến Chúa, và khi họ yêu mến Chúa thì họ sẽ tin Chúa.
Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa và nói về Chúa cho người khác một cách xác tín bằng cả cuộc sống của mình. Amen
Buổi tối, thằng bé làm đổ ly sữa. Mẹ bảo nó ra ngoài lấy cây lao nhà. Nó bảo không dám đi vì: PS2-180
Buổi tối, thằng bé làm đổ ly sữa. Mẹ bảo nó ra ngoài lấy cây lao nhà. Nó bảo không dám đi vì sợ. Mẹ nó bảo có Chúa Giêsu bên ngoài, Ngài sẽ bảo vệ cho. Thằng bé thò đầu ra ngoài nói: "Lạy Chúa Giêsu nếu thật sự có Ngài ngoài đó thì đưa dùm con cây lao nhà".
Tâm hồn đơn sơ, cậu bé không đắn đo tin thật có Chúa Giêsu ngoài cửa. Và cậu cũng tin rằng Ngài sẽ giúp được mình thoát khỏi tình trạng khốn khó hiện tại. Thật là vui và cũng thật dễ thương quá.
Đức Giêsu sống lại hiện ra cho các tông đồ. Mọi người không ai nghi ngờ gì việc phục sinh của Thầy. Nhưng ở lần hiện ra đầu tiên này không có Tôma. Và ông đã lý luận: không thấy không tin. Một lý luận đặc sệch tính duy vật. "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người. Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin". Nếu như với môn đệ Đức Giêsu yêu chỉ nhìn thấy khăn liệm và vải thì đã tin (x. Ga 20,8), thì với Tôma đòi hỏi phải được kiểm chứng. Ông cứng lòng hơn. Ông không tin khi ông thật sự chưa mắt thấy tai nghe. Tám ngày sau, Đức Giêsu ưu ái hiện ra với các môn đệ một lần nữa, và lần này như chủ yếu là vì Tôma. "Lại đây mà xỏ tay vào cạnh sườn Thầy". Tôma với một chút ngỡ ngàng, không ngờ Thầy quá thẳng thắng như vậy. Ông sụp xuống: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con". Chính lời tuyên xưng này đã khởi đầu cho một viễn cảnh mới của đức tin. "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Ở đây, niềm tin mang một tầm vốc rộng lớn hơn. Đó là niềm tin của Giáo Hội, của toàn thể cộng đoàn tín hữu, những người không được tận mắt chứng kiến sự phục sinh của Đức Kitô.
Đức tin thật khó cho Tôma và cũng thật khó cho chúng ta. Tin vào một việc cụ thể, rõ ràng đôi khi cũng đã là khó. Ở đây là tin vào một Thiên Chúa đã sống lại từ cõi chết. Một ý niệm dường như vượt quá trí hiểu tự nhiên của con người. Hơn nữa, do chúng ta bị hạn chế bởi khả năng trí thức và suy tư, đặc biệt là trong những lĩnh vực thuộc về Thiên Chúa thì càng trở nên khó khăn hơn. Do vậy, mà chúng ta thường phải dựa vào những gì minh nhiên hơn, sáng tỏ hơn. Mặc khác, do ảnh hưởng xã hội. Đôi khi chúng ta không dám làm một điều gì ngược lại với trào lưu chung của tập thể. Dẫu biết rằng hành động của chúng ta đúng, nhưng xung quanh chẳng ai làm như mình. Điều này dễ dẫn đến suy nghĩ mình đang tách ra khỏi cộng đồng. Mặc cảm có lỗi ấy khiến chúng ta dễ dàng không tin vào Thiên Chúa, không dám dấn thân cho sự thật.
Đó là tính phiêu lưu của đức tin. Tin vào Đức Kitô phục sinh đòi chúng ta phải vượt qua nhiều chướng ngại: phong tục, văn hoá, truyền thống tín ngưỡng, lối sống, lối nghĩ, hình thức xã hội, trình độ học vấn. Nhưng trở ngại lớn nhất có lẽ là chính bản thân mỗi người. Làm sao chúng ta có thể vượt qua được những mặc cảm, chống đối, nghi ngờ, những hạn chế về hiểu biết... Nhiều lúc, chúng ta gần như phải bước đi trong thất vọng và đau đớn. Vì như không ai hiểu chúng ta. Thậm chí là những xung đột trong chính bản thân mình. Tôi đang làm gì? Tin vào ai? Đúng hay sai? Rồi có khi chúng ta đành đánh liều. Và cũng đã có quá nhiều người không còn giữ được niềm tin nữa. Đó là một sự liều lĩnh. Liều lĩnh để tin và liều lĩnh để chối từ.
Tuy vậy, đây không là một cuộc phiêu lưu vô lý, hay một cuộc "chơi ngông" nhưng là một cuộc chiến chính nghĩa. Vì tôi biết tôi tin vào ai. Như lời chép của Thánh Gioan: "Đừng sợ, Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá Tử thần và Âm phủ" (Kh 1, 17-18). Chúng ta biết chúng ta đang làm gì và đi về đâu. "Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại, về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng" (Cv 2, 32). Lạy Chúa, xin nâng đỡ cho niềm tin còn yếu đuối của chúng con.
Buổi chiều ngày thứ I, Đức Giêsu hiện đến với các tông đồ, vắng Tôma. Ngày thứ I, ngày của Chúa: PS2-181
Buổi chiều ngày thứ I, Đức Giêsu hiện đến với các tông đồ, vắng Tôma.
Ngày thứ I, ngày của Chúa: Đây là ngày Chúa đã làm ra......
Các tông đồ đang hội nhau..cầu nguyện. Là ngày hội của cộng đoàn. Đức Giêsu đến - Chúc bình an - thổi hơi trên các ông - ban thần khí - quyền tha tội - sai đi...
Tôma vắng - vì bị mắc - không nhận được - bình an - hơi thở-thần khí - và mọi thứ khác ie. không được gì hết - vì vắng mặt do bị mắc gì đó. Mắc gì thì mắc nhưng không được gì hết thì mới đáng nói.
Tôma bỏ Chúa Nhật-ngày của Chúa- Ngày hội của cộng đoàn-không nhận dược gì mà Chúa ban trong ngày ấy. Cho nên thay vì nhận được bình an của Đấng Phục Sinh mà mọi người đang âu lo sợ hải rất cần. Nên Tôma không được bình an mà còn tỏ thái độ mà Thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý qua tường thuật của ông. Không tin - Gioan trong suốt Phúc Âm thứ IV dường như chỉ chú trọng đặc biệt đến tin- không- tin. Tin thì được sống. Không tin thì không được. Tôma không tin nên nghe các ông khác nói đã thấy Chúa và thấy các dấu đinh ở tay chân và lổ cạnh sừơn Người nữa. Ông còn khinh khỉnh: Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh.......mà không thấy mình quá đáng. Không tin là như vậy.
Người tín hữu không có mặt ngày Chúa Nhật thì cũng như vậy. Ngay việc không có mặt trong ngày hội của cộng đoàn đã là dấu không tin rồi. Kẻ vắng mặt thì không được tính.
Chúa Giêsu đã quở Tôma: vì anh thấy nên anh mới tin. Thấy thì là thấy chớ còn gì mà gọi là tin nữa. Phúc cho kẻ không thấy mà tin. Người do thái đòi dấu lạ mới tin Đức Giêsu cũng đã quở nặng.
Ngày nay vẫn thế. Người ta vẩn chờ dấu lạ, vẫn di tìm phép lạ. Người ta đi Tác Sậy cầu xin Cha Phanxicô như là cha Phanxicô mới cho, Chúa không có cho. Đi Tà Pao xin Đức Mẹ. Người ta nói Mẹ ở đó chờ, hãy đến để Mẹ thương, Mẹ ban ơn. Như ở đó mới có Mẹ. Sự lạ là dấu Mẹ hiện diện. Tôi đến thăm Mẹ. Như người ta kể: người nầy chuyến đi Tà Pao nào cũng có mặt mà ở nhà không có tới nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Có người nói giữ đạo vì có lợi là lợi dụng. Nếu chỉ để xin ơn phần xác thôi thì có lẻ đúng. Còn nếu để dược lợi linh hồn và sự sống đời đời thì lợi dụng cũng nên. Lợi được sự sống đời đời thì phải lợi dụng chứ. Nên lắm chứ.
Hãy có mặt ngày của Chúa. Chúa có thấy mặt mới đặt tên, mới ban bình an,mới thở hơi Phục Sinh cho, mới biến đổi thành con người mới và mới sai đi.
Từ hồi rất bé khi có dịp ra viếng Đất Thánh quê tôi, tôi thường được mẹ dẫn đến viếng hai ngôi: PS2-182
1. Từ hồi rất bé khi có dịp ra viếng Đất Thánh quê tôi, tôi thường được mẹ dẫn đến viếng hai ngôi mộ bằng đá ong cũ kỹ, mẹ nói đây là phần mộ của ông sơ và bà sơ của tôi. Có lần tôi hỏi: "Mẹ có biết mặt ông bà sơ không ? Mẹ có dự lễ an táng của ông bà sơ không ?". Mẹ tôi trả lời:" Mẹ chỉ nghe ông bà ngoại (của tôi) nói lại thôi, ông bà sơ qua đời đã lâu lắm rồi, nhưng mẹ tin chắc rằng đó là mộ của ông bà sơ".
Trong cuộc sống, có những điều chính mắt chúng ta chứng kiến, kiểm nghiệm... nhờ đó ta tin, thế nhưng có những điều chúng ta tin nhờ vào người khác.
2. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Lần thứ nhất không có Tôma, khi các môn đệ khác kể lại với ông: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", thì ông đáp lại: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người... thì tôi không tin". Đó là nguyện vọng rất bình thường, rất hợp lý của Tôma. Tám ngày sau, Đức Giêsu Phục Sinh lại hiện ra, lời đề nghị của Tôma được đáp ứng. Chúa nói với ông: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra xỏ vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin ". Tôma liền đáp lại và tuyên xưng đức tin: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi ". Giờ đây, ông chịu khuất phục vì sự hiện diện của Chúa, ông chẳng dám đưa tay ra sờ Chúa nữa, ông đã tin.
3. Chúa luôn sẵn sàng thỏa mãn những đòi hỏi của các môn đệ, của ta, nhưng bao giờ Người cũng muốn niềm tin của ta ở mức cao hơn: "Phúc thay những ai không thấy mà tin". Thật vậy, từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng giác quan kiểm nghiệm được, lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe , bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe. Như tôi tin vào lời mẹ tôi nói, mẹ tôi tin vào lời của ông bà ngoại tôi về mộ phần của ông bà sơ tôi, lẽ nào họ không nói đúng sự thật?
Tôma chậm tin vào lời chứng của các bạn, nên ông chậm tin vào Chúa Phục sinh. Ông cũng chậm tin, hay quên cả lời Chúa báo trước về sự phục sinh của Người. Điều đáng trách của Tôma là ở chỗ đó, nhưng cũng có cái hay là vì ông chậm tin, nên ngày hôm nay chúng ta vững tin vào việc Đức Kitô Phục Sinh hơn, bởi ông không là người nhẹ dạ cả tin.
4. Trong thực tế, có rất nhiều điều cần phải qua kiểm chứng để mới có thể tin được. Nhất là sống trong thời đại mà sự thật dễ bị coi thường, dễ bị lừa đảo. Thế nhưng chúng ta vẫn phải tin bao điều mình không thấy: như các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau. Con cái tin vào sự hướng dẫn của cha mẹ. Học trò tin vào sự hướng dẫn của thầy cô... Cái khó là nên tin vào ai, và không nên tin vào ai ? Tin điều gì và không nên tin điều gì ?
Trong cuộc sống hẳn chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về điều này để ứng xử ; nhưng trong lãnh vực đức tin và luân lý, thì không còn nghi ngờ gì nữa, mà phải tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu và Lời Người dạy. Vì Lời Người là chân thật, hằng sống. Chúng ta cũng phải tin vào lời chứng của các Tông Đồ và các đấng kế vị các ngài, vào Hội Thánh của Chúa, nơi chân lý được lưu truyền. "Phúc cho ai không thấy mà tin ", lời chúc phúc này tiếp tục trao ban cho mọi Kitô hữu, qua mọi thời, mọi nơi dù không thấy Chúa bằng mắt thường, nhưng nhận ra sự hiện diện của Người qua đức tin.
5. Thế nhưng hãy xem coi ta có xứng đáng nhận lời chúc phúc này của Đức Giêsu Phục Sinh hay không ? Bởi khi suy niệm về bài Tin Mừng hôm nay, có khi ta trách Tôma cứng lòng, còn ta ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta mới hờ hững với lời Chúa dạy? Phải chăng vì cứng lòng nên ta đến nhà thờ không phải để thờ phượng Chúa mà để gặp gỡ nhau, để lương tâm được yên ổn... vì thế cứ thích ở ngoài nhà thờ, dù bên trong nhà thờ còn rất nhiều chỗ ngồi ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta chỉ tìm lợi ích cho mình mặc ai thiệt thòi đau khổ ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta không vui trước sự thành công của người khác ? v.v...
Với những cách sống như thế, chúng ta không thể là người có phúc được vì chứng tỏ ta không thực sự tin vào Chúa Phục sinh, không tin Lời Người dạy và như vậy làm sao có thể làm chứng cho tha nhân biết rằng Chúa đã phục sinh ?
Chúa Nhật II- C Phục Sinh - Kính Lòng Thương Xót Chúa
1. LỜI CHÚA: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21).
2. CÂU CHUYỆN: Về Một Phương Thế Truyền Giáo Hữu Hiệu
Ngày nay rao giảng về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh cho người khác có thể chấp nhận không phải dễ: PS2-183
Ngày nay rao giảng về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh cho người khác có thể chấp nhận không phải dễ. Ngòai việc cần ơn trợ giúp của Chúa, còn cần phải có chứng tích yêu thương cụ thể của người rao giảng. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:
Một vị linh mục ở nước Bờ-ra-din (Bra-sin) đã thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của mình như sau: "Mỗi ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Ri-ô đờ Da-nê-rô (Rio de Janeiro), tôi đều thấy một thanh niên ngồi dựa lưng vào tường và chìa chiếc nón ra xin tiền khách qua đường. Anh ta không đi lại được vì đôi chân bị què. Sau đó vì qua lại nhiều lần trên con đường này, nên tôi không còn để ý đến chàng thanh niên hành khất bị què kia.
Rồi một hôm, khi tôi đang đứng nói chuyện với một người quen ở một bên đường, thì thấy có nhiều người đi bộ ngang qua chỗ anh què ăn xin mà như không nhìn thấy anh và không chia sẻ tiền bạc gì để giúp đỡ anh. Tôi liền nghĩ đến thái độ làm lơ của thầy Tư tế và thầy Lê-vi trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu. Hai ông này đã tránh sang một bên đường mà đi và chỉ có người Sa-ma-ri ngoại giáo đã tỏ lòng thương xót nạn nhân bằng hành động cụ thể (x. Lc 10,30-35). Tôi quyết định noi gương người Sa-ma-ri nên đã vui vẻ tiến lại gần bắt chuyện: "Này anh bạn, anh có thể đứng dậy được không? Anh có muốn đi đứng giống như mọi người không? ..."Anh ta đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn tôi dò xét, và khi đọc được sự thành thật trên gương mặt của tôi, anh đã trả lời: "Tôi luôn hy vọng sẽ có ngày cuộc đời của tôi tốt hơn và tôi được thoát khỏi cái nghề ăn xin nhục nhã hiện nay. Dĩ nhiên là tôi mơ ước một ngày nào đó tôi có thể tự mình đi đứng được như bao người khác. Nhưng làm sao kiếm ra tiền để lắp một đôi chân giả và mua được một cặp nạng đây?" Sau khi nghe anh tâm sự, tôi đã síết chặt tay anh và nói: "Tôi xin hứa là trong một ngày gần đây, giấc mơ của anh sẽ trở thành hiện thực".
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa Nhật mùa Chay hôm ấy, tôi đã kể về số phận đáng thương của người ăn xin này cùng với ước mơ nhỏ bé của anh. Rồi tôi đề nghị cộng đoàn cùng nhau làm một cuộc lạc quyên tại chỗ để giúp đỡ anh ta như một cách ăn chay tinh thần. Số tiền lạc quyên thu được hôm ấy đã gần đủ chi phí làm đôi chân giả và cặp nạng gỗ mà người ăn xin cần sử dụng. Tuần sau, khi tôi và hai đại diện cộng đoàn đến gặp và cho biết kết quả thì chàng thanh niên kia rất vui mừng. Ngay lúc đó, anh được chở đến bệnh viện chấn thương chỉnh hình để được ráp một đôi chân giả, và tập đi với đôi nạng mới.
Trong lễ Phục Sinh năm ấy, tôi mời anh đến nhà thờ dự lễ và dành cho anh chỗ ngồi đặc biệt cạnh bàn thờ chính. Trong bài giảng, tôi đã đề cập đến trường hợp của anh như sau: "Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Giê-su trỗi dậy từ trong cõi chết, bước vào một cuộc sống mới. Người kêu gọi chúng ta mở rộng lòng giúp đỡ những anh chị em đang lâm cảnh nghèo khổ để họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hôm nay, nhờ sự quảng đại của cộng đòan mà anh bạn của chúng ta đây đã nhận được một cuộc sống mới". Nói đến đây tôi mời anh què đứng dậy để giới thiệu anh với cộng đoàn. Sau đó mọi người trong nhà thờ đều phấn khởi khi nghe những lời phát biểu chân thành của anh, và vỗ tay tán thưởng khi nghe anh ngỏ ý xin gia nhập cộng đoàn. Cuối cùng anh què đã được xếp vào đội hình những người lên dâng lễ hôm đó.
3. SUY NIỆM:
1) Dễ tin và cứng tin: Trong đời sống hằng ngày, ngòai việc nhận biết nhờ tai nghe hay mắt thấy, chúng ta còn phải tin vào lời dạy của thầy cô thì mới có thể thăng tiến về học tập và kiến thức, phải tin vào cha mẹ mới có thể nên người được, phải tin vào lời nói của các đối tác làm ăn mới có thể kinh doanh thành công được... Tuy nhiên thực tế cũng có nhiều người đã bị lừa vì dễ tin lời nói ngon ngọt. Vậy về việc tin vào lời nói của người khác chỉ thực sự tốt đẹp nếu người nói là người đáng tin, điều họ nói hợp lý và người nghe phần nào có cảm nghiệm về điều ấy.
Riêng về mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su, các môn đệ không phải là những người dễ tin: Dù các ông đã được nghe Đức Giê-su ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người, nhưng các ông vẫn không muốn chấp nhận (x Mt 16,21-23). Rồi sau cuộc tử nạn của Chúa, khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin Thầy Giê-su vẫn còn sống và chính bà đã được nhìn thấy Người, nhưng các ông vẫn không tin (x Mc 16,9-11). Vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện đến thì các môn đệ lại sợ hãi như nhìn thấy ma. Chúa Giê-su đã trấn an và chứng minh Người không phải là ma như sau: "Sao anh em lại hỏang hốt ? Sao anh em ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây" (Lc 24,38-40). Sau đó thấy các ông vẫn chưa tin, Người đã ăn một mẩu cá nướng trước mặt các ông (x Lc 24,41-43).
2) Đức tin của Tô-ma và của các tín hữu chúng ta: Tuy Tô-ma là người cứng tin, nhưng sau khi đã được gặp gỡ Chúa và đã cảm nghiệm về sự phục sinh của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh nhất, thể hiện qua lời tuyên xưng đức tin: "Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con !" (Ga 20,28). Chúa Giê-su cũng qua ông Tô-ma chúc phúc cho các tín hữu sẽ tin theo Người sau này như sau: "Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay người không thấy mà tin". Ngày nay tuy không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời nói của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với Người như các Tông đồ xưa, nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của các Tông đồ là những chứng nhân đức tin, là những người không dễ tin nhưng đã từng cảm nghiệm về mầu nhiệm phục sinh như ông Tô-ma trong Tin Mừng hôm nay. Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói: "Ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là thân xác Đức Giê-su Ki-tô thực sự đã sống lại".
3) Sứ vụ cứu độ của Hội Thánh hôm nay là gì ?: Đức Giê-su Phục Sinh cũng tiếp tục trao sứ mạng "xóa bỏ tội lỗi và ban ơn tha tội" cho Hội thánh như sau: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội ai thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,23). Việc tha tội này được thực hiện bằng việc rao giảng Tin mừng và ban bí tích rửa tội cho những ai có lòng tin (x. Mt 28,19-20), và ơn tha tội qua bí tích giải tội. Quyền tha tội này chính là quyền "cầm buộc và tháo cởi" đã được Đức Giê-su trao cho Tông đồ Phê-rô (x. Mt 16,19) và trao chung cho Nhóm Muời Hai (x. Mt 18,18).
4) Truyền đạt Đức Tin cho con người ngày nay bằng cách nào ?: Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao cho Hội Thánh sứ vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,19-20). Sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho con người ngày nay không dễ chút nào. Muốn thuyết phục người ngày nay tin vào Chúa Giê-su, tin vào lời Người rao giảng thì cần có những điều kiện như sau:
- Một là phải nhận được ơn Thánh Thần: Ta hãy năng cầu nguyện kết hiệp với Đức Mẹ Ma-ri-a, các anh em Chúa, các Tông đồ và môn đệ như trong lễ Ngũ Tuần. Chỉ khi có ơn Thánh Thần thôi thúc trợ giúp, việc tông đồ truyền giáo mới mang lại thành công như lời Chúa Giê-su dạy: "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
- Hai là hiệp nhất với Chúa qua việc vâng lời các mục tử trong Hội Thánh: Khi kết hiệp với Chúa Giê-su qua việc vâng phục các vị chủ chăn trong Hội Thánh, công việc tông đồ của chúng ta mới có thể mang lại kết quả tốt đẹp, như ông Si-mon đã thưa với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, chúng tôi đa vất vả suốt đêm, mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới". Các ông đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới (Lc 5,6).
- Ba là phải rao giảng bằng lối sống chứng nhân tình thương: Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất làm cho họ được ơn biến đổi trong lòng tin là làm sao để họ có thể "nhìn thấy" Đức Giêsu và "đụng chạm" vào Người qua con người nhân bản của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm tốn phục vụ vị tha của chúng ta. Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lo II đã nói: "Người thời nay không thích nghe các thầy dạy, mà chỉ thấy các chứng nhân; và giả sử như người ta có thích nghe các thầy dạy, thì các thầy dạy đó trước tiên phải là những chứng nhân".
- Hôm nay cũng là lễ kính "Lòng Thương xót của Chúa" mà Đức Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000. Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh Đức Giê-su từ bi thương xót do thánh Faus-ti-na Ko-wals-ka để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faus-ti-na Ko-wals-ka thưa với Người rằng: "Lạy Chúa Giê-su, con xin tín thác vào Người !" Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hiệp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
2- Qua bí tích thêm sức, bạn đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi thông ban Thánh Thần và được trao sứ vụ"làm chứng nhân" cho Chúa. Vậy bạn quyết tâm sẽ làm gì trong những ngày này để đưa một người chưa biết Chúa được tin nhận vào Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tông đồ Tô-ma tuy lúc đầu cứng lòng tin, nhưng sau đó đã đạt đến một đức tin trọn hảo khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Chính sự "cứng lòng" của Tô-ma lại trở thành chỗ dựa vững chắc cho đức tin của chúng con hôm nay. Rồi các tông đồ cũng đã tỏ ra trung thực và khiêm tốn khi thuật lại cả những điều thiếu sót, các sự chậm tin và hồ nghi của mình để đức tin của chúng con hôm nay được thêm vững mạnh. Giờ đây cùng với Tô-ma xưa, chúng con long trọng tuyên xưng rằng: "Lạy Chúa là Cứu Chúa và là Thiên Chúa của con".
- LẠY CHÚA. Trong những ngày này, xin cho chúng con thêm xác tín vào quyền năng của Chúa, để năng thưa với Chúa rằng: "Lạy Chúa, con tin ! Nhưng xin Chúa hãy trợ giúp lòng tin yếu kém của con!" (x. Mc 9,24). Con nhận thấy đức tin của con hiện vẫn còn yếu đuối và có nguy cơ chết dần do thiếu hành động, như lời thánh Gia-cô-bê: "Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2,17). Xin cho chúng con biết tuyên xưng đức tin bằng lời nói, và nhất là bằng các việc bác ái cụ thể như: thăm viếng, an ủi những người đau khổ; nhường cơm xẻ áo cho những người đói rách bất hạnh... như Chúa dạy và được Hội thánh tóm lại trong kinh "Thương người". Vì đây là phương thế truyền giáo hữu hiệu nhất trong thế giới hôm nay.
Sau một cuộc giao tranh ác liệt, giữa bao xác chết ngổn ngang trên trận địa, người ta tìm thấy: PS2-184
Sau một cuộc giao tranh ác liệt, giữa bao xác chết ngổn ngang trên trận địa, người ta tìm thấy bức thư của một người lính Nga, đã ngã gục dưới bom đạn. Bức thư ấy có một nội dung hết sức lạ lùng về lòng tin của một thanh niên đã từng lớn lên và được giao dục theo chủ nghĩa vô thần. Anh đã nhận thấy Thiên Chúa thực sự hiện hữu khi nhìn lên bầu trời lấp lánh ánh sao. Anh không chỉ tin vào Ngài trong đầu óc anh, nhưng trái tim anh đã thực sự rung động khi anh viết những hàng chữ sau đây để thân thưa với Chúa:
"Lạy Chúa, Chúa có nghe thấy tiếng con hay không? Con chưa hề nói chuyện với Chúa bao giờ. Nhưng hôm nay con cảm thấy cần phải chào hỏi Chúa. Con biết rằng ngay từ thời còn thơ ấu, người ta đã không ngừng lặp đi lặp lại với con rằng: Không có Chúa. Ngài chỉ là một câu chuyện hoang đường. Và con đã tin thật điều đó. Cho đến những năm tháng khôn lớn, con cũng chưa bao giờ để ý hoặc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. Chỉ đến ngày hôm nay, con mới nhận ra vẻ đẹp này. Con lặng lẽ chiêm ngắm bầu trời với muôn ngàn tinh tú. Và con biết rằng Chúa thực sự hiện hữu".
Từ mẩu tâm sự trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với niềm tin của Tôma. Thực vậy, Đức Kitô Phục sinh đã chiếu cố đặc biệt tới ông khi hiện ra. Chính nhờ vậy mà lòng tin của ông đã được chuyển biến, để rồi ông đã thưa lên: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi. Còn chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên là chúng ta không có may mắn như Tôma, là được chiêm ngắm Chúa nhãn tiền. Hiện thời, chúng ta là những người đi trong sương mù. Đức tin của chúng ta còn nhiều hồ nghi, còn nhiều thắc mắc, còn nhiều trăn trở. Nhưng có lẽ vì thế mà đức tin của chúng ta có một giá trị to lớn như lời Chúa đã xác quyết: Phúc cho những ai không thấy mà tin. Mặc dầu chúng ta không nhìn thấy Chúa, nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra những dấu ấn của Ngài trong thiên nhiên, như người lính Nga đã nhận ra Ngài khi chiêm ngắn bầu trời lấp lánh ánh sao. Với trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng cùng với những kỳ công trong vũ trụ, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa và chúng ta có thể xác quyết người là một con vật có tôn giáo. Đồng thời thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, trong đó, mỗi trang, mỗi dòng đều nói cho chúng ta biết về Chúa.
Chính vì thế, chúng ta hãy xin Chúa củng cố niềm tin nhỏ bé của chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ nhận biết Ngài qua Kinh thánh cũng như qua thiên nhiên.
Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay ... Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có: PS2-185
"Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.
Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ có rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.
Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tìm kiếm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú cả khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, đế mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khoá, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.
Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo về người đó khỏi phải làm một công việc khó nhọc, đó là đi tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.
Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.
Đức Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù quáng. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe doạ hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và Người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta co thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.
Tông đồ Tôma đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin. Nhiều người cũng đang khủng hoảng đức: PS2-186:
Tông đồ Tôma đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin. Nhiều người cũng đang khủng hoảng đức tin. Tolstoy là một con người mẫu mực, ngoại trừ cuộc sống của ông cũng đang bị một cơn khủng hoảng về mặt ý nghĩa.
Năm 1879, ông được 51 tuổi. Ông có lý do để mãn nguyện với chính mình. Ông đã hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết, Chiến tranh và Hoà bình và Anna Karenina. Nếu ông không viết một tác phẩm nào khác nữa, thì hai cuốn tiểu thuyết này đủ đảm bảo cho ông có một vị trí xứng đáng trong cuốn sử biên niên của nền văn học thế giới. Văn phong của hai cuốn sách này đã giúp cho ông có thể diễn tả được tính cách vĩ đại và khả năng sáng tạo của ông. Đáng lẽ ông rất hạnh phúc. Tuy nhiên, ông lại cảm thấy đau khổ. Ông cảm thấy cuộc sống của mình không có ý nghĩa. Có một câu hỏi cứ lảng vảng trong ông: "Liệu có bất cứ ý nghĩa nào trong cuộc sống của tôi sẽ không bị cái chết huỷ hoại đi chăng?".
Đối với ông, đây là một thời kỳ nguy hiểm và đau đớn -ông đã từng dự tính tự tử. Ông tìm kiếm một lời giải đáp cho những câu hỏi của ông trong từng lãnh vực của kiến thức nhân loại. Ông cứ kiên nhẫn tìm kiếm, cả ngày lẫn đêm, giống như một người đang giãy chết tìm cách để được cứu thoát. Nhưng ông vẫn không hề tìm thấy gì cả.
Thế rồi ông quay trở lại với niềm tin của các Kitô hữu. Ông đã từng được nuôi dưỡng trong lòng tin, nhưng ông đã từ bỏ đức tin đó từ lâu rồi. Ông cảm thấy khó chịu đối với niềm tin này, và coi đó như là thứ vô nghĩa lý trên môi miệng của những kẻ có cuộc sống trái ngược hẳn với cuộc sống của ông. Nhưng khi nhìn vào những con người sống bằng niềm tin, thì cũng chính niềm tin này lại lôi cuốn ông và dường như gây cho ông sự xúc động.
Từ đó, ông được lôi kéo quay trở lại với niềm tin này và ông đã nhận ra được ý nghĩa của niềm tin. Ông nói:
"Tôi đã từng suy nghĩ rằng trong cuộc sống, không hề có chân lý chắc chắn. Nhưng rồi tội đã tìm thấy một nguồn ánh sáng đó từ trong Tin Mừng, và nét rạng ngời của ánh sáng đó đã làm ngây ngất cõi lòng tôi. Trong những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi nhận ra rằng đó là một học thuyết tinh tuyền nhất và đầy đủ nhất trong cuộc đời. Từ 2000 năm nay, lời rao giảng cao cả và quý giá của Đức Giêsu đã tạo ra một ảnh hưởng trên con người, theo cách thức mà không có bất cứ người nào khác có thể tạo ra được. Một ánh sáng đã chiếu toả trên con người tôi và chung quanh tôi, và kể từ đó, ánh sáng này không bỏ rơi tôi nữa".
Một số người đã được đưa ra vào lòng tin tôn giáo ngay từ lúc mới sinh, và theo năm tháng, họ nhận thấy lòng tin này càng ngày càng mạnh mẽ và vẫn được duy trì. Khi có được lòng tin như vậy, thì đó là một ơn phúc lớn lao. Nhưng đối với những người khác, lòng tin là một cuộc đấu tranh liên lỉ. Thật vậy, có thể một số người đã phải trải qua một cơn khủng hoảng, rồi mới đến được một lòng tin sâu xa và mang tính cách cá nhân.
Chỉ có lòng tin mới có thể trả lời cho những câu hỏi sâu xa nhất và quan trọng nhất trong cuộc đời. Nhưng chúng ta không được mong đợi lòng tin soi sáng tất cả mọi sự, bởi vì chúng ta có lòng tin, điều đó không có nghĩa là chúng ta biết được tất cả mọi câu trả lời. Nhưng chúng ta không nhất thiết biết tất cả những câu trả lời. Lòng tin là sự tin tưởng, chứ không phải là biết chắc chắn.
Câu chuyện của Tôma đa nghi giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng lòng tin được chứa đựng trong bình chứa là con người nhân loại thật mỏng dòn biết bao. Và điều này cũng chỉ ra cho chúng ta rằng lòng tin Kitô giáo nhất thiết phải là lòng tin đối với một Đấng đã yêu thương chúng ta -và Người đã có những vết thương để chứng tỏ tình yêu này. Tất cả cốt lõi của lòng tin trong Kinh Thánh không chỉ là lòng tin mà chúng ta có được nơi Thiên Chúa, nhưng còn là lòng tin mà Thiên Chúa có nơi chúng ta.
Walter Ciszek, một linh mục dòng Tên người Ba Lan, đã trải qua 15 năm sống trong các trại cưỡng: PS2-187
Walter Ciszek, một linh mục dòng Tên người Ba Lan, đã trải qua 15 năm sống trong các trại cưỡng bức lao động tại Siberia. Trong suốt những năm tháng đó, ông thuộc về những lữ đoàn thấp kém nhất, đã ép buộc ông phải làm những công việc bẩn thỉu nhất - đào nền bằng tay, khiêng vác những vật liệu xây dựng nặng nề, bò qua những khu hầm mỏ tối tăm, ẩm thấp, tại đó, chỉ cần sơ ý một chút là đủ đưa đến cái chết.
Điều gì đã giúp cho ông tồn tại được? Ông nói "Nhiều người đã chết, đặc biệt khi mất đi niềm hy vọng. Nhưng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa, và nhờ đó, không bao giờ tôi cảm thấy mất niềm hy vọng. Không phải là tôi duy trì được lòng tin, nhưng chính lòng tin đã giúp tôi tồn tại".
Hạnh phúc cho những ai có được một lòng tin như thế.
Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu ( Ga 15, 13 ): PS2-188
Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu ( Ga 15, 13 ) “ Yêu như Thầy đã yêu “ ( Ga 15, 12 ). Chúa Giêsu đã yêu nhân loại đến nỗi chấp nhận ý định của Thiên Chúa Cha, gánh tội cho nhân loại và chết khổ hình trên Thập giá. Thánh Gioan đã định nghĩa “ Thiên Chúa là Tình Yêu “. ( 1 Ga 4, 8 ). Khi định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu. Thánh Gioan muốn nói lên tấm lòng đầy nhân hậu của Chúa, tình thương bao la của Ngài …Hôm nay, Giáo Hội tôn kính Lòng Thương Xót của Chúa. Đây là Chúa nhật II Phục Sinh, Chân Phước Gioan Phaolô II đã ấn định toàn thể Hội Thánh mừng Lòng Thương Xót của Chúa vào năm 2001.
Vâng, vào năm 1930 một nữ tu người Ba Lan tên là Maria Faustina đã được Chúa Giêsu chọn để cổ võ Lòng Thương Xót của Chúa cho nhân loại, cho thế giới. Maria Faustina đã được hạnh phúc nhìn thấy Chúa Giêsu và diễn tả về Chúa Giêsu với tước hiệu “ Lòng Thương Xót “, để các họa sĩ có thể vẽ lên khung hình, hình ảnh Lòng Thương Xót của Chúa với hàng chữ Lạy Chúa Giêsu con tín thác vào Ngài. Thánh nữ Maria Faustina đã thấy Chúa Giêsu mặc y phục mầu trắng, tay phải giơ lên trời ban phép lành, tay trái đặt vào ngực. Nơi trái tim của Chúa phát tỏa ra hai luồng sáng, màu đỏ và xanh lợt, tượng trưng cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc thương khó hồng phúc khi chính trái tim của Ngài bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Ánh sáng xanh lợt tỏ lộ cho nước rửa sạch và thanh tẩy linh hồn. Ánh sáng màu đỏ tượng trưng cho máu, làm phát sinh sự sống mới cho linh hồn. Điều này cho chúng ta hiểu rõ hơn về trái tim thanh sạch, vẹn tuyền, tình thương vô bờ vô bến của Chúa Giêsu. Một trái tim luôn chạnh thương, một trái tim nhạy cảm trước những đau khổ, thử thách, hoang mang của cuộc đời. Chúa luôn quan tâm đến con người, đặc biệt trước những nhu cầu cần thiết của con người.Chúa đã nhạy cảm và thương xót đám đông bơ vơ đói, khát khi nhiệt tình nghe Chúa giản dạy. Chúa đã làm phép lạ hóa bánh và cá để nuôi sống họ. Chúa đã chạnh thương làm cho người phụ nữ băng huyết đã mười tám năm được lành bệnh. Chúa đã làm cho con bà góa thành Naim hồi sinh và Lazarô cũng hồi sinh sau bốn ngày chết và chôn trong mồ.Chúa chạnh lòng thương mười người phong cùi và chữa lành họ. Chúa yêu thương, chạnh lòng tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa chạnh lòng thương đứa con hoang đàng trở về với Ngài…Trái tim của Chúa thật vô cùng bao la.Tình thương của Chúa đời đời con ca ngợi ( Tv 88 ).Các Tông đồ và hôm nay Tôma, sau tám ngày Chúa sống lại, hiện ra có cả Tôma nữa. Chắc chắn trái tim các ông đã phập phòng vì vui sướn, nhưng cũng không kém hồi hộp, âu lo. Tôma làm gì dám đưa bàn tay ra để đặt vào cạnh sườn Chúa, làm gì dám đưa ngón tay ra để thọc vào lỗ đinh tay, chân của Chúa. Cả Tôma và cả các tông đồ đều một phần cảm cảm nghiệm tình thương vô biên của Lòng Thương Xót của Chúa.
Các Tông đồ và Tôma cũng như các người phụ nữ đã tin vào Chúa sống lại.Họ đã kinh qua quá trình thử thách và rồi đức tin cứ tiệm tiến lớn lên.Họ đã hiên ngang làm chứng cho Chúa sống lại và rao truyền Lòng Thương Xót của Chúa.
Chỉ có tình yêu, chỉ có con tim nhân hậu, cảm thông, thương xót mới nói lên tấm lòng đầy yêu thương của Chúa Giêsu. Thánh nữ Maria Faustina cho hay Chúa Giêsu luôn sẵn sàng tha thứ cho các tội nhân, dẫu rằng có tội nhân đã hoàn toàn tuyệt vọng, nếu họ thực tâm hối cải và quay trở về với Chúa tình yêu. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi, mạnh hơn cả sự chết. Trở về với Chúa, xưng thú tội lỗi và thật chừa cải tội lỗi chắc chắn sẽ được Chúa thứ tha.
Xin mượn lời của Cha Pr.Lâm Tấn Phát, Chánh xứ Tân Hồng, Đồng Tháp để kết luận những dòng suy niệm ” Tóm lại, xin anh chị em nghe lời dạy của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Giáo Hội có quyền và nghĩa vụ phải tôn kính, loan báo, và thực hành kêu van khóc lóc Thiên Chúa của Lòng Thương Xót Chúa… “.
Hãy thực hành giới răn yêu thương như Chúa dạy trong Tin Mừng. Hãy tín thác đời mình cho Chúa:” Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa “.
Thực hiện những điều Chúa dạy trên đây thì ngày phán xét sẽ là ngày vui cho ta.
Chúa Giêsu nói:” Ta đến với con trong giờ lâm chung không với tư cách Quan tòa để xét xử công minh mà đến với con như Vị Cứu Tinh nhân hậu giầu Lòng Thương Xót “.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ai đã chọn ngày Chúa nhật II Phục Sinh để tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa ? 2.Ai đã được Chúa mặc khải về Lòng Thương Xót Chúa ? 3. Trái tim Chúa thế nào ? 4.Tôma làm sao trước sự hiện diện của Chúa sống lại ?
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người. Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. (27) Rồi Người bảo Ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (29) Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ. Nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của: PS2-189
Bài Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của các ông như sau: Lần thứ nhất (c 19-25): vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Phục Sinh đã hiện đến đứng giữa các môn đệ đang hội họp mà không có Tô-ma. Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để chứng minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi thổi hơi ban Thánh Thần và trao quyền tha tội cho các ông. Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày sau, Chúa Giê-su lại hiện ra với các môn đệ và có Tô-ma. Người đặc biệt đáp ứng các đòi hỏi của ông. Rồi khi ông đã đạt đến đức tin, thì Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế cho Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Người hiện đến trong lúc phòng đang đóng kín. Điều này cho thấy thân xác của Người sau phục sinh có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Qua đó, Người chứng tỏ Người chính là Đấng đã từng bị đóng đinh thập giá trước đó (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Như vậy có sự liên kết mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Đức Giê-su Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã tuyên bố có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, để ban quyền tha tội cho các tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các giám mục kế vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.
- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông ưa nêu ra thắc mắc khi Đức Giê-su giảng để được Người dạy cho hiểu rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người...: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “... thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng Nhất Lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; hoặc Chúa phán: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38)
- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Tuy khiển trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Đức Giê-su cũng thông cảm và chỉ mời gọi ông hãy bỏ đi sự cứng lòng để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người.
- C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tô-ma là môn đệ cuối cùng tin Đức Giê-su sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức Giê-su: Người vừa là Chúa (Đấng Mê-si-a), vừa là Con Thiên Chúa (x Mt 16,16). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Qua câu này, Chúa Giê-su muốn nói rằng: Từ nay trở đi, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh sẽ không được dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa, nhưng sẽ dựa trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các ông còn sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh này nữa.
ĐÁP: Thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh cũng chính là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn. Trong Tin mừng hôm nay Chúa Giê-su đã chứng minh mầu nhiệm Phục Sinh gắn liền với cuộc Tử Nạn bằng cách: “Cho các môn đệ xem các vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn Người” (c.20). Cho sờ vào Người (x. Lc 24,36-40), và Người còn ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41-43) để chứng minh Người thực đang sống chứ không phải chỉ là hồn ma.
Tuy nhiên thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh lại có những đặc tính khác thường như: Đi xuyên qua tường mà vào nhà Tiệc ly đang khi các cửa đều đóng kín vì sợ người Do thái (x. Ga 20,19). Khuôn mặt của Người sau phục sinh biến đổi khác trước khiến bà Ma-ri-a gặp Người mà lầm tưởng là người làm vườn (x. Ga 20.14-15), khiến hai môn đệ làng Em-mau không nhận ra Người trong suốt chặng đường dài Người đồng hành và giải thích Kinh thánh cho họ (x. Lc 24,16). Thân xác Người có đặc tính siêu việt: Dù không có mặt tại chỗ mà vẫn nghe được những đòi hỏi của Tô-ma (x. Ga 20,25).
HỎI 2) Hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần giống và khác nhau thế nào ?
ĐÁP: Về thời điểm: Cả hai lần Chúa Phục Sinh hiện ra với cộng đòan môn đệ tại nhà Tiệc Ly đều vào buổi chiều Ngày thứ Nhất trong tuần. Từ đây Ngày thứ Nhất trở thành Ngày của Chúa (Chúa Nhật) thay thế cho Ngày Hưu Lễ (Sa-bát) của đạo Do thái. Về sĩ số hiện diện: Lần thứ nhất sĩ số các môn đệ hiện diện là 10 vị do thiếu Tô-ma và lần thứ hai sĩ số đủ 11 vị. Về lời chào: Trong cả hai lần Chúa Phục Sinh đều chào các môn đệ bằng một công thức: “Bình an cho anh em !”.
HỎI 3) Trong lần hiện ra thứ hai với các Tông đồ và có Tô-ma ở đó. Chúa Giê-su đã ra lệnh cho Tô-ma sờ vào các vết thương ở tay và cạnh sườn Người. Vậy Tô-ma có làm như vậy không?
Đáp: Tô-ma tượng trưng cho những người cứng tin, chỉ tin Chúa sống lại dựa vào cảm nghiệm và sự xét đoán theo lương tri của mình, chứ không dựa trên người khác. Nhưng trong lần này, sau khi được gặp Chúa Phục Sinh và được nghe Người ra lệnh xỏ ngón tay vào lỗ đinh ở bàn tay, thọc bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Thầy đúng như đòi hỏi trước đó của mình, thì ông đã đạt tới đức tin trọn vẹn, biểu lộ qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con!”. Tin mừng không đề cập đến việc ông có sờ vào các vết thương ở tay chân và cạnh sườn của Thầy như ông đã yêu cầu trước đó hay không (c. 27-28).
HỎI 4) Đức tin của ông Tô-ma giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu sau này ?
ĐÁP: Chúa Giê-su nói với Tô-ma và qua ông, Người muốn nhắn nhủ các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Thực vậy: có những mầu nhiệm về Thiên Chúa, mà người phàm tuy không thể thấy hay không cảm nghiệm được nhưng vẫn phải tin qua các chứng nhân đức tin. Vì đức Tin là điều kiện để được vào Nước Trời của Chúa Giê-su: "Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16,16).
Nên biết rằng cũng nhờ tuyên xưng đức tin, mà Tông đồ Phê-rô đã được Chúa Giê-su đặt làm đá tảng đức tin của Hội thánh, được trao quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19), được quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17) và quyền củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,23). Các Tông đồ cũng được Chúa Giê-su trao quyền giáo huấn về đức tin: “Ai nghe anh em là nghe Thầy. Ai khước từ anh em là khước từ Thầy. Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40; Lc 10,16).
Tóm lại: Việc Tông đồ Tô-ma cứng tin lại thêm sự bảo đảm cho lòng tin của chúng ta hôm nay. Vì niềm tin vào mầu nhiệm Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời rao giảng mà thôi, nhưng trên đức tin của những chứng nhân có đầu óc sáng suốt và thực tế, đã nhìn thấy tận mắt và đã sờ tận tay mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su. Do đó, thánh Grêgôriô đã nói: ”Chính ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; bàn tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người một sự thật cách chắc chắn, đó là Đức Giê-su đã phục sinh”.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
Ngày nay rao giảng về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh cho người khác có thể chấp nhận không phải dễ. Ngòai việc cần ơn trợ giúp của Chúa, còn cần phải có chứng tích yêu thương cụ thể của người rao giảng. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:
Một vị linh mục ở nước Bờ-ra-din (Bra-sin) đã thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của mình như sau: “Mỗi ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Ri-ô đờ Da-nê-rô (Rio de Janeiro), tôi đều thấy một thanh niên ngồi dựa lưng vào tường và chìa chiếc nón ra xin tiền khách qua đường. Anh ta không đi lại được vì đôi chân bị què. Sau đó vì qua lại nhiều lần trên con đường này, nên tôi không còn để ý đến chàng thanh niên hành khất bị què kia.
Rồi một hôm, khi tôi đang đứng nói chuyện với một người quen ở một bên đường, thì thấy có nhiều người đi bộ ngang qua chỗ anh què ăn xin mà như không nhìn thấy anh và không chia sẻ tiền bạc gì để giúp đỡ anh. Tôi liền nghĩ đến thái độ làm lơ của thầy Tư tế và thầy Lê-vi trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu. Hai ông này đã tránh sang một bên đường mà đi và chỉ có người Sa-ma-ri ngoại giáo đã tỏ lòng thương xót nạn nhân bằng hành động cụ thể (x. Lc 10,30-35). Tôi quyết định noi gương người Sa-ma-ri nên đã vui vẻ tiến lại gần bắt chuyện: “Này anh bạn, anh có thể đứng dậy được không? Anh có muốn đi đứng giống như mọi người không? ...”Anh ta đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn tôi dò xét, và khi đọc được sự thành thật trên gương mặt của tôi, anh đã trả lời: “Tôi luôn hy vọng sẽ có ngày cuộc đời của tôi tốt hơn và tôi được thoát khỏi cái nghề ăn xin nhục nhã hiện nay. Dĩ nhiên là tôi mơ ước một ngày nào đó tôi có thể tự mình đi đứng được như bao người khác. Nhưng làm sao kiếm ra tiền để lắp một đôi chân giả và mua được một cặp nạng đây?” Sau khi nghe anh tâm sự, tôi đã síết chặt tay anh và nói: “Tôi xin hứa là trong một ngày gần đây, giấc mơ của anh sẽ trở thành hiện thực”.
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa Nhật mùa Chay hôm ấy, tôi đã kể về số phận đáng thương của người ăn xin này cùng với ước mơ nhỏ bé của anh. Rồi tôi đề nghị cộng đoàn cùng nhau làm một cuộc lạc quyên tại chỗ để giúp đỡ anh ta như một cách ăn chay tinh thần. Số tiền lạc quyên thu được hôm ấy đã gần đủ chi phí làm đôi chân giả và cặp nạng gỗ mà người ăn xin cần sử dụng. Tuần sau, khi tôi và hai đại diện cộng đoàn đến gặp và cho biết kết quả thì chàng thanh niên kia rất vui mừng. Ngay lúc đó, anh được chở đến bệnh viện chấn thương chỉnh hình để được ráp một đôi chân giả, và tập đi với đôi nạng mới.
Trong lễ Phục Sinh năm ấy, tôi mời anh đến nhà thờ dự lễ và dành cho anh chỗ ngồi đặc biệt cạnh bàn thờ chính. Trong bài giảng, tôi đã đề cập đến trường hợp của anh như sau: “Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Giê-su trỗi dậy từ trong cõi chết, bước vào một cuộc sống mới. Người kêu gọi chúng ta mở rộng lòng giúp đỡ những anh chị em đang lâm cảnh nghèo khổ để họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hôm nay, nhờ sự quảng đại của cộng đòan mà anh bạn của chúng ta đây đã nhận được một cuộc sống mới”. Nói đến đây tôi mời anh què đứng dậy để giới thiệu anh với cộng đoàn. Sau đó mọi người trong nhà thờ đều phấn khởi khi nghe những lời phát biểu chân thành của anh, và vỗ tay tán thưởng khi nghe anh ngỏ ý xin gia nhập cộng đoàn. Cuối cùng anh què đã được xếp vào đội hình những người lên dâng lễ hôm đó.
3. SUY NIỆM:
1) Dễ tin và cứng tin: Trong đời sống hằng ngày, ngòai việc nhận biết nhờ tai nghe hay mắt thấy, chúng ta còn phải tin vào lời dạy của thầy cô thì mới có thể thăng tiến về học tập và kiến thức, phải tin vào cha mẹ mới có thể nên người được, phải tin vào lời nói của các đối tác làm ăn mới có thể kinh doanh thành công được... Tuy nhiên thực tế cũng có nhiều người đã bị lừa vì dễ tin lời nói ngon ngọt. Vậy về việc tin vào lời nói của người khác chỉ thực sự tốt đẹp nếu người nói là người đáng tin, điều họ nói hợp lý và người nghe phần nào có cảm nghiệm về điều ấy.
Riêng về mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su, các môn đệ không phải là những người dễ tin: Dù các ông đã được nghe Đức Giê-su ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người, nhưng các ông vẫn không muốn chấp nhận (x Mt 16,21-23). Rồi sau cuộc tử nạn của Chúa, khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin Thầy Giê-su vẫn còn sống và chính bà đã được nhìn thấy Người, nhưng các ông vẫn không tin (x Mc 16,9-11). Vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện đến thì các môn đệ lại sợ hãi như nhìn thấy ma. Chúa Giê-su đã trấn an và chứng minh Người không phải là ma như sau: “Sao anh em lại hỏang hốt ? Sao anh em ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,38-40). Sau đó thấy các ông vẫn chưa tin, Người đã ăn một mẩu cá nướng trước mặt các ông (x Lc 24,41-43).
2) Đức tin của Tô-ma và của các tín hữu chúng ta: Tuy Tô-ma là người cứng tin, nhưng sau khi đã được gặp gỡ Chúa và đã cảm nghiệm về sự phục sinh của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh nhất, thể hiện qua lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20,28). Chúa Giê-su cũng qua ông Tô-ma chúc phúc cho các tín hữu sẽ tin theo Người sau này như sau: “Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay người không thấy mà tin”. Ngày nay tuy không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời nói của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với Người như các Tông đồ xưa, nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của các Tông đồ là những chứng nhân đức tin, là những người không dễ tin nhưng đã từng cảm nghiệm về mầu nhiệm phục sinh như ông Tô-ma trong Tin Mừng hôm nay. Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói: “Ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là thân xác Đức Giê-su Ki-tô thực sự đã sống lại”.
3) Sứ vụ cứu độ của Hội Thánh hôm nay là gì ?: Đức Giê-su Phục Sinh cũng tiếp tục trao sứ mạng “xóa bỏ tội lỗi và ban ơn tha tội” cho Hội thánh như sau: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội ai thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Việc tha tội này được thực hiện bằng việc rao giảng Tin mừng và ban bí tích rửa tội cho những ai có lòng tin (x. Mt 28,19-20), và ơn tha tội qua bí tích giải tội. Quyền tha tội này chính là quyền “cầm buộc và tháo cởi” đã được Đức Giê-su trao cho Tông đồ Phê-rô (x. Mt 16,19) và trao chung cho Nhóm Muời Hai (x. Mt 18,18).
4) Truyền đạt Đức Tin cho con người ngày nay bằng cách nào ?: Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao cho Hội Thánh sứ vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,19-20). Sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho con người ngày nay không dễ chút nào. Muốn thuyết phục người ngày nay tin vào Chúa Giê-su, tin vào lời Người rao giảng thì cần có những điều kiện như sau:
- Một là phải nhận được ơn Thánh Thần: Ta hãy năng cầu nguyện kết hiệp với Đức Mẹ Ma-ri-a, các anh em Chúa, các Tông đồ và môn đệ như trong lễ Ngũ Tuần. Chỉ khi có ơn Thánh Thần thôi thúc trợ giúp, việc tông đồ truyền giáo mới mang lại thành công như lời Chúa Giê-su dạy: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
- Hai là hiệp nhất với Chúa qua việc vâng lời các mục tử trong Hội Thánh: Khi kết hiệp với Chúa Giê-su qua việc vâng phục các vị chủ chăn trong Hội Thánh, công việc tông đồ của chúng ta mới có thể mang lại kết quả tốt đẹp, như ông Si-mon đã thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi đa vất vả suốt đêm, mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Các ông đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới (Lc 5,6).
- Ba là phải rao giảng bằng lối sống chứng nhân tình thương: Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất làm cho họ được ơn biến đổi trong lòng tin là làm sao để họ có thể “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng chạm“ vào Người qua con người nhân bản của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm tốn phục vụ vị tha của chúng ta. Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lo II đã nói: “Người thời nay không thích nghe các thầy dạy, mà chỉ thấy các chứng nhân; và giả sử như người ta có thích nghe các thầy dạy, thì các thầy dạy đó trước tiên phải là những chứng nhân”.
- Hôm nay cũng là lễ kính “Lòng Thương xót của Chúa” mà Đức Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000. Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh Đức Giê-su từ bi thương xót do thánh Faus-ti-na Ko-wals-ka để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faus-ti-na Ko-wals-ka thưa với Người rằng: “Lạy Chúa Giê-su, con xin tín thác vào Người !” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hiệp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
2- Qua bí tích thêm sức, bạn đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi thông ban Thánh Thần và được trao sứ vụ“làm chứng nhân” cho Chúa. Vậy bạn quyết tâm sẽ làm gì trong những ngày này để đưa một người chưa biết Chúa được tin nhận vào Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tông đồ Tô-ma tuy lúc đầu cứng lòng tin, nhưng sau đó đã đạt đến một đức tin trọn hảo khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Chính sự “cứng lòng” của Tô-ma lại trở thành chỗ dựa vững chắc cho đức tin của chúng con hôm nay. Rồi các tông đồ cũng đã tỏ ra trung thực và khiêm tốn khi thuật lại cả những điều thiếu sót, các sự chậm tin và hồ nghi của mình để đức tin của chúng con hôm nay được thêm vững mạnh. Giờ đây cùng với Tô-ma xưa, chúng con long trọng tuyên xưng rằng: “Lạy Chúa là Cứu Chúa và là Thiên Chúa của con”.
- LẠY CHÚA. Trong những ngày này, xin cho chúng con thêm xác tín vào quyền năng của Chúa, để năng thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, con tin ! Nhưng xin Chúa hãy trợ giúp lòng tin yếu kém của con!” (x. Mc 9,24). Con nhận thấy đức tin của con hiện vẫn còn yếu đuối và có nguy cơ chết dần do thiếu hành động, như lời thánh Gia-cô-bê: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Xin cho chúng con biết tuyên xưng đức tin bằng lời nói, và nhất là bằng các việc bác ái cụ thể như: thăm viếng, an ủi những người đau khổ; nhường cơm xẻ áo cho những người đói rách bất hạnh... như Chúa dạy và được Hội thánh tóm lại trong kinh “Thương người”. Vì đây là phương thế truyền giáo hữu hiệu nhất trong thế giới hôm nay.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:19-31)
Trong bài tường thuật Phục Sinh, thánh Gio-an đã cho chúng ta cơ hội suy nghĩ về đức tin vào Chúa: PS2-190
Trong bài tường thuật Phục Sinh, thánh Gio-an đã cho chúng ta cơ hội suy nghĩ về đức tin vào Chúa sống lại qua ba mẫu người: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, ông Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu mến. Hôm nay, với câu chuyện ông Tô-ma, Tin Mừng mời gọi chúng ta hãy có đức tin sâu xa, không chỉ dựa vào những gì bề ngoài, nhưng là đi tới tận trái tim Chúa Giê-su bằng lời tuyên xưng mà Tông đồ Tô-ma “cứng lòng tin” đã xướng lên: Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!
Viết lại câu chuyện phục sinh của Chúa, rõ ràng thánh sử Gio-an đã nhắm mục đích “là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sống nhờ danh Người”. Nếu đọc lại đoạn kể Chúa Giê-su hiện ra lần thứ nhất với các môn đệ trong khi ông Tô-ma vắng mặt, chúng ta không lấy làm lạ khi các ông tin và vui mừng, bởi vì “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Chúa Giê-su đã hành động như vậy là để củng cố niềm tin của các ông. Do đó, nếu ông Tô-ma khi trở về và được nghe thuật lại, nhưng ông không tin, thì thực ra ông cũng không có gì đáng trách cả. Ông cần được Chúa củng cố đức tin như Người đã củng cố đức tin của các môn đệ khác. Có lẽ phải nói ông là người thiệt thòi mới đúng! Để đền bù cho sự thiệt thòi ấy, Chúa Giê-su đã mời gọi riêng ông Tô-ma khi Người trở lại, không những cho ông xem tay Người, mà còn bảo ông “đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” nữa. Người cũng nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Có lẽ đây không phải là lời trách mắng, nhưng là mời gọi bước tới một đức tin sâu xa hơn. Cử chỉ đặt tay vào cạnh sườn Chúa mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Không phải là một Tô-ma đang kiểm chứng vết thương của Chúa, nhưng đích thực là ông đang “sờ” được tình yêu của Đấng đã chết vì bạn hữu là chính ông. Chứng từ của vết thương thể xác làm sao hùng hồn và thuyết phục bằng chứng từ của tình yêu? Cho nên chứng từ tình yêu này đã đưa Tô-ma tới đức tin mạnh mẽ hơn, đức tin khiến ông đi trước cả các bạn bằng cách chân thành và khiêm nhượng tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô và Thiên Chúa. Ông Tô-ma không nói “Con tin Ngài là Chúa của con” hoặc “Con tin Ngài là Thiên Chúa của con”, giống như chúng ta đọc kinh Tin Kính, nhưng ông phát biểu ngay chân lý về căn tính của Chúa Giê-su bằng cử chỉ phụng thờ: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Cùng với lời tuyên xưng này, chúng ta có thể hình dung ông đang thành kính bái lạy Chúa Giê-su.
Hơn thế nữa, ông còn tuyên xưng đức tin cá nhân của ông khi ông xác tín Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô và Thiên Chúa của ông! Ở đây chúng ta hãy tự hỏi mình rằng: Đã bao nhiêu lần chúng ta tuyên xưng đức tin, nhưng thực sự có phải là đức tin của chúng ta hay là đức tin vay mượn của người khác hoặc đức tin trong sách vở?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Lời cuối cùng Chúa Giê-su nói với ông Tô-ma cũng là những lời Chúa nói với mỗi người chúng ta: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Đây là lời nhắn nhủ, kêu gọi chúng ta hãy kiểm chứng lại những dịp chúng ta “đã thấy Thầy”. Chúng ta không thấy Chúa như những người sống đương thời với Chúa đã thấy Người, nhưng bằng con mắt đức tin, chúng ta có thể thấy Chúa hoạt động trong đời mình hoặc nơi người khác. Người không hiện ravới chúng ta, nhưng Người để lại “những vết chân trên cát” bên cạnh vết chân chúng ta, nhờ đó chúng ta nhận biết Người hiện diện. Nhiều khi chỉ còn vết hai bàn chân của Người vì lúc ấy Người đang bồng chúng ta trên tay. Cũng rất nhiều lần Người để lại chứng tích hiện diện qua những giúp đỡ và khích lệ từ những người chung quanh chúng ta. Người quả quyết chúng ta là những người có phúc vì tin không phải bằng mắt thấy tai nghe, nhưng bằng tất cả tâm hồn phó thác và lòng yêu mến thiết tha. Tại sao vậy? Bởi vì đức tin bằng tâm hồn và bằng tình yêu mới là đức tin đưa chúng ta tới hiệp nhất với Chúa, đức tin giúp chúng ta phụng thờ Chúa Giê-su Phục Sinh là Đấng Cứu Độ và Thiên Chúa của chúng ta. Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Sống ở đời cơm, áo, gạo, tiền đầy đủ là ước vọng của mọi người. Tuy nhiên, có cơm ăn, có áo: PS2-191
Sống ở đời cơm, áo, gạo, tiền đầy đủ là ước vọng của mọi người. Tuy nhiên, có cơm ăn, có áo mặc nhưng đời sống không vui, không an bình vẫn chưa đầy đủ. Do đó, con người ở mọi thời đại vẫn có những ước mơ, những mong ước có cuộc sống an bình, tâm hồn thư thái. Đó là ước nguyện chân chính và thiết thực.
Muôn thời con người vẫn sống trong hồi hộp đủ thứ: nào thiếu ăn, thiếu mặc, lo sợ bệnh tật, sợ hãi chiến tranh, thiên tai lũ lụt, bão táp vv…Sống trong những tâm trạng và những hoàn cảnh như thế thì làm sao có an bình ? Có những người đã sống trong tuyệt vọng, buông xuôi tất cả. Sự lo âu, sợ hãi cũng bao trùm cả các môn đệ, những người đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, cất nhắc, những người đã được Chúa nuôi dưỡng, dạy dỗ, các Ngài đã được đón nhận Tin Mừng, được Chúa mạc khải và vén mở con đường thập giá, thế mà khi Chúa bị bắt, bị lên án và bị treo trên thập giá thì ôi thôi các Ngài đã hết sức lo âu, sợ hãi, thất vọng không hề dám đi đâu cả, khi ở với nhau trong nhà thì các Ngài cũng sợ sệt phải đóng kín cửa cài then ( Ga 20, 19 ). Sự sợ hãi ấy tưởng chừng không bao giờ chấm dứt nhưng thật bất ngờ, Chúa Phục Sinh đã hiện đến với các Ngài và đã nói với các Ngài đến ba lần:” Bình an cho các con “ (Ga 20, 19; 21 và 26 ). Các môn đệ của Chúa chỉ hết lo sợ khi trước mặt của các Ngài, Chúa Giêsu đã giơ bàn tay bị đóng đinh và cạnh sườn bị đâm thâu. Thật lạ lùng và hạnh phúc cho các môn đệ. Chúa đã phục sinh thật và sự bình an của Ngài đã được trao ban cách nhưng không và hết sức hiệu quả cho các Ngài…
Sự bình an của Chúa sống lại là bình an đích thực. Bình an của Chúa phục sinh là tình yêu, sự tha thứ. Chúa đã thứ cho con người, cho loài người. Nên, con người và nhân loại có được bình an. Chúa muốn mỗi người cũng biết chia sẻ bình an mà mình đã nhận lãnh nơi Chúa sống lại để chính họ cũng biết tha thứ cho anh em của mình và loan báo cho mọi người biết Thiên Chúa luôn yêu thương con người, luôn rộng lòng tha thứ khi con người thật lòng ăn năn sám hối trở về với Chúa. Bình an mà Thiên Chúa trao ban cho loài người, cho con người khác với sự an bình mà con người thường trao cho nhau. Sự an bình của Chúa là sự hòa bình đích thực trong tâm hồn, nơi thân xác. Sự bình an xưa các thiên thần đã loan báo ngày Chúa giáng trân:” Vinh danh Tiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “. Sự bình an chính là Tin Mừng, chính là Thiên Chúa. Sự bình an là tha thứ đến bảy mươi lần bảy, tha thứ không ngừng, tha thứ mãi mãi. Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô trao ban cho nhân loại, cho loài người, cho mỗi người ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Chúa là sự tha thứ, là ơn giải thoát khỏi tội lỗi và ban cho con người sự bình an, hòa bình và hạnh phúc viên mãn, trường cửu. Sự bình an của Thiên Chúa là Tin Mừng cứu độ, là chính Đức Giêsu, Đấng giầu lòng thương xót. Sự bình an ấy trường tồn muôn đời, muôn kiếp. Chính vì thế, Chúa sống lại là tình thương vô biên, an bình tuyệt đối cho mọi người. “ Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống “.
Shalom, lời chúc bình an của Chúa phục sinh là lời bình an thực Chúa trao ban cho những tâm hồn thành tâm thiện chí.
Tôma thưa với Chúa phục sinh:” Lay Chúa, lạy Thiên Chúa của con “. Chúa phục sinh là sự an bình vĩnh cửu cho Toma, cho các môn đệ, cho các tông đồ và tất cả những kẻ có lòng ngay ở dưới thế.
Lạy Chúa phục sinh, xin ban bình an cho chúng con như Chúa đã trao ban sự an bình của Chúa cho các môn đệ qua sự tác động của Thần khí. Amen.
(Công vụ tông đồ 5,12-16; Khải huyền 1,9-19; Gioan 20,19-31)
Phúc Âm: Ga 20, 19-31
"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Suy Niệm:
Chúng ta vừa nghe đọc một bài sách Công vụ các Tông đồ, một bài sách Khải huyền và một bài Tin: PS2-192
Chúng ta vừa nghe đọc một bài sách Công vụ các Tông đồ, một bài sách Khải huyền và một bài Tin Mừng theo thánh Gioan. Ðó là ba quyển sách mà Phụng vụ sẽ trích đọc trong tất cả các Chúa nhật Phục sinh năm nay; và cũng theo thứ tự trên. Không nhất thiết mỗi lần ba bài đọc ấy đều ăn ý với nhau; nhưng luôn luôn cả ba đều nói về mầu nhiệm Phục sinh. Cứ chung mà nói, các Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ. Các bài sách Công vụ nói Tin Mừng Phục sinh đã xây dựng Hội Thánh thế nào; và các bài sách Khải huyền mở cửa trời cho chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Phục sinh ở trên ấy. Như vậy, trong suốt mùa Phục sinh này, chúng ta sẽ được hiểu biết mầu nhiệm Chúa sống lại ở những bình diện khác nhau và bù đắp cho nhau. Chúng ta sẽ thấy nhờ việc sống lại từ kẻ chết, Chúa Giêsu còn hiện diện và hoạt động hơn trước nơi tâm hồn tín hữu, trong Hội Thánh của Người và hướng dẫn lịch sử các dân tộc nữa.
Chúng ta sẽ cố gắng tiếp thu giáo huấn của phụng vụ trong mùa này để làm sống động ơn Phục sinh mà Chúa đã ban cho chúng ta một cách đặc biệt trong ngày kỷ niệm việc Người sống lại. Và chúng ta sốt sắng đón nhận thêm ơn ấy mỗi khi tham dự thánh lễ. Ðó là những công việc chúng ta bắt đầu làm ngay từ trong thánh lễ này, để hiểu biết hơn và đón nhận nhiều hơn ơn phục sinh của Chúa.
Vậy trước hết, các bài Kinh Thánh đọc hôm nay, nói gì với chúng ta? Chúng ta nên gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của thánh Tôma hay là Chúa nhật của Hội Thánh? Thiết tưởng, tuy câu chuyện về thánh Tôma hôm nay rất nổi, chúng ta vẫn không thấy hình ảnh của ông che hết được những sự kiện khác đã xảy đến cho Hội Thánh sau ngày Chúa sống lại. Cả ba bài đọc dường như đều chú trọng đến việc Chúa sống lại đang ở giữa Hội Thánh và chúng ta nên gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Hội Thánh được Chúa sống lại viếng thăm. Ngay cả câu chuyện về thánh Tôma cũng nằm trong bối cảnh chung này. Và vì nó rất nổi, chúng ta hãy bắt đầu với nó. 1. Chúa Sống lại Hiện Ra Với Các Tông Ðồ Câu chuyện Tôma xảy ra vào ngày thứ 8 sau hôm Chúa sống lại tức là vào chính ngày hôm nay, sau khi chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Chúa vào Chúa Nhật trước. Vì lý do ấy, năm nào phụng vụ cũng đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật II Phục Sinh. Nhưng sở dĩ có việc Chúa hiện ra với Tôma là vì 8 hôm trước Chúa đã hiện ra với các môn đệ. Hôm ấy Tôma không có mặt. Ðược anh em nói cho biết Thầy đã sống lại và hiện ra, ông thấy thiệt thòi và thua kém. Nhất nữa ông là người đã giục anh em: "Nào chúng ta hãy lên Giêrusalem với Thầy và chịu chết với Thầy". Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại ít là như mọi anh em.
Thế nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại về việc Chúa đã hiện ra và ông đòi phải được sờ vào Người. Tên của ông lại có nghĩa là "sinh đôi", nên ông muốn được Chúa lập lại cho ông thấy việc Người đã làm cho anh em.
Chúng ta có quyền nghĩ về tâm lý Tôma như vậy, vì Thánh Kinh đã khẳng định một điều chắc chắn các tông đồ đã được xem thấy Chúa sống lại. Thế mà Tôma cũng là một tông đồ. Ông phải được Chúa sống lại hiện ra để chứng của ông cũng chắc chắn như chứng của mọi anh em. Và rất có thể trong câu chuyện này, tác giả Gioan cũng đã theo thói quen của mình, lấy trướng hợp một cá nhân để làm sáng tỏ việc xảy đến cho nhiều người. Việc Tôma vắng mặt lúc Chúa hiện ra lần đầu tiên với các môn đệ, là hữu ý để người ta lại được thấy Chúa hiện ra nữa và rõ hơn, để không ai còn có thể nghi ngờ được nữa.
Quả vậy, đọc kỹ bài tường thuật hôm nay, chúng ta thấy tác giả Gioan kể hai lần Chúa hiện ra dường in hệt như nhau. Lần sau như chỉ "lập lại" lần trước, chỉ cá biệt và rõ ràng hơn thôi. Chúng ta thấy hai lần đều xảy ra vào ngày Chúa nhật, ngày của Chúa sống lại, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa phục sinh đến gặp gỡ Hội Thánh. Ðiều đáng để ý là cả hai lần nhà cửa các môn đệ đều đóng kín. Như vậy, lần hiện ra trước chưa đủ làm cho họ trở thành những con người mới sao? Hay là tác giả Gioan còn muốn giữ họ ở lại trong nhà cho đến ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống? Chúng ta có thể nghiêng về ý nghĩa sau, vì hôm Chúa hiện ra có mặt cả Tôma, cửa nhà các môn đệ còn đóng kín nhưng không thấy nói "vì sợ người Do Thái" nữa.
Rồi Chúa cũng đột xuất đứng giữa họ và nói: "Bình an cho các ngươi". Người ta có thể nghĩ Người đã dùng công thức chào hỏi thông thường của người Do Thái, nhưng đang lúc các môn đệ còn ở trong nhà đóng kín cửa, lời chào ấy có một ý nghĩa khác. Nó có tác động trấn an thật sự, nếu chúng ta chưa muốn gán cho nó hiệu lực của mầu nhiệm thập giá đã đem bình an này mới là sự bình an mà Ðức Giêsu trước đây đã hứa với môn đệ rằng: "Thầy để bình an lại cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con, sự bình an mà thế gian không thể ban được".
Dù sao, sau đó Người đã cho môn đệ thấy tay và cạnh sườn của Người. Và riêng hôm nay, Người bảo Tôma hãy đem ngón tay đặt vào đấy. Trong cả hai lần cũng là một việc, tuy lần sau có rõ hơn lần trước nhưng cũng chỉ có một ý nghĩa. Chúa làm như vậy không phải để trấn an môn đệ, vì tính cách đột xuất của việc hiện đến có thể khiến họ tưởng Người là ma. Không, ma không thể có thân thể như Người có đây.
Tuy nhiên, Chúa đã nhằm cho môn đệ tin Người đã sống lại. Người đã chết thật, nhưng đã sống lại. Các vết thương làm chứng Người đã chết; nhưng con người đã chịu những vết thương đó bây giờ đang sống giữa họ đây. Người đã sống lại thật. Họ phải tin như vậy.
Lần trước, niềm tin ấy đã khiến họ mừng rỡ. Hôm nay, niềm tin đã được đào sâu và tiến bộ. Họ như nói trong lời tuyên xưng của Tôma: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi". Chúng ta thường để ý đến lời Tôma phát biểu trước đây khi nghe anh em nói rằng Thầy đã sống lại và hiện ra. Nhưng chúng ta lại hay quên lời tuyên xưng của ông hôm nay.
Ðó là lời tuyên xưng đầu tiên và căn bản của Hội Thánh về Ðức Giêsu Kitô sau khi đã ý thức việc Người sống lại. Chính niềm tin về sự Phục Sinh của Người đã khiến Hội Thánh thấy Người là Chúa và là Thiên Chúa của mình. Và Hội Thánh bắt đầu tuyên xưng Người như vậy. Tác giả Gioan đã cho Tôma được vinh dự nói lời tuyên xưng ấy lần đầu tiên ở trong Hội Thánh. Như vậy, tác giả đâu có muốn cho Tôma bị tiếng là cứng lòng tin? Chúng ta phải nghĩ rằng Gioan đã dành cho Tôma vinh dự tiêu biểu cho Hội Thánh: trước chưa tin, rồi đã tin và mỗi ngày càng tin sâu xa hơn, đến nỗi trước mới chỉ vui mừng vì đã tin và đã được cứu độ; sau đã sốt sắng tuyên xưng niềm tin ấy và muốn chia sẻ ơn cứu độ cho mọi người.
Thật vậy, hôm trước thấy môn đệ đã tin thì Chúa Giêsu đã thở hơi ban Thánh Thần cho họ để họ có thể tha tội cho người ta. Hôm nay chúng ta thấy ý tưởng truyền giáo ấy được gói trong câu Chúa bảo Tôma: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin; phúc cho những ai không thấy mà tin". Cả hai hôm đều có sự phân biệt giữa đoàn môn đệ và người ta. Môn đệ nhận được Thánh Thần và đức tin là để người ta được khỏi tội và được tin. Hạng trước phải phục vụ hạng sau. Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ là để họ trở thành nhân chứng về sự Phục Sinh của Người ở trước mặt các dân tộc; và để họ thành lập cộng đồng các tín hữu. Chúng ta hãy xem họ có làm nổi công việc này không? 2. Các Tông Ðồ Xây Dựng Hội Thánh
Bài sách Công Vụ Các Tông Ðồ hôm nay là một trong ba bản văn tóm tắt tình hình chung của Hội Thánh ở buổi đầu tiên (xem chương 2,42 và 4,32). Thật ra mỗi bản văn đã làm nổi bật một số điểm trên một cái nền chung. Ở đây, tác giả chú trọng đến việc các tông đồ đã làm được nhiều dấu lạ điềm thiêng. Và điều này khá phù hợp với tư tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc.
Nhưng trước hết chúng ta hãy để ý đến nền ảnh chung. Tác giả viết: "Bấy giờ họ đồng tâm nhất trí thường họp với nhau hết thảy nơi trụ lang Salomon". Ðiều này làm chứng cho những lời tác giả nói trước đây. Các tín hữu của Chúa thời bấy giờ hiệp nhất như chỉ có một linh hồn. Và cũng phải nói: họ như chỉ có một thân thể nữa, vì họ không thể nào chịu để cho trong họ có người thiếu thốn. Thế nên ai có sở hữu nhiều thì đã đem bán đi, lấy tiền, đem lại cho các tông đồ để chia sẻ cho những người túng thiếu hơn.
Tuy nhiên, điều đáng để ý nhất ở nơi họ, vẫn là sự đồng tâm nhất trí về tinh thần, biểu lộ đặc biệt trong những khi họ hội họp nhau để nghe giáo huấn các tông đồ và cử hành phụng vụ. Ở đây, chúng ta thấy họ đang có mặt ở tất cả ở các trụ lang Salomon là chỗ khá rộng rãi thuộc đền thờ để tín hữu làm công việc thờ phượng. Chính tại nơi này, xưa kia Chúa Giêsu đã đi đi lại lại (Ga 10,23); và cách đây lít lâu, Phêrô đã làm cho một người què được khỏi tức thì.
Hôm nay, tín hữu của Chúa cũng họp nhau lại đây để nghe giáo huấn và cầu nguyện. "Không ai dám sát lại gần họ". Vì sợ người Do Thái ư? Chắc không phải, vì như sau sẽ nói, số tín hữu cứ mỗi ngày mỗi tăng. Nhưng người ta chưa dám lại gần cộng đoàn dân Chúa chỉ vì đang là giờ phụng vụ riêng của Hội Thánh mà người ta chưa thể tham dự được. Cũng rất có thể những lúc như vậy người ta thấy họ được dồi dào các ơn Thánh Thần và sốt sắng đặc biệt, như tác giả sách Công vụ đã nhiều lần nói (vd. 4,31).
Dù sao không dám lại gần, nhưng người ta cũng ca tụng họ vì quả thật họ đáng ca tụng khi hội họp nhau đồng tâm nhất trí và sốt sắng như vậy. Dĩ nhiên sự ca tụng này cũng bao gồm cả những lần khác khi người ta thấy các tín hữu ăn ở tốt lành và có lòng bác ái chia sẻ trong đời sống xã hội.
Chính những hình ảnh đẹp đẽ này đã lôi kéo nhiều người gia nhập dân Chúa, mỗi ngày mỗi đông, đoàn đoàn lũ lũ, đàn ông đàn bà. Và gia nhập có nghĩa là tin theo Chúa khiến chúng ta thấy các môn đệ đã thi hành được sứ mạng Chúa giao cho mình. Sau khi sống lại, như bài Tin Mừng hôm nay viết, Chúa đã hiện ra với họ, ban Thánh Thần để họ tha tội, ban đức tin để họ làm cho có nhiều người không thấy Chúa mà vẫn tin. Thế thì bài sách Công vụ hôm nay cho thấy ơn Thánh Thần và đức tin của các môn đệ càng ngày càng lan sang cho đoàn đoàn lũ lũ. Hội Thánh đã thành hình và phát triển nhờ ơn Chúa Phục Sinh vậy.
Ở giữa Hội Thánh này, các tông đồ đóng một vai trò quan trọng, và đặc biệt là Phêrô. Chúa làm cho họ được nhiều dấu lạ điềm thiêng để củng cố lời rao giảng của họ, như Người đã từng hứa; và như họ vẫn thường xin (4,30). Họ biết khả năng tự nhiên của họ quá ít; họ còn ý thức hơn nữa tính cách siêu việt của Lời Chúa và sự khó đoán nhận tự nhiên của xác thịt về phía người nghe. Chúa có trợ sức, lời giảng về Mầu nhiệm Thập giá mới trở thành thần lực. Và khi có dấu lạ điềm thiêng kèm theo, lời giảng Tin Mừng mới có sức mạnh.
Chúng ta hãy chú ý: các dấu lạ điềm thiêng ở đây không hề có tính cách phô trương mê hoặc, nhưng hoàn toàn chỉ bày tỏ ơn Thánh Thần và bác ái. Ðặc biệt hôm nay chúng ta thấy toàn là việc chữa bệnh tật để nói lên ơn tha tội và sự sống Phục Sinh của lời giảng. Và khi nhìn thấy quang cảnh người ta từ khắp nơi khiêng bệnh nhân đến và đặt la liệt trên đường đi cho bóng của Phêrô đi ngang qua rợp trên những người đau yếu, làm sao tự nhiên chúng ta lại không nhớ lại Chúa Giêsu ngày trước đã nhiều lần như thế. Phêrô bây giờ là hình ảnh của người, và là hiện thân của Chúa Phục Sinh, nếu chúng ta nói được như vậy. Nhất là khi Phêrô xua trừ được tà thần, thì rõ rệt sức mạnh của Chúa Giêsu sống lại đang ở với ông và ở trong Hội Thánh. Chúa Giêsu đang ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế. Và điều này cũng được bài sách Khải Huyền hôm nay nói lên. 3. Hội Thánh Của Chúa Sống Lại
Tác giả Gioan tự giới thiệu mình như là một phần tử đang ở giữa cộng đoàn dân Chúa. Người là anh em với mọi người; và đang đồng hành với anh em. Một thân phận chung đang trùm lên mọi người. Hội Thánh của Chúa ở trần gian đang trong cơn thử thách; nhưng đó là thử thách mang lại vương quyền như cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trước đây. Và vì thế Hội Thánh đang kiên nhẫn ở trong Người.
Nói một cách cụ thể hơn, Gioan đang chia sẻ sự bắt bớ mà Hội Thánh đang chịu. Ông, bị đày ra đảo Patmos vì Lời Chúa và vì chứng của Chúa Giêsu. Ông đã thi hành sứ mạng Tông đồ, rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu, nên người ta đày ông ra đảo này.
Nhưng cho dù bị tách rời anh em về phần xác, Gioan vẫn ở giữa cộng đồng Hội Thánh bằng tinh thần và ngày Chúa nhật hôm ấy, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa viếng thăm Hội Thánh cách đặc biệt, Gioan được "ngất trí" để sống giữa Hội Thánh và phục vụ Hội Thánh với cương vị tông đồ của mình.
Ông nghe thấy có tiếng nói lên ở đàng sau tựa tiếng loa. Ðó là tiếng "thần thánh" nói trong "đầu óc" ông. Tiếng đó bảo ông phải viết những điều ông trông thấy để gởi các giáo đoàn, tức là cho cả Hội Thánh. Ông phải làm vai trò rao giảng Lời Chúa như ơn Chúa đã kêu gọi ông.
Và ông thấy gì? Có 7 trụ đăng vàng, tiêu biểu cho 7 giáo đoàn sẽ nhận được thư ông. Và giữa các trụ đăng ấy có ai giống như Con Người, mình bận áo chùng, lưng thắt đai vàng. Chẳng thể hồ nghi gì nữa, đó là Chúa Giêsu ở giữa Hội Thánh, mặc áo tư tế và thắt lưng đai vua. Cảnh tượng ấy khiến Gioan lập tức sấp mình kính sợ thờ lạy. Nhưng Chúa Giêsu đã đặt tay hữu lên ông và bảo: đừng sợ! Rồi Người cho ông biết: Người là Ðầu hết và là Sau hết; là Ðấng Hằng Sống, nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ. Người bảo ông hãy viết những điều này và những điều sau này nữa mà gửi cho Hội Thánh.
Chúng ta hãy hiểu ý của Người, khi xưng mình là Ðầu hết và Sau hết, Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với Thiên Chúa theo công thức mà Isaia đã viết trong Cựu Ước. Người ta đừng tưởng Người đã chết trên thập giá. Không, Người đã sống lại và là Ðấng Hằng Sống. Người đã chết và sống lại để nắm được chìa khóa (tức quyền hành) của sự chết và của âm phủ). Những lời mạc khải này quan trọng biết bao! Nó củng cố niềm tin của Hội Thánh về việc Chúa chết và sống lại. Và được nghe trong lúc bị bắt bớ, đày ải, những lời ấy tăng thêm sức mạnh kiên nhẫn cho Hội Thánh hơn hết mọi liều thuốc hồi sinh.
Bài sách Khải huyền, vì thế, rất phù hợp với Hội Thánh thời thánh Gioan. Và đối với chúng ta đang sống trong thân phận lữ khách trần gian, mạc khải vừa nghe cũng đem lại nhiều an ủi. Nhưng nhất là chúng ta phải thấy rõ Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ở giữa Hội Thánh như vị Thượng Tế của đạo mới, như vị thủ lãnh có vương quyền và như Thiên Chúa đang nắm giữ vận mạng của lịch sử. Người không ở xa Hội Thánh, nhưng ở giữa. Người không bỏ rơi một phần tử nào, nhưng ban sức cho cả người lưu đày cũng được khả năng thi hành chức vụ. Hoạt động của Người không giảm đi, theo việc Người chịu chết. Trái lại, cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều cho thấy, từ sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã hoạt động hơn trước với quyền lực mới, nắm giữ cả chìa khóa sự chết và âm phủ, khiến tà thần và bệnh tật cũng phải lui mau khi các Tông đồ và Hội Thánh của Người đến gần...
Trong thánh lễ cử hành bây giờ, Chúa Giêsu cũng đến với quyền lực như thế. Người có thể làm ra những Tôma mới; Người ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và sức mạnh mới; Người tỏ ra vẫn hiện diện mới mẻ giữa Hội Thánh. Ước gì chúng ta biết đón nhận Người với lòng tin của Tôma; cộng đoàn phụng vụ chúng ta muốn chứng tỏ tình hiệp nhất và khả năng đổi đời nhiều hơn, để chứng tỏ Ðức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi, là Ðấng Hằng Sống, hằng trị, và hằng cứu độ mọi người. Amen.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:19:31)
Sự kiện Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ và lòng tin chưa vững vàng của họ là những điểm: PS2-193
Sự kiện Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ và lòng tin chưa vững vàng của họ là những điểm được nhắc đến trong hầu hết những trình thuật Chúa đến với họ sau khi Người sống lại. Khi thì họ tưởng Người là ma. Lần khác họ đồng hành với Người một đoạn đường dài mà vẫn không nhận ra Người. Còn bà Ma-ri-a lầm Người là ông gác vườn. Mấy môn đệ về quê đi đánh cá ngoài hồ nghĩ Người là khách bàng quan nào đó. Nói chung là nếu Người không cho họ một dấu chỉ thì họ khó có thể nhận ra Người đã sống lại từ kẻ chết.
Câu truyện Tin Mừng hôm nay nói về ông Tô-ma cứng đầu đã nhận ra Chúa như thế nào. Các bạn Tông đồ kể lại với ông là Chúa đã hiện ra với họ. Ông không tin và đòi phải chạm được tới Chúa ông mới tin. Vì vậy người đời thường gọi kẻ cứng lòng tin là “Tô-ma”! Nhưng nếu chúng ta biết trong mọi trường hợp, chính Chúa là người đi trước, giúp cho những ai không nhận ra Người có thể nhận ra Người và cho những ai không tin Người sống lại có thể tin Người đã sống lại, thì chúng ta sẽ thông cảm với ông Tô-ma. Chúa lên tiếng gọi bà Ma-ri-a: “Ma-ri-a”, lập tức bà nhận ra Người. Chúa bảo các Tông đồ: “Hãy rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây” và Người ăn khúc cá nướng trước mặt họ, thì họ không còn nghi ngờ nữa. Cho nên Chúa cũng cho ông Tô-ma một dấu chỉ để ông nhận ra Người khi Người bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây… Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”.
Sau những dấu chỉ ấy, những người này sớm muộn đều nhận ra Chúa. Phản ứng của họ cũng khác nhau. Bà Ma-ri-a chạy vội về báo tin cho các môn đệ Chúa. Các Tông đồ vẫn “không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” nên bị Chúa khiển trách là cứng lòng. Riêng ông Tô-ma, ông mau mắn nhận ra Chúa khi Người trở lại và ông còn khiêm tốn bày tỏ tất cả lòng tin của ông qua lời tuyên xưng vô cùng ý nghĩa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Như thế, có lẽ chúng ta phải cảm phục ông Tô-ma mới đúng. Tuy nhiên Chúa còn muốn lòng tin của chúng ta phải vươn cao hơn thế nữa, bởi vì khi chúng ta “không thấy mà tin” là chúng ta đã nhìn nhận thế giá của Chúa với thái độ sẵn sàng và khiêm tốn nhất.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Câu truyện Tin Mừng hôm nay trình bày hai hình ảnh về ông Tô-ma: một Tô-ma cứng lòng tin và một Tô-ma đầy lòng tin. Đó cũng là những hình ảnh chúng ta gặp thấy trong chính hành trình đức tin của chúng ta. Những lúc chúng ta cứng lòng tin là những lúc chúng ta bị quá nhiều đau khổ thử thách hoặc bị ảnh hưởng do văn hóa thế tục và những dục vọng đam mê của chúng ta. Nhưng cũng có những lúc chúng ta thấy Chúa thật gần gũi khi được Người ủi an nâng đỡ. Những thăng trầm của đức tin nói lên mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa. Tuy nhiên chúng ta luôn ý thức rằng Chúa hành động trước để giúp chúng ta khôi phục và phát triển đức tin nếu chúng ta coi Chúa là “Chúa của con” và “Thiên Chúa của con”. Trong đức tin của chúng ta, Thiên Chúa phải là “của chúng ta”, chứ không phải một Thiên Chúa trong sách vở, trong suy nghĩ của người khác. Thiên Chúa “của chúng ta” phải là đối tượng và trọng tâm để chúng ta hoàn toàn tin tưởng, phó thác, hy vọng và yêu mến trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời chúng ta. Như vậy, lời tuyên xưng của ông Tô-ma quả là một bài học quý giá và thực tế cho mọi Ki-tô hữu, những người đặt trọn niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục sinh và tuyên xưng Người là Chúa.
Nhân loại đang chóng mặt vì những tiến bộ ngoạn mục của khoa học kỹ thuật. Trong cơn chóng: PS2-194
Nhân loại đang chóng mặt vì những tiến bộ ngoạn mục của khoa học kỹ thuật. Trong cơn chóng mặt đó, người ta vẽ nên những nét lịch sử nguệch ngoạc. Đó là những nét vòng hay đường thẳng ? Có lẽ khó kiếm được những đường thẳng trong muôn vàn nét nguệch ngoạc đó. Tình yêu cũng có nét lịch sử riêng. Đó là những nét vòng chung quanh cuộc đời mỗi người và cộng đoàn.
NHỮNG NÉT NGUỆCH NGOẠC.
Cộng đoàn ban đầu của Đức Giêsu thật nhỏ bé, nhưng cũng đủ tạo nên bao sóng gió và để lại những âm ba lớn lao trong lịch sử Giáo hội. Các môn đệ vẫn chưa hết bàng hoàng trước cơn biến động quá lớn: Thày vừa bị giết. Mối đe dọa Thày cũng đe dọa các môn đệ. Quả thực, cho tới khi Thày chưa hiện ra trấn an, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái.” (Ga 20:19) Tâm hồn và con người các ông rúng động. Các sợi dây chằng chịt Thày trò đều bứt tung. Tương lai chỉ còn là tai ương. Niềm mong đợi duy nhất chi phối tất cả các môn đệ là sự bình an.
Bởi vậy, ngay khi sống lại, Đức Giêsu đã tìm mọi cách trấn an các môn đệ: “Bình an cho anh em !” (Ga 20:19, 21, 26) Sau khi đã ổn định tinh thần các môn đệ, Đức Giêsu thấy phải củng cố niềm tin các ông bằng những dấu chỉ cụ thể. “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.” (Ga 20:20) Mạc khải đó thật trọn vẹn. Các ông đã thoát khỏi sự ngờ vực và sợ hãi. Đó là lý do tại sao “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” (Ga 20:20)
Người ta cứ tưởng chỉ có ông Thomas là người cứng lòng tin nhất trong hàng ngũ các tông đồ. Chỉ mình ông gây rắc rối, đòi những bằng chứng cụ thể vì nặng đầu óc duy nghiệm. Thực ra, chẳng phải một mình ông Thomas. Các môn đệ khác đã từng không tin lời loan báo Phục sinh của bà Maria Mácđala (Ga 20:18). “Chỉ khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (c.19) và cho họ xem tay và cạnh sường Người (c.20), các ông mới nhận ra Chúa và vui mừng. Oâng Thomas đã không hành động khác với các môn đệ khác.” (NIB: 849, vol.9)
Nhưng một khi đã thấy Chúa, họ đều tràn ngập niềm vui. Bình an Chúa hứa trong Ga16:20-22 đã nên trọn vẹn khi Chúa hiện ra với các môn đệ. Đức Giêsu hiện diện như một bảo đảm hạnh phúc hiện tại và tương lai cho các môn đệ. Nói đúng hơn, Người là niềm vui và bình an của toàn thể nhân loại. Chính trong sự bình an lớn lao đó, Đức Giêsu muốn phóng cái nhìn của các môn đệ về một tương lai rực rỡ với sứ mệnh cao cả. Người nói rõ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21) Họ cũng có một sứ mệnh cứu độ như chính Đức Giêsu. Sứ mệnh đó chỉ được thi hành với sức mạnh Thánh Linh. Bởi đấy, Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:23) Đây không phải là một sự tha thứ bình thường. Đó là một sự tha thứ trong quyền lực Thánh Linh. Không phải bất cứ sự tha thứ nào cũng do Thánh linh. Tha thứ đồng nghĩa với cứu độ. Chính Thánh Linh đã là sức mạnh khiến Đức Giêsu có thể hoàn thành công cuộc cứu độ đó. Nhất là sự tha thứ tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân càng cần tới quyền lực Thánh Linh.
Hơn nữa, không nhờ cái chết và phục sinh của Con Chúa, không thể có ơn cứu độ. Nói khác, đây là cuộc tạo dựng lần thứ hai. Nếu Thánh linh đã đóng vai chính trong việc tạo dựng lần thứ nhất. Người cũng đóng vai cực kỳ quan trọng trong việc tạo dựng lần thứ hai. Bởi vậy, khi bắt đầu cuộc tạo thành mới, Đức Giêsu “thổi hơi vào các ông” (Ga 20:22) như Thiên Chúa đã từng thổi sinh khí vào Adam. Đức Giêsu làm chủ và tạo dựng một vũ trụ mới, trong đó mọi người sẽ lột xác thành tạo vật mới. Một nền văn minh tình yêu sẽ chan hòa mặt đất. Mọi người sẽ là anh em với nhau và cùng đều tôn xưng Đức Giêsu là Anh Cả vì cùng chung một Cha duy nhất là Thiên Chúa. Một nền văn minh sự sống sẽ xây dựng lại tất cả từ đầu trong sức mạnh Phục sinh. Bởi đó niềm vui sẽ chan hòa mặt đất.
Niềm vui đó đã đến với các môn đệ khi Đức Giêsu “cho các ông xem tay và cạnh sườn.” (Ga 20:20) và khi “Người bảo ông Thomas: ‘đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.’” (Ga 20:27) Niềm vui đã đến vì các ông đã thấy tất cả sự thật, một sự thật đã giải thoát các ông khỏi mọi sợ hãi vàlàm cho các ông xác tín vào những điều Thầy đã hứa. Bừng tỉnh trước sự thật đó, “ông Thomas thưa Người: ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !’” (Ga 20:28) Muốn có được sự bình an sau khi đã qua những cơn sóng gió, các môn đệ cần phải gặp Đức Giêsu 7trong niềm vui Phục sinh. Niềm vui đó chính là dấu chỉ của hồng ân cứu độ.
Sự thật đã khuất phục Thomas cũng là sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Sự thật đó xuất hiện qua những dấu lạ. Những dấu lạ đó chỉ dành cho một số ít chứng nhân Phục sinh. Không phải ai thấy dấu lạ đều có thể đọc được sự thật. Ngược lại cũng có thể thấy sự thật mà chẳng cần dấu lạ. Đó là một hồng ân dành cho những người Chúa đã tuyển chọn. Bởi đấy, Đức Giêsu mới nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20:29) Không thấy, nhưng nghe có đủ làm cho chúng ta tin Chúa Phục sinh chăng ? Niềm tin không phải là kết quả của những đụng chạm, ngắm nhìn hay ăn uống với Chúa. Tất cả chỉ là những dấu chỉ mà thôi. Tin hoàn toàn là một nhân đức siêu nhiên, nghĩa là phải do ân sủng Thiên Chúa, chứ không do nỗ lực giác quan. Tất cả những lần Chúa hiện ra đều nhằm giúp “anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20:31) Nói khác, sự hiện diện thể lý đó chỉ là một sự trợ lực, chứ không thể thay thế động lực chính tạo nên niềm tin vào Chúa Phục sinh. Động lực chính đó là Thánh Linh, tác giả tạo dựng cả thiên nhiên và siêu nhiên, cả vật chất lẫn tinh thần. Ngay cả thân xác Chúa, từ khi được tạo thành trong lòng Trinh Nữ Maria đến lúc phục sinh khỏi lòng đất, cũng đều do một tay Chúa Thánh linh tạo nên. Chính vì thế, niềm vui và bình an mới tràn ngập tâm hồn và con người các môn đệ. Nói khác, nơi nào có Thánh linh, nơi đó có bình an và vui mừng.
NIỀM VUI HÔM NAY.
Đúng hơn, bình an và niềm vui đó được chính Đức Giêsu bảo đảm. Giữa cơn thử thách trần gian, Người vẫn lên tiếng: “Đừng sợ ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời ; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Aâm phủ.” (Kh 1:17-18) Người là chính niềm vui và an bình của chúng ta. Người không bị khuất phục. Trái lại, Người nắm quyền kiểm soát cả thời gian lẫn không gian. Ai tin tưởng vào Người sẽ không bao giờ thất vọng. Ngày nay thất vọng đang lan tràn mặt đất. Hôm nay vẫn có người tin vào sức mạnh bạo lực trong việc giải quyết những tranh chấp giữa người và người. Bằng chứng Tuần Thánh vừa qua, cánh hữu bán-võ-trang tại Colombia đã vi phạm lệnh ngưng bắn, khiến cả trăm người chết, hầu hết là thường dân vô tội. Nhưng Đức Hông Y Rubiano tại Bogota nói: “Những tổ chức đó hoàn toàn sai lầm nếu họ tưởng rằng với võ lực họ có thể làm được một cái gì giá trị. Bất cứ phe nhóm nào dính líu vào cuộc tranh chấp này tưởng rằng hòa bình có thể thực hiện bằng vũ lực, họ hoàn toàn sai lầm.” (CWNews 18/4/2001) Chính Đức Giêsu, nạn nhân của bạo lực, đã phục sinh để minh chứng tình yêu mạnh hơn sự chết. Ngày nay vẫn có những tín hữu sẵn sàng hi sinh mạng sống để chứng minh Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tử thần. Ngay tại một nước Hồi giáo như Malesia, một nữ tín hữu đã mạnh dạn kiện chính phủ để được chuyển đạo từ Hồi giáo sang Kitô giáo trên thẻ căn cước, mặc dù biết trước những nguy hiểm đe dọa tính mạng (CWNews 18/4/2001).
Cái câu chuyện của ông Tôma vào chiều Phục Sinh đầu tiên khi Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các: PS2-195
Cái câu chuyện của ông Tôma vào chiều Phục Sinh đầu tiên khi Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các môn đệ, không có mặt của ông, ông đã từng tuyên bố thẳng thừng với các môn đệ khác rằng nếu mắt ông không thấy, tai ông không nghe và tay ông không sờ vào Chúa phục sinh thì ông không tin. Nói theo kiểu dân dã, ông là người thực tiễn, ăn cây nào rào cây ấy và muốn có hoa lợi phải biết chăm bón cây cho tốt, chứ không chỉ khơi khơi mà có ăn. Do đó, cái chuyện sống lại của Thầy đối với ông thật khó hiểu. Tuy nhiên, câu chuyện không chỉ dừng lại đó, tám ngày sau, Chúa phục sinh lại hiện ra với các môn đệ, lần này có cả Tôma. Chúa sống lại gọi đích danh ông:” Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy.Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin” ( Ga 20, 27 ). Tôma chẳng nói lên lời nào, ông run sợ mà thưa với Người:” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”( Ga 20, 28 ). Cả Tôma và mọi môn đệ đều được mời gọi trở nên sứ giả của Lòng Thương Xót của Chúa phục sinh.
TẠI SAO TÔMA LẠI ĐÒI HỎI ?:
Đọc lại Tin Mừng và theo dõi diễn tiến việc Chúa sống lại, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy các bà phụ nữ đạo đức đã được lãnh nhận ơn phục sinh, đón nhận tin vui phục sinh đầu tiên. Đi từ ngạc nhiên xác Thầy bị đánh cắp khỏi mộ, các bà đã được khơi dậy niềm tin và mau mắn chạy về loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ. Maria Mácđala đã được Chúa phục sinh gọi đích danh tên bà:” Maria “. Quay lại bà thưa:” Rabboni”, nghĩa là lạy Thầy.Tại sao Gioan khi thấy mồ trống và tấm khăn liệm gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các bạn trong nhóm thuật lại việc Thầy sống lại mà ông vẫn không tin. Ông đòi phải nhìn Thấy Chúa phục sinh, nghe tiếng Chúa nói và tạy phải sờ vào lỗ đinh, bàn tay phải thọc vào cạnh nương long sườn Chúa thì ông mới tin. Gioan nhìn Chúa bằng con mắt đứcc tin, con mắt tình yêu. Còn Tôma chỉ muốn nhìn Chúa bằng con mắt xác thịt, con mắt phàm trần. Gioan đã nhờ tình yêu mà chạy tới mộ nhanh hơn Phêrô, cũng chính tình yêu đã khiến ông nhận ra Chúa đầu tiên trên biển hồ Galilêa, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “ Người môn đệ Đức Giêsu thương mến”( Ga 21, 7 ). Phêrô đã phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để tới niềm tin, và Tôma cũng đã phải phấn đấu vượt qua cái nhìn của giác quan để đến cái nhìn của đức tin. Tôma là con người rất thực tiễn, nhưng Chúa nói “ Phúc thay những người không thấy mà tin “( Ga 20, 29 ).
CÁC MÔN ĐỆ LÀ CHỨNG NHÂN CHO LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA PHỤC SINH:
Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang đàng đã giang hai tay đón nhận đứa con hư hỏng trở về, Chúa luôn luôn nhân từ, thương xót đón chờ những người tội lỗi quay trở về…Người mục tử hiền từ bỏ chín mươi chín con chiên mà đi tìm một con chiên lạc. Người đàn bà vui mừng, hân hoan vì tìm thấy đồng bạc bị mất…Các môn đệ khi nhận ra Chúa phục sinh đã không phụ Lòng Thương Xót của Thầy. Các Ngài đã hiên ngang hiến trọn mạng sống của mình miễn Lòng Thương Xót của Chúa được vinh danh, được tỏa sáng…Thánh Tôma, người môn đệ của Chúa đã được Chúa hoàn toàn đáp ứng đòi hỏi xem ra quá cứng cỏi của ông. Lòng Thương Xót của Chúa không dừng lại ở việc Người hiện ra cho các môn đệ và cho Tôma. Chúa phục sinh ban bình an, chỉ cho mọi môn đệ thấy vết tích của Lòng Thương Xót mà còn cho phép Tôma đụng chạm đến chính vết tích của tình thương bao la của Chúa:” Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20, 27 ).
Chúa phục sinh vẫn mời gọi các môn đệ làm chứng về Lòng Thương Xót của Chúa, đặc biệt lòng yêu thương vô bờ của Chúa trên thập giá:” Không có tình yêu nào cao quí bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa theo lời Chúa gửi gắm qua thánh nữ Maria Faustina:” Ta muốn ngày lễ kính Lòng Thương Xót là một trợ giúp và nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương.Trong ngày ấy, Lòng Thương Xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại dương hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch Lòng Thương Xót của Ta”. Lòng Thương Xót của Chúa càng được rõ nét, càng cụ thể khi Tin Mừng của thánh Gioan 20, 19-31 thuật lại:” Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ hôm nay có cả mặt Tôma nữa, Ngài ban bình an cho các ông, rồi chỉ các vết thương tình yêu minh chứng Lòng Thương Xót của Chúa”. Ban bình an và sai các ông đi làm chứng cho Lòng Thương Xót của Ngài:” Bình an cho anh em ! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con luôn là sứ giả cho Lòng Thương Xót của Chúa”. Amen.
· Cv 5,12-16: (12) Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ. (14) Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.
· Kh 1,9-11a.12-13.17-19: (17) «Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối.(18) Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời. · TIN MỪNG: Ga 20,19-31
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
(Mt 28,16-20; Mc 16,14-18; Lc 24,36-49)
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em!» (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: «Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ».
(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: «Chúng tôi đã được thấy Chúa!» Ông Tôma đáp: «Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin». (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em». (27) Rồi Người bảo ông Tôma: «Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin». (28) Ông Tôma thưa Người: «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» (29) Đức Giêsu bảo: «Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!»
(30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người. CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Thần Khí và đức tin đóng vai trò quan trọng thế nào trong đời sống mới của «con người mới» mà: PS2-196
1. Thần Khí và đức tin đóng vai trò quan trọng thế nào trong đời sống mới của «con người mới» mà chúng ta phải trở thành?
2. Việc Tôma đòi hỏi phải thấy mới tin là một đòi hỏi hợp lý hay quá đáng? Kinh nghiệm về Thiên Chúa có quan trọng trong việc hình thành đức tin không?
3. Đức tin mạnh mẽ được hình thành như thế nào? Qua những giai đoạn nào? Ta phải làm gì để có được một đức tin mạnh mẽ?
Suy tư gợi ý:
1. «Con người mới» sống bằng đức tin
Đức Giêsu đã chết và phục sinh là một biểu tượng điển hình cho việc biến đổi từ «con người cũ» sang «con người mới». Nơi chúng ta, «con người cũ» là con người quan niệm, suy tư và hành động theo kiểu trần gian, theo sự khôn ngoan trần gian, lấy những thực tại trần gian (danh, lợi, thú, địa vị, quyền lực, của cải…) làm mục đích. Với chiều hướng đó, «con người cũ» là con người yếu đuối, chỉ có được thứ hạnh phúc chóng qua, và thường phải sống trong đau khổ. Còn «con người mới» là con người quan niệm, suy tư và hành động theo Thần Khí, theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, theo sự hướng dẫn của đức tin, lấy tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân làm động lực, lấy lợi ích của Thiên Chúa và tha nhân làm mục đích. Vì thế, «con người mới» là con người mạnh mẽ, luôn hưởng được một niềm hạnh phúc thường hằng xuất phát từ đáy tâm hồn. Tất cả những quan niệm, suy tư, hành động và tình trạng hạnh phúc của «con người mới» ấy đến từ đức tin. Vì thế, đức tin mạnh mẽ và thực tiễn là một yếu tố quan trọng cấu thành «con người mới» ấy. Vấn đề là: làm sao có được đức tin mạnh mẽ?
2. Con người mới sống bằng Thần Khí
Trong công cuộc cứu chuộc và thánh hóa nhân loại, Thánh Thần là người đạo diễn tất cả mọi chuyện. Vì thế, muốn hoàn thành vai trò và sứ mạng của mình, Đức Giêsu, các tông đồ và những ai theo Ngài đều phải được Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn, vì thế, phải «tràn đầy Thánh Thần». Trong giai đoạn tới, các tông đồ tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu: «Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em», nên các ông cũng cần phải tràn đầy Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu nói với các ông: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần». Thánh Thần cũng chính là yếu tố quan trọng làm nên «con người mới»: «Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới (…) để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,23-24). Nhưng muốn nhận được Thánh Thần hay Thần Khí của Thiên Chúa, điều quan trọng là phải có đức tin: «Nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí» (Gl 3,14).
3. Để có một đức tin mạnh mẽ
Là người Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều có đức tin. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta vẫn chưa trở thành «con người mới». Vì tuy có đức tin, nhưng đức tin của ta nhiều khi chỉ là sự chấp nhận xuông và tuyên xưng ngoài miệng một số tín điều nào đó. Đức tin kiểu này không ảnh hưởng bao nhiêu đến cuộc sống của ta: kẻ tin theo kiểu này dường như chẳng thấy nội tâm mình có gì thay đổi so với kẻ không tin. Đức tin đích thực không phải là sự chấp nhận xuông của lý trí đối với một số tín điều nào đó, mà là một kinh nghiệm sống, hay nói đúng hơn là một sự dấn thân dựa trên kinh nghiệm thật sự về Thiên Chúa. Nếu không có kinh nghiệm về Thiên Chúa, khó có thể có được một đức tin đích thực và mạnh mẽ.
Tại sao các tông đồ lại có một đức tin mạnh mẽ đến nỗi có thể sống chết cho việc rao giảng Tin Mừng? Chính vì các ông có kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về sự phục sinh của Ngài. Nếu các ông không hề gặp Đức Giêsu sau khi Ngài sống lại mà chỉ nghe người khác tường thuật lại, thì chắc hẳn các vị sẽ không dám sống chết với lời rao giảng của mình. Đòi hỏi của Tôma «Nếu tôi không thấy dấu đinh…, nếu tôi không xỏ ngón tay…, tôi chẳng tin» là một đòi hỏi chính đáng. Đức tin chỉ có thể mạnh mẽ khi nó dựa trên những kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa. Vì thế, để có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta cần có kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa và sau đó cũng cần đến những thử thách của Thiên Chúa để củng cố niềm tin, làm đức tin ngày càng vững mạnh hơn.
4. Quá trình hình thành một đức tin mạnh mẽ
Để dễ hiểu, chúng ta hãy dựa vào quá trình hình thành đức tin của dân Do Thái:
– Kinh nghiệm đức tin ban đầu: Thiên Chúa muốn dân Do Thái tin Ngài là Thiên Chúa của họ, Ngài không chỉ nói với họ hay thuyết phục họ để họ tin Ngài, mà nhiều lần Ngài biểu dương quyền năng của Ngài cho họ. Biểu dương cụ thể nhất, rõ ràng nhất, được mọi người Do Thái thời đó chứng kiến tận mắt là Thiên Chúa cho dân Ngài vượt qua Biển Đỏ một cách lạ lùng. Khi thực hiện phép lạ này, Thiên Chúa làm cho nước biển rẽ ra trước, rồi mới bảo dân chúng bước xuống biển, để cuối cùng họ vượt qua Biển Đỏ an toàn (x. Xh 14,21-22).
Nhờ đó, toàn dân đều có kinh nghiệm rõ rệt về quyền năng của Thiên Chúa. Họ bắt đầu đặt niềm tin nơi Ngài dựa trên kinh nghiệm nền tảng ấy. Đức tin ban đầu của họ còn non yếu, cần phải được nâng đỡ bằng những kinh nghiệm tỏ tường. Thiên Chúa không đòi hỏi họ «liều» trong giai đoạn này. Nhưng khi đức tin trưởng thành, đức tin ấy phải dựa trên kinh nghiệm về Thiên Chúa trong quá khứ để tự xác quyết về quyền năng của Ngài sẽ được thể hiện thế nào trong hiện tại hoặc tương lai. Khi con người đã có kinh nghiệm ban đầu về quyền năng của Thiên Chúa và đặt niềm tin vào Ngài rồi, thì Thiên Chúa bắt đầu thử thách niềm tin ấy để niềm tin ấy trưởng thành và vững mạnh hơn.
– Thử thách đức tin: Thời Giosuê làm thủ lãnh dân Do Thái, Thiên Chúa cũng cho xảy ra một trường hợp tương tự như lần dân Chúa vượt qua Biển Đỏ. Thời ấy, Giosuê đưa toàn dân cùng với Hòm Bia Giao Ước đi qua sông Giođan. Thiên Chúa ra lệnh cho dân bước xuống dòng sông. Nhưng lần này, Ngài không cho nước rẽ ra trước, mà bảo họ bước xuống trước. Sự việc xảy ra là «khi chân các tư tế khiêng Hòm Bia vừa đụng xuống nước ở ven bờ, thì nước mạn ngược chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất dài» (Gs 3,15-16), và toàn dân đã qua được sông Giođan. Như vậy, lần này, Thiên Chúa đòi hỏi dân phải «liều» hơn lần trước một chút. Nhờ liều như thế mà họ lại kinh nghiệm thêm một lần nữa về quyền năng của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đào tạo và giáo dục đức tin của ta theo cách ấy, nghĩa là một cách tiệm tiến và có phương pháp. Đức tin ta càng trưởng thành, thì Thiên Chúa càng đòi hỏi ta phải liều lĩnh nhiều hơn. Nếu ta dám tin mạnh hơn, dám chứng tỏ đức tin ấy bằng hành động là dám liều nhiều hơn, thì ta càng có nhiều kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn, và đức tin của ta ngày càng trưởng thành hay vững chắc hơn. Một khi đã có kinh nghiệm về Thiên Chúa, về quyền năng của Ngài, mà ta lại không dám chứng tỏ đức tin bằng hành động thật sự khi được Ngài thử thách, thì đức tin của ta sẽ dậm chân tại chỗ, không phát triển, và mãi mãi sẽ là một đức tin non yếu.
– Đức tin trưởng thành: Đức tin thật sự đạt đến mức trưởng thành phải tương tự như đức tin của Phêrô khi ông dám liều bước chân xuống biển để đi trên nước đến với Đức Giêsu (x. Mt 14,22-33). Tuy nhiên, đức tin của ông chưa đạt đến mức hoàn hảo, vì «khi thấy gió thổi thì ông đâm sợ và bắt đầu chìm xuống biển» (14,30). Ông vẫn còn nghi nan. Chính sự nghi nan này làm ông chìm. Nếu ông hoàn toàn vững tin, ông sẽ đi trên mặt biển không khác gì trên đất liền.
Hiểu được quá trình hình thành một đức tin vững mạnh, ta sẽ hiểu được cách để phát triển đức tin của ta hầu trở thành «con người mới». CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trong cuộc đời Kitô hữu của con, nhiều lần Cha đã tỏ quyền năng của Cha cho con một cách rất lạ lùng, để con có được những kinh nghiệm nền tảng về quyền năng hay tình thương quan phòng của Cha. Nhờ đó con tin vào Cha. Nhưng khi Cha thử thách niềm tin của con để đức tin của con trưởng thành hơn, thì con lại lùi bước. Con đòi hỏi phải thật bảo đảm mới dám dấn thân hành động theo ý Cha. Con không dám liều một chút vì Cha. Vì thế, đến bây giờ đức tin của con vẫn còn yếu kém. Và con vẫn mãi mãi là một con người yếu đuối. Xin Cha giúp con biết liều hơn một chút, để quyền năng của Cha được biểu lộ ra cho con, hầu đức tin của con vững mạnh hơn. Nhờ đó con tiến triển hơn trong đời sống đức tin để trở thành «con người mới».
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục nói đến việc Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Dàn: PS2-197
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục nói đến việc Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Dàn bài của đoạn Tin Mừng tuy phối hợp ba phân đoạn khác nhau: Chúa Giê-su ban Thánh Thần cho các môn đệ, ông Tô-ma tuyên xưng đức tin và kết luận về sách Tin Mừng Gio-an, nhưng lại giúp chúng ta có một đề tài suy niệm về truyền giáo thật phong phú. Truyền giáo là được sai đi để rao giảng Tin Mừng. Nhưng để rao giảng, ta phải tin vào Tin Mừng ấy. Hoa trái của việc rao giảng ấy sẽ là những dấu lạ Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện qua những kẻ rao giảng Tin Mừng cho thế giới hôm nay để người ta “tin mà được sự sống nhờ danh Người.”
a) “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”
Thiên Chúa Cha đã sai Con Một Người đến thế gian để thi hành kế hoạch cứu rỗi Người đã tiền định từ muôn thuở. Khẳng định “được Chúa Cha sai đến” ta thường thấy lập đi lập lại trong Tin Mừng Gio-an. Chúa Giê-su nói nhiều về sứ mệnh của Người, nhưng thường Người lại bị hiểu lầm, không phải vì người ta không hiểu được, mà vì người ta không muốn hiểu hoặc chỉ muốn hiểu theo ý của họ và tham vọng của họ.
Đấng được sai xuống từ trời trước hết để tỏ ra cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (Ga 3:16). Vì yêu thế gian, Thiên Chúa không muốn để cho loài người mất đi vì tội lỗi, nhưng muốn họ được cứu độ (Ga 3:17). Cuộc sai đi, hoặc nói đúng hơn, cuộc truyền giáo của Thiên Chúa là một cuộc truyền giáo vượt thời gian và không gian. Từ vĩnh cửu, Ngôi Lời Nhập Thể đã đi vào thời gian của nhân loại. Từ vô biên, Ngôi Lời đã đến giam mình trong một không gian nhỏ bé là thân xác một con người, một nơi chốn tầm thường là Na-da-rét. Từ quyền năng siêu phàm, Thiên Chúa đã trở thành một tạo vật yếu đuối, cần nương tựa vào người khác. Nói tóm lại, để chấp nhận được sai đi, Ngôi Lời đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang” (Pl 2:7) của địa vị Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi loài người.
Sau khi đã chuẩn bị cho sứ mệnh, Chúa Giê-su, vị Thừa Sai tiên khởi, đã lên đường thi hành những điều các ngôn sứ đã nói trước, nhất là I-sai-a (Lc 4:18-19). Từ nay, sứ mệnh truyền giáo không bao giờ ngừng nghỉ. Trả lời cho những người muốn giữ Người lại với họ, Chúa Giê-su nói: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó” (Lc 5:43). Trải qua bao thăng trầm, lý tưởng truyền giáo của Chúa Giê-su vẫn vững như bàn thạch. Lúc nào ý của Chúa Cha cũng là trên hết, là lương thực của Người (Ga 4:34). “Điều gì Chúa Cha làm thì người Con cũng làm như vậy” (Ga 5:19). Nói những gì Chúa Cha muốn nói (Ga 8:28), yêu mến như Chúa Cha yêu mến (Ga 15:9). Sự vâng phục của vị Thừa Sai đạt tới cao độ khi Chúa Cha quyết định: “Ta phải làm gì đây? Ta sẽ phái người con yêu dấu của ta, biết đâu chúng sẽ nể con ta” (Lc 20:13). Tới đây, con đường truyền giáo trở thành đường thập giá dẫn tới đồi Can-vê.
Đó là một vài nét về vị Thừa Sai nguyên thủy, Chúa Giê-su, Đấng đang nói với ta: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” Trước khi sai ta đi, Chúa Giê-su muốn chúng ta được đào tạo thành tông đồ của Người. Tin Mừng Mát-thêu dành nguyên cả chương 10 để ghi lại những căn dặn của vị Thầy đang dạy bảo môn đệ phải chuẩn bị thế nào cho sứ mệnh truyền giáo. Huấn luyện xong, Người sai họ đi, bắt đầu là thực tập, rồi trở về kiểm điểm, rút tỉa kinh nghiệm, học hỏi thêm. Người không ngần ngại mời gọi ta hãy rập theo gương mẫu của Người. Như Người đã được sai đi và thi hành sứ mệnh ra sao, ta cũng được Người sai đi và thi hành y như thế.
b) “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”
Lời tuyên xưng của ông Tô-ma là điều kiện cốt yếu để thi hành sứ mệnh truyền giáo. Ta không thể hiểu được một người ra đi làm chứng cho Chúa Giê-su mà lại không biết Chúa là ai và không có quan hệ gì với Người. Lời tuyên xưng của ông Tô-ma cho ta thấy hai khía cạnh. (1) Về phía Chúa Giê-su, nó nói lên hai danh hiệu quan trọng nhất của Người: Chúa và Thiên Chúa. Chúa Giê-su là Chúa, Đấng có chủ quyền trên mọi tạo vật và sẽ quy tụ muôn loài muôn vật để đưa về với Đấng Tạo Dựng. Chúa Giê-su là Thiên Chúa, điều mà Tin Mừng Gio-an đã nêu ra ngay trong câu đầu tiên sách Tin Mừng của ngài, “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1:1). Tất cả sách Tin Mừng của ngài là một suy niệm về sự thật trên, qua bảy dấu lạ và các diễn từ của Chúa Giê-su cũng như qua cuộc vinh hiển từ thập giá đến vinh quang Phục Sinh của Người. (2) Về phía Tô-ma, nó biểu lộ mối quan hệ giữa ông với Chúa. Không phải chỉ là Chúa như một Đấng xa lạ, nhưng là “Chúa của con”, “Thiên Chúa của con”. Nghĩa là một Chúa có quan hệ cá nhân với ta, Chúa mà ta yêu mến hết lòng và muốn dấn thân cho Người để được Người sai đi làm chứng cho Người.
c) “Còn nhiều dấu lạ khác nữa không được ghi chép trong sách này”
Ở kết luận thứ hai, Tin Mừng Gio-an khẳng định: Còn nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm; nếu viết lại từng điều, thi tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra (Ga 21:25). Điều thánh Gio-an nói quả không sai đâu. Những gì không được ghi chép trong sách thì sẽ được ghi chép nơi những người qua muôn thế hệ sẽ đáp lại tiếng gọi truyền giáo. Những điều ta làm, những cách sống Ki-tô hữu gương mẫu của ta, những yêu thương, chăm sóc ta dành cho anh chị em, tất cả đều là những dấu lạ Chúa Giê-su muốn thực hiện qua ta. Người không biết chữ cũng có thể đọc được. Ngoài cuốn sách Tin Mừng của Gio-an đã viết, sẽ có bao nhiêu là cuốn sách Tin Mừng khác, đó là mỗi con người Ki-tô hữu. Ta được Chúa Giê-su sai đi để làm cho những dấu lạ Người đã làm lại được tiếp diễn bất cứ nơi nào ta có mặt.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Sau khi sống lại, mỗi lần Chúa Giê-su hiện ra là đem lại bình an và niềm vui cho các môn đệ Người. Vậy khi đến với anh chị em, tôi có thực hiện được điều ấy không? Hay là vừa thấy tôi “hiện ra” là anh chị em kêu trời, muốn trốn chạy? Tôi phải làm sao đây?
Ý thức truyền giáo thực sự có nơi tôi hay không? Hoặc không bao giờ tôi nghĩ tới sứ mệnh ấy? Công đồng Vatican II khẳng định: Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành đã mang đặc tính truyền giáo. Tôi thuộc về Giáo Hội, nhưng có khi nào tham gia vào công cuộc truyền giáo không? Bằng cách nào?
Giáo Hội Việt Nam đã chọn năm nay làm Năm Thánh Truyền Giáo. Tôi có hướng về quê nhà để cùng anh chị em học hỏi, tích cực tham gia việc truyền giáo bằng cầu nguyện, hy sinh vật chất, tài năng... để đóng góp vào việc xây dựng Giáo Hội Việt Nam không?
Trong cuốn sách đời tôi, tôi đã ghi được dấu lạ nào của Chúa Giê-su do tôi thực hiện chưa? Nếu chưa, có lẽ tại tôi chưa nói lên được như thánh Tô-ma: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! Vậy làm sao nói được như vậy?
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giê-su phục sinh, lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc bên mộ. Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa cùng đi với hai môn đệ Emmau. Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ. Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi. Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ. Lạy Chúa Giê-su phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 86)
Bài Tin Mừng hôm nay nói nhiều điều, nhưng chúng ta muốn tập trung suy nghĩ về ông Tôma và rút: PS2-198
Bài Tin Mừng hôm nay nói nhiều điều, nhưng chúng ta muốn tập trung suy nghĩ về ông Tôma và rút ra những bài học cho chính mình.
Cứng lòng
Nói đến Tôma, thường người ta nghĩ đến việc ông hoài nghi hay cứng lòng. Và thực ra chính Chúa Giêsu đã trách ông như vậy: “chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”.
Kể cũng tội nghiệp cho Tôma ! Cả đời hỏi rằng đã có ai thấy kẻ chết sống lại đâu mà bảo ông tin Chúa phục sinh được ?. Cho đến bấy giờ, người Do thái chưa có niềm tin vào sự sống lại của con người. Nếu Tôma không tin thì âu cũng là chuyện bình thường. Và nếu ông đòi cho được một bằng chứng cụ thể để có thể tin thì cũng là chuyện bình thường nốt, bởi vì khi Chúa hiện ra với những tông đồ kia thì lập tức Người cũng cho họ xem “tay và cạnh sườn” của Người bị thương tích.
Lại nữa, người ta thường chú ý phần đầu mà không để ý phần sau: Tôma đã tuyên xưng Đức Giêsu là “Chúa và là Thiên Chúa”.
Từ câu chuyện về Tôma, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học.
1. Đức tin, niềm tin của con người vào Chúa thường gắn liền với cụ thể, nghĩa là những gì mắt thấy, tai nghe.
Một câu nói của Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 thường được trích dẫn: “Con người ngày hôm nay thích những chứng nhân hơn là những thầy dạy, hoặc là những thầy dạy cũng phải là những chứng nhân”.
Cũng vị Giáo Hoàng này trong Tông huấn loan báo Tin Mừng nói rằng con người thời đại này xem ra đã “miễn nhiễm” với ngôn từ. Những lời nói không đi đôi với việc làm, với hành động thì người ta không sẵn sàng nghe và đương nhiên là không tin.
Con người ngày hôm nay dễ tin hơn vào những người như Mẹ Têrêxa Calcutta: một người nói bằng hành động, bằng bàn tay, bằng những nghĩa cử bác ái yêu thương. Nếu Chúa cho xuất hiện một con người như vậy âu cũng là để cảnh tỉnh, để nói với chúng ta hôm nay phải sống đạo như thế nào và phải rao truyền về Chúa cách nào.
Cám ơn ông Tôma vì qua sự “cứng tin” của ông mà ta học được cách rao truyền về Chúa.
Chúng ta mừng lễ phục sinh trong năm thánh truyền giáo thì chúng ta cũng nên ý thức như vậy để sống đạo một cách tích cực hơn.
2. Chúa trách cứ ông Tôma vì “cứng tin” là để nói với chúng ta một điều khác nữa, đó là: niềm tin phải gắn liền với lời chứng của các tông đồ, bởi đức tin của chúng ta là đức tin “tông truyền”: “phúc cho những người không thấy mà lòng vẫn tin !”.
Dĩ nhiên lời chứng đó phải đáng tin cậy. Và quả thật lời chứng của các tông đồ đáng tin cậy vì họ đã được “thấy” Đức Giêsu phục sinh.
Việc rao truyền về Chúa hôm nay, vì vậy, phải được phát xuất từ những con người không phải như những cái máy thu thanh rồi phát ra, nhưng phải từ những con người có cảm nghiệm thật sự sâu xa về Chúa.
Chính vì vậy, ta hiểu được tại sao Đức Giáo Hoàng đương kim thường nhấn mạnh rằng: “Tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc vào việc chiêm niệm”. Nếu không có sự xác tín tuyệt đối về Chúa ta không thể nào rao truyền về Chúa khả dĩ làm cho kẻ khác tin.
3. Chúa trách cứ ông Tôma ngoài ra còn để dạy chúng ta một bài khác nữa, đó là phải gắn liền đức tin vào chính lời của Người. Chúa Giêsu đã nói rằng Người sẽ phục sinh sau ba ngày, nhưng các môn đệ của Người để ngoài tai. Trên đường Emmau, Chúa đã dùng lời kinh thánh để giải thích cho hai ông nhớ lại lời kinh thánh rằng Đức Giêsu phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Đức tin của ta ngày hôm nay không thể đòi hỏi phải được thấy Chúa nhưng phải gắn chặt vào lời của Người.
4. Bài học cuối cùng ta có thể rút ra: đức tin phải dẫn đến việc tuyên xưng. Ông Tôma cho dù có lúc nghi ngờ, nhưng cuối cùng đã để lại cho hậu thế một lời tuyên xưng cô đọng về Đức Giêsu là “Chúa và là Thiên Chúa”, Xem ra đây là chủ đích của bài Tin Mừng, bởi vì Tin Mừng không muốn nhấn mạnh đến sự hoài nghi cho bằng là lời tuyên xưng của ông. Theo truyền thống, lời tuyên xưng của Tôma cuối cùng là sự chết.
Kết luận
Cám ơn ông Tôma, vì nhờ ông mà chúng ta được soi sáng để hiểu được những gì Chúa muốn dạy ta hôm nay trong vấn đề đức tin.
Cuộc sống là sự pha trộn giữa lo âu sợ hãi với hy vọng bình an. Và những ai có trách nhiệm về con: PS2-199
Cuộc sống là sự pha trộn giữa lo âu sợ hãi với hy vọng bình an. Và những ai có trách nhiệm về con người, dù chỉ là trong một gia đình nhỏ bé, hay một cộng đồng rộng lớn luôn hướng mọi nỗ lực để đem lại một trật tự an sinh như là điều kiện căn bản cho mọi phát triển. Trong bối cảnh ấy Lời của Đấng Phục Sinh "Bình an cho các con" có một ý nghĩa thật đặc biệt:
Trứơc hết cùng với lời ca vang của các Sứ Thần đêm Giáng Sinh "Bình an dưới thế cho người Chúa thương" nó gói trọn cuộc đời của Đức Giêsu trong sứ vụ trao ban Bình An. Điều này nhắc chúng ta liên tưởng đến sứ điệp Ngài đã trao cho các môn đệ ra đi truyền giáo "Vào nhà nào, chúng con hãy chúc: Bình an cho nhà này và mọi người trong nhà".
Là sứ giả Bình An, nhưng từ hang đá Be Lem cho đến ngày Sống Lại, Đức Giêsu cho thấy có một sự liên kết hữu cơ mật thiết giữa Bình An với mầu nhiệm Thánh Giá, khi chấp nhận sinh ra trong cơ cực nghèo hèn, và chết trên thập tự như một tội nhân, và trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa còn muốn nhấn mạnh là sự Bình An tuôn trào ra từ "Tay và Cạnh Sườn" đã bị đâm thủng của Người.
Có nhiều nguyên do làm nên những bất ổn và lo sợ, nhưng nếu tìm về gốc rễ, người ta đều thấy nó phát xuất từ con người tội lỗi bị khống chế bởi những khát vọng kiêu hãnh, tham lam và xác dục. Cái xáo trộn nào cũng có thể thấy được hình bóng của nó nơi cái xáo trộn đầu tiên nơi tội Ađam-Eva. Sách Công Vụ thuật lại "cửa nhà các môn đệ hội họp đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái". Các ông sợ, vì cho đến lúc ấy, các ông thấy những kỳ vọng trần thế của mình nơi Thầy đã tan biến, trừ ra một hy vọng mỏng manh vào ngày thứ 3. Những kỳ vọng của người môn đệ suốt 3 năm theo Thầy vẫn chứa đầy tính thống trị, bá chủ, độc ngã, độc tôn. Vẫn là cái gốc tội lỗi.
Cũng đã có nhiều chủ thuyết và hành động của con người nhắm tới một trật tự an bình, bảo hiểm an sinh xã hội. nhưng dường như lại luôn làm ra một thế giới mà mạng sống càng ngày càng bị đe dọa hơn, thậm chí, khi con người có thể tự hào về những thành tựu vĩ đại để bước vào thiên niên kỷ thứ ba, thì sự sống ngay của biết bao thai nhi và trẻ sơ sinh không còn được chấp nhận. Trong một tổng kết, người ta nói mỗi ngày tại các bệnh viện sản khoa có tới 40 trẻ vừa chào đời đã bị mẹ bỏ rơi.
Đức Giêsu Phục Sinh muốn môn đệ phải có một cách nhìn và suy nghĩ hoàn toàn mới mẻ về sứ vụ và về Tin Mừng Bình An: khi Ngài truyền cho Thomas "Con hãy xỏ tay con vào Tay Thầy. đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin": chính là bàn tay và cạnh sườn tuôn đổ Thánh Thần Tình Yêu để phục vụ, để hiến mạng sống mình, mới đích thực là người xây dựng một thế giới an bình. Không phải là những cơ chế, không phải là những kho lẫm, không phải là những việc kỳ diệu làm ra an bình, nhưng chính là Thần Trí làm cho môn đệ cúi mình xuống rửa chân cho nhau.
Con đường Thánh Giá bởi tình yêu phục vụ, là con đường tuôn trào Thánh Thần, là Quyền Năng phá tan gốc cội tội lỗi duy nhất, là con đường Phục Sinh không chỉ là Thân Xác, mà trọn vẹn con người vào sự sống bình an thật. Đó chính là điều hôm nay Đức Kitô đòi hỏi môn đệ phải tin. Và Thánh Thomas được vinh dự là người tiêu biểu tuyên xưng lòng tin ấy khi sụp lạy Đức Giêsu với lời tuyên xưng:"Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi".
· Cv 5, 12-16: Nhiều điềm thiêng dấu lạ được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các tông đồ. Mọi tín hữu đều đồng tâm nhất trí, thường hội họp tại hành lang Sa-lô-mon. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.
· Kh 1, 9-11a. 12-13. 17-19: Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay tôi đều đến muôn thuở muôn đời, và Ta giữ chìa khóa của tử thần và âm phủ. · TIN MỪNG: Ga 20, 19-31
Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: Chúc các anh em được bình an! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người ta lại nói với các ông: Chúc các anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em . Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ .
Một người trong nhóm mười hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đi-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: Chúng tôi đã được thấy Chúa! Ông Tô-ma đáp: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông, các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: Chúc anh em được bình an! Rồi Người bảo ông Tô-ma: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin. Ông Tô-ma thưa Người: Lạy Thiên Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con! Đức Giê-su bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.
Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ ấy không được ghi chép trong sách này, còn những điều chép ở đây để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người. Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
Tâm trạng của các tông đồ trước khi Chúa hiện ra thế nào? Chúng ta có gặp tâm trạng như thế không?: PS2-200
1. Tâm trạng của các tông đồ trước khi Chúa hiện ra thế nào? Chúng ta có gặp tâm trạng như thế không? chúng ta phản ứng thế nào?
2. Thân xác Chúa Ki-tô sau khi sống lại có gì khác lạ? Điều đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
3. Bí tích giải tội liên quan thế nào với cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa? Tại sao Chúa lại lập bí tích giải tội ngay ngày phục sinh? Suy tư gợi ý:
1. Tâm trạng của các tông đồ sau khi Đức Giê-su chết
Sau khi Đức Giêsu bị bắt và bị đóng đinh thập giá, tinh thần của các tông đồ bị dao động mãnh liệt, niềm tin và lòng can đảm của các ông như bị mất hẳn. Từ lúc khởi sự theo Ngài tới bữa Tiệc Ly, suốt ba năm ấy, các ông đã nhìn thấy những dấu chứng rất chắc chắn chứng tỏ Ngài là Đấng Mê-si-a mà dân Do Thái hằng trông đợi từ mấy trăm năm nay, các ông vẫn luôn luôn tin tưởng rằng sẽ tới lúc Ngài xuất đầu lộ diện thành một vị tướng tài ba với binh hùng tướng mạnh để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị tàn bạo của Rô-ma. Và các ông cũng nuôi hy vọng rằng sau khi Ngài lên ngôi vua, các ông sẽ trở thành những vị quan lớn trong triều đình của Ngài. Được làm quan cai trị 12 chi tộc Israel - là một mơ ước không tưởng nhưng luôn nằm saün trong vô thức của những người dân thấp cổ bé miệng như các ông - nay nhờ theo Đức Kitô đã trở thành một hy vọng dường như nằm trong tầm tay. Thật vậy, ngay trong bữa tiệc ly, các ông vẫn còn tranh luận xem ai là người cao trọng hơn (x. Lc 22, 24).
Vì thế, khi Đức Giêsu bị bắt, các ông bắt đầu hơi nản chí, nhưng vẫn còn hy vọng rằng Ngài chỉ giả bị bắt, và với quyền phép của Ngài, Ngài sẽ thoát khỏi cái chết dễ dàng và sẽ phục hưng lại. Nhưng khi thấy Ngài thật sự bị chết một cách quá nhục nhã trên thập giá, và đã bị chôn trong mồ - rõ ràng Ngài đã chết - thì giấc mơ làm quan kia hoàn toàn sụp đổ, thay vào đó là nỗi sợ hãi bị người Do Thái ruồng bắt. Từ trưa thứ sáu Đức Giêsu chịu nạn đến sáng ngày thứ nhất trong tuần lễ kế tiếp, các ông sống trong hoang mang, sợ hãi và thất vọng.
Sáng ngày thứ nhất, các ông nghe phong thanh rằng Đức Giêsu đã sống lại, nguồn tin đến từ mấy phụ nữ khó mà tin chắc chắn được. Giữa các ông cũng có những chứng từ nhưng không đủ tin: Phêrô và Gioan thấy ngôi mộ trống, còn hai môn đệ từ Emmau về nói rằng họ vừa nhận ra Ngài thì Ngài biến mất. Chiều hôm đó, khi màn đêm bắt đầu buông xuống, các ông tụ họp lại để hỏi thăm nhau, bàn tán về những biến cố xảy ra trong ngày, và cũng để nương nhau cho đỡ sợ. Lúc đó cửa đóng kín vì các ông sợ người Do Thái. Các ông đang bàn luận thì Đức Giêsu hiện ra.
Mặc dù nghe phong thanh rằng Ngài đã sống lại, nhưng khi Ngài hiện ra, các ông không khỏi kinh ngạc, vì đây vốn là một chuyện không thể tin được. Theo Tin Mừng Luca (24, 36-43) thì khi Ngài hiện ra, các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, và cho dù Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. các ông vẫn chưa tin, đến nỗi Ngài phải ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông để các ông tin. Chúng ta cần phải thông cảm với các ông, nhất là ông Tôma, vì đối với bất kỳ ai, sống lại từ cõi chết là điều quá sức lạ lùng, cần phải đích thân sờ mó vào những dấu đinh, vào cạnh sườn thì mới có thể tin được. Vả lại, có thật sự chứng nghiệm Ngài sống lại bằng sự sờ mó cụ thể như thế, các ông mới dám mạnh dạn làm chứng - bằng chính mạng sống mình - rằng Ngài đã thật sự sống lại. 2. Những bài học
Từ bài Tin Mừng trên, chúng ta chúng ta rút ra những bài học sau đây:
a) Trong cuộc đời, niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu nhiều khi cũng bị thử thách một cách nặng nề như các tông đồ xưa. Chúng ta cũng bị nao núng tinh thần, bị chán nản thất vọng, thấy niềm tin của mình tưởng rằng vững chắc bỗng hóa thành như chuyện không tưởng. Nhưng quả thật đối với Thiên Chúa, có nhiều chuyện không thể tin được mà lại xẩy ra. Điều quan trọng là trong khi bị thử thách, chúng ta cứ kiên tâm chờ đợi, đừng vội làm điều gì ngược với lương tâm, với ý Chúa. Tất cả các vị thánh đều phải trải qua những đêm tối của đức tin . Chúa muốn như vậy, đức tin có bị thử thách thì mới trưởng thành và trở nên vững chắc được. Sau cơn thử thách ấy, đức tin hoặc sẽ bị mất đi, hoặc sẽ được trui luyện thành bền vững hơn. Vấn đề nằm ở sự kiên nhẫn: Ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát (Mt 24, 13).
b) Thân xác của Đức Kitô sau khi sống lại là một thân xác vinh quang, khác với thân xác của Ngài trước khi chết. Thân xác vinh quang của Ngài không còn bị lệ thuộc vào những định luật vật lý thông thường: chẳng hạn cửa đóng kín mà vẫn vào được (Ga 20, 19), nhưng không phải là bóng ma không có thể chất, vì Ngài vẫn có thể ăn uống như người thường (Lc 24, 43), vẫn có thể rờ thấy một cách cụ thể (Ga 20, 20), và nhất là thân xác đó sẽ chẳng bao giờ phải đau khổ, phải chết nữa. Đó chính là tính chất của thân xác chúng ta trong tương lai, sau khi chúng ta được sống lại từ cõi chết. Thân xác vinh quang sau khi phục sinh là hình ảnh của những tâm hồn đã được sống lại về mặt tinh thần trong Đức Kitô. Đó là những tâm hồn đã chết cho thế gian, xác thịt, tội lỗi, và chỉ sống cho Thiên Chúa hay Đức Kitô và tha nhân, tâm hồn họ không còn bị lệ thuộc vào ngoại cảnh, không còn bị điên đảo vì những biến đổi của đời thường nữa. Tuy nhiên, họ không phải là những con người siêu thế, sống ngoài vòng tục lụy, mà họ vẫn luôn luôn sống giữa thế gian, làm tất cả mọi việc mà mọi người vẫn làm. Họ vẫn phải đương đầu với tất cả mọi khó khăn mà mọi người vẫn phải đối đầu. Nhưng họ vẫn không bị những khó khăn hay nghịch cảnh vùi dập, làm họ mất bình an. Họ vẫn luôn luôn tìm được bình an và niềm vui trong mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu. Tình yêu giúp cho họ thâm nhập vào tất cả những tình huống đời sống thực tế của tha nhân để họ có thể hiểu và giúp đỡ mọi người tùy theo nhu cầu. Vững tin vào Chúa, gắn bó và luôn luôn sống với Chúa là nguồn sức mạnh và năng lực, đó là bí quyết tạo sức mạnh của họ.
c) Sinh xuống trần, sống như người trần, rao giảng cho người trần, chết và sống lại vì người trần, việc cứu chuộc nhân loại không phải đến đây là hoàn tất. Sứ mạng của Ngài đã hoàn thành được phần chủ yếu, nhưng chưa hoàn tất. Sứ mạng của Ngài còn dang dở cần được các tông đồ và Giáo Hội Ngài tiếp tục. Vì thế, như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em . Ngài không chỉ truyền cho chúng ta sứ mạng rao giảng Tin Mừng để cứu rỗi thế giới như Ngài đã làm, mà còn ban Thánh Thần và quyền bính thiêng liêng như Ngài đã từng nhận từ Chúa Cha cho những ai lãnh nhận sứ mạng của Ngài.
Ngài trao việc tiếp tục sứ mạng của Ngài cho các tông đồ, cũng chính là cho chúng ta, tất cả mọi Kitô hữu, đặc biệt cho những ai nhận ra hay tự ý thức về lời mời gọi của Ngài. Mọi Ki-tô hữu nên ý thức lại về lời mời gọi này trong cuộc sống của mình. Cầu nguyện
Chúa đã phục sinh. Xin cho con cũng được phục sinh như Chúa, nhất là trong tình trạng hiện nay của tâm hồn con: tâm hồn con kể như đã chết hay bệnh hoạn vì tính kiêu ngạo, hèn nhát, ích kỷ, hay vì thiếu niềm tin và tình yêu. Nhưng trước hết, xin cho con biết thành thật với chính mình và ban cho con can đảm để nhận ra tình trạng suy yếu hay đã chết của tâm hồn con, và giúp con quyết tâm chỗi dậy nhờ vào sức mạnh vô iên của Chúa. Amen. (NCK)