Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 1-50 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa ----------------------------------- Phúc Âm: Ga 20, 19-31: "Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của Tôma. Tôma không phải la: PS2-1
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ: - Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe Ngài giảng, chưa một lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu mến và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
- Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống cách đây 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
- Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định một cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện vọng riêng tư của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
- Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng ?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều người trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng đắn, chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những chân lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục thường là những chướng ngại vật cản ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến đã có phản ứng như thế nào ? Phúc âm đã kể lại:
- Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì cũng có những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của tác dụng ơn Chúa trong tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
- Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn chia thành hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng vào Chúa và giới tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới tuyến nào ? Hãy tuyên xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
Trong cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong: PS2-2 (7giờ) LÒNGTHƯƠNGXÓT oFB
Trong cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”, của Ron Lee Davis, có kể lại câu chuyện về một linh mục người Phi Luật Tân như sau:
Vị linh mục là một người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn đã phạm nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng vẫn không cảm thấy bình an, vì chưa cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài có một người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa, và bà đã tuyên bố, là bà được ơn biết những điều Chúa Giêsu muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không tin điều này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu, tôi muốn hỏi Ngài xem tội của tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện là tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau đó, vị linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa ?” Bà trả lời, “Dạ, rồi”, “Vậy bà có hỏi Ngài, là tôi đã phạm tội gì trong chủng viện không ?” Ngài hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì ?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một điều rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm tội gì, Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa !”
Thật vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới các việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông đồ ở vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả ! Đây là điều an ủi lớn cho chúng ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày 13.5.1881, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang nằm trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã bắn tôi, và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày 27.12.1983, ngài đã đến nhà tù thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara Reynolds trước đây là một ký giả của tờ nhật báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà gặp lại người đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau: “Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ. Một cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ xin tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh mắt trống rỗng và chán chường, rồi nói, “Tôi như thế đó !” Do vậy tôi có thể làm gì được ? Bắn ông ta hả ? Thưa kiện ? Tránh mặt ? Đến lúc đó ông ta vẫn không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi bỏ đi, và không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà Reynolds kể rằng sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích tâm lý học, sự tha thứ vẫn là phương thuốc trị liệu tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải chỉ vì ích lợi linh hồn của người đã làm điều sai trái cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh thần của chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ !
Cô Corrie Ten Boom đã diễn tả sự tha thứ giống như buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ nhìn thấy một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa ? Để nghe được tiếng chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục kéo, chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy !
Khi bạn làm như thế, tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục vang, vì sự chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn buông tay ra khỏi sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy, khi bạn quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ xưa kia có lẽ vẫn còn tiếp tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ, cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại và dần dần im bặt. Sự tha thứ không phải là một cảm giác, nhưng là một hành động. Đó là buông tay ra khỏi sợi dây oán thù.
Hãy tha thứ cho chính mình. Biết nhìn nhận con người tội lỗi của mình và tha thứ cho chính: PS2-3 LÒNGTHƯƠNGXÓT
Hãy tha thứ cho chính mình. Biết nhìn nhận con người tội lỗi của mình và tha thứ cho chính mình là điểm khởi đầu cho sự hoán cải. Vì không thể tha thứ được cho chính mình, nên Giuđa mới tuyệt vọng treo cổ tự vẫn !
Sách Giáo lý Công giáo số 827 đã dùng lời của Công đồng Vatican II để khẳng định rằng: “Giáo Hội gồm những tội nhân trong lòng mình. Cho nên Giáo Hội vừa thánh thiện vừa được kêu gọi hãy tự thanh tẩy, và phải luôn nỗ lực sám hối và đổi mới. Tất cả thành viên của Giáo Hội, cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình là tội nhân”. (Lumen Gentium, đoạn 8).
Sau 94 lần xưng tội của Giáo Hội, ngày 12.3.2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng xưng tội tổng quát cho mọi lỗi lầm của Giáo Hội từ 2000 năm qua. Ngài đã liệt kê ra 6 loại tội: tội thiếu khoan dung gây ra các cuộc thánh chiến, tòa án dị giáo, tội chia rẽ, ra vạ tuyệt thông và những cuộc chiến tranh tôn giáo, tội kỳ thị dân Do Thái, im lặng trước sự bắt bớ của Đức Quốc xã, tội không tôn trọng quyền các dân tộc, các văn hóa, các tôn giáo khác, tội không tôn trọng phẩm giá người phụ nữ và tính đơn nhất của nhân loại, tội chống lại những quyền căn bản của con người.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Thương Xót Chúa – the Feast of Divine Mercy. Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Maria Faustina được phong thánh. Năm 1930, Chúa Giêsu đã chọn Nữ tu Maria Faustina, người Ba Lan để làm cho thế giới chấp nhận Lòng Thương Xót vô bờ của Ngài. Nữ tu đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giêsu và diễn tả ra để vẽ lên bức hình của Ngài với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, Con phó thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giêsu đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Ngài phát tỏa ra hai luống sáng, màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc khổ nạn khi Trái Tim Ngài bị đòng đâm thâu qua trên thập giá. Anh sáng xanh lợt biểu tượng cho nước lau sạch và thanh tẩy linh hồn. Anh sáng đỏ biểu tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn. Chúa Giêsu đã đặt Nữ tu Faustina là thư ký và tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Chị đã được chỉ đạo phải viết lại những lời hướng dẫn cho mọi người cùng học hỏi để tin tưởng và phó thác nơi Lòng Thương Xót Chúa.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nữ tu Faustina biết rằng Lòng Thương Xót của Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho những tội nhân xấu xa nhất, ngay cả đối với người tuyệt vọng. Ngài mong muốn mọi người đi xưng tội và rước lễ để hoàn toàn được ơn tha thứ mọi tội lỗi và hình phạt trong ngày lễ Lòng Thương Xót Chúa. Chúa Giêsu đã tuôn đổ cả đại dương ân sủng trên những linh hồn đến với Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi tội lỗi đều được Thiên Chúa tha thứ, bởi “tình thương mạnh hơn tội lỗi”.
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh: PS2-4
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao ? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì ? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta ? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên ?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai ?” Thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không ?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không ?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì ? Là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì ? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không ? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không ? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người không ? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không ?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
Có câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập trong một đoàn xiếc. Anh nói: "Tôi: PS2-5 oFB
Có câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập trong một đoàn xiếc. Anh nói: "Tôi sẽ biểu diễn bằng cách trèo lên bậc cao khoảng 50 mét và nhảy xuống một đống mùn cưa". Chủ đoàn xiếc nói, "Nghe anh nói thật hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn ra sao đã". Sau đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin việc bắt đầu biểu diễn. Khi anh ta từ trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày méo mó thì ông chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, "Thật là tuyệt. Tôi nhận anh vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ trả anh 250 Đô La một tuần". Anh ta lắc đầu nói, "Cám ơn, nhưng tôi không muốn". Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ 250 tới 500 và 1000 Đô La một tuần. Thế nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ không hiểu nổi nên nói, "Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!" Anh ta trả lời, "Tôi đau lắm... Tôi không bao giờ dám nữa đâu!" Anh thanh niên này có ước vọng tốt, nhưng khi gặp điều khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho một tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì họ sợ rằng những người giết Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh Gioan đã nói: "Các môn đệ đã vui mừng khi nhìn thấy Ngài". Nhưng sau đó khi họ nói với Tôma (Tôma là người không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là "chúng tôi đã nhìn thấy Chúa", ông trả lời: "Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và những lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy" (Ga 20:25). Tám ngày sau đó, Đức Kitô Phục Sinh lại hiện ra với các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở với họ và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu đã nói với Tôma: "Con tin vì đã nhìn thấy Thầy, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin" (Ga 20:28-29). ` Tin luôn đòi có sự dám liều, có sự dấn thân. Khi niềm tin của ta là vô điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự việc xảy ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó quay lại với Chúa khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng ta biết là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được. Đó là điều kiện để đi theo một người mà người đó lại là một người mà chúng ta luôn luôn không thể biết và làm chúng ta ngạc nhiên.
"Mọi sự đều có thể cho những kẻ tin", chính Chúa Giêsu đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng kiến những phép lạ Người làm. Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới chân Chúa cách vô điều kiện như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể xảy ra cho những ai sẵn sàng chấp nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng Phục Sinh của Chúa.
Trong những giới hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn trở nên con người và nhận ra toàn diện bản chất con người của mình như Chúa muốn, thì xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có thể xảy ra được nếu như bạn không làm một sự thay đổi và "trở nên như trẻ nhỏ". Nhưng khi bạn làm sự thay đổi đó thì bạn trở nên con người vĩ đại. Khi bạn quyết định thay đổi con người mình thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đã làm cho chúng ta qua đời sống, sự chết và phục sinh của Ngài thì chúng ta phải trở về với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ hoàn toàn phó thác vô điều kiện trong tay cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể cho những ai mở rộng đôi mắt và thưa cùng Chúa, "Xin hãy làm cho con được ngạc nhiên!"
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Am: PS2-6 oFB
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phúc Âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho con đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông đồ, củng cố đức tin của họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi với sứ mạng mà Chúa đã chuẩn bị các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh: "Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi".
Con đường đức tin của các Tông đồ từ ngày được gọi theo Chúa cho đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chọn theo con đường đức tin này như được gợi lại cho chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, trước hết chúng ta nhìn thấy các Tông đồ lo sợ thu mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ sức để thi hành. Nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chứng kiến một cuộc thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng kiến một cuộc đổi mới và kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được củng cố để ra đi bắt đầu sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đến, các Tông đồ đang sống trong lo sợ, đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng. Ai trong chúng ta đã không trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là đang trải qua thử thách đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất đức tin vào Chúa về những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ Bảy, có một đoạn đối thoại thật ý nghĩa:
Thần chết hiện ra trong dung mạo của một người phàm và đã đối thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:
Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:
Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao Ngài không xuất hiện mạc khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa không đưa tay Ngài ra và chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời với chúng ta?
Thần chết trả lời:
Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó được, không phải vậy sao? Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài chỉ giữ im lặng.
Dũng sĩ tiếp:
Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì như vậy, Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi khi tôi nghi ngờ không biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?
Thần chết trả lời:
Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia, có thể không ai hiện hữu bên kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện một mình nơi cõi đời này mà thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có lẽ Thiên Chúa không có đâu, chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế giới này mà thôi.
Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm. Các Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói, được sống với Chúa như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không phải vì thế mà các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào Chúa khi Chúa trải qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và đã phục sinh.
Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là Tôma, cũng như chúng ta đã đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm chứng một cách cụ thể: "Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây". Chúng ta ngày hôm nay không thể nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối thoại tưởng tượng giữa Dũng sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa, chúng ta cần tin vào Chúa để không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn sứ mạng của Chúa. Lời Chúa phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó là: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".
Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta trong đức tin. Amen.
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như: PS2-7
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em."
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã "không ở với" các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: "Chúng tôi đã thấy Chúa." Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. "Nếu tôi không thấy... nếu tôi không xỏ ngón tay... nếu tôi không thọc bàn tay... tôi sẽ chẳng tin đâu." Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi "thấy và chạm đến" những thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu "thấy và chạm" có nghĩa là "có cảm nghiệm", thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng: "Tôi đã thấy Chúa" (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng: "Chúng tôi đã thấy Chúa" (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
2. Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con, Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ. Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống. Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã. Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu. Vượt qua những khắc khoải của niềm tin. Vượt qua những thành kiến con có về người khác... Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui. Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
1. Sau khi sống lại Đức Chúa Giê-su đã hiện ra nhiều lần
Mặc dầu đã được Kinh Thánh cũng như chính Đức Giê-su báo trước về Ngài, các môn đệ vẫn: PS2-8
Mặc dầu đã được Kinh Thánh cũng như chính Đức Giê-su báo trước về Ngài, các môn đệ vẫn tỏ ra bàng hoàng sợ hãi khi chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giê-su. Ông Phê-rô thì chối Chúa, các môn đệ hầu hết đã bỏ trốn chỉ còn một số ít theo Người xa xa. Bao nhiêu mộng ước của các ông dường như đã tiêu tan cùng với cái chết của Thầy mình. Khi được báo tin Chúa sống lại, các ông vẫn còn bán tín bán nghi. Đức Giê-su đã phải hiện ra nhiều lần để trấn an, giải thích và củng cố niềm tin cho các ông.
Tin Mừng Thánh Gio-an hôm nay thuật lại hai lần hiện ra của Đức Giê-su với các môn đệ trong phòng cửa đóng kín và lời đầu tiên của Ngài là lời chúc bình an cho các ông. Trong cả hai lần gặp gỡ, Đức Giê-su đã lập lại lời chúc này tới ba lần. Ngài đã cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, nhưng lần hiện ra này vắng mặt ông Tô-ma. Tám ngày sau các môn đệ lại tụ họp trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó nữa. Trong khi các cửa đều đóng kín, Đức Giê-su đến đứng giữa các ông, và sau lời chúc bình an Ngài bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem Thày. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thày. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20,27) Xem ra Chúa có ý trách ông Tô-ma vì sự cứng lòng của ông, nhưng chính nhờ đó mà các môn đệ và các thế hệ sau này là chúng ta có thêm một bằng chứng mạnh mẽ về việc Chúa sống lại. Ở những lần hiện ra khác, Đức Giê-su cũng tỏ ra ân cần và thân mật khi gặp gỡ, giải thích Kinh Thánh hoặc cùng ăn uống với các ông.
2. Đức Giê-su sống lại: bảo chứng cho phần rỗi chúng ta
Quả vậy, Thánh Phao-lô, trong thư gởi các tin hữu Cô-rin-tô, có viết: "... Nếu Đức Ki-tô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng, ...lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em" (1 Cr 15, 14-17). Việc Đức Giê-su sống lại cho chúng ta một bảo đảm chắc chắn chúng ta cũng sẽ được sống lại như Người. Thư thứ nhất của Thánh Phê-rô hôm nay giới thiệu cho chúng ta một "gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai... Gia tài đó chính là ơn cứu độ Người đã dành sẵn và sẽ bày tỏ trong thời sau hết" (1 Pr 1, 3-9). Nhưng không nhất thiết phải đợi lâu như thế, vì nhờ đức tin, chúng ta có thể nếm trước được niềm vui ơn cứu độ và có được sức mạnh để kiên trì trong thử thách. Và ngược lại chính những thử thách đó tinh luyện, làm cho đức tin của chúng ta nên tinh ròng hơn: Vàng là của phù vân, mà còn phải thử lửa, huống hồ là đức tin là thứ quí giá hơn vàng gấp bội (1Pr 1,7)
3. Đức Giê-su sống lại: khởi đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Đức Giê-su, sau khi sống lại, Ngài đã gặp gỡ các môn đệ và tiếp tục sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã ban cho các ông Chúa Thánh Thần: "Anh em hay nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; Anh em cầm giữ ai thì, người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22). Từ đây, khởi đầu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, Đấng áp dụng ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Chúa Thánh Thần, với bảy ơn của Ngài, đã biến đổi các Tông Đồ từ những người nhút nhát trở nên can đảm, từ những người thuyền chài ít học thành những nhà thuyết giảng hùng hồn (Cv 2,14-41). Các ông đã can đảm, sẵn sàng chịu mọi thử thách gian lao, đem Tin Mừng của Chúa đến với mọi người, không phân biệt Do-thái hay dân ngoại. Chúa Thánh Thần cũng hoạt động trong Hội Thánh: Đoạn sách Công Vụ hôm nay cho chúng ta thấy những ân huệ của Ngài sinh hoa kết trái nơi cộng đồng Ki-tô hữu đầu tiên: "Họ chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng... Họ để mọi sự làm của chung, bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu... Họ đồng tâm nhất trí... và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (Cv 2,42-47). Thật là một hình ảnh tuyệt vời về một xã công bằng và đầy tình nhân ái, hình ảnh của Nước Trời.
Lạy Cha, nhờ sự chết và phục sinh vinh hiển của Đức Giê-su Con Cha, Cha đã ban cho chúng con một gia tài vô cùng quí giá là được trở nên con của Cha, được sống cuộc sống vĩnh cửu chan chứa niềm vui. Xin cho chúng con luôn ý thức ơn huệ cao cả này và luôn biết ca ngợi tình yêu bao la Cha đã dành cho chúng con.
Cách xử sự của Tô-ma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp: PS2-9
Cách xử sự của Tô-ma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì cân, đo, đong, đếm... được. Còn những gì người ta không thấy, bị xem như là không có. Khi tôi hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời thật đơn giản: "Có thấy đâu mà tin !"
Thế nhưng, có nhiều điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học (bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ... là những thực tại vô hình, không màu sắc, không trọng lượng, không khối lượng) ... nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có.
Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như "ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung".
Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận thấy. Nhà văn Saint-Exupéry đã khám phá ra điều nầy, ông viết: "L'essentiel est invisible pour les yeux" (Thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được). Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý...
Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi. Nhờ con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy vi trùng và những siêu vi cực nhỏ... Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh sáng... Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát... Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.
Trong Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là 'huệ nhãn', giúp người ta thấy được những thực tại tâm linh siêu hình. Đối với Đức Giê-su, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ "Con Mắt Đức Tin", nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả ngục...
Tông đồ Tô-ma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay... mới là điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo anh: "Nầy Tô-ma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi", Tô-ma cho là chuyện đùa.
Cho dù Tô-ma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giê-su hiện về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn... thì anh mới tin ! Chúa Giê-su không hài lòng với quan điểm đó. Ngài nói: "Tô-ma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin."
Như thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng con mắt thứ ba, "Con Mắt Đức Tin" để nhận ra Chúa.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì đó là con mắt tối cần giúp thấy được những thực tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ. Chúa luôn khiển trách các môn đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa buồn phiền vì dân chúng thiếu lòng tin. Chúa khiển trách Tô-ma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai mở cho chúng con con mắt thứ ba, con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận biết Đức Giê-su là Đấng cứu độ nhân loại và nhận biết Thánh Thần Chúa là Đấng thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người là anh em thật của chúng con trong Chúa Ki-tô. Amen.
Trong suốt tuần Bát Nhật , từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc: PS2-10 FB Kiệt
Trong suốt tuần Bát Nhật , từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: "Bình an cho các con". Người còn thổi hơi vào các ông và nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự , ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
Chúa nhật thứ 2 Phục sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục khám phá thực tại mầu nhiệm: PS2-11
Chúa nhật thứ 2 Phục sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục khám phá thực tại mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu qua lăng kính của một môn đệ vốn được mệnh danh là “ông tổ thực nghiệm” - Tôma Đyđymô, để xác tín niềm tin vào Chúa Phục sinh cách mạnh mẽ; đồng thời tuyên xưng niềm tin đó cho muôn người.
Tôma “sinh đôi” hay còn gọi là Đyđimô, người làng Galilê, một trong số 12 môn đệ của Chúa Giêsu. Tin mừng nói rất ít về người môn đệ này. Tôma trong Tin mừng Gioan chỉ xuất hiện vỏn vẹn bốn lần, nhưng có đến ba lần ông xuất hiện trong những trường hợp rất đặc biệt, để lại những dấu ấn khó phai mờ.
Lần thứ nhất khi Chúa Giêsu muốn lên đường tiến về Giuđê, về làng Bêtania thăm lại người bạn Ladarô “đang yên giấc” của Người. Trong khi các môn đệ can ngăn vì cho rằng điều đó hết sức nguy hiểm bởi người Dothái đang tìm cách trừ khử Chúa, thì Tôma dỏng dạc tuyên bố: “Chúng ta cùng đi (lên Giuđê) để cùng chết với Thầy” (Ga 11, 16b). Rõ ràng Tôma là con người rất nhiệt thành, tận tuỵ và dám hy sinh. Tính cách của ông so với các môn đệ kia là rất riêng, rất đặc trưng, nó chứng tỏ ông là con người dám nghĩ, dám nói và dám làm trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Lần thứ hai trong diễn từ Biệt ly của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ đừng xao xuyến và lo lắng vì sự ra đi của Người. Bởi việc Người ra đi là có lợi cho các ông. Người đi để dọn chỗ cho các ông. Các ông vốn không hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì, giờ lại nghe Người “bồi” thêm một câu nữa: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”, làm các ông rối tung cả lên, chả hiểu gì thêm được nữa. Trong lúc các môn đệ vừa buồn phiền vừa chẳng hiểu Thầy nói gì, Tôma lại lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 5). Câu hỏi của Tôma là nguyên nhân dẫn đến câu trả lời bất hủ của Chúa Giêsu, tóm trọn đạo lý của Thầy: “Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.
Lần thứ ba là câu chuyện sau khi Chúa sống lại. Lần hiện ra đầu tiên, Tôma vắng mặt. Tin mừng không nói lý do nhưng chúng ta có thể hiểu tâm trạng của Tôma cũng như của hầu hết các môn đệ trước biến cố xảy đến cho Thầy. Như hai môn đệ Emmau, chắc hẳn Tôma cũng buồn phiền, lo lắng, thậm chí chạy trốn nữa, nhưng ông không thể rời xa cộng đoàn thân yêu của mình. Chính vì thế, ông đã quay về, ở lại để rồi chứng kiến việc Chúa Phục sinh hiện ra cho riêng cá nhân ông. Nghe các môn đệ thuật lại câu chuyện Thầy sống lại, Tôma thấy có điều gì đó không ổn. Không ổn là bởi vì Tôma cho rằng các môn đệ vì quá thương nhớ Thầy, tâm trí căng thẳng nên sinh ra những tưởng tượng chứ thực tế làm gì có. Theo ông việc này chớ vội vàng, cần phải kiểm nghiệm rõ ràng. Vì thế, ông dỏng dạc tuyên bố chính kiến của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Các môn đệ khác thì im lặng, đuối lý, còn Tôma thì ra sức chờ đợi và hy vọng…
“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúa Phục sinh hiện đến, đáp ứng những đòi hỏi, những lý luận mang tính thực nghiệm của Tôma. Chúng ta thấy phản ứng tức thời của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng như để chuộc lại lỗi lầm vì đã không tin vào điều các môn đệ truyền lại: “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma là nguồn cảm hứng được vang vọng trong kinh Tin kính của cộng đoàn Kytô tiên khởi và lưu truyền mãi đến muôn đời. Đây cũng là lời tuyên xưng của một con người tận mắt chứng kiến Đấng từ cõi chết sống lại để rồi trọn đời, Tôma đã sống và đã chết với lời tuyên xưng ấy.
Niềm tin vào Chúa Kytô Phục sinh không phải là một niềm tin ảo tưởng, mụ mẫm, rẽ tiền mà là niềm tin được chính Chúa Phục sinh hiện ra nhiều lần cho các môn đệ và đặt biệt, được chính Tôma “kiểm chứng” bằng phương pháp thực nghiệm rõ ràng. Chính vì thế, chúng ta- những người thừa kế di sản Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Chúa Phục sinh do các môn đệ truyền lại, nguyện sẽ không ngừng sống, loan báo và làm chứng niềm tin đó cho nhân loại.
Bài Phúc âm tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra giữa các tông đồ khi họ đang tụ họp trong: PS2-12 oFB
Bài Phúc âm tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra giữa các tông đồ khi họ đang tụ họp trong phòng đóng kín. Tất cả đều sửng sốt và vui mừng. Họ không thể ngờ được một sự lạ phi thường như thế: Chúa Kitô đã sống lại. Họ đã tận mắt trông thấy Ngài. Không phải chỉ một người, nhưng là tất cả những người có mặt trong phòng ngày hôm ấy đều thấy Ngài. Ngài đã đưa tay và cạnh sườn của Ngài cho họ coi. Họ đã nghe thấy tiếng nói của Ngài. Họ đã thấy Ngài ăn uống và nói chuyện với họ. Ngài không phải là ma nhưng là Đấng Cứu Thế Phục Sinh. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Họ đã thấy Ngài và họ đã tin.
Gặp Chúa Kitô Phục Sinh
Tôma vì vắng mặt nên đã không nhận được lời chúc bình an, sự vui mừng và niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Khi ông trở về và vẫn còn tâm trạng hoang mang, lo sợ và nghi nan thì được các môn đệ khác báo tin vui: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa." Tôma đã không tin vào lời của họ. Không tin như thế không phải chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ khác vẫn chưa có những dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin.
Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng tin vào lời nói của những người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Chúa Kitô lâm nạn, không một ai trong họ dám lên tiếng bênh vực cho Ngài. Ai cũng sợ bị vạ lây nên tất cả đã lánh mặt hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không biết Đức Kitô là ai. Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết một cái chết đau thương và công khai trên thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người yếu hèn nhát đảm đó? Trong khi còn đang nghi nan thì Chúa Giêsu hiện đến và tỏ cho Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Vừa trông thấy Chúa, Tôma đã kêu lên, "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!"
Các tông đồ và Tôma đã tin vì họ đã gặp thấy Chúa Kitô Phục Sinh. Họ đã nhìn thấy Ngài và thấy những vết thương trên thân thể của Ngài. Nhưng nếu đức tin chỉ xảy ra qua việc đích thân đối diện với Chúa Kitô Phục Sinh, được tường tận mắt thấy, tai nghe như các tông đồ, thì có lẽ không biết cho đến bao giờ chúng ta mới là những người có đức tin. Tuy nhiên, việc Tôma tin hay không tin vào lời tường thuật của các tông đồ, không có ảnh hưởng gì đến sự thật của việc Chúa Giêsu sống lại. Tin hay không tin thì Ngài cũng đã sống lại. Do đó Chúa Kitô đã nói với Tôma, "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin." Giống như các tín hữu của những thế kỷ trước đây, chúng ta là những người đã không thấy mà tin.
Bài đọc thứ nhất trong sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay kể lại cho chúng ta về tinh thần tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh của cộng đoàn Giáo Hội thuở ban đầu:
- Họ đã bền bỉ tham dự buổi giáo lý của các Tông Đồ. - Họ sống hiệp thông trong tình huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện. - Các tông đồ làm được những việc phi thường. - Họ để mọi sự làm của chung. - Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng.
Chính vì tinh thần hăng say trong cầu nguyện, ca tụng Thiên Chúa và sống hiệp nhất với nhau như thế mà Giáo Hội đã lớn mạnh. Số người tin càng ngày càng gia tăng vì người ta đã nhìn thấy những việc phi thường các tông đồ và các Kitô hữu thuở ban đầu làm được.
Dấu Chứng Củng Cố Đức Tin
Chúng ta đã không được nhìn thấy những vết đinh và vết thương trên thân thể của Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng đức tin của chúng ta ngày nay cũng được củng cố mỗi khi chúng ta nhìn thấy những dấu đinh và những vết thương của Chúa Giêsu nơi các Kitô hữu khác trong Giáo Hội. Nhiều thanh niên nam nữ đã hăng say dấn thân trong đời sống tu trì và làm tông đồ vì họ đã nhìn thấy những dấu đinh, những vòng gai và những giòng máu hy sinh của các thánh tử đạo và nơi những nhà truyền giáo vì danh Chúa Kitô. Vì niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà nhiều cặp vợ chồng đang cố gắng sống trung tín với Chúa và trung thành với nhau trong tinh thần yêu thương của bí tích hôn phối cho dù phải đối diện với nhiều cám dỗ và thử thách của xã hội ngày nay. Sự dấn thân hy sinh phục vụ của nhiều vị thánh, nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân khắp nơi trên thế giới ở mọi thời đại trong lịsh sử Giáo Hội, tất cả đã là những dấu chứng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu, là người Công giáo tin vào Chúa Kitô Phụs Sinh, thì chúng ta cũng là những sứ giả được Chúa Kitô sai đi làm nhân chứng cho Ngài. Người ta sẽ nói với chúng ta, "Làm ơn cho tôi xem tay của bạn! Làm ơn cho tôi xem chân của bạn! Làm ơn cho tôi xem cạnh sườn của bạn! Nếu tôi không thấy những vết thương, những vết sẹo giống như của Chúa Kitô: yêu thương người nghèo, che chở người yếu thế, bênh đỡ người có tội, yêu thích điều công chính, làm những điều như Chúa Kitô đã làm, sống như Chúa Kitô đã sống; chết cho tha nhân như Chúa Kitô đã chết cho nhân loại, thì tôi không tin!" Các tông đồ và các Kitô hữu của Giáo hội thuở ban đầu đã làm được những việc phi thường và do đó nhiều người đã tin vào Chúa Kitô. Ngày nay chúng ta làm được những việc phi thường gì để người khác có thể nhận ra Chúa Kitô và đặt niềm tin vào Ngài?
MộtCâuTruyện
Một người đi xa vượt biển băng rừng để tìm gặp một vị đạo sĩ nổi tiếng có nhiều môn sinh. Anh tìm đến để hy vọng cũng được theo làm môn sinh. Khi đến nơi người ấy hỏi một môn đệ của vị đạo sĩ:
- "Thầy của anh đã làm được những phép lạ gì ở xứ nầy?"
Người môn sinh đó trả lời, "Nhiều phép lạ lắm. Hết phép lạ này đến phép lạ khác. Ở xứ anh, người ta quan niệm phép lạ xảy ra khi Thiên Chúa thực hiện những điều người ta mong muốn. Còn ở xứ này, chúng tôi quan niệm phép lạ là khi một người dám thi hành những điều Thiên Chúa muốn."
Là những Kitô hữu Công giáo, chúng ta không phải là những người ngồi đó hy vọng chờ để được chứng kiến thêm phép lạ Chúa làm hầu cho đức tin chúng ta được củng cố. Nhưng chúng ta cần phải là những người dấn thân ra đi làm phép lạ trong đời sống của chúng ta, trong gia đình chúng ta, và trong xứ đạo của chúng ta hầu cho những người khác có thể nhận ra Chúa Kitô phục sinh. Những phép lạ và những điều phi thường chúng ta có thể làm là can đảm sống và thi hành những điều Thiên Chúa muốn. Và giống như các tông đồ và các tín hữu thuở ban đầu, sống hiệp thông đoàn kết với nhau trong tinh thần cầu nguyện, bẻ bánh, ca khen Thiên Chúa, chia sẻ những gì mình có với người nghèo. Sống như thế tức là chúng ta đang làm được những việc phi thường. Và cuộc đời của chúng ta, những bàn tay, đôi chân của chúng ta sẽ mang những dấu đinh hy sinh vì tình yêu tha nhân giống như Chúa Kitô. Và như thế chúng ta sẽ trở nên những nhân chứng đáng tin cậy.
Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô làm cho Tôma thất vọng. Đức tin của ngài đã suy yếu đến độ: PS2-13
Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô làm cho Tôma thất vọng. Đức tin của ngài đã suy yếu đến độ mặc dầu với nhiều chứng tích, mọi người đã tin Chúa sống lại, nhưng ngài vẫn đòi cho bằng được những bằng chứng cụ thể rồi mới tin: "Nếu tôi không thấy các dấu tích nơi tay Ngài, và cho tay tôi vào lỗ đinh cùng cho bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin!"
Đã có bằng chứng cụ thể như Tôma đòi thì cần gì phải tin. Bởi vậy tám ngày sau Chúa lại hiện ra với các tông đồ, mục đích để sửa lại lòng tin yếu kém của Tôma: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin."
Tuy nhiên, ta đừng quên rằng biến cố Phục sinh là một biết cố quá phi thường vượt trên sức tưởng tượng của loài người. Không riêng gì Tôma, các tông đồ khác cũng đã không tin khi vừa nghe Chúa sống lại. Chúa biết vậy nên đã đến cứu đức tin của Tôma, và cũng nhờ đó các thế hệ sau nầy có được một công thức tuyên xưng đức tin thật đầy đủ phát ra từ đáy lòng thống hối của thánh Tôma, làm mẫu mực cho chúng ta: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi."
Trong lời nói đột xuất trên kia, thánh Tôma đã gọi Đức Kitô là Chúa, điều đó bao hàm rằng Chúa Kitô có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài có quyền lực để tự phục sinh từ cõi chết. Tôma đã xưng tụng Chúa Kitô là Thiên Chúa của ngài vì tin tưởng lòng Chúa bao dung, sẵn sàng tha thứ cho sự chậm tin của ngài.
Đó là một công thức đức tin đầy đủ và gọn gàng mà Phúc Âm ghi lại từ cửa miệng của một kẻ chậm tin như Tôma.
Và cũng để sửa lại sự chậm tin của mình, sau khi Chúa về trời, tông đồ Tôma đã mạnh mẽ tận hiến cả đời mình cho Tin Mừng Phục Sinh, ngài đã chết để làm chứng cho chân lý ngàn đời đó.
Đức Tin là một trong ba nhân đức Đối Thần, giúp ta chấp nhận mọi điều Chúa mặc khải về những mầu nhiệm vượt quá sự kiểm soát của trí khôn loài người, và thánh Phaolô đã cho ta một định nghĩa thực hành của Đức Tin như sau: " Tin là chiếm hữu nhiều điều còn trong hy vọng, là phương thức nhận ra các thực tại người ta không thấy. Vì nhờ đó, tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám cho." (Dt 11,1-2)
Mỗi ngày Chúa Nhật, đi tham dự thánh lễ là chúng ta có cơ hội diễn lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Ta phải sống niềm tin đó, đem Chúa Phục sinh vào đời, nghĩa là đem niềm tin cho những ai đã mất lòng tin, đem sự vui tươi, niềm hy vọng sống lại cho những người ưu sầu vì tang tóc. Và chính chúng ta hãy thể hiện trên nét mặt và môi miệng niềm vui đó.
Người cứng tin như Tô-ma có gì hay hơn kẻ tin dễ dàng không? 2. Người thời đại có dễ tin: PS2-14
1. Người cứng tin như Tô-ma có gì hay hơn kẻ tin dễ dàng không?
2. Người thời đại có dễ tin như những người thời đại trước không? Người thời đại sau thì sao? Tại sao lại như vậy?
3. Có cần phải thay đổi phong cách rao giảng Tin Mừng cho những thế hệ con cháu chúng ta không? Tại sao? Một cách thực tế phải thay đổi thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tô-ma là một mẫu người có tính thực nghiệm.
Khi chưa đích thực gặp lại thân xác đã sống lại của Đức Giê-su, thì ngoài Tô-ma ra, các tông đồ khác dường như không cảm thấy có vấn đề gì trong việc tin Ngài đã sống lại. Các ông đã tỏ ra tương đối dễ tin. Nhưng riêng Tô-ma, ông không tin dễ dàng như thế, vì từ xưa đến nay, ông chưa hề nghe nói có một ai tự mình sống lại từ cõi chết bao giờ. Cứ bình thường mà xét, phải nói rằng Tô-ma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông đồ khác.
Đối với người như Tô-ma, Đức Giê-su đã không phiền trách gì về sự cứng lòng tin của ông. Ngài chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng để bổ túc cho sự cứng tin hợp lý ấy: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Và Đức Giê-su đã cho phép Tô-ma được xỏ tay vào lỗ đinh ở tay và lỗ đòng đâm ở cạnh sườn Ngài. Nhưng có lẽ chính nhờ như thế mà Tô-ma sẽ tin chắc vào sự sống lại của Ngài hơn ai hết. Người cứng tin mà đã tin thì sẽ tin rất vững. Còn kẻ quá dễ tin thì cũng sẽ dễ dàng mất niềm tin, hoặc cũng sẽ dễ dàng tin những điều khác dù chưa đủ nền tảng để tin.
2. Con người thời nay và nhất là những thế hệ sau sẽ càng ngày càng có tính thực nghiệm giống như Tô-ma.
Ngày nay, con người đã bước vào kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, nên con người chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm rất nhiều. Tinh thần khoa học thực nghiệm chính là tinh thần của Descartes (1596-1650): "Chỉ tin sau khi đã chứng minh". Và tinh thần ấy được thể hiện thành chủ trương "nghi ngờ có phương pháp và phổ quát" (doute méthodique et universel) của ông. Nghi ngờ để tìm tòi hầu đi đến kết luận chắc chắn. Tinh thần khoa học thực nghiệm ấy đòi hỏi con người trước khi đi đến một kết luận, cần phải trải qua ba giai đoạn: nhận xét, đưa ra giả thuyết, và thí nghiệm kiểm chứng như đòi hỏi của Claude Bernard (1813-1873).
Tinh thần ấy chính là tinh thần của Tô-ma, chính vì thế, các nhà khoa học Công giáo đã nhận thánh Tô-ma làm bổn mạng của các nhà khoa học. Riêng bản thân tôi, người viết bài này, cũng rất thích sự cứng tin của Tô-ma, và coi đó như một đức tính rất cần thiết để sự phán đoán và lời nói của mình có giá trị, đáng tin. Sự đáng tin không chỉ đòi hỏi đức tính chân thật, mà còn đòi hỏi sự phán đoán chính xác và chắc chắn. Một người hết sức thật thà không bao giờ muốn lừa dối ai, nhưng lại dễ tin và hay bị lường gạt, thì phán đoán và lời nói của người ấy không còn đáng tin nữa. Thiết tưởng những người rao giảng chân lý, ngoài đức tính chân thật, cần phải có sự chững chạc trong cách phán đoán để trở nên đáng tin trước mặt mọi người.
3. Đối tượng phúc âm hóa trong tương lai là những thế hệ có đầu óc khoa học thực nghiệm như Tô-ma.
Những nhà truyền giáo hiện nay tại Việt Nam thường thuộc lứa tuổi giao thời giữa hai thời đại: thời khoa học chưa ảnh hưởng mạnh và thời khoa học ảnh hưởng rất mạnh trên lề lối suy nghĩ của con người. Thời trước, người ta dễ tin những ai có uy tín (như các giám mục, linh mục, tu sĩ, hoặc ông bà cha mẹ, cô dì chú bác). Trẻ con dễ tin vào những điều người lớn nói, không đặt vấn đề điều đó đáng tin tới mức nào. Nhưng thời nay và nhất là những thế hệ mai sau, người ta không dễ tin như thế nữa. Họ thường đòi hỏi "nói có sách, mách có chứng". Muốn họ tin thì phải có bằng chứng. Nếu không chứng minh bằng sự kiện thì ít nhất phải chứng minh được sự khả tín của điều mình nói. Ngoài ra, lập luận phải vững chắc, trình bày rõ ràng. Vì thế, việc rao giảng Tin Mừng hay sứ điệp Ki-tô giáo không thể theo phương cách cũ mang nặng tính giáo điều được.
Ngày xưa, tại Việt Nam, trình độ văn hóa giữa linh mục và giáo dân có sự chênh lệch rất cao. Ngày nay, sự chênh lệch ấy giảm đi rất nhiều, thậm chí không còn nữa. Rất nhiều giáo dân có trình độ văn hóa cao hơn những linh mục bình thường. Tuy nhiên các linh mục vẫn thường hơn giáo dân trong những kiến thức về thần học, giáo lý, v.v… vì người giáo dân hiện nay không được quan tâm đào tạo về mặt này, hoặc không có điều kiện để quan tâm. Vì thế, các linh mục thường đảm trách việc loan báo và rao giảng Tin Mừng cho giáo dân và người ngoại. Nhưng vì trình độ văn hóa của người bình thường ngày càng cao hơn, nên việc rao giảng Tin Mừng không còn dễ dàng như ngày xưa. Điều ấy đòi hỏi những người rao giảng Tin Mừng cũng phải có một tinh thần khoa học thực nghiệm trong cách rao giảng, cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, những lý luận chặt chẽ, cho dù đức tin không phải đến từ những thứ ấy. Nhưng nếu không chú trọng đến những thứ ấy, lời rao giảng sẽ bị từ chối ngay từ đầu.
4. Hội nhập văn hóa theo chiều dọc.
Tại châu Á, Giáo Hội đã thành công rất khiêm nhường trong việc truyền giáo, không thành công rực rỡ như ở châu Âu. Một phần khá lớn là do thiếu hội nhập văn hóa, vì trước đây, có sự khác biệt về văn hóa giữa dân tộc truyền giáo với dân tộc được truyền giáo. Ngày nay, với việc toàn cầu hóa, sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc bị giảm thiểu rất nhiều, nên việc hội nhập văn hóa theo chiều ngang không còn cần thiết và quan trọng như xưa. Trái lại, sự khác biệt về văn hóa giữa thế hệ trước với thế hệ sau ngày càng gia tăng. Lề lối suy nghĩ của các thế hệ sau càng ngày càng thấm nhuần tinh thần khoa học thực nghiệm hơn. Vì thế, nếu không có sự thích ứng khôn ngoan của thế hệ phúc âm hóa (thế hệ trước) với thế hệ được phúc âm hóa (thế hệ sau) trong việc diễn tả sứ điệp, chắc chắn việc phúc âm hóa sẽ thất bại. Do đó, hiện nay việc hội nhập văn hóa theo chiều dọc cần được Giáo Hội quan tâm và thực hiện nhiều hơn là hội nhập văn hóa theo chiều ngang.
5. Rao giảng bằng việc làm đi đôi với rao giảng bằng lời nói
Tinh thần khoa học thực nghiệm của con người thời đại đòi hỏi những dấu chứng cụ thể mới tin được. Do đó, những xác quyết trong rao giảng cần được chứng tỏ bằng thực tế đời sống. Thật vậy, ai mà tin được cái Tin mà chúng ta rao giảng là Tin Mừng khi chúng ta rao giảng nó với bộ mặt buồn so, ảo não? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Giải Phóng khi mà người rao giảng nó vẫn sẵn sàng khom lưng làm nô lệ cho người, cho vật, cho sự này sự khác, hoặc cho chính bản thân? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Cứu Độ khi mà nó không làm cho người người rao giảng nó hoặc theo nó sống tốt hơn, có tình có nghĩa hơn, và hạnh phúc hơn những người bình thường khác?
Thiết tưởng đã tới lúc chúng ta - những ai còn tha thiết với tiền đồ của Ki-tô giáo - cần đặt lại vấn đề sống đạo một cách nghiêm túc hơn và hãy thành thật với chính lòng mình. Nếu ta cảm thấy Ki-tô giáo trong thực tế đã không đem lại một thứ hạnh phúc tự tại cho chúng ta, không tạo được một động lực đủ mạnh để thúc đẩy ta sống tốt đẹp hơn người ngoài, mà ta vẫn cứ mạnh miệng rao giảng như là một tôn giáo tốt nhất, hữu hiệu nhất, thì việc rao giảng của chúng ta đúng là một sự lừa dối có hệ thống. Nếu như thế chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về sự lừa dối ấy. Chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng trong thực tế, đức tin ấy đã chết hay mất đi từ lâu mà ta tưởng là ta vẫn còn đức tin. Vì đức tin không phải là một chấp nhận xuông, hay chỉ là hành động tuyên xưng ngoài miệng, mà là một cái gì tự nhiên ảnh hưởng rất sâu xa vào đời sống, khiến ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động nên tốt đẹp hơn, và đời sống ta hạnh phúc hơn rất nhiều. Nếu không được như thế, "đức tin" mà ta tưởng rằng ta có, không phải là đức tin đích thực.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, rất nhiều khi con chê trách Tô-ma là quá cứng tin, và tự hào mình dễ tin hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, đức tin của con chẳng ảnh hưởng gì trên cuộc sống con bao nhiêu, nó chẳng làm con hạnh phúc hơn người không đức tin, chẳng làm con sống tốt đẹp và yêu thương hơn họ. Xin cho con nhận ra đức tin ấy chưa phải là đức tin đích thật. Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thực có khả năng thay đổi con người của con, làm con nên thật sự tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi suy nghĩ trong lúc này đó là: PS2-15
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao thân xác phục sinh của Đức Kitô lại còn mang những thương tích, những dấu ấn của đau khổ ?
Tôi cứ nghĩ rằng: sau khi sống lại, thân xác vinh quang của Đức Kitô hẳn không còn vết tích nào của những cực hình phải chịu.
Bởi vì, sau cuộc thương khó là sự sống lại, sau đau khổ là vinh quang, sau ngày thứ sáu tuần thánh là sáng Chúa nhật phục sinh. Sự tương phản mãnh liệt đến độ chúng ta tưởng như có một bước nhảy vọt, cắt đứt và chia lìa giữa hai tình trạng kể trên, như thể sự phục sinh và vinh quang là phần thưởng cho những đau khổ Ngài đã phải chịu trong suốt cuộc thương khó, để rồi chúng ta sẽ dần dần quên đi những kỷ niệm bi đát ấy.
Trong cuộc sống chúng ta thấy người ta thường tặng thưởng huân chương cho những kẻ can đảm cứu vớt người bị chết đuối hạy gặp phải tai ương hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng với những hy sinh mà kẻ ấy đã phải gánh chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui ước do xã hội đặt ra. Sự phục sinh của Đức Kitô thì khác. Đó không phải chỉ là một dấu chứng của chiến thắng, của phần thưởng mà thôi, nhưng còn là một diễn tiến liên tục nơi thân xác Đức Kitô. Chính Ngài đã cắt nghĩa:
- Như hạt lúa mì rơi xuống đất, có mục nát đi thì mới trổ sinh nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được gieo trồng và bông lúa chín vàng dưới ắng nắng mặt trời có một sự liên tục trong phát triển. Bông lúa chỉ là kết quả của hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng nói:
- Như người đàn bà lo âu khi giờ của mình đã đến, nhưng sau đó thì vui mừng vì đã sinh được một người cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết quả của việc thai nghén. Giữa hai sự kiện này luôn có một sự liên tục trong phát triển.
Cũng thế, Đức Kitô đã bước vào sự chết và sống lại. Chúa nhật phục sinh không phải chỉ đến sau ngày thứ sáu tuần thánh, mà còn là một sự tiếp nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Tôma có thể nhìn thấy những dấu ấn của đau khổ, của cực hình trên thân xác sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát từ thập giá và những dấu đanh đã không làm xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm cho thân xác phục sinh của Ngài.
Cũng giống như trên khuôn mặt nhăn nheo của một cụ già. Những nếp nhăn ấy chính là kết quả những năm tháng dài của cuộc đời với những khổ đau và tang tóc, những hy sinh và gian khổ, những yêu thương và phục vụ. Những nếp nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh nghiệm, của già dặn và chín chắn. Và rồi cặp mắt của cụ già sáng lên niềm hy vọng được gặp lại chính cái nhìn của Thiên Chúa.
Để kết luận, chúng ta hãy suy gẫm lời Chúa đã phán để hiểu được toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con người phải chịu đau khổ, và phải chết đi trước khi được bước vào vinh quang.
Bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ: PS2-16
Bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ tám sau khi Chúa sống lại. Vì thế, hôm nay là ngày thứ tám sau lễ Phục sinh, tức là ngày cuối cùng của tuần bát nhật mừng đại lễ Phục sinh, chúng ta nghe đọc lại câu chuyện này. Thực vậy, vào buổi chiều chính ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện đến với các môn đệ đang tụ họp nhau trong căn phòng ăn bữa tiệc ly trước đó ba ngày, Chúa cho họ xem các thương tích ở tay và cạnh sườn Ngài để chứng thực Ngài đã sống lại. Nhưng hôm ấy không có mặt ông Tôma. Vì thế, khi nghe các bạn kể lại, ông không tin và khi nào tự tay kiểm chứng mới tin. Tám ngày sau, tức là Chúa nhật liền sau đó, Chúa Kitô hiện đến lần nữa và gọi ông Tôma ra kiểm chứng tay và cạnh sườn Ngài. Chúa đáp lại tất cả lời thách đố của Tôma. Khi ấy, ông cung kính và run sợ nói lên lời tuyên xưng lòng tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Chúa âu yếm nhìn ông và nói: “Hỡi Tôma, vì đã thấy Thầy, nên anh tin”. Rồi Chúa đưa mắt nhìn tất cả và nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Qua câu chuyện Tin Mừng kể lại, có người coi ông Tôma như là “bổn mạng” của những kẻ hoài nghi, cứng lòng, hoặc như là “ông tổ” của phái duy lý, duy thực nghiệm, chỉ tin những gì nhìn thấy được, sờ mó được. Nói thế quả là quá đáng và bất công. Nhưng dầu sao trong thái độ của ông Tôma, chúng ta cũng thấy phản ảnh thái độ hoài nghi và kém lòng tin của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta dễ tin lời người ta nói, dễ tin quảng cáo, tuyên truyền, nhưng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta lại dễ hoài nghi, yêu sách lý lẽ minh bạch và đòi bằng chứng rõ ràng. Cho nên đừng vội trách ông Tôma, vả lại, thái độ toàn diện của ông rất đáng cho chúng ta khâm phục. Quả thực, lúc ban đầu, ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin. Chúa nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Nhưng trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh thánh nổi tiếng: đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt. Cho nên đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự ông Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để tới thực tại tiềm ẩn. Mắt ông chỉ nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương vật chất hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Nói điều ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo bằng chứng của các tông đồ và lời giảng dạy của Giáo Hội. Đức tin ở đây không phải là tin theo một học thuyết, một chân lý viễn vông, nhưng là tin vào một nhân vật lịch sử, sống động: Chúa Kitô chết và Phục sinh. Quả thực, sự hy sinh lớn lao của Chúa Kitô trên núi Sọ được Thiên Chúa đáp ứng, đó là Chúa Kitô đã sống lại.
Nếu Chúa không sống lại thì tất cả cuộc khổ nạn của Ngài chỉ là một đường hầm mù mịt, chẳng dẫn đến đâu hết. Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh là hai mặt của chung một thực tại. Giả sử thiếu một trong hai biến cố: Chúa chết, Chúa sống lại, thì sự việc thành vô nghĩa. Tất cả những điều trên đây làm cho chúng ta phấn khởi và tăng thêm niềm xác tín vào mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, thái độ cứng lòng tin của ông Tôma cũng là điều có lợi cho chúng ta. Việc ông không tin lúc đầu là một bảo đảm làm cho niềm tin của chúng ta thêm vững chắc, vì niềm tin Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời nói suông, nhưng được xây dựng trên đức tin của một người thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và sờ tới tận tay vào thân xác sống lại của Chúa. Do đó, cùng với thánh Gơrêgôriô, chúng ta có thể kết luận: “Ngón tay đa nghi của ông Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới; bàn tay đa nghi của ông Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh”.
Thị kiến của thánh Gioan trong bài đọc 2 hôm nay trình bày tổng quát Kitô học với toàn thể: PS2-17
Thị kiến của thánh Gioan trong bài đọc 2 hôm nay trình bày tổng quát Kitô học với toàn thể cuốn sách: Tôi thấy một Đấng giống như Con Người. Qua Giáo Hội, Gioan đã nhìn nhận ra Đức Kitô, nhưng hình ảnh vẫn chưa rõ ràng. Ở đây Gioan dùng một hình ảnh của Cựu ước trích từ sách Đaniel chương 7 nói về Con Người. Kiểu nói “giống như” nói lên tính cách huyền nhiệm và mỹ diệu của Chúa Kitô giống hình ảnh của Con Người. Sau hình ảnh tổng quát về Con Người, Gioan mô tả thêm cách đặc biệt về Con Người và được đọc nơi bài đọc 2. Chúng ta có thể nói qua ở đây để thấy đầy đủ quyền hành của Đức Kitô mà Gioan thấy trong thị kiến. Ngài mặc áo choàng trắng, chỉ vương quyền tư tế vương giả của Chúa Kitô. Đứng trước thị kiến Con Người, Gioan cũng như các tiên tri khác và các tông đồ đều lo sợ, vừa trông thấy Ngài tôi đã ngã xuống như chết dưới chân Ngài.
Thế giới thần thiêng không thể tỏ hiện cho con người mà không gây nên nơi họ một tâm tình lo sợ không thôi, nhưng đồng thời tin cậy. Chỉ khi nào được khích lệ trấn an người ta mới yên lòng. Ngài đặt tay lên tôi và nói đừng sợ, có Chúa nâng đỡ khích lệ Gioan.
Sau cùng khi mạc khải cho Môisê, Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Có”. Câu nói này các thánh có những suy tư là: là đầu, là sau hết, là Alpha và Omêga, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng có đời đời. Các tước hiệu về Thiên Chúa đã được Giáo Hội sơ khai tin tưởng đặt nơi Chúa Kitô. Ta là Đấng đã chết, nhưng nay Ta vẫn sống đến muôn đời.
Sống là đặc quyền của Thiên Chúa. Người ta vẫn đặt điều này làm chủ chốt cho các vấn đề quan trọng. Ba đặc tính “là đầu, là sau hết, là sống”. Nơi Cựu ước hay áp dụng cho Chúa Kitô, nơi Giáo Hội sơ khai không chỉ suy tôn Chúa Kitô là Thiên Chúa nhưng còn nhận nơi Ngài là vị đã sống, chết và sống lại do quyền năng Thiên Chúa ban cho Ngài.
Trong các phần sau của sách Khải huyền, nguồn tư tưởng này được diễn tả qua hình ảnh chiên được sát tế và được tôn vinh ngự trên ngai vàng để thống trị mọi loài. Tư tưởng này dựa vào một sự kiện lịch sử trong bản văn Hy lạp, tác giả viết: Ta đã bỏ nên người chết thật rồi, nhưng này đây Ta vẫn sống và còn sống cho đến muôn đời. Uy quyền của Đức Kitô còn ảnh hưởng đến sự chết. Ta giữ chìa khóa sự chết và địa ngục.
Ngày nay sự chết không còn quyền gì với Ngài. Chúa Kitô đã sống lại và cứu vớt những kẻ chết và tin vào Ngài. Ngài không cần để cho thế giới của địa ngục hoành hành tác hại nữa. Qua sự việc sống lại của Chúa Kitô đã thắng vượt tất cả.
Cùng với Chúa Kitô Phục sinh chúng ta phải dám tin Ngài, thông phần chịu mọi đau khổ của cuộc đời trong sự chiến thắng Phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc sống này chính là cuộc sống mà tác giả sách Khải huyền đã sống, đã trải qua. Dưới ánh sáng đức tin, chúng ta cần phải tin vững mạnh vào Chúa Kitô đã chết và đã sống vì chúng ta. Xin Chúa thêm đức tin, niềm cậy trông và sự chịu đựng mãnh liệt cho tất cả chúng ta, để chúng ta vững bước trên con đường tiến về quê hương Thiên Quốc.
2Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải: PS2-18 oFB
Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục sinh hiện ra với nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của những người đã tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.
Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhận lời của anh em khác không ? Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận. Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp Đấng Phục sinh.
Chúng ta không nên trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi vì chính “sự cứng lòng” của ngài lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu của tất cả chúng ta, những kẻ “không thấy” mà được gọi là “tin”, nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.
Đồng thời, “sự cứng lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta đều là những người không thấy mà tin dựa vào lời chứng của các tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm tin của mình.
Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm chứng về việc Phục sinh, ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ thật sự trở thành “đắt giá”, thật sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô hữu.
Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra không chỉ để chứng minh Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào các ông…”
Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.
Đồng thời với việc ban sự sống mới là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Tiếng “như” ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn cội của mệnh lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục sinh và để nối dài hành động của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát thế giới khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức mạnh lớn nhất của nó là sự chết đã bị vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống của mình.
Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không thoát ra được. Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên ? Là những con người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải là những người đi bước trước đem sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại ! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon !
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn “ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh.
Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào: PS2-19 oFB
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.
Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ co rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này có nghĩa là cuộc sống chỉ có một chiều kích mà thôi. Trào lưu này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.
Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú của khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khóa, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.
Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo vệ người đó khỏi phải làm một công việc khó khăn, đó là tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.
Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.
Đức Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù qaung. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe dọa hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.
Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu Phục sinh vẫn còn mang những thương tích của cuộc: PS2-20 FB goá phụ có 3 người con bị giết
Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu Phục sinh vẫn còn mang những thương tích của cuộc thụ nạn. Điều này có ý nghĩa gì? Câu chuyện sau đây có thể cung cấp vài tiêu điểm giúp chúng ta tìm hiểu. Chuyện kể về một góa phụ lao động ở thành phố New York. Trong khoảng thời gian 6 năm, bà đã chứng kiến cảnh 3 đứa con của mình bị bắn chết, đứa nhỏ nhất bị bắn ngay trước cửa nhà bà. Những cảnh ấy đã để lại một vết thương sâu đậm trong lòng bà, và vết thương ấy cứ như sống lại làm bà nhức nhối mỗi lần bà nghe tin có một ai đó bị giết chết. Tuy nhiên bà không để mình bị trói buộc trong nỗi sợ hãi. Trái lại bà tìm cách đến với người khác. Bà đi diễn thuyết khắp nơi và trở thành một nhà hùng biện tranh đấu cho việc kiểm soát vũ khí. Bà lập một hiệp hội gồm những phụ nữ cùng hoàn cảnh với bà. Mỗi khi có một đứa con bị giết chết, bà đến thăm và an ủi cha mẹ chúng. Bà cho biết ban đầu bà ước sao cho những đứa trẻ vô tội ấy đừng sinh ra còn hơn. Nhưng bây giờ thì bà nói: “Hẳn nhiên trong cái chết của chúng có một nỗi buồn phiền, thế nhưng cũng có một niềm vui không thể tin được. Nếu tôi đã không có 3 đứa con bị giết thì tôi đã không là một con người như hôm nay. Chúng giúp tôi mạnh mẽ , chúng giúp tôi sống không ích kỷ”. Khung cửa nhà bà vẫn còn lại những vết đạn đã bắn chết đứa con út của bà. Tuy nhiên bà không cho sửa lại khung cửa ấy. Tại sao ? Bà nói: “Tôi muốn những lỗ đạn ấy còn mãi ở đấy để nhắc cho mọi người nhớ là có người đã bị giết chết ngay chỗ ấy. Nếu sửa lại thì người ta sẽ quên”.
“Khi sửa lại thì người ta sẽ quên”. Có lẽ đó là lý do tại sao Chúa Giêsu Phục sinh vẫn giữ lại những vết thương của cuộc chịu nạn.
Trước hết, những vết thương ấy giúp các môn đệ nhận ra Ngài: Đấng hôm nay chiến thắng sự dữ vẫn là một với Đấng hôm trước đã chịu nạn chịu chết để nhờ đó Thiên Chúa chiến thắng cái chết.
Thứ hai, những vết thương ấy là bằng chứng tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói suông về tình yêu, Ngài đã chịu đau khổ để làm chứng cho tình yêu. Đó là những thương tích mà Người mục tử chịu đựng để bảo vệ đàn chiên yêu quí của mình. Chúa Giêsu không dấu những thương tích. Ngài cho Tôma thấy và mời ông chạm vào. Khi Tôma chạm vào đấy, nỗi hoài nghi của ông tan biến và đức tin của ông sống lại.
Những thương tích thánh thiện của Chúa Giêsu là nguồn an ủi, nguồn can đảm và nguồn hy vọng của chúng ta. Chúng giúp ta chịu đựng đến cùng những thương tích của chúng ta. Chúng bảo ta đừng sống ích kỷ. Nhờ những thương tích của Ngài, chúng ta được chữa lành khỏi chứng bệnh tự thương xót mình và mặc cảm là nạn nhân.
Người ta có khuynh hướng che dấu những thương tích vì nghĩ rằng người khác mà thấy được sự yếu ớt của mình thì sẽ không còn kính trọng mình. Tuy nhiên những kẻ dám cho người khác biết những cuộc chiến đấu của mình thì sẽ là một nguồn an ủi cho người khác.
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ: PS2-21 0
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha:
- Ba ơi ! Cái tháp đó để làm gì vậy ?
Người cha giải thích:
- Con ạ ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng. - Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu !
- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây !
Chiều Phục sinh đầu tiên, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã Phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số. Đó là tần số tình yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin: còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Chúa Giêsu thương mến”.
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy ngôi mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc nhiên”, còn Gioan thì “ông đã thấy và ông đã tin”. Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “Ngày thứ ba, Người sẽ cho chúng ta chổi dậy”, và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm”. Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm Phục sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các tông đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần ; Phêrô đứng chung với mười một tông đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “Chính Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”. Vâng chính sự Phục sinh của Chúa Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chổi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình”.
Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào các ông “Bình an cho: PS2-22
Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào các ông “Bình an cho các con”. Đây là lời chào thông thường của người Do thái “Shalom”. Giáo Hội cũng bắt chước lối chào đó, trong thánh lễ, Chủ tế chào giáo dân “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”, và giáo dân chào lại “Và ở cùng cha”, nghĩa là “Và cũng xin bình an của Chúa hằng ở cùng cha”. Xét ra lời chào này hơi lạ so với những kiểu chào mà chúng ta quen biết, nhưng có ý nghĩa nhiều hơn. Quả thực, bình an là điều quí nhất mà chúng ta cần có và cũng là điều tốt nhất mà chúng ta cầu chúc cho nhau. Nhưng bình an là gì mà quí như vậy ? Và làm thế nào để có được bình an ? Đó là điều mà chúng ta sẽ đưa vào bài Tin Mừng hôm nay để tìm hiểu.
Khi ấy các môn đệ đang sợ: Thầy đã bị bắt và bị giết chết rồi. Rất có thể tới phiên các ông cũng sẽ bị bắt và bị giết như vậy. Cho nên họ sợ, và họ trốn trong nhà đóng kín cửa lại. Rồi Chúa Giêsu hiện đến với họ, trò chuyện với họ, cho họ xem các vết thương, ăn uống với họ, khích lệ họ… Thế là họ không còn sợ nữa. Họ được bình an. Nhưng do đâu mà họ được bình an ? Có phải là vì nguy hiểm đã qua đi rồi chăng ? Thưa không, nguy hiểm vẫn còn đó, kẻ thù vẫn còn vẫn đang tìm cách hãm hại các ông. Nhưng nay họ không sợ nữa là vì họ biết đã có Chúa ở bên cạnh họ. Có Chúa bên cạnh thì mọi nguy hiểm không còn làm họ nao núng nữa. Thực ra họ chưa hoàn toàn bình an đâu. Sau khi Chúa Giêsu biến đi thì họ lại sợ, lại đóng cửa trốn. Có lần họ cũng đánh bạo cùng nhau đi đánh cá. Nhưng mới thấy có một cái bóng đen tiến đến là họ lại sợ, họ tưởng là ma. Và khi biết đó là Chúa thì họ lại hết sợ. Mãi tới khi Chúa Giêsu nói với họ trước khi về trời rằng: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, thì họ mới hết sợ hoàn toàn, họ mới hoàn toàn được bình an. Kể từ đó trở đi, các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng. Người ta bắt, họ cũng không sợ, người ta tra tấn, họ không sợ mà còn vui mừng vì được chịu khổ vì Thầy ; người ta xử tử, họ vẫn bình an vui sướng vì được giống như Thầy.
Như vậy, bình an tức là một sức mạnh, một nơi nương tựa, một nguồn an ủi khiến ta không nao núng sợ sệt dù phải đứng trước bất cứ gian truân nguy hiểm nào. Bình an ấy có được khi ta ý thức có Chúa vẫn ở bên cạnh mình.
Giống như một em bé. Em đang chơi vui vẻ thì trời đổ mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, em hoảng sợ khóc thật lâu. Nhưng mẹ em đã đến, bế em vào lòng, em cuộn mình trong lòng mẹ và ngủ thiếp đi. Sau đó dù mưa vẫn cứ rơi, sấm chớp vẫn cứ ầm ầm, nhưng em vẫn ngủ yên vì em đang ở trong vòng tay che chở của mẹ. Đó là một hình ảnh rất đẹp giúp ta hiểu thế nào là sự bình an.
Phần chúng ta, nếu chúng ta luôn ý thức có Chúa ở bên cạnh mình, và ta luôn nương tựa vào Chúa như em bé nương tựa vào mẹ nó thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.
Có một gia đình nọ, nhà nghèo, lao động thật là vất vả, tính toán làm ăn rất là lo âu. Nhưng chiều về, vợ chồng con cái đều quây quần trước bàn thờ gia đình và cùng đọc kinh tối chung. Họ dâng lên Chúa những lao nhọc trong ngày, họ xin Chúa thứ tha những vấp váp lỗi lầm đã phạm, họ phó dâng cuộc sống cùng tất cả mọi âu lo cho Chúa. Sau đó họ lên giường ngủ. Bình an ! Biết bao gia đình khác cũng lao động vất vả như họ, cũng lo âu toan tính như họ, nhưng các gia đình đó không có được một giấc ngủ bình an. Chỗ khác nhau là một bên có Chúa và biết sống với Chúa, còn một bên thì không.
Hay như một cụ già kia đang hấp hối, cái chết gần kề mà vẫn bình thản sẵn sàng buông tay nhắm mắt ra đi không hề sợ sệt, vì cụ già ấy biết rằng mình ra đi là ra đi trong tay Chúa. Trong khi có biết bao nhiêu người khác đối diện với cái chết mà lòng hoang mang sợ hãi, họ sợ không dám ra đi, vì họ không biết đi về đâu, họ không có Chúa cùng đi với họ.
Kinh nghiệm mà các môn đệ đã trải qua là một bài học quí giá cho chúng ta. Sau khi Chúa Giêsu bị quân thù bắt giết đi, các ông đã sợ hãi trốn kín trong phòng đóng cửa lại, sợ vì cảm thấy cô thế không có Thầy nâng đỡ. Nhiều lần chúng ta gặp cảnh túng thiếu, gian truân, hiểm nguy, chúng ta cũng sợ hãi như thế, chúng ta muốn rút lui trốn tránh, chúng ta muốn ngã lòng, là vì chúng ta không có Chúa ở với mình. Nhưng khi các môn đệ đã biết có Chúa ở bên cạnh họ, cho dù Chúa chỉ hiện diện một cách vô hình sau khi Chúa đã về trời, các ông không còn sợ nữa mà lòng luôn bình an dù phải đối diện với bất cứ hiểm nguy nào. Thì chúng ta cũng thế: Chúa hằng ở bên cạnh chúng ta nếu chúng ta ý thức được điều đó, nếu chúng ta biết tin yêu phó thác vào Chúa và làm việc gì chúng ta cũng nghĩ là có Chúa cùng làm với chúng ta thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an..
Nguyện chúc bình an của Chúa hằng ở cùng chúng ta luôn mãi.
Thật là sai lầm khi tưởng rằng tin là chuyện dễ dàng đối với những kẻ may mắn được thấy: PS2-23
Thật là sai lầm khi tưởng rằng tin là chuyện dễ dàng đối với những kẻ may mắn được thấy Chúa Giêsu hơn là đối với chúng ta ngày nay. Tin Mừng đã cho thấy có nhiều người đã được thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn không tin. Vậy “thấy” không nhất thiết sẽ dẫn tới “tin”. Muốn tin thì phải có một quyết định.
Thực thế, các sách Tin Mừng đã kể rằng ngay cả các tông đồ mà cũng gặp khó khăn trong việc tin. Tôma không phải là người duy nhất đã hồ nghi về việc Chúa Giêsu sống lại, mọi tông đồ khác cũng thế. Tin Mừng thánh Marcô kể rằng khi Chúa Giêsu hiện ra với họ vào buổi chiều ngày Phục sinh thì Ngài đã “trách họ vì sự không tin và cứng lòng bởi họ đã không tin theo lời của những người đã từng thấy Ngài sau khi Ngài sống lại”.
Chúng ta có thể thông cảm với các tông đồ. Việc Chúa Giêsu bị đóng đinh quả là một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt họ. Họ đã đầu tư rất nhiều vào Ngài. Họ đã bỏ nghề nghiệp và bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Rồi bỗng nhiên Ngài bị giết chết. Thực tế về cái chết của Ngài càng rõ ràng bao nhiêu thì họ càng cảm thấy mất mát bấy nhiêu. Giá trị và ý nghĩa của mọi thứ đều bị đe dọa: tình thân với Ngài, niềm tin vào Ngài, và cả cuộc đời của họ nữa. Đang lúc đó thì một chuyện không thể tin được xảy ra: đột nhiên họ nhìn thấy Ngài đang đứng ở giữa họ. Việc đầu tiên Ngài làm là chỉ cho họ thấy các vết thương của Ngài. Tại sao Ngài làm thế ? Thứ nhất là vì những vết thương ấy giúp họ nhận dạng được Ngài, xác định Ngài vẫn là người trước đó đã bị đóng đinh. Thứ hai là những vết thương ấy là bằng chứng rằng Ngài yêu thương họ, một tình yêu chứng tỏ bằng hành động. Kế đó Chúa Giêsu mời họ hãy xem và hãy sờ vào những vết thương ấy. Thái độ của Tôma rất đáng làm gương cho chúng ta. Đó là một thái độ thẳng thắn vì không giấu giếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi thường là dấu chỉ của sự yếu kém. Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma: nhờ hồ nghi nên sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong sách Tin Mừng “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.
Ở thế gian này, chẵng có gì là tuyệt đối chắc chắn về những sự thiêng liêng, vì nếu có thì đâu cần tới đức tin nữa. Những sự tuyệt đối chắc chắn có thể dẫn tới thái độ ngạo mạn, bất khoan dung và ngu xuẩn. “Người có đức tin mà không bao giờ cảm thấy hồ nghi thì thực ra không phải là người có đức tin”. Mỗi cộng đoàn đều cần có một con người như Tôma, tức là con người dám đặt ra những câu hỏi mà không ai khác dám đặt ra. Người như thế là người đáng tin, người như thế còn giúp những cái khác trở thành những kẻ đáng tin, bởi vì người như thế giúp cho những người đang tin nhận ra đức tin của họ còn yếu kém lắm, và đồng thời cũng làm cho những kẻ hồ nghi cảm nhận được nỗi ray rứt khi không có niềm tin. Sau khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo thánh truyền, Ngài đã đem Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và An Độ, nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin.
Chúa Giêsu mời chúng ta đến gần Ngài trong đức tin và chạm vào các vết thương của Ngài. Mặc dù chúng ta không thể chạm tới Ngài một cách thể lý, nhưng chúng ta có thể đến gần Ngài một cách thiêng liêng. Chúa Giêsu cũng mời chúng ta làm chứng cho Ngài trước mặt những người khác. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho Chúa Giêsu trở thành hữu hình trong thế giới hôm nay. Đó cũng là nhiệm vụ của các tông đồ ngày xưa. Ngày xưa khi các tông đồ đã nhìn thấy Chúa rồi thì các ông cảm thấy được thúc đẩy phải làm cho nhiều người khác cũng biết và tin vào Ngài.
Thế giới hôm nay đầy dẫy những hoài nghi và những người không tin. Cách duy nhất khiến họ tin là làm sao cho họ “thấy” được Ngài, “chạm” được Ngài nơi những môn đệ của Ngài. Thế nhưng, nếu các môn đệ của Chúa Giêsu không có những vết thương để chỉ cho người ta thấy và cho người ta chạm vào thì làm sao mà người ta tin được !
Ước gì chúng ta được ở trong số những người được Chúa Giêsu công khai chúc phúc “Phúc cho những ai tuy không thấy mà vẫn tin”.
Khủng hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như câ: PS2-24
Khủng hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như câu chuyện sau đây:
Năm 1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình. Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ “Chiến tranh và Hòa bình”, và “Anna Kerenina”. Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo đảm cho ông một vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công nhận ông là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo. Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: “Liệu trong đời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không ?”. Khoảng thời gian ấy thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày đêm, giống như người sắp chết đi tìm đường sống. Nhưng tìm mãi mà ông chẳng gặp gì cả. Thế rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô giáo. Thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ nó từ lâu, lý do là ông thấy nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống ngược hẳn với đức tin của họ.
Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông khi ông nhìn những tín hữu sống đức tin ấy. Ông viết: “Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn nào trong đời. Nhưng rồi tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin Mừng. Tôi đã lóa mắt vì sự sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu quả thực là một giáo huấn tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ 2000 năm nay, những lời dạy cao quí ấy đã tác động lên biết bao người một cách tuyệt vời không thể tìm được nơi bất cứ ở nơi nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng chiếu trong tôi và quanh tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi nữa”. Có nhiều người được sinh ra trong đức tin, và trải qua bao năm tháng đức tin ấy vẫn cứ vững mạnh. Thật là một ơn ban vô cùng quí giá. Nhưng cũng có nhiều người mà đức tin luôn là một cuộc chiến đấu liên lỉ.
Họ phải trải qua những cơn khủng hoảng đức tin rồi mới có được một đức tin sâu sắc và xác tín. Nói cách lý thuyết, chỉ có đức tin mới trả lời được cho những câu hỏi sâu xa về cuộc đời. Nhưng trên thực tế, chúng ta không nên hy vọng rằng đức tin sẽ giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Không phải chỉ vì chúng ta tin mà chúng ta có được mọi câu trả lời. Tuy nhiên chúng ta đâu cần biết hết mọi câu trả lời, vì tin là tín nhiệm chứ không phải là chắc chắn. Câu chuyện của văn hào Tolstoy giúp chúng ta nhận thức rằng đức tin được chứa đựng trong một chiếc bình dễ vỡ như thế nào. Nó cũng giúp ta hiểu thêm rằng đức tin Kitô giáo chủ yếu không phải là tin vào một mớ giáo điều, mà là tin vào một Đấng đã yêu thương chúng ta – những thương tích của Ngài chứng tỏ điều đó. Hơn nữa Thánh Kinh còn cho ta biết điều quan trọng không phải là niềm tin chúng ta đặt vào Thiên Chúa mà là niềm tin mà Thiên Chúa đặt vào chúng ta.
Đức Yêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Yêsu cũng tương: PS2-25
Đức Yêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Yêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Yêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Yêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Yêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Yêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Yêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Yêsu Phục Sinh cho con người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Yêsu. Chính Đức Yêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.
Đức Yêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Yêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Yêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các ki-tô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Yêsu.
Sứ mạng của Đức Yêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Yêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức Yêsu là Thiên Chúa? 2. Các tông đồ tin Đức Yêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn biết vậy? 3. Sứ mạng của các ki-tô hữu hôm nay là gì?
Trong bài Phúc Âm hôm nay diễn tả buổi tối ngày thứ nhất phục sinh. Các môn đệ Chúa Giêsu: PS2-26
Trong bài Phúc Âm hôm nay diễn tả buổi tối ngày thứ nhất phục sinh. Các môn đệ Chúa Giêsu đang ẩn núp trong căn nhà đã được khóa kỹ và suy nghĩ, "Bây giờ mình phải làm gì?" Nói về sự trung thành với Chúa Giêsu, họ đã nhát gan chạy trốn. Một câu ngạn ngữ mà người ta thường dùng là 'họ không thể nào chịu nổi sức nóng, nên họ đã đi ra khỏi nhà bếp'. Người vụng về nhất lại là người cầm đầu trong các môn đệ, Simon Phêrô, không những đã chối không biết Thầy, mà chối đến ba lần. Cho dù là đến bây giờ Maria Magđalêna đã báo cho họ biết về sự phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn còn rất hèn nhát. Họ đang trốn chạy. Họ đang run sợ. Đùng một cái, một sự việc đã xảy ra: những người môn đệ vụng về, nhát đảm, này được chan chứa niềm vui bởi vì họ nhìn thấy Chúa Giêsu ở giữa họ.
"Bình an cho các con," Chúa Giêsu phán. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài, và Ngài tiếp, "Bình an cho các con."
Một đứa bé viết thư cho Chúa, "Thưa Chúa, người đàn ông và người đàn bà hàng xóm của con cứ chửi nhau lớn quá. Tại sao Ngài không để cho người tốt lấy nhau? Karen."
Một đứa bé trai 6 tuổi ghi, "Thưa Chúa, người bố của con thật là dữ tợn. Xin làm cho bố con hiền lành, nhưng đừng làm hại bố con nhá! Johnny."
Một đứa bé khác thưa với Chúa: "Khi con lớn lên, Con muốn trở nên giống như Chúa. Tommy."
Chúa Giêsu, Hoàng Tử của hòa bình, đã sai các môn đệ Ngài đi rao giảng giống như Ngài! Chúa Giêsu, Hoàng Tử của Bình An, muốn chúng ta trở nên giống Ngài. Chúng ta là những người xây dựng hòa bình mà Ngài sai đi. Tuy nhiên, để chúng ta có thể trở nên những người xây dựng hòa bình, chúng ta cần phải có sự hòa bình trong chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con muốn trở nên giống như Chúa. Chúng con muốn là những người xây dựng hòa bình.
Tháng Mười Một, năm 1940, lúc đó là Đại Thế Chiến II, tại Anh quốc. Một nhà thờ chánh tòa Coventry đã bị phá hủy. Sau đó, trong đống đá vụn, người ta đã lượm được một số lớn đinh từ thời Trung Cổ. Các cây đinh đó đã được dùng để làm thành một cây thánh giá, và được mạ bằng bạc. Cây thánh giá được dựng lên và ở đằng sau có hàng chữ, "LẠY CHA, XIN THA." Sau đó, nhiều cây Thánh Giá nhỏ làm bằng những cây đinh đã được gởi đi các nước đã lâm vào cảnh chiến tranh. Hàng ngàn tấm hình đã được in trên các loại postcards cây Thánh Giá làm bằng đinh với hàng chữ " LẠY CHA, XIN THA ." Cây Thánh Giá tại nhà thờ chánh tòa Coventry đã trở nên một dấu chỉ của sự tha thứ, giải hòa, và bình an!
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại cho chúng ta thêm một lần nữa, "Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: 'Bình an cho anh em!'" (Ga 20:19). Trong một câu nói này, Thánh Gioan chú tâm vào hai khía cạnh của sự sống đã được phân tích do sự phục sinh của Chúa Kitô: Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh. Bắt đầu câu, diễn tả thứ Sáu Tuần Thánh và được kết câu bằng sự phục sinh. Các môn đệ đã sống trong tình trạng đau khổ và thất vọng, và khi Chúa Giêsu đến thì tất cả những bi quan đó đã được thay thế bằng niềm hy vọng và vui sướng. Lo âu và chán nản đã được thay thế bằng sự bình an. Qua sự cảm nghiệm Chúa Kitô phục sinh, các môn đệ đã tự trấn tĩnh chính bản thân mình. Họ trở nên giống Chúa Kitô! Họ trở nên những người xây dựng hòa bình!
"Lạy Chúa, chúng con muốn trở nên giống như Chúa!" Nếu chúng ta muốn trở nên những người làm phép lạ, người xây dựng hòa bình, thì chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Tôi xin phép đề nghị: mỗi buổi sáng, các bạn hãy cầu xin cho được một ánh mắt tình yêu để nhìn tất cả sự vật. Sau đó, bạn bắt đầu ngày sống của bạn, hãy nhìn tạo vật với cặp mắt tình yêu. Hãy nhìn những người đang sống chung quanh bạn với ánh mắt đầy sự kính trọng. Khi bạn đang làm những công việc hằng ngày, mỗi lần bị cám dỗ để suy nghĩ một chuyện đau khổ hoặc là một phiền muộn, bạn hãy nhớ đến lời nguyện trước tấm kiếng của bạn. Hãy nhớ mở lòng bạn ra với những vẻ kỳ diệu của tạo vật và những phép lạ của tình yêu Ngài. Hãy nhớ rằng bạn muốn là những sứ giả hòa bình. Hãy nhớ rằng bạn mong muốn lớn lên trên đường thiêng liêng để trở nên giống Chúa Giêsu.
Mỗi khi nói đến Tông đồ Tôma, người ta thường kèm theo biệt hiệu “Cứng lòng tin”. Thật ra: PS2-27 FB
Mỗi khi nói đến Tông đồ Tôma, người ta thường kèm theo biệt hiệu “Cứng lòng tin”.
Thật ra Tôma không cứng lòng tin hơn các Tông đồ khác. Khi Chúa đã chết rồi, các ngài hoang mang sợ hãi. Khi nghe tin Chúa sống lại, các ngài bàng hoàng bỡ ngỡ nhưng nửa tin nửa ngờ. Vì thế hai môn đệ đi đường Emmau vẫn còn buồn bã. Dù đã nghe các phụ nữ tường thuật việc Chúa sống lại, các ngài vẫn không tin, nên muốn bỏ về làng cũ. Vì thế, Chúa phải hiện ra nhiều lần. Và mỗi lần hiện ra, Người phải trấn an các ngài, cho các ngài xem các vết thương, cùng ăn uống để các người tin tưởng.
Tuy các môn đệ chưa hoàn toàn tin nhưng không ai trong các ngài phát biểu câu nào. Chỉ có Tôma nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chính vì câu nói mạnh mẽ này mà ông bị mang biệt danh “Cứng lòng tin”.
Tôma đại diện cho những người thời nay, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Nhưng ta phải cám ơn thánh Tôma, vì nhờ Ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Vì nhờ ngài mà Đức Giêsu lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ ngài mà ta được nghe mối phúc cuối cùng Chúa hứa cho ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Việc thánh Tôma đòi xem vết thương ở tay chân và cạnh sườn Chúa đặt ra cho ta những tiêu chí mới cho việc truyền giáo hôm nay.
Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Làm sao người ngoài đạo mến đạo nếu những người trong đạo cũng chia rẽ bất hoà? Làm sao đạo có sức thuyết phục khi người theo đạo vẫn còn ham hố danh vọng chức quyền đến nỗi bán rẻ cả lương tâm của mình và tìm cách chà đạp bôi nhọ người khác? Làm sao làm chứng được đạo là tốt trong khi những người tin đạo vẫn còn bất công, gian tham của cải không phải là của mình.
Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa.
Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Chứng kiến cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, niềm tin của các Tông đồ bị chao đảo. Đời bạn cũng đã gặp nhiều thử thách, niềm tin của bạn có bị chao đảo không? Lời nói hay và việc làm tốt, đàng nào có sức thuyết phục hơn? Trong mùa Phục Sinh này, bạn quyết định làm gì để góp phần vào việc truyền giáo?
Đoạn Phúc Âm này tả lại phần thứ hai của việc Đức Kitô hiện ra với các tông đồ theo các Phúc: PS2-28
Đoạn Phúc Âm này tả lại phần thứ hai của việc Đức Kitô hiện ra với các tông đồ theo các Phúc Âm của Matthêu, Luca và Gioan. Tuy nhiên chỉ có Phúc Âm của Gioan mới kể chuyện xảy đến với Tôma. Thánh Gioan không nói rõ có bao nhiêu người hiện diện vì thế có thể có hơn 12 người ở đó, không kể Tôma và Giuđa. (c.20) Các tông đồ vui mừng vì thấy Đức Kitô. Ngài đã giữ đúng lời hứa trước đó (16:22) khi nói rằng: "Nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng"
(c.22) Đức Kitô thổi hơi vào các ông như xưa kia Thiên Chúa đã thổi sự sống vào Adong: Đức Giêsu đã tái tạo các ông bằng Thần Khí.
(c.27) Sau khi nói "đặt tay vào", chúng ta tưởng Đức Kitô sẽ nói tiếp "và hãy cảm giác thấy", nhưng, thay vào đó Ngài lại bảo "và nhìn xem", có nghiã là "hãy thực sự nhận ra" hoặc là "hãy hiểu"
Các môn đệ mỗi ngày một hiểu biết Thầy mình rõ hơn và dần dần đặt cho Ngài các danh hiệu càng ngày càng chính xác hơn. Ở đây Tôma gọi Ngài bằng danh xưng cuối cùng và chính xác nhất: Đức Giêsu là Chúa, là Thiên Chúa.
(c.28) Trong phần kết của cuốn Phúc Âm nguyên thủy, Gioan dùng lời của Tôma để lập lại lời mở đầu: "Ngôi Lời là Thiên Chúa" (1:1)
Một Điểm Chính
"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!". Tôma tuyên xưng, không phải vì đã thấy, nhưng vì ông đã tin, và điều ông tin là tất cả sự thật.
Suy Niệm
Hãy tưởng tượng bạn đang ở trong phòng với các tông đồ khi Đức Giêsu hiện ra. Hãy nhìn những phản ứng của họ, và nhìn Đức Giêsu khi Ngài ban phép lành cho bạn.
Bạn muốn thưa với Ngài điều gì? Chúng ta giống và khác Tôma ở những điểm gì? Điều gì, hoặc ai, đã giúp bạn tin Đức Giêsu và được sự sống?
Sau một trận chiến khốc liệt, giữa bao xác chết ngổn ngang trên trận địa, người ta tìm thấy đủ: PS2-29
Sau một trận chiến khốc liệt, giữa bao xác chết ngổn ngang trên trận địa, người ta tìm thấy đủ mọi kỷ vật nơi túi áo những binh sĩ Nga đã ngã gục dưới bom đạn. Trong số những thứ được kể như có giá trị nhất về thiêng liêng, phải kể đến một bức thư trong đó người ta đọc thấy những dòng chữ hết sức lạ lùng về lòng tin của một người thanh niên từng lớn lên và được giáo dục theo chủ thuyết vô thần!
Chỉ nhờ một hồng ân đặc biệt đến thẳng từ trời cao, người thanh niên này mới có thể tin vào Đấng mà mắt phàm anh không thể thấy được. Anh chỉ nhận thấy Người hiện hữu qua bầu trời với bao tinh tú lấp lánh đẹp đẽ một cách lạ thường! Anh không chỉ tin Người trong đầu óc anh, nhưng lòng anh thực sự đã rung động khi anh viết những dòng sau đây để thưa thốt với Người:
"Lạy Chúa, Chúa có nghe thấy tiếng con không?
Con chưa hề bao giờ nói chuyện với Chúa. Nhưng ngày hôm nay đây con cảm thấy nhu cầu cần phải chào hỏi Chúa. Con biết rằng ngay từ lúc con còn thơ ấu, người ta đã không ngừng lặp đi lặp lại với con rằng "Chúa không hiện hữu. Không có Chúa đâu!" Và con, con thật dại dột ngu si đến độ đã tin rằng điều đó là thật, nghĩa là không có Chúa. "Cho đến giờ phút này đây con cũng chưa bao giờ để ý hoặc chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên. Chỉ mới ngày hôm nay con mới nhận ra vẻ đẹp này. Đối diện với trái đất và bầu trời lấp lánh đầy sao trên đầu con, con lặng lẽ chiêm ngắm vẻ đẹp tuyệt vời của bầu trời rực rỡ với muôn tinh tú. Oi đẹp biết chừng nào! Làm sao mà con đã có thể bị lừa dối một cách phủ phàng cay đắng đến thế!
"Lạy Chúa, con không biết Chúa có giơ tay tiếp nhận con không. Nhưng phần con, con xin xưng thú điều này với Chúa và con tin rằng Chúa sẽ hiểu con: Đó là một phép lạ đã xảy ra. Bởi vì giữa vực thẳm của trần gian khủng khiếp này, ánh sáng đã chiếu dọi, và con đã tìm thấy ánh sáng. Con sẽ không nói với Chúa điều gì khác nữa ngoài việc bày tỏ với Chúa niềm vui vì được biết rằng Chúa thực sự hiện hữu. Chúa là Đấng hằng sống. "Chúng con đã được lệnh đúng nửa đêm nay phải bắt đầu cuộc tấn công. Nhưng kể từ giờ phút này con không còn sợ hãi gì nữa cả, bởi vì con biết rằng Chúa đang chăm chú nhìn con.
"Thôi Chúa ơi, đã có tiếng còi báo hiệu rồi. Phải làm sao bây giờ? Con không có lựa chọn nào khác hơn là phải thi hành quân lệnh. Tuy nhiên nếu được ở yên nơi đây với Chúa, thì thật là tuyệt diệu, êm ái biết chừng nào!
Có Lẽ Đêm Nay Con Sẽ Gõ Cửa Nhà Chúa
"Con còn muốn vội vàng bày tỏ thêm với Chúa điều này nữa: Chúa biết không, trận chiến này sẽ vô cùng khốc liệt. Có lẽ ngay đm nay con sẽ đến gõ cửa nhà Chúa, dù rằng con đã không bao giờ là bạn hữu của Chúa. Nhưng Chúa có cho phép con vào cư ngụ nơi nhà Chúa không? Coi kìa, người ta sẽ bảo rằng con đang khóc! Nhưng Chúa có thấy là một điều lạ lùng đang xảy ra nơi con không? Sở dĩ con khóc là vì đôi mắt tinh thần của con đã được mở ra.
"Lạy Chúa, xin hãy tha thứ cho con. Con sắp xông vào trận chiến. Con biết chắc chắn rằng con sẽ không còn sống sót để trở về với gia đình nữa. Nhưng mà lạ lùng và tuyệt diệu thay! Con không cảm thấy sợ chết chút nào! Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù không được biết đến Chúa hay cố tình chối bỏ và chống lại Chúa, con người vẫn luôn là đối tượng của tình thương nhân hậu và khoan dung, tình thương của một Thiên Chúa chỉ biết yêu thương tha thứ và không ngừng theo đuổi con người."
Điều nổi bật trong bài Tin Mừng hôm nay dĩ nhiên là niềm tin của tông đồ Tôma. Ông đã được Chúa Giêsu Phục Sinh chiếu cố hiện ra một cách đặc biệt dành riêng cho ông. Chính nhờ vậy mà lòng tin của ông được biến chuyển. Ông đã ra mềm lòng để thưa với Chúa "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con." (c.28).
Nhưng liền sau đó, Chúa Giêsu Phục Sinh còn chiếu cố và quan tâm tới niềm tin của bao người khác nữa khi Người nói với ông Tôma: "Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" (c.29). Những người không thấy mà tin nói đây, thực sự phải bao gồm cả người lính Nga được ơn trở lại để tin vào Chúa ở phút chót của đời anh, cũng như phải bao gồm mọi người tin vào Thiên Chúa mà mắt họ chưa hề thấy.
Bài Tin Mừng trước hết cho thấy mười môn đệ đã thấy và đã tin vào Chúa Phục Sinh, nhờ đó các ông được vui mừng (cc.19-20). Riêng Tôma vắng mặt không tin lời mười ông kia kể lại mà còn đòi phải đụng chạm tới Thầy thì ông mới tin (c.25).
Đòi Đụng Chạm Tới Cạnh Sườn Và Các Lỗ Đinh
Vậy Gioan lần lượt cho ta thấy niềm tin vào Chúa Phục Sinh ở những cấp độ khác nhau. Thoạt tiên, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu chỉ thấy các băng vải và khăn che mặt nơi mộ trống mà đã tin (Ga 20,5-8). Kế đến là Maria Mácđala thấy Chúa Giêsu nhưng không nhận ra Người cho tới khi Người gọi cô đích danh (c.16). Tiếp theo là mười môn đệ đã thấy Chúa và đã tin (c.20). Còn Tôma thì đòi điều kiện là chính ông phải được đụng chạm tới cạnh sườn và các lỗ đinh nơi thân xác Chúa thì ông mới tin (c.25).
Như vậy một cách tinh vi, Gioan nêu vấn đề về niềm tin của các thế hệ tương lai. Niềm tin ấy sẽ theo mẫu nào: như niềm tin của người môn đệ Chúa Giêsu yêu? Của Maria Mácđala? Của mười môn đệ? Hay của ông Tôma?
Thực ra câu hỏi tương đương như vậy đã được đặt ra liên quan tới biến cố Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Người trong Cựu Ước tại núi Sinai. Biến cố ấy có tầm ảnh hưởng như thế nào đối với các thế hệ kế tiếp của dân Do Thái qua các thế kỷ? Vào khoảng năm 250 sau Đức Kitô, một bậc thầy của người Do Thái trả lời như sau về những người nhập Do Thái Giáo từ các đạo khác: "Họ được Thiên Chúa yêu quí hơn dân Ít-ra-en xưa tại núi Sinai. Bởi lẽ dân Ít-ra-en xưa đã không chấp nhận Luật Chúa nếu họ không được chứng kiến sấm sét, lửa cháy, núi đồi rung chuyển cũng như những tiếng kèn ầm vang. Riêng những người nhập đạo chẳng được thấy những điều gì như vậy mà họ cũng phó thác bản thân họ cho Thiên Chúa và chấp nhận Luật Chúa. Thử hỏi còn có ai đáng quí hơn những con người đáng kể như vậy?"
Không Thấy Mà Tin
Cũng vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh trong bài Tin Mừng hôm nay ca ngợi đa số dân Thiên Chúa trong Tân Ước là những người chưa bao giờ được thấy Đức Kitô tận mắt mà họ cũng tin. Chính nhờ Chúa Thánh Linh dẫn đưa nên họ mới có thể nhìn nhận Đức Kitô là Chúa và là Thiên Chúa của họ. Như vậy bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đấng Phục Sinh quan tâm đến hoàn cảnh của đa số các Kitô hữu khắp nơi trên thế giới qua các thời đại. Đức tin của họ được đánh giá cao theo hướng đức tin của người môn đệ Chúa Giêsu yêu, là người không thấy Chúa nhưng đã tin dựa vào một số dấu chỉ mà thôi (Ga 20,5-8).
Rõ ràng trường hợp người lính Nga trong câu chuyện nói trên chỉ nhờ vào dấu chỉ là thiên nhiên đẹp đẽ tuyệt vời mà tin và phó thác bản thân cho Thiên Chúa. Có lẽ chỉ tới ngày phán xét chung người ta mới được thấy rõ tương quan giữa anh và Thiên Chúa như thế nào. Hay nói theo Đức Gioan Phaolô II là "Tóm lại, chỉ mình Thiên Chúa mới cứu được con người miễn là con người cùng cộng tác vào. Việc con người có thể cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa chính là điều làm cho con người nên cao cả. Sự kiện con người được mời gọi làm việc với Thiên Chúa cho cùng đích đời mình, tức là cho ơn cứu độ và công cuộc thần hóa bản thân, đã được truyền thống Đông Phương gọi là "thần nhân đồng tác" (Synergisme): Cùng với Thiên Chúa, con người "tạo nên" thế giới; cùng với Thiên Chúa, con người "làm nên" ơn cứu độ của mình. Việc thần hoá con người là việc của Thiên Chúa, nhưng dẫu vậy, con người vẫn luôn phải cộng tác với Người." (Entrez dans l"Espérance, Plon-Mame, 1994, p.284).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ niềm tin của bạn đối với Chúa Giêsu Phục Sinh giống niềm tin của ai: Của người môn đệ Chúa yêu? Của Maria Mácđala? Của mười tông đồ? Của tông đồ Tôma?
2. Chính bạn có bao giờ được đánh động do thiên nhiên đẹp đẽ tuyệt vời như người lính Nga trong câu chuyện nói trên? Trong trường hợp đó, bạn nói gì với Thiên Chúa về những điều kỳ diệu Người làm trước mắt bạn?
3. Bạn nghĩ gì về cuộc trở lại của người lính Nga trong câu chuyện nói trên?
Bài Phúc Âm nêu lên khá nhiều điểm cần được để ý. Điểm thứ nhất, các môn đệ đang cầu: PS2-30
Bài Phúc Âm nêu lên khá nhiều điểm cần được để ý. Điểm thứ nhất, các môn đệ đang cầu nguyện trong nhà các cửa đều được đóng kín vì sợ người Do Thái và Đức Giêsu hiện ra giữa các ông. Điểm này bao gồm hai điểm khác đó là tại sao các môn đồ sợ người Do Thái? Đức Giêsu sau khi sống lại có thể đi xuyên qua vách tường hay cửa của căn nhà đóng kín. Điểm thứ hai nơi Phúc Âm đó là Ngài thổi hơi và phán bảo các môn đệ hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc. Điểm thứ ba nói về điều kiện để thánh Tôma tin rằng Đức Giêsu đã sống lại, nhìn thấy vết đinh nơi tay Đức Giêsu, thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn của Ngài. Điểm thứ tư, lời Đức Giêsu nói, phúc cho những ai đã không thấy mà tin.
Thường khi đọc một câu truyện hay xem một cuốn phim chúng ta chỉ để ý tới cốt truyện để rồi có nhận định về những vai trò trong đó thế nào. Chúng ta đưa ra nhận xét về cá tính của diễn viên hay nhân vật nơi cốt truyện để rồi đưa ra kết luận người này nên như thế này hoặc nên như thế kia. Nếu ai đọc truyện hay coi phim ảnh và kết quả chỉ có thế, quả thật quá uổng phí thời giờ, công sức, và tiền bạc để tìm niềm vui trong một hai tiếng đồng hồ nếu không muốn nói là giết thời giờ... vì không biết nên dùng thời giờ để làm gì. Dẫu chỉ một phút thì đó cũng chính là phần thời giờ nơi cuộc sống của mỗi người. Như thế, vấn đề đáng được nói đến lại là chúng ta được sinh ra để làm gì? Chẳng lẽ để chờ chết? Bởi vậy, thời giờ nơi cuộc sống hữu hình này có giá trị đặc biệt của nó. Lãng phí thời giờ tức là lãng phí cuộc đời của chính mình. Và nếu chúng ta không lãng phí thời giờ thì mục đích đọc sách, đọc truyện, xem phim ảnh để làm gì. Ai cũng có thể nhận thức được rằng cuộc đời mỗi người là cơ hội để chúng ta thăng tiến cuộc sống tâm linh, để học hỏi những kinh nghiệm bồi bổ cho nghiệm chứng tâm linh và nhận ra mục đích tối hậu của cuộc đời mình đã được ban cho...
Tuy nhiên, đã nhiều lần tôi nghe thấy người ta dùng thánh Tôma làm đề tài, chẳng những bào chữa cho thói ỷ lại, không chịu suy tư, nghiệm chứng mà cốt chỉ để an tâm lãng phí cuộc đời. Tôi thử hỏi, đã bao nhiêu lần chúng ta lặp đi lặp lại câu, "Con cháu ông thánh Tôma." Nếu tôi không lầm, chúng ta thường dùng câu này với ý nghĩ, đến ngay cả thánh Tôma, môn đệ của Chúa mà còn không tin thì mình đâu cần biết gì... cứ vờ đi, bảo sao nghe vậy, các cha giảng sao thì giảng nào khác gì mười voi không được bát nước xáo, mình tin Chúa, đi nhà thờ, nhà thánh cho khỏi tội là đủ... Thực tâm tôi nghĩ, chúng ta đã được dạy dỗ như vậy... Không đi nhà thờ thì không bỏ tiền nhà thờ, không bỏ tiền nhà thờ thì ông cha chết đói nên luật giữ ngày chủ nhật phải được nhấn mạnh... Quả là dùng Chúa để cổ võ cho tổ chức thế tục quá ư thông minh, tuyệt vời.
Tôi đặt vấn đề, tại sao Phúc Âm lại viết truyện thánh Tôma có tính cách nghi ngờ rõ ràng như vậy. Phỏng bằng ấy người, thánh Tôma không tin được một ai sao. Điều rõ ràng Phúc Âm đã nói đó là các tông đồ chẳng hiểu biết gì về những điều Đức Giêsu rao giảng. Thế nên, tôi đề nghị, hãy đặt mình vào vị thế thánh Tôma, chúng ta sẽ nhận được nhiều sự lạ rất bình thường nhưng chưa bao giờ để ý. Chúng ta nói rằng có đức tin, chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, điều này có nghĩa là gì? Tại sao Đức Giêsu nói, "Kẻ nào tin vào ta thì các việc Ta làm, kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Chúng ta nói tin vào Đức Giêsu, phỏng chúng ta làm được gì như Ngài và hơn Ngài... hoặc thoạt mới nghe ai nói tới có quyền như Đức Giêsu đã vội kêu tên cực trọng "Giêsu Maria Giuse phạm thượng." Chúng ta được dạy, chúng ta nghĩ, chúng ta lặp lại rằng tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu như con vẹt, như chiếc máy thâu băng không biết mình nói gì, không cần biết Phúc Âm nói gì để rồi cho rằng bất cứ ai không nói giống chúng ta thì đều là sai. Nói cho đúng, những ai dám nói theo Phúc Âm, chúng ta đều cho là sai... Chúng ta không cần biết Phúc Âm nói gì, chúng ta chỉ muốn lặp lại những điều đã được dạy dỗ sai lầm, đối nghịch với Phúc Âm. Thí dụ, chúng ta hay nói câu, Chúa phạt hoặc Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Lời nói này, ý nghĩ này quả là chống nghịch lại Phúc Âm mà không ai thèm để ý. Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu khuyên chúng ta, "Hãy biết thương xót như Cha các con trên trời là Đấng hay thương xót... Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác" (Mt. 5;45); thế mà chúng ta nói Chúa phạt! Bao nhiêu đấng khôn ngoan cũng đã giảng Chúa phạt! Quả thực là quái lạ!
Tôi muốn nói, chúng ta nên học gương thánh Tôma; chúng ta cần thực chứng những gì được gọi là tin. Đưa trái ớt cho người không ăn được ớt hay đưa cho đứa nhỏ và bảo ăn ớt với bún bò huế ngon lắm thì coi chừng bị ăn đòn chứ đừng nói là ăn ngon. Thực tế, chúng ta không cho rằng ớt ngon nếu chưa bao giờ ăn ớt, và chỉ những người đã ăn ớt và thích ăn ớt mới thực sự nghiệm chứng được ớt ngon ngọt như thế nào. Ngược lại, chúng ta nói rằng tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu mà lời Ngài nói nơi Phúc Âm chẳng thể nào áp dụng nơi cuộc đời chúng ta thì nghĩa là lý gì? Phúc Âm viết, "Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:22). Thử tự hỏi, đã bao giờ chúng ta lấy lòng tin để cầu nguyện và chúng ta đã được chưa? Vậy tin là thế nào? Nếu chúng ta cầu nguyện mà không được, chúng ta nên chân thành ít nhất là với chính mình mà nhận thực rằng chúng ta đã cầu mà không được, chúng ta đã chẳng biết tin là thế nào. Nơi Phúc Âm thánh Marcô có chép lời tuyên bố của Đức Giêsu, "Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24). Vậy câu này có nghĩa gì và làm thế nào để chúng ta có thể thực hiện được. Thế nên, tôi thực lòng đề nghị với quý ông bà anh chị em, hãy thực chứng, hãy nghiệm chứng những lời Đức Giêsu dạy trong Phúc Âm, chẳng nên nghe theo bất cứ ai, chẳng nên vội cho những lời tôi nói là đúng hay sai mà cần suy nghĩ, suy tư cho tới cùng, suy nghĩ cho tới khi nào áp dụng lời Phúc Âm trong cuộc đời của mình mới được gọi là tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu.
Khi chúng ta đã thực chứng được những lời dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm, chúng ta sẽ cảm nhận được tại sao các môn đồ sợ người Do Thái. Chúng ta sẽ biết rõ ràng Đức Giêsu hiện ra giữa nhà đóng cửa kín mít thế nào. Chúng ta sẽ thực chứng được ai có quyền cầm buộc, và ai có quyền tha... Và chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tại sao Phúc Âm nói phúc cho những ai đã không trông thấy mà tin.
Tóm lại, chúng ta nên học gương thánh Tôma mà thực chứng những lời Phúc Âm. Lời Chúa chẳng khác gì nước uống; ai uống sẽ hết khát; ai không uống dù có hiểu nước uống hết khát thì vẫn còn khát. Xin quý vị nhớ cho một điều; đó là khi khát, chúng ta cần uống nước. Nghe giảng giải về lợi ích của nước chẳng được ơn ích gì nếu chúng ta không uống. Lời Phúc Âm cũng thế, không ai có thể giải thích mà chính mỗi người cần tự thực chứng để áp dụng trong đời sống của mình.
Sau khi Đức Chúa Giêsu Phục sinh, trước hết Người đã hiện ra bên mồ trống với thánh nữ Maria: PS2-31
Sau khi Đức Chúa Giêsu Phục sinh, trước hết Người đã hiện ra bên mồ trống với thánh nữ Maria Mađalêna, và Người truyền cho bà đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ, nên bà được truyền thống gán cho danh hiệu là "tông đồ của các tông đồ". Sau đó, Chúa đồng loạt hiện ra với 2 môn đệ trên đường Emmaus và với 10 tông đồ nhưng vắng mặt Tôma. Các ngài đã tường thuật lại cho thánh Tôma, nhưng ngài vốn là con người có óc thực tế, không muốn tin những gì mà giác quan chưa kiểm chứng. Tám ngày sau, Đức Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ, lần này có cả thánh Tôma. Chúa bảo ông hãy dùng giác quan để kiểm chứng kẻo hoài nghi. Thế nhưng, khi đối diện với Chúa, Tôma như hồn xua phách lạc chỉ biết hốt hoảng thốt lên một câu tuyên xưng đức tin đầy ý nghĩa: "Lạy Chúa con và Lạy Thiên Chúa của con" Đức Chúa Giêsu liền phán với Tôma: "Vì con thấy Thầy nên con mới tin, phúc cho những kẻ không thấy mà tin hết lòng!"
Lời chúc phúc nầy, Đức Chúa Giêsu nhắm đến hàng hàng lớp lớp các thế hệ tín hữu hậu lai trong đó có chúng ta là những kẻ không thấy Chúa nhưng tin nhận Người qua lời rao giảng của Hội thánh. Đức tin là nền tảng của đời sống công giáo, là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho và là một trong 3 nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến; Thánh Phaolô nói: "Mai sau trên thiên đàng chỉ tồn tại đức Mến, vì khi đã thấy Chúa và đạt được mục đích thì đức tin và đức cậy không còn nữa!".
Chúng ta hãy nuôi dưỡng đức tin bằng đời sống cầu nguyện liên lỉ, siêng năng lãnh nhận các bí tích và chớ dùng lý trí để lý luận nhưng hãy dùng con tim để chấp nhận.
Đức tin rất quan trọng, vì khi làm phép lạ chữa bệnh cho ai Đức Chúa Giêsu đều nói: "Đức tin của con đã chữa con", và Người cũng từng phán: "Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi thì chúng con có thể chuyển núi dời non... và chúng con còn có thể làm những việc vĩ đại hơn thầy nữa"
Những kẻ ly giáo, lạc giáo đều là những kẻ đã đánh mất đức tin quý báu. Những việc thờ phượng, đạo đức chúng ta làm nếu không có đức tin chỉ là trò hề hoặc mê tín dị đoan mà thôi.
Trong phúc âm Đức Chúa Giêsu có phán một câu đáng chúng ta run sợ và tự kiểm điểm mình luôn: "Không biết ngày Con Người trở lại trần gian có còn tìm thấy đức tin nữa không?".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn đức tin cho những người lương giáo và xin tăng thêm đức tin cho những tín hữu chúng con, chớ gì tất cả chúng con được liệt vào số những kẻ đáng hưởng lời chúc phúc của Chúa ngày xưa: "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Amen.
Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Kytô và, cùng: PS2-32
Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Kytô và, cùng với các ngài, chúng ta đang sống và sinh hoạt vào thời điểm sau biến cố Phục Sinh đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần vốn được xem là ngày đoàn tụ của các Kytô hữu tiên khởi. Đồng thời đó cũng là ngày đặc biệt, ngày mà Đấng Phục sinh chọn để hiện diện giữa một cộng đoàn còn non trẻ để chia sẻ với họ niềm vui Phục Sinh, đồng hành với họ trong việc cử hành Lời Chúa và nghi lễ Bẻ bánh và sau cùng là sai họ ra đi rao giảng Tin mừng cho nhân loại.
TỪ BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH.. ..
Từ sau biến cố xảy đến cho Thầy, các môn đệ chưa hết bàng hoàng đớn đau, các ông lại phải đối diện với sự bách hại khác từ phía những người Dothái. Các ông sợ người Dothái hay đúng hơn sợ các ông thủ lãnh Dothái. Các môn đệ sợ là phải. Lý do là vì ngay đến Thầy mà họ còn không buông tha, còn đối xử tàn ác đến như vậy huống gì trò. Chính vì thế, cách tốt nhất để bảo vệ mình là “bế quan toả cảng, nội bất xuất, ngoại bất nhập” để tránh sự săn lùng và dòm ngó của người Dothái. Đang sống trong tâm trạng bất an và não nề như thế, Đấng Phục Sinh xuất hiện và điều Ngài mang đến cho các ông thời điểm này chính là hoa trái của sự Bình an (Shalom). Bình an cho anh em. Đây không chỉ là lời chào hỏi xã giao thông thường mà đó còn là một sự xác quyết mạnh mẽ về sự hiện diện đích thực của Đấng Phục Sinh. Bình an đích thực chỉ đến từ Đấng Phục sinh và chính Ngài và từ nơi Ngài mới có thể đem bình an đến cho những ai đang sống trong tâm trạng bất an nặng nề.
Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh không chỉ thuần tuý mang ánh sáng và bình an để phá tan bóng tối mây mù đang rình rập các môn đệ, xua tan nỗi thống khổ ưu phiền của các ông mà còn là việc trao ban Thần Khí và sai các ông tiếp tục sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Như thế, chúng ta thấy rõ rằng, sứ mạng đi vào thế giới của các môn đệ xuất phát từ sau biến cố Phục Sinh. Đặc biệt hơn, đối với thánh sử Gioan thì đây lại là một sứ mạng nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu vốn phát xuất từ Chúa Cha. Để được như thế, chính Đấng Phục Sinh trao ban hay đúng hơn là thổi Thần Khí vào các môn đệ như gợi nhớ ngày Giavê Thiên Chúa thổi sinh khí để làm nên con người trong buổi đầu công trình tạo dựng (x. St 2,7) hay làm cho con người hồi sinh (x. Ed 37,5.9). Các môn đệ nhận lãnh Thần Khí của Đấng Phục Sinh, tiếp tục sứ mạng của Thầy nhằm rao giảng cho muôn dân Tin mừng Phục sinh, xoá bỏ tội lỗi và ban ơn tha thứ.
ĐẾN LỜI TUYÊN XƯNG CỦA TÔMA
Thật thú vị là lần hiện ra của Chúa Phục Sinh cách đây tám ngày không có sự hiện diện của Tôma Điđymô. Tôma đi đâu? Tin mừng không đề cập, nhưng cứ theo sự thường, chúng ta có thể thấy Tôma có lẽ cũng đang ở trong tâm trạng hoảng loạn, mất phương hướng, thậm chí chán nản sau cái chết của Thầy. Tệ hơn, có thể Tôma không đủ can đảm để gánh vác trách nhiệm, để chia sẻ với anh em đồng môn trong tình cảnh “xẻ đàn tan nghé”, mà hơn lúc nào hết rất cần đến sự “chung lưng đấu cật” để vượt qua khó khăn. Việc Tôma không ở cùng các môn đệ phải chăng là sự thoái thác một phần hay hoàn toàn trách nhiệm? Và phải chăng đó còn là sự thể hiện tính nhút nhác, sợ liên lụy với các đồng môn của mình mà ông biết rằng các thủ lãnh Dothái sẽ không tha như đã xử với Thầy? Tôma ra đi, xa rời nơi nguy hiểm, xa rời nơi ẩn náu của anh em để tìm cho mình một sự bình an, một sự an toàn chắc chắn cho riêng mình. Ông có biết đâu đó cũng chính là lần mà ông đã mất đi diễm phúc được nhìn thấy Chúa Phục Sinh, mất đi lời chúc Bình an của Người, mất tất cả.
Khi được các môn đệ thuật lại việc các ông thấy Chúa, Tôma lại cho rằng đó là việc không tưởng, rỗi hơi, khéo tưởng tượng, óc mụ mẫm của đàn bà con gái, chứ làm gì có chuyện đó. Tôma dõng dạc tuyên bố trước mặt anh em: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Trước lời tuyên bố hùng hồn của Tôma, các môn đệ khác đành tiu nghỉu im lặng. Mà không tiu nghỉu im lặng sao được khi lý luận mà Tôma đưa ra không chê vào đâu được. Đối với các ông, việc thấy Chúa sống lại là một niềm vui qúa sức mong đợi, như quên đi tất cả, còn tâm trí đâu để ý đến chân với tay, lỗ đinh với cạnh sườn để giờ đây đành phải “bí” trước đòi hỏi của Tôma. Tôma quả đúng là ông tổ của khoa học thực nghiệm: không bao giờ đi đến kết luận nếu trước đó chưa có kiểm nghiệm cách chắc chắn.
Một lần nữa Chúa Phục sinh hiện đến với các môn đệ và chính Người mới có thể hoá giải thế bí cho các môn đệ đồng thời để giải đáp những yêu sách của “ông tổ khoa học thực nghiệm” là Tôma đưa ra. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Được đứng trước Thầy và được nghe những lời chúc bình an thốt ra từ môi miệng Thầy, Tôma làm gì còn tâm trí mà thử với chả nghiệm. Phản ứng tức thời của ông là lời tuyên xưng vốn được xem là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng để chuộc lấy lỗi lầm vì đã không tin việc Người sống lại. “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng được vang lên trong các kinh Tin kính của các cộng đoàn Kytô tiên khởi, được nối tiếp qua các thời đại và sẽ còn vang vọng đến muôn đời.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Từ sau lần ấy, đức tin của Tôma cũng như của các thế hệ mai sau sẽ không còn dựa trên những thực nghiệm, những kinh nghiệm cụ thể về Đấng Phục Sinh hiện ra nữa mà chính là dựa trên lời chứng do các Tông đồ rao giảng - những người đã chứng nghiệm rõ ràng, được thấy, được tận hưởng niềm vui ngọt ngào của Đấng Phục sinh.
Là những người thừa kế di sản của Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Đấng Phục sinh từ các tông đồ rao giảng, chúng ta thật diễm phúc. Nếu chỉ dừng lại ở việc mắt thấy, việc chiêm ngưỡng hình ảnh Đấng Phục sinh, các Tông đồ là người hạnh phúc hơn chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức tin là một ân ban nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên việc chúng ta xác tín niềm tin vào Đấng Phục sinh cũng xứng đng xếp chúng ta vào hàng ngũ các tông đồ của Chúa. Chính vì thế, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân lớn lao này, đồng thời cũng xin Chúa trợ giúp chúng ta để mỗi một ngày trôi qua, chúng ta không ngừng tiếp bước sứ vụ mà các Tông đồ đã truyền lại để ra đi rao giảng tin vui Phục sinh cho muôn người.
Ngay khi sống lại, Chúa Giêsu phục sinh đã trao ban bình an và Thánh Thần cho các tông đồ.: PS2-33
Ngay khi sống lại, Chúa Giêsu phục sinh đã trao ban bình an và Thánh Thần cho các tông đồ. Sự bình Chúa ban nhưng không cho các tông đồ là một điều rất cần thiết cho mỗi tông đồ đang lúc các ông hoang mang, lo lắng và u sầu vì Thầy của mình không còn nữa theo sự suy nghĩ của các ông. Do đó, lần này hiện ra với các tông đồ trong khi có mặt của Tôma nữa, Chúa Giêsu lại trao bình an cho các ông, sự an bình này làm cho các tông đồ vui mừng vì Chúa phục sinh ban Thánh Thần, củng cố đức tin cho các ông và sai các ông đi làm chứng cho Người. Chúa phục sinh quả là trung tâm của sự qui tụ mọi người và là sức mạnh tuyệt đối cho lòng tin của mọi người.
ĐỨC TIN KHÔNG PHẢI TỰ DƯNG MÀ CÓ:
Có những người tin dễ dàng như tình yêu luôn có một mẫu số chung. Tuy nhiên, con đường đưa tới đức tin, mỗi người mỗi khác. Con đường dẫn tới Đức Kitô có muôn ngàn cách, có vạn nẻo đi. Có người tin dễ, có người tin khó. Có người chấp nhận một cách dễ dàng, đơn sơ, mộc mạc. Các tông đồ cũng vậy: có người dễ dàng chấp nhận tin Thầy sống lại, có người khó khăn chấp nhận Thầy mình đã từ cõi chết phục sinh. Có người đòi Thấy Chúa sống lại cách thực nghiệm hơn như Toma mà đoạn Tin Mừng hôm nay đề cập một cách hết sức dí dỏm: “ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn của Người…”( Ga 20, 25 ). Lòng tin của các tông đồ và của Tôma đi song song với cách hành xử của mỗi người. Và rồi, Tin Mừng của Gioan hôm nay trình bầy cách thật cụ thể, số là chiều ngày thứ nhất trong tuần, các tông đồ được một niềm vui không tiền khoáng hậu: Đức Kitô phục sinh đã hiện ra, chúc bình đến hai lần cho các tông đồ, rồi Người trao ban Thánh Thần, tức quyền tha tội cho các ông, rồi sai các ông ra đi. Tin Mừng của thánh Gioan đoạn này thật dí dỏm: Tôma lại không có mặt hôm đó và đây là buổi chiều thê thảm đối với ông. Người ta không thể nghĩ sao cho đúng ý Tôma, nhưng cũng có thể vì ông sợ người Do Thái, nên không dám qui tụ với các tông đồ khác đểđược Chúa phục sinh chúc bình an và trao ban Thánh Thần chăng ? Cũng có thể, Tôma tưởng rằng Chúa Giêsu chết luôn và không sống lại ? Và lòng tin của Tôma còn đòi phải được thanh luyện. Nên, Toma đã làm ngơ và hầu như không chú tâm khi các tông đồ khác loan báo họ đã gặp Chúa sống lại. Tôma đang ở trong số những người tỏ ra thật hờ hững đối với người khác như thầy Lêvi, Tư Tế đã dửng dưng, làm ngơ đối với một người bị cướp đánh nhừ tử dở sống dở chết trên đường đi Giêricô. Đức tin của Tôma còn phải được thanh lọc và Tôma còn phải phấn đấu, đối diện với Đức Kitô phục sinh rồi ông mới tin.
PHÚC CHO NHỮNG AI KHÔNG THẤY MÀ TIN:
Người Kitô hữu ở muôn thời luôn có thách đố để tin hay không tin vào một Thiên Chúa toàn năng và một Thiên Chúa tình yêu. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là cộng đoàn được Chúa phục sinh qui tụ, hướng dẫn và chăm sóc. Nhân loại đang trong cuộc hành trình đức tin, lẽ dĩ nhiên đức tin ấy cần được thanh luyện và củng cố. Người Kitô hữu ở trong Giáo Hội chắc chắn luôn có lời Chúa, có giáo huấn của Giáo Hội, Giáo Lý của Chúa Giêsu, những lời giảng dậy của các linh mục, như thế đức tin luôn được thăng tiến mỗi ngày. Chúa trao ban bình an và Thánh Thần cho các tông đồ. Do đó, Người cũng ban bình an và Thánh Thần cho nhân loại, để nhân loại hiểu rõ rằng Người yêu nhân loại như thế nào. Chúa lại liên kết, củng cố sự hiệp nhất và lòng tin của con người bằng bí tích hòa giải và bí tích Thánh Thể: ” Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha, các con cầm buộc ai, tội người ấy bị cầm buộc…” Chúa trao cho các tông đồ sứ mạng loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa phục sinh. Sứ mạng ấy Chúa cũng trao cho Giáo Hội và mọi người. Đức tin của mỗi người cần phải được thanh tẩy thì mới có thể đứng vững. Con người chỉ có thể như Tôma khi đối diện với Đấng phục sinh:” Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi…”. Và Chúa đã nói với Tôma:” Vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin…Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện, củng cố lòng tin của chúng con để chúng con mạnh dạn, bình an và can đảm làm chứng cho Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Đức tin có cần thiết không ? 2. Tại sao Toma lại đòi xỏ tay vào lỗ định, thọc bàn tay vào cạnh sườn của Chúa ? 3. Bạn hiểu thế nào câu của Chúa nói:” Phúc cho những ai không thấy mà tin “ ?
Có bao giờ ta ta cảm thấy như Chúa đi vắng? Có bao giờ ta nghĩ: nếu Chúa hiện hữu, sao Chúa: PS2-34
Có bao giờ ta ta cảm thấy như Chúa đi vắng? Có bao giờ ta nghĩ: nếu Chúa hiện hữu, sao Chúa không làm phép lạ như Chúa đã làm trong thời Cưu ước hay thời các thánh tông đồ cho người ta tin tưởng? Có bao giờ ta tự hỏi: nếu Chúa hiện hữu sao Chúa để cho những tai hoạ xẩy ra trong thế giới như thiên tai, động đất, lụt lội, đắm tàu, rớt máy bay, dịch bệnh làm cả hàng trăm, hàng ngàn người gồm cả trẻ con chết chóc. Đa số mỗi người đều có chút khuynh hướng hồ nghi về sự hiện diện của Chúa, hoặc giáo lý của Người. Không ít thì nhiều trong đời sống có những lúc ta hồ nghi, đặt câu hỏi về sự hiện diện của Chúa như không biết Chúa có hiện hữu thật không, không biết việc giữ đạo Chúa có ích lợi gì không?
Như vậy xem ra ta cũng giống như ông Tôma. Khi các tông đồ loan báo cho ông Tôma là Chúa đã hiện ra với các họ, ông Tôma nhất định không tin. Sống trong một thời đại mà mọi sự xem ra phải đặt thắc mắc và thử nghiệm, sẽ gây ra cái cảm nghĩ không chắc về nhiều phương diện trong đời sống. Sống đức tin mà không giải đáp được những vấn nạn trong cuộc sống, thì không phải là chuyện dễ. Sống đức tin không hoàn hảo như vậy là chuyện khó khăn. Khi mà xã hội trở nên phức tạp và xáo trộn thì khiến cho việc giữ vững tín lý và giáo lý truyền thống về đức tin trở nên khó khăn hơn. Khi mà người ta sống trong cái xã hội đa chủng, đa diện, đa văn hoá, đa tôn giáo như vậy với nhiều chủng tộc, màu da, văn hoá, ngôn ngữ và triết lý sống có vẻ mời gọi ta thử xem thế nào. Xem ra lối sống của họ có vẻ có gia vị hấp dẫn hơn nếp sống đức tin thường ngày đều đặn của ta, khiến ta muốn thử nếp sống đạo của người khác xem sao. Trong một xã hội như vậy thì có nhiều tiếng mời gọi từ báo chí, sách vở, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, mạng tin bảo ta điều gì phải tin, điều gì không nên tin, điều gì phải được xét lại, điều gì nên làm, điều gì không nên làm.
Có những lúc mà tin tưởng xem ra có vẻ dể dàng khi mà mọi sự xẩy ra theo ý muốn, khi ta có thể nhìn thấy những dấu chỉ của Chúa quan phòng. Tuy nhiên lúc nào đó sẽ đến hay đã đến khi sóng gió bão táp trong tâm hồn nổi dậy, khi bóng tối bao trùm tâm trí ta. Và đó chính là lúc đức tin của ta sẽ bị thử thách như thánh Tôma trả lời các tông đồ: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin (Ga 20:25). Trước đó ông Tôma cũng một lần đã thắc mắc hỏi Chúa: Chúng con không biết Thày đi đâu, làm sao chúng con biết đường lối? (Ga 14:5). Lần này Chúa đã chiều ông Tôma đến độ đích thân hiện ra với ông và nói với ông, để ông thấy và nghe và sờ vào vết đinh và vết thương trên mình Người để cứu vãn đức tin của ông hầu như đã bị dập tắt. Còn các tông đồ khác, lúc đầu cũng tỏ ra hồ nghi khi bà Maria Mađalêna loan báo về việc Chúa không còn trong mồ nữa mà đã sống lại. Các tông đồ cho rằng đó là sản phẩm của trí tưỏng tượng đàn bà. Nhìn thấy Chúa hiện ra với các ông, các tông đồ mới tin.
Sống đức tin là học sống với những nghi ngờ, những thắc mắc, những bực mình, khó chịu trong đời sống. Đức tin không tuỳ thuộc vào việc hiểu biết những chân lý mạc khải về đạo giáo vì đức tin và hiểu biết thuộc hai lãnh vực khác nhau. Đức tin không phải là cái gì ta có thể nắm chắc trong tay hay có thể bỏ vào hộp an toàn ở nhà băng, nhưng phải tiếp tục tìm kiếm và bảo toàn. Đức tin không bảo đảm hạnh phúc ở đời này. Điều mà đức tin có thể mang lại là nhìn sự vật dưới ánh sáng và khía cạnh khác. Như vậy nếu ta cũng có những lúc hồ nghi, thì đừng vội trách thánh Tôma. Nhờ cái hồ nghi của thánh Tôma mà ta có thể kêu lên với lòng tin được đổi mới của thánh Tôma: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28).
Bài đọc 1: Tông đồ Công vụ ( 2:42-47). “Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện.” (câu 42)
a/ Nghe giảng, học hỏi Kinh Thánh để biết Đức Kitô Phục sinh. Vậy Lời Chúa đã giúp ích gì cho tôi.?
b/ Hiệp thông có thể hiểu là chia sẻ tinh thần lẫn vật chất. Bạn đang áp dụng trong Giáo xứ/CĐ thế nào?
c/ Chia sẻ Lời Chúa,Cầu nguyện trong Gia đình rất cần thiết. Tôi đã làm gì trong giờ kinh tối Gia đình?
Bài đọc 2: Thư 1 Phêrô (1:3-9). “Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại.” (câu 3)
a/ Tái sinh là sinh lại, đổi mới, bỏ con người nhiều tật xấu. Những thay đổi cụ thể để tôi sống lại với Chúa?
b/ Hội thánh là Nước Trời ở trần gian. Bạn đang làm gì để Gia đình, Giáo xứ có hiệp nhất và bình an?
c/ Hy vọng là chờ mong điều mình chưa thấy. Tôi sống thế nào để người khác thấy là mình đang hy vọng?
Bài Tin Mừng: Gio-an (20:19-31). Người lại nói với các ông: “Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (câu 21)
a/ Bình an và vui mừng là hoa quả của Thánh Thần. Làm sao để tôi có những hoa trái của Thần Khí Chúa?
b/ Hôm nay Chúa đang sai bạn ở chức vụ hiện tại. Bạn đang làm gì để chu toàn sứ vụ Đức Kitô giáo phó?
c/ Ông Tô-ma không tin vì chưa đặt tay vào cạnh sườn Chúa. Tôi có giống ông Tô-ma không? Tại sao?
B- Câu Kinh Thánh tôi chọn Sống tuần này:(The Best of God’s Word)
NHƯ CHÚA CHA SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM.
As the Father has sent Me, so I send you (Ga 20, 21)
C- Ngay bây giờ bạn và tôi phải làm gì: (So what am I doing/For action)
a/ Chia sẻ LC, cầu nguyện chung trong Gia đình, Gíao xứ. b/ Xây dựng bình an, hòa thuận trong Giáo xứ/CĐ. c/ Săn sóc, thăm hỏi người ốm đau, qua đời. c/ Giữ nét mặt rạng rỡ, vui tươi, mỉm cười.
* Công Đồng Vatican II dạy: Tất cả các Giáo sĩ, trước hết là các Linh mục của Chúa Kitô và những người có bổn phận phục vụ Lời Chúa như các Phó tế và những người dạy Gíao lý phải gắn bó với Thánh Kinh. Nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi, để khi họ phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, nhất là trong phụng vụ Thánh, cho các Tín hữu được ủy thách cho họ. Không ai trong họ sẽ trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Thiên Chúa ngào miệng bởi không lắng nghe Lời Thiên Chúa trong lòng. (MK số 25)
D- Bạn và tôi cùng Câù nguyện và Sống cầu nguyện(I pray in Action)
Lạy Đức Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con haỹ đi rao giảng và làm chứng cho Chúa bằng đời sống; con đã nhận mà không thi hành. Xin giúp con trở về với nhiệm vụ chính của mình, đừng lơị dụng danh nghiã Chúa để kiếm lợi lộc vật chất, mà quên bổn phận chính của mình là lắng nghe và rao truyền Lời Chúa cho anh em. Lời hay ý đẹp: CHÚNG TA LÀ KẺ TIN VÀ THEO CHÚA GIÊSU, CŨNG CÓ THỂ PHẢN CHIẾU NGÀI LÀ ÁNH SÁNG CỦA THẾ GIAN.
We believe and follow JESUS, can reflect Him who is the light of the world.
Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi. Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:
Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:
Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”. Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế này cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
Bi Đọc 1: Cv 10:34.37-43; Bi Đọc 2: Col 3:1-4; Tin Mừng: Ga 20:1-9
CHỦ ĐỀ CC BI ĐỌC
Phụng vụ trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa Nhật: PS2-37
Phụng vụ trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa Nhật hôm nay lại trình bày cho ta đặc biệt lời đáp trả của con người đối với mầu nhiệm ấy: một niềm tin tràn đầy hân hoan. Ong Tôma đôi lúc là hình ảnh của con người: đi từ hoài nghi đến tin tưởng vào Chúa Phục Sinh, đi từ việc tìm chứng cứ cho đến việc tuyên tín cách thâm sâu (Tin Mừng).
Cộng đoàn Giêrusalem tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh khi họ họp nhau vào các ngày Chúa Nhật để nghe các Tông đồ giảng và cử hành việc bẻ bánh trong tình hiệp thông huynh đệ, dấu chỉ của mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).
Những lời giảng của Thánh Phêrô như đang vang vọng bên tai chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (Bài đọc 2)
Sứ Điệp Niềm Tin
Tin vào Đức Giêsu Kitô phục sinh là nền tảng của lòng tin kitô giáo. “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy thì…cả đức tin của anh em cũng trống rỗng….và chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người,” thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu Corintô (1 Cor 15,12-19). Hơn nữa, nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng tôi là những chứng nhân giả của thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết. Tuy thế, Thánh Phaolô tiếp tục xác quyết: “Đức kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.” Nhờ sự sống lại của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã xác nhận sự thật về toàn bộ cuộc sống và sứ mạng của Đức Kitô, những lời rao giảng, những việc Ngài làm để mạc khải và cứu độ con người. Phục sinh chính lời xác quyết rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ nhân loại.
Khi giải thích đoạn thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Corintô, ta có thể nói rằng, bởi vì Đức Kitô đã sống lại, nên kitô hữu chúng ta là những người có phúc nhất trên đời. Việc cộng đoàn kitô hữu tiên khởi họp nhau quanh các Tông Đồ và Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu Kitô, để cử hành việc bẻ bánh, chứng tỏ niềm hạnh phúc tràn đầy ấy của các tín hữu. Lý do rất rõ: Đức Kitô sống lại là hoa quả đầu mùa, mở đường cho việc sống lại của các kitô hữu: hơn nữa, người kitô hữu tuy còn lữ hành trần thế, nhưng đã thông phần sự sống mới với Đức Kitô phục sinh rồi. Làm sao lại không vui niềm vui vĩnh cữu đó được?
Đó chính là điều Thánh Phêrô nêu lên trong bài Thánh ca phép rửa: “Chúa tụng Thiên Chúa là thân phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai.(Bài đọc 2)
Trở lại với Thánh Phaolô, ta có thể nói: Làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là chúng ta dâng lòng kính phục con thảo lên Chúa Cha, Đấng là Chân Lý và Trung tín. Thiên Chúa tín trung, và vì thế nên Ngài đã không bỏ Con của Ngài dưới quyền sự chết; Ngài cũng sẽ chẳng bỏ một ai trong chúng ta, là những nghĩa tử của Ngài. Thái độ của Đức Giêsu đối với Tôma, Vị Tông Đồ (được gọi là cứng tin) phản ánh sự trung tín của Thiên Chúa dành cho những kẻ hoài nghi để dẫn đưa họ đến niềm tin, một niềm tin vững mạnh loại trừ mọi nghi vấn: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con.” (Tin Mừng). Hội Thánh không ngừng tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu Kitô qua suốt hai mươi thế kỷ, và ngày ngày vẫn tiếp tục minh chứng lòng yêu thương và trung tín của Ngài.
Gợi Ý Mục Vụ
Lời đáp trả của con người cho mầu nhiệm phục sinh luôn bất ngờ, dù con người có đón nhận như một dấu chỉ của ân sủng hoặc khước từ do sự giới hạn của tri khôn của mình. Dù được đáp trả bằng bất cứ cách nào, mầu nhiệm phục sinh vẫn luôn “như thế”, không chút phai mờ hoặc bóp nghẹt. Với tư cách là linh mục, mục tử, ta đừng ngạc nhiên rằng, một đàng có nhiều đáp trả khác nhau cho chính mầu nhiệm cao sâu này.
Đàng khác, ta phải không ngừng rao giảng, làm chứng và làm sáng tỏ mầu nhiệm ấy như là điều duy nhất thiết yếu cho nhân loại, cùng cảm nghiệm niềm vui với các anh chị em chúng ta đón nhận và sống mãnh liệt mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh. Ta cần rao giảng rõ ràng niềm tin vào sự sống lại là quà tặng, là “dấu lạ” của Thiên Chúa thương ban. Ta lãnh nhận món quà này qua bí tích thánh tẩy, nhưng ta cần nuôi dưỡng nó, bảo vệ nó, và đánh giá một cách đúng đắn, để không có gì và không ai có thể nhỗ bật rễ niềm tin ấy ra khỏi lòng các tín hữu được.
Anh chị em giáo dân chúng ta, những người mà ta nhằm đến khi thi hành công tác mục vụ, chăm sóc, bảo vệ, cần phải làm gì để nhận thức đúng món quà đức tin, nhất là niềm tin vào Chúa phục sinh?
Là linh mục tôi phải làm gì, để giúp cho các anh chị em của tôi nuôi dưỡng, bảo vệ và trân trọng niềm tin này?
Ta cần giải thích cho các tín hữu niềm tin vào sự phục sinh không phải là điều phi lý, là điều ngược lại với những nguyên tắc tri thức của con người hoặc là điều xa lạ với cuộc sống đời thường. Có biết bao thực tế trong đời sống nhân loại mà con người đâu có hiểu được, thế mà vẫn tin như sự thật trước mắt?
Chẳng có gì là phi lý khi tin vào một ai đó có “hiểu biết”, từ đó ta cần tin tưởng Thiên Chúa, là Đấng khôn ngoan tuyệt đối. Nếu không thể đặt đời sống con vật ngang bằng với đời sống con người thì sự sống lại phải là điều hết sức quan trọng. Nhưng con người không cảm thấy trong lòng rằng mình không thể bị hủy diệt sao (chết)?
Chẳng phải là một người ngoại đạo như thi hào Horace cũng đã thốt lên (Tôi sẽ không phải hoàn toàn bị hủy hoại (chết) đó sao?) Sự sống lại của Đức Giêsu Kitô chẳng những không xa lạ với cuộc sống con người nhưng còn là nền tảng vững chắc mang lại ý nghĩa đích thực tròn đầy cho nó nữa. Đức Kitô đã chỗi dậy, và tử thần đã bị chôn vùi.
Lời Chúa cho Hôm nay: HÃY LẮNG NGHE VÀ MỞ LÒNG - Huyền Đồng
* LISTEN, BE OPEN TO OTHERS *
Bài đọc 1: Công vụ 2, 42-47=Bẻ bánh và Cầu nguyện / The breaking of Bread & Prayers.
Bài đọc 2: 1 Phêrô 1, 3-9 = Không thấy Người, vẫn tin Người/ Without seeing you believe.
Tin Mừng: Gioan 20, 19-31= Chúng tôi đã được thấy Chúa/ We have seen the Lord !
A- Tôi cảm nghiệm Sống và chia sẻ 3 bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ và nói: "Chúc anh em được bình an". Mỗi ngày tôi: PS2-38
1/ Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ và nói: "Chúc anh em được bình an". Mỗi ngày tôi thấy có Job, có tiền, có địa vị, vợ đẹp con khôn…nhưng vẫn còn thiếu điều gì trong tâm hồn. Phải chăng có Chúa ở bên nên tôi được bình an? Những gì đã làm cho tôi phải xao xuyến và thất vọng? Điều gì gíup tôi hy vọng?
Jesus came and stood before them: "Peace be with you" ( Ga. 20, 19 )
2/ Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần". Người ta đụơc vui mừng hăng hái trong mọi việc là nhờ có sức khỏe về thể xác lẫn tinh thần. Hoa trái của Chúa Thánh Thần nơi bạn là nhũng đức tính nào? Tại sao ngày nay người ta hay chia rẽ, ghen tương, đố kỵ và hận thù nhau?
Then He breathed on them and said: "Receive the Holy Spirit ". (Ga. 20, 21 )
3/ Thánh Phêrô khen ngợi lòng tin của tín hữu như sau: "Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến,tuy chưa giáp mặt mà lòng vẫn kính tin." Người tín hữu đã được tái sinh bởi Thần Khí Chúa, nhưng còn phải trăm chiều thử thách để tinh luyện đức tin. Tôi đã làm chứng gì cho Chúa trong xã hội hôm nay?
Although you have never seen Him, you love Him, and without seeing you believe in Him". ( 1Ph. 1, 8 )
4/ Cộng đòan tín hữu ngày xưa đã: Hiệp nhất với nhau trong tinh thần huynh đệ, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện chung." Ngày nay, Chúa Thánh Thần đang hoạt động qua các Cộng đòan, nhóm nhỏ tại gia đình. Bạn đã làm gì để các gia đình tương trợ lẫn nhau? Cầu nguyện và hành động có cần không,Tại sao?
The communal life, the temple area together everyday, while in their homes they broke bread. ( Cv.2, 42, 46 )
B- Câu Kinh Thánh hay nhất tôi chọn làm Châm ngôn Sống: ( The Best God"s Word )
* TUY CHƯA THẤY NGƯỜI ANH EM VẪN YÊU MẾN… * ( 1 Phêrô 1, 8)
(Although you have never seen Him, you love Him…)
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì theo Lời Chúa dạy: ( So what am I doing / For action )
- Ca ngợi Chúa khi vui- Tìm kiếm Chúa khi buồn- Nhìn Chúa hiện diện trong mọi người- Đại lượng - Nhân hậu - Hiền từ - Tiết độ - Gia đình liên kết gíup nhau- Nhóm nhỏ Cầu nguyện chung-…
D- Tôi cầu nguyện và Sống lời tôi cầu nguyện. ( I pray and practice / Pray in action )
1- Lạy Chúa, Đức Giêsu đã hiện ra chúc bình an và ban Thánh Thần cho các tông đồ. Xin Chúa ban thêm lòng tin và Thần Khí của Chúa để con mang an vui cùng sức sống đến anh em chúng con.
2- Cộng đòan tín hữu đầu tiên đã chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện. Xin dạy con luôn học hỏi Lời Chúa, đòan kết, chia sẻ và nâng đỡ nhau trong các gia đình.
Lời hay ý đẹp: SỐNG ĐẠO CỤ THỂ NHẤT LÀ LUÔN SỐNG TỐT ĐẸP VỚI NGƯỜI CÙNG KHU XÓM, BẰNG CÁCH HỎI THĂM VÀ GIÚP ĐỠ HỌ TRƯỚC.
Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin - Sr Rosemary Nhàn, MTGQN
Jn 20,19-23
Sau khi chỗi dậy từ cõi chết, món quà đầu tiên mà Chúa Giêsu trao tặng cho các môn đệ: PS2-39
Sau khi chỗi dậy từ cõi chết, món quà đầu tiên mà Chúa Giêsu trao tặng cho các môn đệ không phải là những gì kiêu sa, huy hoàng hay lộng lẫy, mà là một câu nói đơn sơ chất chứa tấm lòng chân thành thương yêu và săn sóc: "Chúc anh em được bình an". (Jn 20,19)
Chính vì yêu thương mà Chúa đã đi bước trước và sớm nhận ra nhu cầu thiết yếu của các môn đệ trong hoàn cảnh lúc đó. Chúa Giêsu đã trấn an, củng cố niềm tin và ban Thánh Thần để gìn giữ các ông. Một trong những điểm nổi bật khiến cho mỗi người chúng ta nên dừng lại và cùng suy tư tại sao Chúa Giêsu đã lặp đi lặp rất nhiều lần lời chúc bình an trong đoạn Tin mừng hôm nay.
Phải chăng Ngài muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết ý nghĩa thâm sâu của nguồn bình an đích thực? Không có bình an của Đức Kitô, cuộc đời các môn đệ khi xưa cũng như chính mỗi người chúng ta hôm nay sẽ dễ dàng bị lún sâu trong phiền muộn, chán nản thất vọng và dần dần sẽ đánh mất đi niềm tin của mình.
Chính vì thế mà biến cố hiện ra của Chúa Giêsu là một niềm vui bất ngờ đối với các môn đệ. Trong lúc các ngài đang hoang mang lo lắng, sợ hãi vì mất Thầy, Chúa Giêsu đã kịp thời đến với họ, an ủi và đồng thời ban cho một niềm vui mới, một nguồn sinh lực mới.
Tuy nhiên để được đón nhận bình an đích thực của Chúa, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải có một đức tin. Đức tin là điều kiện tiên quyết để chúng ta có thể nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đức tin vượt trên sự hiểu biết của con người. Qua đức tin, chúng ta mới nhận ra ánh sáng, chân lý, sức sống và niềm hoan lạc vĩnh cửu.
Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã phán: "Phúc cho những ai không thấy mà tin" (Jn 20,29). Đức tin là một ân huệ Chúa ban cho chúng ta, nhưng tự nó sẽ không lớn lên được nếu không có sự cộng tác của mỗi người trong việc xây dựng một nền tảng của lòng tin vững chắc. Do đó, đức tin đòi hỏi nơi con người trong việc xây dựng và một sự chấp nhận hoàn toàn khi trí khôn loài người không thể giải thích được. Hình ảnh Tôma trong bài Tin mừng hôm nay đã diễn tả cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Với lối suy nghĩa và lý luận của con người, Tôma đã không thể tin, cũng như không thể chấp nhận những lời nói của đồng bạn: "Chúng tôi đã thấy được Chúa" (Jn 20,25). Tôma cảm thấy thật phi lý và có vẻ hoang đường! Để củng cố niềm tin, Chúa Giêsu đã trách Tôma: "Con hãy xỏ ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra và đặt vào cạnh sườn Thầy; đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin." (Jn 20,27).
Trong cuộc sống, có khi chúng ta khó chấp nhận những lời nói hoặc hành động của những người là chứng nhân tình yêu của Chúa. Vì lòng cứng cỏi, vì kém lòng tin, vì hoàn cảnh khó khăn, đau khổ vì cuộc đời lắm lúc như trong ngõ cụt không lối thoát..., ta tưởng chừng như Chúa không hiện diện trong đời ta. Nhưng không phải, Chúa vẫn ở bên cạnh từng người chúng ta, chỉ có điều chúng ta không nhận ra Người mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban thêm niềm tin cho chúng con, xin thánh hóa và hướng dẫn cuộc đời chúng ta luôn biết bước đi trong ánh sáng đức tin, hầu chúng con không dừng lại ở trí hiểu biết và lý luận nông cạn của con người. Xin giúp chúng con biết trao tặng bình an cho những người chúng con gặp gỡ cũng như những người hiện diện trong cuộc đời chúng con. Amen.
Đức tin là một ân huệ Chúa ban cho chúng ta. Nhưng ân huệ ấy không phải là một trái chín: PS2-40
Đức tin là một ân huệ Chúa ban cho chúng ta. Nhưng ân huệ ấy không phải là một trái chín để chúng ta chỉ việc hưởng thụ, cũng không phải là viên ngọc để chúng ta cất giữ cẩn thận. Nó là một hạt giống được gieo vào tâm hồn mỗi người. Hạt giống ấy cần phải biến đổi: nảy mầm, lớn lên và sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả điều này.
Khi một người đến xin rửa tội, Giáo hội hỏi: "Con xin điều gì?" Người đó thưa: "Con xin đức tin." Giáo hội rửa tội cho họ, và từ lúc đó, họ chính thức tiếp nhận Đức tin. Thế nhưng qua năm tháng, Đức tin đó thật sự lớn mạnh trong người này, và nơi người khác, Đức tin đó lại vội vã chết đi, hoặc sống èo ọt, không sinh hoa trái. Đâu là nguyên nhân của sự khác biệt? Đó chính là thái độ của con người. Họ có tích cực cộng tác với Thiên Chúa trong việc chăm sóc và bảo vệ hạt giống đó, hay thờ ơ lãnh đạm, hoặc tệ hơn nữa, cố tình phá hủy mầm sống của hạt giống. Cái khó khăn ở đây, chính là hạt giống Đức tin đòi hỏi nơi chúng ta rát nhiều cố gắng và sự chấp nhận tuyệt đối, vô điều kiện, vượt khả năng con người. Câu truyện trong Phúc âm hôm nay là một bằng chứng.
Kinh nghiệm và lý luận cho Tôma thấy rằng, một người đã chết thì không thể sống lại được. Tôma vừa chứng kiến cái chết của Thầy mình. Chính Ngài đã tắt thở và được mai táng trong mộ. Vậy mà bạn bè lại nói với chàng: Thầy đã sống lại và đã gặp gỡ các anh em ở nơi này, nơi kia. Thật là phi lý và hoang đường...
Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu đã đích thân xuất hiện trước mặt Tôma để củng cố niềm tin của chàng, đồng thời cho chàng thấy rằng, nhiều khi Đức tin đòi hỏi sự chấp nhận vô điều kiện và vượt trên mọi lý luận.
Thật vậy, cuộc sống Đức tin của chúng ta đầy dẫy những "chấp nhận, tín thác, khuất phục". Tôi chấp nhận có Thiên Chúa Ba Ngôi, mà tôi hoàn toàn không hiểu gì. Tôi trao phó đời tôi cho Đức Kitô, Đấng mà tôi chưa bao giờ gặp mặt. Tôi cúi đầu trước một sự kiện mà tôi không thể lý luận được: Thiên Chúa vĩnh cửu và vô hình lại được một trinh nữ cưu mang và hạ sinh. Tôi tin và ánh sáng Đức tin soi dẫn tôi, nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy mình đi trong bóng tối, trong ngõ cụt, trong nghi ngờ... Các tông đồ cũng vậy, dù được sống bên cạnh Chúa, cũng đã phải thốt lên: "Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con".
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ cố gắng hơn trong việc cộng tác với Thiên Chúa để phát triển Đức tin. Bởi vì, một mình chúng ta, chúng ta sẽ bất lực, Đức tin sẽ chết, nhưng có Ngài, Đức tin chúng ta sẽ lớn mạnh, vì "Không có gì Thiên Chúa không làm được" (Lc1,37). Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều này: "Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Phl 4,13). Và nếu lúc nào gặp tối tăm mù mịt, chúng ta hãy tự nhủ: "Dù phải bước qua thung lũng tối, tôi vẫn không sợ, vì Chúa ở cùng tôi" (Tv 23,4). Ngoài ra, chúng ta cũng phải thực hành Đức tin trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Sống và nghĩ như thế, tức là chúng ta đang làm cho hạt giống Đức tin lớn mạnh để sinh hoa kết quả.
Hôm nay là Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh, cũng là ngày cuối của Tuần Bát Nhật Phục: PS2-41
Hôm nay là Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh, cũng là ngày cuối của Tuần Bát Nhật Phục Sinh. Bởi thế, bài Phúc Âm hôm nay mới có ba chữ "một tuần sau". Do đó, phần Phúc Âm bắt đầu từ ba chữ "một tuần sau" này mới là phần chính của chung Phụng Vụ Lời Chúa và của riêng bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh cũng là Lễ Kính Chúa Tình Thương hôm nay. Tuy nhiên, để thấy được chiều hướng và cốt lõi của Mùa Phụng Vụ Phục Sinh, chúng ta nên có một cái nhìn tổng quan về những nét đặc thù nơi các bài đọc được Giáo Hội chọn cho mùa này.
Nét đặc thù thứ nhất nơi Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Phục Sinh, đó là chỉ có Mùa Phục Sinh mới không có các bài đọc (một) được trích từ phần Thánh Kinh Cựu Ước, kể cả nơi các lễ Chúa Nhật cũng như lễ Thường Nhật. Bài đọc (một) cho Chúa Nhật cũng như cho Thường Nhật trong Mùa Phục Sinh hoàn toàn theo Sách Tông Vụ, một chứng từ văn bản ghi lại tất cả hoạt động truyền giáo của Giáo Hội qua thành phần chứng nhân tiên khởi, để nhờ Chứng Từ Giáo Hội này, thế giới tin vào Giêsu Nazarét là Đức Kitô Thiên Sai, Con Thiên Chúa, mà được sự sống đời đời. Câu kết của bài Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay đã thực sự khẳng định về Chứng Từ Giáo Hội, cũng như về tác dụng thần linh của chứng từ này như sau: "Những điều này được ghi chép lại để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, hầu nhờ đức tin ấy, anh em được sự sống bởi danh Người".
Nét đặc thù thứ hai nơi Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Phục Sinh, đó là 7 Chúa Nhật trong Mùa Phục Sinh, kể cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, hầu như hoàn toàn theo Phúc Âm Thánh Gioan, (trừ Chúa Nhật Thứ Ba của chu kỳ phụng vụ Năm A và B theo Phúc Âm Thánh Luca). Trong 7 Tuần Lễ Mùa Phục Sinh này, Phúc Âm của ba tuần đầu Mùa Phục Sinh về việc Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các tông đồ, và bốn tuần còn lại về sự sống nơi Chúa Giêsu (Chúa Nhật IV về chủ chiên thí mạng sống cho chiên được sự sống, Chúa Nhật V và VI về sự sống thân mật giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, Chúa Nhật VII về sự sống Giáo Hội được hiệp thông, như sự sống nơi Chúa Cha và Chúa Con).
Như thế, chủ đề của Mùa Phục Sinh là chủ đề "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Jn 11:25): Ba tuần đầu về chủ đề Chúa Giêsu là sự sống lại và bốn tuần sau về chủ đền Chúa Giêsu là sự sống.
Phép Rửa trong Thánh Thần
Nét đặc thù thứ ba nơi Phụng Vụ Lời Chúa của Mùa Phục Sinh, đó là sự kiện Giáo Hội truyền giáo xẩy ra trước biến cố Thánh Thần Hiện Xuống. Thật vậy, sau khi cho đọc hết Sách Tông Vụ, nhất là ở bài đọc (một) Lễ Thường Nhật, kể từ Bài Giảng Tiên Khởi (Thứ Hai trong Tuần Bát Nhật), trong suốt Mùa Phục Sinh, Giáo Hội quay trở lại đoạn đầu sách với biến cố Thánh Thần Hiện Xuống. Tuy nhiên, không phải vì thế mà bài đọc (một) và Phúc Âm trong Mùa Phục Sinh không đồng qui ở Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ở chỗ, bài đọc (một) của Mùa Phục Sinh cho thấy Giáo Hội thực hiện việc Truyền Giáo, tức việc làm chứng cho Biến Cố Phục Sinh, hay làm chứng cho Đấng Phục Sinh thật là Đức Kitô Thiên Sai, Con Thiên Chúa, một việc có mục đích là để thế gian "được sự sống bởi danh Người", nghĩa là được hiệp thông thần linh, đúng như nguyện ước của Chúa Giêsu trong Lời Nguyện Tiệc Ly, một ước nguyện cũng chính là chủ yếu của Dự Án Cứu Độ và Công Cuộc Cứu Độ của Thiên Chúa, một ước nguyện được nhắc đến ở Phúc Âm Thánh Gioan ở Chua Nhật VII cuối cùng của Mùa Phục Sinh cho cả ba chu kỳ A, B và C.
Nếu Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống của Kitô Giáo được cử hành cũng ở vào thời điểm 50 ngày sau Lễ Vượt Qua như Do Thái Giáo cử hành với Lễ Ngũ Tuần, hay lễ hoa mầu (xem Ex 23:16), thì quả thực việc Giáo Hội Truyền Giáo để thu hoạch hoa mầu cũng cần phải thực hiện cho đến khi đạt được hoa mầu tuyệt vời nhất là chính Tặng Ân Thánh Thần Hiện Xuống để canh tân bộ mặt trái đất vậy.
Như thế, không phải Thánh Thần chỉ là hoa trái của việc Truyền Giáo chứ không phải là tác nhân Truyền Giáo. Trái lại, phần đầu của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, ngay từ khi sống lại từ trong cõi chết, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho các vị tông đồ rồi vậy. Thật thế, "Đấng đến làm phép rửa trong Thánh Thần" (Jn 1:33), như Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người minh nhiên chứng nhận về Người trên bờ Sông Dược Đăng trước mặt dân Do Thái, đã thực hiện phép rửa trong Thánh Linh này lần đầu tiên cho các tông đồ của Người ngay từ khi Người sống lại từ trong cõi chết, bằng hơi thở từ thân xác phục sinh của Người. Nhờ đó, ngay lúc bấy giờ, các tông đồ chẳng những đã được "tái sinh" (Jn 3:5), được "trở nên con người mới" (Eph 4:24; Col 3:10), mà còn vừa có đủ tư cách lẫn quyền năng để cứu độ nhân gian nữa, tức để ban sự sống mới cho nhân gian, hay để tái sinh nhân gian vào mối Hiệp Thông Thần Linh. Ở chỗ: "Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm tội ai thì người ấy bị cầm tội".
Đức Tin Làm Nhân Chứng
Trong việc làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ chẳng những phải được tác động bởi Thánh Linh là "quyền năng Đấng Tối Cao" (Lk 1:35), mà còn là việc các vị chứng thực Đức Tin Thần Linh của mình nữa. Nếu trước Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, nghĩa là trước Cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người, đức tin của các vị tông đồ được thể hiện theo chiều hướng chấp nhận Thày: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16), thì đức tin của các vị sau Cuộc Vượt Qua của Người, nghĩa là sau khi Người phục sinh từ trong cõi chết, lại theo chiều hướng làm chứng cho Thày. Phân tách vậy thôi, chứ thật ra chủ ý của Chúa Kitô khi chọn gọi các vị, Người đã muốn các vị sau này sẽ trở thành chứng nhân cho Người rồi. Bởi thế, đối tượng đức tin của các vị, dù trước hay sau Biến Cố Vượt Qua, cũng chỉ là một, một đối tượng duy nhất: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Nếu Con Người Giêsu Nazarét phục sinh đã chứng thực Người thực sự Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thế nào, thì một khi đã công nhận Người đã sống lại từ trong cõi chết là các vị đồng thời cũng tin rằng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Bởi thế, như trong Bài Giảng Tiên Khởi cho thấy, khi làm chứng Con Người Giêsu Nazarét thực sự đã phục sinh là các vị làm cho dân Do Thái nói riêng và tất cả mọi dân tộc nói chung nhận biết Con Người Giêsu Nazarét này chính "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Nếu phần thứ nhất của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến Tác Nhân Truyền Giáo là Thánh Thần thế nào, thì phần thứ hai của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến Đức Tin Chứng Tá như vậy. Người đã đến và đã tỏ mình cho con người cuối cùng trong Nhóm Tông Đồ để tất cả mọi người trong các vị đều đồng tâm nhất trí tin vào Người. Dấu hiệu để chứng thực Người đã sống lại từ trong kẻ chết, như tông đồ Tôma đòi hỏi, cũng như chính Người đã sử dụng ngay vào lần hiện ra thứ nhất, (cả hai lần đều được bài Phúc Âm hôm nay đề cập đến), đó là những dấu vết tử giá của Người. Bởi vì, chỉ Thày mới có những dấu hiệu này. Hai tên tử tội bị đóng đanh hai bên tả hữu của Người dù có những dấu tử giá như của Thày đi nữa, nhưng chỉ có Thày mới báo trước việc Người phục sinh từ trong cõi chết mà thôi. Vậy nếu có dấu hiệu ấy tức là Thày đã chết, thì giờ đây, tận mắt thấy được (chứ không cần chọc cả bàn tay vào cạnh sườn và chọc ngón tay vào các lỗ đinh) thân xác xuất hiện trước mặt mình với những dấu hiệu ấy, các vị tông đồ làm sao có thể chối cãi được đó là Thày nữa. Sau khi thực sự đã bị tử giá mà không bị sự chết hủy diệt, trái lại, còn làm chủ sự chết, thắng được sự chết, bằng việc sống lại từ trong cõi chết như thế, thì quả thực Thày mình là một Chúa Tể, là chính Thiên Chúa vậy: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi".
Đúng thế, Chúa Kitô sống lại từ trong cõi chết không phải chỉ để làm Chúa Tể của sự chết mà là Chúa Tể của chính lòng người, là Thiên Chúa của con người, một Chúa Tể và là một Thiên Chúa muốn tỏ mình cho con người, tìm hết cách để tỏ mình cho con người, để con người có thể nhận ra Người và tôn thờ Người: "Lạy Ngài tôi tin", như người mù từ lúc mới sinh trong bài Phúc Âm tuần trước, hay như tông đồ Tôma trong bài Phúc Âm hôm nay: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi".
Vấn đề thực hành sống đạo:
Khi xin Chị Thánh Faustina người Balan vận động để xin Tòa Thánh thiết lập Lễ Kính Chúa Tình Thương vào Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, Chúa Giêsu không nói lý do tại sao Người chọn ngày này. Tuy nhiên, căn cứ vào những gì Chúa hướng dẫn chị liên quan đến bức ảnh Chúa Giêsu có hai luồng sáng phát ra từ trái tim Chúa, và hàng chữ "con tin nơi Chúa" ở phía chân bức ảnh, chúng ta thấy rất thích hợp với bài Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh hôm nay. Bởi vì, trong bài Phúc Âm hôm nay, phần đầu liên quan đến lòng thương xót Chúa (Divine Mercy), qua sự kiện Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ quyền tha tội, và phần sau liên quan đến lòng tin của con người, một lòng tin có được là do thấy những dấu vết (tử giá) của lòng thương xót Chúa.
Về "hai luồng sáng" phát tỏa từ Trái Tim Chúa Giêsu, chính Chúa Giêsu cho biết là "tiêu biểu cho máu và nước", và ĐTC Gioan Phaolô II đã giải thích "nếu máu gợi lại cho thấy hy tế Thập Giá và tặng ân Thánh Thể thì nước, theo biểu hiệu của Phúc Âm Thánh Gioan, chẳng những biểu hiệu cho Phép Rửa mà còn cho cả tặng ân Thánh Linh nữa" (L"Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, 3/5/2000). Còn về việc thiết lập Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng, ĐTC Gioan Phaolô II, trong bài giảng Phong Thánh cho chị nữ tu Faustina ngày 30/4/2000, cũng chính là Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, đã nói đến điều này: "Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh này từ nay trở đi trong cả Giáo Hội sẽ được gọi là "Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa"" (cùng nguồn vừa dẫn). Ngày 5/5/2000, Thánh Bộ Phụng Tự và Qui Luật Bí Tích, đã chính thức ra thông báo về việc thành lập này như sau: "Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định rằng, theo Lễ Nghi Rôma, sẽ thêm tên gọi "(Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa) vào tên gọi "Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh","" (L"Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, 31/5/2000).
Như thế, việc thực hành sống đạo của Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh này không gì hơn là thực hiện việc bày tỏ lòng "con tin nơi Chúa", như tông đồ Tôma đã tuyên xưng "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi" trước Dấu Vết Tử Giá của Lòng Thương Xót Chúa vậy. Nếu "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24) phải Nhập Thể và Vượt Qua để có thể tỏ hết mình ra và thông hết mình ra cho nhân loại, thì còn gì đẹp lòng Ngài hơn và vinh danh Ngài hơn là việc con người nhận biết Ngài, tin tưởng Ngài và phó mình cho Ngài!
Hai lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau: 1. Chúa Giêsu nâng đức tin của: PS2-42
Hai lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau:
1. Chúa Giêsu nâng đức tin của các một đệ lên một bậc: từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng mà giác quan kiểm nghiệm được (câu 20 “Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài” ; câu 25, Tôma đòi điều kiện “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài...) lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe (câu 29: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”)
2. Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
B.... nẩy mầm.
1. Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau : - Em có bằng lòng lấy anh không ? - Bằng lòng. - Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp ”kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế ? - Vì em yêu anh ! Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin. (Góp nhặt)
2. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi: - Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ? - Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao. (Góp nhặt)
3. “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. “Xoảng... !“ Cái bình vỡ. “Hư quá ! Mẹ đã bảo rồi”. Không phải một lần nhưng nhiều lần xảy ra như thế. Mặc dù đã được me báo trước, nhưng tôi vẫn cứ muốn thử xem sao.
Lớn lên, tôi hiểu biết nhiều hơn nhưng cũng đa nghi hơn. Cái gì hơi khác thường là tôi đòi phải có bằng chứng rõ ràng. Với một công thức mới chưa được chứng minh, tôi không tài nào nhớ được. Và đôi khi, trong những giây phút trao lòng, tôi cũng đã hỏi: “Không biết có Chúa thật không ?”.
Cuộc sống càng phát triển, dường như con người chỉ muốn tin vào những cái có thể cân, đong, đo, đếm được mà thôi.
Nhưng thước đo nào đủ cho chiều cao thập tự. Cán cân nào đủ đo tình yêu của Người.
Lạy Chúa, xin cho con biết vững tin vào tình yêu cứu độ. (Epphata)
4. “Người buồn nhìn lui, người lo nhìn quanh, còn người tin thì nhìn lên” (vô danh)
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái . Đức Giê-su hiện đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em !" Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Một người trong nhóm mười hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa !" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !" Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !"
Đức Giê-su đã làm rất nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa , và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Với Tôma, ông chỉ còn chờ thập giá mà thôi. Khi Chúa Giêsu đề nghị đến Bê-ta-ni-a lúc được: PS2-43
Với Tôma, ông chỉ còn chờ thập giá mà thôi. Khi Chúa Giêsu đề nghị đến Bê-ta-ni-a lúc được tin La-da-rô bị bệnh, Tôma phản ứng: "Chúng ta hãy tới đó để cùng chết với Ngài". Tôma không thiếu can đảm, nhưng ông có tính bi quan. Không ai nghi ngờ việc Tôma rất yêu Chúa Giêsu . Ông yêu Ngài đủ để sẵn sàng cùng đi với Ngài lên Giêrusalem , sẵn sàng để chết trong khi các môn đệ khác phân vân, sợ hãi. Điều mà Tôma chờ đợi đã xảy ra, và khi việc xảy ra như ông chờ đợi thì lòng ông vẫn đau đớn vô cùng. Ông đau đớn đến độ không muốn nhìn mặt ai nữa, ông ở riêng với niềm đau của mình.
Vua George Đệ Ngũ thường nói một trong những qui luật sống của mình: "Nếu ta phải chịu đau khổ thì hãy để ta như một con vật tốt giống và để ta chịu khổ một mình trong cô đơn". Tôma phải đối diện với nỗi đau buồn của ông trong cô đơn. Vì thế, khi Chúa Giêsu trở lại với các môn đệ thì ông không có mặt. Với ông, tin báo Chúa Giêsu đã sống lại là một tin dường như quá tốt lành đến độ không thể có thật, vì thế ông đã không chịu tin. Với tâm trạng phân vân do bản tính bi quan, ông tuyên bố chẳng bao giờ ông tin Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết cho đến khi thấy tận mắt, đặt ngón tay ông trên dấu đinh trên tay Chúa và đặt bàn tay ông vào chỗ mũi giáo đã đâm nơi hông Ngài (Kinh Thánh không chép gì về các vết thương nơi bàn chân Chúa Giêsu , vì trong hình phạt đóng đinh vào thập giá, đôi chân không bị đóng đinh, chỉ cột hờ vào đó mà thôi).
Thêm một tuần lễ trôi qua, lần này thì Tôma có mặt với các môn đệ khác. Chúa Giêsu biết rõ tấm lòng của Tôma. Ngài lặp lại lời ông và mời ông tự làm cuộc trắc nghiệm mà ông từng đòi hỏi. Bấy giờ, lòng Tôma tuôn tràn ra tình yêu thương và lòng tôn thờ, ông chỉ có thể thốt lên: "Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma ơi, ngươi cần thấy tận mắt rồi mới chịu tin, nhưng sẽ có lúc người ta chỉ thấy bằng đôi mắt của đức tin và tin nhận". Trong câu truyện này tâm tánh của Tôma đã bộc lộ rõ ràng trước mắt chúng ta:
1. Tôma đã phạm một lỗi lầm. Ông đã rút lui khỏi các buổi họp mặt hiệp thông của các môn đệ . Ông tìm sự cô đơn hơn là họp nhau lại. Và vì không có mặt với các bạn nên ông mất cơ hội gặp Chúa Giêsu lúc Ngài đến lần thứ nhất. Chúng ta sẽ mất mát nhiều nếu tự tách mình ra khỏi sự hiệp thông với các kitô hữu khác để tìm cách sống cô đơn. Nhiều điều có thể xảy đến khi chúng ta cùng nhóm họp hiệp thông với nhau trong Giáo Hội Chúa nhưng sẽ không xảy ra nếu chúng ta sống cô đơn. Khi gặp cảnh đau buồn, chúng ta thườn có khuynh hướng muốn đóng cửa lại nhốt mình riêng một nơi, không muốn gặp ai cả. Nhưng chính những lúc như thế, mặc dầu đau buồn, chúng ta nên tìm thông hiệp với các môn đệ khác, vì trong sự thông hiệp đó chúng ta có cơ may gặp Chúa mặt đối mặt nhiều hơn cả.
2. Nhưng Tôma có hai đức tính lớn. Ông nhất định không chịu nói là mình tin khi ông không tin, không bao giờ nói là mình hiểu trong khi ông không hiểu. Ông có thái độ thành thật bất khả khoan nhượng. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người không chịu thông qua bài tín điều khi chưa hiểu nó dạy gì. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng.
Một người đòi hỏi cho chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến, không thật sự tin tưởng. Chính sự hoài nghi như thế đến cuối cùng sẽ đạt đến chỗ tin chắc.
3. Đức tính kia của Tôma là khi đã biết chắc chắn, ông sẽ đi cho đến cùng. Ông nói: "Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi". Với Tôma không có vị trí lưng chừng. Ông không làm bộ hoài nghi chỉ nhằm chơi trò xiếc tinh thần, ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã biết chắc rồi, ông hoàn toàn tuân phục. Khi một người chiến đấu với những nỗi hoài nghi để đi đến chỗ tin quyết Giêsu là Chúa, người ấy đã đạt được sự chắc chắn mà những người dễ chấp nhận không suy nghĩ sẽ chẳng bao giờ đạt được.
Chúng ta không rõ những ngày sau đó điều gì xảy ra cho Tôma Nhưng có một sách ngoại kinh nhan đề "Các công việc của Tôma" dựng lại tiểu sử của ông. Dĩ nhiên đây chỉ là truyền thuyết, nhưng ẩn trong truyền thuyết cũng có phần nào lịch sử của ông, và trong sách đó, Tôma được mô tả trung thực với tánh tình của ông. Sau đây là một phần trong câu truyện đã được kể về ông.
Sau khi Chúa sống lại, các môn đệ phân bổ khu vực rao truyền Phúc Âm , mỗi người đến một nơi nào đó để truyền bá Phúc Âm hầu mọi người khắp thế gian đều được nghe. Tôma bắt thăm nhằm xứ Ấn độ (Giáo Hội thánh Tôma ở miền nam Ấn truy lai lịch của họ từ Tôma). Thoạt đầu Tôma không chịu đi, ông bảo không dủ sức để thực hiện một chuyến đi xa như thế. Ông nói: "Tôi là một người Do thái, làm sao lại có thể đến sống giữa những người Ấn độ mà truyền giảng chân lý cho họ được ?" Tối đến, Chúa Giêsu hiện đến với ông và bảo "Này Tôma, đừng sợ, hãy đến Ấn độ và giảng ở đó, vì ân sủng của Ta ở cùng ngươi".
Thế nhưng Tôma vẫn ngoan cố từ chối. Ông nói: "Nếu Ngài muốn sai tôi đi thì sai, nhưng đi nơi nào khác chứ đến với dân Ấn, tôi sẽ không đi đâu !" Bấy giờ có một thương gia tên Abbanes từ Ấn đến Giêrusalem , ông được nhà vua Gundaphorus sai đi tìm một thợ mộ giỏi đem về Ấn độ, và Tôma vốn là thợ mộc. Chúa Giêsu đến cùng Abbanes ngoài chợ và hỏi: "Ông có muốn mua một thợ mộc không ?" Abbanes đáp: "muốn". Chúa Giêsu nói: "Tôi có một tên nô lệ làm thợ mộc và tôi muốn bán ! Rồi Ngài chỉ Tôma đứng đàng xa, họ ngã giá và Tôma bị bán. Tờ bán viết như sau: "Tôi tên là Giêsu, con trai Giuse thợ mộc, nhìn nhận có bán tên nô lệ của tôi là Tôma cho ông Abbanes, thương gia của Gundaphorus, vua dân Ấn". Sau khi viết xong giấy bán, Chúa Giêsu đi tìm Tôma, đưa ông đến với Abbanes. Abbanes hỏi: "Có phải người đó là chủ của anh không ?" Tôma đáp: "Phải". Abbanes nói: "Tôi đã mua anh từ ông ta". Tôma yên lặng. Sáng hôm sau, Tôma dậy sớm cầu nguyện, sau đó ông thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa, con xin nhận bất cứ nơi nào Ngài muốn, nguyện ý Ngài được nên trọn". Đó chính là Tôma một người chậm tin, chậm thuần phục, nhưng khi đã thuận phục thì thuận phục hoàn toàn.
Câu truyện tiếp tục kể rằng vua Gundaphorus ra lệnh cho Tôma xây một cung điện, Tôma tâu rằng có đủ khả năng để làm việc ấy. Nhà vua cấp tiền đầy đủ cho ông mua vật liệu và thuê nhân công, nhưng ông đem phân phát hết cho người nghèo. Ông luôn luôn tâu với vua rằng ngôi nhà đang được xây cất, sau đó nhà vua sinh nghi bèn cho gọi Tôma đến hỏi: "Ngươi xây cung điện cho ta xong chưa ?" Ông đáp: "Bây giờ hoàng thượng chưa thể đến xem được, nhưng sau khi lìa bỏ đời này thì hoàng thượng sẽ thấy". Thoạt đầu nhà vua nổi cơn thịnh nộ và tánh mạng Tôma lâm nguy, nhưng cuối cùng nhà vua tin Chúa. Như thế, Tôma đã đem Kitô giáo đến Ấn độ.
Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng. Đức tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi, vâng lời như Tôma vẫn tốt hơn cái gật đầu dễ dàng đồng ý nhận làm việc gì đó mà không cân nhắc, để rồi sau đó rút lại điều mình đã hứa.
Chúng ta đang ở vào tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao cao: PS2-44
Chúng ta đang ở vào tuần bát nhật Lễ Phục Sinh.
Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao cao cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta. Thánh Phanlô nói: "Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi” (ICor 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ độ Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những bàn chờ "kính thần vô danh". Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng: “Khi tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”. Phaolô buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại. (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp, một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại. Bỗng nhưng, trong khi cửa đóng then cài. Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói: Shalom-Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bình an vui mừng cho họ và sai họ đi phổ cập ơn cứu rỗi: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con". Chúa Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt 9,2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi thở, "Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha; các con cầm tội ai thì họ bị cầm buộc” Ngày khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (STK 2,7) thì nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là sự bình an (Ga 5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng niềm tin đề tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại. Tôma không còn. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin",nếu tôi không thể kiểm chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một lời quyên xưng trong sáng, tóm tắt tắt cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chiết để lên tội ta nhưng nay Ngài đã phục sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa. Trong dịp này, Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là phúc thật Đức Tin. Ngài nói: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin, Phúc cho ai đã không thấy mà tin" (Gn 20, 29) . Đức tin là một đặc ân của Thiên Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây 50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Canel và nhà văn Ernije Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng được chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Nậm 1892, trên chuyến tàu Hành hương Lộ-đức có hai người thời danh cùng đi để khảo sát là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn F.e Zola. Tại ga Austerlit, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt vọng. Bà này là Marie Lebranche, Zola nói: "Bà này đến Lộ-đức khỏi bệnh chì côi tin ! Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quỳ cầu nguyện một giờ. Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được ơn trở lại Bác sĩ viết cuốn "Hành trình Lộ-đức" đe nói lên sự thật; Zola chối sự thật trong cuốn "Lourdes” của ông.
“Tôma vì con thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Vào chiếu hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần các môn đệ khi Đó tụ tập lại.. Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà...
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách: PS2-45
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày một cách tự nhiên, chúng ta có xu hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, Đó là với Tôma.. bởi vì chúng ta thường khi tự đồng hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực tiễn là có dưới tay mình một người nào Đó hoài nghi, một người nào Đó khó tin... và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính chúng ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng ta đọc toàn thế văn bản.
Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện ra, chuyện Đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu chính họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thế luôn luôn ở với nhau được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu sống lại đến thăm chúng ta có thế sai lầm khi nghĩ rằng Đức tin là một công việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thứ nghiệm, nhận biết, cảm thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,... hội họp lại.. trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu hiện đến và ở giữa họ.
Khi Thánh Gioan viết: điều Đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Đức Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà người này, khi ở nhà kia. Họ Đón tiếp nhau. Họ tin cậy nhau có những vụ bỏ cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm... Họ cũng sợ... Họ cài chốt các cửa lại nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu tiên này: một cách huyền nhiệm Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân thuộc của Người, tại nơi họ đang ở: Êphêsô, Côrintô, Giêrusalem, Rôma. Vâng, mỗi Chúa nhật, chính là Lễ Phục sinh! Chúa ở Đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính Chúa đã làm cho chúng con được sống... Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa, hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chốt cửa nhà một cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi, chớ chi các bức tường trong nhà tù của chúng con sắp đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hơn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này, chúng ta hãy xin Đức Kitô, đê giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khởe, như những gò bó đau đớn là tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp...Nơi mà ở Đó họ đã gài then cửa!
Người nói với họ: "Bình an cho anh em!". Nói xong, người cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: “bình an cho anh em!" .
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là một niềm vui dễ dãi; niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khoẻ được tốt lành, tuổi trẻ ở Đó đầy sức sống, khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia đình được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tình huống về cơ bản là thất vọng cái chết của một Đấng bị Đóng đinh mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu
Ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật, giống như ngày Đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh mục: "Bình an cho anh chị em!". Và Công đồng Vatican II đã lập lại truyền thống xưa "hôn bình an": các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô trao cho nhau một cái bắt tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử chỉ tầm thường chính là “trở nên Đức Kitô" với người gần ta, khi nhiều người họp nhau lại nhân danh. ta , Ta sẽ ở giữa họ.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế! Chính Đức Kitô nói lại với chúng ta... Tôi, Người đàn ông đáng thương, người đàn bà đáng thương tôi là "Giêsu được sai đến cùng anh em tôi.. đúng như Người đã được Cha minh sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi qua nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về được Giêsu chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta: “sứ mệnh" của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần tôi được Đức Giêsu sai đi.. như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ này thêm một lần nữa, Đó là những từ Latinh và Hy lạp không được dịch ra, hỡi ôi “Sứ mệnh" có nghĩa “sự sai đi" (từ Missus trong Latinh)... và "tông đồ", có nghĩa là "người được sai đi" (từ apostolos trong tiếng Hy Lạp).
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi trường cuộc sống của tôi, tôi không ở Đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến Đó, nhân danh Người, vì lợi ích của chính Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi ! Tôi còn phải nói với bạn một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn.. người đang sống trong tôi: tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha
Khi đã nói xong, Người thổi hơi trên họ và Người nói với các ông: "Anh em nhận lấy Thánh Thần".
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới.. Thần Khí của Đức Giêsu được truyền đạt cho các môn đệ của Người Đức Giêsu đã chết, "trở lại cùng với Cha". Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người...họ đi theo công trình của Người: Thánh phaolô sẽ nói: "Anh em là Thân thế Đức Kitô, anh em là Đền Thờ của Thánh Thần thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình, Đức Giêsu lặp lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7) "Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spiritus)”
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ Phục sinh: cái chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết, chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong những kẻ chết (Rm 8,11) trong kinh Tin Kính, Đó là điều mà chúng ta khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban sự sống Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu ta dám nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết đồng thời mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh “Nhờ sự Phục Sinh Người được lập làm Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần".
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha...
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc.. các tội lỗi. Lời lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ "tích cực". Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên trần gian này, họ là những người Maria theo lòng thương xót của Thiên Chúa như Đức Giêsu khi trước: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong giáo đường Nadarét, lúc bắt đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi, Thần Khí thiên Chúa đã thánh hóa tôi, Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những người tù đầy..." (Lc 4,18-19) tôi có phải là người mang tinh thần Đó, Thần Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thiết là một ân huệ Phục sinh..
Một trong Nhóm Mười Hai Tôma, lúc Đó không ở với các ông, khi Đức Giêsu hiện đến... ông tuyên bố: "Nếu tôi không thấy.. tôi sẽ không tin..."
Đấy là người đến trễ, đến sau cuộc lễ gặp gỡ. Tôma, luôn luôn, trong tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con Người tích cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu” (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của Ladarô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga 11,15-16).
Tám ngày sau.. Đức Giêsu lại đến: "Đặt ngón tày anh vào đây hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa..."
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài! Người đã để cho Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần: Chính với một cách mỉm cười mà tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh bạn đáng thương của tôi ơi , bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin.. nhưng tôi vẫn ở Đó, vô hình, có nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc Đó. Oi! Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa người luôn có tất cả thời gian của Người.
Tôma nói: "Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con".
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta, sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vô hình, vẫn có ở Đó ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở Đó.
Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thế trông thấy những thực tại cao cả nhất của thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta tới. Đó chính là hạnh phúc đích thực.
Các bài đọc hôm nay cho thấy một đặc tính tất yếu của đức tin: nếu thực sự tin thì tất nhiên: PS2-46
Các bài đọc hôm nay cho thấy một đặc tính tất yếu của đức tin: nếu thực sự tin thì tất nhiên sẽ vui. Bài Tin Mừng kể rằng trước khỉ gặp Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ sợ, nhưng khi gặp Ngài thì "các môn đệ vui mừng" ; Đoạn sách Công vụ kể: các tín hữu cộng đoàn Giêrusalem "ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ"; còn trong bài đọc 2, thánh Phêrô bảo anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em".
Vậy mà hiện nay nhiều người ở ngoài nhìn vào Giáo Hội thì thấy hình như các Kitô hữu có vẻ buồn, đức tin giống như một cái khuôn, thậm chí một nhà tù giam hãm họ. Tại sao ?
2. Sống với nhau như anh em
Con người thời nay khao khát được sống trong một cộng đoàn có anh có nghĩa. Có nhiều người than "Tôi thấy mình chỉ là một con số giữa một đám đông vô tình". Các nhà tâm lý xã hội đặt cho tình trạng này cái tên là: "đám đông cô độc". Đó là kết quả của chủ nghĩa cá nhân mà chúng ta được giáo dục ngay từ nhỏ.
Vậy niềm khao khát trên phải chăng là một trong những dấu chỉ của thời đại? Làm thế nào để thỏa mãn được khát vọng tốt đẹp ấy?
Bài trích sách công vụ có thể cho ta một số yếu tố để trả lời:
-Cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa: vì sống cộng đoàn huynh đệ là một việc vượt quá khả năng con người ích kỷ, nên nếu có Chúa giúp thì mới thực hiện được.
-Chia sẻ: vì yêu thương thì phải cho đi.
-Cởi mở: mỗi người không tự khép kín trong cái tôi cô độc của mình nhưng phải mở lòng ra với mọi người.
3. Tin vì thấy và tin do nghe.
Trên lý thuyết, tin vì thấy có giá trị hơn tin do nghe.
Nhưng trên thực tế, người ta tin do nghe nhiều hơn tin vì thấy: đứa trẻ không dám thọc tay vào ổ điện là do nó nghe lời cha mẹ căn dặn chứ không phải vì đã có kinh nghiệm bị điện giật; cậu học sinh tin rất nhiều điều thầy cô dạy mặc dù chưa bao giờ cậu thấy.
Và xét cho cùng, nội dung của một niềm tin có lẽ không quan trọng cho bằng lòng tín nhiệm vào uy tín của người thông tin: do không tín nhiệm vào một tên bá vơ ngoài đường cho nên dù hắn có hứa hẹn bao nhiêu điều tốt đẹp tôi vẫn không tin; ngược lại do tín nhiệm vào cha mẹ, thầy cô nên các vị này bảo gì tôi cũng tin.
Và như thế, cuối cùng, tin do tín nhiệm là một thể hiện của tình yêu. Do đó, tin do tín nhiệm có giá trị hơn tin nhờ bằng chứng.
4. Chuyện minh họa.
a/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
-Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
-Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin:
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:
-Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
-Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
-Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
-Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi:
-Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không? -Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế! c/ Đức tin nhỏ, đức tin lớn.
Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn, bạn
Ta vừa nghe Lời Chúa: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Và ta cũng vừa nghe phần kết: PS2-47
Ta vừa nghe Lời Chúa: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Và ta cũng vừa nghe phần kết thúc bài Tin Mừng: “Những điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là đấng Kitô, con Thiên Chúa, và để anh em tin và được sống nhờ danh Ngài”.
Quả thực trong ba nhân đức đối thần: Đức tin, đức cậy, đức mến, tuy đức mến cao trọng nhất, nhưng đức tin lại quan trọng nhất, vì có tin Chúa, ta mới có thể mến Chúa, và có tin Chúa ta mới theo Chúa, ta mới sẵn sàng chịu đựng mọi sự vì Chúa. Cũng vì tin Chúa, tin vào cuộc sống vĩnh cửu, nên các vị tử đạo đã chấp nhận tất cả, dù bị tra tấn, bị xấu hổ, và chấp nhận việc kết thúc cuộc sống chóng qua của các Ngài bằng bất cứ hình thức nào, miễn là các Ngài luôn luôn trung thành với Chúa, với đức tin của mình.
Khi bị giam trong ngục, Thánh Hồ Đình Hy (tử đạo ngày 22.5.1857, 49 tuổi0 đã tâm sự với các bạn tù:
“Tôi thấy, đời tôi sắp tận cùng rồi, chỉ mong sao giữ vững đức tin, đến giớ phút cuối đời”.
Ngày 30-4-1857, trong bản án xử tử Thánh Hồ Đình Hy, nhà vua còn ghi tiếp phải xử án thế nào nhưa sau:
“Trẫm hạ lệnh cho 5 quan triều đình và 15 binh sĩ dẫn y đi vòng quanh thành nội ba ngày. Khi ngang qua chợ và nơi công cộng, phải rao tội y cho dân biết… Hơn nữa tại mỗi ngã ba đường, Trẫm truyền đánh y thêm 30 trượng. Sau ba ngày như thế, sẽ chém đầu. Có thể bọn Gia tô lấy làm thế tủi nhục, mà lo sửa mình”.
Thế là giữ kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857 Thánh Hồ Đình Hy thân hình hom hem, đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy mú, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao:
“Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”
Tháng 2 năm 1857, quan thái bộc Hồ Đình Hy bị bắt.
Vua Tự Đức ra lệnh cho các quan, bằng mọi cách bắt ông nhận tội, ép buộc ông bước lên Thập giá, và kê khai các Linh mục, cùng lính có đạo. Ông cương quyết không nghe, đến sau vì bị tra tấn nặng nề, ông lỡ lì khai tên một vài tín hữu. Thực ra ông nghĩ rằng những người này đã trốn đi nơi khác, nào ngờ “đứt dây động rừng”, dựa vào lời ông triều đình bắt được 29 người. Trong số này, 21 người vì kiên trung với đức tin, bị khắc tự và phát lưu. Ông cho rằng tất cả bị bắt là bởi mình nên khóc lóc ân hận, xưng tội xin Chúa thứ tha, và kiên quyết dùng chính máu mình, để rửa sạch lỗi lầm đó.
Có lần vua Tự Đức đích thân xét xử và khuyên ông nghĩ lại, ít là giả bộ bước qua Thập giá. Ông thẳng thắn từ chối, và nói:
“Tâu Bệ Hạ, đã 30 năm phục vụ dưới các triều vua, lúc nào thần cũng là tôi trung hết lòng yêu nước. Thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức kitô, đền bù tội lỗi và được sống thánh thiện”.
Sáng ngày 22-5-1857: Quan thái bộc bị đưa ra pháp trường. Dân chúng tuốn đến xem rất đông. Dù lương hay giáo, đều bùi ngùi thương tiếc vị quan thanh liêm, tốt bụng. Qua cầu An Hòa, ông nói với lính rằng: “Đi xa làm chi! Ở đây tôi có nhiều bạn hữu và bà con”. Thế là thay vì đến cống Đốc Sơ, ông được xử ngay tại An Hòa.
Vì là một quan nổi tiếng, lính cho ông chút đặc ân cuối cùng. Ông thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình thản hút hết một điếu thuốc lào, sau đó vị chứng nhân trung thành đứng lên, thật điềm tĩnh, sửa lại đều tóc, y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện… Hai Linh mục người Việt trong đám đông ra dấu ban Bí tích Hòa Giải cho ông. Cuối cùng ông đưa đầu cho lý hình thi hành phận sự.
Một em bé mới 10 tuổi, làm việc cho một tờ nhật báo Newyork như một người học nghề. Mọi: PS2-48
Một em bé mới 10 tuổi, làm việc cho một tờ nhật báo Newyork như một người học nghề. Mọi sự đều trôi chảy, cho đến một ngày thứ bảy, khi em được trao một công việc phải làm xong trước ngày thứ hai. Như vậy là em phải làm việc cả ngày Chúa nhật. Chú bé đến phòng ông giám đốc và nói lắp bắp: “Thưa ông, cháu chỉ làm việc đến 12 giờ đêm nay” Ông giám dốc càu nhàu: “Cháu không thể làm xong đêm nay đâu”.
Anh bạn trẻ cố gắng hết sức nhưng đến nửa đêm mà công việc vẫn chưa xong. Thế là chú bé run rẩy cầm những tờ giấy trong tay đến nói với ông giám đốc: “Thưa ông, cháu phải nghỉ thôi, cháu không thể làm việc xác ngày Chúa nhật. Cháu không thể phá bỏ lề luật Chúa”.
Ông chủ cố gắng thuyết phục chú bé rằng: vài giờ làm việc vào ngày Chúa nhật cũng không xấu lắm đâu. Nhưng chú bé đã được mẹ dạy dỗ, cứ đứng yên và chờ đợi cho đến khi ông chủ vỗ vai chú bé mỉm cười và bảo: “Được lắm, cháu có đức tính rất tốt, cháu là người cần có ở đây. Cháu có thể làm xong công việc đó vào ngày thứ hai. Cháu hãy đi nhà thờ, làm bổn phận thờ phượng Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cháu”.
Anh bạn trẻ đó tiến bộ vững chắc trong việc in ấn. Tên anh ta là John Harper, người sáng lập một nhà xuất bản “Harper and Brothers” nổi tiếng trên thế giới.
Ở đây, chú bé đã được ân thưởng vì việc tuân giữ lề luật Chúa: “Con hãy nhớ thánh hóa ngày hưu lễ”. Đối với người Do thái, ngày hưu lễ là ngày thứ bảy. Còn đối với người công giáo chúng ta thì ngày hưu lễ là ngày Chúa nhật.
Khi nào và tại sao ngày Chúa nhật được chuyển đổi từ ngày cuối tuần sang ngày đầu tuần ?
Sự chuyển đổi này đã được thực hiện ngay từ những ngày đầu của Kitô giáo.
1. Vì Chúa Giêsu sống lại ra khỏi mồ vào ngày Chúa nhật.
2. Vì Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ vào ngày Chúa nhật.
3. Vì chúng ta muốn dành những gì trước hết cho Thiên Chúa, nên chúng ta dâng Ngài ngày đầu tuần.
“Ngày thứ nhât trong tuần” được nhắc tới bảy lần trong Tân ước. Tin Mừng hôm nay tường thuật cho chúng ta một điều xảy ra “Vào ngày thứ nhất trong tuần”. Toma nghi ngờ rồi tin thật vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Ngày thứ nhất trong tuần quan trọng đối với người công giáo chúng ta, là vì chúng ta phải tham dự thánh lễ các ngày Chúa nhật, gia đình của Thiên Chúa đã đặt định ngày này cho các phần tử ngay từ thuở ban đầu, vì những lý do chúng ta vừa nhắc đến. Một lát nữa chúng ta sẽ đọc Kinh Tin kính – bản kê khai các tín điều chính yếu – được chỉ định đọc vào ngày Chúa nhật. Tại sao vậy ? Thưa, bởi vì nhiều chân lý chính yếu của đức tin đã xảy ra vào ngày Chúa nhật. Như việc tạo dựng mới của thế giới sa ngã, đã xảy ra vào ngày thứ nhất trong tuần. Có một số người còn nghĩ rằng Chúa Giêsu Giáng sinh vào ngày Chúa nhật, và Ngài chịu cắt bì cũng vào ngày Chúa nhật.
Vì những lý do này, ngày Chúa nhật là ngày thánh, nhưng đặc biệt vì nó làm mới lại sự phục sinh của Chúa Kitô: mỗi ngày Chúa nhật là ngày lễ phục sinh. Mỗi thánh lễ là một cuộc phục sinh. Nếu có ai than thở rằng: “Tại sao tôi phải đi tham dự thánh lễ” thì bạn hãy nhắc cho họ những lý do này. Bạn hãy làm mới lại niềm tin vào sự phục sinh.
Sau khi Chúa Giêsu chết, các môn đệ sợ hãi đến độ giam mình trong phòng và đóng kín cửa: PS2-49
Anh chị em thân mến!
Sau khi Chúa Giêsu chết, các môn đệ sợ hãi đến độ giam mình trong phòng và đóng kín cửa, Chúa Giêsu đã hiện ra giữa các ông và cầu chúc cho các ông: "Bình an cho các con". Đó là lời mà hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn ngỏ với từng người chúng ta trong Thánh lễ hôm nay: "Bình an cho các con".
Bình an cho chúng ta, bởi vì Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, Ngài đến với chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống, Ngài đến để giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi, Ngài đến để mang lại sự bình an cho chúng ta, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để cho Ngài đến ngự giữa chúng ta.
Anh chị em thân mến!
Bộ phim có nội dung tôn giáo với tựa đề: "Bước Nhảy Vọt Của Niềm Tin". Cuốn phim phản ảnh một phần những vụ lừa gạt tôn giáo nhan nhản trong xã hội Hoa Kỳ, nhưng đồng thời cũng củng cố lòng tinsâu sắc của rất nhiều tín hữu. Nhân vật chính của cuốn phim là một nhà truyền đạo tự xưng là có sức chữa bệnh và làm được phép lạ.
Thật ra, tất cả những cái gọi là "phép lạ" của ông ta chỉ là những vụ lừa gạt tinh vi. Với đội ngũ đông đảo gồm một ca đoàn hùng mạnh, một số người bệnh hoạn và làn tật giả tạo, ông ta có thế làm được nhiều phép lạ ngụy tạo. Thế nhưng, phép lạ thực sự đã diễn ra khi ông và đoàn tùy tùng của ông đến lưu diễn lại một vùng quê. Lại đây, sau khi chứng kiến các phép lạ ngụy tạo của nhà truyền đạo, dân chúng đã tha thiết xin ông cầu trời đổ mưa, vì từ nhiều năm qua hạn hán trong vùng đã làm cho nhiều gia đình phải tâm cảnh đói khổ.
Giữa những người cò mồi của nhà truyền đạo, tần lượt biểu diễn các phép lạ, một cậu bé làn tật thực sự cũng đến xin ông ta chữa bệnh. Nhà truyền đạo bối rối ra mặt, ông tìm cách phớt lờ trước sự van xin của cậu bé. Nhưng với một lòng tin mạnh mẽ, cậu bé đã đến quì bên Thánh giá được đặt giữa khán đài. Và trước sự ngạc nhiên đến sững sờ của nhà truyền đạo, phép lạ thực sự đã diễn ra, cậu bé đã bỏ nạng và bước đi bình thường. Lại một tần nữa, đám đông thán phục trước uy thế của nhà truyền đạo, duy chỉ có ông ta là bối rối, vì không hiểu được những gì đang xảy ra. Và từ bối rối đến sợ hãi, giữa đêm khuya khi dân làng đang canh thức cầu nguyện thì ông đã tặng lẽ trốn đi, và trong đêm tối đó trời đã đổ mưa.
Anh chị em thân mến!
Câu chuyện phim trên đây có lẽ muốn đề cao một sự thực nền tảng trong niềm tin của chúng ta, đó là Thiên Chúa luôn có mặt và hiện diện bên chúng ta. Ngài không ngừng hoạt động trong cuộc sống của con người, và Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những phép lạ ngay cả từ những lừa đảo xúc phạm của con người lợi dụng.
Cuốn phim trên đây có lẽ cũng muốn nêu bật những niềm tin sâu sắc nhất của không biết bao nhiêu tín hữu mà giữa một xã hội chỉ có lừa đảo, phản bội và chối bỏ tẫn nhau, vẫn còn có những tâm hồn tiếp tục tin tưởng, được nhìn thấy những gì mà người khác không nhìn thấy, không nhận ra. Nhưng họ đã nhận ra những giá trị mà người khác chối bỏ, họ đã chấp nhận lối sống mà những người xung quanh cho là điên rồ. Vậy tin ở sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong cuộc sống, người tín hữu cần phải làm một bước nhảy vọt của lòng tin. Do đó, đối với họ, tin có nghĩa là chấp nhận đi ngược lại dòng đời, hay nói như thánh Phaolô "trở thành điên dại như Đức Kitô".
Anh chị em thân mến !
Nhảy vọt trong đức tin hay điên dại vì Đức Kitô có nghĩa là nhìn thấy lẽ khôn ngoan mà người đời cho là điên dại, đón nhận những yếu đuối thua thiệt mất mát trong cuộc sống như là sức mạnh trong câu chuyện của thánh Tôma mà Giáo Hội cho chúng ta tắng nghe hôm nay, đó là một bài học về bước nhảy vọt, của niềm tin.
Đối lại với cái nhìn ấy, Đức Kitô Phục Sinh mời gọi chúng ta đi vào cái nhìn mới, cái nhìn của đức tin. Tin là nhìn thấy ánh sáng xuyên qua tăm tối, tin là cảm nhận được bên kia sự tiếp xúc của giác quan, tin là nhìn thấy sự sống bên kia cái chết, tin là đón nhận tình yêu bên kia hận thù và ghen ghét. Chỉ với cái nhìn ấy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô Phục Sinh đang đến với chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
Thật thế, Đức Kitô, Ngài đến với chúng ta trong những cái bất ngờ nhất, và chúng ta như một người giữ vững, như một người bộ hành, như một người lạ mặt đi ven biển và nhất là như những người cùng khổ mạt rệp trong xã hội. Gặp gỡ Ngài và đón nhận sức sống của Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy cầu xin Ngài trang bị cho chúng ta cái nhìn của niềm tin, để chúng ta đón nhận ra Ngài và đón nhận vô vàn những phép lạ trong cuộc sống hằng ngày Ngài thực hiện cho chúng ta trong một xã hội mà các giá trị hoàn toàn bị đảo lộn. Sự lừa đảo chối bỏ tẫn nhau ấy đã trở thành phương châm và hành động sống của họ. Hơn nữa, những phép lạ ấy vẫn luôn luôn diễn ra cho chúng ta giữa một xã hội mà tình người đang giẫy chết. Vậy, giữa một xã hội như thế, những người tín hữu Kitô chúng ta cần phải sống chứng tá cho Đức Kitô Phục Sinh hơn bao giờ hết. Giữa một xã hội như thế, người tín hữu Kitô cần phải để cho sức sống của Ngài được bừng lên qua cuộc sống phục vụ quên mình, qua niềm hy vọng vững chắc của họ, qua niềm hân hoan phấn khởi luôn chiếu sáng trên khuôn mặt của họ.
Thưa Anh chị em! Đó là niềm tin của chúng ta, niềm tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Trong sinh hoạt bình thường, đôi khi chúng ta có dịp gửi đến cho nhau những quà tặng. Chẳng: PS2-50
Trong sinh hoạt bình thường, đôi khi chúng ta có dịp gửi đến cho nhau những quà tặng. Chẳng hạn như ngày cưới, ngày sinh nhật…Thế nhưng, có những quà tặng chẳng mang lại một ý nghĩa nào cả, hay ít nữa một sự tiện dụng nào đó. Người tặng cũng chỉ tặng cho xong bổn phận, cho xong món nợ. Còn người nhận thì cũng miễn cưỡng vui vẻ lúc bấy giờ, còn sau đó thì xếp quà tặng vào một xó góc tăm tối, bụi bậm và có lẽ chẳng bao giờ ngó ngàng tới.
Phải chăng đó cũng chính là hình ảnh đức tin của nhiều người trong chúng ta. Một thứ quà tặng mà chúng ta không phải vất vả mua sắm. Một thứ đơn thuốc đã được ghi sẵn: phải làm cái này và phải tránh cái kia. Một thứ đồ vật đã lỗi thời, bị phế thải và không còn dùng vào việc chi, thoảng hoặc họ mới ngó ngàng tới, như người ta vốn mỉa mai diễn tả:
- Một năm họ tới nhà thờ ba lần để rửa tội, để kết hôn và để vĩnh viễn ra đi. Một tuần nếu có đi lễ ngày Chúa nhật, thì cũng chỉ đứng tận đàng xa, tít ngoài sân cho qua lần chiếu lệ. Trong suốt thời gian còn lại, đức tin được xếp vào một xó góc tăm tối, hay một ngăn tủ khóa kín.
Với chúng ta thì khác, đức tin không phải nlà một quà tặng bất đắc dĩ, không phải là những hình thức bề ngoài, cũng không phải là một cái gì đã chết. Nhưng đức tin chính là sự sống. Bởi đó thánh Gioan đã viết:
- Sự chiến thắng trên thế gian là đức tin của chúng ta.
Kinh nghiệm trong những trại giam cho chúng ta thấy: những người có được một nền giáo dục tôn giáo vững chắc mới dễ dàng tránh được những hành vi dã man và độc ác. Đồng thời dựa vào những bản thống kê, thì số người Công giáo tự tử chỉ là một con số nhỏ nhoi khiêm tốn. Nếu đức tin không phải là sức mạnh thì làm sao người Công giáo có đủ khả năng chịu đựng.
Đức tin chính là sự sống. Thân xác của chúng ta, chẳng hạn, là một vật sống động. Ở đó có máu huyết lưu thông, để không ngừng phát triển, không ngừng lớn lên và đổi mới.
Ngày rửa tội, đức tin được gieo trồng trong tâm hồn chúng ta, nó cần phải nẩy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái. Điều đó có nghĩa là Đức Kitô sống trong tôi và tôi sống trong Đức Kitô. Toàn thể con người tôi được ơn sủng thấm nhập, được gìn giữ trong tình yêu của Ngài. Được trở nên cao cả với địa vị là con cái Ngài. Được vượt trên trần thế để tiến vào quê hương nước trời.
Như một mầm non phải được chăm sóc thì mới có thể phát triển, bằng không nó sẽ bị thui chột. Đức tin của chúng ta cũng vậy. Nó phải được chăm sóc, được nuôi dưỡng bằng việc đọc và suy gẫm lời Chúa cũng như các sách đạo đức, nhờ đó tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho hành động.
Tiếp đến bằng việc cầu nguyện. Chúng ta sẽ không thể nào có được một đức tin trưởng thành mà không cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây không phải chỉ là đọc một số kinh dọn sẵn, nhưng là thực sự tâm tình và kết hiệp với Chúa.
Nếu chúng ta chỉ sống đạo ở cái mức tối thiểu: dự lễ một tuần một lần, xưng tội rước lễ thì một năm một lần, thì chúng ta không hy vọng gì thắng nổi thế gian. Cứ như thế, đức tin dần dần thui chột để rồi chỉ còn lại một bộ xương cách trí, một tín đồ hữu danh vô thực mà thôi.
Và tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ dễ dàng bán Chúa vì một lợi lộc nhỏ nhoi, sẽ dễ dàng chối Chúa chỉ vì một lý do không đâu mà thôi.